Chương V: Người cầm can gỗ mun

Trên đường phố Risa-Wanlat, trước hàng vào nhà số 8 là nhóm người gồm ông phó phòng Vơbe, ông chánh thanh tra Anxơmi, viên cai Madơru, ba viên thanh tra và viên cẩm trưởng đồn cảnh sát Nơi-Y. Madơru canh gác đường Madrit là phía Đông Luy phải đi tới. Anh bắt đầu ngạc nhiên vì từ lúc trao đổi dây nói đã nửa giờ rồi mà chưa thấy ông thầy đâu và anh cũng không biết viện lý do gì để trì hoãn việc bắt bớ.

Phó phòng Vơbe nói: "Đã đến lúc làm việc rồi - Chị người nhà ở cửa sổ vừa ra hiệu là tên kia đang mặc quận áo ».

Madơru có ý kiến: « Sao không để lúc nó ra thì tóm ? Nháy mắt là xong chứ gì !"

- Nhỡ nó chuồn bằng một lối khác mà ta không biết thì sao ? Ta phải cảnh giác với quân này. Ta cứ xông vào hang ổ mà bắt. Như thế chắc chắn hơn !

- Tuy nhiên...

- Anh làm sao thế. Madơru ? - Phó phòng Vơbe gọi riêng Madơru và hỏi - Anh không thấy những người của ta đều nôn nóng hay sao ? Họ sợ nó biến mất, nên tốt nhất là cứ để họ xông vào như bắt con thú dữ. Vả lại ta nên làm cho xong gọn trước khi ông quận trưởng tới.

- Ông quận trưởng sẽ đến à ?

Đến ! Ông ấy muốn đích thân chứng kiến. Vụ này làm ông ấy bận tâm đến tột đỉnh. Cho nên, nào ! Anh em sẵn sàng cả chứ ? Tiến lên ! Ta bấm chuông đây. này !

Tiếng chuông kêu vang. Chị người nhà chạy ra và hé mở cửa. Mặc dù đã có lệnh phải hết sức êm ả để khỏi đánh động địch thủ, nhưng do lo lắng và nôn nóng nên các cảnh binh ồn ào ùa vào sân, sẵn sàng cuộc chiến... Nhưng bỗng cửa sổ mở ra và có người kêu ở trên tầng gác hai: « có chuyện gì thế ? ».

Phó phòng Vơbe không trả lời. Hai cảnh binh, ông chánh thanh tra, viên cẩm và Vơbe tràn vào trong nhà. Còn hai người ở ngoài sân để không ai trốn thoát được.

Cuộc chạm trán xảy ra ở tầng gác một. Người kia đi xuống, quần áo đàng hoàng, đầu đội mũ. Phó phòng hét lên: «Đứng lại ! Cấm động đậy ! Có phải anh là Huybe-Lô-chiê không ?».

Người kia chững lại. Năm họng súng chĩa vào anh ta. Nhưng nét mặt không tỏ ra sợ hãi, anh ta bình tĩnh hỏi: «Thưa ông, ông cần gì ? Các ông đến đây làm gì ?

- Chúng tôi nhân danh pháp luật đến đây. Đây, lệnh bắt anh đây !

- Lệnh bắt tôi ?

- Bắt tên Huybe-Lôchiê, ngụ tại số 8 phố Risa- Wanlat.

- Thật là phi lý ! Không tưởng tượng nổi ! Thế là nghĩa lý gì ? Bắt vì lý do gì ?

Anh ta không chống đối gì khi người nắm tay, đưa vào một gian khá rộng, vẻn vẹn chỉ có 3 ghế rơm, một ghế tựa và một cái bàn trên là một đống sách lớn.

Phó phòng nói: Ở đây. Cấm động đậy ! Nếu động đậy thì đừng trách !

Anh ta bị nắm cổ áo nhưng không chống cự, mà có vẻ suy nghĩ, hình như đang tìm hiểu vì lý do bí mật nào mà anh bị bắt đột ngột như thế. Anh ta có bộ mặt thông minh, chòm râu đẹp óng ánh màu nâu hung, cặp mắt xanh lơ xám sau cặp kính đôi lúc tỏ ra cứng cỏi. Đỏi vai rộng, cổ to, tỏ ra có sức khỏe.

Madơru hỏi quận phó: «Trói hắn lại chứ ạ ?».

- Tí nữa. Ông quận trưởng đến kia. Tôi nghe thấy tiếng... Anh đã khám kỹ các túi ? Không có vũ khí chứ ?

- Thưa không.

- Không có chai, lọ ? Không có cái gì đáng nghi ?

- Thưa, không có gì cả.

Ông Đetmaliông vừa đến là quan sát ngay nét mặt người bị bắt, nói chuyện nhỏ với quận phó, và bắt tường thuật lại những việc đã tiến hành. Ông nói:

- Việc tiến hành tốt đấy ! Hai tên đồng bọn bị bắt. Bắt chúng phải mở miệng, và tất cả sẽ được sáng tỏ. Như vậy, là tên này không chống cự gì cả ?.

- Vâng. Thưa ông quận trưởng, nó không hề chống cự.

- Càng hay. Nhưng chúng ta vẫn phải coi chừng cẩn thận !

Người bị vây bắt vẫn không nói một lời và vẫn giữ vẻ mặt như suy nghĩ về những sự việc xảy ra chưa được giải thích. Nhưng khi biết người mới đến chính là ông quận trưởng thì anh ta ngẩng đầu lên và khi ông Đetmaliông hỏi: «Hẳn không cần phải nói rõ lý do vì sao anh bị bắt chứ ? », thì anh từ tốn trả lời: «Thưa ông quận trưởng ! xin ông tha lỗi cho tôi vì trái lại tôi vẫn mong muốn được giải thích rõ. Tôi không hiểu một chút gì về việc này. Có lẽ những thuộc hạ của ông đã phạm một sai lầm nghiêm trọng mà chỉ cần một lời của ông là đủ làm sáng tỏ. Lời đó... Tôi đề nghị, tôi khẩn thiết đề nghị..'.».

Ông quận trưởng nhún vai và nói: «Anh bị tình nghi đã tham gia vào vụ ám sát ông kỹ sư Fauvin và Etmông, con trai ông ta».

- Sao ? Hippôlit chết rồi ư ?

Anh ta nhắc lại, với giọng nói khàn đi và run run vì bị kích thích:

- Hippôlit chết ! Ông nói ai vậy ? Hippôlit chết thật ư ? Chết như thế nào ? Bị ám sát ? Và cả Etmông nữa ?».

Ông quận trưởng lại nhún vai: «Chỉ cái việc anh gọi ông Fauvin bằng tên riêng đủ chứng tỏ anh thân, với ông ấy. Và cho rằng anh không liên quan gì đến việc ám sát ông ấy, thì anh đọc báo hàng ngày từ 15 hôm nay tất nhiên cũng phải biết tin ấy chứ ?".

- Thưa ông quận trưởng, tôi không hề đọc báo hàng ngày bao giờ.

- Hừ ! Có nghĩa là anh..

- Ông không tin như vậy, nhưng thưa ông, tôi nói rất thành thực. Cuộc sống của tôi chỉ có làm việc. Tôi đặc biệt ham mê tìm tòi khoa học để viết một tài liệu đưa ra truyền bá, không chú ý, không tham gia một tí gì về công việc ngoài xã hội. Tôi giám thách bất kỳ người nào nói là đã thấy tôi đọc một tờ báo trong vòng bao nhiêu tháng trở lại đây cũng được. Cho nên tôi có quyền nói là hoàn toàn không biết gì về vụ ám sát Hippôlit Fauvin. Trước kia tôi có giao thiệp với ông ấy, nhưng đã từ lâu chúng tôi giận nhau.

- Giận nhau vì lý do gì ?

- Vì chuyện trong gia đình.

- Chuyện gia đình ! Hai người có họ với nhau à ?

- Vâng, ông Fauvin là anh họ tôi.

- Anh họ anh ? Ông Fauvin là anh họ anh ? Nhưng... Nào ! Hãy nói rõ thêm: ông Fauvin và vợ ông ấy là hai người con của hai chị em, bà Êlidabet Rutxen và bà Amăng Rutxen. Hai bà ấy được nuôi dưỡng cùng với một người em họ tên là Vichto.

- Vâng. Vichto-Xôvơvăng đi nước ngoài rồi lấy vợ và có hai con. Một người chết đã được 15 năm. Còn người nữa chính là tôi.

Ông Đetmaliông rùng mình. Rõ ràng là ông bị xúc động. Nếu người này nói đúng sự thật, nếu thực hắn là con trai của Vichto là người mà cơ quan an ninh chưa lập lại được hồ sơ nhân sự, thì bắt hắn vẫn cứ đúng, vì ông Fauvin và con trai đã chết, và bà Fauvin đã được dẫn chứng chắc chắn dính líu trong vụ ám sát, bị truất hết quyền. Vậy nay người mà ta bắt được, là người mặc nhiên thừa kế chính thức gia tài Cốtmô- Moocninhtôn. Nhưng hắn bị cái gì ám ảnh mà lại tự khai ra một điều tối nghiêm trọng như vậy ?

- Thưa ông quận trưởng -Madơru nói - Ta cần phải cảnh giác. Bây giờ nó bị bắt thì nó giả vờ như vậy, nhưng phải coi chừng lúc nó quật lại.

Phó phòng Vơbe mới chạy ra ngoài mấy phút, nay trở vào. Ông Đetmaliông hỏi: «sẵn sàng cả rồi chứ ?».

- Vâng, thưa quận trưởng ! Tôi đã cho xe tắc-xi đậu sát vào, bên cạnh xe hơi của ông.

- Các anh có bao nhiêu người tất cả ?

- Tám, vì mới được bổ sung hai cảnh binh từ sở cẩm đến.

- Đã khám xét kỹ trong nhà ?

- Vâng đã khám kỹ. Vả lại nhà hầu như trống rỗng, chỉ có mấy cái bàn ghế tối cần thiết, và một mớ giấy má.

- Được ! Bây giờ đem nó đi và tăng cường việc giám sát theo dõi.

Gattông-Xôvơrăng ngoan ngoãn đi theo quận phó và Madơru. Đến ngưỡng cửa anh ta quay lại: «Thưa ông quận trưởng ! ông đã cho khám xét rồi, vậy tôi thiết tha đềnghị ông giữ gìn cẩn thận những giấy má lộn xộn trên bàn, trong buồng tôi. Đó là những thành quả quí báu mà tôi đã tốn bao nhiêu đêm ngày. Ngoài ra...».

Anh ta ngập ngìrng, rõ vàng có vẻ lủng túng.

- Ngoài ra thì sao ?

- Dạ, thưa ông quân trưởng, để tôi xin nói... Có những...

Anh ta tìm những lời thích hợp để khỏi gây hậu quả xấu. Nhưng rồi đột nhiên, quả quyết nói: «Thưa ông quận trưởng ! Tôi có một gói thư từ mà tôi giữ gìn hơn tính mạng của tôi. Những thứ ấy nếu người ta hiểu theo một nghĩa bị xuyên tạc thì sẽ trở thành những vũ khí chống lại tôi... Cho nên... Cho nên trước hết những thư đó phải được bảo vệ... Rồi ông sẽ thấy... Đó là những tài liệu vô cùng quan trọng... Tôi xin giao cho ông và, thưa ông quận trưởng, chỉ giao cho ông thôi.

- Những thứ ấy để ở đâu ?

- Dạ, cất ở một chỗ cũng dễ tìm. Chỉ cần trèo lên gian buồng nhỏ, ở phía trên đầu tôi đây. Sẽ thấy bên phải cửa sổ có một cái đinh. Vâng, một cái đinh trông tưởng như vô ích, nhưng ấn vào nó thì nó sẽ điều khiển mở cho ta thấy chỗ cất giấu, ở bên ngoài, dưới một viên ngói đá đen sát mép máng.

Nói xong anh ta toan đi tiếp, vẫn có hai người kèm hai bên. Nhưng ông quận trưởng giữ họ lại:

- Khoan một chút ! Madơru ! Anh lên gian xép, làm theo lời hướng dẫn, lấy gói thư xuống đây.

Madơru tuân lệnh. Mấy phút sau anh trở xuống vì không làm cho bộ máy hoạt động đưọc.

Ông quận trưởng ra lệnh cho ông chánh thanh tra Anxơny cùng lên với Mađơru và dẫn người bị bắt lên theo để hướng dẫn cách mở chỗ giấu.

Ông ở lại gian phòng cùng với phó phòng Vơbe, chờ kết quả. Ông xem xét những đầu đề tên các cuốn sách chồng trên bàn. Đó là những cuốn sách dày về khoa học, trong đó có những tác phẩm về hóa học, hóa hữu cơ, mối liên quan giữa hóa và điện. Các sách đều có đầy chữ ghi chú bằng tay ở ngoài lề. Ông bắt đầu giở một cuốn ra xem thì bỗng nghe như có tiếng ồn ào. Ông chạy vội ra, nhưng chưa bước khỏi ngưỡng cửa thì nghe một tiếng nổ ở gầm cầu thang và tiếng kêu thét đau đớn. Ngay sau đó hai tiếng nổ tiếp theo. Rồi những tiếng kêu, tiếng vật lộn, rồi lại một tiếng nổ.

Nhanh nhẹn không ngờ đối với tầm vóc người như ông, ông quận trưởng nhảy bốn bậc một lần cầu thang có phó phòng Vơ-be theo sau. Qua tầng gác hai đến tầng gác ba, nhỏ hơn và chênh vênh hơn. Khi tới chỗ vòng cầu thang, một người loạng choạng trước mặt ông và ngã vào đôi cánh tay ông: đó là Madơru bị thương. Trên bậc cầu thang nằm xoài một người nữa, không cử động: ông chánh thanh tra Anxơny. Trên gác, giữa một khung cửa đi nhỏ, Gattông-Xôvơrăng đứng đó, dữ tợn, hung hãn, thẳng tay giương súng. Hắn bắn hú họa một phát thứ năm. Và khi nhìn thấy ông quận trưởng cảnh sát, hắn từ từ ngắm, rất chính xác, chĩa họng súng vào ông.

Ông quận trường kinh khủng nhìn họng súng chĩa vào mình, cảm thấy không sao thoát khỏi... Nhưng đúng ở giây phút rất chính xác ấy, một tiếng nổ ở phía sau ông vang lên, Xôvơrăng chưa kịp bắn thì súng đã rơi khỏi lay. Và ông quận trưởng nhìn thấy, như quỉ thần xuất hiện, con người vừa cứu ông thoát chết bước qua người viên chánh thanh tra, đẩy Madơru sát vào tường, và lao tới, theo sau là các cảnh binh. Ông nhận ra ngay người đó: chính là Đông Luy-Perenna. Đông Luy chạy vội vào trong gian xếp, nơi mà Xôvơrăng đã lăn vào. Nhưng anh chỉ còn kịp trông thấy hắn đứng trên thành cửa sổ của gác xép tầng ba, nhảy ra ngoài trời.

Ông quận trưởng vừa chạy tới, thấy thế, kêu lên: «Nó nhảy từ đây xuống à ? Thế thì khi ta tóm được nó, nó đã chết quách mất rồi !».

- Nó có chết đâu ? Thưa ông quận trưởng. Ông xem nó đang đứng dậy kia kìa ! Quân này chứ như có phép lạ !.. Nó chạy về phía vào... Nó chỉ hơi khập khiễng.

- Những thuộc hạ của tôi đâu cả ?

-Hơ ! Họ đều chạy vào nhà, đứng ở cầu thang, vì họ nghe trong này có tiếng nổ. Họ đang cấp cứu những người bị thương...,

Ông quận trưởng lầm bầm: «chà, thằng quỉ ! Nó hoàn toàn chủ động trong nước cờ !».

Đúng thế thật !. Gallông-Xôvơrăng chạy trốn mà không bị ai cản trở.

Ông Đetmaliông hét: «Bắt lấy nó ! Bắt lấy nó !". Dọc mép hè phố, chỗ này rất rộng, có hai ô-tô đỗ. Một xe của ông quận trưởng, một xe do phó phòng Vơbe mới điều đến để chuyển tù nhân. Hai anh lái xe ngồi trong xe, không biết gì về chuyện đã xảy ra. Nhưng họ trông thấy Gattông-X ôvơrăng nhảy từ trên gác ba xuống. Thấy thế, anh lái xe của ông quận trưởng vội vớ lấy can gỗ mun trong đống tang vật để trong xe, và chạy tới phía trước kẻ đang chạy trốn.

Ông quận trưởng lại hét: « Bắt lấy nó ! Bắt lấy nó !»

Hai địch thủ chạm trán ngay ở cửa sân. Việc diễn biến nhanh. Xôvơrăng nhảy vào anh lái xe, giằng lấy cái can, nhảy lùi một bước, quật cái can vào mặt đối thủ. Rồi tay vẫn nắm chắc cái can, hắn chạy trốn. Ba cảnh binh vừa ở trong nhà chạy ra, cùng với anh lái xe ở kia, ùa đuổi theo. Tên kia chạy trước độ 30 bước. Một cảnh binh bắn mấy phát nhưng không trúng.

Khi ông quận trưởng cùng với quận phó Vơbe đi trở xuống thì thấy ở tầng gác hai, trong buồng của Gattông-Xôvơrăng, viên chánh viên thanh tra nằm trên giường, mặt tái nhợt bị bắn trúng đầu, ông ta đang hấp hối. Một lát sau thì chết hẳn.

Cai Madơru chỉ bị thương nhẹ. Trong khi người ta băng bó cho anh, anh thuật lại là Xôvơrăng đã dẫn anh và ông chánh thanh tra lên tới gian gác xép. Hắn thọc tay nhanh vào một cái túi da treo trên tường trước cửa đi, rút ra một khẩu súng ngắn và nổ luôn vào ông chánh thanh tra. Ông ngã quay xuống sàn. Bị Madơru nắm chặt tay, tên sát nhân vùng ra, bắn ba phát, một phát trúng vào vai viên cai.

Như vậy là trong trận giáp lá cà, một bên là lực lượng cảnh sát có đủ người giỏi, trang bị tốt, đã bị bên kia là một kẻ thù đơn độc, dùng mưu trí và dũng cảm phi thường, gạt được hai đối thủ ra ngoài vòng chiến đấu, nhử được các đối thủ khác vào trong nhà mở con dường tự do, biến mất !

Ông Đetmaliông tái người vì tức giận và thất vọng. Ông kêu lên: «Nó đã đưa chúng ta vào tròng ! Những bức thư, chỗ cất giấu, cái đinh thổ tả... Toàn chuyện lừa gạt ! A ! quân kẻ cướp ».

Ông xuống tầng dưới nhà, đi qua sân. Trên đường phố ông gặp một trong số cảnh binh đi săn lùng tên sát nhân về, mệt bở hơi tai. Ông lo lắng, hỏi: "Thế nào ?"

- Thưa ông quận trưởng, nó chạy quặt sang phố bên cạnh... Ở đó có một ô tô chờ sẵn... Hẳn là xe đã mồi sẵn nên nó biến rất nhanh, bỏ xa chúng tôi.

- Thế xe của tôi ?

- Thưa ông quận trưởng ! Vâng, nhưng xin ông lượng xét ! Thời gian nổ được máy cho xe chạy...

- Cái xe kia là một xe thuê ?

- Vâng. Một xe tắc-xi...

- Thế thì sẽ tìm ra. Bản thân người lái xe sẽ đến trình chúng ta khi đọc tin tức ở các báo chí...

Vơbe nhún vai: «Vâng, nếu tên lái xe không phải là đồng bọn với tên kia. Mà dù có tìm ra cái xe kia, thì một đối thủ như thằng Xêvơrăng dễ nó không biết tìm cách tạo ra vết tích giả để đánh lạc hướng ! Vụ này khó khăn gay go đối với chúng ta đấy, thưa ông quận trưởng".

Đông Luy, từ nãy vẫn im lặng trước cuộc thảo luận và vẫn đứng riêng với Madơru, lúc này mới lên tiếng: «Vâng, khó khăn gay go đấy ! Nhất là khi ta để xổng mất những tên mà chúng ta nắm được. Này, Madơru, có đúng như tôi đã nói với anh tối hôm qua không ? Nhưng thực ra tên kẻ cướp này cũng gớm thật ! Mà không phải nó chỉ có một mình, Alếchdăng nhé ! Ta bảo đảm là nó còn có nhiều tên đồng lõa, mà chúng không xa nhà ta ở đâu ! Anh nghe không ? Ở ngay trong nhà ta đó !».

Sau khi hỏi Madơru về thái độ của Xôvơrăng và về tình tiết của việc bắt bớ, Đông Luy trở về khách sạn quảng trường cung điện Buốc-Bông.

Trong cuộc điều tra mà anh phải tiến hành có những sự kiện thật là kì lạ. Ván cờ mà Gattông - Xôvơrăng đang chơi trong việc đeo đuổi cái gia tài Cốtmô - Moocninhtôn đã đáng làm cho anh phải chú ý. Lại đến thái độ hành động của cô Lơvatxơ cũng làm anh lo lắng không kém. Anh không thể quên tiếng kêu khiếp sợ của cô ta trong khi anh nói chuyện điện thoại với Madơru. Anh cũng không thể nào quên nét mặt khủng khiếp sợ hãi của cô ta. Rõ ràng tiếng kêu ấy và nét mặt ấy là do câu anh trả lời Madơru: «Sao ? Anh nói sao ? Bà Fauvin định tự sát à ?». Rõ ràng giữa câu hỏi ấy và thái độ đặc biệt của cô ta có liên quan chặt chẽ với nhau, không cần phải tìm hiểu gì nữa mới kết luận được.

Anh vào thẳng văn phòng và xem xét ngay cái lỗ hổng ở tường mở sang buồng điện thoại. Lỗ hổng này hình vòm, rộng độ 2 mét, rất thấp và chỉ che bằng một tấm nhung. Tấm này thường vén lên, để hở lỗ hổng. Dưới tấm nhung trong những đường gờ phía đáy lỗ hổng, Đông Luy thấy một nút bấm. Chỉ cần ấn nút đó là hạ xuống, nâng lên tấm màn sắt đã sập xuống sát anh cách đây hai tiếng đồng hồ. Anh thử đi thử lại ba bốn lần và thấy rất rõ là bộ máy rất hoàn hảo, nếu không có người ấn nút thì tấm màn không khi nào tự nhiên sập xuống. Vậy liệu anh có thể kết luận được rằng người phụ nữ cố ý muốn giết anh không ? Nhưng vì lý do gì ?

Anh đã toan bấm chuông gọi cô ta đến để chất vấn, yêu cầu giải thích. Nhưng anh kìm lại. Nhìn qua cửa sổ anh thấy cô ta đi qua sân. Cô có dáng đi thanh thản, nhịp nhàng, hài hòa. Ánh nắng làm mái tóc của cô óng ánh vàng.

Cho đến hết buổi sáng anh nằm trên đi văng, hút xì gà... Anh khó chịu, tự không bằng lòng với mình và bực tức vì những sự kiện đã tiếp diễn, không một sự kiện nào đem lại chút ánh sáng cho sự thật; trái lại làm tối mò thêm cái màn đêm tối mà anh đang lần quần ở trong. Rất ham hành động nhưng cứ hành động thì lại gặp những trở ngại thêm, không có điểm nào giúp cho anh nắm được tông tích những đối thủ đã gây ra những trở ngại đó.

Nhưng đến trưa, anh vừa báo dọn bữa ăn, thì người quản lý khách sạn vào văn phòng anh, tay bưng khay, và hối hả nói với anh bằng một dáng điệu chứng tỏ mọi người trong khách sạn đều biết anh đang ở trong tình thế khó xử:

«Thưa ông, ông quận trưởng đến».

Perenna thảng thốt: «Hử ? Ông ấy ở đâu ?»

- Thưa ông, ông ấy ở dưới nhà. Lúc đầu tôi không biết... Tôi định báo cô Lơvatxơ. Nhưng...

- Chắc chắn là ông ta ư ?

- Vâng. Có danh thiếp đây thưa ông.

Đông Luy cầm danh thiếp, đọc: « GUYT-TA-VƠ ĐETMALI ÔNG ».

Anh đến bên cửa sổ, mở cửa và nhìn vào tấm gương nghiêng: trên quảng trường cung điện Buốc bông, nửa tá người đang đi đi lại lại. Anh nhận ra đó là những người canh gác thường xuyên, những người mà anh đã «tống khứ » đêm hôm qua, nay trở lại nhận phiên gác. Anh tự nhủ: «có ngần ấy người thôi ư ? Thế thì chả có gì đáng sợ. Hẳn ông quận trưởng cũng phải có ý nghĩ tốt đối với mình, nhất là mình lại vừa mới cứu ông ấy thoát chết».

Ông Đetmaliông vào, không nói một lời nào, ông chỉ hơi nghiêng đầu, coi như một dấu hiệu chào. Vơbe đi theo ông thì không cần giấu bộ mặt ác cảm vốn có đối với Perenna... Đông Luy cố làm như không nhận thấy điều đó và cũng cố ý chỉ đẩy ra một cái ghế tựa. Nhưng ông Đetmaliông đi đi lại lại trong phòng, tay chắp sau lưng như đang đeo đuổi một ý nghĩ trước khi bắt đầu ngỏ lời.

Im lặng kéo dài. Đông Luy bình tĩnh chờ. Đột nhiên ông quận trưởng đứng lại và hỏi: «Khi ông rời phố Risa-Wanlat ông có về thẳng ngay nhà không, thưa ông ?

Đông Luy chấp nhận kiểu nói chuyện bằng cách thẩm vấn như thế và đáp:

- Tôi về thẳng nhà, thưa ông quận trưởng !

- Về thẳng phòng làm việc này.

Ông Đetmaliông ngừng một chút và nói tiếp: «Tôi đi sau ông độ 30 hay 40 phút. Ô tô đưa tôi về quận. Tại quận tôi nhận được bức thư sau đây, mà ông có thể xem. Ông sẽ nhận thấy là thư đã được đưa tới nơi vào lúc 9 giờ rưỡi".

Đông Luy cầm lá thư chữ viết toàn bằng chữ họa đọc như sau:

"Xin báo ông rõ là Gattông - Xôvơrăng sau khi chạy trốn, đã gặp lại tên đồng lõa là Perenna mà ông đã biết chính là Acxen-Luypanh. AcxenLuypanh đã cho ông biết chỗ ở của Xôvơrăng để ông khử nó đi. Như vậy Acxen-Luypanh sẽ thừa hưởng gia tài Moocninhtôn. Nhưng sáng hôm nay chúng đã làm lành với nhau. Acxen-Luypanh tạo cho Xôvơrăng một nơi ẩn trốn rất chắc chắn. Bằng chứng của việc chúng gặp nhau và đồng lõa với nhau cũng dễ có. Để giao ước, Xôvơrăng đã giao Acxen-Luypanh một đoạn can gỗ mun. Ông sẽ thấy đoạn can đó để dưới gối trên cái đi văng kê giữa hai cửa sổ phòng làm việc của Perenna.

Đông Luy nhún vai. Lời lẽ trong thư thật là mơ hồ vì không lúc nào anh rời khỏi làm việc. Anh bình thản gấp lá thư, trả lại ông quận trưởng, không có ý kiến gì. Anh muốn để ông Đetmaliông chủ động trong cuộc nói chuyện.

Ông Đetmaliông hỏi: «Ông nghĩ thế nào về lời tố giác này ?».

- Tôi không nghĩ thế nào cả, thưa ông quận trưởng.

-Tuy nhiên lời trong thư rất rõ ràng và cũng dễ kiểm tra.

- Vâng, thưa ông rất dễ. Kia ! Ở giữa hai cửa sổ là cái đi văng.

Ông Đetmaliông yên lặng mấy giây, rồi ông đến đi văng, lật các gối lên. Dưới một cái gối, đoạn can gỗ mun hiện ra.

Đông Luy không giấu nổi một cử chỉ kinh ngạc và giận dữ. Anh không hề ngờ tới khả năng kỳ quặc như vậy. Anh hoàn toàn bị hẫng. Nhưng anh tự kềm chế và nghĩ: «Chưa có cái gì chứng tỏ đoạn can này đúng là thuộc cái can trong tay Xôvơrăng".

Như để trả lời ý nghĩ của anh, ông Đetmaliông nói: « Tôi có đoạn can kia ở đây. Tên Xôvơrăng đã bỏ lại, và chính ông Vơbe đã nhặt được trên đường Risa-Wanlat».

Ông rút đoạn can ở túi trong áo khoác ra, và đối chiếu. Hai chỗ gãy rất khớp với nhau.

Lại một lúc im lặng. Perenna bối rối. Làn này anh lại cũng bị thất bại nhục nhã. Anh không hiểu nổi sao chỉ trong vòng 20 phút mà Xôvơrăng lại có thể tới ngôi nhà này, vào phòng này được ? Chỉ có giả thiết có một tên đồng lõa ngay tại ngôi nhà này thì còn có thể giải thích được hiện tượng. Anh nghĩ: Sự kiện làm đảo lộn mọi dự kiến của ta. Ta phải tìm mọi cách đi ra được. Ta đã thoát khỏi sự tố cáo của bà Fauvin về viên ngọc thạch mờ. Nhưng liệu lần này ông Đetmaliông có tin rằng đây cũng là một mưu đồ tương tự của Xôvơrăng, làm cho ta bị tình nghi, bị bắt, để bó tay ta không ?

Ông quận trưởng sốt ruột kêu lên: - Thế nào ? ông trả lời đi chứ ! Ông tự bào chữa đi chứ !

- Thưa ông quận trưởng, tôi không tự bào chữa.

Ông quận trưởng giậm chân, la lên: «Như thế... như thế là ông đã nhận... Thế thì...».

Ông nắm nắm đấm cánh cửa sổ, sắp định mở, chỉ cần một tiếng còi, các cảnh binh sẽ ùa vào, việc sẽ dứt điểm.

Đông Luy hỏi: «Có cần cho gọi các viên thanh tra của ông không ?».

Ông Đetmaliông không nói gì, tay buông quả đấm cửa sổ, lại đi đi lại lại trong phòng. Đông Luy đang tìm hiểu vì sao mà ông rất lưỡng lự như vậy, thì đột nhiên ông đứng lại trước mặt Đông Luy và nói: "Nếu tôi coi sự việc đoạn can gỗ mun là phi lí, hay nói đúng hơn, tôi coi đó là mưu mô của một tên người nhà đã phản bội ông. Nếu tôi đánh giá những công việc mà ông đã giúp đỡ chúng tôi là đáng kể... Tóm lại, nếu tôi để cho ông được tự do ?".

Perenna không giữ được nụ cười. Tuy xảy ra sự kiện cái can gỗ mun, tuy mọi tình huống đều quy tội vào anh, mọi việc đang biến diễn xấu đối với anh nhưng nay lại trở lại theo hướng như anh đã dự kiến trước, như anh đã nói với Madơru trong buổi đang điều tra ở phố Xuyt-sê người ta phải cần đến anh. Anh hỏi:

- Tự do ? Nghĩa là không ai canh gác, không ai bám sát tôi nữa ạ ?

- Không ai.

- Nếu báo chí vẫn cứ tiếp tục chiến dịch đả kích tôi, phao lên tin này, chuyện nọ, lợi dụng những trùng hợp ngẫu nhiên, làm dấy lên dư luận đòi hỏi có những biện pháp đối với tôi ?

- Những biện pháp đó sẽ không được thực hiện.

- Tôi không còn gì đáng lo ngại nữa ?

- Không !

- Ông Vơbe sẽ không giữ mối ác cảm với tôi nữa ?

- Ông ấy sẽ hành động coi như không có ác cảm ... Phải không, ông Vơbe ?.

Phó phòng Vơbe hừ hừ mấy tiếng, coi như có nghĩa là bất đắc dĩ phải chấp nhận.

Đông Luy lớn liếng trả lời: "Nếu thế thì, thưa ông quận trưởng ! Tôi đảm bảo sẽ mang lại thắng lợi, thắng lợi cần thiết theo đúng yêu cầu của luật pháp».

Thế là tình hình biến chuyển quay ngoắt. Sau một loạt sư kiện và tình huống đặc biệt, bản thân lực lượng cảnh sát phục tài kì diệu của Đông Luy Pereann, đánh giá cao kết quả những việc mà Đông Luy đã làm và biết trước những thắng lợi mà Đông Luy sẽ đem về trong công việc tương lai, đã quyết định ủng hộ anh, yêu cầu sự hỗ trợ của anh và có thể nói là đã trao cho anh quyền điều hành mọi công việc.

Cách giải quyết của ông quận trưởng thật là thú vị ! Thái độ của ông phải chăng chỉ là riêng đối với Đông Luy Perenna ? Còn Luypanh đáng gờm, Luypanh vô địch có quyền được đòi hỏi gì không ? Ai biết được rằng ông Đetmaliông trong thâm tâm không hay có phân biệt lai lịch của hai nhân vật ?

Thái độ bên ngoài của ông quận trưởng không hề lộ ý nghĩ thầm kín của ông. Ông ký với Đông Luy Perenna một kiểu hiệp ước mà luật pháp thường phải dùng để đạt được mục đích. Hiệp ước thế là đã ký kết, không sợ có lật lại vấn đề.

Ông Đetmaliông hỏi: «Ông có cần hỏi tôi vấn đề gì nữa không ?»Anh lầm bầm: «Chà ! Mấy anh cảnh binh phải gió vẫn còn kia ! Hai tuần lễ rồi ! Ta chán ngấy cái việc canh gác theo dõi này rồi !".

Anh bực dọc, bắt đầu xem các giấy tờ mới đến. Cái nào chỉ là việc riêng bản thân anh thì xé bỏ. Và ghi các điểm cần thiết của những đơn từ yêu cầu sự giúp đỡ của anh, hoặc yêu cầu anh cho gặp.

Xem xong, anh bấm chuông: "Yêu cầu cô Lơvatxơ đem các báo chí cho tôi».

Trước đây cô Lơvatxơ làm nhiệm vụ đọc giấy tờ và làm thư ký cho ông bá tước người Rumani. Còn bây giờ đối với Perenna, cô đã quen với nhiệm vụ đọc anh nghe trong tất cả các báo hằng ngày, những tin tức liên quan đến Perenna, và mỗi buổi sáng, báo cáo với anh thật chính xác những tin tức về bà FAUVIN.

Cô thường mặc áo dài đen, cắt may đẹp và rất đúng thời trang. Perenna thấy có cảm tình với cô. Cô có dáng vẻ đàng hoàng, tự tôn. Nét mặt nghiêm trang trầm tư, cô sẽ trở thành quá nghiêm nghị nếu không có những làn lóc xoăn vàng hoe, xòa xuống, bao lấy khuôn mặt, thành một vòng tươi sáng vui vẻ. Tiếng nói của cô êm như điệu nhạc và dịu dàng, khiến anh rất thích nghe. Tuy nhiên anh hơi ngài ngại thấy cô Lơvatxơ có vẻ giữ kẻ với anh. Anh tự hỏi không biết cô ta nghĩ gì về anh, về cuộc sống của anh. Về những tin tức trên các báo chí nói đến cái quá khứ bí mật của anh.

«Có gì mới không ?». Anh vừa hỏi vừa lướt qua những đầu đề của các bài báo: «Chủ nghĩa Bôn-sêvich tại Hunggari; thái độ huênh hoang của Đức".

Cô đọc anh nghe những tin tức về bà Fauvin, và anh thấy về mặt này không có tiến triển gì mới. Mari-An Fauvin vẫn không thay đổi thái độ, vẫn khóc lóc phẫn uất và tỏ vẻ hoàn toàn không biết gì đến những sự việc, những câu hỏi mà người ta nêu ra.

Anh lẩm bẩm: «Thật là ngu và phi lý ! Mình chưa hề thấy ai chống đỡ một cách vụng về đến thế !»

- Nhưng nếu bà ta vô tội thật thì sao ?

Đây là lần đầu tiên cô Lơvatxơ ngỏ lời góp ý, hay đúng hơn, là cô nhận xét về vụ này. Đông Luy rất ngạc nhiên, nhìn cô: «Thế ra cô thấy bà ta vô tội sao ? Thưa cô ?»

Hình như cô sẵn sàng trả lời và giải thích lời cô nói. Thái độ thản nhiên hình như biến mất. Nét mặt như linh hoạt hẳn lên, như có cảm giác gì thúc đẩy... Nhưng như có một sức mạnh nội tâm ghìm lại, cô chỉ nói khe khẽ: «Dạ ! Tôi không biết... Tôi không có ý kiến gì».

- Có lẽ... -Anh vừa nói vừa nhìn cô, thăm dò - Có lẽ cô có một tia nghi ngờ... Tia nghi ngờ có thể được chấp nhận, nếu như không có vết răng in của bà Fauvin. Những vết răng ấy, cô thấy không ? Còn giá trị hơn là một chữ ký nhận tội, chừng nào bà ta còn chưa giải thích được một cách thỏa đáng...»

Nhưng Mari-An-Fauvin không giải thích một chút gì về vết răng cũng như về các vấn đề khác, bà ta vẫn kín như bưng. Ngoài ra cảnh sát cũng không tìm ra được người tòng phạm nào, và cũng không tìm ra cái người cầm can gỗ mun, đeo kính đồi mồi mà anh bồi bàn tiệm cà phê Tân-Kiều đã mô tả với Madơru, và là người rất đáng khả nghi. Tóm lại chưa có tia ánh sáng nào hé ra từ màn đêm tối. Đồng thời người ta cũng cố tìm kiếm mà chưa thấy anh chàng Vich-to, em họ của các bà Rut-xen, là người, nếu không có người trực hệ dòng họ Rut-xen, thì sẽ được thừa hưởng gia tài Cốtmô - Moocninhtôn.

- Chưa ! - cô Lơvatxơ đáp - Trong tờ «Tiếng vang" có một bài...

- Bài liên quan đến tôi ?

- Tôi nghĩ có lẽ có liên quan. Đầu đề bài là: «Sao chưa bắt người này ?».

- Tin đó liên quan đến tôi ư - Anh vừa cười vừa hỏi - Anh cầm tờ báo và đọc:

«Tại sao chưa bắt người này ? Tại sao cứ để tồn tại một tình trạng bất bình thường, phi lô gích, làm cho những người ngay thật phải sợ hãi ? Đấy là một câu hỏi mà bất kỳ ai cũng phải đặt ra, và chỉ cần những điều tra thu lượm được của chúng tôi là đủ để trả lời đúng.

Một năm sau cái chết giả tạo của Acxen - Luypanh, pháp luật đã phát hiện, hay coi như phát hiện, là Acxen - Luypanh không phải ai khác, mà chính là người có tên thật là Ph'lôrani, sinh ở B'loa. và đã mất tích. Vì vậy tòa án đã ghi vào cuốn sổ hộ tịch trên trang của Ph'lôrani, những dòng như sau «CHẾT" kèm theo mấy chữ «VỚI TÊN LÀ ACXEN- LUYPANH».

Cho nên bây giờ muốn làm cho Acxen - Luypanh «sống» lại, thì ngoài việc phải có bằng chứng không chối cãi được, là Acxen-Luypanh «đang sống» - một việc không phải không làm được - còn cần phải huy động nhiều bộ máy phức tạp nhất của Nhà nước, và phải có một sắc lệnh của Hội Đồng chính phủ.

Nhưng hình như ông Valăngg Lây, chủ tịch Hội Đồng, đã thống nhất với ông quận trưởng cảnh sát, cùng phản đối việc điều tra quá tỉ mỉ này, vì sợ sẽ gây tai tiếng bất lợi làm cho những thượng cấp có thẩm quyền phải lo ngại. "Làm sống lại Acxen - Luy-panh ? Lại phải chiến đấu chống với con người gian xảo ấy ! Để đi đến thất bại và lố bịch ! Không không ! Ngàn lần không ! Vì thế mới xảy ra cái vụ tày trời này, vụ không ai chịu nổi, không ai tưởng tượng nổi, ầm ĩ tai tiếng ! Để cho Acxen-Luypanh, tên ăn trộm không ngớt tái phạm, tên trùm kẻ cướp, tên trùm chiếm đoạt và xỏ xiên, cho cái tên Acxen-Luypanh ấy bây giờ thao túng hành động, không cần giấu diếm bí mật, mà công khai trước tai trước mắt mọi người, tiến hành một vụ việc gớm ghiếc nhất từ trước đến nay, ở một khách sạn đàng hoàng, với một cái tên giả mạo mà nó làm cho không ai nhận ra được, khử không thương tiếc bốn nhân mạng gây trở ngại cho nó, tạo những bằng chứng dối trá nhất để tống một phụ nữ vào nhà tù, để cuối cùng, mặc dù có những lờiphản ứng chính đáng, cùng với bọn đồng lõa bỉ ổi ăn sống nuốt tươi cái gia tài 200 triệu của Cốtmô-Moocninhtôn.

Đấy ! Toàn bộ sự thật ghê tởm của vụ này là như thế, và đã bị lột trần. Mong rằng sự thật phơi bày này sẽ có tác động đến cách thức làm ăn của những cơ quan hữu trách."

- Ít nhất nó cũng tác động đến nhân phẩm của con người ngu ngốc đã cầm bút viết bài này - Đông Luy cười mỉa và nói.

Anh cho cô Lơvatxơ lui ra và anh gọi dây nói đến thiếu tá Đattrinhắc:

- Thưa thiếu tá ! Ngài đã đọc bài đăng ở báo Tiếng Vang ?

- Có, tôi đã đọc !

- Ngài thấy có nên dùng vũ khí để sửa cho thằng cha viết bài đó một trận không ?

- Ồ ! Một cuộc đấu kiếm ?

- Phải thế, thưa thiếu tá ! Bọn chúng cứ quấy rối tôi bằng cái giọng văn bả mía của chúng. Cần phải bịt miệng chúng lại ! Để làm gương cho những bọn xấu khác !

- Theo tôi, nếu anh kiên quyết..

- Vâng, rất kiên quyết, thưa thiếu tá !

Việc trao đổi về cuộc đấu kiếm được tiến hành ngay.

Ông chủ nhiệm tờ Tiếng vang cho biết là bài đó đánh máy, gởi đến, không ký tên và đăng lên báo không qua ông kiểm duyệt. Tuy nhiên ông hoàn toàn chịu trách nhiệm về việc này, và nhận cuộc đấu kiếm.

Ba giờ chiều hôm ấy Đông Luy Perenna ra khỏi khách sạn quảng trường cung điện Buốc bông bằng ôtô. Cùng ngồi trong xe có thiếu tá Đattrinhắc, một sĩ quan nữa và một bác sĩ. Sau xe anh là một xe đầy cảnh binh của sở an ninh, đi giám sát theo dõi anh. Mọi người đến công viên «Hoàng tử». Trong khi chờ đợi địch thủ đến, thiếu tá Đattrinhắc kéo riêng Đông Luy ra một chỗ và nói: "Tôi không yêu cầu gì. Bài báo có điểm gì sai đúng đối với anh, tên thực anh là gì. Tôi không cần biết. Đối với tôi, anh là anh lính lê dương Perenna. Thế là đủ. Trong quá khứ anh đã sống ở Ma rốc. Còn trong tương lai thì tôi biết, dù việc xảy ra thế nào đi chăng nữa, thì mục đích chính của anh vẫn là phải trả thù bằng được cho Cốtmô-Moocninh tôn và bảo vệ những người thừa hưởng tài sản của ông ta. Nhưng chỉ có một điều làm tôi băn khoăn !..

- Xin thiếu tá cứ nói !

- Anh phảỉ lấy danh dự hứa với tôi là đừng giết chết người kia.

- Liệt giường hai tháng, thưa thiếu tá, như thế được chưa ?

- Hai tháng nhiều quá, 15 ngày thôi.

- Tôi xin hứa !

Hai đấu thủ vào cuộc. Sang hiệp hai, ông chủ nhà báo «Tiếng vang" bị một nhát vào ngực, ngã xuống.

Thiếu tá Đattrinhăc làu bàu: "Thật là quá quắt, Perenna ! Anh đã hứa với tôi...

- Thưa thiếu tá ! Tôi vẫn giữ đúng lời hứa !

Trong khi ấy các bác sĩ khám xét vết thương. Một lát sau một người tuyên bố: "Không sao ! Chỉ cần nghỉ ngơi nhiều nhất là ba tuần lễ. Nếu chỉ sâu thêm một centimet nữa thì... hết !

Perenna lầm bầm: «Thì tôi đã dành lại đúng một centimét" !

Vẫn với xe cảnh binh đi kèm, Đông Luy quay trở về cửa ô Xanh Giecmanh. Nhưng về tới đây, xảy ra một sự kiện làm anh lo ngại và có ấn tượng khá kỳ lạ đối với bài đăng ở báo "Tiếng Vang».

Trong sân khách sạn anh thấy hai con chó nhỏ của người đánh xe ngựa, thường chúng vẫn ở đằng chuồng ngựa, bây giờ đang đùa nghịch ở đây với một cuộn dây màu đỏ. Dây lằng nhằng quấn vào khắp chỗ ở bậc thềm, ở các chậu hoa. Cuối cùng dây tuột hết còn lại cái lõi giấy, đúng lúc Đông Luy đi qua. Vô tình, anh thấy có chữ viết trên mảnh giấy gấp làm lõi, Anh nhặt lên, mở ra xem. Anh rùng mình: Ngay những dòng đầu anh đã nhận ra đó là bài đã đăng ở báo «Tiếng vang». Anh đọc tiếp, trọn vẹn cả bài đó, viết bằng bút mực, giấy kẻ ô vuông, dập xóa, có câu ghi thêm, rồi xóa, rồi viết lại.

Anh gọi người đánh xe ngựa và hỏi: «Tờ giấy gấp làm lõi cuộn dây này anh lấy ở đâu ra ?"

- Dạ, thưa ông... Ở đằng sau nhà, có lẽ... Tôi quấn dây,.. Rồi con chó Miếc-da lôi nó ra đây.

- Anh quấn cuộn dây này vào lúc nào ?

- Dạ tối hôm qua.

- À ! Tối hôm qua ? Nhưng anh lấy tờ giấy ở chỗ nào ? Nó từ đâu tới ?

- Dạ thưa ông, tôi không rõ lắm. Lúc đó tôi cần một cái gì đó làm lõi quấn dây, tôi lấy tờ giấy này trong cái thùng rác tạm ở phía sau nhà. Thường đêm khuya thì có người đến lấy rác đi.

Đông Luy tiếp tục xét hỏi. Anh, và anh nhờ cả cô Lơrvatxơ hỏi những gia nhân khác. Nhưng không rút ra được điều gì hơn. Tuy nhiên có một điều chẳc chắn là: bài đăng trên báo "Tiếng vang" đã do một người viết - tờ giấy kia là bằng chứng cụ thể - và người đó ở trong ngôi nhà này, hoặc có quan hệ với một người nào trong nhà này. Kẻ thù ở ngay tại chỗ. Nhưng kẻ thù là ai ? Hắn muốn gì ? Chỉ đơn giản muốn Perenna bị bắt thôi ư ? Suốt cả buổi chiều Đông Luy suy nghĩ về sự bí mật đang bao quanh anh. Rất bực bội vì sự bất lực của mình, nhất là vì lời dọa dẫm bắt anh. Việc bắt anh thì tất nhiên anh chẳng coi ra cái gì. Nhưng lối dọa dẫm đó làm trở ngại mọi hoạt động của anh.

Trong tình trạng bực bội nôn nóng như vậy, khoảng 10 giờ đêm anh được người nhà báo có một người xưng tên là Alếchdăng muốn được gặp anh. Người vào đúng là Madơru nhưng cải trang, mặc một áo choàng mà người bình thường khó nhận ra. Đông Luy nhảy bổ vào Madơru, vừa đẩy, vừa lắc: «A ! Cuối cùng, anh phải đến đây thật hả ? Ta đã bảo mà ! Ở quận không làm được trò trống gì nên phái anh đến tìm ta, phải không ? Nói thật đi, thằng đại ngốc ! Phải, phải ! Anh đến tìm ta... Con mụ ấy cũng buồn cười thật đấy ! ... Ta biết các anh không dại gì mà bắt ta, và tất nhiên ông quận trưởng cảnh sát cũng biết cách làm dịu cái hăng hái bốc đồng của thằng cha Vơbe đáng ghét, ừ ! Ai lại bắt một người đang rất cần dùng ! Nói đại đi ! Trời, ơi ! Sao anh cứ như thằng dở hơi thế ? Trả lời đi ! Công việc của các anh tới đâu rồi ? Nói nhanh lên ! Ta giải quyết 5 phút là xong. Chỉ cần nói 20 tiếng về cuộc điều tra của các anh, là ta dùng dao phẫu thuật mổ xẻ cho các anh thấy vấn đề ngay ! Nào ! Đồng hồ trong tay ta đây ! Hai phút ! Nói đi !».

Madơru cuống lên, lắp bắp: Nhưng, thưa thầy... !

- Sao ? Ta phải kéo lưỡi anh ra cho anh nói ư ? Nói đi ! Ta giải quyết ! Có phải anh muốn nói về thằng cha cầm can gỗ mun không ? Thằng cha mà người ta thấy ở tiệm cà phê Tân-Kiều hôm viên thanh tra Vê-rô bị ám hại ?

- Vâng, thưa thầy đúng thế !

- Các anh đã tìm ra dấu vết nó à ?

- Vâng !

- Thế thì nói tiếp đi !

- Đây, thưa thầy, thế này: Không phải chỉ có anh bồi tiệm cà phê là chú ý đến thằng cha kia, mà còn có một người khách uống nữa cũng để ý. Người khách này tôi đã tìm ra. Ông ta cho biết là khi ra khỏi tiệm cùng với người kia, nghe thấy người kia hỏi một khách qua đường: «Chỗ ga gần nhất của xe điện ngầm đi Nơi-Y».

- Đó là một điều rất hay ! Và tới Nơi-Y, hỏi tả hỏi hữu, các anh đã tìm ra người kia ?

- Vâng, và còn biết cả tên hắn ta nữa: Huy-be Lôchiê, ở phố Run. Nhưng hắn đi khỏi nơi này đã 6 tháng nay, để đồ đạc lại, chỉ mang đi hai cái hòm.

- Tin tức lấy ở bưu điện thì thế nào ?

- Chúng tôi đã hỏi bưu điện. Một nhân viên ở đây theo nhân dạng chúng tôi báo đã nhận ra người kia. Cứ 8 đến 10 ngày hắn lại đến bưu điện một lần để nhận thư từ. Cũng không nhiều, mỗi lần chỉ một hai cái. Nhưng từ ít lâu nay không thấy hắn ta đến nữa.

- Thư từ đề tên hắn ?

- Tên viết tắt.

- Có nhớ được không ?

- Nhớ: Đ.R.W.8.

- Thế thôi à ?

- Vâng, riêng tôi chỉ nắm được thế. Nhưng một anh bạn đồng nghiệp, theo lời báo của hai cảnh binh, còn biết là đêm xảy ra hai vụ án mạng, có một người cầm can gỗ mun chuôi bạc và đeo kính đồi mồi, đã rời ga Ô-tơi vào lúc 11 giờ 45 phút và đi về Ranơlăc. Hẳn thầy cũng nhớ là bà Fauvin có mặt ở khu vực đó cũng vào giờ ấy. Và hẳn thầy không quên là vụ giết xảy ra trước nửa đêm một chút... Từ những sự việc trên, tôi kết luận...

- Thôi, đủ rồi. Phóng ngay đi !

- Nhưng...

- Phóng nước đại, như bay.

- Thế thầy trò ta không gặp nhau nữa ư ?

- Hẹn nửa giờ nữa sẽ gặp lại nhau ở nhà thằng cha kia.

- Thằng cha nào ?

- Thằng cha đồng lõa với Mari-An-Fauvin.

- Nhưng thầy chưa biết...

- Địa chỉ nó à ? Thì chính anh đã cho ta biết rồi thôi ! Đường Risa-Wanlat, số 8. Thôi, biến đi. Đừng giữ cái bộ mặt thộn ấy nữa.

Anh nắm hai vai Madơru, quay nửa vòng, đẩy ra cửa, và ấn vào tay một anh người nhà, khiến Madơru ngẩn ngơ ngơ ngẩn.

Vài phút sau anh cũng đi ra, làm cho những cảnh binh theo dõi anh phải chạy theo, anh bỏ họ trước một nhà có hai lối thông, và đáp ô tô đến Nơi-Y.

Anh đi bộ khỏi phố Madrit, sang phố Risa-Wanlat, nhắm hướng rừng Rulônhơ.

Madơru đang đợi anh trrớc một ngôi nhà nhỏ ba tầng gác ở phía cuối một cái sân có những tường cao của nhà bên cạnh bao bọc.

Đông Luy hỏi: Đúng số nhà 8 đây chứ ?

- Vâng, đúng. Nhưng xin thầy giảng cho...

- Chờ một giây. Cho ta thở cái đã !

Anh thở hít mạnh mấy cái, rồi nói: Chà ! Hoạt động ở đây mới thú làm sao ! Nói thực, ở đằng kia ta đâm bí người ra. Và đi đuổi theo cái lũ ăn cướp này mới khoái chứ ! Nào ! Anh muốn ta giảng giải hả ?

Anh khoác cánh tay anh xuống dưới cánh tay viên cai:

- Anh hãy nghe để học tập thêm: Khi người ta chọn những chữ đầu dùng làm địa chỉ cho hòm thư lưu ở bưu điện, thì hãy đinh ninh rằng không phải người ta lựa chọn ngẫu nhiên, mà bao giờ những chữ đó thường cũng có một nghĩa để cho người khác dễ nhớ được địa chỉ.

- Cụ thể ở trường hợp này ?

- Ở trường hợp này, Madơru ! Anh phải thấy ta là một người biết rõ Nơi-Y và khu lân cận của rừng Bulô-nhơ, thì tất nhiên ba chữ Đ.R.W đập ngay vào mắt ta, và nhất là chữ W là chữ nước ngoài, nước Anh. Cho nên ta nghĩ ngay ra và sắp đặt ba chữ đó vào đúng vị trí của một tên gọi gồm cả chữ Pháp, và chữ Anh. Ta thấy rõ: Đ là đường (hay phố), R và W (chữ Anh) là Risa-Wanlat (tên bằng chữ Anh). Thế là ta đi đến đây. Có thế thôi.

- Và thầy cho rằng... - Madơru nói với vẻ hoài nghi.

- Ta không "cho rằng", mà ta tìm hiểu. Trên cơ sở suy luận, ta đặt một giả thiết có khả năng là sự thực... Ta tự nhủ - ta tự nhủ, Madơru ạ ! Ta tự nhủ cái tiểu khu này là một nơi bí mật thần kì... Và cái nhà này... Im !... Nghe xem...

Anh đẩy Madơru vào một xó tối, Họ nghe thấy tiếng động, tiếng kẹt cửa.

Đúng thế. Có tiếng bước chân đi qua sân trước nhà. Ổ khóa hàng rào bên ngoài rít lên. Một người ra tới đó. Ánh đèn ở cột đèn chiếu vào giữa mặt.

Madơru rít lên khe khẽ: "Chúa Trời ! Đúng nó ! ».

- Ừ, ừ ! Có lẽ...

- Chính nó rồi ! Thưa thầy ! Kìa, thầy nhìn cái can đen và cái tay nắm bóng loáng...Và kìa ! Thầy có thấy ? Cái kính...bộ râu...Thầy giỏi thật ! Tôi chịu thầy !

- Thôi, bình tĩnh, bình tĩnh ! Chúng ta hãy đi theo hắn !

Người kia đi qua đường Risa- Wanlat và ngoặt sang phố May-Ô. Hắn đi khá nhanh, tay ngoáy can một cách nhanh nhẹn. Hắn châm điếu thuốc.

Đến đầu phố May-Ô người ấy vượt qua trạm thuế và đi vào trong thành phố Pari. Ga xe lửa ngoại vi thành phổ ở gần đó. Người ấy tới ga, vẫn có hai thầy trò Madơru bám sát, lên tàu đi Ôtơi.

Mamơru lầm bầm: «Nó hành động đúng hệt như cách đây 15 hôm. Hôm ấy người ta cũng thấy nó ở đây ».

Đến Ôtơi người ấy đi dọc theo đường thành. Độ 15 phút sau thì tới phố Xuýt sê và thoáng một cái, tới ngôi nhà đã xảy ra vụ thảm sát hai cha con Fauvin. Tới trước mặt ngôi nhà, người ấy trèo lên đường thành và đứng im lặng vài phút, nhìn về phía mặt ngôi nhà. Rồi người ấy tiếp tục đi, tới đường Muy-et và biến vào trong bóng tối của khu rừng Bulô-nhơ.

«Nào ! Vào việc ! Và hãy hăng hái lên !». Đông Luy nói và đi rảo bước.

Nhưng Madơru giữ anh lại: Thầy bảo gì ?

- Xông vào nó. Tóm cổ nó. Chúng ta những hai người. Lúc này rất thuận lợi !

- Sao ? Không thể được, thầy ạ !

- Hừ ? Sao không được ? Anh sợ à ? Để một mình ta vậy !

- Thầy ơi ! Thầy không nghĩ đến... à ?

- Nghĩ đến cái gì ?

- Vì ta không thể bắt một người nếu không có lý do !

- Lý do gì nữa ? Một thằng kẻ cướp cỡ như nó... Một tên giết người.. Còn cái lý do gì hơn nữa ?

- Đây không phải là trường hợp bất khả kháng cũng không phải trường hợp bắt quả tang, cho nên cần có một thứ... Một thứ mà tôi không có !

- Thứ gì ?

- Lệnh bắt. Tôi không có lệnh bắt.

Giọng nói của Madơru như đành chịu thúc thủ và cách trả lời thật là hài hước làm cho Đông Luy Pereana phá lên cười: «Mày không có lênh bắt ! Khổ thân mày ! Thế thì mày xem tao, tao có cần phải có lệnh bắt không ?». '

Madơru kêu lên: «Tôi không «xem» gì cả»- y vừa kêu vừa níu cánh tay Đông Luy - «ông không được động đến người ấy !».

- Nó là mẹ mày à ?

- Kia thầy ! Thưa thầy ! ...

Đông Luy cáu quá: "Cái thằng đại ngu, thậm ngu này ! Bây giờ để xổng nó thì làm sao mà tìm thấy nó được nữa ?"

- Tìm được dễ thôi ! Nó phải trở về nhà nó chứ ! Tôi báo sở cảnh sát. Họ sẽ gọi dây nói cho quận, và sáng mai...

-- Thế lỡ con chim nó biến mất ?

- Tôi không có lệnh bắt !

- Mày có muốn tao ký cho mày một cái lệnh bắt không ? Hở đồ ngu !

Nhưng Đông Luy nén giận, anh biết là mọi lý lẽ của anh sẽ gãy nát trước cái ương bướng cố chấp của viên cai. Và Madơru rất có thể chống lại anh để bảo vệ kẻ thù. Anh đành hỏi với Madơru bằng giọng nghiêm lúc: «Một thằng ngốc, với mày là hai thằng ngốc. Và có bao nhiêu người muốn làm công tác tình báo an ninh với mớ giấy lộn và với chữ ký, với lệnh bắt, với bao nhiêu cái kỳ cục nhảm nhí khác, thì có bấy nhiêu thằng ngốc. Công tác tình báo an ninh, con ơi ! Là phải dùng nắm đấm ! Nếu thấy kẻ thù là phải «đấm» ngay. Nếu không thì dễ đấm vào không khí lắm ! Ta nói đến thế thôi. Chào anh ! Ta về đi ngủ. Khi mọi việc đã xong xuôi thì gọi dây nói cho ta biết.

Anh trở về nhà, rất bực tức, không chịu nổi vì làm việc mạo hiềm mà không được tự do hành động mà phải lún theo ý chí, hay nói đúng hơn, lún theo sự mềm yếu của kẻ khác.

Nhưng sớm hôm sau, ngủ đậy, anh bị thôi thúc vì muốn biết lực lượng cảnh sát mắc kẹt như thế nào với thằng cha «can gỗ mun" và nhất là vì ý nghĩ sự giúp đỡ của anh không phải là vô ích, nên anh vội mặc quần áo. Anh tự nhủ: «Nếu ta không đến cứu viện cho họ thì thế nào họ cũng bị che mắt lừa gạt. Họ không đủ tầm cỡ để tiến hành một cuộc chiến đấu như vậy». Vừa lúc đó Madơru gọi anh ở dây nói. Anh vội đi tới một phòng nhỏ mà người chủ trước đã bố trí ở tầng gác thứ nhất, trong một hẻm tối chỉ ăn thông với văn phòng của anh. Anh bật đèn điện.

- Anh đấy hả, Alếchdăng ?

- Thưa thầy vâng. Tôi đang ở nhà hàng rượu vang gần cái nhà phố Ri-sa-Wanlat.

- Thằng cha ấy đâu ?

- Chim đang ở tổ. Đang còn kịp.

- Thế à ?

- Vâng. Hắn đã chuẩn bị vali. Sáng mai hắn phải đi xa.

- Sao biết ?

- Do chị người nhà. Chị ấy vừa tới. Chị ấy sẽ mở cửa cho chúng ta.

- Hắn ở có một mình à ?

- Vâng. Chị người nhà chỉ là lo bữa ăn cho hắn. Tối chị về nhà. Không bao giờ có ai tới nhà hắn, trừ một nữ che mạng có đến thăm hắn ba lần từ khi hắn đến ở đó. Chị người nhà không nhận mặt được người phụ nữ. Còn hắn ta, theo chị người nhà, là một bác học, suốt ngày đêm chỉ đọc sách và làm việc.

- Anh có lệnh truy nã đấy chứ ?

-Vâng, có. Công việc sắp tiến hành.

- Được ! Ta đến ngay.

- Không được đâu ! Chính ông phó Vơbe điều khiển công việc này... À ! Thầy ạ ! Chắc thầy chưa biết gì về bà Fauvin !

- Về bà Fauvin à ?

- Vâng. Đêm qua bà ta định tự sát.

- Hử ? Định tự sát à ?

Perenna kêu lên một tiếng kinh hãi, và anh rất ngạc nhiên vì anh nghe thấy hầu như đồng thời với tiếng anh kêu, một tiếng kêu khác, cứ như một tiếng vang của anh, mà ở rất gần.

Không rời ống nghe, anh quay lại. Cô Lơvatxơ đang đứng đó, cách anh mấy bước chân, mặt nhăn nhúm, tái nhợt.

Hai cặp mắt nhìn nhau. Anh vừa định hỏi thì cô đã rút lui.

Đông Luy tự hỏi: « Quái ! Sao cô ta lại nghe trộm mình nhỉ ? Mà sao lại có vẻ khiếp hãi thế nhỉ ?»

Trong máy điện thoại, Madơru tiếp tục: «Bà ta nhắc đi nhắc lại nhiều lần là sẽ tìm cách tự sát. Kể ra cũng can đảm thật !»

- Nhưng tự sát như thế nào ?

- Tôi sẽ kể thầy nghe. Người ta đang gọi tôi. Nhưng thưa thầy, nhất thiết thầy đừng đến đấy nhé !.

- Đông Luy trả lời dứt khoát: «Ta sẽ đến ! Ít nhất ta cũng phải được thấy việc bắt con mồi do chính ta tìm ra chỗ trú ngụ của nó. Nhưng anh yên tâm ! Ta không lộ mặt ra đâu !»

- Vâng, Thế thì thầy đến ngay đi. Người ta sắp xông vào công việc đấy !

- Ta đến ngay !

Đông Luy ngoắc ống nghe, quay người để ra khỏi phòng làm việc. Nhưng bỗng anh nhảy lùi lại rất mạnh, đập lưng vào bức tường phía trong. Đúng lúc anh vừa định bước qua ngưỡng cửa, có cái gì đó buông thả xuống trên đầu anh. Và anh chỉ còn kịp nhảy lùi trở lại để khỏi bị một tấm màn sắt đổ sập xuống rất nhanh rất mạnh. Chỉ chậm một giây là tấm màn sắt đổ trúng anh. Tấm màn sát sạt vào bàn tay anh. Và có lẽ chưa bao giờ anh thấy hoảng hồn về mối nguy hiểm như lần này. Sau một lúc sợ hãi thực sự, người rã rời, trí óc lộn xộn, anh lấy lại được bình tĩnh, lao vào vật cản, nhưng anh thấy ngay không thể nào vượt qua tấm màn được. Đây là một tấm kim khí nặng, không phải là những lá hay những chi tiết ghép lại, mà là một tấm nguyên khối to, nặng, dầy cứng. Trên mặt tấm sáng loáng nhưng đã hơi xạm, thời gian đã in dấu một vài vết rỉ. Bên phải bên trái, phía trên phía dưới, các mép tấm màn đều ăn sâu vào trong một khe hẹp và kín mít. Thế là anh bị cầm tù. Anh đột nhiên nổi điên lên, đấm vào tấm màn sắt, và bỗng nhớ ra cô Lơvatxơ vừa ở trong phòng làm việc của anh. Nếu cô chưa ra khỏi gian nhà, và chắc chắn là cô chưa kịp ra khỏi lúc cái màn sắt sập xuống, thì tất cô phải nghe tiếng. Chắc là cô sắp quay lại, sẽ báo động và sẽ giúp đỡ anh. Anh lắng nghe. Không thấy động tĩnh gì. Anh gọi. Không có tiếng trả lời. Tiếng đập vào tấm màn, vào tường, vào màn và dội lại. Anh có cảm tưởng là tất cả mọi người ở các nơi trong ngôi nhà, ngoài căn phòng anh bị nhốt, đều điếc cả, đều làm ngơ trước tiếng gọi của anh. Nhưng cô Lơvatxơ... Cô ta đâu ?

Anh lầm bầm: «Thế là thế nào ? Thế là nghĩa lý gì ?" Và bây giờ anh câm lặng, không cử động, không nói năng, anh lại nghĩ đến thái độ lạ lùng của cô thư ký, đến nét mặt rụng rời, đến cặp mắt thất thần của cô. Anh lại cũng tự hỏi do sự ngẫu nhiên nào đã khiến cho bộ máy bí mật hoạt động để tấm màn sắt kia rõ ràng cố ý muốn đổ sập trúng anh ?

- Dạ có, thưa ông quận trưởng. Các báo có nói đến một quyển sổ tay tìm thấy trong túi của ông thanh tra Vêrô đáng thương, chẳng hay trong cuốn sổ tay có ghi chép điều gì hữu ích không ?

- Không. Toàn là những việc riêng của cá nhân, như các khoản chi tiêu... À, tôi quên ! Trong sổ còn có một tấm ảnh, nhưng chẳng giúp ích gì cho tôi... Tôi nghĩ nó không liên quan đến vụ này nên không đưa ra các báo chí. Tấm ảnh đây !

Anh cầm tấm ảnh và nhìn. Anh thảng thốt rùng mình, cử chỉ ấy không lọt qua mắt ông Đetmaliông. Ông hỏi: «Ông biết người phụ nữ này à ?».

- Không... Thưa ông quận trưởng ! Tôi tưởng là... Nhưng không phải ! Chỉ hao hao giống... Một nét nào đó... mà tôi sẽ kiểm tra lại nếu ông cho phép tôi giữ tấm ảnh đến đêm nay.

- Được. Ông sẽ trả lại tấm ảnh cho Madơru là người, theo lệnh tôi, sẽ quan hệ với ông trong mọi công việc thuộc vấn đề Moocninhtôn.

Đến đây buổi gặp gỡ kết thúc, ông quận trưởng ra về. Đông Luy tiễn ông đến thềm, ông Đetmaliông quay lại nói nhẹ nhàng: "Sáng nay ông đã cứu sống tôi, không có ông thì tên kẻ cướp Xôvơrăng..."

- Ồ ! Thưa ông quận trưởng...

- Tôi biết ! Đó là những việc ông thường hay làm và cho là không đáng kể. Nhưng xin ông cứ nhận lời cám ơn của tôi. Và ông Đetmaliông trân trọng chào, như chào một Đông Luy Perenna, nhà quí tộc gốc Tây-ban-nha, người anh hùng của đạo quân lê-dương hải ngọại. Còn Vơbe, hai tay đút túi, đi qua với dáng con chó bị rọ mõm ném vào địch thủ một cái nhìn đầy căm tức thù hằn.

Đông Luy nghĩ thầm: «Thằng cha này, nếu có cơ hội xảy ra thì nó chẳng tha gì mình đâu ! ». Từ cửa sổ nhìn ra, anh thấy ô-tô của ông quận trưởng lăn bánh. Các cảnh binh của sở an ninh theo chân phó phòng Vơbe rút khỏi quảng trường cung điện Buốc bông. Vòng vây đã được giải tỏa.

"Nào ! Bây giờ thì ta bắt tay vào việc ! Ta toàn quyền hành động ! Sẽ biết tay ta !" Anh gọi người quản lí khách sạn: « Ông dọn bữa cho tôi. Và sau khi tôi ăn xong thì ông bảo cô Lơvatxơ qua gặp tôi ngay ».

Anh qua phòng ăn và bắt đầu ngồi vào bàn ăn. Anh đặt tấm ảnh bên anh và cúi nhìn xem xét rất kỹ. Ảnh đã hơi mờ, chắc là vì đã cất lâu trong ví, trong sổ tay, nhưng vẫn còn rõ nét. Đây là hình ảnh rực rỡ của một thiếu nữ mặc quần áo khiêu vũ, cánh tay trần, đội mũ tết hoa và lá, miệng cười tươi.

Anh lầm bầm, nhắc đi nhắc lại: «Cô Lơvatxơ, cô Lơvatxơ....Thật thế ư ?».

Ở một góc tấm ảnh có chữ đã phai mờ. Anh đọc thấy: Ph'lôrăngxơ , chắc là tên riêng của cô ta. Anh nhắc lại: « cô Lơvatxơ... Ph'lôrăngxơ - Lơvatxơ. Sao ảnh cô ta lại ở trong ví của thanh tra Vêrô ? Và có mối liên quan gì giữa vụ này với cô thư ký riêng của bá tước người Rumani có ngôi nhà mà ta tiếp quản đây ?»

Anh nhớ lại sự kiện tấm màn sắt. Anh nhớ lại bài đăng trong báo Tiếng-vang là bài nhằm đả anh, mà anh nhặt được bản thảo ngay trong sân khách sạn. Và anh nhớ nhất là sự kiện độc đáo đoạn can gỗ mun nằm trong phòng làm việc của anh. Anh vừa suy nghĩ cố gắng tìm tia sáng trong những hành động của cô Lơvatxơ, vừa hờ hững ngắm nhìn những nét đẹp của người trong tấm ảnh: cái miệng, cái cười, cái cổ, đôi vai trần.

Cửa phòng bỗng mở đột ngột. Lúc ấy Đông Luy vừa đưa lên miệng một cốc đầy nước chưa kịp uống. Cô thư ký nhảy tới, nắm cánh tay anh, giựt cốc nước ra, quăng xuống sàn, vỡ tan, và hỏi bằng một giọng nghẹn ngào: « ông đã uống... ông đã uống chưa ? ».

Anh khẳng định: "Không, tôi chưa uống. Nhưng... sao vậy ? ».

Nàng nói lúng búng: «Nước trong bình... Nước trong bình...»

- Sao ?



- Nước bị bỏ thuốc độc.

Anh giật nẩy người, đứng phắt lên. Đến lượt anh nắm chặt cánh tay cô và hỏi dồn: « Có thuốc độc ? Cô nói sao ? Cô nói đi. Cô biết chắc chắn là có thuốc độc ? ».

Dù là người có đởm lược, nhưng anh cũng hết hồn. Anh biết rõ hiệu quả kinh hồn của loại thuốc độc mà bọn kẻ cướp thường dùng để giết hại đối thủ. Anh đã chứng kiến cái chết của thanh tra Vêrô, của cha con Hippôlit- Fauvin. Anh biết rằng mặc dù anh có khả năng đề kháng cao đối với những liều thuốc độc mạnh nhưng cũng sẽ không thoát chết được với cái loại thuốc độc này. Loại thuốc độc này không từ ai, nó giết chết một cách chắc chắn, tàn bạo.

Cô thư kí vẫn im lặng. Anh ra lệnh: « cô trả lời tôi đi chứ ! Cô biết chắc chắn à ? ».

Cô ta chối bai bảỉ: « Không ! Tôi chỉ có cảm giác... Hình như cảm giác tình cờ..."

Người ta cảm thấy là cô đã trót lỡ lời, nay cố tìm cách chống chế.

Anh kêu lên: "Không được. Tôi muốn biết rõ... Vậy cô không dám nói chắc chắn là nước trong bình có thuốc độc ?.

- Vâng, không chắc... Có thể là...

- Nhưng lúc nãy ...

- Vâng, lúc nãy tôi tưởng... Nhưng không... không..

- Muốn biết chắc chắn cũng dễ thôi. Perenria nói và định cầm lấy bình nước.

Nhưng nàng nhanh tay hơn, đã vớ lấy cái bình và đập lên mặt bàn, vỡ tan.

Đông Luy không chịu nổi, la lên ; «Cô làm cái gì thế ?»

- Tôi lầm... Thôi chuyện này cũng chẳng đáng cho ta phải để tâm...

Rất nhanh, Đông Luy ra khỏi buồng ăn. Anh biết theo lệnh anh, nước uống là từ một bình lọc tới. Bình lọc này đặt ở một gian phụ, tại đầu hành lang đi từ nhà ăn tới nhà bếp và đi xa hơn nữa. Anh chạy tới gian phụ lấy một cái bát để trên tấm ván, hứng một ít nước ở bình lọc. Anh cầm bát nước, đi dọc hành lang, theo lối rẽ ra sân. Anh gọi con chó con Miêc-da. Con chó chạy đến. Anh đặt bát nước xuống: "này, uống đi». Con chó uống nước. Hầu như ngay tức khắc, con chó bất động, nằm thẳng cẳng, toàn thân cứng đờ. Anh rùng mình. Con chó kêu lên một tiếng khàn, lăn lộn hai ba vòng rồi quay lơ. Anh sờ vào con vật: «Nó chết rồi !».

Cô Lơvatxơ cũng vừa chạy tới. Anh quay lại cô và nói sẵng: "Đúng thật ! Thuốc độc ! Cô đã biết trước. Nhưng làm sao mà cô lại biết ?.

Cô thở hổn hển, trả lời: «Tôi thấy con chó kia lúc nãy cũng uống nước trong gian phụ và nó đã chết. Tôi đã báo anh lái xe và anh đánh xe ngựa... Họ đang ở chuồng ngựa... Và tôi chạy đến văn phòng để bảo ông.

- Như vậy là cô đã biết đích xác... Thế sao lúc nãy cô lại nói là không chắc chắn nước có thuốc độc. Vì sao ?

Anh lái xe và anh đánh xe ngựa ở chuồng ngựa ra. Đông Luy kéo tay cô Lơvatxơ đi và nói: « chúng ta cần phải nói chuyện với nhau. Chúng ta hãy về phòng của cô !».

Hai người trở lại chỗ ngoặt hành lang. Gần chỗ gian phụ để bình lọc nước, là một ngách đi lên, có ba bậc. Lên hết ba bậc là một cửa đi. Perenna đẩy cửa. Đó là lối vào phòng riêng của cô Lơvatxơ. Hai người đi sang gian tiếp khách. Đông Luy đóng cửa đi, đóng cửa gian tiếp khách.

Anh nói với cô, giọng quả quyết: «Nào ! Bây giờ la nói chuyện với nhau !».

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top