Đất nước

Nhìn vào chiều dài của lịch sử dân tộc, Chế Lan Viên đã từng tự hào mà thốt lên rằng : "Tổ quốc bao giờ cũng đẹp thế này chăng?" Lê Anh Xuân cũng từng tạc vào thơ một bóng dáng Việt Nam bằng hình ảnh "tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân" hay Tố Hữu với một đất nước sáng ngời đi ra từ biển máu : "Ôi! Việt Nam từ trong biển máu/ Người vươn lên như những thiên thần." Đất nước anh hùng cũng vô cùng tươi đẹp khi những tà "áo trắng" đã xướng tên trong trường ca "Mặt đường khát vọng". Viết về đất nước, tìm về cội nguồn dân tộc hay định nghĩa về quê hương luôn là những khía cạnh khác nhau của vấn đề chính luận. Thế nhưng với Nguyễn Khoa Điềm, cái phạm trù tưởng chừng như khô khan ấy lại được thể hiện bằng ngòi bút tràn đầy cảm xúc trữ tình, tha thiết, được thể hiện qua tâm hồn suy tưởng và tình yêu mãnh liệt trên nền văn học dân gian của dân tộc.

Trước đây, ta từng bắt gặp một hình tượng đất nước đau thương nhưng vẫn ngời lên ý chí đấu tranh trong trang thơ Nguyễn Đình Thi đồng thời cũng rất dịu dàng ý tứ trong thơ Hoàng Cầm. Nhưng với  , ta bắt gặp một cái nhìn toàn vẹn, tổng hợp từ nhiều bình diện khác nhau về một đất nước của nhân dân . Tư tưởng ấy đã quy tụ mọi cách nhìn và cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm về đất nước.

Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái "ngày xửa ngày xưa..." mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết tròng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó...

Đất nước trước hết không phải là một khái niệm trừu tượng mà là những gì rất gần gũi, thân thiết ở ngay trong  bình dị của mỗi con người . Không ai biết Đất nước có từ bao giờ, bởi "Khi ta lớn lên Đất nước đã có rồi". Điều đó có nghĩa đất nước có mặt từ rất lâu, xuyên suốt 4000 năm lịch sử dựng nước và giữ nước, cùng bao thế hệ người Việt lớn lên và trưởng thành qua các thời đại. Đất nước mở đầu trong những câu chuyện cổ tích Tấm Cám, Sự tích hòn Vọng Phu, Sọ Dừa..Trong lời kể của bà, của mẹ bắt đầu với câu nói "ngày xửa ngày xưa", hình ảnh cô Tấm nết na hiền dịu, người vợ chung thủy ôm con chờ chồng,... Tác giả tìm hiểu Đất nước từ nền văn hóa dân gian mà ông cha ta để lại, mỗi câu chuyện đều mở ra một lối sống đạo lý, để khuyên bảo, răn dạy con cháu đời sau. Đất nước còn được cảm nhận với nét phong tục tập quán đã có từ bao đời, là nền tảng hình thành nên bản sắc văn hóa riêng của dân tộc Việt Nam. Hình ảnh miếng trầu trong câu thơ "Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn" dường như đã trở thành biểu tượng đặc biệt cho lối sống của cha ông, miếng trầu đi vào truyện dân gian với Sự tích trầu cau, hiển hiện trong ca dao với hình ảnh "Miếng trầu là đầu câu chuyện", hay là ẩn ý cho lời tỏ tình kín đáo và duyên dáng của cô gái thôn quê

"Miếng trầu ăn nặng bằng chì

Ăn rồi em biết lấy gì đền ơn"

Miếng trầu bên cạnh đó còn là hình ảnh biểu tượng không thể thiếu trong một lễ cưới, ngay từ khi chạm ngõ, xin dâu đến khi sum họp. Bởi vậy không tự nhiên lại có câu nói "Miếng trầu nên dâu nhà người".

Đất nước anh hùng đi lên từ máu lửa, con người trưởng thành khi biết yêu và bảo vệ non sông.

                  Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc".

     Nhà thơ liên tưởng song hành về sự lớn mạnh của đất nước qua ý thơ "Đất Nước lớn lên...". Chữ "lớn lên" là để chỉ sự trưởng thành của Đất Nước. Câu thơ gợi nhắc cho ta nhớ đến truyền thuyết Thánh Gióng, mới lên ba đã biết xông pha trận mạc. Đứa bé ấy đã vươn vai trở thành chàng trai Phù Đổng Thiên Vương nhổ tre làng Ngà đánh giặc. Từ đó, Thánh Gióng trở thành biểu tượng khỏe khoắn của tuổi trẻ Việt Nam kiên cường, bất khuất trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Tố Hữu cũng đã có thơ:

                                 Ta như thuở xưa thần Phù Đổng

                                 Vụt lớn lên đánh đuổi giặc Ân

                                 Sức nhân dân khoẻ như ngựa sắt

                                 Chí căm thù ta rèn thép thành roi

                                                                        (Tố Hữu)

     Truyền thống vẻ vang ấy đã theo suốt chặng đường dài của lịch sử dân tộc mãi đến hôm nay trong thời đại chống Mỹ bao tấm gương tuổi trẻ đã anh dũng chiến đấu bảo vệ giống nòi. Phải chăng, đó chính là vẻ đẹp của các chị, các anh đã tạc vào lịch sử Việt Nam dáng đứng kiêu hùng bất khuất: Võ Thị Sáu, Trần Văn Ơn, Nguyễn Văn Trỗi... Vẻ đẹp ấy song hành lòng yêu nước chính là hình ảnh cây tre Việt Nam kiên cường bất khuất, đón nắng đón gió, không sợ bão giông. Cây tre có mặt trên khắp làng quê, bên giếng nước sân đình, bên những cánh đồng lộng gió . Cây tre là sự đồng hiện những phẩm chất trong cốt cách con người Việt Nam: thật thà chất phác, đôn hậu thuỷ chung, yêu chuộng hoà bình nhưng cũng kiên cường trong chiến đấu. Tre đứng thẳng hiên ngang bất khuất cùng chia lửa với dân tộc "Một cây chông cũng tiến công giặc Mỹ", bởi:

                                           "Nòi tre đâu chịu mọc cong

                                 Chưa lên đã nhọn như chông lạ thường".

Bên cạnh truyền  thống đánh giặc ngoại xâm ,Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục khai thác thêm nhiều yếu tố mang vẻ đẹp thuần phong mỹ tục của con người Việt:

                                 Tóc mẹ thì bới sau đầu

                               Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

                               Cái kèo, cái cột thành tên

                    Hạt gạo  phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng

Đó là vẻ đẹp giản dị của người phụ nữ Việt Nam, không ai khác là những người mẹ với phong tục "búi tóc sau đầu" một vẻ đẹp nữ tính, thuần hậu rất riêng. Nét đẹp ấy đã đi vào trong ca dao:

                                 Tóc ngang lưng vừa chừng em bới

                                 Để chi dài cho rối lòng anh

     Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục gắn dòng suy tưởng đến con người ngàn đời cư trú, lao động, chiến đấu trên mảnh đất Việt để giữ gìn tôn tạo mảnh đất thân yêu. Ở đó đạo lí ân nghĩa thủy chung đã trở thành truyền thống ngàn đời của dân tộc: "Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn". Ý thơ được toát lên từ những câu ca dao đẹp:

                                           "Tay bưng đĩa muối chén gừng

                                 Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau"

     Hay:

                                 "Muối ba năm muối đang còn mặn

                                 Gừng chín tháng gừng hãy còn cay

                                 Đôi ta tình nặng nghĩa đầy

                                 Dù ba vạn sáu ngàn ngày cũng chẳng xa"

     Thành ngữ "gừng cay muối mặn" được vận dụng một cách đặc sắc trong câu thơ nhẹ nhàng mà thấm đượm biết bao ân tình. Nó gợi lên được ân nghĩa thủy chung ở đời. Quy luật của tự nhiên là gừng càng già càng cay, muối càng lâu năm càng mặn. Quy luật trong tình cảm con người là con người sống với nhau lâu năm thì tình nghĩa càng đong đầy. Có lẽ chính vì vậy mà Đất Nước còn ghi dấu ấn của cha của mẹ bằng Hòn trống mái, núi Vọng Phu... đi vào năm tháng. Từ cha mẹ thương nhau mới đi đến "Cái kèo cái cột thành tên". Câu thơ gợi nhắc cho người đọc nhớ đến tục làm nhà cổ của người Việt. Đó là tục làm nhà sử dụng kèo cột giằng giữ vào nhau làm cho nhà vững chãi, bền chặt tránh được mưa gió, thú dữ. Đó cũng là ngôi nhà tổ ấm cho mọi gia đình đoàn tụ bên nhau; siêng năng tích góp mỡ màu dồn thành sự sống. Từ đó, tục  đặt tên con cái Kèo, cái Cột cũng ra đời. Bên cạnh đó, dân tộc ta với truyền thống lao động cần cù, chịu thương chịu khó "Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần sàng". Câu thơ gợi nhắc tới bài ca dao thường nghe các mẹ, các chị hát những ngày đi cấy:

                                           Cày đồng đang buổi ban trưa

                                 Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày

                                           Ai ơi bưng bát cơm đầy

                                 Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần.

     Thành ngữ "Một nắng hai sương" gợi nên sự cần cù chăm chỉ của cha ông ta những ngày long đong, lận đận trong đời sống nông nghiệp lạc hậu. Đó là truyền thống lao động cần cù, chịu thương chịu khó. Để làm ra hạt gạo ta ăn hàng ngày, người nông dân phải trải qua bao nắng sương vất vả gieo cấy, xay giã, giần sàng. Thấm vào trong hạt gạo bé nhỏ ấy là mồ hôi vị mặn nhọc nhằn của giai cấp nông dân bao đời nay.

Câu thơ cuối cùng khép lại một câu khẳng định với niềm tự hào:

Đất Nước có từ ngày đó.

"Ngày đó" là ngày nào ta không rõ nhưng chắc chắn ngày đó là ngày ta có truyền thống, có phong tục tập quán, có văn hóa mà có văn hóa nghĩa là có đất nước. Đúng như lời Bác dặn trước lúc đi xa "Rằng muốn yêu Tổ quốc mình, phải yêu những câu hát dân ca". Dân ca, ca dao là đặc trưng văn hóa của Việt Nam, muốn yêu Đất Nước trước hết phải yêu và quý trọng văn hóa nước nhà. Bởi văn hóa chính là Đất Nước. Thật đáng yêu đáng quý, đáng tự hào biết bao lời thơ dung dị, ngọt ngào của Nguyễn Khoa Điềm.

Đất Nước là một đoạn trích hay nhất trong trường ca "Mặt đường khát vọng" của

Nguyễn Khoa Điềm. Thi phẩm ấy không chỉ khẳng định tài năng thơ phú của nhà thơ mà còn qua đó nói lên được tiếng nói của người công dân yêu nước với tình yêu sâu nặng, mãnh liệt "như máu xương của mình". Những năm tháng hào hùng của dân tộc gắn bó trong những vần thơ của Nguyễn Khoa Điềm đến vậy. Và tư tưởng của Nguyễn Khoa Điềm truyền tải đến người đọc dường như giống như Nguyễn Đình Thi đã từng ghi lại trong một thi phẩm của mình :                                    

"Ôm đất nước những người áo vải

Ðã đứng lên thành những anh hùng."

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: #full