bieu tuong that truyen 2 - rika

Chương 75

Robert Langdon ngó mông lung ra khoảng không, mỏi mệt đến nỗi xe đang chạy rề rề mà anh cũng chẳng buồn giục tài xế lái nhanh hơn. Bên cạnh anh, Katherine rơi vào trạng thái trầm tư, xem chừng chán nản bởi sự thiếu hụt thông tin về tầm quan trọng của kim tự tháp.

Cô và Langdon vừa dượt lại tất cả các chi tiết quanh ngọn tháp, cái chóp và những sự việc kỳ lạ tối nay, song vẫn chẳng hiểu tại sao kim tự tháp này lại được coi là bản đồ chỉ dẫn.

Jeova Sanctus Unus? Bí mật giấu trong Tổ Chức?

Người liên lạc bí mật đã hứa sẽ cho họ biết câu trả lời nếu họ đến gặp ông. Ở một chỗ trú trong thành Rome, phía bắc sông Tiber.

Langdon biết "thành Rome mới" của tiền nhân đã được đặt tên là Washington ngay từ buổi đầu lịch sử, nhưng những dấu tích về giấc mơ nguyên thuỷ của họ thì vẫn còn: nước sông Tiber vẫn chảy vào sông Potomac, các thượng nghị sĩ vẫn họp bên dưới bản sao mái vòm giáo đường St. Peter, các vị thần Vulcan và Minerva vẫn nhìn xuống ngọn lửa đã tắt từ lâu của Nhà tròn.

Những câu trả lời mà Langdon và Katherine tìm kiếm rõ ràng đang đợi họ ở phía trước, cách đây vài dặm. Hướng Tây bắc, trên Đại lộ Massachusetts. Đích đến của họ trên thực tế là nơi lánh nạn nằm mé bắc nhánh sông Tiber của Washington. Langdon mong sao người lái xe tăng tốc.

Đột nhiên, Katherine bật dậy trên ghế cứ như thể vừa đột ngột nhận ra điều gì.

- Chúa ơi, Robert! - Cô quay sang anh, mặt trắng bệch, do dự một lát rồi nhấn mạnh - Chúng ta đang đi sai đường!

- Không, đường này đúng mà, - Langdon gạt đi - Hướng tây bắc, trên Đại lộ Massachu...

- Không! Ý tôi là chúng ta sẽ tới nhầm chỗ!

Langdon bối rối. Anh đã cho Katherine biết người đàn ông nọ ám chỉ địa điểm nào. Nó có mười tảng đá lấy từ núi Sinai, một hòn từ thiên đường, và một hòn mang nét mặt người cha bí ẩn của Luke. Chỉ có duy nhất một toà nhà phù hợp với mô tả trên, và chính là điểm đích của chiếc taxi này.

- Katherine, tôi tin chắc đúng là nơi đó.

- Không! - Katherine kêu lên - Chúng ta không cần tới chỗ ông ấy nữa. Tôi đã đoán ra kim tự tháp và cái chóp! Tôi biết chúng chỉ điều gì rồi!

Langdon tỏ ra ngạc nhiên.

- Chị biết rồi!

- Đúng! Chúng ta phải tới Quảng trường Tự Do!(77)

Langdon không hiểu đầu cua tai nheo ra sao. Quảng trường Tự Do, mặc dù gần đây thôi, nhưng nghe chừng chẳng liên quan chút nào.

Jeova Sanctus Unus! - Katherine giải thích - Một đức Chúa đích thực của người Do Thái. Biểu tượng thiêng liêng của người Do Thái là ngôi sao Do Thái, dấu ấn của Solomon, một biểu tượng quan trọng đối với Hội Tam điểm! - Cô moi tờ một đô la trong túi ra - Cho tôi mượn cây bút.

Langdon rút bút khỏi túi áo.

- Xem này - Katherine trải tờ tiền lên đùi, đón cây bút và trỏ vào dấu Quốc ấn ở mặt sau tờ tiền - Nếu áp dấu ấn Solomon lên dấu Quốc ấn của Hoa Kỳ... - Cô vẽ biểu tượng ngôi sao Do Thái lên đúng hình kim tự tháp - Hãy xem anh thấy gì nào!

Langdon ngó xuống tờ tiền rồi ngơ ngác nhìn lại Katherine.

- Robert, hãy nhìn kỹ hơn xem Anh không nhận thấy tôi đang chỉ ra thứ gì ư?

Langdon quan sát lại hình vẽ.

Ý cô ấy là sao?

Langdon đã từng nhìn thấy hình ảnh này. Nó rất quen thuộc với giới lý luận, như một "bằng chứng" cho thấy Hội Tam điểm nắm giữ ảnh hưởng bí mật đối với nước Mỹ thời kỳ đầu. Khi ngôi sao sáu cánh được đặt trùng khít lên dấu Quốc ấn của Hoa Kỳ, đỉnh ngôi sao sẽ trùng với con mắt thông huyền... và, rất kỳ lạ, năm cánh còn lại trỏ đúng các chữ cái M-A-S-O-N (Hội Tam điểm).

- Katherine, đây chỉ là một sự trùng hợp, tôi không thấy nó có liên hệ gì với Quảng trường Tự Do.

- Xem lại đi! - Katherine yêu cầu, giọng gần như giận dữ - Anh không thấy chỗ tôi đang chỉ sao? Ngay đây này. Anh không nhận ra à?

Chỉ trong tích tắc. Langdon nhìn ra.

***

Đội trưởng nhóm tác chiến CIA Turner Simkins đang đứng bên ngoài Toà nhà Adams, tai áp chặt điện thoại di động, gắng sức lắng nghe cuộc trao đổi diễn ra ở băng sau chiếc taxi. Có chuyện gì đó vừa xảy ra. Nhóm của anh ta định leo lên một chiếc trực thăng Sikorsky UH-60 cải tiến để bay lên phía tây bắc và lập chốt chặn, nhưng tình hình đột ngột thay đổi.

Vài giây trước, Katherine Solomon cho rằng họ đang đi sai địa điểm. Lời giải thích của cô về đồng đô la và ngôi sao Do Thái nghe thật rối rắm đối với anh chàng đội trưởng, và rõ ràng cũng chẳng mấy minh bạch với Robert Langdon. Chí ít là lúc đầu. Nhưng bây giờ xem chừng Langdon đã hiểu ý cô.

- Chúa ơi, chị nói đúng! - Langdon buột miệng - Thế mà tôi không nhận ra sớm hơn!

Tiếng đó Simkins nghe tiếng đập mạnh vào vách ngăn, rồi tiếng vách ngăn mở ra.

- Thay đổi kế hoạch - Katherine nói như quát với người lái taxi - Đưa chúng tôi tới Quảng trường Tự Do.

- Quảng trường Tự Do ạ? - Omar bồn chồn hỏi lại - Không lên phía tây bắc Massachusetts nữa à?

- Khỏi cần! - Katherine dằn giọng - Quảng trường Tự Do! Rẽ trái từ đây! Đây! Từ đây?

Đặc vụ Simkins nghe thấy tiếng taxi ngoặt gấp. Katherine tiếp tục thảo luận một cách phấn khích, lần này là về bản mẫu Quốc ấn bằng đồng đặt tại Quảng trường Tự Do.

- Thưa bà, xin xác nhận lại - giọng người lái taxi xen vào, nghe rất căng thẳng - Chúng ta sẽ tới Quảng trường Tự Do ở góc Đại lộ Pennsylvania và Phố 13?

- Phải! - Katherine đáp - Mau lên!

- Rất gần thôi. Hai phút nữa.

Simkins mỉm cười. Làm tốt lắm, Omar. Anh ta lao nhanh tới chiếc trực thăng, thét gọi cả đội.

- Chúng ta tóm được họ rồi! Quảng trường Tự Do! Đi!

Chú thích:

(77) Quảng trường Tự Do (Freedom Plaza), thoạt tiên có tên Westem Plaza, là một quảng trường ở Tây Bắc Washington D.C., nằm tại góc giao của Phố 14 và Đại lộ Pennsylvania, ngay sát Công viên Pershing. Thiết kế năm 1880, quảng trường này chủ yếu bằng đá, được lát theo bản mô tả một phần quy hoạch Thành phố Washington của Pierre (Peter) Charles L'Enfant. Phần lớn quảng trường được nâng cao hơn so với cốt nền đường phố. Đầu phía tây của quảng trường có một đài phun nước lớn, còn đầu phía đông có bức tượng Kazimierz Pulaski cưỡi ngựa. Quảng trường được đặt lại tên theo Martin Luther King. Jr., người viết bài diễn thuyết "Tôi có một giấc mơ" tại Khách sạn Willard gần đó. Năm 1988, một hộp thời gian chứa cuốn Kinh thánh, chiếc áo choàng, và vài di vật khác của King được đặt tại đây. Nó sẽ được mở lại vào năm 2088. Vị trí của quảng trường chính là nơi giao nhau của các tuyến tàu điện ngầm. Nhà ga Federal Triangle Metro, đối diện với quảng trường qua Đại lộ Pennsylvania, dành cho tuyến Xanh lam và tuyến Da cam. Còn Ga Metro Center với các tuyến Đỏ, Xanh lam, Da cam thì nằm trên Phố 13, cách đó hai dãy nhà - ND

Chương 76

Quảng trường Tự Do là một tấm bản đồ.

Nằm ở góc Đại lộ Pennsylvania giao với Phố 13, bề mặt lát đá rộng mênh mông của khu vực này tái hiện đường phố Washington đúng như thiết kế nguyên bản của Pierre L'Enfant. Quảng trường Tự Do là điểm đến quen thuộc của khách du lịch, không chỉ vì tấm bản đồ khổng lồ thú vị mà còn vì luật sư Martin Luther Kinh Jr., từng viết phần lớn bài phát biểu "Tôi có một giấc mơ" tại Khách sạn Willard gần đó. Tên quảng trường được đặt lại cũng là để tôn vinh ông.

Omar Amirana chở du khách tới Quảng trường Tự Do đã rất nhiều lần, nhưng hai hành khách tối nay rõ ràng không phải là người tham quan thông thường. CIA đang truy lùng họ? Omar chưa kịp đỗ lại bên lề thì hai người ấy đã nhảy ra.

- Chờ ở đây nhé! - người đàn ông mặc chiếc áo khoác vải thô dặn Omar - Chúng tôi sẽ quay lại ngay!

Dứt lời, họ chạy vội ra chỗ tấm bản đồ khổng lồ, vừa quan sát hình các đường phố giao cắt nhau, vừa chỉ trỏ trao đổi. Omar nhìn theo, rồi vớ lấy điện thoại di động chỗ bảng điều khiển.

- A lô, ông vẫn còn đó chứ?

- Phải! - một giọng quát to, rất khó nghe do tiếng ầm ầm bên phía anh ta - Giờ họ ở đâu?

- Đã ra chỗ tấm bản đồ. Hình như đang tìm kiếm gì đó.

- Đừng để họ thoát khỏi tầm mắt anh, - đặc vụ kia hét to - Tôi sắp đến nơi rồi!

Omar tiếp tục theo dõi. Hai kẻ bị truy đuổi nhanh chóng tìm được dấu Quốc ấn nổi tiếng, một trong những tấm huy chương bằng đồng lớn nhất trên đời. Họ nấn ná ở đó chốc lát rồi trỏ về phía tây nam. Người đàn ông mặc áo vải tuýt chạy bổ trở lại taxi. Thấy anh ta hổn hển lao đến nơi, Omar nhanh chóng bỏ điện thoại xuống.

- Hướng nào đi Alexandria, Virginia? - anh ta hỏi.

- Alexandria à? - Omar chỉ về tây nam, đúng hướng mà hai người khách vừa trỏ lúc nãy.

- Tôi hiểu rồi! - người đàn ông lào phào, vẫn thở hồng hộc, đoạn xoay ra hét to với người phụ nữ - Chị nói đúng! Alexandria!

Giờ người phụ nữ lại trỏ ngang quảng trường tới tấm biển "Tàu điện ngầm", sáng rực gần đó.

- Tuyến Xanh lam chạy thẳng tới Alexandria. Chúng ta cần đến ga King Street!

Omar phát hoảng. Ôi không.

Người đàn ông quay lại trả tiền cho Omar, trả nhiều hơn cả cuốc xe.

- Cảm ơn. Chúng tôi đi đây - Anh ta vớ lấy tôi da và nhấc chân chạy.

- Đợi chút! Tôi có thể chở các vị! Tôi thường xuyên đến đấy!

Nhưng đã quá muộn. Người đàn ông và người phụ nữ mau chóng băng qua Quảng trường Tự Do, khuất dạng trên cầu thang dẫn xuống ga tàu điện ngầm Metro Center.

Omar vớ lấy điện thoại di động.

- Thưa ông! Họ xuống lối tàu điện ngầm. Tôi không ngăn được. Họ sẽ đón tàu Tuyến Xanh lam để đến Alexandria!

- Cứ ở nguyên tại chỗ! - Chỉ huy nhóm đặc vụ thét to - Tôi sẽ tới nơi trong vòng mười lăm giây nữa!

Omar cúi nhìn mớ tiền mà người đàn ông vừa đưa. Tờ tiền trên cùng rõ ràng là tờ mà họ viết vào. Nó có hình một ngôi sao Do Thái chồng lên dấu Quốc ấn Hoa Kỳ, những cánh sao trùng đúng vào các chữ cái ghép thành từ MASON (Hội Tam điểm).

Bất chợt, có tiếng rung ù ù trỗi lên xung quanh, cứ như thể một chiếc máy kéo sắp đâm vào taxi của Omar. Anh ta ngước mắt nhìn, nhưng đường phố vắng tanh. Tiếng động cứ lớn dần rồi đột nhiên, một chiếc trực thăng đen bóng xuất hiện trong màn đêm và đáp xuống chính giữa tấm bản đồ của Quảng trường Tự Do.

Một nhóm người mặc quần áo đen nhảy ào ra. Hầu hết chạy ngay về phía ga tàu điện ngầm, chỉ có một người hối hả tiến đến chỗ taxi của Omar. Anh ta giật mạnh cánh cửa bên.

- Omar? Phải anh không?

Omar gật đầu, không nói năng gì được.

- Họ có cho anh biết họ đi đâu không? - anh ta hỏi.

- Alexandria! Nhà ga King Street, - Omar thốt lên - Tôi đề nghị chở họ, nhưng...

Họ có nói sẽ tới chỗ nào ở Alexandria không?

- Không? Họ nhìn dấu Quốc ấn đúc đằng kia, sau đó họ hỏi về Alexandria, và trả tôi thứ này - Anh ta đưa cho đặc vụ CIA tờ tiền có hình vẽ kỳ lạ.

Trong khi anh chàng đặc vụ săm soi tờ tiền, Omar đột nhiên chắp nối được tất cả mọi việc. Hội Tam điểm! Alexandria! Một trong những toà nhà nổi tiếng nhất của Hội Tam điểm ở Mỹ nằm tại Alexandria.

- Chính chỗ đó, - anh ta thốt lên - Đài kỷ niệm George Washington? Nó nằm ngay bên kia Nhà ga King Street.

- Đúng thế, - đội trưởng nhóm đặc vụ tán thành, rõ ràng cũng vừa nhận ra điều tương tự.

Bấy giờ, nhóm đặc vụ ban nãy từ nhà ga chạy trở ra.

- Chúng ta để sổng rồi? - một người nói to - Tuyến Xanh lam vừa khởi hành! Họ không còn dưới đó!

Đặc vụ Simkins xem đồng hồ và quay sang phía Omar.

- Tàu điện ngầm mất bao lâu tới được Alexandria?

- Ít nhất mười phút. Có lẽ còn hơn.

- Omar, anh làm tốt lắm. Cảm ơn anh.

- Vâng. Chuyện này là sao vậy?

Nhưng đặc vụ Simkins đã chạy trở lại chiếc trực thăng. Nó liệng về phía nam, ngang qua Đại lộ Pennsylvania, đoạn biến mất trong màn đêm.

***

Ngay bên dưới đường phố nơi chiếc taxi đỗ, một đoàn tàu điện ngầm đang tăng tốc rời khỏi Quảng trường Tự Do. Trên tàu, Robert Langdon và Katherine Solomon ngồi nín thở, chẳng ai nói một lời trong khi đoàn tàu lao vút đi đưa họ tới đích đến

Chương 77

Ký ức luôn tái hiện qua cùng một hình ảnh.

Gã ngã... lao thẳng xuống dòng sông phủ kín băng dưới đáy vực sâu. Phía trên, đôi mắt xám lạnh lùng của Peter Solomon soi chằm chặp qua nòng súng của Andros.

Gã rơi... thế giới phía trên cứ lùi xa dần, đến khi đám mây hơi nước mù mịt quanh dòng thác thượng nguồn trùm kín lấy gã thì vạn vật cùng biến mất.

Trong khoảnh khắc, mọi thử trắng xoá, như thiên đường.

Rồi thân thể gã nện thịch xuống lớp băng.

Lạnh. Tối tăm. Đau đớn.

Gã rũ người... một sức mạnh ghê gớm lôi gã đi và đẩy gã dúi dụi qua những tảng đá trong khoảng không giá buốt kinh hồn. Phổi gã rát bỏng do thiếu dưỡng khí, các cơ trên ngực đã co rút vì lạnh nên gã không tài nào hít thở nổi.

Mình đang ở dưới lớp băng.

Băng gần con thác rõ ràng là rất mỏng do dòng nước chảy xiết, nên Andros rơi xuyên qua cả lớp băng ấy, bị dòng nước cuốn đi, và giờ thì mắc kẹt dưới một lớp trần trong suốt. Gã bấu vào mặt dưới lớp băng, cố gắng phá vỡ nó nhưng thiếu điểm tựa. Cơn đau dữ dội từ vết thương trên vai đã tan biến, và cảm giác nhức buốt do viên đạn ghém gây ra cũng vậy, cả hai đều không còn do cơ thể gã đang tê cóng.

Dòng nước chảy xiết xô Andros qua một khúc quanh. Cơ thể gã gào thét đòi dưỡng khí. Đột nhiên, gã vướng vào mấy cành cây, rồi húc phải một thân cây bị đổ. Xem nào! Gã cuống cuồng túm lấy cái cành, cố nhoi "lên mặt nước, tìm chỗ hổng nơi cành cây xuyên qua lớp băng. Khi đầu ngón tay sờ thấy một lỗ hổng nhỏ xíu xung quanh cành cây, gã bèn giật mạnh phần mép, cố gắng phá cho cái lỗ rộng hơn. Một lần, hai lần, chỗ hổng đã rộng ra đến vài phân.

Tì người vào cành cây, Andros ngửa mặt lên và áp miệng vào lỗ hổng nhỏ xíu. Không khí mùa đông ùa vào phổi thật ấm áp, dòng dưỡng khí lại tiếp thêm hy vọng. Gã bấu chặt chân vào thân cây, huých mạnh lưng và vai lên phía trên. Lớp băng xung quanh thân cây đổ bị cành nhánh và mẩu vụn xuyên thủng, thành thử đã yếu đi nhiều, nay gã tì chân vào thân cây là có thể dùng đầu dùng vai húc vỡ lớp băng để nhoi lên màn đêm mùa đông. Không khí tràn vào phổi gã. Lúc ấy hầu như cả người vẫn còn chìm nghỉm dưới nước, gã bèn dưới dần lên, hết dùng hai chân đẩy lại dùng tay kéo, cuối cùng ra khỏi nước, gã nằm thở hổn hển trên lớp băng trần trụi.

Andros gỡ tấm mặt nạ trượt tuyết ướt sũng, nhét vào túi, nhìn lại phía thượng nguồn tìm Peter Solomon, nhưng khúc quanh của dòng sông đã chắn mất tầm mắt. Cơn đau ở ngực lại dội lên, gã lặng lẽ kéo một cành cây nhỏ phủ kín lỗ hổng trên băng để che nó đi. Đến sáng, cái lỗ sẽ đóng băng trở lại.

Andros loạng choạng tiến vào rừng, tuyết bắt đầu rơi. Gã không biết mình chạy bao xa, cuối cùng cũng ra khỏi rừng và leo lên bờ kè bên cạnh con đường nhựa. Bấy giờ tuyết rơi dày hơn, gã gần như hôn mê, thân nhiệt xuống rất thấp, vừa lúc một cặp đèn pha từ xa tiến tới.

Andros vẫy tay rối rít, chiếc xe bán tải mang biến số Vermont lập tức đỗ lại. Một người đàn ông luống tuổi áo đỏ nhảy ra khỏi xe.

Andros lảo đảo tiến lại phía ông ta, tay bịt chặt chỗ ngực đang chảy máu.

- Tôi bị thợ săn... bắn nhầm! Tôi cần tới... bệnh viện!

Không chút do dự, ông già giúp Andros leo lên ghế bên và bật máy sưởi.

- Bệnh viện gần nhất ở đâu?

Andros không biết, nhưng gã trỏ về phía nam.

- Cửa rừng tiếp theo - Chúng ta sẽ không đến bênh viện.

Ngày hôm sau, người ta đưa tin ông già Vermont nọ mất tích, nhưng không ai biết ông biến mất chỗ nào trên lộ trình của mình trong cơn bão tuyết mịt mùng. Cũng chẳng có ai liên hệ vụ mất tích ấy với một tin thời sự cùng lúc chạy trên trang nhất các báo - vụ sát hại Isabel Solomon.

Khi tỉnh giấc. Andros thấy mình đang nằm trong phòng ngủ tồi tàn của một nhà nghỉ rẻ tiền bị bỏ không vì đang mùa giá rét. Gã nhớ là đã tìm cách đột nhập vào đây, xé ga trải giường băng vết thương, rồi chui vào một cái giường ọp ẹp dưới đống chăn bụi mù.

Bụng đói ngấu.

Andros tập tễnh lê tới phòng tắm, trông thấy cả đống mẩu đạn ghém máu me trong bồn rửa, mới lơ mơ nhớ rằng mình đã moi chúng ra khỏi lồng ngực. Gã nhướng mắt nhìn chiếc gương bẩn thỉu rồi từ từ gỡ lớp băng thấm máu để xem xét vết thương. Phần cơ rắn chắc ở ngực và bụng đã ngăn đạn ghém chui vào sâu hơn, nhưng tấm thân hoàn hảo trước đây giờ lỗ chỗ vết thương. Viên đạn duy nhất mà Peter Solomon bắn rõ ràng đã xuyên suốt bả vai gã, để lại một cái lỗ đẫm máu.

Song tệ hơn hết thảy là Andros không lấy được thứ mà vì nó gã phải lặn lội cả quãng đường để tới Potomac. Cái kim tự tháp. Dạ dày cào cấu ghê gớm, gã đành lê bước ra chỗ xe ông già, hy vọng tìm được chút thức ăn. Chiếc xe bán tải bị phủ cả đống tuyết, và Andros tự hỏi không biết gã đã ngủ bao lâu trong cái nhà nghỉ cũ nát này. Ơn Chúa là mình còn tỉnh dậy. Andros không tìm thấy thức ăn ở ghế trước, nhưng trong hộc để đồ có vài viên thuốc giảm đau. Gã bốc một nắm và cố chiêu mấy vốc tuyết để nuốt trôi.

Mình cần thức ăn.

Vài giờ sau, chiếc xe bán tải chạy ra khỏi khu nhà nghỉ cũ. Trông nó chẳng còn dấu vết gì của chiếc xe tiến vào hai ngày trước đó. Mui ca bin đã bay mất, các nắp đậy bánh xe, ba đờ xốc và tất cả những thứ có thể tháo dỡ cũng chung số phận. Biển số Vermont không còn, và được thay bằng biển số của một chiếc xe tải bảo trì cũ đỗ cạnh thùng Dumpster(78) của nhà nghỉ. Andros cũng vứt hết vào Dumpster mấy tấm ga thấm máu, mảnh đạn ghém và mọi bằng chứng cho biết gã đã từng xuất hiện ở đây.

Andros chưa từ bỏ cái kim tự tháp, nhưng tạm thời phải biết chờ đợi. Gã cần giấu mình, dưỡng lành vết thương và trên hết, cần ăn. Gã tìm được một quán ăn ven đường, gọi trứng, thịt nướng, bánh khoai tây và ba ly nước cam. Ăn xong, gã còn gọi thêm đồ ăn mang đi. Ra đường, Andros bật cái đài cũ rích trên xe để nghe. Gã đã kiêng xem truyền hình và đọc báo kể từ lúc bắt đầu thử thách này. Khi nghe đến bản tin thời sự địa phương, gã chết sững.

- Các nhân viên điều tra của FBI tiếp tục tìm kiếm kẻ đột nhập có vũ trang đã sát hại bà Isabel Solomon tại tư gia ở Potomac hai hôm trước. Dường như kẻ sát nhân đã ngã xuống băng và bị cuốn trôi ra biển, - người đọc bản tin thông báo.

Andros như hoá đá. Isabel Solomon đã chết? Gã lái xe trong im lặng sững sờ, vẫn lắng nghe cho hết bản tin.

Bây giờ cần phải đi xa, thật xa khỏi nơi này.

***

Căn hộ ở Upper West Side có tầm nhìn rất đẹp hướng ra Công viên Trung tâm. Andros chọn nơi này vì màu xanh lục mênh mông bên ngoài cửa sổ gợi gã nhớ lại khung cảnh vùng Adriatic. Lẽ ra nên lấy làm mừng vì đã sống sót, nhưng Andros không cảm thấy thế.

Lòng gã luôn trống trải, và ý đồ đánh cắp kim tự tháp của Peter Solomon vẫn nung nấu không nguôi.

Andros dành khá nhiều giờ nghiên cứu truyền thuyết Kim tự tháp Tam điểm. Hình như chẳng ai khẳng định được sự tồn tại của ngọn tháp đó nhưng tất cả đều nhất trí rằng nó hứa hẹn những tri thức và sức mạnh gớm ghê. Kim tự tháp Tam điểm là có thật. Andros tự nhủ.

Thông tin tay trong của ta không thể sai được.

Số phận đã đặt kim tự tháp vào tầm tay Andros, và gã biết rằng việc bỏ qua nó chẳng khác gì cầm một tấm vé số độc đắc mà không chịu đem đổi lấy tiền. Ta là kẻ duy nhất không phải hội viên Tam điểm biết rõ kim tự tháp là có thật... cũng như biết rõ người đang bảo vệ nó.

Nhiều tháng qua đi, mặc dù cơ thể đã lành lặn lại nhưng Andros không còn tự mãn như lúc sinh sống ở Hy Lạp nữa. Gã ngừng luyện tập cũng thôi chiêm ngưỡng mình khoả thân trong gương. Gã cảm thấy dường như cơ thể đang lão hoá. Làn da từng rất hoàn hảo giờ đầy vết sẹo càng khiến gã thêm buồn nản. Gã vẫn ỷ lại vào thuốc giảm đau y như quãng thời gian đợi hồi phục, và cảm thấy cơ thể mình đang trượt ngược lại lối sống đã từng dẫn gã tới Nhà tù Soganlik. Gã không quan tâm. Thể xác thèm khát thứ gì thì cứ thoả mãn nó thấy.

Một đêm, Andros tới làng Greenwich mua ma tuý của một thằng cha có xăm hình tia chớp dài ngoằn ngoèo trên cánh tay. Andros hỏi về hình xăm và tay kia cho biết hắn dùng nó để che vết sẹo dài do một vụ tai nạn xe hơi.

- Hằng ngày, hễ nhìn vết sẹo là tao lại nhớ tới vụ tai nạn, - tên buôn ma tuý nói - tao bèn xăm đè một biểu tượng của sức mạnh cá nhân. Thế là tao trở lại cân bằng như trước.

Đêm đó, trong cơn phê thuốc, Andros lảo đảo tìm tới một hiệu xăm trong vùng, và cởi phăng áo ra.

- Tôi muốn che những vết sẹo này, - gã tuyên bố. Ta phải tự tin trở lại.

- Che đi à? - Nghệ nhân xăm hình nhìn ngực gã - Bằng gì chứ?

- Hình xăm.

- Được nhưng ý tôi là hình xăm như thế nào?

Andros nhún vai, chẳng muốn gì hơn là che giấu những thứ xấu xí gợi nhớ quá khứ của mình.

- Tôi không biết. Ông chọn giúp đi.

Nghệ nhân lắc đầu và đưa cho Andros một tập sách nói về truyền thống xăm mình cổ xưa.

- Hãy trở lại khi nào anh sẵn sàng.

Andros phát hiện ra năm mươi ba cuốn sách về xăm mình trong Thư viện Công cộng New York, gã đọc sạch số sách đó trong vài tuần. Tìm lại niềm say mê đọc sách, gã bắt đầu mang hàng ba lô sách đi đi về về giữa thư viện và căn hộ của mình, nơi gã đọc nghiến ngấu số sách ấy trong khi ngắm nhìn Công viên Trung tâm.

Những cuốn sách về hình xăm đã mở ra một thế giới kỳ lạ mà Andros chưa bao giờ biết đến, một thế giới của biểu tượng, huyền bí, truyền thuyết và pháp thuật. Càng đọc, gã càng nhận ra mình thật mù quáng. Gã bắt đầu ghi chép các ý tưởng, mọi phác thảo và những giấc mơ lạ lùng của mình. Khi không còn tìm thấy những điều hữu ích ở thư viện nữa, gã bỏ tiền nhờ những người buôn sách quý mua giúp một số sách hiếm hoi trên thế giới. De Praestigiis Daemonum(79), Lemegeton(80). Ars Almadel(81)... Grimorium Verumb(82)... Ars Notoria(83) ... vân vân. Andros đọc hết, và ngày càng tin chắc rằng thế giới vẫn có nhiều kho báu giành cho mình. Có những bí mật vượt xa hiểu biết của con người.

Sau đó gã phát hiện ra tài liệu của Aleister Crowley, một nhân vật thần bí rất hiểu biết thời đầu thế kỷ XX nhưng lại bị nhà thờ coi là "kẻ xấu xa nhất từng sống trên đời". Tư tưởng tầm thường luôn hãi sợ những tư tưởng vĩ đại Andros nghiên cứu sức mạnh của các nghi thức và bùa phép, học những từ ngữ thiêng liêng mà nếu nói ra đúng cách sẽ hiệu dụng như chìa khoá mở cánh cổng vào thế giới khác. Có một thế giới bí ẩn ngoài thế giới này... một thế giới có thể cho ta sức mạnh. Dù cực kỳ thèm khát nguồn sức mạnh đó, Andros vẫn biết rằng cần phải hoàn tất một số quy định và nhiệm vụ trước.

Muốn biến thành thần thánh, phải làm cho chính mình trở nên linh thiêng, Crowley viết như vậy.

Nghi thức "hiến tế" cổ xưa từng rất phổ biến trên Trái đất. Dân Do Thái đốt lễ vật tại Thánh điện, dân Maya chặt đầu người trên các đỉnh kim tự tháp ở Chichen Itza, rồi Jesus Christ hy sinh thân mình trên thập giá, những sự kiện này đều chứng tỏ người cổ đại rất hiểu yêu cầu hiến sinh của thần linh. Hiến sinh là nghi thức nguyên thuỷ để con người được tạo hoá ân tứ và làm cho chính mình trở thành thần thánh.

Sacra - linh thiêng.

Face - tạo dựng.

Mặc dù nghi thức hiến sinh đã bị bãi bỏ từ lâu nhưng sức mạnh của nó vẫn còn nguyên vẹn. Có rất nhiều nhân vật huyền bí hiện đại, kể cả Aleister Crowley, vẫn thực hành Nghệ thuật này, hoàn thiện nó theo thời gian và dần dần biến cải bản thân cho cao siêu hơn. Andros thèm được thay đổi mình như họ. Nhưng gã biết gã sẽ phải vượt qua một cây cầu rất nguy hiểm khi làm việc đó.

Máu chính là thứ tách biệt ánh sáng với bóng tối.

Một đêm, có con quạ bay qua cửa sổ phòng tắm để ngỏ và bị kẹt lại trong căn hộ của Andros. Nó bay chập choạng lung tung một lát rồi đậu lại, rõ ràng chấp nhận thực tế là không thể thoát ra. Andros đã đủ kiến thức để nắm bắt tín hiệu. Ta đang được thúc giục phải tiến xa hơn.

Tóm chặt con chim trên tay, gã đứng bên bàn thờ dựng tạm trong bếp và giơ cao con dao sắc, mồm đọc to câu thần chú mà gã nhớ.

"Camiach, Eomiahe, Emial, Macbal, Emoii, Zazean... nhân danh những tên tuổi thần thánh nhất trong số các thiên thần ở Cuốn sách Assamaian(84) cầu khẩn các ngài phù hộ để con thực hiện việc này bằng sức mạnh của Một đức Chúa đích thực".

Sau đó Andros hạ dao xuống và thận trọng chọc vào mạch máu chính trên cánh bên phải của con chim đang hoảng sợ. Con quạ bắt đầu chảy máu. Nhìn dòng máu đỏ chảy xuống chiếc cốc kim loại, Andros hơi gai người. Thế nhưng, gã vẫn tiếp tục.

"Đấng Adonai Toàn năng, Arathron, Ashai, Elohim, Elohim, Elion, Asher Eheieh, Shaddai... xin hỗ trợ con đem dòng máu này phát huy sức mạnh và hiệu quả ở tất cả những nơi con muốn, và ở tất cả những nơi con cần".

Đêm đó, Andros mơ thấy chim... một con phượng hoàng khổng lồ bay lên từ biển lửa. Sáng hôm sau gã thức giấc, cảm nhận trong người một nguồn năng lượng mới mẻ vô chừng. Gã chạy bộ trong công viên, nhanh hơn và xa hơn tưởng tượng. Chạy mệt rồi, gã dừng lại để tập chống đẩy. Không thể đếm được bao nhiêu lần. Vậy mà gã vẫn tràn trề sinh lực.

Đêm đó, Andros lại mơ thấy chim phượng hoàng.

Mùa thu quay về với Công viên Trung tâm, động vật nháo nhào tìm kiếm thức ăn cho mùa đông sắp tới. Andros không ngại lạnh, những cái bẫy được bố trí rất kín đáo của gã lúc nào cũng đầy ắp chuột và sóc còn sống. Gã cho chúng vào ba lô vác về nhà, thực hiện những nghi thức ngày càng phức tạp.

Emanual, Massiach, Yod, He, Vaud... xin hãy nhìn nhận con là kẻ xứng đáng.

Các nghi thức đẫm máu tiếp thêm sinh lực cho Andros, làm gã cảm thấy trẻ ra mỗi ngày. Gã tiếp tục đọc miệt mài những văn bản thần bí cổ xưa, những trường ca thời trung cổ, các triết gia sơ khai... Càng hiểu biết về bản chất đích thực của mọi vật, gã càng nhận ra rằng con người đã đánh mất toàn bộ hy vọng. Chúng mù quáng... lang thang vô định trong một thế giới mà chúng chẳng bao giờ hiểu nổi.

Andros vẫn là một con người, nhưng gã cảm thấy mình đang tiến hoá thành một thứ gì đó khác. Vĩ đại hơn. Thiêng liêng hơn. Thể lực dồi dào của gã trỗi dậy sau một thời gian ngủ yên, thậm chí mạnh mẽ hơn trước nhiều. Cuối cùng gã cũng hiểu được mục đích thực sự của nó. Cơ thể này chính là chiếc thuyền chở trí tuệ - kho báu mạnh nhất của ta.

Andros biết tiềm lực thật sự của mình vẫn chưa được phát huy, và gã nghiên cứu sâu hơn nữa. Số phận của ta là gi? Tất cả các văn bản cổ xưa đều nói đến cái thiện và cái ác... nói đến nhu cầu phải lựa chọn giữa hai thứ đó của con người. Mình đã lựa chọn lâu rồi, gã biết như vậy, nhưng gã không cảm thấy hối tiếc. Cái ác là gì nếu không phải là một quy luật tự nhiên? Hết ánh sáng là đến bóng tối. Hết trật tự là đến hỗn loạn. Entropy(85) là yếu tố căn bản. Mọi thứ đều phải suy tàn. Ngay cả tinh thể, dù có trật tự hoàn hảo đến đâu thì cuối cùng cũng biến thành phân tử bụi.

Có kẻ sáng tạo... cũng có người phá huỷ.

Song tới tận khi đọc cuốn "Thiên đường bị mất"(86) của John Milton thì Andros mới thấy rõ rệt số phận mình. Gã đọc về vị thần sa ngã, một chiến binh quỷ sứ đấu tranh chống lại ánh sáng, một nhân vật can đảm, một vị thần có tên Moloch.

Moloch hạ phàm với tư thế thánh thần. Sau này Andros biết rằng, cái tên Moloch dịch sang ngôn ngữ cổ đại sẽ trở thành Mal'akh.

Và ta cũng vậy.

Như tất cả những biến cố lớn lao, quá trình thay đổi này cần bắt đầu với một lễ hiến sinh... nhưng không phải bằng chuột hay chim.

Không, nó đòi hỏi một sự hiến sinh thật sự Chỉ có một sự hiến sinh đáng giá thôi.

Đột nhiên, Andros thấy thông suốt hơn bất kỳ nhận thức nào trước kia. Toàn bộ số phận gã đã hiện lên rõ rệt. Suốt ba ngày liền, gã phác hoạ bản thân trên một tấm giấy lớn, để ra kết quả là hình ảnh tương lai của chính mình.

Andros treo bức phác hoạ có kích thước thật lên tường và chăm chú ngắm nghía như thể soi gương.

Ta là một kiệt tác.

Ngày hôm sau, gã mang bức vẽ của mình tới cửa hàng xăm hình.

Gã đã sẵn sàng.

Chú thích:

(78) Dumpster là tên gọi một loại dụng cụ chứa rác, một kiểu thùng chứa rác lưu động. Từ Dumpster xuất phát từ hệ thống Dempster-dumpster, do anh em nhà Dempster thiết kế những năm 1930, dùng để tự động bốc dọn toàn bộ rác trong các thùng chứa đã được chuẩn hoá lên các xe chở rác - ND.

(79) De Praestigiis Daemonum et Incantationibus ac Venificiis (Cuốn sách về những hình ảnh của quỷ sứ, các câu thần chú và chất độc), viết năm 1563, là tác phẩm có ảnh hưởng nhất của Johannes Wier (1515-1588), nhà vật lý, nhà than bí học và nhà nghiên cứu ma quỷ người Hà Lan. Ông là một trong những người đầu tiên viết các tác phẩm lên án việc khủng bố giới phù thuỷ - ND.

(80) Lemegeton, tên đầy đủ là Lesser Key of Solomon (Chìa khoá Solomon), là một bộ sách về ma thuật khuyết danh ở thế kỷ XVII và là một trong những bộ sách phổ biến nhất trong lĩnh vực này - ND.

(81) Ars Almadel (Nghệ thuật Almadel) là phần thứ tư trong bộ Lesser Key of Solomon. Phần này nói về cách chế tạo almadel, một thẻ sáp có những biểu tượng bảo vệ vẽ bên trên dùng để đặt bốn cây nến. Ngoài ra còn có những chỉ dẫn liên quan đến màu sắc, chất liệu và nghi thức cần thiết để thiết lập almadel và các cây nến. Ars Almadel cũng nói về các thiên thần sẽ được gọi lên, và giải thích rằng chỉ được gọi đến họ vì những lý do hợp lý và đúng đắn, kèm theo cách khấn - ND.

(82) Grimorium Verumb (Ma thuật đích thực hay Ma thuật chân lý), là một cuốn sách về ma thuật, được cho là do "Alibeck Người Ai Cập" sống ở Memphis viết năm 1517. Nhưng giới học giả nhất trí rằng cuốn sách thật sự có từ thế kỷ XVIII và những bản sách đầu tiên xuất hiện bằng tiếng Pháp và Italia - ND.

(83) Ars Notoria (Nghệ thuật cao quý) là phần thứ năm và phần cuối cùng trong bộ Lesser Key of Solomon. Đây là cuốn sách ma thuật được biết đến từ thời Trung đại, khẳng định rằng nghệ thuật này do Đấng Sáng tạo truyền cho vua Solomon qua một thiên thần. Sách có hẳn một tập hợp các câu cầu nguyện kèm theo những từ ngữ thần chú bằng vài thứ tiếng (Do Thái, Hy Lạp, v.v...), cách đọc lên, và mối liên hệ giữa những nghi thức này với cách lĩnh hội tất cả các khoa học. Theo cuốn sách, đọc đúng các câu thần chú sẽ giúp đem lại kiến thức về khoa học, trí nhớ sáng suốt, tinh thần vững vàng, và khả năng hùng biện. Sách cũng trình bày những quy tắc phải tuân thủ để bảo đảm đạt kết quả tốt ND.

(84) Cuốn sách Thiên đàng - ND.

(85) Entropy được định nghĩa như là một đơn vị đo lường năng lượng trong mối tương quan với nhiệt độ tuyệt đối, hay là đơn vị đo sự phân tán đồng thời của năng lượng ở một nhiệt độ nhất định. Thuật ngữ này do nhà vật lý người Đức là Rudolí Clausius nghĩ ra năm 1865. Nguyên gốc, entropy được dùng để mô tả "nhiệt năng tiêu hao" từ các cỗ máy nhiệt hoặc các thiết bị cơ khí không có khả năng vận hành với hiệu suất 100% để chuyển hoá năng lượng. Về sau, thuật ngữ này có thêm nhiều cách giải thích khi con người hiểu thêm về hoạt động của các phân tử - ND.

(86) Thiên đường bị mất (Paradise Lost) là một trường ca của nhà thơ người Anh John Milton ở thế kỷ XVII. Nguyên gốc, nó được xuất bản năm 1667, gồm 10 tập. Bản in lần hai năm 1674 chia lại thành 12 lập với đôi chỗ chỉnh lý và phần chú giải về luật thơ. Trường ca là câu chuyện về sự sa ngã của loài người: việc Adam và Eve bị quỷ Satan cám dỗ và bị trục xuất khỏi Vườn Địa đàng. Mục đích của Milton, như nêu trong Tập I, là "lý giải sự đối xử của Chúa với con người" và cuộc xung đột giữa mối lo vĩnh cửu với sự tự nguyện của Chúa - ND

Chương 78

Đài tưởng niệm George Washington toạ lạc trên đỉnh đồi Shuter's ở Alexandria, bang Virginia. Được chia thành ba cấp phân biệt Doric, Ionic và Corinthian với độ phức tạp về mặt kiến trúc tăng dần từ chân lên đến đỉnh, công trình đứng đó như một biểu tượng hữu hình cho con đường vươn tới tri thức của loài người. Lấy cảm hứng từ ngọn hải đăng Pharos ở Alexandria, Ai Cập, toà tháp đồ sộ này có chóp là một kim tự tháp Ai Cập với đỉnh chạm hình ngọn lửa.

Bên trong gian phòng cẩm thạch hoa lệ là pho tượng đòng khổng lồ tái hiện George Washington trong bộ lễ phục của Hội Tam điểm cùng với cái bay thật mà ông dùng để xây viên đá đầu tiên cho Điện Capitol. Bên trên gian phòng này là chín tầng khác nhau được đặt những cái tên như Hang động, Phòng Hầm mộ, và Nhà nguyện Hiệp sĩ Thánh chiến. Trong số các báu vật được cất giữ tại đây có hơn hai vạn tập tài liệu của Hội Tam điểm, một bản sao chiếc hòm đựng Pháp điển, và thậm chí cả một mô hình thu nhỏ gian phòng đặt ngai vàng trong đền thờ vua Solomon.

Chiếc trực thăng UH-60 bay là là phía trên sông Potomac, đặc vụ CIA Simkins xem đồng hồ. Sáu phút nữa tàu của họ mới đến. Anh ta thở hắt ra và ngó qua cửa sổ về phía Đài tưởng niệm sáng ngời ở phía chân trời. Anh phải thừa nhận rằng toà tháp rực rỡ kia trông ấn tượng chẳng kém bất kỳ công trình nào ở khu vực Công viên Quốc gia. Simkins chưa từng vào trong Đài tưởng niệm, và đêm nay cũng thế thôi. Nếu mọi việc diễn tiến theo đúng kế hoạch thì Robert Langdon và Katherine Solomon sẽ chẳng bao giờ bước ra được khỏi ga tàu điện ngầm.

- Đằng kia! - Simkins quát bảo phi công, tay chỉ về ga King Street phía bên kia Đài tưởng niệm.

Viên phi công cho trực thăng chao nghiêng và đậu xuống một bãi cỏ dưới chân đồi Shuter's.

Khách bộ hành ngạc nhiên khi thấy nhóm Simkins nhảy ra khỏi máy bay, lao nhanh qua phố xuống ga King Street. Tại khu vực cầu thang, một số hành khách chuẩn bị khởi hành phải nhảy vội ra khỏi lối đi dán mình vào tường khi nhóm đặc vụ mặc đồ đen rầm rập chạy qua họ.

Nhà ga King Street lớn hơn Simkins dự đoán, phục vụ cả mấy tuyến khác nhau như tuyến Xanh lam, tuyến Vàng, tuyến Amtrak. Anh ta xem bản đồ hệ thống trên tường, tìm Quảng trường Tự Do và tuyến tàu điện ngầm trực tiếp chạy tới vị trí này.

- Tuyến Xanh lam, sân ga phía nam! - Simkins hô lớn - Xuống đó và giải tán hết mọi người!

Đồng đội anh ta vọt đi.

Simkins chạy tới quầy vé, trình thẻ công vụ và nói như quát với người phụ nữ ngồi trong.

- Mấy giờ thì chuyến tàu tiếp từ ga trung tâm mới đến?

Người phụ nữ lộ vẻ hoảng sợ.

- Tôi không chắc lắm. Cứ mười một phút có một chuyến của tuyến Xanh lam. Không có lịch trình cố định.

- Từ chuyến tàu trước đến giờ là bao lâu rồi?

- Năm... hoặc sáu phút? Chỉ khoảng thế thôi.

Tunner nhẩm tính. Tuyệt. Chuyến tàu tiếp theo sẽ là của Langdon.

***

Bên trong một toa tàu điện ngầm đang phóng rất nhanh. Katherine Solomon bồn chồn nhổm dậy trên chiếc ghế nhựa cứng. Mấy bóng đèn huỳnh quang sáng rực trên đầu khiến cô chói mắt, và cô đang phải cố kìm không để hai mí mắt sụp xuống, dù chỉ một giây thôi. Langdon ngồi cạnh cô trong toa xe vắng tanh, đờ đẫn nhìn chiếc túi da dưới chân, mí mắt cũng nặng trĩu, nhịp rung lắc đều đặn của toa xe như ru anh vào trạng thái mơ màng.

Katherine hình dung ra những thứ lạ lùng trong túi Langdon. Tại sao CIA lại muốn giành lấy kim tự tháp này. Bellamy nói Sato truy lùng ngọn tháp có thể là do bà ta biết rõ tiềm năng thực sự của nó. Nhưng cho dù kim tự tháp thực sự tiết lộ nơi cất giấu những bí mật cổ xưa thì Katherine thấy cũng thật khó tin là điều đó hấp dẫn được CIA.

Nhưng một lần nữa, cô nhắc nhở mình rằng đã nhiều lần người ta phát hiện ra CIA thực hiện những chương trình cận tâm lý học chẳng khác gì chủ nghĩa thần bí và ma thuật cổ xưa. Năm 1995, vụ bê bối "Stargate/scannate"(87) đã tiết lộ một công nghệ mật của CIA gọi là quan sát từ xa - một dạng suy tưởng ngoại cảm giúp người quan sát dõi con mắt tinh thần của mình tới bất kỳ nơi nào trên trái đất và theo dõi nơi đó mà không cần phải có mặt trực tiếp. Dĩ nhiên công nghệ này chẳng có gì mới mẻ. Giới thần bí gọi đó là du hành thiên thể(88) dự đoán... còn các tín đồ Du già thì gọi là trải nghiệm ngoại thân. Tiếc thay, các công dân Mỹ nhút nhát coi công nghệ đó là ngớ ngẩn, và chương trình bị đình chỉ. Ít nhất là về mặt công khai.

Nực cười thay, Katherine lại nhận ra mối liên hệ đáng kể giữa những chương trình bất thành của CIA và các đột phá của riêng cô trong ngành Lý trí học.

Katherine rất muốn gọi cho cảnh sát để xem họ đã phát hiện được gì ở khu Kalorama Heights, nhưng lúc này cô và Langdon đều không còn điện thoại, và việc liên lạc với giới chức sẽ là một sai lầm, chẳng thể biết Sato có thể vươn tay tới tận đâu.

Kiên nhẫn nào, Katherine. Chỉ còn vài phút nữa, họ sẽ tới nơi ẩn náu an toàn, làm khách của một người đàn ông quả quyết rằng mình có câu trả lời cho mọi chuyện. Katherine hy vọng những câu trả lời của ông ta, cho dù là gì, sẽ giúp cô cứu được anh trai.

- Robert? - cô thì thào, ngước nhìn bản đồ tàu điện ngầm - Trạm tiếp theo là của mình đấy.

Langdon lờ đờ tỉnh lại.

- Phải rồi, cảm ơn chị - Khi đoàn tàu sầm sập lao tới ga, anh gom chiếc túi và nhìn Katherine không mấy chắc chắn - Cứ hy vọng chúng ta đến nơi yên ổn.

***

Lúc Tunner Simkins chạy tới nhập vào nhóm của mình, sân ga tàu điện ngầm đã được giải tán xong. Các đồng đội của anh ta toả rộng, trấn giữ vị trí phía sau dãy cột đỡ chạy dọc chiều dài sân ga. Có tiếng ầm ầm vọng tới từ đường hầm ở phía đầu kia của nhà ga. Khi âm thanh ấy to dần, Simkins cảm thấy làn không khí nóng nực cuộn lên xung quanh.

Không thoát được đâu ông Langdon ạ.

Simkins ngoảnh nhìn hai đặc vụ mà anh ta đã dặn theo sát mình.

- Chuẩn bị sẵn thẻ công vụ và vũ khí đi. Loại tàu này là tàu tự động, nhưng vẫn có một trưởng tàu để mở cửa. Tìm anh ta nhé!

Bấy giờ, đèn pha của đoàn tàu đã xuất hiện trong đường hầm, tiếng phanh rít lên trong không khí. Khi đoàn tàu ầm ầm lao tới ga và bắt đầu chạy chậm lại, Simkins cùng hai đặc vụ nhô ra, tay vẫy phù hiệu công vụ CIA và căng mắt cố tìm trưởng tàu trước khi anh ta mở tung các cửa.

Đoàn tàu tiến lại gần rất nhanh. Trong toa thứ ba, Simkins đã nhìn thấy gương mặt đầy ngạc nhiên của viên trưởng tàu rõ ràng đang cố suy đoán tại sao ba người mặc đồ đen đều vẫy phù hiệu Công vụ với anh ta. Simkins chạy lại phía đoàn tàu lúc này đang sắp dừng hẳn.

- CIA! - Simkins thét to, giơ thẻ của mình ra - KHÔNG được mở cửa!

Đoàn tàu chầm chậm lướt qua, Simkins bước về phía toa của viên trưởng tàu, quát to.

- Không được mở cửa tàu! Anh có hiểu không?! KHÔNG được mở cửa tàu!

Đoàn tàu dừng hẳn lại, viên trưởng tàu mở to mắt, gật đầu lia lịa.

- Có chuyện gì thế?! - anh ta hỏi qua cửa sổ hông.

- Không cho tàu chạy vội, - Simkins nói - Và đừng mở tưng các cửa.

- Được rồi.

- Cho chúng tôi vào toa thứ nhất được không?

Viên trưởng tàu gật đầu. Vẻ sợ hãi, anh ta bước ra khỏi tàu, khoá cửa lại, đoạn cùng Simkins và mấy đặc vụ kia tiến tới toa thứ nhất, rồi giơ tay mở cửa.

- Khoá lại nhé. - Simkins nói và rút súng ra.

Anh ta cùng hai đồng sự nhanh chóng bước vào toa xe thứ nhất. Viên trưởng tàu khoá cửa lại phía sau họ.

Toà thứ nhất chỉ có bốn hành khách, ba cậu choai choai và một bà già, tất cả đều giật mình ngơ ngác khi nhìn thấy ba người đàn ông có vũ trang bước vào. Simkins giơ thẻ công vụ lên.

- Không có vấn đề gì hết. Cứ ngồi nguyên tại chỗ.

Simkins cùng người của anh ta bắt đầu tìm kiếm, dồn dần về phía cuối toa tàu đã khoá kín - đây là phương pháp "bóp thuốc đánh răng", như cách gọi thời anh ta còn được đào tạo ở Farm. Tất cả hành khách lúc này đều ở trên tàu. Đi hết nửa toa tàu, nhóm đặc vụ vẫn chưa nhìn thấy ai có chút gì đó giống mô tả về Robert Langdon và Katherine Solomon. Tuy nhiên, Simkins còn rất tự tin. Trên toa không có chỗ nào để núp cả. Không phòng vệ sinh, không buồng kho, và không cả lối thoát thay thế. Cho dù mục tiêu có phát hiện việc họ lên tàu và chạy về phía sau thì cũng chẳng thoát ra nổi. Không thể cạy được cửa, mà Simkins cũng đã bố trí người đứng canh trên sân ga và cả hai đầu của đoàn tàu.

Cứ kiên nhẫn.

Tuy nhiên, lúc tiến vào toa thứ hai, Simkins bắt đầu bực mình. Ở toa tàu áp chót này chỉ có duy nhất một hành khách, một người Hoa.

Simkins và nhóm đặc vụ tiến dần qua toa tàu, tìm kiếm bất kỳ chỗ nào khả dĩ ẩn náu. Không hề có.

- Toa cuối, - Simkins nói, tay lăm lăm vũ khí và cùng hai đồng sự tiến về ngưỡng cửa toa cuối cùng của đoàn tàu. Vừa bước tới nơi, cả ba đã đứng sững lại, giương mắt lên trân trối.

Quái quỷ...?! Simkins bước nhanh về phía cuối toa tàu trống trơn, tìm kiếm phía sau tất cả ghế ngồi rồi trở lại chỗ người của mình, máu như sôi lên.

Bọn chúng biến đi đằng chó nào không biết?!

Chú thích:

(87) "Dự án Stargate" là mật danh của một trong những nghiên cứu do Chính phủ Hoa Kỳ tiến hành từ năm 1972 đến 1995, nhằm mục đích điều tra khả năng sử dụng các năng lực tâm thần trong các chiến thuật quân sự - ND.

(88) Du hành thiên thể là một cách hiểu mang tính bí truyền về bất kỳ dạng trải nghiệm ngoài cơ thể nào thừa nhận sự tồn tại của một "thiên thể" tách biệt với nhục thể và có khả năng thoát ra khỏi nhục thể đó. Du hành thiên thể mô tả việc thiên thể rời khỏi nhục thể để du hành trong thiên hà - ND

Chương 79

Cách Alexandria, bang Virginia tám dặm về phía bắc. Robert Langdon và Katherine Solomon đang bình tĩnh rảo bước qua bãi cỏ rộng còn đẫm hơi sương.

- Chị nên làm diễn viên thì hơn - Langdon nói, vẫn còn rất ấn tượng trước suy nghĩ nhanh nhẹn và khả năng ứng phó của Katherine.

- Anh cũng không tệ đâu - Cô mỉm cười đáp.

Thoạt đầu Langdon hết sức lúng túng với vở kịch bất ngờ của Katherine ở trong taxi. Chẳng hề báo trước, cô đột ngột đòi tới Quảng trường Tự Do vì bỗng nhớ ra một ngôi sao Do Thái và dấu Quốc ấn của nước Mỹ. Cô vẽ một đồ hình nổi tiếng lên tờ đô la và giục Langdon nhìn kỹ chỗ cô muốn chỉ.

Cuối cùng, Langdon cũng nhận ra thứ Katherine đang nói tới không phải là tờ đô la mà là bóng đèn tín hiệu nhỏ xíu ở lưng ghế lái xe. Bóng đèn bị phủ bụi nên anh vốn không chú ý đến nó. Tuy nhiên, khi nghiêng người tới trước, Langdon thấy rõ bóng đèn đó sáng, toả ra màu đỏ đục. Anh cũng thấy rõ mấy chữ lờ mờ phía dưới bóng đèn.

HỆ THÔNG ĐÀM THOẠI TRONG XE - ĐANG BẬT

Giật mình, Langdon ngoảnh nhìn Katherine. Ánh mắt hốt hoảng của cô giục anh trông lên ghế trước. Langdon làm theo, kín đáo liếc nhanh qua tấm vách ngăn. Điện thoại di động của gã lái xe đặt trên bảng điều khiển, mở sẵn, sáng đèn và hướng về loa đàm thoại nội bộ.

Trong khoảnh khắc, Langdon hiểu ngay hành động của Katherine.

Họ biết chúng ta ở trên taxi... họ đang nghe ta nói.

Langdon không biết anh và Katherine còn bao nhiều thời gian cho tới lúc chiếc taxi dừng lại, nhưng anh biết mình phải hành động thật nhanh. Ngay lập tức anh tham gia màn kịch vì đã nhận ra đề xuất tới Quảng trường Tự Do của Katherine chẳng liên quan gì đến kim tự tháp, mà liên quan đến một ga tàu điện ngầm lớn - Ga Trung tâm, từ đó họ có thể bắt các tuyến Đỏ, Xanh lam hoặc Da cam theo bất kỳ hướng nào trong sáu hướng đi.

Tới Quảng trường Tự Do, họ nhảy ra khỏi taxi và Langdon vào vai, diễn một vài khúc ứng tác của riêng anh, cố tình để lại dấu hiệu chỉ đường tới Đài tưởng niệm ở Alexandria rồi mới cùng Katherine chạy xuống ga tàu điện ngầm, bỏ qua tuyến Xanh lam và tiếp tục tới tuyến Đỏ, đón tàu chạy theo hướng ngược lại.

Đi về phía bắc, vượt qua sáu nhà ga, họ tới một khu vực sang trọng yên tĩnh gần Tenleytown. Điểm đến của họ là công trình cao nhất ở khu vực này, hiện ra lừng lững phía chân trời, ngay Đại lộ Massachusetts, trên một bãi cỏ được cắt tỉa công phu.

Giờ đã "tháo cũi sô lồng", theo như lời Katherine, hai người thong thả đi qua bãi cỏ ẩm ướt. Bên tay phải họ là một khu vườn theo phong cách trung cổ, nổi tiếng với những bụi hồng lâu đời và vọng lâu Ngôi nhà Bóng mát. Họ băng qua vườn, tiến thẳng tới toà nhà lộng lẫy theo chỉ dẫn. Một nơi trú ẩn chứa mười tảng đá lấy từ núi Sinai, một hòn từ thiên đường, và một hòn mang nét mặt người cha bí ẩn của Luke.

- Tôi chưa bao giờ đến đây ban đêm cả, - Katherine nói, ngước mắt nhìn những ngọn tháp sáng rực - Thật đẹp.

Langdon hoàn toàn đồng ý, giờ mới nhớ ra rằng nơi đây thật sự cực kỳ ấn tượng. Kiệt tác tân Gothic này toạ lạc ở đầu phía bắc của khu Embassy Row, vài năm trước anh từng đến một lần để viết bài về nó cho một tạp chí trẻ em với hy vọng thanh thiếu niên có hứng thú ghé thăm công trình kỳ vĩ này. Bài viết của anh mang nhan đề "Moses, đá Mặt trăng và Chiến tranh giữa các vì sao", về sau đã trở thành một phần trong các tài liệu du lịch.

Đại Giáo đường Quốc gia Washington, Langdon nghĩ bụng, cảm thấy hơi hồi hộp sau nhiều năm trở lại. Còn nơi nào tốt hơn để tìm hiểu về Đức Chúa đích thực chưa?

- Nhà thờ này thực sự có mười tảng đá lấy từ núi Sinai à? - Katherine hỏi, nguýt nhìn tháp chuông đôi.

Langdon gật đầu.

- Gần chỗ bàn thờ chính. Chúng tượng trưng cho mười điều răn gửi tới Moses trên núi Sinai.

- Thế còn tảng đá mặt trăng?

Một tảng đá từ thiên đường.

- Phải. Một trong những ô cửa sổ lắp kính màu được gọi là Cửa sổ Vũ trụ, mẩu đá mặt trăng gắn ở đó.

- Hay thật, nhưng chi tiết cuối cùng nghe chừng hoang đường - Katherine nhìn quanh, đôi mắt đẹp thoáng nét hoài nghi - Một bức tượng của... Darth Vader(89) chăng?

Langdon bật cười.

- Người cha bí ẩn của Luke Skywalker(90) à? Chính xác đấy. Vader là một trong những pho tượng nổi tiếng nhất của Giáo đường Quốc gia - Anh chỉ tít lên mấy ngọn tháp phía tây - Hơi khó nhìn vào ban đêm, nhưng ở kia kìa.

- Darth Vader thì làm gì ở Đại Giáo đường Quốc gia Washington này chứ?

- Một bài thi cho bọn trẻ tạc miệng máng xối hình mặt quỷ. Darth đã giành chiến thắng.

Họ tới bậc cấp rộng dẫn lên lối cửa chính nằm sâu trong khuôn cửa vòm cao 24 mét, bên trên là một ô cửa sổ hoa hồng đẹp mê hồn.

Langdon đặt chân lên bậc cấp, tâm trí vẩn vơ nghĩ tới người lạ mặt đã gọi cho anh. Xin đừng nói tên... Cho tôi biết có phải anh đã bảo vệ được tấm bản đồ người ta uỷ thác cho anh không? Vai Langdon đau rát vì đeo ngọn kim tự tháp đá nặng trĩu, anh chỉ mong được hạ nó xuống. Chỗ ẩn náu và câu trả lời.

Khi lên tới bậc trên cùng, họ gặp hai cánh cửa gỗ đồ sộ.

- Chúng ta chỉ việc gõ cửa thôi à? - Katherine hỏi.

Langdon cũng đang băn khoăn thì có tiếng cửa kẹt mở.

- Ai đó? - một giọng nói yếu ớt vang lên. Một gương mặt nhăn nheo xuất hiện ở cửa. Ông ta mặc áo choàng thầy tu, ánh nhìn hoàn toàn trống rỗng, đôi mắt trắng đục và mờ tịt vì bệnh đục thuỷ tinh thể.

- Tên tôi là Robert Langdon, - anh đáp - Cô Katherine Solomon và tôi đang tìm một chỗ ẩn náu.

Ông già mù loà thở phào.

- Ơn Chúa. Tôi đang mong gặp hai vị.

Chú thích:

(89) Darth Vader là một nhân vật trong bộ phim truyện Chiến tranh giữa các vì sao (Star Wars). Darth Vader là tên của Anakin Skywalker sau khi gia nhập mặt tối của thần lực. Sau trận kịch chiến với thầy mình là Obi-Wan Kenobi ở hệ nham thạch, anh ta thất bại và bị dung nham ở hệ hành tinh ấy thiêu đốt làm biến dạng cơ thể. Chúa tể Darth Sidious đem anh ta về chữa trị và cho anh ta chiếc mặt nạ đen. Từ đó anh ta trở thành Darth Vader cùng với đội quân nhân bản thống lĩnh thiên hà. Trong tập bốn của bộ phim, Darth Vader giết Obi-Wan Kenobi khi ông đang cố gắng bảo vệ Luke Skywalker, con "trai của Anakin Skywalker, và các bạn của anh. Khi thấy chính con trai mình sắp bị giết, Darth Vader đã liều mình hy sinh để cứu con - ND.

(90) Luke Skywalker là con trai của Anakin Skywalker (Darth Vader). Mẹ của Luke, Padmé Amidala, qua đời khi sinh anh và người em gái của anh, công chúa Leia Amidala Skywalker vì quá đau buồn trước những sai lầm của cha anh. Khi vừa sinh ra, anh được hiệp sĩ Jedi Obi-Wan Kenobi đưa về quê nội ở hành tinh Tatooine để trốn tránh sự truy sát của người Sith do Darth Sidious chỉ huy. Tại đây, anh đã lớn lên với thân phận một nông dân nghèo khổ, làm nghề thu mua những người máy cũ. Tình cờ, anh có được hai người máy R2D2 và C3PO của công chúa Leia. Những thông tin cầu cứu của công chúa Leia đã dẫn anh tìm đến Ben Kenobi, tên của Obi-Wan Kenobi khi mai danh ẩn tích. Chính Obi-Wan Kenobi đã dạy anh những bài học đầu tiên để trở thành một hiệp sĩ Jedi cũng như bước vào cuộc chiến cùng quân khởi nghĩa chống lại Đế chế độc tài do Darth Sidious và cha anh, Darth Vader, cầm đầu. Trong phần cuối của bộ phim, Luke đánh bại được Vader nhưng sau đó thua Palpatine. Khi Palpatine định giết Luke, cha anh tỉnh ngộ và chấp nhận cái chết để tiêu diệt Palpatine cũng là để cứu con trai mình - ND

Chương 80

Warren Bellamy bỗng cảm thấy một tia hy vọng.

Giám đốc Sato vừa nhận cuộc gọi của một đặc vụ và lập tức mắng xa xả.

- Thôi được rồi, đám ăn hại các anh nên tìm ngay họ đi! - bà ta quát vào điện thoại - Chúng ta không còn bao nhiêu thời gian đâu!

Sato tắt máy và đi đi lại lại trước mặt Bellamy như thể đang cố gắng quyết định xem phải làm gì tiếp theo.

Cuối cùng, bà ta dừng bước ngang chỗ ông và quay sang.

- Ông Bellamy, tôi hỏi ông câu này một lần nữa, và chỉ một lần nữa thôi - Bà ta nhìn xoáy vào mắt viên Kiến trúc sư - ông có biết Robert Langdon đi đâu không? Có hay không?

Bellamy biết rất rõ, nhưng ông lắc đầu.

- Không.

Ánh nhìn sắc lạnh của Sato không rời khỏi mắt người đàn ông.

- Tiếc rằng một phần công việc của tôi là phát hiện khi nào thì người ta nói dối.

Bellamy ngoảnh đi.

- Xin lỗi, tôi không giúp gì được bà.

- Kiến trúc sư Bellamy. - Sato nói - Hồi tối, vừa sau 7 giờ, ông đang ăn cơm ở một nhà hàng ngoại ô thì nhận được điện thoại của một người, thông báo hắn đã bắt cóc Peter Solomon.

Bellamy rùng mình ớn lạnh và ngoảnh lại nhìn Sato. Làm thế nào mà bà biết chuyện đó?

- Gã kia, - Sato nói tiếp - bảo ông rằng gã đã cử Robert Langdon tới Điện Capitol để thực hiện một nhiệm vụ... một nhiệm vụ cần sự giúp đỡ của ông. Gã cảnh cáo rằng nếu Langdon không hoàn thành nhiệm vụ này thì Peter Solomon bạn ông sẽ chết. Hoảng sợ, ông gọi tất cả các số của Peter nhưng không được. Đương nhiên sau đó ông chạy vội tới Điện Capitol.

Bellamy không tưởng tượng nổi bằng cách nào Sato biết về cuộc điện thoại này.

- Khi chạy trốn khỏi Điện Capitol, - Sato rít một hơi thuốc rồi tiếp - ông gửi một tin nhắn cho kẻ bắt cóc Solomon, quả quyết với hắn rằng ông và Langdon đã thành cộng trong việc giành được Kim tự tháp Tam điểm.

Bà ta lấy thông tin ở đâu nhỉ? Bellamy tự hỏi. Ngay cả Langdon cũng không biết mình gửi tin nhắn. Ngay sau khi bước vào đường hầm dẫn sang Thư viện Quốc hội, Bellamy đến phòng điều khiển hệ thống điện để bật đèn. Trong khoảng thời gian riêng tư đó, ông đã quyết định gửi một tin nhắn nhanh cho kẻ bắt cóc Solomon, báo với gã về sự can thiệp của Sato, nhưng cũng trấn an rằng ông - Bellamy - và Langdon đã đoạt được Kim tự tháp Tam điểm và trên thực tế đang hợp tác với gã. Dĩ nhiên đây chỉ là lời nói dối, song Bellamy hy vọng kế hoãn binh ấy sẽ kéo dài thời gian, cho Peter Solomon và cả cho việc giấu kim tự tháp.

- Ai nói với bà tôi đã gửi tin nhắn? - Bellamy cật vấn.

Sato cầm chiếc điện thoại di động của Bellamy trên ghế băng cạnh ông.

- Chẳng khó khăn mấy.

Bellamy sực nhớ rằng khi bị bắt. Ông đã bị bọn đặc vụ tịch thu cả điện thoại lẫn chìa khoá.

- Về những thông tin còn lại - Sato nói - Luật Yêu nước cho tôi quyền được nghe trộm điện thoại của bất kỳ ai tôi coi là mối đe doạ tiềm tàng đối với an ninh quốc gia. Trong mắt tôi, Peter Solomon là một mối đe doạ như thế, và tối hôm qua, tôi đã hành động.

Bellamy cố gắng lắm mới hiểu được những điều Sato nói.

- Bà nghe trộm điện thoại của Peter Solomon?

- Phải. Nhờ thế mà tôi biết gã bắt cóc đã liên lạc với ông ở nhà hàng. Ông gọi vào điện thoại di động của Peter và để lại một tin nhắn giải thích những chuyện vừa xảy ra.

Bellamy thừa nhận bà ta nói đúng.

- Chúng tôi cũng nghe lén được một cuộc gọi của Robert Langdon, lúc ấy đang có mặt ở Điện Capitol và hoàn toàn không hiểu tại sao mình lại bị lừa tới đó. Tôi tới Điện Capitol ngay, tới trước ông vì tôi ở gần hơn. Còn vì sao tôi muốn xem X quang cái túi của Langdon... ngay khi nhận ra Langdon dính vào chuyện này, tôi đã cho nhân viên kiểm tra lại cuộc gọi tưởng như vô hại vào sáng sớm giữa Langdon và điện thoại di động của Peter Solomon, trong đó kẻ bắt cóc tự nhận là trợ lý của Solomon, thuyết phục Langdon đến giảng bài và dặn mang theo cả cái gói nhỏ Peter đã gửi anh ta. Thấy Langdon không đả động gì tới cái gói, tôi đã yêu cầu xem bản chụp X quang chiếc túi.

Bellamy thấy khó nghĩ. Phải thừa nhận rằng câu chuyện của Sato rất xuôi tai, nhưng vẫn còn thiếu điều gì đó.

- Vì sao bà lại nghĩ Peter Solomon là mối đe doạ đối với an ninh quốc gia chứ?

- Tin tôi đi, Peter Solomon đúng là mối đe doạ rất nghiêm trọng đối với an ninh quốc gia, - Sato ngắt lời - Và nói thẳng nhé, ông cũng vậy đấy, thưa ông Bellamy.

Viên Kiến trúc sư bật ngồi thẳng dậy, chiếc còng xiết chặt lấy cổ tay ông.

- Bà nói sao cơ?

Vị Giám đốc OS cố nặn ra một nụ cười.

- Đám Hội viên Tam điểm các người chơi một trò chơi đầy rủi ro. Các người giấu giếm một bí mật rất, rất nguy hiểm.

Bà ta đang nói về những Bí mật cổ xưa chăng?

- Rất may, các người đã luôn làm tốt công việc giữ kín mọi bí mật của mình. Nhưng rủi thay, gần đây các người lại bất cẩn, và tối nay, bí mật nguy hiểm nhất của các người sắp bị tiết lộ cho cả thế giới. Trừ phi chúng ta ngăn chặn được việc đó, bằng không tôi đoán chắc với ông rằng hậu quả sẽ cực kỳ tai hại.

Bellamy trợn mắt thảng thốt.

- Giá như ông không tấn công tôi, - Sato nói - thì ông đã nhận ra rằng ông và tôi cùng hội cùng thuyền.

Cùng hội cùng thuyền. Những từ này làm lóe lên trong Bellamy một ý tưởng hầu như vô lý. Phải chăng Sato là thành viên của Đông Tinh hội? Đông Tinh hội - thường được coi là tổ chức chị em của Hội Tam điểm - cũng có triết lý tương tự về lòng nhân ái, về tri thức bí mật, và có tư tưởng phóng khoáng. Cùng hội cùng thuyền ư? Mình đang bị còng tay! Còn bà ta thì nghe trộm điện thoại của Peter.

- Ông sẽ giúp tôi ngăn chặn gã này, - Sato nói - Hắn có khả năng gây ra một biến động lớn khiến cho đất nước không gượng dậy nồi nữa.

Gương mặt bà ta trơ như đá.

- Vậy sao các vị không theo dõi hắn?

Dường như Sato cho rằng câu hỏi đó là thừa.

- Ông nghĩ rằng tôi không thử làm sao? Kết quả truy tìm từ điện thoại di động của Solomon đã mất dấu trước khi chúng tôi kịp xác định vị trí. Một số máy khác của hắn có vẻ là số chỉ dùng một lần, gần như không thể truy dấu được. Hãng máy bay tư cho chúng tôi biết rằng chuyến bay của Langdon do trợ lý của Solomon đăng ký, bằng số di động của Solomon, bằng thẻ Marquis Jet của Solomon. Không có cách nào cả. Mà cho dù tìm ra đúng hang ổ thì tôi cũng không thể mạo hiểm xông vào và tìm cách tóm hắn được.

- Tại sao lại không?!

- Tôi không muốn cắt nghĩa việc đó, vì đây là thông tin mật, - Sato đáp, rõ ràng sự kiên nhẫn đang cạn dần - Tôi đề nghị ông hãy tin tôi lần này.

- Chà, tôi không tin được.

Mắt Sato lạnh như băng. Bà ta đột ngột xoay người và gọi vọng qua Rừng rậm.

- Đặc vụ Hartmann? Cái cặp nhé!

Bellamy nghe thấy tiếng rít của cánh cửa điện tử, và một đặc vụ sải bước vào Rừng rậm. Anh ta mang theo một chiếc cặp bằng titan rất đẹp và đặt nó lên mặt đất bên cạnh vị Giám đốc OS.

- Cứ để mặc chúng tôi, - Sato nói.

Anh chàng đặc vụ rời đi, cánh cửa lại rít lên, rồi mọi thứ chìm vào im lặng.

Sato nhặt chiếc cặp kim loại, đặt nó lên đùi và bấm khoá. Sau đó bà ta từ từ ngước mắt nhìn Bellamy.

- Tôi không muốn phải làm việc này, nhưng thời gian của chúng ta sắp hết, mà ông thì khiến tôi không còn sự lựa chọn nào khác.

Bellamy nhìn xoáy vào chiếc cặp lạ lùng và càng thêm sợ hãi. Bà ta sẽ tra tấn mình chăng? Ông lại cố kéo căng chiếc còng tay.

- Trong cặp có gì thế?!

Sato mỉm cười.

- Một thứ sẽ thuyết phục ông phải nhìn nhận mọi việc giống như tôi. Tôi cam đoan như vậy

Chương 81

Không gian ngầm, nơi Mal'akh thực hiện Nghệ thuật, được nguỵ trang rất khéo léo. Với những người mới bước vào tầng hầm nhà gã, rõ ràng nơi đó rất bình thường - một gian hầm đặc trưng với nồi hơi, tủ điện, củi đun, và đủ thứ chổi cùn rế rách. Tuy nhiên, gian hầm lộ liễu ấy chỉ là một phần không gian ngầm của Mal'akh. Phần còn lại khá rộng, dùng để phục vụ những hoạt động kín đáo thì nằm sau những bức tường ngăn.

Không gian làm việc riêng tư của Mal'akh là một dãy phòng nhỏ, mỗi phòng dùng cho một mục đích riêng. Lối vào duy nhất là một đường dốc bí mật dẫn từ phòng khách sang, nhìn qua không tài nào phát hiện được.

Tối nay, khi Mal'akh theo đường dốc đi xuống, những dấu ấn và ký hiệu xăm trổ trên da thịt gã dường như cũng trở nên sống động dưới ánh sáng màu xanh da trời toả ra từ hệ thống đèn chuyên dụng trong tầng hầm. Gã bước qua vài cánh cửa khép kín và tiến thẳng tới gian phòng rộng nhất ở cuối hành lang.

"Thánh điện tối linh", như cách gọi ưa thích của Mal'akh, là một căn phòng vuông vức mỗi chiều đúng 12 feet(91) Mười hai là dấu hiệu của Hoàng đạo. Mười hai là số giờ trong ngày. Mười hai là số cánh cổng vào thiên đàng. Ở chính giữa gian buồng đặt một chiếc bàn đá, mỗi chiều 7 feet. Bảy là con dấu Khai huyền. Bảy là số bậc cấp của Đền thánh. Bên trên chiếc bàn có treo một ngọn đèn được tính toán kích cỡ rất cẩn thận, phát sáng theo chu kỳ các màu đã định sẵn, cứ sáu tiếng lại hoàn tất một chu kỳ theo Bảng Giờ thiêng. Giờ Yanor là màu xanh lam. Giờ Nasnia màu đỏ. Giờ Salam màu trắng.

Lúc này là giờ Caerra, ánh sáng trong phòng mang màu phớt tía. Mặc độc một chiếc khố lụa quấn quanh bẹn và cơ quan sinh dục đã thiến, Mal'akh bắt đầu công việc chuẩn bị.

Gã cẩn thận pha trộn các loại hoá chất tạo khói lát nữa sẽ dùng để làm cho bầu không khí thêm phần thiêng liêng. Sau đó, gã gấp chiếc áo choàng lụa mới nguyên mà gã sẽ mặc thay cho cái khố hiện giờ. Cuối cùng, gã tẩy uế một bình nước dùng để xức dầu thánh cho lễ vật. Xong xuôi, gã xếp tất cả những thứ đã chuẩn bị sẵn lên một chiếc bàn sát tường.

Tiếp đó, gã đến bên cái giá, lấy ra một hộp nhỏ bằng ngà, mang nó tới chỗ chiếc bàn và đặt xuống đó cùng những thứ khác. Mặc dù chưa sẵn sàng dùng đến nhưng gã vẫn náo nức mở nắp hộp để ngắm nghía báu vật.

Một con dao.

Trong lòng hộp ngà, nằm yên vị giữa lớp nhung đen là con dao hiến lễ mà Mal'akh dành riêng cho tối nay. Năm ngoái gã đã bỏ ra 1,6 triệu đô la để mua nó ở chợ đen đồ cổ tại Trung Đông.

Con dao nổi tiếng-nhất trong lịch sử

Con dao quý giá này có niên đại rất xa xưa, lưỡi thép, chuôi bằng xương, thiên hạ cho rằng nó đã tuyệt tích. Bao nhiêu thế kỷ qua, con dao từng thuộc sở hữu của vô số nhân vật quyền thế. Mấy thập kỷ gần đây, nó biến mất, chìm nghỉm trong một bộ sưu tập tư nhân bí mật. Mal'akh phải mất rất nhiều công sức mới giành được. Gã ngờ rằng con dao đã không uống máu trong vài thập kỷ... có khi còn vài thế kỷ rồi. Đêm nay, nó sẽ lại được tận hưởng sức mạnh hiến sinh đúng với mục đích ra đời.

Mal'akh nhẹ nhàng nhấc con dao ra khỏi "ngôi nhà" êm ái của nó và kính cẩn lau thật sáng lưỡi dao bằng một vuông lụa thấm nước tẩy uế. Kỹ năng của gã đã tiến bộ rất nhiều kể từ những trải nghiệm sơ đẳng đầu tiên ở New York. Nghệ thuật hắc ám mà Mal'akh thực hiện được định danh khác nhau trong các ngôn ngữ khác nhau, nhưng dù mang tên gì thì nó vẫn là một ngành khoa học chính xác. Kỹ nghệ nguyên thuỷ này từng nắm giữ chìa khoá mở ra nhiều cánh cổng quyền lực, nhưng nó bị lãng quên đã lâu, bị giáng cấp xuống thành một thứ mang màu sắc huyền hoặc và ma thuật. Một số ít người vẫn còn thực hành Nghệ thuật này, nhưng họ bị coi là điên rồ. Mal'akh hiểu rất rõ rằng đây không phải là công việc dành cho những kẻ kém năng lực. Nghệ thuật hắc ám cổ xưa, cũng giống như khoa học hiện đại là một lĩnh vực liên quan đến những công thức chính xác, những nguyên liệu cụ thể và thời gian biểu nghiêm ngặt.

Nghệ thuật này không phải là loại ma thuật hắc ám vô tác dụng do mấy kẻ tò mò thực hiện nửa vời; mà giống như vật lý nguyên tử, nó có tiềm năng khơi dậy sức mạnh khủng khiếp, kèm theo lời cảnh báo ghê gớm: Kẻ nào non nớt mà cứ tiến hành thì rất dễ bị tác động ngược và bị huỷ diệt.

Ngắm nghía lưỡi dao linh thiêng một lát, Mal'akh hướng sự chú ý của mình sang một tấm giấy da mịn khá dày nằm trên chiếc bàn trước mặt. Đích thân gã đã chế tờ giấy này từ da cừu non. Theo quy ước cừu non rất thanh khiết bởi chúng chưa trưởng thành về mặt sinh dục. Bên cạnh mảnh da là một cái đĩa bạc, một cái bút do gã chế tạo từ lông ống của một con quạ, và ba ngọn nến cháy le lói được bố trí quanh một cái bát bằng đồng thau. Cái bát này có chứa một thứ chất lỏng màu đỏ dày tới nửa phân.

Thứ chất lỏng ấy là máu của Peter Solomon.

Máu chính là chất cồn của sự vĩnh hằng.

Mal'akh cầm bút lông, đặt tay trái lên tờ giấy da, gã chấm đầu bút vào máu và cẩn thận vẽ đường viền bàn tay xòe rộng của mình. Vẽ xong, gã tô thêm năm biểu tượng của những Bí mật cổ xưa vào năm đầu ngón tay của bản vẽ.

Vương miện... tượng trưng cho ngôi vua sắp tới của ta.

Ngôi sao... tượng trưng cho những thiên đường đã định ra số phận ta.

Mặt trời... tượng trưng cho sự khai sáng linh hồn ta.

Đèn lồng... tượng trưng cho thứ ánh sáng le lói trong vốn hiểu biết của con người.

Và chiếc chìa khoá... tượng trưng cho thứ còn thiếu, mà tối nay ta sẽ sở hữu nốt.

Mal'akh hoàn thiện bức vẽ bằng máu và giơ tấm giấy da lên, ngắm nghía công trình của mình dưới ba ngọn nến. Gã đợi cho tới khi máu khô hẳn rồi gấp tờ giấy da dày làm ba. Vừa lẩm nhẩm một câu thần chú siêu nhiên, Mal'akh vừa châm tờ giấy da vào ngọn nến thứ ba.

Nó bùng cháy. Gã đặt mảnh da cháy bùng bùng vào chiếc đĩa bạc và để nó cháy hết. Khi ngọn lửa tàn, chất carbon trong da động vật biến thành một thứ bột than đen. Đợi lửa tắt hẳn, Mal'akh cẩn thận trút tro than vào chiếc bát đồng đựng máu. Sau đó, gã dùng lông quạ khuấy đều lên.

Chất lỏng trong bát chuyển màu đỏ sậm, gần như đen.

Bưng bát lên bằng cả hai tay, Mal'akh nâng cao quá đầu và tạ ơn, miệng lẩm nhẩm những lời khấn hiến sinh của cổ nhân. Sau đó, gã cẩn thận đổ hỗn hợp đen kịt ấy vào một lọ thuỷ tinh và đậy nút lại.

Đây là mực dùng để vẽ lên khoảng da chưa xăm trổ trên đỉnh đầu và hoàn thiện nốt kiệt tác của gã.

Chú thích:

(91) Foot, đơn vị đo lường của Anh, tương đương 0,3m. Ở nhiều chi tiết trong toàn bộ tiểu thuyết này, dịch giả đã quy đổi đơn vị này sang hệ mét quen thuộc với độc giả người Việt. Tuy nhiên, chỗ này dịch giả buộc phải dùng đúng đơn vị foot do con số đi kèm có liên quan đến nội dung chuyện. Nếu đổi sang hệ mét, con số sẽ bị thay đổi, không khớp với nội dung - ND

Chương 82

Đại Giáo đường Washington là nhà thờ lớn thứ sáu trên thế giới, cao hơn cả một cao ốc ba mươi tầng và chứa được hơn ba nghìn tín đồ cùng lúc. Kiệt tác theo phong cách Gothic này được tô điểm bằng hơn hai trăm ô cửa sổ lắp kính màu nghệ thuật, một chùm năm mươi ba quả chuông và một bộ đàn gồm 10.647 ống.

Tuy nhiên tối nay, Đại Giáo đường hoàn toàn vắng lặng.

Đức cha Colin Galloway - chánh xứ nhà thờ - trông như người đã sống tới mấy mươi đời. Còng gập và nhăn nheo trong bộ áo thầy tu màu đen giản dị, ông lầm lũi lê bước đi trước. Langdon và Katherine im lặng theo sau, xuyên qua bóng tối trải khắp 120 mét dọc sảnh chính, trên lối đi giữa hai hàng ghế giáo đường. Lối đi này lượn rất nhẹ sang trái, tạo cảm giác êm ái. Tới Giao lộ chính, cha chánh xứ dẫn họ bước qua vách ngăn toà giảng - vách ngăn tượng trưng giữa khu vực giáo dân với thánh điện bên kia.

Thánh đường ngào ngạt mùi hương trầm. Không gian linh thiêng này ngập tràn bóng tối, chỉ tản mát chút ánh sáng phản xạ gián tiếp từ vòm trần trang trí hình lá bên trên. Cờ hiệu năm mươi bang treo cao trên vị trí của ban hợp xướng nhà thờ, xung quanh bày vài tấm bình phong chạm khắc các sự kiện trong kinh thánh. Cha Galloway vẫn đi tiếp, rõ ràng là đã thuộc lòng lộ trình. Có lúc, Langdon những tưởng họ đang tiến thẳng tới chỗ bàn thờ, nơi gắn mười phiến đá lấy từ núi Sinai, nhưng vị chánh xứ già lại rẽ sang trái và dò dẫm qua một cánh cửa ẩn kín dẫn vào gian trái dành cho công việc hành chính.

Họ đi dọc một hành lang ngắn tới một văn phòng, ngoài cửa có tấm biển tên bằng đồng:

ĐỨC CHA TIẾN SĨ COLLN GALLOWAY

CHÁNH XỨ ĐẠI GIÁO ĐƯỜNG

Galloway mở cửa và bật đèn, rõ ràng rất quen với việc ghi nhớ nghi thức xã giao dành cho khách khứa. Ông giục họ bước vào và đang cửa lại.

Văn phòng chánh xứ nhỏ nhưng trang nhã, có nhiều giá sách cao, một bàn làm việc, một tủ chạm và một buồng tắm riêng. Trên tường treo mấy tấm thảm từ thế kỷ XVI và vài bức tranh tôn giáo. Vị chánh xứ già trỏ hai chiếc ghế da đặt đối diện bàn mình. Langdon ngồi xuống bên Katherine, lòng đầy cảm kích, vì cuối cùng cũng được buông chiếc túi nặng trịch ra. Anh thả nó xuống sàn nhà, ngay dưới chân.

Nơi trú ẩn và câu trả lời, Langdon nghĩ thầm, yên vị trên chiếc ghế thoải mái.

Ông già dò dẫm vòng ra sau bàn và ngồi xuống chiếc ghế có phần lưng tựa khá cao. Sau đó, thở ra mệt mỏi, ông ngẩng lên, đăm đăm nhìn họ qua đôi mắt mờ đục. Nhưng khi lên tiếng, giọng ông rõ và khỏe đến không ngờ.

- Tôi biết là chúng ta chưa hề gặp nhau, - Galloway mở lời - nhưng tôi cảm thấy quen thuộc với cả hai vị.

Ông rút khăn tay ra và chấm chấm lên miệng.

- Giáo sư Langdon, những tác phẩm của anh không xa lạ gì với tôi, kể cả bài báo rất xuất sắc về những biểu tượng của nhà thờ này. Còn cô Solomon, anh trai Peter của cô và tôi là huynh đệ Tam điểm với nhau đã nhiều năm nay rồi.

- Anh Peter đang gặp chuyện không hay, - Katherine bứt rứt báo.

- Tôi có nghe nói - ông già thở dài - Và tôi sẽ dốc hết sức để giúp các vị.

Langdon nhận thấy cha chánh xứ không đeo nhẫn Tam điểm trên tay, anh biết rằng nhiều hội viên, nhất là những người trong giới tu sĩ, thường chọn cách giấu kín thân phận của mình.

Họ bắt đầu trò chuyện. Rõ ràng cha Galloway đã nắm được một vài diễn biến hồi tối nhờ tin nhắn của Warren Bellamy. Nay nghe Langdon và Katherine bổ sung phần còn lại, trông cha càng có vẻ lo lắng.

- Tức là - đức cha nói - cái gã đã bắt cóc Peter yêu quý của chúng ta khăng khăng đòi Giáo sư giải mã kim tự tháp để đối lấy mạng sống của anh ấy?

- Vâng, - Langdon đáp - Gã nghĩ đó là tấm bản đồ dẫn tới nơi cất giấu những Bí mật cổ xưa.

Cha chánh xứ hướng đôi mắt mờ đục kỳ lạ của mình về phía Langdon.

- Tai tôi mách cho tôi biết rằng Giáo sư hoài nghi Bí mật cổ xưa, bản đồ và mọi điều tương tự.

Langdon không muốn lãng phí thời gian vào chủ đề này.

- Con hoài nghi hay tin tưởng đều không quan trọng. Quan trọng là phải giúp Peter. Tiếc rằng khi chúng con giải mã xong kim tự tháp, nó cũng chẳng chỉ tới đâu cả.

Ông già ngồi thẳng dậy.

- Các vị đã giải mã kim tự tháp?

Katherine bèn đỡ lời, nhanh nhẹn giải thích rằng mặc dù Bellamy đã cảnh báo và Peter cũng yêu cầu Langdon không được mở cái gói, nhưng cô vẫn mở ra vì ưu tiên trước nhất là giúp anh trai mình. Cô kể với cha chánh xứ về chóp vàng, về ma trận Albrecht Durer, và về việc ứng dụng nó để giải bức mật mã Tam điểm gồm mười sáu chữ cái thành câu Jeova Sanctus Unus.

- Một Đức Chúa đích thực? Nó chỉ nói có vậy thôi à? - Galloway hỏi.

- Vâng, thưa cha, - Langdon đáp - Rõ ràng kim tự tháp là một bản đồ ẩn dụ, chứ không phải bản đồ địa lý.

Cha chánh xứ chìa tay.

- Cho tôi sờ thử xem.

Langdon mở khoá túi xách, lôi kim tự tháp ra và cẩn thận đặt nó lên bàn, ngay trước mặt đức cha.

Langdon và Katherine lẳng lặng quan sát. Galloway dùng đôi tay gầy yếu kiểm tra từng phân đá, từ bề mặt khắc chữ đến phần đe trơn nhẵn và cuối cùng là chóp cụt. Kiểm tra xong, ông lại chìa tay ra.

- Thế còn cái chóp?

Langdon nhấc lấy hộp đá nhỏ, bê nó lên bàn và mở nắp, đoạn anh moi cái chóp, đặt nó vào hai tay ông già. Cha chánh xứ lại kiểm tra như lần trước, sờ kỹ từng phân, dừng lại lâu hơn ở mấy chữ chìm trên cái chóp, rõ ràng là hơi khó khăn để nhận biết dòng văn tự nhỏ xíu được khắc rất đẹp này.

- Bí mật giấu trong Tổ Chức, - Langdon trợ giúp - Hai chữ Tổ và Chức viết hoa.

Galloway đặt cái chóp lên kim tự tháp cụt và sờ soạng để khớp chúng vào nhau, khuôn mặt không biểu lộ điều gì. Ông ngừng lại chốc lát, như thể đang cầu nguyện, rồi kính cẩn đưa hai tay rờ rẫm khắp lượt ngọn tháp hoàn chỉnh vài lần. Sau đó, ông tìm cái hộp hình khối, cầm lên và cũng thám thính rất cẩn thận, các ngón tay dò kỹ cả bên trong và bên ngoài.

Xong xuôi, Galloway thả hộp xuống và ngả người ra sau ghế.

- Giờ hãy cho tôi biết, - ông lên tiếng, giọng đột nhiên trở nên nghiêm nghị - Tại sao các vị lại đến chỗ tôi?

Câu hỏi khiến Langdon ngỡ ngàng.

- Thưa cha, chúng con đến bởi vì cha bảo như vậy. Ông Bellamy cũng dặn chúng con hãy tin tưởng cha.

- Thế nhưng hai vị không hề tin ông ấy cơ mà?

- Con không hiểu?

Đôi mắt trắng đục của cha chánh xứ nhìn xuyên qua Langdon.

- Hộp đựng chóp có niêm phong. Bellamy dặn không được mở nó ra, nhưng các vị cứ mở. Thêm nữa, chính Peter Solomon cũng yêu cầu anh không được mở nó. Nhưng anh đã mở.

- Thưa cha. - Katherine can thiệp - chúng con chỉ cố gắng giúp Peter. Cái tên bắt giữ anh ấy đòi phải giải mã...

- Tôi có thể thông cảm, - cha chánh xứ tuyên bố - nhưng các vị thu được gì bằng cách mở gói ra? Chẳng có gì cả. Kẻ bắt giữ Peter đang tìm kiếm một địa điểm, và gã sẽ không thoả mãn với câu trả lời Jeova Sanctus Unus.

- Con đồng ý, - Langdon thừa nhận - tiếc rằng kim tự tháp chỉ vỏn vẹn có vậy. Ở trên con đã nói, tấm bản đồ dường như mang tính ẩn dụ hơn là...

- Anh lầm rồi, thưa Giáo sư, - cha chánh xứ ngắt lời - Kim tự tháp Tam điểm là một tấm bản đồ thực sự. Nó chỉ tới một địa điểm có thật Anh không hiểu điều đó, bởi vì anh chưa giải mã được đầy đủ kim tự tháp. Thậm chí còn chưa đến gần.

Langdon và Katherine nhìn nhau kinh ngạc.

Cha chánh xứ đặt hai tay lên ngọn tháp, gần như vuốt ve nó.

- Tấm bản đồ này, cũng như bản thân Bí mật cổ xưa, có nhiều tầng ý nghĩa. Các vị vẫn chưa chạm đến bí mật đích thực của nó.

- Thưa cha Galloway. - Langdon nói - Chúng con đã dò kỹ từng phân kim tự tháp và cái chóp, chẳng thấy gì khác cả.

- Với hiện trạng này của nó thì không có đâu. Nhưng mọi vật thay đổi được mà.

- Thưa cha?

- Giáo sư, anh biết đấy, kim tự tháp này hứa hẹn một trong những sức mạnh biến cải phi thường. Theo truyền thuyết, nó có thể thay hình đổi dạng... biến đổi diện mạo vật chất của mình để tiết lộ các bí mật.

Tương tự trường hợp hòn đá lừng danh đưa thanh kiếm Excalibur(92) vào tay Vua Arthur. Kim tự tháp Tam điểm có thể tự thay đổi theo lựa chọn... và tiết lộ bí mật của nó cho những người xứng đáng.

Langdon cảm thấy tuổi tác đã làm ông già lẩn thẩn.

- Con xin lỗi, thưa cha. Cha đang nói rằng kim tự tháp này có thể biến đổi về mặt vật lý theo đúng nghĩa đen phải không ạ?

- Giáo sư, nếu tôi ra tay biến hoá kim tự tháp ngay tại đây, anh sẽ tin những gì mình chứng kiến chứ?

Langdon không biết trả lời sao.

- Con cho rằng chẳng còn lựa chọn nào khác.

- Tốt lắm. Lát nữa thôi, tôi sẽ làm đúng như thế - ông lại thấm miệng - Cho phép tôi nhắc quý vị rằng đã có thời ngay cả những bộ óc sáng láng nhất cũng tin là trái đất dẹt, vì nếu trái đất tròn thì chắc chắn các đại dương sẽ chảy trôi hết. Thử tưởng tượng xem họ sẽ chỉ trích thế nào nếu các vị tuyên bố "Trái đất không chỉ hình cầu mà còn tồn tại một sức mạnh bí ẩn vô hình giữ mọi thứ lại trên bề mặt của nó"!

- Nhưng lực hấp dẫn thì khác xa khả năng biến cải đồ vật bằng cách chạm tay của cha chứ, - Langdon phản đối.

- Thế ư? Không lẽ chúng ta vẫn đang sống trong đêm trường Trung cổ, vẫn ham chỉ trích lời gợi ý về các lực lượng "bí ẩn" mà chúng ta không thể nhìn thấy hoặc hiểu được? Lịch sử dạy chúng ta nhiều điều, một trong số đó là đừng cười nhạo những ý tưởng kỳ lạ, vì một ngày kia chúng sẽ trở thành chân lý đáng phụng thờ. Tôi tuyên bố có thể biến đổi kim tự tháp này chỉ với một cái chạm tay, và anh nghi ngờ sự tỉnh táo của tôi. Sẽ khả quan hơn nếu anh là một nhà sử học. Lịch sử đầy rẫy những bộ óc vĩ đại từng công bố bao điều tương tự, họ nhất quyết cho rằng con người sở hữu nhiều khả năng bí ẩn mà tự mình lại không hay biết.

Langdon hiểu rằng đức cha nói đúng. Câu cách ngôn nổi tiếng của phái Hermes: "Các ngươi không biết mình là thần thánhư?" là một trong những nền tảng của các Bí mật cổ xưa. Thương hạ tương liên...Con người được tạo ra theo hình ảnh của Chúa... Phong thần. Bức thông điệp về khả năng thần thánh (hoặc tiềm năng ẩn kín) của chính con người là chủ đề được nhắc đi nhắc lại trong văn tự cổ của rất nhiều tín ngưỡng: Thậm chí Kinh thánh cũng nói: Các con là Chúa (Thánh ca 82:6)!

- Giáo sư. - Galloway lên tiếng - tôi nhận ra rằng anh, cũng như nhiều người có học thức khác, thường kẹt giữa các thế giới, một chân trong tâm linh, một chân trong vật chất. Lòng anh khát khao muốn tin nhưng tri thức của anh lại từ chối chấp nhận. Là một học giả, anh nên học hỏi những bộ óc vĩ đại của lịch sử - ông ngừng lời và hằng giọng - Nếu tôi nhớ không lầm thì một trong những bộ óc vĩ đại nhất từng phát biểu: "Thực tế vẫn tồn tại nhiều điều chúng ta không lý giải nổi. Đằng sau bí ẩn của tự nhiên còn lắm thứ tinh tế, vô hình và khó diễn tả. Tôn giáo của tôi chính là lòng tôn kính dành cho những sức mạnh nằm ngoài khả năng lĩnh hội của con người".

- Ai nói câu đó nhỉ? - Langdon thắc mắc - Gandhi à?

- Không, - Katherine nhắc - Albert Einstein.

Katherine Solomon đã đọc toàn bộ trước tác của Einstein và rất ấn tượng trước sự sùng kính sâu sắc ông dành cho những điều bí ẩn. Einstein còn tiên đoán rằng một ngày nào đó công chúng sẽ cảm nhận được như mình. Tôn giáo của tương lai, ông dự báo, là một tôn giáo vũ trụ. Nó sẽ vượt cả Chúa trời, sẽ chẳng có giáo lý hay học thuyết.

Dường như Robert Langdon đang phải đánh vật với ý tướng này.

Katherine có thể cảm nhận được sự thất vọng ngày càng tăng của anh đối với vị giám mục già, và cô hiểu vì sao. Họ lặn lội đến đây để tìm câu trả lời nhưng chỉ gặp được một ông già mù huyên thiên về việc biến đổi đồ vật bằng một cái chạm tay. Niềm say mê thái quá của Galloway đối với các sức mạnh bí ẩn còn khiến Katherine nhớ tới anh trai cô.

- Thưa cha - Katherine nói - anh Peter đang gặp nguy hiểm. Chúng con thì bị CIA truy đuổi. Warren Bellamy đặn chúng con tới đây để nhờ cha giúp đỡ. Con không biết kim tự tháp ngụ ý gì hay chỉ dẫn tới đâu nhưng nếu việc giải mã có thể giúp Peter thì chúng con sẽ làm. Ông Bellamy dặn hãy giấu kín ngọn tháp, dù phải hy sinh mạng sống của Peter, nhưng gia đình con chẳng gặt hái được gì từ nó, trừ đau khổ. Bất kể kim tự tháp đang gìn giữ bí mật nào thì nó cũng sẽ kết thúc tối nay.

- Cô nói đúng, - ông già đáp, giọng chua chát - Nó sẽ kết thúc tối nay. Cô đã thu xếp để điều đó chắc chắc xảy ra rồi - ông thở dài - Cô Solomon, gỡ niêm phong cái hộp tức là khởi động một loạt sự kiện vô phương cứu chữa. Có những sức mạnh đã vận hành mà các vị vẫn chưa hay biết. Không thể vãn hồi được nữa đâu.

Katherine sửng sốt nhìn đức cha. Có sắc thái tiên tri trong giọng nói của ông già, cứ như thể ông đang đề cập đến bảy niêm ấn ở sách Khải Huyền hoặc cái hộp Pandora(93) vậy.

- Thưa cha, - Langdon xen vào - Một kim tự tháp đá mà khởi động được sự kiện gì đó ư? Con không tài nào hiểu nổi.

- Dĩ nhiên là anh không hiểu, Giáo sư ạ - ông già trân trân nhìn lại - Mắt anh chưa có khả năng nhận ra điều đó.

Chú thích:

(92) Excalibur là thanh kiếm huyền thoại của Vua Arthur, có ẩn chứa sức mạnh huyền bí bên trong và tượng trưng cho chủ quyền hợp pháp đối với Vương quốc Anh. Theo Từ điển về Thành ngữ và Truyện ngụ ngôn của tác giả Ebenezer Cobham Brewer, Excalibur được vay mượn từ thành ngữ Latin Ex calce liberatus hay "liberated from the stone" (giải phóng từ phiến đá). Trong Cái chết của vua Arthur, Thomas Malory cho rằng Excalibur mang nghĩa "cắt thép". Theo những tư liệu còn lại về vua Arthur, có hai huyền thoại tách bạch nhau về xuất xứ của thanh kiếm. Đầu tiên là "Thanh kiếm trong đá", xuất hiện đầu tiên trong bài thơ Merlin của Robert de Boron, trong đó Excalibur chỉ có thể được rút ra khỏi đá bởi Arthur, vị vua hợp pháp. Truyền thuyết thứ hai xuất hiện trong sách Post-Vulgate Suite du Merlin (về sau được Thomas Malory sử dụng trong tác phẩm của mình). Ở đây, Arthur nhận được Excalibur từ Tiên nữ của Hồ nước sau khi làm gãy thanh gươm đầu tiên của mình trong một cuộc đánh nhau với vua Pellinore. Vị tiên đã miêu tả thanh kiếm "Excalibur, thanh kiếm cắt thép", và Arthur nhận nó từ một cánh tay đưa lên khỏi mặt hồ. Khi Arthur sắp chết. Ông bảo Sir Bedivere trả lại thanh kiếm bằng cách ném nó xuống hồ. Trước khi thanh kiếm chạm mặt nước, một cánh tay trồi lên tóm lấy thanh gươm và kéo nó xuống hồ. Cả hai mặt của lưỡi kiếm Excalibur đều có khắc chữ. Một mặt là "take me up" (Vung tôi lên), trên một mặt kia là "cast me away" (Ném tôi đi), tiên đoán trước việc Excalibur sẽ trở về với nước. Thêm vào đó, khi Excalibur được rút ra khỏi vỏ lần đầu tiên, lưỡi kiếm phát ra ánh sáng như của ba mươi ngọn đuốc, làm loá mắt kẻ thù. Ngay cả vỏ của Excalibur cũng có năng lực riêng: người cầm nó sẽ không bị nguy hiểm đến tính mạng vì bị thương hay mất máu. Về sau. Morgan le Fay lấy trộm vỏ kiếm và ném xuống hồ, và vỏ kiếm mất tích từ ấy - ND.

(93) Trong thần thoại Hy Lạp, Pandora là người phụ nữ đầu tiên. Thần Zeus ra lệnh cho thần thợ rèn Hephaestus tạo ra nàng từ đất như một hình phạt đối với loài người do việc Prometheus lấy trộm lửa. Mỗi vị thần giúp tạo ra nàng bằng cách tặng cho nàng một tài năng riêng. Theo truyền thuyết, do tính tò mò, Pandora đã mở một cái vò, làm tất cả những thói xấu của loài người thoát ra, chỉ còn xót lại đúng Hy vọng do nàng kịp đóng nắp vò lại - ND

Chương 83

Giữa không khí ẩm ướt của Rừng rậm, Bellamy vẫn cảm nhận được mồ hôi đang lăn dọc lưng mình. Cổ tay bị còng đau nhói, nhưng mọi sự chú ý của ông đều tập trung vào cái cặp titan đáng ngại mà Sato vừa mở ra trên chiếc ghế băng giữa hai người.

Những gì trong chiếc cặp này, Sato đã nói, sẽ buộc ông phải nhìn nhận mọi việc theo cách của tôi. Tôi bảo đảm điều đó.

Người phụ nữ châu Á nhỏ thó mở chiếc cặp kim loại ngoài tầm mắt của Bellamy nên ông vẫn chưa nhìn được bên trong nó, thay vào đó trí tưởng tượng của ông liền hoạt động rất ghê. Hai tay Sato đang thao tác trong lòng chiếc cặp, và Bellamy đoán rằng bà ta sắp sửa lôi ra một loạt dụng cụ sắc lém, sáng loáng.

Đột nhiên một nguồn sáng nhấp nháy bên trong chiếc cặp, càng lúc càng rực rỡ hơn, soi rõ khuôn mặt Sato. Hai tay bà ta vẫn tiếp tục hoạt động, và màu sắc ánh sáng thay đổi. Một lúc sau, Sato nhấc tay ra, nắm lấy toàn bộ chiếc cặp và xoay nó về phía Bellamy để ông nhìn được bên trong.

Bellamy phải nheo mắt lại trước ánh sáng của một thứ có lẽ là máy tính xách tay đời mới kèm ống nghe điện thoại, hai chiếc ăng ten và một bàn phím kép. Thoạt tiên Bellamy thấy nhẹ cả người, song cảm giác ấy mau chóng chuyển thành tâm trạng bối rối khó hiểu.

Màn hình mang biểu tượng của CIA và dòng chữ:

BẢO MẬT TRUY CẬP

NGƯỜI SỬ DỤNG: INOUE SATO

CẤP PHÉP BẢO MẬT: CẤP ĐỘ 5

Bên dưới cửa sổ truy cập của máy tính, một biểu tượng đang nhấp nháy:

"Xin đợi một lát..."

ĐANG GIẢI MÃ TỆP TIN...

Bellamy đưa mắt nhìn Sato, bà ta cũng đang ngó ông đăm đăm.

- Tôi không muốn để ông trông thấy thứ này. - bà ta nói - Nhưng ông khiến tôi không còn lựa chọn nào khác.

Màn hình lại nhấp nháy, Bellamy liếc xuống khi file dữ liệu mở ra, nội dung của nó tràn kín toàn bộ màn hình LCD.

Bellamy nhìn sững màn hình, cố gắng ghi nhận những thông tin xuất hiện. Dần dần hiểu ra, ông cảm thấy máu rút hết khỏi mặt mình.

Ông trợn mắt kinh hãi, không tài nào ngoảnh đi nổi.

- Nhưng... không thể nào! - viên Kiến trúc sư kêu lên - Tại sao... lại như thế được?

Mặt Sato đằng đằng sát khí.

- Nói đi, ông Bellamy. Ông phải nói cho tôi biết.

Khi đã thực sự thấu hiểu ý nghĩa của những điều phơi bày trên màn hình, Warren Bellamy cảm thấy toàn bộ thế giới đang chao đảo quay cuồng bên bờ thảm hoạ.

Lạy Chúa... mình đã phạm một sai lầm khủng khiếp!

Chương 84

Đức cha Galloway cảm thấy tràn đầy sức sống.

Cũng như tất cả mọi người, ông biết rằng rồi có lúc mình sẽ phải trút bỏ xác phàm, nhưng tối nay chưa phải là thời khắc đó. Quả tim của ông đang đập nhanh, mạnh... tâm trí thì hoàn toàn sáng suốt.

Còn có việc phải làm.

Khi lướt đôi tay viêm khớp qua các bề mặt nhẵn nhụi của kim tự tháp, Galloway không dám tin vào cảm nhận của mình. Chưa bao giờ ta ngò rằng đời ta sẽ được chứng kiến khoảnh khắc này. Bao nhiêu thế hệ qua, các mảnh của tấm bản đồ biểu hình bị tách rời và luôn được giữ gìn sao cho cách xa nhau. Giờ thì Châu về Hợp Phố.

Galloway tự hỏi phải chăng đây là thời khắc đã được dự báo trước.

Thật lạ là số phận chỉ định hai người không phải hội viên Tam điểm để ráp cái kim tự tháp. Dù sao thì điều đó cũng có vẻ phù hợp.

Những bí mật đang di chuyển ra khỏi nội bộ... ra khỏi bóng tối...tiến vào ánh sáng.

- Giáo sư, - cha chánh xứ lên tiếng, xoay đầu về hướng có tiếng thở của Langdon - Peter đã nói tại sao ông ấy muốn anh trông giữ cái gói nhỏ chưa?

- Ông ấy kể rằng có những nhân vật quyền thế muốn đánh cắp nó - Langdon đáp.

Cha chánh xứ gật đầu.

- Phải. Peter cũng nói với tôi như vậy.

- Thế ạ? - Bên trái Galloway, tiếng Katherine đột ngột vang lên - Anh con đã trao đổi với cha về kim tự tháp này?

- Dĩ nhiên. - Galloway đáp - Anh cô và tôi từng thảo luận rất nhiều chuyện. Tôi nguyên là Đại Huynh trưởng tại Thánh điện, và thỉnh thoảng anh cô vẫn đến gặp tôi hỏi ý kiến. Chừng một năm trước, anh ta có tới đây, tâm trạng vô cùng bối rối. Anh ấy ngồi đúng chỗ cô đang ngồi bây giờ, và hỏi tôi có tin vào những điềm báo siêu nhiên không.

- Điềm báo ư? - Katherine kêu lên đầy lo lắng - Ý cha là... những ảo mộng?

- Không hẳn. Bản năng hơn cơ. Peter kể rằng anh ta cảm thấy một thế lực hắc ám hiện diện ngày càng rõ trong cuộc sống của mình. Có gì đó đang theo dõi... rình rập... tìm cách hãm hại anh ấy.

- Rõ ràng Peter đã đúng. - Katherine đồng tình - vì chính cái gã giết mẹ chúng tôi và Zachary lại mò tới Washington, rồi trở thành một trong những huynh đệ Tam điểm của Peter.

- Phải - Langdon tham gia câu chuyện - nhưng điều đó không giải thích được sự can thiệp của CIA.

Galloway lưỡng lự.

- Những kẻ có quyền luôn tìm cách có nhiều quyền lực hơn nữa.

- Nhưng... còn CIA? - Langdon hỏi xoáy thêm - Và các bí mật khó hiểu? Vẫn còn thiếu dữ kiện nào đó.

- Đúng như vậy, - Katherine tán thành - CIA phát triển nhờ các tiến bộ công nghệ và luôn thử nghiệm các môn khoa học bí ẩn như ESP, theo dõi từ xa, tước đoạt giác quan và các trạng thái tâm thần kích thích mạnh bằng dược lý. Tất cả đều chỉ là một, đó là khai thác tiềm năng trong trí não con người. Một trong những điều tôi học được từ anh Peter là: Khoa học và chủ nghĩa thần bí có liên hệ rất mật thiết chỉ phân biệt với nhau qua cách tiếp cận. Mục tiêu của chúng giống nhau... nhưng phương pháp thì khác hẳn.

- Nghe Peter nói, lĩnh vực nghiên cứu của cô là một dạng khoa học thần bí hiện đại, đúng không? - Galloway hỏi.

Lý trí học. - Katherine gật đầu đáp - Và nó đang chứng minh rằng con người có những sức mạnh mà chính bản thân họ không thể hình dung nổi - Cô ra dấu về phía một ô cửa sổ lắp kính màu mô tả hình ảnh "Jesus toả sáng, quen thuộc, tức là hình Đức Chúa với hào quang toả ra từ đầu và tay - Trên thực tế, con chỉ dùng thiết bị tích điện kép (CDD) hạ nhiệt để chụp bàn tay một thầy lang chữa bệnh bằng đức tin. Kết quả thu được là những dòng năng lượng tuôn trào qua các đầu ngón tay trong khi ông ta làm việc... y như hình ảnh Jesus trong ô cửa sổ lắp kính màu của cha kia.

Một trí óc được đào tạo rất bài bản, Galloway nghĩ thầm, cố giấu một nụ cười. Cô có biết Jesus chữa bệnh như thế nào không?

- Con nhận ra rằng, - Katherine tiếp - y học hiện đại cười nhạo các thầy lang và thầy pháp, nhưng con đã tận mắt chứng kiến công việc của họ. Các máy ảnh CCD ghi lại rất rõ cảnh thầy lang truyền một trường năng lượng lớn từ các đầu ngón tay sang bệnh nhân và làm thay đổi cấu trúc tế bào của họ, đúng như thế. Nếu đó không phải là sức mạnh thần thánh thì thật không biết gọi là gì.

Đức cha Galloway phì cười. Katherine có niềm đam mê nhiệt thành y hệt anh trai cô.

- Peter từng so sánh Lý trí học với những người tiên phong bị chế giễu vì kiên trì với ý tưởng dị giáo về một trái đất hình cầu xưa kia.

Chỉ qua một đêm, những người mở đường ấy từ hạng ngu ngốc trở thành các anh hùng, khám phá ra nhiều thế giới mới mẻ và nới rộng đường chân trời cho cả nhân loại trên hành tinh. Peter nghĩ rằng cô cũng sẽ làm được như thế. Anh ấy rất kỳ vọng vào công việc của cô. Suy cho cùng, mọi thay đổi triết học lớn trong lịch sử đều bắt đầu từ một ý tưởng mạnh dạn.

Dĩ nhiên, Galloway biết rằng người ta không nhất thiết phải vào phòng thí nghiệm để tận mắt trông thấy bằng chứng về ý tưởng mới mẻ táo bạo hay nghe lời đề xuất về tiềm năng chưa khai phá của con người. Chính Đại Giáo đường này đã từng tổ chức nhiều buổi cầu nguyện chữa bệnh cho người ốm và liên tục chứng kiến những kết quả thực sự kỳ diệu, những biến đổi vật lý đáng được ghi chép về mặt y học. Vấn đề không nằm ở chỗ liệu có phải Chúa đã ban cho con người sức mạnh to lớn hay không... mà ở chỗ chúng ta làm cách nào giải phóng được sức mạnh ấy.

Đức Cha kính cẩn vòng hai bàn tay quanh Kim tự tháp Tam điểm và nói khẽ.

- Các bạn, tôi không biết chính xác ngọn tháp chỉ tới đâu... nhưng tôi biết rõ điều này. Có một kho báu tinh thần rất lớn được cất giấu đâu đó ngoài kia... một kho báu đã kiên nhẫn chờ đợi trong bóng tối hàng bao thế hệ. Tôi tin rằng nó là tác nhân có sức mạnh biến đổi cả thế giới - ông chạm tay vào phần đỉnh chóp vàng - Kim tự tháp hoàn chỉnh đã được ráp lại... thời khắc lịch sử sắp đến. Cổ nhân đã tiên đoán về khả năng của một giai đoạn khai sáng có tính bước ngoặt... Tại sao lại không nhỉ?

- Thưa cha, - Langdon lên tiếng, giọng khiêu khích - tất cả chúng ta đều đã quá quen với sự mặc khải của Thánh John và ý nghĩa thật sự của sách Khải huyền, nhưng lời tiên tri trong Kinh thánh thì hầu như không...

- Ôi lạy Chúa, sách Khải huyền là một mớ rác rưởi - đức cha đáp - Chịu chẳng biết đọc nó thế nào. Tôi đang đề cập đến những trí tuệ sáng láng diễn đạt bằng thứ ngôn ngữ minh bạch, chẳng hạn các dự đoán của Thánh Augustine, Tử tước Francis Bacon, Newton, Einstein, và còn nhiều nhiều nữa, tất cả đều tiên đoán về một thời điểm khai sáng mang tính biến đổi. Ngay cả Jesus cũng nói "Chẳng có gì giấu giếm được mãi, và cũng chẳng có bí mật nào lại không lộ ra ánh sáng".

- Đó là lời tiên đoán rất an toàn, - Langdon nói - Kiến thức phát triển theo cấp số nhân. Chúng ta càng biết nhiều thì khả năng học hỏi càng lớn, và tốc độ mở mang cơ sở tri thức càng cao hơn.

- Đúng vậy, - Katherine thêm vào - Có thể thấy rõ điều đó trong khoa học. Mỗi công nghệ mới sáng chế đều trở thành phương tiện để phát minh ra những công nghệ mới khác... và nó cứ thế mà phát triển. Đó là lý do tại sao năm năm qua khoa học lại tiến nhanh hơn so với cả năm ngàn năm trước đó. Một sự phát triển ghê gớm. Ví von theo kiểu toán học là cùng với thời gian, đường cong hàm mũ mô tả quá trình gần như trở thành đường thẳng đứng, và sự phát triển diễn ra nhanh kinh khủng.

Căn phòng chìm vào im lặng. Cha Galloway cảm thấy hai vị khách của mình vẫn chưa suy luận được bằng cách nào kim tự tháp sẽ dẫn họ tới những phát hiện mới. Đó là lý do vì sao số phận đưa các vi đến với tôi, ông nghĩ thầm. Tôi phải đảm nhân vai trò này.

Đã nhiều năm, Đức cha Colin Galloway, cùng với các huynh đệ Tam điểm của mình, giữ vai trò người gác cổng. Còn giờ đây mọi thứ đang thay đổi.

Ta không còn là người gác cổng nữa... Ta là người chỉ đường.

- Giáo sư Langdon? - Galloway lên tiếng, vươn tay qua bàn - Hãy cầm lấy tay tôi.

Robert Langdon do dự ngó bàn tay Galloway chìa ra trước mặt mình.

- Chúng ta sắp cầu nguyện ư?

Rất nhã nhặn, anh đặt bàn tay phải của mình vào bàn tay nhăn nhúm của cha chánh xứ. Ông già nắm lấy nhưng không cầu nguyện. Thay vào đó, ông lần tìm ngón trỏ của Langdon và đưa nó vào lòng hộp đá từng cất giữ chóp vàng.

- Mắt anh đã đánh lừa anh. - cha chánh xứ nói - Phải chi nhìn bằng đầu ngón tay như tôi thì anh sẽ nhận ra rằng cái hộp này còn điều đáng lưu tâm.

Langdon nghiêm túc đưa đầu ngón tay miết xung quanh lòng hộp, nhưng anh chẳng cảm thấy gì. Bên trong hoàn toàn nhẵn nhụi.

- Cứ tìm kỹ đi. - Galloway nhắc.

Cuối cùng, đầu ngón tay của Langdon cũng nhận ra một vòng tròn nhỏ xíu nhô lên, một chấm cực nhỏ ở chính giữa đáy hộp. Anh bỏ tay ra và săm soi kỹ càng bên trong. Anh không thể nhìn thấy chấm tròn nọ bằng mắt thường. Nó là gì nhỉ?

- Anh có nhận ra biểu tượng đó không? - Galloway hỏi.

- Biểu tượng ư? - Langdon nói - Con chẳng nhìn thấy gì cả.

- Ấn mạnh nó xem nào.

Langdon làm đúng như yêu cầu, ấn đầu ngón tay xuống cái chấm.

Ông ấy mong đợi chuyện gì xảy ra đây.

- Nhấn ngón tay của anh xuống - cha chánh xứ nhắc - ấn mạnh.

Langdon liếc nhìn Katherine, cô bối rối đưa tay vén một lọn tóc ra sau tai.

Vài giây trôi qua, cha chánh xứ gật đầu.

- Được rồi, bỏ tay ra đi. Quá trình giả kim đã hoàn tất.

Giả kim ư? Robert Langdon buông tay khỏi cái hộp đá và ngơ ngác ngồi im. Chẳng có gì thay đổi. Cái hộp vẫn nằm nguyên trên bàn.

- Có gì đâu, - Langdon nói.

- Hãy kiểm tra đầu ngón tay anh xem, - cha chánh xứ bảo - Anh sẽ thấy một sự biến đổi.

Langdon nhìn ngón tay mình, sự biến đổi duy nhất là trên da anh xuất hiện vết lõm do một cục bướu tròn tạo ra: một vòng tròn nhỏ xíu với một chấm ở chính giữa.

- Bây giờ anh đã nhận ra biểu tượng chưa? - Galloway hỏi.

Langdon đã nhận ra, nhưng việc ông già cảm nhận rõ đến từng chi tiết mới thực sự khiến anh ấn tượng. Nhìn bằng đầu ngón tay quả là một kỹ năng cao siêu.

- Đó là thuật giả kim, - Katherine nói, xích ghế của mình vào gần hơn và nhìn kỹ ngón tay Langdon - Đây là biểu tượng cổ của vàng.

- Đúng vậy - Galloway mỉm cười và vỗ lên cái hộp - Chúc mừng Giáo sư. Anh đã giành được thứ mà mọi nhà giả kim trong lịch sử đều mong ước. Từ một chất liệu vô giá trị, anh đã tạo ra vàng.

Langdon cau mày thờ ơ. Mẹo vặt của Galloway xem ra chẳng mấy hữu ích.

- Một ý tưởng rất thú vị, thưa cha, nhưng con e rằng biểu tượng vòng tròn với một chấm chính giữa này có tới hàng chục ý nghĩa. Nó được gọi là bàn huyền điểm, và là một trong những biểu tượng được sử dụng rộng rãi nhất trong lịch sử.

- Anh đang nói gì thế? - cha chánh xứ hỏi, giọng đầy vẻ hoài nghi.

Langdon sửng sốt vì một hội viên Tam điểm lại không thông thuộc ý nghĩa tinh thần của biểu tượng này.

- Thưa cha, bàn huyền điểm có vô số nghĩa. Ở Ai Cập cổ đại, nó đại diện cho thần mặt trời Ra, thiên văn học hiện đại vẫn sử dụng nó như biểu tượng của vầng thái dương. Trong triết học phương Đông, bàn huyền điểm thể hiện sự thấu suốt về mặt tinh thần của Huệ nhãn, của hoa hồng thiêng liêng, và là biểu tượng của sự khai trí. Các tín đồ Kabbalah dùng nó để chỉ Kether (Sephiroth(94) tối cao và "điều sâu kín nhất trong tất cả những điều sâu kín"). Chủ nghĩa thần bí sơ khai gọi bàn huyền điểm là Thần nhãn, nó cũng là nguồn gốc của Thấu nhãn trên dấu Quốc ấn. Những người theo trường phái Pythagoras sử dụng bàn huyền điểm làm hình ảnh đại diện cho Monad - Chân lý Thần thánh, Kiến thức Nguyên thuỷ, sự tương thông giữa trí tuệ và tâm hồn, và...

- Thôi đủ rồi! - Galloway bật cười - Cảm ơn Giáo sư. Anh nói rất đúng.

Langdon nhận ra đức cha vừa đùa cợt mình. Ông ấy biết rõ tất cả.

- Bàn huyền điểm, - Galloway nói, vẫn tủm tỉm cười - là biểu tượng của Bí ẩn cổ xưa. Vì lý do đó, tôi cho rằng không phải ngẫu nhiên mà nó hiện diện trong hộp. Theo truyền thuyết, bí mật của tấm bản đồ này được cất giấu ở những chi tiết nhỏ nhất.

- Hay lắm, - Katherine lên tiếng - nhưng ngay cả khi người ta cố ý bố trí biểu tượng này ở đây thì nó cũng chẳng đưa chúng ta đến gần việc giải mã hơn chút nào, phải không ạ?

- Lúc nãy cô nói dấu sáp niêm phong mà cô bóc có in hình chiếc nhẫn của Peter?

- Vâng.

- Và anh thì mang theo chiếc nhẫn đó?

- Vâng - Langdon thọc tay vào túi, anh móc chiếc nhẫn ra khỏi túi nhựa rồi đặt lên bàn trước mặt cha chánh xứ.

Galloway nhặt chiếc nhẫn và bắt đầu sờ các bề mặt của nó.

- Chiếc nhẫn độc đáo này được tạo ra cùng thời Kim tự tháp Tam điểm. Theo truyền thống thì hội viên nào chịu trách nhiệm bảo vệ kim tự tháp sẽ đeo nhẫn. Tối nay, khi phát hiện bàn huyền điểm nhỏ xíu ở đáy hộp đá, tôi đã nhận ra rằng chiếc nhẫn là một phần của biểu hình.

- Thật thế ư?

- Tôi đoán chắc như vậy. Peter là người bạn thân nhất của tôi, anh ấy đã đeo chiếc nhẫn này nhiều năm rồi. Tôi rất quen thuộc với nó - ông già trả chiếc nhẫn lại cho Langdon - Anh tự xem đi.

Langdon nhận lấy chiếc nhẫn và cẩn thận kiểm tra. Anh rà các ngón tay lên con phượng hoàng hai đầu, con số 33, dòng chữ ORDO AB CHAO, và cả dòng chữ Tất cả được tiết lộ ở cấp 33... vẫn không nhận thấy chi tiết nào hữu dụng. Sau đó, khi lần xuống xung quanh vành ngoài đai nhẫn, Langdon đột ngột dừng lại. Anh giật mình lật chiếc nhẫn lên và chăm chú quan sát đáy đai nhẫn.

Galloway hỏi:

- Anh tìm thấy rồi phải không?

- Con nghĩ là như vậy! - Langdon đáp.

Katherine xích ghế lại gần hơn.

- Gì vậy?

- Dấu hiệu cấp độ trên đai nhẫn, - Langdon đáp, chìa cho cô xem - Nó nhỏ đến mức ta không phát hiện nổi bằng mắt thường, nhưng khi sờ bằng tay, ta có thể khẳng định là nó ăn lõm xuống, giống một dấu khắc tròn nhỏ xíu.

Dấu hiệu cấp độ bố trí ở chính giữa phần đáy đai nhẫn... và phải thừa nhận rằng trông đúng bằng kích cỡ của cái chấm nổi ở đáy hộp.

- Cùng cỡ thì phải? - Katherine nhích lại gần hơn nữa, miệng kêu lên đầy phấn khích.

- Có một cách kiểm chứng - Langdon cầm chiếc nhẫn và đưa vào trong hộp, lựa cho hai hình tròn trùng khít nhau. Khi anh ấn xuống, vòng tròn nổi trong hộp khớp đúng vào phần lõm của chiếc nhẫn. Có một tiếng tách mơ hồ nhưng đanh gọn.

Tất cả cùng nhổm dậy.

Langdon chờ đợi, nhưng không có gì khác lạ.

- Sao thế?! - cha chánh xứ hỏi.

- Chẳng có gì cả, - Katherine đáp - Cái nhẫn khớp đúng chỗ... nhưng không có gì xảy ra hết.

- Không có sự biến đổi lớn lao nào ư? - Galloway lộ vẻ bối rối.

Chưa xong, Langdon ngẫm nghĩ, đăm đăm nhìn xuống phù hiệu phượng hoàng hai đầu và con số 33 đúc nổi của chiếc nhẫn. Tất cả được tiết lộ ở cấp độ 33. Anh suy nghĩ rất lung, về Pythagoras, về hình học thiêng liêng, về các góc, rồi băn khoăn tự hỏi liệu cấp độ có mang ý nghĩa toán học nào không.

Nhịp tim dần đập rộn lên, Langdon đưa tay cầm chiếc nhẫn đang dính chặt lấy đáy hộp. Sau đó anh chậm rãi xoay nó sang phải. Tất cả được tiết lộ ở cấp độ 33.

Anh xoay chiếc nhẫn 10 độ... 20 độ... 30 độ...

Những gì xảy đến tiếp theo, Langdon chưa bao giờ chứng kiến cả.

Chú thích:

(94) Cây Sephiroth bao gồm 10 vòng tròn, đại diện cho các con số từ 1 đến 10 và được liên kết với nhau bằng 22 kênh - 22 chữ cái Do Thái. Mười số và 22 chữ cái tạo ra con số huyền bí 32, biểu hiện cho 32 con đường đi tới Trí tuệ. Số và chữ được xem là chìa khoá mở kho tàng tri thức, vì bằng cách sắp xếp chúng theo một hệ thống bỉ mật, những điều bí ẩn của tạo hoá sẽ được hé lộ - ND

Chương 84

Đức cha Galloway cảm thấy tràn đầy sức sống.

Cũng như tất cả mọi người, ông biết rằng rồi có lúc mình sẽ phải trút bỏ xác phàm, nhưng tối nay chưa phải là thời khắc đó. Quả tim của ông đang đập nhanh, mạnh... tâm trí thì hoàn toàn sáng suốt.

Còn có việc phải làm.

Khi lướt đôi tay viêm khớp qua các bề mặt nhẵn nhụi của kim tự tháp, Galloway không dám tin vào cảm nhận của mình. Chưa bao giờ ta ngò rằng đời ta sẽ được chứng kiến khoảnh khắc này. Bao nhiêu thế hệ qua, các mảnh của tấm bản đồ biểu hình bị tách rời và luôn được giữ gìn sao cho cách xa nhau. Giờ thì Châu về Hợp Phố.

Galloway tự hỏi phải chăng đây là thời khắc đã được dự báo trước.

Thật lạ là số phận chỉ định hai người không phải hội viên Tam điểm để ráp cái kim tự tháp. Dù sao thì điều đó cũng có vẻ phù hợp.

Những bí mật đang di chuyển ra khỏi nội bộ... ra khỏi bóng tối...tiến vào ánh sáng.

- Giáo sư, - cha chánh xứ lên tiếng, xoay đầu về hướng có tiếng thở của Langdon - Peter đã nói tại sao ông ấy muốn anh trông giữ cái gói nhỏ chưa?

- Ông ấy kể rằng có những nhân vật quyền thế muốn đánh cắp nó - Langdon đáp.

Cha chánh xứ gật đầu.

- Phải. Peter cũng nói với tôi như vậy.

- Thế ạ? - Bên trái Galloway, tiếng Katherine đột ngột vang lên - Anh con đã trao đổi với cha về kim tự tháp này?

- Dĩ nhiên. - Galloway đáp - Anh cô và tôi từng thảo luận rất nhiều chuyện. Tôi nguyên là Đại Huynh trưởng tại Thánh điện, và thỉnh thoảng anh cô vẫn đến gặp tôi hỏi ý kiến. Chừng một năm trước, anh ta có tới đây, tâm trạng vô cùng bối rối. Anh ấy ngồi đúng chỗ cô đang ngồi bây giờ, và hỏi tôi có tin vào những điềm báo siêu nhiên không.

- Điềm báo ư? - Katherine kêu lên đầy lo lắng - Ý cha là... những ảo mộng?

- Không hẳn. Bản năng hơn cơ. Peter kể rằng anh ta cảm thấy một thế lực hắc ám hiện diện ngày càng rõ trong cuộc sống của mình. Có gì đó đang theo dõi... rình rập... tìm cách hãm hại anh ấy.

- Rõ ràng Peter đã đúng. - Katherine đồng tình - vì chính cái gã giết mẹ chúng tôi và Zachary lại mò tới Washington, rồi trở thành một trong những huynh đệ Tam điểm của Peter.

- Phải - Langdon tham gia câu chuyện - nhưng điều đó không giải thích được sự can thiệp của CIA.

Galloway lưỡng lự.

- Những kẻ có quyền luôn tìm cách có nhiều quyền lực hơn nữa.

- Nhưng... còn CIA? - Langdon hỏi xoáy thêm - Và các bí mật khó hiểu? Vẫn còn thiếu dữ kiện nào đó.

- Đúng như vậy, - Katherine tán thành - CIA phát triển nhờ các tiến bộ công nghệ và luôn thử nghiệm các môn khoa học bí ẩn như ESP, theo dõi từ xa, tước đoạt giác quan và các trạng thái tâm thần kích thích mạnh bằng dược lý. Tất cả đều chỉ là một, đó là khai thác tiềm năng trong trí não con người. Một trong những điều tôi học được từ anh Peter là: Khoa học và chủ nghĩa thần bí có liên hệ rất mật thiết chỉ phân biệt với nhau qua cách tiếp cận. Mục tiêu của chúng giống nhau... nhưng phương pháp thì khác hẳn.

- Nghe Peter nói, lĩnh vực nghiên cứu của cô là một dạng khoa học thần bí hiện đại, đúng không? - Galloway hỏi.

Lý trí học. - Katherine gật đầu đáp - Và nó đang chứng minh rằng con người có những sức mạnh mà chính bản thân họ không thể hình dung nổi - Cô ra dấu về phía một ô cửa sổ lắp kính màu mô tả hình ảnh "Jesus toả sáng, quen thuộc, tức là hình Đức Chúa với hào quang toả ra từ đầu và tay - Trên thực tế, con chỉ dùng thiết bị tích điện kép (CDD) hạ nhiệt để chụp bàn tay một thầy lang chữa bệnh bằng đức tin. Kết quả thu được là những dòng năng lượng tuôn trào qua các đầu ngón tay trong khi ông ta làm việc... y như hình ảnh Jesus trong ô cửa sổ lắp kính màu của cha kia.

Một trí óc được đào tạo rất bài bản, Galloway nghĩ thầm, cố giấu một nụ cười. Cô có biết Jesus chữa bệnh như thế nào không?

- Con nhận ra rằng, - Katherine tiếp - y học hiện đại cười nhạo các thầy lang và thầy pháp, nhưng con đã tận mắt chứng kiến công việc của họ. Các máy ảnh CCD ghi lại rất rõ cảnh thầy lang truyền một trường năng lượng lớn từ các đầu ngón tay sang bệnh nhân và làm thay đổi cấu trúc tế bào của họ, đúng như thế. Nếu đó không phải là sức mạnh thần thánh thì thật không biết gọi là gì.

Đức cha Galloway phì cười. Katherine có niềm đam mê nhiệt thành y hệt anh trai cô.

- Peter từng so sánh Lý trí học với những người tiên phong bị chế giễu vì kiên trì với ý tưởng dị giáo về một trái đất hình cầu xưa kia.

Chỉ qua một đêm, những người mở đường ấy từ hạng ngu ngốc trở thành các anh hùng, khám phá ra nhiều thế giới mới mẻ và nới rộng đường chân trời cho cả nhân loại trên hành tinh. Peter nghĩ rằng cô cũng sẽ làm được như thế. Anh ấy rất kỳ vọng vào công việc của cô. Suy cho cùng, mọi thay đổi triết học lớn trong lịch sử đều bắt đầu từ một ý tưởng mạnh dạn.

Dĩ nhiên, Galloway biết rằng người ta không nhất thiết phải vào phòng thí nghiệm để tận mắt trông thấy bằng chứng về ý tưởng mới mẻ táo bạo hay nghe lời đề xuất về tiềm năng chưa khai phá của con người. Chính Đại Giáo đường này đã từng tổ chức nhiều buổi cầu nguyện chữa bệnh cho người ốm và liên tục chứng kiến những kết quả thực sự kỳ diệu, những biến đổi vật lý đáng được ghi chép về mặt y học. Vấn đề không nằm ở chỗ liệu có phải Chúa đã ban cho con người sức mạnh to lớn hay không... mà ở chỗ chúng ta làm cách nào giải phóng được sức mạnh ấy.

Đức Cha kính cẩn vòng hai bàn tay quanh Kim tự tháp Tam điểm và nói khẽ.

- Các bạn, tôi không biết chính xác ngọn tháp chỉ tới đâu... nhưng tôi biết rõ điều này. Có một kho báu tinh thần rất lớn được cất giấu đâu đó ngoài kia... một kho báu đã kiên nhẫn chờ đợi trong bóng tối hàng bao thế hệ. Tôi tin rằng nó là tác nhân có sức mạnh biến đổi cả thế giới - ông chạm tay vào phần đỉnh chóp vàng - Kim tự tháp hoàn chỉnh đã được ráp lại... thời khắc lịch sử sắp đến. Cổ nhân đã tiên đoán về khả năng của một giai đoạn khai sáng có tính bước ngoặt... Tại sao lại không nhỉ?

- Thưa cha, - Langdon lên tiếng, giọng khiêu khích - tất cả chúng ta đều đã quá quen với sự mặc khải của Thánh John và ý nghĩa thật sự của sách Khải huyền, nhưng lời tiên tri trong Kinh thánh thì hầu như không...

- Ôi lạy Chúa, sách Khải huyền là một mớ rác rưởi - đức cha đáp - Chịu chẳng biết đọc nó thế nào. Tôi đang đề cập đến những trí tuệ sáng láng diễn đạt bằng thứ ngôn ngữ minh bạch, chẳng hạn các dự đoán của Thánh Augustine, Tử tước Francis Bacon, Newton, Einstein, và còn nhiều nhiều nữa, tất cả đều tiên đoán về một thời điểm khai sáng mang tính biến đổi. Ngay cả Jesus cũng nói "Chẳng có gì giấu giếm được mãi, và cũng chẳng có bí mật nào lại không lộ ra ánh sáng".

- Đó là lời tiên đoán rất an toàn, - Langdon nói - Kiến thức phát triển theo cấp số nhân. Chúng ta càng biết nhiều thì khả năng học hỏi càng lớn, và tốc độ mở mang cơ sở tri thức càng cao hơn.

- Đúng vậy, - Katherine thêm vào - Có thể thấy rõ điều đó trong khoa học. Mỗi công nghệ mới sáng chế đều trở thành phương tiện để phát minh ra những công nghệ mới khác... và nó cứ thế mà phát triển. Đó là lý do tại sao năm năm qua khoa học lại tiến nhanh hơn so với cả năm ngàn năm trước đó. Một sự phát triển ghê gớm. Ví von theo kiểu toán học là cùng với thời gian, đường cong hàm mũ mô tả quá trình gần như trở thành đường thẳng đứng, và sự phát triển diễn ra nhanh kinh khủng.

Căn phòng chìm vào im lặng. Cha Galloway cảm thấy hai vị khách của mình vẫn chưa suy luận được bằng cách nào kim tự tháp sẽ dẫn họ tới những phát hiện mới. Đó là lý do vì sao số phận đưa các vi đến với tôi, ông nghĩ thầm. Tôi phải đảm nhân vai trò này.

Đã nhiều năm, Đức cha Colin Galloway, cùng với các huynh đệ Tam điểm của mình, giữ vai trò người gác cổng. Còn giờ đây mọi thứ đang thay đổi.

Ta không còn là người gác cổng nữa... Ta là người chỉ đường.

- Giáo sư Langdon? - Galloway lên tiếng, vươn tay qua bàn - Hãy cầm lấy tay tôi.

Robert Langdon do dự ngó bàn tay Galloway chìa ra trước mặt mình.

- Chúng ta sắp cầu nguyện ư?

Rất nhã nhặn, anh đặt bàn tay phải của mình vào bàn tay nhăn nhúm của cha chánh xứ. Ông già nắm lấy nhưng không cầu nguyện. Thay vào đó, ông lần tìm ngón trỏ của Langdon và đưa nó vào lòng hộp đá từng cất giữ chóp vàng.

- Mắt anh đã đánh lừa anh. - cha chánh xứ nói - Phải chi nhìn bằng đầu ngón tay như tôi thì anh sẽ nhận ra rằng cái hộp này còn điều đáng lưu tâm.

Langdon nghiêm túc đưa đầu ngón tay miết xung quanh lòng hộp, nhưng anh chẳng cảm thấy gì. Bên trong hoàn toàn nhẵn nhụi.

- Cứ tìm kỹ đi. - Galloway nhắc.

Cuối cùng, đầu ngón tay của Langdon cũng nhận ra một vòng tròn nhỏ xíu nhô lên, một chấm cực nhỏ ở chính giữa đáy hộp. Anh bỏ tay ra và săm soi kỹ càng bên trong. Anh không thể nhìn thấy chấm tròn nọ bằng mắt thường. Nó là gì nhỉ?

- Anh có nhận ra biểu tượng đó không? - Galloway hỏi.

- Biểu tượng ư? - Langdon nói - Con chẳng nhìn thấy gì cả.

- Ấn mạnh nó xem nào.

Langdon làm đúng như yêu cầu, ấn đầu ngón tay xuống cái chấm.

Ông ấy mong đợi chuyện gì xảy ra đây.

- Nhấn ngón tay của anh xuống - cha chánh xứ nhắc - ấn mạnh.

Langdon liếc nhìn Katherine, cô bối rối đưa tay vén một lọn tóc ra sau tai.

Vài giây trôi qua, cha chánh xứ gật đầu.

- Được rồi, bỏ tay ra đi. Quá trình giả kim đã hoàn tất.

Giả kim ư? Robert Langdon buông tay khỏi cái hộp đá và ngơ ngác ngồi im. Chẳng có gì thay đổi. Cái hộp vẫn nằm nguyên trên bàn.

- Có gì đâu, - Langdon nói.

- Hãy kiểm tra đầu ngón tay anh xem, - cha chánh xứ bảo - Anh sẽ thấy một sự biến đổi.

Langdon nhìn ngón tay mình, sự biến đổi duy nhất là trên da anh xuất hiện vết lõm do một cục bướu tròn tạo ra: một vòng tròn nhỏ xíu với một chấm ở chính giữa.

- Bây giờ anh đã nhận ra biểu tượng chưa? - Galloway hỏi.

Langdon đã nhận ra, nhưng việc ông già cảm nhận rõ đến từng chi tiết mới thực sự khiến anh ấn tượng. Nhìn bằng đầu ngón tay quả là một kỹ năng cao siêu.

- Đó là thuật giả kim, - Katherine nói, xích ghế của mình vào gần hơn và nhìn kỹ ngón tay Langdon - Đây là biểu tượng cổ của vàng.

- Đúng vậy - Galloway mỉm cười và vỗ lên cái hộp - Chúc mừng Giáo sư. Anh đã giành được thứ mà mọi nhà giả kim trong lịch sử đều mong ước. Từ một chất liệu vô giá trị, anh đã tạo ra vàng.

Langdon cau mày thờ ơ. Mẹo vặt của Galloway xem ra chẳng mấy hữu ích.

- Một ý tưởng rất thú vị, thưa cha, nhưng con e rằng biểu tượng vòng tròn với một chấm chính giữa này có tới hàng chục ý nghĩa. Nó được gọi là bàn huyền điểm, và là một trong những biểu tượng được sử dụng rộng rãi nhất trong lịch sử.

- Anh đang nói gì thế? - cha chánh xứ hỏi, giọng đầy vẻ hoài nghi.

Langdon sửng sốt vì một hội viên Tam điểm lại không thông thuộc ý nghĩa tinh thần của biểu tượng này.

- Thưa cha, bàn huyền điểm có vô số nghĩa. Ở Ai Cập cổ đại, nó đại diện cho thần mặt trời Ra, thiên văn học hiện đại vẫn sử dụng nó như biểu tượng của vầng thái dương. Trong triết học phương Đông, bàn huyền điểm thể hiện sự thấu suốt về mặt tinh thần của Huệ nhãn, của hoa hồng thiêng liêng, và là biểu tượng của sự khai trí. Các tín đồ Kabbalah dùng nó để chỉ Kether (Sephiroth(94) tối cao và "điều sâu kín nhất trong tất cả những điều sâu kín"). Chủ nghĩa thần bí sơ khai gọi bàn huyền điểm là Thần nhãn, nó cũng là nguồn gốc của Thấu nhãn trên dấu Quốc ấn. Những người theo trường phái Pythagoras sử dụng bàn huyền điểm làm hình ảnh đại diện cho Monad - Chân lý Thần thánh, Kiến thức Nguyên thuỷ, sự tương thông giữa trí tuệ và tâm hồn, và...

- Thôi đủ rồi! - Galloway bật cười - Cảm ơn Giáo sư. Anh nói rất đúng.

Langdon nhận ra đức cha vừa đùa cợt mình. Ông ấy biết rõ tất cả.

- Bàn huyền điểm, - Galloway nói, vẫn tủm tỉm cười - là biểu tượng của Bí ẩn cổ xưa. Vì lý do đó, tôi cho rằng không phải ngẫu nhiên mà nó hiện diện trong hộp. Theo truyền thuyết, bí mật của tấm bản đồ này được cất giấu ở những chi tiết nhỏ nhất.

- Hay lắm, - Katherine lên tiếng - nhưng ngay cả khi người ta cố ý bố trí biểu tượng này ở đây thì nó cũng chẳng đưa chúng ta đến gần việc giải mã hơn chút nào, phải không ạ?

- Lúc nãy cô nói dấu sáp niêm phong mà cô bóc có in hình chiếc nhẫn của Peter?

- Vâng.

- Và anh thì mang theo chiếc nhẫn đó?

- Vâng - Langdon thọc tay vào túi, anh móc chiếc nhẫn ra khỏi túi nhựa rồi đặt lên bàn trước mặt cha chánh xứ.

Galloway nhặt chiếc nhẫn và bắt đầu sờ các bề mặt của nó.

- Chiếc nhẫn độc đáo này được tạo ra cùng thời Kim tự tháp Tam điểm. Theo truyền thống thì hội viên nào chịu trách nhiệm bảo vệ kim tự tháp sẽ đeo nhẫn. Tối nay, khi phát hiện bàn huyền điểm nhỏ xíu ở đáy hộp đá, tôi đã nhận ra rằng chiếc nhẫn là một phần của biểu hình.

- Thật thế ư?

- Tôi đoán chắc như vậy. Peter là người bạn thân nhất của tôi, anh ấy đã đeo chiếc nhẫn này nhiều năm rồi. Tôi rất quen thuộc với nó - ông già trả chiếc nhẫn lại cho Langdon - Anh tự xem đi.

Langdon nhận lấy chiếc nhẫn và cẩn thận kiểm tra. Anh rà các ngón tay lên con phượng hoàng hai đầu, con số 33, dòng chữ ORDO AB CHAO, và cả dòng chữ Tất cả được tiết lộ ở cấp 33... vẫn không nhận thấy chi tiết nào hữu dụng. Sau đó, khi lần xuống xung quanh vành ngoài đai nhẫn, Langdon đột ngột dừng lại. Anh giật mình lật chiếc nhẫn lên và chăm chú quan sát đáy đai nhẫn.

Galloway hỏi:

- Anh tìm thấy rồi phải không?

- Con nghĩ là như vậy! - Langdon đáp.

Katherine xích ghế lại gần hơn.

- Gì vậy?

- Dấu hiệu cấp độ trên đai nhẫn, - Langdon đáp, chìa cho cô xem - Nó nhỏ đến mức ta không phát hiện nổi bằng mắt thường, nhưng khi sờ bằng tay, ta có thể khẳng định là nó ăn lõm xuống, giống một dấu khắc tròn nhỏ xíu.

Dấu hiệu cấp độ bố trí ở chính giữa phần đáy đai nhẫn... và phải thừa nhận rằng trông đúng bằng kích cỡ của cái chấm nổi ở đáy hộp.

- Cùng cỡ thì phải? - Katherine nhích lại gần hơn nữa, miệng kêu lên đầy phấn khích.

- Có một cách kiểm chứng - Langdon cầm chiếc nhẫn và đưa vào trong hộp, lựa cho hai hình tròn trùng khít nhau. Khi anh ấn xuống, vòng tròn nổi trong hộp khớp đúng vào phần lõm của chiếc nhẫn. Có một tiếng tách mơ hồ nhưng đanh gọn.

Tất cả cùng nhổm dậy.

Langdon chờ đợi, nhưng không có gì khác lạ.

- Sao thế?! - cha chánh xứ hỏi.

- Chẳng có gì cả, - Katherine đáp - Cái nhẫn khớp đúng chỗ... nhưng không có gì xảy ra hết.

- Không có sự biến đổi lớn lao nào ư? - Galloway lộ vẻ bối rối.

Chưa xong, Langdon ngẫm nghĩ, đăm đăm nhìn xuống phù hiệu phượng hoàng hai đầu và con số 33 đúc nổi của chiếc nhẫn. Tất cả được tiết lộ ở cấp độ 33. Anh suy nghĩ rất lung, về Pythagoras, về hình học thiêng liêng, về các góc, rồi băn khoăn tự hỏi liệu cấp độ có mang ý nghĩa toán học nào không.

Nhịp tim dần đập rộn lên, Langdon đưa tay cầm chiếc nhẫn đang dính chặt lấy đáy hộp. Sau đó anh chậm rãi xoay nó sang phải. Tất cả được tiết lộ ở cấp độ 33.

Anh xoay chiếc nhẫn 10 độ... 20 độ... 30 độ...

Những gì xảy đến tiếp theo, Langdon chưa bao giờ chứng kiến cả.

Chú thích:

(94) Cây Sephiroth bao gồm 10 vòng tròn, đại diện cho các con số từ 1 đến 10 và được liên kết với nhau bằng 22 kênh - 22 chữ cái Do Thái. Mười số và 22 chữ cái tạo ra con số huyền bí 32, biểu hiện cho 32 con đường đi tới Trí tuệ. Số và chữ được xem là chìa khoá mở kho tàng tri thức, vì bằng cách sắp xếp chúng theo một hệ thống bỉ mật, những điều bí ẩn của tạo hoá sẽ được hé lộ - ND

Chương 85

Biến cải.

Đức cha Galloway nghe rõ mọi việc xảy ra, và vì thế ông không cần phải nhìn thấy.

Phía bên kia bàn, Langdon và Katherine đều lặng phắc, rõ ràng là đang sững sờ ngó cái hộp đá vừa biến đổi ngay trước mắt họ.

Galloway không nén nổi nụ cười. Ông đã đoán trước được kết quả, mặc dù chưa rõ diễn biến mới sẽ giúp họ giải quyết câu đố của kim tự tháp ra sao, nhưng chí ít ông cũng thích thú tận dụng cơ hội hiếm hoi này để dạy một chuyên gia ký tượng học Harvard đôi điều về các biểu tượng.

- Giáo sư. - cha chánh xứ lên tiếng - ít người nhận ra rằng các hội viên Tam điểm rất sùng kính hình hộp, hay đá khối theo cách gọi của chúng tôi, bởi vì nó chính là hình thức thể hiện ba chiều của một biểu tượng khác... xa xưa hơn, một biểu tượng hai chiều - Galloway không hỏi xem liệu anh Giáo sư kia có nhận ra biểu tượng đang nằm ngay trước mặt họ không. Đó là một trong những biểu tượng cổ và nổi tiếng nhất thế giới.

***

Robert Langdon chăm chăm nhìn cái hộp đã thay hình đổi dạng trên bàn, tâm trí rối bời. Mình không hề biết.

Mới đây thôi, anh thọc tay vào hộp đá, cầm chiếc nhẫn Tam điểm và nhẹ nhàng xoay nó. Khi chiếc nhẫn xoay được 33 độ, cái hộp đột nhiên thay đổi ngay trước mắt anh. Khớp nối rã ra làm các mảnh vuông vốn là thành hộp tách rời nhau. Cái hộp sụm xuống, các thành và nắp hộp bung mở, bật cạch xuống mặt bàn.

Khối hộp trở thành một cây thánh giá, Langdon nghĩ. Giả kim thuậi tượng trưng.

Katherine kinh ngạc nhìn cái hộp đã bung.

Kim tự tháp Tam điểm có liên quan đến... Thiên Chúa giáo ư?

Trong khoảnh khắc, Langdon cũng nảy ra thắc mắc tương tự. Suy cho cùng, thánh giá Thiên Chúa giáo là một biểu tượng được các hội viên Tam điểm sùng kính, và chắc chắn có nhiều hội viên Tam điểm là tín đồ Thiên Chúa. Tuy nhiên, trong Hội Tam điểm còn khối người theo đạo Do Thái, Hồi, Phật. Ấn Độ và cả những tôn giáo mà vị tổ thần vẫn chưa được đặt tên. Hiển nhiên rất ít khả năng họ ưu tiên mỗi mình biểu tượng Thiên Chúa giáo. Ý nghĩa thực sự của hình chữ thập chợt lóe lên trong óc anh.

- Đó không phải là thánh giá, - Langdon cất tiếng và đứng dậy - Hình thập tự với bàn huyền điểm ở chính giữa là một biểu tượng nhị nguyên, tức một biểu tượng được tạo ra từ việc hợp nhất hai biểu tượng khác.

- Anh nói sao? - ánh mắt Katherine dõi theo Langdon trong khi anh đi đi lại lại.

- Từ thế kỷ thứ tư trở đi, thập tự mới trở thành biểu tượng Thiên Chúa giáo - Langdon giải thích - Trước đó rất lâu, nó được người Ai Cập sử dụng để thể hiện sự giao hoà hai chiều giữa con người và thần thánh. Thượng hạ tương liên. Nó là biểu hiện hữu hình cho giao lộ nơi con người và thánh thần hợp làm một.

- Ra vậy.

- Bàn huyền điểm, - Langdon nói - chúng ta đều biết nó mang rất nhiều ý nghĩa, một trong những nghĩa ít phổ biến nhất là hoa hồng. Hoa hồng là biểu tượng của giới giả kim về sự hoàn hảo. Nhưng khi đặt bông hồng vào chính giữa cây thập tự thì ta sẽ tạo ra một biểu tượng khác hẳn, đó là Thập tự Hoa hồng.

Galloway ngả người trên ghế, tủm tỉm cười.

- Ối chà chà! Giờ thì các vị hiểu ra rồi đấy.

Katherine cũng đứng lên.

- Tôi chưa thật hiểu đâu!

- Thập tự Hoa hồng, - Langdon cắt nghĩa - là một biểu tượng phổ biến trong Hội Tam điểm. Thực ra, chi phái Scottish Rite có một cấp độ gọi là "Hiệp sĩ Thập tự Hoa hồng" nhằm tôn vinh tổ chức Thập tự Hoa hồng vốn có nhiều đóng góp cho triết lý bí truyền của Hội Tam điểm xưa kia. Chắc Peter đã từng kể cho chị nghe về tổ chức Thập tự Hoa hồng. Trong đội ngũ họ có hàng chục nhà khoa học vĩ đại, tỉ dụ Hohn Dee, Elias Ashmole, Robert Fludd...

- Có - Katherine nói - Trong quá trình nghiên cứu, tôi đã đọc tất cả các tuyên ngôn của họ.

Mọi nhà khoa học đều nên làm như vậy, Langdon nghĩ thầm. Giáo phẩm Thập tự Hoa hồng - tên chính thức là Giáo phẩm Thập tự Hoa hồng Cổ xưa và Bí truyền - có một lịch sử huyền bí ảnh hưởng sâu rộng đến khoa học và gần như song hành cùng truyền thuyết về các Bí ẩn cổ xưa. Tri thức bí mật của các bậc hiền triết chỉ được ký thác cho những bộ óc sáng láng nhất để truyền lại đời sau. Phải thừa nhận rằng, danh sách những thành viên nổi tiếng của Thập tự Hoa hồng có thể lập nên một bộ từ điển vĩ nhân với những tên tuổi chói sáng thời Phục hưng châu Âu, chẳng hạn Paracelsus, Bacon, Fludd, Descartes, Pascal, Spinoza, Newton và Leibniz.

Theo học thuyết Thập tự Hoa hồng, trật tự được "xây dựng trên những chân lý mật truyền của quá khứ", những chân lý này hứa hẹn một nguồn hiểu biết sâu sắc về "lĩnh vực tinh thần" mà "hạng phàm phu tục tử" không bao giờ được phép biết đến. Qua nhiều năm tháng phát triển, biểu tượng của hội huynh đệ này luôn là một đoá hồng nở rộ trên cây thập tự trang trí lộng lẫy, nhưng sau đó, nó bắt đầu đơn giản hoá thành vòng tròn bao quanh dấu chấm gắn trên cây thập tự không trang trí - hình thức biểu thị sơ sài nhất của hoa hồng trên hình thức biểu thị sơ sài nhất của thập tự.

- Peter và tôi thường thảo luận về triết lý Thập tự Hoa hồng, - Galloway nói với Katherine.

Trong khi cha chánh xứ phác hoạ mối quan hệ tương hỗ giữa Hội Tam điểm và tổ chức Thập tự Hoa hồng, tâm trí Langdon quay trở lại với ý nghĩ dai dẳng bám lấy anh suốt cả buổi tối nay. Jeova Sanctus Unus. Cụm từ này có mối liên hệ nào đó với giả kim. Anh vẫn chưa nhớ được chính xác Peter từng nói gì với mình về Jeova Sanctus Unus, nhưng việc nhắc đến Thập tự Hoa hồng lại khuấy động ý nghĩ ấy lên. Nghĩ đi nào, Robert! Người ta cho rằng sáng lập viên Thập tự Hoa hồng, - Galloway vẫn giảng giải - là Christian Rosenkreuz, một người Đức theo chủ nghĩa thần bí. Nghe cái tên cũng biết chỉ là biệt danh, và biệt danh ấy có thể là của Francis Bacon. Mặc dù chẳng có bằng chứng gì, nhiều sử gia vẫn tin rằng Bacon sáng lập ra tổ chức này...

- Một biệt danh! - Langdon đột nhiên kêu lên, bản thân anh cũng phải kinh ngạc vì phát hiện đó - Đúng rồi. Jeova Sanctus Unus là một biệt danh?

- Anh đang nói về chuyện gì thế? - Katherine gặng hỏi.

Mạch máu trong người Langdon chảy nhanh hơn.

- Suốt buổi tối, tôi cố nhớ xem Peter đã nói gì với tôi về Jeova Sanctus Unus và mối quan hệ của cụm từ ấy với ngành giả kim. Cuối cùng tôi đã nhớ ra! Nó không có liên hệ nhiều với ngành giả kim mà chỉ với một nhà giả kim! Một nhà giả kim rất nổi tiếng?

Galloway cười húng hắng.

- Đến lúc rồi đấy, Giáo sư ạ. Tôi đã nhắc tới cái tên này hai lần và cả từ biệt danh nữa.

Langdon đăm đăm nhìn vị chánh xứ già.

- Cha biết rồi ư?

- Chà, tôi đã tự đề ra vài giả thuyết khi nghe anh bảo phần chữ khắc nói đến Jeova Sanctus Unus và được giải mã bằng cách sử dụng ma phương giả kim của Durer, đến khi anh tìm ra Thập tự Hoa hồng, tôi càng thêm chắc chắn. Chắc anh cũng biết, trong số tư liệu cá nhân của nhà khoa học mà chúng ta đang đề cập có cả một bản sao các tuyên ngôn Thập tự Hoa hong với chú giải kỹ càng.

- Là ai cơ? - Katherine hỏi.

- Một trong những nhà khoa học vĩ đại nhất thế giới! - Langdon đáp - Ông là một nhà giả kim, thành viên Hiệp hội Hoàng gia London, hiệp sĩ Thập tự Hoa hồng, và ông đã ký biệt danh lên một số tài liệu khoa học bí mật nhất của mình, biệt danh ấy là Jeova Sanctus Unus!

- Một Đức Chúa đích thực? - Katherine hỏi - Khiêm nhường nhỉ?

- Thực tế là một người rất vĩ đại đấy, - Galloway đính chính - ông ký tên như vậy bởi vì, cũng giống các bậc thầy giả kim cổ đại, ông hiểu bản thân mình chính là thánh nhân. Thêm nữa, mười sáu chữ cái trong Jeova Sanctus Unus có thể sắp xếp lại để ra được tên thật của ông theo tiếng Latin, cho nên nó là một biệt danh hoàn hảo.

Katherine lộ vẻ bối rối.

- Đảo các chữ cái trong Jeova Sanctus Unus thì sẽ được tên Latin của một nhà giả kim nổi tiếng ư?

Langdon vớ lấy mảnh giấy và cây bút chì trên bàn cha chánh xứ, miệng nói tay viết.

- Trong tiếng Latin, J và I có thể thay thế cho nhau, V và U cũng vậy. Theo đó, các chữ cái trong Jeova Sanctus Unus có thể sắp xếp lại thành đúng tên thật của người này.

Langdon viết ra mười sáu chữ cái: Isaacus Neutonuus.

Anh trao mảnh giấy cho Katherine và nói.

- Tôi chắc chị biết tiếng ông ấy.

- Isaac Newton? - Katherine hỏi lại, mắt nhìn tờ giấy - Đó là những gì dòng chữ khắc trên Kim tự tháp đang cố cho chúng ta biết ư?

Nhất thời, Langdon tưởng như mình đang quay trở lại Tu viện Westminster, đứng trước ngôi mộ hình kim tự tháp của Newton, nơi anh giác ngộ được một điều tương tự. Tối nay, nhà khoa học vĩ đại lại xuất hiện một lần nữa. Dĩ nhiên, đó không phải là sự trùng hợp... kim tự tháp, những điều bí ẩn, khoa học, tri thức mật truyền... tất cả đan xen vào nhau. Tên tuổi của Newton luôn là cột chỉ đường cho những người kiếm tìm tri thức bí mật.

- Isaac Newton, - Galloway lên tiếng - chắc chắn có liên hệ với cách giải mã ý nghĩa của kim tự tháp này. Tôi không tường tận mối liên hệ ấy nhưng...

- Quả là thiên tài - Katherine thốt lên, mắt mở to - Hoá ra đó là cách biến đổi kim tự tháp!

- Chị tìm ra rồi ư? - Langdon hỏi.

- Phải - Katherine đáp - Tôi không tin nổi là chúng ta lại không nhận thấy! Nó sờ sờ ngay trước mắt đây. Một quy trình giả kim rất đơn giản. Tôi có thể biến đổi cái kim tự tháp này bằng khoa học cơ bản. Khoa học của Newton!

Langdon căng óc cố hiểu.

- Đức cha Galloway, - Katherine nói - Cha vừa đọc cái nhẫn, nó nói rắng...

- Khoan! - người giáo sĩ già nua đột nhiên giơ ngón tay làm hiệu im lặng. Rất nhẹ nhàng, ông nghiêng đầu sang một bên như thể đang lắng nghe. Lát sau, ông đứng phắt dậy - Các bạn, rõ ràng kim tự tháp này có những bí mật còn chưa hé lộ. Tôi không hiểu cô Solomon lĩnh hội được gì, nhưng nếu cô ấy biết bước tiếp theo cho hai người thì coi như vai trò của tôi đã hoàn thành. Hãy thu dọn đồ đạc và không phải nói gì thêm với tôi nữa cả. Cứ để tôi ở lại trong bóng tối một lát. Tôi không muốn nhận lấy thứ thông tin mà các vị khách của chúng ta sắp tìm cách ép tôi chia sẻ.

- Các vị khách ư? - Katherine hỏi, cố lắng tai nghe - Con chẳng nghe thấy tiếng ai cả.

- Cô sẽ nghe thấy thôi, - Galloway đáp, tiến thẳng ra cửa - Nhanh lên đi!

- Ở bên kia thành phố, một trạm điện thoại đang cố gắng liên lạc với một máy di động đã vỡ nát trên Đại lộ Massachusetts. Không dò được tín hiệu, nó chuyển hướng cuộc gọi sang tin nhắn thoại.

- Robert! - giọng Warren Bellamy đầy hốt hoảng - Anh ở đâu?! Gọi ngay cho tôi. Có chuyện kinh khủng đang xảy ra!

Chương 86

Mal'akh đứng bên chiếc bàn đá, tiếp tục công việc chuẩn bị trong ánh đèn xanh da trời ở tầng hầm nhà gã. Cái dạ dày rỗng tuếch cứ quặn lên, nhưng gã chẳng buồn bận tâm. Quãng đời lệ thuộc vào những ham muốn thể xác đã lùi xa rồi.

Quá trình biến đổi đòi hỏi phải có sự hy sinh.

Cũng như mọi nhân vật tiến hoá cao về mặt tinh thần trong lịch sử, Mal'akh nguyện đi theo con đường của mình bằng cách hy sinh những phần da thịt cao quý nhất. Hoá ra yêm hoạn ít đau đớn hơn gã tưởng, không những thế còn là một hành vi quá sức phổ biến. Mỗi năm có hàng nghìn người đàn ông tiến hành phẫu thuật cắt bỏ tinh hoàn với đủ mọi động cơ, từ chuyển đổi giới tính, kiểm soát lạm dụng tình dục tới những tín điều tinh thần sâu xa. Lý do của Mal'akh thì cao quý hơn nhiều. Cũng như nhân vật Attis tự thiến trong truyền thuyết, Mal'akh biết rằng để đạt được sự bất tử cần phải đoạn tuyệt hoàn toàn với thế giới trần tục của nam và nữ.

Một trong những giải pháp cho điều đó là trở thành người lưỡng tính.

Thiên hạ ngày nay thường xa lánh những ai ái nam ái nữ, chứ cư dân cổ đại đều thấu hiểu sức mạnh nội tại của sự hy sinh mang tính bước ngoặt này. Các tín đồ Thiên Chúa giáo sơ khai từng được nghe chính Đức Jesus ca ngợi mặt tốt của hành động xuống tóc ngọc hành trong Phúc âm Matthew 19:12: "Có những người tịnh thân vì lợi ích của Nước Thiên đàng. Ai chấp nhận được điều ấy thì để cho họ chấp nhận".

Peter Solomon cũng đã hy sinh thịt da, nhưng một bàn tay thì mới chỉ là cái giá rất nhỏ trong cả một dự án lớn. Hết đêm nay, ông ta sẽ còn phải hy sinh nhiều, nhiều hơn thế nữa.

Để sáng tạo, ta phải phá huỷ.

Đó là bản chất của thế giới phân cực.

Dĩ nhiên, Peter Solomon đáng phải chịu số phận đang chờ đợi ông ta tối nay. Kết cục cũng xứng đáng thôi. Cách đây khá lâu, Peter từng đóng vai trò quan trọng trong quãng đời phàm tục của Mal'akh. Vì thế cũng nên để ông ta đóng tiếp vai trò quan trọng trong quá trình chuyển đổi vĩ đại của gã. Người đàn ông này sẽ phải nếm trải tất cả những hãi hùng và đau đớn mà ông ta gây ra trước đây. Peter Solomon không phải là hạng chính nhân quân tử như thiên hạ lầm tưởng bấy nay.

Ông ta sẵn sàng hy sinh cả đứa con trai dứt ruột đẻ ra.

Peter Solomon từng đặt ra cho con trai mình, Zachary, một lựa chọn khó khăn - tiền bạc hay tri thức. Zachary đã chọn lầm. Quyết định ấy về sau kéo theo cả chuỗi sự kiện mà rốt cục là lôi chàng trai trẻ xuống vực sâu địa ngục, Nhà tù Soganlik. Zachary Solomon đã chết trong nhà lao Thổ Nhĩ Kỳ đó. Cả thế giới biết chuyện... nhưng có một điều họ không biết, rằng lẽ ra Peter Solomon đã có thể cứu sống con mình.

Ta có mặt ở đó, Mal'akh nghĩ. Ta nghe rõ tất cả.

Mal'akh không bao giờ quên cái đêm ấy. Quyết định tàn nhẫn của Solomon đồng nghĩa với dấu chấm hết cho con trai ông ta, Zach, nhưng lại là sự chào đời của Mal'akh.

Phải có kẻ chết để những người khác được sống.

***

Ánh đèn bắt đầu đổi màu khiến Mal'akh nhận ra là đã khá muộn.

Gã hoàn tất nốt việc chuẩn bị rồi quay lên lối dốc. Đã đến lúc trở lại với những vấn đề của thế giới phàm tục

Chương 87

Tất cả được tiết lộ ở độ 33, Katherine nghĩ thầm trong lúc chạy.

Mình biết cáchbiến đổi cái kim tự tháp? Câu trả lời nằm sờ sờ trước mắt họ suốt buổi tối nay.

Lúc này, chỉ còn mình Katherine và Langdon băng qua khu phụ của nhà thờ, lần theo những tấm biển chỉ lối tới "Sân", Đúng như cha chánh xứ nói, ra khỏi giáo đường là sang một khoảng sân rộng có tường bao.

Khoảnh sân này là một khu vườn ngũ giác tách biệt tới xung quanh, có một đài phun nước bằng đồng theo trường phái hậu hiện đại Katherine rất ngạc nhiên khi thấy tiếng nước phun vang vọng khá ồn ào trong sân. Nhưng cô mau chóng nhận ra đó không phải là âm thanh của đài phun nước.

- Trực thăng! - cô kêu lên, đúng lúc một luồng sáng xuyên thủng trời đêm phía trên đầu họ - Chạy vào bên dưới cánh cổng kia!

Ánh sáng chói loà của một ngọn đèn rọi đổ tràn xuống khoảnh sân. Bấy giờ Langdon và Katherine cũng tới được mé bên kia sân, lẩn vào dưới mái vòm kiểu Gothic của một đường hầm dẫn ra bãi cỏ bên ngoài. Họ thu mình chờ đợi. Chiếc trực thăng lao qua trên cao, bắt đầu lượn quanh nhà thờ theo từng vòng tròn rộng.

- Cha Galloway đã nói đúng về chuyện các vị khách, - Katherine nói giọng thán phục. Mắt kém khiến tai thính hẳn. Chính tai cô thì kêu ong ong như đang chạy đua với mạch đập.

- Lối này. - Langdon nói, nắm lấy cái túi và di chuyển qua đường hầm.

Đức cha Galloway đã đưa cho họ một chiếc chìa khoá cùng những chỉ dẫn rất rành rẽ. Rủi thay, khi đi hết đường hầm, họ phát hiện ra còn cách địa điểm cần tới một bãi cỏ trống rất rộng, hiện đang tràn ngập ánh đèn từ chiếc trực thăng trên cao.

- Chúng ta không thể băng qua được, - Katherine nói.

- Cứ bình tĩnh... xem kìa - Langdon trỏ một bóng đen hiện rõ trên bãi cỏ phía bên trái. Mới đầu, bóng đen đó không có hình thù xác định nhưng nó lớn lên rất nhanh và cấp tập di chuyển về phía họ, càng lúc càng rõ nét, càng lúc càng mau, trải rộng ra, cuối cùng biến thành một hình chữ nhật màu đen khổng lồ có hai cái chóp cao vút.

- Phần mặt tiền nhà thờ che khuất ánh đèn đấy, - Langdon nói.

- Họ đang đáp xuống trước nhà!

Langdon nắm lấy tay Katherine.

- Chạy nào!

***

Bên trong nhà thờ, Đức cha Galloway di chuyển qua lối chính, xuống gian giữa giáo đường để đi ra cửa trước. Lần đầu tiên sau nhiều năm, ông cảm thấy bước chân mình thật nhẹ nhàng.

Ông nghe rõ tiếng trực thăng lơ lửng trước nhà thờ, ông cũng hình dung ra ánh đèn rọi qua ô cửa sổ hoa đằng trước, tạo nên nhiều màu sắc rực rỡ khắp giáo đường. Ông hồi tưởng những ngày tháng còn trông thấy màu sắc. Thật trái khoáy là chính thế giới tối tăm không chút ánh sáng hiện nay lại soi tỏ nhiều điều cho ông. Ta đang nhìn rõ hơn bao giờ hết.

Galloway được gọi đến bên Chúa từ thuở thanh niên, từ đó trở đi, ông yêu giáo hội bằng cả trái tim mình. Giống như nhiều giáo hữu thiết tha dâng hiến trọn đời cho Chúa, nay Galloway đã quá chán chường. Bao nhiêu năm qua, ông luôn căng thẳng vì phải tranh đấu chống lại những kẻ ngu dốt.

Ta chờ đợi điều gì?

Từ các cuộc Thập tự chinh, Toà án dị giáo, tới chính trị nước Mỹ, cái tên Jesus luôn bị sử dụng như một đồng minh trong tất cả các hình thức tranh giành quyền lực. Từ thuở khai thiên lập địa, những kẻ ngu dốt luôn là những kẻ to mồm nhất, thường sai khiến đám đông nhẹ dạ và buộc họ phải tuân lệnh. Chúng bảo vệ dục vọng phàm tục bằng cách trích dẫn Kinh thánh mà chẳng hiểu mô tê gì. Chúng rêu rao sự tàn bạo của mình như bằng chứng cho sự hối lỗi. Sau ngần ấy tháng năm, cuối cùng loài người cũng tìm ra cách huỷ hoại hoàn toàn mọi điều từng rất tốt đẹp về Jesus.

Đêm nay, việc gặp gỡ biểu tượng Thập tự Hoa hồng đã tiếp thêm hi vọng cho Galloway, gợi ông nhớ tới những lời tiên tri trong tuyên ngôn của tổ chức này, ông đã đọc các tuyên ngôn ấy không biết bao lần và nay vẫn còn nhớ.

Chương Một: Đức Jehova sẽ cứu rỗi nhân loại bằng cách hé mở nhiều bí mật vốn chỉ dành riêng cho không người được chọn.

Chương Bốn: Cả thế giới sẽ trở thành một cuốn sách, mọi mâu thuẫn giữa khoa học và thần học sẽ được hoá giải.

Chương Bảy: Trước ngày tận thế, Chúa sẽ tạo ra một dòng thác ánh sáng tâm linh để xoa dịu khổ đau cho con người.

Chương Tám: Trước khi thiên khải này thành hiện thực, thế giới sẽ phải trải qua một cơn say bắt nguồn từ cốc rượu độc đựng đầy cuộc sống lầm lạc của giống nho thần học.

Galloway biết giáo hội lạc lối đã lâu, nên muốn dành đời mình để đưa nó về đường chính. Giờ đây, ông nhận ra rằng thời khắc ấy đang đến gần.

Trước bình minh luôn là thời điểm tối tăm nhất.

***

Đặc vụ CIA Turner Simkins đứng chênh vênh trên thanh chân chống của chiếc trực thăng Sikorsky trong khi nó đáp dần xuống bãi cỏ đẫm sương. Tới nơi, anh ta nhảy xuống, chạy lại nhóm của mình rồi phất tay ra hiệu cho chiếc máy bay vọt trở lại không trung để giám sát các lối ra.

Không có ai rời khỏi toà nhà này cả.

Chiếc trực thăng bay trở lại bầu trời đêm. Simkins và cả nhóm chạy lên dãy bậc cấp dẫn tới cửa chính nhà thờ. Anh ta chưa kịp quyết định gõ cánh cửa nào trong số sáu cánh cửa thì một cánh trong số đó đã mở ra.

- Có chuyện gì vậy? - một giọng nói bình tĩnh vang lên trong bóng tối.

Simkins khó khăn lắm mới nhận ra một bóng người còng gập trong chiếc áo choàng thầy tu.

- Cha là Đức cha Colin Galloway?

- Phải, - ông già đáp.

- Tôi đang tìm Robert Langdon. Cha có gặp anh ta không?

Ông già bước lên trước, đăm đăm nhìn Simkins bằng đôi mắt trống rỗng.

- Chuyện ấy hoạ có phép tiên mới xảy ra

Chương 88

Sắp hết giờ rồi!

Chuyên gia phân tích an ninh Nola Kaye cảm thấy sốt ruột. Cô đã uống tới cốc cà phê thứ ba và nó bắt đầu chạy cồn cào trong người cô như một dòng điện.

Sato vẫn chưa liên lạc lại.

Cuối cùng điện thoại cũng đổ chuông, Nola vồ lấy nó.

- OS, - cô đáp Nola đây.

- Nola, tôi là Rick Parrish thuộc an ninh hệ thống.

Nola sững lại. Không phải Sato.

- Chào Rick. Có chuyện gì thế?

- Tôi muốn gửi cho cô một cảnh báo. Bộ phận của chúng tôi thu được mấy thông tin liên quan đến nội dung công việc cô đang xử lý tối nay.

Nola đặt cốc cà phê xuống. Làm thế quái nào mà anh biết tôi đang xử lý gì tối nay?

- Anh bảo sao cơ?

- Xin lỗi, chúng tôi đang chạy thử chương trình CI mới - Parrish nói - Nó liên tục cho biết số hiệu đơn vị làm việc của cô.

Giờ thì Nola đã hiểu anh chàng đồng nghiệp đang nói về chuyện gì. Cục hiện đang thí nghiệm một phần mềm "tích hợp cộng tác" mới nhằm cung cấp cảnh báo tức thời cho các bộ phận khác nhau của CIA khi họ tình cờ cùng xử lý các trường dữ liệu liến quan. Trong thời buổi đầy rẫy đe doạ khủng bố căng thẳng thế này thì chìa khoá để ngăn chặn thảm hoạ thường đơn giản chỉ là một cảnh báo cho bạn biết rằng có người ở dưới kia đang phân tích những dữ liệu mà bạn cần. Đối với riêng Nola thì phần mềm CI này gây phiền toái nhiều hơn trợ giúp, cô gọi nó là phần mềm gián đoạn liên tục.

- Phải, tôi quên mất, - Nola nói - Anh thu được gì thế?

Cô chắc chắn rằng không ai khác trong cơ quan biết về vụ việc, nói gì đến can thiệp vào. Công việc duy nhất mà Nola thực hiện trên máy tối nay là tìm cho Sato những chủ đề bí truyền liên quan đến Hội Tam điểm. Tuy nhiên, cô vẫn thử đi bài liều.

- Chậc, nhìn chung chẳng có gì, - Parrish nói - nhưng tối nay chúng tôi vừa chặn một hacker, và chương trình CI liên tục cho biết tôi đang chia sẻ thông tin với cô.

- Một hacker à? Nola nhấp cà phê.

- Tôi vẫn đang nghe đây.

- Khoảng một tiếng trước, - Parrish nói - chúng tôi truy ra một gã tên là Zoubianis đang tìm cách truy cập một tệp tin thuộc cơ sở dử liệu nội bộ của chúng ta. Hắn cho biết người ta thuê hắn làm việc đó, còn thì hắn không tường tận mục đích truy cập cũng như không ngờ rằng nó nằm trên một máy chủ của CIA.

- Vậy à?

- Chúng tôi đã thẩm vấn xong, hắn hoàn toàn vô can. Nhưng có điều lạ ở đây một cơ chế tìm kiếm nội bộ nào đó đã đánh dấu mấy lần liền trong tối nay lên chính tệp tin mà Zoubianis muốn truy cập. Hình như có ai đó đã sục vào hệ thống của chúng ta, chạy một lệnh tìm kiếm từ khoá đặc biệt, và tạo ra một file tự lọc. Vấn đề là, các từ khoá mà họ sử dụng thực sự rất lạ. Trong đó có một từ được CI thông báo rằng trùng khớp ở cấp độ cao, một từ chỉ xuất hiện trên hệ thống dữ liệu của chúng ta - Anh ta ngừng lại - Cô có biết từ... biểu hình không?

Nola đứng bật dậy, làm cà phê đổ sánh cả ra mặt bàn.

- Các từ khoá khác cũng lạ không kém, - Parrish nói tiếp - Kim tự tháp, cổng...

- Xuống đây ngay đi, - Nola vừa ra lệnh vừa lau vội mặt bàn - Và mang theo tất cả những gì anh thu thập được!

Những từ này rõ ràng có nghĩa gì đó với cô phải không?

- NHANH LÊN!

Chương 89

Chủng viện Giáo sĩ Nhà thở lớn là một toà dinh thự trang nhã kiểu lâu đài toạ lạc ngay bên Đại Giáo đường Quốc gia. Xuất phát từ ý tưởng của giám mục Tân giáo đầu tiên ở Washington, Chủng viện này được thành lập nhằm đào tạo chuyên sâu cho các giáo sĩ đã thụ phong. Hiện nay, chủng viện vẫn cung cấp một loạt chương trình về thần học, tư pháp toàn cau, phương pháp chữa bệnh và duy linh.

Ngay trước khi trực thăng bay vọt trở lại bầu trời bên trên nhà thờ và rọi đèn pha sáng trưng như ban ngày, Langdon và Katherine đã kịp băng nhanh qua bãi cỏ, dùng chìa khoá của cha Galloway để mở cửa vào Chủng viện. Họ dừng lại ở tiền sảnh, thở hổn hển và quan sát xung quanh. Các ô cửa sổ cung cấp đủ ánh sáng nên Langdon thấy không cần thiết phải bật đèn, vả chăng làm thế khác gì báo cho chiếc trực thăng trên kia biết họ đang ở đâu. Hai người đi dọc hành lang trung tâm, băng qua một loạt phòng họp, phòng học và khu vực tập trung. Nội thất nơi đây gợi cho Langdon nhớ tới các toà nhà theo trường phái tân Gothic của Đại học Yale, đẹp mê hồn ở bề ngoài và thực dụng đến kỳ lạ ở bên trong. Người ta đã cải tiến nhiều để bên cạnh vẻ trang nhã vốn có thì những toà nhà ấy còn đủ khả năng chịu được cường độ đi lại cao.

- Lối kia. - Katherine ra hiệu về phía cuối sảnh.

Cô vẫn chưa giải thích rõ với Langdon về khám phá mới liên quan đến kim tự tháp, nhưng hiển nhiên nó được gợi ý nhờ sự xuất hiện của Isaacus Newtonuus. Lúc băng qua bãi cỏ, cô chỉ kịp nói vắn tắt rằng có thể biến đổi kim tự tháp bằng cách ứng dụng khoa học thường thức, và rằng các công cụ cần thiết chắc chắn có đủ trong toà nhà này. Langdon không biết Katherine cần gì, cũng chẳng đoán ra cách cô định hô biến một khối đá hoa cương và vàng đặc, nhưng hễ nhớ đến cảnh chiếc hộp vuông hoá thành thập tự hoa hồng, anh lại sẵn lòng tin tưởng.

Đi tới cuối sảnh. Katherine cau mày, rõ ràng vẫn chưa nhìn thấy thứ đang cần.

- Toà nhà này có cả ký túc xá, đúng không?

- Đúng, cho các buổi hội thảo lưu trú.

- Vậy thì nhà bếp phải bố trí đâu đó quanh đây chứ nhỉ?

- Chị đói à?

Katherine nhăn mặt nhìn lại.

- Không, tôi cần một phòng thí nghiệm.

À phải. Langdon mau chóng phát hiện ra một cầu thang đi xuống gắn tấm biển đầy hứa hẹn, mô tả một hình vẽ rất được ưa chuộng ở nước Mỹ.

Trông rất công nghiệp với hàng lô bát to bằng thép không gỉ, gian bếp dưới tầng hầm này ắt hẳn được thiết kế để phục vụ ăn uống cho số lượng người đông đảo. Bếp không có cửa sổ. Katherine đóng cửa chính và bật đèn, hệ thống quạt khói liền tự động chạy. Cô bắt đầu lục các chạn bát để tìm dụng cụ cần thiết.

- Robert, - cô bảo - đặt kim tự tháp lên bàn bếp đi.

Langdon làm theo yêu cầu, lôi kim tự tháp ra khỏi túi và đặt chóp vàng lên trên, cảm tưởng mình giống một tay phụ bếp học việc đang nhận lệnh của Daniel Boulud(95). Trong lúc đó, Katherine vặn vòi cho nước nóng chảy vào một chiếc nồi lớn.

- Anh nhấc hộ tôi cái nồi lên bếp!

Langdon ì ạch bê cái nồi lõng bõng lên, Katherine bật bếp ga và vặn to lửa.

- Chúng ta luộc tôm hùm à? - Langdon hỏi, giọng đầy hy vọng.

- Hài hước thế! Không, chúng ta đang làm giả kim, và nói cho chính xác thì đây là nồi mỳ ống, không phải nồi tôm hùm - Katherine trỏ cái giá hấp cô vừa nhấc ra khỏi nồi và đặt lên bàn bếp bên cạnh kim tự tháp.

Mình ngớ ngẩn thật! Món mỳ luộc sẽ giúp chúng ta giải mã kim tự tháp à?

Katherine không để ý đến câu nói ấy, giọng cô nghiêm túc.

- Tôi tin chắc rằng anh cũng biết, có một lý do mang tính lịch sử và biểu tượng khiến Hội Tam điểm chọn số 33 làm cấp độ cao nhất của mình.

- Dĩ nhiên tôi biết, - Langdon đáp.

Thời Pythagoras, khoảng sáu thế kỷ trước Công nguyên, truyền thống số bí thuật(96) tôn 33 làm số cao nhất trong tất cả các Số Chủ. Nó là con số thần thánh, tượng trưng cho Chân lý Thiêng liêng. Truyền thống này tồn tại trong Hội Tam điểm và nhiều nơi khác. Không phải ngẫu nhiên mà các tín đồ Thiên Chúa giáo được dạy rằng Jesus bị câu rút ở tuổi 33, mặc dù chẳng có bằng chứng lịch sử xác đáng nào. Người ta còn nói: khi kết hôn với Mẹ Đồng trinh Mary, Joseph 33 tuổi; Jesus có 33 phép màu; tên của Chúa trời được nhắc đến 33 lần trong Sáng thế ký; rồi theo Hồi giáo, tất cả cư dân thiên đàng mãi mãi tuổi 33... đó đều không phải là ngẫu nhiên.

Katherine nói:

- Ba mươi ba là con số thiêng trong nhiều truyền thống thần bí.

- Đúng vậy - Langdon vẫn chưa tìm ra mối liên hệ giữa chuyện này với nồi mỳ ống.

- Hẳn anh không lấy làm lạ nếu một nhà giả kim kiêm hội viên Thập tự Hoa hồng kiêm tín đồ chủ nghĩa thần bí như Isaac Newton cũng coi số 33 là đặc biệt.

- Tôi không lạ lẫm gì - Langdon đáp - Newton say mê số bí thuật, tiên tri, chiêm tinh, nhưng cái đó...

- Tất cả được tiết lộ ở cấp độ 33.

Langdon móc chiếc nhẫn của Peter ra khỏi túi, đọc dòng chữ khắc rồi lại liếc nhìn nồi nước.

- Xin lỗi, tôi vẫn chưa hiểu.

Robert, hồi tối cả hai chúng ta đều cho rằng "cấp độ 33" là nói đến cấp độ Hội Tam điểm. Song khi xoay cái nhẫn lệch đi 33 độ, hộp đựng biến đổi và trở thành một cây thập tự. Tới lúc đó, chúng ta mới nhận ra từ độ được dùng theo một nghĩa khác.

- Phải. Độ đo góc.

- Chính xác. Nhưng độ còn một nghĩa thứ ba nữa.

Langdon nhìn nồi nước trên bếp.

- Nhiệt độ.

- Chính xác? - Katherine đồng ý - Nó hiện hiện trước mặt chúng ta suốt cả buổi tối. "Tất cả được tiết lộ ở 33 độ". Nếu đẩy nhiệt độ của kim tự tháp lên mức 33... chưa chừng nó sẽ tiết lộ điều gì đó.

Langdon biết Katherine Solomon cực kỳ thông minh, nhưng dường như cô đã quên một chi tiết khá hiển nhiên.

- Nếu tôi không lầm thì 33 độ gần ngưỡng đóng băng(97) rồi, chẳng lẽ ta lại cho kim tự tháp vào tủ lạnh?

Katherine mỉm cười.

- Không đâu, vì chúng ta tuân theo công thức nấu ăn của nhà giả kim vĩ đại kiêm hội viên Thập tự Hoa hồng thần bí, người đã ký tên Jeova Sanctus Unus lên các tài liệu của mình.

Isaacus Newtonuus viết cả công thức nấu ăn à?

- Robert, nhiệt độ là chất xúc tác giả kim cơ bản, và không phải lúc nào cũng được đo bằng thang Fahrenheit hay Celsius. Có những thang nhiệt độ lâu đời hơn, một trong số đó là phát minh của Isaac...

- Thang nhiệt Newton! - Langdon kêu lên, nhận ra Katherine nói đúng.

- Phải! Isaac Newton sáng chế ra một hệ thống định lượng nhiệt độ dựa hoàn toàn vào các hiện tượng tự nhiên. Nhiệt độ băng tan chính là điểm gốc của Newton, ông gọi nó là "độ số 0" - Cô thăm dò - Nhiệt độ nước sôi là nhân tố chính của mọi quy trình giả kim, tôi nghĩ anh đã đoán ra mức ông ấy gán cho nó rồi?

- Ba mươi ba.

- Vâng, 33! Độ 33. Trên thang nhiệt Newton, nhiệt độ của nước sôi là 33 độ. Tôi nhớ đã từng hỏi Peter tại sao Newton lại chọn con số đó. Sự lựa chọn nghe chừng hơi ngẫu nhiên. Nước sôi là quy trình giả kim căn bản nhất, mà ông ấy lại chọn con số 33? Sao không phải là 100? Sao không phải là một cái gì đó tao nhã hơn? Anh tôi giải thích rằng, với một người theo chủ nghĩa thần bí như Isaac Newton, không con số nào tao nhã hơn 33.

Tất cả được tiết lộ ở độ 33. Langdon liếc nồi nước rồi đưa mắt sang kim tự tháp.

- Ngọn tháp này được làm bằng đá hoa cương và vàng đặc. Chị quả thực cho rằng nước sôi đủ nóng để làm nó biến đổi ư?

Nhìn nét cười trên gương mặt Katherine. Langdon hiểu ra cô đang nắm vững điều gì đó mà anh chưa biết. Rất tự tin, cô tiến lại gần bàn bếp, nhấc kim tự tháp bằng đá hoa cương cùng chóp vàng và đặt cả vào giá hấp. Sau đó, cô cẩn thận hạ nó xuống nồi nước đang sôi sùng sục.

- Chúng ta cùng xem nhé!

***

Bên trên Đại Giáo đường Quốc gia, viên phi công CIA cho trực thăng chuyển sang chế độ lơ lửng tự động và quan sát toàn bộ vòng ngoài toà nhà cùng các khoảnh sân. Không có dấu hiệu chuyển động.

Thiết bị tầm nhiệt không thể xuyên qua tường đá nhà thờ, nên anh ta không biết đồng đội mình đang làm gì bên trong, nhưng nếu có ai đó tìm cách lọt ra ngoài, thiết bị nhiệt sẽ phát giác được ngay.

60 giây sau, một thiết bị cảm biến nhiệt chợt phát tín hiệu. Cũng hoạt động theo cùng nguyên tắc với các hệ thống an ninh gia đình, thiết bị dò nhiệt chuyên phát hiện độ chênh lệch lớn về nhiệt độ.

Thông thường điều này đồng nghĩa với việc một hình người di chuyển qua một khoảng trống có nhiệt độ thấp hơn thân nhiệt, nhưng lần này trên màn hình lại xuất hiện một thứ giống đám mây, cho thấy một mảng khí nóng đang bay là là qua bãi cỏ. Viên phi công mau chóng nhận ra nguồn nhiệt là một cái lỗ thông khí bên hông Chủng viện Nhà thờ lớn.

Chuyện thường, anh ta nghĩ bụng, những dạng biến thiên nhiệt độ kiểu này rất phổ biến. Chắc ai đó đang nấu ăn hoặc giặt giũ. Nhưng vừa định quay đi, anh ta bỗng nhận thấy có điều bất ổn: Không có xe hơi đậu trong bãi và không hề có ánh đèn ở bất kỳ đâu trong toà nhà.

Viên phi công nghiên cứu hệ thống hình ảnh trên chiếc UH-60 một lúc khá lâu sau đó anh ta gọi bộ đàm cho đội trưởng.

- Simkins, chắc chẳng có gì, nhưng...

***

- Chỉ số nhiệt nóng sáng? - Langdon phải thừa nhận phương pháp của Katherine quả là thông minh.

- Khoa học thường thức ấy mà, - Katherine nói - Các chất khác nhau nóng sáng ở những nhiệt độ khác nhau. Chúng ta gọi đó là điểm báo nhiệt. Khoa học luôn phải sử dụng những điểm báo này.

Langdon đăm đăm nhìn ngọn tháp và cái chóp chìm trong nước.

Hơi nước bắt đầu bốc cao trên nồi nước sôi sùng sục, tuy vậy Langdon không cảm thấy mảy may hy vọng. Anh liếc đồng hồ, tim bỗng đập rộn lên: đã 11 giờ 45 phút đêm.

Chị tin rằng sẽ có gì đó phát sáng khi nó nóng lên à?

- Không phải là phát sáng, Robert ạ. Mà là nóng sáng. Khác biệt rất lớn đấy. Nóng sáng gây ra do sức nóng và chỉ xảy ra ở một nhiệt độ cụ thể. Chẳng hạn, khi tôi thép thanh, các nhà sản xuất thép thường phun lên đó một lớp phủ trong suốt nóng sáng ở một nhiệt độ định sẵn. Nhờ đó họ sẽ biết khi nào thì các thanh thép hoàn thiện. Anh nhớ cái nhẫn tâm trạng không? Chỉ cần đeo nó vào ngón tay, thân nhiệt sẽ làm nó đổi màu.

- Katherine, kim tự tháp này ra đời vào thế kỷ XIX? Một nghệ nhân có thể chế tạo các khớp nối ẩn kín trong một hộp đá, nhưng họ lấy đâu ra chất phủ nhiệt trong suốt vào thời ấy?

- Có đấy! - Katherine đáp, ngong ngóng nhìn cái kim tự tháp đang chìm trong nước - Các nhà giả kim sơ khai thường xuyên sử dụng phốt pho hữu cơ làm điểm báo nhiệt. Người Trung Quốc sản xuất pháo hoa màu sắc rực rỡ, và thậm chí người Ai Cập... - Katherine bỗng im bặt, chăm chú nhìn xuống nồi nước sôi.

- Sao vậy? - Langdon dõi theo ánh mắt cô, nhưng chẳng phát hiện được gì cả.

Katherine cúi hẳn xuống, nhìn chăm chú hơn. Đột nhiên, cô quay người và chạy băng qua bếp ra phía cửa.

- Chị định đi đâu thế? - Langdon gọi to.

Katherine dừng phắt lại bên công tắc đèn bếp, tắt nó đi. Toàn bộ đèn cùng quạt khói ngừng hoạt động, khiến cả gian phòng chìm vào bóng tối và sự im lặng hoàn toàn. Langdon quay lại phía kim tự tháp và căng mắt nhìn cái chóp ngập nước dưới màn hơi mù mịt. Lúc Katherine trở về bên cạnh anh. Langdon bỗng há hốc miệng, hầu như không tin nổi vào mắt mình.

Đúng như Katherine dự đoán, một phần nhỏ của cái chóp kim loại bắt đầu sáng lên trong làn nước. Các con chữ xuất hiện, càng lúc càng sáng rõ khi nhiệt độ nước tăng lên.

- Ký tự! - Katherine thì thào.

Langdon gật đầu, chết lặng đi. Những từ ngữ sáng rực đang hiện dần ngay bên dưới dòng chữ khắc trên cái chóp. Rành rành chỉ có ba từ tuy chưa xác định được ý nghĩa của những từ ấy, Langdon đã băn khoăn tự hỏi liệu chúng có tiết lộ mọi điều mà họ đang mong đợi suốt tối nay không. Kim tự tháp là một bẩn đồ thực sự. Cha Galloway đã nói như vậy, và nó chỉ tới một địa điểm có thật. Đợi các chữ cái sáng rõ hẳn, Katherine tắt bếp, và nước từ từ ngừng sủi bọt. Cái chóp lúc này hiện ra mồn một bên dưới mặt nước phẳng lặng.

Giờ đã có thể đọc được ba từ phát sáng nọ.

Chú thích:

(95) Daniel Boulud (sinh ngày 25-3-1955 tại Saint-Pierre de Chandieu, Pháp) là một đầu bếp kiêm chủ nhà hàng nổi tiếng với nhiều nhà hàng ở New York City Las Vegas. Palm Beach, Miami. Vancouver và Bắc Kinh. Ông nổi tiếng nhất với nhà hàng mang tên mình, Daniel, tại New York City - ND.

(96) Số bí thuật hiện diện trong nhiều hệ thống, truyền thống hay tín điều về mối quan hệ bí truyền giữa các con số và các sự vật hay sinh vật. Số bí thuật rất phổ biến với các nhà toán học cổ đại, như Pythagoras - ND.

(97) Lưu ý độc giả, ở đây có sự khác biệt về thang nhiệt độ. Các nước Âu-Mỹ sử dụng thang nhiệt độ Fahrenheit thay vì thang độ Celsius như chúng ta. Vì thế 33 độ F tương đương 0,5556 độ C - ND

Chương 90

Langdon và Katherine đứng bên nồi nước, trong ánh sáng lờ mờ của gian bếp và trân trối ngó chóp vàng đã biến đổi dưới mặt nước. Trên một mặt chóp, một thông điệp nóng sáng đang hiện ra lung linh.

Langdon đọc nội dung mà không dám tin vào mắt mình. Anh biết rõ người ta vẫn đồn đại kim tự tháp tiết lộ một địa điểm cụ thể... nhưng anh chưa bao giờ hình dung được rằng địa điểm ấy lại cụ thể đến mức này.

- Một địa chỉ phố. - Langdon thì thào, vẫn chưa nguôi sững sờ.

Katherine cũng kinh ngạc không kém.

- Tôi không biết chỗ đó, anh có biết không?

Langdon lắc đầu. Quảng trường Franklin là một trong những khu vực cổ của Washington, nhưng địa chỉ này rất lạ. Langdon nhìn đỉnh chóp, và đọc xuôi xuống toàn bộ nội dung

Bí mật giấu

trong Tổ Chức

Tám Quảng trường Franklin

Không lẽ có trụ sở một Tổ chức nào đó ở Quảng trường Franklin?

Phải chăng có một toà nhà chứa lối vào cầu thang xoắn ốc dẫn xuống lòng đất sâu?

Langdon không biết thực tế địa chỉ đó có chôn giấu thứ gì hay không. Quan trọng là anh và Katherine đã giải mã xong kim tự tháp, thu được thông tin cần thiết để thương thuyết đòi thả Peter.

Cũng sắp tới giờ rồi.

Mấy chiếc kim dạ quang trên đồng hồ Chuột Mickey của Langdon cho biết còn chưa đầy 10 phút nữa là tới nửa đêm.

- Gọi điện đi, - Katherine trỏ chiếc điện thoại trên tường nhà bếp - Nhanh lên?

Thời khắc này đến quá đột ngột khiến Langdon thảng thốt, và anh có phần do dự.

- Chị chắc là nên gọi điện chứ?

- Tôi rất chắc chắn.

- Tôi sẽ không hé lộ bất kỳ điều gì với hắn cho tới khi biết rõ là Peter an toàn.

- Tất nhiên. Anh nhớ số chứ?

Langdon gật đầu và lần mò tới chỗ điện thoại. Anh nhấc ống nghe và quay số di động của gã kia. Katherine cũng bước tới và ghé đầu cạnh anh để cùng nghe. Đường dây bắt đầu có tín hiệu. Langdon chuẩn bị tinh thần đón nhận giọng nói thì thào ma quái của gã đàn ông đã lừa anh chập tối hôm nay.

Cuối cùng, máy cũng thông.

Nhưng không ai đánh tiếng. Không một giọng nói, chỉ có tiếng thở ở đầu dây bên kia.

Langdon chờ đợi chốc lát, cuối cùng đành mở lời.

- Tôi đã có thông tin anh cần, nhưng nếu anh muốn có nó, anh phải giao Peter cho chúng tôi.

- Ai đấy? - giọng phụ nữ đáp.

Langdon giật nảy mình.

- Tôi là Robert Langdon, - anh máy móc đáp, nhất thời nghĩ rằng mình quay nhầm số - Bà là ai?

- Tên ông là Langdon? - giọng người phụ nữ đầy ngạc nhiên - ở đây có người đang hỏi ông.

Cái gì?

- Xin lỗi, bà là ai thế?

- Sĩ quan Paige Montgomery thuộc bộ phận An ninh ưu tiên - Giọng người phụ nữ run run - Có lẽ ông giúp được chúng tôi chuyện này. Khoảng một giờ trước, đồng nghiệp của tôi nhận được cuộc gọi 911 về khu vực Kalorama Heights... hình như là một vụ bắt cóc con tin. Tôi mất liên lạc với cô ấy nên tôi gọi hỗ trợ và đến kiểm tra khu nhà, rồi tìm thấy đồng nghiệp chết ở sân sau. Chủ nhà đã biến mất, cho nên chúng tôi phá cửa vào. Điện thoại di động đang đổ chuông trên bàn tiền sảnh, và tôi...

- Các vị vào trong rồi ư? - Langdon hỏi lại.

- Phải, và tin báo đến 911... là đúng - người phụ nữ lắp bắp - Xin lỗi nếu tiếng tôi hơi run, đồng nghiệp của tôi vừa chết, và chúng tôi tìm thấy một người đàn ông bị giam ở đây. Tình trạng của ông ấy rất xấu chúng tôi đang gắng trợ giúp. Ông ấy muốn gặp hai người, tên là Langdon và Katherine.

- Đó là anh trai tôi! - Katherine buột miệng nói vào ống nghe, cô ngả đầu lại gần Langdon hơn - Chính tôi đã gọi cho 911! Anh ấy có ổn không?!

- Nói thật, thưa bà, ông ấy... - Giọng người phụ nữ vấp váp - Tình hình tệ lắm. Ông ấy mất bàn tay phải...

- Làm ơn, - Katherine giục - Tôi muốn nói chuyện với anh ấy!

- Người của tôi đang cấp cứu. Ông ấy cứ ngất đi tỉnh lại. Nếu các vị ở gần đây, các vị nên đến ngay. Rõ ràng là ông ấy muốn gặp các vị.

- Chúng tôi cách đó khoảng sáu phút đi đường! - Katherine nói.

- Vậy tôi khuyên các vị nên nhanh lên - Có thanh âm nghèn nghẹt ở phía sau, rồi người phụ nữ lại lên tiếng - Xin lỗi, người ta đang cần tôi. Các vị cứ đến đi, chúng ta sẽ nói chuyện sau.

Đường dây ngắt.

Chương 91

Langdon và Katherine lao vội lên cầu thang tầng hầm và chạy xuống hành lang tối om để tìm lối ra đằng trước. Không còn nghe thấy tiếng cánh quạt trực thăng trên đầu nữa, Langdon cảm thấy tràn trề hy vọng rằng họ có thể thoát ra mà không bị phát giác và tìm đường tới Kalorama Heights để gặp Peter.

Người ta đã tìm thấy ông ấy. Peter vẫn còn sống.

Ba mươi giây trước, sau khi gác máy kết thúc cuộc nói chuyện với nữ nhân viên an ninh, Katherine vội vã vớt kim tự tháp và cái chóp bốc hơi ngùn ngụt ra khỏi nồi, rồi cứ để nó chảy nước ròng ròng như thế mà thả luôn vào túi Langdon. Bây giờ anh vẫn cảm nhận được hơi nóng của nó phả ra qua lớp da.

Niềm vui tìm thấy Peter tạm thời lấn át mọi mong muốn suy luận thêm về thông điệp trên cái chóp - Tám Quảng trường Franklin - nhưng chỉ cần đến được chỗ Peter, lo gì không có thời gian cho việc đó.

Khi vòng qua góc tường chỗ đầu cầu thang, Katherine dừng lại chốc lát và trỏ vào phòng khách phía bên kia sảnh. Qua ô cửa sổ xây lồi ra ngoài, Langdon trông thấy một chiếc trực thăng đen bóng im lìm đỗ trên bãi cỏ. Viên phi công đứng một mình bên máy bay, quay lưng lại phía họ và đang nói chuyện trên bộ đàm. Gần đó còn có một chiếc Escalade đen lắp kính màu.

Langdon và Katherine di chuyển trong bóng tối vào phòng khách, nhòm qua cửa sổ xem còn thành viên nào của đội đặc vụ nữa không.

May thay, cả bãi cỏ rộng mênh mông bên ngoài Đại Giáo đường vắng tanh vắng ngắt.

- Chắc là họ ở bên trong nhà thờ, - Langdon đoán.

- Không phải thế đâu, - một giọng nói trầm trầm vang lên phía sau.

Langdon và Katherine quay phắt lại để xem ai vừa lên tiếng. Ngay ở ngưỡng cửa phòng khách, hai bóng người mặc áo đen đang chĩa súng có ống ngắm la-de vào họ. Langdon còn nhìn rõ đốm đỏ sáng rực nhảy nhót trên ngực anh.

- Rất vui được gặp lại ông, Giáo sư, - một giọng nói gắt gỏng quen thuộc vang lên. Đám đặc vụ tách ra, và bóng dáng nhỏ thó của Giám đốc Sato thản nhiên bước vào, băng qua phòng khách và dừng lại ngay trước mặt Langdon - Tối nay ông đã đưa ra những lựa chọn không hợp lý chút nào.

- Cảnh sát đã tìm thấy Peter Solomon,- Langdon buộc lòng phải lên tiếng - ông ấy đang rất nguy kịch, nhưng vẫn còn sống. Mọi chuyện kết thúc rồi.

Sato không để lộ ra rằng liệu bà ta có ngạc nhiên trước thông tin ấy không. Bà bước về phía Langdon và chỉ dừng lại khi còn cách anh vài phân, ánh mắt vẫn hết sức điềm tĩnh.

- Giáo sư, tôi dám quả quyết với ông rằng, chuyện này chưa đâu vào đâu để mà kết thúc cả. Bây giờ cảnh sát có nhập cuộc thì mọi việc chỉ tổ nghiêm trọng thêm. Như tôi đã nói hồi tối, đây là một tình huống cực kỳ tế nhị. Lẽ ra ông đừng nên bỏ chạy cùng với cái kim tự tháp thì hơn.

- Thưa bà. - Katherine buột miệng - tôi cần gặp anh trai tôi. Bà cứ việc lấy kim tự tháp, nhưng bà phải để...

- Tôi phải? - Sato hỏi vặn, quay ngoắt sang Katherine - Chắc cô là cô Solomon? - Bà ta nhìn Katherine với đôi mắt rực lửa rồi ngoảnh lại bảo Langdon - Đặt cái túi da lên bàn.

Langdon liếc nhanh hai đốm la-de trên ngực mình. Anh thả túi xuống bàn cà phê. Một đặc vụ thận trọng tiến lại, mở khoá và vạch hai vành túi. Đám hơi nước bị giữ bên trong liền phà ra ngoài. Tay đặc vụ chĩa ngọn đèn vào lòng túi, chăm chú quan sát một lúc khá lâu vẻ lúng túng, sau đó gật đầu với Sato.

Giám đốc OS bước tới và ngó vào cái túi. Kim tự tháp cùng cái chóp ướt sũng lấp loáng trong quầng sáng của ngọn đèn pin. Sato cúi xuống, nhìn thật sát cái chóp vàng. Langdon nhận ra là bà ta mới chỉ trông thấy nó trên bản chụp X quang.

- Chữ khắc - Sato lục vấn - Nó có ý nghĩa gì không? "Bí mật giấu trong Tổ Chức à?

- Chúng tôi không dám chắc, thưa bà.

- Tại sao kim tự tháp lại nóng bốc hơi thế này?

- Chúng tôi thả nó vào nước sôi, - Katherine nói không chút do dự - Đó là một phần của quy trình giải mã. Chúng tôi sẽ thuật lại tất cả mọi chuyện, nhưng hãy để chúng tôi đi gặp Peter. Anh ấy đã trải qua...

- Các vị luộc kim tự tháp ư? - Sato hỏi lại.

- Tắt đèn pin đi. - Katherine nói - Hãy quan sát cái chóp. Có thể bà vẫn còn nhìn được đấy.

Tay đặc vụ tắt đèn. Sato quỳ xuống trước cái chóp. Từ chỗ đứng của mình, Langdon thấy nội dung trên cái chóp vẫn còn sáng lờ mờ.

- Tám Quảng trường Franklin ư? - Sato nói, giọng ngạc nhiên.

Phải, thưa bà. Mấy chữ đó được viết bằng thứ sơn nóng sáng hoặc một loại tương tự. Độ 33 thực ra là...

- Thế còn địa chỉ? - Sato hỏi - Gã kia cần thông tin này đây phải không?

- Phải, - Langdon đáp - Hắn tin rằng kim tự tháp là tấm bản đồ ghi địa điểm, là chìa khoá mở vào một kho tàng, và kho tàng đó là những Bí mật cổ xưa.

Sato lại quan sát cái chóp, vẻ hoài nghi lộ rõ.

- Hãy cho tôi biết - bà ta hỏi, giọng pha đôi chút sợ hãi - các vị đã liên lạc với gã đàn ông ấy chưa? Đã đưa cho gã địa chỉ này chưa?

- Chúng tôi đã thử - Langdon kể lại nội dung cuộc gọi tới số di động của gã bắt cóc.

Trong khi nghe Langdon nói, Sato liên tục đưa lưỡi liếm hàm răng vàng khè. Nghe xong, bà ta quay sang một đặc vụ, hạ thấp giọng đầy kiềm chế, mặc dù bộ dạng gần như điên tiết trước diễn biến mới này.

- Đưa ông ta vào đi. Ông ta ngồi trong chiếc SUV ấy.

Tay đặc vụ gật đầu và thông báo vào máy bộ đàm:

- Đưa ai vào cơ - Langdon hỏi.

- Người duy nhất có khả năng dàn xếp tình trạng lộn xộn khốn kiếp mà các vị vừa gây ra!

- Lộn xộn gì chứ? - Langdon vặc lại - Bây giờ Peter đã được an toàn, mọi việc...

- Lạy Chúa! - Sato nổi khùng - Vấn đề không nằm ở Peter! Bên Điện Capitol tôi đã cố giải thích như vậy, nhưng ông chọn cách chống đối chứ không phải hợp tác với tôi! Rồi ông làm rối beng mọi việc. Ông đã cắt đứt liên lạc với gã kia khi tự phá điện thoại di động của mình (mà lúc đó chúng tôi đang lần theo ông). Địa chỉ này, mặc xác nó ở đâu, cái địa chỉ mà ông vừa phát hiện này là cơ hội duy nhất để chúng tôi bắt thằng điên ấy. Tôi cần ông chơi trò chơi của hắn, đưa địa chỉ cho hắn, như thế chúng tôi mới biết phải tóm hắn ở chỗ quái quỷ nào!

Langdon chưa kịp phản ứng thì Sato đã trút cơn thịnh nộ còn lại lên Katherine.

- Còn cô, cô Solomon! Cô biết chỗ thằng điên này sống phải không? Tại sao cô không nói với tôi mà lại đi gọi một kẻ tuần tra tới nhà hắn? Cô không thấy là cô đã huỷ hoại mọi cơ hội tóm hắn ở đó. Tôi rất mừng là anh trai cô được an toàn, nhưng để tôi nói cho cô rõ, tối nay chúng ta phải đối mặt với một tình thế gay go mà tác hại của nó không chỉ giáng xuống gia đình cô. Tác hại ấy sẽ ảnh hưởng đến toàn thế giới. Kẻ bắt cóc anh trai cô có sức mạnh rất ghê gớm, và chúng tôi cần tóm hắn ngay lập tức.

Khi Sato kết thúc bài diễn văn của mình thì cái bóng lịch lãm, dong dỏng cao của Warren Bellamy tiến ra khỏi bóng tối và bước vào phòng khách. Trông ông rúm ró, thâm tím và run bần bật... như thể vừa đi qua địa ngục.

- Warren! - Langdon đứng lên - ông ổn chứ?

- Không, - viên Kiến trúc sư đáp - Không ổn lắm.

- Ông biết chưa nhỉ? Peter an toàn rồi!

Bellamy gật đầu, mặt mũi đầy vẻ bàng hoàng, cứ như thể trên đời chẳng có gì đáng phải để ý cả.

- Có, tôi vừa được nghe cuộc đàm thoại của các vị. Tôi rất mừng.

- Warren, đang xảy ra chuyện quái gì vậy?

Sato cắt ngang:

- Các vị có thể nói chuyện sau một phút nữa. Ngay bây giờ, ông Bellamy sẽ liên hệ với gã điên kia và nói chuyện với hắn. Đúng như ông ấy đã thực hiện cả buổi tối nay.

Langdon chẳng hiểu ra sao.

- Tối nay Bellamy không hề liên lạc với gã kia! Gã thậm chí còn không biết Bellamy can dự vào việc này!

Sato quay sang Bellamy và nhướng mày.

Viên Kiến trúc sư thở dài.

- Robert, tôi không hoàn toàn trung thực với anh trong buổi tối hôm nay.

Langdon chỉ còn biết đứng ngây ra nhìn.

- Tôi nghĩ mình đã làm đúng... - Bellamy nói, đầy vẻ sợ hãi.

- Phải, - Sato xen vào - giờ ông sẽ làm đúng... và tốt nhất là tất cả chúng ta nên cầu Chúa để việc ông làm có tác dụng.

Như thể phụ hoạ cho giọng điệu vênh vang của Sato, chiếc đồng hồ trên mặt lò sưởi bắt đầu đổ chuông báo nửa đêm. Sato lôi ra một chiếc túi Ziploc đựng vài đồ vật và đẩy về phía Bellamy.

- Đồ đạc của ông đây. Điện thoại di động của ông chụp được ảnh chứ?

- Vâng, thưa bà.

- Tốt. Chụp cái chóp đi.

***

Mal'akh vừa nhận được tin nhắn của Warren Bellamy, thành viên Hội Tam điểm. Hồi tối gã đã phái ông ta tới Điện Capitol để hỗ trợ Robert Langdon. Bellamy, cũng như Langdon, đều muốn Peter Solomon còn sống trở về nên quả quyết với Mal'akh rằng ông sẽ giúp Langdon lấy và giải mã kim tự tháp. Suốt buổi tối, Bellamy đã gửi nhiều e-mail cập nhật thông tin tới điện thoại di động của gã.

Tin này sẽ thú vị đây. Mal'akh thầm nghĩ và mở tin nhắn.

...

Từ: Warren Bellamy

bị tách khỏi Langdon

nhưng cuối cùng cũng có thông tin anh

muốn, gửi kèm bằng chứng.

gọi lại để biết nốt phần còn thiếu.

- wb - một tệp đính kèm (jpeg)

...

Gọi lại để biết nốt phần còn thiếu à? Mal'akh mở tệp tin đính kèm, lòng đầy thắc mắc.

Tệp tin là một bức ảnh.

Vừa nhìn thấy bức ảnh. Mal'akh đã buột thở hổn hển, tim đập rộn lên vì phấn khởi. Trong ảnh là hình chụp cận cảnh một kim tự tháp bằng vàng nhỏ xíu. Cái chóp huyền thoại! Dòng chữ khắc trên bề mặt mang một thông điệp đầy hứa hẹn: Bí mật giấu trong Tổ Chức.

Mal'akh nhìn tiếp xuống dưới và đờ đẫn cả người. Cái chóp dường như đang phát sáng. Không tin nổi, gã chăm chú nhìn dòng chữ phát sáng lờ mờ và nhận ra rằng truyền thuyết hoàn toàn có thật: Kim tự tháp Tam điểm tự biến đổi để tiết lộ bí mật của nó với những người xứng đáng.

Mal'akh không biết quá trình biến đổi kỳ diệu này diễn ra như thế nào, và gã cũng chẳng quan tâm. Nội dung đang phát sáng rõ ràng chỉ tới một địa điểm cụ thể ở ngay thủ đô này, chính xác như lời đồn đoán. Quảng trường Franklin. Rủi thay, bức ảnh chụp cái chóp lại có cả ngón tay trỏ của Warren Bellamy, đặt rất khéo lên cái chóp để che đi một phần thông tin quan trọng.

Gọi lại để biết nốt phần còn thiếu. Giờ Mal'akh đã hiểu ý của Bellamy.

Viên Kiến trúc sư Điện Capitol đã hợp tác suốt buổi tối, nhưng bây giờ, ông ta lại chọn một lối chơi rất mạo hiểm.

Chương 92

Langdon, Katherine, và Bellamy ngồi chờ trong phòng khách Chủng viện cùng với Sato, dưới ánh mắt trông chừng của mấy đặc vụ CIA có vũ trang. Trên bàn cà phê trước mặt họ, túi da của Langdon vẫn để mở, chóp vàng nhô hẳn ra ngoài. Mấy chữ Tám Quảng trường Franklin đã nhoà hẳn, không lưu lại bằng chứng gì cho thấy chúng từng tồn tại.

Katherine đã năn nỉ Sato để cô đi gặp anh trai mình, nhưng Sato chỉ lắc đầu, mắt gắn chặt vào điện thoại di động của Bellamy. Nó nằm trên mặt bàn, vẫn chưa đổ chuông.

Tại sao Bellamy lại không nói thật với mình? Langdon thầm thắc mắc. Suốt buổi tối, viên Kiến trúc sư đã liên lạc với kẻ bắt cóc Peter, khẳng định với gã rằng Langdon đang giải mã kim tự tháp và công việc rất tiến triển. Đó là một mánh lừa, một cố gắng nhằm kéo dài thời gian cho Peter. Trên thực tế, Bellamy luôn cố công gắng sức để cản trở bất kỳ ai đe doạ tiết lộ bí mật của kim tự tháp. Nhưng bây giờ hình như ông ta lại đổi phe, sẵn sàng cùng Sato đem bí mật ấy ra mạo hiểm với hy vọng bắt được gã kia.

- Bỏ tay anh khỏi người tôi? - một giọng già nua vang lên trong sảnh - Tôi bị mù chứ không thiểu năng. Tôi thông thuộc đường lối ở chủng viện này mà!

Cha Galloway vẫn lớn tiếng phản đối trong lúc một đặc vụ CIA lôi ông vào phòng khách và buộc ông ngồi xuống ghế.

- Ai ở đây vậy? - Galloway hỏi, đôi mắt trống rỗng bắn ra những tia nhìn vô hồn - Lực lượng nghe chừng rất hùng hậu. Các vị can bao nhiêu người để giam giữ một ông già thế? Thật là...

- Chúng tôi có tất cả bảy người, - Sato lên tiếng - Có cả Robert Langdon. Katherine Solomon và huynh đệ Tam điểm của cha là Warren Bellamy.

Galloway sụp xuống, thái độ sừng sộ cũng xẹp luôn.

- Chúng tôi ổn mà, - Langdon trấn an - và cũng vừa biết tin Peter đã an toàn. Tình trạng của ông ấy rất xấu, nhưng đang được cảnh sát trợ giúp.

- Ơn Chúa, - Galloway nói - Thế còn...

Một âm thanh lạch cạch khá to khiến mọi người trong phòng bật dậy. Điện thoại di động của Bellamy rung bần bật trên bàn cà phê. Ai nấy im phăng phắc.

- Được rồi, ông Bellamy. - Sato nói - Đừng làm hỏng việc nhé. Ông biết cái giá phải trả rồi đấy.

Bellamy hít một hơi thật sâu và thở ra, đoạn ông cúi xuống nhấn nút loa ngoài để nhận cuộc gọi.

- Bellamy đây, - ông đáp, nói to vào chiếc điện thoại trên bàn.

Loa rột rẹt, phát ra tiếng thì thào nhẹ hẫng quen thuộc. Hình như gã nọ đang liên lạc bằng điện thoại mở loa ngoài trên xe hơi.

- Quá nửa đêm rồi đấy, ông Bellamy. Tôi sắp giúp Peter thoát khỏi nổi khổ ải của lão ta đây.

Sự im lặng ngột ngạt bao trùm căn phòng.

- Cho tôi nói chuyện với ông ấy.

- Không được đâu, - gã kia đáp - Chúng tôi đang đi xe. Lão bị trói ở trong cốp.

Langdon và Katherine đưa mắt nhìn nhau rồi lắc đầu ra hiệu cho mọi người. Hắn đánh lừa đấy! Hắn không còn giữ Peter nữa!

Sato làm dấu cho Bellamy tiếp tục.

- Tôi cần bằng chứng cho thấy Peter còn sống, - Bellamy nói - Tôi sẽ không đưa phần còn lại của...

- Đại Huynh trưởng của ông cần một bác sĩ. Đừng mất thời gian mặc cả nữa. Cho tôi biết số phố ở Quảng trường Franklin, và tôi sẽ đưa Peter tới đó cho ông...

- Tôi đã bảo anh là tôi muốn...

- Này! - gã kia quát lên - Hoặc tôi tắt máy và Peter Solomon sẽ chết ngay lập tức.

- Anh nghe tôi nói đây - Bellamy cương quyết - Nếu muốn phần còn lại của địa chỉ, anh phải chơi theo luật của tôi. Gặp tôi tại Quảng trường Franklin. Đưa Peter còn sống tới đó, tôi sẽ báo với anh số của toà nhà.

- Làm sao tôi biết được ông sẽ không dẫn nhà chức trách tới?

- Vì tôi không thể mạo hiểm lá mặt lá trái với anh. Mạng sống của Peter không phải là quân bài duy nhất anh có. Tôi biết thật sự cái gì được đem đặt cược tối nay.

- Ông nên hiểu - gã đàn ông đe doạ - nếu tôi hơi cảm thấy có ai khác ngoài ông ở Quảng trường Franklin, tôi sẽ đi thẳng, và ông không bao giờ còn tìm thấy dấu vết nào của Peter Solomon nữa. Dĩ nhiên... điều đó mới là nỗi lo vụn vặt nhất thôi.

- Tôi sẽ đến một mình, - Bellamy trả lời - Khi anh trao trả Peter, tôi sẽ giao ra mọi thứ anh cần.

- Trung tâm quảng trường nhé, - gã kia hẹn - Tôi sẽ phải mất tối thiểu hai mươi phút để tới đó. Ông nên cố đợi tôi.

Máy tắt.

Ngay lập tức, cả phòng huyên náo trở lại. Sato thét to các mệnh lệnh, vài đặc vụ vồ lấy bộ đàm và tiến thẳng ra cửa.

- Đi nào! Đi nào!

Giữa cảnh hỗn loạn, Langdon đưa mắt nhìn Bellamy, mong một lời giải thích về những việc đang thực sự diễn ra tối nay, nhưng ông già đã bị kéo thốc ra cửa.

- Tôi cần gặp anh Peter! - Katherine la lối - Các người phải để chúng tôi đi!

Sato bước lại gần Katherine.

- Tôi không phải làm bất kỳ việc gì cả, thưa cô Solomon. Thế đủ rõ chưa?

Katherine đứng sững tại chỗ, tuyệt vọng nhìn đôi mắt ti hí của Sato.

- Cô Solomon, ưu tiên hàng đầu của tôi là tóm được gã kia tại Quảng trường Franklin. Cô sẽ ngồi lại đây cùng với một người của tôi trong khi tôi đi thực hiện nhiệm vụ. Sau đó, chỉ sau đó mà thôi, chúng ta mới thu xếp cho anh trai cô.

- Bà quên mất một điều, - Katherine nói - Tôi biết chính xác gã này sống ở đâu. Chỉ mất đúng năm phút đi ngược lên khu Kalorama Heights, chúng ta sẽ tìm thấy bằng chứng giúp ích cho bà? Hơn nữa, bà nói rằng bà muốn giữ kín vụ này. Ai biết được Peter sẽ nói gì với nhà chức trách khi anh ấy tỉnh lại.

Sato bặm môi, rõ ràng đang cân nhắc ý kiến của Katherine. Bên ngoài, cánh quạt trực thăng bắt đầu quay. Giám đốc OS cau mày, quay sang bảo một nhân viên.

- Hartmann, anh lấy chiếc Escalade đưa cô Solomon và ông Langdon tới Kalorama Heights. Không được để Peter Solomon trao đổi với bất kỳ ai. Hiểu chưa?

- Rõ, thưa bà, - tay đặc vụ đáp.

- Tới nơi thì gọi cho tôi. Báo cáo những gì anh tìm thấy, và đừng để hai người này ra khỏi tầm mắt của anh.

Đặc vụ Hartmann mau mắn gật đầu, rút chìa khoá chiếc Escalade và tiến thẳng ra cửa.

Katherine bám sát anh ta.

Sato quay lại phía Langdon.

- Chúng ta sẽ tái ngộ sớm thôi, Giáo sư ạ. Hẳn ông coi tôi là kẻ thù, nhưng tôi dám khẳng định rằng không phải thế. Đến chỗ Peter ngay đi. Sự việc chưa kết thúc đâu.

Cha Galloway ngồi im lặng bên bàn cà phê, gần chỗ Langdon, ông đã mò được kim tự tháp trong chiếc túi da để ngỏ và đang lần tay khắp bề mặt còn nóng của khối đá.

Langdon hỏi:

- Cha, cha có đi gặp Peter không?

- Tôi chỉ làm vướng chân các vị thôi - Cha Galloway buông tay khỏi túi và kéo khoá bao lấy kim tự tháp - Tôi sẽ ở lại đây và cầu nguyện cho Peter phục hồi. Chúng ta có thể nói chuyện sau. Khi cho Peter xem kim tự tháp, anh nhắn giúp với anh ấy một câu hộ tôi nhé?

- Được ạ - Langdon xốc chiếc túi lên vai.

Galloway hắng giọng:

- Nhắn anh ấy rằng Kim tự tháp Tam điểm luôn giữ bí mật của nó... rất thành thật!

- Con không hiểu.

Ông già nháy mắt.

- Chỉ cần chuyển lời như vậy. Peter sẽ hiểu.

Nói xong, cha Galloway cúi đầu và lẩm nhẩm cầu nguyện.

Langdon để cha xứ lại và vội vã bước ra ngoài, lòng hết sức bối rối.

Katherine đã ngồi sẵn trên ghế trước chiếc SUV để chỉ đường cho tay đặc vụ. Langdon trèo lên ghế sau. Anh vừa mới đóng cửa thì chiếc xe khổng lồ đã lao vọt qua bãi cỏ, phóng thẳng về phía bắc, tới Kalorama Heights.

Chương 93

Quảng trường Franklin nằm ở góc tây bắc khu thương mại Washington, bao quanh là các phố K và 13. Nơi này tập trung nhiều toà nhà lịch sử, trong đó nổi tiếng nhất là Trường Franklin với sự kiện Alexander Graham Bell phát đi bức điện tín không dây đầu tiên trên thế giới vào năm 1880.

Từ đằng tây, một chiếc trực thăng UH-60 bay vút tới khoảng không bên trên quảng trường sau một hành trình kéo dài vài phút từ điểm xuất phát là Đại Giáo đường Quốc gia. Còn nhiều thời gian.

Sato nghĩ, đăm đăm nhìn xuống mặt đất phía dưới. Điều quan trọng nhất bây giờ là các đặc vụ phải kín đáo ổn định vị trí trước khi mục tiêu đến. Hắn nói rằng tối thiểu hai mươi phút nữa mới tới được đây.

Theo lệnh Sato, phi công cho máy bay treo đứng trên nóc toà nhà cao nhất trong khu vực. Đây là cao ốc Một Quảng trường Franklin nổi tiếng, một toà nhà văn phòng cao vút và rất uy tín, trên nóc có hai ngọn tháp vàng. Dĩ nhiên, việc đáp lên đây là trái pháp luật, nhưng chiếc trực thăng chỉ ở đó vài giây, phần nạng đuôi cũng chỉ chạm hờ vào nóc nhà rải sỏi. Khi tất cả đã nhảy xuống, phi công lập tức bay lên, lùi sang phía đông rồi cho trực thăng bay tới "độ cao câm" và kín đáo hỗ trợ từ bên trên.

Sato đứng đợi trong khi nhóm tác chiến thu thập đồ đạc và chuẩn bị cho Bellamy thực thi nhiệm vụ của ông. Kiến trúc sư vẫn còn choáng váng vì tệp tin trên máy tính bảo mật của Sato. Như tôi đã nói... một vấn đề an ninh quốc gia. Bellamy nhanh chóng hiểu ý Sato và bây giờ đã hợp tác hoàn toàn.

- Tất cả đã xong, thưa bà, - Đặc vụ Simkins báo cáo.

Theo lệnh Sato, các đặc vụ hộ tống Bellamy băng qua nóc nhà, biến mất trong gian tum, đi thẳng xuống tầng trệt để vào vị trí của họ.

Sato bước tới mép toà nhà và nhìn xuống. Khu công viên hình chữ nhật đầy cây cối phía dưới phủ kín cả dãy phố. Có đủ phương tiên che chắn... Nhóm của Sato hoàn toàn hiểu rõ tầm quan trọng của việc tạo công cụ nguỵ trang mà không bị phát giác. Nếu mục tiêu cảm thấy họ hiện diện ở đây và quyết định bỏ chạy... bà Giám đốc thậm chí còn không muốn nghĩ đến điều đó.

Gió ở trên này khá giật và lạnh. Sato ôm vòng tay quanh mình và trụ hai bàn chân thật vững để tránh bị xô ra mép tường. Từ điểm cao nhìn xuống, Sato thấy Quảng trường Franklin nhỏ hơn bình thường, nhà cửa cũng thưa thớt hơn. Bà tự hỏi toà nhà nào là số Tám Quảng trường Franklin, và đang nóng lòng chờ câu trả lời từ chuyên gia phân tích Nola.

Bellamy và các đặc vụ tái xuất hiện, trông như bầy kiến túa ra từ bóng đổ của những tàng cây. Simkins bố trí cho Bellamy một vị trí quang đãng gần trung tâm công viên vắng vẻ. Sau đó anh ta và đồng đội tản ra xung quanh, khuất khỏi tầm nhìn, vài giây trôi qua, chỉ còn lại mình Bellamy đi tới đi lui, run rẩy trong ánh sáng của một ngọn đèn đường gần trung tâm công viên.

Sato thờ ơ quan sát.

Bà châm điếu thuốc và rít một hơi dài, tận hưởng cảm giác ấm áp thấm vào phổi. Hài lòng thấy mọi việc phía dưới đều đã đâu vào đấy, bà rời khỏi mép tường và chờ đợi hai cú điện thoại: một của chuyên gia phân tích Nola và một của đặc vụ Hartmann lúc này đang tới Kalorama Heights.

Chương 94

Chậm lại. Langdon bấu chặt lấy băng ghế sau của chiếc Escalade trong khi nó bay qua một góc rẽ, gần như chỉ lướt bằng hai bánh xe.

Đặc vụ CIA Hartmann hoặc rất hào hứng được thể hiện tài nghệ lái xe với Katherine, hoặc anh ta được lệnh phải tới gặp Peter Solomon trước khi ông hồi sức đủ để nói những điều không nên nói với cơ quan chức năng địa phương.

Phóng xe với tốc độ cao bất chấp đèn đỏ ở khu Embassy Row đã khá phiền phức nhưng lúc này họ còn đang phóng như bay qua khu dân cư ngoằn ngoèo ở Kalorama Heights. Katherine đã tới tư gia gã kia vào đầu giờ chiều, nên lúc này cứ liên tục hét to chỉ hướng cho xe chạy.

Cứ mỗi khúc quanh, chiếc túi da dưới chân Langdon lại xô lên tụt xuống. Langdon nghe rõ tiếng lanh canh của cái chóp, rành rành là nó đã rơi ra khỏi đỉnh kim tự tháp và hiện đang nảy tưng tưng dưới đáy túi. Sợ cái chóp bị hư hại, anh lùa tay vào túi. Chóp vàng vẫn ấm, nhưng dòng chữ toả sáng giờ đã mờ hẳn và biến mất, chỉ còn lại dòng chữ khắc ban đầu:

Bí mật giấu trong Tổ chức

Đang định đặt cái chóp vào ngăn bên, Langdon chợt nhận thấy bề mặt nhẵn nhụi của nó có phủ nhiều hạt trắng trơn nhỏ xíu. Bối rối, anh cố gắng phủi đi, nhưng chúng bám rất chặt và cứ chuội khỏi tay anh... giống như nhựa. Gì thế nhỉ?Langdon nhận ra bề mặt kim tự tháp đá cũng phủ kín những đốm trắng nhỏ xíu. Langdon dùng móng tay cạy ra một ít, vê vê giữa các đầu ngón tay.

- Sáp ư? - anh buột miệng.

Katherine ngoái lại.

- Chuyện gì vậy?

- Có một ít sáp phủ khắp bề mặt kim tự tháp và cái chóp. Tôi không hiểu nổi. Thứ đó từ đâu ra ấy nhỉ?

- Trong túi anh có thứ gì bằng sáp chăng?

- Tôi không nghĩ thế.

Xe vòng qua một góc phố. Katherine trỏ tay qua kính chắn gió và ngoảnh sang bảo đặc vụ Hartmann.

- Kia kìa! Chúng ta tới rồi.

Langdon ngước lên và nhìn thấy ngọn đèn xoay tròn của một chiếc xe an ninh đỗ trên lối đi trước nhà. Cánh cổng trên lối đi ấy đã kéo sẵn sang bên, đặc vụ Hartmann liền cho chiếc SUV lao thẳng vào bên trong.

Đây là một biệt thự lộng lẫy. Tất cả đèn đóm bên trong đều sáng choang, cửa trước mở toang. Khoảng nửa tá xe cộ đỗ bừa bãi trên lối đi và cả bãi cỏ, chắc hẳn đều phóng đến đây rất vội vã. Một vài chiếc còn nổ máy, đèn pha bật sáng, hầu hết đều rọi vào nhà, nhưng có một chiếc rọi xiên đi, khiến những người mới đến loá mắt.

Đặc vụ Hartmann cho xe dừng gấp trên bãi cỏ, bên cạnh một chiếc xe bốn chỗ màu trắng dán đề can rực rỡ: AN NINH ƯU TIÊN. Mấy ngọn đèn xoay tròn và quầng ánh sáng chói loà rọi thẳng vào mặt khiến họ chẳng nhìn rõ gì cả.

Katherine lập tức nhảy ra và lao vội lên nhà. Langdon xốc túi lên vai mà không kịp kéo khoá lại. Theo sát Katherine, anh băng qua bãi cỏ lên cửa trước mở rộng. Có tiếng nói vọng ra từ bên trong. Phía sau Langdon, chiếc SUV kêu bíp bíp khi đặc vụ Hartmann khoá xe và vội vã bước theo họ.

Katherine chạy hộc tốc lên các bậc cấp, lao qua cửa chính và biến mất sau lối vào. Langdon bước qua ngưỡng cửa ngay sau cô và kịp nhìn thấy Katherine đã băng qua phòng chờ và đang phóng xuống hành lang chính dẫn về phía có tiếng nói. Trước mặt cô, ở cuối sảnh, có một chiếc bàn ăn, một phụ nữ mặc đồng phục an ninh đang ngồi quay lưng lại phía họ.

- Bà sĩ quan? - Katherine kêu lên và chạy vội tới - Peter Solomon đâu?

Langdon tất tả chạy theo, nhưng ngay lúc ấy, mắt anh chợt bắt được một chuyển động khác lạ. Qua cửa sổ phòng khách. anh trông thấy cánh cổng phía bên trái mình đang đóng lại. Quái lạ. Mắt anh còn nhận thấy một chi tiết khác... chi tiết anh đã sơ suất bỏ qua do bị những ngọn đèn xoay và ánh sáng chói chang làm loá mắt lúc mới tới. Nửa tá xe hơi đỗ bừa bãi trên lối vào chẳng có vẻ gì giống xe cảnh sát hay các phương tiện cấp cứu như Langdon vẫn hình dung.

Toàn là Mercedes... Hummer... rồi Telsa Roadster! Đúng lúc ấy. Langdon còn nhận ra tiếng ồn ào anh nghe thấy trong nhà không phải là gì khác hơn tiếng máy thu hình phía phòng ăn.

Langdon lập tức giảm tốc và thét với xuống hành lang.

- Katherine, khoan đã!

Nhưng khi quay lại, anh thấy Katherine không còn chạy nữa.

Cô đang chới với.

Chương 95

Katherine Solomon biết mình đang ngã... nhưng cô không hiểu nổi tại sao lại như vậy.

Cô đang lao xuống sảnh để chạy tới phòng ăn gặp nhân viên an ninh thì đột nhiên vấp phải một chướng ngại vật vô hình, cả người cô bổ nhào về phía trước rồi cứ thế ngã ra.

Giờ thì cô đang tiếp đất... và trong trường hợp này là một mặt sàn lát gỗ.

Katherine ngã sấp mặt, sức ép làm phổi cô chấn động. Phía trên cô, một giá mắc áo nặng nề chao đảo và đổ ụp xuống, suýt trúng người cô Katherine nhấc đầu lên, há hốc miệng để thở, cô bối rối nhận ra rằng nữ nhân viên an ninh ngồi trên ghế không hề cử động. Lạ hơn nữa, chân giá mắc áo hình như có buộc một sợi dây mảnh, căng ngang qua hành lang.

Sao trên đời này lại có kẻ...?

- Katherine! - Langdon thét to gọi cô. Katherine lật nghiêng mình để nhìn lại anh, máu trong người bỗng như đông cứng. Robert! phía sau anh! Katherine cố thét lên, nhưng hụt hơi, chỉ biết giương mắt hãi hùng nhìn Langdon lao bổ xuống sảnh đỡ cô, hoàn toàn không biết rằng đằng sau anh, Hartmann đang loạng choạng bước qua ngưỡng cửa, tay bịt chặt cổ họng. Máu phun ra qua các kẽ tay người đặc vụ khi anh lần đến chuôi chiếc tô vít dài thò ra ở cổ mình. - Hartmann đang chật chưỡng tiến bước thì kẻ tấn công xuất hiện.

Lạy Chúa... không!

Trần như nhộng trừ một thứ đồ lót lạ lùng trông chẳng khác gì manh khố, gã đàn ông kềnh càng rõ ràng đã nấp sẵn trong phòng chờ: Từ đầu tới chân, thân hình cuồn cuộn cơ bắp của gã phủ kín những hình xăm kỳ lạ. Cửa trước đang khép dần, gã đàn ông lao nhanh xuống sảnh, ngay sau Langdon.

Đặc vụ Hartmann ngã xuống sàn đúng lúc cánh cửa trước đóng sầm lại. Langdon giật mình xoay người, nhưng gã đàn ông xăm trổ đã tiến sát đến, gí một thiết bị vào lưng anh. Một quầng sáng chớp lên kèm theo tiếng điện xẹt sắc lạnh. Katherine thấy Langdon cứng đờ người. Hai mắt mở to trợn trừng, anh đổ ập về phía trước, ngã rầm xuống trong trạng thái tê liệt hoàn toàn. Người anh đập mạnh vào cái túi da, kim tự tháp bung ra sàn nhà.

Không buồn liếc mắt nhìn nạn nhân của mình, gã đàn ông xăm trổ bước qua Langdon và tiến thẳng tới chỗ Katherine. Cô bò lui vào phòng ăn, và va phải một cái ghế. Nữ nhân viên an ninh, vốn được đặt tựa lên ghế, lúc này mới lắc lư và rơi phịch xuống sàn chình ình ngay bên cạnh cô. Nét mặt vô hồn của người phụ nữ còn nhuốm đầy sợ hãi, miệng nhồi nùi giẻ.

Gã đàn ông to lớn bước tới chỗ Katherine trước khi cô có đủ thời gian phản ứng. Gã tóm lấy vai cô bằng một sức mạnh khủng khiếp.

Nét mặt gã, giờ không còn phủ lớp hoá trang nữa, quả là kinh khủng. Các cơ của gã gồng lên, Katherine bị đè sấp xuống như con búp bê vải. Một cái đầu gối nặng trịch đè lên lưng cô, nhất thời, Katherine tưởng đâu mình đã bị bẻ làm đôi. Gã đàn ông tóm lấy hai tay cô và kéo giật ra sau.

Lúc này, đầu nghiêng sang một bên và má áp xuống nền thảm, Katherine trông thấy Langdon, cơ thể anh vẫn co giật, mặt ngoảnh đi chỗ khác Cách đó một quãng, trên tiền sảnh, đặc vụ Hartmann nằm bất động.

Chất kim loại lạnh lẽo siết lấy cổ tay Katherine. Hoảng hốt nhận ra mình đang bị trói bằng dây thép, cô cố gắng vùng vẫy, nhưng hành động đó càng làm hai tay cô đau buốt.

- Loại dây này sẽ cứa đứt da bà nếu bà cử động, - gã đàn ông lên tiếng, hoàn tất việc trói chặt tay Katherine và chuyển xuống trói hai mắt cá chân cô cũng với thao tác thành thạo y như vậy.

Katherine đạp gã, và tên đàn ông nọ đấm mạnh vào phía sau đùi phải cô, khiến chân cô tê dại. Chỉ trong mấy giây, mắt cá chân cô đã bị trói nghiến.

- Robert! - Katherine cố sức bật ra tiếng gọi.

Langdon đang rên rỉ trên sàn hành lang. Anh nằm đè lên cái túi da, kim tự tháp đá nằm lật nghiêng gần phía đầu anh. Katherine nhận ra ngọn tháp là hy vọng cuối cùng của cô.

- Chúng tôi đã giải mã xong kim tự tháp - cô nói với kẻ tấn công - Tôi sẽ cho anh biết mọi điều!

- Phải, bà sẽ phải làm vậy - Nói đoạn, gã giật nùi giẻ trong mồm người phụ nữ đã chết và nhét mạnh vào miệng Katherine.

Cô như ngửi thấy mùi tử thần.

***

Cơ thể Robert Langdon giờ không còn là của anh nữa. Anh vẫn nằm im, tê dại và bất động, má áp xuống nền gỗ. Từng nghe nói đến loại súng gây choáng, anh biết rằng chúng làm cho nạn nhân tê liệt bằng cách khống chế tạm thời hệ thần kinh. Chúng hoạt động theo cơ chế phá vỡ cơ điện và gây ra sức mạnh ngang với một tia sét. Cơn đau dường như ngấm vào từng phân tử trong cơ thể Langdon. Bất chấp ý chí tập trung cao độ, anh vẫn không thể buộc các cơ bắp tuân theo mệnh lệnh của mình.

Đứng dậy! Mặt úp sấp, đờ đẫn trên sàn nhà, Langdon cố hớp lấy từng ngụm không khí và khó nhọc hít vào. Anh vẫn chưa thấy mặt kẻ đã tấn công mình, chỉ thấy đặc vụ Hartmann nằm trong một vũng máu loang rộng. Langdon cũng nghe tiếng Katherine vùng vẫy và thương lượng, nhưng rồi giọng cô bỗng nghẹt lại, như thể đã bị gã kia nhét gì đó vào miệng.

Đứng dậy, Robert! Mày phải giúp Katherine! Chân Langdon bắt đầu dội lên nhói buốt, các giác quan đang phục hồi, dù đau đớn và dữ dội, nhưng chúng vẫn chưa hoàn toàn theo ý anh.

Cử động đi!

Thoạt tiên cảm giác trở lại với hai cánh tay bằng dấu hiệu giật nhẹ, tiếp đến là cảm giác ở mặt và cổ. Với nỗ lực phi thường. Langdon cố xoay đầu, rê má mình trên sàn gỗ để nhìn xuôi xuống phòng ăn.

Tầm nhìn của anh bị kim tự tháp đá che khuất. Nó đã văng ra khỏi túi và đang nằm nghiêng trên sàn, đế chỉ cách mặt anh vài phân.

Nhất thời, Langdon không hiểu mình đang nhìn thấy gì. Cái hình vuông bằng đá trước mặt rõ ràng là đế của kim tự tháp, nhưng giờ trông khác hẳn. Rất khác. Nó vẫn vuông, và vẫn bằng đá... nhưng không còn trơn nhẵn và phẳng phiu nữa mà phủ kín nhiều hình khắc. Tại sao lại thế? Langdon căng mắt nhìn mấy giây liền, tự hỏi liệu mình có bị ảo giác không. Mình đã quan sát phần đế tháp cả chục lần... và không hề có hình khắc nào cả.

Rồi anh tìm ra nguyên nhân.

Phản xạ hô hấp bắt đầu hoạt động trở lại, Langdon đột ngột hít thở được. Anh nhận ra rằng Kim tự tháp Tam điểm vẫn còn chứa đựng nhiều bí mật. Mình vừa chứng kiến một quá trình biến đổi nữa.

Trong nháy mắt, Langdon hiểu ra đề nghị cuối cùng của cha Galloway. Nhắn anh ấy rằng Kim tự tháp Tam điểm luôn giữ bí mật của nó... rất thành thật. Lúc đó, nghe câu nói có vẻ kỳ cục, nhưng bây giờ Langdon đã thấu suốt, cha Galloway muốn gửi cho Peter một mật mã. Hài hước thay, mật mã ấy được trình bày trong một cuốn sách kinh dị tầm thường mà Langdon từng đọc nhiều năm về trước.

Thành thật.

Từ thời Michelangelo, các điêu khắc gia thường che giấu khiếm khuyết trong tác phẩm của mình bằng cách bôi sáp nóng vào những khe hở rồi phết bột đá lên sáp. Phương pháp này bị coi là lừa đảo, do đó bất kỳ tác phẩm điêu khắc "không có sáp" nào - theo đúng nghĩa từ vựng là sine cera - sẽ được coi là một tác phẩm nghệ thuật "thành thật". Cụm từ dần trở nên phổ biến. Ngày nay, người ta vẫn ký dưới các lá thư của mình dòng "sincerely" (rất chân thành) như một lời hứa rằng họ viết "không có sáp", rằng điều họ nói là sự thật.

Các hình khắc ở đế tháp được che giấu bằng chính phương pháp ấy. Khi Katherine luộc kim tự tháp theo chỉ dẫn trên chóp vàng, lớp sáp liền chảy ra, để lộ phần chữ trên đế. Lúc đến phòng khách, Galloway dùng tay sờ toàn bộ kim tự tháp, và hiển nhiên là ông đã phát hiện ra những ký hiệu ở phần đáy.

Trong khoảnh khắc, Langdon quên hết mọi nguy hiểm mà anh và Katherine đang phải đối mặt. Anh đăm đăm nhìn các ký hiệu kỳ lạ nọ, không hiểu chúng mang ý nghĩa gì... hay suy cho cùng chúng hé lộ điều gì, nhưng có một điều rất chắc chắn: Kim tự tháp Tam điểm vẫn còn chứa đựng những bí mật! Tám Quảng trường Franklin chưa phải là câu trả lời cuối cùng.

Không biết do khám phá mới mẻ này gây cảm xúc mạnh hay chỉ đơn giản là nhờ thời gian kéo dài, Langdon đột nhiên nhận ra đã kiểm soát được cơ thể mình.

Dù rất đau, anh vẫn cố quơ tay sang một bên, đẩy chiếc túi khỏi tầm mắt để nhìn về phía phòng ăn.

Anh hoảng hồn nhận thấy Katherine bị trói chặt, một nùi giẻ lớn nhồi kín miệng cô. Langdon gắng gồng người, cố nhổm dậy trên hai đầu gối, nhưng chỉ lát sau, anh đờ người sửng sốt. Cửa ra vào phòng ăn xuất hiện một hình dáng hãi hùng, một nhân dạng Langdon chưa từng trông thấy.

Nhân danh Chúa...?!

Langdon lăn mình, đạp mạnh hai chân, cố gắng lui ra sau, nhưng thằng người khổng lồ xăm trổ kia đã vồ lấy anh, lật ngửa anh ra và cưỡi lên anh. Gã kê đầu gối lên hai bắp tay Langdon để ghìm chặt anh xuống sàn nhà. Ngực gã rung rung hình một con phượng hoàng hai đầu. Cổ, mặt và cái sọ nhẵn thín của gã phủ kín một lô xích xông biểu tượng khó hiểu quái đản. Langdon biết đó là loại dấu thường sử dụng trong những nghi lễ ma thuật.

Langdon chưa kịp phân tích gì thêm thì gã khổng lồ đã dùng tay túm chặt hai tai anh, nhấc đầu anh lên khỏi sàn nhà và, bằng một sức mạnh kinh hồn, nện mạnh xuống sàn gỗ cứng.

Không gian trở nên đen kịt

Chương 96

Mal'akh đứng trong hành lang, xem xét toàn bộ cảnh tàn sát quanh mình.

Căn nhà ngổn ngang như một bãi chiến trường.

Robert Langdon bất tỉnh nhân sự dưới chân gã.

Katherine Solomon bị trói và nhét giẻ vào mồm trên sàn phòng ăn.

Xác nhân viên an ninh nằm co quắp gần đó, vẫn ở đúng chỗ cô đổ gục từ trên ghế xuống. Nữ nhân viên này, sốt sắng với hy vọng được sống sót, đã tuân thủ mọi yêu cầu của Mal'akh. Với một con dao kề sát cổ, cô trả lời điện thoại di động của Mal'akh, nói dối để lừa Langdon và Katherine chạy vội tới đây. Cô không có đồng nghiệp, Peter Solomon thì chắc chắn là không ổn rồi. Đợi người phụ nữ hoàn thành xong vai diễn, Mal'akh lập tức xiết cổ cô đến chết.

Để hoàn chỉnh màn đánh lừa rằng mình vắng nhà, Mal'akh bèn gọi cho Bellamy bằng hệ thống điện thoại trên một trong số các xe hơi của gã. Tôi đang trên đường, gã nói thế với Bellamy và bất kỳ ai cùng nghe với ông ta. Peter nằm trong cốp. Trên thực tế, Mal'akh chỉ lái xe từ ga ra tới sân trước, bố trí thêm vài chiếc xe của mình đỗ bừa bãi ở đó để máy nổ và bật nguyên đèn pha.

Trò lừa đảo thành công rực rỡ.

Gần như vậy.

Điều ngoài dự tính duy nhất là cái xác đẫm máu mặc quần áo đen nằm sóng sượt trong tiền sảnh với chiếc tô vít cắm ngập nơi cổ kia.

Mal'akh lục soát xác chết và bật cười khi tìm thấy một máy bộ đàm công nghệ cao cùng điện thoại di động mang phù hiệu CIA. Xem ra ngay cả bọn này cũng ý thức được sức mạnh của ta. Gã tháo pin và dùng một thanh chặn cửa bằng đồng đập nát cả hai thiết bị.

Mal'akh biết bây giờ phải hành động thật nhanh, nhất là khi CIA đã can dự vào. Gã sải bước lại chỗ Langdon. Ngài Giáo sư vẫn bất tỉnh và sẽ còn bất tỉnh một lúc nữa. Mắt Mal'akh run rẩy nhích tới kim tự tháp đá nằm trên sàn bên cạnh cái túi mở tung của Langdon.

Gã bật thở hổn hên, tim đập rộn lên.

Ta đã chờ đợi bao năm...

Gã cúi xuống nhặt Kim tự tháp Tam điểm, tay run run. Chậm rãi rà ngón tay qua dòng chữ khắc, gã cảm thấy kính sợ trước lời hứa hẹn của những ký tự ấy. Để tránh bị kích động thêm, gã thả kim tự tháp và cái chóp vào túi Langdon rồi kéo kín khoá.

Ta sẽ ráp chúng lại sớm... ở một nơi an toàn hơn.

Mal'akh thảy cái túi qua vai và thử vác Langdon lên, nhưng cơ thể săn chắc của ngài Giáo sư nặng hơn gã tưởng nhiều. Mal'akh đành phải xốc nách Langdon và kéo anh xềnh xệch trên sàn nhà. Hắn đang đi đến chỗ tàn đời, hắn sẽ không thích đâu, Mal'akh nghĩ thầm.

Trong khi gã kéo lê Langdon, chiếc ti vi đằng bếp cứ kêu ông ổng.

Đây cũng là một phần của trò lừa gạt, gã vẫn chưa kịp tắt. Lúc này chương trình đang phát hình một nhà truyền giáo bắt nhịp cho giáo đoàn tụng bài kinh "Cha của chúng con". Mal'akh tự hỏi không biết có ai trong số các khán giả mê muội của lão ta nắm được nguồn gốc bài kinh này không.

... cõi thế khác gì thiên đường... - giáo đoàn ê a.

Phải, Mal'akh nghĩ. Thượng hạ tương liên mà.

... dẫn dắt chúng con tránh xa cám dỗ...

Giúp chúng ta chế ngự sự bạc nhược của xác phàm.

giải thoát chúng con khỏi quỷ dữ... - bọn họ cầu khẩn.

Mal'akh mỉm cười. Điều đó khó đấy. Bóng tối đang lan rộng. Dù vậy gã cũng phải thừa nhận nỗ lực của họ. Những kẻ nói chuyện với các thế lực vô hình và cầu xin giúp đỡ ấy đang chết dần chết mòn trong thế giới hiện đại này.

Mal'akh lôi Langdon qua phòng khách. Giáo đoàn niệm "Amen!"

- Amon, Mal'akh đính chính. Ai Cập là cái nôi tôn giáo của các người. Thần Amon là nguyên mẫu cho Zeus... Jupiter... và tất cả các gương mặt thánh thần hiện đại. Cho đến nay, mọi tôn giáo trên trái đất đều xưng tụng biến thể tên của ngài. Men!Min!Aum!

Nhà truyền giáo trên truyền hình bắt đầu trích đọc Kinh thánh, phần mô tả tôn ti trật tự của thiên thần, quỷ sứ và yêu tinh cai quản thiên đàng địa ngục.

- Hãy giữ gìn linh hồn trước mọi thế lực ma quỷ! - lão ta cảnh báo - Nâng cao tâm hồn bằng tiếng ca! Chúa và bầy thiên thần của người sẽ lắng nghe các con!

- Đúng, Mal'akh hiểu. Nhưng quỷ sứ cũng lắng nghe đấy.

Từ lâu rồi, gã đã biết rằng bằng cách vận dụng hợp lý, người ta có thể dùng Nghệ thuật để mở cánh cổng vào thế giới tâm linh. Thế giới đó tồn tại nhiều lực lượng vô hình, dưới cả hai dạng tốt và xấu, y như con người. Lực lượng ánh sáng thì hàn gắn, bảo vệ và cố gắng đem lại trật tự cho thế giới. Ngược lại, lực lượng Bóng tối chỉ mang tới huỷ diệt và hỗn loạn.

- Nếu biết triệu hồi đúng cách, người ta có thể thuyết phục các thế lực vô hình làm theo lệnh mình và nhận về luồng sức mạnh gần như siêu nhiên. Để đổi lại việc giúp đỡ kẻ triệu hồi, các thế lực ấy đòi lễ vật: phe ánh sáng chỉ cần lời ngợi ca và xưng tụng, còn với các thế lực Bóng tối, lễ vật phải là máu tươi.

Hy sinh càng lớn, sức mạnh đạt được càng cao. Khi bắt đầu thực hành Nghệ thuật. Mal'akh chỉ dùng máu các loài động vật. Thời gian trôi qua, gã ngày càng táo tợn trong việc lựa chọn vật hi sinh. Đêm nay, ta sẽ đi bước cuối cùng.

- Hãy coi chừng! - nhà truyền giáo hô lớn, thông báo về sự Khải huyền sắp đến - Trận chiến cuối cùng của linh hồn con người sắp diễn ra!

Rất đúng, Mal'akh nghĩ, và ta sẽ trở thành chiến binh vĩ đại nhất.

Kỳ thực trận chiến này đã bắt đầu từ lâu lắm rồi. Ở Ai Cập cổ đại, những người thành thạo Nghệ thuật đều trở thành các bậc thầy vĩ đại của lịch sử, trở thành những pháp sư ánh sáng đích thực vượt hẳn trên số đông. Chẳng khác nào thần thánh trên cõi thế tục này, họ xây dựng nhiều đền thờ vĩ đại, đón nhận kẻ nhập đạo từ khắp nơi trên thế giới đổ về để cùng chia sẻ tri thức. Có thời còn nổ ra một cuộc chạy đua giữa những nhân vật xuất chúng. Chỉ trong một thời gian ngắn, loài người gần như đã nâng cao được tầm vóc của mình và vượt lên khỏi những ràng buộc phàm tục.

Đó là thời hoàng kim của Tri thức cổ xưa.

Nhưng con người, vốn chỉ là xác phàm, cũng rất dễ mắc phải những tội như láo xược, thù hận, nôn nóng và tham lam. Dần dần có kẻ làm hỏng Nghệ thuật, xuyên tạc nó và lạm dụng sức mạnh của nó để tư lợi Họ bắt đầu sử dụng hình thức nghệ thuật đã bị bóp méo này để triệu hồi những thế lực đen tối. Một Nghệ thuật khác xuất hiện... một ảnh hưởng cuốn hút, tức thời và mạnh mẽ hơn nhiều.

Đó là Nghệ thuật của ta.

đó là Công việc Vĩ đại của ta.

Chứng kiến quỷ sứ trỗi dậy và thấy rằng con người không sử dụng nguồn tri thức mới tìm thấy để phục vụ đồng loại mình, các pháp sư cùng hội đoàn bí mật của họ quyết định phải cất giấu tri thức khỏi tầm mắt của những kẻ không xứng đáng. Cuối cùng, tri thức ấy bị thất truyền trong lịch sử.

Cùng với nó là giai đoạn Đại Thoái trào của Nhân loại.

Tiếp theo là một bóng tối trường cửu.

Cho đến hôm nay, hậu nhân của các pháp sư đã xuất hiện, dò dẫm tìm kiếm ánh sáng, nỗ lực giành lại sức mạnh đã mất trong quá khứ và cố gắng kiềm chế Bóng tối. Họ là các thầy tu và nữ tu ở giáo hội, đền thờ và điện thánh của tất cả mọi tôn giáo trên thế giới. Thời gian đã xoá nhoà ký ức... tách họ khỏi quá khứ. Họ không còn biết tới nguồn cội vốn tri thức hùng mạnh của mình nữa. Khi được hỏi về bí mật thiêng liêng của tiền nhân, những người trông nom tín điều dứt khoát không thừa nhận, thậm chí còn cho là dị giáo.

Bọn chúng có quên thật không? Mal'akh tự hỏi.

Tiếng vọng của Nghệ thuật cổ đại vẫn âm vang ở mọi ngóc ngách của địa cầu, từ những tín đồ Kabbalah huyền bí thuộc Do Thái giáo đến những thầy đồng Hồi giáo. Dấu tích vẫn còn trong nhiều nghi thức bí truyền của Thiên Chúa giáo, trong lễ Ban Thánh thể, trong hệ thống các thánh, thiên than và quỷ sứ, trong thánh ca và thần chú, trong nền móng chiêm tinh của lịch thánh, trong những chiếc áo choàng tôn phong và trong lời hứa hẹn về một cuộc sống vĩnh hằng.

Thậm chí hiện nay, tu sĩ giáo hội vẫn xua đuổi các linh hồn xấu bằng cách đung đưa bình hương toả khói, rung chuông thiêng và vẩy nước thánh. Tín đồ Thiên Chúa giáo vẫn thực hiện nghệ thuật phù phép siêu nhiên, một thủ thuật đòi hỏi không chỉ năng lực xua đuổi quỷ dữ mà còn triệu hồi được chúng.

Thế mà họ vẫn chưa nhìn thấy quá khứ của họ ư?

Quá khứ bí ẩn của giáo hội thể hiện rõ ràng nhất ở chính trung tâm Toà thánh. Tại Vatican City, giữa Quảng trường St. Peter, vẫn sừng sững một trụ biểu Ai Cập đồ sộ. Được chạm khắc trước khi Jesus cất tiếng khóc chào đời đến 1300 năm, cột đá nguyên khối thiêng liêng này không có dây mơ rễ má gì với Thiên Chúa giáo hiện đại nhưng nó vẫn hiện diện ở đó, ở ngay trung tâm giáo hội của đức Ki tô. Cột mốc bằng đá ấy đang lớn tiếng đòi được lắng nghe. Một số ít hiền triết còn nhớ mọi thứ bắt nguồn từ đâu chắc chắn sẽ tìm thấy lời nhắc nhở ở đây. Giáo hội sinh ra trong lòng Bí ẩn cổ xưa và vẫn bảo lưu mọi nghi thức cùng biểu tượng của "người mẹ" ấy.

Một biểu tượng vượt trên tất cả.

Các bàn thờ, lễ phục, toà tháp, và Kinh thánh được trang trí bằng hình ảnh nổi bật của Thiên Chúa giáo - hình ảnh của một con người chấp nhận hy sinh. Thiên Chúa giáo, hơn bất kỳ tin điều nào khác, hiểu rõ sức mạnh biến cải của hy sinh. Thậm chí giờ đây, để tôn vinh sự hy sinh của Jesus, các tín đồ cũng thực hiện nhiều hình thức hy sinh sơ đẳng... nhịn ăn, ăn chay, nộp thuế thập phân.

Những lễ vật đó đều rất tầm thường. Không có máu... không thể có sự hy sinh đích thực.

- Thế lực Bóng tối vốn thèm khát hiến sinh, bằng cách đó, chúng đã bành trướng đến mức cái Thiện giờ đây phải chiến đấu để kiềm chế chúng. Chỉ ít lâu nữa, ánh sáng sẽ bị huỷ diệt hoàn toàn, và những kẻ theo đuổi bóng tối sẽ tự do thống trị đầu óc con người

Chương 97

- Dứt khoát phải có số Tám Quảng trương Franklin - Sato kiên quyết - Hãy tìm lại đi!

Nola Kaye điều chỉnh tai nghe.

- Thưa sếp, tôi vừa kiểm tra mọi chỗ... địa chỉ đó không tồn tại ở Thủ đô.

- Nhưng tôi đang đứng trên nóc số Một Quảng trường Franklin đây thôi - Sato nói - Phải có số Tám!

Đứng trên nóc ư?

- Sếp chờ chút - Nola bắt đầu chạy lệnh tìm kiếm mới. Cô định báo cáo thượng cấp về gã hacker nhưng xem ra Sato đang lưu tâm tới vụ số Tám Quảng trường Franklin hơn, vả chăng cô cũng chưa có đủ thông tin về anh ta. Sao cái tay an ninh hệ thống chết tiệt kia còn chưa xuống?

- Ồ - Nola lên tiếng, mắt nhìn màn hình - tôi hiểu ra vấn đề rồi.

Một Quảng trường Franklin là tên của toà nhà chứ không phải địa chỉ. Địa chỉ trên thực tế là 1301 phố K.

Thông tin dường như khiến bà Giám đốc lúng túng.

- Nola, tôi không có thời gian để giải thích, nhưng kim tự tháp chỉ rất rõ là tới địa chỉ số Tám Quảng trường Franklin.

Nola ngồi thẳng dậy. Kim tự tháp chỉ tới một địa điểm cụ thể ư?

Sato tiếp tục:

Dòng chữ khắc ghi rõ: "Bí mật giấu trong Tổ Chức, Tám Quảng trường Franklin.

Nola không thể hình dung nổi.

- Một tổ chức kiểu như... Hội Tam điểm hoặc đoàn thể nào đó ư?

- Tôi cho là như vậy, - Sato trả lời.

Nola ngẫm nghĩ một lát, rồi gõ bàn phím lần nữa.

- Thưa sếp, bao nhiêu năm đã qua, có lẽ các số tên phố trên quảng trường thay đổi rồi chăng? Ý tôi là nếu kim tự tháp ra đời đã lâu như lời đồn thì rất có thể các số ở Quảng trường Franklin không còn như thời điểm xa xưa ấy nữa. Giờ tôi đang chạy một lệnh tìm kiếm không có số tám... cho... "tổ chức"... quảng trường Franklin"... và Washington D.C."... Với cách này, may ra chúng ta sẽ thu được gợi ý gì đó nếu như có... - Cô dừng lại giữa chừng. Kết quả tìm kiếm bắt đầu xuất hiện.

- Cô thu được gì thế? - Sato hỏi.

Nola đăm đăm nhìn kết quả đầu tiên trong danh sách: Đại Kim tự tháp Ai Cập tráng lệ được dùng làm hình nền trên trang chủ của một toà nhà tại Quảng trường Franklin. Toà nhà này không giống bất cứ một toà nhà nào ở quảng trường.

Thậm chí khác hẳn mọi toà nhà trong thành phố.

Nola chững lại không phải vì kiến trúc kỳ dị, mà vì phần mô tả mục đích của toà nhà. Theo trang web, dinh thự lạ lùng này được xây dựng như một điện thờ bí mật thiêng liêng, thiết kế bởi... và cho...một hội kín lâu đời

Chương 98

Robert Langdon tỉnh lại, đầu đau như búa bổ.

Mình đang đâu thế này?

Dù ở đâu thì nơi đó cũng tối om. Tối như hũ nút và im lìm như dưới mồ.

Langdon đang nằm ngửa, hai cánh tay để xuôi bên sườn. Anh thử nhúc nhích các ngón tay ngón chân và thở phào nhẹ nhõm khi thấy chúng vẫn cử động thoải mái, không hề nhức nhối. Chuyện gì xảy ra thế nhỉ? Ngoại trừ cơn đau đầu và bóng tối thăm thẳm, xem chừng mọi thứ đều khá bình thường.

Gần như tất cả mọi thứ.

Langdon nhận ra mình đang nằm trên một mặt phẳng cứng và trơn nhẵn dị thường, giống như mặt thuỷ tinh. Lạ hơn nữa, anh cảm nhận được rằng bề mặt nhẵn thín đó đang tiếp xúc trực tiếp với da thịt anh... từ bả vai, lưng, mông, đùi, đến bụng chân. Mình đang trần truồng ư? Anh bối rối đưa tay sờ khắp người.

Lạy Chúa! Quần áo mình đi đằng quái nào mất rồi Trong bóng tối, lớp mạng nhện bắt đầu vén lên, và Langdon hồi tướng được đôi chút... những hình ảnh hãi hùng... đặc vụ CIA bị giết... gương mặt một con quái vật xăm trổ... đầu anh bị dộng mạnh xuống sàn. Các hình ảnh xuất hiện nhanh hơn... Langdon chợt nôn nao nhớ ra Katherine Solomon đang bị trói và nhét giẻ nằm trên sàn phòng ăn.

Chúa ơi!

Langdon bật dậy, trán anh nện cộp vào cái gì đó chỉ cao độ vài phân. Cơn đau thấu qua hộp sọ khiến anh đổ vật trở lại, gần như bất tỉnh Langdon choáng váng đưa hai tay lần lên phía trên, dò dẫm trong bóng tối để tìm vật cản vừa rồi và phát hiện ra một điều không tài nào lý giải nổi. Dường như trần nhà cách anh chỉ chưa đầy nửa mét. Thế là sao nhỉ? Langdon duỗi tay ra hai bên để tìm cách lăn đi, nhưng cả hai tay anh đều chạm vào vách tường.

Giờ thì mọi thứ đã rõ. Không phải phòng ốc gì hết.

Mình ở trong một cái hòm!

Langdon nắm tay lại và bắt đầu dộng thình thình trong bóng tối của cái hòm nhỏ và chật chội như quan tài. Anh hét to kêu cứu. Mỗi thời khắc trôi qua, nỗi hãi hùng lại siết chặt thêm quanh anh, chặt đến mức không tài nào chịu đựng nổi nữa.

Mình đang bị chôn sống.

Trong cơn hoảng loạn gớm ghê, Langdon dùng cả hai tay hai chân thúc ngược lên, nhưng nắp chiếc quan tài kỳ lạ không hề nhúc nhích. Hình như nó làm bằng sợi thuỷ tinh, rất nặng, kín như bưng, cách âm, không chút ánh sáng, không đường thoát.

Mình sẽ chết ngạt trong cái hòm này mất.

Langdon nghĩ đến cái giếng sâu hun hút anh ngã xuống lúc còn nhỏ, đến cái đêm hãi hùng anh lội bì bõm một mình trong bóng tối đường hầm không đáy. Chấn thương đó đã để lại vết sẹo tinh thần khiến anh luôn bị ám ảnh trước những không gian kín mít.

Đêm nay, bị chôn sống, Robert Langdon phải trải qua cơn ác mộng khủng khiếp nhất đời mình.

***

Trên sàn phòng ăn của Mal'akh, Katherine Solomon đang nằm run rẩy trong yên lặng. Sợi dây sắc lạnh quấn quanh cổ tay và mắt cá chân cô đã khứa sâu vào thịt, những cử động nhỏ nhất dường như chỉ càng làm nó siết chặt thêm lên.

Sau khi tàn nhẫn đập đầu Langdon xuống đất khiến anh bất tỉnh, gã đàn ông xăm trổ đẳy mình liền lôi tấm thân mềm oặt của anh đi, mang theo cả túi da và kim tự tháp đá, chẳng rõ đi đâu.

Tay đặc vụ đã chết. Mấy chục phút trôi qua, Katherine không nghe thấy bất cứ một âm thanh nào, cô tự hỏi liệu gã đàn ông xăm trổ và Langdon có còn ở trong nhà nữa không. Cô thử kêu cứu, nhưng mỗi lần gắng sức, nùi giẻ trong miệng lại lút sâu thêm vào khí quản.

Chợt có tiếng bước chân lan dần tới. Katherine ngoái đầu nhìn, lòng hy vọng sẽ có người đến giúp cô. Khi cái bóng kềnh càng của kẻ bắt cóc hiện ra trên ngưỡng cửa. Katherine co rúm người, sực nhớ lại cảnh gã đứng trong ngôi nhà Solomon mười năm về trước.

Hắn đã giết hại gia đình mình.

Gã đàn ông tiến tới gần. Không thấy Langdon đâu. Gã đàn ông cúi xuống, ôm vòng qua hông Katherine và thô bạo xốc cô lên vai. Sợi dây xiết chặt vào cổ tay Katherine, nùi giẻ chặn đứng mọi tiếng gào câm lặng. Gã đàn ông vác cô bước dọc hành lang về phía phòng khách, nơi họ cùng ngồi uống trà trong yên ấm hồi chiều.

Hắn đang đưa mình đi đâu?

Gã đàn ông vác Katherine băng qua phòng khách và dừng lại trước bức tranh sơn dầu lớn vẽ Ba Kiều nữ mà mấy tiếng trước cô đã say mê nhìn ngắm.

- Bà nói là thích bức vẽ này, - gã đàn ông thì thầm, môi gần như chạm vào tai Katherine - Tôi rất mừng. Có lẽ đây là thứ đẹp đẽ cuối cùng bà nhìn thấy trong đời đấy.

Nói đoạn, gã vươn người ấn cả bàn tay vào cạnh phải của khung tranh đồ sộ. Trước sự kinh ngạc của Katherine, bức tranh trở nghiêng vào tường trên một trụ trung tâm y như cánh cửa xoay. Một lối đi bí mật.

Katherine gắng giãy thoát, nhưng gã đàn ông ôm cô rất chặt, gã vác cô bước vào ô cửa. Khi bức Ba Kiều nữ xoay đóng lại phía sau họ, Katherine còn nhìn thấy lớp cách âm dày thịch đằng lưng tấm toan. Cho dù có gây ồn ở đây thì chưa chắc bên ngoài đã nghe thấy.

Phần không gian phía sau bức tranh rất chật chội, giống một hành lang hơn là một gian phòng. Gã đàn ông vác Katherine đi hết hành lang rồi đẩy một cánh cửa nặng nề dẫn sang chiếu nghỉ cầu thang nhỏ xíu. Từ đó có đường dốc hẹp đổ xuôi xuống tầng hầm khá sâu. Katherine hít một hơi để cố hét lên, nhưng nùi giẻ khiến cô tắc nghẹn.

Đường đi rất dốc và chật chội. Tường hai bên đều trát xi măng, tràn ngập một thứ ánh sáng xanh xanh như toả ra từ dưới lòng nhà. Không khí ấm áp, hăng hắc và nằng nặng một hỗn hợp nhiều mùi... mùi gắt của hoá chất, dìu dịu của hương thơm, mùi nồng của mồ hôi người, và át lên tất cả là cảm giác sợ hãi rất bản năng của động vật.

- Tôi rất ấn tượng với nghiên cứu của bà - gã đàn ông thì thào khi họ xuống đến chân đường dốc - Tôi hy vọng nghiên cứu của tôi cũng khiến bà thấy ấn tượng

Chương 99

Đặc vụ của Turner Simkins nép mình trong bóng tối của Công viên Franklin, mắt không rời Warren Bellamy. Vẫn chưa thấy kẻ nào mắc câu, nhưng vẫn còn sớm.

Bộ đàm của Simkins kêu tít tít, anh bật máy, tưởng đâu người mình đã phát hiện được điều gì, hoá ra lại là Sato với một thông tin mới.

Nghe xong, Simkins biểu đồng tình trước mối quan ngại của Giám đốc OS.

- Bà đợi máy nhé, - anh ta nói - Để tôi tìm thử xem sao.

Simkins bò qua bụi cây đang nấp và ngoảnh ra nhìn đường vào quảng trường. Ngó nghiêng một lúc, cuối cùng anh cũng trông thấy mục tiêu.

Vớ vẩn thật!

Simkins chăm chú quan sát toà nhà ấy, trông nó giống hệt một giáo đường Hồi giáo ở Cựu Thế giới. Nép mình giữa hai công trình đồ sộ hơn hẳn, toà nhà có phần mặt tiền ốp gạch gốm sáng bóng tạo thành những đồ hình sặc sỡ phức tạp theo phong cách Moor. Bên trên ba cánh cửa đò sộ là hai tầng cửa sổ đỉnh nhọn, tưởng đâu các cung thủ Ả-rập sẽ ló ra và xối những mũi tên tẩm lửa xuống nếu chẳng may ai đó tìm cách đột nhập.

- Tôi thấy rồi, - Simkins nói.

- Có động tĩnh gì không?

- Không hề.

- Tốt. Tôi muốn anh sắp xếp lại các vị trí và theo dõi nó thật cẩn thận. Đó là Đền thánh Almas, tổng hành dinh của một giáo phẩm bí mật.

Dù đã công tác ở khu vực thủ đô một thời gian dài nhưng Simkins không hề biết đến đền thờ này hay bất kỳ tổng hành dinh giáo phẩm bí mật lâu đời nào tại Quảng trường Franklin.

- Toà nhà đó, - Sato nói - thuộc một tổ chức tên là Giáo phẩm Ả-rập Cổ đại của các Hiệp sĩ Đền thánh Thần bí.

- Tôi chưa bao giờ nghe nói đến họ cả.

- Tôi nghĩ là anh nghe rồi, - Sato nói - Họ là một phân đàn của Hội Tam điểm, phổ biến hơn với tên gọi Hiệp sĩ Đền thánh.

Simkins ném một cái nhìn hồ nghi về phía toà nhà lòe loẹt. Hiệp sĩ đền thánh? Mấy gã chuyên xây bênh viện cho trẻ em phải không nhỉ? Anh không sao hình dung nổi một tổ chức huynh đệ gồm toàn những nhà hảo tâm chuyên đội mũ đuôi seo màu đỏ và đi diễu hành lại có thể gây ra nguy hiểm gì.

Nhưng những lo ngại của Sato vẫn rất có lý.

- Thưa bà, nếu đối tượng nhận ra rằng toà nhà chính là "Tổ Chức", được nhắc đến trên Kim tự tháp thì hắn sẽ không cần địa chỉ nữa. Hắn chỉ việc phớt lờ điểm hẹn và tiến thẳng tới vị trí chính xác.

- Tôi cũng nghĩ y như thế. Theo dõi chặt lối ra vào.

- Vâng, thưa bà.

- Có tin gì từ Đặc vụ Hartmann ở Kalorama Heights chưa?

- Chưa, thưa bà. Bà đã yêu cầu cậu ấy gọi trực tiếp cho bà mà.

- Ừ nhưng chưa thấy.

Kỳ cục, Simkins nghĩ, xem đồng hồ. Thằng cha này quá hẹn rồi

Chương 100

Robert Langdon nằm im, run bắn, trần truồng và cô độc trong bóng tối đặc quánh. Đờ đẫn vì sợ, anh không còn đập tay hay kêu gào nữa. Thay vào đó, anh nhắm mắt lại, cố gắng kiểm soát hơi thở hỗn loạn và nhịp tim nện như trống dồn của mình.

Ta đang nằm dưới trời đêm mênh mông. Anh cố gắng thuyết phục bản thân. Bên trên là cả một không gian rổng mở và thoáng đãng.

Viễn cảnh êm đềm ấy là cách duy nhất anh từng nghĩ đến để sống sót khi chui vào cái ruột chật hẹp của cỗ máy chụp cộng hưởng từ kín bưng, cùng sự hỗ trợ của một lượng thuốc an thần nhiều gấp ba mức bình thường. Tuy nhiên tối nay, viễn cảnh ấy không có tác dụng gì hết.

***

Nùi giẻ trong miệng Katherine Solomon trượt vào sâu hơn và gần như làm cô tắc thở. Đi hết đường dốc hẹp, kẻ bắt cóc vác cô xuống hành lang tầng hầm tối om. Katherine liếc thấy một gian phòng thấp thoáng ánh sáng đỏ tía rất lạ đằng cuối hành lang, nhưng họ không đi đến tận đó. Gã đàn ông dừng lại trước một gian phòng nhỏ dọc đường, mang Katherine vào trong và hạ cô xuống một chiếc ghế gỗ, trói chặt hai tay cô ra sau lưng tựa phòng hờ cô di chuyển.

Katherine cảm thấy sợi dây trên cổ tay thít sâu hơn vào thịt mình. Cơn đau kèm với nỗi hoảng sợ càng lúc càng tăng khiến cô khó thở. Nùi giẻ trong miệng tụt sâu hơn vào cổ họng, Katherine cố ọe để đẩy nó ra, mắt cô hoa lên.

Phía sau, gã đàn ông xăm trổ đóng cánh cửa duy nhất lại và bật đèn sáng. Nước mắt Katherine chảy ra giàn giụa, cô không còn phân biệt được các đồ vật ngay xung quanh mình nữa. Mọi thứ trở nên nhòe nhoẹt.

Khi mắt mờ hẳn và sắp sửa bất tỉnh đến nơi, Katherine bỗng thấy một bóng người méo mó da dẻ loang lổ xuất hiện ngay trước mặt, vươn cánh tay đầy vảy tới rút nùi giẻ khỏi miệng cô.

Katherine thở gấp, cố hít những hơi thật sâu rồi ho rũ rượi và sặc sụa khi không khí quý giá tràn vào màng phổi. Mắt rõ dần trở lại, cô nhận thấy mình đang nhìn thẳng vào mặt ác quỷ. Diện mạo ấy khó có thể gọi là mặt người, cổ, mặt và cái đầu nhẵn thín chi chít những biểu tượng xăm trổ kỳ dị. Chỉ trừ một vòng tròn nhỏ trên đỉnh đầu, còn lại mọi diện tích trên cơ thể gã đều dày đặc hình trang trí. Trên ngực gã có một con phượng hoàng hai đầu cực lớn, nó chòng chọc nhìn Katherine bằng cặp mắt trùng với hai núm vú, y như mắt kền kền đói mồi đang kiên nhẫn chờ đợi cái chết của cô.

- Há miệng ra, - gã đàn ông thì thào.

Katherine trợn mắt nhìn con quái vật với tất cả vẻ khiếp đảm. Cái gì cơ?

- Há miệng ra, - gã đàn ông nhắc lại - Nếu không tôi lại nút mớ giẻ vào mồm bà đấy.

Katherine rùng mình há miệng ra. Gã đàn ông luồn ngón tay trỏ xăm trổ to tướng của mình vào giữa hai bờ môi cô. Khi bị chạm vào lưỡi Katherine chỉ chực nôn mửa. Gã đàn ông rút ngón tay ướt nhoét ra rồi đưa lên đỉnh đầu trọc lóc. Nhắm mắt lại, gã xoa nước bọt của cô vào khoanh tròn nhỏ chưa xăm trổ.

Katherine ghê tởm ngoảnh mặt đi.

Gian phòng này rất giống một phòng nồi hơi với nhiều đường ống trên tường, những âm thanh ùng ục và những ngọn đèn huỳnh quang. Chưa kịp ghi nhận hết quang cảnh xung quanh mình, ánh mắt Katherine đã dừng sững lại ngay sàn nhà bên cạnh cô. Ở đó có một đống quần áo: áo len cổ lọ, áo khoác thể thao vải tweed, giày lười, đồng hồ Chuột Mickey.

- Chúa ơi! - Cô quay phắt lại phía con thú xăm trổ - Ngươi đã làm gì Robert?!

- Suỵt! - gã đàn ông thì thào - Nếu không hắn sẽ nghe thấy tiếng bà đấy.

Gã bước tránh sang một bên và ra hiệu về phía sau.

Không thấy Langdon đâu cả, chỉ có một chiếc hòm lớn bằng sợi thuỷ tinh màu đen, hình dáng từa tựa loại thùng nặng trịch chuyên đựng các xác chết để chuyển về hậu phương trong thời chiến. Hai cái móc to tướng khoá chặt chiếc hòm.

- Robert ở trong ư? - Katherine thảng thốt - Nhưng... anh ấy sẽ chết ngạt mất!

- Không, không hề gì, - gã đàn ông nói, đoạn trỏ một mớ đường ống trong suốt chạy dọc tường xuống dưới đáy hòm - Rồi hắn sẽ ước giá như được chết ngạt ấy chứ.

***

Trong bóng tối dày đặc, Langdon chăm chú lắng nghe những âm thanh bị chặn lại ở thế giới bên ngoài. Có tiếng nói. Anh nện cái hòm thật lực và gào to hết mức.

- Cứu! Có ai nghe thấy tôi không??

Xa xa, một giọng tắc nghẹn kêu lên.

- Robert! Chúa ơi, không! KHÔNG!

Anh biết giọng nói này. Đó là Katherine, dù đong đầy hốt hoảng thì vẫn là một âm thanh dễ chịu. Langdon hít một hơi thật sâu, định cất tiếng gọi, chợt anh dừng lại ngay vì cảm nhận một biến đổi bất ngờ phía sau gáy. Có làn hơi rất nhẹ đang toả ra từ đáy hòm. Sao lại như thế được nhỉ? Anh nằm thật im, nghe ngóng. Phải, hoàn toàn chính xác. Những sợi tóc nhỏ xíu nơi gáy anh đang rung rung trước luồng không khí chuyển động.

Theo bản năng, Langdon bắt đầu sờ dọc theo đáy hòm tìm kiếm nguồn không khí. Chỉ thoáng chốc anh đã xác định được vị trí. Có một chỗ hở nhỏ xíu. Nó gồm nhiều lỗ li ti, giống như đường thoát của bồn hoặc chậu rửa, chỉ khác là hiện đang có một luồng không khí nhè nhẹ liên tục thổi vào.

Hắn bơm không khí cho mình. Hắn không muốn mình chết ngạt

Cảm giác nhẹ nhõm của Langdon không kéo dài lâu. Một âm thanh hãi hùng vọng tới qua những lỗ li li ở đáy thoát. Đấy là tiếng òng ọc không lẫn vào đâu được của chất lỏng đang chảy... tới chỗ anh.

***

Không sao tin nổi vào mắt mình, Katherine trừng trừng nhìn cột chất lỏng trong suốt chạy xuống một trong những đường ống thông với cái hòm nhốt Langdon. Cảnh tượng trông y như màn trình diễn của ảo thuật gia.

Hắn bơm nước vào hòm ư?

Katherine cố rướn người, bất chấp những vòng dây cứa sâu quanh cổ tay mình. Lực bất tòng tâm, cô đành chứng kiến diễn biến trong tâm trạng hãi hùng. Langdon tuyệt vọng nện liên hồi, nhưng khi nước tuồn đến đáy hòm, anh dừng lại. Sau một khoảnh khắc im lặng kinh hoàng, tiếng nện lại vang lên với tất cả nỗi tuyệt vọng mới.

- Hãy thả anh ấy ra! - Katherine van nài - Xin anh! Anh không thể làm thế?

- Chết đuối là một cái chết kinh khủng, bà biết không? - Gã kia thản nhiên nói và bước vòng quanh Katherine - Trợ lý Trish của bà có thể kể cho bà nghe trải nghiệm đó.

Lời gã đàn ông lọt vào tai Katherine, nhưng cô chẳng còn tâm trí đâu để lĩnh hội.

- Hẳn bà vẫn nhớ tôi từng suýt chết đuối, - gã thì thào - Chính tại điền trang của gia đình bà ở Potomac. Anh trai bà đã bắn tôi, và tôi ngã xuống từ cây cầu của Zach, ngã xuyên qua băng.

Katherine chằm chằm nhìn gã, ánh mắt đầy căm hận. Cái buổi tối nhà ngươi giết chết mẹ ta.

- Đêm hôm ấy thần linh đã phù hộ tôi - gã nói - Và chỉ đường cho tôi trở thành một trong số họ.

Nước òng ọc chảy vào hòm, âm ấm ngay dưới đầu Langdon... hơi ấm của thân nhiệt. Chất lỏng đã dâng cao vài phân và hoàn toàn nuốt chửng phần lưng trần của anh. Khi nó bắt đầu bò tới lồng ngực, Langdon nhận ra thực tế u ám đang đến gần.

Mình sẽ chết.

Hoảng hốt, anh vung tay và lại bắt đầu nện dữ dội

Chương 101

- Anh phải thả anh ấy ra! - Katherine nài nỉ, rồi bật khóc - Chúng tôi đã làm mọi việc anh yêu cầu?

Cô nghe rõ tiếng Langdon nện điên cuồng hơn khi nước chảy vào hòm.

Gã đàn ông xăm trổ chỉ mỉm cười.

- Bà biết điều hơn anh trai bà đấy. Tôi phải làm bao nhiêu việc để buộc Peter khai ra những bí mật của lão...

- Anh ấy đâu rồi?! - Katherine gặng hỏi - Peter ở đâu?! Cho tôi biết đi! Chúng tôi đã làm đúng những gì anh đòi hỏi. Chúng tôi giải cái kim tự tháp và...

- Không, các người không hề giải kim tự tháp. Các người toàn giở trò. Các người bưng bít thông tin và dẫn nhân viên chính phủ tới nhà này. Tôi không tưởng thưởng cách hành xử ấy.

- Chúng tôi không còn lựa chọn nào khác - Katherine trả lời, cố nén nước mắt - CIA đang truy lùng anh. Họ buộc chúng tôi phải đi cùng một đặc vụ. Tôi sẽ kể cho anh mọi việc. Miễn là anh thả Robert.

Katherine nghe tiếng Langdon hét và nện cái hòm. Nhìn nước chảy qua ống, cô biết anh không còn nhiều thời gian.

Gã đàn ông xăm trổ đưa tay xoa cằm, đoạn nói rất điềm tĩnh.

- Tôi cá là cả tá đặc vụ đang đợi tôi ở Quảng trường Franklin, phải không?

Katherine lặng thinh, gã kia liền đặt bàn tay to bè lên vai cô, từ từ kéo cô về phía trước. Với hai tay vẫn bị trói chặt ở phía sau ghế, vai Katherine căng ra, đau buốt như muốn đứt rời.

- Đúng - cô thú nhận - Có nhiều đặc vụ ở Quảng trường Franklin.

Gã nọ kéo mạnh hơn.

- Địa chỉ trên chóp là gì thế?

Katherine chịu không thấu cơn đau ở cổ tay và hai vai, nhưng cô nín lặng.

- Bà nên nói với tôi lúc này, Katherine, nếu không tôi sẽ bẻ gãy tay bà và hỏi lại lần nữa.

- Tám? - Katherine há miệng vì đau - Số còn thiếu là tám! Cái chóp cho biết: "Bí mật nằm trong Tổ Chức, Tám Quảng trường Franklin". Tôi thề đấy. Tôi không biết gì thêm để nói với anh đâu. Đó là Tám Quảng trường Franklin!

Gã kia vẫn không buông vai cô.

- Tôi chỉ biết đến thế thôi - Katherine nói - Địa chỉ đấy! Thả tôi đi! Cho Robert ra khỏi cái bể đó!

- Tôi sẽ... - gã kia nói - nhưng khó khăn đây. Tôi mà tới số Tám Quảng trường Franklin thì thể nào cũng bị tóm. Cho tôi biết ở địa chỉ đó có gì?

- Tôi không biết!

- Những biểu tượng trên đế kim tự tháp thì sao? Ở mặt dưới ấy? Bà có biết ý nghĩa của chúng không?

- Biểu tượng nào ở đế? - Katherine ngơ ngác không hiểu - Phần đế làm gì có biểu tượng. Nó nhẵn thín, trống trơn.

Chẳng hề bận tâm trước những tiếng kêu cứu tắc nghẹn phát ra từ chiếc hòm như cỗ quan tài kia, gã đàn ông xăm trổ thản nhiên bước tới cái túi của Langdon lấy kim tự tháp đá. Sau đó, gã trở lại chỗ Katherine và giơ nó lên trước mắt cô cho cô nhìn rõ phần đế.

Trông thấy những biểu tượng khắc, Katherine há hốc miệng kinh ngạc.

Không... không thể như thế được! Đáy kim tự tháp phủ kín những hình khắc rối rắm. Chỗ đó lúc trước không có gì hết. Mình dám quả quyết như thế. Cô không hiểu ý nghĩa của những biểu tượng này. Dường như chúng liên quan đến tất cả các truyền thống bí ẩn, trong đó có nhiều loại cô thậm chí còn không nhớ nổi.

Hoàn toàn lộn xộn.

- Tôi...không hiểu ý nghĩa của nó - cô thú nhận.

- Tôi cũng vậy. May thay, chúng ta có một chuyên gia để tuỳ ý sử dụng - Gã bắt cóc liếc mắt về phía cái hòm - Ta thử hỏi ông ta nhé?

Gã mang kim tự tháp tới chỗ cái hòm.

Trong khoảnh khắc hy vọng ngắn ngủi, Katherine những tưởng gã sẽ mở khoá nắp. Thế nhưng gã thản nhiên ngồi lên nóc hòm, cúi xuống và đẩy một ô nhỏ sang bên để lộ khuôn cửa sổ bằng kính Plexiglas.

***

Ánh sáng!

Langdon che mắt, hấp háy nhìn ánh sáng từ trên tràn xuống. Khi mắt đã điều tiết, niềm, hy vọng trong anh biến thành nghi hoặc. Anh đang trông ra ngoài nhờ ô cửa sổ trên nóc hòm. Qua đó, anh trông thấy trần nhà màu trắng và một bóng đèn huỳnh quang.

Không hề báo trước, gương mặt xăm trổ đột ngột xuất hiện phía trên anh, chòng chọc nhìn xuống.

- Katherine đâu? - Langdon gào toáng - Thả ta ra!

Gã kia mỉm cười.

- Cô bạn Katherine của ông vẫn ở đây với tôi, - gã nói - Tôi có khả năng tha mạng cho cô ta, và tha mạng cho cả ông nữa. Nhưng thời gian của ông rất ngắn, vì vậy tôi đề nghị ông nên lắng nghe cẩn thận.

Dưới lớp kính, Langdon chỉ nghe tiếng được tiếng mất. Nước đã dâng cao lên nhiều, mấp mé tràn qua ngực anh.

- Ông có biết có các biểu tượng ở đế kim tự tháp không? - gã hỏi.

- Có! - Langdon gào to, vì anh đã phát hiện ra điều ấy khi kim tự tháp còn nằm lăn lóc trên sàn - Nhưng tôi không hiểu ý nghĩa của chúng. Anh cần tới số Tám Quảng trường Franklin. Câu trả lời nằm ở địa chỉ ấy? Cái chóp cho biết...

- Thưa Giáo sư, cả hai ta đều rõ CIA đang rình tôi tại đó. Tôi không định chui đầu vào bẫy. Hơn nữa, tôi không cần số phố. Trên quảng trường chỉ có duy nhất một toà nhà may ra liên quan là Đền thánh Almas - Gã ngừng lại, đăm đăm nhìn xuống Langdon - Giáo phẩm Ả-rập Cổ đại của các Hiệp sĩ Đền thánh Thần bí.

Langdon bối rối. Anh rất quen với Đền Almas, nhưng anh quên bẵng nó nằm ở Quảng trường Franklin. Hiệp sĩ đền thánh chinh là..."Tổ Chức" ư? Đền thờ của họ nằm trên một cầu thang bí mật chăng?

Sử sách không ghi chép điều gì tương tự cả, nhưng tình thế của Langdon lúc này không cho phép anh tranh luận về sử học.

- Đúng, - anh hét lên - Chắc chắn là nó. Bí mật nằm ngay trong Tổ Chức!

- Ông biết toà nhà đó thì phải?

- Biết rất rõ! - Langdon ngóc đầu để giữ cho tai cao hơn khối chất lỏng đang dâng lên rất nhanh - Tôi có thể giúp anh! Thả tôi ra!

Nghĩa là ông tin rằng ông có thể cho tôi biết mối liên hệ giữa Đền thánh Almas và biểu tượng trên đế kim tự tháp phải không?

- Đúng! Chỉ cần cho tôi nhìn các biểu tượng.

- Rất tốt! Để xem ông sẽ đi đến đâu nào.

Mau! Chất lỏng âm ấm cứ dâng cao xung quanh, Langdon rướn lên gần nắp hòm, sẵn sàng đợi gã kia mở khoá. Nào! Mau mau!

Nhưng cái nắp chẳng hề mở ra. Thay vào đó, đế kim tự tháp đột nhiên xuất hiện, lơ lửng trên ô kính Plexiglas.

Langdon trân trối ngó lên trong tâm trạng hoảng hốt.

- Tôi tin thế này đủ gần cho ông rồi chứ? - gã đàn ông giữ kim tự tháp bằng đôi bàn tay đầy hình xăm của mình - Nghĩ nhanh lên, Giáo sư! Tôi đoán ông còn chưa đầy sáu mươi giây.

Chương 102

Robert Langdon thường nghe nói rằng khi bị dồn đến đường cùng, động vật có thể phát huy sức mạnh một cách kỳ diệu. Tuy nhiên, khi anh vận hết sức bình sinh đẩy mạnh nắp hòm, vẫn chẳng có gì nhúc nhích cả. Quanh anh, chất lỏng liên tục dâng lên. Chỉ còn không quá sáu phân không gian để thở, Langdon buộc phải nhô đầu cao lên phần dưỡng khí còn lại. Lúc này mặt anh đang áp vào mặt kính Plexiglas, mặt anh chỉ cách các hình khắc rắc rối dưới đế kim tự tháp đá có vài phân.

Mình không hiểu thế này có nghĩa gì.

Sau hơn một thế kỷ bị giấu kín dưới hỗn hợp cứng gồm sáp trộn bột đá, lúc này phần hình khắc cuối cùng của Kim tự tháp Tam điểm đã hiện ra rõ rệt. Đó là một đồ hình vuông vức gồm những biểu tượng thuộc mọi truyền thống mà người ta có thể tưởng tượng được: giả kim, chiêm tinh, huy hiệu, thần thánh, pháp thuật, số học, con dấu, Hy Lạp, La tin. Gộp tất cả lại, đây là một mớ bòng bong biểu tượng, một nồi lẩu thập cẩm chữ cái thuộc về hàng chục ngôn ngữ, nền văn hoá và thời kỳ khác nhau.

Hoàn toàn lộn xộn.

Nhà ký tượng học Robert Langdon, dù vận dụng những cách diễn giải học thuật phóng túng nhất, cũng không thể suy luận được cách giải mã bảng biểu tượng này để cho ra một ý nghĩa gì đó. Tìm ra trật tự từ mớhỗn độn này ư? Làm gì có chuyện.

Chất lỏng bò dần qua yết hầu Langdon, nỗi sợ hãi của anh cũng ráo riết tăng theo. Anh tiếp tục nện thình thình. Ngọn tháp đá như đang trợn mắt nhìn lại anh đầy cay độc.

Trong nỗi tuyệt vọng cùng cực. Langdon gắng tập trung toàn bộ trí lực của mình vào bàn cờ biểu tượng nọ. Chúng có thể mang ý nghĩa gì nhỉ? Tiếc thay, cách sắp xếp lung tung đến mức anh không hình dung nổi nên bắt đầu từ đâu. Thậm chí chúng còn không xuất phát từ cùng một giai đoạn lịch sử!

Bên ngoài. Katherine nức nở van nài gã nọ thả Langdon. Dù cách âm. Langdon vẫn loáng loáng thoáng nghe thấy tiếng cô. Tuy đang bế tắc, nhưng mối đe doạ của cái chết dường như kích thích mọi tế bào trong cơ thể anh phải hoạt động để tìm ra một giải pháp.

Langdon cảm thấy đầu óc minh mẫn hơn bao giờ hết. Hãy suy nghĩ! Anh nhìn kỹ một lượt đồ hình, cố tìm manh mối, có thể là mẫu hình, là từ ẩn, là biểu tượng đặc biệt hay bất kỳ chi tiết gì khác, nhưng anh chỉ thấy một mớ biểu tượng chẳng liên quan gì đến nhau. Lộn xộn.

Mỗi giây trôi qua, trạng thái tê dại lại chiếm lĩnh dần cơ thể Langdon. Dường như xương thịt anh đang chuẩn bị che chắn tâm trí khỏi cơn đớn đau vì cái chết. Lúc này, nước đang mấp mé tràn vào tai anh, Langdon cố ngóc cao đầu hết mức, áp hẳn vào nóc hòm. Những hình ảnh hãi hùng bắt đầu lóe lên trước mắt anh. Một cậu bé lội bì bõm dưới đáy giếng tối om ở New England. Một người đàn ông bị mắc kẹt dưới bộ xương trong quan tài lật úp ở Rome.

Tiếng kêu khóc của Katherine nghe càng cuống quít hơn. Langdon luận ra là cô đang cố gắng phân tích phải trái với gã điên kia, cô khẩn khoản nói Langdon không thể giải mã được cái kim tự tháp nếu không tới Đền Almas.

- Rõ ràng toà nhà đó chứa phần còn thiếu của câu đố. Làm sao Robert giải mã được kim tự tháp nếu không có đủ thông tin?

Langdon rất cảm kích những nỗ lực của Katherine, nhưng anh tin chắc rằng "Tám Quảng trường Franklin", không dính dáng tới Đền thánh Almas. Mốc thời gian không khớp! Theo truyền thuyết, Kim tự tháp Tam điểm được tạo ra vào giữa thế kỷ XIX, nhiều thập kỷ trước khi các Hiệp sĩ Đền thánh xuất hiện, có lẽ còn trước cả khi quảng trường được đặt tên là Franklin. Cái chóp không thể chỉ tới một toà nhà chưa xây dựng tại một địa chỉ chưa hề tồn tại được. Cho dù "Tám Quảng trường Franklin" ám chỉ điều gì... thì nó cũng phải tồn tại vào năm 1850.

Tiếc thay. Langdon không nhìn ra manh mối nào cả.

Anh cố lục lại trí nhớ để tìm mọi sự kiện khả dĩ trùng khớp về mốc thời gian Tám Quảng trường Franklin ư? Cái gì ra đời năm 1850 nhỉ? Langdon không nghĩ ra. Chất lỏng đã chảy dần vào tai anh. Cố nén cơn sợ hãi, Langdon đăm đăm nhìn các biểu tượng trên tấm kính. Anh không hiểu mối liên hệ! Trong tâm trạng hoảng loạn đến đờ đẫn, trí não anh bắt đầu bật ra tất cả những tương quan mà nó có thể liên tưởng.

Tám Quảng trường Franklin... quảng trường - ô vuông(98)... bảng biểu tượng này là một hình vuông... thước thợ và com pa là biểu tượng của Hội Tam điểm... Các bàn thờ của Hội Tam điểm đều hình vuông... hình vuông có các góc 90 độ. Nước vẫn dâng lên, nhưng Langdon mặc kệ. Tám Franklin... tám... mỗi chiều của bảng này là tám ô vuông... Franklin", gồm tám chữ cái..., "Giáo phẩm" cũng gồm tám chữ cái... 8 là biểu tượng xoay ngang của 8 chỉ "dương vô cùng...tám là con số đại diện cho sự huỷ diệt trong môn số bí thuật...

Langdon không nghĩ ra điều gì.

Bên ngoài, Katherine vẫn đang van nài, nhưng Langdon chỉ còn nghe câu được câu mất vì nước đang lõng bõng quanh đầu anh.

- ... không thể nếu không biết... thông điệp của cái chóp rõ ràng... bí mật giấu trong...

Rồi không thấy tiếng gì nữa.

Nước tràn vào tai Langdon, chặn toàn bộ tiếng nói của Katherine.

Sự im lặng chết chóc đột ngột trùm lấy anh. Langdon nhận ra mình sắp lìa đời thật.

Bí mật giấu trong...

Những lời cuối cùng của Katherine vọng vang trong nấm mồ của anh.

Bí mật giấu trong...

Lạ thay, Langdon nhận ra trước đây mình đã nghe thấy những từ này rất nhiều lần.

Bí mật giấu... ngay bên trong...

Những Bí mật cổ xưa như đang cười nhạo anh. "Bí mật giấu ngay bên trong" là nguyên lý cốt lõi của mọi điều bí ẩn, thúc giục con người tìm kiếm Chúa trời, nhưng không phải trên thiên đường mà là ngay trong chính mình. Bí mật ẩn giấu ngay bên trong. Đó là thông điệp của tất cả các bậc thầy bí truyền vĩ đại.

Đất của Chúa nằm ngay trong chính các con, Jesus Christ dạy.

- Hãy hiểu chính mình, đó là lời Pythagoras.

Biết mình không có nghĩa mình là thần thánh. Hermes Trismegistưs nói.

Danh sách còn kéo dài...

Tất cả những lời dạy bí truyền của mọi thời đại đều cố gắng truyền tải ý tưởng duy nhất này. Bí mật ẩn giấu ngay bên trong. Thế nhưng, loài người vẫn cứ tìm kiếm thiên đường để được thấy Chúa.

Giờ đây, nhận thức này trở thành điều mỉa mai cuối cùng đối với Langdon. Trong trạng thái hai mắt nhìn thẳng lên trời như tất cả những kẻ mù quáng của lịch sự, Robert Langdon đột nhiên nhìn thấy ánh sáng.

Nó giáng xuống anh như tia chớp từ trời.

Bí mật giấu

Trong Tổ Chức

Tám Quảng trường Franklin

Chỉ trong chốc lát, anh hiểu ra.

Thông điệp trên cái chóp đột nhiên rõ như ban ngày. Suốt buổi tối ý nghĩa của nó đã hiển hiện ngay trước mắt anh. Lời dặn trên cái chóp, cũng như trên Kim tự tháp Tam điểm, là một biểu hình - một mật mã chia thành từng mảnh - một thông điệp được viết thành nhiều phần. Ý nghĩa trên chóp vàng được nguỵ trang đơn giản đến mức Langdon không ngờ rằng anh và Katherine đều không nhận ra.

Càng ngạc nhiên hơn, Langdon còn vỡ lẽ rằng thông điệp trên cái chóp thực tế tiết lộ chính xác cách giải mã bảng biểu tượng ở phần đế kim tự tháp. Nó rất đơn giản. Đúng như lời Peter Solomon nói, chóp vàng là một bùa phép uy lực có sức mạnh lập lại trật tự từ hỗn loạn.

Langdon bắt đầu nện nắp hòm và gào lên:

- Tôi biết rồi! Tôi biết rồi!

Kim tự tháp đá lập tức bị nhấc bổng đi. Thay vào đó, gương mặt xăm trổ lại xuất hiện, đường nét rùng rợn của nó đăm đăm dõi xuống qua ô cửa sổ.

- Tôi giải được rồi - Langdon hét to - Cho tôi ra!

Gã đàn ông xăm trổ máy môi. Hai tai ngập nước của Langdon không nghe rõ gì cả, nhưng mắt anh nhìn thấy môi gã tạo thành hai từ. "Nói đi".

- Tôi sẽ nói - Langdon hét lớn, nước lấp xấp mắt anh - Thả tôi ra! Tôi sẽ giải thích mọi điều. - Rất đơn giản thôi.

Môi gã đàn ông lại nhúc nhích. "Nói ngay đi... hoặc là chết".

Làn nước đã dâng hết phần khoảng trống cuối cùng, Langdon hơi ngửa đầu ra sau để giữ cho miệng mình ở trên mép nước. Khi anh làm vậy, thứ chất lỏng âm ấm tràn vào mắt anh, khiến tầm nhìn của anh nhoà đi. Cong lưng, anh áp miệng vào ô cửa sổ Plexiglas.

Tận dụng mấy giây cuối cùng còn dưỡng khí, Robert Langdon tiết lộ bí mật cách giải mã Kim tự tháp Tam điểm.

Langdon dứt lời thì chất lỏng cũng dâng đến môi anh. Theo bản năng, Langdon hít lấy hơi thở cuối cùng và ngậm chặt miệng lại. Chỉ một thoáng sau, chất lỏng đã phủ kín người anh, chạm lên đến đỉnh ngôi mộ và tràn ra qua lớp Plexiglas.

***

Hắn nghĩ ra thật, Mal'akh thừa nhận. Langdon đã nghĩ ra cách giải kim tự tháp.

Đáp án quá ư đơn giản. Quá ư rõ ràng.

Bên dưới ô cửa sổ, gương mặt ngập trong nước của Robert Langdon trừng trừng dõi vào gã với đôi mắt tuyệt vọng và khẩn khoản.

Mal'akh lắc đầu nhìn trả và rành rọt nhả từng từ.

- Cảm ơn Giáo sư. Hãy tận hưởng thế giới bên kia nhé!

Chú thích:

(98) Nguyên tác là Eight Franklin Square. Từ square vừa có nghĩa là quảng Trường, vừa có nghĩa là hình vuông - ND

Chương 103

Là một người bơi lội rất cẩn thận. Robert Langdon thường tự hỏi cảm giác chết đuối là như thế nào. Giờ thì anh sắp trực tiếp trải nghiệm điều đó. Mặc dù có khả năng nín thở lâu hơn hầu hết mọi người, anh cũng cảm thấy cơ thể mình đang phản ứng với tình trạng thiếu dưỡng khí. Carbonic tích tụ dần trong máu kéo theo sự thúc giục bản năng phải hít vào. Không được thở! Mỗi khoảnh khắc qua đi phản xạ hít vào càng thêm dữ dội. Langdon biết rằng roi anh sẽ bị đẩy đến điểm tới hạn nín thở, đến thời khắc then chốt khiến người ta không thể cố tình nhịn hơi được nữa.

Mở nắp ra! Theo bản năng, Langdon muốn quẫy đạp, nhưng anh biết tốt hơn cả là không nên lãng phí chút dưỡng khí quý báu. Vì vậy anh chỉ đăm đăm nhìn qua làn nước phía trên mình và hy vọng. Thế giới bên ngoài giờ đây chỉ là mảng sáng lờ mờ phía trên ô cửa sổ bằng kính Plexiglas. Các cơ bắt đầu bỏng rát, Langdon biết mình đang rơi vào tình trạng giảm oxy huyết.

Đột nhiên, một gương mặt xinh đẹp và hư ảo xuất hiện, đăm đắm nhìn xuống anh. Đó là Katherine. Qua lớp chất lỏng, những đường nét dịu dàng của cô trông gần như thần tiên. Mắt họ giao nhau qua ô cửa sổ Plexiglas. Trong khoảng khắc, Langdon tưởng đâu mình được cứu sống. Katherine. Song tiếng gào hãi hùng tắc nghẹn của cô báo cho anh biết cô bị kẻ bắt cóc lôi đến đây. Con quái vật xăm trổ buộc cô phải chứng kiến bi kịch sắp xảy ra.

Katherine, xin lỗi...

Mắc kẹt dưới nước ở cái nơi tăm tối, kỳ lạ này, Langdon căng thẳng hiểu ra đây là khoảnh khắc cuối cùng của cuộc đời anh.

Chỉ chốc lát nữa, anh sẽ không còn tồn tại... mọi thứ anh đang... đã hoặc sẽ có... đều chấm dứt. Khi não anh chết, mọi ký ức lưu giữ trong chất xám cùng tất cả những kiến thức anh thu nạp được sẽ tan biến trong một loạt phản ứng hoá học.

Lúc này, Robert Langdon nhận ra sự vô nghĩa thực sự của mình trong vũ trụ. Anh chưa bao giờ cảm thấy bản thân cô đơn và tâm thường đến thế. Cũng may, anh còn cảm nhận được điểm tới hạn nín thở đang đến gần.

Thời khắc đó tuỳ thuộc vào anh.

Buồng phổi Langdon rục rịch muốn tống chất thải ra ngoài và khao khát được hít vào. Nhưng Langdon cố duy trì lâu hơn nữa giây phút cuối cùng của đời mình. Tuy nhiên sau đó, như một con người không còn khả năng giữ nguyên tay trên bếp lò nóng bỏng, anh đành phó mặc cho số phận.

Phản xạ đã thắng lý trí.

Môi anh hé ra.

Phổi căng lên.

Và chất lỏng tràn vào.

Cơn đau ào tới lồng ngực ghê gớm hơn Langdon tưởng tượng nhiều Chất lỏng như thiêu như đốt ồng ộc xối vào phổi anh, cảm giác đau đớn xộc thẳng lên não, Langdon tưởng chừng đầu mình bị kẹp giữa một cái ê tô. Sấm nổ ùng ùng trong tai anh, xen lẫn với tiếng thét của Katherine Solomon.

Một tia chớp nháng lên chói loà.

Rồi tối sầm.

Robert Langdon đã chết

Chương 104

Thế là hết!

Katherine Solomon ngừng la hét. Cảnh chết đuối vừa chứng kiến khiến cô tê điếng rã rời vì choáng váng và tuyệt vọng.

Dưới ô cửa kính Plexiglas, đôi mắt đờ dại của Langdon trừng trừng nhìn qua cô vào khoảng không trống rỗng, nét mặt đông cứng đầy đớn đau và tiếc nuối. Chút không khí nhỏ nhoi cuối cùng sủi lên khỏi khuôn miệng vô hồn của anh, rồi, như đã chấp nhận từ bỏ cõi đời, vị Giáo sư Harvard từ từ chìm xuống đáy hòm và biến mất trong bóng tối.

Anh ấy chết rồi. Katherine thấy lòng tê tái.

Gã đàn ông xăm trổ cúi mình, đóng nắp ô cửa sổ lại bằng một động tác dứt khoát, che kín thi thể của Robert Langdon.

Xong xuôi, gã mỉm cười với Katherine.

- Đến lượt chúng ta chứ?

Không để Katherine kịp phản ứng, gã xốc luôn người phụ nữ đau khổ lên vai, tắt đèn và mang cô ra khỏi phòng. Chỉ bằng vài sải chân mạnh mẽ, gã đưa cô tới cuối hành lang, bước vào một không gian rộng rãi ngập tràn ánh sáng đỏ tía và phảng phất hương trầm. Gã đàn ông vác Katherine tới chiếc bàn vuông chính giữa phòng, thả phịch cô xuống. Mặt bàn cứng và khá lạnh. Bằng đá chăng? Katherine gắng trấn tĩnh lại. Bấy giờ, gã kia tháo dây trói khỏi tay và chân cô. Theo bản năng Katherine cố đạp gã ra, nhưng tay chân bị chuột rút nên không thuận theo ý cô. Gã đàn ông dùng những dải đai da to tướng trói Katherine vào bàn, dải thứ nhất vắt ngang đau gối, dải thứ hai thắt ở hông làm hai tay cô kẹp cứng bên sườn, dải cuối cùng kéo qua ức cô, ngay phía trên ngực.

Tất cả chỉ mất vài phút, lại một lần nữa Katherine không cựa quậy được. Cổ tay và mắt cá chân cô bắt đầu co bóp do máu lưu thông trở lại.

Gã đàn ông liếm đôi môi xăm trổ và thì thào.

- Há miệng ra!

Katherine nghiến chặt răng vẻ khiếp hãi.

Gã đàn ông lại giơ ngón tay trỏ và từ từ rê quanh môi người phụ nữ khiến cô nổi da gà. Katherine nghiến răng chặt hơn. Gã đàn ông cười khùng khục, đoạn dùng tay kia lần tìm một huyệt trên cổ cô và xoáy mạnh. Miệng Katherine liền há ra. Gã liền lùa ngón tay vào và khua khoắng dọc theo lưỡi khiến Katherine phát ọe, cô toan cắn mạnh, nhưng ngón tay đã rút ra. Vẫn cười nhăn nhở, gã đàn ông giơ ngón tay ướt đẫm lên trước mặt cô, rồi nhắm mắt và lại xoa chỗ nước bọt lên vòng tròn trắng trơn trên đỉnh đầu.

Xong xuôi, gã thở dài và từ từ mở mắt, quay mình rời khỏi căn phòng với vẻ thản nhiên kỳ quái.

Sự im lặng đột ngột ngập tràn, Katherine nghe rất rõ tim mình đập mạnh. Ngay phía trên cô, một loạt bóng đèn lạ lùng dường như đang chuyển từ gam đỏ tía sang son thẫm, soi tỏ phần trần rất thấp của gian phòng. Ngó thấy trần nhà, cô trợn mắt kinh ngạc. Chỗ nào cũng phủ kín hình vẽ. Bộ sưu tập dị thường ấy chừng như muốn mô tả một thiên hà. Những ngôi sao, chòm sao và hành tinh nằm lẫn lộn với các biểu tượng, sơ đồ và công thức chiêm tinh học. Có mười hai con giáp, có những mũi tên dự báo quỹ đạo hình ô van và những biểu tượng kỷ hà thể hiện các góc thăng thiên, tất cả trừng trừng nhìn xuống Katherine. Trông y như bích hoạ Nhà nguyện Sistine(99) thể hiện qua bàn tay một nhà khoa học điên rồ.

Katherine xoay đầu nhìn đi chỗ khác, nhưng bức tường bên trái cô cũng không khá khẩm hơn bao nhiêu. Sàn nhà kiểu trung cổ thắp một dãy nến chập chờn, soi lên bức tường găm kín văn bản, ảnh, và hình vẽ. Có vài tờ trông như giấy cói papyrus hoặc giấy da xé ra từ những cuốn sách cổ, một số khác trông mới hơn, nằm xen lẫn với những bức ảnh, hình vẽ, bản đồ và biểu đồ. Tất cả đều được đính lên tường một cách rất cẩn thận. Nhiều sợi dây kết thành mạng lưới ghim ngang qua chúng, liên kết chúng một cách hỗn độn rối mù.

Katherine lại ngoảnh đầu ngó sang phía khác.

Thật không may, phía này mới là cảnh tượng kinh hãi nhất.

Ngay sát phiến đá nơi cô đang bị trói là một chiếc bàn nhỏ giống kiểu bàn đựng y cụ thường gặp trong phòng mổ bệnh viện. Trên bàn bày cả loạt đồ đạc, trong số đó có một bơm tiêm, một ống chất lỏng sẫm màu... và một con dao rất lớn với cán bằng xương lưỡi bằng thép mài sáng loáng.

Lạy Chúa... hắn định làm gì mình đây?

Chú thích:

(99) Nhà nguyện Sistine là nhà nguyện nổi tiếng nhất thuộc Dinh Giáo hoàng, nơi ở chính thức của Giáo hoàng tại Vatican. Nó nổi tiếng với kiến trúc và phần trang trí dưới dạng tranh tường do những hoạ sĩ Phục hưng vĩ đại nhất thực hiện, trong đó có Michelangelo, Raphael, Bernini, và Sandro Botticelli. Dưới sự bảo trợ của Giáo hoàng Julius II, Michelangelo đã vẽ toàn bộ 1.100 m2 trần nhà nguyện trong khoảng thời gian từ 1508 đến 1512, trong đó có những kiệt tác như Ngày phán xét cuối cùng, Sáng tạo Adam - ND.

Chương 105

Chuyên gia an ninh hệ thống CIA Rick Parrish nhảy bổ vào văn phòng Nola Kaye, mang theo độc một tờ giấy.

- Làm gì mà lâu thế? - Nola hỏi. Tôi bảo anh xuống đây ngay lập tức cơ mà?

- Xin lỗi, - anh ta nói, đẩy cặp kính dày như đít chai trên sống mũi dài của mình - Tôi cố tìm thêm thông tin cho cô, nhưng...

- Cứ cho tôi xem những gì anh có là được.

Parrish đưa cho cô một bản in.

- Đây là một văn bản đã lọc thông tin, cứ xem đi, cô sẽ hiểu ngay nguyên nhân thôi.

Nola kinh ngạc lướt mắt qua trang giấy.

- Tôi vẫn cố hình dung xem một hacker truy cập vào như thế nào, - Parrish nói - nhưng hình như một con nhện đã chiếm đoạt một trong những lệnh tìm kiếm của chúng ta...

- Quên chuyện đó đi! - Nola buột miệng, ngước mắt khỏi trang giấy - CIA đang làm cái quỷ gì với một tệp tin mật nói về kim tự tháp, cổng cổ và các biểu hình chạm khắc nhỉ?

- Đó chính là điều khiến tôi mất thời gian. Tôi đã cố tìm hiểu xem tài liệu nào đang bị truy tầm, cho nên tôi dò theo đường dẫn của tệp tin - Parrish hắng giọng, ngập ngừng - Hoá ra tài liệu này nằm trong khu vực dành riêng cho... chính Giám đốc CIA.

Nola xoay lại, trợn mắt vẻ nghi hoặc. Sếp của Sato có một tệp tin về Kim tự tháp Tam điểm ư? Cô biết rằng Giám đốc đương nhiệm, cùng với nhiều lãnh đạo chóp bu khác của CIA, là hội viên Tam điểm cao cấp, nhưng cô không thể tưởng tượng nổi bất kỳ ai trong số họ lại lưu giữ các bí mật của Hội trên một máy tính CIA.

Nhưng sau đó, xét lại những gì cô vừa chứng kiến trong vòng hai mươi tư giờ qua thì chẳng có gì là không thể cả.

***

Đặc vụ Simkins nằm sấp, thu mình trong đám bụi cây ở Quảng trường Franklin, mắt dán chặt lên lối vào giữa hai hàng cột của Đền thánh Almas. Chẳng thấy gì. Không chút ánh sáng lọt ra ngoài, cũng chẳng ai tiến vào bên trong. Anh ngoảnh đầu ngó Bellamy. Ông ta đang đi đi lại lại một mình giữa công viên, trông có vẻ lạnh. Thực sự lạnh. Simkins nhận ra ông run rẩy và rùng mình.

Bộ đàm của anh rung. Đó là Sato.

- Đối tượng của chúng ta trễ hẹn bao lâu rồi? - bà hỏi.

Simkins kiểm tra đồng hồ bấm giờ.

- Hắn bảo hai mươi phút. Giờ đã gần bốn mươi phút. Nghe chừng không ổn.

- Hắn không đến, - Sato nói - Kết thúc rồi.

Simkins biết bà ta nói đúng.

- Có tin gì của Hartmann không?

Không, từ lúc đi Kalorama Heights chẳng thấy cậu ta báo cáo về.

- Tôi không sao gọi được cậu ấy.

Simkins sững người. Nếu đúng như vậy thì chắc chắn có chuyện bất ổn thật.

- Tôi vừa gọi cho nhóm hỗ trợ tác chiến, - Sato nói - họ cũng không thể tìm thấy cậu ta.

- Chết tiệt! Họ có xác định được vị trí GPS của chiếc Escalade không?

- Có. Một địa chỉ nhà riêng ở Kalorama Heights - Sato nói - Gom người của anh lại đi. Chúng ta rút thôi.

***

Sato tắt điện thoại và phóng mắt về đường chân trời của thủ đô.

Một cơn gió lạnh lẽo quất qua tấm áo khoác mỏng, khiến bà phải khoanh tay vào mình để giữ hơi ấm. Giám đốc Inoue Sato không phải là tuýp phụ nữ dễ ớn lạnh... hay sợ sệt. Nhưng lúc này, trong bà có cả hai cảm giác đó.

Chương 106

Mặc độc chiếc khố lụa, Mal'akh phóng lên lối dốc, đi qua cánh cửa thép và bước ra phòng khách qua bức tranh. Ta cần chuẩn bị thật nhanh. Gã liếc xác chết của tay đặc vụ CIA nơi tiền sảnh. Căn nhà này không còn an toàn nữa.

Một tay cầm chiếc kim tự tháp đá, Mal'akh bước thẳng tới phòng đọc sách ở tầng 1 và ngồi xuống bên chiếc máy tính xách tay. Vừa đăng nhập, gã vừa nghĩ đến Langdon ở dưới nhà và tự hỏi phải bao nhiêu ngày hoặc tuần nữa người ta mới phát hiện ra xác chết ngâm nước trong tầng hầm bí mật. Nhưng cũng chẳng có gì khác cả. Khi đó Mal'akh đã cao chạy xa bay rồi.

Langdon thực hiện vai trò của mình rất... xuất sắc.

Anh không chỉ ráp các phần của Kim tự tháp Tam điểm mà còn nghĩ ra cách giải bảng biểu tượng bí hiểm dưới đế. Thoạt nhìn, tưởng chừng không thể giải mã nổi những biểu tượng ấy... nhưng câu trả lời rất đơn giản... hiện rõ ngay trước mặt họ.

Máy tính bắt đầu hoạt động, màn hình hiển thị chính bức thư điện tử gửi đến lúc trước: tấm ảnh chụp chóp vàng phát sáng, một phần bị ngón tay của Warren Bellamy che đi.

Tám... quảng trường Franklin... Katherine đã cho Mal'akh biết như vậy. Cô cũng thừa nhận đám đặc vụ CIA đang phục kích ở Quảng trường, hy vọng tóm được Mal'akh và cố đoán xem cái chóp muốn ám chỉ tổ chức nào. Hội Tam điểm? Hiệp sĩ Đền thánh? Thập tự Hoa hồng?

Không phải tổ chức nào trong số đó hết!, giờ thì Mal'akh hiểu rõ như vậy. Langdon đã nhìn ra sự thật! Mười phút trước, khi chất lỏng dâng quanh mặt, vị Giáo sư Harvard đã đoán được chìa khoá để giải cái kim tự tháp.

- Ô vuông Franklin bậc tám! - anh đã hét to như vậy, vẻ khiếp hãi ngập tràn ánh mắt - Bí mật nằm ngay trong ô vuông Franklin bậc tám!

Thoạt đầu. Mal'akh không hiểu.

- Đó không phải là một địa chỉ! - Langdon hét, miệng áp chặt vào ô cửa sổ kính Plexiglas - Ô vuông Franklin bậc tám! Đó là một ma phương - Sau đó anh nhắc đến Albrecht Durer... và giải thích cách dùng mật mã đầu tiên của kim tự tháp làm manh mối phá giải mật mã cuối cùng.

Mal'akh rất quen thuộc với các ma phương, hay kameas như cách gọi của các tín đồ chủ nghĩa thần bí sơ khai. Văn bản cổ Triết học Thần bí từng mô tả tỉ mỉ sức mạnh huyền diệu của ma phương cũng như cách thức thiết kế những con dấu quyền năng dựa trên hệ thống các chữ số kỳ ảo ấy, và Langdon nói rằng chìa khoá giải mã phần đế kim tự tháp nằm trong một ma phương...

- Anh cần một ma phương mỗi chiều tám ô! - vị Giáo sư hét to, môi anh là phần cơ thể duy nhất còn nhô lên khỏi chất lỏng - Các ma phương được xếp loại theo bậc! Một hình vuông mỗi chiều ba ô là "bậc ba"! Một hình vuông mỗi chiều bốn ô là "bậc bốn!" Anh cần một hình vuông "bậc tám"!

Chất lỏng sắp sửa nhấn chìm Langdon, vị Giáo sư hít lấy hơi thở tuyệt vọng cuối cùng và hét nốt điều gì đó về một hội viên Tam điểm nổi tiếng... người sáng lập nước Mỹ... nhà khoa học, thần bí chủ nghĩa, nhà toán học, nhà phát minh... cũng là người sáng tạo ra ma phương kỳ lạ mang tên ông cho đến ngày nay.

Franklin.

Chỉ nháy mắt. Mal'akh biết Langdon đã nói đúng.

Giờ đây, nín thở đầy hi vọng, gã ngồi trên gác bên chiếc máy tính của mình, thực hiện một lệnh tìm kiếm nhanh trên web, nhận được hàng chục kết quả, chọn lấy một và bắt đầu đọc.

Ô VUÔNG FRANKLIN BẬC TÁM

Một trong những ma phương nổi tiếng nhất lịch sử là ma phương bậc tám do nhà khoa học Mỹ Benjamin Franklin công bố năm 1769. Nó nổi tiếng nhờ bao gồm cả các "phép tổng đường chéo" hoàn toàn mới mẻ. Nỗi ám ánh của Franklin với hình thức nghệ thuật thần bí này chắc chắn bắt nguồn từ niềm tin vào chiêm tinh, từ mối liên hệ cá nhân của ông với các nhà giá kim và nhà thần bí chú nghĩa nổi bật đương thời, tất cả là nền tảng cho những dự đoán công bố trong cuốn Niên giám của Richard tội nghiệp.

Mal'akh nghiên cứu sáng tạo nổi tiếng của Franklin, xem xét cách bố trí có một không hai các con số từ 1 đến 64, trong đó mỗi hàng, cột, và đường chéo đều cho cùng một hằng số kỳ lạ. Bí mật nằm ngay trong ô vuông Franklin bậc tám.

Mal'akh mỉm cười. Run lên vì phấn khích, gã vớ lấy kim tự tháp đá và lật nghiêng nó để xem xét phần đế.

Sáu mươi tư biểu tượng này cần được tổ chức lại và sắp xếp theo một trật tự khác, căn cứ theo các con số trong ma phương của Franklin. Mal'akh không thể hình dung được làm thế nào mà bảng biểu tượng hỗn độn này tạo thành ý nghĩa khi sắp xếp theo một trật tự khác, nhưng gã rất tin tưởng vào lời hứa hẹn cổ xưa.

Ordo ab chao.

Tim đập rộn lên, gã lôi ra một tờ giấy và nhanh nhẹn vẽ một bảng mỗi chiều tám ô. Sau đó, gã bắt đầu điền các biểu tượng, lần lượt từng cái một, vào vị trí theo định nghĩa mới của chúng. Gần như ngay lập tức, trước sự kinh ngạc của gã, bảng biểu tượng bắt đầu bộc lộ ý nghĩa.

Trật tự từ hỗn loạn! Giải mã xong, Mal'akh nghi hoặc nhìn đáp án trước mặt. Một hình ảnh ấn tượng đã định hình. Cái mớ lộn xộn đã được biến cải... tổ chức lại... và mặc dù Mal'akh không thể nắm được ý nghĩa của toàn bộ thông điệp nhưng gã đủ hiểu... đủ để biết chính xác bây giờ cần đi về đâu.

Kim tự tháp chỉ đường.

Bảng biểu tượng trỏ tới một trong những địa điểm bí ẩn vĩ đại của thế giới. Thật không tin nổi, đó cũng chính là nơi hoàn tất hành trình mà Mal'akh luôn mơ ước.

Đúng là số phận.

Chương 107

Mặt bàn đá lạnh ngắt dưới lưng Katherine Solomon.

Tâm trí cô tiếp tục bị giày vò vì cảnh chết đuối hãi hùng của Robert, kéo theo những liên tưởng về người anh trai. Peter cũng chết rồi chăng? Con dao kỳ lạ trên chiếc bàn gần đó khơi gợi thêm nhiều hình ảnh về số phận tương tự đang chờ đợi cô.

Thế là hết thật rồi ư?

Kỳ lạ thay, dòng suy tư đột ngột đưa Katherine quay về với nghiên cứu... về Lý trí học... và những đột phá gần đây. Tất cả đều đã chấm dứt... đã tan thành mây khói. Cô không thể chia sẻ với thế giới về những khám phá của mình được nữa. Phát kiến chấn động nhất mới diễn ra cách đây vài tháng, kết quả thu được có khả năng tái định hướng suy nghĩ của con người về cái chết. Lạ lùng thay, cô cảm thấy khuây khoả khi hồi tưởng thí nghiệm đó.

Khi còn là một thiếu nữ, Katherine Solomon thường tự hỏi liệu có cuộc sống sau khi chết không. Thiên đường có tồn tại không? Chuyện gì xảy ra khi chúng ta chết đi? Khi trưởng thành hơn, nhờ nghiên cứu khoa học, cô nhanh chóng xoá bỏ các khái niệm kỳ quái về thiên đường, địa ngục hoặc thế giới bên kia... dần dần đi đến chỗ chấp nhận rằng khái niệm "cuộc sống sau khi chết" là sự tưởng tượng, là một câu chuyện thần tiên được tạo ra để xoa dịu sự thật hãi hùng rằng chúng ta không thể nào sống mãi.

Hay chính mình tin như vậy...

Một năm trước, Katherine và anh trai cô đã thảo luận về vấn đề dai dẳng nhất trong triết học, đó là sự tồn tại của linh hồn con người, đặc biệt là liệu con người có sở hữu một loại ý thức nào đó đủ khả năng ton tại bên ngoài cơ thể hay không.

Cả hai anh em đều cho rằng rất có thể tồn tại một dạng linh hồn như vậy, hầu hết các triết lý cổ xưa cũng tán thành quan điểm của họ. Phật giáo và Bà la môn giáo đều xác nhận thuyết luân hồi, tức quá trình đầu thai của linh hồn vào một cơ thể mới sau khi chết. Những người theo trường phái Platon định nghĩa cơ thể như một "nhà tù" nơi linh hồn thoát ra, còn phái khắc kỷ gọi linh hồn là apospasma tou theu - "một phân tử của Chúa" - và tin rằng nó được Chúa triệu hồi ngay khi rời bỏ thể xác.

Katherine nhận thức được rằng sự tồn tại của linh hồn con người có lẽ là một khái niệm sẽ chẳng bao giờ chứng minh được về mặt khoa học. Việc xác nhận rằng ý thức tồn tại bên ngoài cơ thể con người sau khi chết cũng mong manh như phả ra một làn khói và hy vọng vài năm sau tìm lại được nó.

Sau cuộc thảo luận này, Katherine nảy ra một ý định lạ lùng. Anh trai cô đề cập đến cuốn Sáng thế ký, trong đó mô tả linh hồn là Neshemah - một dạng "tri thức" tinh thần hoàn toàn tách biệt với cơ thể. Katherine hiểu rằng từ tri thức ngụ ý sự hiện diện của tư duy.

Theo Lý trí học thì tư duy có khối lượng, và vì thế, linh hồn con người có thể cũng có khối lượng.

Liệu mình có cân được linh hồn một con người không?

Dĩ nhiên, ý tưởng đó là không thể... hoặc thậm chí còn rất vớ vẩn.

Nhưng ba ngày sau, Katherine đột nhiên tỉnh giấc khi đang say ngủ và ngồi bật dậy trên giường. Cô vùng dậy, phóng xe tới phòng thí nghiệm và bắt đầu thiết kế một phép thử đơn giản đến kỳ lạ... mà táo bạo đến đáng sợ.

Cô chưa rõ liệu có tác dụng không, nên quyết định giấu Peter cho đến khi công việc hoàn tất. Bốn tháng sau, cuối cùng Katherine cũng dẫn anh trai tới phòng thí nghiệm. Cô đẩy ra một thiết bị khá đồ sộ vẫn giấu kín trong nhà kho phía sau.

- Em tự thiết kế và chế tạo đấy - cô khoe khi cho Peter xem phát minh của mình - Anh có đoán được gì không? Anh trai cô chăm chú nhìn cỗ máy kỳ lạ.

- Một cái lồng ấp à?

Katherine lắc đầu cười, mặc dù đó là một phán đoán khá hợp lý. Cỗ máy thực sự trông hơi giống loại lồng ấp dành cho trẻ sơ sinh thiếu tháng thường thấy trong các bệnh viện. Tuy nhiên, cỗ máy này vừa với cả kích thước của người lớn, nó là một cái kén dài bằng nhựa trong, kín hơi, trông như một loại túi ngủ hiện đại, đặt trên một thiết bị điện tử rất lớn.

- Để xem thứ này có giúp anh đoán ra không nhé. - Katherine nói và cắm điện. Một màn hình điện tử trên cỗ máy bật sáng. Katherine bấm phím, các con số nhảy nhót một lúc rồi dừng ở:

0,0000000000 kg

- Cân à? - Peter hỏi, vẻ mặt đầy thắc mắc.

- Không phải cân thường - Katherine nhặt mẩu giấy nhỏ xíu trên chiếc bàn gần đó và nhẹ nhàng thả nó lên chốc cái kén. Các con số trên màn hình lại nhảy nhót và sau đó dừng lại ở một thông số mới.

0,0008194325 kg

- Mà là cân tiểu ly có độ chính xác cao - cô giải thích - Độ chính xác đến vài microgram.

Peter vẫn rất bối rối.

- Em chế tạo một chiếc cân chính xác cao để... cân người à?

- Chính xác - Katherine nhấc cái nắp trong suốt của cỗ máy lên - Nếu em đặt một người vào trong cái kén này và đóng nắp lại, người ấy sẽ nằm trong một hệ thống đóng kín hoàn toàn. Không gì có thể lọt vào hay lọt ra, dù là không khí, chất lỏng, hay phân tử bụi. Cũng chẳng có gì thoát được hết, dù là hơi thở, mồ hôi bay hơi hay chất dịch của cơ thể...

Peter luồn tay vào mái tóc bạc rất dày, một cử chỉ biểu lộ tâm trạng bồn chồn giống hệt Katherine.

- Hừm... rõ ràng là nằm trong đó người ta sẽ chết nhanh hơn.

Katherine gật đầu.

Khoảng sáu phút, tuỳ thuộc vào nhịp hô hấp của họ.

Peter quay sang cô.

- Anh vẫn chưa hiểu.

- Rồi anh sẽ hiểu - Katherine mỉm cười.

Để cỗ máy lại đó, cô dẫn anh trai tới phòng điều khiển, cho ông ngồi xuống trước bức tường plasma. Cô bắt đầu nhập số liệu và truy cập một loạt tệp tin video lưu trữ trong các ổ đĩa đa sao lưu toàn ảnh.

Bức tường plasma nhấp nháy sáng, chiếu ra những hình ảnh trông giống một thước phim tự quay ở nhà.

Máy quay lia ngang một phòng ngủ giản dị với chiếc giường bừa bộn, những chai thuốc, một máy thở và một màn hình theo dõi tim.

Peter băn khoăn xem đoạn phim, hướng quay di chuyển và cuối cùng dừng lại ở chiếc cân của Katherine nằm gần chính giữa phòng ngủ.

Peter mở to mắt.

- Cái gì...?

Nắp kén trong suốt mở toang, một ông già đeo mặt nạ dưỡng khí lằm bên trong. Bà vợ già của ông cùng một nhân viên tang lễ đứng cạnh đó. Ông già thở rất khó nhọc, hai mắt nhắm nghiền.

- Người nằm trong kén là một giảng viên khoa học của em ở Yale, - Katherine nói - ông ấy và em vẫn liên hệ với nhau suốt nhiều năm qua. Ông ốm rất nặng, và thường nói muốn hiến tặng cơ thể mình cho khoa học, vì thế khi em giải thích ý tưởng về thí nghiệm này, ông lập tức bằng lòng tham gia.

Peter nín lặng vì sửng sốt, tiếp tục theo dõi cảnh tượng đang diễn ra.

Lúc ấy, nhân viên tang lễ quay sang người vợ.

- Đến giờ rồi. Ông ấy đã sẵn sàng.

Bà cụ chấm chấm đôi mắt đẫm lệ và gật đau với vẻ bình tĩnh đến cương quyết.

- Vâng.

Rất nhẹ nhàng, nhân viên tang lễ tiến lại bên cái kén và gỡ mặt nạ dưỡng khí của ông cụ. Ông hơi nhúc nhích, nhưng mắt vẫn nhắm nghiền. Nhân viên tang lễ đẩy hết máy trợ thở và các thiết bị khác sang một bên, để ông cụ nằm suông trong cái khoang ở giữa phòng.

Vợ của người hấp hối tiến đến gần, cúi xuống, và nhẹ nhàng hôn lên trán chồng mình. Ông già vẫn không mở mắt, nhưng môi ông động đậy, rất khẽ khàng, thoáng hiện một nụ cười yêu thương.

Không còn mặt nạ dưỡng khí, nhịp thở của ông cụ càng trở nên khó nhọc. Phút cuối đang đến rất gần. Với nghị lực và thái độ bình tĩnh đáng nể, vợ ông chậm rãi hạ cái nắp trong suốt và và đóng kín lại đúng như Katherine đã hướng dẫn.

Peter hoảng hốt giật lui.

- Katherine, vì Chúa, sao lại như thế chứ?

- Không sao đâu, - Katherine hạ giọng - Có đủ dưỡng khí trong khoang mà.

Cô đã xem đoạn video này hàng chục lần, nhưng lần nào xem lại cũng thấy hồi hộp như nhau. Cô trỏ bàn cân bên dưới cái khoang đóng kín của người hấp hối. Thông số điện tử hiển thị:

51,4534644 kg

Đó là trọng lượng cơ thể ông ấy, - Katherine giải thích.

Nhịp thở của ông cụ trở nên gấp gáp. Peter sửng sốt nhích tới trước.

- Ông cụ bằng lòng thế mà - Katherine thì thầm - Hãy xem diễn biến tiếp theo nhé!

Bà vợ bước lùi lại, ngồi xuống giường và im lặng nhìn nhân viên lễ tang.

Trong thời gian sáu mươi giây tiếp theo, nhịp hô hấp của ông cụ rất nông và cứ dồn dập dần, rồi đột nhiên, như thê đã tự lựa chọn thời điểm từ giã cõi đời, ông ngừng thở.

Mọi chuyện chấm dứt.

Không còn gì xảy ra nữa.

Peter đợi tiếp vài giây, đoạn liếc nhìn Katherine với vẻ thắc mắc rõ rệt.

Hãy cứ đợi đi, cô nghĩ, hướng ánh mắt Peter trở lại với màn hình điện tử vẫn âm thầm toả sáng, cho biết trọng lượng của người đã khuất.

Rồi sự lạ diễn ra.

Đang lặng lẽ theo dõi. Peter thình lình nhảy lui, gần như ngã ra khỏi ghế.

- Nhưng... đó là... - ông sững sờ đưa tay che miệng - Anh không thể.

Rất hiếm khi Peter Solomon vĩ đại mất bình tĩnh đến mức không thốt lên lời. Lần đầu chứng kiến hiện tượng xảy ra, phản ứng của Katherine cũng y hệt như ông vậy.

Một lúc sau khi ông cụ qua đời, các con số trên cân đột ngột giảm xuống. Ông cụ nhẹ đi sau khi chết. Sự thay đổi về trọng lượng là rất nhỏ, nhưng vẫn đo đếm được... và các chỉ số thực sự gây chấn động.

Katherine nhớ rằng cô đã run rẩy viết vào sổ nhật ký phòng thí nghiệm: "Khi con người chết đi, dường như có một thứ "vật chất" vô hình thoát ngay ra khỏi cơ thể họ. Trọng lượng của nó là định lượng được và không hề bị ngăn cản bởi các rào cản vật lý. Tôi phải thừa nhận rằng nó di chuyển theo một chiều mà tôi chưa lý giải nổi".

Qua vẻ choáng váng trên gương mặt anh trai mình. Katherine biết rằng ông đã hiểu ý nghĩa của thí nghiệm.

- Katherine... - Peter lắp bắp, hấp háy đôi mắt xám như muốn bảo đảm rằng mình không hề nằm mơ - Anh nghĩ em vừa cân được linh hồn con người.

Tiếp đó là sự im lặng kéo dài giữa hai anh em.

Katherine cảm thấy Peter đang cố lĩnh hội những thực tế phi thường và rõ rệt. Sẽ cần thời gian. Nếu hiện tượng họ vừa mục kích phản ánh đúng bản chất sự việc - chứng tỏ linh hồn, ý thức hoặc sinh lực có thể thoát ra ngoài cơ thể - thì xem như đã có ánh sáng soi rọi vô vàn câu hỏi bí ẩn về luân hồi, ý thức vũ trụ, cảm giác cận kề cái chết, dự đoán các vì sao, thần giao cách cảm, mơ trong lúc tỉnh táo, vân vân. Trên các tạp chí y học đầy rẫy những câu chuyện về các bệnh nhân chết trên bàn mổ tự nhìn xuống và trông thấy cơ thể họ, rồi sau đó được cứu sống trở lại.

Peter im lặng. Katherine thấy lệ ông ông trong mắt ông. Cô hiểu.

Cô cũng khóc. Họ đã mất đi những người thân yêu, và với bất kỳ ai rơi vào hoàn cảnh tương tự, những tín hiệu mong manh về linh hồn bất diệt của con người sẽ mang lại cho họ đôi chút hy vọng.

Nhận ra vẻ u sầu sâu thẳm trong mắt Peter, Katherine nghĩ, Anh ấy đang nhớ đến Zachary. Bao năm qua, Peter mang bên lòng gánh nặng trách nhiệm về cái chết của con trai mình. Đã nhiều lần, ông tâm sự với Katherine rằng việc bỏ lại Zachary trong tù là sai lầm tồi tệ nhất đời ông, và ông sẽ không bao giờ tìm cách tha thứ cho bản thân.

Tiếng cửa đóng sầm khiến Katherine chú ý, và đột nhiên cô trở lại gian hầm, nằm trên chiếc bàn đá lạnh lẽo. Sau khi sập cửa sắt rõ mạnh, gã đàn ông xăm trổ lại từ đầu dốc đi xuống. Katherine nghe tiếng chân gã bước vào một trong những căn phòng dọc hành lang, lục đục một lúc bên trong, sau đó lại quay ra để tới phòng của cô. Khi gã bước vào, cô trông thấy gã đẩy theo một thứ gì đó... khá nặng nề... trên những bánh xe. Khi tất cả lọt vào vùng ánh sáng, Katherine trợn mắt nghi hoặc. Gã đàn ông xăm trổ đang đẩy một người ngồi trên xe lăn.

Về mặt trí tuệ, não bộ của Katherine nhận ngay ra người ấy. Về mặt tình cảm, tâm trí cô xáo động vì hình ảnh đang chứng kiến.

- Anh Peter đấy ư?

Cô không biết nên vui mừng vì anh trai mình vẫn còn sống... hay kinh hãi. Cơ thể của Peter bị cạo sạch sẽ. Mái tóc bạc dày dặn của ông biến sạch, lông mày cũng vậy, làn da nhẵn nhụi ánh lên như thể đã được thoa dầu. Ông khoác một chiếc áo choàng lụa màu đen. Chỗ vị trí bàn tay phải của ông giờ chỉ còn cẳng tay, quấn trong một dải băng sạch sẽ, mới tinh. Ông đau đớn nhìn cô em gái, ánh mắt đong đầy ân hận và day dứt.

- Anh Peter! - Katherine nấc lên.

Peter cố nói nhưng chỉ phát ra những tiếng ú ớ. Katherine nhận ra ông bị trói vào xe lăn và bị nhét giẻ vào miệng.

Gã đàn ông xăm trổ cúi xuống, nhẹ nhàng vỗ lớp da đầu cạo nhẵn thín của Peter.

- Tôi đã chuẩn bị cho anh trai bà một vinh dự lớn lao. Đêm nay ông ấy có một vai phải đóng.

Toàn thân Katherine cứng đờ. Không...

- Peter và tôi sẽ đi bây giờ, nhưng tôi nghĩ hai người muốn tạm biệt nhau.

- Anh định đưa anh ấy đi đâu? - Katherine yếu ớt hỏi.

Gã đàn ông mỉm cười.

- Peter và tôi phải tới ngọn núi thiêng. Đó là nơi kho báu toạ lạc. Kim tự tháp Tam điểm đã chỉ rõ địa điểm đó. Bạn của bà, Robert Langdon, rất hữu dụng.

Katherine nhìn sâu vào mắt anh trai.

- Hắn đã giết... Robert.

Nét mặt Peter rúm ró vì thống khổ, và ông lắc đầu lia lịa, cứ như thể không chịu đựng nổi nỗi đau nào nữa.

- Thôi, thôi Peter, - gã kia nói và lại xoa đầu người đàn ông - Đừng để chi tiết này phá hỏng thời khắc quan trọng. Hãy tạm biệt cô em gái nhỏ bé của ông đi. Đây là lần đoàn tụ gia đình cuối cùng của ông đấy.

Katherine cảm thấy tâm trí mình như muốn bùng nổ vì tuyệt vọng.

- Tại sao anh lại hành động như thế? - cô gào lên - Chúng tôi đã làm gì anh chứ? Cơn cớ nào khiến anh thù ghét gia đình tôi đến vậy?

Gã đàn ông xăm trổ bước lại và kề miệng sát tai cô.

- Tôi có lý do của mình, Katherine ạ - Gã bước tới bàn dụng cụ và nhấc con dao kỳ lạ lên. Gã mang nó tới chỗ Katherine và liếc lưỡi dao sáng quắc qua má cô - Đây là con dao nổi tiếng nhất trong lịch sử.

Katherine chẳng biết con dao nổi tiếng nào cả, nhưng quả thực con dao này trông rất cổ xưa và đầy hăm doạ. Lưỡi thép sắc lém.

- Đừng lo, - gã nói - Tôi không có ý định phí phạm uy lực của nó với bà đâu. Tôi để dành nó cho một sự hy sinh đáng giá hơn... tại một địa điểm thiêng liêng hơn - Gã quay sang anh trai cô - Peter, ông có nhận ra con dao này không?

Đôi mắt Peter mở to, nỗi sợ hãi pha lẫn vẻ hoài nghi.

- Phải, Peter, cổ vật này vẫn tồn tại. Tôi giành được nó với cái giá rất cao... và để dành nó cho ông. Cuối cùng thì hai ta cũng cùng nhau chấm dứt hành trình khó nhọc này.

Dứt lời, gã cẩn thận bọc lưỡi dao vào một tấm vải cùng với tất cả những món đồ khác - hương thơm, một ống chất lỏng, những tấm vải sa tanh trắng, và những lễ vật. Sau đó, gã đặt gói đồ đã bọc kỹ vào chiếc túi da của Robert Langdon cùng Kim tự tháp Tam điểm và cái chóp. Katherine tuyệt vọng nhìn lên. Gã kia kéo khoá chiếc túi của Langdon và quay sang anh trai cô, thả cái túi nặng trịch vào lòng ông.

- Mang theo thứ này nhé?

Tiếp đó, gã bước tới ngăn kéo và bắt đầu lục tìm. Katherine nghe rõ tiếng đồ vật kim loại va lanh canh. Sau đó gã đàn ông trở lại, nhấc cánh tay phải của cô và giữ chặt trong giây lát. Katherine không nhìn thấy hành động của gã, nhưng rõ ràng là Peter chứng kiến hết thảy, vì ông lại vùng vẫy dữ dội.

Đột nhiên, Katherine cảm thấy đau nhói ở khoeo tay phải, và một cảm giác âm ấm kỳ lạ chạy dọc quanh đó. Peter vẫn đang phát ra những âm thanh khổ não, tắc nghẹn và cố gắng một cách vô ích để thoát khỏi cái xe lăn nặng nề. Cảm giác tê lạnh lan khắp cánh tay và các đầu ngón tay Katherine, khi gã kia bước sang bên, cô mới hiểu tại sao anh trai mình kinh hãi đến thế. Gã đàn ông vừa cắm một cây kim tiêm vào ven Katherine như thể cô đang hiến máu vậy. Tuy nhiên, cây kim không gắn vào một đường ống. Thay vào đó, dòng máu đang chảy ra ngoài... lăn dọc khuỷu tay, cánh tay Katherine và tràn ra mặt bàn đá.

- Một chiếc đồng hồ cát bằng xương bằng thịt. - gã nói và quay sang Peter - Lát nữa, khi tôi đề nghị ông đóng vai của mình, tôi muốn ông hình dung ra cảnh Katherine... một mình chết dần trong bóng tối nơi đây.

Mặt Peter ngập đầy đau đớn.

- Cô ta còn sống được khoảng một tiếng nữa, - gã đàn ông tiếp - Nếu ông tích cực hợp tác thì tôi sẽ có đủ thời gian để cứu cô ta. Dĩ nhiên, nếu ông chống lại tôi... em gái ông sẽ chết rục ở đây.

Peter gầm rít qua mớ giẻ nhét trong miệng.

- Tôi biết, tôi biết, - gã đàn ông xăm trổ đặt tay lên vai Peter - việc này khiến ông dằn vặt. Nhưng chả nên thế. Vả chăng, đây đâu phải lần đầu tiên ông bỏ rơi một thành viên trong gia đình - Gã dừng lại, cúi thấp xuống và thì thào vào tai Peter - Dĩ nhiên, tôi đang nghĩ đến Zachary con trai ông, trong nhà tù Soganlik.

Peter cố gồng mình và phát ra một tiếng kêu tắc nghẹn nữa qua mớ giẻ trong miệng.

- Thôi đi! - Katherine thét lên.

- Tôi còn nhớ rất rõ đêm đó - gã đàn ông vừa gói ghém đồ đạc vừa chế nhạo - Tôi nghe thấy tất cả. Lão cai ngục gợi ý thả con trai ông ra, nhưng ông quyết định dạy cho Zachary một bài học... bằng cách bỏ rơi nó. Con trai của ông đã nhận được bài học của mình, phải không? - Gã mỉm cười - Sự mất mát của nó... là thành quả của tôi.

Gã rút một mảnh vải lanh và nhét sâu vào miệng Katherine.

- Chết, - gã thì thào với cô - thì nên im ắng.

Peter vùng vẫy dữ dội. Không nói thêm một lời, gã đàn ông xăm trổ đẩy xe lăn đưa Peter ra khỏi phòng, thật chậm để ông có thời gian nhìn em gái lần cuối.

Katherine và Peter trân trân ngó nhau.

Sau đó ông đi.

Katherine nghe rõ tiếng họ di chuyển lên đường dốc và qua cánh cửa kim loại. Sau đó gã đàn ông khoá cánh cửa sắt lại và tiếp tục bước qua bức tranh Ba Kiều nữ, vài phút sau, có tiếng xe hơi nổ máy.

Rồi cả toà nhà chìm vào im lặng.

Katherine nằm lại một mình trong bóng tối, máu chảy đầm đìa

Chương 108

Tâm trí Langdon bay lượn trong một vực thẳm không đáy.

Không ánh sáng. Không âm thanh. Không cảm giác.

Chỉ có sự im ắng và trống trải vô tận.

Mềm mại.

Nhẹ hẫng.

Cơ thể đã giải thoát anh. Anh được cởi trói.

Thế giới vật chất tan biến. Thời gian không còn tồn tại.

Lúc này, Langdon chỉ đơn thuần là một ý thức... một tri giác vật vờ trong bao la vũ trụ

Chương 109

Chiếc UH-60 cải tiến bay vè vè trên những mái nhà rộng rãi của khu Kalorama Heights, lao về phía toạ độ mà nhóm hỗ trợ cung cấp cho họ. Đặc vụ Simkins là người đầu tiên phát hiện ra chiếc Escalade màu đen đỗ bừa trên bãi cỏ phía trước một toà nhà. Cổng vào đóng chặt, bên trong tối om và im ắng.

Sato ra hiệu cho phi công hạ cánh.

Trực thăng đáp thẳng xuống bãi cỏ trước nhà, xung quanh rải rác vài chiếc xe hơi... có cả một chiếc ô tô bốn chỗ của lực lượng an ninh, đèn vẫn nhấp nháy trên nóc.

Theo sau là các đồng đội, Simkins nhảy xuống, rút vũ khí và lao nhanh lên phía hiên. Cửa lớn khoá chặt, anh khum tay che mắt nhìn qua một khung cửa sổ. Tiền sảnh tăm tối, nhưng Simkins vẫn nhận ra một thân hình nhờ nhờ trên sàn.

- Bố khỉ, - anh thì thào - Đúng Hartmann rồi.

Một trong các đặc vụ vớ lấy cái ghế đẩu ngoài hiên và ném thẳng cánh vào ô cửa sổ lồi. Tiếng kính vỡ loảng xoảng chìm lấp giữa tiếng động cơ ầm ầm của chiếc trực thăng phía sau họ, vài giây sau, tất cả đều đã ở trong nhà. Simkins lao bổ vào tiền sảnh và quỳ xuống bên Hartmann để kiếm tra mạch đập. Không thấy gì cả. Máu loang khắp mọi nơi. Sau đó, anh phát hiện ra chiếc tô vít ở họng Hartmann.

Chúa ơi. Simkins đứng lên và ra hiệu cho người của mình tiến hành lục soát toàn bộ các phòng.

Nhóm đặc vụ toả ra khắp tầng một, ánh đèn la-de loang loáng trong bóng tối của căn nhà sang trọng. Không có gì khác thường ở phòng khách hay phòng làm việc, nhưng đến phòng ăn, họ ngạc nhiên phát hiện ra một nữ nhân viên an ninh bị xiết cổ đến chết.

Simkins chẳng mấy hy vọng Robert Langdon và Katherine Solomon còn sống sót. Rõ ràng tên sát nhân tàn bạo này đã giương một cái bẫy. Hắn đã táo gan tới mức giết cả đặc vụ CIA và nhân viên an ninh có vũ trang thì xem như giáo sư và nữ khoa học gia kia chẳng còn cơ hội nào.

Rà soát xong toàn bộ tầng một và chắc chắn không có gì nguy hiểm nữa, Simkins mới phái hai đặc vụ lên gác tìm kiếm. Bản thân anh phát hiện ra trong nhà bếp một lối cầu thang dẫn xuống tầng hầm, anh bèn lần theo. Tới chân cầu thang, anh bật đèn lên. Tầng hầm khá rộng rãi và gọn ghẽ, chừng như ít khi được sử dụng. Ngoài nồi hơi, tường xi măng trơ trọi và dăm ba cái thùng. Ở đây chẳng còn gì hết. Simkins quay trở lên bếp vừa lúc người của anh từ tầng hai đi xuống. Bọn họ cùng lắc đầu.

Ngôi nhà vắng tanh.

Không có ai ở đây, và không phát giác thêm xác chết nào.

Simkins điện đàm cho Sato để báo cáo.

Khi anh ra đến tiền sảnh, Sato đã theo bậc cấp lên tới hàng hiên. Warren Bellamy thờ thẫn ngồi lại một mình trong trực thăng, bên chân là chiếc cặp vỏ titanium của Sato. Trong cặp có bộ máy tính xách tay bảo mật cao, nhờ nó giám đốc OS có thể truy cập vào hệ thống máy tính của CIA trên toàn cầu thông qua các kết nối vệ tinh mã hoá.

Lúc tối, bà đã sử dụng chính máy tính này để cho Bellamy biết một thông tin đủ khiến ông bắt tay hợp tác hoàn toàn. Simkins không biết Bellamy "nhìn" thấy gì, chỉ biết từ lúc đó vị kiến trúc sư rơi vào trạng thái hồn xiêu phách lạc.

Sato bước vào tiền sảnh, dừng lại một chút để cúi đầu nhìn xác Hartmann. Đoạn, bà ngước mắt ngó Simkins.

- Không có dấu vết gì của Langdon hay Katherine ư? Biết đâu cả Peter Solomon nữa?

Simkins lắc đầu.

- Nếu họ còn sống thì chắc hắn đã dẫn họ đi cùng - Anh có thấy chiếc máy tính nào trong nhà không?

- Có thưa bà. Đằng văn phòng.

- Cho tôi xem.

Simkins dẫn Sato ra khỏi tiền sảnh và tiến vào phòng khách. Lớp thảm sang trọng tung tóe những mảnh kính vỡ văng ra từ ô cửa sổ.

Họ đi qua một lò sưởi, một bức tranh lớn và vài giá sách để tới một cánh cửa. Văn phòng được ốp gỗ, có kê một chiếc bàn cổ và một màn hình máy tính lớn. Sato bước vòng ra sau bàn để xem màn hình, nhưng lập tức cau mày.

- Chết tiệt, - bà nói qua kẽ răng.

Simkins bước vòng lại và nhìn theo. Màn hình trống trơn.

- Có chuyện gì vậy?

Sato trỏ một cái giá trống trên bàn.

- Hắn dùng máy tính xách tay. Hắn mang đi rồi.

Simkins không hiểu.

- Hắn có thông tin mà bà muốn xem à?

- Không, - Sato đáp, giọng rất trầm trọng - Hắn có thông tin mà tôi không muốn ai xem cả.

***

Trong tầng hầm bí mật dưới cầu thang, Katherine Solomon nghe tiếng phành phạch của cánh quạt trực thăng, tiếp đến là tiếng kính vỡ loảng xoảng và tiếng giày đinh nặng nề dọc sàn nhà phía trên. Cô cố gắng kêu cứu, nhưng mảnh giẻ trong miệng đã ngăn cản, không những không thốt được một âm thanh gì, mà càng cố kêu, máu từ khuỷu tay càng chảy ra nhanh hơn.

Katherine cảm thấy ngợp thở và hơi chóng mặt.

Cô biết mình cần phải bình tĩnh. Hãy sử dụng trí tuệ, Katherine.

Cô tập trung hết tinh thần để chuyển sang trạng thái thiền định.

***

Tâm trí Robert Langdon vẫn bồng bềnh giữa khoảng không trống rỗng. Anh ngó đăm đăm vào một vùng vô tận, tìm xem có chỗ nào bấu víu không, nhưng chẳng tìm thấy gì cả.

Tối như hũ nút. Im ắng hoàn toàn. Cực kỳ thanh vắng.

Thậm chí còn không có lực hấp dẫn để anh xác định đâu là phía trên.

Cơ thể anh đã tan biến.

Chắc chết là thế này đây.

Thời gian cứ co vào, giãn ra rồi nén lại, như thể không dính dáng gì tới nơi này. Langdon khó lòng ước tính đã bao lâu rồi.

Mười giây chăng? Hay mười phút? Mười ngày?

Đột nhiên, giống hệt những vụ nổ ghê gớm xa xăm trong các thiên hà, trí nhớ bắt đầu hiện hữu, ào ạt dồn về Langdon như những đợt sóng xung kích tràn qua khoảng trống mênh mông.

Robert Langdon bắt đầu nhớ ra. Những hình ảnh xối vào anh... sống động và rối loạn. Một gương mặt phủ kín hình xăm. Một đôi tay mạnh mẽ nhấc đầu anh lên và dộng mạnh xuống sàn.

Cơn đau bùng phát... sau đó là đêm đen.

Ánh sáng xam xám.

Đau nhói.

Ký ức mong manh. Langdon bị lôi xềnh xệch, nửa mơ nửa tỉnh, xuống, xuống, xuống nữa. Kẻ bắt anh ư ử ngâm.

Verbum significatium... Verbum omnificum... Verbum perdo...

Chương 110

Giám đốc Sato đứng một mình trong phòng làm việc của Mal'akh, đợi bộ phận hình ảnh vệ tinh CIA xử lý yêu cầu của bà. Một trong những lợi thế khi công tác ở Thủ đô là độ bao phủ của vệ tinh. Biết đâu nhờ may mắn, một trong số các vệ tinh đêm nay lại tình cờ định vị đúng chỗ và thu được hình ảnh căn nhà, chưa chừng còn lưu giữ bóng dáng chiếc xe mới rời khỏi đây nửa tiếng trước.

- Xin lỗi, thưa bà, - kỹ thuật viên vệ tinh báo - Lúc tối vệ tinh không theo dõi toạ độ này. Bà có muốn yêu cầu định vị lại không?

- Không cảm ơn. Quá muộn rồi - Sato tắt máy và thở hắt ra, không biết làm cách nào để truy ra hướng đến của mục tiêu. Bà bước ra tiền sảnh các nhân viên vừa cho xác đặc vụ Hartmann vào túi và đang khiêng ra trực thăng. Sato toan hạ lệnh cho Simkins thu quân để quay về Langley, thì phát hiện anh đang bò rạp trên nền phòng khách bằng cả hai chân hai tay, trông như phát bệnh vậy.

- Anh ổn chứ?

Simkins ngước nhìn Sato, vẻ mặt rất kỳ cục.

Bà có trông thấy dấu vết này không? - Anh trỏ tay lên sàn phòng khách.

Sato bước lại gần, dõi mắt xuống lớp thảm sang trọng và lắc đầu, không phát hiện điều gì khác lạ cả.

- Quỳ hẳn xuống, - Simkins nhắc - Hãy nhìn lớp tuyết của thảm ấy.

Sato làm theo. Một lúc sau, bà đã nhận ra. Các sợi thảm tựa hồ bị ép mạnh, chúng nằm rạp xuống theo hai đường miết thẳng tựa hồ bánh xe của một thứ gì đó đã lăn ngang qua phòng.

- Tôi đang tự hỏi, - Simkins nói và trỏ tay - các vệt này dẫn đến đâu.

Sato đưa mắt dõi theo. Hai đường song song lờ mờ chạy ngang tấm thảm phòng khách rồi biến mất bên dưới một bức tranh lớn trải từ trần xuống tới tận sàn treo ngay cạnh bếp lò. Thế là thế nào nhỉ?

Simkins tiến lại phía bức tranh và cố gắng nhấc nó ra khỏi tường.

Không tài nào nhấc được.

- Nó cố định rồi, - anh đưa các ngón tay lần theo mép tranh - Xem nào, có gì đó bên dưới... - Ngón tay của anh chạm phải một cái cần nhỏ ngay chỗ mép dưới, và có gì đó khởi động.

Sato bước tới gần. Simkins đẩy mạnh khung, toàn bộ bức tranh chầm chậm xoay quanh trục tâm của nó, như một cánh cửa xoay.

Simkins nâng đèn pin lên và rọi vào khoảng không gian tối đen phía trước.

Mắt Sato nheo lại. Chúng ta đi nào.

- Ở cuối hành lang ngắn là một cánh cửa sắt nặng trịch.

***

Ký ức cuồn cuộn tràn qua vùng tối trong tâm trí Langdon rồi mau chóng tan biến. Thi thoảng, một tia chớp sáng loà lóe lên kèm theo tiếng thì thầm xa xăm kỳ quái.

Verbum significatium... Verbum omnificum... Verbum perdo...

Tiếng lầm rầm tiếp tục, nghe đều đều như đang từng một khúc thánh ca thời trung cổ.

Verbum significatium... Verbum omnificum. Những từ ấy tan loãng trong khoảng không trống trải, rồi âm thanh khác mới mẻ hơn vang vọng quanh Langdon.

Khải huyền... Franklin... Khải huyền... Verb um... Khải huyền...

Thình lình, một hồi chuông tang lễ bắt đầu ngân lên ở đâu đó xa xăm. Tiếng chuông rung mãi, rung mãi, càng lúc càng vang to. Nó gióng dả gấp gáp, như thể mong Langdon sẽ hiểu, như muốn giục trí nhớ của anh đi theo

Chương 111

Chuông tháp đồng hô ngân nga đúng ba phút, làm rung cả ngọn chúc đài pha lê treo trên đầu Langdon. Vài chục năm trước, anh đã từng tham dự các bài giảng trong chính thính phòng mến yêu này, thính phòng tại Học viện Phillips Exeter. Hôm nay, anh đến đây để nghe một người bạn thân diễn thuyết trước đông đảo sinh viên.

Khi ánh đèn dịu xuống, Langdon kiếm một chỗ ngồi dựa vào bức tường hậu, ngay bên dưới dãy chân dung các vị hiệu trưởng.

Tiếng suỵt ra hiệu im lặng lan khắp khu vực cử toạ.

Trong bóng tối đặc quánh, một bóng người cao lớn băng ngang sân khấu và tiến đến bục diễn thuyết.

- Chào quý vị, - giọng nói không nhìn rõ mặt nhỏ nhẹ vang qua micro.

Tất cả mọi người ngồi thẳng dậy, cố căng mắt nhìn xem ai đến giảng bài cho họ.

Máy chiếu bật sáng, trưng ra một bức ảnh ngả vàng đã mờ, chụp một toà lâu đài rất ấn tượng với mặt tiền bằng sa thạch đỏ, các tháp vuông cao vút và nhiều chi tiết trang trí theo phong cách Gothic.

Bóng người kia lên tiếng.

- Ai đó cho tôi biết đây là đâu được không?

- Xứ Anh! - một giọng nữ vang lên trong bóng tối - Mặt tiền của công trình này là sự pha trộn giữa trường phái Gothic sơ khai và Roman hậu kỳ, suy ra đây là một toà lâu đài Norman đặc trưng và nó thuộc xứ Anh vào khoảng thế kỷ XII.

- Ái chà, - giọng nói không nhìn rõ mặt đáp lại - Có người biết kiến trúc của nó cơ đấy.

Những tiếng xì xầm nổi lên.

- Tiếc thay, - bóng người nói thêm - bạn chệch ba nghìn dặm và nửa thiên niên kỷ.

Cả thính phòng ồn ào.

Lúc này, máy chiếu hiển thị một bức ảnh màu hiện đại của chính toà lâu đài nọ nhưng từ góc độ khác. Các toà tháp bằng sa thạch Seneca Creek choán hết phần tiền cảnh, nhưng ở hậu cảnh, gần đến giật mình, lại sừng sững mái vòm màu trắng với những hàng cột uy nghi của Điện Capitol.

- Khoan đã! - cô gái la lên - Có một toà lâu đài Norman ở Thủ đô ư?

- Từ năm 1855. - giọng nói đáp - Là thời điểm chụp bức ảnh tiếp theo đây.

Tấm ảnh thứ ba xuất hiện: một tấm ảnh đen trắng chụp nội thất, mô tả một phòng khiêu vũ rất rộng, có mái vòm, bài trí những bộ xương động vật, các hộp trưng bày, các lọ thuỷ tinh chứa tiêu bản sinh học, các hiện vật khảo cổ, và mô hình thạch cao những loài bò sát thời tiền sử.

- Lâu đài tuyệt vời này, - giọng nói vang lên - là bảo tàng khoa học đầu tiên của nước Mỹ, là món quà của một nhà khoa học giàu có người Anh. Cũng giống các bậc tiền bối của chúng ta, ông tin rằng lãnh thổ non trẻ này sẽ trở thành mảnh đất của sự khai sáng. Ông chuyển giao một gia tài đồ sộ cho tổ tiên chúng ta và đề nghị họ dùng nó để xây dựng "một cơ sở dành cho sự phát triển và phổ biến tri thức, ngay tại trái tim tổ quốc" - Diễn giả ngừng lại một lúc lâu - Ai cho tôi biết tên của nhà khoa học hào hiệp này nào?

Từ mấy dãy ghế đầu, một giọng nói e dè cất lên:

- James Smithson phải không?

Tiếng rì rầm tán thưởng lan ra khắp đám đông.

- Đúng là Smithson, - người trên sân khấu trả lời, rồi bước hẳn ra ánh đèn, đôi mắt xám ánh lên vui vẻ - Chào tất cả. Tên tôi là Peter Solomon. Tổng thư ký Viện Smithsonian.

Sinh viên vỗ tay rào rào.

Trong bóng tối, Langdon quan sát với vẻ đầy thán phục trong khi Peter làm say lòng những tâm hồn trẻ trung kia bằng một chuyến du lịch qua ảnh để tìm hiểu về lịch sử sơ khai của Viện Smithsonian.

Chương trình bắt đầu với lâu đài Smithsonian, các phòng thí nghiệm khoa học dưới tầng hầm, các hành lang trưng bày tiêu bản, phòng triển lãm động vật nhuyễn thể, các nhà khoa học tự nhận là "những người trông nom loài giáp xác", và thậm chí cả một bức ảnh cũ về hai cư dân quen thuộc nhất của toà lâu đài - một đôi chim cú, giờ đều đã chết, được đặt tên là Diffusion (Phổ biến) và Increase (Phát triển).

Buổi trình diễn kéo dài nửa giờ kết thúc bằng bức ảnh vệ tinh rất ấn tượng về khu vực Công viên Quốc gia, nằm kế bên dãy bảo tàng Smithsonian đồ sộ.

- Như tôi đã nói lúc mới bắt đầu - Solomon kết luận - James Smithson cùng các bậc tiền bối của nước Mỹ mong muốn tổ quốc vĩ đại này trở thành mảnh đất của sự khai sáng. Tôi tin rằng đến nay họ rất tự hào. Viện Smithsonian tuyệt vời của họ sừng sững như một biểu tượng của khoa học và tri thức ở ngay trái tim nước Mỹ. Nó là món quà sống động, đang tồn tại và đang làm việc để thực hiện giấc mơ của cha ông chúng ta, giấc mơ về một đất nước được thành lập trên nguyên tắc tri thức, trí tuệ và khoa học.

Solomon tắt máy chiếu trong tiếng vỗ tay hoan hô nồng nhiệt. Đèn bật sáng. Hàng chục bàn tay háo hức giơ cao xin đặt câu hỏi.

Solomon trỏ một chàng trai nhỏ bé tóc đỏ ở giữa phòng.

- Thưa thầy Solomon? - chàng trai lên tiếng, giọng bối rối - Thầy nói các bậc tiền bối của chúng ta lánh xa tình trạng đàn áp tôn giáo ở châu Âu để lập nên một đất nước trên nguyên tắc của tiến bộ khoa học phải không ạ?

Hoàn toàn đúng.

- Nhưng... em có cảm tưởng các bậc tiền bối của chúng ta là những tín đồ tôn giáo rất nhiệt thành, đã lập nên nước Mỹ với tư cách là một quốc gia Thiên Chúa giáo.

Solomon mỉm cười.

- Thưa các bạn, đừng hiểu lầm ý tôi nhé. Cha ông chúng ta rất quan tâm đến tôn giáo, nhưng họ còn là những nhà thần luận nữa. Họ tin vào Chúa, song tin theo một cách phổ quát và với tư duy mở. Ý tưởng tôn giáo duy nhất họ đề xướng là tư do tôn giáo - ông nhấc micro khỏi bục diễn giải và bước ra mép sân khấu - Những người xây dựng nước Mỹ luôn mơ ước về một xã hội không tưởng được khai sáng về mặt tinh thần, trong đó tự do tư tưởng, phổ cập giáo dục, và tiến bộ khoa học sẽ thay thế cho sự mê tín tôn giáo lạc hậu và tăm tối.

Một cô gái tóc vàng ở phía sau giơ tay lên.

- Mời bạn!

- Thưa thầy, - cô gái nói, giơ cao điện thoại di động - em đã tìm thông tin về thầy trên mạng, và Wikipedia cho biết thầy là một hội viên Tam điểm chủ chốt.

Solomon giơ chiếc nhẫn Tam điểm của mình lên.

- Tôi xin xác nhận với bạn rằng thông tin đó là chính xác.

Sinh viên cười rộ.

- Vâng, - cô gái nói tiếp, vẻ do dự - thầy vừa đề cập đến "sự mê tín tôn giáo lạc hậu", em cho rằng nếu có ai phải chịu trách nhiệm về việc tuyên truyền những điều dị đoan lạc hậu... thì đó chính là Hội Tam điểm.

Solomon không hề lúng túng.

- Thế ư? Như thế nào nào?

- Dạ, em đã đọc rất nhiều về Hội Tam điểm, và em biết Hội có những nghi thức và tín điều lạ lùng. Bài viết trên mạng này thậm chí còn cho rằng Hội Tam điểm tin vào sức mạnh của một dạng tri thức kỳ bí cổ xưa có thể đưa con người đến với thế giới thần thánh.

Tất cả mọi người đều ngoảnh lại, chằm chằm nhìn cô gái như nhìn một kẻ tâm thần.

- Thực tế, cô ấy nói đúng, - Solomon can thiệp.

Đám sinh viên cùng quay lên, nhìn thẳng về phía trước, mắt mở to.

Solomon cố nén cười và hỏi cô gái:

- Trên Wiki còn thông tin nào về kho tri thức kỳ bí ấy nữa không?

Cô gái khá bối rối, nhưng vẫn đọc thành tiếng nội dung trên trang web:

- Để bảo đảm vốn tri thức hùng mạnh này không lọt vào tay những kẻ không xứng đáng, các trí giả xưa đã ghi chép kiến thức của mình dưới dạng mật mã... phủ kín chân lý đích thực của nó trong lớp vỏ ngôn ngữ ẩn dụ gồm các biểu tượng, truyền thuyết và ngụ ngôn. Ngày nay, vốn tri thức được mã hoá này vẫn ở quanh chúng ta... trá hình trong các truyền thuyết, nghệ thuật và văn bản huyền bí. Tiếc thay, con người hiện đại đã mất khả năng giải mã hệ thống biểu tượng phức tạp ấy... nên chân lý vĩ đại bị thất truyền.

Solomon vẫn chờ đợi.

- Chỉ có vậy thôi à?

Cô gái đứng lên khỏi ghế.

Thực tế còn có một đoạn nữa.

- Tôi cũng mong như vậy. Nào, hãy... nói cho chúng tôi nghe đi.

Cô gái tỏ ra do dự, nhưng cũng hắng giọng và tiếp tục.

Theo truyền thuyết, sau khi mã hoá những Bí mật cổ xưa, các hiền nhân đã để lại một chìa khoá... một khẩu lệnh để phá giải chúng. Khẩu lệnh bí ẩn này là verbum significatium, có thể vén bức màn tối tìm vào mọi Bí mật cổ xưa, đưa chúng ra với sự hiểu biết của toàn nhân loại.

Solomon mỉm cười bâng khuâng.

- A đúng rồi... verbum significatium - ông thần người nhìn mông lung một lúc, rồi lại hạ ánh mắt xuống cô gái tóc vàng - Thế giờ thì cái tuyệt vời ấy ở đâu rồi?

Cô gái lộ vẻ e ngại, rõ ràng là không muốn thách thức diễn giả khách mời. Cô đọc nốt.

- Theo truyền thuyết, verbum significatium được chôn sâu dưới lòng đất, và kiên trì chờ đợi khoảnh khắc then chốt trong lịch sử, khi nhân loại không thể tồn tại mà thiếu chân lý, kiến thức và tri thức của mọi thời đại. Rốt cuộc, đến khoảnh khắc giao thời giữa bóng tối và ánh sáng ấy, nhân loại sẽ phát hiện ra Từ khoá và tuyên bố một kỷ nguyên mới rạng ngời.

Cô gái tắt điện thoại và ngồi xuống ghế.

Im lặng kéo dài, roi một sinh viên khác giơ tay.

- Thưa thầy Solomon, thầy không tin điều đó, phải không?

Solomon mỉm cười.

- Sao lại không? Thần thoại có kể về những từ ngữ kỳ diệu lâu đời đem lại hiểu biết và sức mạnh thần thánh. Cho đến hôm nay, trẻ em vẫn hét vang "abracadabra" với hy vọng tạo ra một thứ gì đó từ hư không. Dĩ nhiên, mọi người đều quên rằng từ khoá này không phải là một món đồ chơi, nó có nguồn gốc từ A vrah Kadabra trong chủ nghĩa thần bí Aramaic cổ xưa, có nghĩ là "Ta tạo ra khi ta nói".

Im lặng.

- Nhưng thưa thầy, - chàng sinh viên nhấn mạnh - chắc chắn thầy không tin rằng chỉ đơn thuần một từ khoá... cụm verbum significatium này... cho dù chứa đựng hàm nghĩa nào, lại đủ khả năng mở ra kho tri thức cổ xưa và mang lại sự khai sáng cho toàn thế giới chứ?

Gương mặt Peter Solomon không biểu lộ điều gì.

- Các bạn chẳng nên quan tâm tới tín điều của riêng tôi. Hãy quan tâm đến lời tiên tri về sự khai sáng sắp đến, nó được phản ánh trong tất cả mọi tín điều và truyền thống triết học trên trái đất. Người Hindu gọi nó là Kỷ nguyên Krita, giới chiêm tinh gọi nó là Kỷ nguyên Bảo bình, người Do Thái mô tả nó như sự xuất hiện của Đấng Cứu thế các nhà thần trí học gọi nó là Kỷ nguyên Mới, các nhà vũ trụ học gọi nó là Sự hội tụ Hài hoà và tiên đoán cả ngày tháng cụ thể.

- Ngày 21 tháng 12 năm 2012? - ai đó nói to.

- Phải, rất gần rồi đấy... nếu các bạn tin vào toán pháp của người Maya.

Langdon phì cười, nhớ lại cách đây mười năm, Solomon đã dự đoán chính xác sự xuất hiện dồn dập những chương trình truyền hình đặc biệt cho rằng năm 2012 là năm đánh dấu sự diệt vong của Trái đất.

- Gạt bỏ yếu tố thời gian, - Solomon nói - tôi thấy thật kỳ lạ phải lưu ý rằng trong suốt tiến trình lịch sử, tất cả những triết lý khác nhau của nhân loại đều đồng quy ở một điểm: đó là sự khai sáng vĩ đại của tương lai. Trong mọi nền văn hoá, ở mọi thời đại, tại mọi nơi trên thế giới, giấc mơ của con người đều tập trung vào cùng một quan niệm, cho rằng con người sắp được giải thoát khỏi thế giới trần tục... trí tuệ nhân loại sắp biến cải theo đúng tiềm năng đích thực của chúng - ông mỉm cười - Điều gì có thể giải thích cho một sự đồng bộ về niềm tin như thế chứ?

- Chân lý - một giọng nói vang lên trong đám đông.

Solomon xoay người.

- Ai nói thế nhỉ?

Một sinh viên châu Á giơ tay. Vóc người nhỏ bé với những đường nét mềm mại cho thấy cậu là người Nepal hoặc Tây Tạng.

- Có thể có một chân lý chung nằm sẵn trong tâm hồn mỗi người. Có thể tất cả chúng ta đều mang trong mình cùng một câu chuyện, như một hằng số chung trong DNA. Chân lý này chính là sự tương đồng trong tất cả các câu chuyện của chúng ta.

Solomon tươi cười chắp hai tay vào nhau và cung kính cúi đầu trước cậu sinh viên.

- Cảm ơn bạn.

Mọi người im bặt.

- Chân lý, - Solomon quay sang cử toạ - Chân lý có quyền năng. Chúng ta hướng về những ý tưởng giống nhau, là bởi những ý tưởng ấy là sự thật... được khắc sâu trong tâm khảm chúng ta. Có lúc nghe đến chân lý, thậm chí chưa hiểu ý nghĩa, chúng ta cũng thấy nó ngân lên trong lòng mình... rung động với tri thức vô thức của mình. Chân lý đến với chúng ta không qua con đường học hỏi, mà do khơi gợi... do hồi tưởng... do nhận biết... đúng như những gì vẫn tồn tại trong chúng ta.

Cả thính phòng im phăng phắc.

Solomon duy trì không khí ấy một lúc lâu, rồi nhẹ nhàng nói:

- Tóm lại, tôi muốn lưu ý với các bạn rằng việc khai mở chân lý không bao giờ dễ dàng. Trong suốt chiều dài lịch sử, mọi thời kỳ khai sáng luôn đi kèm với bóng tối, thúc đẩy và đối kháng lẫn nhau. Đó là quy luật của tự nhiên và cân bằng. Nếu hôm nay, chúng ta nhìn thấy bóng tối lan rộng trên thế giới thì cũng cần phải nhận ra rằng có ánh sáng ngang bằng đong thời lan toả. Chúng ta đang mấp mé một thời kỳ khai sáng vĩ đại thật sự, và tất cả chúng ta - tất cả các bạn - đều có diễm phúc được trải nghiệm thời khắc lịch sử quan trọng ấy. Sau bao nhiêu thế hệ, bao nhiêu kỷ nguyên... đến khoảnh khắc ngắn ngủi này, chúng ta được chọn làm nhân chứng cho quá trình phục hưng cuối cùng. Hàng thiên niên kỷ bóng tối đang lùi xa, chúng ta sẽ thấy khoa học, trí tuệ và thậm chí tôn giáo... bắt đầu hé mở chân lý.

Một tràng pháo tay nhiệt thành sắp rộ lên thì Solomon bỗng ra dấu im lặng.

- Bạn ạ! - ông trỏ cô gái tóc vàng có chiếc điện thoại di động ở dãy ghế sau - Tôi biết chúng ta bất đồng ở nhiều điểm, nhưng tôi muốn cảm ơn bạn. Niềm đam mê của bạn là chất xúc tác quan trọng cho những thay đổi mai sau. Thái độ lãnh đạm là sào huyệt của bóng tối còn nhận thức lỗi lầm chính là thuốc giải độc hiệu nghiệm nhất của chúng ta. Hãy tiếp tục nghiên cứu tín điều. Nghiên cứu Kinh thánh - ông mỉm cười - Đặc biệt là những trang cuối cùng.

- Sách Khải huyền? - cô gái hỏi.

- Chính xác. Sách Khải huyền là một ví dụ sâu sắc về chân lý chung của loài người. Cuốn sách cuối cùng trong Kinh thánh kể lại câu chuyện tương đồng giữa nhiều truyền thống khác nhau. Tất cả đều đề cập đến sự khai mở tri thức vĩ đại trong tương lai.

Ai đó lên tiếng:

- Nhưng sách Khải huyền không hề nhắc tới sự diệt vong của thế giới, cũng đâu có đả động gì đến kẻ thù của Chúa, Armageddon hay trận chiến cuối cùng giữa thiện và ác?

Solomon bật cười.

- Ai ở đây đã từng nghiên cứu Hy Lạp?

Vài cánh tay giơ lên.

- Nghĩa đen của từ apocalypse là gì?

- Nó có nghĩa là, - một sinh viên phát biểu, nhưng ngừng ngay lại vẻ ngạc nhiên - Apocalypse nghĩa là "khai mở"... hoặc "tiết lộ".

Solomon gật đầu tán thành.

- Chính xác. Khải huyền theo nghĩa đen là một sự tiết lộ. Cuốn sách về sự tiết lộ trong Kinh thánh dự đoán quá trình khai mở chân lý vĩ đại và tri thức phi thường. Khải huyền không nói đến sự diệt vong của thế giới, mà là sự kết thúc của thế giới chúng ta đang biết. Lời tiên tri của Khải huyền là một trong những thông điệp tuyệt vời của Kinh thánh đã bị hiểu sai - Solomon bước ra phía trước sân khấu - Hãy tin tôi Khải huyền đang đến... và nó khác hẳn những điều người ta dạy cho các bạn bấy nay.

Trên cao, chuông bắt đầu ngân nga.

Tiếng vỗ tay dậy lên như sấm.

Chương 112

Đang chông chênh trong trạng thái nửa mê nửa tỉnh. Katherine Solomon bỗng giật nảy mình vì dư chấn của một tiếng nổ nhức óc đinh tai.

Lát sau, mùi khói thoảng đến.

Tai cô vẫn còn ong ong.

Có tiếng nói loáng thoáng. Ở phía xa. Tiếng gọi nhau. Tiếng bước chân. Bỗng đâu hô hấp của cô thông suốt. Mảnh vải nhét miệng đã được kéo ra.

- Cô an toàn rồi, - một giọng đàn ông thì thầm - Cứ nằm yên.

Anh ta không rút ngay cây kim ra khỏi tay Katherine như cô tưởng, thay vào đó lại lớn tiếng ra lệnh:

- Mang hộp cứu thương đến đây... tiếp ngay một túi truyền dịch vào cây kim... truyền luôn dung dịch Ringer nhé... đo huyết áp cho tôi.

Sau đó anh ta bắt đầu xem xét mạch đập, thân nhiệt, hô hấp... của Katherine, và hỏi:

- Cô Solomon, kẻ làm thế này với cô... hắn đi đâu rồi?

Katherinecố cất tiếng, nhưng không sao bật thành lời.

- Cô Solomon? - người nọ lặp lại - Hắn đi đâu rồi?

Katherine gắng mở to mắt, nhưng cảm thấy mình đang chết dần.

- Chúng tôi cần biết hắn đi đâu, - người nọ thúc giục.

Katherine thì thầm ba từ, dù biết là vô tác dụng.

- Ngọn... núi... thiêng.

Giám đốc Sato bước qua cánh cửa sắt nham nhở, theo lối dốc bằng gỗ đi xuống tầng hầm bí mật. Tới chân dốc bà gặp một đặc vụ.

- Thưa giám đốc, tôi nghĩ bà muốn xem thứ này.

Sato theo chân người đặc vụ vào căn phòng nhỏ nằm bên hành lang hẹp. Căn phòng sáng trưng và trống trải, chỉ có một đống quần áo trên sàn. Sato nhận ra chiếc áo khoác và đôi giày của Robert Langdon.

Đặc vụ trỏ một cái hòm lớn trông y như quan tài ở bức tường phía xa.

Cái quái gì thế không biết?

Sato tiến về phía cái hòm, nhận ra nó gắn với một đường ống nhựa trong suốt chạy xuyên qua tường. Rất thận trọng, bà bước lại gần.

Trên mặt hòm có lắp nắp trượt. Sato cúi xuống đẩy cái nắp sang bên, một ô cửa nhỏ lộ ra.

Bà giật mình nhảy lui.

Bên dưới lớp kính Plexiglas... lập lờ khuôn mặt vô hồn của giáo sư Robert Langdon.

***

Ánh sáng.

Đang lơ lửng trong khoảng không vô định, Langdon chợt thấy quanh mình ngập đầy ánh nắng chói chang. Những tia sáng nóng sực xé tan màn tối, xuyên thẳng vào tâm trí anh.

Ánh sáng tuôn chảy khắp mọi nơi.

Từ đám mây rạng rỡ trước mặt thình lình hiện ra một bóng dáng yêu kiều. Một dung nhan... lờ mờ và nhoà nhạt... đôi mắt đăm đăm nhìn anh qua khoảng trống giữa hai bên. ánh sáng lóe lên từng chùm quanh dung nhan ấy, Langdon băn khoăn tự hỏi, diện mạo của Chúa đây chăng.

Sato chăm chú ngó xuống hòm, ngẫm nghĩ không hiểu giáo sư Langdon có biết chuyện gì đang xảy ra không. E rằng khó. Bởi mục đích chính của công nghệ này là làm con người mất phương hướng mà.

Hòm tiết chế giác quan xuất hiện vào khoảng những năm 1950 và vẫn là cách giải thoát quen thuộc đối với những nhà thí nghiệm giàu có của Kỷ nguyên Mới. "Trôi nổi", như người ta thường gọi, đem lại một trải nghiệm mang tính tiên nghiệm, một dạng hỗ trợ thiền định giúp làm lắng hoạt động của não bằng cách loại bỏ tất cả những thông tin giác quan nạp vào, từ ánh sáng, âm thanh đến cảm giác, thậm chí là trọng lực. Ở loại hòm kiểu truyền thống, người ta sẽ nằm ngửa trong dung dịch hyperbuoyant saline, giữ mặt cao hơn mặt nước để còn thở.

Tuy nhiên, những năm gần đây, người ta đã đạt được bước tiến nhảy vọt về kỹ thuật chế tạo hòm tiết chế giác quan.

Nhờ perfluorocarbon oxy hoá.

Thường được biết đến với tên gọi Thông hơi lỏng toàn diện (TLV), công nghệ mới mẻ này có tính chất phản trực giác đến mức khó tin.

Chất lỏng thở được.

Thở trong chất lỏng là một thực tế được chứng minh từ năm 1966, khi Leland C. Clark thành công trong việc giữ cho một con chuột sống sót sau vài giờ bị dìm vào dung dịch perfluorocarbon oxy hoá.

Năm 1989, công nghệ TLV xuất hiện đầy ấn tượng trong bộ phim Vực thẳm, mặc dù rất ít khán giả nhận ra rằng họ đang chứng kiến một thành tựu khoa học thật sự.

Phương pháp Thông hơi lỏng toàn diện ra đời nhờ những cố gắng của y học hiện đại nhằm giúp trẻ sơ sinh thiếu tháng hô hấp bằng cách trả chúng về với môi trường tương tự tử cung. Phổi con người phải ở trong tử cung chín tháng, nên đã quen thuộc với môi trường chất lỏng. Trước đây, perfluorocarbon quá đặc khiến việc hô hấp khá chật vật, nhưng những đột phá hiện đại làm nó gần như giống hệt nước.

Ban giám đốc Khoa học Công nghệ của CIA - mà giới tình báo thường gọi là "những thầy phù thuỷ Langley" - đã tiến hành vô vàn thí nghiệm với perfluorocarbon oxy hoá để phát triển công nghệ cho quân đội Hoa Kỳ. Các nhóm lặn sâu của hải quân thấy rằng khi thở bằng chất lỏng oxy hoá thay cho heliox hoặc trimix thông thường thì họ có khả năng lặn ở độ sâu lớn hơn mà không gặp nguy cơ tai biến do áp suất. Tương tự, NASA và lực lượng không quân thừa nhận các phi công được trang bị thiết bị thở chất lỏng thay cho bình oxy truyền thống có thể trụ vững trước các lực G(100) tốt hơn bởi chất lỏng lan toả lực G qua các cơ quan nội tạng đồng đều hơn chất khí.

Sato cũng biết nhiều người tự lập "phòng siêu thí nghiệm" để dùng thử bể Thông hơi lỏng toàn diện mà họ gọi là "những cỗ máy thiền định". Cái hòm này có lẽ được lắp đặt cho mục đích nghiên cứu riêng của chủ nhân, song đám chốt khoá nặng nề khiến bà ngờ rằng nó còn phục vụ cho những ứng dụng đen tối khác... chẳng hạn cho thẩm vấn, một kỹ thuật mà CIA khá quen thuộc.

Nhấn nước là kỹ thuật thẩm vấn đầy tai tiếng, nhưng rất hiệu quả bởi nạn nhân thật sự tin rằng mình đang chết đuối. Trong một vài hoạt động mật, người ta sử dụng loại bể tiết chế cảm giác tương tự thế này để tăng hiệu ứng lên nhiều cấp độ mới khủng khiếp hơn, khi bị dìm trong chất lỏng, nạn nhân có thể "chết đuối" theo đúng nghĩa đen. Cơn hoảng loạn đi kèm với cảm giác chết chóc khiến họ không nhận ra rằng chất lỏng mình đang hít thở sền sệt hơn nước. Khi chất lỏng tràn vào phổi, họ thường ngất đi vì sợ, và sau đó tỉnh lại trong trạng thái "bế quan".

Người ta còn trộn các chất gây tê, gây liệt, và ma tuý gây ảo giác vào chất lỏng oxy hoá ấm để khiến tù nhân có cảm giác hồn bất phụ thể. Mặc trí não phát lệnh cử động đi khắp cơ bắp, chân tay cũng không nhúc nhích được. Bản thân trạng thái "chết" đã đủ kinh hãi, nhưng trạng thái mất phương hướng bắt nguồn từ quá trình "tái sinh", cùng với sự hỗ trợ của ánh sáng mạnh, không khí lạnh, và tiếng ồn chói tai, mới thực sự gây thương tổn và đau đớn. Sau vài lần liên tục tái sinh và chết đuối, tù nhân sẽ hoảng loạn đến nỗi không rõ mình còn sống hay đã chết... và anh ta sẵn sàng cung khai mọi điều.

Sato toan đợi y tế đến để đưa Langdon ra, nhưng bà hiểu rằng không còn đủ thời gian nữa. Phải tìm xem người đàn ông này đã biết những gì.

- Tắt hết đèn đi, - bà ra lệnh - Và tìm cho tôi mấy cái chăn.

***

Mặt trời chói loà biến mất.

Gương mặt cũng biến mất.

Bóng tối trở lại, nhưng giờ Langdon nghe thấy tiếng thì thầm văng vẳng lọt qua khoảng không xa xôi hàng bao nhiêu năm ánh sáng.

Những giọng nói nghèn nghẹt... những từ ngữ rắc rối. Có cả những chấn động, cứ như thể thế giới sắp vỡ tung.

Rồi điều đó xảy ra thật: Rất đột ngột, vũ trụ bị xé toang làm đôi. Một vết nứt khổng lồ mở ra một vùng trống rỗng... tựa hồ không gian nứt ngay ở đường phân giới. Một màn sương xam xám tràn qua lỗ hổng, và Langdon nhìn thấy một cảnh tượng hãi hùng. Những bàn tay ở đâu vươn tới, tóm lấy anh, cố gắng lôi anh ra khỏi thế giới của mình.

- Không! Langdon chống cự thật lực, nhưng anh không có tay... không có nắm đấm. Hay là anh có nhỉ? Thình lình, anh cảm thấy cơ thể mình hiện ra trong tâm trí. Da thịt anh đã quay trở lại và đang bị mấy bàn tay mạnh mẽ kia tóm lấy lôi dậy. Không, xin hãy làm ơn!

Nhưng đã quá muộn.

Khi những bàn tay lôi tuột Langdon ra khỏi lỗ hổng. anh thấy ngực đau nhói, phổi như bị nhồi đầy cát. Ngạt thở quá! Bỗng dưng, anh thấy mình nằm ngửa trên một mặt phẳng cứng và lạnh chưa từng thấy. Ngực anh bị ấn xuống, liên tục, mạnh và đau. Anh đang mửa ra hơi nóng.

Tôi muốn quay trở lại!

Langdon có cảm giác mình là một đứa trẻ vừa sinh ra từ bụng mẹ.

Anh cứ co giật, ho khạc chất lỏng, ngực và cổ nhức buốt, nhức gớm ghê, họng thì bỏng rát. Người ta đang nói chuyện, cố giữ ở mức thì thầm, nhưng nghe vẫn đinh tai nhức óc. Langdon chưa nhìn rõ, chỉ thấy xung quanh toàn những hình thù câm lặng. Da anh tê dại như da chết. Ngực anh bị đè nặng hơn... sức ép. Mình ngạt thở quá!

Langdon khạc thêm một chút chất lỏng. Cơn buồn nôn trào lên, anh cố hít ngược lại. Không khí lạnh theo đó tràn đầy phổi, Langdon tưởng đâu mình là đứa trẻ sơ sinh đang hít lấy hơi thở đầu tiên. Thế giới này thật đau khổ. Anh chỉ muốn quay trở lại nơi anh vừa sinh ra.

Chẳng biết thời gian trôi qua lâu hay chóng, Langdon nhận thấy mình đang nằm nghiêng trên sàn nhà cứng, người quấn trong chăn và khăn bông. Một gương mặt quen thuộc đang nhìn xuống anh... nhưng không còn quầng sáng chói loà nào nữa. Những tiếng lầm rầm xa xăm như cầu kinh vẫn vơ vẩn trong tâm trí anh.

Verbum significatium... Verbum omnificum...

- Giáo sư Langdon, - ai đó thì thào - ông có biết mình đang ở đâu không?

Langdon yếu ớt gật đầu, và vẫn ho sù sụ.

Nhưng quan trọng là, anh bắt đầu thông suốt chuyện gì đã diễn ra tối nay.

Chú thích:

(100) Lực G của một vật là gia tốc của nó so với khi rơi tự do.

Chương 113

Quấn mình trong mớ chăn len. Langdon đứng trên đôi chân run run, chòng chọc nhìn cái bể chất lỏng mở toang. Cơ thể đã trở về với anh, mặc dù anh chẳng ước ao điều đó. Cổ họng và phổi anh bỏng rát. Thế giới nghiệt ngã và tàn bạo biết bao!

Sato vừa giải thích về loại bể tiết chế cảm giác, và nói thêm nếu bà không lôi anh ra ngoài thì anh sẽ chết đói hoặc thậm chí còn tệ hơn.

Langdon tin chắc Peter cũng đã nếm trải tình cảnh tương tự. Peter đang ở quãng giữa, lúc chập tối gã đàn ông xăm trổ có nói với anh như vậy ông ấy đang ở luyện ngục... Hamistagan. Nếu Peter phải trải qua vài lần tái sinh kiểu này thì Langdon không lấy gì làm ngạc nhiên khi ông tiết lộ cho kẻ bắt giữ mình mọi điều gã hỏi.

Sato ra hiệu cho Langdon đi cùng bà, và anh tuân theo, chậm rãi lê bước tới một sảnh hẹp, nằm sâu hơn trong cái hang ổ dị hợm chưa từng thấy này. Họ tiến vào một gian phòng vuông vức tràn ngập ánh đèn màu kỳ quái, giữa phòng kê một chiếc bàn đá. Trông thấy Katherine, mặc dù tình trạng của cô còn rất thê thảm, Langdon vẫn thở phào nhẹ nhõm.

Katherine nằm ngửa trên chiếc bàn đá, dưới sàn vương vãi toàn khăn bông đẫm máu. Một đặc vụ CIA đang giơ cao túi dịch với ống truyền nối vào tay Katherine.

Cô đang thổn thức.

- Katherine? - Langdon khó nhọc gọi.

Katherine ngoảnh đầu ra, vẻ ngơ ngác và bối rối.

- Robert đấy à? - Cô mở to mắt, thoạt tiên ngỡ ngàng và sau đó là phấn khởi - Nhưng... em nhìn thấy anh chết đuối rồi mà!

Langdon tiến lại phía bàn đá.

Katherine cố nhấc mình ngồi lên, mặc kệ ống truyền dịch và vẻ bực bội của anh chàng đặc vụ. Langdon tới bên cái bàn, Katherine vươn người ra, vòng hai tay ôm cả Langdon lẫn tấm chăn quấn của anh và siết thật chặt.

- Ơn Chúa, - cô thì thầm, hôn lên má Langdon. Rồi cô lại hôn và siết chặt anh thêm lần nữa như không tin anh tồn tại thật - Em không hiểu... làm thế nào...

Sato xen vào, giải thích về loại bể tiết chế cảm giác và perfluorocarbon oxy hoá, nhưng rõ ràng Katherine chẳng hề lắng nghe. Cô chỉ ôm Langdon thật chặt.

Rồi nhớ lại cảnh đoàn tụ hãi hùng với Peter, cô run run nói:

- Robert, anh Peter còn sống.

Cô miêu tả tình trạng sức khỏe của ông, chiếc xe lăn, con dao kỳ lạ, những lời ám chỉ một sự "hy sinh", và việc gã kia bỏ lại cô trong tình trạng chảy máu làm đồng hồ sống nhằm ép Peter phải hợp tác thật nhanh.

Langdon không đưa ra bình luận nào.

- Em có... biết họ đi... đâu không?

- Gã nói sẽ đưa anh Peter tới ngọn núi thiêng.

Langdon bứt ra và nhìn Katherine chằm chằm.

Mắt cô vẫn còn đẫm lệ.

- Gã nói đã giải mã được đồ hình dưới đáy kim tự tháp, và đáp án cho biết phải tới ngọn núi thiêng.

- Giáo sư, - Sato thúc giục - chi tiết đó có ý nghĩa gì với ông không?

Langdon lắc đầu.

- Không hề - song anh vẫn thấy le lói hy vọng - Nhưng nếu hắn có thông tin từ đáy kim tự tháp thì chúng ta cũng có thể có. Mình chỉ cho gã cách giải mà.

Sato lắc đầu.

- Kim tự tháp không còn ở đây nữa. Chúng tôi đã tìm. Hắn mang theo mình rồi.

Langdon im lặng, nhắm mắt và" cố hồi tưởng bảng biểu tượng ở đế tháp. Cái bảng ấy là một trong những hình ảnh cuối cùng anh nhìn thấy trước khi chết đuối, song chấn thương có thể xoá bỏ ký ức nằm sâu trong trí não. May lắm anh chỉ nhớ được một phần đồ hình chứ không phải tất cả, nhưng có lẽ thế cũng đủ rồi chăng?

Anh quay sang Sato và nói nhanh:

- Tôi có thể nhớ ra, nhưng tôi cần bà tìm giúp một thứ trên Internet.

Sato rút chiếc Blackberry.

- Hãy tìm kiếm cụm "ô vuông Franklin bậc tám"!

Sato sửng sốt nhìn anh, nhưng vẫn nhập các từ vào mà không hỏi han thêm.

Vì mắt vẫn mờ, đến tận lúc này Langdon mới bắt đầu quan sát không gian lạ lùng quanh mình. Anh nhận ra chiếc bàn đá mà họ đang dựa vào có rất nhiều vết máu cũ, bức tường bên phải dán toàn văn bản, ảnh, hình vẽ, bản đồ và một mạng lưới các sợi dây kết nối chúng với nhau.

Chúa ơi!

Vẫn quấn chặt mình trong tấm chăn, Langdon tiến về phía tác phẩm cắt dán lạ mắt nọ. Đính trên tường là một tập hợp thông tin kỳ cục những trang văn bản cổ, từ ma thuật tới Kinh thánh Thiên Chúa giáo, hình vẽ các biểu tượng và dấu ấn, trang in các website, ảnh vệ tinh Washington D.C. kèm theo những chú thích và dấu chấm hỏi nguệch ngoạc. Trong đó có một danh sách từ ngữ dài thượt thuộc nhiều ngôn ngữ khác nhau. Anh nhận ra một vài từ là thánh ngữ của Hội Tam điểm, một số khác là các từ ngữ ma thuật cổ xưa, và cả các từ trong những câu thần chú hành lễ.

Phải chăng đó là những gì hắn đang tìm kiếm?

Một từ?

Đơn giản vậy thôi ư?

Lâu nay, lý do chủ yếu khiến Langdon nghi ngờ tính xác thực của Kim tự tháp Tam điểm chính là bởi ai cũng cho rằng nó tiết lộ vị trí của những Bí mật Cổ xưa. Tiết lộ này lại liên quan đến một căn hầm khổng lồ chứa hàng ngàn hàng vạn cuốn sách không hiểu sao vẫn tồn tại được trong khi các thư viện lưu giữ chúng ngày xưa đã tuyệt tích từ lâu. Câu chuyện nghe chừng phi lý. Căn hầm nào mà lớn đến vậy? Lại nằm dưới lòng Thủ đô nước Mỹ nữa chư? Tu nhiên, nhớ đến bài giảng của Peter ở Phillips Exeter, kết hợp với danh sách từ ngữ huyền bí trên tường, Langdon chợt phát hiện một khả năng đáng chú ý khác.

Anh hoàn toàn không tin vào sức mạnh của các từ ngữ ma thuật... nhưng hiển nhiên là gã đàn ông xăm trổ kia rất tin. Langdon nhìn lướt các chú thích nguệch ngoạc, bản đồ, văn bản, bản in, cùng tất cả những sợi dây liên kết và giấy ghi nhớ.

- Thế là đủ có một chủ đề xuyên suốt ở đây.

Lạy Chúa, hắn đang tìm verbum significatium... Từ Còn Thiếu.

Langdon để cho suy nghĩ định hình, nhớ lại các phần bài giảng của Peter. Từ Còn Thiếu chính là thứ hắn đang tìm kiếm, là thứ hắn tin rằng được chôn giấu tại Washington.

Sato đến bên cạnh anh.

- Ông cần thông tin này phải không? - Bà đưa chiếc Blackberry ra.

Langdon nhìn ma trận vuông mỗi chiều tám số trên màn hình.

- Chính xác - Anh vớ lấy một mẩu giấy - Tôi mượn cái bút.

Sato đưa cho anh cây bút trong túi bà.

- Xin hãy khẩn trương lên?

***

Dưới tầng hầm, trong văn phòng Ban giám đốc Khoa học và Công nghệ, Nola Kaye nghiên cứu lại bản tài liệu tự soạn được chuyên gia an ninh hệ thống Rick Parrish mang tới. Giám đốc CIA làm quái gì với tệp tin về kim tự tháp cổ và những địa điểm ngầm nhỉ? Cô vớ điện thoại và quay số.

Sato bắt máy ngay, giọng đầy căng thẳng.

- Nola, tôi vừa định gọi cho cô.

- Tôi có thông tin mới đây - Nola báo - Chưa biết thứ này có phù hợp không, nhưng tôi vừa phát hiện ra một tài...

- Gác lại đi, cho dù nó là gì, - Sato ngắt lời - Chúng ta không còn thời gian. Mục tiêu đã tẩu thoát, và tôi có đủ lý do tin rằng hắn sắp thực hiện lời đe doạ của mình.

Nola cảm thấy ớn lạnh.

- Tin tốt lành là chúng tôi biết chính xác hắn đi đâu - Sato hít một hơi thật sâu - Tin xấu là hắn mang theo một máy tinh xách tay

Chương 114

Cách đó chưa đầy mười dặm, Mal'akh kéo tấm chăn phủ quanh người Peter Solomon và đẩy ông băng qua bãi đỗ xe ngập ánh trăng để vào vùng bóng tối của một toà nhà đồ sộ. Công trình này có ba mươi ba cây cột ở bên ngoài... mỗi cột cao đúng ba mươi ba feet Hiện giờ quanh đây hoàn toàn vắng lặng, không ai nhìn thấy họ quay trở lại cả. Mà có cũng chẳng sao. Ai lại bận tâm nhiều về một người đàn ông cao lớn, lịch thiệp mặc áo choàng dài màu đen đưa một người tàn tật hói đầu đi dạo vào buổi tối cơ chứ.

Tới lối cửa hậu, Mal'akh đẩy Peter lại gần bảng khoá điện tử. Peter nhìn bàn phím vẻ thách thức, rõ ràng không có ý định nhập mã.

Mal'akh cười:

- Ông tưởng ông đến đây để giúp tôi vào trong à? Tôi là một huynh đệ của ông cơ mà, sao ông quên nhanh thế? - Gã vươn tay và nhập mã truy cập được phát sau lễ nhập môn lên cấp độ 33.

Cánh cửa nặng nề bật mở.

Peter gầm gừ và bắt đầu vùng vẫy trên xe lăn.

- Peter, Peter, - Mal'akh thủ thỉ - Hãy nhớ đến Katherine. Hãy hợp tác và cô ấy sẽ sống. Ông có thể cứu được cô ấy. Tôi thề đấy.

Mal'akh đẩy nạn nhân của gã vào trong và khoá cửa lại sau lưng, tim đập rộn ràng vì hi vọng. Gã đưa Peter qua vài hành lang, tới một cầu thang máy và ấn nút. Cửa mở ra. Mal'akh giật lùi vào trong, kéo theo chiếc xe lăn. Gã vươn tay và ấn nút trên cùng, cố ý để Peter nhìn rõ hành động của mình, vẻ kinh sợ cùng cực thoáng hiện trên gương mặt đau đớn của người đàn ông.

- Suỵt - Mal'akh thì thào, nhẹ nhàng xoa cái đầu nhẵn thín của Peter trong khi cửa thang máy đóng lại - ông biết đấy... bí mật là chết như thế nào mà.

***

Mình không thể nhớ được tất cả các biểu tượng!

Langdon nhắm mắt lại, cố gắng hồi tưởng vị trí chính xác của từng biểu tượng ở đáy kim tự tháp, nhưng ngay cả trí nhớ thị giác của anh cũng chưa đạt được mức độ ấy. Anh ghi lại vài biểu tượng còn nhớ được sắp xếp chúng vào vị trí tương ứng theo chỉ dẫn của ma phương Franklin.

Tuy nhiên, anh vẫn chưa phát hiện điều gì có nghĩa.

- Xem kìa! - Katherine hối thúc - Anh đang đi đúng đường rồi đấy.

Hàng đầu tiên đều là chữ cái Hy Lạp, suy ra các biểu tượng cùng loại được sắp xếp bên nhau!

Langdon cũng nhận ra quy tắc đó, nhưng anh không tìm được từ Hy Lạp nào phù hợp với cấu trúc chữ cái và ô trống này. Mình cần ký tự đầu tiên. Anh lại liếc nhìn ma phương, cố gắng nhớ ra chữ cái nằm ở vị trí số 1 gần góc bên trái phía dưới. Nghĩ xem nào. Anh nhắm mắt, thử hình dung đế kim tự tháp. Hàng dưới cùng... cạnh góc bên trái... chữ gì ở đó nhỉ? Nhất thời, Langdon quay trở lại cái hòm, hoảng loạn ghê gớm, đăm đăm nhìn phần đáy kim tự tháp qua ô kính Plexiglas.

Đột nhiên, anh nhìn ra. Anh mở mắt, thở dốc.

- Chữ cái đầu tiên là Ή.

Langdon quay lại đồ hình và viết chữ cái đầu tiên. Từ ngữ vẫn chưa hoàn chỉnh, nhưng anh đã thấy đủ. Anh chợt nhận ra đó là từ gì.

Ήερεδομ

Tim đập thình thịch, Langdon gõ một lệnh tìm kiếm mới vào chiếc Blackberry. Anh nhập từ tiếng Anh tương đương của từ Hy Lạp nổi tiếng kia. Kết quả đầu tiên là một mục từ bách khoa toàn thư. Anh đọc và biết rằng chính là thứ mình đang tìm.

HEREDOM dt. Một từ quan trọng trong

Hội Tam điểm "cấp cao" xuất hiện trong sách

nghi lễ của tổ chức Thập tự Hoa hồng Pháp

để chỉ một ngọn núi huyền thoại ở Scotland,

nơi đặt cơ sở Tăng hội đầu tiên. Heredom

được dịch từ Ήερεδομ trong tiếng Hy Lạp,

nguyên gốc là Hieros-domos, nghĩa là Thánh điện.

- Đúng rồi! - Langdon sửng sốt kêu lên - Đó chính là nơi họ đến.

Sato đang đọc nội dung qua vai anh, nghe vậy liền lộ vẻ ngơ ngác.

- Đến ngọn núi huyền thoại ở Scotland à?

Langdon lắc đầu.

- Không, tới một toà nhà ở ngay Washington, có tên gọi mã hoá là Heredom.

Chương 115

Thường được các huynh đệ biết đến bằng tên gọi Heredom, Thánh điện Hội Tam điểm luôn là chiếc vương miện của chi phái Scottish Rite ở Hoa Kỳ. Với phần mái hình kim tự tháp dốc tuột, toà nhà này được đặt theo tên một ngọn núi tưởng tượng ở Scotland. Tuy nhiên, Mal'akh biết rằng kho báu cất giấu tại đây hoàn toàn không phải chuyện tưởng tượng.

Chính là nơi này, gã biết như vậy. Kim tự tháp Tam điểm đã chỉ đường.

Khi chiếc thang máy cũ kỹ từ từ leo tới tầng ba, Mal'akh rút ra một mảnh giấy, trên đó vẽ đồ hình biểu tượng gã vừa sắp xếp lại nhờ sử dụng Ma phương Franklin. Tất cả các chữ cái Hy Lạp được chuyển lên hàng đầu tiên... cùng với một ký hiệu đơn giản.

Bức thông điệp rõ ràng tới mức không thể rõ ràng hơn được.

Ngay bên dưới Thánh điện.

Heredomâ

Từ Còn Thiếu ở đâu đó... quanh đấy.

Mặc dù Mal'akh chưa biết cụ thể làm cách nào xác định được nó, nhưng gã tự tin rằng câu trả lời nằm trong các biểu tượng còn lại của đồ hình. Thật tiện lợi là chính Peter Solomon sẽ có mặt hỗ trợ khi gã phá giải những bí mật của Kim tự tháp Tam điểm cũng như của toà nhà này. Không một ai thích hợp hơn ông. Đích thân Đại Huynh trưởng.

Peter tiếp tục vùng vẫy trên xe lăn, âm thanh tắc nghẹn bật ra qua nắm giẻ nhét trong miệng.

- Tôi biết ông lo lắng cho Katherine, - Mal'akh vỗ về - Nhưng cũng gần kết thúc rồi.

Với gã, dường như hồi kết đến thật đột ngột. Sau bao nhiêu năm đau đớn lên kế hoạch, chờ đợi và tìm kiếm... giờ đây thời khắc ấy đã đến.

Thang máy chạy chậm dần, Mal'akh cảm thấy vô cùng phấn khích.

Khoang thang máy giật mạnh và dừng lại.

Cánh cửa bằng đồng trượt mở, Mal'akh nhìn ra gian buồng rộng thênh thang trước mắt. Căn phòng hình vuông, rộng rãi, trang trí đầy những biểu tượng và ngập trong ánh trăng chiếu xuống qua mắt vòm ở đỉnh trần nhà cao vút phía trên.

Ta đã trở lại điểm xuất phát! Mal'akh nghĩ.

Phòng Thánh lễ chính là nơi Peter Solomon và các huynh đệ của ông dại dột kết nạp Mal'akh vào hàng ngũ của họ. Giờ đây, bí mật tối thượng của Hội Tam điểm, bí mật mà hầu hết các huynh đệ đều không tin là tồn tại, sắp vỡ lở hết rồi.

***

- Hắn sẽ không tìm thấy gì đâu - Langdon nói trên đường theo Sato và những người khác ngược lên lối dốc bằng gỗ để ra khỏi gian hầm. Anh vẫn thấy mất phương hướng, bước đi còn loạng choạng - Không có Từ ngữ thật sự đâu. Nó chỉ là một ẩn dụ, một biểu tượng của những Bí mật cổ xưa.

Katherine theo sau, hai đặc vụ đỡ cô leo lên dốc.

Cả nhóm thận trọng bước qua tàn tích của cánh cửa thép, qua bức tranh xoay tròn và tiến vào phòng khách. Langdon giải thích với Sato rằng Từ Còn Thiếu là một trong những biểu tượng lâu đời nhất của Hội Tam điểm, chỉ có một từ thôi, viết bằng thứ ngôn ngữ bí hiểm tới mức ngày nay không ai dịch nổi nữa. Từ ngữ ấy, cũng như chính các Bí mật, hứa hẹn tiết lộ sức mạnh tiềm ẩn bên trong cho những người đã được khai sáng đủ để giải mã nó.

- Người ta nói rằng, - Langdon kết luận - ai sở hữu và hiểu được Từ Còn Thiếu... thì những Bí mật cổ xưa sẽ trở nên sáng tỏ với người đó.

Sato liếc mắt lại.

- Ông cho rằng gã này đang tìm kiếm một từ ngữ à?

Langdon phải thừa nhận rằng giả thuyết nghe chừng phi lý nếu xét ở giá trị bề mặt, nhưng nó lại giải đáp được rất nhiều câu hỏi.

- Tôi không phải là một chuyên gia về ma thuật nghi lễ - anh đáp - nhưng theo mớ tài liệu trên các bức tường ở tầng hầm nhà hắn... tôi có thể nói rằng hắn đang hy vọng tìm ra Từ Còn Thiếu và vẽ nó lên cơ thể mình.

Sato dẫn cả nhóm về phía phòng ăn. Bên ngoài, chiếc trực thăng đang khởi động, cánh quạt phành phạch càng lúc càng to.

Langdon vẫn lẩm bẩm.

- Nếu gã này thực sự tin rằng hắn sắp mở khoá sức mạnh của những Bí mật cổ xưa thì trong tư duy của hắn, không biểu tượng nào hiệu nghiệm hơn Từ Còn Thiếu. Chắc hắn nghĩ tìm ra nó và vẽ nó lên vị trí thiêng liêng như đỉnh đầu thì coi như hắn đã được trang điểm hoàn hảo và về mặt nghi thức, đã sẵn sàng... - Anh ngừng lại, nhìn Katherine. Cô đang tái nhợt trước ý nghĩ về số phận trứng treo đầu đẳng của Peter.

- Nhưng... anh Robert, - cô yếu ớt nói, giọng phập phù trong tiếng ầm ầm của cánh quạt trực thăng - Đây là tin tốt phải không? Nếu hắn muốn vẽ Từ Còn Thiếu lên đỉnh đầu trước khi hắn hy sinh Peter thì chúng ta vẫn còn thời gian. Hắn phải tìm thấy Từ ấy rồi mới giết Peter. Nên nếu không có Từ ấy...

Các đặc vụ đỡ Katherine ngồi xuống ghế. Langdon gắng tỏ vẻ hy vọng.

- Tiếc thay, Peter vẫn tưởng em đang chảy máu đến chết. Ông ấy cho rằng cách duy nhất để cứu em là hợp tác với gã điên... giúp hắn tìm Từ Còn Thiếu.

- Vậy thì sao? - Katherine bướng bỉnh - Nếu Từ Còn Thiếu không tồn tại...

- Katherine, - Langdon nhìn sâu vào mắt cô - Nếu anh tin rằng em đang chết dần, và nếu ai đó hứa với anh rằng anh có thể cứu em bằng cách tìm ra Từ Còn Thiếu, thì anh sẽ tìm cho hắn một từ, bất kỳ từ gì, rồi sau đó cầu Chúa để hắn giữ lời hứa.

***

- Giám đốc Sato? - một đặc vụ hét to từ phòng bên - Bà nên xem thứ này!

Sato vội vã ra khỏi phòng ăn. Một đặc vụ đang đi từ phía cầu thang phòng ngủ xuống, mang theo một bộ tóc giả màu vàng. Cái quái gì thế?

- Tóc người, - anh ta nói, trao nó cho Sato - Tìm thấy trong phòng thay quần áo. Xin hãy nhìn kỹ vào.

Bộ tóc giả màu vàng nặng hơn Sato nghĩ. Phần chỏm dường như được tạo hình bằng một thứ keo đặc. Lạ là mặt bên dưới của bộ tóc có một sợi dây thò ra.

- Loại pin keo gắn vào lớp da đầu - đặc vụ giải thích - để chạy một máy quay sợi quang bé bằng đầu tăm giấu trong tóc.

- Sao cơ? - Sato sờ khắp bộ tóc, cuối cùng tìm thấy ống kính máy quay nhỏ xíu giấu kín lẩn trong phần tóc ngang trán - Đây là máy quay à?

- Máy quay video, - đặc vụ nói - Lưu trữ các đoạn phim bằng cái thẻ bán dẫn nhỏ xíu này - Anh ta chỉ vào một mẩu silicon cỡ bằng con tem dính chặt vào lớp da đầu - Có lẽ kích hoạt bằng cử động.

Lạy Chúa, Sato nghĩ thầm. Hoá ra đây là cách hăn thực hiện việc đó! Loại máy quay bí mật kiểu "bông hoa trên ve áo" này đóng vai trò then chốt trong cuộc khủng hoảng mà giám đốc OS phải đối mặt tối nay. Bà đăm đăm nhìn nó hồi lâu và trao lại cho người đặc vụ.

- Tiếp tục lục soát căn nhà - bà ra lệnh - Hễ tìm được thông tin gì về gã này thì báo cho tôi ngay. Máy tính xách tay của gã đã biến mất, và tôi muốn biết trong khi di chuyển gã định kết nối nó với thế giới bên ngoài ra sao. Hãy lục soát phòng làm việc xem có cẩm nang hướng dẫn, dây cáp hay bất kỳ thứ gì cung cấp manh mối về phần cứng của hắn không.

- Vâng, thưa bà - Anh chàng đặc vụ vội vã đi ra.

Thời gian đang cạn dần. Sato nghe rõ cánh quạt trực thăng quay ầm ầm ở tốc độ cao nhất. Bà vội vã trở lại phòng ăn, Simkins vừa dẫn Warren Bellamy từ máy bay vào và hỏi thêm thông tin về toà nhà mà họ tin là đích đến của đối tượng.

Thánh điện Hội Tam điểm.

- Cửa trước bị khoá trái - Bellamy nói, vẫn co ro trong tấm chăn và run lẩy bẩy từ lúc ở ngoài Quảng trường Franklin - Cửa sau toà nhà là lối duy nhất để các anh lọt vào. Nó có khoá điện tử, chỉ các huynh đệ biết mã PIN mới đi qua được.

- PIN là bao nhiêu? - Simkins hỏi, tay ghi chép luôn.

Bellamy ngồi xuống, trông yếu đến nỗi không đứng nổi. Ông đọc mã truy nhập của mình, hai hàm răng va vào nhau lập cập, và nói thêm:

- Địa chỉ là 1733 Phố 16. Nếu cần lái thẳng đến tận nơi và tìm chỗ đỗ thì ở sau toà nhà ấy. Phải khôn khéo một chút mới tìm được, nhưng...

- Tôi biết chính xác vị trí - Langdon lên tiếng - Tôi sẽ chỉ chỗ khi chúng ta tới đó.

Simkins lắc đầu.

- Ông không đi được, giáo sư ạ. Đây là một vụ quân sự...

- Thế quái nào mà tôi không đi được? - Langdon vặc lại - Peter đang ở đó. Toà nhà lại là một mê cung. Không có người dẫn đường, các vị sẽ mất đến mười phút để tìm được lối lên Phòng Thánh lễ!

- Anh ấy nói đúng đấy - Bellamy xác nhận - Thánh điện là một mê cung. Có thang máy, nhưng nó cũ và rất ồn, lại mở thẳng vào Phòng Thánh lễ. Nếu các vị định tiếp cận một cách lặng lẽ, thì nên dùng thang bộ.

- Các vị sẽ không tìm được lối đi đâu, - Langdon cảnh báo - Từ cửa hậu, các vị còn phải qua Sảnh Biểu chương, Sảnh Nghi thức, chiếu nghỉ giữa, Cửa chính, Cầu thang lớn...

- Được rồi, - Sato lên tiếng - ông Langdon sẽ đi cùng

Chương 116

Năng lượng đang tăng lên.

Trên đường đẩy Peter về phía bàn thờ, Mal'akh cảm thấy năng lượng rộn ràng trong gã, lúc trào lên lúc dịu xuống. Khi rời khỏi toà nhà này ta sẽ hùng mạnh hơn hẳn lúc ta bước vào. Giờ chỉ còn một việc là định vị thành tố cuối cùng thôi.

- Verbum significatium, - gã thì thầm tự nhủ - Verbum omnificum.

Mal'akh dừng chiếc xe lăn của Peter bên cạnh bàn thờ rồi bước vòng lên, mở cái túi nặng trịch đang đặt trên đùi ông. Gã thò tay vào trong, nhấc kim tự tháp đá ra và giơ nó lên phía ánh trăng, ngay trước mắt Peter, cho ông thấy rõ đồ hình biểu tượng khắc ở phần đáy.

- Suốt bao nhiêu năm, - gã chế nhạo - các người chẳng biết kim tự tháp giữ bí mật của nó như thế nào.

Mal'akh cẩn thận đặt kim tự tháp lên góc bàn thờ và quay lại chỗ cái túi - Và lá bùa này - gã vừa nói vừa lôi chóp vàng ra - quả thực lập lại trật tự từ hỗn loạn, đúng như lời hứa hẹn.

Gã cẩn thận đặt cái chóp lên chốc kim tự tháp đá, sau đó bước lùi lại để Peter nhìn cho rõ:

- Xem nào, biểu hình của ông đã hoàn tất.

Mặt Peter méo xệch, ông cố gắng nói nhưng không thành tiếng.

- Tốt lắm. Tôi nhận ra ông có điều muốn bộc bạch - Mal'akh giật mạnh búi giẻ.

Peter Solomon ho sặc sụa và mất vài giây thở hổn hển rồi mới cất tiếng được.

- Katherine...

- Thời gian của Katherine rất ít. Nếu ông muốn cứu cô ta, tôi khuyên ông thực hiện đúng điều tôi yêu cầu.

Bản thân Mal'akh cho rằng Katherine đã chết, nếu không thì cũng gần chết, nhưng chẳng có gì khác biệt. Cô còn may mắn là đã sống đủ lâu để nói lời tạm biệt với anh trai mình.

- Xin anh. - Peter nài nỉ, giọng ông run rẩy - Hãy gọi cấp cứu đến giúp cô ấy...

- Tôi sẽ làm như thế. Nhưng trước tiên ông phải cho tôi biết cách tiếp cận cầu thang bí mật.

Nét mặt Peter lộ rõ vẻ ngơ ngác.

- Sao cơ?

- Cầu thang. Truyền thuyết Tam điểm kể về một cầu thang dẫn đến vị trí bí mật chôn giấu Từ Còn Thiếu, cầu thang ấy ăn sâu xuống lòng đất hàng trăm thước.

Peter tỏ ra hoảng sợ.

- Ông biết truyền thuyết đó mà, - Mal'akh chế giễu - Một cầu thang bí mật ẩn dưới một tảng đá.

Gã trỏ bàn thờ trung tâm, bàn thờ này tạc từ đá hoa cương nguyên khối có khắc đòng chữ Do Thái mạ vàng: CHÚA PHÁN LỄ "PHẢI CÓ ÁNH SÁNG" VÀ THẾ LÀ CÓ ÁNH SÁNG.

- Nhất định là ở đây. Lối vào cầu thang chắc chắn được giấu ở một trong những tầng nhà phía dưới chúng ta.

- Làm gì có cầu thang bí mật trong toà nhà này! - Peter kêu lên.

Mal'akh mỉm cười kiên nhẫn và trỏ lên trên.

- Toà nhà giống một kim tự tháp - Gã chỉ nóc vòm có bốn cạnh vuốt nhọn lên tới chỗ mắt vuông chính giữa.

- Phải, Thánh điện là một kim tự tháp, nhưng cái gì...

- Peter, tôi có cả đêm đấy - Mal'akh vuốt lại tấm áo choàng lụa trắng tinh phủ ngoài cơ thể hoàn hảo của gã - Nhưng Katherine thì không đâu. Nếu muốn cô ta sống, ông hãy nói cho tôi biết cách tiếp cận cầu thang.

- Tôi đã bảo anh rồi - Peter tuyên bố - không có cầu thang bí mật nào trong toà nhà này.

- Không ư? - Mal'akh bình tĩnh lôi ra tờ giấy với đồ hình biểu tượng đã sắp xếp lại - Đấy là bức thông điệp cuối cùng của Kim tự tháp Tam điểm. Bạn của ông, Robert Langdon, đã giúp tôi giải mã nó.

Mal'akh giơ tờ giấy lên trước mặt Peter. Đại Huynh trưởng hít mạnh khi nhìn thấy nó. Không chỉ là 64 biểu tượng được sắp xếp lại thành từng nhóm có ý nghĩa rõ ràng... mà một hình ảnh thực sự đã nổi hẳn lên trên cả đống hỗn độn.

Bức hình một cầu thang... nằm dưới một kim tự tháp.

***

Peter Solomon trân trối nhìn đồ hình biểu tượng mà không tin vào mắt mình. Kim tự tháp Tam điểm đã giữ kín bí mật hàng bao thế hệ và giờ đây, đột nhiên nó bị tiết lộ. Cảm giác lạnh buốt về một điềm gở gợn lên trong bụng ông.

Mật mã cuối của của kim tự tháp.

Thoạt nhìn, Peter chưa nắm bắt được ý nghĩa đích thực của những biểu tượng này, nhưng ông mau chóng hiểu ra tại sao gã đàn ông xăm trổ kia tin vào những điều gã tin.

Hắn tưởng có một cầu thang bí mật bên dưới kim tự thápHeredom.

Hắn đã hiểu sai các biểu tượng.

- Nó ở đâu? - Mal'akh hỏi - Chỉ cho tôi biết cách tìm ra cầu thang, và tôi sẽ cứu Katherine.

Ước gì ta có thể làm được điều đó, Peter nghĩ. Nhưng cầu thang không có thật. Truyền thuyết về cầu thang hoàn toàn là tượng trưng, là một phần của những phúng dụ trong Hội Tam điểm. Cầu thang Xoáy, như tên thường gọi, xuất hiện trên các bảng minh hoạ ở cấp độ 2. Nó đại diện cho sự thăng tiến về mặt tri thức, giúp con người vươn tới Chân lý Thiêng liêng. Tương tự chiếc thang của Jacob, cầu thang Xoáy là một biểu tượng về con đường lên thiên đàng, về hành trình đưa con người đến với Chúa, về sự liên kết giữa trần thế và tâm linh. Các bậc cấp của nó biểu hiện cho nhiều đức tính của trí tuệ.

Lẽ ra hắn phải hiểu điều đó, Peter nghĩ. Hắn đã trải qua đủ các lễ nhập môn.

Tất cả các huynh đệ nhập môn của Hội Tam điểm đều biết đến cầu thang biểu tượng mà mình sẽ leo lên, giúp mình "tham gia vào những bí mật của khoa học nhân văn". Hội Tam điểm, cũng như Lý trí học và những Bí mật cổ xưa, sùng kính tiềm năng chưa khai phá của trí tuệ con người, và nhiều biểu tượng của Hội Tam điểm có liên quan đến sinh lý học người.

Trí tuệ giống như chóp vàng toa lạc trên đỉnh cơ thể. Đó là Hòn đá Triết học. Qua cầu thang cột sống, năng lượng tràn lên hoặc chạy xuống, luân chuyển, liên kết trí tuệ thần thánh với cơ thể phàm tục.

Peter biết không phải ngẫu nhiên mà cột sống lại cấu thành từ đúng ba mươi ba đốt xương. Ba mươi ba là số cấp độ của Hội Tam điểm. Nền móng của cột sống, hay xương cùng, theo nghĩa đen là "chiếc xương thiêng". Trên thực tế, cơ thể là một thánh điện. Khoa học con người mà Hội Tam điểm tôn sùng là sự hiểu biết cổ xưa về cách sử dụng thánh điện ấy cho mục đích cao quý và hùng mạnh nhất của nó.

Tiếc thay, giải thích chân lý cho gã này cũng chẳng giúp được Katherine. Peter ngó đồ hình biểu tượng và thở dài cam chịu.

- Anh nói đúng - ông nói dối - Quả thực có một cầu thang bí mật nằm bên dưới toà nhà này. Hễ anh gọi người đến giúp Katherine, tôi sẽ dẫn anh tới đó.

Gã đàn ông xăm trổ chằm chằm nhìn ông.

Solomon trừng mắt nhìn lại, vẻ thách thức.

- Hoặc là cứu em gái tôi và tìm ra chân lý... hoặc là giết cả hai chúng tôi và không bao giờ biết gì hết.

Gã đàn ông lặng lẽ buông tờ giấy xuống và lắc đầu.

- Tôi không hài lòng với ông, Peter. Ông trượt bài kiểm tra của mình rồi. Ông vẫn tưởng tôi là thằng ngốc. Ông thực sự tin rằng tôi không hiểu những gì tôi đang tìm kiếm? Ông nghĩ rằng tôi chưa nắm được tiềm năng đích thực của tôi ư?

Nói xong, gã quay lưng lại và cởi tung áo choàng. Khi mảnh lụa trắng chấp chới đáp xuống nền, lần đầu tiên Peter nhìn thấy hình xăm dài chạy ngược theo sống lưng gã đàn ông.

Chúa ơi...

Từ chiếc khố trắng của gã chạy ngược lên là một cái cầu thang xoáy rất đẹp tiến đến giữa phần lưng cơ bắp. Mỗi bậc thang được đặt đúng vào một đốt sống. Peter không thốt nên lời, cứ để mắt mình lướt dọc theo cầu thang ấy, lướt tới tận cuống sọ của gã kia.

Ông chỉ biết trợn mắt nhìn.

Gã đàn ông xăm trổ ngửa cái đầu nhẵn thín ra sau, phô vòng da còn nguyên trên đỉnh. Viền quanh vòng da trơn đó là một con rắn cuộn tròn, trong tư thế tự cắn đuôi mình.

Rất chậm rãi, gã đàn ông nâng thẳng đầu dậy và xoay người lại đối mặt với Peter. Hình con phượng hoàng hai đầu trên ngực gã chòng chọc nhìn ông bằng cặp mắt chết.

- Tôi đang tìm Từ Còn Thiếu, - gã nói - ông sẽ giúp tôi chứ... hay muốn cả hai anh em đều mất mạng?

Ông biết cách tìm nó, Mal'akh nghĩ. Ông biết mà ông không nói cho tôi.

Peter Solomon đã tiết lộ nhiều điều trong cuộc thẩm vấn mà có lẽ giờ ông cũng chẳng nhớ nổi. Cứ liên tục bị nhốt vào cái hòm tiết chế cảm xúc kia rồi lại bị lôi ra, ông rơi vào trạng thái mê sảng và thành thử phục tùng hoàn toàn. Thật kỳ lạ, mọi điều ông bộc bạch đều phù hợp với truyền thuyết về Từ Còn Thiếu.

Từ Còn Thiếu không phải là một ẩn dụ... nó có thật. Từ ấy được viết bằng một ngôn ngữ lâu đời và được giấu kín đã nhiều năm rồi.

Ai thấu hiểu ý nghĩa thực sự của nó sẽ có cơ may tiếp thụ một bản lĩnh cao thâm. Từ ấy vẫn được giấu kín cho tới ngày nay... Kim tự tháp Tam điểm có thể tiết lộ nó.

- Peter, - Mal'akh soi mói nhìn từ nhân của mình - khi trông thấy đồ hình biểu tượng này. Ông đã phát hiện được điều gì đó. Ông đã khám phá ra rồi. Đồ hình có ý nghĩa với ông. Hãy cho tôi biết.

- Trừ phi khi anh tìm người đến giúp Katherine, tôi sẽ không nói gì hết!

Mal'akh mỉm cười.

- Lúc này đây, khả năng mất em gái chưa phải là mối lo cuối cùng của ông đâu. Tin tôi đi? - Không nói thêm một lời, gã quay lại chỗ cái túi của Langdon, lục lấy đồ đạc mà gã gói ghém lúc ở hầm nhà ra.

Sau đó, gã sắp xếp chúng lên bàn thờ hiến tế.

Một tấm lụa gấp gọn. Trắng tinh.

Một lư hương bạc. Cùng với nhựa thơm Ai Cập.

Một ống máu của Peter. Trộn với tro.

Một chiếc lông quạ đen. Cây bút thiêng của gã.

Con dao hiến sinh. Được rèn bằng thép lấy từ một khối thiên thạch trong sa mạc Canaan.

- Mày tưởng tao sợ chết ư? - Peter gào, giọng run lên vì đau khổ - Nếu Katherine chết, tao chẳng còn gì hết. Mày đã sát hại cả gia đình tao. Mày đã cướp đoạt mọi thứ của tao.

- Không phải mọi thứ - Mal'akh phủ nhận - Chưa đâu.

Gã tiếp tục lục túi lấy máy tính xách tay, bật lên và nhìn nạn nhân của mình.

- Tôi sợ rằng ông chưa ý thức được bản chất đích thực của tình thế khó khăn của chính ông đâu

Chương 117

Chiếc trực thăng CIA nhấc mình lên khỏi bãi cỏ, chao mạnh và tăng tốc thật nhanh. Langdon cảm thấy dạ dày như rơi ra, anh không ngờ trực thăng lại lao nhanh đến thế. Katherine ở lại để hồi sức, cùng với Bellamy, trong khi đó một đặc vụ CIA lùng sục toàn bộ khu nhà và đợi nhóm hỗ trợ đến.

Trước lúc Langdon đi, Katherine đã hôn lên má anh và thì thào:

- Bảo trọng nhé. Robert!

Cuối cùng máy bay cũng lấy được trạng thái thăng bằng và bắt đầu lao vù vù về phía Thánh điện Hội Tam điểm. Langdon phải bám thật chặt để giữ mạng sống. Ngồi bên cạnh anh, Sato nhoài người lên phía phi công.

- Tới Bùng binh Dupont! - bà hét to đến mức át cả tiếng máy bay đinh tai nhức óc - Chúng ta sẽ hạ cánh ở đó!

Giật mình, Langdon quay sang hỏi:

- Dupont hả? Chỗ đó cách Thánh điện đến vài dãy nhà đấy!

- Chúng ta có thể đáp xuống bãi đỗ xe của Thánh điện mà.

Sato lắc đầu.

Cần lặng lẽ thâm nhập toà nhà. Nếu mục tiêu nghe thấy chúng ta đến...

- Làm gì có thời gian - Langdon tranh luận - Thằng điên đang định giết Peter. Biết đâu tiếng trực thăng sẽ khiến hắn sợ và dừng tay.

Sato trợn trạo nhìn anh bằng đôi mắt lạnh lùng.

- Tôi đã bảo sự an toàn của Peter Solomon không phải là mục đích chính của tôi. Tôi tin rằng tôi đã nói đủ rõ.

Langdon không còn lòng dạ nào để tiếp nhận một bài giảng về an ninh quốc gia nữa:

- Này nhé, tôi là người duy nhất ở đây biết đường trong toà nhà...

- Cẩn thận đấy, Giáo sư, - giám đốc OS cảnh cáo - ông đến đây với tư cách thành viên trong đội của tôi, và ông phải hợp tác hoàn toàn - Ngừng lại một lát, bà nói thêm - Có lẽ hay hơn cả là tôi nên cho ông biết luôn mức độ nghiêm trọng của vụ việc tối nay.

Sato luồn tay xuống ghế, lôi ra chiếc cặp vỏ titan sáng bóng và mở nắp, để lộ một chiếc máy tính trông phức tạp dị thường. Khi bà bật nó lên, biểu tượng CIA xuất hiện cùng với khẩu lệnh truy cập.

Sato vừa đăng nhập vừa hỏi:

- Giáo sư có nhớ bộ tóc giả màu vàng chúng ta tìm thấy trong nhà gã kia không? Ở trong đó gắn một máy quay sợi quang cực nhỏ... giấu dưới lớp tóc trước trán.

- Một máy quay bí mật à? Tôi không hiểu.

Trông Sato thật dữ tợn.

- Ông sẽ hiểu thôi - Bà khởi động một tệp tin trên máy tính.

XIN CHỜ MỘT LÁT...

ĐANG GIẢI MÃ TỆP TIN...

Một cửa sổ video nhảy ra, choán hết màn hình. Sato nhấc chiếc cặp đặt lên đùi Langdon để anh xem được chính diện.

Một hình ảnh bất thường xuất hiện trên màn hình.

Langdon giật nảy mình vì sửng sốt. Lẽ nào?

Đoạn video tăm tối và âm u, quay cảnh một người bị bịt mắt. Anh ta mặc trang phục của một kẻ dị giáo thời Trung cổ bị dẫn lên giá treo cổ thòng lọng quấn quanh cổ, ống quần bên trái xắn lên đến đầu gối, ống tay áo bên phải vén lên đến khuỷu, và chiếc áo sơ mi để hở phơi ra bộ ngực trần.

Langdon trợn mắt nhìn, không tin nổi. Anh đã đọc rất nhiều về các nghi thức của Hội Tam điểm nên nhận ra ngay cảnh tượng đang xem.

Một huynh đệ nhập môn của Hội Tam điểm... chuẩn bị bước vào cấp độ thứ nhất.

Người đàn ông này rất cao, cơ bắp cuồn cuộn, có mái tóc giả màu vàng quen thuộc và nước da rám nắng. Langdon nhận ra đặc điểm của gã ngay lập tức. Những hình xăm rõ ràng đã được che giấu dưới lớp hoá trang màu đồng hun kia. Gã đang đứng trước một tấm gương lớn, ghi hình phản chiếu của chính mình qua chiếc máy quay giấu kín trong bộ tóc giả.

Nhưng... tại sao chứ?

Màn hình chuyển sang màu đen.

Đoạn phim mới xuất hiện. Một căn phòng nhỏ hình chữ nhật, thắp sáng lờ mờ. Sàn nhà lát gạch đen trắng như bàn cờ trông rất ấn tượng.

Một bàn thờ thấp bằng gỗ, xung quanh ba phía là những cây cột, đỉnh cột gắn nhiều ngọn nến đang cháy bập bùng.

Langdon chợt cảm thấy e sợ.

Lạy Chúa!

Ghi hình một cách tuỳ tiện theo dạng video gia đình nghiệp dư, lúc này chiếc máy quay lia quanh toàn bộ căn phòng, cho thấy một nhóm người đang quan sát kẻ mới nhập môn. Những người ấy đều mặc y phục hành lễ của Hội Tam điểm. Trong bóng tối, Langdon không thể nhận diện họ, nhưng anh biết rõ nghi lễ này diễn ra đâu.

Bố cục truyền thống của Phòng Chi hội có thể xuất hiện ở khắp mọi nơi trên thế giới, nhưng phần trán tường hình tam giác màu xanh dương bên trên ghế huynh trưởng cho thấy đây chính là Chi Hội Tam điểm cổ xưa nhất tại Thủ đô nước Mỹ - Chi hội Potomac số 5 - trụ sở của George Washington và các bậc tiền bối Hội Tam điểm, những người đã đặt nền móng cho toà Nhà Trắng và Điện Capitol.

Chi hội ấy vẫn còn hoạt động cho tới ngày nay.

Peter Solomon, ngoài việc trông nom Thánh điện, còn là huynh trưởng của chi hội địa phương mình. Chính những chi hội này là nơi bắt đầu hành trình của một huynh đệ Tam điểm mới nhập môn... nơi người đó trải qua ba cấp độ đầu tiên của hội viên.

- Các huynh đệ - giọng nói quen thuộc của Peter vang lên - nhân danh Kiến trúc sư vĩ đại của Vũ trụ, ta mở chi hội này để thực hiện nghi thức dành cho cấp độ thứ nhất của Hội Tam điểm!

Một tiếng búa nện rất to.

Langdon sững sờ theo dõi, đoạn video tiếp tục chạy qua hàng loạt hình ảnh mờ chồng cho thấy Peter Solomon đang thực hiện một số thủ tục khắc nghiệt của nghi lễ.

Ấn một lưới dao găm sáng loáng vào bộ ngực trần của kẻ mới nhập môn... doạ sẽ đóng cọc xuyên qua người nếu kẻ nhập môn tiết lộ những bí mật của Hội Tam điểm... mô tả rằng nền nhà đen trắng là biểu hiện cho sự sống và cái chết... phác hoạ những hình phạt, trong đó có cắt ngang họng, rút lưỡi, và chôn thây dưới lớp cát thô đáy biển..."

Langdon chằm chằm theo dõi. Mình đang chứng kiến cảnh này thật đấy à? Nhiều thế kỷ qua, Hội Tam điểm vẫn giữ kín nghi thức nhập môn của họ. Những mô tả duy nhất từng được tiết lộ là từ một bản viết tay của đám huynh đệ ly khai. Dĩ nhiên Langdon đã đọc tài liệu ấy nhưng tận mắt xem một nghi thức nhập môn thì... lại là chuyện khác hẳn.

Nhất là được biên tập theo kiểu này. Langdon có thể nói rằng đoạn video là một ấn phẩm tuyên truyền rất lệch lạc, loại bỏ mọi khía cạnh cao quý của nghi thức nhập môn và chỉ nhấn mạnh những gì gây hoang mang nhất. Nếu đoạn video này bị tiết lộ. Langdon biết nó sẽ trở thành tin giật gân trên Internet chỉ trong một đêm. Những nhà lý thuyết có tư tưởng bài Tam điểm sẽ xâu xé đoạn phim này như lũ cá mập. Tổ chức Hội Tam điểm, và đặc biệt là Peter Solomon, sẽ phải hứng chịu cả một trận bão lửa những cuộc luận chiến và sẽ phải ra sức giải quyết hậu quả một cách tuyệt vọng... cho dù nghi thức này vô hại và hoàn toàn chỉ mang tính tượng trưng.

Rất kỳ quái, đoạn video còn gộp cả một câu tham chiếu trong Kinh thánh nói đến việc hiến sinh người... "Abraham hy sinh Isaac, con trai đầu lòng của ngài để dâng tặng cho Đấng Chí tôn". Langdon nghĩ đến Peter và chỉ mong trực thăng bay nhanh hơn nữa.

Đoạn video đổi cảnh.

Vẫn căn phòng đó, vào một đêm khác. Một nhóm khá đông các huynh đệ Hội Tam điểm đứng quanh chứng kiến. Peter Solomon đang quan sát từ trên ghế huynh trưởng. Đây là cấp độ thứ hai. Giờ còn căng thẳng hơn. Quỳ bên bàn thờ... thề mãi mãi giấu kín những bí mật đang tồn tại trong Hội Tam điểm... cam lòng chịu hình phạt rạch toang ngực và ném quả tim đang phập phồng lên mặt đất làm mồi cho lũ thú đói...

Tim Langdon đập dữ dội khi đoạn video chuyển cảnh lần nữa.

Một buổi tối khác. Một đám người đông hơn nhiều. Một cái "bàn trang trí" chẳng khác gì chiếc áo quan nằm trên sàn.

Cấp độ ba.

Đây là nghi thức chết - nghi thức khắc nghiệt nhất trong tất cả các cấp độ thời khắc hội viên nhập môn buộc phải "đối mặt với thách thức cuối cùng của sự đoạn tuyệt cá nhân". Quá trình thẩm vấn căng thẳng này trên thực tế chính là nguồn gốc của cụm từ phổ biến đưa lên cấp độ ba(101). Mặc dù Langdon rất quen với những bài viết học thuật về nó, tâm lý anh vẫn chưa sẵn sàng chứng kiến cảnh tượng trên màn hình.

Kẻ giết người.

Bằng những xen cảnh nhanh, hung tợn, đoạn video trình chiếu một bản mô tả kinh rợn, theo quan điểm của nạn nhân, về kẻ giết người tàn bạo. Có những cú đánh giả vờ vào đầu, kể cả cú đánh bằng chiếc vồ đá thợ nề. Trong lúc đó, một người trợ tế rầu rĩ kể lại câu chuyện "con trai bà goá" Hiram Abiff, kiến trúc sư chính xây Đền thờ Vua Solomon, ông này đã chọn cái chết thay vì phải tiết lộ tri thức bí mật mình đang nắm giữ.

Dĩ nhiên, cảnh đánh đập này được diễn câm, nhưng hiệu ứng của nó trên máy quay rất kinh dị. Sau cú đánh gây tử thương, kẻ nhập môn - lúc này "đã chết với bản ngã cũ của mình" - được đặt vào chiếc quan tài tượng trưng, được vuốt mắt và xếp tay vắt chéo hệt như một tử thi. Các huynh đệ Tam điểm đứng lên và rầu rĩ đi vòng tròn xung quanh anh ta trong khi một chiếc đàn ống tấu lên hành khúc đưa ma.

Cảnh tượng rùng rợn đó thực sự gây hoang mang.

Và nó càng tồi tệ hơn nữa.

Khi mọi người tụ tập quanh vị huynh đệ bị giết chết ấy, máy quay bí mật liền chiếu rõ gương mặt họ. Lúc này, Langdon nhận ra không chỉ có Solomon là nhân vật nổi tiếng duy nhất trong phòng. Một trong những người đang đăm đăm nhìn xuống kẻ nhập môn nằm trong quan tài là người xuất hiện trên truyền hình gần như hằng ngày.

Một Thượng nghị sĩ có tiếng của Hoa Kỳ.

Lạy Chúa...

Cảnh lại thay đổi. Cảnh ngoài trời... ban đêm... vẫn là thước phim video chập chờn... gã đàn ông đang đi dọc một con phố... những sợi tóc vàng phất phơ trước máy quay... rẽ ở một góc phố... góc máy quay hạ thấp xuống một thứ gì đó trong tay gã đàn ông... tờ bạc một đô la... cận cảnh lên dấu Quốc ấn... hình Thấu nhãn... hình kim tự tháp xây dở dang... và sau đó, rất đột ngột, xoay đi để cho thấy một hình thù tương tự phía xa... một toà nhà hình kim tự tháp đồ sộ...với các mặt dốc chạy lên đến phần đỉnh hình chóp cụt.

Thánh điện Hội Tam điểm.

Một cảm giác hãi hùng tận đáy lòng trào lên trong Langdon.

Đoạn video tiếp tục chạy... gã đàn ông đi nhanh về phía toà nhà...leo lên phần bậc thang chia làm nhiều cấp... tiến về phía những cánh cửa bằng đồng đồ sộ... giữa hai nhân sư canh gác nặng mười bảy tấn.

Một kẻ mới nhập đạo đang tiến vào kim tự tháp khai tâm.

Giờ thì tối hoàn toàn.

Đàn ống ngân nga phía xa... và hình ảnh mới xuất hiện.

Phòng Thánh lễ.

Trên màn hình, một không gian trông như lòng hang được thắp sáng bằng điện. Bên dưới mắt vòm của trần nhà, một chiếc bàn bằng đá cẩm thạch đen sáng bóng đang ngập trong ánh trăng. Tụ tập xung quanh nó, ngồi trên những chiếc ghế bọc da lợn chế tác bằng tay, là một hội đồng gồm những huynh đệ Hội Tam điểm ở cấp độ 33 đầy uy nghi đang chờ đợi thời khắc làm nhân chứng. Đoạn video lia qua mặt họ, chầm chậm một cách cố ý.

Langdon kinh hãi quan sát.

Mặc dù anh chưa hình dung được những sự kiện tiếp theo, nhưng cảnh đang xem cũng đủ gây ấn tượng. Buổi họp mặt của những huynh đệ Tam điểm hoàn hảo và tôn quý nhất trong thành phố hùng mạnh nhất trên trái đất này đương nhiên sẽ phải bao gồm nhiều nhân vật nổi tiếng và đầy ảnh hưởng. Chắc hẳn ngồi xung quanh bàn thờ, chỉnh chu với găng tay lụa, tạp dề của Hội Tam điểm và những đồ trang sức lấp lánh kia sẽ là một số nhân vật có thế lực nhất nước Mỹ.

Hai thẩm phán Toà án Tối cao...

Bộ trưởng Quốc phòng...

Chủ tịch Hạ viện...

Langdon cảm thấy hãi hùng khi đoạn video tiếp tục lia ngang qua gương mặt của những người tham dự.

Ba Thượng nghị sĩ nổi tiếng... trong đó có thủ lĩnh phe đa số...

Bộ trưởng An ninh nội địa...

Và...

Giám đốc CIA...

Langdon chỉ muốn ngoảnh mặt đi, nhưng không thể được. Cảnh phim thật sự rất cuốn hút, và gây hoảng sợ ngay cả với anh. Trong chớp mắt, anh hiểu ra căn nguyên nỗi lo lắng và sốt ruột của Sato.

Giờ đây, trên màn hình, nền cảnh mờ dần và tập trung vào một hình ảnh cực kỳ gây sốc.

Một cái sọ người... đựng đầy chất lỏng đỏ sẫm. Chính bàn tay xương xương với chiếc nhẫn Tam điểm bằng vàng lấp lánh trong ánh nến của Peter đang đưa cái đầu lâu đến tận mặt kẻ nhập môn. Thứ chất lỏng màu đỏ chính là rượu vang... nhưng trông chẳng khác gì máu. Hiệu ứng hình ảnh thật hãi hùng.

Lễ cúng rượu thứ 5, Langdon nhận ra vì anh đã đọc nhiều tài liệu về phép bí tích này trong cuốn Ghi chép về Thể chế Hội Tam điểm của John Quincy Adam. Mặc dù vậy, khi nhìn nghi lễ này diễn ra... nhìn cảnh những nhân vật quyền thế nhất nước Mỹ thản nhiên chứng kiến... Langdon phải thừa nhận rằng đây là hình ảnh nhiều ma lực nhất mà anh từng xem.

Kẻ nhập môn đón cái sọ bằng hai tay... khuôn mặt gã phản chiếu trong bề mặt rượu vang khá phẳng lặng. "Nếu tôi cố tình vi phạm lời thề", gã tuyên bố, " thì thứ rượu tôi sắp uống đây sẽ biến thành thuốc độc giết chết tôi"

Rõ ràng, kẻ nhập môn đã cố ý vi phạm lời thề, vi phạm tới mức vượt xa mọi sự tưởng tượng.

Langdon không dám để tâm trí mình nghĩ đến hậu quả xảy ra nếu đoạn video này được công bố cho bàn dân thiên hạ biết. Sẽ không một ai hiểu. Chính phủ sẽ rơi vào tình trạng biến động bất thường. Các sóng phát thanh truyền hình sẽ tràn ngập tiếng nói của những nhóm bài Tam điểm, những người theo trào lưu chính thống, những nhà lý luận lớn tiếng reo rắc thù hận sợ hãi, đòi phát động một cuộc săn lùng phù thuỷ Thanh giáo nữa.

Sự thật sẽ bị bóp méo, Langdon biết rõ như vậy. Với Hội Tam điểm, luôn là thế.

Sự thật rằng hội huynh đệ này chú trọng đến cái chết trên thực tế là một hình thức táo bạo nhằm tôn vinh sự sống. Nghi thức của Hội Tam điểm được vạch ra nhằm đánh thức con người đang ngủ say bên trong, nâng anh ta khỏi chiếc áo quan tăm tối là sự thiếu hiểu biết của chính mình, đưa anh ta đến với ánh sáng, và đem lại cho anh ta nhãn quan để nhìn. Phải trải nghiệm cái chết thì con người mới thực sự hiểu cách sống. Phải nhận ra rằng những ngày tồn tại trên cõi đời là hữu hạn thì anh ta mới hiểu được tầm quan trọng của việc tận dụng những ngày tháng ấy mà sống cho danh dự, chính trực, và phục vụ đồng bào mình.

Những lễ khai tâm của Hội Tam điểm gây sốc bởi vì chúng mang ý nghĩa biến cải.

Những lời tuyên thệ của Hội Tam điểm khắc nghiệt bởi vì chúng mang ý nghĩa nhắc nhở rằng danh dự và "lời hứa", của con người đều có thể đạt được từ thế giới này.

Những lời răn dạy của Hội Tam điểm mang tính bí mật bởi vì chúng có ý nghĩa phổ cập... được truyền đạt qua ngôn ngữ chung của nhiều biểu tượng và ẩn dụ lan toả khắp mọi tôn giáo, văn hoá và chủng tộc... tạo ra một "nhận thức thống nhất trên toàn thề giới", về tình yêu thương bác ái.

Trong khoảnh khắc, Langdon cảm thấy le lói chút hy vọng. Anh cố gắng trấn an mình rằng nếu đoạn video này được tiết lộ, công chúng sẽ đủ cởi mở và vị tha để nhận ra rằng mọi nghi lễ tinh thần đều bao gồm những khía cạnh có vẻ đáng sợ nếu tách ra khỏi bối cảnh của chúng, chẳng hạn tái hiện cảnh đóng đinh trên thập giá, những nghi thức cắt bao quy đầu của Do Thái, lễ rửa tội cho người chết của Mormon giáo, những câu thần chú của Công giáo, mạng che mặt của Hồi giáo, cách chữa bệnh bằng thôi miên của các pháp sư, nghi lễ chuộc lỗi Kaparot của người Do Thái, và thậm chí nghi lễ ăn máu thịt mang tính ẩn dụ của Chúa Ki tô.

Mình đang mơ rồi, Langdon biết như vậy. Đoạn video này sẽ gây ra hỗn loạn. Anh có thể hình dung được những gì sẽ xảy ra nếu những nhà lãnh đạo hàng đầu của nước Nga hay của thế giới Hồi giáo mà xuất hiện trong một đoạn video với hành động ấn dao vào ngực trần, tuyên thệ bằng những lời lẽ rùng rợn, mô phỏng hành vi giết người, nằm trong những chiếc quan tài mang tính biểu tượng, và uống rượu vang từ một cái sọ người. Những tiếng la ó trên toàn thế giới xuất hiện ngay lập tức và lan tràn khắp nơi.

Chúa giúp chúng con...

Lúc này, trên màn hình, kẻ nhập môn đang nâng chiếc sọ người lên môi. Gã dốc ngược nó... uống cạn chỗ rượu vang đỏ như máu... kết thúc lời thề của mình. Sau đó, gã hạ chiếc sọ xuống và trừng trừng nhìn đám đông tụ tập xung quanh. Những con người quyền thế và đáng tin cậy nhất nước Mỹ đều gật đầu chấp nhận.

"Xin chào huynh đệ", Peter Solomon tuyên bố.

Khi hình ảnh nhoà đi thành một màn đen, Langdon mới nhận ra mình đã nín thở.

Không nói một lời, Sato nhoài tới, đóng cặp lại và nhấc nó khỏi đùi anh. Langdon quay sang phía bà, anh định nói nhưng không tìm ra lời lẽ nào. Không sao cả. Nét mặt anh đã thể hiện rõ những gì anh hiểu. Sato nói đúng. Tối nay là một vụ khủng hoảng an ninh quốc gia... có tầm vóc không thể tưởng tượng nổi.

Chú thích:

(101) Nguyên văn thành ngữ này trong tiếng Mỹ là To give someone the third degree có nghĩa là lục vấn, tra khảo, chỉ việc dùng biện pháp cứng rắn, gay gắt để thu thập thông tin của người khác - ND

Chương 118

Chỉ mặc độc chiếc khố, Mal'akh rảo bước đi đi lại lại trước chiếc xe lăn của Peter Solomon.

- Peter - gã thì thào, thích thú tận hưởng từng khoảnh khắc khiếp hãi của nạn nhân - ông quên rằng ông còn một gia đình thứ hai,... đó là các huynh đệ Tam điểm, và tôi sẽ huỷ hoại cả họ, trừ phi ông giúp tôi.

Trông Solomon gần như hoảng loạn trong quầng sáng của chiếc máy tính xách tay đặt trên đùi ông.

- Xin anh, - cuối cùng ông cũng lắp bắp, mắt ngước lên - Chẳng may đoạn video này tung ra...

- Chẳng may? - Mal'akh cười - Chẳng may ư?

Gã ra hiệu về phía chiếc modem nhỏ xíu cắm bên máy tính, đây là loại modem truy cập Internet thông qua sóng điện thoại di động - Tôi đang kết nối với toàn thế giới.

- Anh không...

Ta sẽ, Mal'akh nghĩ, thích thú trước sự sợ hãi của Solomon.

- Ông có khả năng ngăn tôi lại, - gã nói - Và cứu em gái ông. Nhưng ông phải tiết lộ những điều tôi muốn biết. Từ Còn Thiếu được giấu ở đâu đó, Peter, và tôi chắc chắn đồ hình này chỉ dẫn chính xác chỗ để tìm ra nó.

Peter lại liếc đồ hình biểu tượng, ánh mắt không biểu lộ gì cả.

- Có lẽ thứ này sẽ gợi cảm hứng cho ông - Mal'akh vươn tay qua vai Peter và gõ một vài phím trên máy tính. Một chương trình thư điện tử khởi động trên màn hình, và Peter cứng đờ người. Trước mắt ông là một bức thư điện tử mà Mal'akh đã chuẩn bị sẵn lúc chập tối: một tệp tin video được gửi tới một danh sách dài những mạng truyền thông lớn.

Mal'akh mỉm cười.

- Tôi nghĩ đã đến lúc chúng ta cùng chia sẻ, phải không?

- Đừng!

Mal'akh cúi xuống và nhấn nút gửi trên chương trình. Peter vùng vẫy giật những sợi dây trói, cố gắng hất chiếc máy tính xuống sàn nhưng vô hiệu.

- Bình tĩnh đi. Peter, - Mal'akh thì thào - Đây là một tệp tin rất lớn.

Phải mất vài phút mới gửi đi được.

Gã trỏ tay vào thanh tiến trình:

ĐANG GỬI TIN: HOÀN TẤT 2%

- Nếu ông cho tôi biết điều tôi cần, tôi sẽ dừng thư điện tử, và không bao giờ còn ai trông thấy nó cả.

Peter tái mét mặt. Thanh công cụ cứ nhích dần lên.

ĐANG GỬI TIN: HOÀN TẤT 4%

Mal'akh nhấc chiếc máy tính khỏi đùi Peter và đặt nó lên một trong những chiếc ghế da lợn gần đó, xoay màn hình để người đàn ông nhìn thấy quá trình xử lý. Sau đó, gã quay trở lại bên cạnh Peter và đặt trang biểu tượng lên đùi ông.

Truyền thuyết nói rằng Kim tự tháp Tam điểm sẽ tiết lộ Từ Còn Thiếu. Đây là mật mã cuối cùng của kim tự tháp. Tôi tin ông biết cách đọc nó.

Mal'akh liếc về phía chiếc máy tính.

ĐANG GỬI TIN: HOÀN TẤT 8%.

Rồi gã đưa mắt nhìn lại Peter. Solomon đang trừng trừng nhìn gã, đôi mắt xám rực lên căm hờn.

Căm ghét ta, Mal'akh nghĩ. Càng ghét thì năng lượng giải phóng khi hoàn tất nghi lễ càng mạnh mẽ.

***

Tại Langley, Nola Kaye áp chặt điện thoại vào tai, khó khăn lắm mới nghe ra tiếng Sato giữa tiếng ồn của trực thăng.

- Họ nói không thể chặn được việc truyền tệp tin? - Nola gào lên - Phải mất ít nhất một tiếng mới tắt được các ISP địa phương, và nếu hắn truy cập được vào một địa chỉ cung cấp không dây thì việc tắt Internet mặt đất cũng không ngăn được hắn gửi nó đi đâu.

Ngày nay, việc chặn dòng thông tin số đã trở thành gần như không thực hiện được. Có quá nhiều kênh truy cập vào Internet. Giữa các đường hữu tuyến, các điểm nóng Wi-fi, các modem dùng sóng di động, điện thoại vệ tinh, siêu điện thoại, và thiết bị hỗ trợ kỹ thuật số cá nhân tích hợp thư điện tử, cách duy nhất để cô lập việc tiết lộ dữ liệu là phá huỷ máy nguồn.

- Tôi đã xem bản chỉ dẫn của chiếc UH-60 mà sếp đang bay, - Nola nói - và hình như sếp được trang bị EMP.

Súng xung điện từ EMP hiện nay rất phổ biến trong các cơ quan thực thi pháp luật, sử dụng vào mục đích cơ bản là kết thúc các pha rượt đuổi xe hơi từ một khoảng cách an toàn. Bằng cách bắn một xung phóng xạ điện tử cường độ cao, một khẩu súng EMP có thể làm cháy hệ thống điện tử của bất kỳ thiết bị nào nó nhắm tới, từ xe hơi, điện thoại di động đến máy tính. Theo bản chỉ dẫn Nola đang cầm, chiếc UH-60 có một súng xung điện từ 6 gigahertz ngắm bắn bằng la-de gắn ở gầm máy bay, với ống phóng 50 db sinh ra xung lực 10 gigawatt. Nếu bắn thẳng vào một máy tính xách tay, xung lực sẽ làm cháy mạch chủ của máy tính và lập tức xoá sạch ổ cứng.

- EMP cũng vô dụng, - Sato hét vọng lại - Mục tiêu ở bên trong một toà nhà bằng đá. Lớp chống điện từ rất dày, lại không có đường ngắm. Cô đã phát hiện ra chỉ số nào cho biết đoạn video được gửi đi chưa?

Nola liếc nhìn màn hình thứ hai, nó đang chạy một lệnh tìm kiếm liên tục các tin thời sự đột xuất về Hội Tam điểm.

- Chưa, thưa sếp. Nhưng nếu nó lọt ra, chúng ta sẽ biết chỉ trong vài giây thôi.

- Cập nhật tin cho tôi nhé - Sato tắt máy.

***

Chiếc trực thăng lao lao bổ xuống Bùng binh Dupont. Langdon nín thở. Một vài khách bộ hành dạt ra khi chiếc máy bay hạ độ cao qua khoảng trống giữa các tán cây và đáp xuống bãi cỏ ngay phía nam đài phun nước hai tầng nổi tiếng do chính hai kiến trúc sư Đài tưởng niệm Lincoln thiết kế.

Ba mươi giây sau, Langdon đã có mặt trên một chiếc Lexus SUV bị trưng dụng, phóng nhanh trên Đại lộ New Hampshire về phía Thánh điện Hội Tam điểm.

***

Peter Solomon cố gắng một cách tuyệt vọng để nghĩ xem nên làm gì. Trong đầu ông toàn là hình ảnh Katherine đang chảy máu dưới tầng hầm... và đoạn video vừa xem. Ông chậm rãi ngoái đầu về phía máy tính xách tay trên chiếc ghế da lợn cách đó vài thước. Thanh tiến trình gần như đã đầy được một phần ba.

ĐANG GỬI TIN: HOÀN TẤT 29%

Gã đàn ông xăm trổ chậm rãi bước thành vòng tròn quanh chiếc bàn thờ hình vuông, tay đung đưa một lư hương cháy đỏ và miệng ư ử ngâm nga. Từng cuộn khói trắng đặc quánh bốc lên trời. Mắt gã mở to dường như gã đang nhập hồn. Peter đưa mắt nhìn con dao cổ đang nằm chờ đợi trên vuông lụa trắng phủ ngang qua bàn thờ.

Peter Solomon tin chắc rằng đêm nay ông sẽ chết trong thánh đường này. Vấn đề là chết như thế nào. Ông sẽ tìm cách cứu em gái và hội huynh đệ của mình... hay cái chết của ông sẽ hoàn toàn vô nghĩa?

Solomon lại nhìn xuống đồ hình biểu tượng. Lần đầu tiên để mắt tới nó, tâm trạng bất ngờ đã khiến ông lú lẫn... không cho ông nhìn thấu qua bức màn hỗn loạn để phát hiện ra sự thật đáng kinh ngạc.

Tuy nhiên, lúc này, ý nghĩa thực sự của những biểu tượng hiện lên rõ ràng trước mắt ông. Ông nhìn đồ hình bằng một ánh sáng hoàn toàn mới và biết chính xác mình cần phải làm gì.

Hít một hơi thật sâu, ông ngước nhìn lên vầng trăng qua mắt vòm bên trên. Sau đó ông bắt đầu lên tiếng.

***

Những chân lý vĩ đại đều rất đơn giản.

Mal'akh đã biết điều đó từ lâu.

Câu trả lời mà Peter Solomon đưa ra tuyệt vời và giản dị đến mức Mal'akh tin chắc rằng nó chỉ có thể là sự thực. Thật ngạc nhiên, đáp án cho bức mật mã cuối cùng của kim tự tháp lại đơn giản hơn rất nhiều so với gã tưởng tượng.

Từ Còn Thiếu ở ngay trước mắt ta.

Chỉ thoáng chốc, một tia sáng chói loà xé toang màn tối của lịch sử và những truyền thuyết bao bọc xung quanh Từ Còn Thiếu. Đúng như lời hứa hẹn, Từ Còn Thiếu được viết bằng một ngôn ngữ cổ xưa và chứa đựng sức mạnh thần kỳ của tất cả mọi triết lý, tôn giáo và khoa học từng được con người biết đến. Giả kim, chiêm tinh, Kabbalah, Thiên Chúa giáo phật giáo, Thập tự Hoa hồng, Hội Tam điểm, thiên văn học, vật lý, Lý trí học...

Giờ đây, đứng trong căn phòng khai tâm trên đỉnh kim tự tháp Heredom vĩ đại, Mal'akh ngước nhìn kho báu mà gã tìm kiếm suốt bao năm, và gã biết mình không thể chuẩn bị cho bản thân hoàn hảo hơn được nữa.

Ta sắp hoàn tất rồi.

Từ Còn Thiếu đã được tìm thấy.

***

Tại Kalorama Heights, một đặc vụ CIA đứng giữa cả đống đồ thải bừa bộn mà anh vừa dốc ra khỏi những thùng rác trong nhà để xe.

- Cô Kaye? - anh điện thoại cho chuyên gia phân lịch của Sato - Lục lọi thùng rác của gã là ý tưởng rất hay. Tôi nghĩ tôi vừa tìm được gì đó.

***

Trong nhà, mỗi thời khắc qua đi, Katherine Solomon lại cảm thấy khỏe hơn. Nhờ truyền dung dịch Ringer nên huyết áp của cô tăng lên và cơn đau đầu dịu hẳn. Giờ cô đang ngồi nghỉ ngơi trong phòng ăn theo lời chỉ dẫn phải bất động. Song thần kinh của cô rất căng thẳng, càng lúc cô càng nôn nóng muốn biết tin tức của anh trai mình.

Mọi người đâu cả rồi? Nhóm pháp y của CIA vẫn chưa đến, anh chàng đặc vụ ở lại đang bận tìm kiếm. Bellamy vốn ngồi cùng cô ở phòng ăn, quấn chặt mình trong chiếc chăn, nhưng giờ ông đã lang thang tìm thêm thông tin đặng giúp CIA cứu được Peter.

Không thể ngồi im được nữa, Katherine cố gắng đứng lên, lảo đảo, sau đó chậm rãi nhích dần về phía phòng khách. Cô thấy Bellamy bên phòng làm việc. Kiến trúc sư đang đứng trước một ngăn kéo mở toang, lưng quay về phía cô, rõ ràng đang rất tập trung vào những thứ bên trong nên không nghe thấy tiếng chân bước vào.

Katherine tiến lại gần ông.

- Warren?

Ông già loạng choạng quay lại, dùng hông đóng vội ngăn kéo, mặt còn bàng hoàng và đau đớn, hai má nguyên dấu lệ.

- Có chuyện gì vậy? - Katherine nhìn xuống ngăn kéo - Gì thế ạ?

Bellamy không sao nói nên lời. Trông như thể ông vừa nhìn thấy một thứ rất không mong muốn.

- Cái gì ở trong ngăn kéo thế? - Katherine gặng hỏi.

Đôi mắt đẫm lệ của Bellamy dán chặt lấy cô trong một lúc lâu sầu thảm, cuối cùng ông lên tiếng.

- Cô và tôi cứ băn khoăn tại sao, tại sao gã này tỏ ra căm ghét gia đình cô đến vậy.

Katherine nhíu mày.

- Ôi, - Bellamy nghẹn ngào - Tôi vừa tìm ra câu trả lời

Chương 119

Trong căn phòng trên đỉnh Thánh điện Hội Tam điểm, kẻ tự gọi mình là Mal'akh đứng trước chiếc bàn thờ lớn và nhẹ nhàng xoa lớp da còn nguyên trên đỉnh đầu gã. Verbum significatium..., gã lầm rầm.

Verbum omnificum. Rốt cuộc, gã đã tìm ra thành tố cuối cùng.

Kho báu quý giá nhất thường lại đơn giản nhất.

Phía trên bàn thờ, những làn khói thơm cuộn xoáy, bốc cao khỏi lư hương. Khói tẩy uế bay lên qua cột ánh trăng, tẩy sạch con đường thăng thiên để một linh hồn được giải phóng có thể tự do di chuyển.

Thời khắc đã đến.

Mal'akh với lấy ống đựng máu đã ngả đen của Peter và mở nút.

Trước ánh mắt nạn nhân, gã nhúng chiếc lông quạ vào mực son và đưa lên vòng da thiêng liêng trên đỉnh đầu mình. Gã dừng lại một chút... nghĩ đến quãng thời gian đằng đẵng phải chờ đợi cho tới đêm nay. Cuối cùng quá trình biến cải vĩ đại của gã đã đến. Khi Từ Còn Thiếu được viết lên trí tuệ con người, tức thị người ấy đã sẵn sàng nhận lấy sức mạnh khôn lường. Đó là lời hứa hẹn xa xưa về sự phong thần. Cho đến nay, nhân loại vẫn không nhận ra lời hứa đó, riêng Mal'akh đã làm hết sức để biến nó thành hiện thực.

Bằng bàn tay vững vàng, Mal'akh chạm đầu sợi lông xuống da. Không cần dùng đến gương, không cần sự hỗ trợ, gã chỉ can cảm giác và tuệ nhãn của mình. Rất chậm rãi, rất tỉ mỉ, gã bắt đầu viết Từ Còn Thiếu vào bên trong vòng tròn trên đỉnh đầu.

Peter Solomon chứng kiến với vẻ khiếp đảm.

Vẽ xong, Mal'akh nhắm mắt lại, buông chiếc lông chim xuống và phả hết không khí trong phổi ra. Lần đầu tiên trong đời, gã cảm nhận một nỗi xốn xang chưa từng biết đến.

Ta đã hoàn tất.

Ta là nhất thể.

Mal'akh đã mất nhiều năm để biến cơ thể mình thành một tác phẩm, và giờ đây, tới gần thời khắc biến đổi cuối cùng, gã cảm nhận chi tiết từng nét vẽ tô lên da thịt. Ta là một kiệt tác thật sự hoàn hảo và tron vẹn.

- Tôi đã cho anh thứ anh đề nghị - Tiếng Peter vang lên - Hãy cử người đến giúp Katherine, và dừng tệp tin đó lại.

Mal'akh mở mắt, mỉm cười.

- Ông và tôi chưa hoàn tất hẳn đâu - Gã quay lại phía bàn thờ, nhặt con dao hiến sinh và rê ngón tay ngang qua lưỡi dao sáng loáng - Con dao cổ này được Chúa uỷ thác để dùng vào việc hiến sinh con người. Ông nhận ra nó rồi phải không?

Đôi mắt xám của Solomon lạnh như đá.

- Chỉ có duy nhất một con dao như thế, tôi đã nghe huyền thoại.

- Huyền thoại? Câu truyện ghi chép trong Kinh Thánh. Ông không tin con dao có thật sao?

Peter chỉ nhìn trừng trừng.

Mal'akh đã chi cả đống tiền để truy tìm và giành bằng được món đồ này. Người ta chế tác con dao cách đây ba nghìn năm, từ một khối thiên thạch kim loại rơi xuống trái đất và đặt cho nó cái tên Akedah. Các tín đồ thần bí sơ khai gọi nó là sắt trời. Nhiều người tin rằng đây chính là lưỡi dao mà Abraham sử dụng trong lễ hiến sinh cậu con trai Isaac trên đỉnh núi Moriah, như mô tả trong chương Adekah thuộc Sáng Thế ký. Con dao này có một lịch sử phi thường, nó từng qua tay nhiều Giáo hoàng, nhiều phù thuỷ Đức Quốc xã, các nhà giả kim châu Âu, và các nhà sưu tập cá nhân.

Họ bảo vệ và ngưỡng mộ nó, Mal'akh nghĩ, những không ai dám giải phóng sức mạnh chân chính của con dao bằng cách sử dụng nó vào mục đích thực sự. Đêm nay, lưỡi dao Akedah sẽ hoàn tất số phận của nó.

Theo nghi lễ Hội Tam điểm, lễ hiến sinh Akedah luôn rất thiêng liêng. Ngay ở cấp độ đầu tiên, các huynh đệ trong Hội đã xưng tụng đây là món quà thiêng liêng nhất dâng cho Chúa... việc Abraham hiến dâng theo ý Đấng Chí tôn bằng cách hy sính con trai đầu lòng Isaac..."

Con dao đằm xuống một cách phấn khích trong lòng bàn tay Mal'akh khi gã cúi xuống dùng lưỡi thép sắc ngọt cắt đứt đám dây nhợ trói Peter vào chiếc xe lăn của ông. Dây buộc tuột xuống sàn.

Peter Solomon gắng nhấc đôi chân tê bại lên và nhăn mặt vì đau.

- Tại sao anh đối xử với tôi thế này? Điều gì khiến anh nghĩ rằng hành động hôm nay sẽ giúp anh đạt được mục đích?

- Tất cả các người cần phải hiểu, - Mal'akh đáp - Các người nghiên cứu những phương pháp cổ xưa. Các người biết rằng sức mạnh của mọi điều huyền bí nằm ở sự hiến sinh... ở việc giải phóng linh hồn con người khỏi cơ thể. Ngay từ buổi ban đầu con đường đã là như vậy rồi.

- Anh chẳng hiểu gì về hiến sinh cả - Peter bình phẩm, giọng đầy đau đớn và căm hờn.

Tốt lắm, Mal'akh nghĩ. Cứ việc nổi điên đi. Sẽ chỉ càng làm cho mọi việc dễ dàng hơn.

Gã rảo bước tới trước mặt nạn nhân của mình, cái dạ dày trống rỗng quặn lên.

Sự đổ máu sẽ tạo ra một nguồn sức mạnh khổng lồ. Tất cả mọi người đều hiểu điều đó, từ dân Ai Cập cổ đại, các tu sĩ Celtic tới người Trung Hoa, người Aztec. Việc hiến sinh con người sẽ tạo ra phép màu, nhưng con người hiện đại lại quá yếu đuối, sợ sệt đến nỗi không dám chuẩn bị những lễ vật đích thực, hèn nhát đến nôi không dám dân hiến mạng sống vốn rất cần cho quá trình cải biến tinh thần. Mặc dù các văn bản cổ xưa đều nói rất rõ, phải dâng hiến những thứ thiêng liêng nhất thì con người mới tiếp cận được sức mạnh tối thượng.

- Anh coi tôi là một lễ vật linh thiêng à?

Mal'akh cười phá lên.

- Ông thật sự chưa hiểu, phải không?

Peter ngơ ngác nhìn gã.

- Ông có biết tại sao tôi lắp cái bể tiết chế cảm xúc ở nhà không? - Mal'akh chống tay lên hông và uốn cong cơ thể trang trí cầu kỳ được che đậy bởi mỗi một manh khố của gã - Tôi đã thực hiện... chuẩn bị... tiên đoán thời khắc tôi trở thành bộ óc duy nhất... thoát khỏi cái vỏ đoản mệnh... và hiến dâng tấm thân tuyệt mỹ này cho các vị thần. Tôi mới là lễ vật quý giá! Tôi mới là con cừu trắng thanh sạch.

Peter há hốc miệng, nhưng không thốt nên lời.

- Phải, Peter, một con người phải dâng cho thần linh thứ anh ta trân trọng nhất, con bồ câu trắng tinh khiết nhất... món lễ vật đáng giá và quý báu nhất của anh ta. Với tôi. Ông không báu bở gì. Ông không phải là vật tế đáng giá - Mal'akh trừng trừng nhìn Peter - ông không hiểu, ông không phải là vật hiến sinh, Peter ạ... Tôi cơ. Da thịt tôi mới là lễ vật. Tôi mới là món quà. Hãy nhìn tôi xem. Tôi đã chuẩn bị, đã làm cho mình xứng đáng với hành trình cuối cùng của tôi Tôi mới là lễ vật!

Peter vẫn không nói lên lời.

- Bí mật là chết như thế nào? - Mal'akh nói tiếp - Hội Tam điểm hiểu điều đó - Gã trỏ bàn thờ - Các người sùng kính chân lý cổ xưa, nhưng các người những kẻ hèn nhát. Các người hiểu sức mạnh của hiến sinh nhưng các người giữ một khoảng cách an toàn trước cái chết, thực hiện lễ giết người giả tạo và những nghi thức chết chóc không hề có giọt máu nào. Đêm nay, bàn thờ tượng trưng của các người sẽ chứng kiến sức mạnh chân chính... và mục đích thực sự của nó.

Mal'akh cúi xuống, túm lấy tay trái của Peter Solomon và ấn cán dao Akedah vào bàn tay ông. Bàn tay trái phụng sự bóng tối. Chi tiết này cũng đã được lên kế hoạch. Peter không còn quyền lựa chọn. Mal'akh nhận thấy không một lễ hiến sinh nào hùng mạnh và mang nhiều tính biểu tượng hơn lễ hiến sinh thực hiện trên chiếc bàn thờ này, bởi con người này, với lưỡi dao này, cắm ngập vào trái tim của một lễ vật mà xương thịt phàm tục được bọc kín trong lớp vải liệm của những biểu tượng bí ẩn.

Bằng cách dâng hiến bản thân, Mal'akh sẽ xác lập địa vị của mình trong hàng ngũ ma quỷ. Bóng tối và máu chính là nơi chứa sức mạnh đích thực. Người cổ đại hiểu rõ điều này, các pháp sư đều căn cứ theo bản chất riêng để chọn chỗ đứng cho mình. Mal'akh đã khôn ngoan chọn đứng về phía Bóng tối. Hỗn loạn là quy luật tự nhiên của vũ trụ. Thái độ dửng dưng chính là động cơ của entropy. Sự hờ hững của con người là mảnh đất màu mỡ để các linh hồn đen tối gieo hạt giống của chúng.

Ta đã phục vụ họ, và họ sẽ đón nhận ta như một vị thần.

Peter không nhúc nhích. Ông chỉ trừng trừng nhìn xuống con dao cổ nắm chặt trong tay mình.

- Tôi muốn ông, - Mal'akh giễu cợt - Tôi là một vật hy sinh đã sẵn sàng. Vai trò cuối cùng của ông đã được xác định. Ông sẽ biến đổi tôi, giải thoát tôi khỏi thân xác phàm tục. Ông phải làm việc đó, bằng không sẽ mất em gái cũng như hội huynh đệ, và thực sự chỉ còn trơ trọi một mình - Gã ngừng lời, mỉm cười với nạn nhân của gã - Hãy nghĩ đến hình phạt cuối cùng này của ông.

Peter chậm rãi ngước mắt lên, nhìn thẳng vào mắt Mal'akh.

- Giết mày ư? Một hình phạt ư? Mày tưởng tao sẽ do dự chắc? Mày đã giết con trai tao. Mẹ tao. Toàn bộ gia đình tao.

- Không! - Mal'akh nổ bùng với một sức mạnh khiến bản thân gã cũng phải giật mình - Ông sai rồi! Tôi không giết gia đình ông. Chính ông! Chính ông đã quyết định bỏ mặc Zachary trong tù. Từ đó, bánh xe bắt đầu chuyển động. Ông đã giết gia đình mình, Peter ạ, không phải tôi!

Các đốt xương của Peter trắng bệch, các ngón tay ông xiết chặt con dao đầy giận dữ.

- Mày không hiểu lý do tại sao tao để Zachary trong tù.

- Tôi biết tất cả? - Mal'akh quát lại - Tôi đã ở đó. Ông tuyên bố sẽ cố gắng giúp nó. Ông cố gắng giúp khi bảo nó lựa chọn giữa tiền bạc và tri thức ư? Ông cố gắng giúp khi ra tối hậu thư cho nó về việc gia nhập Hội Tam điểm ư? Loại bố nào buộc đứa con lựa chọn giữa "tiền bạc và tri thức" và kỳ vọng nó biết cách xử lý chứ! Loại bố nào bỏ đứa con dứt ruột đẻ ra trong tù thay vì đưa nó về nhà an toàn chứ.

Mal'akh tiến lại trước mặt Peter và cúi xuống, gí khuôn mặt vằn vện hình xăm của gã vào sát mặt ông, chỉ còn cách vài phân.

- Nhưng điều quan trọng nhất... loại bố nào tận mắt trông thấy con trai mình... dù là bao nhiêu năm đi nữa... lại không nhận ra nó!

Lời Mal'akh vang vọng vài giây trong căn phòng đá.

Rồi im lặng.

Trong bầu không khí tịch mịch đột ngột, Peter Solomon dường như choàng tỉnh khỏi trạng thái thất thần. Nét mặt ông đầy rẫy ngờ vực.

Phải, thưa Ba. Chính là con đây. Mal'akh đã chờ đợi khoảnh khắc này suốt nhiều năm... để trả thù người ruồng bỏ gã... để trừng trừng nhìn vào đôi mắt xám và bật ra sự thật chôn giấu bấy nhiêu năm ròng. Giờ đây, thời điểm đã tới, và gã nói rất chậm rãi, háo hức chứng kiến linh hồn Peter Solomon bị đè nghiến dưới sức nặng lời nói của mình.

- Chắc là ba hạnh phúc lắm. Đứa con trai hoang đàng của ba đã trở về.

Mặt Peter xám ngoét như người chết.

Mal'akh tận hưởng từng khoảnh khắc.

- Cha ruột của tôi đã quyết định bỏ mặc tôi trong tù... Vào thời điểm đó, tôi đã thề rằng không bao giờ để ông ta ruồng rẫy tôi thêm lần nào nữa. Tôi không còn là con trai ông ta nữa. Sự tồn tại của Zachary Solomon sẽ chấm dứt.

Hai giọt nước mắt long lanh đột nhiên trào lên trong mắt người cha, Mal'akh nghĩ đó là thứ đẹp nhất mà gã từng được thấy.

Peter cố nén nước mắt, đăm đăm ngắm khuôn mặt Mal'akh như thể đang nhìn gã lần đầu tiên trong đời.

- Tất cả những gì lão cai ngục muốn là tiền - Mal'akh nói - nhưng ông từ chối. Chắc ông không bao giờ ngờ đến, rằng tiền của tôi cũng xanh như tiền của ông. Lão cai ngục chỉ cần kiếm chác, không quan tâm ai là người trả. Khi tôi đề nghị chi đẹp, lão liền chọn một thằng tù ốm có hình dáng như tôi, cho nó mặc quần áo của tôi, và đập chết nó mà không ai hay biết. Những bức ảnh ông xem... và cái bình tro xương niêm phong mà ông chôn cất... đều không phải là tôi. Chúng thuộc về một người hoàn toàn xa lạ.

Gương mặt còn vương ngấn lệ của Peter lúc này nhăn nhúm vì đau đớn và choáng váng.

- Ôi lạy Chúa... Zachary.

- Không còn nữa đâu. Khi Zachary bước ra khỏi nhà tù, nó đã được biến cải.

Cơ thể vị thành niên và gương mặt ngây thơ ngày nào đã thay đổi ghê gớm khi Zachary đắm chìm trong các loại hormone và steroid tăng trưởng thử nghiệm. Thậm chí dây thanh quản của gã cũng bị phá huỷ, biến giọng nói lanh lảnh thành một giọng thì thào vĩnh viễn.

Zachary trở thành Andros.

Andros trở thành Mal'akh.

Và tối nay... Mal'akh sẽ trở thành hiện thân vĩ đại nhất của mình.

***

Trong lúc ấy, tại Kalorama Heights, Katherine Solomon đứng bên ngăn kéo tủ mở toang và trân trối nhìn xuống một đống chỉ có thể gọi là bộ sưu tập các bài báo và ảnh cũ của một tín đồ Bái vật giáo.

- Tôi không hiểu - cô nói, quay sang phía Bellamy - Gã điên này rõ ràng bị ám ảnh bởi gia đình tôi, nhưng...

- Cứ xem đi... - Bellamy giục, tìm một chỗ ngồi và trông vẫn cực kỳ chấn động.

Katherine lục kỹ hơn chồng báo, tất cả mọi thứ đều liên quan đến gia đình Solomon: những thành công của Peter, nghiên cứu của Katherine, cái chết khủng khiếp của Isabel, việc dùng ma tuý tai tiếng của Zachary Solomon, vụ tống giam, và vụ giết người tàn bạo trong một nhà tù Thổ Nhĩ Kỳ.

Niềm đam mê mà gã đàn ông này dành cho gia đình Solomon vượt xa cả sự cuồng tín, nhưng Katherine vẫn chẳng thấy manh mối nào gợi ra lý do vì sao.

Đúng lúc đó cô nhìn thấy những bức ảnh. Bức đầu tiên chụp Zachary đứng trong làn nước xanh ngập tới đầu gối ở một bãi biển lác đác vài ngôi nhà quét sơn trắng. Hy Lạp? Chắc hẳn bức ảnh này được chụp trong những ngày nghiện ngập của Zach ở châu Âu.

Nhưng lạ là cháu cô trông mạnh khỏe hơn so với hình ảnh một thằng choai choai hốc hác đang bù khú với cả đám bạn hút hít vẫn thường xuất hiện trên mớ ảnh của đám paparazzi. Bề ngoài nó vạm vỡ, rắn rỏi và chững chạc hơn. Trong ký ức của Katherine, chưa bao giờ trông Zachary lại khỏe khoắn thế này.

Bối rối, cô kiểm tra ngày tháng đóng dấu trên bức ảnh.

Không thể... thế được.

Ngày tháng là gần một năm sau khi Zachary chết trong tù.

Đột nhiên, Katherine lật giở thật nhanh qua cả chồng tài liệu. Mọi bức ảnh đều chụp Zachary Solomon... mỗi ngày một trưởng thành.

Bộ sưu tập tương tự một dạng tự truyện bằng hình, ghi lại quá trình biến đổi từ từ. Càng lật giở những bức ảnh, Katherine càng nhận ra sự thay đổi đột ngột và rõ rệt. Cô kinh hãi nhìn cơ thể Zachary biến cải, cơ bắp nảy nở, những đường nét trên mặt biến dạng do sử dụng quá nhiều steroid, khung xương dường như tăng gấp đôi, và một ánh hung tợn hiện rõ trong mắt nó.

Mình thậm chí không nhận ra người này? Trông nó chẳng còn nét gì giống với ký ức của Katherine về đứa cháu trai.

Khi xem đến bức ảnh chụp Zachary với cái đầu cạo trọc lốc, Katherine cảm thấy đầu gối mình nhũn ra. Rồi cô bắt gặp một bức ảnh chụp cơ thể để trần của nó... đang trang trí bằng những nét xăm trổ đầu tiên.

Tim cô như ngừng đập.

- Ôi lạy Chúa tôi...

Chương 120

- Rẽ phải! Langdon hô to từ ghế sau chiếc SUV Lexus bị trưng dụng.

Simkins ngoặt gấp ngay góc phố S và cho xe lao nhanh qua một khu dân cư có hai hàng cây. Khi họ đến gần góc phố 16, Thánh điện Hội Tam điểm hiện ra, vươn cao như một quả núi ở bên phải.

Simkins chăm chú nhìn toà nhà đồ sộ. Trông giống hệt một kim tự tháp xây trên nóc đền Pantheon thành Rome. Anh chuẩn bị rẽ phải ở phố 16 để lao tới trước mặt toà nhà.

- Đừng rẽ! - Langdon ra lệnh - Đi thẳng! Cứ ở trên phố S!

Simkins tuân theo, cho xe chạy dọc sườn phía đông của toà nhà.

- Đến phố 15, - Langdon nói - rẽ phải!

Simkins làm theo hoa tiêu của mình, và chỉ lát sau, Langdon đã dẫn họ ra một con đường không lát đá, rất khó nhận biết, cắt đôi những khu vườn phía sau Thánh điện. Simkins tập trung vào tay lái, cho chiếc Lexus phóng tới phía sau toà nhà.

- Nhìn kìa? - Langdon trỏ chiếc xe duy nhất đậu gần lối vào phía sau. Đó là một chiếc xe tải lớn - Họ ở đây.

Simkins cho chiếc SUV đỗ lại và tắt máy. Rất nhẹ nhàng, mọi người ra khỏi xe và chuẩn bị tiến vào. Simkins ngước nhìn công trình bằng đá nguyên khối.

- Ông nói Phòng Thánh lễ ở trên đỉnh à?

Langdon gật đầu, chỉ tít lên tháp nhọn của toà nhà.

Khoảng trống bằng phẳng trên đỉnh kim tự tháp thực tế chính là cửa sổ trần nhà đấy.

Simkins quay phắt lại phía Langdon.

- Phòng Thánh lễ có cửa sổ trần nhà à?

Langdon ngơ ngác nhìn anh ta.

- Dĩ nhiên. Một mắt vòm hướng lên trời... ngay phía trên bàn thờ.

***

Chiếc UH-60 đậu im lìm tại Bùng binh Dupont.

Ngồi ở ghế phụ lái, Sato cắn móng tay, chờ đợi tin tức từ đội của mình.

Cuối cùng, tiếng Simkins cũng vang lên sột soạt trong bộ đàm.

- Giám đốc?

- Tôi đây, - Sato đáp.

- Chúng tôi đang vào toà nhà, nhưng tôi có thêm tin mới cho bà.

- Nói đi!

Ông Langdon vừa cho tôi biết căn phòng đối tượng đang ở có một cửa sổ trần nhà rất lớn.

Sato cân nhắc thông tin đó trong vài giây.

- Hiểu rồi. Cảm ơn.

Simkins tắt máy.

Sato phun một mẩu móng tay ra và quay sang phi công.

- Bay lên đi!

Chương 121

Như mọi bậc cha mẹ mất con, Peter Solomon thường hình dung xem đứa con của mình giờ đã bao nhiêu tuổi... trông nó ra sao... và trở thành người như thế nào.

Nay ông đã có câu trả lời.

Khi mới chào đời, sinh vật xăm trổ vằn vện kềnh càng trước mặt ông chỉ là một đứa trẻ sơ sinh nhỏ xíu và đáng yêu... bé Zach quấn tã nằm trong chiếc nôi đan bằng liễu gai... bập bẹ học nói... chập chững những bước đầu tiên trong phòng làm việc của Peter. Cái ác nảy nòi nơi một đứa trẻ ngây thơ lớn lên trong gia đình tràn đầy tình thương thực là một trong những nghịch lý của tâm hồn con người. Từ lâu ròi, Peter đã buộc phải chấp nhận rằng mặc dù huyết quản Zach chứa dòng máu Solomon, nhưng trái tim để bơm dòng máu ấy lại là của riêng nó. Duy nhất và khác thường... như thể được lựa chọn rất ngẫu nhiên từ vũ trụ bao la.

Con trai tôi... nó đã giết mẹ tôi, người bạn Robert Langdon của tôi, và có thể cả em gái tôi nữa.

Peter tê tái cõi lòng, gắng tìm kiếm đôi chút thân thương hay quen thuộc trong mắt con trai. Tuy nhiên, đôi mắt của gã đàn ông, mặc dù cũng xám như mắt Peter, lại là mắt một kẻ hoàn toàn xa lạ, chất chứa toàn những oán hờn và cừu hận không hề thấy ở thế giới này.

- Ba vẫn khỏe chứ? - Mal'akh giễu cợt, liếc con dao Akedah nắm chặt trong tay Peter - Ba có thể kết thúc tấn kịch mà chính ba bắt đầu từ nhiều năm về trước không?

- Con trai... - Solomon lạc giọng - Ta... ta đã yêu thương... con.

- Ba đã cố giết tôi hai lần. Lần thứ nhất bỏ tôi trong tù. Lần thứ hai bắn tôi ở cây cầu của Zach. Giờ thì hãy kết thúc đi!

Nhất thời, Solomon cảm thấy như trôi ra khỏi cơ thể của chính mình. Ông không còn nhận ra bản thân nữa: cụt một bàn tay, đầu cạo trọc hoàn toàn, mình mặc tấm áo choàng đen, ngồi trên chiếc xe lăn và đang nắm chặt một con dao cổ.

- Hãy kết thúc đi! - Mal'akh lại gào lên, những hình xăm trên bộ ngực trần của gã phập phồng - Giết tôi là cách duy nhất giúp ông cứu Katherine... cứu hội huynh đệ của mình?

Solomon bất giác liếc mắt về phía máy tính và chiếc modem đặt trên ghế da lợn.

ĐANG GỬI TIN: HOÀN TẤT 92%

Ông không thể làm ngơ trước hình ảnh Katherine chảy máu tới chết... hay bỏ mặc các huynh đệ Tam điểm của ông.

- Vẫn còn thời gian đấy - Mal'akh thì thào - ông biết đó là lựa chọn duy nhất mà. Hãy giải thoát tôi khỏi thân xác phàm tục này.

- Ba xin con - Solomon khẩn khoản - Đừng làm thế...

- Nhưng ông đã lầm - Mal'akh rít lên - ông buộc con ông phải thực hiện một lựa chọn bất khả. Ông còn nhớ buổi tối đó không? Tiền bạc hay tri thức? Đó là buổi tối ông đẩy tôi ra xa mãi mãi. Nhưng tôi đã trở về. Thưa ba... và tối nay đến lượt ông phải lựa chọn. Zachary hay Katherine? Sẽ thế nào? Giết con trai để cứu em gái? Giết con trai để cứu hội huynh đệ? Cứu cả đất nước nữa chứ? Hay ông sẽ đợi cho tới khi quá muộn? Cho tới khi cô Katherine chết... cho tới khi đoạn video tung ra công chúng... cho tới khi ông phải sống nốt quãng đời còn lại với nỗi dằn vặt rằng mình đã có thể chấm dứt những thảm kịch này. Thời gian đang cạn dần đấy. Ông biết cần phải làm gì mà.

Tim Peter đau nhói. Mày không phải là Zachary, ông tự nhủ. Zachary đã chết từ lâu, rất lâu rồi. Cho dù mày là thứ gì... và cho dù mày từ đâu đến... thì mày cũng chẳng phải là con tao. Mặc dù không tin vào lời lẽ của chính mình, nhưng Peter Solomon biết ông phải lựa chọn.

Không còn thời gian trì hoãn nữa.

***

Tìm Cầu thang lớn!

Robert Langdon băng qua các hành lang tối om, luồn lách tiến về phía trung tâm toà nhà. Turner Simkins theo sát gót anh. Cuối cùng Langdon cũng vào được thẳng sảnh chính, đúng như anh hy vọng.

Sảnh chính trông giống một ngôi mộ cá lai ghép Hy Lạp - La Mã - Ai Cập với tám cây cột bằng đá hoa cương theo phong cách Doric, với những bức tượng bằng cẩm thạch đen, những bát đèn dầu treo, những cây thập tự kiểu Giéc-manh, những tấm huy chương hình phượng hoàng hai đầu và những chân đèn trang trí đầu thần Hermes.

Langdon rẽ sang đầu kia sảnh chính, chạy về phía cầu thang cẩm thạch rộng thênh thang.

- Cầu thang này dẫn thẳng tới Phòng Thánh lễ. - anh thì thầm. Hai người leo lên nhanh và im lặng hết mức có thể.

- Ở chiếu nghỉ đầu tiên, Langdon gặp bức tượng bán thân bằng đồng của danh nhân Tam điểm Albert Pike, cùng với dòng chữ khắc câu nói nổi tiếng nhất của ông: NHỮNG GÌ CHÚNG TA LÀM RIÊNG CHO BẢN THÂN SẼ CHẾT CÙNG CHÚNG TA; NHỮNG GÌ CHÚNG TA LÀM CHO NGƯỜI KHÁC VÀ THẾ GIỚI THÌ SẼ Ở LẠI VÀ SÔNG MÃI.

***

Mal'akh cảm nhận một sự thay đổi rõ rệt trong không khí tại Phòng Thánh lễ, như thể mọi nỗi thất vọng và đau đớn bấy nay của Peter Solomon đều đang sôi sục... hội tụ lại như một chùm tia la-de nhắm vào gã.

Phải... đến lúc rồi.

Peter Solomon nhổm dậy khỏi chiếc xe lăn và đứng đối diện với bàn thờ, tay nắm chặt lưỡi dao.

- Hãy cứu cô Katherine - Mal'akh ve vãn, dẫn dụ ông tới gần bàn thờ, gã dựa lưng vào đó và cuối cùng nằm hẳn lên tấm vải trắng đã chuẩn bị sẵn - Hãy làm những gì mà ba cần phải làm.

Cứ như thể đang trải qua một cơn ác mộng, Peter nhích lên phía trước.

Giờ đây Mal'akh đã nằm ngửa hẳn ra, đăm đăm nhìn lên mặt trăng mùa đông qua mắt vòm. Bí mật là chết như thế nào. Khoảnh khắc này không thể hoàn hảo hơn được nữa. Trang trí cho mình bằng Từ Còn Thiếu của mọi thời đại, ta hiến thân qua bàn tay trái của cha ta.

Mal'akh hít một hơi thật sâu.

Hãy đón nhận ta, hỡi quỷ sứ, vì đây là cơ thể ta, hiến dâng cho các người.

Peter Solomon nhìn xuống Mal'akh, người run bắn. Đôi mắt đẫm lệ lóe lên tuyệt vọng, do dự và thống khổ. Ông ngó máy tính xách tay và chiếc modem bên kia phòng lần cuối.

- Hãy lựa chọn đi - Mal'akh thì thào - Hãy giải thoát con khỏi thân xác của con. Chúa muốn thế. Ba muốn thế.

Gã đặt hai tay bên sườn và ưỡn cong ngực lên, trương con phượng hoàng hai đầu kiêu hãnh của mình ra. Hãy giúp ta trút bỏ nhục thân trói buộc linh hồn ta.

Ánh mắt đau đớn của Peter như xuyên thấu qua người Mal'akh, thậm chí không nhìn vào gã.

- Con đã giết mẹ của ba - Mal'akh thì thào - Con đã giết Robert Langdon. Con đang giết em gái ba. Con đang huỷ hoại các huynh đệ của ba. Hãy làm những gì ba phải làm đi!

Mặt Peter nhăn nhúm thành chiếc mặt nạ của nỗi thống khổ và ân hận cùng cực. Ông ngửa đầu ra sau và hét lên đau đớn, đồng thời vung con dao lên.

***

Vừa rón rén tới bên ngoài cửa Phòng Thánh lễ. Robert Langdon và đặc vụ Simkins chợt nghe thấy tiếng hét ghê rợn bung ra từ bên trong. Đó là giọng Peter. Langdon biết chắc như vậy.

Tiếng hét của ông là tiếng hét bị thương tột cùng.

Mình đến quá muộn rồi! Mặc kệ Simkins, Langdon chụp lấy tay nắm cửa và mở toang ra.

Cảnh tượng hãi hùng trước mắt đã xác nhận nỗi sợ hãi khủng khiếp nhất của anh. Ở kia, ngay giữa căn phòng sáng lờ mờ, đứng bên bàn thờ trung tâm là một người đàn ông với cái đầu trọc lốc. Người đó khoác áo choàng đen, tay siết chặt một con dao lớn.

Langdon chưa kịp di chuyển thì kẻ đó đã phóng lưỡi dao xuống thân hình nằm dài trên bàn thờ.

***

Mal'akh nhắm mắt lại.

Thật tuyệt vời! Thật hoàn hảo.

Lưỡi dao Akedah cổ xưa lấp loáng ánh trăng trong lúc lượn thành một đường vòng phía trên gã. Những làn khói xông hương cuộn xoáy bay lên, chuẩn bị sẵn con đường cho linh hồn sắp được giải thoát của Mal'akh. Tiếng thét xót xa và tuyệt vọng của kẻ hạ sát ngân vang khắp không gian thiêng liêng trong khi lưỡi dao cắm xuống.

Ta bị ô uế bởi máu của kẻ hiến sinh và nước mắt của cha mẹ.

Mal'akh chờ đợi tác động tuyệt vời.

Thời điểm biến cải của gã đã đến.

Thật kỳ lạ là gã không hề thấy đau.

Một chấn động mạnh lan khắp người gã, chói tai và thấm sâu. Căn phòng bắt đầu rung chuyển, một quầng sáng trắng chói loà bên trên làm gã loá mắt.

Thiên đường cất tiếng.

Mal'akh biết điều đó đã xảy ra.

Đúng như kế hoạch của gã.

***

Langdon không nhớ mình đã phóng hết tốc lực về phía bàn thờ trong khi chiếc trực thăng xuất hiện trên đầu. Anh cũng chẳng nhớ đã nhảy bổ tới hai cánh tay dang rộng... lao vào kẻ mặc áo choàng đen... cố gắng túm lấy hắn một cách tuyệt vọng trước khi hắn phóng dao xuống lan thứ hai.

Thân hình họ va vào nhau. Một cột sáng chói chang quét qua mắt vòm và soi rõ bàn thờ. Langdon đinh ninh sẽ nhìn thấy cơ thể đẫm máu của Peter Solomon trên đó, nhưng bộ ngực trần phơi ra trong ánh sáng lại chẳng vương chút máu nào... chỉ toàn những hình xăm như một bức tranh thêu. Con dao nằm gãy nát bên cạnh gã, rõ ràng đã đâm mạnh vào bàn thờ đá chứ không phải vào da thịt.

Khi va vào người mặc áo choàng đen trên sàn đá cứng, Langdon phát hiện nùi băng gạc ở đầu cánh tay phải của người ấy, và anh hoang mang nhận ra rằng mình vừa túm trúng Peter Solomon.

Họ lăn tròn trên sàn đá, đèn pha của chiếc trực thăng chiếu xuống sáng rực. Nó ầm ầm rà thấp, nạng chạm cả vào bức tường kính.

Phía đầu trực thăng, một khẩu súng trông rất lạ đang xoay tròn, nhắm xuống qua lớp kính. Chùm tia la-de đỏ rực lia qua cửa sổ trần nhà và nhảy nhót qua sàn phòng, rọi thẳng tới chỗ Langdon và Solomon.

Không! Nhưng không có tiếng súng nổ... chỉ có tiếng phành phạch của cánh quạt trực thăng.

Langdon không cảm thấy gì ngoài một nguồn năng lượng kỳ lạ lăn tăn lan qua các tế bào trong người. Phía sau đầu anh, trên chiếc ghế da lợn, máy tính xách tay bỗng rít lên rất lạ. Langdon nhổm dậy vừa kịp lúc nhìn thấy màn hình của nó đột nhiên sáng lòe rồi tắt phụt. Rủi thay, dòng tin cuối cùng còn lóe lại rất rõ ràng.

ĐANG GỬI TIN: HOÀN TẤT 100%

Bay lên!Khốn kiếp!Lên

Phi công cho các cánh quạt của chiếc UH-60 quay hết tốc lực, cố gắng không để nạng máy bay chạm vào bất kỳ phần nào của ô kính trần. Anh ta biết rằng ngót ba tấn lực nâng mà cánh quạt ép xuống đã khiến mặt kính căng gần tới điểm vỡ. Không may, độ nghiêng của kim tự tháp bên dưới trực thăng lại làm cho lực ép trượt sang bên cạnh, khiến anh không có đà nâng lên.

Lên đi nào!

Phi công lật nghiêng mũi máy bay, cố gắng lướt đi, nhưng thanh chống bên trái đã va trúng tâm mặt kính. Việc đó chỉ diễn ra trong chớp mắt, nhưng thế là đủ.

Mắt vòm cực lớn của Phòng Thánh lễ vỡ toang thành trận lốc thuỷ tinh và gió... trút cả một cơn mưa mảnh vỡ tung tóe vào gian phòng phía dưới.

***

Những vì sao đang từ thiên đàng rơi xuống.

Mal'akh trân trân nhìn lên quầng sáng trắng đẹp đẽ và thấy một màn lấp lánh bay về phía gã... rất nhanh... như thể đang hối hả trùm lên gã vẻ tráng lệ của chúng.

Đột nhiên có cảm giác đau nhói.

Khắp mọi nơi.

Nhói buốt. Rát bỏng. Dữ dội. Những lưỡi dao sắc lém xuyên qua thịt mềm. Ở ngực, ở cổ, ở đùi, ở mặt. Cơ thể gã đột ngột căng cứng, giật lên. Gã há cái miệng đầy máu gào rú khi cơn đau kéo gã ra khỏi trạng thái xuất thần. Ánh sáng trắng phía trên đã thay đổi, và đột nhiên, như có phép lạ, một chiếc trực thăng đen xì bay lơ lửng phía trên gã, những cánh quạt ầm ầm của nó đẩy cả một luồng gió giá buốt xuống Phòng Thánh lễ, khiến Mal'akh lạnh thấu đến tận tâm can và làm những làn hương thơm dạt tứ tan ra mọi góc phòng.

Mal'akh xoay đầu và nhìn thấy con dao Akedah nằm gãy nát bên mình, do bị đâm mạnh vào bàn thờ bằng đá granite, giờ đang phủ cả một tấm chăn thuỷ tinh vỡ. Sau ngần ấy bất hạnh ta gây ra cho Peter... lão vẫn ngăn chặn con dao. Lão không chịu làm máu ta đổ.

Với nỗi sợ hãi dâng trào, Mal'akh ngóc đầu dậy, trừng trừng nhìn dọc chiều dài cơ thể mình. Kiệt tác sống này vốn là lễ vật vĩ đại của gã. Nhưng nay nó nằm đó thật thảm hại. Cơ thể đẫm máu... những mảnh kính lớn cắm ngập vào da thịt gã từ mọi hướng.

Mal'akh yếu ớt thả đầu rơi trở lại bàn thờ đá hoa cương và trân trân nhìn qua không gian để ngỏ trên mái. Chiếc trực thăng đã bay đi thế vào chỗ nó là vầng mặt trăng mùa đông lặng lẽ.

Hai mắt mở to, Mal'akh nằm hớp không khí... trơ trọi một mình trên bàn thờ vĩ đại

Chương 122

Bí mật là chết như thế nào.

Mal'akh biết tất cả đều đã đi sai hướng. Không có ánh sáng rực rỡ.

Không có sự đón nhận tuyệt vời. Chỉ tuyền bóng tối và cơn đau nhức nhối. Thậm chí cả trong mắt gã.

Mal'akh không nhìn được nữa, nhưng vẫn cảm nhận được chuyển động xung quanh mình. Có tiếng nói... tiếng người... lạ thay, một trong số đó chính là tiếng Robert Langdon. Làm sao lại như thế được chứ?

- Cô ấy ổn rồi, - Langdon đang nhắc lại - Katherine rất ổn, Peter ạ. Em gái anh không sao.

Không. Mal'akh nghĩ. Katherine chết rồi. Nhất định phải như thế.

Mal'akh không nhìn được nữa, cũng chẳng chắc liệu mắt mình còn mở hay không, nhưng gã nghe thấy tiếng trực thăng bay đi. Bầu không khí thanh bình đột ngột lan toả trong Phòng Thánh lễ. Mal'akh nhận thấy nhịp đập trơn tru của trái đất đang trở nên rối loạn... y như thể những đợt thuỷ triều tự nhiên của đại dương bị phá vỡ bởi cơn bão đang hình thành.

Chao ab ordo.

Bấy giờ lại có những giọng nói lạ hoắc vang lên, hấp tấp trao đổi với Langdon về máy tính và tệp tin video. Quá muộn rồi, Mal'akh biết như vậy. Sự phá hoại đã thực hiện xong. Giờ này, đoạn video đang lan nhanh ra mọi ngóc ngách, làm thế giới choáng váng và phá huỷ tương lai của hội huynh đệ. Những kẻ có khả năng phổ biến trí tuệ nhất phải bị tiêu diệt. Sự ngu dốt của loài người là yếu tố giúp hỗn loạn phát triển. Sự thiếu vắng ánh sáng trên trái đất sẽ nuôi dưỡng Bóng tối, Bóng tối ấy đang chờ đợi Mal'akh.

Ta vừa lập những kỳ tích vĩ đại và ta sắp được đón nhận như một vị vua.

Mal'akh cảm thấy một người lặng lẽ tiến đến gần. Gã biết đó là ai, nhờ mùi dầu thiêng mà gã đã thoa lên cơ thể cạo nhẵn nhụi của ông.

- Ba không biết liệu con còn nghe được ba nói không, - Peter Solomon thì thầm vào tai gã - Nhưng ba muốn con biết một điều.

Ông chạm ngón tay vào vị trí thiêng liêng trên đỉnh sọ của Mal'akh.

- Những gì con viết lên đây... - ông ngập ngừng - không phải là Từ Còn Thiếu.

Nhất định là nó. Mal'akh nghĩ. Ông đã giúp tôi nhận ra, không nghi ngờ gì nữa.

Theo truyền thuyết, Từ Còn Thiếu được viết bằng một ngôn ngữ cổ và bí truyền đến mức nhân loại đều đã quên cách đọc. Ngôn ngữ bí mật này, như Peter tiết lộ, trên thực tế là thứ ngôn ngữ cổ xưa nhất trên trái đất.

Ngôn ngữ của biểu tượng.

Trong cách diễn đạt của biểu tượng học, có một biểu tượng ở vị trí tối thượng, vượt lên tất cả các biểu tượng khác. Cực kỳ lâu đời và phổ biến, biểu tượng ấy xuất hiện trong tất cả các tín ngưỡng cổ thông qua hình ảnh duy nhất tượng trưng cho sự chiếu sáng của thần mặt trời Ai Cập, cho việc tạo ra vàng giả kim, cho tri thức của Hòn đá Triết học, cho sự thuần khiết của Hoa hồng Thập tự, cho khoảnh khắc Sáng tạo cho Tất cả, cho sự thống trị của mặt trời chiêm tinh học, và thậm chí là Thấu nhãn thông linh ngự trên đỉnh Kim tự tháp Dang dở.

Bàn huyền điểm. Biểu tượng của Nguồn gốc. Lời nguyền của vạn vật.

Đây chính là điều Peter nói với gã lúc trước. Thoạt đầu Mal'akh sinh nghi, nhưng sau nhìn lại đồ hình, gã nhận ra rằng hình ảnh kim tự tháp chỉ trực tiếp tới biểu tượng duy nhất của Bàn huyền điểm - một vòng tròn với một chấm ở chính giữa. Kim tự tháp Tam điểm là một bản đồ, gã nhớ lại truyền thuyết, dẫn tới Từ Còn Thiếu. Xem ra cha gã đã nói sự thật.

Mọi chân lý vĩ đại đều rất đơn giản.

Từ Còn Thiếu không phải là một từ, nó là một biểu tượng.

Đầy háo hức. Mal'akh đã vẽ biểu tượng vĩ đại của Bàn huyền điểm lên đỉnh đầu. Trong khi vẽ, gã cảm thấy sức mạnh và sự thoả mãn trào dâng. Kiệt tác và lễ vật của ta đã hoàn tất. Các thế lực bóng tối đang chờ đợi. Gã sẽ nhận được phần thưởng cho nỗ lực của mình.

Đây là thời khắc vinh quang của gã...

Nhưng, đến phút cuối cùng, mọi sự lại chẳng đâu vào đâu.

Peter vẫn ở phía sau Mal'akh, tuôn ra những lời mà gã không tài nào hiểu nổi.

- Ba đã nói dối con - ông thú nhận - Con khiến ba không còn lựa chọn nào khác. Nếu ba tiết lộ cho con Từ Còn Thiếu đích thực, con sẽ không chịu tin, con cũng sẽ không chịu hiểu.

Từ Còn Thiếu... không phải là Bàn huyền điểm ư?

- Sự thực là - Peter nói - Từ Còn Thiếu thì ai cũng biết... nhưng rất ít người nhận ra.

Lời ông vang vọng trong tâm trí Mal'akh.

- Con vẫn chưa hoàn chỉnh, - Peter nói, nhẹ nhàng đặt bàn tay mình lên đỉnh đầu Mal'akh - Công trình của con còn dở dang. Nhưng cho dù con sẽ đi tới đâu, xin hãy hiểu điều này... con đã từng được yêu thương.

Không rõ vì sao, cái chạm tay nhẹ nhàng của Peter lại gây cảm giác thiêu đốt khắp người Mal'akh, y như thể một chất xúc tác cực mạnh đang kích hoạt phản ứng hoá học bên trong cơ thể gã. Rất bất ngờ, Mal'akh cảm thấy một luồng năng lượng cực mạnh trào dâng khắp vỏ sinh vật của mình, tưởng chừng từng tế bào trong người gã đang phân huỷ.

Trong khoảnh khắc, mọi nỗi đớn đau đều tan biến.

Biến cải. Nó đang xảy ra.

***

Ta đang đăm đăm nhìn xuống chính mình, một đống da thịt đẫm máu trên khối đá hoa cương thiêng liêng. Cha quỳ phía sau, ôm lấy cái đầu vô hồn của ta bằng bàn tay còn lại.

Ta cảm thấy giận dữ... và bối rối vô cùng.

Đây không phải là lúc thương hại... đây là lúc trả thù, biến cải...nhưng cha vẫn từ chối dâng hiến, từ chối hoàn tất vai trò từ chối truyền nỗi đau và sự phẫn nộ của ông qua lưỡi dao để cắm vào tim ta.

Ta bị mắc kẹt lại đây, lơ lửng... bị buộc vào cái vỏ phàm tục này.

Cha đang nhẹ nhàng đưa bàn tay mềm mại vuốt mắt cho ta.

Dường như sự trói buộc đã được cởi bỏ.

Một tấm màn đang hiện ra quanh ta càng lúc càng dày và che mờ ánh sáng, che khuất thế giới. Đột nhiên, thời gian tăng nhanh, và ta lao vào một vực thẳm tối tăm hơn bất kỳ nơi nào ta từng hình dung.

Ở đây trong khoang trống rỗng trơ trọi, ta nghe thấy tiếng thì thào...

Ta cảm thấy có một thế lực đang tụ lại. Nó bành trướng, tăng trưởng với một tốc độ kinh ngạc, bao vây lấy ta. Hăm doạ và hùng mạnh. Tối tăm và oai vọng.

Ở đây, ta không chỉ có một mình.

Đây là thắng lợi của ta, sự tiếp nhận vĩ đại dành cho ta. Nhưng chẳng hiểu sao, ta không mảy may vui sướng, thay vào đó là nỗi sợ hãi vô bờ.

Mọi sự khác hẳn điều ta kỳ vọng.

Thế lực kìa cứ trào lên xoáy tròn quanh ta với sức mạnh kinh người, đe doạ xé tan ta, đột nhiên, không hề báo trước, bóng tối tụ lại như một con thú tiền sử khủng khiếp và xông thẳng vào ta.

Ta đang đối mặt với những linh hồn tăm tối đã ra đi trước.

Ta kêu thét trong nỗi hãi hùng tột độ... khi bị bóng tối nuốt chửng lấy mình.

Chương 123

Tại Đại Giáo vương Quốc gia, Đức cha Galloway bỗng nhận thấy một sự thay đổi lạ lùng trong không khí. Ông không biết chắc tại sao, chỉ có cảm giác một bóng ma vừa tan biến... như thể một sức nặng vừa được nâng lên... xa dần nhưng vẫn ở ngay đây.

Ngồi một mình bên bàn. Ông chìm vào suy ngẫm. Chẳng biết bao nhiêu phút trôi qua, rồi điện thoại reo vang. Người gọi là Warren Bellamy.

- Peter còn sống, - vị huynh đệ Tam điểm của ông thông báo - Tôi vừa nghe tin. Tôi biết cha muốn hay tin ngay lập tức. Anh ấy sẽ ổn thôi.

- Ơn Chúa - Galloway thở phào - Anh ấy ở đâu rồi?

Galloway nghe Bellamy tường thuật lại câu chuyện dị thường diễn ra sau khi họ rời khỏi Chủng viện Nhà thờ lớn.

- Nhưng tất cả các anh đều ổn cả chứ, Đang phục hồi đây - Bellamy nói - Mặc dù, có một chuyện - ông ngừng lại.

- Sao nào?

- Kim tự tháp Tam điểm... tôi nghĩ có thể Langdon đã giải mã nó rồi.

Galloway mỉm cười. Dù sao ông cũng không hề thấy ngạc nhiên.

- Cho tôi biết, Langdon đã phát hiện ra kim tự tháp giữ đúng lời hứa hay chưa? Nó có tiết lộ những điều mà truyền thuyết luôn nói rằng nó sẽ tiết lộ không?

- Tôi vẫn chưa biết.

Nó sẽ tiết lộ. Galloway nghĩ.

- Anh cần nghỉ ngơi đi.

- Cha cũng thế.

Không, tôi cần cầu nguyện.

Chương 124

Cửa thang máy mở, ánh sáng trong Phòng Thánh lễ hắt ra chói loà.

Katherine Solomon hấp tấp lao vào tìm anh trai, chân vẫn tê cứng.

Không khí trong gian phòng mênh mông này lạnh lẽo và sặc mùi hương. Đón Katherine là một cảnh tượng khiến cô chững lại.

Chính giữa phòng, trên chiếc bàn thờ thấp bằng đá là một cái xác xăm trổ đẫm máu, bị vô vàn mảnh kính vỡ đâm nát. Cao trên trần nhà là một lỗ hổng mở thẳng lên trời.

Lạy Chúa tôi. Katherine lập tức ngoảnh đi, đưa mắt tìm Peter. Anh trai cô đang ngồi ở mé kia căn phòng, trò chuyện với Langdon và Giám đốc Sato trong khi một nhân viên y tế chăm sóc cho ông.

- Peter - Katherine gọi và chạy ngay sang - Anh Peter!

Anh trai cô nhìn lên, nét mặt nhẹ nhõm hẳn đi. Ông đứng ngay dậy, tiến về phía cô, mình bận áo sơ mi trắng giản dị và chiếc quần sẫm màu, có lẽ do ai đó xuống văn phòng dưới nhà mang lên cho ông. Cánh tay phải của Peter đặt trên băng đeo, làm hai anh em ôm nhau có phần vướng víu, nhưng Katherine không chú tâm lắm. Cảm giác an ủi thân thuộc vây kín cô tựa cái kén, luôn luôn như vậy kể từ thời thơ ấu, mỗi lần người anh trai quen bảo bọc ôm lấy cô.

Họ yên lặng trong vòng tay nhau.

Cuối cùng, Katherine thì thầm lên tiếng:

- Anh không sao chứ? Ý em là... thật sự ấy? - Cô buông Peter ra, nhìn xuống băng đeo và chỗ băng bó vốn là bàn tay phải của ông trước kia. Nước mắt cô lại trào lên - Em rất... rất xin lỗi.

Peter nhún vai như thể chẳng có gì đáng kể.

- Da thịt ấy mà. Cơ thể có tồn tại mãi đâu. Điều quan trọng là em vẫn bình an.

Phản ứng vô tư của Peter càng khiến cảm xúc trong lòng Katherine trào dâng, khơi gợi đủ mọi lý do khiến cô yêu thương anh trai mình.

Cô vuốt ve đầu ông, cảm nhận sợi dây gia đình bền chặt thông qua dòng máu chung chảy trong huyết mạch họ.

Thật buồn, Katherine biết rằng tối nay còn một thành viên Solomon nữa ở căn phòng này. Cái xác trên bàn thờ lại hút lấy ánh mắt cô, Katherine rùng mình, cố gắng xua đuổi những bức ảnh đã xem.

Cô ngoảnh đi, đưa mắt tìm Robert Langdon. Anh đáp lại với sự trìu mến, sâu thẳm và nhạy cảm, như thể đọc được suy nghĩ của cô.

Peter đã biết. Khuây khoả, cảm thông, thất vọng... những tình cảm nguyên sơ ấy xâm chiếm cõi lòng Katherine, và rồi, lần đầu tiên trong đời, cô thấy cơ thể Peter bắt đầu rung lên như một đứa trẻ.

- Hãy để mọi việc trôi qua - cô thì thầm - ôn rồi anh ạ. Hãy để nó qua đi.

Người Peter càng rung bần bật.

Katherine lại ôm lấy anh trai, vuốt ve sau gáy ông.

- Anh Peter, anh luôn là người mạnh mẽ... anh luôn có mặt khi em cần. Nhưng lúc này em ở đây là vì anh. Ổn rồi. Em ở đây mà.

Katherine nhẹ nhàng ép đầu anh trai lên vai cô... và Peter Solomon vĩ đại sụp xuống nức nở trong vòng tay em gái.

***

Giám đốc Sato bước ra xa để nghe điện thoại.

Nola Kaye gọi đến. Tin tức của cô khá tốt lành.

- Vẫn không có dấu hiệu phát tán, thưa sếp - Cô thông báo đầy hy vọng - Tôi tin rằng chúng ta sẽ thấy kết quả ngay bây giờ thôi. Có vẻ như sếp đã kiểm soát được tình hình.

- Cảm ơn cô, Nola, Sato nghĩ thầm, liếc xuống chiếc máy tính mà Langdon nhìn rõ là đã hoàn tất quá trình gửi tin. Đúng là thoát nạn trong gang tấc.

Theo gợi ý của Nola, nhân viên đặc vụ lục soát căn nhà của Mal'akh đã kiểm tra các thùng rác trong ga ra để xe và phát hiện bao bì của một chiếc modem mới mua. Với số chủng loại chính xác. Nola có thể tham khảo chéo các nhà cung cấp phù hợp, băng thông rộng và các mạng dịch vụ, cô lập nút truy cập nhiều khả năng nhất của chiếc máy tính, đó là một máy phát tín hiệu nhỏ ngay góc phố 16 và Corcoran, cách Thánh điện ba dãy nhà.

Nola nhanh chóng truyền tin cho Sato, bấy giờ đang ngồi trên trực thăng. Khi tiếp cận Thánh điện, phi công đã thực hiện bay thấp và phóng một đợt phát xạ điện từ, gây chấn động lên nút truyền tin khiến nó tắt phụt chỉ vài giây trước khi máy tính hoàn tất quá trình gửi tin.

- Tối nay cô cừ lắm - Sato nói - Bây giờ đi ngủ một chút đi. Cô xứng đáng được như vậy.

- Cảm ơn sếp - Nola ngập ngừng.

- Còn gì nữa?

Nola im lặng một lúc lâu, rõ ràng đang cân nhắc xem có nên nói hay không.

- Chẳng có gì đâu, thôi cứ để đến sáng mai, sếp ạ. Chúc sếp ngủ ngon

Chương 125

Trong không khí yên tĩnh của một phòng tắm rất trang nhã ở tầng trệt Thánh điện, Robert Langdon cho nước ấm chảy vào bồn tắm gạch men và ngắm mình trong gương. Ngay dưới làn ánh sáng mờ ảo, anh vẫn nhận ra trông mình mệt lả... đúng như anh cảm nhận.

Langdon lại khoác túi lên vai, nó nhẹ hơn nhiều bởi đã rỗng không ngoại trừ mấy món đồ cá nhân và vài ba ghi chú đã nhàu nát về bài giảng. Anh phì cười. Chuyến đi tới Thủ đô để giảng bài tối nay hoá ra vất vả hơn anh tưởng.

Dù vậy, vẫn có nhiều điều khiến Langdon khoan khoái:

Peter còn sống.

Đoạn video đã bị chặn lại.

Langdon vốc nước ấm vã lên mặt, thấy mình dần dần tỉnh táo. Mọi thứ vẫn còn lờ mờ, nhưng chất adrenaline trong cơ thể cuối cùng cũng giảm đi... Langdon cảm thấy được trở lại chính mình. Anh lau khô tay và nhìn chiếc đồng hồ Chuột Mickey.

Lạy Chúa, muộn rồi.

Langdon ra khỏi phòng tắm và lần theo bức tường cong của Sảnh Biểu chương - một lối đi tạo thành vòm rất trang nhã, hai bên là chân dung các hội viên Tam điểm xuất chúng... các vị tổng thống Hoa Kỳ, các nhà từ thiện, danh nhân, và những người Mỹ đầy ảnh hưởng khác.

Anh dừng lại trước bức tranh sơn dầu vẽ Harry S. Truman và cố hình dung xem người này trải qua các nghi thức, lễ nghi và quá trình nghiên cứu cần thiết để trở thành một hội viên Tam điểm như thế nào.

Có một thế giới bí mật đằng sau tất cả mỗi chúng ta. Cho tất cả chúng ta.

- Anh định chuồn đấy à? - một giọng nói vang lên trong sảnh.

Langdon quay lại.

- Katherine. Tối nay, cô đã phải trải qua địa ngục, nhưng giờ trông cô rạng rỡ bất ngờ... hầu như trẻ lại.

Langdon mỉm cười mệt mỏi.

- Peter sao rồi?

Katherine bước tới, ôm chầm lấy Langdon.

- Em biết cảm ơn anh thế nào đây.

Langdon phá lên cười.

- Em biết anh không làm gì cả mà, phải không?

Katherine ôm anh một lúc lâu.

- Anh Peter sẽ khỏe thôi... - Cô buông tay và nhìn sâu vào mắt Langdon - Và anh ấy vừa cho em biết một chuyện không thể tin nổi...một chuyện tuyệt vời- Giọng cô run lên mong đợi - Em phải tự mình đi xem. Em sẽ trở lại ngay thôi.

- Cái gì? Em định đi đâu?

- Em không đi lâu đâu. Bây giờ Peter muốn nói chuyện với anh đấy, nói riêng. Anh ấy đang đợi trong thư viện.

- Peter có nói là vì chuyện gì không?

Katherine cười khúc khích và lắc đầu.

- Anh thừa hiểu Peter và những bí mật của anh ấy mà.

- Nhưng...

- Lát nữa em sẽ gặp lại anh.

Rồi cô đi khuất.

Langdon thở dài. Đã quá đủ bí mật cho một buổi tối rồi. Dĩ nhiên, vẫn còn những câu hỏi chưa có lời đáp - Kim tự tháp Tam điểm và Từ Còn Thiếu đều nằm trong số đó - nhưng anh cảm thấy rằng mọi câu trả lời, nếu có tồn tại, đều không phải dành cho anh. Không phải với tư cách một người ngoài Hội Tam điểm.

Cố tập trung hết sức lực còn lại, Langdon lần tìm tới thư viện Hội Tam điểm. Khi anh bước vào, Peter đang ngồi một mình bên bàn.

Kim tự tháp đá đặt trước mặt.

- Robert đấy à? - Peter mỉm cười vẫy anh - Tôi cần một từ.

Langdon gắng nhe răng cười.

- Phải, em nghe nói anh thiếu một từ.

Chương 126

Thư viện của Thánh điện Hội Tam điểm là phòng đọc công cộng lâu đời nhất Thủ đô nước Mỹ. Các giá kê trang nhã chất tới hơn 250.000 cuốn sách, trong đó có những bản hiếm như Ahiman Rezon - Bí mật của một huynh đệ đã sẵn sàng. Ngoài ra, thư viện còn trưng bày nhiều đồ trang sức và tế khí quý giá của Hội Tam điểm, thậm chí có cả một cuốn sách rất hiếm do Benjamin Franklin in thủ công.

Tuy nhiên, báu vật mà Langdon ưa thích trong thư viện này lại là một thứ rất ít người chú ý.

Ảo ảnh.

Trước đây khá lâu, Solomon đã chỉ cho Langdon thấy từ một góc thuận lợi, bàn đọc của thư viện và ngọn đèn bàn bằng vàng sẽ tạo ra một ảo ảnh quang học không lẫn vào đâu được... đó là ảo ảnh một kim tự tháp với chóp vàng rực rỡ. Solomon nói rằng ông luôn coi ảo ảnh này là lời nhắc nhở thầm lặng rằng những bí mật của Hội Tam điểm thường hiện lên rõ ràng trước mặt bất kỳ ai nếu họ biết quan sát từ một góc độ phù hợp.

Tuy nhiên, tối nay, những bí mật của Hội Tam điểm đã tự lộ diện.

Langdon đang ngồi đối diện Đại Huynh trưởng Peter Solomon và Kim tự tháp Tam điểm.

Peter cười.

- "Từ ngữ" mà cậu nhắc đến, Robert ạ, không phải là một truyền thuyết đâu. Nó có thật đấy.

Langdon trợn mắt nhìn qua bàn, cuối cùng cũng bật thành lời.

- Nhưng... em không hiểu. Sao lại như thế được?

- Có gì là khó chấp nhận ở đây?

Tất cả! Langdon muốn nói như vậy. Anh cố tìm kiếm trong mắt người bạn vong niên xem có chút đùa cợt nào không.

- Ý anh là Từ Còn Thiếu tồn tại... và chứa đựng sức mạnh thật sự à?

- Sức mạnh rất lớn, - Peter đáp - Nó có khả năng biến cải con người bằng cách khai mở những Bí ẩn cổ xưa.

- Một từ thôi à? - Langdon thắc mắc - Peter, em không thể tin nổi một từ...

- Cậu sẽ phải tin thôi, - Peter điềm tĩnh nói.

Langdon im lặng.

- Cậu biết đấy - Solomon đứng dậy, đi vòng qua bàn và tiếp - từ lâu người ta đã tiên đoán rằng sẽ có một ngày Từ Còn Thiếu xuất đầu lộ diện... được khai quật... cho nhân loại tiếp cận nguồn sức mạnh bị lãng quên của nó.

Langdon nhớ ngay đến bài giảng của Peter về Khải huyền. Nhiều người hiểu sai khải huyền coi nó như kết cục tang thương của thế giới, nhưng nghĩa đen của từ này lại là "sự tiết lộ". Ở đây là sự tiết lộ tri thức vĩ đại, theo tiên đoán của người cổ đại. Kỷ nguyên khai sáng sắp đến. Mặc dù vậy. Langdon cũng không sao hình dung nổi một từ mà tạo ra thay đổi lớn lao như vậy.

Peter ra hiệu về phía kim tự tháp đá đang nằm trên bàn, bên cạnh chóp vàng của nó.

- Kim tự tháp Tam điểm, - ông nói - Biểu hình huyền thoại. Đêm nay nó hợp nhất... và hoàn chỉnh.

Rất cung kính, ông nâng chóp vàng đặt lên đỉnh kim tự tháp. Khối vàng nặng dễ dàng khớp đúng vị trí của nó.

- Đêm nay, bạn của tôi ạ, cậu đã làm được những việc chưa ai làm trước đây. Lắp ráp Kim tự tháp Tam điểm, giải mã toàn bộ các mật mã của nó, và cuối cùng, khám phá... thứ này.

Solomon rút ra một tờ giấy rồi trải nó lên bàn. Langdon nhận ngay ra đồ hình biểu tượng đã được sắp xếp lại bằng cách sử dụng Ma phương Franklin Bậc tám. Lúc ở trong Phòng Thánh lễ anh đã xem qua tờ giấy này.

Peter nói:

- Tôi tò mò muốn biết liệu cậu có đọc được dãy biểu tượng ở đây không. Nói cho cùng, cậu là một chuyên gia.

Langdon nhìn đồ hình.

Heredom, bàn huyền điểm, kim tự tháp, cầu thang...

Langdon thở dài.

- Chà, Peter, chắc anh cũng thấy, đây là một bức tranh tượng hình trừu tượng. Rõ ràng ngôn ngữ của nó nặng tính ẩn dụ và tượng trưng hơn là nghĩa thật.

Solomon cười.

- Câu hỏi ấy quá dễ dàng đối với một nhà biểu tượng học... Được rồi, hãy nói cho tôi biết cậu nhìn thấy những gì.

Peter thực sự muốn nghe ư? Langdon kéo tờ giấy lại phía mình.

- Chà, lúc trước em đã xem qua, và nói một cách đơn giản, em thấy đồ hình này là một bức tranh... mô tả thiên đường và trái đất.

- Ồ, - Peter nhướng mày, vẻ rất ngạc nhiên.

- Chắc chắn. Trên đầu hình vẽ, chúng ta có từ Heredom, "Thánh thất", em có thể diễn giải là Nhà của Chúa, hoặc thiên đường.

- Được rồi.

Sau chữ Heredom có mũi tên hướng xuống dưới, biểu thị rằng phần còn lại của bức tranh tượng hình này nằm ở vương quốc bên dưới thiên đường... tức là... trái đất - Langdon lướt mắt xuống cuối bức hình - Hai mũi tên dưới cùng, bên dưới kim tự tháp, thể hiện chính trái đất (đất liền, nơi thấp nhất của tất cả các vương quốc. Thích hợp sao, những vương quốc dưới thấp này lại có mười hai biểu tượng chiêm tinh học cổ đại diện cho tôn giáo nguyên thuỷ của những linh hồn đầu tiên bay tới thiên đường và nhìn thấy bàn tay Chúa trời qua chuyển động của các vì sao và hành tinh.

Solomon kéo ghế mình lại gần hơn và xem xét bức hình.

- Được, còn gì nữa không?

- Trên nền tảng chiêm tinh học, - Langdon tiếp tục - Đại Kim tự tháp mọc lên từ trái đất... vươn tới thiên đường như biểu tượng lâu đời của tri thức bị thất truyền. Nó chứa đầy những triết lý và tôn giáo vĩ đại của lịch sử... Ai Cập, Pythagoras, Phật giáo, Hindu, Hồi giáo, Thiên Chúa giáo - Judeo, v.v, tất cả đều chảy ngược lên, hợp lưu và dồn qua cánh cổng biến cải của kim tự tháp... ở đó chúng hoà vào thành triết lý nhân văn duy nhất, và thống nhất - Anh dừng lại - Một ý thức phổ quát, một hình ảnh toàn cầu chung về Chúa trời... được thể hiện bằng biểu tượng cổ xưa lơ lửng bên trên cái chóp.

- Bàn huyền điểm, - Peter nói - Một biểu tượng chung về Chúa trời.

- Phải. Suốt chiều dài lịch sử, bàn huyền điểm là tất cả đối với con người: là thần mặt trời Ra, là vàng của giới giả kim, là Thấu nhãn, là điểm kỳ dị trước vụ nổ Big Bang, là... Kiến trúc sư Vĩ đại của Vũ trụ.

Langdon gật đầu, đoán chừng lúc ở Phòng Thánh lễ, Peter sử dụng chính luận điểm này để khẳng định ý tưởng bàn huyền điếm là Từ Còn Thiếu.

- Và cuối cùng? - Peter hỏi - Thế còn cái cầu thang?

Langdon nhìn xuống hình cầu thang mé dưới kim tự tháp.

- Peter, em tin chắc anh hiểu rõ hơn bất kỳ ai, đây là biểu tượng cho Cầu thang Xoáy của Hội Tam điểm... dẫn lên trên, từ bóng tối trần ai để ra ánh sáng giống như cái thang Jacob bắc tới thiên đường... đây cũng là xương sống nhiều đốt của con người nối liền tấm thân tạm bợ với trí tuệ vĩnh hằng của họ - Anh ngừng lời một lúc - Những biểu tượng còn lại có vẻ là một tập hợp pha trộn giữa các yếu tố bầu trời, Hội Tam điểm và khoa học! Tất cả nhằm hỗ trợ cho những Bí mật cổ xưa.

Solomon xoa cằm.

- Một bài diễn giải tuyệt vời đấy. Giáo sư ạ. Dĩ nhiên, tôi đồng ý là có thể hiểu bức hình theo hướng phúng dụ, nhưng... - Đôi mắt ông ánh lên bí hiểm - Tập hợp các biểu tượng này còn kể một câu chuyện khác Một câu chuyện chưa hề hé lộ.

- Ô?

Solomon lại rảo bước quanh chiếc bàn.

- Tối nay, ở Phòng Thánh lễ, khi tin rằng mình sẽ chết, tôi quan sát bức hình và ít nhiều đã nhìn thấu qua ẩn dụ, thấu qua phúng dụ, đạt tới tâm điểm ý nghĩa của các biểu tượng này - ông ngừng lại, đột ngột xoay về phía Langdon - Bức hình tiết lộ chinh xác nơi chôn giấu Từ Còn Thiếu.

- Lại nữa rồi? - Langdon bồn chồn nhấp nhổm trên ghế, đột nhiên sợ rằng những chấn động tối nay đã làm Peter bấn loạn và mất phương hướng.

- Robert, truyền thuyết luôn nói Kim tự tháp Tam điểm là một tấm bản đồ, một tấm bản đồ rất cụ thể dẫn những người xứng đáng đi tới vị trí bí mật của Từ Còn Thiếu - Solomon vỗ vỗ đồ hình biểu tượng trước mặt Langdon - Tôi quả quyết với cậu, những biểu tượng này là bản đồ, đúng như truyền thuyết lâu nay về chúng. Nó là sơ đồ vị trí cầu thang dẫn xuống chỗ Từ Còn Thiếu.

Langdon cười khan, tỏ ra thận trọng.

- Cho dù em tin vào truyền thuyết về Kim tự tháp Tam điểm thì đồ hình biểu tượng này cũng không thể là bản đồ được. Hãy nhìn xem. Trông nó không có vẻ gì là một bản đồ.

Solomon mỉm cười.

Nhiều khi chỉ cần điều chỉnh góc nhìn, ta có thể tiếp cận một thứ quen thuộc qua lăng kính hoàn toàn mới.

Langdon nhìn lại nhưng vẫn chẳng phát hiện điều gì mới mẻ.

- Tôi hỏi cậu một câu - Peter nói - Cậu có biết khi đặt đá móng, tại sao Hội Tam điểm lại chọn góc đông bắc của mỗi toà nhà không?

- Em biết chứ, bởi vì góc đông bắc đón nhận những tia nắng đầu tiên của buổi sớm. Nó tượng trưng cho sức mạnh kiến trúc vươn từ lòng đất ra ánh sáng.

- Đúng - Peter nói - Vì thế có lẽ cậu nên nhìn ở đó để thấy những tia ánh sáng đầu tiên - ông trỏ bức hình - ở góc đông bắc ấy.

Langdon lại đưa mắt sang tờ giấy, dõi tới góc bên phải, phía trên, tức là góc đông bắc. Biểu tượng tại đó là â

- Mũi tên chỉ xuống dưới - Langdon nói, cố gắng nắm bắt gợi ý của Solomon - Có nghĩa là... bên dưới Heredom.

- Không, Robert, không phải bên dưới - Solomon đáp - Hãy nghĩ đi! Bức hình này không phải là một mê cung ẩn dụ. Nó là một bản đồ.

Và trên bản đồ, mũi tên hướng xuống dưới có nghĩa là...

- Phía Nam, - Langdon giật mình kêu lên.

- Chính xác! - Solomon đáp và cười toe toét vì phấn khởi - Chính Nam! Trên bản đồ, phía dưới là phương nam. Hơn nữa, trên bản đồ, từ Heredom không phải ẩn dụ về thiên đường, mà là một địa danh.

- Thánh điện ư? Ý anh là tấm bản đồ chỉ tới... hướng chính nam của toà nhà này ư?

- Đội ơn Chúa? - Solomon cười vang - Cuối cùng thì cũng thấy ánh bình minh.

Langdon chăm chú nghiên cứu bức hình.

- Nhưng, Peter... cứ cho là anh đúng, thì chính nam của toà nhà này có thể là bất kỳ chỗ nào trên kinh độ chạy dài hơn 38.600 kilomet.

- Không, Robert. Cậu quên mất truyền thuyết rồi, truyền thuyết nói rằng Từ Còn Thiếu được chôn giấu tại Thủ đô nước Mỹ. Như thế quãng đường sẽ được rút ngắn kha khá. Thêm nữa, truyền thuyết cũng cho biết có một hòn đá lớn toạ lạc trên đầu lối vào cầu thang... trên đá khắc một thông điệp bằng ngôn ngữ cổ, như một dạng đánh dấu để những người xứng đáng có thể tìm ra nó.

Langdon cảm thấy khó khăn khi phải coi câu chuyện này là nghiêm tức vả chăng không đủ thông thuộc về Thủ đô để hình dung xem chính nam của địa điểm hiện tại là ở đâu, anh càng chắc chắn rằng không hề có tảng đá chạm khắc nằm trên chốc một cầu thang ngầm.

- Bức thông điệp được khắc trên đá, ngay đây, trước mắt chúng ta - Peter trỏ dòng thứ ba của bức hình - đây là dòng chữ khắc, Robert ạ! Cậu đã giải được câu đố rồi.

Langdon ngơ ngác nhìn bảy biểu tượng.

Giải rồi ư? Langdon không rõ bảy biểu tượng rời rạc này có ý nghĩa gì và anh dám quả quyết rằng chúng không được khắc ở bất kỳ đâu tại thủ đô đặc biệt lại ở một tảng đá nằm trên một cầu thang.

- Peter - anh nói - em không thấy sáng tỏ hơn chút nào cả. Em chẳng biết hòn đá nào ở Thủ đô có khắc... thông điệp này.

Solomon vỗ vai anh.

- Cậu đã đi qua nó mà chưa bao giờ nhìn thấy nó cả. Tất cả chúng ta đều thế. Nó nằm ngay trước mắt, như chính các bí mật. Đêm nay, khi nhìn bảy biểu tượng, tôi lập tức nhận ra truyền thuyết là có thật. Từ Còn Thiếu được chôn giấu tại Thủ đô... và nó thực sự nằm dưới đáy một cầu thang dài bên dưới một tảng đá lớn có khắc chữ.

Langdon vẫn im lặng, hoàn toàn bối rối.

- Robert, tới giờ thì tôi tin cậu đã có quyền để biết sự thật.

Langdon đăm đăm nhìn Peter, cố gắng lý giải những điều vừa nghe.

- Anh sẽ nói cho em biết chỗ chôn Từ Còn Thiếu ư?

- Không, - Solomon nói, và mỉm cười đứng lên - Tôi sẽ chỉ cho cậu.

***

Năm phút sau, Langdon đã ngồi trên băng ghế sau chiếc Escalade, bên cạnh Peter Solomon. Anh đang thắt dây an toàn thì Simkins leo lên tay lái. Sato băng ngang bãi đỗ xe đến chỗ họ. Tới nơi, bà châm điếu thuốc và gọi:

- Ông Solomon! Tôi vừa thực hiện cuộc điện thoại như ông yêu cầu.

- Và? Peter hỏi thêm qua ô cửa sổ mở.

- Tôi ra lệnh cho họ để các ông vào. Phải nhanh nhé.

- Cảm ơn!

Sato chăm chú nhìn ông, vẻ tò mò.

- Tôi phải nói rằng, đó là một đề nghị hết sức kỳ quặc.

Solomon nhún vai một cách bí hiểm.

Sato quay đi, vòng sang phía Langdon và dùng tay gõ cửa.

Langdon hạ kính xuống.

- Giáo sư, - Sato nói, chẳng mảy may thân thiện - Sự hỗ trợ của ông tối nay, cho dù miễn cưỡng, rất quan trọng cho thành công của chúng ta... và vì điều đó, tôi xin cảm ơn ông.

Bà rít một hơi thuốc dài và phả sang bên.

- Tuy nhiên, có một lời khuyên cuối cùng. Lần sau, khi một quan chức cao cấp của CIA bảo ông rằng họ đang gặp vấn đề liên quan đến an ninh quốc gia... - Mắt bà ánh lên - Thì hãy mặc xác những chuyện vớ vẩn ở Cambridge nhé?

Langdon máy môi, nhưng Giám đốc Inoue Sato đã quay đi và băng qua bãi đỗ xe về phía chiếc trực thăng đang chờ sẵn.

Simkins liếc qua vai, mặt lạnh tanh.

- Các quý ông đã sẵn sàng chưa?

- Thật tình là sắp. - Solomon nói. Ông rút ra một mảnh vải tối màu đã gấp gọn và đưa cho Langdon - Robert, tôi muốn cậu đeo cái này trước khi chúng ta lên đường.

Langdon ngơ ngác xem xét mảnh vải bằng nhung đen. Khi mở nó ra, anh nhận ra đây là dải khăn bịt mắt của Hội Tam điểm, khăn bịt mắt truyền thống dành cho người nhập môn ở cấp độ thứ nhất. Quái quỷ gì vậy.

- Tôi không muốn cậu nhìn thấy chúng ta đi lối nào.

Langdon quay sang Peter.

- Anh muốn bịt mắt em trước khi bắt đầu hành trình à?

Solomon cười.

- Bí mật do tôi tiết lộ, nên phải tuân theo quy tắc của tôi

Chương 127

Trụ sở CIA ở Langley. Nola Kaye theo chuyên gia an ninh hệ thống Rick Parrish băng qua khoảnh sân giữa đầy ánh trăng, gió lạnh làm cô rùng mình.

Rick đưa mình đi đâu đây?

Họ đã chặn đứng việc phát tán đoạn phim video về Hội Tam điểm, ơn Chúa, nhưng Nola vẫn cảm thấy không an tâm. Tệp tin lọc nội dung tại phân vùng của giám đốc CIA vẫn là một bí ẩn, nó cứ bám riết lấy cô. Sao và cô có cuộc thẩm vấn vào sáng mai, và Nola muốn tìm biết tất cả sự thật. Cuối cùng, cô gọi Rick Parrish, yêu cầu anh ta giúp đỡ.

Giờ đây, theo Rick ra ngoài tới nơi nào chưa rõ, Nola không sao ngăn được những cụm từ kỳ quái cứ gợn lên trong trí:

Vị trí bí mật dưới lòng đất... đâu đó ở Washington D.C., thì toạ độ phát hiện ra một cánh cổng cổ xưa dẫn tới... cảnh báo rằng kim tự tháp chứa đựng những hậu quả nguy hiểm... giải mã cái đồ hình được chạm khắc này để hé mở...

- Chắc cô cũng nhất trí với tôi - Parrish nói trên đường đi - gã hacker truy nguồn mấy từ khoá nọ chắc đang tìm kiếm thông tin về Kim tự tháp Tam điểm.

Hiển nhiên, Nola nghĩ.

- Tuy nhiên, gã ta lại vấp ngay vào một vấn đề liên quan đến bí mật của Hội Tam điểm mà tôi cho rằng gã không lường trước được.

- Ý anh là sao?

- Nola, cô biết giám đốc CIA tài trợ cho một diễn đàn thảo luận nội bộ để các nhân viên của Cục chia sẻ ý tưởng về tất cả mọi thứ chứ?

- Dĩ nhiên.

Trong khi tạo ra một nơi an toàn cho nhân viên Cục Tình báo Trung ương chuyện phiếm trên mạng về đủ loại chủ đề, các diễn đàn cũng đồng thời cung cấp cho giám đốc CIA một loại cổng ảo để chặn chính những nhân viên ấy.

- Các diễn đàn của giám đốc đều nằm trên phân vùng riêng. Để nhân viên ở mọi cấp độ truy cập bình thường, người ta đặt các diễn đàn đó bên ngoài tường lửa mật của giám đốc.

- Ý anh là sao? - Nola gặng hỏi.

Vừa lúc ấy họ vòng qua một góc rẽ gần quán cà phê của Cục, Parrish liền trỏ vào bóng tối:

Nói tóm lại... thì đấy.

Nola ngước nhìn lên. Trước mặt họ, bên kia khoảnh sân, là một tác phẩm điêu khắc kim loại đồ sộ lấp lánh dưới trăng.

Tấm điêu khắc có tên Kryptos này thực tế còn vượt xa những tác phẩm danh tiếng nhất trong số hơn năm trăm tác phẩm nghệ thuật nguyên bản, vốn là niềm tự hào của CIA. Kryptos, có nghĩa là "ẩn giấu" theo tiếng Hy Lạp, là tác phẩm của nghệ thuật gia James Sanborn, nay đã trở thành một huyền thoại tại trụ sở CIA.

Đó là một bảng đồng hình chữ S rất lớn, dựng đứng trên gờ như một bức tường kim loại uốn cong. Bề mặt rộng rãi của nó khắc gần hai nghìn chữ cái sắp xếp thành một bức mật mã rắc rối. Cứ như thể vẫn chưa đủ khó hiểu, người ta còn cẩn thận bố trí nhiều thành tố điêu khắc khác quanh bức tường chữ S đã mã hoá ấy, chẳng hạn mấy phiến đá hoa cương đặt theo những góc độ kỳ quái, một ký hiệu la bàn, một viên đá nam châm, và một bức điện mã Morse nói đến "trí nhớ sáng láng" và "thế lực bóng tối". Hầu hết những người hâm mộ đều tin rằng các thành tố này là đầu mối tiết lộ cách giải mã bức điêu khắc.

Kryptos là nghệ thuật... đồng thời là một ẩn số.

Việc cố gắng phá giải bí mật mã hoá của Kryptos đã, trở thành nỗi ám ảnh đối với giới chuyên gia mật mã cả trong và ngoài CIA, vài năm trước, họ khám phá được phần nào nội dung mật mã, và tạo nên một tin thời sự gây xôn xao cả Liên bang. Đến nay, mặc dù đại bộ phận mật mã của Kryptos vẫn nằm trong vòng bí ẩn, nhưng những phần đã phá giải lại kỳ lạ đến mức khiến bức điêu khắc càng thêm bí hiểm. Nó nhắc đến những địa điểm dưới lòng đất, đến cánh cổng dẫn tới ngôi mộ cổ, đến những kinh độ và vĩ độ...

Nola vẫn còn nhớ nội dung của mấy phần đã được giải mã; Thông tin được thu thập và truyền xuống lòng đất tới một địa điểm chưa biết... Nó hoàn toàn vô hình... sao có thể như vậy... họ sử dụng các từ trường trái đất...

Cô vốn không chú ý lắm đến Kryptos và cũng chẳng quan tâm xem nó đã được giải mã hết hay chưa. Nhưng bây giờ cô muốn có câu trả lời.

- Tại sao anh lại dẫn tôi đi xem Kryptos?

Parrish mỉm cười bí hiểm, và điệu bộ moi trong túi ra một tờ giấy gấp gọn.

- Voilà, tài liệu khó hiểu mà cô quan tâm đấy. Tôi đã truy cập được nội dùng hoàn chỉnh.

Nola nhảy dựng lên.

- Anh chui được vào phân vùng mật của giám đốc à?

- Không. Đó chính là ý tôi định nói lúc nãy. Xem đi! - Anh ta đưa cho cô tờ giấy.

Nola, giật lấy và mở ra xem. Trông thấy dòng tiêu đề CIA ở đầu trang, cô nghiêng đầu ngạc nhiên.

Đây không phải là tài liệu mật. Thậm chí không hạn chế.

KHU THẢO LUẬN CỦA NHÂN ViêN: KRYPTOS

LƯU TRỮ NÉN: MẠCH #2456282.5

Ở đây, cả loạt đầu mục nhập dữ liệu đã được nén vào nguyên một trang giấy để lưu trữ hiệu quả hơn.

- Tài liệu chính của cô - Rick nói - là một dạng mật mã đề cập đến Kryptos.

Nola xem lướt cho tới khi nhận ra một câu cò chứa cụm từ khoá quen thuộc.

Jim, bức điêu khắc cho biết nó đã được truyền tới một

vị trí bí mật DƯỚI LÒNG ĐẤT nơi cất giấu thông tin.

- Văn bản này lấy từ diễn đàn Kryptos trực tuyến của giám đốc, - Rick giải thích - Diễn đàn đã mở được vài năm rồi. Có hàng nghìn đầu mục đưa lên mạng, và tôi không ngạc nhiên khi một trong số đó hình như có chứa tất cả các từ khoá.

Nola lướt tiếp xuống dưới và nhận ra một đầu mục khác có chứa các từ khoá.

Cho dù Mark nói phương vị của mật mã chỉ rõ một

địa điểm đâu đó ở WASHINGTON D.C.: thì toạ độ

anh ấy sử dụng cũng lệch 1 độ - về cơ bản Kryptos

chỉ ra phía sau.

Parrish bước lại gần Kryptos và đưa tay xoa khắp lượt những chữ cái bí ẩn.

Mật mã này hầu như vẫn chưa được phá giải, rất nhiều người nghĩ rằng thông điệp trên đây có thể liên quan đến các bí ẩn cổ xưa của Hội Tam điểm.

Nola sực nhớ lại những lời đồn đại về mối liên hệ giữa Hội Tam điểm và Kryptos. Cô vốn không lưu tâm đến những đối tượng quá khích, song khi nhìn lại các tác phẩm điêu khắc được bố trí quanh toà nhà, cô nhận ra rằng Kryptos chính là một biểu hình, tức một mật mã được chia thành nhiều phần, giống Kim tự tháp Tam điểm.

Kỳ quái.

Chỉ thoáng chốc. Nola nhận ra Kryptos là một Kim tự tháp Tam điểm hiện đại, một mật mã gồm nhiều phần làm bằng các chất liệu khác nhau, mỗi phần đóng một vai trò.

- Anh có cho rằng Kryptos và Kim tự tháp Tam điểm che giấu cùng một bí mật không?

- Chịu! - Parrish nhìn Kryptos vẻ ngán ngẩm - Tôi ngờ rằng chẳng bao giờ chúng ta biết hết toàn bộ thông điệp, trừ phi có ai đó đủ sức thuyết phục giám đốc mở két an toàn của ông ấy và hé lộ lời giải.

Nola gật đầu, sực nhớ lại nhiều chuyện liên quan. Khi dựng công trình điêu khắc này, Sanborn gửi kèm theo nó một phong bì dán kín chứa lời giải hoàn chỉnh cho các mật mã. Giám đốc CIA hồi ấy là William Webster đã tiếp nhận lời giải niêm phong và khoá kín nó trong két an toàn tại văn phòng mình. Bao nhiêu năm qua, chắc chắn tài liệu vẫn nằm nguyên ở đó, được chuyển giao lần lượt từ giám đốc này sang giám đốc khác.

Có điều lạ là, khi nhớ đến William Webster, Nola lại hồi tưởng một phần nội dung đã được giải mã của Kryptos

ĐƯỢC CHÔN LÂU ĐÂU ĐÓ NGOÀI KIA.

AI BIẾT VỊ TRÍ CHÍNH XÁC?

CHỈ CÓ WW.

Chẳng ai rõ cái gì được chôn giấu ngoài kia, nhưng đa số đều tin WW là chỉ William Webster. Mặc dù chưa bao giờ thật sự bận tâm đến câu chuyện, Nola cũng từng nghe đồn rằng thực ra hai chữ viết tắt này ám chỉ William Whiston, chuyên gia thần học của Hiệp hội Hoàng gia.

Rick lại lên tiếng.

- Phải thừa nhận rằng tôi không quan tâm mấy đến giới nghệ sĩ, nhưng tôi nghĩ cái tay Sanborn này quả là một thiên tài. Tôi vừa xem trên mạng dự án Máy chiếu Cyrillic của ông ta. Nó trình chiếu những chữ cái tiếng Nga to tướng lấy từ một tài liệu của KGB về kiểm soát trí não. Quái đản?

Nola không còn lắng nghe nữa. Cô chăm chú xem tờ giấy, và tìm thấy cụm từ khoá thứ ba trong một đầu mục nhập dữ liệu khác.

Phải, toàn bộ phần đó đúng nguyên văn nhật ký

của một nhà kháo cổ học nổi tiếng, kể về lúc ông

đào xuống và phát hiện ra một CÁNH CỔNG

CỔ XƯA dẫn tới mộ Tutankhamen.

Nola biết nhà khảo cổ học được trích dẫn trên Kryptos chính là nhà Ai Cập học lừng danh Howard Carter. Đầu mục nhập dữ liệu tiếp theo nhắc hẳn đến tên ông ấy.

Tôi vừa xem lướt trên mạng phần còn

lại những ghi chép hiện trường của Carter.

Hình như ông ấy đã tìm thấy một thẻ

ất sét cảnh báo rằng KIM TỰ THÁP chứa

đựng những hậu quá nguy hiểm cho bất kỳ

ai phá rối sự bình yên của pharaoh.

Một lời nguyền! Chúng ta có nên lo lắng không nhỉ?

Nola cau mày.

Vì Chúa, Rick, phần nói về kim tự tháp của thằng ngốc này không đúng. Tutankhamen không yên nghỉ trong kim tự tháp. Ông được an táng tại Thung lũng các Vua. Bọn chuyên gia giải mã không xem kênh Discovery à?

Parrish nhún vai.

- Dân kỹ thuật mà.

Nola đọc cụm từ khoá cuối cùng.

Các bạn, các bạn biết tôi không phải

là một nhà lý luận theo thuyết âm mưu,

nhưng Jim và Dave tốt hơn cả là nên giải

mã cái ĐỒ HÌNH ĐƯỢC CHẠM KHẮC

này để hé mở bí mật cuối cùng của nó

trước khi thế giới chấm hết vào năm 2012...

Chào nhé!

- Nói gì thì nói, - Parrish nói - tôi nghĩ cô nên tìm hiểu về diễn đàn Kryptos trước khi buộc tội giám đốc CIA chứa chấp tài liệu mật về một truyền thuyết Tam điểm cổ xưa. Tôi đồ rằng một nhân vật quyền thế như giám đốc CIA không có thời gian dành cho loại công việc đó đâu.

Nola nhớ đến đoạn video về Hội Tam điểm và hình ảnh các, nhân vật có ảnh hưởng tham gia vào nghi lễ cổ xưa. Nếu Rick biết...

Nói cho cùng, cô hiểu, dẫu Kryptos hé mở bất kỳ điều gì thì bức thông điệp cũng đều có những hàm ẩn huyền bí. Cô ngước nhìn tác phẩm nghệ thuật đang toả sáng lấp loá, nhìn bức mật mã ba chiều đứng thầm lặng giữa khuôn viên của một trong những cơ quan tình báo hàng đầu quốc gia, và tự hỏi liệu có bao giờ nó tiết lộ bí mật tối hậu của nó hay không.

Khi cùng Rick quay trở vào trong, Nola không khỏi mỉm cười.

Nó được chôn giấu đâu đó ngoài kia.

Chương 128

Đúng là điên rồ!

Chiếc Escalade phóng vun vút về phía nam, dọc theo đường phố vắng hoe. Robert Langdon bị bịt mắt nên chẳng trông thấy gì. Trên chỗ ngồi bên cạnh anh, Peter Solomon vẫn một mực im lặng.

- Ông ấy đưa mình đi đâu thế nhỉ?

Sự tò mò của Langdon là một dạng pha trộn giữa thích thú và e ngại. Trí tưởng tượng của anh hoạt động ráo riết để cố gắng chắp nối các tình tiết với nhau. Peter vẫn kiên định giữ vững quan điểm của ông. Từ Còn Thiếu? được chôn dưới chân thang, còn trên đầu cầu thang là một tảng đá chạm khắc rất lớn? Nghe thật hoang đường.

Tâm trí Langdon vẫn quan quanh tảng đá khắc... Bảy biểu tượng, theo như anh còn nhớ, chẳng hợp thành ý nghĩa gì cả.

Thước vuông thợ nề, biểu tượng của lòng trung thực và sự thật.

Hai chữ cái Au: ký hiệu hoá học của nguyên tố vàng.

Sigma: chữ cái S trong tiếng Hy Lạp, ký hiệu toán học của tổng các thành phần.

Kim tự tháp: biểu tượng Ai Cập cho người vươn lên thiên đàng.

Delta: chữ cái D trong tiếng Hy Lạp, biểu tượng toán học của sự thay đổi.

Thuỷ ngân: mô tả bằng biểu tượng giả kim cổ nhất của nó.

Hàm vĩ xà: tượng trưng cho chỉnh thể và nhất thể.

Solomon khăng khăng bảo rằng bảy biểu tượng này là một "thông điệp, Nếu đúng thế thì đó là một thông điệp mà Langdon không tài nào đọc được.

Chiếc Escalade đột ngột giảm tốc và ngoặt phải rất gấp, lao lên một bề mặt khác hẳn, như thể vào lối xe chạy hoặc đường dẫn.

Langdon ngẩng mặt, chăm chú lắng nghe xem có nhận biết được mình đang ở đâu không. Xe mới chạy gần mười phút, dù đã cố ngầm theo dõi nhưng anh vẫn mau chóng mất phương hướng. Theo mọi dấu hiệu anh thu nhận được, thì họ đang quay trở về Thánh điện Hội Tam điểm.

Chiếc Escalade dừng lại. Langdon nghe tiếng cửa sổ xe hạ xuống.

- Đặc vụ Simkins, CIA, - tài xế của họ báo danh - Tôi nghĩ chắc anh biết chúng tôi đến.

- Vâng, thưa ông - giọng một quân nhân nhanh nhẹn đáp - Giám đốc Sato đã gọi điện trước. Chờ một chút để tôi bỏ rào chắn an ninh.

Langdon lắng nghe, càng lúc càng bối rối. Anh có cảm giác mình đang tiến vào một căn cứ quân sự. Chiếc xe tiếp tục di chuyển theo một cung đường lượn êm khác thường, Langdon mò mẫm xoay đầu về phía Solomon.

- Chúng ta đang ở đâu thế, Peter? - anh gặng hỏi.

- Chớ gỡ khăn bịt mắt - Giọng Peter kiên quyết.

Chiếc xe tiếp tục chạy một đoạn ngắn và lại giảm tốc để rồi dừng hẳn. Simkins tắt máy. Có thêm vài tiếng nói. Quân nhân. Ai đó đòi xem giấy tờ tuỳ thân của Simkins. Anh chàng đặc vụ chui ra và nói với mấy người kia bằng giọng rất nhỏ.

Cánh cửa bên phía Langdon đột ngột bật mở. Những bàn tay khỏe mạnh giúp anh chui ra khỏi xe. Không khí khá lạnh, gió thổi mạnh.

Solomon đến bên cạnh Langdon.

- Robert, cứ để đặc vụ Simkins dẫn cậu vào trong nhé.

Langdon nghe tiếng chìa kim loại tra vào ổ khoá... sau đó là tiếng ken két khi cánh cửa sắt nặng nề mở ra. Nghe chừng là một gian buồng cũ. Họ đang đưa mình đi chỗ quái nào thế này?

Simkins dắt Langdon về hướng cửa sắt. Họ bước qua ngưỡng cửa.

- Đi thẳng, Giáo sư.

Xung quanh chìm vào tĩnh lặng. Im phăng phắc. Vắng tanh vắng ngắt. Không khí như được khử trùng.

Simkins và Solomon kèm hai bên Langdon, dẫn anh dò dẫm đi xuống một hành lang, âm thanh phát ra ở đây đều có tiếng dội lại.

Qua đế giày mềm. Langdon có cảm giác nền nhà bằng đá.

Anh giật nảy mình khi cánh cửa sắt sập mạnh sau lưng, khoá cũng vào ổ. Mồ hôi rịn ra dưới lớp băng bịt mắt, Langdon chỉ muốn giật tung nó đi.

Rồi họ dừng bước.

Simkins buông tay Langdon. Một tràng bíp bíp điện tử vang lên, tiếp theo là tiếng ầm ầm bất ngờ ở ngay trước mặt, Langdon đoán chắc là một cánh cửa an ninh đang tự động mở ra.

- Ông Solomon, hai ông tự đi tiếp nhé. Tôi sẽ đợi ở đây, - Simkins nói - Cầm lấy đèn pin của tôi này.

- Cảm ơn anh, - Solomon đáp - Chúng tôi sẽ đi nhanh thôi.

Đèn pin à? Tim Langdon bắt đầu đập thình thịch.

Peter nắm lấy cánh tay Langdon và tiến lên phía trước.

- Đi theo tôi nào, Robert.

Họ di chuyển thật chậm qua một ngưỡng cửa khác. Cánh cửa an ninh lại đóng sập phía sau.

Peter dừng chân.

- Có gì không ổn à?

Langdon đột nhiên cảm thấy buồn nôn và mất thăng bằng.

- Em cần tháo bỏ băng bịt mắt.

- Chưa được, chúng ta sắp tới nơi rồi.

- Sắp tới đâu? - Langdon nghe trong dạ mỗi lúc một trĩu nặng.

- Tôi đã bảo là đưa cậu tới chỗ cầu thang dẫn xuống Từ Còn Thiếu mà.

- Peter, không phải chuyện đùa đâu.

- Tôi không đùa. Nó giúp mở mang đau óc cậu đấy, Robert ạ. Nó sẽ nhắc nhở cậu rằng trên đời có rất nhiều bí ẩn mà chính cậu thậm chí chưa hề để mắt tới. Trước khi đi tiếp, tôi muốn nhờ cậu một việc.

- Tôi muốn cậu tin... chỉ một lát thôi... tin vào truyền thuyết. Hãy tin rằng cậu sắp tận mắt nhìn thấy một cầu thang xoáy ốc dài hàng trăm thước chạy sâu xuống một trong những kho báu vĩ đại nhất mà thất lạc đã lâu của nhân loại.

Langdon phát chóng mặt. Anh rất muốn tin người bạn quý của mình, nhưng không thể.

- Còn xa lắm không? - Dải vải nhung bịt mắt đã đẫm mồ hôi.

- Không. Chỉ vài bước chân nữa thôi. Qua cánh cửa cuối cùng. Tôi mở nó ngay đây.

Solomon buông anh ra một lát, thấy người chao đảo, đầu nhẹ hẫng, Langdon loạng choạng quờ tay tìm chỗ bám. Peter nhanh chóng trở lại bên anh. Một cánh cửa tự động nặng nề rít lên trước mặt họ. Peter nắm cánh tay Langdon và tiến lên phía trước.

Đường này.

Họ nhích qua một ngưỡng cửa nữa, và cánh cửa lại đóng kín phía sau.

Lặng yên. Lạnh giá.

Langdon lập tức cảm thấy rằng nơi này, cho dù nó là ở đâu, cũng chẳng hề liên quan đến cái thế giới ở phía bên kia những cánh cửa an ninh. Không khí ẩm ướt và lạnh lẽo như một nấm mồ. Âm thanh vang lên thì trầm trầm và tù túng. Nỗi sợ giam cầm lại trào lên.

- Vài bước chân nữa thôi - Solomon dẫn anh dò dẫm vòng qua một chỗ rẽ và đặt anh đứng thật ngay ngắn. Cuối cùng, ông bảo - Gỡ băng bịt mắt ra.

Langdon túm vội dải băng nhung và dứt tung khỏi mặt mình. Anh nhìn xung quanh để xem mình đang đứng ở đâu, nhưng không nhìn thấy gì cả. Anh dụi mắt. Vẫn mù tịt.

- Peter, tối như hũ nút ấy!

- Phải, tôi biết. Tiến thẳng lên trước. Có lan can đấy. Nắm lấy!

Langdon sờ soạng trong bóng tối và tìm thấy một lan can sắt.

- Giờ nhìn xem!

Peter sờ soạng gì đó, và đột nhiên luồng sáng đèn pin chói loà xuyên qua bóng tối, chiếu xuống nền nhà. Langdon chưa kịp ngó nghiêng xung quanh thì Solomon đã hướng đèn pin ra mé ngoài lan can và rọi thẳng xuống dưới.

Langdon nhìn sững vào đường hầm không đáy vừa hiện ra trước mắt... đó là một cầu thang xoáy vô tận dẫn sâu xuống lòng đất. Lạy Chúa! Đầu gối anh gần như nhũn ra, và anh phải bám chặt lấy lan can. Cầu thang này là loại xoắn trôn ốc truyền thống, trong tầm ánh sáng của ngọn đèn pin, Langdon nhìn thấy ít nhất ba mươi chiếu nghỉ hạ dần xuống lòng đất, chưa kể phần khuất trong bóng tối. Mình không nhìn thấy đáy đâu cả?

- Peter... - anh lắp bắp - Sao lại có nơi như thế này chứ!

- Lát nữa tôi sẽ dẫn cậu xuống đáy cầu thang, nhưng trước đó, cậu cần trông thấy một thứ khác.

Quá choáng váng đến nỗi không phản đối nổi. Langdon để Peter dẫn mình rời khỏi cầu thang và băng qua gian phòng kỳ quái. Peter chĩa đèn pin xuống sàn đá mòn nhẵn dưới chân họ, Langdon không tài nào nhận biết hết không gian xung quanh... ngoại trừ chi tiết là nó rất nhỏ.

Một gian phòng đá bé xíu.

Họ nhanh chóng đi sang bức tường đối diện, trên tường gắn một ô vuông thuỷ tinh. Langdon đoán là ô cửa sổ mở sang căn phòng sát vách, nhưng từ chỗ đứng hiện tại, anh thấy mé bên kia tối mù mù.

- Đi nào, - Peter nói - Xem một chút...

- Có gì ở đó vậy? - Langdon chợt nhớ tới Gian phòng Suy niệm dưới đáy Điện Capitol, nhớ cả việc anh đã tin, dù chỉ nhất thời, rằng nơi đó chứa cánh cổng dẫn tới một cái hang ngầm khổng lồ.

- Xem nhé. Robert - Solomon nhích lên phía trước - Và trụ cho vững, bởi vì cảnh tượng này sẽ khiến cậu sốc đấy.

Chẳng hiểu nổi mình sắp nhìn thấy gì, Langdon tiến về phía ô cửa kính. Khi anh tới gần cánh cổng. Peter tắt đèn pin, khiến cả gian buồng nhỏ bé chìm trong bóng tối hoàn toàn.

Khi mắt đã thích nghi, Langdon bắt đầu sờ soạng, hai tay anh lần tìm bức tường, tìm ô kính, mặt anh nhích lại gần khung cửa trong suốt.

Phía trước vẫn là bóng tối.

- Anh ghé sát hơn nữa... áp hẳn mặt vào kính.

Và anh đã nhìn thấy.

Cơn chấn động và chới với tràn qua người Langdon, chạy suốt vào trong và làm chiếc la bàn nội thể của anh lộn ngược. Anh gần như ngã ngửa khi trí não căng ra để tiếp nhận cảnh tượng bất ngờ ngay trước mắt. Trong những giấc mơ dị thường nhất. Robert Langdon cũng chẳng bao giờ hình dung nổi hiện thực đang nằm ở mé ngoài tấm kính.

Quả là một cảnh tượng tuyệt vời.

Trong bóng tối, một cột sáng trắng rực rỡ toả rạng như món đồ trang sức lộng lẫy.

Langdon đã hiểu ra tất cả: rào chắn trên lối vào... lính gác ở cửa chính... cổng sắt nặng nề bên ngoài... cửa tự động rền rĩ mỗi khi đóng mở... cảm giác nặng trịch trong dạ dày... cảm giác nhẹ hẫng trong đầu... và giờ là một gian phòng bằng đá nhỏ xíu.

- Robert - Peter thì thầm phía sau anh - nhiều khi thay đổi góc độ chính là yếu lĩnh để nhìn thấy ánh sáng.

Không nói lên lời, Langdon sững sờ nhìn qua cửa sổ. ánh mắt anh du ngoạn trong bóng tối của trời đêm, băng qua hơn một dặm đường trong không gian trống trải, rồi hạ thấp xuống... thấp xuống nữa... qua bóng tối... cho tới khi dừng lại trên đỉnh mái vòm màu trắng được chiếu sáng rực rỡ của Điện Capitol.

Chưa bao giờ Langdon ngắm Điện Capitol từ góc độ này. Anh đang lơ lửng trên độ cao 166,5 mét, tại đỉnh cột tháp Ai Cập vĩ đại của nước Mỹ. Đêm nay, lần đầu tiên trong đời, anh theo cầu thang máy lên tới vọng lâu nhỏ xíu... trên đỉnh Đài tưởng niệm Washington.

Chương 129

Robert Langdon đứng trước khuôn cửa thuỷ tinh, ngây ngất chiêm ngưỡng mãnh lực của cảnh quan bên dưới. Được đưa lên cao hàng trăm thước mà không biết trước, giờ đây anh đang ngắm nhìn một trong những khung cảnh ấn tượng nhất từng thấy trong đời.

Mái vòm toả sáng của Điện Capitol nổi bật như một trái núi ở đầu phía đông Công viên Quốc gia. Hai bên toà nhà là hai hàng đèn song song chạy vươn dài về phía anh... Kế đó là phần mặt tiền được chiếu sáng của các bảo tàng Smithsonian - những dấu mốc nghệ thuật, lịch sử khoa học và văn hoá.

Tới giờ, Langdon ngạc nhiên nhận ra rằng rất nhiều điều Peter khẳng định có thật... thì trên thực tế quả là sự thật. Đúng là có một cầu thang xoáy dài hàng trăm thước nằm dưới một tảng đá lớn. Cái chóp khổng lồ của cột tháp đang ngự ngay phía trên đầu anh đây, Langdon sực nhớ ra rằng mình đã quên một chi tiết tầm phào xem chừng có ý nghĩa kỳ lạ trong trường hợp này, đó là: chóp Đài tưởng niệm Washington nặng đúng 3.300 pound(102).

Lại là con số 33.

Gây sửng sốt hơn nữa là chi tiết sau đây: đỉnh cao nhất của chóp, tức thiên đỉnh của cột tháp, có đội một đầu mút bằng nhôm, nhỏ xíu và sáng loáng, vào thời hoàng kim của nó, nhôm là thứ kim loại quý giá chẳng kém gì vàng. Đầu mút sáng chói ấy chỉ cao khoảng 0,3 mét, kích cỡ đúng bằng Kim tự tháp Tam điểm. Kỳ lạ thay, kim tự tháp nhôm này mang một dòng chữ khắc nổi tiếng: Laus Deo. Langdon đột nhiên hiểu ra. Đây chinh là bức thông điệp đích thực của phần đế kim tự tháp đá.

Bảy biểu tượng là một hình thức chuyển tựl

Một dạng mật mã đơn giản nhất.

Các biểu tượng ám chỉ những chữ cái.

Thước vuông thợ nề - L

Nguyên tố vàng - AU

Chữ cái Hy Lạp Sigma = S

chữ cái Hy Lạp Delta - D

Thuỷ ngân giả kim - E

Hàm vĩ xà - O

- Laus Deo, - Langdon thì thầm. Cụm từ tiếng Latin nổi tiếng này mang nghĩa "đội ơn Chúa", được khắc trên đầu mút Đài tưởng niệm Washington bằng những chữ cái viết tay chỉ cao khoảng 2,5 centimet. Hiện ra trọn vẹn, nhưng chẳng ai nhìn thấy.

Laus Deo.

- Đội ơn Chúa. - Giọng Peter vang lên đằng sau Langdon. Ông bật đèn sáng trong buồng - Mật mã cuối cùng của Kim tự tháp Tam điểm.

Langdon quay lại, người bạn của anh đang cười rạng rỡ. Langdon chợt nhớ Peter đã nhắc đến cụm từ "đội ơn Chúa" từ trước, lúc còn ở trong thư viện Tam điểm. Mà mình vẫn không để ý.

Langdon phát ớn lạnh khi nhận ra Kim tự tháp Tam điểm huyền thoại đã khéo léo dẫn anh tới đây, tới cột tháp vĩ đại của nước Mỹ, biểu tượng của tri thức bí mật cổ xưa đang vươn lên trời cao ở ngay trái tim đất nước.

Với tâm trạng thảng thốt, Langdon bắt đầu di chuyển ngược chiều kim đồng hồ quanh gian phòng vuông nhỏ xíu để rời sang cửa sổ khác.

Phía bắc.

Qua ô cửa mở ra hướng bắc, Langdon chăm chú ngắm đường nét quen thuộc của toà Bạch Ốc. Anh đưa mắt về phía chân trời, phố 16 như một đường thẳng chạy lên chính bắc về phía Thánh điện Hội Tam điểm.

Mình ở chính nam của Heredom.

Anh tiếp tục đi quanh gian phòng tới cửa sổ tiếp theo. Nhìn sang hướng tây, mắt Langdon lướt theo chiều dài bể nước hình chữ nhật ở Đài tưởng niệm Lincoln, công trình này xây dựng theo phong cách kiến trúc Hy Lạp cổ điển, lấy cảm hứng từ đền Parthenon ở Athens. Parthenon là đền thờ Athena - nữ thần của những chiến công oai hùng.

Annuit Coeptis(103) Langdon nghĩ. Chúa ủng hộ chiến công của chúng ta.

Tiếp tục đi tới cửa sổ cuối cùng, Langdon phóng ánh mắt về phía nam, ngang qua vùng nước tối om của Tidal Basin sang Đài tưởng niệm Jefferson toả sáng rực rỡ trong đêm. Đỉnh vòm thoai thoải bên ấy lấy theo mẫu đền Pantheon, ngôi nhà nguyên thuỷ của các vị thần La Mã vĩ đại trong truyền thuyết.

Quan sát xong cả bốn mặt, Langdon nghĩ đến những bức không ảnh chụp Công viên Quốc gia mà anh từng xem, bốn "cánh tay" của nó toả ra từ Đài tưởng niệm Washington và chạy về bốn hướng.

Mình đang đứng ngay giao lộ của nước Mỹ.

Langdon vòng trở lại chỗ Peter. Người bạn vong niên của anh cười tươi.

- Chà, Robert, nó đây. Từ Còn Thiếu. Đây là nơi nó được chôn giấu. Kim tự tháp Tam điểm đã dẫn chúng ta tới đây.

Langdon sực tỉnh. Anh đã thấy tất cả nhưng lại quên mất Từ Còn Thiếu.

- Robert, tôi biết không còn ai đáng tin cậy hơn cậu. Sau một đêm như đêm nay, tôi tin rằng cậu xứng đáng được biết tất cả mọi chuyện. Đúng như lời hứa hẹn trong truyền thuyết, Từ Còn Thiếu quả thực được chôn dưới đáy một cầu thang xoáy - ông ra hiệu về phía cửa cầu thang của đài tưởng niệm.

Cuối cùng Langdon cũng trở về với thực tại, nhưng lòng anh ngập tràn băn khoăn.

Peter nhanh nhẹn thò tay vào túi và rút ra một món đồ nhỏ.

- Cậu còn nhớ thứ này không?

Langdon đón lấy cái hộp mà Peter gửi gắm cho anh nhiều năm về trước.

- Có nhưng em sợ rằng mình đã không hoàn thành trách nhiệm bảo vệ nó.

Solomon cười.

- Hẳn đã đến lúc cho nó nhìn thấy ánh sáng ban ngày rồi.

Langdon ngắm hộp đá, không hiểu tại sao Peter lại trao nó cho anh.

- Đối với cậu thứ này trông giống cái gì? - Peter hỏi.

Langdon nhìn ký hiệu 1514 và lục lại ấn tượng đầu tiên của mình khi Katherine mở gói bọc ra.

- Một viên đá đặt móng.

- Chính xác - Peter xác nhận - Về đá đặt móng, có vài điểm chắc cậu còn chưa rõ. Thứ nhất, khái niệm đặt đá móng bắt nguồn từ Kinh Cựu ước.

Langdon gật đầu.

- Thánh thi.

- Rất đúng. Một viên đá đặt móng đích thực luôn được chôn dưới nền, tượng trưng cho bước đầu tiên đưa toà nhà lên ánh sáng thiên đường.

Langdon liếc ra phía Điện Capitol, hòn đá đặt móng của toà nhà ấy được chôn sâu đến mức tới nay các cuộc khai quật cũng không sao tìm ra nó.

- Thứ hai - Solomon nói - cũng như cái hộp trên tay cậu, nhiều viên đá đặt móng là những gian hầm nho nhỏ, có khoang rỗng để cất giữ các vật báu bí mật. Nếu muốn, cậu có thể gọi chúng là những lá bùa. Chúng tượng trưng cho niềm hy vọng về tương lai của toà nhà sắp xây dựng.

Langdon biết rất rõ truyền thống này. Ngày nay. Hội Tam điểm vẫn đặt những viên đá móng rỗng ruột chứa các đồ vật có ý nghĩa như hộp thời gian, ảnh chụp, tuyên ngôn, thậm chí là tro xương của các yếu nhân.

- Tôi nói cho cậu biết điều này là có mục đích rất rõ ràng - Solomon vừa nói vừa đưa mắt về phía cầu thang.

- Anh nghĩ Từ Còn Thiếu được chôn trong viên đá móng của Đài tưởng niệm Washington à?

- Tôi không nghĩ, Robert ạ. Tôi biết rõ. Từ Còn Thiếu được chôn trong viên đá móng của đài tưởng niệm này vào ngày 4 tháng Bảy năm 1848, trong một nghi lễ Tam điểm hoàn chỉnh.

Langdon đăm đăm nhìn ông.

- Các bậc tiền bối Tam điểm đã chôn một từ à?

Peter gật đầu.

- Đúng vậy. Họ hiểu sức mạnh đích thực của thứ họ chôn giấu.

Suốt buổi tối, Langdon đã cố bắt tâm trí mình làm quen với nhiều khái niệm lộn xộn, cao siêu... Nào là Bí ẩn cổ xưa, Từ Còn Thiếu, các bí mật của thời đại. Song anh muốn một thứ chắc chắn hơn. Mặc dù Peter khẳng định chìa khoá của vấn đề cất trong một viên đá móng nằm sâu dưới đất, cách họ 166.5 mét. Langdon vẫn thấy khó lòng chấp nhận giả thuyết này. Con người dành cả đời nghiên cứu các bí mật, nhưng cuối cùng vẫn không tiếp cận được sức mạnh họ tưởng là cất giấu trong đó. Langdon vụt nhớ lại bức Melencolia I của Durer, tác phẩm miêu tả một hiền nhân chán chường giữa ngổn ngang các công cụ của những nỗ lực bất thành nhằm khai mở bí mật về thuật giả kim. Chúng ta có thể khám phá nhiều bí mật, nhưng không bao giờ tìm được tất cả các bí mật ấy ở cùng một nguồn.

Langdon luôn tin rằng, câu trả lời, nằm rải rác khắp thế giới trong hàng nghìn cuốn sách, được mã hoá trong những trước tác của Pythagoras, Hermes, Heraclitus, Paracelsus và hàng trăm tác giả khác. Câu trả lời bị lãng quên dưới lớp bụi mờ trong những bộ sách về giả kim, thuyết thần bí, ma thuật và triết học. Câu trả lời ẩn náu trong thư viện cổ Alexandria, trên những thẻ đất sét của người Sumer và chữ tượng hình của người Ai Cập.

- Peter, xin lỗi anh - Langdon khẽ nói và lắc lắc đầu - Để hiểu được những Bí ẩn cổ xưa thì phải mất cả đời. Em không hình dung nổi một từ thì làm sao chứa được chiếc chìa khoá giải đáp mọi điều.

Peter đặt tay lên vai Langdon.

- Robert. Từ Còn Thiếu không phải là một từ đâu - ông mỉm cười hiền hậu - Chúng ta gọi nó là "Từ ngữ" chỉ bởi đó là cách gọi của người cổ đại... lúc ban đầu.

Chú thích:

(102) Cũng giống như đơn vị foot đã có chú thích ở các phần trước, chi hết này liên quan đến nội dung nên người dịch phải giữ nguyên đơn vị pound, không đổi sang kilogram như ở các chi tiết khác. Nguyên tác là "thirty-three hundred pounds", nhằm nhấn mạnh con số "33".

(103) Annuit coeptis là một trong hai khẩu hiệu bằng tiếng Latin ở mặt trái của Quốc ấn Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ. Nghĩa đen của nó là "Ngài chấp thuận chiến công của chúng ta"

Chương 130

Lúc bắt đầu là Từ ngữ.

Đức cha Galloway quỳ bên cây Thập giá lớn của Đại Giáo đường Quốc gia và cầu nguyện cho nước Mỹ. Ông cầu mong đất nước mến yêu này sẽ sớm nắm bắt được sức mạnh đích thực của Từ ngữ. Từ ngữ là tập hợp tri thức của tất cả các bậc thầy thời cổ đại được trình bày lại dưới dạng văn bản, là bài giảng của các hiền triết vĩ đại về chân lý tinh thần.

Lịch sử ban cho nhân loại nhiều vị tông sư vô cùng thông tuệ, chẳng hạn Phật tổ, Jesus, Muhammad, Zoroaster và vô số người khác. Họ là những linh hồn được khai sáng mà kiến thức về bí ẩn tinh thần và trí óc vượt xa mọi sự hiểu biết. Trong suốt tiến trình lịch sử, luận thuyết quý giá của các nhà thông thái ấy được truyền vào những mạch máu cổ xưa nhất và quý giá nhất, đó là sách vở.

Mọi nền văn hoá trên trái đất đều có cuốn sách thiêng của riêng mình, người ta gọi nó là Từ. Mỗi Từ mỗi khác, lại mỗi giống. Với tín đồ Thiên Chúa giáo, Từ ngữ là Kinh thánh, với người Hồi giáo là kinh Koran, với người Do Thái là Torah, với người Hindu là kinh Vệ Đà... vân vân.

Từ ngữ sẽ soi sáng con đường.

Với những bậc tiền nhân Tam điểm của nước Mỹ, Từ ngữ chính là Kinh thánh, song trước giờ rất ít người thấu hiểu bức thông điệp đích thực trong nó.

Đêm nay, quỳ một mình nơi Đại Giáo đường. Galloway đặt hai tay lên Từ - cuốn Kinh thánh Tam điểm sờn rách của ông. Giống như tất cả các cuốn Kinh thánh Tam điểm khác, cuốn sách quý báu này chứa cả kinh Cựu ước, kinh Tân ước, và những văn bản giá trị về triết lý Tam điểm.

Tuy không đọc được nữa, nhưng Galloway vẫn nhớ nằm lòng phần mở đầu. Bức thông điệp tuyệt vời này từng vang lên bằng vô số ngôn ngữ trên thế giới, qua giọng hàng triệu huynh đệ của ông.

Lời văn như sau:

THỜI GIAN LÀ MộT DÒNG SÔNG. SÁCH VỞ LÀ NHỮNG CON THUYỀN. NHIỀU CUỐN SÁCH XUÔI THEO DÒNG SÔNG ẤY CHỈ ĐỂ BỊ ĐÁNH ĐẮM VÀ MAI MộT KHÔNG AI NHỚ ĐẾN TRONG LỚP CÁT. CÒN MỘT SỐ ÍT, RẤT ÍT, CHỊU ĐỰNG ĐƯỢC THỬ THÁCH VÀ SỐNG ĐỂ BAN PHÚC CHO CÁC THẾ HỆ TIẾP THEO.

Có một lý do khiến cho những cuốn sách này tồn tại, trong khi số khác thì biến mất. Là một học giả giàu đức tin, Cha Galloway luôn lấy làm lạ là những văn bản tinh thần cổ xưa, những cuốn sách được nghiên cứu nhiều nhất trên trái đất trên thực tế lại ít được hiểu rõ nhất.

Giữa những trang sách này, còn ẩn chứa một bí mật diệu kỳ.

Một ngày nào đó không xa, ánh sáng sẽ toả rạng, và cuối cùng nhân loại cũng sẽ bắt đầu nắm bắt chân lý đơn giản nhưng mang tính biến cải trong những lời dạy cổ xưa, và tạo được bước nhảy vọt trên con đường tìm hiểu bản chất cao quý của chính mình

Chương 131

Cầu thang xoáy chạy dọc theo xương sống Đài tưởng niệm Washington gồm 896 bậc đá xoáy tròn quanh một đường thông của thang máy. Langdon và Solomon đang đi xuống. Tâm trí Langdon vẫn miên man về sự thật gây sửng sốt mà Peter vừa chia sẻ với anh:

Robert, các bậc tiền bối đã đặt một cuốn Từ - Kinh thánh - vào lòng viên đá móng của đài tưởng niêm này. Nó đang chờ đợi trong bóng tối dưới chân cầu thang.

Trên đường đi xuống, Peter bất thần dừng lại ở một chiếu nghỉ và quét đèn pin lên, soi tỏ một tấm huy chương bằng đá rất lớn gắn trên tường.

Cái gì thế nhỉ? Langdon giật nảy mình khi nhìn thay tác phẩm đó.

Trong tấm huy chương, một nhân vật bận tà áo choàng rất khủng khiếp đang cầm lưỡi hái quỳ bên cạnh một chiếc đồng hồ cát. Nhân vật ấy giơ tay, với ngón trỏ duỗi ra, chỉ thẳng tới một cuốn Kinh thánh mở rộng như muốn nói: "Câu trả lời nằm ở đây!"

Langdon chăm chú nhìn bức chạm rồi quay sang Peter.

Đôi mắt người bạn vong niên ánh lên bí hiểm.

- Tôi muốn cậu xem xét vài điều, Robert ạ - Giọng ông vang vọng trong giếng cầu thang trống rỗng - Theo cậu, vì sao Kinh thánh tồn tại được qua hàng nghìn năm lịch sử đầy biến động? Vì sao nó vẫn hiện hữu? Phải chăng những câu chuyện của nó quá hấp dẫn? Dĩ nhiên là không... nhưng có một lý do khác. Có một lý do khiến các giáo sĩ Thiên Chúa giáo dành cả đời cố giải mã Kinh thánh. Có một lý do khiến các thuật sĩ Do Thái và Kabbalah miệt mài với Kinh Cựu ước Và lý do đó, Robert ạ, là có những bí mật rất hùng mạnh ẩn giấu trong các trang của cuốn sách cổ này, có một tập hợp tri thức nguyên vẹn đang chờ khám phá.

Langdon không lạ gì luận thuyết cho rằng Kinh thánh chứa đựng một tầng nghĩa bí mật, một thông điệp được giấu kín bằng phúng dụ, biểu tượng và những lời ngụ ý.

- Các nhà tiên tri cảnh báo chúng ta - Peter nói tiếp - rằng ngôn ngữ họ dùng để chia sẻ bí mật là thứ ngôn ngữ khó hiểu. Phúc âm Mark nói: "Các ngươi sẽ được biết điều bí mật thông qua hàm ngôn". Sách Cách ngôn cũng lưu ý rằng lời lẽ của các bậc trí giả là "những câu đố", dân Corin thì hé lộ về một thứ "tri thức ẩn kín". Phúc âm John dự báo: "Ta sẽ trao đổi với các con bằng ngụ ý... và dùng hắc ngôn.

Hắc ngôn. Langdon lầm bầm, nhớ lại rằng cụm từ lạ lùng này đã tạo ra vô khối câu kỳ quặc trong sách Cách ngôn cũng như Thánh thi 78. Ta sẽ mở miệng bằng ngụ ý và diễn đạt bằng hắc ngôn cổ. Khái niệm "hắc ngôn", theo như Langdon biết, không đồng nghĩa với "xấu xa", ý nghĩa thực sự của nó là được che giấu hoặc không rõ ràng.

- Nếu cậu còn nghi hoặc - Peter nói thêm - thì hãy nhớ dân Corin đã công khai dặn chúng ta rằng hàm ngôn có hai tầng nghĩa: "sữa cho trẻ sơ sinh và thịt cho người lớn" trong đó sữa là thứ kiến thức loãng toẹt dành cho những bộ óc ấu trĩ, còn thịt là thông điệp đích thực dành riêng cho những trí tuệ trưởng thành.

Peter lại nâng đèn pin lên, soi vào bức chạm khắc nhân vật mặc áo choàng đang trỏ lên Kinh thánh.

- Tôi biết cậu là người hoài nghi, Robert ạ, nhưng hãy xem tác phẩm này. Nếu Kinh thánh không chứa ý nghĩa ẩn giấu thì tại sao lại có nhiều bộ óc xuất sắc nhất của lịch sử, kể cả các nhà khoa học lỗi lạc thuộc Hiệp hội Hoàng gia, bị ám ảnh với việc nghiên cứu nó đến vậy? Chính Isaac Newton đã viết hơn một triệu từ để cố gắng giải mã ý nghĩa đích thực của Kinh thánh, bản viết tay năm 1704 cho biết ông đã hiểu ra thông tin khoa học ẩn giấu trong Kinh thánh!

Langdon thừa nhận điều này hoàn toàn đúng.

- Còn Tử tước Francis Bacon - Peter nói tiếp - một nhân vật đầy uy tín được Vua James vời đến để biên soạn Kinh thánh Vua James, lại quả quyết rằng Kinh thánh chứa đựng nhiều ý nghĩa khó hiểu, ông đã ghi chép chúng dưới dạng mật mã của riêng ông, mật mã ấy hiện vẫn đang được nghiên cứu? Dĩ nhiên, cậu biết đấy, Bacon là một hội viên Thập tự Hoa hồng, là người chấp bút cuốn Trí tuệ của cổ nhân - ông mỉm cười - Thậm chí nhà thơ bài trừ thánh tượng William Blake cũng gợi ý rằng chúng ta nên đọc kỹ.

Langdon khá quen thuộc với mấy câu thơ:

DÙ ĐỌC KINH THÁNH CẢ NGÀY LẪN ĐÊM,

NHƯNG BẠN ĐỌC THẤY ĐEN CÒN TÔI ĐỌC LẠI TRẮNG.

- Không chỉ các danh nhân châu Âu thôi đâu - Peter tiếp tục, bước xuống nhanh hơn - Chính ở đây, Robert ạ, ngay tại trung tâm của nước Mỹ trẻ trung này, các tiền nhân sáng suốt nhất của chúng ta như John Adams, Ben Franklin, Thomas Paine... đều cảnh báo về những nguy hiểm tiềm tàng của việc diễn giải Kinh thánh thuần tuý theo nghĩa đen. Trên thực tế, chính Thomas Jefferson là người tin vào thông điệp đích thực được giấu kín của Kinh Thánh đến mức ông đã cắt rời từng trang và biên tập lại cuốn sách, một hành động mà theo lời ông là "cố gắng gỡ bỏ cái cốt nhân tạo và phục hồi học thuyết đích thực".

Langdon biết rất rõ câu chuyện lạ lùng này. Cuốn Kinh thánh Jefferson hiện vẫn được in ấn và chứa đựng nhiều nội dung sửa đổi gây tranh cãi, trong đó có cả việc loại bỏ chi tiết trinh nữ hoài thai và phục sinh. Thật lạ là, suốt nửa đầu thế kỷ XIX, Kinh thánh Jefferson từng được đem tặng cho tất cả các thành viên của Quốc hội.

- Peter, anh thừa biết là chủ đề này rất hấp dẫn đối với em. Em có thể hiểu được rằng các bộ óc sáng láng bị cám dỗ với ý tưởng Kinh thánh chứa đựng nhiều tầng nghĩa, nhưng em thấy nó không hề logic. Bất kỳ giáo sư có trình độ nào cũng sẽ nói với anh rằng không bao giờ họ dạy học bằng mật mã cả.

- Tôi chưa hiểu?

Công việc của giáo viên là giảng dạy, Peter ạ. Bọn em nói một cách công khai. Tại sao các nhà tiên tri, những bậc thầy vĩ đại nhất trong lịch sử, phải che giấu ngôn ngữ của họ? Nếu muốn thay đổi thế giới, tại sao họ lại dùng mật mã? Sao không nói thẳng ra để cả thế giới dễ lĩnh hội?

Chân vẫn bước xuống, Peter ngoái nhìn qua vai, vẻ khá ngạc nhiên vì câu hỏi.

- Robert, Kinh thánh không trình bày công khai là bởi cùng nguyên nhân khiến các trường phái Bí ẩn cổ xưa phải ẩn tích, khiến người nhập đạo phải khai tâm trước khi học hỏi những kiến thức bí mật của mọi thời đại, khiến các nhà khoa học thuộc Hiệp hội hoàng gia từ chối chia sẻ kiến thức của họ với những người khác. Thông tin này rất nhiều quyền năng, Robert ạ. Không thể oang oang rao giảng về những bí ẩn cổ xưa cho khắp bàn, dân thiên hạ được. Bí mật là bó đuốc đang rực cháy, mà, nếu nằm trong tay một bậc thầy, có thể soi sáng đường đi, nhưng nếu nằm trong tay một kẻ tâm thần, có thể thiêu rụi cả trái đất.

Langdon dừng phắt lại. Ông ấy nói gì thế nhỉ?

- Peter, em đang đề cập đến Kinh thánh cơ mà. Tại sao anh lại kéo Bí mật cổ xưa vào đây?

Peter quay nhìn lại.

- Robert, cậu vẫn chưa hiểu ư? Bí mật cổ xưa và Kinh thánh là một thôi.

Langdon sững sờ.

Peter im lặng vài giây, đợi cho Langdon thâm thấu được ý niệm vừa rồi.

- Kinh thánh là một trong những cuốn sách mà qua đó, bí ẩn được truyền lại cho các thế hệ. Từng trang của nó đều cố gắng hé mở bí mật cho chúng ta. Cậu không hiểu sao? "Hắc ngôn", trong Kinh thánh là những lời thì thầm của cổ nhân, lặng lẽ chia sẻ với chúng ta nguồn tri thức bí mật của họ.

Langdon chẳng nói chẳng rằng. Bí mật cổ xưa, theo như anh hiểu, là một loại cẩm nang hướng dẫn cách khai thác sức mạnh tiềm tàng của trí tuệ con người - một công thức cho quá trình trở thành thần thánh của cá nhân. Anh chưa bao giờ công nhận sức mạnh cửa những bí ẩn đó, và càng không thể tiếp thu được ý tưởng Kinh thánh chứa đựng chiếc chìa khoá khai mở chúng.

- Peter ạ? Kinh thánh và Bí ẩn cổ xưa hoàn toàn đối lập nhau. Các Bí ẩn đều quả quyết chân chúa ở ngay bên trong chúng ta, qua đó khẳng định tư cách thần thánh của con người. Còn Kinh thánh chỉ nói về đức Chúa bên trên chúng ta, và con người là sinh vật tội lỗi bất lực.

- Phải? Rất chính xác! Cậu đã tiếp cận đúng vấn đề rồi đấy! Thời điểm con người tách bản thân ra khỏi Chúa, thì ý nghĩa đích thực của Từ đã biến mất. Tiếng nói của các bậc thầy trước kia giờ đây bị chìm lấp thất lạc giữa tiếng la ó lộn xộn của những kẻ tu tập tự phong luôn huênh hoang rằng chỉ riêng họ hiểu được Từ... rằng Từ được viết bằng ngôn ngữ của họ chứ không của ai hết.

Peter tiếp tục đi xuống cầu thang.

- Robert, chúng ta đều biết rằng cổ nhân sẽ vô cùng kinh hãi nếu chứng kiến tri thức của mình bị xuyên tạc, thấy tôn giáo trở thành một thứ nhà tù của thiên đường, thấy các chiến binh xung trận với niềm tin rằng Chúa ủng hộ họ. Chúng ta đã để mất Từ, nhưng ý nghĩa đích thực của nó thì vẫn vẹn nguyên, ngay trước mắt chúng ta. Nó tồn tại trong tất cả các văn bản lâu đời, từ Kinh Thánh, Bhagavad Gita, đến kinh Koran và nhiều thứ khác nữa. Những văn bản này đều được tôn kính trên bàn thờ của Hội Tam điểm, bởi Hội thấu hiểu những điều mà thế giới dường như đã lãng quên... rằng mỗi văn bản này, bằng cách riêng của nó, đang âm thầm chuyển tải cùng một thông điệp - Giọng Peter lạc đi vì xúc động - "Các ngươi không biết mình là thần thánh ư?"

Langdon chững lại, nhớ ra rằng câu ngạn ngữ cổ nổi tiếng này đã xuất hiện vài lần trong buổi tối nay. Anh từng chỉ trích nó trong lúc trò chuyện với Galloway và cả khi cố gắng giải thích bức Sự phong thánh của Washington ở Điện Capitol.

Peter hạ giọng gần như thì thào.

- Đức Phật dạy "Chúng sinh là Phật sẽ thành". Đức Jesus dạy rằng Vương quốc của Chúa ở ngay bên trong các con,, thậm chí còn hứa hẹn với chúng ta "Những gì ta làm được, các con cũng làm được, và còn vĩ đại hơn". Ngay cả vị Giáo hoàng đối cử đầu tiên. Thánh tử đạo Hippolytus của thành Rome, cũng trích dẫn chính thông điệp ấy từ miệng vị thầy ngộ đạo Monoimus: "Hãy thôi tìm kiếm Chúa, thay vào đó, hãy bắt đầu từ chính mình".

Langdon vụt nhớ lại chiếc ghế bành ở Thánh điện Hội Tam điểm, mặt trước lưng tựa có khắc hai từ chỉ dẫn: BIẾT MÌNH.

- Một trí giả từng nói với tôi rằng - giọng Peter nhẹ hẫng - sự khác nhau duy nhất giữa chúng ta và Chúa là chúng ta quên mất mình rất siêu phàm.

- Peter, em đang nghe anh nói đây, em nghe đây. Thực lòng em cũng muốn tin rằng chúng ta chính là thần linh, nhưng em không gặp vị thần nào ngao du trên mặt đất này, cũng không thấy bậc siêu nhân nào cả. Anh có thể nói đến những phép lạ của Kinh Thánh, hoặc bất kỳ văn bản tôn giáo nào khác, nhưng ý nghĩa của chúng chỉ giới hạn ở những câu chuyện cổ xưa do con người biên soạn và phóng đại qua thời gian.

- Có lẽ vậy - Peter nói - Hoặc có lẽ chúng ta chỉ cần khoa học của mình bắt kịp với tri thức của cổ nhân - ông dừng lại - Rất ngộ là... tôi tin nghiên cứu của Katherine đang sẵn sàng để thực hiện việc đó.

Langdon chợt nhớ rằng Katherine đã vội vã rời khỏi Thánh điện.

- A cô ấy đi đâu rồi nhỉ?

- Lát nữa cô ấy sẽ sang đây - Peter cười nói - Cô ấy đi xác nhận một vận may tuyệt vời.

***

Bên ngoài, dưới chân đài tưởng niệm, Peter Solomon hít thở làn không khí lành lạnh ban đêm và cảm thấy như được tiếp thêm sinh lực ông thích thú theo dõi Langdon, anh đang dán mắt xuống đất, gãi đầu gãi tai và ngó quanh quất dưới chân cột tháp.

- Giáo sư - Peter đùa vui - hòn đá đặt móng chứa cuốn Kinh Thánh nằm ở trong lòng đất cơ. Thực tế là cậu không thể tiếp cận cuốn sách, nhưng tôi cam đoan với cậu rằng nó ở đó.

- Em tin mà - Langdon nói, vẻ đang theo đuổi một suy nghĩ nào đó Chỉ hiềm... em chú ý đến một điều.

Anh bước lùi lại và xem xét quảng trường rộng lớn, nơi dựng Đài tưởng niệm Washington. Khu vực bùng binh hình tròn này lát toàn đá trắng, ngoại trừ hai hàng gạch trang trí bằng đá đen, tạo thành hai vòng tròn đồng tâm xung quanh đài tưởng niệm.

- Một vòng tròn bên trong một vòng tròn - Langdon trầm ngâm - Em chưa bao giờ nhận ra Đài tưởng niệm Washington lại đứng chính giữa một vòng tròn bên trong một vòng tròn.

Peter phì cười. Anh chàng này không bỏ sót điều gì cả.

- Phải, một bàn huyền điểm khống lồ... biểu tượng phổ thông của Chúa ngay tại giao lộ nước Mỹ - ông nhún vai - Tôi chắc đây chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên.

Langdon dường như đang nghĩ ngợi đẩu đâu. Anh đưa mắt nhìn lướt lên, dọc theo ngọn tháp được chiếu sáng rực, toả ra thứ hào quang màu trắng tương phản với bầu trời đêm đen đặc mùa đông.

Peter cảm thấy Langdon bắt đầu nhận ra bản chất thực sự của Công trình này, nó là một lời nhắc nhở thầm lặng về tri thức cổ xưa, là biểu tượng của con người được khai sáng ở nơi trái tim của một đất nước vĩ đại. Mặc dù không thể nhìn thấy đầu mút bằng nhôm bé xíu trên đỉnh tháp, nhưng ông biết nó vẫn nằm ở đó, như bộ óc được khai sáng của con người đang hướng lên trời.

Lau Deo.

- Peter? - Langdon tiến lại, trông y như người vừa trải qua một hình thức khai tâm bí truyền - Suýt nữa thì em quên.

Nói đoạn, anh thò tay vào túi lấy chiếc nhẫn vàng Tam điểm của Peter.

- Suốt từ chập tối em đã muốn trả cái này cho anh.

- Cảm ơn cậu, Robert - Peter chìa tay trái ra nhận chiếc nhẫn và ngắm nghía nó - Cậu biết đấy, tất cả những bí mật và bí ẩn xung quanh chiếc nhẫn này và Kim tự tháp Tam điểm đã gây ảnh hưởng lớn đối với cuộc đời tôi. Hồi tôi còn trẻ, kim tự tháp đã hứa hẹn với tôi rằng nó đang mang trong mình bao nhiêu bí mật. Sự tồn tại của nó khiến tôi tin rằng trên thế giới có những điều huyền bí lớn lao. Nó khêu gợi trí tò mò, tiếp sức tìm tòi và mang lại cho tôi cảm hứng để mở mang đầu óc trước những Bí mật cổ xưa - ông mỉm cười lặng lẽ và thả chiếc nhẫn vào túi - Giờ tôi nhận ra rằng mục đích thực sự của Kim tự tháp Tam điểm không phải hé mở câu trả lời, mà là truyền sự đam mê đối với những câu trả lời ấy.

Hai người đàn ông đứng lặng một lúc lâu dưới chân đài tưởng niệm.

Cuối cùng, Langdon lên tiếng, giọng anh khá nghiêm túc.

- Mong anh giúp em một việc, Peter... như một người bạn.

- Dĩ nhiên rồi. Bất kỳ điều gì.

Langdon đưa ra một đề nghị, rất dứt khoát.

Solomon gật đầu, hiểu rằng đề nghị đó hoàn toàn hữu lý.

- Tôi sẽ làm.

- Ngay bây giờ - Langdon nói thêm, ra hiệu về phía chiếc Escalade đang đợi sẵn.

- Được nhưng có một điều báo trước.

Langdon đảo mắt, cười.

- Kiểu gì thì anh cũng "chốt hạ" mà.

- Phải, và có một điều cuối cùng tôi muốn cậu và Katherine biết.

- Lúc này ư? - Langdon xem đồng hồ.

Solomon mỉm một nụ cười ấm áp với người bạn cũ.

- Đó là kho báu ấn tượng nhất của Washington. Rất, rất ít người từng trông thấy nó

Chương 132

Lòng nhẹ nhõm, Katherine Solomon hăm hở leo lên đồi, tiến về phía Đài tưởng niệm Washington. Đêm nay cô đã chịu đựng những cú sốc và bi kịch nặng nề, nhưng lúc này, dù tạm thời, suy nghĩ của cô lại tập trung vào thông tin tuyệt vời mà Peter báo lúc trước, và cô vừa tận mắt xác nhận.

Nghiên cứu của mình vẫn an toàn. Toàn bộ.

Các ổ đĩa sao lưu tại phòng thí nghiệm đã bị phá huỷ hồi tối, nhưng vừa rồi tại Thánh điện Hội Tam điểm, Peter lại báo với cô rằng ông đã bí mật giữ phần sao lưu toàn bộ nghiên cứu Lý trí học của cô trong văn phòng điều hành SMSC. Em biết là anh rất quan tâm đến công việc của em, ông giải thích, và anh muốn theo dõi tiến bộ của em mà không làm phiền em.

- Katherine? - một giọng nói trầm trầm vang lên.

Katherine ngước mắt nhìn.

Một bóng người lẻ loi đứng dưới chân đài tưởng niệm sáng trưng.

- Robert! - Katherine chạy vội tới và ôm chầm lấy Langdon.

- Anh nghe được một tin vui, - Langdon thì thầm - Chắc là em nhẹ cả người.

Giọng cô run run vì xúc động.

- Quá tuyệt vời.

Nghiên cứu mà Peter lưu giữ được là một thành tựu khoa học, một tập hợp đồ sộ các thí nghiệm chứng minh tư duy con người là một sức mạnh có thật và định lượng được. Những thí nghiệm của Katherine đã chứng minh ảnh hưởng của tư duy con người lên mọi thứ từ các tinh thể băng đến những cỗ máy tạo biến cố ngẫu nhiên và chuyển động của các phân tử hạ nguyên tử. Kết quả rất thuyết phục và không thể phủ nhận được, có khả năng biến những người hoài nghi thành những người đầy tin tưởng và tác động đến cả ý thức của toàn thế giới trên một quy mô cực lớn.

- Mọi thứ sẽ thay đổi, Robert ạ. Mọi thứ.

- Chắc chắn Peter cũng nghĩ như vậy.

Katherine liếc quanh để tìm anh trai mình.

- Anh ấy tới bệnh viện rồi - Langdon nói - Anh vừa nài nỉ anh ấy tới đó coi như giúp anh một việc.

Katherine thở phào nhẹ nhõm.

- Cảm ơn anh.

- Anh ấy dặn anh đợi em ở đây.

Katherine gật đầu, ngước mắt lên cột tháp màu trắng đang toả sáng.

- Peter nói sẽ đưa anh tới đây. Có gì đó về Laus Deo ư? Anh ấy không nói rõ với em.

Langdon mỉm cười mỏi mệt.

- Anh không chắc mình đã hoàn toàn hiểu chưa - Anh ngước nhìn đỉnh đài tưởng niệm - Tối nay anh trai em nói khá nhiều điều mà anh không thể nắm bắt hết được.

- Để em đoán xem nào, - Katherine nói - Bí mật cổ xưa này, khoa học này, và cả Kinh thánh nữa phải không?

- Hết sảy!

- Xin mời anh đến với thế giới của em - Katherine nháy mắt - Peter dẫn dắt em vào lĩnh vực này khá lâu rồi. Nó truyền cảm hứng cho rất nhiều nghiên cứu của em.

- Về trực giác, có vài điều anh ấy nói rất có ý nghĩa - Langdon lắc đầu - Nhưng về mặt tri thức...

Katherine mỉm cười và vòng tay ôm lấy anh.

- Anh biết không, Robert, em có thể giúp anh chuyện đó.

***

Sâu bên trong Điện Capitol, Kiến trúc sư Warren Bellamy đang bước dọc theo một hành lang vắng vẻ.

Chỉ còn lại một việc phải làm tối nay, ông nghĩ thầm.

Về đến văn phòng mình, ông lấy trong ngăn kéo bàn một chiếc chìa khoá cũ kỹ. Chiếc chìa khoá bằng sắt đen, dài và thanh mảnh với những dấu vết đã mờ. Ông bỏ nó vào túi và sau đó sửa soạn chào đón các vị khách của mình.

Robert Langdon và Katherine Solomon đang trên đường tới Điện Capitol. Theo đề nghị của Peter, Bellamy sẽ cho họ một cơ hội rất hiếm hoi, cơ hội tận mắt nhin thấy bí mật tuyệt vời nhất của toà nhà này, một điều chỉ Kiến trúc sư mới tiết lộ được.

Chương 133

Tít trên trần Nhà tròn Điện Capitol, Robert Langdon lo lắng nhích từng bước quanh lối đi vòng cung nhô ra ngay bên dưới vòm trần. Anh ngập ngừng nhìn qua lan can và cảm thấy chóng mặt vì độ cao. Thật không sao tin nổi rằng mới mười tiếng trôi đi kể từ lúc bàn tay Peter xuất hiện ở chính giữa nền nhà bên dưới. Cũng tại nền nhà đó lúc này là Kiến trúc sư Điện Capitol, trông chỉ như một đốm nhỏ xíu khi nhìn từ độ cao 54 mét. Bellamy khoan thai băng ngang qua Nhà tròn và biến mất. Ông vừa hộ tống Langdon và Katherine lên đến ban công này, để họ lại đây với những chỉ dẫn rất cụ thể.

Chỉ dẫn của Peter.

Langdon xem xét chiếc chìa khoá sắt cũ kỹ mà Bellamy vừa đưa, đoạn liếc cái giếng cầu thang tù túng từ đây chạy lên cao, và cao hơn nữa. Xin Chúa giúp con! Theo lời Kiến trúc sư, những bậc thang chật hẹp này dẫn tới một cánh cửa thép nhỏ, chiếc chìa khoá sắt sẽ mở được cánh cửa đó. Đằng sau cửa có một thứ mà Peter nhấn mạnh rằng Langdon và Katherine nên xem. Ông không giải thích cụ thể, chỉ để lại lời hướng dẫn tỉ mỉ liên quan đến thời điểm chính xác mở khoá cánh cửa ấy. Phải đợi mới được mở cửa cơ à? Tại sao thế nhỉ?

Langdon lại xem đồng hồ và lầm bầm.

Thả chiếc chìa khoá vào túi, anh nhìn qua khoảng không trước mặt sang bên kia ban công. Katherine đi trước, chẳng hề lộ vẻ sợ sệt và rõ ràng là không ngại độ cao. Giờ cô đã băng qua một nửa quãng đường, đang ngắm nghía từng li từng tí bức tranh Sự phong thánh của Washington ngay phía trên đầu họ. Từ vị trí thuận lợi này, có thể quan sát rõ ràng các nhân vật cao tới 4,5 mét trên diện tích vòm trần rộng gần 465 mét vuông.

Langdon xoay lưng lại Katherine, quay mặt ra bức tường mé ngoài và thì thầm rất khẽ:

- Katherine, lương tâm của em đang lên tiếng đây. Tại sao em lại bỏ mặc Robert chứ?

Rõ ràng là Katherine rất quen thuộc với đặc điểm âm thanh kỳ lạ của mái vòm, bởi vì bức tường lập tức dội âm trở lại.

- Bởi vì Robert nhát như cáy. Anh ấy nên tiến lên đây với em. Từ bây giờ đến lúc được phép mở cánh cửa đó, thời gian còn rất rộng dài.

Biết rằng Katherine nói đúng, Langdon miễn cưỡng đi vòng theo ban công, vừa đi vừa bám lấy bức tường.

- Trần nhà thật kỳ lạ - Katherine nhận xét, cố dưới lên để chiêm ngưỡng toàn bộ vẻ lộng lẫy của bức Sự phong thánh - Thần linh trong truyền thuyết xen lẫn với các nhà phát minh khoa học cùng những sáng tạo của họ... Mà nó lại là hình ảnh ở trung tâm Điện Capitol nữa chứ...

Langdon đưa mắt nhìn Franklin, Fulton, và Morse đang đứng bên các sáng chế công nghệ. Một chiếc cầu vồng sáng rực vươn ra từ nhóm này, dẫn ánh mắt anh tới chỗ George Washington đang cười mây bay lên thiên đường. Hình ảnh hứa hẹn rằng con người sẽ trớ thành Thần thánh.

Katherine tiếp:

- Cứ như thể bản chất của những Bí ẩn cổ xưa đều đang lơ lửng ngay trên trần Nhà tròn vậy.

Langdon cũng phải thừa nhận, trên thế giới chẳng có mấy bức bích hoạ kết hợp giữa sáng chế khoa học với thần linh trong truyền thuyết hay quá trình trở thành thần thánh của con người. Thực ra, toàn cảnh đầy ấn tượng trên trần nhà này là một thông điệp về những Bí ẩn cổ xưa, và nó hiện diện tại đây là có lý do của nó. Các bậc tiền bối lập quốc nhìn nhận nước Mỹ như một tấm toan còn nguyên vẹn, một cánh đồng màu mỡ có thể gieo nhiều hạt mầm bí mật. Ngày nay, hình tượng cao vời mô tả cảnh cha đẻ của đất nước đang bay lên thiên đường vẫn âm thầm bao trùm lên các nhà làm luật, các nhà lãnh đạo và các vị tổng thống... như lời nhắc nhở mạnh mẽ, như tấm bản đồ hướng tới tương lai, như lời hứa hẹn về một thời đại mà con người sẽ tiến hoá để hoàn thiện quá trình trưởng thành về mặt tinh thần.

- Robert, - Katherine thì thầm, mắt vẫn dán chặt vào hình ảnh các nhà phát minh vĩ đại của nước Mỹ đang đứng bên cạnh thần Minerva. - Bức tranh này thật có tính tiên tri: Ngày nay, các sáng chế tiên tiến nhất của con người vẫn đang được dùng để nghiên cứu những ý tưởng cổ xưa nhất của chính họ. Lý trí học có lẽ còn mới mẻ, nhưng thực tế nó lại là môn khoa học lâu đời nhất trên trái đất, chuyên nghiên cứu suy nghĩ của con người.

Cô quay lại phía Langdon, mắt ánh lên kinh ngạc.

- Cổ nhân hiểu về tư duy còn sâu sắc hơn chúng ta hiện nay nhiều.

- Đúng đấy - Langdon đáp - Trí tuệ con người là công nghệ duy nhất mà cổ nhân có trong tay. Các triết gia cố đại đã nghiên cứu nó không mệt mỏi.

- Phải! Các tài liệu xa xưa đều trăn trở về sức mạnh của tư duy con người. Kinh Vệ Đà miêu tả dòng năng lượng tư duy. Cuốn Phúc âm đối thoại Pistis Sophia(104) đề cập đến ý thức vũ trụ. Zohar khám phá bản chất của tinh thần trí tuệ. Các văn bản của trường phái. Shaman thì tiên tri được cả thuyết "ảnh hưởng từ xa" của Einstein khi ghi chép về cách chữa bệnh không tiếp xúc. Cái gì cũng có! Đấy là em còn chưa nói đến Kinh thánh.

- Lại cả em nữa sao? - Langdon bật cười - Peter đã cố thuyết phục anh rằng Kinh thánh chứa những thông tin khoa học được mã hoá.

- Chắc chắn là thế - Katherine khẳng định - Nếu anh không tin Peter, hãy đọc một số tài liệu riêng của Newton về Kinh thánh. Khi bắt đầu lĩnh ngộ nội dung bí ẩn trong đó, anh sẽ nhận ra nó đúng là một công trình nghiên cứu về tư duy con người.

Langdon nhún vai.

- Thế thì tốt hơn là anh nên quay ngay về và đọc lại.

- Để em hỏi anh một chuyện - Katherine nói, rõ ràng là không hài lòng với thái độ hoài nghi của Langdon - Khi Kinh thánh dạy "hãy xây đền thờ của các con"... hãy "xây dựng mà không dùng công cụ và không gây ra tiếng ồn", anh nghĩ nó đang nói về ngôi đền nào vậy?

- Chà, theo sách thì ngôi đền đó là cơ thể chúng ta.

- Phải, Corin 3:16. Anh em há chẳng biết mình là đền thờ của Đức Thánh linh - Katherine mỉm cười - Phúc âm John cũng nói đúng những điều ấy. Robert ạ, Kinh thánh hiểu rất rõ sức mạnh tiềm ẩn trong con người, và nó giục giã chúng ta phát huy sức mạnh ấy, thôi thúc chúng ta xây dựng những ngôi đền của tư duy.

- Tiếc thật, anh lại nghĩ nhiều đến việc thế giới tôn giáo cần xây dựng một đền thờ thực sự. Đó là một phần Lời Tiên tri Cứu thế.

- Phải, nhưng Lời Tiên tri bỏ sót một điểm quan trọng. Ngày Thiên Chúa tái lâm chính là lúc con người xuất hiện, là thời điểm nhân loại xây nên đền thờ tư duy của mình.

- Anh không biết - Langdon xoa cằm - Anh không phải là một học giả chuyên về Kinh thánh, nhưng anh dám chắc rằng ngôi đền cần xây được mô tả chi tiết trong Kinh thánh là một đền thờ vật chất. Kết cấu của nó gồm hai phần: đền thờ bên ngoài gọi là Thánh địa và điện thờ bên trong gọi là Vương cung thánh đường. Hai phần tách biệt với nhau bởi một tấm rèm mỏng.

Katherine cười tươi.

- Luôn hoài nghi Kinh thánh mà nhớ được như thế thì quả là tài. Nhân tiện, anh đã bao giờ trông thấy một bộ não người thực sự chưa? Nó cũng gồm hai phần: phần bên ngoài gọi là màng cứng và phần bên trong gọi là màng mềm. Hai phần tách biệt với nhau nhờ màng nhện, đây là một tấm rèm giống như cái lưới.

Langdon nghiêng đầu ngạc nhiên.

Rất nhẹ nhàng, Katherine tiến lại gần và khẽ chạm vào thái dương anh.

- Người ta có lý do riêng để gọi đây là thánh đường(105), Robert ạ.

Trong lúc cố gắng phân tích những điều Katherine vừa nói, Langdon bất ngờ nhớ lại Phúc âm Mary Magdalene về sự ngộ đạo:

Trí tuệ của các ngươi ở đâu, thì kho tàng nằm ở đó.

Katherine nhẹ nhàng nói:

- Có lẽ anh chàng từng nghe đến chuyện chụp cắt lớp não của các nhà Du già khi họ ngồi thiền nhỉ? Khi bộ não con người ở trong trạng thái tập trung cao độ, về mặt vật lý, tuyến yên sẽ sản sinh ra một chất giống như sáp. Quá trình tiết não này không giống bất kỳ quá trình nào khác trong cơ thể. Nó có tác dụng chữa bệnh phi thường, có thể tái tạo tế bào, và có lẽ là một trong những nguyên nhân giúp các nhà Du già sống lâu đến vậy. Đây là khoa học thực sự, Robert ạ. Chất này có những thuộc tính kỳ lạ và chỉ sinh ra khi tư duy ở trạng thái tập trung cực sâu.

- Hình như anh đọc tin ấy cách đây vài năm.

- Ừ, nhân nói về chủ đề này. anh có nhớ phần "lộc trời" trong Kinh thánh không?

Langdon ngơ ngác, chưa hiểu sự liên hệ nằm ở đâu.

- Ý em là cái chất diệu kỳ từ trên trời rơi xuống để cứu giúp những người chết đói ấy hả?

- Chính xác. Chất đó chữa lành bệnh cho người ốm, đem lại sự sống vĩnh hằng, và kỳ lạ hơn nữa là vào trong cơ thể rồi thì không đào thải ra qua đường bài tiết nữa - Katherine ngừng lời, như muốn cho Langdon thời gian lĩnh hội. Rồi cô thúc anh - Robert! Một loại thực phẩm từ trên trời rơi xuống - Cô gõ vào thái dương mình - Có phép lạ chữa lành bệnh tật, lại không chuyển hoá thành chất bã. Anh không hiểu sao? Đây là những ngôn từ mã hoá. Robert ạ! Đền thờ là mã hoá của "cơ thể". Thiên đường là mã hoá của "tư duy". Chiếc thang của Jacob là cột sống. Còn lộc trời là quá trình tiết não rất hiếm hoi kể trên. Khi gặp các ngôn từ mã hoá này trong Kinh thánh, hãy chú ý. Chúng thường là vỏ ngoài của nhiều lớp nghĩa thâm thuý hơn.

Katherine hào hứng tuôn một tràng liên tu bất tận, kể rằng chất kỳ diệu này đã xuất hiện trong tất cả các Bí ẩn cổ xưa như Quỳnh tương, Tiên đan, Suối nguồn tươi trẻ, Hòn đá triết học, thức ăn của thần thánh, cam lồ, khí lực, phần sinh dưỡng. Sau đó, cô chuyển sang giải thích tuyến yên của não người đại diện cho Thấu nhãn của Chúa.

Theo Phúc âm Matthew 6:22, "Nếu mắt ngươi sáng sủa thì thân thể ngươi sẽ sáng láng theo". Khái niệm này được biểu hiện bằng chakra Ajnai(106) và nốt ruồi trên trán tín đồ Hindu giáo, qua đó...

Đang sôi nổi nói, Katherine chợt ngừng một thoáng, vẻ bẽn lẽn.

- Xin lỗi... em biết mình hơi huyên thiên, song em vừa nhận thấy vấn đề này rất thú vị. Đã nhiều năm qua, em nghiên cứu nhận định của cổ nhân về sức mạnh tinh thần vĩ đại của con người, và giờ đây khoa học đang chứng tỏ rằng tiếp cận sức mạnh đó là một quá trình vật chất thật sự. Nếu được sử dụng đúng đắn, não chúng ta có thể phát huy tiềm lực siêu nhân theo đúng nghĩa đen. Kinh thánh, cũng như nhiều văn bản cổ, đã phân tích chi tiết về một cỗ máy phức tạp nhất trên đời, ấy là tư duy con người - Cô thở dài - Không thể tưởng được là khoa học chỉ mới chạm tới bề mặt của trí tuệ nhân loại mà thôi.

- Nghe chừng nghiên cứu về Lý trí học của em sẽ đạt được bước nhảy vọt đấy.

- Cũng có thể phải thụt lùi, - Katherine nói - Cổ nhân đã nắm vững rất nhiều chân lý khoa học mà giờ đây chúng ta đang tái khám phá. Chỉ vài năm nữa thôi, con người hiện đại sẽ buộc phải chấp nhận những điều mà hiện nay họ còn chưa có khả năng nghĩ tới, đó là: tư duy của chúng ta có thể tạo ra năng lượng để biến cải vật chất - Cô ngập ngừng - Các phân tử phản ứng lại với những suy nghĩ của chúng ta, điều đó đồng nghĩa với việc suy nghĩ của chúng ta đủ sức mạnh làm thay đổi thế giới.

Langdon chỉ cười.

- Nghiên cứu khiến em phải tin vào điều này Chúa có thật, Chúa là nguồn năng lượng tinh thần lan toả lên mọi thứ, và chúng ta, những con người, được tạo ra theo hình ảnh đó...

- Xin lỗi! - Langdon xen vào - Được tạo ra theo hình ảnh của... nguồn năng lượng tinh thần ư?

- Chính xác. Cơ thể vật chất của chúng ta biến đổi theo năm tháng, nhưng tư duy lại mô phỏng đúng như hình ảnh của Chúa. Loài người toàn đọc Kinh thánh theo nghĩa đen. Chúa tạo ra chúng ta theo hình ảnh của ngài thật, nhưng không phải hình ảnh vật chất mà là hình ảnh tư duy kia.

Langdon im lặng, chú ý lắng nghe.

- Đây là món quà rất lớn, Robert ạ, và Chúa đang đợi chúng ta hiểu điều đó. Trên khắp thế giới, loài người cứ ngước lên nhìn trời, chờ đợi Chúa, mà chẳng bao giờ nhận ra rằng Chúa đang đợi chúng ta - Katherine dừng lại, để lời nói của mình thấm vào người nghe - Chúng ta là đấng sáng tạo, nhưng chúng ta cứ ngây thơ đóng vai trò "sản phẩm". Chúng ta tự coi mình là bầy chiên vô dụng do vị Chúa sáng tạo chăn dắt. Chúng ta quỳ rạp như đám con cái sợ hãi, cầu xin giúp đỡ, xin tha thứ, xin ban phước lành. Nhưng một khi nhận ra rằng mình thực sự được hình thành theo khuôn mẫu của Đấng Sáng tạo chúng ta sẽ hiểu ra bản thân cũng phải là những Đấng Sáng tạo. Khi con người thấu hiểu chân lý đó, những cánh cửa sẽ mở toang cho tiềm năng của họ.

Langdon nhớ lại một đoạn văn cứ đeo đẳng anh, trích từ tác phẩm của triết gia Manly P. Hall: Giá như Thương đế đừng kỳ vọng con người thông minh thì Ngài đã không phải ban cho họ khả năng hiểu biết. Langdon lại ngước nhìn bức tranh Sự phong thánh của Washington, một điển hình về sự vươn lên thành thần. Kẻ bị sáng tạo, trở thành Đấng Sáng tạo.

- Phần đáng ngạc nhiên nhất - Katherine nói - là ở chỗ chừng nào con người bắt đầu khai thác được sức mạnh đích thực của bản thân thì họ sẽ kiểm soát được thế giới, sẽ hoạch định được thực tại chứ không chỉ phản ứng lại nó.

Langdon nhìn xuống.

- Chuyện đó nghe... nguy hiểm quá.

Katherine hơi giật mình, và tỏ ra thán phục.

- Ừ, rất đúng! Nếu tư duy tác động lên thế giới thì chúng ta phải rất cẩn thận với luồng suy nghĩ của mình. Những suy nghĩ có hại sẽ gây ảnh hưởng xấu. Ai nấy đều biết phá huỷ dễ dàng hơn xây dựng nhiều.

Langdon nghĩ đến ý thức về sự cần thiết phải bảo vệ tri thức cổ trước những kẻ không xứng đáng và chỉ đem nó chia sẻ với những người được khai sáng, nghĩ đến Hiệp hội Hoàng gia, nhớ lại lời Isaac Newton đề nghị Robert Boyle phải "hết sức giữ im lặng, về nghiên cứu bí mật của họ, đừng truyền bá nó", Newton viết vào năm 1676, kẻo sẽ gây ảnh hưởng rất lớn đến thế giới.

- Có một chi tiết pha trộn thú vị ở đây, - Katherine nói - Điều hài hước là nhiều thế kỷ nay, mọi tôn giáo trên thế giới đều thúc giục tín đồ của mình nắm bắt các khái niệm về tín điều và niềm tin. Khoa học vốn chế giễu tôn giáo là mê tín, nay lại phải thừa nhận rằng mặt trận lớn tiếp theo của mình chính là khoa học tín điều và niềm tin... sức mạnh của sự hội tụ giữa tin tưởng và ý định. Khoa học vốn làm xói mòn niềm tin của chúng ta vào những điều kỳ diệu, nay lại bắc cây cầu ngang qua vực thẳm mà nó tạo ra.

Langdon nghe và cân nhắc những lời ấy một lúc lâu. Anh chậm rãi đưa mắt lên bức Sự phong thánh lần nữa, rồi quay lại Katherine:

- Anh có một câu hỏi. Cứ cho rằng anh chấp nhận, dù chỉ trong khoảnh khắc, rằng anh có sức mạnh thay đổi được vật chất bằng tư duy của mình, và bộc lộ mọi ao ước... Nhưng mà chẳng điều gì trong đời khiến anh tin mình gom đủ sức mạnh như thế.

Katherine nhún vai.

- Vậy là do anh nhìn nhận chưa nghiêm túc.

- Thôi nào, đó là câu trả lời của một thầy tu. Anh muốn có một câu trả lời thực sự, một câu trả lời của nhà khoa học kia.

- Anh muốn có một câu trả lời thật sự à? Thì nó đây thôi. Giả sử em đưa cho anh một cây vĩ cầm và bảo anh có khả năng sử dụng nó để tạo ra âm nhạc tuyệt vời, thì tức là em đang nói sự thật. Anh thật sự có khả năng ấy, nhưng anh sẽ phải tập luyện rất nhiều mới thể hiện được. Điều này tương tự với học cách sử dụng tư duy, Robert ạ. Phải rèn luyện thì mới hình thành được kỹ năng suy nghĩ có định hướng. Để thể hiện một ý định thì cần phải tập trung cao độ cảm nhận hoàn toàn bằng hình ảnh, và tin tưởng sâu sắc. Chúng ta đã chứng minh được điều này trong phòng thí nghiệm. Tương tự chơi vĩ cầm, có những người thể hiện khả năng thiên bẩm xuất sắc hơn hẳn những người khác. Hãy nhìn lại lịch sử. Hãy nhìn lại câu chuyện về những trí tuệ khai sáng đã làm nên nhiều điều kỳ diệu.

- Katherine, đừng nói với anh rằng em thật sự tin vào những phép màu nhé. Chẳng hạn, nói một cách nghiêm túc, có thể biến nước thành rượu vang hay chữa bệnh bằng cách chạm tay ư?

Katherine hít một hơi dài và từ từ thở ra.

- Em đã chứng kiến người ta biến tế bào ung thư thành tế bào khỏe mạnh chỉ đơn giản bằng cách nghĩ về chúng. Em đã chứng kiến tư duy con người ảnh hưởng đến thế giới vật chất bằng vô số cách, và một khi anh nhìn thấy điều đó xảy ra, Robert ạ, khi nàơ điều này trở thành một phần thực tế của anh, thì những phép màu mà anh từng nghe nói đến sẽ chỉ đơn giản là vấn đề mức độ mà thôi.

Langdon trầm ngâm.

- Đó là một cách nhìn nhận thế giới đầy cảm hứng. Katherine ạ, nhưng với anh, nó chỉ như một bước nhảy không thể thực hiện của tín điều. Và em biết đấy, anh không quen chấp nhận tín điều một cách dễ dàng đâu.

- Vậy đừng coi nó như tín điều. Hãy nghĩ đơn giản là nó đang làm thay đổi tầm nhìn của anh, hãy chấp nhận rằng thế giới không hoàn toàn như anh nghĩ. Về mặt lịch sử, mọi đột phá khoa học chủ yếu đều bắt đầu từ một ý tưởng giản dị luôn đe doạ lật nhào toàn bộ niềm tin của chúng ta. Người ta từng chỉ trích luận điểm giản dị trái đất hình tròn, bởi tin rằng điều đó không thể là sự thật, vì các đại dương sẽ chảy tuột khỏi hành tình ngay. Thuyết nhật tâm từng bị xem là dị giáo. Những tư duy hèn kém luôn tìm cách bôi nhọ mọi điều họ không hiểu. Có người sáng tạo... lại có những người phá hoại. Hiện thực đó thời nào cũng diễn ra. Nhưng cuối cùng phe sáng tạo sẽ tìm được tín đồ của mình, số lượng tín đồ sẽ tăng lên mạnh mẽ, và đột nhiên thế giới trở thành hình tròn, hoặc hệ mặt trời trở thành trung tâm. Quan niệm biến cải, và một thực tế mới ra đời.

Langdon gật đầu, dòng suy tư bỗng trở nên lan man.

- Mặt anh ngộ lắm - Katherine nói.

- Ồ anh không biết nữa. Chẳng hiểu vì cơn cớ gì, tự dưng anh nhớ lại lần mình đi ca nô ra giữa hồ nước vào lúc đêm muộn, nằm dưới trời sao và nghĩ về những việc như thế này.

Katherine gật đầu vẻ thấu hiểu.

- Mọi người đều có ký ức liên tưởng. Giữa việc nằm ngửa ngắm bầu trời và... mở mang trí tuệ - Cô ngẩng nhìn trần nhà rồi bảo Langdon - Cho em mượn áo khoác của anh.

- Sao cơ? - Anh cởi áo đưa cho cô.

Katherine gấp áo làm bốn và đặt xuống hành lang như một chiếc gối dài.

- Hãy nằm xuống đây.

Langdon nằm ngửa ra. Katherine chỉnh đầu anh dịch sang một nửa cái áo khoác gấp. Sau đó cô nằm xuống bên cạnh. Hai con người, vai kề vai trên hành lang hẹp, đăm đăm nhìn lên bức bích hoạ khổng lồ của Brumidi.

- Được rồi - Katherine thì thầm - Hãy đặt mình vào những bối cảnh - tư duy tương tự... một đứa trẻ nằm dài trên ca nô... nhìn lên các vì sao... tâm trí rộng mở và chan chứa nhiều điều kỳ diệu.

Langdon cố gắng tuân theo, mặc dù vừa duỗi người ra, anh đột nhiên cảm thấy kiệt sức. Mắt bỗng nhoà đi, rồi anh sực tỉnh vì nhận ra một hình dạng câm lặng trên trần. Có lẽ đâu thế? Không hiểu sao trước đây anh chẳng mảy may chú ý đến sự thực là các nhân vật trong bức Sự phong thánh của Washington rõ ràng được bố trí thành hai vòng tròn đồng tâm - một vòng tròn bên tròng một vòng tròn. Bức Sự phong thánh cũng là một bàn huyền điểm ư? Langdon tự hỏi không biết tối nay anh còn bỏ sót những gì.

- Có một chuyện quan trọng em muốn nói với anh, Robert. Còn một chi tiết nữa về tất cả sự việc... một chi tiết thuộc loại kỳ diệu nhất trong các nghiên cứu của em.

Vẫn còn nữa ư?

Katherine chống khuỷu tay nhổm dậy.

- Và em đảm bảo... nếu con người biết nắm bắt chân lý đơn giản này... thì thế giới sẽ thay đổi chỉ sau một đêm.

Langdon tập trung chú ý.

- Có lẽ em nên bắt đầu bằng cách nhắc anh câu thần chú của Hội Tam điểm, đó là "thu thập những thứ tản mát"... để lập lại "trật tự từ trong hỗn loạn"... để tìm ra "nhất thể".

- Em nói tiếp đi - Langdon hào hứng giục.

Katherine mỉm cười nhìn xuống anh.

- Về khoa học, chúng ta đã chứng minh được rằng sức mạnh của tư duy con người tăng lên theo đường cong hàm mũ với các tư duy cùng luồng.

Langdon vẫn im lặng, tự hỏi Katherine định đi đến đâu với ý tưởng này.

- Ý em là, hai bộ óc sẽ tốt hơn một, và không chỉ tốt gấp đôi mà gấp nhiều, nhiều lần. Càng nhiều tư duy cộng hưởng thì hiệu ứng của một suy nghĩ càng tăng mạnh theo đường cong hàm mũ. Đây là sức mạnh vốn có của các nhóm cầu nguyện, các vòng tròn chữa bệnh, của việc hát đồng thanh, và của việc thờ cúng tập thể. Ý tưởng về ý thức vũ trụ không phải là một khái niệm của Kỷ nguyên Mới. Nó là một thực tế khoa học cốt lõi, và việc nắm bắt nó kéo theo tiềm năng biến cải thế giới chúng ta. Đây là phát hiện cơ bản của Lý trí học. Thêm nữa, nó đang xảy ra ngay lúc này. Anh có thể cảm nhận được nó ở quanh anh. Công nghệ đang liên kết chúng ta bằng những phương thức chưa bao giờ chúng ta hình dung được: Twitter(107), Google, Wikipedia, và nhiều thứ khác, tất cả hoà trộn để tạo ra một mạng lưới những bộ óc kết nối với nhau - Cô cười vang - Và em bảo đảm với anh, ngay khi em công bố công trình của mình, cư dân Twitter sẽ tới tấp tweet "học Lý trí học" và môn khoa học này sẽ gây nên một trào lưu quan tâm mạnh mẽ.

Langdon thấy mí mắt nặng trĩu.

- Em biết đấy anh vẫn chưa học được cách gửi một twitter.

- Một tweet(108) - Katherine đính chính và bật cười.

- Anh không hiểu?

- Không sao. Hãy nhắm mắt lại. Em sẽ đánh thức anh khi đến giờ.

Langdon nhận ra anh đã có tất cả nhưng lại quên mất chiếc chìa khoá cũ mà Kiến trúc sư đưa cho, và quên mất tại sao họ lại mò lên tận đây. Một cơn mệt mỏi mới xâm chiếm lấy anh, Langdon nhắm mắt lại. Trong bóng tối tư duy. anh thấy mình đang nghĩ về ý thức vũ trụ, về những bài viết của Plato xoay quanh "tư duy thế giới" và "tập hợp Chúa trời"... về "vô thức tập thể" của Jung. Khái niệm ấy đơn giản đến kinh ngạc.

Người ta tìm thấy Chúa ở tập hợp Nhiều người, chứ không phải chỉ trong Một người.

- Elohim - Langdon bật thốt, anh mở bừng mắt vì nhớ đến một mối liên hệ bất ngờ.

- Sao cơ? - Katherine vẫn chăm chú nhìn xuống anh.

- Elohim - Langdon nhắc lại - Từ ngữ trong tiếng Do Thái cổ để chỉ Chúa trời trong Kinh Cựu ước! Anh đã luôn băn khoăn về nó.

Katherine mỉm cười.

- Đúng. Từ ấy là số nhiều.

Chính xác! Langdon chưa bao giờ hiểu tại sao những đoạn đầu tiên của Kinh thánh lại nói đến Chúa như một thực thể số nhiều. Elohim. Đấng Toàn năng trong Sáng thế ký được mô tả không phải như Một... mà là Nhiều.

- Chúa là số nhiều - Katherine thì thầm - bởi vì những bộ óc của con người là số nhiều.

Dòng suy tưởng của Langdon bắt đầu quay tròn... những giấc mơ, những ký ức, những hy vọng, những sợ hãi, những phát hiện... tất cả cuộn xoáy phía trên anh trong vòm Nhà tròn. Khi nhắm mắt lại, anh thấy mình đang nhìn ba chữ cái tiếng Latin vẽ trên bức Sự phong thánh.

E PLURIBUS UNUM.

- Một, trong rất nhiều - anh nghĩ thầm, và chìm vào giấc ngủ.

Chú thích:

(104) Pistis Sophia (Đức tin trí huệ) là quyển Phúc âm lớn nhất từng được tìm thấy được mang từ Ai Cập tới London và được A. Askew, một bác sĩ kiêm chuyên gia sưu tầm tài liệu cổ mua vào năm 1772.

Nhiều cuộc đàm thoại hấp dẫn giữa Chúa và những đồng tư được ghi lại trong tài liệu này, dài khoảng 11 năm! Quyển Pistis Sophia cũng gồm nhiều bản thánh ca hay và lời cầu nguyện. Đặc biệt, Pistis Sophia đề cập đến thuyết luân hồi, với mục đích giải thoát linh hồn ra khỏi những trói buộc của vật chất, khỏi bánh xe luân hồi. Sự vô minh về thế giới tâm linh được thay thế bằng sự tự do về tâm linh và linh hồn được ban cho khả năng du hành từ trái đất lên thiên đàng, bằng Dòng ánh sáng Thánh thần. "Tất cả các con, hãy đi tìm ánh sáng, để lực lượng linh hồn trong các con sống dậy. Ngày đêm tìm kiếm chớ ngừng nghỉ, kiếm cho tới khi các con thấy những bí ẩn của Thế giới Hào quang, nó sẽ làm các con trong sạch, làm các con thành ánh sáng tinh khiết, và đưa các con vào Thế giới Hào quang". Thể nghiệm này xảy ra trong lúc ngồi thiền một mình và suy tưởng - ND.

(105) Nguyên tác là "temple", vừa có nghĩa là "thánh đường, đền thờ", vừa có nghĩa là "thái dương" - ND.

(106) Trong Ấn Độ giáo và một số nền văn hoá châu Á, một chakra được cho là một nexus của năng lượng tâm linh hay (và) sinh lý ẩn trong cơ thể con người. Trong tiếng Phạn, chakra nghĩa là "bánh xe" hay "vòng tròn", và đôi khi được dùng để chỉ đến "bánh xe của luân hồi", đôi khi còn được gọi là luân xa. Các tín ngưỡng khác nhau miêu tả có từ 5 đến 8 chakra. Các chakra xếp thành một cột thẳng từ gốc của cột sống lên đến đỉnh đầu. Mỗi chakra liên quan tới một số chức năng tâm sinh lý, một khía cạnh của nhận thức, một phần tủ cổ điển (nước, lửa, khí, đất), một màu sắc nào đó và nhiều đặc điểm khác. Chúng thường được hình tượng hoá bằng các hoa sen với số cánh khác nhau. Các chakra được cho là đem lại năng lượng cho cơ thể và có liên quan đến các phản ứng cửa cơ thể, tình cảm hay tâm lý của một người: Chúng được xem là các điểm chứa năng lượng sống, hay prana (hay khí), lưu chuyển giữa các điểm đó dọc theo các đường chảy gọi là nadis. Chức năng của các chakra là xoay tròn để thu hút vào Năng lượng sống từ vũ trụ để giữ cân bằng cho sức khỏe về tâm linh, tâm lý, tình cảm và sinh lý của cơ thể.

Ajna hay là con mắt thứ ba được nối với tuyến tùng. Ajna là chakra của thời gian và nhận thức về ánh sáng, được hình tượng hoá bởi một bông sen hai cánh. Màu sắc: chàm (xanh đậm) - ND.

(107) Twitter là dịch vụ mạng xã hội miễn phí cho phép người sử dụng đọc, nhắn và cập nhật các mẩu tin nhỏ gọi là tweet, một dạng tiểu blog. Những mẩu tweet được giới hạn tối đa 140 ký tự, có thể chỉ là dòng tin vặt cá nhân hoặc những cập nhật thời sự tại chỗ kịp thời và nhanh chóng hơn cả truyền thông chính thống. Giới hạn về độ dài của tin nhắn có tính tương thích với tin SMS (Short Message Service), mang đến cho cộng đồng mạng một hình thức tốc ký đáng chú ý, đã được sử dụng rộng rãi đối với SMS. Giới hạn về ký tự cũng giúp thúc đẩy các dịch vụ thu gọn địa chỉ wchsite như tinyurl, bit.ly và tr.im, hoặc các dịch vụ nội dung tên miền như là Twitpic và NotePub nhằm thu thập các thông tin đa phương tiện và những đoạn dài hơn - ND.

(108) Twitter là dịch vụ mạng xã hội miễn phí cho phép người sử dụng đọc, nhắn và cập nhật các mẩu tin nhỏ gọi là tweet, một dạng tiểu blog. Những mẩu tweet được giới hạn tối đa 140 ký tự, có thể chỉ là dòng tin vặt cá nhân hoặc những cập nhật thời sự tại chỗ kịp thời và nhanh chóng hơn cả truyền thông chính thống. Giới hạn về độ dài của tin nhắn có tính tương thích với tin SMS (Short Message Service), mang đến cho cộng đồng mạng một hình thức tốc ký đáng chú ý, đã được sử dụng rộng rãi đối với SMS. Giới hạn về ký tự cũng giúp thúc đẩy các dịch vụ thu gọn địa chỉ wchsite như tinyurl, bit.ly và tr.im, hoặc các dịch vụ nội dung tên miền như là Twitpic và NotePub nhằm thu thập các thông tin đa phương tiện và những đoạn dài hơn - ND

ĐOẠN KẾT

Robert Langdon gần thức giấc.

Nhiều khuôn mặt đang chăm chú nhìn xuống anh. Mình ở đâu đây?

Nhìn bức tranh trần một lát mới nhớ ra, anh từ từ ngồi dậy, lưng tê dại vì nằm trên hành lang cứng.

Katherine đâu nhỉ?

Langdon giơ chiếc đồng hồ Chuột Mickey của mình lên xem. Gần đến giờ rồi. Anh tự đứng dậy, thận trọng nhìn qua lan can xuống khoảng không phía dưới.

- Katherine? - Langdon gọi to.

Nhà tròn vắng ngắt. Tiếng anh gọi vang vọng trong không gian im ắng.

Langdon nhặt chiếc áo khoác dưới sàn lên, rũ sạch bụi, khoác vào người rồi sờ túi. Chiếc chìa khoá Kiến trúc sư đưa cho đã biến mất.

Anh lần bước trở lại đường đi, tiến ra phía lối thoát mà Kiến trúc sư đã chỉ. Những bậc thang dốc đứng dẫn lên khoảng tối chật chội.

Langdon bắt đầu trèo, càng lúc càng cao. Dần dần, cầu thang trở nên hẹp và dốc hơn. Langdon vẫn nhích lên.

***

Chỉ thêm một chút nữa thôi.

Các bậc thang gần như trở thành một cái thang, lối đi hẹp kinh khủng. Cuối cùng, cầu thang kết thúc, và Langdon bước lên một Chiếu nghỉ nhỏ. Trước mắt anh là cánh cửa sắt nặng nề. Chìa đã nằm trong ổ khoá, và cánh cửa hơi hé ra. Langdon đẩy mạnh, cửa ken két mở rộng. Không khí bên trong khá lạnh. Langdon bước qua ngưỡng cửa và tiến vào khoảng tối mịt mùng, tới đây anh mới nhận ra mình đang ở ngoài trời.

- Em vừa định quay lại đón anh, - Katherine mỉm cười đánh tiếng - Gần đến giờ rồi.

Khi nhận ra không gian xung quanh, Langdon hít một hơi sững sờ. Anh đang đứng trên lối đi lộ thiên nhỏ xíu bao quanh đỉnh mái vòm Điện Capitol. Trên đầu anh, tượng đồng Thần tự do chăm chắm nhìn qua thành phố đang say ngủ, dõi mắt về hưởng đông, nơi những vệt màu tía đầu tiên của buổi bình mình bắt đầu hửng lên ở đường chân trời.

Katherine dẫn Langdon đi vòng quanh ban công cho tới khi nhìn ra phía tây, thẳng hướng Công viên Quốc gia. Đằng xa, bóng Đài tưởng niệm Washington hiện rõ trong ánh sáng ban mai: Từ góc độ này, cột tháp cao vút trông càng ấn tượng hơn.

- Hồi thi công - Katherine thì thầm - đó là công trình cao nhất hành tinh.

Langdon nhớ tới những bức ảnh ngả vàng chụp thợ nề trên giàn giáo cao hơn 150 mét so với mặt đất, đang lần lượt đặt từng viên gạch.

Chúng ta là những người xây dựng, anh nghĩ. Chúng ta là những đấng sáng tạo.

Từ buổi bình minh của lịch sử, con người đã cảm thấy bản thân mình có điều đặc biệt... hoặc hơn thế. Họ thèm khát những sức mạnh ngoài tầm tay. Họ mơ ước biết bay, biết chữa bệnh, và mơ đủ khả năng biến cải thế giới theo bất kỳ cách nào nghĩ ra được.

Và con người đã làm như vậy.

Ngày nay, những thánh điện dành để tôn vinh chiến công của con người đang tô điểm cho Công viên Quốc gia. Các bảo tàng Smithsonian vươn lên với bao sáng chế, nghệ thuật, khoa học và cả những tư tưởng vĩ đại. Chúng kể về lịch sử của loài người với tư cách là đấng sáng tạo, từ những công cụ bằng đá trong Bảo tàng Lịch sử Mỹ quốc Bản địa tới những chiếc máy bay phản lực và tên lửa trong Bảo tàng Không quân và Vũ trụ Quốc gia.

Nếu tổ tiên mà nhìn thấy chúng ta ngày nay, chắc chắn họ sẽ nghĩ chúng ta là thần thánh.

Langdon nhìn xuyên qua màn sương buổi sớm, sang phía dãy bảo tàng và đài tưởng niệm trước mặt, ánh mắt anh tự động hướng vào Đài tưởng niệm Washington. Anh hình dung ra cuốn Kinh thánh nằm trong hòn đá móng và ngẫm nghĩ về việc Từ ngữ của Chúa chính là từ ngữ của con người.

Langdon nghĩ về bàn huyền điểm vĩ đại, về cách người ta bố trí nó trên quảng trường hình tròn dưới chân Đài tưởng niệm, ngay giao lộ của nước Mỹ. Anh đột nhiên nghĩ đến cái hộp đá nhỏ nhắn mà Peter gửi gắm ngày xưa. Bây giờ cái hộp lập phương đó đã bung bản lề và mở toang để tạo ra chính xác hình một cây thập tự với bàn huyền điểm ở chính giữa. Langdon bật cười. Đến cái hộp bé xíu ấy cũng gợi ý về giao lộ.

- Robert, trông kìa! - Katherine trỏ lên chóp đài tưởng niệm.

Langdon ngước mắt trông nhưng không thấy gì. Sau đó, nhìn kỹ hơn, anh loáng thoáng nhận ra.

Bên kia Công viên, một đốm mặt trời vàng rực nhỏ xíu đang toả rạng từ đỉnh cao nhất của cột tháp vĩ đại. Điểm sáng mỗi lúc một rực rỡ, toả rộng hơn, lấp lánh trên phần đỉnh bằng nhôm của cái chóp. Langdon sững sờ theo dõi, ánh sáng dần dần biến đôi thành một cột đèn hiệu vươn cao bên trên thành phố vẫn chìm trong bóng tối. Langdon nhớ đến dòng chữ khắc nhỏ xíu trên mặt phía đông của cái chóp nhôm và kinh ngạc nhận ra rằng hằng ngày, những tia nắng đầu tiên chạm tới thủ đô của cả nước là chạm lên hai từ đang toả sáng kia:

Laus Deo.

- Robert - Katherine thì thầm - Chưa ai leo lên tận đây vào lúc bình mình. Đây là cảnh anh Peter muốn chúng ta chứng kiến.

Ánh sáng trên đỉnh đài tưởng niệm chói chang dần. Langdon cảm thấy mạch đập của mình rộn ràng theo.

- Peter tin rằng đây là lý do khiến các bậc tiền nhân xây dựng đài tưởng niệm cao đến vậy. Chẳng rõ có đúng không, nhưng có một đạo luật rất cổ quy định rằng ở thủ đô, không được phép xây công trình nào cao hơn đài tưởng niệm nữa. Mãi mãi.

Khi mặt trời từ từ nhô cao ở phía chân trời đằng sau lưng họ, vùng sáng cũng nhích dần xuống cái chóp. Trong lúc đứng ngắm, Langdon gần như cảm nhận được các thiên quyển đang luân chuyển theo quỹ đạo vĩnh hằng của chúng qua vũ trụ mênh mông xung quanh anh.

Anh nghĩ đến vị Kiến trúc sư vĩ đại của Vũ trụ và việc Peter đã nói rất cụ thể rằng kho báu mà ông muốn cho Langdon xem chỉ có thể do Kiến trúc sư tiết lộ mà thôi. Langdon đã tưởng rằng đó là Warren Bellamy. Hoá ra không phải.

Khi những tia nắng kéo dài ra, vầng sáng vàng lan xuống toàn bộ cái chóp nặng đúng 3.300 pound. Trí tuệ con người... đang nhận lấy sự khai sáng. Sau đó, ánh sáng bắt đầu toả rộng khắp Đài tưởng niệm, hệt như mọi buổi sáng khác. Thiên đàng giáng thế... Chúa gắn kết với con người. Langdon nhận ra rằng quá trình này sẽ đảo ngược vào buổi chiều. Mặt trời chìm xuống phía tây, và ánh sáng lại đi từ trái đất ngược lên bầu trời... chuẩn bị cho một ngày mới.

Bên cạnh anh, Katherine rùng mình và nhích tới gần hơn. Langdon vòng tay ôm lấy cô. Hai người im lặng đứng bên nhau, Langdon hồi tưởng mọi điều anh tiếp nhận được từ tối đến giờ. Anh nghĩ đến niềm tin của Katherine rằng mọi thứ sẽ thay đổi. Anh nghĩ đến niềm tin của Peter rằng một kỷ nguyên khai sáng sắp đến, và anh nghĩ đến những lời của một nhà tiên tri vĩ đại từng mạnh dạn tuyên bố: "Chẳng có gì giấu giếm được mãi, và cũng chẳng có bí mật nào lại không lộ ra ánh sáng".

Khi mặt trời lên cao trên Washington, Langdon ngước nhìn bầu trời, nơi những vì sao đêm cuối cùng đang nhạt dần. Anh nghĩ về khoa học, về tín điều, về con người. Anh nghĩ về thực tế là mọi nền văn hoá ở mọi quốc gia và mọi thời đại đều luôn cùng chia sẻ một điều. Tất cả chúng ta đều có Đấng sáng tạo. Chúng ta dùng những tên gọi khác nhau, gương mặt khác nhau, và những lời cầu nguyện khác nhau, nhưng Chúa vẫn là bất biến với con người. Chúa là biểu tượng chung của toàn nhân loại... biểu tượng của tất cả những bí ẩn trong cuộc sống mà chúng ta chưa thể hiểu được. Cổ nhân ca ngợi Chúa như một biểu tượng của tiềm năng con người vô hạn trong chúng ta, nhưng chính biểu tượng cổ xưa đó lại bị thất truyền theo thời gian. Cho tới bây giờ.

Lúc này, đứng trên nóc Điện Capitol, với hơi ấm của mặt trời toả xuống xung quanh, Robert Langdon nhận ra một cảm giác mạnh mẽ trào lên trong mình. Một cảm giác thấm thía chưa từng thấy trong suốt cuộc đời anh.

Đó là Niềm hy vọng.

HẾT

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: