Chương V: Nguyễn Tùng Dương

Bạn đã bao giờ thức dậy và nhận ra rằng, những điều kỳ lạ nhất trong đời mình lại chính là điều bình thường đối với bạn.

Còn tôi, mỗi ngày đều bắt đầu như thế.

Từ hồi còn nhỏ, tôi đã biết mình không giống ai. Tôi thấy ma. Liệu có nên gọi thứ đó là "ma" không? Nó thoạt nghe... hơi kì quặc. Bạn thử tưởng tượng xem, khi bạn chết đi, rồi người ta sẽ trang điểm theo kiểu "người chết" cho bạn, rồi bạn chứng kiến cả quá trình đó, một quy trình phức tạp nhưng đầy kỹ năng, rồi những người bạn yêu thương sẽ vì bạn mà cúi đầu, sau này họ gọi bạn với cái tên mới, là "ma" ( hoặc vong ). Cái tên của bạn lúc còn sống -thứ vốn dĩ bạn rất cần, người ta cũng rất cần để biết về bạn- giờ đây chỉ là sự lựa chọn kèm theo, không nhất thiết phải biết, vì bạn đã có một danh xưng quá tuyệt vời, là "ma".

Lần đầu của tôi là khi nào nhỉ? Có lẽ là lúc tôi thấy một con ma lảng vảng trong khu vực ngủ của trường nội trú năm Mẫu giáo. Đó là một buổi chiều thiếu nắng. Thực ra, cũng không chắc nữa, tôi chỉ nhớ rằng màu đen ấy sẫm hơn bất cứ thứ gì và nó như che phủ tầm nhìn của tôi. Cái bóng ấy trông thật kỳ cục, không có tóc, có lẽ thứ đó bị hói, hoặc tệ hơn, phần đầu đã chẳng còn nguyên vẹn để nhìn rõ. Nó lơ lửng, không có chân, dường như còn chẳng có tay. Một hình hài chắp vá chẳng sao hiểu nỗi. Và chỉ bấy nhiêu thôi cũng đủ để bộ não này khắc ghi cuộc gặp gỡ định mệnh ấy rồi. Đó là lúc tôi nhận ra thế giới của mình không chỉ có người sống, cũng là khoảnh khắc tôi biết cuộc đời mình sẽ không bao giờ bình thường nữa.

Bạn định nghĩa thế nào là "ma"? Bạn có tin vào những thứ siêu hình không? Liệu chỉ số thích nghi của bạn là bao nhiêu để chấp nhận sự thật này? Tôi không bắt bạn mường tượng đến mức đó, nhưng sự thật luôn phũ phàng theo cách của riêng nó, đúng không nào? Ý tôi là... cái chết ấy.

Con người luôn e sợ khi nhắc về cái chết.

Chà, phải.

Nhưng trước hết, cho phép tôi tự giới thiệu vài điều về bản thân nhé.

Tôi tên Nguyễn Tùng Dương, là sinh viên năm ba ngành Quản trị khách sạn trường Đại học Kinh tế Quốc dân.

Mỗi sáng, tôi thức dậy trong căn phòng ở tầng trên cùng ngôi nhà mà bố tôi luôn tự hào gọi là "tổ ấm". Tôi hay ví von khu phố nơi tôi sống là phố ánh sáng bởi mỗi đêm nếu từ ban công nhìn xuống, cảnh vật hiện ra như một biển vàng. Từ đèn cửa sổ, đèn xe, đèn đường, đến đan xen sắc trắng của mấy bức tường khổng lồ, tất cả kiêu hãnh thắp sáng cả một vùng. Nhưng rồi, cái ánh sáng này khi nhìn lâu lại thấy rờn rợn, phô trương và giả tạo đến mức tưởng chừng như đang giễu cợt chính người ngắm chúng.

Tôi chưa bao giờ thực sự cảm thấy gần gũi hay gắn bó với nơi này. Thật đấy. Nó khiến tôi thấy lạc lõng, chơi vơi, và... khó mà hưởng thụ. Bố tôi lại khác. Đối với ông, việc sở hữu một ngôi nhà to lớn, lộng lẫy ở vị trí đắc địa như thế không phải là phô trương mà chỉ đơn giản là đúng chuẩn, và thành thật mà nói, ông không giỏi khiêm tốn cho lắm.

Bố tôi là kiểu người không bao giờ chấp nhận bất cứ điều gì ngoài sự hoàn hảo. Ông điều hành tập đoàn lâm nghiệp từ Bắc vào Nam và mong rằng một ngày nào đó, tôi -Dương, đứa con trai duy nhất của ông- sẽ nối nghiệp quản lý cái "vương quốc gỗ". Vấn đề là... tôi không chắc lắm về tương lai đó. Tôi đang học ngành của tôi, một sự lựa chọn mà tôi đã phải đấu tranh rất nhiều mới được ông chấp thuận. Ban đầu, ông muốn tôi học về quản lý kinh doanh để có thể sớm tham gia vào công ty gia đình. Nhưng tôi đã thuyết phục ông rằng ngành khách sạn có những kỹ năng quản lý mềm mại hơn, tinh tế hơn, phù hợp với thị trường hiện đại hơn - ít nhất thì đó là cách tôi đã bán được ý tưởng này đến ông chủ tập đoàn khó tính.

Thực ra, tôi cũng thích ngành học này ( đôi chút ). Nó không chỉ là việc quản lý tòa nhà đầy khách, mà là việc tạo ra trải nghiệm cho mọi người - thứ mà, dù nghe hơi nhọc, nhưng thực sự mang lại niềm vui nhất định. Tuy nhiên, áp lực từ cái mác "sinh ra ở vạch đích" vẫn luôn đè nặng trên vai, khiến mỗi khi nhìn thấy ánh mắt kỳ vọng của bố, tôi lại tự hỏi liệu mình có đang đi đúng hướng không. Và có lẽ trong mắt ông, tôi chỉ là đứa con trốn tránh trách nhiệm, hoặc không hẳn, hoặc hơn hẳn.

Thế giới của tôi khác với bạn, điều này thì rõ rồi. Nhưng cái khác biệt ấy không chỉ nằm ở những điều kỳ lạ mà tôi phải chấp nhận từ khi sinh ra - mà còn ở người đồng hành đặc biệt nhất của tôi: Nguyễn Tùng Ân.

Hay nói đúng hơn, là linh hồn của em trai tôi.

Thằng bé chưa bao giờ có cơ hội để thực sự sống. Nó rời khỏi thế giới này từ trước khi kịp biết rằng mình có một người anh song sinh. Nghe thật buồn, phải không? Nhưng với tôi, nó chưa bao giờ là một nỗi buồn. Ngược lại, em trai tôi là điều tuyệt vời nhất mà cuộc đời đã để lại sau những mất mát. Dù thằng bé và tôi là hai "phạm trù" khác nhau, nó vẫn luôn ở bên tôi, luôn như thế.

Nhưng bạn có thắc mắc không, tại sao nó không chịu đi đầu thai? Đó cũng từng là câu hỏi mà tôi hỏi suốt quãng thời gian trước.

Tôi tin có một sợi dây liên kết kỳ lạ giữa chúng tôi, một thứ mà tôi nghĩ chỉ những cặp song sinh mới hiểu được. Dù không có ký ức thực sự về cuộc sống, em tôi vẫn biết tôi tồn tại. Có lẽ chính sự gắn kết đó đã khiến thằng bé chọn ở lại. Nhưng đây không phải một sự lưu luyến buồn bã. Nó không ở lại vì sợ bị lãng quên, càng không phải vì một loại chấp niệm khó buông bỏ, mà vì nó tin rằng: Tôi cần nó. Chắc là, nó biết cuộc đời tôi sẽ đầy rẫy những điều bất ngờ và khó khăn, và bằng cách nào đó, nó chọn trở thành người đồng hành để bảo vệ và hướng dẫn tôi chăng?

Hoặc có lẽ, nó đơn giản không thể rời đi vì bản thân nó quá "đặc biệt".

Tôi muốn bạn hình dung rõ hai từ "đặc biệt". Hiểu nôm na, em trai tôi là vong nam nhưng lại quá ưu tú. Xét về khía cạnh Phật giáo, người ta cho rằng vong nam thường không mạnh như vong nữ vì phần dương nhiều ( mạnh ở đây là việc sở hữu khả năng mà lúc còn là con người vẫn chưa sử dụng được, dân gian gọi là phép thuật ấy ). Tôi không tài nào đưa ra lý do nào hợp lý hơn ngoài hai từ "đặc biệt".

Ma lực của em trai tôi rất khó hiểu và khó kiểm soát, được gọi là Ma thuật Khởi nguyên ( Source Magic ). Và bằng cách thần kỳ nào đó, loại phép thuật mà thằng bé sử dụng chỉ có thể dùng một lần; hầu như không thấy nó dùng lại được.

Theo như những gì quyển sách cổ có tên "The Codex of Æther" ghi chép:

Thời Kỳ Hỗn Mang. Vào thời điểm vũ trụ chỉ là một điểm đặc biệt, mọi thứ trong không gian đều là một khối hỗn hợp, một vật chất tối nguyên thủy. Trong thời kỳ này, Source Magic tồn tại như một dạng năng lượng nguyên thủy. Nó không có hình hài hay đặc tính cụ thể mà chỉ là một năng lượng vô hình, một phần của sự hỗn loạn.

Đến khi các hành tinh và sao bắt đầu hình thành, sự giãn nở của vũ trụ đã đưa những nguồn năng lượng này vào các không gian khác nhau, tách biệt và định hình lại dưới những hình thức mà chúng ta có thể hiểu được.

Source Magic xuất hiện từ khi vũ trụ hình thành, nó vẫn chưa thể được điều khiển hay khai thác bởi các sinh vật thông thường. Linh hồn, với bản chất là phần năng lượng thuần túy của sự sống, không thể tách rời khỏi Source Magic, vì nó cũng xuất phát từ cùng một nguồn năng lượng vô hình.

Những linh hồn ban đầu của các sinh vật có thể đã được hình thành từ Source Magic, và chúng chứa đựng trong mình những dấu vết của năng lượng tối. Những linh hồn này không chỉ tồn tại như một khối năng lượng mà còn có khả năng kết nối với các dòng năng lượng của vũ trụ.

Vậy tóm gọn lại, Ma thuật Khởi nguyên chính là những gì linh hồn có thể sử dụng được, còn người trần mắt thịt như chúng ta chỉ biết nép một bên rồi tán thưởng.

Nhưng nói đi vẫn phải nói lại, em tôi còn nhiều bí ẩn mà tôi chưa biết được. Tôi tôn trọng nó, và vì thế tôi không làm nó có cảm giác bị xâm phạm. Tôi tin, vào một ngày khi nó muốn, nó sẽ kể cho tôi về tất cả, tất cả những gì mà tôi không chạm tới được với tư cách con người.

Vì tôi không phải là tuýp mù quáng tin mọi thứ, không có nghĩa tôi ngốc nghếch đến mức phủ nhận những gì bản thân chưa hiểu. Có rất nhiều điều, cả tôi và thằng bé còn ngu muội trong việc lý giải lắm. Thế là chúng tôi cùng đưa ra một thỏa thuận, gọi là linh ước. Đó là dạng hợp đồng mà đôi bên cùng phải bỏ ra thứ gì đó để nhận lại lợi ích với những gì mình đã thỏa thuận. Đối với hai đứa tôi, thứ mất mát đó chính là một phần năng lực của bản thân.

Nhờ có linh ước này, chúng tôi mới có thể chung sống mà không làm xáo trộn cuộc sống nhau. Nhưng vì bản chất của linh ước là một dạng thỏa thuận dựa trên tính mất còn, mà cả hai đều chọn phần "mất", thế nên, về lý thuyết, đây là linh ước cưỡng chế, tức không thể duy trì.

Gia đình tôi không biết gì về chuyện này, kể cả việc em tôi chưa siêu thoát và đang lởn vởn khắp các góc phòng. Tôi muốn khuyên nhủ họ đừng tiêu nhiều tiền để mua vàng mã. Thứ mà họ cần quan ngại là tiền của tôi này, vì tôi phải bao nó suốt mười mấy năm qua. Thật lòng mà nói, tôi cũng không có ý định kể. Bố tôi thực tế lắm, là kiểu người không tin vào bất cứ thứ gì mà ông không thể cầm nắm, đong đếm hay tính toán ( ngoại trừ phong thủy ). Làm sao tôi có thể nói rằng: "Bố ơi, con thấy được ma!" khi ông còn chẳng hình dung nỗi giống loài ma đó có mang lại lợi ích gì cho ông hay không.

Đùa, tôi biết bố không phải người xấu, nhưng ông chắc chắn không phải kiểu người mà tôi muốn chia sẻ những chuyện kiểu này. Bố chỉ tin vào những gì giúp ông tiến xa hơn, và việc cố gắng thuyết phục ông về thế giới tâm linh chỉ khiến mọi thứ rối rắm thêm. Với ông, thấy ma chẳng có giá trị gì ngoài việc phá hỏng tinh thần. Mà tôi lại càng không muốn tự chuốc lấy bực bội hay thêm gánh nặng cho bản thân. Tôi chỉ muốn tiếp cận ông, dù chỉ một chút. Ngặt nỗi, tôi lại mù tịt về phong thủy, kiến thức về tài lộc gần như tròn vo, nên dù muốn cũng khó lòng.

Còn mẹ tôi thì khác hẳn. Bà là người Việt gốc Thái. Mẹ là mẫu người phụ nữ Á Đông, thanh lịch và tinh tế, luôn xuất hiện trong những bộ cánh tỉ mỉ đến từng chi tiết. Dường như những chuẩn mực ấy trong mắt bà còn quan trọng hơn cả.

Tôi hiếm khi nghe mẹ bàn tới chuyện công ty, bà cũng chẳng thúc giục tôi phải làm này làm kia mới là người thừa tự đứng đắn. Bà đứng ngoài vòng xoáy đó, lặng lẽ và kín đáo.

Tôi chưa từng nghe mẹ kể về quá khứ, cảm giác như bà đang che giấu một phần đời mình, những điều mà tôi ( hay ai khác ) không thể biết.

Nhà ngoại tôi ở tận miền Bắc Thái Lan. Mỗi năm, khi hè gần chạm ngõ, tôi lại cùng mẹ đáp chuyến bay tới Chiang Mai - nơi ông bà ngoại tôi sống. Đó là một miền đất mà chỉ cần nghe mẹ nhắc tên, tôi đã thấy lòng mình bồi hồi.

Tôi nhớ những chiều hè ngập nắng, khi mẹ nắm tay tôi cùng nhau ra bờ sông Ping, mà bà bảo dòng nước này luôn chảy cùng một hướng, là sợi chỉ nối liền giữa thế giới người sống và linh hồn. Ngồi bên mép sông, mẹ bảo tôi không được nghịch ngợm hay đùa giỡn, mặc cho cậu bé Dương vô tư ngày ấy vẫn bỏ ngoài tai và cứ chạy loạn quanh mấy gốc đinh lăng.

Có một lần, khi trời đã dần ngả màu hoàng hôn, ánh nắng cuối cùng dát lên dòng nước sắc vàng rực rỡ, mẹ lấy từ túi áo ra một đồng xu cổ đã xỉn màu. Tôi nghĩ bà đã cất nó rất lâu và gìn giữ thật sự kĩ lưỡng. Bà nắm tay tôi, đặt đồng xu vào, rồi bảo tôi nhắm mắt lại, và nghĩ đến điều mà tôi cầu nguyện cho đứa em trai. Đồng xu rơi vào lòng bàn tay, lạnh buốt như một mảnh của màn đêm chưa tràn về. Và khi mi mắt tôi khép xuống, tôi thấy mình trôi đi một cách lửng lơ. Tôi nghe tiếng bà cầu nguyện cùng, không còn là tiếng nói mà là một thứ thanh âm khẽ khàng. Những thanh âm không thể nhìn thấy, chỉ có thể cảm nhận qua ánh tà dương. Đồng xu trong tay bỗng nóng rực, biến thành ánh vàng, chảy qua kẽ tay, hòa vào dòng sông Ping. Cảm giác như lời nguyện cầu đang hóa thành từng vệt sáng, trườn theo con nước, trôi dạt đến đâu đó mà tôi không thể thấy, không thể đoán.

Lúc đó, tôi còn quá nhỏ để hiểu hết ý nghĩa của việc này. Tôi vô tư đến ngây dại. Và khi đủ lớn để biết về khái niệm sinh ly tử biệt, tôi nhận ra mẹ yêu em tôi đến nhường nào. Mẹ không nói thẳng về niềm tin của mình, cũng không bi thương ai oán mỗi lần đến ngày sinh nhật của tôi ( cũng là ngày giỗ của đứa em tôi ), nhưng từng cử chỉ nhỏ của bà luôn mang theo một vẻ tôn kính lặng thầm đó với những điều vô hình.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top