Chương 9

Điều đó càng được khẳng định rõ hơn khi chúng tôi quay trở về căn nhà – kiêm – cửa – tiệm của gia đình chú Foley.

Đó là lần đầu tiên chúng tôi tới thăm nhà chú Foley. Chú mời cả đám tới nhà để ăn mừng cuộc gặp gỡ tình cờ của mấy chú cháu, bằng bánh ngọt và đồ uống lạnh do cô Teresa đích thân chuẩn bị. Vừa ăn chú vừa kể cho chúng tôi nghe sự tích của ngôi nhà này. Hóa ra nó được cắt ra từ một toa tàu cũ.

Chúng tôi trầm trồ ngắm nhìn những bức ảnh được treo kín mít trên tường. Trong đó có một tấm hình chú Foley đứng khoanh tay oai vệ bên cạnh chiếc xe máy, miệng cười rạng rỡ. Kế đó là bức hình chụp chú Foley đầu đội vòng nguyệt quế, trên tay cầm rất nhiều cúp bạc. Nhưng có lẽ ấn tượng nhất vẫn là bức ảnh chụp khu chú Foley đang nghiêng người phóng như bay trong gió, nhanh đến nỗi toàn thân chú mờ mờ ảo ảo như mặt đất bên dưới chúng tôi lúc mấy chú cháu lướt nhanh trên cát.

“Giờ thì mấy đứa biết chú điên khùng thế nào rồi đó” – chú Foley lên tiếng.

“Ey! Chú bỏ hai tay ra lái xe kìa!”

“Ta đã nói ta là một tên điên khùng mà!” – chú Foley cười vang.

Đúng lúc đó, cô Teresa đi vào, đặt lên bàn hai đĩa bánh ngọt, rồi khoát tay gọi chúng tôi. Có gì đó tương đồng giữa cái cách mà cô ấy nói chuyện với cái cách mà Spark vẫn thường thể hiện tại các phiên đấu giá tưởng tượng. “Đó là bức ảnh chú ấy đang khởi động. Lại đây! Lại đây xem chú Foley Can Đảm của mấy đứa đang ngẩng cao đầu kiêu hãnh trong bức ảnh có một không hai này, phóng xe như bay với tốc độ 60 dặm/giờ còn hai tay khóa chặt sau lưng. Thật kỳ diệu, thật mới mẻ, thật phấn khích, đúng không? Nếu chưa được thấy bức ảnh thách thức với thần chết này thì quả là phí nửa đời người”.

“Nhìn này! Có tận hai người!”

Quả là có hai người trong bức hình treo trên tường thật.

“Cuộc đua tử thần!” – cô Teresa reo lên – “Họ phi như bay trong gió! Bất phân thắng bại! Họ vụt qua nhau, họ bám đuổi lấy nhau giành giật từng cen-timet một! Đó là cuộc đua khốc liệt giữa chú Foley và chú Johns, nó gay cấn và hồi hộp chẳng khác nào những trận đánh ở đầu trường La Mã ngày xưa.”

“Cô ơi! Có phải cô đó không?” – một đứa reo lên.

Cô Teresa nhíu mày nhìn vào bức ảnh: hình ảnh một cô gái trẻ, mặc áo sơ – mi bẻ cổ, đi giày ống cao. Chúng tôi dám chắc đó là cô ấy. Không thể lẫn vào đâu được.

“Ừm, cô nghĩ là vậy” – cô Teresa hóm hỉnh hùa với chúng tôi.

“Cô cũng biết lái xe sao?”

“Đúng vậy”.

“Các cậu nhìn này! Buông tay, buông chân luôn!”

Phải công nhận bức ảnh đó trông nghệ thuật không kém gì những bức ảnh của chú Foley. Trong đó, cô Teresa đang nằm rạp người trên nắp bình xăng, chiếc xe vẫn đang phóng như bay trong gió, hai tay giang rộng ra như đôi cánh, hai chân quặp ra đằng sau lưng. Chẳng trách cô ấy nhào lộn nhẹ nhàng đến như vậy.

Tiếp đó, bài thuyết minh được nhường cho chú Foley. “Xin giới thiệu với mấy đứa bức ảnh thể hiện trí óc của con người hoàn toàn có khả năng chiến thắng thần chết! Nữ tài xế trong bức hình vừa trình diễn một màn nhào lộn điêu luyện trong tư thế của một con chim đang sải cánh tung bay trong gió. Cô ấy vẫn hoàn toàn giữ được thăng bằng trên chiếc xe đang phóng như bay với tốc độ kinh hồn: 60 dặm/giờ. Xin quý vị cho một tràng pháo tay cổ vũ tinh thần cho nữ tài xế xuất sắc của chúng ta”.

Chú Foley vỗ tay ầm ĩ và năm đứa tụi mình cùng hùa theo. Phát hiện bất ngờ vừa rồi khiến cho đầu óc tôi quay cuồng, không phân biệt được thật hay mơ nữa.

“Tại sao cô lại từ bỏ thế ạ?”

“Là chú bắt cô ấy từ bỏ đấy” – chú Foley nói.

“Tại sao ạ?”

“Tại vì cô ấy lấy mất ánh hào quang của chú!” – vừa nói chú Foley vừa quay sang nhìn cô Teresa một cách trìu mến, mà sau này khi nghe ông O’Leary kể về vụ tai nạn năm đó tụi tôi mới hiểu rõ hơn mọi chuyện. Khi chú Foley và cô Teresa dọn về sống ở vịnh Captain này, họ đã kéo theo cả toa tàu cũ – nơi trú ẩn tạm bợ của mấy công nhân ngành điện thất nghiệp. Chú Fopey đã cắt nó ra làm đôi, sau đó nối lại với nhau bởi một căn nhà gỗ ở chính giữa. Một đầu được biến thành căn tiệm nhỏ của cô Teresa, đồng thời làm kho chứa hàng và nơi nhận thư tín của cả vịnh.

Chúng tôi ăn uống cười nói vui vẻ, chín con mắt vẫn dán chặt vào mấy bức ảnh trên tường. Giờ thì tôi đã hiểu tại sao chú Foley có thể lao như bay xuống đồi trong đêm tối một cách dễ dàng như vậy.

Có vẻ như chú Foley đã cân nhắc đắn đo rất lâu trước khi nói ra suy nghĩ của mình: “Tại sao vẫn chưa có ai nhận nuôi mấy đứa?”

“Anh Foley!” – cô Teresa thốt lên sửng sốt.

Chú Foley cũng nhận ra câu hỏi vừa rồi của mình có phần hơi khiếm nhã, nên chỉ biết nhìn tụi tôi cười trừ một cách bẽn lẽn. Tuy nhiên, tụi tôi hoàn toàn không chạnh lòng tẹo nào trước câu hỏi đó. Nói chính xác hơn, tụi tôi cảm thấy vô cùng cảm kích trước sự quan tâm ấy. Khi thấy chúng tôi không tỏ ý khó chịu vì câu hỏi của mình, chú Foley liền thở phào nhẹ nhõm.

Như để chuộc lỗi, chú hào hứng kể: “Hôm trước chú vừa nghe được một câu chuyện rất buồn cười…”

Tuy vậy, ở trong bếp, cô Teresa có những phản ứng rất khó hiểu.

“Ôi anh Foley, có cần phải thế không?”

“Em yên tâm, chuyện vui thôi. Tụi nhỏ chắc chắn sẽ thích”.

“Nếu mà chúng hiểu được”.

Chúng tôi quay lại nhìn nhau không hiểu ý cô Teresa muốn ám chỉ điều gì – cho tới khi chú ấy bắt đầu kể chuyện. Chú ấy cứ lăn ra cười ngặt cười nghẽo trước cả khi tụi tôi kịp hiểu nội dung câu chuyện. Càng cố giải thích, chú ấy càng cười to hơn. Hai mắt chú ấy giàn giụa nước, đỏ lên vì những tràng cười. Nếu có ai nhìn thấy chú Foley lúc ấy chắc sẽ tưởng chú bị mắc một căn bệnh dị ứng kỳ lạ nào đó. Chúng tôi chỉ lo chú sẽ cười đến thắt ruột mất. Cô Teresa đứng ở cửa bếp, ngán ngẩm lắc đầu nhìn ông chồng của mình. Kết quả là bọn tôi vẫn chỉ nghe được lõm bõm vài từ trong toàn bộ câu chuyện đó. Tuy nhiên, trong mắt tụi tôi, cái cách mà chú ấy kể chuyện cũng đủ hài hước lắm rồi.

Cuối ngày hôm đó, sau khi ăn uống no nê, tôi lôi cái khung ảnh mới nhặt được lên, và tự hình dung ra hình ảnh vợ chồng cô chú Foley đang nhào lộn trên chiếc xe đua. Tôi đã chôn nó dưới cồn cát và đánh dấu vằng một que củi khô. Tuy nhiên, khi đó tôi không thể ngờ được rằng chính cái khung ảnh cũ kỹ cùng những hình ảnh tưởng tượng ấy sẽ gây cho tôi không ít rắc rối, chỉ vài tuần sau đó.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: