Chương 35 - 36 [End]

35

Giờ khi không còn có thể lấy Henry ra để mở đầu câu chuyện, chúng tôi phải mất rất lâu mới cậy được răng của ông Lão Làng. Để moi được một câu trả lời của ông thì chúng tôi phải chịu đựng không ít tiếng làu bàu khó chịu, những cái nhìn đầy nghi ngờ và khỉnh bỉ. Đôi lúc, tôi có cảm tưởng như bên trong cái kén già nua đó là một cậu bé con không hiểu sự đời.

Maps vẫn luôn là đứa đặt câu hỏi đầu tiên: “Cái ông mà ông nói tên làJimmy Sullivan ấy ạ, vừa mới quay lại đây sáng hôm nay.”

“Thật sao?” - ông Lão Làng nghi ngờ hỏi lại.

“Lúc bọn cháu đang tới nhà bà Hodge.”

“Đó là một người phụ nữ tốt bụng.”

“Bọn cháu trèo lên cả căn phòng bí mật của Ngài Henry.”

“Ừ, đó là một người đàn ông dũng cảm.”

“Cháu nghĩ Ngài ấy đã rất cảm động” -Spark tiếp lời.

“Cảm động ư?”

“Vâng” - Spark nói.

“Về chuyện gì mới được chứ?” - Lão Làng nhăn tít mặt lại.

“Ông O’Leary,” - Misty nói - “giờ tụi cháu đã biếtcon cá mú đó có tên từ đâu rồi.”

“Vậy sao?” - ông Lão Làng cười khẩy, tỏ vẻ không tin.

“Ông đặt tên nó theo tên của Ngài Henry” – Misty dõng dạc nói.

“Ta cũng từng tự hỏi chính mình về điều đó” - ông Lão Làng đăm chiêu nói - “Không phải, đó chỉ là cái tên ta nhất thời nghĩ ra mà thôi. Nó có thể là Tom, Dick hay Harry Điên Khùng. Tất nhiên cũng có thể là do ta luôn kính trọng NgàiHenry nên cái tên đó luôn lởn vởn trong tâm trí ta. Đúng vậy, có lẽ đó là lí do tại sao ta đặt tên cho nó là Henry.”

“Ông Jimmy Sullivan đó là người thế nào ạ?” - đột nhiên Spark thay đổi chủ đề.

“Giờ ởđây không còn những người như cậu ta nữa” - ông Lão Làng nói, khiến chúng tôi càng tòmò không biết nên xếp ông Sullivan vào loại người xấu hay tốt. Nhưng ông cũng không để chúng tôi có dịp tìm hiểu xa hơn - “Ta không ngờ là mấy đứa sắp sửa rời khỏi đây rồi.”

Đúng vậy, chỉ còn vài ngày nữa thôi.

“Ừm, ta hi vọng rằng mấy đứa đã học được chút gì đó ở đây, làm hành trang cho cuộc sống sau này của mình” - ông nhếch mép cười, nụ cười đầu tiên kể từ sau cái chết của Henry – “Ta nghe nói mấy đứa đã khiến lão già Watson tưởng rằng có bàn tay vô hình của Chúa tạo ra điều thần kì với mấy chai rượu bí ngô. Thật tiếc là tụi bây chưa làm được gì quấy phá lão già điên khùng ở phía trên kia. Hắn là người luôn sống trong nỗi tuyệt vọng của quá khứ! Sự nghiệp biểu diễn của hắn đã tan biến như một làn khói và ta đoán là hắn đã đổ lỗi cho cuộc khủng hoảng kinh tế, như tất cả những người khác đã làm. Đó là quãng thời gian mà chúng ta sẽ không bao giờ còn thấy lại nữa.” - đột nhiên mắt ông sáng lên như vừa phát hiện ra điều gì mới mẻ - “Sao chỉ có mỗi bốn đứa bọn bây?”

“Fido đang chơi trên cồn cát” - chúng tôi giải thích, tùy cho ông Lão Làng tự suy diễn xem tại sao Fido lại ở trên đó một mình.

“À, chúng ta biết quá rõ về Fido rồi, đúng không? Nhưng có lẽ trước khi mấy đứa rời khỏi đây, ta sẽ có một tin cần nói với cậu nhóc đó. Một tin rất tuyệt!”

Câu nói đó như một luồng gió lạnh buốt thổi dọc sống lưng bốn đứa tụi tôi. Chú Foley đã từng kể cho ông ấy nghe về kế hoạch nhận nuôi một trong năm đứa tụi tôi vào đêm giao thừa. Điều đó có nghĩa là rất có thể chú ấy cũng đã cho ông biết ai là người côTeresa để mắt tới. Nói cho cùng, có lẽ việc bắt đượccon Henry của Fido không phải là một sai lầm như cậu ấy nghĩ.

Bốn đứa chúng tôi ba chân bốn cẳng chạy thật nhanh về phía cồn cát, nơi Fido đang ngồi.

Tất nhiên là không đứa nào dám mở miệng hỏi Fido xem cậu ta có hiểu ý nghĩa câu nói lúc nãy của ông Lão Làng hay không. Tuy vậy, cũng vẫn cần phải theo dõi cậu ta và giờ thì cậu ta đi đâu, tụi tôi sẽ theo đó.

Cô Teresa đi ra ngoài cửa rũ rũ cái khăn trải bàn, đợi cho lũ chim câu sà xuống nhặt nốt những mảnh vụn bánh mì trên cát. Cả đám núp vội ra sau bụi cỏ gần đó. Chúng tôi đã được dạy cách phân biệt hai dạng tội lỗi chính: tội lỗi có thể tha thứ và tội lỗi không thể tha thứ. Với việc không chung thuỷ với chú Foley, cô Teresa đã mắc phải tội lỗi không thể tha thứ - đây là nếu bọn tôi cho là cô đang phản bội chồng, chứ thực tế không đứa nào nghĩ như vậy. Tuy nhiên, tình hình có thể còn xấu hơn - nếu cô Teresa không những không chung thủy với chồng mà con tỏ ra hạnh phúc với điều đó thì cô sẽ bị liệt vào tội báng bổ thần thánh, giống như tội vô tình báng bổ nhà thơ. Cô quay lưng đi vào trong nhà, miệng vẫn ngân nga bài “Tôi tô những đám mây bằng ánh Mặt Trời". Tôi chỉ muốn lấy tay bịt thật chặt hai lỗ tai của mình lại.

Đám mèo con - chẳng mấy chốc sẽ trở thành mèo già - đang gầm gừ cào cấu lẫn nhau, khiến cho cảnh vật nơi đây bỗng trở nên xấu hẳn đi. Tụi tôi quyết định lang thang ra mé khác của thung lũng để thay đổi không khí. Mặt Trời tỏa ánh nắng rực rỡ, ở bên dưới, thảm hoa giọt sương vươn mình khoe sắc, đón lấy từng tia nắng ấm áp. Tại khu cắm trại bỏ hoang, mấy bông hoa đang héo rũ, gục đầu xuống đất, như thể đã kiệt sức sau chuỗi ngày dài canh gác.

Khi chúng tôi quay trở lại cồn cát, cô Teresa vẫn đang cất tiếng hát rộn rã.

Phải chăng chính những ý nghĩ tội lỗi chống lại nhau của chúng tôi đã khiến cho cuộc sống của cô Teresa và chú Foley trở nên u ám như vậy?

Thật mỉa mai thay khi chúng tôi vẫn ngày đêm mơ tưởng, vẽ ra những bức tranh thật đẹp về bố của mình: bố tôi là một hoạ sĩ, bốSpark là một nhà bán đấu giá, trong khi bố của Maps là một điệp viên mật, bố Fido là một thợ câu cá, và bố của Misty - cũng như mẹ cậu ta - là một người có đôi mắt rất đẹp. Trong khi thực chất năm đứa chúng tôi có thể là năm đứa con bị bỏ rơi của những tên tội phạm nhẫn tâm.

Sóng biển bắt đầu tràn lên, len lỏi vào các ụ cát nóng. Đột nhiên, từ đằng sau quả đồi, chúng tôi nghe thấy một tiếng động rất đỗi quen thuộc. Quen thuộc tới mức cả đám nhổm hết dậy, căng tai ra nghe cho rõ hơn. Tiếng động đó thường chỉ phát ravào mỗi tối thứ Sáu, tiếng rền rĩ của cái động cơ xe máy phân khối lớn. Chúng tôi sẽ tự cho là mình tưởng tượng ra nếu con chó đằng sau bức tường nhà Quý bà Hodge không sủa inh ỏi lên, như nó vẫn thường làm vào mỗi tối thứ Sáu khi nghe thấy tiếng xe quen thuộc. Không lẽ chú Foley vội về nhà vào giữa ban ngày sau khi nghe được tin về chuyến viếng thăm của ông Jimmy Sullivan kia?

Khoảng nửa phút sau, bóng một chiếc xe máy lù lù xuất hiện trên đỉnh đồi. Nhưng cái xe đó hơi nhỏ so với con xe hầm hố mọi ngày của chú Foley, cả đám phải mất một lúc mới nhận ra cái người đang cưỡi trên xe chính là chú Foley, bởi hôm nay chú không hề đội mũ bảo hiểm, trên mình cũng không hề khoác cái áo da quen thuộc thường ngày. Nhưng khi chú phóng xe xuống đồi thì chúng tôi biết chắc đó là chú Can Đảm của mình. Đây là lần đầu tiên chúng tôi được chứng kiến một màn phóng xe đỉnh cao đến như vậy giữa thanh thiên bạch nhật.

Cô Teresa cũng vừa chạy ra cửa khi nghe thấy tiếng xe của chồng. Nhưng cô chỉ ngó ra một cái, rồi lập tức chui tọt vào trong nhà. Cô không chạy ào ra đón chú như mọi khi. Tiếng xe máy tắt ngúm, chú hấp tấp gạt chân chống xe xuống và chạy rất nhanh vào trong.

Chúng tôi không ai dám nhìn ai. Đứa nào cũng sợ phải nhìn thấy sự thất vọng trong mắt đứa kia. Trước đây, chú vội vã trở về trong niềm hạnh phúcsắp được gặp lại người vợ thân yêu. Nhưng có lẽ lần này, chú vội vã trở về cơn giận dữ vì bị phản bội. Chúng tôi nghe thấy tiếng chú hét to từ trong nhà vọng ra và cả đám càng khẳng định thêm nỗi nghi ngờ của mình.

Bất thình lình chú bật cửa, lao thẳng ra ngoài, cái kính vẫn đang đeo trên mặt. Chú sải chân chạy như bay qua các triền cát, về phía câu lạc bộ lướt sóng, giật thật mạnh cái chuông báo động treo trước sân. Những hồi chuông gióng giả vang lên khắp vịnh.

Phía bên này, ông Lão Làng lập tức ngó đầu ra khỏi hang, trong khi ở đầu bên kia, ông Galore cũng tò mò đi ra ngoài. Cô Teresa vẫn ung dung đi chậm rãi trên cát. Có vẻ như cô vừa thay một chiếc áo mới. Maps chạy thục mạng về phía chú Foley, cả bốn đứa còn lại cũng nháo nhác chạy theo. Và cả ông Lão Làng.

Chúng tôi ngơ ngác không hiểu chuyện gì đang xảy ra khi thấy nụ cười tươi bừng sáng trên mặt chú Foley. Có vẻ như chú ấy đi thẳng từ dưới công trường về vì trên mình chú vẫn đang mặc bộ đồ bảo hộ. Giờ chú đã kéo cái kính bảo hộ lên trên trán, để lộ đôi mắt đỏ hoe, mặt mày nhem nhuốc vì bụi.

Chú đứng thở hổn hển, miệng cười rất tươi, nhìn về phía cô Teresa, chờ đợi. Bọn chúng tôi rất ngạc nhiên khi thấy cô ấy chẳng tỏ vẻ ăn năn hay tội lỗigì cả. Trái lại, mặt cô tràn đầy hạnh phúc, nhìn chồng âu yếm.

“Này!” - chú Foley hét to - “Em có thấy anh hành động giống một thằng điên không?”

“Giống lắm!” - cô Teresa cười khanh khách.

Cả đám nín thở chờ đợi.

“Tôi có một việc muốn thông báo với mọi người” - chú hớn hở nói - “Sau ngày Chủ Nhật tuần trước, tôi cứ ngỡ là cuộc đời tôi đã chấm hết. Tôi đã nghĩ rằng mình chỉ là một thứ vô dụng bỏ đi. Và giờ tôi mới biết hoá ra bấy lâu nay vợ tôi đang giấu tôi một bí mật.” Chú quay sang cười toe toét với cô Teresa. Trong khi năm đứa chúng tôi run rẩy, hồi hộp chờ xem tên đứa nào sẽ được xướng lên, trở thành con nuôi của gia đình Foley.

“Có thật không em?” - chú hỏi lại lần nữa.

“Anh yêu, anh Jimmy Sullivan chắc chắn mà - và anh ấy biết rất rõ về mấy chuyện như thế này.”

Tự dưng sao cái ông Sullivan đó lại dính vào đây?

“Vậy tin tôi xin tuyên bố” - chú Foley giờ tay gãi gãi mớ tóc đang rối tung vì lúc nãy phóng xe quá nhanh mà không đội mũ bảo hiểm - “điều không thể dường như đã trở thành có thể. Một đứa nhóc tội nghiệp sắp sửa phải chịu đựng tôi rồi. Đúng vậy đó, mọi người đã nghe vợ tôi nói rồi đấy. Teresa đang mang trong mình giọt máu của tôi. Chúng tôi sắp có em bé!”

Trong suốt thời gian vừa qua ở vịnh Captain's Folly, năm thằng chúng tôi đã cùng nhau trải qua rất nhiều cung bậc tình cảm khác nhau, nhưng chưa bao giờ chúng tôi rơi vào trạng thái chết lặng người một cách toàn diện như bây giờ.

“Đó là một tin tuyệt vời đúng không mấy đứa?” - chú Foley phấn khích quay ra hỏi.

Chỉ có Maps là còn ú ớ phát ra được tiếng. Cậu ta nuốt nước bọt cái ực, nghe như tiếng ổ cắm bị ai đó rút phựt ra.

Cô Teresa đưa mắt nhìn Maps, sau đó lần lượt từng đứa chúng tôi: năm khuôn mặt vô hồn. Kế đó, cô nheo nheo mắt nhìn thật gần vào mặt năm đứa tụi tôi, như thể vừa phát hiện ra lý do tại sao tụi tôi lại cư xử lạ lùng như vậy mấy tuần vừa qua.

“Mấy đứa biết chuyện gì đúng không?” - cô mỉm cười âu yếm - “Cô cho rằng chuyện này xảy ra là tại mấy đứa hết.”

Chú Foley hét ầm lên, đứng thẳng người dậy, trố mắt nhìn vợ: “Ý em là sao?”

“Em nói thật đấy. Ngay trong ngày đầu tiên khi gặp bọn trẻ ở trên bãi biển, em đã có ý nghĩ rằng đã đến lúc chúng ta phải có một đứa con của riêng mình.”

Hai mắt của tôi như nhòe đi, hai tai tôi như ù đặc. Tôi có cảm giác như cùng một lúc bị một cú trời giáng vào mũi, một cú đấm vào tai, một cú dội vào đỉnh đầu và một cú đá vào lưng. Suốt quãng thờigian vừa qua, tụi tôi đã uổng công tranh giành sự ưu ái của cô Teresa, bởi ý nghĩ rằng có thể chú Foley sẽ nghĩ đến chuyện nhận con nuôi thật. Chúng tôi đã phí hoài những tuần lễ tự do quý báu của mình vào một giấc mơ không có thực. Giờ đây mọi chuyện đã rõ hơn bao giờ hết. Tôi cũng đã hiểu được lời cảnh báo từ những cánh hoa lupin héo úa rải trên sườn đồi. Cũng lí giải được tại sao cô Teresa không chịu nhào lộn cho chúng tôi xem nữa. Duy chỉ có một điều, tụi tôi vẫn chưa hiểu. Và Fido đã giúp tụi tôi tháo gỡ nốt nỗi băn khoăn đó: “Thế chú Jimmy Sullivan có biết chuyện này không ạ?”

“Chú ấy là bác sĩ mà cháu.”

Vậy là đã rõ. Chú ấy chính là một trong những vị bác sĩ đã dạt về đây trú ẩn trong suốt thời kì khủng hoảng.

“Cô đã nói chuyện với chú ấy tối Chủ Nhật tuần trước. Chú ấy hứa sẽ quay lại khám cho cô.”

“Chính chú ấy đã gọi điện đến chỗ làm của chú và để lại lời nhắn” - chú Foley sung sướng kể - “Chú đã sững hết cả người khi nghe được tin đó.”

Tụi tôi đã cố gắng cười tươi với chú, nhưng mọi việc cần có thêm thời gian. Giờ đám chúng tôi vẫn đang ngơ ngác chưa lấy lại thần sắc, có nguy cơ sắp hóa thành năm pho tượng đá. Có lẽ sau này người ta nên đặt năm bức tượng đá ngu ngốc này ở đây để cảnh tỉnh cho những vị khách của nhà McAnsh vào các năm sau: đừng bao giờ tìm kiếm điều gì quá khả năng cho phép của vịnh Captain’s Folly! Spark là đứa đầu tiên phá được tảng băng vô hình đó. Cậu ấy nhảy nhót khắp nơi, miệng gào lên điệp khúcquen thuộc:

“Hurrum! Hoo! Hee! Haw!...”

36

Chú Foley đã hứa sẽ mang đến cho chúng tôi một điều bất ngờ lớn nhưng nó mãi mãi không bao giờ có thể là điều mà chúng tôi mong đợi. Chiều Chủ Nhật sau đó, ngày cuối cùng của chúng tôi ở vịnh Folly, chú dành cả buổi chơi với tụi tôi. Đột nhiên, chú chỉ về phía một chiếc máy bay bạc đang lượn mòng mòng quanh vịnh.

“Kia rồi!” - chú Foley reo ầm lên - “Là Cyclone Jones! Tay đua cừ khôi, bất khả chiến bại.”

Chiếc máy bay quảng cáo đang trên đường bay về phía bắc, băng qua mấy cái vịnh nhỏ như Captain’s Folly để rồi đáp xuống một thành phố ven biển, nơi chú ấy sẽ viết lên nền trời xanh những dòng chữ quảng cáo. Tuy nhiên, vì chú ấy là bạn của chú Foley - một thành viên của đội đào hầm vào những ngàytrong tuần - nên chú đã đồng ý dùng một ít chất tạo khói biểu diễn cho tụi tôi xem thế nào gọi là nghệ thuật viết chữ trên không.

Sau khi tìm ra vịtrí của mấy chú cháu tụi tôi trên bãi biển, chiếc máy bay đột nhiên tăng tốc vụt lên cao, lượn tròn một vòng. Chú Cyclone Jones vẽ nên một chữ O khổng lồ bằng khói trắng ở ngay trên đầu tụi tôi, sau đó tiếp tục thẳng tiến về phía bắc.

Vì cứ phải ngửa cổ lên nhìn lên chữ O vĩ đại đó quá lâu nên cổ tôi nhức mỏi vô cùng. Tôi quyết định nằm dài ra cát, dùng tay che bớt ánh nắng chói chang của Mặt Trời, từ từ thưởng thức món quà bất ngờ mà chú Foley dành cho tụi tôi. Bốn đứa kia cũng lần lượt bắt chước theo, nằm xuống bên cạnh tôi.

Cô Teresa và chú Foley quay ra nhìn năm đứa tụi tôi, mặt đầy mãn nguyện khi thấy năm đứa khoái chí đến như vậy. Đúng lúc đó, cái vòng tròn bằng khói bỗng từ từ lan tỏa thành những vầng hào quang trắng muốt, giống như một cái tẩu thuốc vô hình đang nhả khói. Tôi chẳng cần đến cái khung ảnh cũ kỹ kia cũng có thể nhìn thấy được một điều thần kỳ đến như vậy. Tôi đã chán ngán cái khung gỗ chạm trổ đó rồi. Nó chứa đựng quá nhiều suy nghĩ đen tối hại người của tôi trong đó. Hơn nữa, thật là trẻ con khi nhìn thế giới chỉ qua một cái khung ảnh. Và thế là tôi quyết định đi ra triền cát, nơi tôi đã đánhdấu bằng một cái que, rồi đào cái khung ảnh kia lên. Như thường lệ, tôi lắc cho sạch cát bám trênđó đi, nhung tôi không dám đưa nó lên ngang tầm mắt của mình, bởi tôi sợ rằng nó sẽ lại phá hoại sự yên bình giữa tôi và bốn đứa bạn thân. Bởi giờ đây chúng tôi không còn lý do gì để đối đầu, cạnh tranh với nhau nữa.

Tôi nên làm gì với nó bây giờ? Chôn nó đi hay cứ bỏ nó lại đấy? Hay là vứt cái que đánh dấu đi? Nhung tôi sợ rằng sẽ có người tìm ra được nó. Biết đâu những cơn gió mùa Đông sẽ thổi tung lớp cát mịn, để lộ ra khung ảnh và người khác sẽ nhặt được, nhìn vào đó và bị lừa gạt giống như tôi. Tôi có thể mang nó về St. Roderick, tặng nó cho Mẹ Bề trên và không chừng người sẽ treo hình Chúa Jesus lên đó. Không được, tôi nghĩ tôi cần phải vứt bỏ nó hoàn toàn. Và thếlà tôi xách nó lên mũi đất phía nam, nơi thủy triều bắt đầu lên cao, quãng thật xa xuống nước. Nó sẽ được nước biển cuốn trôi ra khơi, đem theo những ảo tưởng của một thời niên thiếu.

Chúng tôi quyết định đi tới từng nhà nói lời tạm biệt với các cư dân đáng mến nơi đây. Chúng tôi sẽ không bao giờ quên được ông Galore Bàn Tay Vàng và những bản nhạc êm dịu hòa lẫn cùng tiếng sóng biển.

Ông Lão Làng có vẻ rất vui khi nhìn thấy chúng tôi. Lâu lắm rồi chúng tôi mới thấy ông phấn khởi và hồ hởi như vậy.

“Thật maylà hai tay ta vẫn còn lành lặn đút trong túi quần” - ông nói to đến nỗi chúng tôi phải lùi lại đằng sau vài bước - “Có lẽ nó là họ hàng với con Henry, cũng có thể là sinh đôi với Henry không kiết chừng. Nhưng ta dám chắc một điều: nó là một con cá mú to bự. Và rất hiền lành nữa!”

Có vẻ như ông Lão Làng đã quay trở về với công việc cũ của mình, ông đã tìm lại được lý do tồn tại cho bản thân.

Fido đột nhiên tiến tới trước mặt ông và rụt rènói: “Ông O’Leary! Cháu dã dùng con trai để làmmồi câu. Cháu đã thử cả cá trích nhưng con trai vẫn là tốt nhất!”

“Mi nghĩ vậy sao?”

“Như ông đã từng nói, nó trông thật hơn!”

“Đúng, đúng” - ông Lão Làng gật gù - “Ta sẽ ghi nhớ điều này. Lấy trai làm mồi câu! Ta sẽ nhớ kỹ điều đó.” Nhưng cứ theo cái ánh mắt đầy nghi kị mà ông đang nhìn Fido thì có vẻ như ông sẽ tiếp tục làm theo điều mà ông cho là đúng, chứ không đời nào nghe theo lời khuyên đó của Fido.

Ông khoanh tay trước ngực, nói lời từ biệt với đám tụi tôi: “Mới đây mà tụi bay đã phải đi rồi. Ta sẽ rất nhớ mấy đứa đấy.” Câu nói chân tình ấy khiến năm đứa chúng tôi vô cùng cảm động, xen lẫn chút ngạc nhiên.

“Mấy trò nghịch ngợm của tụi bay khiến ta nhớ lại thời niên thiếu của mình. Ta chỉ khuyên mấy đứamột điều, và hãy nhớ cho kỹ: đừng lớn lên và trở thành một lũ khù khờ giống như ta!” -sau đó ông vẫy tay bảo chúng tôi đi về, để ông quay lại với công việc chuẩn bị mồi câu của mình. Dám chắc ông sẽ câu được mọi thứ, trừ con cá mú sinh đôi với Henry - nếu quả thực nó có tồn tại.

Chúng tôi không trực tiếp nói lời tạm biệt với ông Hai Martin và ông Watson Đồng Hồ Mặt Trời. Người thứ nhất vẫn đang cặm cụi kiểm tra khu vườn của mình trong đôi dép nhung màu xanh-đỏ, như thể nếu ông nhìn lâu thêm một chút nữa thì mấy cái quả trên cây sẽ chín nhanh hơn. Người thứ hai, ông lão nấu rượu vẫn đang trầm tư suy nghĩ trong cái thế giới riêng của mình. Quý bà Hodge vẫn giam mình đằng sau những bức tường dây thép gai kín mít. Kỳ nghỉ ởvịnh Captain’s Folly của chúng tôi đến đây là kết thúc, chúng tôi bình tĩnh đón nhận những tháng ngày sắp tới ở viện St. Roderick.

Sau bữa sáng, ông bà McAnsh lấy mũ ra khỏi giá, rồi bảo chúng tôi xách hành lý theo. Lấy cớ là chân của bọn tôi đã to lên sau kỳ nghỉ và không còn đi vừa giày nữa, chúng tôi xin phép ông bà cho phép đi chân trần và cất giày vào trong vali, cùng với mấy bộ quần áo ngủ đã sờn rách, mấy cái khăn tắm đen sì, và mấy bộ đồ bơi đã mờ chữ Bột mì Mãi Vươn Cao.

Khi chúng tôi đi qua bãi biển, các anh trong câu lạc bộ lướt sóng cũng vừa mới đi tập luyện về. Tuy rằng chúng tôi không thân đến mức có thể biết hết tên của cả đội nhưng mỗi người đều đã được chúng tôi đặt cho một cái biệt danh: anh giọng kim khí, anh bia bọt, anh ngủ gật, anh đuôi cá... cả đội gật đầu, giơ tay vẫy chào tạm biệt năm đứa tụi tôi.

Chú Foley và cô Teresa đang đứng đợi chúng tôi ở chỗ cửa tiệm. Đây có lẽ là lời chào tạm biệt khó khăn nhất trong cuộc đời của chúng tôi. Cho tới trước kỳ nghỉ này, chúng tôi không nghĩ rằng mình sẽ nhớ bất kỳ ai, ngoài sơ Ursula vui tính.Ông bà McAnsh vội đe ngay chúng tôi rằng không được dừng lại chào cô chú quá lâu, rằng chúng tôi không được phí thơi gian, nếu không sẽ bị lỡ xe buýt – chiếc xe sẽ đưa chúng tôi đi thẳng lên thành phố, nơi chúng tôi sẽ bắt chuyến tàu đêm đi về phía tây. Cô chú chạy lại bắt tay từng đứa. Tay chú Foley thô ráp, bàn tay chú to đến nỗi cả bàn tay và cổ tay của tôi nằm gọn lỏn trong đó. Chẳng trách côTeresa như biến mất trong vòng tay của chú vào mỗi tối thứ Sáu. Tụi tôi đã quá quen với bàn tay mềm mại của cô Teresa, ngay từ ngày đầu tiên đặt chân tới đây. Chúng tôi thấy trưởng thành hơn hẳn, so với lần đầu khi được cô thoa kem chống nắng cho. Một tay cô nắm chặt lấy tay tụi tôi, tay kia vuốt má đầy yêu mến.

“Các cháu đã mang tới may mắn cho cô chú” – cô nói.

Cô Teresa vòng tay ôm lấy “món đồ” vừa mua được của mình.

Chúng tôi vui vẻ đi tiếp lên trên đồi, bóng cô Teresa và chú Foley đã khuất sau lùm cây. Bỗng nhiên một tiếng đàn piano vọng tới tai tụi tôi.

“Ôi Chúa ơi!” - ông Bandy McAnsh làu bàu.

Ông Galore đang chơi bài “Tôi tô những đám mây bằng ánh Mặt Trời” - bài yêu thích của cô Teresa.

Spark vừa đi vừa nhún nhảy theo tiếng nhạc vui tươi, hai tay đưa qua đưa lại như đang vẽ tranh lên nền trời xanh ngắt.

“Cậu ta điên rồi, các cậu ơi!” - Fido cười khanh khách. Và đột nhiên cậu ấy khựng lại như vừa phát hiện ra một điều gì đó mới lạ về bản thân. Cái câu “Các cậu ơi!” của cậu ta hôm nay nghe có vẻ hơi ồm ồm - “Eyeee! Nghe giọng tớ này! Tớ đang vỡ giọng!”

Chúng tôi đã trở thành những chàng trai tháng Mười Hai thật rồi.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: