Nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng cầm quyền

Nội dung đặc điểm & phương thức lãnh đạo của Đảng cầm quyền. Cần làm gì để giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng ta hiện nay.

Trải qua gần 80 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam kể từ ngày thành lập (1930) và 65 năm lãnh đạo đất nước với vai trò là Đảng cầm quyền kể từ khi giành được chính quyền (1945), Đảng Cộng sản Việt Nam đã thể hiện đầy đủ vai trò là ngọn cờ tập hợp trí tuệ, sức mạnh và tinh hoa của dân tộc. Đó là vai trò không thể thay thế bởi lẽ nó là vai trò của trí tuệ và niềm tin, vai trò của sự thống nhất và đoàn kết, vai trò của sự hướng dẫn quần chúng hành động theo đúng quy luật khách quan và phù hợp với yêu cầu thực tiễn đất nước. Dù phải đối mặt với nhiều khó khăn, thậm chí cả những thử thách tưởng chừng khó vượt qua, Đảng vẫn luôn là người cầm lái kiên định, sáng suốt để lãnh đạo đất nước phát triển tới ngày hôm nay.

Khái niệm Đảng cầm quyền đã được Lênin nêu ra từ năm 1922. Theo Lê Nin thì Đảng cầm quyền là khái niệm để chỉ một thời kỳ mới, một giai đoạn cách mạng mới – Đó là thời kỳ mà CNXH không đơn thuần là cương lĩnh, mục đích, lý thuyết nữa mà đã trở thành công việc phấn đấu hàng ngày của Đảng. Đó là thời kỳ mà nhiệm vụ hàng đầu và trọng tâm là tổ chức xây dựng đất nước chứ không phải là nhiệm vụ giành chính quyền nữa. 

Từ năm 1925, trong tác phẩm “Đường Kách mệnh” khi đề cập đến mô hình nhà nước trong tương lai và nhiệm vụ của nó, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Đảng Cộng sản cầm quyền, tổ chức ra Chính phủ công - nông - binh, phát đất cho dân cày, giao công xưởng cho thợ thuyền… ra sức tổ chức kinh tế mới để thực hành thế giới đại đồng”. Đến trước khi vĩnh biệt đồng bào, đồng chí, trong Di chúc của mình, người còn di huấn: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thực sự cần kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân” .

Như vậy, nói một cách khái quát, Đảng cầm quyền là một khái niệm dùng để chỉ thời kỳ Đảng đã nắm được chính quyền và sử dụng chính quyền đó như một công cụ của giai cấp mà Đảng đó đại diện nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu chính trị của giai cấp.

Vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng ta đối với cách mạng Việt Nam là một tất yếu của lịch sử. Đảng ta ra đời là kết quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lê Nin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước, đã thể hiện cả tính tất yếu kinh tế và chính trị. Thực tiễn kể từ khi ra đời đến nay, cương lĩnh, đường lối và chính sách của Đảng về cơ bản phản ánh và đáp ứng được ý chí, nguyện vọng và những lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc.

Trong mối quan hệ với hệ thống chính trị, Đảng là một bộ phận của hệ thống chính trị nhưng lại là hạt nhân lãnh đạo của toàn bộ hệ thống chính trị.  Đảng có một hệ tư tưởng khoa học, cách mạng, một hệ thống vật chất bao gồm tổ chức bộ máy, các cán bộ đảng viên được vận hành một cách khoa học. Và cao hơn cả là thực tế những gì mà Đảng đã đem lại cho nhân dân, cho dân tộc trong suốt cả chiều dài lịch sử kể từ khi Đảng ra đời đến nay là một minh chứng rõ ràng, không thể chối cãi. Từ một dân tộc mất nước, lầm than, nô lệ, Đảng đã chèo lái con thuyền cách mạng đưa đất nước, đưa dân tộc đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác và để cho chúng ta có ngày hôm nay. Nhân dân ta tự nguyện thừa nhận sự lãnh đạo của Đảng ta rõ ràng không phải do sự áp đặt mà xét đến cùng là do tính tất yếu khách quan của cách mạng Việt Nam đã quy định sự cầm quyền của Đảng Cộng sản là một vấn đề mang tính quy luật và nguyên tắc, không có lực lượng chính trị nào thay thế được. Và đối với bản thân mình, Đảng cũng tự nhìn nhận vai trò và vị trí của mình một cách khách quan. Hồ Chí Minh, người sáng lập ra Đảng Cộng sản cho rằng:Sở dĩ Đảng có vinh dự giữ trọng trách to lớn đó là bởi mục đích của Đảng không có gì khác là “ lãnh đạo quần chúng lao khổ làm giai cấp tranh đấu để tiêu trừ tư bản đế quốc chủ nghĩa, làm cho thực hiện xã hội cộng sản” ( Hồ Chí Minh toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1995, tập 3, tr5). Vì vậy, “ Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng” ( HCM TT, tập 5, tr 249) và “ Đảng ta chỉ có một điều là phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, phục vụ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Ngoài ra, không còn có lợi ích nào khác”. Do đó Đảng được “dân tin, dân phục, dân yêu”.
Đảng cầm quyền là một vấn đề hết sức hệ trọng của cách mạng. Ở Việt Nam, do điều kiện lịch sử cụ thể, Đảng ta trở thành Đảng cầm quyền từ khi giai cấp công nhân giành được chính quyền tháng 8/1945. Do thù trong, giặc ngoài, Đảng ta phải tiếp tục lãnh đạo cuộc kháng chiến cứu nước. Cho đến năm 1954, khi hòa bình được lập lại trên miền Bắc, Đảng ta mới bắt đầu lãnh đạo cuộc cách mạng xây dựng CNXH ở miền Bắc song song với lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ và tay sai ở miền Nam. Khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất tháng 4/1975, Đảng mới bắt đầu lãnh đạo cách mạng XHCN trên phạm vi cả nước. Đặc điểm của ĐCS cầm quyền được thể hiện trong các nội dung sau:

1. Nhiệm vụ chính trị của Đảng đã thay đổi căn bản: Từ chưa có chính quyền đến có chính quyền là một bước ngoặt căn bản của cách mạng, là một bước phát triển mới về chất trong sứ mệnh LS của GCCN. Trước kia nh.vụ là lật đổ chế độ cũ, đập tan bộ máy nhà nước của g.c bóc lột, bây giờ là thiết lập nhà nước CM của dân, do dân, vì dân và XD XH mới bao hàm cả nh.vụ bảo vệ những thành quả CM đã đạt được. Theo cách nói của Lênin: khi đã có chính quyền thì CNXH khoa học từ lĩnh vực lý luận đã chuyển sang lĩnh vực thực tiễn; nh.vụ quản lý đã trở thành nh.vụ chủ yếu và trung tâm.

ĐCQ có nghĩa là phải chịu trách nhiệm trước LS về vận mệnh phát triển của dân tộc, về sự phát triển toàn diện của XH, về sự phồn vinh của đất nước, về tự do, ấm no hạnh phúc của ND. Nếu trước đây nh.vụ hàng đầu của Đảng ta là nh.vụ quân sự thì hiện nay là XD và phát triển KT. Tổ chức quản lý là 1 khoa học và là một nghệ thuật. Sự nghiệp XD 1 XH mới - XHCN - trên lý luận cũng như trong thực tiễn rõ ràng là khó khăn gian khổ.

2. Có nhà nước XHCN: N2 XHCN là công cụ chủ yếu mới, sắc bén, thông qua đó Đảng thực hiện sự l.đạo của mình đối với XH. N2 XHCN bản chất của nó là N2 của dân, do dân, vì dân. Trong hệ thống CT của CNXH, N2 giữ vị trí trung tâm và có vai trò cực kỳ q.trọng. Sự l.đạo của Đảng thể hiện tập trung ở N2, được thực hiện chủ yếu thông qua N2. N2 cũng là tổ chức thể hiện tập trung nhất quyền làm chủ của ND, là tổ chức thể hiện và thực hiện ý chí, lợi ích của ND, thực hiện q.lực của ND, nhân danh ND để quản lý XH.

Có c.q rồi, trừ những vấn đề thuần túy về nội bộ, còn tất cả đường lối, chủ trương,chính sách lớn của Đảng đều phải được thể chế hóa thành chủ trương,chính sách và PL của N2. Quyền l.đạo và uy tín của Đảng trước hết được thực hiện thông qua hoạt động của N2. N2 trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực là điều kiện đầu tiên để Đảng thực hiện có hiệu quả vai trò l.đạo của mình đối với XH. Sức mạnh của ĐCQ không phải chỉ là sức mạnh của bản thân mình mà phải là sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống CT, trong đó nòng cốt là N2 do Đảng l.đạo.

3. Phương thức l.đạo của Đảng thay đổi: Có chính quyền, nh.vụ trung tâm của Đảng là l.đạo công cuộc XD, trước hết trên lĩnh vực KT. Có c.q rồi, cuộc đấu tranh g.c vẫn tiếp tục nhưng bằng những hình thức, p.pháp và biện pháp khác. Lênin đã chỉ rõ: "Khi tình hình đã thay đổi và chúng ta phải giải quyết những nh.vụ thuộc loại khác, thì không nên nhìn lại đằng sau và sử dụng những p.pháp của ngày hôm qua." Khi nh.vụ XD CNXH trong thực tiễn được đặt ra, Lênin đã cảnh cáo những người cộng sản rằng: ai muốn dùng p.pháp cũ trong cuộc đấu tranh giành c.q để giải quyết những nh.vụ tổ chức của 1 ĐCQ thì người đó sẽ phá sản hoàn toàn với tính cách là nhà chính trị, là người XHCN.

Có c.q, đảng của GCCN phải biết loại trừ khỏi "cẩm nang" của mình những p.pháp, hình thức không còn phù hợp. Đồng thời, nh.vụ XD đòi hỏi phải sáng tạo nhiều p.pháp, hình thức mới ngày càng phong phú. Đó là những p.pháp, hình thức kết hợp giáo dục CT, tư tưởng với kích thích lợi ích vật chất; kết hợp hài hòa lợi ích lý luận, lợi ích tập thể và lợi ích toàn XH; kết hợp giáo dục với hành chính và cưỡng bức; kết hợp chặt chẽ công tác tư tưởng, công tác tổ chức và công tác KT.

ĐCQ cần đặc biệt chú trọng đến p.pháp lãnh đạo thông qua nhà nước, phát huy vai trò, hiệu quả của N2 trong việc thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng bằng các hình thức, biện pháp quản lý của N2. Đồng thời, Đảng phải thường xuyên coi trọng và phát huy vai trò của MTTQ và các đoàn thể ND trong việc từng bước thể chế hóa quyền làm chủ của ND theo phương châm: dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra.

4. Các căn bệnh quan liêu, tự mãn, chủ quan duy ý chí dễ có điều kiện phát triển trong một Đảng duy nhất cầm quyền: Đảng ta sinh ra và lớn lên từ một nước thuộc địa nửa phong kiến, kinh tế tiểu nông, lạc hậu, đội ngũ Đảng viên đa số xuất phát từ giai cấp nông dân. Những tàn dư, tư tưởng và thói quen cũ lạc hậu không dễ gì gột bỏ ngay được. Do đó, những căn bệnh nêu trên có điều kiện tiêm nhiễm, nhất là trong điều kiện 1 Đảng duy nhất cầm quyền. Do vậy, cuộc đấu tranh ngăn chặn và đẩy lùi nguy cơ này cùng với tệ tham nhũng có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và chế độ XHCN hiện nay.

5. Cơ cấu thành phần, trình độ, nhu cầu của đội ngũ đảng viên của Đảng đa dạng hơn và cao hơn trước. Đây là một thuận lợi lớn để Đảng thực hiện vai trò lãnh đạo toàn diện các mặt đời sống xã hội, nhất là lãnh đạo kinh tế, thực hiện các mục tiêu mà Đảng đề ra. Tuy nhiên,  trong cơ cấu đội ngũ cán bộ Đảng viên hiện tại vẫn đang tồn tại những bất hợp lý: Tuổi đời bình quân của Đảng viên cao dần, phân bố Đảng viên không đồng đều giữa các vùng miền, các tổ chức trong hệ thống chính trị, kinh tế, xã hội; đảng viên xuất thân từ giai cấp công nhân, đảng viên nữ, đảng viên trẻ còn ít. Cơ cấu này đặt ra cho Đảng nhiều vấn đề cần giải quyết, nhất là về công tác tổ chức, giáo dục, quản lý đội ngũ ĐV, sao cho tạo được một cơ cấu đồng bộ, hài hòa, tạo thành tổng hợp lực tối ưu của cả đội ngũ trên bình diện chung toàn Đảng, cả nước, ở từng địa phương và cơ sở.

Không phải ngẫu nhiên, trước hết khi nói về Đảng trong Di chúc, Hồ Chí Minh khẳng định Đảng ta là đảng cầm quyền. Điều đó, Người không chỉ khẳng định vị trí, vai trò to lớn của Đảng đối với Nhà nước và toàn xã hội Việt Nam, nhiệm vụ của Đảng rất vẻ vang nhưng rất nặng nề. Người còn muốn chúng ta thấu rõ, trong điều kiện Đảng cầm quyền, sự lãnh đạo của Đảng và công tác xây dựng Đảng sẽ có những thuận lợi và thách thức mới, nhất là các căn bệnh về quan liêu, tự mãn, chủ quan, duy ý chí, độc đoán chuyên quyền… có điều kiện phát triển trong đội ngũ cán bộ, đảng viên và ngay cả các cơ quan lãnh đạo của Đảng. Nếu không tích cực, chủ động khắc phục những căn bệnh đó, có thể dẫn đến nguy cơ làm cho Đảng sai lầm về đường lối, bao biện làm thay Nhà nước, "đảng trị" hoặc buông lỏng sự lãnh đạo. Những vấn đề đó không chỉ làm suy yếu Đảng mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến vai trò, chức năng, sức mạnh của Nhà nước và các tổ chức trong hệ thống chính trị, ảnh hưởng trực tiếp đến sự thành bại của cách mạng. Bốn mươi năm đã đi qua, nhưng những lời di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Di chúc còn nguyên giá trị và mang tính thời sự sâu sắc. Công cuộc xây dựng đất nước, kiến tạo chủ nghĩa xã hội đang đòi hỏi phải không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, xây dựng Đảng thực sự vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, ngang tầm với với vị thế cầm quyền và nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới. Quán triệt và thực hiện di huấn thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, để giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, chúng ta cần tiến hành đồng bộ các giải pháp về xây dựng Đảng và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, trọng tâm cần thực hiện một số nội dung chủ yếu sau:

1. Cần trung thành và vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tư tưởng HCM: Trước hết các cấp ủy Đảng, đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý, cán bộ lý luận phải nắm vững CN M-LN, TT HCM về bản chất cách mạng, khoa học và phương pháp luận một cách có hệ thống chứ không hời hợt, câu chữ, cắt xén dẫn đến sai lệch. Trong đó, cần đặc biệt chú trọng nâng cao chất lượng giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nắm vững phương pháp luận mác-xít, phương pháp tư duy Hồ Chí Minh, giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng. Trên cơ sở nắm vững CN MLN, TT HCM phải biết vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của từng địa phương, đơn vị, kiên quyết tránh giáo điều, rập khuôn dễ dẫn tới sai lầm, khuyết điểm. Từ thực tiễn cách mạng, cần tăng cường nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn làm cơ sở để hoạch định đường lối, chính sách của Đảng và để giải đáp những vấn đề mới mà thực tiễn đặt ra .

2.Tiếp tục cuộc đấu tranh không khoan nhượng với mọi thủ đoạn, luận điệu xuyên tạc, phủ nhận, hạ thấp CN MLN và TT HCM để bảo vệ CN MLN, TT HCM. Đấu tranh với tư tưởng làm việc bản thủ, giáo điều khi vận dụng lý luận vào thực tiễn.

3. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Đây chính là lý tưởng, mục tiêu, con đường mà Bác Hồ và Nhân dân ta đã lựa chọn. Bao nhiêu thế hệ cha anh ta đã hy sinh xương máu để bảo vệ mục tiêu này. Đặc biệt, mặt trái của nền KTTT, sự chống phá của các thế lực thù địch và sự tan rã của Liên Xô (cũ) cùng các nước XHCN ở Đông Âu là những thách thức mới khiến cho mỗi cán bộ, Đảng viên chúng ta cần phải khẳng định lại mục tiêu cao, lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH để phấn đấu thực hiện tốt luôn là điều hết sức cần thiết.

4.Thực hiện tốt các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt Đảng. Trước hết là nguyên tắc tập trung, dân chủ, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thường xuyên tự phê bình và phê bình, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng.

5.Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước, các tổ chức đoàn thể chính trị xã hội: Mỗi giai đoạn lịch sử nhất định, phương thức lãnh đạo của Đảng phải được điều chỉnh, thay đổi phù hợp với thực tế đòi hỏi của cuộc sống, hoàn cảnh và điều kiện cụ thể của nhiệm vụ cách mạng. Để xứng đáng với vị trí độc tôn cầm quyền, bên cạnh lãnh đạo bằng đường lối, quan điểm, nghị quyết, lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân; bằng công tác cán bộ và công tác kiểm tra..., Đảng cần luôn có những phương pháp, cách thức mới, sáng tạo, hiệu lực, hiệu quả. Cần thực hiện đồng bộ các giải pháp: nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ và năng lực lãnh đạo của Đảng; sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy của Đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị các cấp phù hợp yêu cầu của tình hình mới; Coi trọng việc đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ, năng lực của cán bộ, đảng viên có phẩm chất đạo đức tốt, có năng lực và phong cách làm việc dân chủ, khoa học; tập trung đổi mới phương thức lãnh đạo đối với Nhà nước chống bao biện, làm thay và buông lỏng sự lãnh đạo; lãnh đạo và tạo mọi điều kiện thuận lợi để mặt trận và các đoàn thể nhân dân xác định đúng mục tiêu, phương hướng hoạt động; phát huy tinh thần tự chủ, sáng tạo trong xây dựng, đổi mới tổ chức và hoạt động, thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã hội; nêu cao sự gương mẫu của tổ chức Đảng và của mỗi đảng viên, đặc biệt những đảng viên giữ trọng trách trong các cơ quan nhà nước và các tổ chức chính trị-xã hội.  

6.Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, tập trung vào các nội dung: Thực hiện các nghị quyết, chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước; chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ và quy chế làm việc; củng cố đoàn kết nội bộ, giáo dục, rèn luyện nâng cao phẩm chất, đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên.

7.Củng cố mối liên hệ mật thiết với nhân dân, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân,thực sự phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Sức mạnh của Đảng chính là từ nhân dân, do vậy đây cần cần được xem là vấn đề sống còn của Đảng. Để làm được điều này, cán bộ Đảng và nhà nước phải là hạt nhân của khối đại đoàn kết đó, phải có “tâm”, có “tầm”, có “trí”, phải nêu gương sáng về đức hy sinh “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”, cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư. Chỉ như thế Đảng mới xứng là “đạo đức”, là “văn minh” như kỳ vọng của Bác và sự tin yêu của nhân dân .

Cùng với việc thực hiện đồng bộ những giải pháp trên, một Đảng Cộng sản cầm quyền trong sạch, vững mạnh, lãnh đạo Nhà nước và xã hội theo đúng quy luật, đáp ứng đúng những đòi hỏi của thực tiễn, có tầm nhìn xa, trông rộng, có những quyết sách sáng suốt, kịp thời, có phong cách dân chủ, tôn trọng sự thật và dũng cảm tự phê phán để tự đổi mới, đi tiên phong trong đổi mới, với đội ngũ cán bộ, đảng viên gương mẫu, lời nói đi đôi với việc làm... đó là nhân tố quan trọng nhất, quyết định thành công của sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top