Đất nước
ĐẤT NƯỚC
Nguyễn Khoa Điềm
1. Tác giả
Nguyễn Khoa Điềm sinh năm 1943 tại Thừa Thiên Huế, trong một gia đình giàu truyền thống yêu nước và cách mạng. Ông tốt nghiệp khoa Văn - Đại học Sư phạm Hà Nội năm 1964 và sau đó trở về Nam hoạt động cách mạng, viết báo, làm thơ. Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ các nhà thơ thời kì chống Mĩ cứu nước. Thơ ông hấp dẫn bởi sự kết hợp giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng của người trí thức về đất nước con người Việt Nam.
Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ thời chống Mỹ như: Phạm Tiến Duật, Bằng Việt, Nguyễn Duy, Lâm Thị Mỹ Dạ, Hòang Nhuận Cầm, Lê Anh Xuân.... Đây là lớp nhà thơ trưởng thành từ ghế nhà trường, không chỉ có trình độ văn hóa, niềm say mê lý tưởng mà còn có mặt trực tiếp trong cuộc kháng chiến dân tộc. Họ ý thức cao về vai trò và trách nhiểm của tuổi trẻ về đất nước, những trang thơ của họ nóng bỏng, nhiệt tình yêu nước và hiện thực kháng chiến của dân tộc.
2. Tác phẩm
a. Xuất xứ
- Trường ca Mặt đường khát vọng được hoàn thành vào năm 19711971 tại chiến khu Trị Thiên giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mĩ đang hết sức khốc liệt mà bản thân nhà thơ trực tiếp có mặt và được in lần đầu năm 1974, viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiếm miền Nam, về non sông đất nước, về sứ mệnh của thế hệ mình, xuống đường đấu tranh hoà nhịp với cuộc chiến đấu chống Mĩ xâm lược.
- Đoạn trích Đất nước thuộc phần đầu chương V của trường ca Mặt đường khát vọng, là một trong những đoạn thơ hay về đề tài đất nước trong thơ Việt Nam hiện đại. Cảm hứng chủ đạo của đoạn trích là tư tưởng “Đất nước của Nhân dân” qua giọng điệu trữ tình chính luận sâu lắng thiết tha làm xúc động lòng người.
b. Đề tài Tổ quốc
Tổ quốc là một đề tài phong phú của thơ ca Việt Nam. Trước Nguyễn Khoa Điềm đã có nhiều bài thơ hay, nhiều tác giả thành công về đề tài này. Đất nước anh hùng trong kháng chiến chống Pháp, mang hồn thu Hà Nội của Nguyễn Đình Thi. Đất nước cổ kính, dân gian, mang hồn quê Kinh Bắc của Hoàng Cầm. Đất nước hóa thân cho một dòng sông xanh, đầy ắp kỉ niệm trong thơ Tế Hanh. Đất nước hài hòa trong dáng hình quê hương và tình yêu đôi lứa trong thơ Giang Nam. Nhưng, Nguyễn Khoa Điềm đã tìm được một cách nói riêng để chương thơ mới của ông đã mang lại cho bạn đọc những rung cảm thẫm mĩ mới về đất nước: Đất nước của nhân dân.
c. Ý nghĩa đọan trích
Đọan trích thâu tóm ý nghĩa của tòan bộ chương V. Chương thơ là sự cảm nhận về Đất nước một cách cụ thể, sâu sắc mà cốt lõi trong tư tưởng là: Đất nước của Nhân dân. Từ đó, nhà thơ bộc lộ lòng yêu quý, niềm tự hào, sự gắn bó và trách nhiệm với đất nứơc thân yêu. Tư tưởng chủ đạo này được Nguyễn Khoa Điềm triển khai ở nhiều bình diện: Địa lí, lịch sử, văn hóa và thể hiện bằng hình thức thơ trữ tình chính luận, giọng thơ tâm tình, lời thơ dậm đà sắc thái dân gian, nhưng đặc biệt, gợi cảm, để lại ấn tượng sâu sắc cho bạn đọc.
3. Nội dung và nghệ thuật của đoạn trích
a. Những cảm nhận mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm về Đất Nước.
Đất Nước được hiểu là nơi cư trú của một cộng đồng dân tộc có cương giới, lãnh thổ riêng, có sự gắn kết sâu sắc với nhau về văn hoá, phong tục, tập quán, có tiếng nói, ngôn ngữ riêng
*Đất nước có từ bao giờ? “ Khi ta lớn lên...ngày đó” - Nhà thơ đi sâu vào lí giải cội nguồn đẩt nước.
- Đoạn trích mở ra bằng sự thức nhận về một điều đã là tất yếu : Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi .
+ Ta : là chủ thể trữ tình, người đại diện nhân xưng cho cả một thế hệ nói lên ý thức tìm hiểu cội nguồn của Đất Nước.
+ Đất nước đã có rồi nhưng có từ bao giờ vẫn là một ẩn số, thôi thúc con người trong hiện tại tìm hiểu.
- Nguyễn Khoa Điềm đã giải mã bằng nhận thức lắng sâu:
+ Đất Nước có từ rất lâu, rất xa trong sâu thẳm của thời gian lịch sử, từ cái “ngày xửa ngày xưa”. Lời thơ “ngày xửa ngày xưa” mang điệu hồ của những câu chuyện huyền thọai, đưa ta về một thuở rất xa, khi đất nước phôi thai. Những từ “bắt đầu, lớn lên” tuy không xác định thời gian cụ thể nhưng lại khẳng định quá trình hình thành lâu đời của đất nước.
+ Nhà thơ hình dung về khởi đầu và quá trình trưởng thành của Đất nước :
•Từ phong tục tập quán: Bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn ỳ khởi thủy của Đất Nước là văn hóa được kết tinh từ tâm hồn Việtỳ Từ truyền thuyết, truyện cổ tích đến ca dao tục ngữ miếng trầu là hiện thân của tâm hồn dân tộc. Đất nước được hình thành từ những truyền thống cao đẹp như truyền thống yêu nước, lao động, văn hóa. Trước hết là truyền thống văn hóa phong tục lâu đời của nhân dân. Từ miếng trầu dung dị của bà, mái tóc bới hiền hòa của mẹ, cách gọi tên “cái kèo, cái cột” dân dã đến tình yêu gắn bó thủy chung qua gừng cay muối mặn của cha mẹ. Tất cả những điều tưởng chừng như bình thường ấy đã trở thành nếp sống, thành phẩm chất tốt đẹp, thành thuần phong mĩ tục đậm đà bản sắc Việt Nam.
•Từ truyền thống yêu nước: Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc ỳ là nhận thức về tính cách anh hùng của con người Việt Nam. Câu thơ “Đẩt nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc” gợi nhớ truyền thuyết Thánh Gióng nhổ tre làng đánh giặc Ân thuở xa xưa. Truyền thống yêu nước, bền bỉ kiên cường giữ nước luôn được khơi dậy qua những lời kể đậm đà của mẹ và trở thành hồn thiêng dân tộc.
•Từ truyền thống lao động:bao thế hệ người Việt Nam đã phải trải qua bao gian nan một nắng hai sương, đã đổ bao mồ hôi với bao công việc nhà nông nhọc nhằn “xây giã giần sàng” mới làm ra hạt gạo dẻo thơm. Hạt gạo là vật chất, nhưng cũng là sự sống, là cội nguồn văn hóa của dân tộc. Truyền thống lao động cần cù từ bao đời của nhân dân cũng là một phần của hồn nứơc.
+ Đất nước có từ rất xa nhưng lại hiện hữu trong những gì gần gũi, thân thiết nhất, trong lời kể chuyện của mẹ, trong miếng trầu bà ăn, trong phong tục, tập quán, trong tình nghĩa thủy chung, trong cái kèo cái cột, trong hạt gạo ta ăn hàng ngày .Đất nước hình thành và lớn lên tồn tại trong ngàn năm lịch sử, từ tình yêu đất nước, từ tình nghĩa thuỷ chung (cha mẹ thương nhau), từ sự nghiệp đấu tranh, từ cuộc sống lao động vất vả của người dân.
Chín dòng thơ đầu là cảm nhận của nhà thơ về sự hình thành và phát triển lâu đời của đất nước. Đất nước được cảm nhận cụ thể trong những cái hằng ngày như “miếng trầu, hạt gạo”, trong những gương mặt dung dị, đời thường của nhân dân, trong mối quan hệ ruột thịt thân thương như “ông - bà ”, “cha - mẹ ”, ngay trong mái nhà của mỗi chúng ta cũng hiện diện dáng hình đất nước. Ẩn trong đó là tình yêu nứơc thiết tha, niềm tự hào về đất nước thân thương, gần gũi. Hình ảnh thơ hàm súc, giàu chất liệu văn hóa, văn học dân gian nên có sức lắng đọng sâu sắc. Những chất liệu dân gian ấy đã tạo nên một thế giới nghệ thuật vừa gần gũi, quen thuộc, vừa sâu xa, kì diệu, đủ sự gợi lên một hồn thiêng sông núi. Có thể nói, tư tưởng “đất nước của nhân dân ” - tư tưởng chủ đạo của trang thơ đã thấm nhuần từ quan điểm đến cảm xúc, từ hình tượng đến chi tiết nghệ thuật của tác phẩm. Đoạn thơ mở đầu giản dị, thân thiết như câu chuyện kể,giọng thơ thâm trầm, trang nghiêm làm cho suy tư về cội nguồn đất nước giàu chất triét luận mà vẫn tha thiết trữ tình. Nguyễn Khoa Điềm viết về đất nước bắt đầu một cách rất bình dị, tạo sự gần gũi mà thân thiết nhưng cũng rất trang trọng
*Đất nước là gì?
Đất là nơi anh đến trường...nhớ ngày giỗ tổ - Định nghĩa về đất nước.
- Bằng một loạt cấu trúc định nghĩa : Đất là ... Nước là.Đất nước là... tác giả định nghĩa về đất nước. Có thể xem đây là lối tư duy “chiết tự” để giải thích, cắt nghĩa hai tiếng Đất nước bằng tinh thần luận lí chân xác .
+ Nếu tách hai tiếng Đất Nước ra làm những thành tố ngôn ngữ độc lập thì Đất và Nước chỉ có ý nghĩa là không gian sinh tồn về mặt vật chất của con người cá thể. Mượn hình thức trò chuyện, tâm tình với một ng con gái yêu thương, nhà thơ đã định nghĩa đất nước theo cách riêng của mình, theo cách đặc biệt của thơ. Và ở đọan thơ tiếp theo, vận dụng tính đơn lập của tiếng Việt, Nguyễn Khoa Điềm đã tách từ “Đất nước” thành hai thành tố “đất” và “nước” để có thể đi sâu vào khái niệm, biến khái niệm “đất nước” trừu tượng thành cụ thể, gợi cảm. Ý thơ rất mới mẻ, cụ thể. Đất nước trở thành những gần gũi, thân thương, gắn bó với mỗi người. Thân thương như mái trường ta học, như dòng sông em tắm, như góc phố, đình làng, ao sen, lũy tre, cây đa, bến nước - nơi lứa đôi hò hẹn. Một không gian nhỏ, chỉ hai ng biết, hai ng hay rất riêng tư nhưng cũng đậm đà hồn quê hương xứ sở. Đất nước còn thân thương như câu ca dao tình yêu quen thuộc cất lên từ mỗi xóm làng:
Khăn thương nhớ ai khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai khăn vắt lên vai”
Vẫn mạch cảm xúc thiết tha, nhà thơ say sưa lí giải:
Đất là nơi "con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi "con cá ngư ông móng nước biển khơi"
Thời gian đằng đẵng Không gian mệnh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
Lấy ý từ những câu dân ca Huế mượt mà, câu thơ đưa người đọc về với không gian thân thương. Những từ “núi bạc, biển khơi” mang âm hưởng thành ngữ dân gian, gợi ra một đất nước mênh mông, giàu đẹp. Sự mênh mông, giàu đẹp đó không tự nhiên mà có được, nó gắn với thời gian đằng đẵng, dài lâu, liên tục, bền bỉ mà nhân dân ta đã đổ bao mồ hôi, nước mắt và cả máu nữa, để xây dựng bờ cõi đất nước thành dải đất chữ S thân thuơng, cho “dân mình đoàn tụ ” trong yêu thương tự hào bởi: Đất nước là nơi chim về, rồng ở
“Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng ”
Những hình tượng quen thuộc trong thần thọai, truyền thuyết như “chim, rồng, Lạc Long Quân, Âu Cơ, bọc trăm trứng” cùng tụ về trong trường liên tưởng của nhà thơ. Sự hội tụ ấy làm bật lên ý thơ có tầm khái quát cao: dân tộc ta là “con rồng cháu tiên, trai tài gái sắc”, đất nứơc ta là “đất lành chim về, đất thiêng rồng ở”, dân tộc Việt là anh em một nhà, cùng được sinh ra từ bọc trăm trứng của cha Lạc Long Quân và mẹ Âu Cơ. Một đất nước có cội nguồn văn hóa và truyền thống lâu đời rất đỗi thân thương và tự hào như thế, chính là “Đất nước của nhân dân ”
+ Khi thành một danh từ thì Đất Nước lại có ý nghĩa tinh thần thiêng liêng, chỉ không gian sinh sống của cả một cộng đồng người như anh em một nhà.
- Đất nước được nhận thức theo cả hai phương diện : Không gian địa lí (chiều rộng) thời gian lịch sử (chiều dài)ỳ Nhận thức này được tác giả lấy chất liệu văn học, văn hóa dân gian làm phương tiện biểu hiện .
+ Về không gian địa lí:
Núi sông rừng bể
Đất nước Là nơi sinh sống của mỗi người
N. Nơi tình yêu đôi lứa nảy nở
Là không gian sinh tồn của cộng đồng dân tộc qua bao thế hệ
ỳ kiến tạo địa lí (N-S-R-B) ỳ hình ảnh đất nước lớn lao, bao la. Không gian sinh tồn của cộng đồng dân tộc gần gũi với mỗi người.
+ Về thời gian lịch sử:
Huyền thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ
Truyền thuyết Hùng Vương - ngày giỗ Tổ.
ỳ Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng sáng tạo các yếu tố ca dao, truyền thuyết dân gian để biểu hiện cho cách lí giải Đất Nước là gì? Nhà thơ đã tạo nên được những hình tượng nghệ thuật vừa gần gũi vừa mới mẻ về Đất Nước trên cả bề rộng không gian địa lí và chiều dài thời gian lịch sử.
*. Trách nhiệm với đất nước: Trong anh và em...muôn đời ỳ Đất nước có trong mỗi con người chúng ta. ( Suy nghĩ, cảm nhận về đất nước của thế hệ trẻ trong hiện tại)
Đất nước qua cách cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm không khô khan, trừu tượng mà tươi rói cảm xúc. Đất nước gắn liền với đời sống, số phận của từng cá nhân ở mọi phương diện: lịch sử, địa lí, văn hóa. Đất nước còn là sự kết tinh sâu sắc những giá trị tinh thần từ quá khứ “những ai đã khuất”, đến hiện tại “những ai bây giờ ” và tương lai “yêu nhau và sinh con đẻ cái”. Đặc biệt, mỗi thế hệ, mỗi cá nhân, đều gắn bó với đất nước, nhất là trách nhiệm của thế hệ hôm nay vô cùng nặng nề nhưng vinh quang: Chúng ta vừa phải gánh vác những công việc nhọc nhằn mà ông cha giao lại, vừa phải “dặn dò con cháu chuyện mai sau” một cách ân cần, chu đáo, để các thế hệ sau sẽ tiếp tục đưa đất nứơc đi xa, đến một chân trời hòa bình, hạnh phúc, ấm no, giàu mạnh. Đó là mơ mộng, là khát vọng của thời đại nhà thơ nhưng là hiện thực tất yếu của tương lai. Ước mơ ấy, ngày nay đã thành sự thật. Lời thơ trong sáng, ấp ủ niềm tin giữa những ngày đánh Mĩ của nhà thơ thật cao đẹp và đáng quý.
- Lời thơ khẳng định: Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Vì sự mưu sinh, mỗi ng có thể làm ăn và lập nghiệp ở bất cứ nơi đâu, nhưng trong thẫm sâu tâm hồn, mỗi chúng ta đều mang trong người dòng máu Lạc Hồng. Những giờ khắc thiêng liêng nhất, niềm tự hào đối với truyền thống dân tộc lại trỗi dậy mãnh liệt:
Hàng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ
Hai chữ “cúi đầu” đầy yêu thương thành kính với đất nước. Ở đây, nhà thơ đã phát hiện ra một chân lí giản dị mà sâu sắc
“Trong anh và em hôm nay...một phần đất nước”
Giọng thơ tâm tình, với lối xưng hô anh - em tha thiết, nhà thơ như nhắn nhủ: đất nước không chỉ tồn tại khách thể, mà đã hóa thân trong máu xương mỗi ng, trở thành một phần tâm hồn trí tuệ của “anh và em”. Sự gắn bó máu thịt giữa số phận cá nhân với vận mệnh cộng đồng là tư tưởng chung của thời đại. “Khi hai đứa cầm tay' tình yêu lứa đôi riêng tư đã tự mang trong nó vẻ đẹp hài hòa nồng thắm của tâm hồn dân tộc. “Khi chúng ta cầm tay mọi người ”, tình yêu của hai đứa gắn bó với cái chung của tình yêu đất nước. Mỗi chúng ta đã nối vòng tay lớn vào cộng đồng, tạo nên một khối đại đòan kết dân tộc, làm cho đất nước “vẹn tròn to lớn ”, trường tồn và phát triển.
Chân lí rút ra từ cuộc sống: Đất nước hoá thân, kết tinh trong mỗi người, sự sống của mỗi người không chỉ riêng cá nhân mà còn thuộc về đất nước. Bởi lẽ mỗi người đều thừa hưởng những di sản văn hoá vật chất và tinh thần của dân tộc của nhân dân.Vì vậy mỗi cà nhân phải có trách nhiệm gìn giữ, phát triển nó truyền lại cho các thế hệ tiếp theo.
- Lời nhắn nhủ : Trách nhiệm với đất nước, cũng chính là trách nhiệm với chính bản thân mình bởi
“Đất nước là máu xương của mình”
Vì thế, mỗi chúng ta đều tự nhiên gắn bó với đất nước bằng tình yêu thiết tha, san sẻ với cộng đồng bằng ý thức trách nhiệm và khi cần có thế “hóa thân ”bằng hành động hi sinh cho đất nứơc. Động từ “hóa thân” được nhà thơ sử dụng không chỉ phù hợp với màu sắc dân gian của chương thơ mà còn diễn ta sâu sắc sự tự nguyên dâng hiến trọn vẹn cho đất nước để bất tử hóa cùng non sông của mỗi người dân. Điệp ngữ “phải biết” vừa như một mệnh lệnh, vừa là tiếng nói thúc giục của con tim, tạo thành chất trữ tình chính luận sâu sắc gửi đến thế hệ trẻ thông điệp về trách nhiệm đối với đất nước ỳ Trách nhiệm giữ gìn và phát triển đất nước, trách nhiệm với bản thân “ Em ơi em ... muôn đời”ỳ Lời nhắn nhủ mang tính chính luận nhưng không có ý nghĩa giáo huấn mà rất trữ tình, giống như một lời tự dặn mình chân thành tha thiết. Đất nước có tự bao giờ và Đất Nước là gì ? Đặt ra những câu hỏi này để nhận thức , lí giải và thấu hiểu bằng những tri thức văn hóa dân tộc Nguyễn Khoa Điềm bộc lộ niềm tự hào sâu sắc tình yêu đất nước tha thiết của tác giả .
Được bao bọc trong không khí của văn học dân gian, hình tượng đất nước trên trang thơ của Nguyễn Khoa Điềm thơ mộng, trữ tình như từ xa xưa vọng về, bình dị mà thân thương gắn bó thiết tha với mỗi người dân. Cảm nhận về đất nước tản mạn mà thống nhất, sâu sắc. Hai chữ “đất nước” được viết hoa và điểm lại nhiều lần như một con mắt thơ đầy kính yêu, tự hào. Nhà thơ định nghĩa về đất nước bằng thơ, lời thơ lấp lánh màu sắc của huyền thoại dân gian, vừa lung linh vẻ đẹp trí tuệ, vừa thiết tha cảm xúc, tạo nhiều âm vang trong lòng người đọc So sánh:
Nếu “Đẩt nước” của Nguyễn Đình Thi mang đậm sắc thái hiện đại, gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp đau thương nhưng anh dũng và kiên cường thì“Đẩt nước” của Nguyễn Khoa Điềm lại đậm đà phong vị dân gian, gắn với cội nguồn văn hóa của dân tộc. Cùng tỏa sáng tình yêu và niềm tự hào đối với đất nứơc, nhưng mỗi bài thơ có một vẻ đẹp riêng, khiến cho cảm hứng về quê hương trở nên đa dạng, hấp dẫn.
b. Đất nước của nhân dân - tư tưởng cốt lõi
Nếu như phần đầu khúc ca, tác giả nói về lịch sử cùng với định nghĩa đất nước bằng thơ theo cách riêng của mình. Thì bốn mươi bảy dòng thơ tiếp theo nhà thơ đi sâu vào tư tưởng đất nước của nhân dân bằng cách nhìn tòan diện không gian địa lí và thời gian lịch sử.
*Phương diện địa lí (Ai đã làm ra không gian địa lí? - bức tranh thắng cảnh muôn màu, muôn vẻ)
- Nhà thơ đã kể ra, đã liệt kê một loạt thắng cảnh thiên nhiên trải dài trên lãnh thổ từ Bắc vào Nam như muốn phác thảo tấm bản đồ văn hóa Đất Nước. Đó là những danh lam thắng cảnh do bàn tay tự nhiên kiến tạo nhưng từ bao đời nay cha ông ta đã phủ cho nó tâm hồn, tính cách, lẽ sống dân tộc ỳ Những ngọn núi dòng sông chỉ trở thành thắng cảnh khi gắn liền với con người được cảm thụ qua tâm hồn, qua lịch sử dân tộc. Bao thế hệ con người Việt Nam đã tạc vào núi sông :
■ Vẻ đẹp tâm hồn yêu thương thủy chung để núi Vọng Phu, hòn Trống Mái thành biểu tượng văn hóa
■ Những ao đầm, những ngọn núi như những di tích lịch sử về quá trình dựng nước và giữ nước ỳ vẻ đẹp lẽ sống anh hùng
ỳ Đoạn thơ có cấu trúc quy nạp, đi từ liệt kê các hình tượng cụ thể đế khái quát mạng tính triết lí sâu sắc ỳ khẳng định chính nhân dân đã tạo dựng nên đất nước đặt tên ghi dấu vết trên mỗi ngọn núi, con sông, tấc đất này.
- Và như vậy, qua cách nhìn của Nguyễn Khoa Điềm:
Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đẩt Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên.
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm ”
Những câu thơ thấm đẫm tư tưởng đất nước của nhân dân là cách nhìn mới mẻ, có chiều sâu về địa lý. Bằng thủ pháp liệt kê độc đáo, người đọc được tiếp nhận một phát hiện mới rất thú vị: những danh lam thắng cảnh trên đất nước ta như Vịnh Hạ Long, những di tích văn hóa như Hòn Vọng Phu, Núi Bút, Non Nghiên, những di tích lịch sử như Làng Gióng, Đất Tổ trải dài trên khắp đất nước ta. Tất cả không chỉ là địa hình núi sông thuần túy mà tạo hóa đã ban tặng, mà còn được cảm nhận như một sự đóng góp của nhân dân, sự hóa thân của những cảnh ngộ, số phận của nhân dân và thấm đẫm vẻ đẹp tâm hồn của nhân dân: thủy chung, yêu nước, hiếu học...
Nếu không có những người vợ Việt Nam chung thủy đợi chồng, mòn mỏi qua bao cuộc chiến tranh và li tán thì không thể có cảm nhận Núi Vọng Phu, Hòn Trống Mái. Phải chăng truyền thuyết Thánh Gióng cưỡi ngựa sắt, nhổ tre làng đánh giặc Ân đã khiến ao đầm làng Gióng lấp lánh vẻ đẹp của tinh thần yêu nước? Một truyền thuyết Hùng Vương nên địa hình núi sông hùng vĩ quanh đền Hùng mới được gọi là “Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng Vương ”. Niềm tự hào về mảnh đất thiêng, về xứ sở thanh bình dạt dào sông nước đã hóa thành tên gọi Cửu Long - tên một dòng sông xanh thẫm đất phương Nam. Truyền thống hiếu học của những ng học trò nghèo Việt Nam bao đời đã được tạc ghi trong tên gọi “Núi Bút, Non Nghiên”. Cuộc sống bình dị và sự đóng góp thầm lặng, khai khẩn đất hoang của những người dân đã đặt tên cho non núi “Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”. Đến cả “con cóc, con gà quê hương” cũng “góp cho Hạ Long thành thắng cảnh”, thành đất nước dung dị mà tươi đẹp
Hình ảnh núi sông hội tụ lấp lánh qua những vầng thơ, soi bóng tâm hồn của những cuộc đời vô danh, càng thấm thía một điều bình dị: Đất nước của nhân dân, đất nước mang màu sắc dân gian, dân dã, thiêng liêng, gần gũi...
“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta... ”
Ý thơ được nâng lên tầm khái quát, sự hóa thân bóng hình của nhân dân vào đất nước đã lý giải chính nhân dân là người tạo dựng, đã đặt tên, ghi dấu ấn cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi, dòng sông, miền đất
*Phương diện văn hoá - lịch sử"( Ai đã làm ra lịch sử và truyền thống Đất Nước?)
Nhìn ở phương diện lịch sử - thời gian, nhà thơ cũng đã khẳng định tư tưởng Đất nước của nhân dân. Chính tư tưởng này đã chi phối toàn bộ suy nghĩ của nhà thơ khi nhìn vào lịch sử bốn ngàn năm đất nước:
Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào bốn ngàn năm Đất Nước
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Khi nói về lịch sử của đất nước, Nguyễn Khoa Điềm không nhắc đến các triều đại tên tuổi như Đinh, Lý, Trần, Lê, cũng không nhắc đến những anh hùng đã từng được khắc tên trong sử sách, nhà thơ chỉ tập trung nói về những con người vô danh, bình thường. Đó là “họ ”, là “lớp lớp, con gái, con trai” đã lao động chiến đấu suốt bốn nghìn năm để dựng nứơc và giữ nước. Họ là Nhân dân. Tên tuổi họ chưa một lần được khắc ghi trong sử vàng dân tộc “không ai nhớ mặt đặt tên” nhưng cuộc đời thầm lặng của mỗi ng đã “hóa núi sông ta”. Cảnh sắc núi sông gắn liền với tâm hồn dân tộc, khí phách của giống nòi.
Cái bình dị tồn tại quanh ta, hòa quyện với cái cao cả, thiêng liêng, cho thấy vẻ đẹp vĩnh hằng của đất nước và sự trường tồn của dân tộc gắn liền với muôn triệu nhân dân của mọi thế hệ, trôi theo dòng chảy văn hóa đất nước:
Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đẩt Nước
- Khi nhìn vào phương diện văn hóa, nhà thơ cũng khẳng định vai trò của nhân dân:
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ truyền lửa cho mỗi nhà từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điêu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Đất nước của nhân dân không chỉ hiện diện ở bề rộng của không gian địa lí, ở chiều dài của thời gian lịch sử mà còn ở thẳm sâu của tâm hồn, tầm cao của lí trí giống nòi, bề dày của văn hóa, phong tục. Nhân dân không chỉ lao động, chiến đấu, mà con là những người sáng tạo ra văn hóa dân tộc. Hàng lọat những động từ được liệt kê “giữ, truyền, chuyền, đắp, be, trồng cây, hái trái ” thể hiện sự cần cù, siêng năng, tinh thần chăm lo lao động của bao thế hệ Việt Nam. Những “hạt lúa, hòn than, tiếng nói”đều rất giản dị nhưng lại chính là sự sống của mỗi cá nhân, sự sống của cả dân tộc, là nền văn hóa, là hồn thiêng sông núi mà chính nhân dân đã sáng tạo, giữ gìn, truyền qua muôn đời, tạo thành bản sắc văn hóa Việt Nam.
Mạch cảm xúc này dâng lên thành cao trào, để nhà thơ khẳng định một chân lí:
“Để Đẩt Nước này là Đẩt Nước Nhân dân
Đẩt Nước của Nhân dân, Đẩt Nước của ca dao thần thoại ”
“Đẩt nước của nhân dân” cũng chính là “đẩt nước của ca dao thần thoại”, bởi nói đến nhân dân là nói đến những nét đẹp bình dị mà tinh túy, những nét đẹp này vẫn lấp lánh trong ca dao, thần thọai. Hay nói cách khác “ca dao thần thoạii”chính là sáng tác của nhân dân, phản ánh đời sống, tâm tư, tình cảm của nhân dân.
Nếu Lí Thường Kiệt với Nam Quốc Sơn Hà đã phải dùng “đế cư, thiên thư” để trang trọng hóa đất nước, nếu Nguyễn Đình Chiểu với Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, phải nhờ đến “Một mối gia thư đồ sộ, hai vầng nhật nguyệt chói lòa” để thiêng liêng hóa đất nước, thì với hệ thống từ ngữ giản dị, mang đậm văn hóa dân gian, Nguyễn Khoa Điềm đã bình dị hóa đất nước, làm cho đất nước hóa thân trong tâm hồn và cụôc sống của mỗi người dân trong đất nước này.
Dạy anh biết "yêu em từ thuở trong nôi”
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu
Ôi những dòng sông bắt nước từ lâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi
Ở đọan thơ này, nhà thơ đã vận dụng và chuyển ý sáng tạo những câu ca dao thành lời thơ đằm thắm, ca ngợi nhân dân, ca ngợi bản sắc dân tộc. Trong cả kho tàng ca dao dân ca phong phú của dân tộc, nhà thơ đã chọn lọc ba câu để nói về ba phương diện truyền thống của nhân dân. Đó là sự say đắm trong tình yêu nhân văn - “dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi ”, đó là quý trọng lối sống tình nghĩa - “biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội” và một phẩm chất nữa là bền bỉ kiên cường trong chiến đấu giữ nước - “biết trồng tre.dài lâu”
Vẫn là ý và hình ảnh của những câu ca dao, vẫn gợi ý tứ của ca dao nhưng đã trở thành một câu thơ, gắn bó với toàn mạch cảm xúc của chương V và cũng là nét đặc biệt của chương thơ Đất nước. Cái gì đã làm cho nước Việt Nam tồn tại mà không xóa nhòa bản sắc của mình? Cái gì đã làm cho con người Việt Nam có một truyền thống văn hiến rực rỡ? Chính là nhân dân Việt Nam đã sống rất đôn hậu, nhiệt tình, đời thường, ngay cả những khi hoàn cảnh lịch sử phá vỡ không khí đời thường đó. Đoạn thơ khép lại bằng hình ảnh “dòng sông” và “câu hát” đem lại cảm nhận: đất nước ta đẹp hiền hoà và vĩnh cửu như một dòng sông vô tận, chảy từ quá khứ đến hiện tại và vĩnh hằng với tương lai.
Trên dòng sông đất nước, âm vang những sắc màu và giai điệu văn hóa Việt Nam, phẩm chất tâm hồn Việt Nam vô cùng tự hào và yêu quý. Thán từ “ôi” mang một cảm xúc vỡ òa giữ dòng chảy văn hóa. “Gợi trăm màu” là một cách hình tượng hóa ngôn ngữ, nhưng đồng thời cũng là sự kì vọng về tinh thần hội nhập nhưng biết giữ gìn văn hóa đối với thế hệ mai sau. Đây chính là nội dung triết lí sâu sắc, một cấu trúc quy nạp đấm chất trữ tình đầy sáng tạo của nhà thơ.
c. Nghệ thuật
Đoạn thơ trích trong chương V, giàu chất trữ tình chính luận, vừa được viết bằng chiều sâu trí tuệ, chiều cao văn hóa, vừa được viết bằng những rung động mãnh liệt của cảm xúc nên rất dễ đi vào lòng người. Lời thơ đậm đà chất liệu văn hóa văn học dân gian, được lấy cảm hứng từ ca dao, dân ca, cổ tích, truyền thuuyết nên đậm đà sắc thái dân tộc, mở ra một đất nước thơ mộng trữ tình từ xa xưa vọng về gần gũi, thân thương. Đặc biệt, chương thơ rất ít vần, nó có chất thơ là nhờ vào việc xây dựng hình ảnh, giọng điệu thơ trầm bổng thiết tha, mang âm hưởng của ca dao, dân ca.
d. Nội dung - chủ đề - so sánh
Tư tưởng đất nước của nhân dân không phải đến Nguyễn Khoa Điềm mới có. Tư tưởng này đã có một quá trình dài để khẳng định trong lịch sử văn học dân tộc, từ những tác phẩm văn học trugn đại như Bình ngô đại cáo của Nguyễn Trãi, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyển Đình Chiểu. Trong Bình ngô, Nguyễn Trãi viết:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”
Đó chính là sự đề cao vai trò của nhân dân trong cuộc kháng chiến chống ngọai xâm. Còn trong Văn tế của Nguyễn Đình Chiểu, ca ngợi ng anh hùng giữ nước là người nghĩa sĩ nguồn gốc nông dân. Đó là hình ảnh người nông dân lam lũ, cui cút bước vào cuộc chiến đấu, họ hi sinh nhưng là hi sinh bi tráng vì quê hương đất nước.
Đến thơ văn hiện đại như Đất nước của Nguyễn Đình Thi, Tre Việt Nam của Nguyễn Duy, Lửa đèn của Phạm Tiến Duật, vai trò của nhân dân với Đất nước cũng đã tiếp tục được đề cao. Trong Đất nước, Nguyễn Đình Thi viết:
“Ôm đẩt nước những người áo vải Đã đứng lên thành những anh hùng”
Còn trong bài Tre Việt Nam , nhà thơ đã mượn hình tượng cây tre để nói đến những phẩm chất bình dị của nhân dân trong lao động và chiến đấu để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc:
“Thân gầy guộc, lá mong manh Mà sao nên lũy nên thành tre ơi”
Như vậy, đề cao vai trò nhân dân với đất nứơc là cả một truyền thống lâu dài trong lịch sử văn học dân tộc. Tuy nhiên, để tư tuởng đó trở thành cảm hứng chủ đạo, xuyên thấm mọi biểu hiện tinh tế nhất của hình tượng đất nước, lại được cảm nhận một cách toàn diện, sâu sắc trên nhiều bình diện thì đó là một đóng góp đặc sắc của Nguyễn Khoa Điềm ở chương thơ này. Tác phẩm đã tạo nên những rung động âm vang trong lòng người đọc chính là nhờ những cảm xúc chân thành từ sự trải nghiệm của bản thân mà nói lên những suy nghĩ chung của cả thể hệ đối với đất nước. Góp thêm một thành công cho dòng thi ca về đất nước, làm sâu sắc thêm những nhận thức về đất nước và nhân dân bằng tiếng nói nghệ thuật đậm đà.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top