nội dung cơ bản TTHCM về ĐCSVN
Trình bày những nội dung cơ bản TTHCM về ĐCSVN? Vận dụng những nguyên tắc xây dựng Đảng của Người vào việc xd, chính đốn Đảng ta hiện nay.
TTHCM về Đảng cầm quyền là 1 nguồn tài sản vô giá cảu Đ ta và của cả dtộc ta, đã soi sáng và chỉ đạo Đ ta vượt qua muon vàn thử thách 80 năm qua, lãnh đạo CM VN giành đc nhiều thắng lợi có ý nghĩa lsử và thời đại. TTcủa Người về Đ tiếp tục là bó duốc soi đg cho Đ ta trưởng thành, phát huy đc thời cơ, khắc phục đc nguy cơ trong thời kì mới, để đưa nc ta phát triển vì mục tiêu dân giàu, nc mạnh, xh công bằng daan chủ văn minh.
I. Cơ sở hình thành TTHCM về ĐCSVN.
Từ năm 1858, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam , từng bước thiết lập chế độ thống trị tàn bạo, phản động của chủ nghĩa thực dân trên đất nước ta.
-Về chính trị, chúng trực tiếp nắm giữ các chức vụ chủ chốt trong bộ máy nhà nước, thi hành chính sách cai trị chuyên chế, biến giai cấp tư sản mại bản và địa chủ phong kiến thành tay sai đắc lực. Đồng thời chúng thực hiện chính sách đàn áp, khủng bố hết sức dã man, tàn bạo, làm cho nhân dân mất hết quyền độc lập, quyền tự do dân chủ.
-Về kinh tế, chúng thực hiện chính sách độc quyền, kìm hãm sự phát triển kinh tế độc lập của nước ta, vơ vét tài nguyên và bóc lột nặng nề, làm cho nhân dân ta, trước hết là công nhân và nông dân bị bần cùng hoá, nền kinh tế bị què quặt, lệ thuộc vào kinh tế Pháp.
- Về văn hoá-xã hội, chúng thực hành chính sách ngu dân, khuyến khích văn hoá nô dịch, vong bản, tự ti, sùng Pháp, kìm hãm nhân dân ta trong vòng tối tăm, dốt nát, lạc hậu.
Với chính sách khai thác thuộc địa triệt để của thực dân Pháp, xã hội Việt Nam có những biến đổi lớn, hai giai cấp mới ra đời: giai cấp công nhân và giai cấp tư sản. Từ chế độ phong kiến chuyển sang chế độ thuộc địa nửa phong kiến, xã hội Việt Nam xuất hiện hai mâu thuẫn cơ bản ngày càng gay gắt: mâu thuẫn giữa dân tộc ta với đế quốc Pháp xâm lược và mâu thuẫn giữa nhân dân ta, chủ yếu là nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến. Hai mâu thuẫn đó có quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó mâu thuẫn giữa dân tộc với đế quốc xâm lược là chủ yếu. Nhiệm vụ chống đế quốc Pháp xâm lược và nhiệm vụ chống phong kiến tay sai không tách rời nhau. Đấu tranh giành độc lập dân tộc và đấu tranh đòi quyền dân sinh dân chủ, đó là yêu cầu của cách mạng Việt Nam đặt ra.
Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược, nhân dân ta đã liên tiếp đứng lên chống lại chúng. Hàng trăm phong trào, cuộc khởi nghĩa oanh liệt dưới ngọn cờ của các sĩ phu và các nhà yêu nước đương thời, nhưng đều thất bại và bị thực dân Pháp đàn áp tàn bạo. Nguyên nhân cơ bản dẫn đến thất bại là thiếu một đường lối cứu nước đúng đắn.
Giữa lúc cách mạng Việt Nam đang chìm trong cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, Nguyễn Tất Thành (Hồ Chí Minh) rời Tổ quốc đi tìm đường cứu nước. Bước ngoặt lớn trong tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc diễn ra khi Người đọc toàn văn: Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địacủa Lênin.Người hiểu sâu sắc những vấn đề cơ bản của đường lối giải phóng dân tộc, đó là con đường cách mạng vô sản, giải phóng dân tộc gắn với giải phóng giai cấp, độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, giai cấp vô sản phải nắm lấy ngọn cờ giải phóng dân tộc, gắn cách mạng giải phóng dân tộc từng nước với phong trào cách mạng vô sản thế giới. Từ đây Người dứt khoát đi theo con đường cách mạng của Lênin. Nguyễn Ái Quốc là người Việt Nam đầu tiên tiếp thu sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tìm ra con đường đúng đắn giải phóng dân tộc Việt Nam .
Sự thành công của CMT10 dưới sự lãnh đạo của ĐCS Nga là cơ sở thực tiễn quan trọng nhất hình thành TTHCM về ĐCSVN. Đồng thưòi sự ra đời và gia nhập Quốc tế cộng sản của hàng loạt các ĐCS trên thế giới như ĐCS Inđônêxia 1921, ĐCS Trung Quốc 1921... cũng chứng tỏ có bước phát triển quan trọng, mạnh mẽ của CM thế giới sau sự ra đời của Qốc tế cộng sản.
Sau khi tìm ra con đường cứu nước đúng đắn, Nguyễn Ái Quốc tích cực chuẩn bị mọi mặt cho sự ra đời của một chính đảng vô sản ở VN.
Trở thành chiến sĩ cộng sản, N.A.Q đã tham gia hoạt động trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, tích cực vận động phong trào cách mạng thuộc địa, nghiên cứu và truyền bá CNMLN về Việt Nam . Tháng 12-1924, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu Trung Quốc trực tiếp chỉ đạo việc chuẩn bị mọi mặt cho sự ra đời và thành lập ĐCSVN. (thành lập Hội VN cách mạng Thanh niên (6/1925)và đào tạo cán bộ; Năm 1930, NAQ trực tiếp chủ trì Hội nghị hợp nhất thành lập Đ và soạn thảo cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đ)
CNMLN và những tài liệu tuyên truyền của N.A.Q được giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam đón nhận như "người đi đường đang khát mà có nước uống, đang đói mà có cơm ăn". Nó lôi cuốn những người yêu nước Việt Nam đi theo con đường cách mạng vô sản. Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhiều tầng lớp nhân dân phát triển mạnh mẽ, đòi hỏi phải có tổ chức đảng chính trị lãnh đạo.
# @
Chỉ trong một thời gian ngắn ở Việt Nam đã có ba tổ chức cộng sản được tuyên bố thành lập: Ở Bắc Kỳ có Đông Dương Cộng sản Đảng (6-1929).Ở Nam Kỳ có An Nam Cộng sản Đảng (7-1929). Ở Trung Kỳ có Đông Dương Cộng sản Liên đoàn (9-1929). Điều đó phản ánh xu thế tất yếu của cách mạng Việt Nam . Song, sự tồn tại của ba tổ chức cộng sản hoạt động biệt lập trong một quốc gia có nguy cơ dẫn đến chia rẽ lớn. Yêu cầu bức thiết của cách mạng là cần có một đảng thống nhất lãnh đạo. Nguyễn ÁiQuốc, người chién sĩ cách mạng lỗi lạc của dân tộc Việt Nam , người duy nhất có đủ năng lực và uy tín đáp ứng nhu cầu đó của lịch sử: thống nhất các tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản duy nhất ở Việt Nam .
Từ ngày 3 đến 7-2-1930, Hội nghi hợp nhất ba tổ chức cộng sản họp tại Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Hội nghị nhất trí thành lập đảng thống nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng, Điều lệ tóm tắt của các hội quần chúng.
Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam mang tầm vóc lịch sử như là một Đại hội thành lập Đảng. Đảng được thành lập là kết quả của cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc ở nước ta trong những năm đầu thế kỷ XX; là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước; là kết quả của quá trình lựa chọn, sàng lọc nghiêm khắc của lịch sử và là kết quả của quá trình chuẩn bị đầy đủ về chính trị, tư tưởng và tổ chức của một tập thể chiến sĩ cách mạng, đứng đầu là đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Đó là một mốc lớn đánh dấu bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam , chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước.
II. Những luận điểm cơ bản của TTHCM về ĐCSVN.
1. ĐCSVN là nhân tố quyết định hàng đầu đưa CM VN đến thắng lợi.
Khi tiếp cận bản Luận cương của Lênin, N.A.Q đã nhận thức đc rằng CM là sự nghiệp của quần chúng, những quần chúng phải đc giác ngộ, đc tổ chức, được lãnh đạo mới giành đc thắng lợi. Vì vậy, người khẳng định: “CM trước hết phải có Đ cách mệnh, để trong nc Đ vận động tập hợp, giác ngộquần chúng; bền ngoài Đ liên lạc với các dtộc bọ áp bức và g/c vô sản khắp mọi nơi. Đ có vững CM mới thành công”.
Đường lối cách mạng đúng đắn và sáng tạo của Đảng, đó là nhân tố hàng đầu bảo đảm vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Đảng lãnh đạo trước hết và chủ yếu bằng cương lĩnh, đường lối, bằng chủ trương, chính sách của Đảng. Đường lối chính trị đúng là cơ sở để đoàn kết thống nhất ý chí và hành động của toàn Đảng, toàn dân, tạo nên sức mạnh của Đảng và của cách mạng.
Đường lối chính trị đúng đắn nghĩa là đường lối đó phải phản ánh được xu thế vận động của lịch sử, đồng thời phù hợp với nguyện vọng và lợi ích chân chính của đa số nhân dân. Sức mạnh của Đảng chính là sự đồng tình ủng hộ của nhân dân, mà sự đồng tình và tin cậy của nhân dân đối với Đảng trước hết nhờ có đường lối đúng đắn của Đảng.
Đường lối cách mạng của Đảng có vai trò to lớn trong việc thống nhất về chính trị, tư tưởng và tổ chức, củng cố niềm tin vào Đảng, ngăn chặn và đẩy lùi những khuynh hướng sai lầm về chính trị và tư tưởng làm cho Đảng ngày càng vững mạnh.
Sở dĩ Đảng ta có đường lối chính trị đúng đắn vì: Đảng có một nền tảng lý luận vững chắc, một lý luận tiên phong dẫn đường, đó là chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh như Lênin đã nói: 'Không có lý luận cách mạng không có phong trào cách mạng...' Chỉ Đảng nào có được một lý luận tiên phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiên phong. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta đã nắm vững, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn của cách mạng Việt Nam để đề ra đường lối đúng đắn phù hợp với sự phát triển của lịch sử, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân. Hơn thế nữa, Đảng ta luôn quán triệt sâu sắc quan điểm cách mạng là sáng tạo, chân lý là cụ thể. Vì vậy, trong lãnh đạo Đảng ta luôn ý thức vận dụng một cách độc lập, sáng tạo vào thực tiễn Việt Nam . Một trong những bài học được Đảng ta rút ra là phải luôn luôn xuất phát từ thực tiễn, tôn trọng thực tế, kết hợp nhuần nhuyễn sự kiên định về nguyên tắc với sự linh hoạt, sáng tạo về phương pháp, đó là điều kiện đảm bảo sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng. Mọi sự giáo điều, chủ quan duy ý chí, xa rời thực tiễn cũng như xa rời các nguyên tắc, mục tiêu cơ bản của cách mạng thì sẽ dẫn đến nguy cơ sai lầm, làm mất sự lãnh đạo của Đảng.
2. ĐCSVN ra đời là sự kết hợp giữa 3 yếu tố: “CNM + Ptrào CN+ Ptrào yêu nước”.
Trong tác phẩm “Đường Cách Mệnh” HCM nêu: Để làm Cách Mệnh trước hết phải có cái gì? Người khẳng định: phải có Đảng Cách Mệnh để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với các dân tộc bị áp bức và vô sản mọi nơi, Đảng có vững thì cách mạng mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy.
Tác phẩm Đường cách mệnh đóng vai trò lý luận và tổ chức để chuẩn bị cho sự ra đời của ĐCS VN . Bằng tác phẩm này Người đã tập hợp, giáo dục, giác ngộ lý tưởng cộng sản cho những người yêu nước tiền bối VN.
Người về Trung Quốc cải tổ Tâm Tâm Xã thành Việt Nam Thanh niên CM Đồng chí hội, mở các lớp bồi dưỡng cán bộ đưa về nước hoạt động, 3 tổ chức CS VN ra đời ở 3 miền (Đông Dương CS Đảng, An Nam CS Đảng, Đông Dương CS Liên đoàn ra đời ). Ba tổ chức này không thống nhất về tư tưởng, tổ chức. Trước tình hình đó, đòi hỏi phải hợp nhất 3 Đảng thành một Đảng duy nhất. Được sự chỉ đạo của Quốc tế CS, từ Thái Lan Người về Trung Quốc tổ chức hội nghị hợp nhất các tổ chức Đãng ở Việt Nam và Đảng CS VN ra đời ngày 3-2-1930.
Như vậy quy luật ra đời của ĐCS VN có khác gì so với các ĐCS và Đảng của giai cấp công nhân khác?
Sau khi tiếp nhận và thấm nhuần chủ nghĩa Mác-Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã phấn đấu không mệt mỏi cho sự truyền bá và gắn nó với chủ nghĩa yêu nước truyền thống, làm cho chủ nghĩa yêu nước Việt Nam phát triển dưới ánh sáng những tư tưởng tiên tiến của thời đại. Thực tiễn ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam và thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng cho thấy, Nguyễn Ái Quốc đã làm hết mình cho chủ nghĩa yêu nước Việt Nam thống nhất với chủ nghĩa Mác-Lênin. Sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước, đưa đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự phát triển mới trong lý luận Mác-Lênin. Sự kiện lịch sử càng làm sáng tỏ hơn kết luận về sự thống nhất giữa chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa Mác-Lênin là cội nguồn của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam trong điều kiện lịch sử mới. Sự thống nhất đó vừa là nhân, vừa là quả về tính cách mạng triệt để và tính nhân văn sâu sắc. Một điều độc đáo là trong khi Đảng Cộng sản các nước ra đời do sự kết hợp của phong trào công nhân với chủ nghĩa Mác-Lênin, thì Đảng ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập trong hoàn cảnh rất đặc biệt của một dân tộc có truyền thống yêu nước phát triển mạnh mẽ, “là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước sôi nổi của nhân dân ta trong những năm 20 của thế kỷ XX”, một sáng tạo rất lớn của Hồ Chí Minh là Người đã vận dụng sáng tạo công thức của Lênin về sự ra đời của một đảng vô sản vào một nước nông nghiệp như nước ta. Người không chỉ truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công nhân mà đồng thời truyền bá vào phong trào yêu nước Việt Nam-một yếu tố phổ quát, trường tồn và có sức mạnh to lớn trong lịch sử phát triển của dân tộc. Như vậy, Người đã kết hợp một cách sinh động yếu tố dân tộc và giai cấp, tạo ra cơ sở xã hội-chính trị rộng lớn chuẩn bị cho sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam . Sáng tạo này của Hồ Chí Minh thực sự là bước phát triển có tính nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin về sự ra đời và phát triển không ngừng một đảng cách mạng của giai cấp vô sản.
Công thức thành lập Đảng của HCM bgồm: “CNM + Ptrào CN+ Ptrào yêu nước”. Trong 3 yếu tố đó HCM cho rằng, CNLMN là “cơ sở”, “nền tảng lý luận”, là “cái cẩm nang thần kỳ”, là yếu tố tự giác dẫn đường cho phong trào CN phát triển từ tự phát đến tự giác. Phong trào công nhân VN thế kỷ 20 là cái “cốt vật chất”, nếu thiếu cái cốt Vật chất đó thì CNMLN cũng không thể phát huy tác dụng được trên mảnh đất VN. Sự kết hợp này làm cho cả hai yếu tố trở nên vững chắc. Ngoài 2 yếu tố nêu trên, HCM còn nêu thêm cả phong trào yêu nước VN. Bởi vì:
- Phong trào yêu nước VN có từ lâu đời, đã thành truyền thống của dân tộc VN. Khi có giai cấp công nhân và phong trào công nhân thì phong trào yêu nước và phong trào công nhân kết hợp được với nhau ngay từ đầu, không bài xích nhau như một số nước. Sở dĩ như vậy vì cả hai phong trào này đều có mục tiêu chung là giải phóng dân tộc và xây dựng một nước VN hùng cường.
- Phong trào yêu nước ở Việt Nam chính là phong trào nông dân, vì ở VN nông dân chiếm trên 90 % dân số; giai cấp CN ra đời từ nông dân, 2 giai cấp này là bạn đồng minh tự nhiên của nhau trong cuộc cách mạng giải phóng và xây dựng đất nước.
- Ở Việt Nam phong trào yêu nước còn có phong trào của Trí thức và Tư Sản dân tộc, những phong trào này đều hướng vào mục tiêu đấu tranh cho độc lập, tự do của tổ quốc nên cũng kết hợp dễ dàng với phong trào công nhân. Thực tế, lịch sử đã chứng minh điều đó.
Như vậy quan điểm HCM về sự ra đời của ĐCS VN thể hiện sự phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mac-Le Nin về ĐCS vào thực tiễn VN, đáp ứng được yêu cầu phát triển của cách mạng, thể hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa vấn đề giai cấp với vấn đề dân tộc. Ở Việt Nam cơ sở giai cấp và xã hội của ĐCS không chỉ là giai cấp CN mà còn cả nông dân, trí thức, tiểu tư sản, cả dân tộc. Đảng không chỉ đại biểu cho lợi ích giai cấp công nhân mà còn đại biểu cho lợi ích cả nhân dân lao động và cả dân tộc. Ở VN, giai cấp công nhân đã thật sự trở thành giai cấp dân tộc, tự mình trở thành dân tộc theo CNMLN.
3. ĐCSVN là đẳng của g/c CN, của nhân dân lđ và của toàn thể dtộc VN.
Đảng ta là Đảng của giai cấp CN. Điều này được HCM khẳng định trong nhiều tác phẩm. Đồng thời Người cũng luôn khẳng định ĐCS VN là Đảng của giai cấp CN, của nhân dân, của dân tộc VN. Tại Đại hội 2, báo cáo chính trị HCM nêu rõ: “Trong giai đoạn hiện nay, quyền lợi của giai cấp CN-nhân dân lao động-dân tộc thống nhất là một. Chính vì Đảng CS VN là Đảng của giai cấp CN và nhân dân lao động nên nó phải là Đảng của dân tộc VN". Tuy cách thể hiện có khác nhau, nhưng ĐCS VN chỉ là Đảng của giai cấp CN. Khi Đảng mang những tên gọi khác nhau nhưng Đảng ta chỉ mang bản chất của giai cấp CN. Khi khẳng định Đảng ta là Đảng của nhân dân lao động và của dân tộc thì toàn bộ nguyên tắc tổ chức sinh hoạt, cơ sở lý luận của Đảng vẫn tuân thủ chặt chẽ học thuyết Mac-LêNin về Đảng kiểu mới của giai cấp CN. Người nhấn mạnh: Về lý luận Đảng theo chủ nghĩa Mac-Lê Nin, về nguyên tắc Đảng theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Đảng theo đường lối tự phê bình và phê bình, thi hành kỷ luật sắt nghiêm minh tự giác. Đảng kết nạp, huấn luyện đoàn viên mới…
HCM khẳng định: Tuy giai cấp CN VN số lượng ít so với dân số nhưng nó có đủ phẩm chất và năng lực lãnh đạo các giai tầng khác làm cách mạng để xóa bỏ chế độ cũ, xây dựng chế độ mới. Các giai tầng khác tuy đông đảo nhưng không đảm đương được vai trò lãnh đạo xã hội, mà chịu sự lãnh đạo của giai cấp CN trong cuộc cách mạng giải phóng mình.
Quan niệm ĐCS VN không chỉ của giai cấp CN mà còn của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam có ý nghĩa to lớn đối với CM VN. Trong Đảng ngoài thành phần giai cấp CN còn có các thành phần khác, nhưng tính chất giai cấp CN phải được tăng cường để bảo đảm sự thống nhất giữa yếu tố giai cấp và dân tộc. Sức mạnh của Đảng không chỉ bắt nguồn từ giai cấp CN mà còn từ các giai tầng khác, làm cho Đảng ngày càng lớn mạnh và nhân dân coi Đảng là Đảng của mình.
4. ĐCSVN phải được xd trên nền tảng của CNMLN để đề ra dường lối, định hướng trogn xd và phát triển đất nước.
CNMLN là học thuyết về giải phóng g/c CN, nd lđ, các dtộc bị áp bức và gphóng con ngườibị áp bức; đồng thời là học thuyết về sự phát triển xh lên 1 hình thái cao hơn, xoá bỏ hoàn toàn bất công, nguồn gốc đẻ ra sự bóc lột, áp bức.
Nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mac-Lê Nin. Trong tác phẩm Đường Cách Mệnh, HCM viết: Đảng muốn vững phải có Chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng không có chủ nghĩa như người không có trí khôn, tàu không có bản chỉ nam. CN Mac LêNin là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho hành động của Đảng ta.
Bác luôn lưu ý Đảng ta trong nhận thức và vận dụng CN Mac-Lê Nin là phải phù hợp với điều kiện từng lúc, từng nơi, từng đối tượng, phải chống giáo điều, chống xa rời các nguyên tắc cơ bản của học thuyết ấy. Đảng phải biết kế thừa những kinh nghiệm tốt của các Đảng bạn, khi giải quyết thành công những vấn đề mới thì phải tổng kết để bổ sung, làm phong phú chủ nghĩa Mac-Lê Nin. Đảng ta phải đấu tranh chống lại chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa xét lại, phải bảo vệ tính cách mạng, tính khoa học của chủ nghĩa Mác-LêNin.
5. ĐCSVN phải đc xd theo nguyên tắc Đ kiểu mới của g/c CN
- Tập trung dân chủ: Theo HCM tập trung và dân chủ là 2 mặt có qhệ gắn bó và thống nhất với nhau theo 1 nguyên tắc. Dân chủ là đi đến tập trùn, dân chủ là cơ sở của tập trung chứ ko phải theo kiểu phân tán tuỳ tiện vô tổ chức. Còn tập trung trên cơ sở dân chủ chứ ko phải quan liêu theo kiểu độc đoán chuyên quyền.
- Tập thể lãnh đạo là dân chủ, cá nhân phụ trách là tập trung. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách là tập trung dân chủ. Tại sao phải tập thể lãnh đạo? Vì một người dù khôn ngoan, tài giỏi mấy cũng không thể thấy hết mọi mặt của vấn đề. Vì thế cần phải có nhiều người, người thấy mặt này, người thấy mặt khác sẽ tránh được sai lầm.Vì sao phải có người phụ trách? việc gì bàn kỹ rồi phải giao cho 1 hoặc vài người chuyên trách, có chuyên trách công việc mới chạy. Nếu không sẽ sinh ra dựa dẫm, ỷ lại giống như kiểu là nhiều sãi nhưng không ai đóng cửa chùa.Thực hiện nguyên tắc này phải chống lại bệnh độc đoán, chuyên quyền, vi phạm dân chủ, dựa dẫm tập thể, không dám quyết đoán, không dám chịu trách nhiệm, hoặc bao biện, ôm đồm.
- Phê bình và tự phê bình: Đây là quy luật phát triển Đảng. Bởi vì Đảng ta cũng ở trong xã hội. Con người không phải thần thánh, ai cũng phải có khuyết điểm cả, nên phải tự phê bình và phê bình như rửa mặt hàng ngày làm cho phần tốt ngày càng nảy nở, phần xấu ngày càng ít đi. Một Đảng mà dấu khuyết điểm là một Đảng hỏng, có gan thừa nhận những khuyết điểm, tìm cách sửa chữa để tiến bộ sẽ là một Đảng chân chính. Thái độ tự phê bình và phê bình là phải chân thành, thẳng thắng, không nể nang, không giấu giếm, không thêm bớt, phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau
- Kỉ luật nghiêm minh và tự giác: Đây là nguyên tắc Đ kiểu mới do Lênin đề ra, Đ thực sự là 1 tổ chức chiến đấu chặt chẽ để giành thắng lợi cho sự nghiệp độc lập dtộc và CNXH. HCM coi trọng xd kỉ luật nghiêm minh và tự giác trogn Đ để tạo nên sức mạnh to lớn của Đ. Nghiêm minh là thuộc về tổ chức Đ, kỉ luật đvới mọi Đviên ko phân biệt. Mọi Đviên đều bình đẳng trước kỉ luật Đ.
- Đoàn kết thống nhất: Người nhấn mạnh: Đảng viên phải biết giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình. Đảng không thống nhất sẽ rơi vào bè phái, chia rẽ và tan rã. Muốn đoàn kết phải thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên tự phê bình và phê bình, tu dưỡng đạo đức, chống chủ nghĩa cá nhân.
6. ĐCSVN phải thường xuyên củng cố mqh giữa Đ và dân.
Sức mạnh của Đ là ở nơi dân, Đ lãnh đạo nhưng dân là chủ nên Đphải biết lắng nghe học hỏi thấu hiểu tâm tư nguyện vọng của dân, phải vận động nhân dân xây dựng Đ. Đ phải chăm lo nâng cao dân trí, không được theo đuôi quần chúng. Đ là người đầy tớ nhưng là người lãnh đạo người dân. Nếu có chức vụ thì đó là do sự uỷ thác của dân, cần phải làm tốt như người lính vâng mệnh quốc dân ra mặt trận.
7.ĐCSVN phải thường xuyên tự chỉnh đốn và đổi mớ, nâng cao năng lực lđạo đất nước ở từng thời kì.
Đ ta là đạo dức, là văn minh tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự và lương tâm của dtộc. Đ pahỉ thường xuyên đổi mới trong đk là Đảng cầm quyền. Trong việc chỉnh đốn Đ cần chú ý:
- Đ luôn vững mạnh về chtrị, tư tưởng và tổ chức, xứng đáng là người lãnh đạo của nd.
- Cán bộ, đảng viên phải toàn tâm toàn ý phục cụ nd, phục vụ Tổ quốc và phải có dức có tài.
- Chú ý khắc phục tiêu cực, luôn giữ gìn Đ trogn sạch, vững mạnh.
- Đ phải luôn vươn lên, để đáp ứng yêu cầu tình hình và nhiệm vụ mới.
Cách mạng tháng Tám: Với đường lối cách mạng, cứu nước đúng đắn, Đảng ta đã quy tụ đoàn kết xung quanh mình tất cả các giai cấp và tầng lớp yêu nước không phân biệt dân tộc, tôn giáo xây dựng nên lực lượng cách mạng to lớn và rộng khắp trong cả nước, đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược và bọn phong kiến tay sai. Qua 15 năm (1930-1945) lãnh đạo cách mạng, trải qua đấu tranh gian khổ, mặc dù gặp phải những tổn thất hy sinh to lớn nhưng Đảng vẫn giữ vững ý chí chiến đấu, kiên định cách mạng, trung thành với mục tiêu lý tưởng của mình.
Ba cao trào cách mạng lớn (1930-1931; 1936-1939; 1939-1945) là ba cuộc tổng diễn tập cách mạng chuẩn bị lực lượng, tạo cơ sở giành thắng lợi cho cuộc chiến đấu mới. Nắm chắc thời cơ lịch sử, với một nghệ thuật lãnh đạo và tổ chức khởi nghĩa tài tình, Đảng ta đã lãnh đạo cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công trọn vẹn. Chỉ trong một thời gian ngắn, nhân dân Việt Nam đã vùng lên đập tan xiềng xích nô lệ của chế độ thực dân, lật nhào chế độ phong kiến tay sai, giành chính quyền về tay nhân dân.
Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa- Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, đưa dân tộc ta bước sang một kỷ nguyên mới- kỷ nguyên độc lập, tự do tiến lên CNXH. Đánh giá ý nghĩa lịch sử của thắng lợi này, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: 'Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc'.
KL: ĐCSVN ra đời là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dtộc vàđấu tranh giai cấp ở VN trogn thời đại mới và là sp của sự kết hợp của CNMLN, ptroà công nhân và phtrào yêu nước đầu thế kỉ 20. Sự ra đời của Đ là bước ngoặt vĩ đại trogn lsử CM nước ta, nó chứng tỏ rằng g/c vô sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo CM. Đồng thời nó mở ra 1 kỉ nguyên mới trogn lsử CM nước ta-thời đại g/c đứng ở trung tâm, kết hựop các ptrào CM, là g/c quyết định nội dụng, phương hướng chtrị của XHVN. Với sự ra đời của ĐCSVN, CM VN dã có những ng lđạo đúng đắn sáng suốt. Điều đso tạo cơ sở cho những bước phát triển nhảy vọt của CM VN và mở đầu là thắng lợi của CMT8 năm 1945, thành lập nước VNDCCH.
@@@ VẬN DỤNG:
Ở nước ta, trong suốt 60 năm qua không phải chỉ có một Đảng Cộng sản là Đảng duy nhất có mặt trên chính trường Việt Nam . Trong năm đầu tiên của chính quyền cách mạng, từ tháng 9/1945 đến giữa năm 1946 đã có thêm 4 đảng phái khác tham gia chính quyền, trong đó có 2 đảng phái dân chủ là Đảng Dân chủ Việt Nam và Đảng Xã hội Việt Nam ủng hộ Đảng cộng sản và 2 đảng phản động là Việt Nam Quốc dân Đảng và Việt Nam Cách mạng đồng minh hội (gọi tắt và ''Việt Quốc'', ''Việt cách'') chống Đảng cộng sản. Từ giữa năm 1946 đến năm l988, ngoài Đảng Cộng sản lãnh đạo chính quyền chỉ còn 2 đảng phái dân chủ tiếp tục tham gia chính quyền - Đảng Dân chủ Việt Nam là đảng của giới công chức cũ và tư sản dân tộc và Đảng Xã hội Việt Nam là đảng của giới trí thức cũ đi theo cách mạng. Trong những năm tồn tại của mình cả hai Đảng này đều thừa nhận sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và đã góp phần quan trọng vào việc củng cố và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất, vào thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, kháng chiến chống ngoại xâm và bước đầu của cách mạng XHCN trên phạm vi cả nước. Từ tháng 11 năm 1988 đến nay, trên chính trường Việt Nam chỉ còn lại một đảng duy nhất là Đảng Cộng sản Việt Nam-Đảng cầm quyền.
Thực tiễn xây dựng ĐCS ở Việt Nam trong những năm đổi mới gần đây:
Ở Việt Nam , từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến nay ĐCSVN là đảng cầm quyền. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần khẳng định: "Đảng ta là đảng cầm quyền". Điều đó không phải tự nhiên mà có; đây là thành quả của bao nhiêu năm đấu tranh cách mạng của toàn đảng, toàn dân Việt Nam . Được thành lập năm 1930, phải 15 năm sau, trải qua biết bao hy sinh, thử thách, hàng loạt cán bộ, đảng viên, nhân dân, trong đó có rất nhiều lãnh tụ xuất sắc của Đảng hy sinh, ĐCSVN mới giành được chính quyền. Rồi tiếp sau đó, ròng rã suốt 30 năm kháng chiến gian khổ và anh dũng, Việt Nam mới giải phóng được toàn bộ đất nước và ĐCSVN trở thành đảng cầm quyền trong cả nước thống nhất, đưa đất nước đi lên CNXH. Những thành quả mà nhân dân đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng khiến cho nhân dân thấy rõ rằng, ở Việt Nam chỉ có ĐCSVN mới có khả năng lãnh đạo nhân dân xây dựng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc; lợi ích của nhân dân gắn liền với sự nghiệp của Đ; mục đích lý tưởng của Đ cũng là ước mơ, nguyện vọng của ndân. Ngày nay, với tư cách là đảng cầm quyền, ĐCSVN nhận rõ trách nhiệm của mình trước đất nước và dtộc để vạch ra đường lối x/dựng phát triển đất nước, trên cơ sở đó phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn hệ thống chính trị, của cả xhội, tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối đó; đồng thời xác định đúng nội dung và phương thức hoạt động của Đ, phát huy mặt thuận lợi, hạn chế mặt khó khăn, ngăn ngừa và khắc phục những nguy cơ của một đảng cầm quyền.
Như Chủ tịch Hồ Chí Minh nói, Đảng chẳng những phải lo những việc lớn như biến đổi nền kinh tế và văn hóa, mà còn lo đến cả những việc nhỏ như "tương cà, mắm muối" là những thứ cần thiết cho đời sống thường ngày của nhân dân. Khi đã trở thành đảng cầm quyền, Đảng càng có điều kiện đại biểu cho lợi ích của giai cấp mình là giai cấp công nhân đồng thời đại biểu cho lợi ích của toàn thể nhân dân lao động, trở thành đội tiên phong chính trị của cả dân tộc. Điều quan trọng quyết định là đảng phải luôn luôn giữ được bản chất cách mạng và khoa học của mình, không biến chất và có phương thức lãnh đạo đúng.
Từ thực tiễn đổi mới của Việt Nam trong gần 20 năm qua, có thể rút ra một kết luận quan trọng là: Trong quá trình tiến hành công cuộc đổi mới, phải luôn luôn kiên định vai trò lãnh đạo, vị thế cầm quyền của Đảng; đồng thời, làm tốt công tác xây dựng Đảng, thường xuyên đổi mới, chỉnh đốn Đảng. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc, là nhân tố bảo đảm cho công cuộc đổi mới thành công, đất nước phát triển theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội VI của Đảng (12-1986) khẳng định: "Phải xây dựng Đảng ngang tầm với nhiệm vụ chính trị của một đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa". Ngay sau Đại hội VI, với phương hướng "đổi mới tư duy, đổi mới tổ chức, đổi mới cán bộ, đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác", các cấp ủy và tổ chức đảng đã triển khai thực hiện sâu rộng nhiệm vụ xây dựng Đảng. Tính ra, từ năm 1987 đến nay, Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị các khóa đã ban hành 15 nghị quyết chuyên đề quan trọng về xây dựng Đảng, và đã chỉ đạo khá tập trung công tác này. Thực hiện Nghị quyết Đại hội VII, từ năm 1992 đến năm 1996 tiến hành tổng kết công tác xây dựng Đảng giai đoạn 1975-1995 trên các lĩnh vực chính trị, tư tưởng, tổ chức, cán bộ và phương thức lãnh đạo của Đảng, phục vụ thiết thực cho việc chỉ đạo công tác xây dựng Đảng. Mới đây, Hội nghị Trung ương 9 (khóa IX) trên cơ sở kiểm điểm nửa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội IX và căn cứ vào yêu cầu thực tiễn đã quyết định trong những năm tới phải chỉ đạo tập trung và quyết liệt hơn nữa công tác xây dựng Đảng nhằm tạo cho được sự chuyển biến sâu sắc hơn trên lĩnh vực này, từng bước đẩy lùi, khắc phục tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, nâng cao sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng, kiện toàn đội ngũ cán bộ, đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của công tác xây dựng Đảng trong thời kỳ đổi mới là phải phát huy truyền thống tốt đẹp, giữ vững bản chất cách mạng và khoa học của Đảng. Đây là vấn đề mà Đảng đặc biệt quan tâm. Nói truyền thống tốt đẹp, bản chất cách mạng và khoa học là nói truyền thống yêu nước, đấu tranh kiên cường bất khuất của dân tộc, ý chí kiên định, trí tuệ tiên phong, đạo đức vị tha và ý thức tổ chức chặt chẽ của giai cấp công nhân. Giữ vững và tăng cường bản chất gcấp công nhân có nghĩa là Đ phải kiên định quan điểm, lập trường của gcấp công nhân, tuyệt đối trung thành với lợi ích của gcấp công nhân, nhân dân lđ và của cả dtộc; phấn đấu vì mục tiêu độc lập dtộc và CNXH.
Đảng luôn luôn xác định phải lấy CNMLN và TTHCM làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động. Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân và dân tộc, lãnh đạo xây dựng và làm nòng cốt trong khối đại đoàn kết toàn dân; chống tư tưởng phường hội, cục bộ, bản vị, phân tán. Đảng kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính, kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc với việc tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại. Đảng phấn đấu hy sinh không chỉ vì lợi ích của giai cấp công nhân mà còn vì lợi ích của nhân dân và của cả dân tộc. Đảng chẳng những thường xuyên giữ vững và nâng cao bản chất giai cấp công nhân mà còn chú ý học tập, tiếp thu, phát triển tinh hoa và truyền thống dân tộc, giữ gìn và phát huy bản sắc Việt Nam . Chính truyền thống dân tộc đã nhân lên sức mạnh của Đảng.
Trước mỗi bước ngoặt và trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và trong nước, Đảng đã kịp thời chỉ đạo, làm tốt công tác tư tưởng chính trị, uốn nắn những nhận thức lệch lạc, phê phán những quan điểm và khuynh hướng không đúng, tạo sự nhất trí cao và sự vững vàng về tư tưởng trong Đảng và sự đồng thuận trong nhân dân.
Trong những năm đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam thường xuyên coi trọng việc xây dựng, củng cố Đảng về tổ chức, bảo đảm nội bộ luôn luôn đoàn kết thống nhất, có sức chiến đấu cao. Xây dựng, củng cố Đảng về tổ chức bao gồm nhiều việc, trong đó phải đặc biệt quan tâm thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ và chấn chỉnh hệ thống tổ chức của Đảng. Thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ là vấn đề trọng yếu bảo đảm cho Đảng thật sự chặt chẽ về tổ chức, đoàn kết thống nhất và có sức chiến đấu cao.
Những năm gần đây, Đảng đã nhấn mạnh việc thực hiện nghiêm túc chế độ tự phê bình và phê bình, chăm lo củng cố sự đoàn kết thống nhất trong Đảng trên cơ sở đường lối chính trị, nguyên tắc tổ chức và tình thương yêu đồng chí. Tập trung giải quyết tình trạng mất đoàn kết ở một số nơi. Kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng kèn cựa, địa vị, tranh giành ngôi thứ, lợi lộc, cũng như đầu óc cục bộ, bản vị là nguyên nhân quan trọng gây ra tình trạng mất đoàn kết.
Trong việc xây dựng, kiện toàn hệ thống tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị, Đảng luôn quán triệt tinh thần tích cực, khoa học, đồng bộ, bám sát yêu cầu nhiệm vụ chính trị. Trong hệ thống tổ chức của Đảng, tổ chức cơ sở đảng có vị trí rất quan trọng. Đảng Cộng sản Việt Nam chú trọng việc chấn chỉnh và cải tiến sinh hoạt đảng, bố trí đúng cán bộ cốt cán - những người thật sự có năng lực, giữ gìn phẩm chất đạo đức, được nhân dân tín nhiệm; đồng thời làm tốt công tác đảng viên, kể cả việc phát triển đảng viên mới đúng tiêu chuẩn, thật sự có chất lượng.
Trong nhiều nghị quyết của Ban Chấp hành TW, của Bộ Chính trị, đặc biệt là Nghị quyết TW 3 (khóa VIII) về Chiến lược cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH, ĐCSVN đã chỉ ra những phương hướng, nhiệm vụ công tác cán bộ trong điều kiện mới, nhấn mạnh phải đổi mới tư duy trong công tác cán bộ, làm tốt hơn nữa công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng cán bộ. Đồng thời đổi mới phương pháp tiến hành công tác cán bộ theo hướng thật sự dân chủ, tập thể, kết hợp với tập trung thống nhất theo một quy trình chặt chẽ. ĐCSVN đã đề ra các chính sách đoàn kết, tập hợp rộng rãi các loại cán bộ ở các thành phần kinh tế, đào tạo, vun trồng và trọng dụng nhân tài của đất nước, kể cả những người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Có chính sách thu hút nhân tài, tránh lãng phí chất xám. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ toàn diện cả về phẩm chất, trình độ, năng lực; cả cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý, các chuyên gia, các nhà doanh nghiệp, trước hết là cán bộ chủ chốt ở các cấp. Xử lý nghiêm minh những cán bộ vi phạm kỷ luật, pháp luật; thay thế kịp thời những người yếu kém, không hoàn thành nhiệm vụ. Phát huy tốt đội ngũ cán bộ hiện có; bồi dưỡng, đào tạo cán bộ theo yêu cầu mới; tạo nguồn cán bộ cho lâu dài. Hơn bảy mươi năm lãnh đạo nhân dân tiến hành cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn gắn bó chặt chẽ với nhân dân, được nhân dân cưu mang, che chở, giúp đỡ hết lòng. Và chính nhờ thế mà Đảng có đủ khả năng và sức mạnh lãnh đạo cách mạng vượt qua mọi khó khăn, chiến thắng mọi kẻ thù, dù đó là kẻ thù hung bạo nhất. Liên hệ mật thiết với nhân dân là một truyền thống tốt đẹp của Đảng, là bài học lớn của cách mạng Việt Nam .
Ngày nay, ĐCSVN có thêm điều kiện thuận lợi để mở rộng và tăng cường mối liên hệ với nhân dân. Đảng liên tục có những chủ trương và biện pháp tăng cường công tác quần chúng của Đảng, tích cực làm những gì có thể làm được để củng cố, tăng cường mối liên hệ máu thịt giữa Đảng và nhân dân. Các Nghị quyết Trung ương 5, Nghị quyết Trung ương 8 (khóa VI), Nghị quyết Trung ương 7 (khóa IX) và nhiều nghị quyết chuyên đề của Bộ Chính trị về công tác vận động quần chúng, xây dựng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội đã đề cập sâu sắc, toàn diện vấn đề này. Đặc biệt, Nghị quyết Đại hội IX của Đảng đã khẳng định xây dựng và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc để phát huy sức mạnh tổng hợp, thực hiện sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, coi đây là động lực chủ yếu để xây dựng và phát triển đất nước.
Xây dựng một đảng cách mạng chân chính là công việc không đơn giản, trái lại, cực kỳ phức tạp khó khăn, đặc biệt là trong điều kiện Đảng cầm quyền, phát triển kinh tế thị trường, mở cửa hiện nay. Đảng chẳng những phải đối phó với những âm mưu của các thế lực thù địch mà còn phải tự vượt qua những hạn chế của chính mình. Tuy nhiên, với những gì đã làm được trong hơn 70 năm qua, với những triển vọng tốt đẹp trong thời kỳ mới, được nhân dân tin cậy và ủng hộ, chúng ta có thể tin tưởng rằng Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ từng bước vươn lên hoàn thiện bản thân mình, đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp cách mạng và sự mong đợi của nhân dân, xứng đáng là Đảng Cộng sản Việt Nam - Đảng cầm quyền.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top