Chương 27 - 28 - 29 - 30

27

Cuối tuần ấy lại thêm một cái bóng vô hình bao trùng lấy toàn vịnh Captain’s Folly: Cái bóng của St. Roderick.

Không cần bà McAnsh nhắc nhở, chúng tôi cũng ý thức được rằng: ngày trở về St. Roderick đang gần kề. Đã đến lúc, theo lời bà McAnsh, chúng tôi phải viết một bức thư cho Mẹ Bề trên ở St. Roderick và kể về kỳ nghỉ vui vẻ đáng nhớ của mình.

Ở nơi đó, không khí lúc nào cũng âm u và ảm đạm. Đằng sau những bức tường lớn ngoài cồng, đứng sừng sững là viện St. Roderick ba tầng lạnh lẽo cùng cái tầng gác mái ngột ngạt bức bối. Toàn bộ khu nhà được sơn màu xám buồn tẻ như những chiếc tàu chiến, mái nhà lợp ngói màu da cam xỉn đặc, được nung từ thứ đất sét bao bọc xung quanh thị trấn. Đây sẽ vẫn là nhà của năm đứa tụi tôi trong năm tới. Sau đó, nếu vẫn chưa có ai chịu nhận nuôi chúng tôi, cả đám sẽ bị chuyển tới một nhà dòng khác – nơi chúng tôi sẽ được huấn luyện cách làm ruộng.

Tương lai đó thật chẳng ai trong đám tụi tôi mong muốn.

Spark được cử thay mặt cho cả nhóm viết thư cho Mẹ Bề trên, sau khi vừa đi cầu nguyện ở Serenity về, mà không có ông mà McAnsh. Chúng tôi tự hiểu là hai vợ chồng họ cần phải đi kiếm cái gì đó để uống. Không hiểu bằng cách nào mà mấy viên sỏi có thể chui lọt vào trong giày của tụi tôi, thế là cả đám phải ngồi lại giũ giày.

“Sơ Mặt Cá kính mến…” – Spark bắt đầu.

“Cậu không định viết thế thật đấy chứ?” – Misty trợn tròn mắt hỏi.

“Sao không? Bọn mình vẫn gọi sơ như thế mà.”

Trong khi tinh thần bốn đứa tụi tôi mấy hôm nay căng như dây đàn vì lo nghĩ thì Spark vẫn vui tươi như không có gì xảy ra. Sự lạc quan ấy rõ ràng không phải tự dưng mà có. Chẳng nhẽ Spark tự tin đến vậy sao, rằng cô Teresa chắc chắn sẽ chọn cậu ấy?

Cậu ấy ngồi ở cái bàn trong phòng khách nhà McAnsh hý hoáy viết, miệng thì lẩm bẩm. Câu đầu tiên của bức thư như thế này: “Chúng con rất lấy làm tiếc khi nghe tin đàn bò thiến đã nổi điên ở phiên chợ và húc đổ tưởng của viện St. Roderick…”

“Húc đổ cơ á?” – Misty hốt hoảng kêu lên.

Ngay đến cả Fido – mấy hôm nay lầm lì chẳng nói tiếng nào kể từ sau đám tang cho con cá mú Henry tại khu cắm trại bỏ hoang – cũng đã nhảy dựng lên khi nghe thấy tin đó.

“Chúng lao như bay về phía bờ tường, đâm thẳng mặt vào đó! St. Roderick giờ chỉ còn là đống gạch đổ nát! Hãy yên nghỉ nhé, St. Roderick!”

“Cậu đang đùa đấy hả?”

“Không hề. Tớ thậm chí còn nghe thấy tiếng gạch rơi vỡ mà! Whirrr-rm! Dum-diddle-dum! Làm tớ choàng tỉnh giấc!” – Spark cắm cúi viết tiếp – “Trong khi chờ người ta xây dựng lại St. Roderick, chúng con rất lấy làm hạnh phúc nếu được nán lại ở vịnh Captain’s Folly này. Hơn nữa, chúng con đang bị thủy đậu, quai bị, sởi và một bệnh rất quái ác.”

“Bọn mình có làm sao đâu!” – Fido phản đối, như thể sẽ bị đem đi điều trị như một con chó chăn cừu bệnh tật.

“Không á? Nhìn tớ xem!” – Spark ngửa mặt lên ho sù sụ, sụt sịt mũi, thở hổn hển, hai tay đấm thình thịch vào ngực, giả vờ như sắp ngất… sau đó lại bò ra viết tiếp: “Chúng con sợ sẽ lây sang những người khác ở St. Roderick nếu chúng quay về đó ngay bây giờ. Vì thế chúng con rất lấy làm hạnh phúc nếu có thể ở lại đây để không làm lây bệnh sang cho mọi người. Chúng con vẫn luôn nhớ về các sơ, những cậu nhóc tháng Mười Hai. Xong, các cậu thấy sao?”

“Spark,” – Misty nói – “Chúng ta sẽ xơi mấy cái roi vào đít cho coi. Đảm bảo Mẹ Bề trên sẽ nổi điên lên với bức thư này.”

“Tớ chẳng sợ.” – Spark thản nhiên nói – “Cậu thấy đấy, tớ có lẽ sẽ không quay trở lại đó.”

“Hãy cùng nhau biểu quyết đi.” – Maps đột nhiên này ra một ý.

“Biểu quyết chuyện gì?”

“Xem ai sẽ ở lại.”

Lại một lần nữa, nỗi ám ảnh bấy lâu nay của chúng tôi được gợi ra một cách thẳng thắn. Maps đứng dậy, bước ra ngoài bứt vài ngọn cỏ rồi đi vào nhà. Tay cậu ta nắm lại như một cái bình hoa tí hon, bên trong là năm ngọn cỏ vừa bứt.

“Đây là năm ngọn cỏ. Độ dài của chúng không bằng nhau. Chúng ta mỗi đứa hãy chọn một ngọn. Tớ sẽ lấy ngọn cỏ cuối cùng còn lại. Ai lấy được ngọn dài nhất sẽ là người chiến thắng.”

Nói xong, Maps giơ tay ra phía Fido cho cậu ta chọn trước. Vẻ mặt Fido lo lắng thấy rõ.

“Không tin cậu ta được!” – Spark bất ngờ phản ứng – “Maps biết rõ ngọn cỏ nào dài nhất.”

Và mặc dù đang chối đây đẩy nhưng Maps đúng là loại người dám làm thế lắm.

“Vậy thì tớ sẽ tráo chúng lên lần nữa.” – Maps vừa nói vừa đưa hai tay ra sau lưng trộn năm nhánh cỏ vảo với nhau – “Giờ thì tớ cũng chẳng thể nào đoán được đâu là ngọn dài nhất. Tớ làm gì có mắt ở sau gáy đâu, đúng không?”

Fido vẫn lại là đứa bị buộc phải chọn đầu tiên.

“Đừng có dại tham gia.” – Spark cảnh cáo.

“Tớ sẽ không chơi trò này đâu.” – Tôi nói.

“Tớ cũng thế.” – Misty bắt chước.

Và giờ thì Fido cũng rụt ngay tay lại, như thể sợ bị đám cỏ kia đớp vào tay.

“Một lũ nhát chết!” – Maps dài giọng khích bác.

Tuy nhiên, vẫn không đứa nào chịu tham gia trò chơi của cậu ta. Và thế là Maps bực bội quăng nhúm cỏ đó xuống sàn. Và Spark, trong tâm trạng đã bớt kích động hơn, viết lại một bức thư khác ngắn gọn kể với Mẹ Bề trên rằng chúng tôi đã có một kỳ nghỉ rất tuyệt vời. Cậu ấy còn nói da đứa nào đứa nấy giờ đen bóng như tượng một vị thánh người Châu Phi trong nhà thờ ở gần St. Roderick. Tiếp đó là ca ngợi hết lời những bộ đồ bơi mà các sơ đã may cho chúng tôi, mặc dù hiện đã bị thủng lỗ chỗ. Cuối tuần tới, ông Porter Bụng Phệ sẽ hạ thủy con tàu của mình. Kế đến là lễ hội lớn nhất trong năm của vịnh Captain’s Folly – lễ hội cứu đắm. Và một tuần sau đó – mười bốn ngày nữa thôi – là cả đám lên đường trở về St. Roderick (ít nhất là bốn đứa trong chúng tôi).

Về quãng thời gian vui vẻ mà Spark nói tới, chúng tôi đã phung phí phần lớn vào những nghi kỵ và ganh đua lẫn nhau. Mọi thứ trở nên ngột ngạt và căng thẳng chỉ sau hai tuần đầu tiên. Liệu đó có phải điểm yếu tội lỗi trong mỗi chúng tôi? Hay tất cả đều là do Cha Scully khi khuyên tôi tiết lộ bí mật ấy với bốn đứa còn lại? Đáng ra tôi nên để ý tới ngụ ý của những dấu cánh hoa lupin tàn sau hôm chơi trò đuổi rắc hoa với cô Teresa. Những cánh hoa héo úa ấy như muốn nói: chúng ta nên vui vẻ đón nhận hạnh phúc như những gì đang có, không nên chối bỏ hiện tại, mà hãy hy vọng rằng trong tương lai sẽ còn nhiều điều đẹp đẽ hơn thế sẽ đến với chúng ta. Ở một mức độ nào đó, kỳ nghỉ đang tươi đẹp của chúng tôi bỗng trở nên héo tàn như những cánh hoa lupin vàng bị bứt khỏi cành kia.

28

Những cơn sóng thủy triều dâng liên tiếp ập vào vịnh Captain’s Folly trong suốt một tuần lễ sau đó.

Ông Lão Làng kể cho chúng tôi nghe về cột sóng lớn đã từng ập vào đây trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế giống như một cơn đại hồng thủy. Người ta đã dự đoán được thời gian đổ bộ của nó nên toàn bộ cư dân trong vịnh Captain’s Folly – khi đó là khoảng hai trăm người – đã chuyển hết lên trên đồi cao. Để rồi sau đó, khi nước rút đi, bỏ lại trơ trọi một bãi biển toàn đất đá, bùn nhớt, rác rến…, vết tích một thời của con tàu đắm năm xưa. Nước biển lên cao tới mức nhấn chìm cả câu lạc bộ lướt sóng, đe dọa xâm chiếm cả hai cái hang của ông Lão Làng và ông Galore.

Tuy nhiên, qua khung ảnh của tôi, cơn sóng triều chỉ tạo thành một cái hồ lớn phía sau triền cát. Cửa tiệm của cô Teresa được bảo vệ bởi một bức tường cao làm từ các bao cát. Nước biển tràn vào hang của ông Lão Làng, làm rối tung bộ đồ nghề đi câu của ông. Tiếp đó, ở phía bên kia vịnh, sóng biển lướt qua những phím đàn piano tạo thành một bản nhạc du dương. Ngay khi nước rút ra xa tận đầu mũi đất, Spark, Fido, Maps và Misty sẽ chạy ào ra bãi biển để nhặt nhạnh những thứ đồ còn sót lại trong xác con thuyền đắm. Bất thình lình, sóng biển ập tới nhanh như ánh sáng đèn pha của của chú Foley, nhấn chìm cả con thuyền cùng bốn đứa tham lam kia. Từ đó không ai còn thấy chúng nữa.

Trong kịch bản trừ khử bốn đứa bạn lần này của tôi, không hề có đám tang nào được tổ chức. Cô Teresa và chú Foley sẽ đứng ở bên cạnh an ủi tôi, trong khi tôi rắc cánh hoa hướng dương và hoa giọt sương lên mặt nước.

Nỗi thất vọng với bản thân – vì không biết phải làm cách nào để gây ấn tượng với cô Teresa – càng lớn thì các giấc mơ của tôi càng trở nên chi tiết và rõ nét hơn.

29

Chủ nhật sau đó, khi thủy triều đã rút, ông Porter Bụng Phệ tiến hành hạ thủy con thuyền của mình. Mấy cái bánh xe được lắp vào giàn giữ thuyền, do đó cát mịn không còn là vấn đề với ông nữa. Socrates cũng được huy động ra để giúp. Cô Teresa nói, đây là công việc đầu tiên của chú ngựa già này, kể từ khi được đem ra kéo cày cho những người sống ở trên khu cắm trại bỏ hoang.

Ông Bụng Phệ hôm nay mặc độc một chiếc quần soóc kaki đã bạc màu. Cả người ông ướt sung mồ hôi, thình thoảng lại đưa tay quệt từng giọt đang chảy ròng ròng trên lông mày và bộ ria mép đỏ quạch như gừng.

Chú Foley là người cuối cùng nhập hội. Chú ấy có vẻ vẫn còn ngái ngủ. Mấy ngày cuối tuần vừa rồi, sáng nào chú cũng phải tham gia tập luyện cho cuộc thi cứu hộ sắp diễn ra vào tuần tới, lại còn giữ vị trí đội trưởng nữa chứ. Tuy vậy, chẳng mấy chốc, chú đã hăng hái ra giúp ông Porter rất nhiệt tình, mừng cho ông cuối cùng cũng hoàn thành tâm nguyện của mình.

Con thuyền được đưa ra chỗ nước cạn. Socrates được thả ra. Thân thuyền được sơn màu đỏ và màu kem, trông chẳng khác gì một lá cờ hiệu. Toàn bộ các thành viên của câu lạc bộ lướt sóng ra sức kéo mũi thuyền hướng thẳng ra biển, rồi nước bắt đầu tràn vào giàn giữ thuyền. Một vài bánh xe ô tô cũ được kê giữa thân thuyền với giàn giữ thuyền để tránh làm hư hại. Khi con thuyền có thể tự nổi trên mặt nước, tất cả đồng loạt kéo mạnh cho nó trượt khỏi giàn giữ.

Lễ hạ thủy này không được tiến hành đúng theo các bước thông thường, ví dụ như phải có người đập một chai rượu bí ngô vào mũi thuyền mới đúng. Ông Porter lội ra bên cạnh thuyền rồi ì ạch leo lên boong. Đúng lúc đó, ông lão làng từ dưới bãi biển gọi với lên: “Này, ông có biết mình đang làm gì không thế?”

Ông Bụng Phệ giật mình, ngó nghiêng xung quanh như một con ếch hồng: “Có chứ.”

“Thật sao?” – Ông Lão Làng gật gù – “ Vậy thì tôi chỉ có thể nói được một câu: ông đang làm một việc vô nghĩa và tẻ nhạt.”

“Ý ông muốn nói gì?”

“Ông đã mất bao nhiêu thời gian để đóng con thuyền này?”

“Năm năm.” – Ông Bụng Phệ tự hào nói, trong khi con thuyền vẫn tiếp tục lắc lư giữa làn nước.

“Không sai, năm năm! Và giờ khi ông đứng trên con thuyền đó, cuộc đời ông sẽ không còn cái đích nào để nhắm tới. Hãy nghe lời khuyên của người bạn già này, Porter, đừng có khư khư làm theo cái kế hoạch đó. Giờ tôi đã mất Henry rồi, tôi hiểu rất rõ mình đang nói cái gì.”

“Không có chuyện đó đâu!” – Ông Bụng Phệ vẫy tay cười rất tươi – “Đừng lo cho tôi. Tôi sẽ trang bị đầy đủ cho con tàu trước khi ra khơi.”

“Đừng có trông mong là tôi làm hoa tiêu cho ông.”

“Tôi đã bao giờ nhờ ông làm hoa tiêu đâu?” – Ông Bụng Phệ trố mắt ngạc nhiên.

“Ông đã không ít lần bóng gió nhờ vả tôi, ông quên rồi à? Nếu mỗi lần gợi í đó được tính là một chai bia rỗng thì có lẽ giờ vỏ chai bia đã chất cao tới tai tôi rồi.”

Ông Porter ngẩn mặt ra một lúc, sau đó ôm bụng cười phá lên, tiếp tục leo lên thuyền. Miệng ông lẩm bẩm chuyện gì đó về kinh nghiệm đi biển của ông Lão Làng chỉ dừng lại ở trình độ của một nhân viên tạp vụ trên tàu chở than tại càng thành phố. Ông giơ tay vẫy chào mọi người lần cuối rồi cùng con thuyền lướt nhẹ ra biển. Chú Foley cùng mọi người vỗ tay reo hò chúc mừng cho ông Bụng Phệ, ông Galore từ trên cao cũng chơi một bản nhạc vui.

Chúng tôi đứng lại nhìn theo cho tới khi không còn nhìn thấy bóng ông cùng con thuyền Britannia đâu nữa.

30

Những ngày sau đó, năm đứa chúng tôi như có thỏa thuận ngầm với nhau về việc không tới gặp cô Teresa quá nhiều như trước nữa. Bởi đứa nào cũng lo sợ rằng cô ấy có thể phát hiện ra âm mưu đen tối của mình. Tất nhiên, nếu có dịp để thu hút sự chú ý của cô thì vẫn không đứa nào chịu bỏ qua, trừ Misty. Sau sự cố xảy ra dưới hầm tối hôm nọ, cậu ta có vẻ như muốn bỏ cuộc. Nếu không có một lần…

Hôm đó, như mọi ngày, chúng tôi chạy xuống thung lũng chơi, dùng dao nhíp khắc lên mấy cái tượng bù nhìn bằng đất sét. Đột nhiên, Misty vụt chạy ra xa, rồi lấy tay bỏ kính xuống. Có gì đó khiến cho cậu ấy hoảng sợ.

Cậu ấy bịt bên mắt vẫn nhìn tốt vào. Con mắt còn lại mở to trừng trừng, đùng đục như lòng trắng trứng, nhìn đến khiếp. Tuy nhiên, cái điều mà cậu ta nói ngay sau đó còn đáng sợ hơn rất nhiều: “Tớ vừa nhìn thấy gì đó. Bằng mắt bên này.”

Misty dùng tay bịt chặt con mắt khỏe lại để thử nghiệm cho chắc.

“Cậu nhìn thấy gì?” – Cả bọn hồi hộp hỏi.

“Ánh sáng.” – Misty thì thào.

“Gì nữa?”

“Ôi, ôi…”

“Sao, sao?”

“Ánh sáng.” – Cậu ta vẫn tiếp tục nhắc lại.

“Ánh sáng kiểu gì?”

“Chiếu sáng rực rỡ… đẹp vô cùng… sáng bừng cả không gian…”

Cậu ấy quay đầu nhìn chăm chăm về phía thung lũng, như thể trước mắt là cả một kỳ quan rực rỡ, mà bốn đứa tụi tôi không nhìn thấy được. Không lẽ cậu ấy nhìn thấy Đức Mẹ đang hiện ra trước mắt? Và tại chính nơi đó đang mọc lên một nhà thờ lớn? Biết đâu chừng Misty Hayward sẽ không chỉ được cô Teresa và chú Foley nhận nuôi mà còn được phong thánh nữa thì sao.

“Còn gì nữa?” – Maps hỏi dồn.

“Một khuôn mặt…”

Thôi đúng rồi! Là Đức Mẹ!

Mọi cử chỉ của Misty được tám con mắt còn lại dõi theo từng tí một. Đột nhiên, cậu ấy buông tay, mở nốt bên mắt lành lặn ra, sau đó quay về phía mấy con bù nhìn bằng đất sét và thở dài: “Là mặt của một trong mấy con bù nhìn kia.”

“Ý cậu là cậu nhìn thấy được bằng con mắt hỏng kia sao?”

“Misty thẫn thờ gật đầu: “Đây không phải là lần đầu tiên chuyện như vậy xảy ra đâu. Tớ vẫn lờ mờ nhìn được bằng bên mắt kém đó. Đầu tiên sẽ là ánh sáng chói chang và màu sắc rực rỡ. Sau đó sẽ là hình ảnh của những thứ mà tớ đã thấy bằng bên mắt lành kia.”

Cả đám chúng tôi thở phào nhẹ nhõm. Nhưng đứa nào cũng phải công nhận một điều rằng: chuyện gì cũng có thể xảy ra ở nơi vịnh Folly này và không ai có thể kiểm soát được.

“Mấy đứa đang có chuyện gì đúng không?” – Một hôm, cô Teresa đi về phía tụi tôi đang ngồi và nhìn Spark hỏi.

“Tất nhiên là không ạ.” – Spark nói.

“Cô thấy đứa nào cũng có vẻ buồn buồn.”

Cả đám gượng gạo ngẩng mặt lên mỉm cười với cô.

“Đấy, phải cười thế chứ. Hay là các cháu nhớ nhà?”

“Nhớ gì ạ?” – Spark giật mình hỏi.

“Nhà.”

“Ý cô là viện St. Roderick ấy ạ?”

“Các cháu phải vui lên chứ.” – Cô với tay xoa đầu từng đứa – “Hóa ra chú Foley không phải là người duy nhất có cùng cảm giác này. Mấy đứa vẫn đang ở đây cơ mà, đã phải quay trở lại đó đâu. Hãy nghĩ tới tất cả những trò vui mà các cháu sẽ được tham gia vào cuối tuần tới trong khi cô làm việc.”

“Cô làm việc gì ạ?”

“Hôm nay sẽ là ngày bận rộn nhất trong năm ở cửa tiệm của cô. Cô sẽ phải phục vụ rất nhiều khách.”

Kế đó, cô bó gối ngồi xuống cạnh chúng tôi, trầm ngâm suy nghĩ. Trông cô có vẻ buồn, như thể nỗi buồn của chúng tôi lây sang cả cho cô.

Misty quyết định làm cho cô vui lên: “Cô ơi, chúng ta chơi trò nhào lộn đi.”

“Ôi, không được đâu.” – Cô xua tay nói vội.

“Một cú thôi ạ. Chỉ một cú thôi.” – Misty giơ một ngón tay lên năn nỉ.

“Cô hiểu. Nhưng cô e rằng cô không nên nhào lộn lúc này.”

Misty nhíu mày trước câu từ chối khó hiểu kia, nhưng rồi mắt cậu ấy bừng sáng như thể đã hiểu ra vấn đề: “Vậy ngày mai thì được, đúng không cô?”

“Ngày mai thì khác gì hôm nay?” – Cô Teresa bật cười.

“Vì ngày mai là thứ Sáu. Chẳng phải cô nói cô rất thích nhào lộn vào các thứ Sáu đó sao?”

“Đúng vậy, Misty. Thường thì là vậy.” – Rồi cô lắc đầu nói tiếp – “Nhưng không phải thứ Sáu tuần này. Và có lẽ là nhiều thứ Sáu sắp tới đây nữa cũng vậy.”

Chẳng đứa nào buồn hỏi cô tại sao. Bởi đứa nào cũng sợ phải nghe một câu trả lời sẽ làm chúng tôi thất vọng hoặc đau khổ. Tuy nhiên, có một điều chúng tôi không lý giải được: chuyện gì đã xảy ra với cô, khiến cô tỏ ra trầm ngâm và ít nói đến như vậy?

Cả đám nhìn cô đầy lo lắng. Cô đang ngoái đầu nhìn chằm chằm về phía khu vườn nhà ông Hai Martin, rồi thở dài nói:

“Tội nghiệp ông già đó. Ông ấy rất lịch sự mỗi khi tới cửa tiệm của cô, mặc dù hầu như lần nào ông cũng quên mất cần phải mua thứ gì. Thường thì cô sẽ đọc qua cho ông nghe tất cả những món đồ có trong cửa tiệm, để xem ông có nhớ ra cần mua gì không. Nhưng thỉnh thoảng cô đã không làm vậy.” – Mắt cô lại nhìn về tấm biển công lý trước vườn nhà ông và nói – “Cô tự hỏi không biết điều gì sẽ xảy ra, nếu một buổi sáng thức giấc, ông Martin chợt nhận ra mọi thứ đã thay đổi.”

Theo lời cô Teresa thì tấm biển ấy nên sửa thành:

Vẫn Còn Có

Ngày Mai

Đối với tôi, ý nghĩa của câu đó cũng mang màu sắc ẩn dụ như mấy cánh hoa lupin úa tàn trên sườn đồi hôm trước. Chỉ có điều, cô muốn biến cái ý nghĩa ua uất và tuyệt vọng kia của ông Martin thành một cái gì đó tươi sáng và tràn trề hy vọng hơn. Sau khi cô Teresa quay trở về cửa tiệm, chúng tôi ngồi lặng im không ai nói với ai câu nào. Nhưng câu nói của cô vẫn in đậm trong tâm trí tụi tôi cho tới cuối ngày. Đó là một thách thức mới đối với mỗi chúng tôi.

Tối hôm đó, ở nhà McAnsh, chúng tôi dùng mấy cái khăn mang ký hiệu Hãy dừng thuyền ngay lập tức và Tôi cần hỗ trợ y tế để lau bát đĩa. Sau đó, chúng tôi chui xuống bên dưới mấy cái chăn mang hình tín hiệu xấu. Không ai trong phòng chợp mắt được. Ngoài kia, ánh trăng đang tỏa sáng khắp thung lũng. Sóng biển rì rầm như tiếng ngáy của một con quái vật khổng lồ vọng lên từ dưới đáy đại dương.

Maps và Spark là hai đứa lên tiếng đầu tiên, gần như cùng lúc lao ra phía cửa: “Tớ xí khu vườn, khu vườn là của tớ!”

Misty, Fido và tôi te tái chạy phía sau. Hai đứa đó cứ chân trần như thế, chạy như bay trong đêm tối về phía nhà ông Martin. Dưới ánh trăng xám bạc sáng lấp lánh ấy, cả người chúng tôi sáng bừng lên như có hiệu ứng lân quang. Maps và Spark vừa chạy vừa xô đẩy nhau, không ai chịu nhường ai. Vừa đặt chân vào tới cổng vườn nhà ông Martin thì hai đứa quay ra choảng nhau, ngã bổ chửng ra nền sỏi trắng trong vườn, xô đổ cả tấm biển công lý mới làm cô Teresa bận lòng chiều nay.

Trước đó mấy ngày, chúng tôi vừa được chứng kiến một trận ẩu đả khác không kém phần quyết liệt: Đám mèo con giờ đã lớn, chúng xông vào đánh nhau và cào cấu lẫn nhau khi thấy Socrates mang cá từ dưới biển lên trên bờ đá. Nhưng cuộc chiến tranh giành thức ăn đó cũng không làm chúng tôi buồn lòng như những gì đang diễn ra ngay trước mắt chúng tôi: một cuộc ẩu đả trong nội bộ nhóm.

Vì sợ đánh thức ông Hai Martin dậy nên Maps và Spark không dám kêu la hay chửi bới gì nhau, nhưng tay chân vẫn đang thụi vào nhau huỳnh huỵch không thương tiếc. Ở bên ngoài, ba đứa chúng tôi nghe rất rõ tiếng đấm nhau bùm bụp, tiếng hằm hè, xuýt xoa vì đau, kèm theo tiếng nứt răng rắc của tấm biển công lý dưới chân tụi nó.

Hai đứa không hề nhỏ tiếng như chúng nghĩ. Misty, Fido và tôi vội thụt lại ra đằng sau bờ giậu, khi phát hiện ra điều mà hai đứa kia chưa kịp nhận thấy: một cái đầu ló ra từ cửa sổ. Một tiếng kêu khẽ vang lên giữa bầu trời đêm:

“Thiên sứ! Ôi Chúa ơi, thiên sứ!”

Maps và Spark ngay lập tức ngừng vật lộn, ngẩng lên xem tiếng nói đó từ đâu phát ra. Giọng của ông Hai Martin nhỏ dần, nhỏ dần, cuối cùng biến thành một tiếng khóc tỉ tê. Hai đứa kia vội vã chạy về chỗ ba đứa tụi tôi đang nấp và cả đám chạy như bay về nhà.

Mọi thứ diễn ra như một cơn ác mộng.

Mà phải đến sáng hôm sau, tôi mới nhận ra rằng đó không phải là một giấc mơ, khi thấy hai thằng Maps và Spark mặt mày thâm tím, thậm chí có vài vết máu do cào cấu. Từ cửa nhà McAnsh, chúng tôi rướn cổ nhìn qua vườn nhà ông Hai Martin. Không còn dấu vết tấm biển công lý đâu nữa, mọi thứ trong vườn đang bị xào xáo cả lên.

Sau đó, cô Teresa ra bãi biển ngồi nói chuyện với tụi tôi. Trông cô có vẻ rất đăm chiêu: “Trong số các khách hàng hôm nay của cô có ông Martin. Từ sáng sớm tinh mơ, ông ấy đã tới và bấm chuông liên hồi, cho tới khi cô chịu ra mở cửa tiệm thì thôi.”

Thì ra ông Martin muốn mua hạt giống hoa, và cô Teresa đã bán được toàn bộ số hạt giống vẫn mốc meo trên giá từ hồi cuộc khùng hoảng xảy ra.

“Ông ấy như một người khác hẳn!” – Cô nói, chỉ tay về phía khu vườn. Ông đã vứt bỏ tấm biển công lý kia đi và rẽ luống trồng hoa. Chỉ tới mùa Xuân thôi là những luống hoa đó sẽ đồng loạt nở hoa rực rỡ.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: