nonuocngoai

LỜI MỞ ĐẦU

Các nền kinh tế quốc gia vận động trong mối tương quan chặt chẽ với nhau. Trong điều kiện ấy, dòng hàng hoá, dòng công nghệ và dòng vốn khổng lồ trên thế giới vận động với một tốc độ ngày càng cao. Sự mở cửa của một nền kinh tế đối với các luồng vốn quốc tế sẽ tạo ra nguồn lợi lớn, nhưng nó cũng đem lại nhiều rủi ro, và một trong những vấn đề nóng bỏng nổi lên hiện nay là gánh nặng nợ nần.

Năm 2011 khủng hoảng nợ công ở quy mô toàn cầu đã để lại những hệ quả sâu rộng cho nền kinh tế thế giới và Việt Nam cũng không nằm ngoài vòng xoáy này.

Cán cân thanh toán quốc tế là một trong những tài khoản kinh tế vĩ mô quan trọng phản ánh hoạt động kinh tế đối ngoại của một nước với phần còn lại của thế giới. Nó có quan hệ chặt chẽ với các tài khoản kinh tế vĩ mô khác như bản cân đối ngân sách, cân đối tiền tệ, hệ thống tài khoản quốc gia. Các nhà hoạch định có thể dùng nhiều biện pháp tác động đến việc thanh toán và quản lý nợ nước ngoài và tác động đến cán cân thanh toán cũng là một nhân tố góp phần ổn định kinh tế - xã hội.

Để

nhận thức đúng đắn về mối quan hệ giữa nợ nước ngoài và cán cân thanh toán, từ đó đưa ra một số đề xuất giải pháp quản lý nợ nước ngoài nhóm chúng tôi chọn đề tài :

“ Khảo sát mối quan hệ giữa nợ nước ngoài và cán cân thanh toán.Một số giải pháp đề xuất quản lý nợ nước ngoài ở Việt Nam”

CHƯƠNG I: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ NỢ NƯỚC NGOÀI VÀ CÁN CÂN THANH TOÁN QUỐC TẾ

1.1

Nợ nước ngoài

1.1.1

Khái niệm vệ nợ nước ngoài

-

Nợ nước ngoài là những khoản tiền huy động được từ nước ngoài ( bao gồm huy động từ phía các tổ chức, các cá nhân, và tên thị trường quốc tế) để sử dụng cho chi tiêu ở trong nước với nguyên tắc sau một thời gian nhất định tổ chức đi vay phải hoàn trả lại cả gốc và lãi.

-

Theo ngân hàng thế giới, quỹ tiền tệ quốc tế, ngân hàng thanh toán quốc tế, tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế thì: “ tổng vay nợ nước ngoài là khối lượng nghĩa vụ nợ vào một thời điểm nào đó đã được giải ngân và chưa hoàn trả, được ghi nhận bằng hợp đồng giữa người cư trú của một quốc gia với người không cư trú về việc hoàn trả các khoản gốc cùng với lãi hoặc không lãi, hoặc về việc hoàn trả các khoản lãi cùng với gốc hoặc không cùng với các khoản gốc”.

-

Ở Việt Nam, theo định nghĩa của cục quản lý nợ và tài chính đối ngoại, Bộ tài chính thì: “ tổng nợ nước ngoài, tại một thời điểm là số dư của các khoản nợ thực tế, không tính đến nghĩa vụ dự phòng. Con nợ bị yêu cầu thanh toán lãi và/hoặc gốc của các khoản nợ này tại các thời điểm trong tương lai và là nghĩa vụ của người cư trú với người không cư trú.

1.1.2

Các loại hình vay nợ nước ngoài

Tùy theo góc độ quản lý của các quốc gia khác nhau mà các loại hình vay nợ nước ngoài được phân loại theo các tiêu chí:

-

Căn cứ theo thời gian vay nợ gồm có: vay nợ ngắn hạn và vay nợ dài hạn.

-

Căn cứ theo tính chất bảo lãnh thì bao gồm vay nợ có bảo lãnh và vay nợ không có bảo lãnh.

-

Căn cứ theo ngồn cho vay, bao gồm: vay nợ chính thức (song phượng và đa phương), và vay nợ khu vực tư nhân.

-

Căn cứ vào hình thức huy động thì có phát hành trái phiếu và các loại vay khác trên thị trường vốn quốc tế, tín dụng xuất nhập khẩu, nợ do mua hàng tră chậm, vay nợ của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài…

1.1.3

Các yếu tố ảnh hưởng đến nợ nước ngoài

-

Các yếu tố về kinh tế và thị trường vay

Nhu cầu đi vay nợ nước ngoài thường xuất phát từ phía các nước kém phát triển hay các nước đang phát triển nhằm huy động một lượng vốn lớn để đầu tư và phát triển kinh tế, xã hội. Trong khi đó, các nước có nền kinh tế lớn mạnh mà chủ yếu là các nước phát triển đã trở thành nhà cung cấp vốn, do họ có một quá trình tích lũy tư bản lâu dài và có được nguồn vốn dự trữ lớn. Tuy nhiên, việc cung và cầu vốn hình thành không hoàn toàn là từ các nước giàu vào nước nghèo, mà có thể đan xen giữa các nước giầu hoặc giữa các nước nghèo.

Trên thị trường vay quốc tế, có nhiều yếu tố tác động tác động tới lượng vốn vay và trả nợ nước ngoài như sự biến động của tỷ giá hối đoái liên quan đến đồng tiền vay nợ, lãi suất khoản vay nợ, chính sách tài khóa của mỗi nước và khả năng trả nợ của nước đi vay.

Theo lý thuyết ngang giá lãi suất, lãi suất tương đương là mức lãi suất được tạo lập trên thị trường ngoại hối cân bằng, nếu lãi suất trong nước được ấn định hay hình thành cao hơn mức lãi suất tương đương ở nước ngoài thì dòng vốn chảy vào trong nước làm giá ngoại tệ có xu hướng giảm do cung ngoại tệ tăng lên, do đó có thể khuyến khích các nước vay nhiều hơn với chi phí vay ngoại tệ rẻ hơn. Và ngược lại, nếu lãi suất trong nước thấp hơn mức lãi suất tương đương làm cho cung cầu bị điều chỉnh, dấn đến luồng vốn của khu vực nước ngoài có xu hướng đi ra khỏi thị trường trong nước, hay làm hạn chế khả năng vay nợ nước ngoài do chi phí vay ngoại tệ trở nên đắt hơn là vay trong nước. Như vậy, sự biến động của lãi suất là yếu tố kinh tế quan trọng tác động vào lượng vốn vay nợ nước ngoài.

Bên cạnh đó, sự biến động của tỷ giá hối đoái có tác động không nhỏ đến vay nợ nước ngoài. Nếu tỷ giá giữa đồng ngoại tệ và nội tệ dự tính có xu hướng tăng so với tỷ giá hiện hành thì dòng ngoại tệ có xu hướng chảy vào trong nước nhiều hơn và ngược lại.

Một yếu tố khác có thể tác động đến vay và trả nợ nước ngoài đó là chính sách tài khóa của mỗi quốc gia. Những nước có chính sách tài khóa ổn định, mức thâm hụt ngân sách thấp, nợ nước ngoài của chính phủ và của quốc gia thấp sẽ tạo ra tâm lý tin tưởng và sự an toàn của người cho vay, nhờ đó việc huy động vốn từ bên ngoài sẽ gặp thuận lợi, trong đó có vay nợ nước ngoài.

Khả năng thanh toán cũng là một yếu tố tác động đến vay và trả nợ nước ngoài. Khả năng thanh toán tác động đến dòng vốn vay, nó làm cho các nhà đầu tư e ngại và thiếu tin tưởng vào việc sử dụng vốn có hiệu quả và khả năng hoàn trả. Điều này làm hạn chế dòng vốn vay thương mại và vay ưu đãi.

-

Yếu tố chính trị

Môi trường chính trị đóng vai trò quan trọng đến quy mô và thời hạn của các khoản vay nợ nước ngoài. Môi trường chính trị lành mạnh và hệ thống pháp luật rõ ràng sẽ làm giảm rủi ro của các dòng vốn nước ngoài. Trong môi trường chính trị có sự hội tụ của chính sách kinh tế mở, thông thoáng và ổn định sẽ tạo cơ hội thuận lợi cho nhà đầu tư và tổ chức cho vay, giúp họ có cơ hội tiếp cận với thị trường quy mô lớn, ổn định.

-

Khả năng hấp thụ vốn của bên đi vay

Đối với bên đi vay, việc sử dụng vốn vay có hiệu quả hay không sẽ có tác động lớn đến quy mô và thời gian vay nợ. Nếu vốn vay được sử dụng hiệu quả thì khả năng trả nợ và hoàn vốn được đảm bảo, đưa đến sự tin tưởng giữa bên đi vay và bên cho vay. Ngược lại, nếu sử dụng vốn vay không có hiệu quả sẽ dẫn đến việc nền kinh tế của nước đi vay kém phát triển, gánh nặng nợ nần tăng lên, và mất khả năng trả nợ, làm cho bên cho vay thiếu tin tưởng và ảnh hưởng đến khả năng vay nợ. Khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế nước đi vay là yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng đến vay nợ nước ngoài, yếu tố này phụ thuộc vào năng lực quản lý của chính phủ trong việc kiểm soát và sử dụng vốn vay.

1.1.4

Các chỉ tiêu đánh giá nợ nước ngoài.

v

Các chỉ tiêu đánh giá mức độ nợ nước ngoài

Để đánh giá mức độ nợ của nước ngoài, các chỉ tiêu thường được các tổ chức

quốc tế thường dùng là:

Ø

Khả năng hoàn trả nợ vay nước ngoài

Tổng nợ/Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá dịch vụ: Chỉ tiêu này biểu diễn tỷ lệ

nợ nước ngoài bao gồm nợ tư nhân, nợ được Chính phủ bảo lãnh trên thu nhập xuất

khẩu hàng hoá và dịch vụ. Ý tưởng sử dụng chỉ tiêu này là nhằm phản ánh nguồn thu

xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ là phương tiện mà một quốc gia có thể sử dụng để trả

nợ nước ngoài. Những khó khăn khi sử dụng chỉ tiêu này là: Nguồn thu xuất khẩu dễ

biến động từ năm này sang năm khác, ngoài ra cũng có những phương án khác để

nước con nợ có thể sử dụng để trả nợ nước ngoài mà không nhất thiết phải tăng xuất

khẩu.

Ø

 

Tỷ lệ nợ nước ngoài so với thu nhập quốc gia

Nợ/GNI: Đây là chỉ tiêu đánh giá khả năng trả nợ thông qua thu nhập quốc dân được tạo ra. Hay nói cách khác, nó phản ánh khả năng hấp thụ vốn vay nước ngoài. Thông thường các nước đang phát triển thường đánh giá cao giá trị đồng nội tệ hoặc sử

dụng chế độ đa tỷ giá dẫn tới làm giảm tình trạng trầm trọng của nợ. Do vậy, tình trạng nợ có thể không được đánh giá đúng mức.

Ø

Tỷ lệ trả nợ

Tổng nợ phải trả hàng năm/Kim ngạch thu xuất khẩu: Còn gọi là tỷ lệ dịch vụ nợ

(nợ gốc và lãi phải thanh toán so với giá trị xuất khẩu). Đây là một tiêu chí quan trọng,

phản ánh quan hệ giữa nghĩa vụ nợ phải trả so với năng lực xuất khẩu hàng hoá và

dịch vụ của quốc gia đi vay.

Ø

Tỷ lệ trả lãi

Tổng lãi phải trả hàng năm/Kim ngạch thu xuất khẩu: Còn gọi là tỷ lệ dịch vụ lãi

hay tỷ lệ giữa tổng lãi phải trả so với kim ngạch xuất khẩu. Một quốc gia phải thanh toán lãi với mức lãi suất được quy định trong cam kết cho vay, thông thường lãi này

được trích từ thu nhập xuất khẩu.

v

Các chỉ tiêu đánh giá cơ cấu nợ nước ngoài.

Cơ cấu nợ hàm chứa những thông tin quan trọng về mức độ rủi ro của việc vay nợ.

Thông thường rủi ro sẽ cao khi tỷ trọng nợ ngắn hạn, tỷ lệ nợ thương mại và tỷ lệ nợ

song phương cao. Các chỉ tiêu đánh giá cơ cấu gồm:

Ø

Nợ ngắn hạn/Tổng nợ: Phản ánh tỷ trọng các khoản nợ cần thanh toán trong

thời gian nhỏ hơn một năm trong tổng nợ. Tỷ lệ này càng cao, áp lực trả nợ càng lớn.

Ø

Nợ ưu đãi/Tổng nợ: Tỷ lệ này càng cao, gánh nặng nợ nước ngoài càng nhẹ.

Ø

Nợ đa phương/Tổng nợ: Các khoản nợ đa phương thường nhằm mục đích hỗ

trợ, ít ưu cầu về lợi nhuận, do đó việc tăng cường nợ đa phuơng trong tổng nợ phản ánh tình hình nợ nước ngoài của một nước thay đổi theo chiều hướng tốt.

1.1.5

   

Khủng hoảng nợ nước ngoài và nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng nợ nước ngoài.

v

Khái niệm khủng hoảng nợ nước ngoài.

Khủng hoảng nợ nước ngoài là tình trạng một quốc gia vay nợ nước ngoài nhưng mất một phần hoặc mất toàn bộ khả năng thanh toán, không còn khả năng trả nợ; và phải đề nghị thương thảo lại về các thỏa thuận vay nợ , hoãn trả lãi và vốn gốc, phải nhận một khoản tài trợ chính thức từ Quỹ tiền tệ quốc tế IMF.

v

Nguyên nhân của khủng hoảng nợ nước ngoài.

-Tỷ lệ nợ nước ngoài/GDP tăng lên.

-Các nước vay nợ bị thiệt hại lớn khi lãi suất tăng lên bởi phần lớn các hợp đồng được ký với mức lãi suất thả nổi. Đó là tình trạng mà vào thời điểm vay nợ các nước đi vay không dự tính được chính xác sẽ phải trả nợ cả gốc và lãi là bao nhiêu.

-Các nước đi vay không sử dụng tiền vay để đầu tư sản xuất mà dùng để tài trợ cho tiêu dùng hay thậm chí là vốn vay lại chảy ra nước ngoài dưới hình thức chảy máu vốn.

-Tình trạng mất cân xứng giữa nợ ngắn hạn và dự trữ ngoại tệ, tăng trưởng tiền tệ nhanh dẫn tới lạm phát , tỷ giá hối đoái tăng lên, cơ cấu vốn đầu tư nước ngoài bất hợp lý, không đúng chỗ và thiếu hiệu quả là nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng nợ nước ngoài.

-Bên cạnh đó, rủi ro đạo đức, tình trạng tham nhũng trở thành quốc nạn, hệ thống pháp lý có liên quan đến vay nợ nước ngoài lỏng lẻo, thiếu hoàn chỉnh.

1.2

Cán cân thanh toán quốc tế.

1.2.1

      

Khái niệm về cán cân thanh toán quốc tế.

-

        

Theo quỹ tiền tệ quốc tế IMF thì:” cán cân thanh toán quốc tế ( Balance of Payment) là báo cáo thống kê tóm tắt một cách có hệ thống trong một khoảng thời gian nhất định (thường là một năm) về các nghiệp vụ kinh tế của một nền kinh tế với phần còn lại của thế giới”.

Nói cách khác, cán cân thanh toán quốc tế là một bảng kết toán tổng hợp tất cả các luồng hàng hóa, dịch vụ, đầu tư giữa một nước với các nước khác trên thế giới trong một thời kỳ nhất định, thường là một năm.

-

        

Ở Việt Nam, cán cân thanh toán quốc tế là bảng cân đối tổng hợp thống kê một cách có hệ thống toàn bộ các giao dịch kinh tế giữa Việt nam và các nước khác trong một thời kỳ nhất định.

Cán cân thanh toán được lập trên cơ sở các chỉ tiêu phản ánh toàn bộ giao dich kinh tế giữa người cư trú với người không cư trú.

Các giao dịch kinh tế được thu thập trên cơ sở mẫu biểu báo cáo định kỳ hoặc trên cơ sở điều tra chọn mẫu do NHNN phối hợp với Tổng cục thống kê và các bộ ngành liên quan.

Cán cân thanh toán lập theo đơn vị tiền tệ USD, được thống kê tại thời điểm hạch toán vào sổ sách kế toán, tính theo giá thực tế đã được thỏa thuận giữa người cư trú với người không cư trú.

1.2.2

      

Ý nghĩa của cán cân thanh toán quốc tế.

Về mặt kỹ thuật, cán cân thanh toán quốc tế phản ánh tất cả các luồng hàng hóa, dịch vụ, đầu tư của một nước với các nước khác trên thế giới trong một thời kỳ nhất định. Về mặt ý nghĩa kinh tế, tình trạng của BOP ( thâm hụt hay thặng dư ) thể hiện trạng thái của nền kinh tế. Cụ thể:

-

        

BOP cung cấp những thông tin liên quan đến cung và cầu ngoại tệ của một quốc gia.

-

        

Dữ liệu trên BOP có thể được sử dụng để đánh giá khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế của một quốc gia.

-

        

Thâm hụt hay thặng dư BOP có thể làm tăng khoản nợ nước ngoài hoặc gia tăng mức dự trữ ngoại tệ, tức là thể hiện mức độ bất ổn hoặc an toàn của nền kinh tế.

-

        

Thâm hụt hay thặng dư BOP phản ánh hành vi tiết kiệm, đầu tư và tiêu dùng của nền kinh tế.

Như vậy, BOP không chỉ thể hiện thực trạng kinh tế đối ngoại của quốc gia mà còn phản ánh một cách khái quát các chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô như chính sách thương mại, chính sách tiền tệ (tỷ giá, lãi suất), chính sách đầu tư và tiết kiệm, chính sách cạnh tranh… Bởi vậy, mức độ chính xác và tính khách quan về số liệu trên các hạng mục của BOP có tác dụng giúp cho các nhà lãnh đạo Nhà nước hoạch định đúng hướng các mục tiêu phát triển kinh tế và có khả năng điều chỉnh theo xu hướng phát triển kinh tế từng thời kỳ.

1.2.3

      

Nội dung của cán cân thanh toán quốc tế.

1.2.3.1

Tài khoản vãng lai.

Tài khoản vãng lai (còn gọi là cán cân vãng lai) trong 

cán cân thanh toán của

một 

quốc gia

 ghi chép những 

giao dịch

 về 

hàng hóa

,

dịch vụ

, thu nhập từ hoạt động đầu tư và các khoản chuyển dịch đơn phương giữa người cư trú trong nước với người cư trú ngoài nước. Những giao dịch dẫn tới sự thanh toán của người cư trú trong nước cho người cư trú ngoài nước được ghi vào bên "nợ". Còn những giao dịch dẫn tới sự thanh toán của người cư trú ngoài nước cho người cư trú trong nước được ghi vào bên "có". Thặng dư tài khoản vãng lai xảy ra khi bên có lớn hơn bên nợ

.

Tài khoản vãng lai bao gồm:

-Cán cân thương mại: Bao gồm tất cả các hoạt động trao đổi hàng hóa, nghĩa là xuất và nhập khẩu những hàng hóa hữu hình, trong đó có xuất khẩu được gi “Có”, còn nhập khẩu được ghi “Nợ”.

Nếu một quốc gia xuất khẩu ra nước ngoài một tổng giá trị hàng hóa nhiều hơn lượng mua từ nước ngoài, cán cân thương mại sẽ thặng dư, hoặc nói vắn tắt là thặng dư thương mại hay gọi là xuất siêu.

Ngược lại, nếu quốc gia mua hàng hóa của nước ngoài nhiều hơn tổng giá trị bán ra – nhập khẩu lớn hơn xuất khẩu thì cán cân thương mại sẽ thâm hụt, gọi tắt là thâm hụt thương mại hay gọi là nhập siêu.

Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến tình trạng của cán cân thương mại: tỷ giá, lạm phát, giá cả hàng hóa, thu nhập, chính sách thương mại quốc tế… Cán cân thương mại có ảnh hưởng rất lớn đến cán cân thanh toán quốc tế đồng thời tác động trực tiếp đến cung, cầu, giá cả hàng hóa và sự biến động của tỷ giá, tiếp đến sẽ tác động đến cả cung cầu nội tệ và tình hình lạm phát trong nước.

-Tài khoản dịch vụ: phản ánh các khoản phải thu về xuất khẩu dịch vụ và các khoản chi cho nhập khẩu dịch vụ như: dịch vụ vận tải, tài chính, giáo dục, du lịch, hàng không, viễn thông, bảo hiểm, và các dịch vụ khác.

Các dịch vụ cung ứng cho người không cư trú sẽ làm tăng cung ngoại tệ, được ghi vào bên Có với dấu (+) và ngược lại, các dịch vụ nhận cung ứng phát sinh ngoại tệ sẽ ghi vào bên nợ với dấu (-).

-Thu nhập từ hoạt động đầu tư: phản ánh thu nhập ròng của người lao động hoặc thu nhập từ đầu tư. Thu nhập của người lao động bao gồm: các khoản tiền lương, thưởng và các khoản thu nhập bằng tiền, hiện vật do người cư trú trả cho người không cư trú và ngược lại. Thu nhập từ đầu tư bao gồm: thu từ lợi nhuận đầu tư trực tiếp, lãi đầu tư vào giấy tờ có giá, các khoản lãi từ cho vay giữa người cư trú và người không cư trú.

Các khoản thu nhập của người cư trú được trả bởi người không cư trú sẽ làm tăng cung ngoại tệ nên được ghi vào bên Có với dấu (+) và ngược lại. Thu nhập từ hoạt động đầu tư chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố như: quy mô thu nhập (mức tiền lương, thưởng, tỷ suất lợi nhuận từ hoạt động đầu tư và lãi suất) và các yếu tố thuộc môi trường kinh tế, chính trị, xã hội.

-Chuyển tiền đơn phương: bao gồm những khoản viện trợ không hoàn lại của những khoản quà tặng và chuyển giao khác bằng tiền và hiện vật cho mục đích tiêu dùng giữa người cư trú và không cư trú.

Các khoản thu (nhận) phát sinh cung ngoại tệ/ cầu nội tệ nên được ghi vào bên Có với dấu (+) và ngược lại, các khoản chi cho phát sinh cầu ngoại tệ/cung nội tệ được hạch toán vào bên nợ với dấu (-).

Quy mô và tình trạng của hạng mục chuyển tiền đơn phương phụ thuộc chủ yếu vào các yếu tố thuộc về môi trường kinh tế, tâm lý, tình cảm, chính trị - xã hội và ngoại giao giữa các nước.

Không giống những tài khoản khác trên BOP, những khoản chuyển dịch đơn phương là những dòng chuyển tiền 1 chiều, không có dòng ngược chiều tương ứng. Với mục đích tuân thủ nguyên tắc ghi sổ kép, những khoản chuyển dịch đơn phương được xem như một giao dịch mua sự tín nhiệm từ người nhận. Do vậy, quốc gia cấp viện trợ nước ngoài cho một nước khác có thể xem là nhập khẩu sự tín nhiệm từ nước đó.

Như vậy, cán cân tài khoản vãng lai thường chỉ ra các luồng dịch chuyển thông dụng về hàng hóa và dịch vụ giữa một quốc gia bất kỳ có cán cân nói trên với thế giới. Khi cán cân tài khoản vãng lai thâm hụt, tiêu dùng sản phẩm, dịch vụ do thế giới làm ra, nhiều hơn số sản phẩm, dịch vụ có thể cung cấp cho thế giới. Nghĩa là phải nợ nước ngoài. Nợ này sẽ làm giảm tài sản ròng của cán cân vãng lai (như vàng và ngoại tệ đang dự trữ, tài nguyên quốc gia khác….) do phải chuyển đi trả nợ. Hoặc nợ này sẽ làm tăng thêm khoản nợ đã có của cán cân vãng lai đối với thế giới.

Ngược lại, khi cán cân tài khoản vãng lai thặng dư, nó cho biết quốc gia đã cung cấp cho thế giới bên ngoài nhiều hàng hóa, dịch vụ hơn tiêu dùng của thế giới. Sự thặng dư sẽ dẫn đến việc thế giới bên ngoài nợ thêm đối với trong nước dù dưới bất kỳ hình thức nào: ghi nợ hoặc trả nợ bằng ngoại tệ, hay giảm bớt nợ cũ của quốc gia đối với thế giới.

1.2.3.2

Tài khoản vốn.

Tài khoản vốn phản ánh các giao dịch kinh tế giữa người cư trú với người không cư trú về chuyển vốn từ nước ngoài vào Việt Nam và chuyển vốn từ Việt Nam ra nước ngoài trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp, đầu tư vào giấy tờ có giá, vay và trả nợ nước ngoài, cho vay và thu hồi nợ nước ngoài, chuyển giao vốn một chiều và các hình thức đầu tư khác, làm tăng hoặc giảm tài sản có hoặc tài sản nợ.

-

        

Đầu tư vốn dài hạn: phản ánh các luồng vốn đi ra hay đi vào của khu vực tư nhân và khu vực nhà nước dưới các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài, đầu tư gián tiếp nước ngoài ( mua cổ phiếu, trái phiếu…) và các hình thức đầu tư dài hạn khác ( như cho vay thương mại dài hạn…).

Luồng vốn đi vào phản ánh sự gia tăng của nguồn vốn (tài sản Nợ), nhưng là tăng cung ngoại tệ nên được ghi Có với dấu (+). Ngược lại, nguồn vốn đi ra phản ánh sự gia tăng của tài sản (tài sản Có) song lại làm tăng cầu ngoại tệ nên được ghi vào bên Nợ với dấu (-).

Quy mô và tình trạng tài khoản vốn dài hạn phụ thuộc vào các nhân tố như: tỷ suất lợi nhuận kỳ vọng dài hạn, hiệu quả biên của vốn đầu tư và các yếu tố thuộc về môi trường đầu tư, sự ổn định về chính trị, xã hội.

-

        

Đầu tư vốn ngắn hạn: phản ánh các khoản vốn đi ra hay đi vào của khu vực tư nhân (thường chiếm tỷ trọng lớn) và khu vực nhà nước nhưng dưới rất nhiều hình thức khác nhau: tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng, các hoạt động kinh doanh ngoại hối và giấy tờ có giá ngắn hạn kể cả các luồng vốn đầu cơ.

Luồng vốn đi vào phản ánh sự gia tăng của nguồn vốn (tài sản Nợ), như đã được đề cập, do làm tăng cung ngoại tệ nên được ghi Có với dấu (+). Ngược lại, luồng vốn đi ra phản ánh sự ra tăng của Tài sản (Tài sản Có) song lại làm tăng cầu ngoại tệ nên được ghi vào bên Nợ với dấu (-).

Khác với đầu tư vốn dài hạn, quy mô và tình trạng cán cân vốn ngắn hạn phụ thuộc vào các nhân tố như: chênh lệch tỷ giá, tỷ suất lợi tức kỳ vọng ngắn hạn, lãi suất và các yếu tố thuộc về môi trường kinh tế, chính trị - xã hội.

-

        

Chuyển giao vốn một chiều: phản ánh các khoản viện trợ không hoàn lại nhằm mục đích đầu tư, phản ánh các khoản nợ được xóa.

Khi được nhận các khoản viện trợ không hoàn lại và được xóa nợ, tương tự luồng vốn đi vào, gia tăng nguồn vốn “Tài sản Nợ”, làm tăng cung ngoại tệ nên được ghi Có với dấu (+). Ngược lại, khi viện trợ hay xóa nợ cho người không cư trú, luồng vốn đã đi ra làm tăng cầu ngoại tệ nên được ghi vào bên Nợ với dấu (-).

Quy mô và tình trạng của hạng mục chuyển giao vốn một chiều phụ thuộc chủ yếu vào các mối quan hệ ngoại giao, hợp tác kinh tế - chính trị - xã hội giữa các nước có chung lợi ích và tình hữu nghị đặc biệt.

1.2.3.3

Các khoản sai sót và không chính xác.

Sai sót và không chính xác là một hạng mục lớn của cán cân thanh toán quốc tế. Trong cán cân thanh toán quốc tế có khoản mục sai sót và không chính xác là do:

-Các giao dịch phát sinh giữa người cư trú và không cư trú là rất nhiều, luôn luôn có những hoạt động chuyển tiền ra hoặc chuyển tiền vào vì những công việc không thể thống kê được hoặc công việc không tiện kể ra.

-Các giao dịch, các khoản tiền chuyển ra hoặc chuyển vào trong nước có thể bị bỏ sót, thất lạc, hoặc bị tính đến 2, 3 lần. Đặc biệt là các khoản chuyển dịch lòng vòng, nhầm lẫn, bỏ sót, thất lạc hoặc thiếu thông tin… cũng là những nguyên nhân không phải hiếm để có thể tạo ra việc tăng thêm vốn chuyển dịch ra nước ngoài hoặc từ nước ngoài vào trong nước.

-Sự không trùng khớp giữa thời điểm diễn ra giao dich và thời điểm thanh toán.

Như vây, “sai sót và không chính xác” tồn tại ở trong cán cân thanh toán quốc tế ở mọi quốc gia, hầu hết sai sót và không chính xác trong thanh toán quốc tế là từ các khoản không thể công khai.

1.2.3.4

Cán cân tổng thể.(OB)

Cán cân tổng thể bằng tổng của tài khoản vãng lai, tài khoản vốn và hạng mục sai sót và không chính xác. Ta có:

Cán cân tổng thể = tài khoản vãng lai + tài khoản vốn + sai sót và không chính xác

Giống như các cán cân bộ phận nêu trên, OB có thể thặng dư (+), hoặc thâm hụt (-).

1.2.3.5

Cán cân bù đắp chính thức.(OFB)

Cán cân bù đắp chính thức là một dạng “cân đối tài khoản kế toán” để tổng các hạng mục bên nợ và bên có trong BOP phải bằng nhau để có số dư bằng không “0”. Vì vậy, số dư của OFB bằng với số dư của cán cân tổng thể nhưng ngược chiều. Ta có:

Cán cân bù đắp chính thức = âm (-) của cán cân tổng thể

Hay:

Cán cân bù đắp chính thức + cán cân tổng thể = 0

Cán cân bù đắp chính thức gồm:

-Dự trữ ngoại hối quốc gia: khi cán cân tổng thể thặng dư sẽ làm tăng dự trữ ngoại hối quốc gia. Khi cán cân tổng thể thâm hụt sẽ làm giảm dự trữ ngoại hối quốc gia.

-Vay nợ của IMF: các nước thành viên của IMF có thể sử dụng quyền rút vốn đặc biệt ( SDR) tại IMF để cân bằng cán cân thanh toán quốc tế. Khi cán cân tổng thể thâm hụt sẽ vay vốn SDR tại IMF để thanh toán, ngược lại khi cán cân tổng thể thặng dư có thể cho IMF vay.

-Vay nợ các NHTW khác: Khi cán cân tổng thể thâm hụt có thể vay dự trữ ngoại hối của NHTW các nước để thanh toán. Khi cán cân tổng thể thặng dư có thể cho NHTW các nước khác vay.

-Các nguồn tài trợ khác: Khi cán cân tổng thể thâm hụt có thể sử dụng các nguồn tài trợ khác như: tích tụ nợ quá hạn, thu xếp giãn nợ, hoặc thu xếp xóa nợ. Khi cán cân tổng thể thặng dư thì ngược lại.

1.2.4

Khái niệm thặng dư và thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế.

Cán cân thanh toán được lập theo nguyên tắc hạch toán kép, do đó tổng các bút toán ghi có luôn bằng tổng các bút toán ghi nợ, nhưng có dấu ngược nhau. Về tổng thể, cán cân thanh toán quốc tế luôn cân bằng. Nhưng từng cán cân bộ phận hay cán cân tổng thể không phải lúc nào cũng cân bằng, do đó, khi nói đến cán cân thanh toán thặng dư hay thâm hụt là nói đến thặng dư hay thâm hụt của một hoặc một nhóm cán cân bộ phận hay cán cân tổng thể.

1.2.4.1

Thặng dự và thâm hụt cán cân thương mại.

Cán cân thương mại là sự chênh lệch giữa giá trị xuất khẩu và giá trị nhập khẩu về hành hóa.

Cán cân thương mại = xuất khẩu -

nhập khẩu.

Ø

 

Cán cân thương mại thặng dư khi: xuất khẩu > nhập khẩu.

Cho biết: cung ngoại tệ và dự trữ ngoại hối của quốc gia tăng lên, làm cho ngoại tệ có xu hướng giảm giá so với nội tệ.

Ø

 

Cán cân thương mại thâm hụt khi: xuất khẩu

 

<

 

nhập khẩu.

Cho biết: cầu ngoại tệ tăng lên, dự trũ ngoại hối của quốc gia giảm xuống, làm cho ngoại tệ có xu hướng tăng giá so với nội tệ.

Cán cân thương mại là một bộ phận chính cấu thành cán cân vãng lai, thâm hụt và thặng dư cán cân thương mại thường quyết định đến tình trạng của cán cân vãng lai.

1.2.4.2

Thặng dư và thâm hụt cán cân vãng lai.

Cán cân vãng lai thặng dư khi: xuất khẩu – nhập khẩu + dịch vụ ròng + thu nhập ròng từ hoạt động đầu tư + chuyển tiền đơn phương ròng > 0.

Ø

 

Khi cán cân vãng lai thặng dư, có nghĩa là thu nhập vãng lai của người cư trú từ người không cư trú là lớn hơn so với chi cho người không cư trú. Điều này có ý nghĩa là giá trị ròng của các giấy tờ có giá do người không cư trú phát hành nằm trong tay người cư trú tăng lên.

Cán cân vãng lai thâm hụt khi: xuất khẩu – nhập khẩu + dịch vụ ròng + thu nhập rong từ hoạt động đầu tư + chuyển tiền đơn phương ròng < 0.

Ø

 

Khi cán cân vãng lai thâm hụt, có nghĩa là thu nhập vãng lai của người cư trú từ người không cư trú là thấp hơn so với chi cho người không cư trú. Như vậy, giá trị ròng của các giấy tờ có giá do người không cư trú phát hành nằm trong tay người cư trú giảm xuống.

1.2.4.3

Thặng dư và thâm hụt cán cân tổng thể.

Cán cân tổng thể phản ánh các hoạt động của ngân hàng trung ương trong việc tài trợ cho sự mất cân đối cuối cùng của nền kinh tế.

Cán cân tổng thể

=

tài khoản vãng lai

+

tài khoản vốn

+

sai sót và không chính xác.

Cán cân tổng thể

 

+

 

cán cân bù đắp chính thức

 

=

 

0

ØNếu cán cân tổng thể thặng dư nó cho biết khả năng gia tăng dự trữ ngoại hối của một quốc gia. Ngược lại, nếu cán cân tổng thể thâm hụt nó cho biết số tiền mà quốc gia phải hoàn trả bằng cách giảm dự trữ ngoại hối.

Để đánh giá chính xác tình trạng thặng dư hay thâm hụt cán cân tổng thể trong mỗi quan hệ với tình hình phát triển kinh tế của mỗi quốc gia, ngoài các chỉ tiêu tuyệt đối, người ta còn sử dụng các chỉ tiêu tương đối như tỷ lệ thặng dư hay thâm hụt cán cân so vơi GDP của quốc gia đó.

Việc xác định thặng dư và thâm hụt cán cân tổng thể chỉ thích hợp đối với các quốc gia áp dụng tỷ giá cố định mà không thích hợp đối với quốc gia áp dụng tỷ giá thả nổi. Bởi vì, nếu áp dụng tỷ giá thả nổi thì tỷ giá hoàn toàn tự do biến động và như vậy cán cân tổng thể luôn có xu hướng vận động về trạng thái cân bằng, vì ngân hàng trung ương không can thiệp mua vào hay bán ra đồng tiền của mình, do đó dự trữ ngoại hối không thay đổi.

1.3

Mối quan hệ giữa nợ nước ngoài và cán cân thanh toán quốc tế.

v

Hầu hết các nhà kinh tế đều cho rằng, trạng thái cán cân vãng lai là lý tưởng để phân tích trạng thái nợ nước ngoài do: trạng thái cán cân vãng lai có mối liên hệ trực tiếp với trạng thái tổng nợ nước ngoài của một quốc gia. Cán cân vãng lai cân bằng nói lên rằng trạng thái tổng nợ nước ngoài của một quốc gia là không thay đổi (quốc gia không là chủ nợ và cũng không là con nợ). Cán cân vãng lai thặng dư phản ánh tài sản có ròng của quốc gia đối với phần còn lại của thế giới được tăng lên (vị thế quốc gia là chủ nợ). Ngược lại, cán cân vãng lai thâm hụt phản ánh tài sản nợ ròng của quốc gia đối với nước ngoài tăng lên (vị thế quốc gia là con nợ).

Khi cán cân vãng lai CA = 0, quốc gia không là chủ nợ và cũng không là con nợ, tuy nhiên những nhà quản lý phải đề cập đến hai tình huống sau:

+

  

Trong dài hạn:

Theo giả thiết, cán cân vãng lai cân bằng, nghĩa là:

(X – M + SE + IC ­+ T­R­) = - (KL + KS +

= 0 (*)

Trong đó: X – giá trị xuất khẩu

M – giá trị nhập khẩu

                    

SE – giá trị dịch vụ ròng

IC – giá trị thu nhập ròng

                    

TR – giá trị chuyển giao vãng lai ròng

KL – luồng vốn ròng dài hạn

                    

KS – luồng vốn ròng ngắn hạn

- thay đổi dự trữ bắt buộc

Vì hiệu ứng can thiệp của NHTW mang tính trung lập trong dài hạn, bởi vị mọi khoản mua vào cuối cùng cũng phải bán ra và mọi khoản bán ra phải có mua vào. Do đó, trong dài hạn chúng ta có thể coi dự trữ ngoại hối của NHTW thay đổi là bằng 0, tức thay đổi dự trữ

.

Do đó từ (*) suy ra: KL + KS = 0

ó

KL = - KS. Có 2 khả năng xảy ra:

Khả năng 1:

KL < 0, KS > 0. Tức là nếu luồng vốn ngắn hạn chảy vào càng lớn và được cân đối bởi luồng vốn dài hạn chạy ra, có thể làm cho năng lực thanh khoản của quốc gia trong tương lai bị đe dọa, dẫn đến áp lực tăng lãi suất và giảm giá nội tệ. Vấn đề này càng trở nên nghiêm trọng nếu các hạng mục tài sản có bằng vốn dài hạn của quốc gia khó chuyển nhượng tức có mức độ thanh khoản thấp. Do đó, khi phân tích ảnh hưởng của BOP lên tỷ giá, lãi suất và các biến số kinh tế vĩ mô dựa trên khái niệm thặng dư hay thâm hụt của cán cân vãng lai thì cần đặc biệt chú ý phân tích đến sự biến động của các luồng vốn ngắn hạn và dài hạn.

Khả năng 2:

K­L­ > 0; K­S­ < 0. Nếu luồng vốn dài hạn chảy vào càng lớn và được cân đối bởi luồng vốn ngắn hạn chạy ra, thì sẽ tạo ra môi trường kinh tế vĩ mô ổn định hơn để duy trì ổn định tỷ giá, lãi suất và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế quốc gia.

Trong ngắn hạn: Trong ngắn hạn, các khoản đầu tư dài hạn coi như không đổi, tức là KL = 0. Do đó suy ra: KS +

= 0 ó

KS = -

. Có 2 khả năng xảy ra:

Khả năng

1:

KS < 0:

Đây là trạng thái khi vốn ngắn hạn chảy ra được bù đắp bởi sự giảm sút của dự trữ ngoại hối quốc gia. Trong thực tế, tình huống này có thể xảy ra trong ngắn hạn, khi NHTW nỗ lực cân đối các luồng vốn ngắn hạn có tính đầu cơ chạy ra nước ngoài bằng cách can thiệp bán dự trữ trên thị trường ngoại hối nhằm bảo vệ try giá, tức ngăn ngừa nội tệ giảm giá. Do đó, trong trường hợp đang xét, cho dù trạng thái cán cân vãng lai là cân bằng, nhưng vẫn có thể tồn tại áp lực giảm giá nội tệ hoặc phải tăng lãi suất nội tệ, nếu NHTW không tiếp tục can thiệp bán ngoại tệ trên thị trường ngoại hối.

Khả năng 2

:

< 0; KS > 0:

Đây là trạng thái khi vốn ngắn hạn chảy vào làm tăng dự trữ ngoại hối quốc gia. Trong thực tế, tình huống này có thể xảy ra khi NHTW tăng mức lãi suất của nội tệ để ngăn ngừa các luồng vốn ngắn hạn chạy ra và thu hút thêm các luồng vốn ngắn hạn chảy vào nhằm bảo vệ cho tỷ giá không tiếp tục tăng nữa (tức ngăn không cho nội tệ tiếp tục giảm giá).

v

Đối với các nước chậm và đang phát triển, tình trạng cán cân thanh toán vãng lai thường xuyên bị thâm hụt là dấu hiệu của tình trạng nợ nước ngoài tăng lên.

v

Khi cán cân tài khoản vãng lai thâm hụt điều đó thể hiện rằng quốc gia đó đang tiêu dùng sản phẩm, dịch vụ do thế giới làm ra, nhiều hơn số sản phẩm, dịch vụ có thể cung cấp cho thế giới, nghĩa là phải nợ nước ngoài. Nợ này hoặc sẽ làm giảm tài sản ròng của cán cân vãng lai (như vàng, ngoại tê đang dự trữ, tài nguyên quốc gia khác…) do phải chuyển đi để trả nợ. Hoặc nợ này sẽ làm tăng thêm khoản nợ đã có của cán cân vãng lai đối với thế giới.

Ngược lại, khi cán cân tài khoản vãng lai thặng dư nó cho biết quốc gia đó đã cung cấp cho thế giới bên ngoài nhiều hàng hóa, dịch vụ hơn tiêu dùng của thế giới. Sự thặng dư sẽ dẫn đến việc thế giới bên ngoài nợ thêm đối với trong nước dù dưới bất kỳ hình thức nào: ghi nợ hoặc trả nợ bằng ngoại tệ, hay giảm bớt nợ cũ của quốc gia đối với thế giới

v

Khi phân tích trạng thái nợ nước ngoài, ngoài việc phân tích trạng thái cán cân vãng lai, các nhà kinh tế còn phân tích trạng thái cán cân cơ bản. Cán cân vãng lai thâm hụt, quốc gia là con nợ, nhưng nếu thâm hụt cán cân vãng lai được tài trợ bởi nguồn vốn dài hạn thì quốc gia không chịu rủi ro thanh khoản.

Suy ra cán cân cơ bản BB = CA + KL = - (K­S ­+

)

Khi CA < 0, nhưng nếu (CA + KL)>0 thì quốc gia không hề chịu rủi ro thanh khoản. Chính vì vậy, nhiều nhà kinh tế cho rằng, cán cân cơ bản phản ánh tổng quát hơn về trạng thái nợ nước ngoài của một quốc gia so với cán cân vãng lai. Vì vốn dài hạn có đặc trưng của sự phân phối lại thu nhập tương đối ổn định trong một thời gian dài giữa một quốc gia và phần thế giới bên ngoài; ngoài ra, sự bù trừ cho nhau giữa thặng dư của cán cân vãng lai và thâm hụt của cán cân vốn dài hạn có thể được duy trì lâu dài.

Thông thường người ta cho rằng một sự xấu đi của cán cân cơ bản là tín hiệu xấu của nền kinh tế. tuy nhiên, điều nay không nhất thiết phải như vậy, nghĩa là cho dù cán cân cơ bản bị thâm hụt nhưng đây chưa hẳn đã là điều xấu. ví dụ, một quốc gia có thể đang bị thâm hụt

cán cân vãng lai và đồng thời có các luồng vốn dài hạn chảy ra, điều này khiên cho cán cân cơ bản bị thâm hụt năng; nhưng các luồng vốn chảy ra sẽ hứa hẹn những thu nhập như lãi suất, cổ tức hay lợi nhuận trong tương lai; những thu nhập này sẽ góp phần cải thiện thâm hụt hay tạo thặng dư cán cân vãng lai trong tương lai. Ngược lại thặng dư cán cân cơ bản không nhất thiết là điều tốt, khi mà luồng vốn ròng dài hạn chảy vào lớn hơn mức thâm hụt cán cân vãng lai thì cán cân cơ bản trở nên thặng dư.

-

  

Tình trạng cán cân cơ bản có tác động một cách không rõ ràng đến nền kinh tế tùy theo cách tiếp cận.

-

  

Đối với các nước đang phát triển, vốn là yếu tố cần thiết để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thặng dư cán cân cơ bản nhìn chung được coi là dấu hiệu tích cực.

-

  

Các chính sách thu hút vốn đầu tư, nhất là đầu tư trực tiếp là giải pháp cơ bản cho vấn để này.

Có hai cách để nhìn nhận vấn đề thặng dư của cán cân cơ bản như sau:

Cách thứ nhất cho rằng, do được phía nước ngoài tin tưởng nên quốc gia có khả năng nhập khẩu được nhiều vốn dài hạn, do đó không có vấn đề gì phải lo lắng khi cán cân vãng lai thâm hụt.

Cách thứ hai cho rằng, thặng dư cán cân cơ bản là một vấn đề phải xem xét, bởi vì việc một quốc gia nhập khẩu vốn dài hạn sẽ phải thanh toán các khoản lãi suất, cổ tức và lợi nhuận trong tương lai. Điều này có thể làm cho cán cân vãng lai trở nên xấu đi trong tương lai.

v

Thâm hụt hay thặng dư BOP có thể làm tăng khoản nợ nước ngoài hoặc gia tăng mức dự trữ ngoại tệ, tức là thể hiện mức độ bất ổn hoặc an toàn của nền kinh tế.

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG NỢ NƯỚC NGOÀI VÀ CÁN CÂN THANH TOÁN QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM

2.1

Thực trạng nợ nước ngoài của Việt Nam trong những năm gần đây.

Theo quan điểm của IMF thì tiêu chí đánh giá an toàn nợ nước ngoài đối với các quốc gia có thu nhập thấp dựa vào hiện giá thuần của nợ và dịch vụ nợ (nghĩa vụ trả nợ), một chính sách nợ yếu đồng nghĩa an toàn về nợ và một chính sách nợ mạnh đồng nghĩa với kém an toàn về nợ.

Ø

Vẫn trong giới hạn an toàn

Bảng 2-1: Các chỉ tiêu giám sát nợ nước ngoài

Chỉ tiêu

2006

2007

2008

2009

2010

Theo WB

Tổng số dư nợ nước ngoài so với GDP (%)

31.4

32.5

29.8

39.0

42.2

50

Nợ nước ngoài khu vực công so với GDP (%)

26.7

28.2

25.1

29.3

31.1

Nghĩa vụ trả nợ trung và dài hạn so với xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ (%)

4.0

3.8

3.3

4.2

3.4

25

Nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của Chính phủ so với thu NSNN (%)

3.7

3.6

3.5

5.1

3.7

35

Dự trữ ngoại hối so với tổng dư nợ ngắn hạn (%)

6,380

10,177

2,808

290

187

200

Nghĩa vụ nợ dự phòng của Chính phủ so với thu ngân sách nhà nước (%)

4.5

4.6

4.7

4.3

5.8

Nguồn:

Bản tin nợ nước ngoài số 7 -

www.mof.gov.vn

Tại Bản tin nợ nước ngoài số 7 do Bộ Tài chính công bố, tổng dư nợ nước ngoài của Chính phủ đến cuối năm 2010 là 27,86 tỷ USD, tương đương 85,7% tổng dư nợ. Tính chung, nợ nước ngoài của Chính phủ và do Chính phủ bảo lãnh đến cuối 2010 là 32,5 tỷ USD, tăng 4,6 tỷ USD so với năm trước đó.

Tổng số dư nợ nước ngoài so với GDP có xu hướng tăng từ năm 2006 - 2010, năm 2010 nợ nước ngoài chiếm 42,2%, tăng so với con số 39% của năm 2009 và cao nhất kể từ năm 2006 nếu so với tiêu chí của Ngân hàng Thế giới thì con số này thuộc diện trung bình. Do dư nợ tăng, tổng lượng tiền mà ngân sách phải dành để trả các đối tác nước ngoài trong năm 2010 là 1,67 tỷ USD (riêng tiền lãi và phí là hơn 616 triệu USD), tăng gần 30% trong khi năm 2009 là 1,29 tỷ USD.

Tỉ lệ giữa dự trữ ngoại hối so với tổng dư nợ ngắn hạn đang xuống thấp. Tỉ lệ dự trữ ngoại hối năm 2010 chỉ còn tương đương 187% tổng dư nợ ngắn hạn, trong khi năm 2009 là 290% và năm 2008 là 2.808%.

Ø

 

Chi phí vay ngày càng đắt

Lãi suất vay nợ của Việt Nam cũng đang có xu hướng tăng lên. 65,5% các khoản nợ của Việt Nam vẫn được hưởng lãi suất thấp từ 1% - 2,99%/năm nhưng khoản vay có lãi suất cao từ 6% - 10%/năm trong năm 2010 cũng đã lên tới 1,89 tỉ USD, gấp đôi so năm 2009.

    

Nguồn

Bản tin nợ nước ngoài số 7 -

www.mof.gov.vn

Do Việt Nam đã gia nhập nhóm nước có thu nhập trung bình. Bên cạnh, là việc uy tín nợ quốc gia bị ảnh hưởng do một số bất ổn của kinh tế vĩ mô và vụ kiện Vinashin. Hiện các khoản vay nợ lãi suất thấp 1- 2,99%/ năm đang chiếm 65,5% tổng dư nợ.

Bảng 2-3: Tổng dư nợ nước ngoài của Chính phủ và được Chính phủ bảo lãnh phân theo nhóm người cho vay và loại chủ nợ từ năm 2006 – 2010.

(Triệu USD/tỷ VND, áp dụng tỷ giá áp dụng vào thời điểm cuối kỳ)

   

Nguồn

 

Bản tin nợ nước ngoài số 7 -

www.mof.gov.vn

Ø

Quy mô nợ tăng nhanh

Trong vòng 4 năm, từ 2006 đến 2010, nợ  nước ngoài của Việt Nam đã tăng hơn 2 lần, từ gần 15,641 tỷ USD lên 32,5 tỷ, trong đó 86% là nợ công (của Chính phủ, hay do Chính phủ bảo lãnh).

Nợ nước ngoài của Chính phủ và do Chính phủ bảo lãnh trong năm 2010 là 32,5 tỷ USD, trong đó nợ của Chính phủ là 27,86 tỷ USD, chiếm 85,7% tổng dư nợ. Chỉ trong vòng một năm, nợ nước ngoài của Việt Nam đã tăng thêm gần 4,6 tỉ USD. Tính chung giai đoạn 5 năm 2006-2010, nợ công của Việt Nam đã tăng gấp đôi. Năm 2010, ngân sách phải trả cho các chủ nợ nước ngoài là 1,67 tỉ USD, tăng gần 30% so với mức trả nợ 1,29 tỉ

USD năm 2009. Tính chung từ nay đến năm 2015, mỗi năm, Việt Nam phải trả nợ cả gốc lẫn lãi khoảng 1,5 tỉ USD. Đến năm 2020, tổng số tiền phải trả là 2,4 tỉ USD.

Về cơ cấu nợ, chiếm tỉ trọng lớn nhất là đồng yen 38,8%; SDR (đơn vị tiền tệ quy ước của một số nước thành viên Quỹ Tiền tệ Quốc tế - IMF) chiếm 27,1%; USD 22,2%; euro 9,2%. Đáng lưu ý là tỉ lệ dư nợ nước ngoài so với GDP đang tăng rất nhanh. Bộ Tài chính nhiều lần khẳng định nợ công của Việt Nam vẫn ở mức an toàn song con số 42,2% vừa công bố cho thấy ngưỡng giới hạn có thể còn rất hẹp.

Biểu đồ 2-4: Cơ cấu Nợ được Chính phủ bảo lãnh và Nợ của Chính phủ

(Theo Bộ Tài Chính)

So sánh trong giai đoạn 2006 - 2010, số nợ Chính phủ và được Chính phủ bảo lãnh đã liên tục tăng, từ 15,64 tỷ USD (2006) lên 19,25 tỷ (2007), 21,81 tỷ (2008).

Về cơ cấu nợ, 46,66% trong số 32,5 tỷ USD này là nợ song phương, 44,59% là nợ đa phương, còn lại là nợ do phát hành trái phiếu, nợ các ngân hàng thương mại và các chủ nợ tư nhân khác.

Mức dư nợ này được dự kiến trả từ năm nay đến hết năm 2026, với mức trả hàng năm cao nhất lên tới gần 2,4 tỷ USD (cả gốc lẫn lãi, phí) và năm thấp nhất gần 1 tỷ USD.

Trước đó, theo báo cáo của Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại, nợ công của Việt Nam tính đến cuối năm 2010 là 1.112 nghìn tỷ đồng, bằng 56,7% GDP năm 2010. Mức nợ công này được coi là vẫn trong giới hạn an toàn.

Bảng 2-5: Dự kiến nghĩa vụ nợ hàng năm về nợ nước ngoài của Chính phủ theo nhóm người cho vay tính trên dư nợ tại thời điểm cuối năm báo cáo

(Triệu USD, áp dụng tỷ giá quy đổi tại thời điểm cuối năm báo cáo)

Nguồn Bản tin nợ nước ngoài số 7 -

www.mof.gov.vn

Từ bảng số liệu trên ta thấy, mức đỉnh mới về trả nợ sẽ rơi vào năm 2020, với nợ phải trả lên tới hơn 2,1 tỷ USD, các năm sau đó có xu hướng giảm dần.

2.2

Tình hình cán cân thanh toán quốc tế trong những năm gần đây

Bảng 2-6: Cán cân thanh toán

Đơn vị: triệu USD

Chỉ tiêu

2006

2007

2008

2009

2010

A. Tài khoản vãng lai

-367

-7,092

-10,787

-7,440

-3,511

1. Cán cân thương mại

-2,770

-10,438

-12,782

-8,306

-5,147

Xuất khẩu (FOB)

39,830

48,561

62,685

57,096

72,192

Nhập khẩu (FOB)

42,600

58,999

75,467

65,402

77,339

2. Dịch vụ (ròng)

-8

-894

-915

-1,129

-3,461

Thu

5,100

6,030

7,041

5,766

7,460

Chi

5,108

6,924

7,956

6,895

9,921

3. Chuyển tiền (ròng)

3,980

6,430

7,311

6,527

8,661

Tư nhân (ròng)

6,180

6,804

6,018

8,342

Nhà nước (ròng)

250

507

509

319

4. Thu nhập từ đầu tư (ròng)

-2,190

-4,401

-4,532

-4,564

Thu

1,166

1,357

752

456

Chi

3,356

5,758

5,284

5,020

B. Tài khoản vốn và tài chính

3,893

17,730

12,341

11,452

5,542

5. Đầu tư trực tiếp

2,315

6,516

9,279

6,900

7,100

Đầu tư trực tiếp vào Việt Nam

2,400

6,700

9,579

7,600

8,000

Tài sản

8,960

6,369

7,101

Vốn vay

619

1,231

899

Đầu tư trực tiếp của Việt Nam ra nước ngoài

85

184

300

700

900

6. Vay trả nợ trung và dài hạn

1,548

2,269

992

4,473

2,751

Vay

2,500

3,640

2,441

6,140

4,671

Nợ gốc đến hạn trả

952

1,371

1,449

1,667

1,920

(số thực thanh toán)

952

1,371

1,449

1,667

1,920

7. Vay trả nợ ngắn hạn

30

79

1,971

256

1,043

Vay

1,330

1,404

11,414

5,588

8,386

Nợ gốc đến hạn trả

1,300

1,325

9,443

5,332

7,343

(số thực thanh toán)

1,325

9,443

5,332

7,343

8. Đầu tư giấy tờ có giá

6,243

-578

128

2,370

9. Tiền và tiền gửi

2,623

677

-305

-7,720

C. Lỗi và sai sót

-474

-439

-1,081

-12,178

3,796

D. Cán cân tổng thể (=-E)

4,000

10,199

473

-8,166

-1,765

E. Tài trợ

-4000

-10,199

-473

8,166

1,765

10. Thay đổi tổng dự trữ ngoại hối

-4000

-10,199

-473

8,166

-1,765

11. Thay đổi về nợ quá hạn và gia hạn nợ

0

0

0

0

0

Nguồn: Ngân hàng Nhà nước

Qua số liệu thống kê ta thấy được cán cân vãng lai của nước ta trong những năm gần đây luôn ở trong trạng thái thâm hụt. Giai đoạn 2006 – 2008, thâm hụt cán cân vãng lai có xu hướng gia tăng: từ thâm hụt 367 triệu USD năm 2006, năm 2007 mức thâm hụt là 7,092 triệu USD và thâm hụt cán cân tăng lên tới 10,787 triệu USD năm 2008. Như ta thấy trạng thái cán cân vãng lai của Việt Nam chịu tác động chủ yếu từ trạng thái cán cân thương mại do các giao dịch về hàng hóa chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu và chi của tài khoản vãng lai (chiếm khoảng 70% - 85%). Trong khi đó, cán cân chuyển giao vốn vãng lai ròng (bao gồm viện trợ và kiều hối) có tác động tích cực đến cán cân vãng lai. Trong những năm gần đây, diễn biến xuất nhập khẩu của Việt Nam chịu tác động khá nhiều từ tình hình nước ngoài. Mặc dù kim ngạch xuất khẩu có mức tăng trưởng khá nhưng vẫn không sánh kịp với tốc độ tăng trưởng nhập khẩu bởi nhu cầu tiêu dùng hàng ngoại của người dân, năng lực sản xuất trong nước chưa đáp ứng được nhu cầu,.. . Chính hoàn cảnh này đã đẩy cán cân thương mại Việt Nam vào tình thế ngày càng thâm hụt từ thâm hụt 22,770 triệu USD năm 2006 lên 12,782 triệu USD năm 2008.

Như vậy cán cân vãng lai của nước ta trong giai đoạn 2006- 2008

hoạt động chưa hiệu quả, liên tục thâm hụt trầm trọng.

Tuy nhiên, sau giai đoạn khủng khoảng, với nhiều chính sách, hành động của chính phủ, cán cân vãng lai của Việt Nam đang từng bước được cải thiện. Cùng với sự cải thiện cán cân thương mại, cán cân vãng lai của nước ta có sự thay đổi theo chiều hướng tốt. Thâm hụt cán cân thương mại giảm từ 12,782 triệu USD còn thâm hụt 5,147 triệu USD năm 2010. Thâm hụt cán cân vãng lai có xu hướng giảm dần: năm 2008 mức thâm hụt là 10,787 triệu USD, năm 2009 mức thâm hụt cán cân giảm xuống còn 7,440 triệu USD và tới năm 2010 quy mô thâm hụt cán cân vãng lai thu hẹp đáng kể xuống mức 3,511 triệu USD, tương đương 3.37% GDP. Thâm hụt cán cân vãng lai giảm chủ yếu nhờ thâm hụt thương mại được cải thiện và cán cân chuyển tiền thặng dư ở mức cao. Với tiến độ này chúng ta rất có thể hy vọng trong tương lai cán cân vãng lai của nước ta có thể đổi trạng thái từ thâm hụt sang thặng dư.

Nguồn vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp, đầu tư gián tiếp và vay nợ nước ngoài dài hạn, ổn định cũng là những hình thức được sử dụng để bù đắp cho sự thiếu hụt cán cân thương mại, cán cân vãng lai và có vai trò quyết định đến khả năng chịu đựng thâm hụt cán cân vãng lai trong thời gian qua. Đặc biệt là vai trò của nguồn vốn hỗ trợ chính thức ODA và FDI trong việc bù đắp thâm hụt cán cân vãng lai và cải thiện dự trữ ngoại hối. Tỷ trọng nguồn vốn vay ODA hằng năm luôn chiếm tới 73 đến 78% trong tổng nợ nước ngoài của Chính phủ Việt Nam. Với tình hình này cán cân vốn vẫn tiếp tục thặng dư hàng năm. Năm 2006 cán cân vốn của nước ta thặng dư 3,893 triệu USD, năm 2009 mức thặng dư cán cân vốn là

11452 triệu USD, tới năm 2010 cán cân vốn và tài chính thặng dư 5,542 triệu USD. Cán cân vốn nước ta thặng dư nhưng có sự khác nhau giữa các giai đoạn, giai đoạn 2006- 2007 thặng dư cán cân vốn tăng, nhưng giai đoạn 2008- 2010 cán cân vốn tuy vẫn thặng dư nhưng có xu hướng giảm: năm 2008 thặng dư cán cân vốn giảm đi so với năm 2007 hơn 5 tỷ USD. Thặng dư cán cân vốn còn 11,452 triệu USD năm 2009 và năm 2010 là 5,542 triệu USD.

Với góc nhìn tổng thể, cán cân tổng thể của Việt nam

 

trong những năm qua có sự diễn biến không đồng nhất. giai đoạn 2006- 2008 cán cân tổng thể thặng dư nhưng giai đoạn 2009-2010 cán cân tổng thể của nước ta lại ở trạng thái thâm hụt. Năm 2006 cán cân tổng thể thặng dư 4000 triệu USD, năm 2007 thặng dư cán cân tăng lên 10,199 triệu USD. Với sự tăng lên của cán cân vốn đã bù đắp được thâm hụt cán cân vãng lai làm cán cân tổng thể của nước ta thặng dư. Nhưng với tình hình kinh tế ngày càng khó khăn cán cân vốn suy giảm một cách rõ rệt. Cán cân tổng thể chuyển từ thặng dư năm 2008 473 triệu USD sang thâm hụt 8,166 triệu USD năm 2009. Đây là một bước ngoặt lớn đối với cán cân tổng thể của nước ta. Tuy nhiên với sự cải biến về kinh tế của nước ta trong năm tiếp theo thâm hụt cán cân tổng thể đã giảm xuống còn thâm hụt 1,765 triệu USD.

Như vậy cán cân tổng thể của nước ta đang ở trong tình trạng thâm hụt, tuy nhiên tình trạng này đang ngày được khắc phục. Trong tương lai cán cân tổng thể của nước ta có khả năng trở lại trạng thái thặng dư trong thời gian ngắn.

2.3

Thực tiễn mối quan hệ giữa cán cân thanh toán quốc tế và nợ nước ngoài của Việt Nam trong những năm gần đây

Biểu đồ 2-7: Mối quan hệ giữa nợ nước ngoài với cán cân tổng thể

Nguồn :Tổng hợp

Cán cân thanh toán tại một thời điểm nhất định là bản đối chiếu giữa các khoản tiền đã và sẽ thu về và chi ra ở một thời điểm cụ thể nào đó. Vậy, trong loại cán cân thanh toán này chứa đựng cả những số liệu phản ánh các khoản tiền nợ nước ngoài và nước ngoài nợ nước đó mà thời hạn thanh toán rơi đúng vào ngày của cán cân.

Qua thực trạng của nợ nước ngoài phần II.1 ta thấy nợ nước ngoài ở nước ta qua các năm đều tăng lên, đồng thời kéo theo đó là tăng gánh nặng trả nợ.Tuy nhiên chỉ số nợ nước ngoài/GDP có xu hướng ổn định dao động trong khoảng 29.8 – 42.2 %/ GDP. Theo chuẩn mực quốc tế, ngưỡng an toàn là 40% thì theo các chuyên gia nhận định nợ nước ngoài của việt nam vẫn là mức an toàn. Cán cân tổng thể là một chỉ tiêu đánh giá khả năng trả nợ của quốc gia. Trong những năm qua nợ nước ngoài của nước ta tăng liên tục nhưng chỉ tiêu cán cân thanh toán tổng thể thì không ổn định, nó không đảm bảo được việc trả nợ của quốc gia. Trong giai đoạn cán cân tổng thể thặng dư ( năm 2006, 2007, 2008), nhà nước trả được một phần nợ quốc gia, tuy nhiên mức độ thặng dư còn khá thấp. Khi cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam thâm hụt, để c

ải thiện cán cân thanh toán quốc tế, không chỉ nước ta mà đa phần các nước

thường sử dụng các biện pháp vay nợ nước ngoài để bù đắp thâm hụt. Biện pháp này thông qua các nghiệp vụ qua lại với các ngân hàng đại lý ở nước ngoài để vay ngoại tệ cần thiết nhằm bổ sung thêm lượng ngoại hối cung cấp cho thị trường. Ngày nay việc vay nợ không còn giới hạn bởi quan hệ giữa ngân hàng nước này với nước kia, mà nó đã được mở rộng ra nhiều ngân hàng khác, đặc biệt là với các tổ chức tài chính tín dụng quốc tế trên cơ sở các hiệp định đã được ký giữa các bên.

Cán cân vãng lai của Việt Nam từ năm 2006 – 2010 thương xuyên bị thâm hụt và cao nhất là vào năm 2008 như vậy Việt Nam là con nợ và đây là dấu hiệu của tình trạng nợ nước ngoài tăng lên.

Bảng 2-8: Cán cân cơ bản

STT

Chỉ tiêu

2006

2007

2008

2009

2010

1

Cán cân vãng lai

-367

-7,092

-10,787

-7,440

-3,511

2

Đầu tư trực tiếp

2,315

6,516

9,279

6,900

7,100

3

Vay và trả nợ trung và dài hạn

1,548

2,269

992

4,473

2,571

4

Đầu tư giấy tờ có giá dài hạn

6,243

-578

128

2,370

5

Luồng vốn dài hạn = (2+3+4)

3,863

15,028

9,693

11,501

12,041

6

Vay và trả nợ ngắn hạn

30

79

1,971

256

1,043

7

Tiền và tiền gửi

30

2,623

677

-305

-7,722

8

Luồng vốn ngắn hạn = (6+7)

30

2,702

2,648

-49

-6,679

9

Cán cân cơ bản = (1+5)

3,496

7,936

-1,094

4,061

8,530

Nguồn: ngân hàng nhà nước

Từ bảng số liệu trên ta thấy cán cân vãng lai năm 2008 thâm hụt cao nhất đồng thời luồng vốn dài hạn năm 2008 cũng ít nhất từ năm 2006 – 2010 và làm cho cán cân cơ bản bị thâm hụt 1,094 triệu USD. Nguyên nhân là do nhu cầu đầu tư trong nước tăng cao trong khi mức độ tiết kiệm không tăng theo kịp hoặc giảm đi là nguyên nhân dẫn tới tình trạng nhập siêu và thâm hụt tài khoản vãng lai đồng thời dòng vốn FDI chảy vào Việt Nam tăng mạnh nhưng chủ yếu là chảy vào các dự án kinh doanh bất động sản, khách sạn (chiếm tới 54% tổng số vốn đăng ký). Cán cân cơ bản của Việt Nam trừ năm 2008 đều lớn hơn 0 điều đó thể hiện rằng nền kinh tế trong giai đoạn này nói chung không chịu rủi ro thanh khoản.

CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP, Ý KIẾN ĐỀ XUẤT VỀ QUẢN LÝ NỢ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM.

3.1

Các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nợ nước ngoài.

3.1.1 Các giải pháp đảm bảo khả năng tiếp nhận nợ vay nước ngoài.

v

Đảm bảo kinh tế tăng trưởng ổn định và bền vững.

Để có thể đảm bảo an toàn tín dụng, nền kinh tế phải có tăng trưởng kinh tế cao để

đảm bảo lãi vay nợ không vượt quá khả năng sinh lời của nó. Ở nước ta trong những năm gần đây, mặc dù mức GDP vẫn tăng, nhưng hệ số ICOR lại tăng liên tục cho

thấy hiệu quả sử dụng vốn thấp

. Để có thể đạt được hệ số ICOR

= 4 thì trong tương lai ta phải nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế trong khi vẩn giảm

được tỷ lệ đầu tư/GDP. Điều này có nghĩa là vẫn gia tăng mức đầu tư trong đó mức gia

tăng của GDP phải nhanh hơn. Hay nói cách khác, ta phải mở rộng quy mô của nền

kinh tế

 

một cách có hiệu quả. Nếu trong giai đoạn 2000 - 2010, kinh tế Việt Nam đạt được tốc độ tăng trưởng là 7,5 - 8%/năm thì đòi hỏi đầu tư/GDP là 30 - 32%. Nhu cầu vốn đầu tư giai đoạn 2000 - 2010 này là 135 - 140 tỷ USD và để đạt 250 - 280 tỷ USD trong giai đoạn 2010 - 2020 thì quy mô nền kinh tế trong hai giai đoạn trên phải đạt được là 450 - 534 tỷ USD và 782 - 934 tỷ USD. Để đạt được quy mô như vậy, Việt Nam phải nổ lực rất nhiều. Xuất khẩu là nguồn cung duy nhất cho trả nợ vay nước ngoài, vì vậy muốn nâng cao năng lực trả nợ và hạn chế những rủi ro tác động từ bên ngoài đòi hỏi xuất khẩu phải tăng trưởng cao, đa dạng hoá về cơ cấu và chủng loại.

v

   

Gia tăng dự trữ ngoại hối.

           

Dự trữ ngoại tệ là phương tiện đảm bảo khả năng thanh toán quốc tế nhằm thoả

mãn nhu cầu nhập khẩu, mở rộng đầu tư, hợp tác kinh tế với nước ngoài.

Để gia tăng dự trữ ngoại hối, cân có một số giải pháp cần thiết

sau:

- Cải thiện cán cân tài khoản vãng lai :

Muốn cải thiện cán cân tài khoản vãng lai chúng ta phải đẩy mạnh xuất khẩu hàng

hoá, thậm chí là xuất khẩu dịch v

, để đẩy mạnh xuất khẩu phải có sự nỗ lực từ phía Chính phủ lẫn doanh nghiệp.

- Gia tăng cán cân tài khoản vốn :

Muốn gia tăng tài khoản vốn, chúng ta cần thu hút và quản lý hiệu quả các dòng

vốn quốc tế gồm nguồn vốn FDI và

FII. Dòng vốn này rất là quan trọng đối với nền kinh tế, nó không chỉ góp phần cung

cấp cho phát triển kinh tế - xã hội mà còn đem lại nguồn ngoại tệ làm gia tăng quỹ dự

trữ quốc gia, đặc biệt là nguốn vốn FII.

- Khuyến khích kiều hối chảy về nước :

Cần có chính sách khuyến khích thu hút hơn nữa lượng kiều hối từ nước ngoài. Hiện nay, nước ta có hơn 3 triệu kiều bào đang sinh sống ở nước ngoài và tổng số người về thăm hoặc gửi tiền cho người thân trong nước hàng năm tăng lên nhanh chóng. Gần đây, Nhà nước cũng đã có chính sách ưu đãi nhằm kiều bào về đóng góp

xây dựng quê hương. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần có chính sách thông thoáng hơn nữa như đối xử bình đẳng với Việt kiều như người dân trong nước, tạo niềm tin cho

kiều bào về sự ổn định kinh tế, chính trị, xã hội trong nước để họ yên tâm chuyển tiền về nước. Có chính sách đãi ngộ thoả đáng đối với các thành phần tri thức Việt kiều về đóng cho quê hương.

Thực hiện nghiêm cấm trao đổi mua bán hàng hoá bằng ngoại tệ trên thị trường

nội địa. Tổ chức hữu hiệu mạng lưới thu đổi ngoại tệ cho các khách hàng vào Việt N

am, trước hết là các sân bay, bến cảng, cửa khẩu, nhà ga trung tâm, sau đến là các thành phố, thị xã, các trung tâm kinh doanh, dịch vụ tập trung ở các địa phương.

3.1.2 Đổi mới, hoàn thiện thể chế và cơ chế quản lý

.

Thành lập hội đồng tư vấn nợ. Tổ chức này có trách nhiệm giúp Thủ

tướng Chính phủ về chính sách vay, trả nợ nước ngoài, về kế hoạch vay và trả nợ hàng

năm.

    

Thiết lập cơ quan chuyên trách trực thuộc Chính phủ về quản lý nợ nước ngoài. Hiện nay các cơ quan quản lý nợ nước ngoài như: Bộ Kế hoạch - Đầu tư, Bộ

Tài chính, Ngân hàng Nhà nước đang từng bước hoàn chỉnh chương trình quản lý nợ

nước ngoài hiện đại, tuân thủ pháp luật của Nhà nước.

Nhiệm vụ của

tổ chức này là theo dõi, tổng hợp báo cáo tình hình huy động và sử dụng vốn vay nước ngoài, tình hình nợ quốc gia tồn đọng để báo cáo với Thủ tướng Chính phủ.

Đổi mới, hoàn thiện cơ chế chính sách quản lý nợ nước ngoài, gạt bỏ sự

chồng chéo hoặc mâu thuẫn trong phân công, phân nhiệm. Việc gắn trách nhiệm sử

dụng vốn vay với việc trả nợ là hết sức cần thiết, tạo cho doanh nghiệp ý thức sử dụng

nguốn vốn vay có hiệu quả.

Tìm kiếm khả năng giảm được nợ hơn nữa thông qua việc chủ động cơ

cấu lại nợ, chuyển đổi nợ. Thu hút các luồng tài chính không mang tính chất nợ như

đầu tư trực tiếp nước ngoài…

    

Cần có cơ chế giám sát mang tính thị trường đối với DNNN vay vốn từ nguồn vốn phát hành trái phiếu quốc tế của Chính phủ để đảm bảo khả năng trả nợ.

3.1.3 Tăng cường năng lực quản lý nợ nước ngoài.

Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng năng lực nghề nghiệp, đạo đức cho cán bộ quản lý

.

Nhìn chung năng lực của cán bộ quản lí là ch

ưa đạt được yêu

cầ

u. Năng lực của đội ngũ này ở các bộ ngành còn tương đối tốt do được chuyên môn hóa được đào tạo bồi dưỡng và có điều kiện tiếp xúc với thông tin cần thiết một cách thường xuyên. Nhưng đội ngũ này ở cấp địa phương và cơ sở chưa đáp ứng nhu cầu do không được đào tạo bài bản có chăng chỉ là thực hiện các dự án nhỏ lẻ và thỉnh thoảng nên kinh nghiệm chưa có, điều này là rất nguy hiểm do trình độ còn thiếu và yếu nên dễ dàng làm thất thoát nguồn vốn hoặc phân bổ sai mục đích không phục vụ yêu cầu phát triển của địa phương nên cần phải tập huấn kĩ năng thường xuyên, tạo mầm thế hệ quản lí mới có trình độ.

3.2 Một số ý kiến đề xuất.

Trước những diễn biến phức tạp của nền kinh tế thế giới hiện nay và chiều hướng phát triển kinh tế trong nước, công tác quản lý nợ nước ngoài luôn cần đảm bảo theo đúng các nguyên tắc an toàn và bền vững. Để khắc phục những bất ổn về tình hình nợ cũng như công tác quản lý nợ nước ngoài, xin đề xuất một số biện pháp sâu đây:

vVề xây dựng hệ thống văn bản pháp luật.

Để giúp cho việc quản lý nợ nước ngoài tại Việt Nam đạt hiệu quả hơn, nhà nước cần ban hành các văn bản pháp luật, Quy chế xây dựng và quản lý hệ thống chỉ tiêu đánh giá, giám sát tình trạng nợ nước ngoài của quốc gia, phù hợp với thông lệ quốc tế và thực tiễn hoạt động của nền kinh tế Việt Nam. Theo đó cứ hai năm sẽ tiến hành phân tích bền vững nợ, đồng thời kiến nghị các biện pháp điều chỉnh.

Quy chế này áp dụng đối với việc xây dựng và quản lý hệ thống chỉ tiêu chung về nợ nước ngoài của quốc gia, các ngưỡng an toàn nợ, hạn mức vay nợ, trách nhiệm của cơ quan chủ trì và các cơ quan có liên quan trong việc đánh giá tình trạng nợ nước ngoài, nhằm xây dựng và điều chỉnh chiến lược, chính sách vay nợ của Chính phủ cho phù hợp, đảm bảo an toàn nợ quốc gia.

vVề xây dựng hệ thống thông tin về nợ nước ngoài.

Cần tổ chức lại hệ thống thông tin về nợ nước ngoài. Hệ thống thông tin về nợ nước ngoài ở Việt Nam cho đến nay vẫn còn nghèo nàn, chưa đầy đủ và liên tục, chất lượng thông tin về nợ thiếu tin cậy. Bên cạnh đó, sự không công khai thông tin giữa các bộ, ngành dẫn đến hiện tượng bưng bít thông tin gây hậu quả xấu đối với công tác quản lý nợ. Các tác giả thực hiện dự án về quản lý nợ vay nước ngoài (dự án VIE 01/010) cũng đã từng khuyến cáo Việt Nam cần đảm bảo rằng các số liệu nợ được kiểm chứng thống nhất và cập nhật một cách nhất quán, thông tin từ các khoản vay cần được hoàn chỉnh để có thể có được các đầu ra và báo cáo cần thiết. Do đó, cần lập mạng thông tin trao đổi công khai giữa các cơ quan được giao chuyên trách về quản lý nợ.

Cần xây dựng một bộ số liệu cập nhật kinh tế vĩ mô nhất quán và đáng tin cậy, điều này cho phép dự thảo được các dự báo thực tế về nhu cầu tài chính cho phát triển kinh tế. Xây dựng hệ thống chỉ tiêu đánh giá về nợ phù hợp với với đặc điểm của Việt Nam nhưng cũng tuân thủ theo nguyên tắc quốc tế.

vHạn chế vay nợ nước ngoài, huy động vốn trong nước. Cần áp dụng các tiêu chuẩn giám sát nợ nước ngoài theo thông lệ quốc tế nhằm duy trì giới hạn nợ ở mức an toàn.

vSử dụng hiệu quả các khoản vay, chống lãng phí, quan liêu, và nhất là chống tham nhũng. Trong phân bổ sử dụng nguồn vốn phải ưu tiên hoặc chỉ phân bổ cho các chương trình dự án, đơn vị có khả năng thanh toán cả gốc và lãi khi đến hạn.

KẾT LUẬN CHUNG

Qua bài nghiên cứu, chúng ta có thể thấy mối quan hệ mật thiết giữa cán cân thanh toán và nợ nước ngoài. Cán cân tổng thể là một chỉ tiêu đánh giá khả năng trả nợ của quốc gia. Cán cân vãng lai của Việt Nam từ năm 2006 – 2010 thương xuyên bị thâm hụt và cao nhất là vào năm 2008 như vậy Việt Nam là con nợ và đây là dấu hiệu của tình trạng nợ nước ngoài tăng lên.

Việt Nam đã có một số dấu hiệu cho thấy “độ nóng” của nợ nước ngoài trong thời gian gần đây đã tăng nhanh, cả về định tính và định lượng.

Nói cách khác, gánh nặng nợ nước ngoài đang tăng liên tục cả về quy mô, dịch vụ và điều kiện nợ. Ngoài ra, vấn đề hiệu quả quản lý, sử dụng nợ cũng chưa có sự cải thiện rõ rệt. Vì thế, đây là lúc phải tỉnh táo để thấy rõ sự thực rằng nếu khủng hoảng nợ công xảy ra, Việt Nam sẽ phải “một mình vượt cạn”, khó trông cậy vào sự cứu trợ “giá rẻ “hay vô tư nào từ các chủ nợ, các khối kinh tế hay tổ chức tài chính khu vực và quốc tế, giống như việc Liên minh châu Âu đang cứu giúp các nước thành viên khỏi “cơn bão” nợ công với những điều kiện ngặt nghèo.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Giáo trình Tài chính quốc tế - PGS.TS Nguyễn Thị Phương Liên – Đại học Thương Mại

[2] GT Tài chính quốc tế - GS.TS Nguyễn Văn Tiến – Học viện Ngân hàng

[3] Một số trang web : http://www.mof.gov.vn ; http://vneconomy.vn ;

http://www.sbv.gov.vn

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: #gsd