Chương 21 - Chương 22

21

Mánh khóe của tụi tôi càng lúc càng tinh vi và “thủ đoạn” hơn, như những diễn viên chuyên nghiệp.

Chỉ cần đến lần thứ hai khi Misty biến mất với mấy vết máu đỏ do bị cào xước trên mu bàn tay và cẳng tay là chúng tôi đoán ra ngay chuyện gì đang xảy ra. Rõ ràng cậu ta tìm cách vượt mặt bọn tôi để chiếm vai chính, hòng lấy được cảm tình của cô Teresa. Cô ấy từng định bắt một con mèo con trong đàn mèo hoang trên đồi về nuôi nhưng bị mèo mẹ phản đối quá nên đành thôi.

Hằng ngày, sau buổi học với cô Teresa, cả đám lại vây quanh cô để đòi cô kể chuyện ngày xưa về cô và chú Foley, và cả cái vòng đua tử thần nữa.

“Đó là những ngày đam mê và cuồng nhiệt của tuổi trẻ” - cô nói - “Nhưng thực sự cố cảm thấy rằng chú Foley đã rất vui mừng khi từ bỏ nghề biểu diễn trên xe đó. Một phần vì người chú ấy quá to. Và một phần vì thời kì đỉnh cao của chú ấy đã qua. Đôi lúc cô nghĩ, chú ấy cố tình phóng xe vù vù xuống triền đồi vào mỗi buổi tối thứ Sáu cốt chỉ để chứng tỏ với mọi người rằng mình vẫn chưa bị lụt nghề mà thôi. Chú của mấy đứa là một người rất đặc biệt, quả thực rất đặc biệt. Một người đàn ông có trái tim vô cùng nhân hậu”.

Phải chăng cô đã từng gặp tai nạn hồi còn ở vòng đua tử thần?

“À, đúng vậy. Cũng tại mấy cái khói thuốc lá.”

Khói thuốc lá ư?

“Ai đó hút thuốc từ trên cao phả xuống và nó bay vào mắt cô”.

“Cô phải nằm viện hơn ba tháng mới phục hồi, tội nghiệp chú Foley…”

Qua các câu chuyện của cô, chúng tôi có thê rút ra một điều: cả cuộc đời cô luôn lấy chồng mình làm trung tâm. Ví dụ, cách nói chuyện và cách dùng từ của cô rất giống chú Foley. Nhưng thỉnh thoảng cô cũng bắt chước cách nói chuyện của Spark! Liệu điều đó có phải ám chỉ rằng cô thích nó hơn tụi tôi không? Niềm hi vọng là và nỗi tuyệt vọng lại tiếp tục đan xen, chồng chéo lên nhau khi cả bọn lại phát hiện ra ở cô cái sở thích nói tắt giống-Fido hoặc đưa ra những câu hỏi hóc bua rất đặc trưng kiểu-Maps.

Một lần, khi chúng tôi đang cùng cô Teresa nằm phơi nắng trên bãi biển, bỗng nghe thấy tiếng nhạc phát ra từ phía nam bờ vịnh. Cô Teresa thở dài: “Cô hiếm khi mặt đối mặt trò chuyện với ông Galore nhưng thực lòng co cũng hi vọng không phải suốt ngày nghe đi nghe lại mấy bản nhạc cổ điển đó. Có lẽ ông ấy chưa bao giờ nghe qua bài “Nhón chân đi qua vườn tulip” hoặc “Tôi tô những đám mây bằng ánh Mặt Trời”.

Đó là đặc quyền tìm hiểu của tôi.

Không ai cần giải thích về nguồn gốc của cái biệt danh Galore Bàn Tay Vàng. Hằng ngày, ông đứng bên ngoài cửa hàng, giơ hai tay lên cao ngang tầm tai rồi uốn éo các đầu ngón tay như thể đang ra dấu trò chuyện với ai đó ở đằng xa, giống mấy vị sơ khiếm thính ở St. Roderick. Nhưng trình độ ra dấu của ông chỉ như một cậu học trò vỡ lòng, vụng về và lóng ngóng.

Để có thể tiếp cận riêng với nhân vật bí ẩn thích sống ẩn dật này. Tôi phải nghĩ cách làm sao thoát khỏi bảy con mắt cú vọ kia. Bằng không, người đến gặp ông già lập dị kia sẽ không phải mình tôi, mà là cả năm đứa. Tôi cần phải xảo quyệt hơn nữa, nếu muốn thắng được bốn đứa còn lại trong cuộc chiến khốc liệt này.

Cách tiếp cận thông minh nhất chính là đi đường vòng. Tôi nhích dần từng bước lên con đường nhấp nhô đầy sỏi đá, bám sát bức tường đá và đất sét. Fido và Misty vẫn đang nằm dài trên nền cát nóng, hai mắt nhìn không chớp về phía tiệm của cô Teresa. Spark và Maps đang đi từ phía nhà ông O’Leary lại. Chẳng lâu nữa thôi, bốn đứa sẽ nhẩy cẩng lên đi tìm tôi cho mà xem. Tôi núp vào một chỗ trũng trên sườn đồi để tránh tầm mắt của bọn bạn. Ánh nắng Mặt Trời gay gắt như muốn thiêu cháy tấm lưng trần của tôi. Ở bên dưới, nước biển nhô cao tạo thành những cột sóng trắng xóa, giống như những ngón tay khổng lồ đang chỉ thằng về phía tôi để mách lẻo. Thật may là tôi đã kịp lẩn xuống cái hàng phía dưới, thoát khỏi tầm rada quan sát của mấy cái đầu đang dáo dác tìm kiếm.

“Choker! Cậu ở đâu? Cho-kerrrr!”

Ánh mắt các cậu ấy quét ngang qua rừng thông, hòng hi vọng tìm thấy bóng tôi ở khu cắm trại bỏ hoang, nơi tôi đã dựng lên cả một xưởng vẽ biển báo bằng nhựa đường và vôi trắng. Chỉ tới khi chắc chắn bốn đứa đó đã đi khỏi, tôi mới dám rón rén bước ra khỏi chỗ nấp, cánh cách cửa hang xám xịt kia vài mét. Không khí trong hang có vẻ rất ấm cúng: một chiếc đàn piano khổng lồ được kê ngay ngắn trên tấm thảm to giữa phòng, xung quanh là mấy chiếc ghế bành cũ kỹ. Ông Lão Làng đã sai khi cho rằng cái hang này chẳng có gì khác ngoài cây đàn piano.

Tiếng chân kéo lê làm tôi giật bắn cả mình. Một người đàn ông lịch lãm bước ra. Ngày nào chúng tôi chẳng nhìn thấy ông ấy đứng ở chỗ đó nhìn ra biển, nhưng chắc trước giờ do tôi còn quá bận rộn để ý tới bốn đối thủ của mình nên không chú ý tới ông lắm.

Trông mặt ông như con cá hồi hun khói, có lẽ bởi cái tẩu thuốc trên miệng liên tục nhả khói xanh và xám. Khói thuốc làm mắt tôi cay xè. Tự dưng tôi cảm thấy không thoải mái và có phần hơi lo lắng. Tôi cứ đứng đơ ra đó, không thốt lên được lời nào. Phải mất vài phút sau, tôi mới lắp bắp được thành tiếng: “Ông ơi, ông có thể chơi bài “Nhón chân đi qua vườn tulip” được không ạ?”

Ông ấy lấy cái tẩu thuốc ra khỏi miệng, làm cho làn khói xám dạt hẳn sang một bên. Hóa ra ông Galore là người nước ngoài. Tôi chỉ phát hiện ra điều đó khi ông mở miệng: “Cậu trai trẻ” - dường như cái yết hầu ngoại cỡ kia là nguyên nhân khiến ông phát âm một cách khó nhọc như vậy - “Ta không biết bài hát đó”.

“Thế còn bài “Tôi tô những đám mây bằng ánh Mặt Trời” ạ?”

“Ta cũng không biết”.

Thế là hết! Tôi cắm đầu cắm cổ chạy xuống bãi biển giữa tiếng lảnh lót phát ra từ cây đàn piano khổng lồ kia. Dường như ông Galore Bàn Tay Vàng đang muốn dùng tiếng nhạc đó để xua đuổi mùi người lạ cùng với đề nghị vô duyên còn vương lại trong không khí.

Cuộc đua tìm kiếm long diên hương giữa năm thằng chúng tôi cũng bắt đầu từ trên bãi biển này.

Một lần, khi sáu cô cháu đang nằm phơi nắng trên cát, cô Teresa giải thích cho chúng tôi cơ chế nhả long diên hương của cá voi. Theo lời cô thì đây là một chất liệu vô cùng quan trọng được dùng để chế tạo ra các loại nước hoa cao cấp đắt tiền. Chỉ một lượng nhỏ long diên hương thôi cũng đủ để cô chú xây một căn nhà gần nơi làm việc của chú Foley. Tìm được long diên hương đồng nghĩa với việc một chỗ trong căn nhà ấy được đảm bảo cho một trong năm đứa chúng tôi.

Và thế là đám tụi tôi kéo nhau ra biển từ sáng sớm, để lại những dấu chân mới tinh trên nền cát mịn. Cuộc tìm kiếm vội vã chỉ mang lại những kết quả đáng thất vọng: nếu không phải là rác thì cũng là mấy cái đầu cá chết, sứa biển hoặc nút chai… Tất cả, trừ long diên hương. Cũng không có gì là ngạc nhiên bởi nó chỉ được nhả ra từ miệng cá voi, trong khi tôi chưa từng thấy bóng dáng một con cá voi nào lai vảng gần bờ biển này.

Mà mong muốn của cô Teresa là mệnh lệnh của chúng tôi.

“Ông lại tội nghiệp” - cô nói, nhìn về phía căn lều của ông Hai Martin - “Cô thật không muốn phải nói lời thương hại ông ấy như vậy chút nào! Nhưng chúng ta biết làm sao trong hoàn cảnh như hiện nay?”

Đôi mắt xanh của cô nhìn chúng tôi như muốn tìm câu trả lời. Đây quả là một câu hỏi khó đối với chúng tôi. Trong khi đó, chúng tôi vẫn tiếp tục ngấm ngầm gây ấn tượng với cô để một ngày nào đó có thể thoát khỏi cái “nhà giam” St. Roderick kia.

22

Trong khi chờ đợi chú Foley trở về vào mỗi tối thứ Sáu, Spark liên tục mở rất nhiều phiên siêu đấu giá, như một cách để làm khuây khỏa nỗi nhớ mong của mình. Bọn tôi đã dựng lên một túp lều nhỏ ở phía bắc của mình, ngay gần hang của ông Lão Làng.

Spark đã moi từ bãi rác lên một chiếc diều khổng lồ, sau đó dùng đinh đóng nó lên tường. Maps là đứa đầu tiên khơi ngòi: “Cậu định sẽ đóng đinh ai lên đó thế?”

Spark há hốc miệng nhìn cậu ta.

Thường thì các câu nói của Maps không có tác động mạnh như vậy với Spark. Chính cậu ấy cũng cảm thấy bất ngờ với bản thân mình, với một cái nhếch mép đầy tự mãn, trông cậu không còn cái vẻ lạnh lùng vô cảm như hằng ngày.

“Còn tùy cậu có thể điên tới độ nào” - Spark trả miếng.

“Cậu đang cố tạo ra một cây thánh giá đúng không?” - Maps đủng đỉnh nói. Fido làm vẻ mặt như thể cậu ta sẽ là nạn nhân bị cột lên cây thánh giá đó.

Chẳng lẽ Spark muốn giảm bớt quân số trong cuộc cạnh tranh này. Bởi tôi thấy có một chiếc xà ngang đã được đóng lên tường.

“Tớ không hề định tạo ra thánh giá gì hết” - Spark quả quyết.

“Nhưng với tớ thì trông chẳng khác gì cây thánh giá cả. Mà mấy cái đinh to đá dùng để làm gì? Hãy nhìn mà xem!”

Mấy đứa đó đúng là đồ quái dị. Fido cứ giật mình thon thót, trong khi Misty tìm cách lẩn lẩn về phía mấy ô cửa sổ mờ đục để trốn.

“Cái thanh xà này là để đóng cánh diều lên đó” - Spark dài mồm ra chế giễu.

“Ý cậu là hai cánh tay?” - Maps vẫn không chịu buông tha.

Fido co rúm ró người lại. Misty rời xa nữa về phía cửa sổ. Tôi cảm thấy lạnh toát cả sống lưng. Cứ cái đà này thì tới khi Mặt Trời lặn, đám chúng tôi sẽ chỉ còn lại giỏi lắm là ba đứa.

“Không” - Spark nói, lộ rõ vẻ khoái chí với lời ám chỉ vừa rồi của Maps - “Chỉ là hai cái cánh diều, như tớ đã nói. Tớ sẽ cất cánh!”

“Cất cánh khỏi cái gì?”

“Đôi cánh này sẽ giúp tớ có thể lượn như chim trên trời”.

“Cậu không định nói…”

Giờ đến lượt Maps là đứa giật mình, khi thấy Spark diễn tả đường chạy của mình từ sườn núi lên tới vách núi dựng đứng - và xa hơn nữa.

“Whee!” - Spark hét to - “Tớ sẽ sải cánh ra tít ngoài khơi, lướt trên từng ngọn sóng! Cuối cùng hạ cánh an toàn trên toàn bãi biển”.

“Cậu điên rồi” - Maps nói như muốn hụt hơi.

“Có cậu điên thì có. Tớ chỉ hơi khác biệt thôi” - Spark ngang bướng cãi lại.

Điều này khiến cho việc bắt trộm đám mèo hoang, hay chuyện tìm kiếm long diên hương, hay đề nghị ông Bàn Tay Vàng chơi những bản nhạc hiện đại… bỗng trở nên tầm thường. So với kế hoạch của Spark, chúng tôi chỉ như bốn vầng trăng khuyết đặt bên cạnh một vầng Mặt Trời sáng chói.

“Hurrum! Hoo! Hee! Haw!” - Spark vừa ngân nga vừa tiếp tục vui vẻ đóng đinh vào thanh xà ngang.

“Cậu sẽ bị ngã gãy cổ mất!”

“Tớ sẽ phá vỡ kỉ lục! Đó là điều tớ sẽ làm được! Whee-hee!” - Spark lại phấn khíc giơ búa lên và vẽ ra đường bay lượn của mình. Có lẽ cậu ấy muốn dùng cách này để thoát ra khỏi tầm kiểm soát của tụi tôi và bay vào vòng tay cố Teresa.

Maps rất không hài lòng khi thấy Fido, Misty và tôi im re không nói câu nào. Cậu ta khích bọn tôi: “Đừng có cản cậu ta! Chúng ta sẽ bớt đi được một người!”

Chỉ có Maps mới dám nói thẳng ra suy nghĩ của mình, và của cả ba đứa tụi tôi một cách thản nhiên như thế. Thú thực là trong lòng tôi bỗng nổi lên một sự phấn khích vô cùng đen tối.

“Cậu nên viết di chúc đi là vừa” - Maps gợi ý - “Bởi vì cậu sẽ bị gãy cổ ngay khi vừa chạm tới mặt nước”.

“Đây” - Spark rút ra con dao nhíp có khắc tên nhà tài trợ lên đó - “Cậu cầm lấy đi. Nếu cú lượn của tớ không thành công thì cậu hãy giữ lấy nó, cùng những lời cầu chúc tốt đẹp nhất của tớ nữa”.

Con dao đó là thứ tài sản duy nhất của Spark. Bởi đến cả quần áo của chúng tôi cũng là tài sản thuộc về St. Roderick. Chúng tôi không có thứ gì có thể gọi là của riêng mình. Sách vở ở trường cũng là đồ thừa lại từ các lớp trên. Đồ chơi duy nhất của tụi tôi là mấy cái xe goòng và lốp xe ô tô đã mòn vẹt. Mỗi lần tan học là cả đám sẽ nhào ra sân hò hét: “Đến lượt tớ chơi xe goòng!” hoặc “Đến lượt tớ chơi lốp xe”. Đứa nào xông tới trước sẽ được chơi món đồ đó suốt cả ngày. Nó giống như trò Nhanh Tay Chộp của bọn trẻ con, nhưng cũng không khác là mấy so với cái cách mà các quốc gia tuyên bố lãnh thổ của mình trong quá khứ.

Spark vẫn tiếp tục hì hục và cố định hai cánh diều và cái đuôi bằng mấy cái đinh lượm được ở dưới gầm tàu của ông Porter Bụng Phệ. Cậu ấy đúng là không sợ gì hết, hoặc nếu không thì là không biết cảm giác sợ hãi là thế nào.

Sự háo hức của cậu ta không hề giảm bớt, trái lại càng lúc càng sục sôi như sắp sửa bước lên giàn thiêu. Spark cười toe toét, hai mắt sáng long lanh như hai đốm lửa xanh.

“Cậu có định hôn tạm biệt tụi này không đấy?” - Maps lạnh lùng hỏi.

“Tớ sẽ bắt tay từng người” - Spark nói, chìa bàn tay nhem nhuốc của mình ra. Móng tay của cậu ta đen kịt, như một kiểu đánh dấu của thần chết.

Maps uể oải bắt tay lại. Fido nắm chặt hai tay ra sau lưng, chân vẫn tiếp tục lùi thật xa khỏi Spark, như sợ cơn điên đó sẽ truyền nhiễm sang mình, Misty cũng chìa tay ra bắt, nhưng với vẻ mặt vẫn chưa hết bàng hoàng, mồ hôi vã ra như tắm ở bên phía con mắt còn tốt. Còn tôi thì có cảm giác như sắp chạm tới cái chết bởi ý nghĩ đen tối đang làm quai hàm tôi cứng đơ. Đáng ra Spark nên đeo theo lá cờ sọc đỏ vàng báo hiệu Có người rơi xuống biển, như trong cuốn sách hướng dẫn về các loại biển báo vẫn thường mô tả. Cậu ấy thậm chí đã chuẩn bị cả đồ bơi dành cho cú đáp xuống nước sau đó. Nhưng tôi không cho rằng con gà trống trên nhãn hiệu Bột mì Mãi Vươn Cao có thể cất cao tiếng gáy lần này.

Đúng lúc này, Spark ngửa cổ cất tiếng hú, hai tay chụm lại thành loa, giống như cách mọi người ở chợ vẫn thường làm khi giao bán hàng hóa của mình.

“Garn! Gorn! Gorn!”

Tiếng gáy của cậu ấy lan rộng, vang vọng khắp vịnh và thung lũng. Cô Teresa đi ra khỏi cửa tiệm và giơ tay che mắt, nhìn về phía tụi tôi. Ông Galore Bàn Tay Vàng cũng đã chui ra khỏi hàng. Khi đã thu hút được sự chú ý của cô Teresa, Spark kéo lê cánh diều khổng lồ kia ra phía mép vực. Kế đó, cậu lao như bay xuống cái đồi cỏ xanh rờn trước mặt, hai cái cánh đập qua đạp lại một cách vụng về, miệng hát “Whee-eee!” ầm ĩ như muốn đánh thức cả cái thung lũng này dậy.

Phần khó nhất của cú cất cánh này chính là bạn sẽ phải quay tròn một vòng, trước khi chạm chân tới mỏm đất đang chìa thẳng ra biển và sải cánh lao xuống bờ vực sâu thẳm. Có một bãi cỏ không mấy bằng phẳng ở chỗ mỏm đất đó, vướng phải cái cánh khổng lồ của Spark làm cho toàn thân cậu ấy lộn tùng phèo, lao về phía trước, và biến mất trong tiếng hét hãi hùng của cô Teresa và ông Lão Làng.

Cô Teresa lao như bay qua các cồn cát về phía chúng tôi - vẫn chưa hết bàng hoàng về những gì đã xảy ra. Phải mất vài giây sau, bốn đứa mới líu ríu bước ra mép vực và nhìn xuống dưới. Chúng tôi cứ tưởng sẽ thấy xác Spark nằm chỏng chơ trên phiến đá, nát bét như con cá chết mà Socrates vẫn thường bắt lên cho đám mèo hoang. Tất cả chúng tôi đều có một phần trách nhiệm trong vụ này: tất cả đều đã mong là Spark “tử nạn” đấy thôi!

Đầu tiên, chúng tôi nhìn thấy hai cái cánh diều đang chống ngược lên về phía bãi biển. Còn vị anh hùng Spark của chúng tôi đang đạp chân trong không khí như kiểu bơi chó mà cô Teresa đã dạy hôm trước. Ông Lão Làng đang kéo đầu dây thừng ở phía trên. Spark túm chặt lấy đầu dây còn lại, từ từ được kéo lên. Trông cậu ấy có vẻ như không bị thương tích gì ở đâu hết.

Cô Teresa hốt hoảng chạy tới, quỳ sụp xuống bên cạnh cậu ta. Chúng tôi có cảm giác như những kẻ bại trận. Mặc dù áp dụng cách thức có phần hơi kỳ lạ và nguy hiểm nhưng rõ ràng Spark đã an toàn hạ cánh trong vòng tay cảu cô Teresa. Mặt cô ấy tái nhợt, hai tay nắm lấy vai của Spark khẽ lắc nhè nhẹ:

“Cháu có bị đau ở đâu không? Cháu không sao chứ? Spark, làm ơn, trả lời cô đi”.

Spark hình như vẫn chưa định thần ra mình đang ở đâu và đã làm gì. Hai mắt cậu ấy sụp xuống như đang ngủ. Thậm chí không nhận ra cả bọn tôi.

“Spark yêu quý!” - cô Teresa tiếp tục lay nhẹ. Vậy là cuộc tranh giành của tụi tôi chính thức chấm dứt. Chẳng phải cô ấy vừa gọi cậu ta là “Spark yêu quý” đó sao? Sắp tới, khi sắp xếp đồ đạc để quay trở về St. Roderick, chúng tôi sẽ phải bỏ Spark Monahan lại đây.

Mắt cô Teresa rưng rưng như muốn khóc, lúc quay qua nói với ông Lão Làng: “Thằng bé không nói được”.

“Vậy đây sẽ là nhà cầm trịch đấu giá bị câm đầu tiên trên thế giới”.

“Ông không có lương tâm sao?”

“Xin thưa, tim ta đã suýt rớt ra khỏi lồng ngực khi chứng kiến hành động ngu ngốc vừa rồi của cậu ta” - ông vừa nói vừa chỉ về phía cánh diều khổng lồ vẫn đang treo lơ lửng ở vách đá - “Ê nhóc, lần sau nếu muốn biến mình thành mồi câu Henry, hãy nói trước với ta một tiếng, để ta có thể móc cần câu vào mông cậu. Như thế Henry sẽ có thể đớp lấy cái đầu nông nổi kia và cắn câu của ta.”

“Ông O’Leary, thôi đi!” - cô Teresa gắt lên.

“Ta chỉ nói lên suy nghĩ của mình thôi” - ông lão hậm hực khoanh hai tay trước ngực, mắt dõi ra biển.

“Cháu không sao chứ?” - cô cúi xuống hỏi Spark, đầy lo lắng.

Và giờ cậu ta đã nhận ra được mình đang ở đâu và cái phần thưởng quý giá vừa đạt được. Anh chàng chớp chớp hai mắt đầy ranh mãnh, nhìn về phía bốn đứa tụi tôi, như để khẳng định lần nữa chiến thắng tuyệt đối của mình.

“Cháu không sao ạ”.

“Cháu chắc chứ?”

“Tất nhiên ạ!” - giọng cậu ta chắc nịch, hãnh diện như vừa giành chiến thắng đáng kể tại phiên đấu giá lớn nhất trong lịch sử.

Cô Teresa vẫn chưa hết lo, hỏi đi hỏi lại thêm vài lần nữa cho chắc, khiến Spark và chúng tôi quay qua nhìn nhau đầy khó hiểu.

“Cháu gặp may đấy!” - cô nhẹ nhàng nói - “cực kỳ, cứ kỳ may mắn. Không bao giờ được phép tái diễn cái trò dại dột này nữa, nhớ chưa?”

“Trả cậu này!” - Maps chìa con dao nhíp ra trả lại cho Spark, nhưng thực ra ý của cậu ấy là: “Trò hay đấy, nhưng giờ cậu lại chỉ như tụi này thôi!”.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: