Chương 7
Tiếng chuông cầu nguyện trong nhà thờ, tiếng leng keng của chuỗi tràng hạt khi sơ vào phòng đánh thức mọi người, tiếng be be của đàn cừu và đám gia súc ngoài chợ - đó là những âm thanh buổi sáng duy nhất mà chúng tôi đã được biết, cho tới khi đặt chân tới vịnh Captain’s Folly này. Giờ thì chúng tôi thức dậy trong tiếng gáy của đàn chim biển và ánh bình minh đỏ rực trải dài lên làn nước trong xanh.
Trước khi ăn sáng, cả đám dắt díu nhau chạy ra ngoài chiêm ngưỡng con xe máy hầm hố tối hôm qua giữa ánh sáng ban ngày. Trông nó chẳng khác nào một con bò tót khổng lồ được làm bằng thép và lắp thêm bánh xe.
“Có ai thách tớ ngồi lên đó không?” – Spark hỏi.
“Tớ thách” – Maps nói, và thường thì cũng chỉ có cậu ấy là chịu mở miệng.
Phải tới khi Spark trèo lên con xe đó, bốn đứa còn lại mới hình dung ra được hết sự đồ sộ của chiếc xe. Trông Spark như đang bò ra trên một cái xẻng ngoại cỡ. Cậu ta bắt đầu oằn èo thể hiện, phải rướn gần như hết người về phía trước thì hai tay Spark mới với được tới tay cầm của xe. Kế đó cậu bóp bóp cái bầu nhựa màu đen của cái còi. Một tiếng bíp ré lên. Spark tụt vội xuống khỏi xe và cả đám chúng tôi phi như bay ra sau cồn cát để nấp. Nhưng chẳng thấy bóng dáng của chú Foley hay cô Teresa đâu.
Sáng hôm đó, hai ông bà McAnsh cũng không dậy sớm, vì vậy tụi tôi quyết định đi dạo quanh thung lũng. Đầu tiên, chúng tôi bị thu hút bởi mấy cái quai búa trên con thuyền đang đóng dở nằm hớ hênh trên cát. Không thấy bóng dáng chủ nhân của nó đâu. Có lẽ ông ấy đang lúi húi sửa chữa gì đó ở trong thân tàu.
Thảm hoa giọt băng trắng muốt đang vươn mình đón lấy tia nắng Mặt Trời, từng bông từng bông một, tiếp đó là từng khóm từng khóm, trải dài từ vườn nhà McAnsh uốn lượn quanh các triền đồi trong thung lũng. Một bên là rừng thông xanh mướt, và những dải hoa đậu màu vàng, màu tím đang nở rộ. Xa hơn một chút là vết tích của những căn lều tạm bợ khi cuộc khủng hoảng kinh tế xảy ra – nơi chúng tôi quyết định sẽ phải lên đó khám phá cho thật kỹ.
Chúng tôi tha thẩn dạo chơi quanh bãi rác khổng lồ của thung lũng, xới tung mọi thứ lên, như thể khơi lại ngọn lửa vẫn đang âm ỉ cháy trong suốt quãng thời gian ông lão O’Leary săn lùng con cá mú Henry. Spark bắt đầu phiên đấu giá cái khung giường gỉ sắt. Hồi ở St. Roderick, bốn đứa còn lại vẫn thường hùa theo các phiên đấu giá của cậu ta bằng những câu trả giá rẻ bèo, nhưng hôm nay cả đám sôi nổi hò hét qua làn khói bụi với những cái giá cao đến ngất trời. Như thể chúng tôi đang sở hữu những khoản tiền kếch xù và cái khung giường cũ nát đó đáng giá cả một gia tài vậy.
Chợt tôi nhìn thấy một mẩu gỗ chạm khắc được mạ vàng đã nhạt màu. Tôi cúi xuống bới tung mọi thứ lên, lấy cho bằng được miếng gỗ đang bị vùi dưới một lớp bụi dày. Đó là một khung ảnh nhỏ được chạm trổ khá tinh vi.
Hình ảnh cái chong chóng mạ vàng trên nóc nhà Hodge hiện rõ qua cái khung ảnh hình vuông đã được lau chùi cẩn thận. Khung ảnh vừa đủ to để tôi có thể nhét cái mặt mình vào đó, nhưng không đủ to để chui lọt đầu. Nếu so với mấy đứa còn lại thì cái tôi tìm được vẫn đáng giá hơn hẳn: Misty với mẩu gạc hươu, Maps với mấy quyển tạp chí cũ, Fido khệ nệ kéo theo cái xuồng bằng thiếc, trong khi Spark vẫn khăng khăng đòi bán đấu giá những thứ bọn tôi vừa tìm được.
Không khí trong nhà McAnsh yên ắng đến thảm hại. Mọi người lặng lẽ ngồi ăn, không ai nói tiếng nào, ngoài tiếng dĩa, cốc lanh canh và tiếng ợ hơi của ông Bandy. Thật trái ngược hẳn với hình tượng hào hoa phong nhã mà bà McAnsh đã kể cho chúng tôi tối qua. Bà vừa liếc xéo sang phía chồng một cái nhìn sắc lẹm. Công nhận là hình tượng của ông Bandy đã sụt thảm hại chỉ sau có một đêm. Tôi nhận thấy ánh mắt của ông cứ liên tục nhìn về phía chai rượu rỗng không một cách tiếc nuối.
Trên cồn cát cũng chưa hề thấy bóng dáng chú Foley Can Đảm đâu.
Tay vẫn giơ cao cái khung ảnh rỗng, tôi đưa con ngựa già Socrates vào tầm ngắm. Nó vẫn đang đứng bất động, mơ mộng nhìn ra ngoài biển khơi. Không thấy bóng mẹ con đàn mèo hoang đâu. Trên trời, một con chim hải âu đang lượn lờ bay trong gió, nó bay chậm đến nỗi tôi cứ ngỡ nó đang đứng yên, ngoài một chút phe phẩy ở đầu cánh. Ở phía đằng xa, những cột sóng va đập vào nhau tung bọt trắng xóa. Chứng kiến bức tranh sống động đó, tôi chợt nhận ra một điều: đại dương làm tôi liên tưởng tới sự vĩnh cửu. Nó dường như không có giới hạn, cứ trải dài mãi mãi. Có lẽ do được nuôi dạy bởi các sơ trong tu viện từ tấm bé nên trong tôi luôn mang một nỗi sợ hãi về sự vĩnh cửu. Hoặc có lẽ đây cũng chỉ là một bằng chứng rằng đức tin của con người – niềm tin vào sự bất diệt của bản thân – tồn tại ngay từ giai đoạn đầu đời.
Cảnh vật trong khung ảnh đột nhiên thay đổi, lọt vào chính giữa khung hình là chân dung của chú Foley Can Đảm.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top