Chương 23 - Chương 24
23
Vào những đêm không uống rượu, vợ chống ông bà McAnsh thường bắt tụi tôi lên giường ngủ ngay sau khi làm xong việc nhà, khiến chúng tôi có cảm giác như trở lại với bầu không khí ngột ngạt nghiêm khắc ở St. Roderick.
Thật tiếc là không đứa nào có cơ hội nói lời cảm ơn ông Watson Đồng Hồ Mặt Trời về món rượu bí ngô tuyệt vời của ông, đã giúp làm cho ông bà McAnsh ngủ không biết trời trăng gì cho tới trưa ngày hôm sau.
Hết chai này đến chai khác, cái sân sau của nhà ông bà McAnsh đã chất đầy vỏ chai rượu rỗng. Trong khi cái kệ bếp nhà ông Watson ngày một vơi dần đi, đến mức chúng tôi thấy sẽ thấy khó lòng lấy trộm thêm một chai nào nữa mà không bị phát hiện.
Ông bà McAnsh thường pha trà trong ruột cái ấm sành lớn với lớp menđã bong lỗ chỗ thành từng mảng. Công việc đổ bã chèvà rửa cái ấm cổ lỗ sĩ ấy cũng nằm trong phần công việc nhà của chúng tôi. Chính Maps là đứa đưa ra gợi ý rằng nếu biết cách pha chế lại một chút mấy cái lá chè cũ đó, chúng tôi sẽ có được thứ nước có màu na ná giống màu rượu bí ngô. Và thế là… ngày ngày, chúng tôi hăm hở mang ấm ra cái nền sau nhà để súc rửa và gom lá chè cũ, sau đó nhét vào mấy cái vỏ chai cũ đã rỗng nước, đổ đầy nước và đóng nút chai kín mít. Cuối cùng là lén lút sang nhà ông Watson và đặt chai lại trên kệ bếp, đằng sau mấy chai rượu thật.
Ngày hôm đó, khi đang nằm phơi nắng ngoài bãi biển, bỗng nhiên chúng tôi nhìn thấy ông Watson lật đật lao xuống triền đồi, kiểu nửa chạy nửa lăn, như thể đã lâu lắm rồi ông không đi với tốc độ nhanh đến vậy, nên giờ đang phải tập lại từ đầu. Trên tay ông là một chai rượu còn đầy nguyên, và ông đang thẳng tiến về nhà McAnsh. Tất nhiên là chúng tôi cắm đầu cắm cổ chạy trước về tìm chỗ nấp để nghe câu chuyện của ba người đó. Mười cái tai được giương lên hết cỡ, giống như những bông hoa giọt sương đang vươn mình đón ánh nắng của buổi trưa hè.
Ông Watson nói rất to: “Tôi có việc muốn nhờ và tôi cam đoan là hai người sẽ không thể từ chối. Hãy giúp tôi nếm thử chai rượu này nhé?”
“Chuyện nhỏ” - bà McAnsh vui vẻ nói - “ Đúng không anh?”
Năm đứa chúng tôi đột nhiên cảm thấy tội lỗi đầy mình.
“Tất nhiên rồi” - ông Bandy lẩm bẩm.
Việc đầu tiên chúng tôi làm lúc đó là nhìn quanh tìm đường chạy trốn đầu tiên, cả đám sẽ trốn ra sau mấy cái bụi cây, sau đó chạy một mạch lên đồi. Từ trong nhà phát ra tiếng mở tủ cốc, tiếng cốc va vào nhau lanh canh, và cuối cùng là tiếng rót rượu.
“Xin thú nhận là” - ông Watson vừa hấp tấp rót rượu vừa nói - “trong cuộc đời nấu rượu của mình, chưa bao giờ rượu của tôi lại có vị lạ đến như vậy”.
“Chúc sức khỏe!” - ông Bandy nói.
“Chúc sức khỏe!” - tiếp theo là tiếng của bà vợ.
Tai năm đứa cẩng hết cỡ, nín thở chờ đợi. Và gần như ngay lập tức, cả đám nghe thấy hai tiếng phun phì phì, kèm theo tiếng ho khùng khục từ trong nhà vọng ra.
“Xin thứ lỗi cho chúng tôi” - bà McAnsh vội nói - “Có lẽ giờ vẫn còn hơi sớm cho việc thử rượu”.
“À, nhưng ông bà có vẻ vô cùng ngạc nhiên đấy chứ?” - ông Watson nôn nóng hỏi.
“Tại sao chúng tôi lại phải ngạc nhiên?” - bà McAnsh chối vội - “Bạn thân mến, chúng tôi chẳng phải đã quá quen thuộc với rượu của ông rồi sao. Đúng không anh?”
“Không sai” - ông Bandy đề thêm.
“Đúng, đúng. Chính vì vậy tôi mới muốn hỏi xem hai người có phát hiên ra vị gì lạ trong chai rượu này không?”
“Không hề. Và tôi tin rằng chồng tôi cũng đồng ý với ý kiến của tôi” - bà nói rất to, đầy vẻ ám chỉ. Mặc dù không được nhìn tận mắt nhưng chúng tôi dám chắc là bà đang đá vào chân chồng ở dưới gầm bàn - “Chai rượu này đạt đúng tiêu chuẩn Watson. Em nói đúng không?”
“Rất chuẩn” - ông Bandy tán thành.
Ông Watson ngạc nhiên thấy rõ: “Hai người không phát hiện ra vị gì lạ sao?”
“Ông Watson thân mến, tôi cũng đã từng kinh doanh trong ngành rượu bia, và tôi đảm bảo với ông rằng chai rượu này đạt tiêu chuẩn như tất cả các chai rượu bí ngô trước giờ của ông”.
“Thật không có gì khác sao?” - ông Watson vẫn không tin nổi vào tai mình.
“Không hề. Còn anh thấy sao, Bandy?”
“Không. Không một chút gì khác lạ cả” - ông Bandy trấn an - “Tôi thề đấy”.
“Vậy thì điều gì đã xảy ra với khẩu vị của tôi thế nhỉ?”
“Khẩu vị của mỗi người khác nhau mà, ông Watson”.
“Thật kỳ lạ. Tôi thề là chai rượu này có vẻ như…”
“Nói tôi nghe, ông thấy nó có vị như thế nào?” - bà McAnsh cao giọng hỏi lại, khiến ông Watson giật thót mình im bặt.
“Không, không… Tôi vẫn luôn tin tưởng tuyệt đối vào khả năng thưởng thức rượu của hai người mà. Nhưng tôi mong rằng ông bà sẽ không phật ý nếu tôi đem chai rượu này đi hỏi ý kiến thêm vài người khác nữa”.
“Ồ, tại sao ông lại phải phiền lòng đến vậy chỉ vì một chai rượu có vị hơi khác một chút?” - bà McAnsh khó chịu hỏi lại.
“Bà McAnsh thân mến, tôi đã thử thêm hai chai rượu khác nữa. và chúng cũng có vị giống y như chai này”.
Đến đây thì ông bà McAnsh không phản bác thêm một câu nào nữa. Tiếp đó là bóng ông Watson vội vã từ trong nhà McAnsh đi ra, trên tay cầm chai rượu bí ngô giả, rối rít chạy về phìa ông Lão Làng. Chúng tôi lục đục chạy theo, quyết không bỏ sót màn tiếp theo của vở kịch do chính mình khởi xướng.
“Sẽ là nói dối nếu nói rằng tôi không uống rượu. Và tôi cũng không có ý xúc phạm đến ông, ông Watson ạ. Nhưng để tình bạn trước nay của hai ta không bị sứt mẻ, có lẽ tôi không nên nếm thử chai rượu này. Ý tôi là, như thế sẽ tốt hơn cho ông. Tôi không muốn phải chê bai thẳng vào mặt người khác.”
“Ông O’Leary thân mến, tôi chỉ muốn một lời đánh giá chuyên môn từ ông mà thôi. Làm ơn, chỉ nhấp thử một ngụm thôi. Như vậy là đủ”.
“Lạy Chúa, như thế là quá nhiều”.
“Ông sẽ giúp tôi chứ?”
“Thôi được rồi, đưa chai rượu đây” - cuối cùng ông Lão Làng cũng miễn cưỡng đồng ý.
Ông Watson hớn hở chìa chai rượu đã mở nắp ra. Ông Lão Làng dùng tay lau qua cái miệng chai, sau đó giơ lên ngắm nghía một hồi, trước khi đưa lên miệng làm một ngụm lớn. Ngay lập tức, hai mắt ông trợn to như muốn nhảy bật ra khỏi tròng, trán và hai bên má đỏ lựng lên như trái cà chua. Ông nuốt ực một cái rồi gào rống lên: “Ôi Chúa ơi!”
“Sao thế, ông O’Leary? Ông phát hiện ra điều gì đó phải không?”
“Tôi phát hiện ra gì hả?” - giọng ông Lão Làng vẫn vang lên như sấm rền.
“Đúng vậy, nói tôi nghe đi” - ông Watson hấp tấp hỏi.
“Là vị nước trà cũ chứ gì nữa!”
“Không sai” - ông Watson vui sướng hét lên.
“Ông cũng thấy vậy sao?” - ông Lão Làng hoài nghi hỏi lại.
“Thật mà” - ông Watson giật vội lấy chai rượu - “Là trà. Trà lạnh! Ông không hiểu như vậy có nghĩa là gì sao, ông O’Leary?”
“Tất nhiên là tôi hiểu chứ” - ông Lão Làng gật gù nói - “Thay vì đổ rượi vào chai, ông đã đổ hết xuống cống, sau đó đổ nhầm nước trà cũ vào chai chứ sao”.
“Không, không, không, không hề. Đây là một phát kiến vĩ đại mà các nhà giả kim đã dày công tìm kiếm hàng thế kỷ nay. Cách biến chì thành vàng!”
Ông Lão Làng nhíu mày nhìn ông Watson như thể ông ta đã hóa điên: “Ông Watson, như tôi đã nói từ đầu. Tôi không hề muốn xúc phạm ông hay nói câu gì đụng chạm tới lòng tự trọng của ông. Nhưng phải thú nhận một điều: cái được cho là phát-kiến-vĩ-đại đó của ông chẳng khác gì biến vàng thành chì thì đúng hơn”.
“Để rồi xem. Để rồi xem. Tôi đang định đi đăng ký cho phát minh này của mình. Tôi sẽ được cấp bằng sáng chế và tôi sẽ lại có thể đi du lịch khắp thế giới một lần nữa, trước khi chết. Tôi sẽ không quên ông đâu, O’Leary. Xét cho cùng thì ông cũng là người đầu tiên xác nhận tính chính xác của phát minh này.”
Ông Lão Làng ngao ngán gật đầu, không buồn tranh cãi câu nào. Ông Watson đã quay trở về nhà, trên tay ôm khư khư chai rượu như ôm bảo bối. Lúc đi qua đám chúng tôi, ông còn hớn hở ngả mũ chào, làm Maps cười ngặt nghẽo.
“Ta đã sống ở đây nhiều năm, và nếu phải kể tên tất cả những gã ngu ngốc mà ta từng biết, có lẽ mười ngón tay là không đủ. Frind Watson là gã ngu ngốc nhất trong đám ngu ngốc nhất mà ta từng gặp. Trong giai đoạn khủng hoảng Kinh tế, bọn thanh niên thường chế ra các loại thuốc nổ có thể làm nổ tung đường ray xe lửa. Mặc dù mấy thứ đó vô cùng nguy hiểm nhưng chí ít thì chúng cũng có ích trong một số lĩnh vực. Chứ trà lạnh thì có công dụng gì?”
“Ông có thể đun sôi nó lên và uống nóng” - Spark gợi ý.
“Ai mà uống được thứ rác rưởi đó chứ” - ông Lão Làng cau có - “Mà ông già đó cũng tội nghiệp lắm. Nhiều nắm trước, ông ta từng đi du thuyền vòng quanh thế giới. Nghe nói khi dừng chân ở Naples, ông ta đã gặp phải núi lửa đang hoạt động và bị một viên đá to rơi vào đầu. Nhưng ta lại nghĩ là ông ta bị một cái chậu hoa rên bậu cửa sổ rơi vào đầu thì đúng hơn.” - ông Lão Làng đưa mắt nhìn theo bóng ông Watson đang hối hả chạy về nhà, sau đó quay sang phía tụi tôi và nói - “Nếu không, làm sao lý giải nổi có toàn trà lạnh trong chai rượu đó?”
Tất nhiên là chẳng có đứa nào dại mà đi giải thích. Trên đường về nhà, Misty bảo: “Có lẽ ở cái thung lũng này, ai cũng đã có lần bị chậu hoa trên bậu cửa sổ rơi trúng đầu ít nhất một lần”.
Rồi người ta đã thông báo với ông Watson rằng phát minh của ông không hề có tính thương mại, và rằng sẽ rẻ hơn rất nhiều nếu họ sản xuất trà theo cách thông thường, chứ không phải tạo ra rượu bí ngô trước, sau đó chờ đợi một sự biến hóa thần bí nào đó thành nước trà.
Điều đáng buồn là mấy cái biển báo của chúng tôi không hề được dỡ bỏ tử tế. Mỗi ngày, chúng lại bị người ta tông vào một cách thê thảm, đổ nghiêng đổ ngả trên đường. Cứ nhìn thấy chúng là tôi lại nhớ đến những lần trốn nhà ông bà McAnsh đi ăn trộm rượu.
24
Spark không phải là đứa duy nhất nghĩ ra nhiều mưu mẹo để chiếm cảm tình cô Teresa. Trong năm đứa chúng tôi, Fido là đứa có nhiều thông tin về bố ruột của mình nhất. Nghe nói bố cậu ta là một người đánh cá. Chẳng thế mà cậu ta có biệt tài câu cá giỏi hơn tất cả đám còn lại, cũng như Spark có biệt tài về ăn nói còn tôi có năng khiếu về hội họa.
Niềm đam mê câu cá bắt đầu khi chúng tôi tìm thấy mấy cần câu, móc câu và dây câu trong căn lều ở khu cắm trại bỏ hoang. Trong khoảng một tuần sau đó, không ngày nào chúng tôi không ngồi vắt vẻo trên các phiến đá đối diện với lều của ông Lão Làng để câu cá. Cứ mỗi khi làm xong việc nhà là chúng tôi lại phi ngay ra đó, ngồi câu cho tới khi bóng hoàng hôn bao trùm lấy đại dương. Không khí yên tĩnh và trong lành nơi đây khiến cho chúng tôi không ít lần ngủ gật trên bờ đá.
Chiến lợi phẩm sau mỗi lần đi câu của tụi tôi là những con cá trích, cá vụn nhỏ xíu xiu, hoặc loại cá có màu vàng và trắng đốm nâu trông rất lạ, trước giờ chúng tôi chưa từng thấy. Vào cuối mỗi ngày, chúng tôi sẽ lần lượt rải số cá mà mình câu được và đếm. Fido luôn là người thắng cuộc. Chẳng hiểu có phương thức gì đặc biệt mà đám cá cứ bu chặt lấy mồi câu của Fido, trong khi mồi câu của bốn thằng bọn tôi cũng ngon chẳng kém cạnh gì, thậm chí trông còn thật hơn là đằng khác. Ban đầu, cậu ta cứ sợ sẽ bị chúng tôi câu tranh hết cá, nhưng đến cuối ngày, đứa to mồm khoe khoang nhất luôn là cậu ta. Chính vì điều này có thể khiến cô Teresa chú ý hơn tới Fido nên bốn đứa nhóm chúng tôi quyết định cả nhóm sẽ không đi câu cá cùng nhau nữa, để đỡ phải đối đầu với Fido.
Không có gì là ngạc nhiên khi quyết định đó của chúng tôi khiến ông Lão Làng vui đến vậy. Chẳng phải lâu nay ông thường xuyên đứng từ trên cao theo dõi bọn tôi đó sao?! Trước giờ chúng tôi không hề tơ tưởng gì đến con cá mú Henry cả, không phải chỉ vì nó là con mồi của riêng ông Lão Làng mà còn vì mấy cái cần câu của tụi tôi sẽ không chịu nổi sức nặng của Henry. Hơn nữa sẽ theo cái bóng đen xanh xám lượn lờ qua lại mà ông Lão Làng bảo đó là Henry thì có vẻ như con cá mú này không bao giờ lai vãng tới gần khu chúng tôi vẫn thường ngồi câu cá.
Và niềm đam mê câu cá của chúng tôi cũng kết thúc từ đây.
Nhưng không phải với Fido.
Vào một buổi chiều muộn, khi thủy triều đã lên hết và mặt biển đã yên ả trở lại, Fido từ từ đẩy chiếc xuồng nhỏ nhặt được từ bãi rác hôm nọ xuống nước. Chỉ có mình cậu ta và cái mái chèo làm từ cán chổi cũ. Fido thường chèo xuống hơi quá chỗ nước có xác con tàu đắm một chút. Tôi vẫn nhớ đã vài lần cậu ta tìm cách lẩn đi một mình lên cái vìa cỏ cao ở trên vịnh để quan sát, và giờ thì - cùng với Spark, Maps và Misty - tôi đã nhìn thấy được kết quả của nghiên cứu ấy.
Ông Lão Làng, hãy cẩn thận!
Xác con tàu vẫn luôn được cho là nơi trú ẩn của con cá mú Henry, và chúng tôi biết rất rõ mục đích của Fido khi liên tục chèo thuyền ra gần khu vực đó. Tất nhiên là bốn đứa còn lại, đứa nào cũng mong một điều xui xẻo gì đó sẽ xảy đến với Fido, trong lúc cậu ta đang hì hục giăng mồi câu dọc mạn xuồng. Mỗi lần cậu ta vui sướng kéo lên một con cá to là mỗi lần chúng tôi ngồi trên bờ nhăn nhó ghen tị.
Chiếc xuồng mỏng mảnh lướt nhẹ giữa làn nước đang lăn tăn sủi bọt của đại dương. Chúng tôi nhìn về phía lều của ông Lão Làng, cửa ra vào được mở hé nhưng không thấy bóng dáng của vị chủ nhân đâu.
Fido vẫn đang hùng hổ chèo xuồng tiến về phía trước. Spark quyết định phải báo cho ông Lão Làng biết.
“Ô-ông O’Lear-reee!”
Tiếng gọi vang vọng khắp thung lũng cuối cùng cũng kéo được ông Lão Làng loẹt quẹt đi ra cửa, trên miệng ngậm tẩu thuốc. Chúng tôi phát hiện ra rằng - theo cái cách bà McAnsh vẫn thường phân chia người uống rượu ra làm hai loại - ở hai bên bờ vịnh có hai kiểu hút thuốc trái ngược hẳn nhau. Ông Galore Bàn Tay Vàng có thể nhả ra cả một cột khói xám và đứng vào chính giữa đó. Trong khi ông Lão Làng thường bập từng hơi ngắn, và nhả khói liên tục, giống như một cái đầu tàu xe lửa đang ì ạch leo đồi.
Lại có thêm một cú giật cần câu mạnh mẽ từ phía Fido, khiến ông Lão Làng phải kéo ngay cái tẩu thuốc ra khỏi mồm.
“Ê!” - ông gào lên - “Thằng nhóc con kia!”
Fido giờ đã học được ít nhiều cách lờ đi người khác của Misty nên giờ rất bình thản ngồi trên xuồng câu cá tiếp.
“Thằng nhóc con trên cái thùng thiếc kia!”
Fido lại giật thêm được một con cá nữa, trong khi ông Lão Làng đứng từ xa huơ huơ hai nắm đấm một cách giận dữ. Một tay vẫn cầm cái tẩu thuốc đang ầm ĩ cháy, trông ông chẳng khác nào một người cầu mưa đang chuẩn bị nhảy nhót cúng tế.
“Thằng ranh con láo toét! Dám giả điếc với ta hả! Vào bờ ngay, nhỡ lật xuống rồi chết đuối thì sao? Sao không biết quý trọng mạng sống của mình thế hả” - ông dừng lại lấy hơi, trong khi Fido vẫn ngồi yên, không nhúc nhích - “Trả lại ta đi, thằng nhóc kia!”
Cô Teresa đang ở trong tiệm, nghe thấy thế cũng chạy bổ ra xem có chuyện gì đang xảy ra. Phía trên cao, ông Galore Bàn Tay Vàng cũng ló đầu ra khỏi hang.
“Biến khỏi đó ngay!” - ông Lão Làng tiếp tục gầm lên, không thèm giả vờ lo lắng cho mạng sống của Fido nữa - “Không được câu cá trộm như thế. Như thế là phạm pháp”.
Đột nhiên sợi dây câu căng bật ra, và Fido đừng vụt dậy, ra sức kéo cần. Ở dưới nước, có cái gì đang kéo móc câu rất mạnh. Rồi cái dây bỗng chùng trở lại, và ngay lập tức Fido ngồi phịch xuống thuyền, để không bị lộn nhào xuống biển. Sau đó, cậu ta giật mạnh cần câu lên. Cái móc câu đã trống trơn, không còn mồi.
“Cậu bé thật can đảm, phải không mấy đứa?” - cô Teresa mỉm cười nói, khiến cho cả đám càng thêm phẫn uất khi nhìn thấy Fido tiếp tục thả mồi câu mới xuống nước. Và gần như ngay lập tức, mấy con cá lại cắn câu. Thật là không công bằng khi Chúa ban cho Fido một năng khiếu đặc biệt như vậy.
Chưa bao giờ ông Lão Làng lại tỏ ra giận dữ tới mức đó, khuôn mặt vốn đã nhăn nheo già cỗi nay càng trở nên rúm ró. Sau này, mỗi lần nghĩ tới sự vụ ngày hôm ấy, chúng tôi lại cảm thấy hơi tội lỗi khi gây ra nỗi giày vò ấy cho ông Lão Làng. Mặt Trời xuống núi bỏ lại ánh hoàng hôn buông nhẹ trên hai vai ông. Nhìn từ xa, trông ông như đang mang trên vai cái biểu tượng màu xám của gánh nặng tuổi già.
Cá vẫn tiếp tục cắn câu của Fido tới tấp. Ngay khi thấy Fido chuẩn bị một cái mồi câu lớn, ông Lão Làng vội vã đi cảnh báo cho Henry về mối nguy hiểm đang rình rập. Bằng cách dùng một thanh sắt dài gõ ầm ĩ vào tấm kim loại treo lơ lửng trước cửa nhà, ông hy vọng tiếng kêu đinh tai nhức óc ấy sẽ vọng được tới tai Henry. Nhưng rõ ràng điều đó không hề có một chút tác động nào tới Fido, cậu ấy vẫn thản nhiên quăng mồi câu xuống nước và chờ đợi nạn nhân kế tiếp của mình.
Ông Lão Làng đi chân không ra tận rìa bãi đá. Ông gần như nổi điên khi thấy Fido câu được hết con cá này đến con cá khác. Chỉ có điều lần này ông không gõ kẻng leng keng nữa. Thay vào đó, ông dùng hai tay bắc thành loa hét to: “Này, ông kia!”, tiếp đó huơ loạn hai tay trong không khí nhằm thu hút sự chú ý của ông Galore ở phía trước: “Tôi cho rằng ông là người duy nhất có khả năng báo hiệu cho con cá mú khổng lồ dưới kia bằng tiếng đàn piano của ông. Ông có thể chơi vài đoạn mạnh mẽ một chút hộ tôi, ngay bây giờ được không? Thật mạnh mẽ vào!”
Ông Galore quay đầu ra nhìn đằng sau lưng để chắc chắn rằng ông Lão Làng đang nói chuyện với mình chứ không phải ai khác ở gần đó. Ngay khi ở khoảng cách xa nhưng chúng tôi vẫn nhìn thấy được vẻ bối rối hiện rõ trên khuôn mặt gầy hóp kia.
“Nhanh lên! Vì thằng nhãi ranh kia có vẻ là một tay chuyên gia câu cá đấy!”
Bên cạnh tôi, cô Teresa cười lớn: “Qúa muôn rồi. Fido vừa bắt được cái gì đó”.
Không ai biết đó là cái gì, chỉ biết rằng nó có nguy cơ kéo theo cả Fido và cái xuồng xuống biển. Fido trước giờ vẫn là đứa nhỏ bé nhất hội, xung quanh lại chẳng có gì cho cậu ta bám vào để giữ thăng bằng. Nhưng cậu ấy vẫn kiên cường giật cái cần câu thật mạnh, khiến cả con xuồng tròng trành như muốn lật nhào.
“Ôi Chúa ơi!” - ông Lão Làng gào lên trong tuyệt vọng - “Nhạc của Rachmanioff! Hay Paderewski cũng được! Cứ chơi bất cứ thứ gì ông có!”
Nhưng ông Galore vẫn tiếp tục lờ ông Lão Làng đi, chăm chú theo dõi cuộc chiến giữa Fido và vật lạ kia.
“Không phải Henry!” - Maps hét lên đầy sung sướng.
Đúng vậy, không phải Henry, mà là cái gì đó giống một con lươn khổng lồ hơn - dài ngoằng, nâu bóng và trơn nhẫy. Nhưng đến khi nhìn kỹ mới thấy: thực ra đó chỉ là một miếng tảo biển không hơn.
“Tiếc quá” - cô Teresa thở dài, trong khi bốn đứa chúng tôi thì thở phào nhẹ nhõm. Ít ra thì cô cũng không có lý do để làm một cú nhào lôn chúc mừng cho Fido.
Riêng ông Lão Làng phải mất một lúc mới hồi tâm lại, khi phát hiện ra Henry vẫn còn tự do đâu đó dưới làn nước biển rộng lớn kia. Sau đó ông quay sang cười chế giễu vị anh hùng hụt của chúng tôi: “Sao ngươi không lấy miếng tảo biển đó làm mũ luôn đi! Hãy để Henry yên, nó là của ta!”. Ông đốt một điếu thuốc mới và nhả ra mấy làn khói xám trông chẳng khác gì quả mâm xôi.
Fido quăng miếng tảo xuống biển rồi chèo xuồng về phía bãi đá. Cậu ấy quệt hai tay vào bộ đồ bơi, như thể muốn xoa đầu an ủi con gà trống đang vươn tiếng gáy bên cạnh nhãn Bột mì Mãi Vươn Cao.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top