nho lai va suy nghi
Zhukov
NHỚ LẠI VÀ SUY NGHĨ
Chương 10
CHIẾN TRANH BẮT ĐẦU
ĐÊM 21 rạng 22 tháng 6 năm 1941, tất cả các cán bộ Bộ Tổng tham mưu và Bộ Ủy viên nhân dân quốc phòng được lệnh ở lại nơi làm việc. Cần cấp tốc truyền tới các quân khu chỉ thị chuyển bộ đội đóng gần biên giới sang tư thế sẵn sàng chiến đấu. Lúc này tôi và Ủy viên nhân dân quốc phòng liên tiếp nói chuyện với tư lệnh và tham mưu trưởng các quân khu, các đồng chí đó cho chúng tôi biết, có nhiều tiếng động mỗi lúc một tăng ở phía bên kia biên giới. Các tin này do các chiến sĩ biên phòng và các đơn vị bảo vệ tiền tiêu báo cáo về.
Khoảng 12 giờ đêm ngày 21-6, tư lệnh Quân khu Ki-ép M.P. Kiếc-pô-nô-xơ tại sở chỉ huy ở Téc-nô-pôn báo cáo, ngoài người lính Đức chạy sang mà tướng M.A. Puốc-ca-ép đã báo cáo, có thêm một lính Đức nữa thuộc trung đoàn bộ binh 222, sư đoàn bộ binh 74, chạy sang ta. Người này bơi qua một con sông nhỏ, tìm tới các chiến sĩ biên phòng và nói rằng, quân đội Đức sẽ tiến công vào 4 giờ sáng. M.P. Kiếc-pô-nô-xơ được lệnh khẩn cấp đưa quân đội vào tư thế sẵn sàng chiến đấu.
Mọi việc đều chứng tỏ rằng quân Đức đang tiến gần hơn đến biên giới. Chúng tôi báo cáo tình hình đó với I.V. Xta-lin vào lúc 0 giờ 30 phút đêm. I.V. Xta-lin hỏi, chỉ thị cho các quân khu đã truyền đi chưa. Tôi trả lời là đã.
Sau khi I.V. Xta-lin tạ thế, đã xuất hiện những giả thuyết rằng, trong đêm 21 rạng 22 tháng 6, một số tư lệnh cùng với bộ tham mưu của họ nằm ngủ ngon lành hoặc bình thản vui chơi coi như không có điều gì đáng lo ngại cả. Điều đó không đúng với sự thật Đêm hòa bình cuối cùng hoàn toàn khác hẳn. Như tôi đã nói, Ủy viên nhân dân quốc phòng và tôi, khi từ Crem-lanh trở về, đã nói chuyện nhiều lần với các tư lệnh quân khu - Ph.I. Cu-dơ-nét-xốp, Đ.G. Páp-lốp. M.P. Kiếc-pô-nô-xơ và các tham mưu trưởng các quân khu đó, các đồng chí này đều có mặt ở các sở chỉ huy của mình.
Lúc gần sáng 22-6, Ủy viên nhân dân quốc phòng X.K. Ti-mô-sen-cô, N.Ph. Va-tu-tin và tôi đều có mặt tại phòng làm việc của Ủy viên nhân dân quốc phòng.
Hồi 3 giờ 17 phút, tư lệnh Hạm đội Biển Đen, đô đốc Ph.X. Óc-chi-a-brơ-xki gọi dây nói cho tôi, báo: "Hệ thống cảnh giới của hạm đội báo cáo, ở phía bên kia biển có một số lớn máy bay không rõ của nước nào đang tiến tới gần, hạm đội hiện ở trong tư thế hoàn toàn sẵn sàng chiến đấu. Tôi chờ lệnh".
Tôi hỏi đô đốc:
- Quyết tâm của đồng chí thế nào?
- Chỉ có một quyết tâm: đón các máy bay đó bằng hỏa lực phòng không của hạm đội.
Sau khi bàn với X.K. Ti-mô-sen-cô, tôi trả lời Ph.X. Óc-chi-a-brơ-xki:
- Đồng chí cứ xử trí đi và báo cáo với đồng chí Ủy viên nhân dân hải quân.
Lúc 3 giờ 30 phút, tham mưu trưởng Quân khu miền Tây, tướng V.E. Cli-mốp-xkích báo cáo, không quân Đức tấn công các thành phố thuộc Bê-lô-ru-xi. Ba phút sau, tham mưu trưởng Quân khu Ki-ép, tướng M.A. Puốc-ca-ép báo cáo, máy bay Đức tấn công các thành phố biên giới U-crai-na. Lúc 3 giờ 40 phút, tư lệnh Quân khu Pri-ban-tích, tướng Ph.I. Cu-dơ-nét-xốp gọi dây nói báo cáo, không quân địch tấn công Cau-na-xơ và các thành phố khác.
Ủy viên nhân dân quốc phòng chỉ thị cho tôi gọi dây nói tới I.V. Xta-lin. Tôi gọi. Không có ai trả lời. Tôi gọi liên tiếp. Cuối cùng tôi nghe thấy giọng ngái ngủ của tướng trực ban Cục bảo vệ. Tôi yêu cầu mời I.V. Xta-lin tới máy nói.
Ba phút sau I.V. Xta-lin tới máy.
Tôi báo cáo tình hình và đề nghị cho phép bắt đầu đánh trả. I.V. Xta-lin im lặng. Tôi chỉ nghe thấy hơi thở của I.V. Xta-lin.
- Đồng chí hiểu tôi chứ ạ?
Lại im lặng.
Cuối cùng, I.V. Xta-lin hỏi:
- Ủy viên nhân dân quốc phòng đâu?
- Đồng chí Ủy viên nhân dân quốc phòng đang nói chuyện với Quân khu Ki-ép.
- Mời đồng chí cùng với Ti-mô-sen-cô tới Crem-lanh. Đồng chí báo Pô-xcơ-rê-bư-sép triệu tập tất cả các đồng chí ủy viên Bộ chính trị về họp.
Lúc 4 giờ, tôi lại nói chuyện với Ph.X. Óc-chi-a-brơ-xki. Ph.X. Óc-chi-a-brơ-xki với giọng bình tĩnh, báo cáo:
- Cuộc tấn công của máy bay địch bị đánh lui. Âm mưu của địch đánh vào các tàu chiến ta bị đập tan. Nhưng trong thành phố có bị tàn phá.
Tôi muốn nêu lên rằng, Hạm đội Biển Đen do đô đốc Ph.X. Óc-chi-a-brơ-xki chỉ huy, là một trong số những đơn vị đầu tiên của ta đã đối phó một cách có tổ chức chống lại cuộc tấn công của địch.
Lúc 4 giờ 10 phút, các Quân khu miền Tây và Pri-ban-tích báo cáo, quân Đức bắt đầu đánh vào các khu vực đất liền thuộc quân khu.
Lúc 4 giờ 30 phút sáng, tất cả các ủy viên Bộ chính trị được triệu tập đã tới đủ. Ủy viên nhân dân quốc phòng và tôi được mời vào phòng làm việc.
I.V. Xta-lin sắc mặt tai tái ngồi bên bàn, tay cầm tẩu thuốc lá nhét đầy thuốc. I.V. Xta-lin nói:
- Cần phải gọi ngay điện thoại tới đại sứ quán Đức.
Ở đại sứ quán trả lời rằng đại sứ Đức, bá tước Su-len-bua đề nghị được gặp để thông báo khẩn cấp.
V M. Mô-lô-tốp được giao trách nhiệm gặp đại sứ Đức.
Lúc này Phó Tổng tham mưu trưởng thứ nhất, tướng N.Ph Va-tu-tin báo tin rằng, bộ binh Đức tại nhiều địa điểm trên các hướng tây-bắc và tây đã chuyển sang tấn công, sau khi cho pháo binh bắn mãnh liệt.
Một lúc sau V.M. Mô-lô-tốp bước nhanh vào phòng.
- Chính phủ Đức tuyên chiến với chúng ta.
I.V. Xta-lin ngồi xuống ghế và đăm chiêu suy nghĩ.
Im lặng kéo dài, nặng nề.
Tôi đánh bạo phá sự im lặng và đề nghị ngay tức khắc dùng tất cả các lực lượng hiện có ở các quân khu miền biên giới đánh lại các đơn vị quân địch đã xâm nhập và chặn bước tiến của chúng.
- Không phải là để chặn, mà là để tiêu diệt, - X.K. Ti-mô-sen-cô bổ sung.
- Các đồng khí thảo chỉ thị đi, - I.V. Xta-lin nói.
Lúc 7 giờ 15 phút ngày 22-6, chỉ thị số 2 của Ủy viên nhân dân quốc phòng được truyền tới các quân khu. Nhưng theo tương quan lực lượng và tình hình đã diễn ra khi đó, rõ ràng là chỉ thị không sát với thực tế, và vì vậy đã không thực hiện dược.
Một lúc sau chúng tôi được biết rằng, tảng sáng ngày 22-6, tại tất cả các quân khu gần biên giới phía tây, đường liên lạc dây với các đơn vị bị đứt nên các bộ tham mưu các quân khu và các tập đoàn quân đã không thể nhanh chóng truyền đi các mệnh lệnh của mình. Bọn gián điệp và các đội biệt kích phá hoại do Đức tung vào lãnh thổ ta, đã phá đường dây, giết các chiến sĩ liên lạc và định giết các cán bộ chỉ huy đi lại trong khi báo động. Như tôi đã nói, phần lớn các đơn vị quân đội các quân khu gần biên giới không có phương tiện liên lạc vô tuyến.
Các bộ tham mưu quân khu bắt đầu nhận được từ nhiều nguồn đủ các loại tin tức mâu thuẫn nhau, phần nhiều có tính chất khiêu khích.
Về phần mình, Bộ Tổng tham mưu không thể nhận được những tin tức chính xác của các bộ tham mưu quân khu và các đơn vị, và đương nhiên điều đó không thể không làm cho Bộ Tổng tư lệnh và Bộ Tổng tham mưu trong lúc nào đó gặp những khó khăn.
Đến 8 giờ ngày 22-6, Bộ Tổng tham mưu đã xác định được rằng:
- Máy bay ném bom địch đã đánh mạnh nhiều sân bay các Quân khu Bê-lô-ru-xi, Ki-ép và Pri-ban-tích, làm tổn hại nghiêm trọng, trước nhất là bộ phận không quân chưa kịp cất cánh, phân tán về các sân bay dã chiến;
- Nhiều thành phố và các đoạn đường sắt ở Pri-ban-tích, Bê-lô-ru-xi, U-craì-na, các căn cứ hải quân ở Xê-va-xtô-pôn và Pri-ban-tích bị ném bom;
- Có nhiều trận đánh ác liệt với bộ binh Đức ở suốt dọc biên giới của ta ở phía tây. Tại nhiều nơi quân Đức đã đánh nhau với các đơn vị tiền tiêu của Hồng quân;
- Các đơn vị khinh binh thuộc tuyến một sau khi báo động, đã tham chiến trong hành tiến, không kịp chiếm các vị trí đã chuẩn bị;
- Các vùng thuộc Quân khu Lê-nin-grát hiện vẫn yên tĩnh, quân địch chưa hành động gì.
X.K. Ti-mô-sen-cô gọi dây nói tới I.V. Xta-lin đề nghị được phép tới Crem-lanh trình bày bản dự thảo sắc lệnh của Đoàn chủ tịch Xô-viết tối cao về việc động viên trong nước, đề án thành lập Bộ Tổng tư lệnh và nhiều vấn đề khác.
Đến 9 giờ, Ủy viên nhân dân quốc phòng và tôi tới Crem-lanh. Nửa giờ sau, I.V. Xta-hn tiếp chúng tôi.
Sau khi nghe báo cáo tình hình, I V. Xta-lin nói:
- 12 giờ, V.M .Mô-lô-tốp sẽ phát biểu trên đài phát thanh.
Khi thông qua dự thảo sắc lệnh động viên, I.V. Xta-ìin đã rút ngắn một số điều khoản do Bộ Tổng tham mưu đề nghị. Sau đó dự thảo được giao cho A.N. Pô-xcơ-rê-bư-sép đưa lên Đoàn chủ tịch Xô-viết tối cao phê chuẩn. Sắc lệnh công bố lệnh, từ ngày 23-6 động viên nhập ngũ những người sinh các năm 1905 đến 1918 trên phạm vi 14 quân khu, tức là gần hết các quân khu chỉ trừ các quân khu Trung Á, Da-bai-can và Viễn Đông, đồng thời tuyên bố tình trạng chiến tranh ở phần châu Âu của đất nước. Tại đây tất cả các chức năng cơ quan chính quyền nhà nước về phòng thủ, bảo vệ trật tự xã hội và bảo đảm an ninh quốc gia đều được chuyển sang các cơ quan quân sự. Các cơ quan quân sự có quyền huy động nhân dân lao động, tất cả các phương tiện giao thông để phục vụ công việc phòng thủ và bảo vệ các mục tiêu quân sự và kinh tế quốc dân quan trọng nhất.
I.V. Xta-lin giữ lại bản dự án quyết định thành lập Bộ Tổng tư lệnh, nói rằng, để đưa ra Bộ chính trị thảo luận.
Ngày 23-6 được công bố thành phần Bộ Tổng tư lệnh, có sửa đổi ít nhiều so với đề nghị của chúng tôi. Ủy viên nhân dân quốc phòng không được thỏa thuận trước về những sửa đổi này, mà lẽ ra thì nên chấp nhận bản dự thảo của chúng tôi trong đó có đề nghị cử I.V. Xta-hn giữ chức Tổng tư lệnh.
Bởi vì theo thể thức hiện hành thì dù thế nào, nếu không có ý kiến của I.V. Xta-ìin, Ủy viên nhân dân quốc phòng X.K. Ti-mô-sen-cô cũng không thể tự mình thông qua những quyết định quan trọng. Thành ra có hai vị Tổng tư lệnh: Ủy viên nhân dân X.K. Ti-mô-sen-cô về pháp lý theo sắc lệnh, và I.V. Xta-lin - về thực tế. Điều đó khó cho công việc điều khiển quân đội và đương nhiên làm mất thêm thời gian trong khi ra các quyết định và mệnh lệnh. Chúng tôi cũng đề nghị trong thành phần Bộ Tổng tư lệnh có cả Phó Tổng tham mưu trưởng thứ nhất N. Ph. Va-tu-tin. I.V. Xta-lin không đồng ý.
Theo quyết định của Ban chấp hành trung ương Đảng và Hội đồng Ủy viên nhân dân Liên Xô, Đại bản doanh Bộ Tổng tư lệnh được thành lập gồm có Ủy viên nhân dân quốc phòng X.K. Ti-mô-sen-cô (Chủ tịch), Tổng tham mưu trưởng, tướng G.K. Giu-cốp, I.V. Xta-lin, V M. Mô-lô-tốp, các nguyên soái K.E. Vô-rô-si-lốp và X.M. Bu-đi-on-nưi, Ủy viên nhân dân hải quân, đô đốc N.G. Cu-dơ-nép-xốp.
Ngày 22-6, các Quân khu đặc biệt Pri-ban-tích, miền Tây và Ki-ép được tổ chức lại thành các Phương diện quân Tây-bắc, Tây và Tây-nam.
Khoảng 13 giờ ngày 22-6, I.V. Xta-lin gọi dây nói cho tôi và nói:
- Các tư lệnh phương diện quân của chúng ta chưa có đủ kinh nghiệm lãnh đạo quân đội chiến đấu, do đó chắc là có phần lúng túng. Bộ Chính trị quyết định cử đồng chí tới Phương diện quân Tây-nam với tư cách là đại diện Đại bản doanh Bộ Tổng tư lệnh. Chúng tôi sẽ cử nguyên soái Sa-pô-sni-cốp và nguyên soái Cu-lích tới Phương diện quân miền Tây. Tôi đã mời Sa-pô-sni-cốp và Cu-lích tới gặp và đã ra chỉ thị. Đồng chí cần đi máy bay ngay tới Ki-ép rồi từ đó cùng với Khơ-rút-xốp đến Bộ tư lệnh Phương diện quân ở Téc-nô-pôn.
Tôi hỏi:
- Vậy trong tình hình phức tạp hiện nay ai sẽ lãnh đạo Bộ Tổng tham mưu?
I.V. Xta-lin trả lời:
- Giao cho đồng chí Va-tu-tin thay.
Sau đó I.V. Xta-lin có phần hơi bực dọc, nói thêm:
- Đừng để mất thời gian, chúng tôi ở đây sẽ liệu thu xếp.
Tôi gọi dây nói về nhà bảo đừng chờ tôi, và khoảng 40 phút sau tôi đã ở trên không. Bấy giờ tôi mới nhớ ra là chưa ăn gì từ hôm qua. Các phi công đã lo giúp tôi, mời tôi nước chè đặc và bánh mì có nhân.
Cuối ngày tôi mới tới Ki-ép, đến Ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản U-crai-na, ở đây N.X. Khơ-rút-xốp đã chờ tôi. N.X. Khơ-rút-xốp nói rằng, đi máy bay thêm nữa sẽ nguy hiểm. Bọn phi công Đức săn các máy bay vận tải. Cần phải đi bằng ô-tô. Sau khi nhận được tin tức cuối cùng về tình hình do N.Ph. Va-tu-tin thông báo, chúng tôi đi Téc-nô-pôn, tới sở chỉ huy của tư lệnh Phương diện quân Tây-nam, lúc đó là thượng tướng M.P. Kiếc-pô-nô-xơ.
Chúng tôi tới sở chỉ huy lúc đêm khuya, ngay lúc đó tôi nói chuyện với N.Ph. Va-tu-tin theo đường liên lạc riêng.
Ni-cô-lai Phê-đô-rô-vích Va-tu-tin cho tôi biết những việc như sau:
- Đến cuối ngày 22-6, mặc dù có những biện pháp tích cực Bộ Tổng tham mưu vẫn không thể nhận được từ các bộ tham mưu phương diện quân, tập đoàn quân và bộ đội phòng không tin tức chính xác về quân ta và quân địch, Những tin nói về chiều sâu xâm nhập của quân địch vào lãnh thổ nước ta khá trái ngược nhau. Không có những số liệu chính xác về những tổn thất trong không quân và quân trên bộ. Chỉ mới biết rằng không quân Quân khu miền Tây bị thiệt hại rất lớn. Bộ Tổng tham mưu và ủy viên nhân dân quốc phòng không thể liên lạc được với các tư lệnh phương diện quân, thượng tướng Ph.I. Cu-dơ-nét-xốp và đại tướng Đ.G. Páp-lốp, các đồng chí này xuống các đơn vị ở chỗ nào đó mà không báo cáo với Ủy viên nhân dân quốc phòng. Các bộ tham mưu phương diện quân không biết lúc này tư lệnh của họ ở đâu.
Theo tài liệu của cơ quan trinh sát không quân, các trận đánh đang diễn ra ở các khu phòng thủ vững chắc của ta và có nơi ở sâu 15 - 20 km trong lãnh thổ nước ta. Các bộ tham mưu phương diện quân cố bắt liên lạc trực tiếp với các đơn vị song không có kết quả bởi vì đa số các tập đoàn quân và các quân đoàn độc lập không có liên lạc đường dây cũng như không có hên lạc vô tuyến với phương diện quân.
Tiếp đó, N.Ph. Va-tu-tin nói rằng, I.V Xta-lin đã thông qua dự thảo chỉ thị số 3 của Ủy viên nhân dân quốc phòng và bảo ghi chữ ký của tôi vào.
- Chỉ thị về việc gì vậy? - Tôi hỏi.
- Chỉ thị cho quân ta chuyển sang phản công với nhiệm vụ đánh tan quân địch tại các hướng chủ yếu nhất, thêm nữa, vượt sang lãnh thổ quân địch.
- Nhưng chúng ta còn chưa biết chính xác quân địch đánh ở đâu và dùng lực lượng như thế nào - tôi nói. - Tốt hơn là chờ đến sáng để xem xét rõ tình hình ở mặt trận ra sao rồi khi ấy sẽ có quyết định cần thiết.
- Tôi tán thành ý kiến của đồng chí, nhưng vấn đề đã được quyết định rồi.
- Được, - tôi nói, - đồng chí ghi chữ ký của tôi vào.
Gần 12 giờ đêm chỉ thị này được truyền tới tư lệnh Phương diện quân Tây-nam. Như tôi đã dự đoán, tham mưu trưởng phương diện quân M.A. Puốc-ca-ép tỏ vẻ rất không đồng ý với chỉ thị. M.A. Puốc-ca-ép cho rằng phương diện quân không có lực lượng và phương tiện để thi hành chỉ thị này.
Tình hình được đem ra thảo luận tỉ mỉ tại Hội đồng quân sự phương diện quân. Tôi đề nghị với M.P. Kiếc-pô-nô-xơ, ngay tức khắc ra mệnh lệnh sơ bộ tập trung các quân đoàn cơ giới để phản kích vào bộ phận chủ lực của cụm tập đoàn quân "Nam" đã lọt vào vùng Xô-can, điều toàn bộ không quân của phương diện quân và một phần không quân ném bom tầm xa thuộc Bộ Tổng tư lệnh vào tham gia phản kích. Bộ tư lệnh và bộ tham mưu phương diện quân, sau khi nhanh chóng thảo các chỉ lệnh chiến đấu sơ bộ, đã truyền những văn kiện này tới các tập đoàn quân và các quân đoàn.
Cần phải nêu lên tinh thần kỷ luật cao và tài tổ chức xuất sắc của tham mưu trưởng phương diện quân M.A Puốc-ca-ép và trưởng phòng tác chiến bộ tham mưu phương diện quân I.Kh. Ba-gra-mi-an đã thể hiện trong tình hình rất phức tạp này của ngày đầu chiến tranh.
Lúc 9 giờ sáng ngày 23-6, chúng tôi tới sở chỉ huy của tư lệnh quân đoàn cơ giới 8, trung tướng Đ.I. Ri-a-bư-sép. Tôi biết rõ trung tướng từ hồi làm việc ở Quân khu đặc biệt Ki-ép. Trông vẻ ngoài của tư lệnh quân đoàn và các cán bộ chỉ huy bộ tham mưu là đã đoán ra được ngay, họ đã qua một cuộc hành binh không dễ dàng gì. Họ đã đi rất nhanh từ khu Đrô-gơ-bứt đến khu Brô-đa và tinh thần anh em vẫn phấn chấn. Nhìn Đ.I.Ri-a-bư-sép và các cán bộ chỉ huy bộ tham mưu, tôi nhớ lại lữ đoàn xe tăng 11, người chỉ huy của nó - lữ đoàn trưởng dũng cảm M.P. Ya-cốp-lép - và trận họ đã đánh tan quân địch năm 1939 gần núi Ba-in Xa-gan ở Khan-khin Gôn.
"Những người này sẽ chiến đấu không kém hơn, - tôi nghĩ. - Miễn là cuộc phản kích không bị chậm...".
Đ.I. Ri-a-bư-sép chỉ vào bản đồ bố trí quân của quân đoàn, vắn tắt báo cáo về tình hình các đơn vị.
- Quân đoàn cần một ngày đêm để tập trung đủ quân, ổn định phần vật chất và bổ sung lượng dự trữ, - Đ.I. Ri-a-bư-sép nói, - trong một ngày đêm này sẽ tiến hành trinh sát chiến đấu và tổ chức chỉ huy. Như vậy là quân đoàn có thể sẵn sàng chiến đấu với toàn bộ lực lượng của mình vào sáng ngày 24-6.
- Được, - tôi trả lời. - Tất nhiên tốt hơn là cùng phản kích với các quân đoàn cơ giới 9, 19 và 22, nhưng tiếc là các quân đoàn đó từ địa điểm xuất phát lên đường chậm. Tình hình không cho phép chúng ta chờ đến lúc tập trung đầy đủ các quân đoàn. Quân địch có thể dùng lực lượng mạnh xe tăng và pháo chống tăng để đánh lại cuộc phản kích của quân đoàn cơ giới 8. Do đó, cần phải điều tra tỉ mỉ địa hình và quân địch.
Đ.I. Ri-a-bư-sép vừa định nói gì đó với tôi thì có hiệu lệnh: "Máy bay địch!".
- Thế đấy, - Đơ-mi-tơ-ri I-va-nô-vích Ri-a-bư-sép thản nhiên nói, - chúng tôi chưa kịp đào hầm trú ẩn. Báo cáo đồng chí đại tướng, đồng chí với tôi đành phải tưởng tượng là chúng ta đang nấp trong hầm.
- Đơ-mi-tơ-n I-va-nô-vích, vừa rồi đồng chí định nói gì?
- Tôi định đề nghị, hay là, chúng ta ăn uống một tí.
- Ý kiến hay. Trên xe tôi có thức ăn đấy.
Tham mưu trưởng quân đoàn và các cán bộ chỉ huy khác của bộ tham mưu bước vào trong lều. Họ chưa kịp tự giới thiệu thì đã nghe thấy tiếng rú của máy bay ném bom Đức đang lao xuống và những tiếng bom nổ. Tôi nhìn Đ.I. Ri-a-bư-sép và các cán bộ chỉ huy. Trên nét mặt họ chỉ thấy có sự tập trung vào công việc. Thái độ của họ cũng tựa như trong các cuộc tập trận trước kia.
"Giỏi, - tôi nghĩ. - Có những con người như thế này, chúng ta không thể thua trong chiến tranh được...".
Đến tối, sau khi bàn bạc với tư lệnh quân đoàn về các vấn đề quan trọng, chúng tôi trở về sở chỉ huy của phương diện quân ở Téc-nô-pôn.
Tham mưu trưởng phương diện quân, trung tướng M.A. Puốc-ca-ép và tư lệnh phương diện quân, thượng tướng M.P. Kiếc-pô-nô-xơ báo cáo:
- Trên tất cả các khu vực của phương diện quân đều có giáp chiến. Trận đánh chủ yếu ác liệt nhất diễn ra ở khu Brô-đa - Đúp-nô - Vla-đi-mia Vô-lưn-xcơ. Các quân đoàn cơ giới 9 và 19 ngày 25-6 đang tiến vào các khu rừng ở Rốp-nô. Chúng tôi đã quyết định, - tư lệnh phương diện quân nói, - ngày 24-6, không cần chờ tập trung đủ các quân đoàn, sẽ bắt đầu phản kích vào Clê-van và Đúp-nô. Tư lệnh tập đoàn quân 5, để lại quân đoàn cơ giới 22 phải chỉ huy thống nhất các đơn vị còn lại là quân đoàn 9 và 19, giúp đỡ các quân đoàn đó mọi sự cần thiết.
Quyết định đó hợp lý, tôi đồng ý với tư lệnh phương diện quân, song tôi đề nghị, kiểm tra lại việc bảo đảm hợp đồng giữa các quân đoàn với không quân của phương diện quân.
Ngày 24-6, quân đoàn cơ giới 8 của Đ.I. Ri-a-bư-sép chuyển sang phản kích ở hướng vào Bê-rê-xtếch-cô. Chúng tôi đặt nhiều hy vọng vào quân đoàn này. Nó được kiện toàn tốt hơn các quân đoàn khác về kỹ thuật xe tăng mới và được huấn luyện khá.
Quân đoàn cơ giới 15 dưới sự chỉ huy của tướng I.I. Các-pê-dô tấn công ở phía đông Ra-đê-khốp. Ngay sau đó bọn Đức đã được nếm đòn của các quân đoàn này, thấm đòn nhất đối với chúng là các cú đánh có hiệu quả của quân đoàn cơ giới 8. Điều đó xảy ra đặc biệt sau khi ta đã đánh tan sư đoàn bộ binh 57 bảo vệ sườn bên phải quân đoàn mô-tô 48 thuộc tập đoàn quân của Clây-xtơ.
Ngày hôm đó quân đoàn mô-tô 48 của Đức bị lâm vào tình thế khá gay go, và bọn Hít-le đã buộc phải tung toàn bộ lực lượng không quân của chúng ra chống lại cuộc phản công của ta mới cứu chúng khỏi nguy cơ bị đánh tan Quân địch buộc phải đưa thêm quân đoàn 44 và các đơn vị khác vào đối phó với các đơn vị Quân đội Xô-viết.
Dưới đây là những điều mà Tổng tham mưu trưởng lục quân Đức, thượng tướng Gan-đe đã ghi ở nhật ký công tác trong ngày đó:
"Đối phương mỗi lúc càng đưa thêm nhiều lực lượng mới từ phía sau đến để chống lại mũi dao nhọn bằng xe tăng của ta ... Như đã dự đoán, họ dùng số lớn xe tăng chuyển sang tấn công vào sườn phía nam đạo quân xe tăng thứ nhất. Ở một số khu vực thấy có sự di chuyển".
Như vậy là quân đội Phương diện quân Tây-nam đã thực hiện có kết quả một trong những trận phản kích đầu tiên vào quân địch. Sức mạnh của nó còn có thể lớn hơn nữa nếu như bộ tư lệnh phương diện quân có không quân mạnh để phối hợp với các quân đoàn cơ giới và có thêm lực lượng, dù chỉ 1 - 2 quân đoàn khinh binh.
Ở sở chỉ huy Phương diện quân Tây-nam, chúng tôi tập trung sự chú ý chính vào hướng Đúp-nô, nơi diễn ra những trận đánh chủ yếu ở U-crai-na.
Qua các cuộc nói chuyện bằng điện thoại với tư lệnh tập đoàn quân 6, tướng I.N. Mu-dư-chen-cô và tư lệnh tập đoàn quân 26, tướng Ph.Ya. Cốt-xten-cô, tôi được biết rằng tập đoàn quân 17 của địch đang tấn công, hướng chủ yếu đánh vào Lvốp. Tù binh Đức khai rằng, bộ chỉ huy của chúng định sẽ cho quân đoàn mô-tô 14 tham chiến để chiếm lấy Ra-va - Rút-xcai-a.
Khu chiến lũy Ra-va - Rút-xcai-a ngay từ những phút chiến tranh đầu tiên do các tiểu đoàn súng máy độc lập 35 và 140 và đội biên phòng của thiếu tá Ya.Đ. Ma-lưi bảo vệ. Ít lâu sau, sư đoàn khinh binh 41 của thiếu tướng G.N. Mi-cu-sép đã tiến về đây.
Bộ chỉ huy tập đoàn quân 17 Đức tung vào trận địa này 5 sư đoàn bộ binh. Mặc dù có hỏa lực pháo binh mạnh, có không quân bắn phá và chúng mở những cuộc tấn công ác liệt bằng bộ binh, quân địch vẫn không chiếm được khu phòng thủ Ra-va - Rút-xcai-a và không bẻ gẫy được sức chống cự của sư đoàn khinh binh 41. Chiều ngày 22-6, sư đoàn 41 vốn có hai trung đoàn pháo lại được bổ sung trung đoàn pháo 152 mm của quân đoàn 209. Hôm đó quân địch bị thiệt hại nặng mà không đạt được kết quả gì.
Khu chiến lũy Pê-rê-mư-slơ do các tiểu đoàn súng máy độc lập 52 và 150 và đội biên phòng 92 bảo vệ. Các đơn vị của khu phòng thủ chiếm lĩnh các công sự của mình vào lúc 6 giờ sáng 22-6. Cùng với các chiến sĩ biên phòng và các đội vũ trang của công nhân, viên chức, họ là những người đầu tiên chống lại hỏa lực và sự tấn công của địch.
Trong mấy tiếng đồng hồ, những người dũng cảm bảo vệ thành phố đã chặn được cuộc tiến công của quân địch có ưu thế về lực lượng. Sau đó theo lệnh của đội trưởng đội biên phòng 92, họ rút ra ngoài thành phố và ở đây họ tiếp tục chặn quân địch. Làm như thế, họ đã tạo điều kiện đưa được sư đoàn khinh binh 99 của đại tá N.I. Đê-men-chi-ép tới Pê-rê-mư-slơ. Ngày 23-6, cùng với các tiểu đoàn biên phòng, sư đoàn này đã phản kích và đánh bật bọn phát-xít ra khỏi thành phố.
Ngày 23-6, quân Đức lại tấn công, đặc biệt chúng tấn công mạnh ở hướng Ra-va - Rút-xcai-a. Một số đơn vị địch thọc được vào tuyến phòng thủ của sư đoàn 41, nhưng nhờ có sự lãnh đạo vững vàng của tướng G.N. Mi-cu-sép, quân ta đã phản kích lại và đánh bật chúng về nơi xuất phát tấn công.
Song đến cuối ngày, quân Đức đã tìm ra chỗ yếu của ta: chúng đánh mạnh vào nơi tiếp giáp giữa Ra-va - Rút-xcai-a và Pê-rê-mư-slơ do các sư đoàn khinh binh 97 và 159 bảo vệ. Sư đoàn 159 đang ở trong giai đoạn triển khai, phần đông quân số lấy từ lực lượng hậu bị chưa được huấn luyện. Không chịu được sự tấn công của địch, sư đoàn bắt đầu rút, do đó gây nên tình hình khó khăn cho các đơn vị bên cạnh. Những biện pháp đối phó của tư lệnh tập đoàn quân 6, tướng I.N. Mu-dư-chen-cô, không làm thay đổi được tình thế, và đến cuối ngày 24-6, tuyến phòng thủ ở đây bị cắt một quãng dài tới 40 km.
Các khu chiến lũy Ra-va - Rút-xcai-a và Pê-rê-mư-slơ vẫn tiếp tục đánh trả có kết quả các trận tấn công của địch. Sư đoàn 99 gây cho địch những thiệt hại lớn và không để mất một thước trận địa nào. Sư đoàn 99 đã được tặng huân chương Cờ đỏ về trận đánh dũng cảm đó.
Sư đoàn khinh binh 41 cũng hoạt động có kết quả. Sau chỉ vì một số lớn quân địch đột phá được vào trận địa sư đoàn 159 và có nguy cơ các khu phòng thủ vững chắc bị đánh vu hồi nên đêm ngày 27-6, bộ tư lệnh phương diện quân đã đưa sư đoàn 41 về tuyến hậu phương.
Còn sư đoàn khinh binh 99 vẫn giữ được Pê-rê-mư-slơ trong các ngày 23 đến ngày 28-6 và mãi sáng ngày 29-6, theo lệnh của bộ tư lệnh mới rời khỏi thành phố.
Ngày 25 - 26 tháng 6, chiến sự tiếp diễn càng mạnh. Quân địch tung vào đây nhiều đơn vị không quân chiến đấu. Trên không và trên mặt đất diễn ra những trận ác liệt. Cả hai bên đều bị thiệt hại lớn. Nhiều lần, không quân Đức không chịu được những đòn dũng mãnh của các phi công ta, phải bỏ chạy về các sân bay của chúng.
Các đơn vị đi trước của địch đã tiến vào Đúp-nô, vì vậy tướng Đ.I. Ri-a-bư-sép được lệnh đưa quân đoàn 8 về phía đó. Quân đoàn cơ giới 15 thì được lệnh đưa chủ lực theo hướng chung về phía Bê-rê-xtếch-cô và xa hơn nữa, về phía Đúp-nô. Quân đoàn khinh binh 36 và quân đoàn cơ giới 19 đã tới gần đó cũng được điều về vùng Đúp-nô. Trận đánh ác liệt ở vùng Đúp-nô đã nổ ra vào ngày 27-6.
Bọn Đức đưa ngay quân đoàn 55 của chúng đến tăng cường, nhờ vậy đã cứu được đạo quân của chúng ở Đúp-nô khỏi bị đánh tan hoàn toàn. Bị thiệt hại nặng, địch buộc phải lấy quân ở các hướng khác ném vào Đúp-nô.
Quân ta không đánh tan hoàn toàn được quân địch và không chặn được trận tấn công của chúng, nhưng đã hoàn thành điều chủ yếu: chặn được ở khu Brô-đa - Đúp-nô đạo quân xung kích địch tấn công về phía thủ đô U-crai-na và làm cho chúng bị kiệt sức.
Lúc 17 giờ ngày 24-6, tôi nói chuyện qua máy "Bô-đô" với tư lệnh tập đoàn quân 5, tướng M.I. Pô-ta-pốp.
Trước khi kể lại nội dung cuộc nói chuyện, tôi muốn nói rằng M.I. Pô-ta-pốp là một tướng giàu kinh nghiệm đã trải qua thực tế chiến đấu trong các trận trên sông Khan-khin Gôn. Đó là một tư lệnh tập đoàn quân dũng cảm và mưu lược, và không phải ngẫu nhiên bộ chỉ huy Đức biết rất rõ tập đoàn quân 5, mà chính là vì chúng đã bị tập đoàn quân này nhiều lần giáng cho những đòn thấm thía.
Tôi nêu lại vắn tắt cuộc nói chuyện của chúng tôi khá điển hình đối với những ngày đầu chiến tranh.
M.I. Pô-ta-pốp ở bên máy.
"Giu-cốp. Đồng chí báo cáo tình hình đi.
Pô-ta-pốp. Tại mặt trận Vla-đô-va - U-xti-lúc, địch có tới 5 sư đoàn bộ binh và hai nghìn xe tăng[1]. Chủ lực xe tăng địch nằm trên tuyến đu-ben-ca - Gô-rốt-lô. Từ U-xti-lúc đến Xô-can có tới 6 sư đoàn bộ binh và sư đoàn xe tăng thiết giáp 14. Hướng chủ yếu của sư đoàn xe tăng thiết giáp này là Vla-đi-mia Vô-lưn-xcơ - Lút-xcơ. Ở nơi tiếp giáp giữa các tập đoàn quân 5 và 6 có các đơn vị cơ giới, lực lượng chưa rõ. Quân địch đột kích chủ yếu vào hướng Vla-đi-mia Vô-lưn-xcơ - Lút-xcơ, đòn phối hợp - từ Bre-xtơ - Li-tốp-xcơ vào Cô-ven.
Tôi báo cáo về tình hình các đơn vị quân ta đến 14 giờ 20 phút ngày 24-6-1941: Đồng chí Phê-đi-u-nin-xki giữ mặt trận Pư-lê-mét - Cu-xni-si - Vi-snép - Ni-ki-ti-chi. Sư đoàn khinh binh 87 của đồng chí đó có hai trung đoàn giữ các khu phòng thủ ở vùng U-xti-lúc và đang chiến đấu ở vùng lân cận; sư đoàn bị thiếu đạn.
Từ chiều qua tôi không có tin về sư đoàn 124.
Sư đoàn xe tăng 41 ở vùng Ma-sê-i-úp - ga Cô-sa-rư sau trận đánh, đang chỉnh đốn về trang bị vật chất.
Từ 14 giờ, sư đoàn 135, có sư đoàn xe tăng 19 và một trung đoàn của sư đoàn khinh binh 87 phối hợp và có lữ đoàn chống tăng 1 và toàn bộ pháo binh của quân đoàn yểm hộ, đang tấn công ở hướng Vla-đi-mia - Vô-lưn-xcơ
Lút-xcơ có tuyến phòng thủ bao quanh, nhưng rất mỏng. Điều chính mà tôi lo là đòn đánh ở hướng Lút-xcơ của các đơn vị xe tăng địch từ phía nam đánh lên, nó sẽ tạo ra cho ta nguy cơ phải đánh trên hai mặt.
Tôi hoàn toàn không có lực lượng gì để đánh lại quân địch ở hướng nam ...
Đề nghị tăng cường viện trợ bằng hoạt động của máy bay ném bom và giữ không cho các đơn vị xe tăng địch tới Đu-ben-ca - Gô-rốt-lô, chặn bước tiến của các đơn vị xe tăng địch từ phía Bre-xtơ - Li-tốp-xcơ và dùng không quân cường kích và tiêm kích yểm hộ trận tiêu diệt đạo quân địch ở Vla-đi-mia Vô-lưn-xcơ.
Tôi không có lực lượng dự bị. Quân đoàn cơ giới 9, với khoảng 200 xe tăng cũ, có thể tập trung ở khu Ô-lư-ca nhanh nhất là sau 2 ngày đêm nữa.
Đường liên lạc dây nói bị phá hủy ở khắp nơi, vừa nối lại xong thì quân địch lại dùng không quân phá.
Tôi có liên lạc chắc chắn bằng ra-đi-ô với các quân đoàn cơ giới...
Đề nghị cho mệnh lệnh về hành động sắp tới.
Giu-cốp. 1. Đơn vị bạn đang chiến đầu ở vùng Pru-gia-nư - Gô-rô-đét.
Các đơn vị địch từ Bre-xtơ tiến được về Cô-ven là hậu quả của hành động không có tổ chức của đồng chí Cô-rốp-cốp.
Đồng chí phải giữ kín sườn ở phía Bre-xtơ - Li-tốp-xcơ và chặn đường vào Cô-ven.
2. Mu-dư-chen-cô đang chiến đấu có kết quả ở quá phía bắc Ca-mi-ô-ni, Xtơ-ru-mi-lốp, Ra-va - Rút-xcai-a và tiếp đó tại biên giới. Quân địch tung vào một lực lượng xe tăng mạnh, đã cắt đứt nơi tiếp giáp giữa các tập đoàn quân 5 và 6 đang mưu chiếm Brô-đư.
3. Các-pê-dô và Ri-a-bư-sép đang phản kích ở các hướng: Các-pê-dô xuyên qua Brô-đư lên phía tây-bắc, hiện nay các trận chính chắc là đang diễn ra ở phía tây-nam Brô-đư khoảng 15 km; Ri-a-bư-sép bên trái - trên hướng bắc. Những trận này sẽ hỗ trợ cho đồng chí.
Mục đích của đòn phản kích là đánh tan quân địch ở vùng Brô-đư - Crư-xtư-nô-pôn và tiếp đó tiến lên phía bắc, tạo khả năng cho đồng chí ổn định các đơn vị và tổ chức thế trận vững chắc ... các quân đoàn 19 và 9 cùng hai quân đoàn khinh binh sẽ được điều tới phía bắc và phía nam Lút-xcơ để tăng cường cho đơn vị của đồng chí.
Đối với không quân sẽ có các biện pháp.
Qua máy vô tuyến của đồng chí, không nhận được và không dịch mã được gì hết.
Cần phải cho cán bộ chuyên môn đi máy bay đến để báo cáo những trắc trở về kỹ thuật trong việc sử dụng máy vô tuyến và mật mã.
Tôi nhắc lại: phải bịt kín các đường từ phía bắc vào Cô-ven, không được phản kích bằng các sư đoàn khinh binh nếu không có xe tăng phối hợp, bởi vì như vậy sẽ không có kết quả gì. Cần phải tiếp viện trái phá và đạn dược cho sư đoàn khinh binh 87. Hãy tính xem, liệu có thể đưa sư đoàn đó ra khỏi vòng vây vào ban đêm không?
Các xe tăng KV và các xe tăng khác của đồng chí hoạt động ra sao? Có bắn thủng vỏ thép của xe tăng Đức không và địch đã mất khoảng bao nhiêu xe tăng trên mặt trận của đồng chí?
Pô-ta-pốp. Phối thuộc tôi có sư đoàn không quân 14, sư đoàn này tính đến sáng nay có 41 máy bay. Trong mệnh lệnh của phương diện quân có nói rằng các sư đoàn ném bom 62 và 18 yểm hộ chúng tôi. Các sư đoàn đó ở đâu, tôi không biết, tôi không có liên lạc với họ.
Các xe tăng lớn KV có 30 chiếc. Tất cả những xe này đều không có đạn cho pháo 152 mm.
Tôi có các xe tăng T-26 và BT, chủ yếu là các xe kiểu cũ, trong đó có cả những xe loại hai tháp.
Khoảng 100 xe tăng địch bị diệt.
Mệnh lệnh của đồng chí, tôi đã rõ. Tôi có điều lo ngại: liệu tôi có kịp khép chặt sườn bên phải của Phê-đi-u-nin-xki và bịt kín các đường từ phía bắc không. Bởi vì các xe tăng địch hiện nay đang ở vùng Rát-nô. Dù thế nào tôi cũng sẽ áp dụng ngay mọi biện pháp để thi hành mệnh lệnh.
Giu-cốp. Các pháo 152 mm của xe tăng KV bắn trái phá 09-30 g, vì vậy đồng chí ra lệnh phát ngay các đạn phá bê -tông 09-30 g và cho sử dụng những đạn đó. Phải đánh thật mạnh vào xe tăng địch.
Về các mặt khác chúng tôi đang tổ chức giúp đỡ.
Tôi hết sức hy vọng vào đồng chí và đồng chí Ni-ki-sép.
Đêm nay hoặc mai tôi sẽ tới chỗ đồng chí.
Tạm biệt".
Để tiếp tục cuộc tấn công ở hướng Ki-ép, bộ chỉ huy Đức đã phải lấy trong lực lượng dự trữ chiến lược của chúng một số lớn quân và hàng trăm xe tăng cùng với các đội lái để bổ sung cho các đơn vị của Clây-xtơ.
Nếu như, trong các đơn vị lớn của Phương diện quân Tây-nam, công tác trinh sát bộ binh và trên không được tổ chức tốt hơn, sự hợp đồng và chỉ huy chiến đấu được hoàn bị hơn, thì kết quả phản công còn có thể lớn hơn nữa.
Trong những trận đánh này, quân đoàn cơ giới 22 dưới quyền chỉ huy của thiếu tướng X.M. Côn-đru-xép, quân đoàn khinh binh 27 thuộc tập đoàn quân 5, quân đoàn cơ giới 8 của Đ.I. Ri-a-bư-sép đã chiến đấu xuất sắc.
Lẽ ra hoạt động của quân đoàn cơ giới 8 còn có thể có hiệu quả lớn hơn nữa, nếu như tư lệnh quân đoàn không chia quân đoàn thành hai cánh quân và thêm vào đó đã không giao quyền chỉ huy một trong hai cánh quân đó cho tướng N.K. Pô-pen, là người chưa được huấn luyện về chiến dịch - chiến thuật để lãnh đạo những trận đánh lớn hơn.
Quân đoàn cơ giới 15 của tướng I.I. Các-pê-dô đã hoàn thành được nhiệm vụ, song tiếc là, chưa hết mức so với khả năng lớn của mình hồi đó.
Sách báo, tài liệu lịch sử của chúng ta có phần nói lướt qua về trận chiến đấu vĩ đại này ở sát biên giới trong giai đoạn đầu chiến tranh với phát-xít Đức. Lẽ ra cần phải phân tích đầy đủ tác dụng về mặt chiến dịch của việc sử dụng ở đây, các quân đoàn cơ giới để tổ chức một trận phản kích vào đạo quân chủ lực giặc đã đột phá và cần phải nghiên cứu tỉ mỉ cả việc tổ chức cuộc phản kích đó. Bởi vì, chính nhờ có những hoạt động này của quân ta mà ngay từ đầu ở U-crai-na, kế hoạch tốc chiến của địch đánh vào Ki-ép đã bị phá vỡ. Quân địch đã chịu thiệt hại nặng và chúng đã thấy rõ tinh thần kiên cường của các chiến sĩ xô-viết sẵn sàng chiến đấu đến giọt máu cuối cùng.
Ý kiến đánh giá trận chiến đấu này trong hồi ký của tướng Gớt, nguyên tư lệnh đạo quân xe tăng thứ 3 của Đức, không phải là không đáng chú ý:
"Cụm tập đoàn quân "Nam" bị thiệt hại nặng hơn tất cả. Đối phương phòng ngự chống lại các đơn vị lớn của cánh phía bắc đã bị đánh bật khỏi biên giới, nhưng sau cú đánh bất ngờ của ta, họ đã nhanh chóng hồi phục và đã dùng các cuộc phản kích của lực lượng dự bị và các đơn vị xe tăng nằm ở phía sau để chặn bước tiến của quân đội Đức. Đạo quân xe tăng thứ nhất, có thêm tập đoàn quân 6, đến ngày 28-6 vẫn không thể vượt lên được. Những cuộc phản kích mạnh của đối phương là trở ngại lớn trên đường tiến quân của các đơn vị quân Đức".
Qua cuộc nói chuyện trong những ngày này, theo đường liên lạc riêng với tướng N.Ph. Va-tu-tin, tôi được biết rằng tại các Phương diện quân Tây và Tây-bắc, các tư lệnh và các bộ tham mưu vẫn chưa có liên lạc chặt chẽ với các tư lệnh tập đoàn quân. Các sư đoàn và quân đoàn đánh nhau với địch một cách đơn độc, không có sự phối hợp với các đơn vị bạn và không quân, không có sự lãnh đạo cần thiết của cấp trên. Qua thông báo của Ni-cô-lai Phê-đô-rô-vích Va-tu-tin, tôi thấy rõ là tại các Phương diện quân Tây và Tây-bắc tình hình hết sức khó khăn.
Ni-cô-lai Phê-đô-rô-vích nói rằng I.V. Xta-lin bực bội và có ý buộc tất cả trách nhiệm vào bộ tư lệnh và bộ tham mưu Phương diện quân Tây, chê trách sự bất lực của nguyên soái G.I. Cu-lích. Qua thông báo của nguyên soái B.M. Sa-pô-sni-cốp lúc đó ở bộ tham mưu Phương diện quân Tây thì sáng ngày 23-6, G.I. Cu-lích ở bộ tham mưu tập đoàn quân 3, nhưng liên lạc với tập đoàn quân này bị đứt.
Song, sau một thời gian ngắn, nhờ có nhiều nguồn tin khác nhau, Bộ Tổng tham mưu đã xác định được rằng, các đạo quân lớn xe tăng và cơ giới của địch đã chọc thủng nhiều trận địa của hai phương diện quân này và đang tiến nhanh vào đất Bê-lô-ru-xi và Pri-ban-tích.
Những thứ thách gian khổ của nhân dân Liên Xô đã bắt đầu.
Trong những năm gần đây có người thường phê phán Bộ Tổng tư lệnh đã không ra lệnh đưa các lực lượng chủ lực của ta từ phía trong đất nước ra để chống lại và đánh lui trận đột kích của quân địch.
Tôi không dám khẳng định nếu như điều đó được thực hiện thì tình hình sẽ như thế nào: tốt hơn hay là xấu hơn. Hoàn toàn rất có thể là trong khi chưa có đủ các phương tiện phòng ngự chống tăng và chống máy bay, sức cơ động còn kém quân địch, quân ta sẽ không thể chống lại được những đòn mạnh mẽ đánh chia cắt của các lực lượng xe tăng, thiết giáp địch, do đó quân ta có thể lâm vào tình thế nặng nề như một số tập đoàn quân các quân khu miền biên giới đã gặp. Và còn chưa biết, nếu như vậy, thì về sau tình hình ở gần Mát-xcơ-va, Lê-nin-grát và ở miền nam đất nước sẽ diễn ra sao?
Sáng sớm ngày 26-6, tướng N.Ph. Va-tu-tin báo cho tôi khi tôi ở sở chỉ huy tại Téc-nô-pôn như sau:
- Tình hình ở Pri-ban-tích và Bê-lô-ru-xi hết sức bất lợi. Tập đoàn quân 8 Phương diện quân Tây-bắc đang rút về Ri-ga, tập đoàn quân 11 đang rút ở hướng Pô-lốt-xcơ; quân đoàn cơ giới 21 của Quân khu Mát-xcơ-va được điều đi tăng cường cho phương diện quân này.
- I.V. Xta-lin ra lệnh thành lập Phương diện quân Dự bị và bố trí nó trên tuyến Xu-se-vô - Nô-ven - Vi-tép-xcơ - Mô-ghi-lép - Giơ-lô-bin - Gô-men - Chép-ni-gốp - sông Đe-xna - sông Đơ-nép. Phương diện quân Dự bị gồm các tập đoàn quân 19, 20, 21 và 22.
Về căn bản đó là tuyến mà Ủy viên nhân dân quốc phòng X.K. Ti-mô-sen-cô, tôi và một số cán bộ Bộ Tổng tham mưu đã tính đến vào tháng 5-1941.
Các bộ tư lệnh phương diện quân, Đại bản doanh Bộ Tổng tư lệnh, Bộ Tổng tham mưu trong những ngày này vẫn chưa có đầy đủ tài liệu về các đơn vị quân đội địch được tung vào đánh giá phương diện quân của ta. Về xe tăng, không quân và các đơn vị cơ giới của địch, Bộ Tổng tham mưu nhận được của các phương diện quân những số liệu quá khuếch đại. Bây giờ, khi trong tay chúng ta có hầu hết các tài liệu về quân đội của đôi bên, để thấy đầy đủ khung cảnh trong những ngày đầu chiến tranh, cần phải xem sự bố trí của quân đội Liên Xô tại các quân khu biên giới, và tiếp đó của cả quân đội Đức xâm nhập vào nước ta hồi đó .
Người ta đã viết nhiều bài báo và sách về vấn đề này, nhưng trong nhiều trường hợp nó có tính xu thời và người viết tỏ ra không hiểu biết gì cả.
Chúng ta biết rằng, 170 sư đoàn của ta sát trước chiến tranh được rải ra trên một vùng dài tới 4.500 km, từ Ba-ren-xép đến Biển Đen, và sâu trên 400 km. Song ở đây cần chú ý rằng, khoảng cách từ Ba-ren-xép đến Biển Đen là 4.500 km đó, bao gồm không những các khu vực đất liền của năm phương diện quân miền biên giới mà cả phần bờ biển chỉ được bảo vệ bằng lực lượng phòng thủ bờ biển và hải quân. Trên bờ biển từ Ta-lin đến Lê-nin-grát, nói chung, không có bộ đội. Vì vậy, 170 sư đoàn của chúng ta thực tế đóng trên 3.375 km. Dọc biên giới đất liền, các đơn vị quân đội Liên Xô tập trung thành từng cụm rất không đều nhau.
Ví dụ, ở Phương diện quân Bắc (Quân khu Lê-nin-grát) dài 1.275 km, có 21 sư đoàn và 1 lữ đoàn khinh binh, tính trung bình gần 61 km có 1 sư đoàn.
Trên khoảng đất liền thuộc các Quân khu Pri-ban-tích, miền Tây, Ki-ép và Ô-đét-xa dài 2.100 km, có 149 sư đoàn và 1 lữ đoàn. Trung bình 1 sư đoàn tại khu vực hết sức quan trọng này rải trên hơn 14 km.
Số lực lượng nói trên, sát trước chiến tranh, được phân bố như Quân khu Pri-ban-tích (tư lệnh - thượng tướng Ph.I. Cu-dơ-nét-xốp, ủy viên Hội đồng quân sự - chính ủy quân đoàn P.A. Đi-brô-va, tham mưu trưởng - thiếu tướng P.X. Clê-nốp) có 25 sư đoàn và 1 lữ đoàn khinh binh, trong số đó có 4 sư đoàn xe tăng, 2 sư đoàn mô-tô cơ giới.
Quân khu đặc biệt miền Tây (tư lệnh - đại tướng Đ.G. Páp-lốp, ủy viên Hội đồng quân sự - chính ủy quân đoàn A.Ph.I. Phô-mi-nức, tham mưu trưởng - thiếu tướng V.E. Cli-mốp-xkích) có 24 sư đoàn khinh binh, 12 sư đoàn xe tăng, 6 sư đoàn mô-tô hóa, 2 sư đoàn kỵ binh.
Quân khu đặc biệt Ki-ép (tư lệnh - thượng tướng M.P. Kiếc-pô-nô-xơ, ủy viên Hội dông quân sự - chính ủy lữ đoàn E.P. Rư-cốp; tham mưu trưởng - trung tướng M.A. Puốc-ca-ép) có 32 sư đoàn khinh binh, 16 sư đoàn xe tăng, 8 sư đoàn mô-tô cơ giới, 2 sư đoàn kỵ binh.
Quân khu Ô-đét-xa (tư lệnh - trung tướng Ya.T. Chê-rê-vi-chen-cô, ủy viên Hội đồng quân sự - chính ủy quân đoàn A.Ph. Cô-lô-bi-a-cốp; tham mưu trưởng - thiếu tướng M.V. Da-kha-rốp) có 13 sư đoàn khinh binh, 2 sư đoàn mô-tô cơ giới và 3 sư đoàn kỵ binh.
Như chúng ta thấy, bộ phận lực lượng mạnh nhất của quân ta đóng ở hướng tây-nam (Quân khu Ki-ép và Quân khu Ô-đét-xa). Nó gồm có 45 sư đoàn khinh binh, 20 sư đoàn xe tăng, 10 sư đoàn mô-tô hóa, 5 sư đoàn kỵ binh.
Trong số 149 sư đoàn và 1 lữ đoàn của 4 quân khu sát biên giới, có 48 sư đoàn thê đội 1 của các tập đoàn quân bảo vệ biên giới được bố trí cách biên giới quốc gia 10 - 50 km (các sư đoàn khinh binh ở gần hơn, các sư đoàn xe tăng ở xa hơn). Chủ lực các quân khu miền biên giới đóng cách biên giới quốc gia 80 - 300 km.
Sườn các quân khu sát biển do hải quân và lực lượng phòng thủ bờ biển (chủ yếu gồm pháo binh) bảo vệ .
Các đơn vị biên phòng thuộc Bộ Ủy viên nhân dân nội vụ đóng ngay trên biên giới.
Trên kia, tôi đã nói tới một số nhân tố là nguyên nhân của những thất bại trong thời gian đầu chiến tranh. Những sự việc khác thuộc loại đó sẽ được đề cập tới sau, nhưng bây giờ tôi muốn nói rằng, những sai lầm của cơ quan lãnh đạo không thể làm nhẹ trách nhiệm của người chỉ huy quân sự các cấp đối với những sơ suất và tính toán sai của mình.
Mỗi một cán bộ chỉ huy quân đội, khi có những hành động không đúng thì về mặt tinh thần, không có quyền trốn trách nhiệm mà đổ cho cấp trên. Theo điều lệnh, các đơn vị và các cán bộ chỉ huy đơn vị, trong bất kỳ tình huống nào, cũng phải luôn luôn sẵn sàng làm nhiệm vụ chiến đấu. Song, sát trước chiến tranh, thậm chí vào đêm 21 rạng 22 tháng 6, trong một số trường hợp, các cán bộ chỉ huy các binh đoàn và binh đoàn lớn thuộc tuyến bảo vệ biên giới, đến giờ phút cuối cùng vẫn chờ đợi lệnh của trên mà không chuyển đơn vị vào tư thế sẵn sàng chiến đấu ở mức cần thiết, mặc dù ở phía bên kia biên giới, đã nghe thấy tiếng ầm ì của các động cơ và tiếng rít của các bánh xích sắt.
Bộ tổng chỉ huy quân Đức, ngay tức khắc đã huy động 153 sư đoàn, trong số đó 29 sư đoàn đánh vào Quân khu Pri-ban-tích, 50 sư đoàn (có 15 sư đoàn xe tăng) đánh vào Quân khu đặc biệt miền Tây, 34 sư đoàn (có 9 sư đoàn xe tăng và mô-tô cơ giới) đánh vào Quân khu đặc biệt Ki-ép, 12 sư đoàn đánh vào Quân khu Ô-đét-xa và có tới 3 sư đoàn đóng ở Phần Lan. Chúng đã lập đội dự bị gồm 24 sư đoàn và đã điều nó đến các hướng chiến lược cơ bản.
Những số liệu này, chúng ta biết được trong quá trình giai đoạn đầu chiến tranh, chủ yếu là qua việc hỏi cung các tù binh và qua các tài liệu bắt được. Sát chiến tranh, I.V. Xta-lin, Ủy viên nhân dân quốc phòng và Bộ Tổng tham mưu, căn cứ vào những tin tức của cơ quan tình báo, đã cho rằng bộ chỉ huy Hít-le phải giữ lại ở phương Tây, Cận đông và ở các nước khác mà chúng chiếm đóng, không dưới 50% quân số và lực lượng không quân của chung. Trên thực tế, tới lúc bắt đầu chiến tranh với Liên Xô, bộ chỉ huy Hít-le đã để lại ở các nơi ấy dưới 1/3 quân số, thêm nữa, chỉ là những sư đoàn thứ yếu, và chẳng bao lâu lại rút bớt số đó đi.
Quân địch đã dùng 3.712 xe tăng và các pháo tiến công để trang bị cho các cụm tập đoàn quân "Bắc", "Trung tâm" và "Nam". Quân bộ có 4.950 máy bay yểm hộ. Các đơn vị địch xâm nhập vào lãnh thổ ta đã có ưu thế về pháo binh hơn ta gần 2 lần, sức kéo của pháo binh của chúng về cơ bản được cơ giới hóa.
Nhiều lần nghĩ lại những ngày đầu chiến tranh, tôi có suy xét và phân tích những sai lầm về chiến lược và chiến dịch của các đồng chí lãnh đạo quân sự (Ủy viên nhân dân quốc phòng, Bộ Tổng tham mưu và các Bộ tư lệnh các quân khu) trong thời kỳ sát trước và thời kỳ đầu chiến tranh. Tôi đi tới những kết luận sau đây:
Chúng tôi không dự kiến trước được việc địch chuyển bất ngờ sang tấn công trên những quy mô như thế, hơn nữa, không thấy trước chúng có thể sử dụng ngay tức khắc tất cả các lực lượng sẵn có và được bố trí trước tại các hướng chiến lược quan trọng nhất, nghĩa là chưa thấy hết tinh chất của ngay đòn đột kích với toàn bộ tầm lượng của nó. Cả Ủy viên nhân dân quốc phòng, tôi, cả các đồng chí giữ chức vụ của tôi trước kia - B.M. Sa-pô-sni-cốp, K.A. Mê-rét-xcốp - và cơ quan lãnh đạo Bộ Tổng tham mưu đã không tinh rằng quân địch sẽ tập trung một số lớn đến thế các đạo quân xe tăng thiết giáp và mô-tô cơ giới và sẽ dùng lực lượng đó ngay trong ngày đầu tiên, hình thành những quả đấm rắn chắc và mạnh mẽ trên tất cả các hướng chiến lược để đánh những đòn chia cắt mãnh liệt.
Sát trước chiến tranh, tập đoàn quân 10 và nhiều đơn vị khác của Quân khu miền Tây đã đóng ở Bê-lô-xtốc là vùng đất đột xuất nhô ra về phía địch. Đây là một trận địa bố trí bất lợi nhất. Hình thái bố trí tác chiến như thế gây ra nguy cơ bị đánh vòng đằng sau và bị bao vây bằng các mũi đánh vào sườn từ phía Grốt-nô và Bre-xtơ. Thêm nữa, sự bố trí quân của phương diện quân ở các hướng Grốt-nô, Xu-van-cốp và Bre-xtơ không đủ sâu và đủ mạnh để chặn, không cho quân địch đột phá và hợp vây được cánh quân ta ở vùng đất nhô đó.
Sự bố trí quân sai lầm đó có từ năm 1940, cho đến trước chiến tranh đã không được khắc phục. Khi quân chủ lực địch áp đảo các sườn của bộ đội bảo vệ biên giới của ta và đột phá vào vùng Grốt-nô và Bre-xtơ, lẽ ra ta phải cấp tốc đưa tập đoàn quân 10 và các cánh quân của các tập đoàn quân 3 và 4 tiếp giáp với nó thoát khỏi nguy cơ bị bao vây, chuyển nó về tuyến hậu phương - tới những nơi đang bị uy hiếp. Các đơn vị đó có thể tăng cường một cách đáng kể cho sức đề kháng của các đơn vị đang bị uy hiếp. Nhưng việc này đã không được thực hiện.
Các tập đoàn quân thuộc Phương diện quân Tây-nam cũng mắc sai lầm tương tự, cũng chậm rút ra, khi có nguy cơ bị bao vây.
Tất cả những điều đó xảy ra là do khi ấy chúng ta chưa có đủ kinh nghiệm lãnh đạo quân đội trong tình hình phức tạp của những trận đánh lớn, ác liệt diễn ra trên một vùng rộng.
Cần phải nói tới một sai lầm nữa của Bộ Tổng tư lệnh và Bộ Tổng tham mưu mà tôi đã nói qua ở trên. Đó là chủ trương phản công theo chỉ thị số 3 ngày 22-6-1941. Khi đề ra nhiệm vụ phản công, Bộ Tổng tư lệnh không biết tình hình thực tế diễn ra đến cuối ngày 22-6. Các bộ tư lệnh phương diện quân cũng không biết được tình hình. Trong quyết định của mình, Bộ Tổng tư lệnh không xuất phát từ sự phân tích tình hình thực tế và những tính toán có căn cứ, mà xuất phát từ cảm tính và ý muốn tích cực hành động, không tính đến khả năng của quân đội, đó là điều không được làm ở bất kỳ trường hợp nào trong những giờ phút quan trọng của cuộc đấu tranh vũ trang.
Trong tình hình đã diễn ra cho đến cuối ngày 22-6, việc duy nhất đúng chỉ có thể là tổ chức các cuộc phản kích của các quân đoàn cơ giới, đánh vào các mũi tiến công của các đạo quân xe tăng cơ giới địch. Các cuộc phản kích đã được tiến hành thì trong nhiều trường hợp không được tổ chức chu đáo, và vì thế không đạt được mục đích.
Còn một vấn đề khác cũng có ảnh hưởng không thuận lợi tới quá trình các trận đánh trong những ngày đầu. Một số tư lệnh các tập đoàn quân lẽ ra phải từ các sở chỉ huy của mình mà tổ chức việc chỉ huy cho vững và giữ chặt liên lạc với các tập đoàn quân bạn và bộ tham mưu phương diện quân, thì lại bổ xuống các đơn vị và ra những chỉ thị trong khi không biết tình hình ở các trận địa khác thuộc tập đoàn quân. Do đó, các cán bộ chỉ huy các đơn vị và các binh đoàn bị lâm vào tình huống khó khăn. Không có liên lạc vững với cấp trên, họ buộc phải hành động theo suy xét của mình, theo sự cần thiết của mình và thường rất dễ có hại cho các đơn vị bạn.
Ví dụ: việc rút lui vô tổ chức của tập đoàn quân 3 ra khỏi vùng Grốt-nô và của tập đoàn quân 4 ra khỏi vùng Bre-xtơ đã làm cho tình thế của tập đoàn quân 10 do thiếu tướng K.Đ. Gô-lu-bép chỉ huy trở nên hết sức gay go. Lúc đó tập đoàn quân 10, không bị địch uy hiếp mạnh, vẫn đang dựa vào khu phòng thủ Ô-xô-vét mà chiến đấu.
Phó tư lệnh Phương diện quân miền Tây, trung tướng I.V. Bôn-đin đã tới Ô-xô-vét. Trung tướng trực tiếp nắm một đoàn quân kỵ binh cơ giới gồm các quân đoàn cơ giới 6 và 11 và các đơn vị thuộc quân đoàn kỵ binh 6. Ngày 23-6, từ mỏm đất nhô ra ở Xu-van-cốp, I.V. Bôn-đin tổ chức cuộc phản kích vào sườn bọn địch đã lọt vào trận địa ta. Cuộc phản kích không thành công. Nguyên nhân là vì không tập trung được tất cả các binh đoàn để tiến hành cuộc phản kích, đã sử dụng lực lượng phân tán và quyền chủ động bị quân địch khống chế.
Trong trận này chỉ có quân đoàn cơ giới 11 dưới sự chỉ huy của thiếu tướng Đ.K. Mô-xtô-ven-cô là hoạt động được thực sự tích cực. Quân đoàn cơ giới 6, dưới sự chỉ huy của thiếu tướng M.G. Khát-xki-lê-vích thì đang phòng ngự trong đội hình tập đoàn quân 10 trên sông Na-rép, cho nên không được tập trung kịp thời để phân kích. Khi rút được quân đoàn này ra khỏi trận chiến đấu và tập hợp nó được thì đã mất thời gian rồi. Các đơn vị của quân đoàn kỵ binh 6, dưới sự chỉ huy của thiếu tướng I.X. Ni-ki-tin, thì bị không quân địch liên tục tập kích do đó hành quân chậm.
Trong suốt ngày 24-6, một trận chiến đấu ác liệt đã diễn ra ở vùng Grốt-nô.
Mặc dù có ưu thế trên không, quân địch tại vùng Grốt-nô vẫn gặp khó khăn. Bộ tư lệnh cụm tập đoàn quân "Trung tâm" buộc phải đưa tới đây thêm hai quân đoàn nữa và phải điều trở lại một số đơn vị thuộc đạo quân xe tăng 3.
Ngày 25, những trận đánh đẫm máu vẫn tiếp diễn nhưng vì thiếu sự cung cấp cần thiết về phương tiện vật chất, kỹ thuật nên các đơn vị quân ta phản kích không thắng lợi. Trong quá trình chiến đấu, quân ta bị thiệt hại nặng và bắt đầu rút lui. Các chiến sĩ xe tăng không rút được toàn bộ xe ra ngoài vì lúc đó đã hết nhiên liệu.
Tư lệnh quân đoàn M.G. Khát-xki-lê-vích cũng không trở về sau trận đó. M.G. Khát-xki-lê-vích là một cán bộ chỉ huy tốt, một con người dung cảm. Tôi và đồng chí đó thân với nhau từ nhiều năm, ngay từ hồi công tác trong cơ quan thanh tra kỵ binh đầu những năm 30. Tướng I.X. Ni-ki-tin cũng không trở về. I.X. Ni-ki-tin xứng đáng là một cán bộ chỉ huy sáng suốt, có nghị lực và dũng cảm của quân đoàn kỵ binh.
Hướng đột kích của đạo quân mạnh nhất của các lực lượng bộ binh và không quân Đức trên hướng chiến lược phía tây đất nước ta là nhằm vào Mát-xcơ-va. Để đánh vào Phương diện quân miền Tây, quân địch sử dụng cụm tập đoàn quân "Trung tâm", trong đó có hai tập đoàn quân bộ đội hợp thành (các tập đoàn quân 4 và 9) và hai đạo quân xe tăng (2 và 3). Phối hợp với cụm tập đoàn quân "Trung tâm" có tập đoàn không quân 2, trong thành phần của nó có cả một quân đoàn máy bay ném bom bổ nhào. Quân của cụm tập đoàn quân "Trung tâm" được trang bị đầy đủ bằng pháo binh của bộ tổng chỉ huy địch, bằng các đơn vị công binh mô-tô cơ giới và binh khí kỹ thuật hỗ trợ mạnh.
Ở đây trên tất cả các hướng đột kích chủ yếu của chúng, quân Đức đã tạo nên một ưu thế gấp 5-6 lần. Mọi hoạt động của quân chủ lực địch đều được các trận tập kích bằng không quân yểm hộ.
Tình hình ở vùng Bre-xtơ cũng khá gay go. Tuy vậy quân địch không bẻ gãy được sức đề kháng của các chiến sĩ bảo vệ pháo đài Bre-xtơ. Các chiến sĩ anh hùng bị bao vây đã đánh trả lại địch một cách đích đáng. Bản anh hùng ca Bre-xtơ là điều hoàn toàn bất ngờ đối với bọn Đức. Các đơn vị xe tăng thiết giáp thuộc đạo quân của Gu-đê-ri-an và tập đoàn quân dã chiến 4 Đức đã bắt buộc phải đi vòng qua thành phố.
Tập đoàn quân 4 của ta (tư lệnh - thiếu tướng A.A. Cô-rốp-cốp) cũng bị đánh mạnh không kém tập đoàn quân 3 (tư lệnh - trung tướng V.I. Cu-dơ-nét-xốp) ở vùng Grốt-nô. Nhưng, có thành Bre-xtơ anh hùng và các đơn vị thuộc sư đoàn xe tăng 32, các sư đoàn khinh binh 6, 42, 49 và 75 đóng cách không xa, bộ tư lệnh tập đoàn quân 4 có thể tổ chức những trận phòng ngự tốt hơn nữa. Đáng tiếc là bộ tư lệnh tập đoàn quân 4 đã không làm được điều đó, ngay cả khi đã nhận quân đoàn cơ giới 14 chuyển thuộc mình.
Tình hình trong những ngày này ở phía xa các ngả đường vào Min-xcơ như thế nào?
Vì không biết chính xác tình hình chiến sự ở các tập đoàn quân 3, 10 và 4, không hình dung được đầy đủ về các đạo quân xe tăng thiết giáp của địch đã vượt biên giới vào như thế nào, đại tướng Đ.G. Páp-lốp, tư lệnh phương diện quân, thường có những quyết định không phù hợp với tình hình.
Bị thiệt hại lớn trong trận đánh vùng biên giới, các đơn vị của tập đoàn quân 3, 10 và 4 vừa dũng cảm đánh lùi quân địch dồn tới, vừa rút về phía đông. Bốn sư đoàn thuộc tập đoàn quân 13 cũng chiến đấu anh dũng để kìm cuộc tiến công của địch: ngày 26 và 27 tháng 6, các sư đoàn này chiến đấu ở khu phòng thủ Min-xcơ.
Theo chỉ thị của Bộ Tổng tư lệnh, tướng Đ.G. Páp-lốp ra lệnh cho các tập đoàn quân 3 và 10 rút về phía đông và chiếm lĩnh trận địa phòng ngự tại tuyến Li-đa - Xlô-nim - Pin-xcơ. Nhưng điều đó không sao thực hiện được, bởi vì các tập đoàn quân này đã gần như bị bao vây kiệt sức và rút ra ngoài một cách khó khăn dưới những đòn đánh liên tiếp của không quân và các đơn vị xe tăng thiết giáp Đức.
Ngày 26-6, quân đoàn mô-tô cơ giới 39 của địch đến gần vùng phòng thủ Min-xcơ, ở đây chúng đụng độ với các đơn vị đang đi tới thuộc quân đoàn khinh binh, do tướng V.Đ. Yút-kê-vích chỉ huy.
Để tăng cường phòng thủ Min-xcơ trên hướng từ Mô-lô-đếch-nô vào cửa ngõ tây-bắc thành phố, quân đoàn khinh binh 2 dưới sự chỉ huy của thiếu tướng A.N. éc-ma-cốp đã được cấp tốc điều tới. Quân đoàn gồm các sư đoàn khinh binh 100 và 161.
Thiếu tướng I.N. Ru-xi-a-nốp chỉ huy sư đoàn 100, một sư đoàn đã được tặng Huân chương Lê-nin. Trước kia khi tôi là sư đoàn trưởng sư đoàn kỵ binh 4 ở thành phố Xlút-xcơ, đồng chí đã là một trung đoàn trưởng xuất sắc của trung đoàn khinh binh thuộc sư đoàn khinh binh 4 mang tên Giai cấp vô sản Đức. Trong tất cả các lần huấn luyện và tập trận, trung đoàn của I.N. Ru-xi-a-nốp đã là mẫu mực về chiến thuật, kỷ luật và trật tự. Bây giờ các binh đoàn đó đang anh dũng chiến đấu trên các ngả đường đi vào Min-xcơ, đánh lại các đơn vị của đạo quân xe tăng 3 của địch, gây cho chúng những thiệt hại nặng.
Song, khi quân đoàn cơ giới 47 thuộc đạo quân xe tăng của Gu-đê-ri-an tiến đến các ngả đường tây-nam vào Min-xcơ, thì tình hình các đơn vị đang phòng ngự trở nên rất gay go.
Quân địch ném bom ác liệt Min-xcơ. Thành phố bị ngọn lửa bao phủ. Hàng nghìn thường dân bị chết. Những người không có tội lỗi gì hết, trước khi chết đều nguyền rủa bọn giặc lái máy bay phát-xít dã man...
Tại các ngả đường vào Min-xcơ đã diễn ra một cuộc chiến đấu khốc liệt. Các đơn vị thuộc các sư đoàn khinh binh 64, 100 và 161 đã chiến đấu đặc biệt xuất sắc. Họ tiêu diệt hơn trăm xe tăng địch và hàng nghìn tên phát-xít.
Ngày 26-6, I.V. Xta-lin gọi dây nói cho tôi tại sở chỉ huy Phương diện quân Tây-nam ở Téc-nô-pôn và nói:
- Tình hình tại Phương diện quân miền Tây trở nên khó khăn. Quân địch tới gần Min-xcơ. Không hiểu Páp-lốp thế nào. Không rõ nguyên soái Cu-lích ở đâu. Nguyên soái Sa-pô-sni-cốp bị ốm. Đồng chí có thể đáp máy bay ngay về Mát-xcơ-va không?
- Tôi sẽ nói chuyện ngay bây giờ với các đồng chí Kiếc-pô-nô-xơ và Puốc-ca-ép về những công việc sẽ tiếp tục, - tôi nói, - và sẽ ra sân bay.
Tối khuya ngày 26-6, tôi đi máy bay về tới Mát-xcơ-va và từ sân bay đi thẳng đến chỗ I.V. Xta-lin. Trong phòng làm việc của I.V. Xta-lin, Ủy viên nhân dân quốc phòng X.K. Ti-mô-sen-cô và người phó thứ nhất của tôi, trung tướng N.Ph. Va-tu-tin đang đứng nghiêm, thẳng người. Cả hai xanh gầy hẳn đi, mắt đỏ lên vì không ngủ. I.V. Xta-lin trông cũng không khá gì hơn.
Gật đầu chào tôi, I.V. Xta-lin nói:
- Các đồng chí cùng nhau suy nghĩ và nói cho biết có thể làm gì trong tình hình hiện nay? - Sau đó I.V. Xta-lin buông tấm bản đồ Phương diện quân miền Tây xuống bàn.
- Chúng tôi cần chừng 40 phút để bàn bạc - Tôi nói.
- Được 40 phút nữa, các đồng chí báo cáo.
Chúng tôi sang phòng bên để thảo luận về tình hình chiến sự và những khả năng của ta tại Phương diện quân miền Tây.
Tình hình ở đó quả thực vô cùng nặng nề. Ở phía tây Min-xcơ, số quân còn lại của các tập đoàn quân 3 và 10 đã kìm được một số lực lượng đáng kể của địch, nhưng bị bao vây và chiến đấu với lực lượng quá chênh lệch. Một số đơn vị của tập đoàn quân 4 rút vào rừng Pri-pi-át-ki. Sau khi bị thiệt hại nghiêm trọng trong các trận đánh, các binh đoàn đã bị xé lẻ ra để rút từ tuyến Đốc-si-na - Xmô-lê-vích - Xlút-xcơ - Pin-xcơ về sông Bê-rê-di-na. Các đạo quân mạnh của địch đang rượt theo họ.
Sau khi thảo luận tình hình, chúng tôi không có thể có đề nghị gì khác hơn là, đề nghị cấp tốc trụ lại phòng ngự ở tuyến Bắc Đơ-vi-na - Pô-lốt-xcơ - Vi-tép-xcơ - Oóc-sa - Mô-ghi-lép - Mô-dư-rơ và giao cho các tập đoàn quân 13, 19, 20, 21, 22 làm việc đó. Ngoài ra cần phải nhanh chóng chuẩn bị phòng ngự ở tuyến hậu phương theo đường hồ Xê-ìi-gia-rô-vơ - Xmô-len-xcơ - Rốt-xláp - Gô-men bằng các lực lượng của các tập đoàn quân 24 và 28 thuộc quân dự bị của Bộ Tổng tư lệnh. Ngoài ra chúng tôi đề nghị cấp tốc tổ chức thêm 2-3 tập đoàn quân nữa lấy trong số các sư đoàn dân quân Mát-xcơ-va.
Tất cả những đề nghị này được I.V. Xta-lin chuẩn y và ngay tức khắc được biến thành các mệnh lệnh.
Trong những đề nghị của mình, chúng tôi xuất phát từ nhiệm vụ chủ yếu là xây dựng phòng ngự có chiều sâu gồm nhiều tuyến trên các đường vào Mát-xcơ-va, đánh cho quân địch kiệt sức đi và, sau khi chặn được chúng tại một trong số những phòng tuyến phòng thủ, sẽ tập trung các lực lượng cần thiết bằng số quân lấy của Viễn Đông và các đơn vị mới để tổ chức phản công. Nơi nào quân địch sẽ bị chặn lại, lấy chỗ nào làm điểm xuất phát có lợi để phản công, những lực lượng như thế nào sẽ được tập trung để làm nhiệm vụ đó - khi này chúng tôi còn chưa biết. Hiện tại những điều đó mới chỉ là ý đồ.
Ngày 27-6, vào 10 giờ 05 phút, qua máy "Bô-đô" tôi truyền đạt mệnh lệnh của Đại bản doanh Bộ Tổng tư lệnh cho tham mưu trưởng phương diện quân, tướng V.E. Cli-mốp-xkích, nội dung như sau:
"Giu-cốp. Mệnh lệnh của Đại bản doanh Bộ Tổng tư lệnh. Nhiệm vụ của các đồng chí:
1. Cấp tốc tìm ra tất cả các đơn vị, liên lạc với các cấp chỉ huy và nói rõ cho họ biết tình hình - tình hình địch và tình hình các đơn vị của mình - nói thật cặn kẽ về những nơi mà các đơn vị cơ giới đi đầu của địch đã kéo tới. Báo cho các đơn vị của ta biết nơi có các kho nhiên liệu, đạn dược và lương thực để các đơn vị nhận lấy mọi thứ cần thiết cho chiến đấu.
Đề ra cho các đơn vị nhiệm vụ, hoặc chiến đấu hoặc tập trung lại tại các khu rừng. Khi giao nhiệm vụ tập trung phải chỉ rõ đi theo con đường nào và sát nhập vào đơn vị nào.
2. Tính xem các đơn vị nào cần phải dùng máy bay để đưa nhiên liệu và đạn dược tới, không để mất những kỹ thuật quý, đặc biệt là các xe tăng hạng nặng và pháo binh hạng nặng.
3. Đưa số quân còn lại ra theo ba hướng:
- qua Đốc-si-na và Pô-lốt-xcơ rồi tập hợp lại sau các khu phòng thủ Lê-pen-xcơ và Pô-lốt-xcơ;
- hướng Min-xcơ, tập hợp các đơn vị sau khu phòng thủ Min-xcơ;
- hướng thứ ba: rừng Glu-xki và Bô-brui-xcơ.
4. Chú ý rằng, các đơn vị cơ giới thê đội 1 của địch hiện nay đã vượt rất xa bộ binh, đó là chỗ yếu, cả đối với đạo quân địch đã vượt lên cũng như đối với đơn vị bộ binh của chúng đang tiến không có xe tăng đi cùng. Nếu các cán bộ chỉ huy dưới quyền các đồng chí nắm được đơn vị, đặc biệt là các đơn vị xe tăng, thì có thể đánh đòn tiêu diệt để đập tan cả thê đội 1 địch lẫn các đơn vị bộ binh chúng đang tiến không có xe tăng đi cùng. Nếu làm được, thì thoạt đầu hãy tổ chức đánh mạnh vào hậu phương thê đội 1 địch đang tiến về Min-xcơ và Bô-brui-xcơ, sau đó có thể quay lại đánh thẳng vào bộ binh chúng.
Hành động được dũng cảm như vậy sẽ làm vẻ vang cho Phương diện quân miền Tây. Sẽ đạt được kết quả đặc biệt to lớn, nếu các đồng chí tổ chức được trận tấn công ban đêm vào các đơn vị cơ giới địch.
5. Đưa kỵ binh vào rừng Min-xcơ và dựa vào Min-xcơ, Lu-ni-nốt, mở những trận tấn công thật mãnh liệt và lớn vào hậu phương và chính diện các đơn vị địch. Rải các nhóm nhỏ kỵ binh dưới sự chỉ huy của các cán bộ tận tụy và can đảm ra hoạt động trên tất cả các ngả đường."
Lúc 2 giờ đêm ngày 28-6, tôi lại nói chuyện thêm theo đường liên lạc thẳng với V.E. Cli-mốp-xkích. Tôi trích nội dung cuộc nói chuyện đó:
"Giu-cốp. Đồng chí báo cáo cho biết về tình hình các tập đoàn quân 3, 10 và 4. Min-xcơ ở trong tay ai, quân địch ở đâu?
Cli-mốp-xkích. Min-xcơ vẫn thuộc ta. Chúng tôi nhận được tin quân địch đổ bộ xuống vùng Min-xcơ và Xmô-lê-vi-chi. Bọn địch đổ bộ ở vùng Min-xcơ đã bị quân đoàn khinh binh 44 tiêu diệt.
Gần suốt ngày, máy bay địch ném bom đường Bô-ri-xốp - Oóc-sa. Các ga và các quãng đường sắt có bị hư hại. Không có liên lạc ra-đi-ô với tập đoàn quân 3.
Theo những báo cáo cuối cùng, quân địch đang ở trước khu phòng thủ .
Ba-ra-nô-vi-chi, Bô-brui-xcơ, Pu-khô-vi-chi cho đến ngày hôm qua, thuộc quân ta.
Giu-cốp. Về các đồng chí Cu-lích, Bôn-đin, Cô-rốp-cốp ở đâu? Quân đoàn cơ giới, quân đoàn kỵ binh ở đâu?
Cli-mốp-xkích. Về các đồng chí Cu-lích và Bôn-đin không có tin tức gì. Chúng tôi đã liên lạc với đồng chí Cô-rốp-cốp, đồng chí đó ở sở chỉ huy tại phía đông Bô-brui-xcơ. Binh đoàn của Khát-xki-lê-vích tiến về Ba-ra-nô-vi-chi, binh đoàn của A-khơ-lút-tin tiến về Xtôn-bxư.
Giu-cốp. Các binh đoàn của Khát-xki-lê-vích và A-khơ-lút-tin tiến về các nơi đó khi nào?
Cli-mốp-xkích. Các binh đoàn đó bắt đầu tập trung ở đó cuối ngày 26. Hôm qua lúc gần 19 giờ, trợ lý của tư lệnh quân đoàn, đồng chí Xvét-li-sin, đã tới các binh đoàn đó. Ngày mai chúng tôi sẽ phái các chiến sĩ nhảy dù đi truyền đạt mệnh lệnh cho các đồng chí Cu-dơ-nét-xốp và Gô-lu-bép.
Giu-cốp. Quân đoàn khinh binh 21 vượt ra vùng Mô-tô-đếch-nô - Vi-lây-ca có thuận lợi hay không? Đồng chí có biết không?
Cli-mốp-xkích. Về quân đoàn khinh binh 21, chúng tôi được tin nó định rút về hướng Mô-lô-đếch-nô, nhưng tin này chưa được xác định.
Giu-cốp. Pháo binh nặng ở đâu?
Cli-mốp-xkích. Phần lớn pháo binh nặng ở trong tay chúng tôi Chúng tôi không nắm được các trung đoàn lựu pháo 375 và 120.
Giu-cốp. Ky binh, các quân đoàn cơ giới 13, 14 và 17 ở đâu?
Cli-mốp-xkích. Quân đoàn cơ giới 13 ở Xtôn-bxư. Quân đoàn cơ giới 14 còn lại một số xe tăng, số này đã nhập vào quân đoàn 17 đang ở Ba-ra-nô-vi-chi. Không có tin về nơi ở của kỵ binh.
Đồng chí Cô-rốp-cốp đã đưa số quân còn lại của các sư đoàn 42, 6, 75 ra. Có cơ sở để cho rằng sư đoàn khinh binh 49 ở trong rừng Be-lô-ve-giơ. Chúng tôi đã phái cán bộ đặc biệt nhảy dù đi thẩm tra việc này và đưa sư đoàn ra trước khi trời sáng. Chúng tôi cho rằng đồng chí Cu-dơ-nét-xốp rút ra theo dọc hai bên bờ Nê-man.
Giu-cốp. Hôm nay trận đánh với quân đoàn cơ giới địch trước khu phòng thủ Min-xcơ ra sao và bọn địch hôm qua ở Xlút-xcơ và trước khu phòng thủ Min-xcơ hiện nay ở đâu?
Cli-mốp-xkích. Sư đoàn khinh binh 64 đánh nhau với quân đoàn cơ giới địch ở khu phòng thủ Min-xcơ. Quân địch từ Xlút-xcơ đang tiến đến Bô-brui-xcơ nhưng đến chiều Bô-brui-xcơ chưa bị chiếm.
Giu-cốp. Thế nào là "chưa bị chiếm"?
Cli-mốp-xkích. Chúng tôi dự đoán là quân địch định thọc vào Bô-brui-xcơ. Việc đó không xảy ra.
Giu-cốp. Cẩn thận, quân địch có thể từ phía bắc đi vòng qua khu phòng thủ Min-xcơ của các đồng chí. Phải bịt kín hướng Lô-gôi-xcơ - Dem-bin - Plê-sê-nít-sa, nếu không, quân địch vòng qua khu phòng thủ sẽ tới Bô-ri-xốp trước các đồng chí. Tôi nói xong. Tạm biệt".
Mặc dù các chiến sĩ và các cán bộ chỉ huy đã chiến đấu với tinh thần của chủ nghĩa anh hùng tập thể, mặc dù các tướng lĩnh anh dũng xử trí, tình hình ở tất cả các trận địa của Phương diện quân miền Tây vẫn tiếp tục xấu đi. Tối ngày 28-6, quân ta rút khỏi Min-xcơ.
Thọc được vào Min-xcơ, quân địch bắt đầu tiêu diệt một cách dã man nhân dân thành phố, đất và phá các quý vật văn hóa và di tích lịch sử.
Đại bản doanh và Bộ Tổng tham mưu đau đớn nhận tin quân ta phải bỏ thủ đô Bê-lô-ru-xi. Tất cả chúng tôi đều hiểu rằng những người dân trong thành phố không kịp đi về phía đông, bị lâm vào tình thế nặng nề như thế nào.
Ngày 29-6, I.V. Xta-lin hai lần tới Bộ ủy viên nhân dân quốc phòng, tới Đại bản doanh Bộ Tổng tư lệnh và cả hai lần I.V. Xta-lin đều vô cùng bực bội trước tình hình diễn ra ở hướng chiến lược phía tây
Lúc 6 giờ 45 phút ngày 30-6, theo lệnh của Ủy viên nhân dân quốc phòng X.K. Ti-mô-sen-cô, tôi nói chuyện theo máy "Bô-đô" với tư lệnh phương diện quân, đại tướng Đ.G. Páp-lốp. Qua cuộc nói chuyện thì thấy ngay tư lệnh phương diện quân cũng không biết rõ tình hình.
Dưới đây trích dẫn cuộc nói chuyện:
"Giu-cốp. Chúng tôi không thể có quyết định gì được trong khi không biết tình hình ở các vùng Min-xcơ, Bô-brui-xcơ, Xlút-xcơ đã diễn ra như thế nào. Yêu cầu đồng chí cho biết thực chất của tình hình ra sao.
Páp-lốp. Ở vùng Min-xcơ quân đoàn khinh binh 44 đang rút về phía nam đường Mô-ghi-lép; tuyến phòng ngự cần phải trụ lại được quy định là Xta-khốp - Chéc-ven.
Ở vùng Xlút-xcơ ngày hôm qua, theo sự quan sát của không quân, sư đoàn bộ binh cơ giới 210 chiến đấu ở vùng Si-sết-sư.
Ở vùng Bô-brui-xcơ hôm nay vào lúc 4 giờ, quân địch đã bắc cầu và bắt đầu cho 12 xe tăng vượt qua.
Giu-cốp. Quân Đức truyền qua ra-đi-ô rằng hai tập đoàn quân bị chúng bao vây ở phía đông Bê-lô-xtốc. Chắc có phần nào đúng sự thật. Tại sao bộ tham mưu của đồng chí không cử phái viên đi tìm các đơn vị? Các đồng chí Cu-lích, Bôn-đin, Cu-dơ-nét-xốp ở đâu? Quân đoàn kỵ binh ở đâu? Không lẽ, không quân lại không phát hiện ra kỵ binh?
Páp-lốp. Đúng, phần lớn là đúng sự thật. Chúng tôi được biết rằng ngày 25 và ngày 26 tháng 6 có các đơn vị ta chiến đấu ở trên sông Sa-ra để giành giật đường qua sông với bọn địch chiếm giữ bờ phía đông. Tập đoàn quân 3 định rút theo hai bờ sông Sa-ra.
Quân đoàn khinh binh 21 ở vùng Li-đa. Trước đây có liên lạc vô tuyến với quân đoàn này, nhưng từ hôm qua đã mất liên lạc, quân đoàn đang rút ra khỏi vòng vây về hướng đã quy định. Không quân không thể tìm thấy kỵ binh và các đơn vị cơ giới, vì tất cả đều ẩn kín để tránh không quân địch. Một nhóm cán bộ có mang theo đài vô tuyến đã được phái đi tìm đồng chí Cu-lích và các đơn vị của ta. Hiện nay chưa có trả lời của nhóm này. Các đồng chí Bôn-đin và Cu-dơ-nét-xốp cũng như đồng chí Gô-lu-bép cho đến ngày 26 tháng 6 đều ở dưới các đơn vị.
Giu-cốp. Nhiệm vụ chủ yếu của đồng chí là nhanh chóng tìm ra các đơn vị và đưa các đơn vị về bên này sông Bê-rê-di-na. Đồng chí hãy trực tiếp nắm lấy việc này và chọn những cán bộ bộ binh và không quân có khả năng để làm nhiệm vụ.
Đại bản doanh Bộ Tổng tư lệnh yêu cầu đồng chí trong thời hạn ngắn nhất phải tập họp toàn bộ số quân của phương diện quân và khôi phục lại trạng thái cần thiết.
Trong bất kỳ trường hợp nào cũng không được để cho các đơn vị địch thọc vào vùng Bô-brui-xcơ và vùng Bô-ri-xốp. Dù thế nào đồng chí cũng không được để xảy ra sự gián đoạn của việc tập trung các quân đoàn ở vùng Oóc-sa - Mô-ghi-lép - Giơ-lô-bin - Rô-ga-chép.
Để lãnh đạo các trận đánh và để đồng chí biết được tình hình diễn ra ở gần Bô-brui-xcơ, cần cử tới đó một nhóm cán bộ mang theo đài vô tuyến và do đồng chí phó của đồng chí chỉ huy. Cần cấp tốc di chuyển các kho tàng để tất cả những kho đó không rơi vào tay địch.
Khi tình hình rõ ràng, đồng chí báo cáo ngay về mọi việc.
Páp-lốp. Để giữ Bô-brui-xcơ và Bô-ri-xốp chúng tôi sẽ điều tất cả các đơn vị thậm chí cả trường huấn luyện".
Song, tình hình phát triển không tốt hơn bao nhiêu. Ngày 30-6, I.V Xta-lin gọi dây nói tới Bộ Tổng tham mưu và ra lệnh triệu hồi tư lệnh Phương diện quân miền Tây, đại tướng Đ.G. Páp-lốp.
Ngày hôm sau, tướng Đ.G. Páp-lốp về đến nơi. Tôi gần như không nhận ra đồng chí, trong 8 ngày chiến tranh, Đ.G. Páp-lốp đã thay đổi hẳn. Ngay trong ngày hôm đó Đ.G. Páp-lốp bị cách chức tư lệnh phương diện quân và ít lâu sau bị đưa ra tòa án: cùng với Đ.G. Páp-lốp, theo đề nghị của Hội đồng quân sự Phương diện quân miền Tây, tòa án xét xử tham mưu trưởng phương diện quân, tướng Cli-mốp-xkích; chủ nhiệm thông tin, tướng Gri-gô-ri-ép; tư lệnh pháo binh, tướng Cu-lích, và các tướng khác trong bộ tham mưu phương diện quân.
Ủy viên nhân dân quốc phòng X.K. Ti-mô-sen-cô được cử làm tư lệnh Phương diện quân miền Tây, trung tướng A.I. Ê-rê-men-cô làm phó. Các tập đoàn quân của Phương diện quân Dự bị được chuyển sang tăng cường cho Phương diện quân miền Tây.
Tại Phương diện quân Tây-bắc, tình hình tiếp tục xấu đi.
Các tập đoàn quân 8 và 11 đã thoát ra khỏi vòng vây, nhưng do bộ tư lệnh phương diện quân, tổ chức kém nên đã rút tản mát theo nhiều hướng khác nhau và bị thiệt hại lớn.
Để bịt hướng Pơ-xcốp - Lê-nin-grát, Đại bản doanh Bộ Tổng tư lệnh ra lệnh cho tư lệnh quân đoàn cơ giới 21, tướng Đ.Đ. Lê-liu-sen-cô từ vùng Ô-pốt-ca - I-dri-sa tiến đến vùng Đau-ga-pin-xơ để đánh chặn, không cho địch vượt qua sông Tây Đờ-vi-na.
Song, nhiệm vụ này hoàn toàn không thể thực hiện được và ngày 26-6, quân địch dùng lực lượng lớn đã vượt qua sông Tây Đờ-vi-na và chiếm Đau-ga-pin-xơ. Tuy vậy quân đoàn cơ giới 21, dũng cảm chuyển sang tấn công quân đoàn mô-tô cơ giới 56 của địch, đã chặn bước tiến của chúng.
Nhớ lại trận này, chuẩn thống chế, bá tước Man-xten, khi đó là tư lệnh quân đoàn mô-tô cơ giới 56 đã viết trong cuốn sách "Những thắng lợi bị mất" của y:
"... chẳng bao lâu chúng tôi đã phải chuyển sang phòng ngự ở bờ bắc sông Đờ-vi-na chống lại các cuộc tấn công của một sư đoàn xe tăng đối phương. Tại một số trận địa tình hình trở thành nghiêm trọng".
Song, dưới áp lực của các lực lượng địch nhiều hơn và của không quân địch, quân đoàn cơ giới 21 buộc phải rút về phòng ngự. Trên trận địa phòng ngự này, quân đoàn đã đánh lui các cuộc tấn công của địch, giữ vững vỉ trí đến tận ngày 2-7. Về sau quân đoàn cơ giới 21 được sát nhập vào tập đoàn quân 27 do thiếu tướng N.E. Béc-da-rin chỉ huy.
Tôi ân cần nhắc lại chiến công xuất sắc và tinh thần chiến đấu dũng cảm của một đơn vị thuộc quân đoàn cơ giới 21, sư đoàn xe tăng 46 do đại tá V.A. Cốp-xốp, anh hùng của Khan-khin Gôn chỉ huy, cũng như của tư lệnh tập đoàn quân 27, tướng N.E. Béc-da-rin. N.E. Béc-da-rin trong thời gian cuối chiến tranh, đã chỉ huy tập đoàn xung kích anh hùng 5 thuộc Phương diện quân Bê-lô-ru-xi 1 dũng cảm đột phá Béc-lanh và trở thành tư lệnh quân quản đầu tiên của thành phố.
Cuối tháng, I.V. Xta-lin lại ra quyết định thay đổi cán bộ trong cơ quan lãnh đạo quân đội. Ngày 30-6, trung tướng N.Ph. Va-tu-tin được cử làm tham mưu trưởng Phương diện quân Tây-bắc.
Ngày 2-7, tập đoàn quân 27 bị lực lượng địch uy hiếp, bắt đầu rút lui. Suốt trong thời gian này, tập đoàn quân đã chiến đấu trên một trận tuyến rộng và không còn lực lượng cũng như phương tiện để tổ chức các tuyến phòng ngự ở phía sau.
Vì lực lượng dự bị ta chưa kịp đến sông Vê-li-cai-a, nên quân địch trong hành tiến đã chiếm thành phố Pơ-xcốp. Tập đoàn quân 8 của Phương diện quân Tây-bắc, sau khi bị mất liên lạc với các đơn vị khác đã rút lên phía bắc.
Như vậy là trong 18 ngày đầu chiến tranh, Phương diện quân Tây-bắc đã bị mất Lít-va, Lát-vi-a và một phần lãnh thổ Cộng hòa liên bang Nga, do đó có nguy cơ quân địch sẽ vượt qua Lu-ga tiến về phía Lê-nin-grát mà công sự và thiết bị trên các ngả đường đi vào thành phố này chưa được củng cố và lực lượng bảo vệ lại mỏng.
Trong suốt thời gian này, Bộ Tổng tham mưu không nhận được của bộ tham mưu Phương diện quân Tây-bắc những báo cáo rõ ràng và đầy đủ về tình hình quân ta, về các đạo quân của địch và vị trí của các đoàn quân xe tăng và mô-tô cơ giới của chúng. Đôi khi, đành phải xác định sự phát triển tình hình theo cảm tính, nhưng phương pháp đó, như chúng ta đểu biết, không đảm bảo tránh khỏi sai lầm.
Tại Phương diện quân miền Tây - các hướng Vi-tép-xcơ, Oóc-sa, Mô-ghi-lép, và Bô-brui-xcơ - các trận đánh đầu tháng 7 đã diễn ra trong điều kiện quân địch có ưu thế tuyệt đối về lực lượng cơ giới thiết giáp và không quân. Quân ta mệt mỏi sau những trận chiến đấu liên tiếp, đã rút về phía đông, nhưng trong khi rút, lúc nào củng cố gắng gây cho địch những thiệt hại lớn nhất và, theo sức mình, kìm lâu chúng tại các tuyến phòng ngự.
Trên triền sông Bê-rê-di-na, quân ta chiến đấu đặc biệt ngoan cường ở vùng thành phố Bô-ri-xốp, ở đó có trường huấn luyện xe tăng Bô-ri-xốp, do chính ủy sư đoàn I.Đ. Xu-xai-cốp lãnh đạo. Vừa lúc đó sư đoàn bộ binh cơ giới Mát-xcơ-va 1 do thiếu tướng Ya.G. Crây-de chỉ huy được điều động tới. Sư đoàn được kiện toàn theo quy chế thời chiến, được huấn luyện tốt và có các xe tăng T-34. Tướng Ya.G. Crây-de đã chỉ huy sư đoàn và trường huấn luyện xe tăng Bô-ri-xốp đánh chặn được sư đoàn xe tăng tăng cường 18 của địch trong hơn 2 ngày đêm. Trong lúc này điều đó có ý nghĩa quan trọng. Tướng Ya.G. Crây-de chỉ huy các trận đánh rất xuất sắc.
Tại Phương diện quân Nam, quân Đức - Ru-ma-ni từ lãnh thổ Ru-ma-ni tấn công sang, đột kích chủ yếu vào hướng Mô-ghi-lép - Pô-đôn-xcơ - Giơ-mê-rin-ca, đe dọa tiến đánh sườn và hậu phương các tập đoàn quân 12, 26, 6 của Phương diện quân Tây-nam.
Trong 6 ngày đêm đầu tiên của các trận đánh ác liệt, quân địch chọc thủng được tuyến phòng ngự của Phương diện quân Nam và tiến được khoảng 60 km. Tình hình Phương diện quân Tây-nam cũng xấu đi nhiều, bởi vì lúc này quân Đức, sau mấy lần cố gắng, cuối cùng đã bẻ gãy được phòng ngự của ta ở vùng Rốp-nô - Đúp-nô - Crê-mê-nét và ùn ùn kéo vào cửa đột phá.
Ngày 4-7, quân Đức tiến gần đến khu phòng thủ Nô-vô-grát - Vô-lưn-xcơ nhưng đến đây các cuộc tấn công của chúng bị đánh lui và chúng bị thiệt hại lớn.
Các đơn vị cơ giới thiết giáp, xe tăng địch phải trụ lại ở đó gần 3 ngày đêm. Không đạt được kết quả, chúng tập trung lực lượng lại ở phía nam Nô-vô-grát - Vô-lưn-xcơ và sau đó, ngày 7-7, đánh chiếm Béc-đi-chép và ngày 9-7 chiếm Gi-tô-mia.
Việc quân Đức - Ru-ma-ni chiếm Béc-đi-chép, Gi-tô-mia và tiếp tục tấn công ở hướng Mô-ghi-lép - Pô-đôn-xcơ làm cho các tập đoàn quân 12, 26 và 6 của Phương diện quân Tây-nam có nguy cơ bị hợp vây. Các tập đoàn quân này vừa chiến đấu chống lại quân địch đang ào tới, vừa từ từ lùi về phía đông.
Ngày 9-7, bộ tư lệnh Phương diện quân Tây-nam đã tổ chức phản kích vào Béc-đi-chép để thủ tiêu nguy cơ thực tế bị hợp vây. Các quân đoàn cơ giới 15, 4 và 16 được điều tới tham gia phản kích. Tập đoàn quân 5 vẫn tiếp tục phản kích từ phía bắc vùng Gi-tô-mia.
Ngay lúc này Phương diện quân Tây-nam đã tiến hành cuộc tập kích mạnh từ khu phòng thủ Cô-rô-xten vào sườn đạo quân xe tăng 1 của địch.
Các trận đánh ở vùng Béc-đi-chép - Gi-tô-mia bắt đầu vào ngày 9-7 tiếp diễn đến ngày 16-7. Bị thiệt hại lớn và sợ ngọn đòn từ phía bắc đánh vào sườn tập đoàn quân chủ yếu của chúng, bộ tư lệnh cụm tập đoàn quân "Nam" của Đức phải tạm ngừng tấn công ở vùng Gi-tô-mia.
Tình hình đó cho phép bộ tư lệnh Phương diện quân Tây-nam cuối cùng đã đưa được chủ lực của các tập đoàn quân 6 và 12 ra khỏi nguy cơ bị hợp vây và củng cố thêm được sự phòng thủ Ki-ép.
Như vậy là, quân địch một lần nữa lại không bao vây được quân của Phương diện quân Tây-nam. Chúng buộc phải luôn luôn tiến hành những trận đánh vỗ mặt đẫm máu. Và như vậy là các quân đoàn xe tăng thiết giáp, mô-tô cơ giới thuộc tập đoàn quân của Clây-xtơ không thể đột phá và tới được dải phòng ngự chiến dịch của ta.
Tại Phương diện quân Bắc, địch bắt đầu tấn công ngày 29-6 nhưng các trận đánh của chúng có tính chất địa phương và không có ảnh hưởng gì đặc biệt tới tình hình chiến lược chung.
Lực lượng hải quân ta trong hồi đầu chiến tranh không có những trận xung đột đặc biệt với lực lượng hải quân Đức mà chủ yếu là đánh lại các đợt tấn công của không quân địch. Tuy vậy Hạm đội Ban-tích cũng lâm vào tình thế khó khăn. Tình hình đặc biệt phức tạp đối với căn cứ hải quân chính, nơi tập trung tất cả các tàu chiến chủ lực và lực lượng dự trữ vật chất của Hạm đội Ban-tích. Và các trận chiến đấu của tập đoàn quân 8 thuộc Phương diện quân Tây-bắc không đạt kết quả nên lực lượng bảo vệ trên đất liền của căn cứ hải quân Ta-lin và thành phố Ta-lin trở nên rất yếu.
Toàn bộ lực lượng của Hạm đội Huân chương Cờ Đỏ Ban-tích, các đội vũ trang của công nhân thành phố được tung ra để bảo vệ thủ đô E-xtô-ni-a. Các tuyến phòng ngự được cấp tốc dựng lên tại các ngả đường đi vào Ta-lin, các vật chướng ngại được xây dựng, các mục tiêu trong thành phố được chuẩn bị để phòng thủ.
Nhiều lần địch cố gắng đánh chiếm thành phố và căn cứ hải quân trong hành tiến, nhưng các cố gắng đó đã bị quân đoàn khinh binh 10 thuộc tập đoàn quân 8, các đơn vị lính thủy đánh bộ, pháo binh trên các tàu của hạm đội và các đội vũ trang của dân quân Ta-lin anh dũng đánh lui.
Cuối tháng 7 và gần suốt tháng 8, cuộc chiến đấu để bảo vệ Ta-lin và căn cứ hải quân chủ yếu của Hạm đội vẫn tiếp diễn. Cuối tháng 8, vì quân ta bị kiệt sức và quân địch được tăng cường, Đại bản doanh Bộ Tổng tư lệnh quyết định đưa các tàu của hạm đội từ căn cứ ngoài biển về Crôn-xtát và bến Lê-nin-grát, bỏ Ta-lin lại.
Máy bay chiến đấu của hạm đội đã tham gia tích cực và trực tiếp vào việc bảo vệ bàn đạp Ta-lin, nhiều lần tập kích vào các binh đoàn tấn công của địch. Cũng cần phải đánh giá cho đúng chiến công của các chiến sĩ hải quân Ban-tích: ở trên bộ cũng như trên hạm tàu, họ đã chiến đấu như những người anh hùng chân chính.
Trong thời kỳ này, Hạm đội Bắc phối hợp với Phương diện quân Bắe đã mở các chiến dịch dùng tàu ngầm đánh vào các tàu vận tải địch chở quặng kền từ Pét-xa-mô về. Hạm đội Biển Đen chủ yếu đảm bảo việc chở người và vũ khí đạn dược cho các tập đoàn quân ở ven biển và hoạt động trên các đường giao thông của địch để ngăn cản việc chuyên chở của chúng vào các hải cảng Ru-ma-ni và Bun-ga-ri.
Một đội tàu chiến của Hạm đội Biển Đen cùng với không quân đã đánh vào căn cứ của hạm đội Ru-ma-ni ở Côn-xtan-xơ. Máy bay của Hạm đội Biển Đen đã ném bom có hệ thống xuống các vùng khai thác dầu lửa và các đầu mối đường sắt của Ru-ma-ni.
Tôi chủ tâm không nói cặn kẽ về các hoạt động chiến đấu của hải quân vì nghĩ rằng các đô đốc và các sĩ quan hải quân sẽ làm việc đó đầy đủ và đặc sắc hơn tôi. Song cần phải nói rằng, kết quả phối hợp hành động của các Phương diện quân trên bộ và hải quân có thể có hiệu quả lớn hơn nữa, nếu như trong những năm trước chiến tranh các vấn đề về phòng thủ bờ biển và phòng thủ các căn cứ hải quân được giải quyết một cách chín chắn hơn. Tiếc rằng, bộ tư lệnh hải quân, Ủy viên nhân dân quốc phòng và Bộ tổng tham mưu nắm lấy những vấn đề này quá chậm.
Đã gần 3 tuần lễ kể từ khi phát-xít Đức xé bỏ hiệp ước không tấn công, dùng lực lượng vũ trang xâm nhập vào lãnh thổ nước ta. Chỉ trong thời gian này thôi, quân đội Hít-le đã bị mất gần 10 vạn người, hơn 1.000 máy bay, 1.500 xe tăng (50% tổng số xe tăng mà chúng có trong thời kỳ đầu chiến tranh).
Lực lượng vũ trang Liên Xô, và đặc biệt là Phương diện quân miền Tây cũng bị những thiệt hại lớn, điều đó còn để lại dấu vết rõ rệt trong các sự kiện tiếp diễn về sau. Tương quan lực lượng trên chiến trường Xô - Đức càng biến đổi mạnh về phía có lợi cho quân thù. Địch giành được những thắng lợi quan trọng, đã tiến sâu vào trong nước ta 500 - 600 km, chiếm được những vùng kinh tế quan trọng và những mục tiêu chiến lược.
Tất cả những điều đó quả là rất bất ngờ đối với nhân dân và quân đội ta. Song, trong những ngày tháng nặng nề này, sự nhất trí về tư tưởng - chính trị của những người xô-viết đã xuất hiện với một sức mạnh đặc biệt.
Đảng và nhân dân ta không hề nao núng.
Ngay từ lúc đầu và mỗi ngày một tăng, công tác tổ chức và chính trị to lớn của Đảng được mở rộng toàn diện và đầy đủ nhằm một mục đích: động viên toàn bộ lực lượng nhân dân đứng lên chống quân thù.
Ngay trong ngày 23-6, ta đã thực hiện những kế hoạch động viên đề ra từ trước, trong đó có các kế hoạch sản xuất vũ khí đạn dược. Các Bộ Ủy viên nhân dân nhận được chỉ thị tăng mức sản xuất xe tăng, pháo, máy bay và các loại kỹ thuật chiến tranh khác. Một tuần lễ sau, chính phủ bãi bỏ kế hoạch đang thực hiện của quý ba năm 1941 và phê chuẩn kế hoạch động viên kinh tế quốc dân trong quý đó nhằm tăng mức sản xuất kỹ nghệ chiến tranh lên hơn 1/4.
Song, các việc xảy ra chứng tỏ rằng, như vậy còn là ít. Vì vậy, một ủy ban do N.A. Vô-dơ-nê-xen-xki làm chủ tịch đã nghiên cứu đề ra cho quý ba năm 1941 kế hoạch kinh tế chiến tranh mới, khẩn trương hơn. Dựa vào các nguồn dự trữ kinh tế đã có cơ sở từ trước chiến tranh, chính phủ thông qua kế hoạch khẩn trương phát triển các vùng Pô-vôn-gie, U-ran, Tây Xi-bê-ri, Ca-dắc-xtan và Trung Á trong năm 1942. Các vùng này đã đóng vai trò lớn lao trong việc chuyển toàn bộ nền kinh tế quốc dân sang kinh tế chiến tranh. Các tỉnh đảng ủy đã làm được nhiều việc lớn để cải tổ và khôi phục kinh tế ở miền đông đất nước.Ví dụ như tỉnh ủy Chê-li-a-bin-xcơ hồi đó do N.X. Pa-tô-li-chép lãnh đạo, đã góp phần đáng kể vào công cuộc quốc phòng.
Chúng ta bắt đầu xây dựng lại công nghiệp và vận tải, phân bố lại các nguồn nhân lực và vật lực, động viên nông nghiệp phục vụ chiến tranh. Hàng nghìn nhà máy mới hôm qua còn sản xuất sản phẩm thời bình, nay đã chuyển sang sản xuất vũ khí đạn dược và kỹ thuật chiến tranh.
Các nhà máy cơ khí, các nhà máy sản xuất máy công cụ được cấp tốc chuyển sang sản xuất xe tăng và máy bay, các nhà máy luyện kim thực hiện các biện pháp để tổ chức việc sản xuất hàng loạt các tấm thiết giáp, vỏ và đầu trái phá, thép cao cấp. Các xí nghiệp công nghiệp ra-đi-ô và điện bây giờ sân xuất các động cơ và máy phát điện cho xe tăng, máy dò mìn, máy bắt tiếng động, thiết bị ra-đa. Ét-xăng cho máy bay và nhiên liệu cho xe tăng và tàu chiến trở thành sản phẩm chủ yếu của các nhà máy chế biến dầu lửa. Kíp nổ cho các đạn trái phá được đặt lên dây chuyền sản xuất thay vào chỗ các máy móc đồng hồ. Các xe lửa bọc thép bị hỏng được đưa tới các nhà máy sửa chữa của đường sắt.
Quân địch chiếm những vùng kinh tế hết sức quan trọng, làm tê liệt công cuộc động viên ở nhiều quân khu cũ, hàng triệu người Xô-viết, nhiều kho tàng vật chất lớn bị nằm trong hậu phương địch. Trên vùng đất đai bị địch chiếm được trong 3 tuần lễ đầu, có 40% dân số, đó cũng là nơi sản xuất hơn 1/3 tổng sản lượng của cả nước. Mức sản xuất các vật liệu chiến lược, gang, thép, thép dát, điện lực, giảm rất nhiều. Nguy cơ đang uy hiếp các trung tâm công nghiệp mới.
Cần phải có những phương sách khác thường để bốc các nhà máy còn nguyên vẹn lên, đưa nó về phía đông, kết hợp nó với các xí nghiệp đang hoạt động ở đó, và dựa vào phần đất nước này để đánh địch, chặn nó lại, đánh gục nó.
Những công việc lớn lao chưa từng thấy trong lịch sử về quy mô và tính chất của nó được. tiến hành khẩn trương. Ngày 24-6, Ban chấp hành trung ương Đảng và Hội đồng ủy viên nhân dân Liên Xô ra quyết định thành lập ủy ban di chuyển do N.M. Svéc-ních làm Chủ tịch, A.N. Cô-xư-ghin, M.G. Péc-vu-khin làm Phó chủ tịch. Tại các bộ Ủy viên nhân dân có các phòng và các ban phụ trách công tác di chuyển. Hơn 1.500 xí nghiệp lớn, chủ yếu là các xí nghiệp lớn, các xí nghiệp quốc phòng đã được di chuyển trong thời hạn rất ngắn - từ tháng 6 đến tháng 11 năm 1941 - và nhanh chóng trở lại hoạt động. Trong khi đó, như dòng thác không ngừng cả ngày lẫn đêm, các đoàn tàu xe vẫn chở quân và vũ khí tiến về phía Tây và Tây-nam.
Toàn bộ sự giao lưu vĩ đại đó diễn ra với sự khẩn trương cao độ về sức lực gây ra nhiều sự rối loạn, xung đột, làm thần kinh căng thẳng, nhưng vẫn được tiến hành không phút đình trệ, ngày càng tăng, càng phục tùng chặt chẽ vai trò lãnh đạo và tổ chức của Đảng.
Tôi nghĩ rằng thời kỳ anh hùng đó trong đời sống của nhân dân Liên Xô, của Đảng ta không thể lãng quên được, và cho đến nay, tất cả những việc nói.chung mà Đảng và nhân dân ta đã làm về phương diện kinh tế. trong những năm chiến tranh vẫn chưa được khai thác, miêu tả đầy đủ. Mà chính trong những thời kỳ gay gắt đó, dưới ánh sáng của những sự kiện hùng vĩ đó, đã hiện lên một cách rõ nhất những tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, của nền kinh tế quốc dân dựa trên cơ sở sở hữu xã hội.
Bản anh hùng ca lao động của nhân dân trong việc di chuyển và khôi phục các nguồn lực sản xuất trong những năm chiến tranh và công tác tổ chức cực kỳ lớn lao của Đảng trong việc này, về mặt quy mô rộng lớn và ý nghĩa của nó đối với vận mệnh của Tổ quốc ta, cũng ngang với các chiến dịch vĩ đại nhất của Thế chiến thứ hai.
Nếu như tôi không nhớ sai, thì ngay trong những ngày đầu chiến tranh, theo quyết định của Bộ Chính trị Ban chấp hành trung ương Đảng, đã có hơn 50 ủy viên và ủy viên dự khuyết Ban chấp hành trung ương Đảng, hơn 100 bí thư các đảng ủy biên khu, tỉnh ủy và các Ban chấp hành trung ương Đảng các nước Cộng hòa liên bang, các cán bộ nhà nước lỗi lạc và giàu kinh nghiệm đã được cử trực tiếp làm công tác quân sự. Đảng đã lập tức thi hành nhiều biện pháp thực tế để tăng cường sự lãnh dạo tập trung đối với mọi mặt của đời sống đất nước và cuộc chiến đấu của các lực lượng vũ trang. Cơ quan của Ban chấp hành trung ương Đảng dược cải tổ, chức năng và nhiệm vụ giữa các ủy viên Trung ương Đảng trong việc lãnh đạo các mặt công tác quân sự, kinh tế và chính trị được quy định rõ .
Đảng ta có kinh nghiệm biến đất nước trở thành một doanh trại quân đội thống nhất. Tôi đã nói tới điều đó ở đầu cuốn sách. Kinh nghiệm này được áp dụng ngay từ những ngày đầu chiến tranh, có tính toán cả đến những điều kiện mới. Kinh nghiệm này do Lê-nin đề ra đầu tiên, những nguyên tắc Lê-nin chỉ đạo việc tiến hành mọi công việc khi đất nước gặp cơn nguy hiểm sống còn là cơ sở cho toàn bộ sự hoạt động của những người đảng viên cộng sản ở tiền tuyến cũng như ở hậu phương. Nhân dân tin tưởng rằng Đảng sẽ tìm ra con đường thoát khỏi tình hình khó khăn đã xảy ra và sẽ biết cách tổ chức đánh tan quân phát-xít Đức. Chỉ cốt có thời gian.
Ngày 30-6-1941, Hội đồng quốc phòng Nhà nước do Tổng bí thư Ban chấp hành trung ương Đảng, I.V. Xta-lin, đứng đầu được thành lập. Đó là cơ quan có đủ uy tín để lãnh đạo công cuộc phòng thủ đất nước, nó tập trung trong tay toàn bộ quyền lực. Các tổ chức nhân dân, Đảng, Nhà nước đều có trách nhiệm thi hành mọi quyết định và chỉ thị của Hội đồng quốc phòng Nhà nước.
Để kiểm tra sự thi hành các quyết định và chỉ thị đó, Hội đồng quốc phòng Nhà nước có các đại diện của mình tại các biên khu và các tỉnh, tại các Bộ Ủy viên nhân dân công nghiệp, quốc phòng, tại các xí nghiệp và công trình chủ yếu nhất.
Những vấn đề quan trọng nhất của thời đó được thảo luận và quyết định trong các phiên họp của Hội đồng quốc phòng Nhà nước được triệu tập vào bất kỳ lúc nào trong ngày đêm, thường là ở Crem-lanh hoặc ở nhà riêng của I.V. Xta-lin. Ý đồ của những chiến dịch lớn nhất được Hội đồng quốc phòng Nhà nước cùng với Ban chấp hành trung ương Đảng, các Ủy viên nhân dân mà quyền hạn được mở rộng nhiều, xem xét. Điều đó cho phép, khi có điều kiện, đảm bảo tập trung được các lực lượng vật chất to lớn vào các hướng quan trọng nhất, cho phép thực hiện một đường lối thống nhất trong lĩnh vực lãnh đạo chiến lược và dựa chắc chắn vào một hậu phương có tổ chức, nó là điều kiện thuận lợi để gắn liền sự hoạt động chiến đấu của quân đội với sức cố gắng của cả nước.
Rất nhiều lần trong các phiên họp của Hội đồng quốc phòng Nhà nước đã nổ ra những cuộc tranh luận gay go trong đó những ý kiến được nêu ra một cách khẳng định và gay gắt, và I.V. Xta-lin thường thường đi đi lại lại gần bàn, chăm chú nghe các đồng chí khác tranh luận. I.V. Xta-lin ít lời và không ưa người khác nhiều lời, thường ngăn những người nói bằng những tiếng "ngắn hơn", "rõ hơn". I.V. Xta-lin khi khai mạc các phiên họp, không có những lời nói mở đầu, I.V. Xta-lin nói khoan thai, tự nhiên, chỉ đi vào thực chất của vấn đề, nói gọn, diễn đạt rõ ràng các ý nghĩ.
Nếu trong phiên họp của Hội đồng quốc phòng Nhà nước mà không đi tới ý kiến thống nhất, thì lập tức thành lập tiểu ban gồm đại diện các phía đối lập nhau và tiểu ban này có nhiệm vụ nêu ra những ý kiến đã nhất trí. Đấy là vào những trường hợp khi I.V. Xta-lin chưa có ý kiến dứt khoát. Còn nếu I.V. Xta-lin tới họp đã có ý định sẵn thì hoặc các cuộc tranh luận không nổ ra hoặc các cuộc tranh luận nhanh chóng chấm dứt khi I.V. Xta-lin ngả về một trong các phía.
Trong toàn bộ thời gian chiến tranh, Hội đồng quốc phòng Nhà nước đã thông qua gần một vạn quyết định và chỉ thị có tính chất quân sự và kinh tế. Thực hiện nghiêm chỉnh và tích cực các chỉ thị và nghị quyết đó chính là đảm bảo chấp hành đường lối thống nhất lãnh đạo đất nước của Đảng trong thời kỳ khó khăn gian khổ này.
I.V. Xta-lin là một người cương nghị và, như phương ngôn nói, không phải là người non gan. Chỉ có một lần tôi thấy I.V. Xta-lin hơi bàng hoàng, đó là vào buổi sớm ngày 22-6-1941: lòng tin tưởng của I.V. Xta-lin vào khả năng tránh được chiến tranh bị sụp đổ.
Sau ngày 22-6-1941, trong suất cả cuộc chiến tranh, I.V. Xta-lin cùng với Ban chấp hành trung ương Đảng và Chính phủ Liên Xô đã vừng vàng lãnh đạo đất nước, lãnh đạo cuộc đấu tranh vũ trang và sự thực hiện nhiệm vụ quốc tế của chúng ta.
Những thất bại và những thiệt hại nặng nề xảy ra trong thời gian đầu chiến tranh làm cho cuộc chiến đấu diễn biến phức tạp thêm. Quân đội vừa chiến đấu vừa rút về phía sâu trong đất nước. Hội đồng quốc phòng Nhà nước, Ban chấp hành trung ương Đảng và các tổ chức Đảng tại các địa phương đã dùng mọi biện pháp cần thiết để giải thích cho nhân dân rõ tinh thế bắt buộc phải tạm thời rút lui.
Mặc dù tình hình rất phức tạp, các tổ chức Đảng và các cơ quan Nhà nước U-crai-na, Bê-lô-ru-xi và các nước Cộng hòa miền Pri-ban-tích đã triển khai có kết quả công tác động viên nhân dân tích cực đấu tranh với quân thù. Để thực hiện mục đích này, tại các vùng tạm thời phải bỏ lại, đã thành lập nhiều tổ chức bí mật của Đảng và Đoàn thanh niên cộng sản, đã đào tạo đội ngũ cán bộ cốt cán của các đội du kích trong đó có các chiến sĩ Hồng quân, cán bộ chỉ huy và cán bộ chính trị của các đơn vị đã thoát khỏi vòng vây. Đặt chân lên đất nước ta, quân địch không những mau chóng thấy rõ lòng căm thù của người Xô-viết đối với bọn phát-xít Đức xâm lược mà ngay lập tức còn bị những người đã rút vào hoạt động bí mật đánh đau.
Trong những ngày đó, Bộ tư lệnh Liên Xô không có cách nào khác, ngoài việc phải chuyển sang phòng ngự về chiến lược. Lúc đó chưa có lực lượng cũng như phương tiện để tiến hành các chiến dịch tấn công, đặc biệt là những chiến dịch lớn. Cần phải thành lập các lực lượng dự bị chiến lược lớn, vũ trang đầy đủ cho số quân đó, để có sức mạnh lớn hơn địch để giành lại từ tay địch thế chủ động; sau đó chuyển sang tấn công, mở đầu việc đuổi các lực lượng địch ra khỏi Liên Xô.
Tất cả những điều đó đã được thực hiện, nhưng mãi về sau này.
Quân ta chuyển sang phòng ngự chiến lược trong quá trình rút lui bị động. Chúng ta phải hành động trong tình thế không đủ lực lượng để bố trí đội hình chiến dịch - chiến thuật, thiếu lực lượng và phương tiện để tổ chức phòng ngự có chiều sâu và đặc biệt là không xây dựng được xương sống của nó - việc phòng ngự chống xe tăng.
Không thể không nói tới sự yếu ớt của các phương tiện cao xạ phòng không của chúng ta và tình trạng không đủ tới mức cần thiết không quân để bảo vệ bầu trời. Trong thời kỳ đầu chiến tranh, quân địch đã làm chủ trên không, điều đó ảnh hường nhiều đến sức vững vàng của quân ta
Tuy vậy, mặc dù có nhiều thiếu sót và đôi khi tinh thần chống cự của chính các đơn vị cũng không đều nhau, công cuộc phòng ngự chiến lược về cơ bản vẫn được tổ chức xong.
Như chúng ta biết, trong các giai đoạn thứ hai và thứ ba của cuộc chiến tranh, khi bọn Hít-le thấm đau vì những thất bại trên khắp chiến trường Liên Xô, chúng đã không thể xây dựng nổi việc phòng ngự như thế
Mục đích chủ yếu nhất của phòng ngự chiến lược của ta lúc đó là:
- Kìm thật lâu quân phát-xít lại trên các tuyến phòng ngự để tranh thủ thời gian nhiều nhất đưa các lực lượng từ phía sau tới và thành lập các lực lượng dự bị mới, điều động và triển khai các lực lượng đó trên các hướng quan trọng nhất.
- Gây cho địch những thiệt hại lớn nhất, làm cho chúng mỏi mệt và hao hụt và do đó phần nào làm cân bằng so sánh lực lượng.
- Đảm bảo thực hiện các biện pháp của Đảng và Chính phủ trong việc di nhân dân và các mục tiêu công nghiệp vào sâu trong nước, tranh thủ thời gian để chuyển công nghiệp sang phục vụ nhu cầu chiến tranh.
- Tích lũy tối đa các lực lượng và chuyển sang phản công để đập tan toàn bộ kế hoạch chiến tranh của bọn Hít-le.
Trong phòng ngự chiến lược, quân ta không những chống lại quân địch ở trên bộ, trên không và trên biển, mà quan trọng hơn cả là mở hàng loạt cuộc phản kích, ráo riết đánh vào quân thù. Ở bất cứ nơi nào có thể được, quân đội và du kích ta đã chiến đấu dũng cảm, gây thiệt hại hết sức to lớn cho bọn phát-xít xâm lược.
Vào ngày thứ năm của cuộc chiến tranh, theo quyết định của Ban chấp hành trung ương Đảng, bắt đầu có cuộc động viên các đảng viên và đoàn viên thanh niên cộng sản ra tiền tuyến, trong đó có những người làm chiến sĩ chính trị. Họ sẽ trở thành chỗ dựa cho các tổ chức Đảng trong quân đội.
Sát trước chiến tranh, trong Hồng quân và Hải quân có hơn 65 vạn đảng viên và 1/3 ba tổng số quân là các đoàn viên thanh niên cộng sản. Chỉ riêng trong 6 tháng đầu chiến tranh đã có hơn 110 vạn đảng viên cộng sản ra tiền tuyến.
Trong sách báo nước ngoài cho đến nay vẫn thường định nghĩa các đảng viên cộng sản, các cán bộ Đảng như là một hạng "người đặc biệt" tầng lớp có đặc quyền ở xã hội ta. Với tư cách là một quân nhân, tôi mong cho bất kỳ nước nào cũng có dược "lớp người đặc biệt" đó, lớp người mà đại biểu của nó đã có thể hy sinh anh dũng và không chút do dự vì Tổ quốc mình.
Tôi đã nhiều lần chuyện trò với các chiến sĩ chính trị đang trên đường đi tới các đơn vị quân đội. Những con người này có lòng tin tưởng đặc biệt sắt đá vào thắng lợi của chúng ta. "Chúng tôi sẽ đứng vững?" - họ thường nói như vậy. Và tôi cảm thấy đó không chỉ là lời nói, đó là hình tượng của suy nghĩ, đó là chủ nghĩa yêu nước xô-viết chân chính. Bằng tinh thần lạc quan cao độ của mình các chiến sĩ chính trị đã mang lại tin tưởng cho những người bắt đầu mất tinh thần.
Ngày 3-7, trong bài diễn văn trên đài phát thanh, I.V. Xta-lin thay mặt Ban chấp hành trung ương Đảng, giải thích về tình hình đã diễn ra trên các mặt trận và kêu gọi nhân dân Liên Xô khẩn trương tổ chức lại đời sống và nền kinh tế củ.a đất nước cho phù hợp với yêu cầu của một cuộc chiến tranh chống một kẻ thù mạnh, xảo quyệt và độc ác. I.V. Xta-lin kêu gọi Đảng và nhân dân đứng lên tham gia vào cuộc chiến đấu thiêng liêng chống quân thù, chấm dứt thái độ vô tư và nâng cao tinh thần cảnh giác.
Bài diễn văn đáng ghi nhớ này của I.V. Xta-lin dựa vào chỉ thị của Ban chấp hành trung ương Đảng và Hội đồng Ủy viên nhân dân Liên Xô gửi ngày 29-6-1941, cho tất cả các tổ chức Đảng và Nhà nước tại các tỉnh sát tiền tuyến. Lời kêu gọi này đề ra những nhiệm vụ cơ bản của nhân dân và các lực lượng vũ trang Liên Xô trong cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại.
Hướng về nhân dân, diễn văn của I.V. Xta-lin, chỉ thị của Đảng và Chính phủ đã vang lên như hồi chuông báo động mạnh mẽ, trong đó vẳng lên âm thanh lời hiệu triệu nổi tiếng của Lê-nin: "Tổ quốc xã hội chủ nghĩa lâm nguy?". Mọi người cảm thấy rằng, tiếng phẫn nộ và giục giã của hồi chuông đó chỉ sẽ ngừng vang khi nào tên phát-xít xâm lược cuối cùng phải rút khỏi đất đai của Tổ quốc ta.
Trong đời sống của bất kỳ nước nào, ở những thời kỳ khó khăn, khủng hoảng, khi bị kẻ thù bên trong hoặc quân thù bên ngoài tấn công, đều cần có một lời hiệu triệu, một khẩu hiệu nêu rõ và đầy đủ những cố gắng cần có của toàn thể nhân dân, có khả năng đoàn kết tất cả mọi người lại. Nhân dân ta đã tin cậy giao phó vận mệnh của mình cho Đảng, Đảng cần nêu rõ mục tiêu và chỉ rõ kẻ thù, phát động được tất cả các tầng lớp, các giai cấp đứng lên chiến đấu. Đảng ta đã hoàn toàn nắm được nghệ thuật đó, nghệ thuật mà chỉ có người lãnh đạo chân chính của nhân dân mới có.
Lúc này bằng khẩu hiệu "Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng?", Đảng đã hướng từng người Xô-viết nhìn thẳng vào mối nguy cơ. Những người có các quan điểm và thói quen khác nhau, các quân nhân và cán bộ dân sự, đàn ông và đàn bà, không phân biệt tuổi tác và thành phần đã đoàn kết lại xung quanh khẩu hiệu đó.
Vì mục đích yêu nước cao cả - bảo vệ Tổ quốc mình - nhân dân Nga, tất cả các dân tộc trên đất nước ta, đã đứng thẳng lên, với tinh thần kiên cường thống nhất của mình, họ đã làm tăng sức mạnh vật chất và sức mạnh của vũ khí lên gấp bội.
Tháng 7, để tăng cường công tác Đảng, công tác chính trị và củng cố ảnh hưởng của Đảng trong các lực lượng vũ trang, theo quyết định của Ban chấp hành trung ương Đảng, đã tiến hành việc cải tổ các cơ quan tuyên truyền chính trị trong quân đội và áp dụng chế độ chính ủy.
Ngay từ những ngày đầu chiến tranh sự hoạt động của tất cả các tổ chức quần chúng đều phục tùng lợi ích của tiền tuyến. Theo ý kiến của Ban chấp hành trung ương Đảng, Hội đồng trung ương các công đoàn Liên Xô, Ban chấp hành trung ương Đoàn thanh niên cộng sản Lê-nin đã đề ra nhiều biện pháp thiết thực để phục vụ tiền tuyến về mọi mặt, để củng cố kỷ luật lao động và nâng cao năng suất lao động ở hậu phương, tăng cường việc chăm sóc thương binh và các gia đình quân nhân, để chuẩn bị các lực lượng dự trữ cho chiến đấu, tổ chức nhân dân lao động tích cực tham gia vào công cuộc phòng không ở địa phương.
Tại tiền tuyến và ở hậu phương, các thanh niên gái, trai của chúng ta đã nêu cao gương chủ nghĩa yêu nước Xô-viết và luôn luôn sẵn sàng xả thân vì Tổ quốc.
Tôi có nói chuyện với một số đoàn viên thanh niên cộng sản trước khi họ được đưa vào hậu địch làm nhiệm vụ trinh sát và phá hoại. Tiếc rằng tôi không ghi lại họ tên của những anh chị em đó, nhưng những lần gặp gỡ họ vẫn còn lại trong trí nhớ tôi.
Tôi muốn kể lại một cuộc gặp gỡ.
Trong những ngày đầu tháng 7, khi Min-xcơ đã bị địch chiếm và quân địch đang lao về phía sông Bê-rê-di-na, một tổ trinh sát phá hoại có nhiệm vụ nhảy dù xuống hậu địch ở vùng Min-xcơ. Tổ có hai thanh niên gái và hai thanh niên trai, đều là đoàn viên thanh niên cộng sản, thạo tiếng Đức. Nếu như tôi không nhầm thì hai em gái trước có học ở trường đại học tiếng nước ngoài. Trong khi nói chuyện, tôi được biết họ là người Mát-xcơ-va. Tôi hỏi, bay vào hậu địch có sợ không, họ nhìn nhau và mỉm cười trả lời:
- Tất nhiên là hơi sờ sợ. Nếu chúng bắt được vào lúc đang xuống đất thì sẽ hỏng việc. Còn nếu không bắt được vào lúc ấy thì mọi việc sẽ đâu vào đó
Các thanh niên gái, trai này còn rất trẻ và đẹp nết. Tổ quốc kêu gọi họ, và họ đã đi vào làm những việc khó khăn nguy hiểm. Tôi không biết tình hình của họ sau đó ra sao. Nếu như người nào trong tổ này còn sống, có thể, người đó còn nhớ cuộc gặp gỡ này ở Mát-xcơ-va, tại Bộ Tổng tham mưu, ở phố Phơ-run-dê, vào những ngày tháng 7 năm 1941...
Những thiệt hại đáng kể về quân số và phương tiện vật chất buộc phải tiến hành nhiều biện pháp tổ chức để kiện toàn bộ chỉ huy quân đội và củng cố sức chiến đấu của các bộ đội và binh đoàn. Hệ thống quân đoàn tạm thời giải tán, số cán bộ và phương tiện liên lạc dôi ra được dùng vào việc củng cố các tập đoàn quân và các sư đoàn. Trong tập đoàn quân trước đây có từ 9 - 12 sư đoàn, nay có 6 sư đoàn. Đơn vị chiến thuật cao nhất trước là quân đoàn nay là sư đoàn. Số máy bay ở các trung đoàn và sư đoàn không quân giảm bớt một nửa. Việc thành lập lực lượng dự bị của Bộ Tổng tư lệnh được tiến hành khẩn trương.
Hội đồng quốc phòng Nhà nước và Ban chấp hành trung ương Đảng đòi hỏi các cơ quan chỉ huy và cơ quan chính trị phải dùng mọi biện pháp để củng cố kỷ luật trong quân đội. Để thực hiện nhiệm vụ này, Tổng cục chính trị và Ủy viên nhân dân quốc phòng đã ra nhiều chỉ thị.
Tháng 7, tình hình ở tất cả các hướng lại trở nên phức tạp hơn nữa. Tuy một số lớn các đơn vị từ các quân khu phía trong tới đã bước vào chiến đấu, chúng ta vẫn chưa xây dựng được thế trận phòng ngự chiến lược vững chắc. Quân địch, trên các hướng quyết định, mặc dù bị thiệt hại lớn, vẫn có ưu thế gấp ba, bốn lần, chưa kể xe tăng.
Việc vận chuyển quân đội ta bằng đường sắt, vì nhiều nguyên nhân, không được thực hiện liên tục. Các đạo quân tới nơi thường được sử dụng ngay khi chưa tập trung đẩy đủ, do đó ảnh hưởng không tốt tới tình hình chính trị tư tưởng và sức chiến đấu bền bỉ của các đơn vị.
Chỗ yếu của ta trong phòng ngự về mặt chiến dịch - chiến thuật chủ yếu là ở chỗ, do thiếu lực lượng và phương tiện nên không lập được nhiều tuyến theo chiều sâu. Phòng ngự của các bộ đội và binh đoàn, về thực chất mang tính chất tuyến kéo dài. Vì thiếu sức kéo nhanh và sức kéo trên bất kỳ đường nào nên quân ta không thể cơ động rộng rãi pháo binh để khi cần thiết, yểm hộ các đơn vị đẩy lùi các cuộc tấn công bằng xe tăng của địch. Các phương diện quân và các tập đoàn quân còn lại rất ít đơn vị xe tăng. Trận đánh ác liệt giành Xmô-len-xcơ đã diễn ra trong những điều kiện đó.
Phòng giữ hướng Xmô-len-xcơ từ phía tây-bắc có tập đoàn quân 22 do trung tướng Ph.A. éc-sa-cốp chỉ huy, lùi về phía sau, bên sườn trái của nó là tập đoàn quân 19 do trung tướng I.X. cô-nép chỉ huy, tại trận địa từ Vi-tép-xcơ đến Oóc-sa có tập đoàn quân 20 do trung tướng P.A. Cu-rốt-kin chỉ huy, quá phía nam theo bờ trái sông Đơ-nép đến Rô-ga-chép có tập đoàn quân 13 do trung tướng Ph.N. Rê-mê-dốp chỉ huy. Ở vùng Xmô-len-xcơ, tập đoàn quân 16 do tướng M.Ph. Lu-kin chỉ huy - được tập trung thành lực lượng dự bị của phương diện quân. Tại cánh phía nam Phương diện quân miền Tây có tập đoàn quân 21 do trung tướng V.Ph. Ghê-ra-xi-men-cô, và sau đó do thượng tướng Ph.I. Cu-dơ-nét-xốp chỉ huy, hoạt động.
Ý đồ của địch là dùng các đoàn xung kích rất mạnh để cắt Phương diện miền Tây của ta ra, bao vây các lực lượng cơ bản của ta ở vùng Xmô-len-xcơ và mở đường tiến đánh Mát-xcơ-va.
Bên những bức tường của thành phố Nga cổ kính, trước kia đã từng làm chướng ngại ghê gớm trên đường quân đội Na-pô-lê-ông tiến vào Mát-xcơ-va, nay lại nổ ra trận đánh ác liệt. Trận đánh này kéo dài 2 tháng.
Mở đầu cuộc tấn công vào Phương diện quân miền Tây, địch đã dùng đạo quân xe tăng 2 và 3 thuộc cụm tập đoàn quân "Trung tâm" làm thê đội 1. Đạo quân xe tăng 2 từ vùng Sơ-clốp dùng lực lượng đột kích chủ yếu đánh vu hồi Xmô-len-xcơ ở phía tây-nam, còn quân đoàn cơ giới 24 của nó - từ vùng Bu-khốp đánh vào Cri-chép và En-nha. Đạo quân xe tăng 3 phối hợp với các quân đoàn 5 và 6 đánh vu hồi Xmô-len-xcơ ở phía tây-bắc. Quân địch có lực lượng mạnh hơn ta nhiều.
Ngay từ đầu cuộc tấn công, địch đã đột phá sâu vào các vùng Pô-lốt-xcơ, Vi-tép-xcơ phía bắc và phía nam Mô-ghi-lép. Cánh phải Phương diện quân miền Tây buộc phải lui về Nê-ven. Các đạo quân xe tăng của Gu-đê-ri-an liền lao về phía Mô-ghi-lép.
Địch dùng bốn sư đoàn bộ binh, một sư đoàn xe tăng, trung đoàn "Đại Đức" và các đơn vị khác của chúng tấn công vào Mô-ghi-lép.
Các binh đoàn của tập đoàn quân 13 của ta, ngoan cường bảo vệ thành phố, đã bị bao vây.
Quân đoàn 61 của tướng Ph.A. Ba-cu-nin phòng ngự ở vòng ngoài thành phố. Sư đoàn khinh binh 172 do thiếu tướng M.T. Rô-ma-nốp chỉ huy, đã chiến đấu đặc biệt xuất sắc trong các trận đánh bảo vệ Mô-ghi-lép. Gần 45.000 người dân Mô-ghi-lép đã tham gia xây dựng các công sự phòng ngự. Trong 23 ngày, các chiến sĩ dũng cảm bảo vệ thành phố đánh lui nhiều cuộc tấn công của giặc. Phối hợp với các sư đoàn sườn phải của tập đoàn quân 21 thường xuyên mở các cuộc phản kích từ phía nam lên hướng Mô-ghi-lép, họ đã giam chân một phần lực lượng các quân đoàn mô-tô cơ giới 46, 24 thuộc đạo quân xe tăng 2 của địch và đã gây cho chúng những thiệt hại đáng kể. Trong các trận đánh ở gần Mô-ghi-lép, Hít-le đã mất 3 vạn lính và sĩ quan.
Trong khi quân địch tấn công từ Đơ-nép về phía đông, các đơn vị của tập đoàn quân 21 (tư lệnh là tướng Ph.I. Cu-dơ-nét-xốp) đã vượt sông này ngày 13-7, giải phóng được Rô-ga-chép và Giơ-lô-bin và vừa đánh vừa tiến theo hướng tây-bắc về Bô-brui-xcơ.
Quân đoàn khinh binh 63, do L.G. Pê-tơ-rốp-xki chỉ huy, là đơn vị phụ trách mũi đột kích chủ yếu. Mấy ngày sau, L.G. Pê-tơ-rốp-xki đã anh dũng hy sinh. Tôi biết rõ L.G. Pê-tơ-rốp-xki, một trong số các tướng lĩnh có tài và có kiến thức, nếu như đồng chí không bị hy sinh sớm, thì tôi tin rằng, đồng chí sẽ trở thành người cán bộ chỉ huy cao hơn. Bằng cuộc phản kích nạy, tập đoàn quân 21 đã giam chân 8 sư đoàn Đức. Lúc đó việc ấy có ý nghĩa rất lớn.
Cuộc chiến đấu phòng ngự ngoan cường của tập đoàn quân 13 ở vùng Mô-ghi-lép, những đợt tấn công của tập đoàn quân 21 ở gần Bô-brui-xcơ đã kìm chân rõ rệt bước tiến của địch ở hướng Rô-xláp. Bộ chỉ huy cụm tập đoàn quân "Trung tâm" Đức buộc phải đưa một số sư đoàn từ các trận địa khác đến vùng hoạt động của tập đoàn quân 21.
Tại khu vực giữa mặt trận, các trận đánh ác liệt với quân chủ lực địch đã đột phá về phía Xmô-len-xcơ vẫn tiếp diễn. Các đơn vị của tập đoàn quân 20 vừa liên tục tiến công địch, vừa phòng ngự trên chính diện rộng, nhưng vẫn không thể chặn được cuộc tấn công của tập đoàn quân 9 của địch. Các binh đoàn xe tăng địch đã vòng qua tập đoàn quân của ta và lọt vào Xmô-len-xcơ.
Hội đồng quốc phòng Nhà nước và đặc biệt là I.V. Xta-lin rất đau lòng khi nhận được tất cả những tin đó. I.V. Xta-lin không kìm được mình, đã nổi giận. Các cán bộ lãnh đạo quân sự chúng tôi đã chịu đựng toàn bộ sự nặng nề của cơn tức giận đó của Xta-lin. Song các trận đánh ở vùng Xmô-len-xcơ không những không giảm đi mà ngược lại càng thêm ác liệt. Đại bản doanh cấp tốc thành lập mặt trận phòng ngự mới, bố trí nó ở hậu phương Phương diện quân miền Tây.
Ngày 14-7, ngay trong khi các trận đánh còn đang diễn ra trên các ngả đường vào Xmô-len-xcơ, đã có quyết định thành lập phương diện quân mới của các đơn vị dự bị gồm các tập đoàn quân 29, 30, 24, 28, 31 và do trung tướng I.A. Bốc-đa-nốp chỉ huy, phần lớn các đơn vị của phương diện quân này về sau đã sát nhập vào Phương diện quân miền Tây. Các tập đoàn quân này được bố trí rải ra trên tuyến Xta-rai-a Ru-xa - Ô-xta-scốp - Be-lưi - En-nha - Bri-an-xcơ. Để bảo vệ các ngả đường phía xa vào Mát-xcơ-va, lại có quyết định thành lập mặt trận mới trên tuyến phòng ngự Mô-gia-ích và dự định bố trí ở đó các tập đoàn quân 32, 33, 34, mới được thành lập.
Để khắc phục tình hình cực kỳ nguy hiểm đã xảy ra, Đại bản doanh quyết định giao cho tư lệnh Phương diện quân miền Tây, nguyên soái X.K Ti-mô-sen-cô 20 sư đoàn khinh binh lấy từ các tập đoàn quân của Phương diện quân Dự bị. Các sư đoàn này nhập vào các tập đoàn quân do thiếu tướng K K. Rô-cô-xốp-xki, thiếu tướng V.A. Khô-men-cô, trung tướng X.A. Ca-li-nin, trung tướng V.Ya. Ca-cha-lốp, trung tướng I.I. Ma-xlen-ni-cốp chỉ huy.
Theo chỉ thị của Đại bản doanh, nguyên soái X.K. Ti-mô-sen-cô đã giao cho các tập đoàn quân này nhiệm vụ: mở các cuộc phản kích từ các vùng Be-lưi - Yác-xê-vô - Rô-xláp theo hướng chung về Xmô-len-xcơ, tiêu diệt số quân địch đã đột nhập và bắt liên lạc với lực lượng cơ bản của phương diện quân đang chiến đấu ngoan cường trong vòng vây ở vùng Xmô-len-xcơ.
Trong nửa thứ hai của tháng 7, các trận đánh ở vùng Xmô-len-xcơ và phía đông Xmô-len-xcơ diễn ra ngày càng thêm ác liệt. Trên khắp mặt trận, quân địch đã gặp sự đánh trả tích cực của các đơn vị Hồng quân.
Ngày 23-7, một bộ phận thuộc tập đoàn quân 28 bắt đầu tấn công từ vùng Rô-xláp, còn ngày 24 và 25 thì các đơn vị của tập đoàn quân 30 và 24 tấn công từ vùng Bê-lưi - Yác-xê-vô. Các đơn vị của tập đoàn quân 16 và 20 cũng vòng qua phía bắc và phía nam Xmô-len-xcơ tiến ra. Quân địch lập tức đưa quân tăng viện đến vùng Xmô-len-xcơ với ý định đánh tan các đơn vị của tập đoàn quân 16 và 20 thuộc Phương diện quân miền Tây đang bị bao vây ở đây. Trận đánh vì vậy mang tính chất vô cùng ác liệt.
Được sự viện trợ của tập đoàn quân K.K. Rô-cô-xốp-xki có bộ đội xe tăng đi cùng, phần lớn các đơn vị của tập đoàn quân 16 và 20 đã chọc thủng vòng vây ở phía nam Yác-xê-vô, tiến ra bờ phía đông sông Đơ-nép, ở đây họ gặp chủ lực của phương diện quân và chuyển sang phòng ngự.
Quân địch tung một đạo quân gồm 9 sư đoàn ra chống lại tập đoàn quân của V.Ya. Ca-cha-lốp gồm 3 sư đoàn đang tiến từ vùng Rô-xláp về Xmô-len-xcơ. Trong đạo quân địch có một quân đoàn mô-tô hóa. Địch đã chiếm Rô-xláp trong hành tiến và bao vây đạo quân của V.Ya. Ca-cha-lốp.
Lực lượng ở đây quá chênh lệch. Đạo quân của V.Ya. Ca-cha-lốp lâm vào tình thế hết sức khó khăn. Một số ít rút ra được và nhập vào các đơn vị bạn. Trong các trận đánh này, tư lệnh tập đoàn quân, tướng V.Ya. Ca-cha-lốp đã anh dũng hy sinh.
Quân đoàn mô-tô hóa 46 của địch chiếm En-nha và định đánh vào Đô-rô-bô-gu-giơ, nhưng bị tập đoàn quân 24 của Phương diện quân Dự bị chặn lại.
Để bảo vệ hướng Gô-men, Đại bản doanh thành lập Phương diện quân Trung ương gồm các tập đoàn quân 4, 13 và 21 của Phương diện quân miền Tây đang chiến đấu tại tuyến Xe-sa - Prô-pôi-xcơ và quá phía nam theo sông Đơ-nép.
Chiến trận Xmô-len-xcơ giữ vai trò quan trọng trong giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh vĩ đại bảo vệ Tổ quốc. Mặc dù không đánh tan được quân địch như kế hoạch của Đại bản doanh đề ra, nhưng chúng ta đã đánh tiêu hao nặng các đạo quân xung kích của chúng.
Theo sự thừa nhận của tướng tá Đức, trong chiến trận Xmô-len-xcơ, bọn Hít-le đã mất 25 vạn lính và sĩ quan. Ngày 30-7, bộ chỉ huy Đức ra lệnh cho cụm tập đoàn quân "Trung tâm" chuyển sang phòng thủ. Còn bộ đội Xô-viết thì đã trụ vững được trên tuyến Vê-li ki-e Lu-ki - Yác-xê-vô - Cri-chép - Giơ-lô-bin.
Trong quá trình diễn biến. của chiến trận Xmô-len-xcơ, Hồng quân, nhân dân thành phố và nhân dân các vùng xung quanh đã biểu lộ một tinh thần rất kiên cường. Họ đã chiến đấu quyết liệt để giành từng lô-cốt, từng đường phố, từng khu dân cư. Kìm được sự tấn công của địch ở hướng chủ yếu này là một thắng lợi có ý nghĩa chiến lược to lớn. Nhờ kết quả đó, chúng ta tranh thủ được thời gian chuẩn bị lực lượng dự bị và tiến hành các biện pháp phòng thủ ở hướng Mát-xcơ-va. Đơn vị cận vệ Xô-viết xuất hiện đầu tiên trong chiến trận Xmô-len-xcơ. Tại đây, ngày 14-7-1941 trong trận đánh gần Oóc-sa, đội pháo của đại úy I.A. Phơ-lê-rốp lần đầu tiên đã sử dụng các dàn pháo cối phản lực "Ca-chiu-sa" nổi tiếng.
Cần phải đánh giá đúng nguyên soái X.K. Ti-mô-sen-cô. Trong những tháng khó khăn đầu tiên của chiến tranh, nguyên soái đã làm được nhiều việc, vững vàng lãnh đạo quân đội, động viên tất cả các lực lượng nhằm đánh lui cuộc tiến công của quân địch và tổ chức công cuộc phòng ngự.
Giới lãnh đạo quân sự - chính trị, cơ quan chỉ huy của bọn Hít-le và bản thân quân đội của chúng đã thấy rõ tinh thần dũng mãnh và chủ nghĩa anh hùng tập thể của các chiến sĩ Xô-viết. Bây giờ chúng đã biết rằng chiến tranh càng vào sâu trong nước ta, thì càng trở nên khó đối với chúng.
Cuối tháng 7, A.N. Pô-xcơ-rê-bư-sép gọi dây nói cho tôi và hỏi:
- Đồng chí Ti-mô-sen-cô hiện ở đâu?
- Nguyên soái Ti-mô-sen-cô ở Bộ Tổng tham mưu, chúng tôi đang thảo luận về tình hình ở mặt trận.
- Đồng chí Xta-lin mời đồng chí và đồng chí Ti-mô-sen-cô tới ngay nhà riêng gặp đồng chí đó - A.N. Pô-xcơ-rê-bư-sép nói.
Chúng tôi nghĩ là I.V. Xta-lin muốn bàn với chúng tôi về những hoạt động sắp tới. Nhưng hóa ra lệnh gọi có mục đích khác. Khi chúng tôi bước vào phòng đã thấy hầu hết các ủy viên Bộ chính trị đang ngồi bên bàn. I.V. Xta-lin mặc chiếc áo cũ, đứng ở giữa phòng và tay cầm tẩu thuốc đã tắt - một biểu hiện chắc chắn khi không vui.
- Có việc này - I.V. Xta-lin nói, - Bộ chính trị đã thảo luận về công tác của đồng chí Ti-mô-sen-cô trên cương vị tư lệnh Phương diện quân miền Tây và đã quyết định để đồng chí ấy thôi nhiệm vụ đó. Có ý kiến đề nghị cử đồng chí Giu-cốp đảm đương nhiệm vụ này. Các đồng chí thấy thế nào? - I.V. Xta-lin quay lại phía tôi và X K. Ti-mô-sen-cô, hỏi.
X K. Ti-mô-sen-cô im lặng.
- Đồng chí Xta-lin, - tôi nói, - việc thay đổi luôn các tư lệnh phương diện quân ảnh hưởng không tốt tới diễn biến các trận đánh. Các tư lệnh chưa kịp nắm tình hình công việc đã phải mở các trận đánh lớn. Nguyên soái Ti-mô-sen-cô chỉ huy phương diện quân chưa đến 4 tuần lễ. Trong quá trình diễn biến chiến trận Xmô-len-xcơ, nguyên soái đã biết rõ quân đội, thấy được khả năng của họ như thế nào. Nguyên soái đã làm tất cả những gì có thể làm được trên cương vị của mình, và gần suốt một tháng đã kìm quân địch lại ở vùng Xmô-len-xcơ. Tôi nghĩ rằng không ai có thể làm được gì nhiều hơn nữa. Quân đội tin tưởng ở đồng chí Ti-mô-sen-cô và điều đó là chủ yếu. Theo tôi hiện nay để đồng chí Ti-mô-sen-cô thôi giữ chức tư lệnh phương diện quân là điều không đúng và không lợi.
M.I. Ca-li-nin chăm chú nghe xong, nói:
- Có lẽ đúng đấy?
I.V. Xta-lin chậm rãi rít tẩu thuốc, nhìn các ủy viên khác trong Bộ chính trị và nói:
- Hay là, chúng ta đồng ý với đồng chí Giu-cốp?
- Đồng chí Xta-lin, đồng chí nói đúng, - nhiều người nói. - Đồng chí Ti-mô-sen-cô có thể còn làm cho tình hình trở lại tốt được.
Chúng tôi ra về. X.K. Ti-mô-sen-cô nhận lệnh phải ra ngay mặt trận.
Rõ ràng là Xê-mi-on Kôn-xtan-ti-nô-vích Ti-mô-sen-cô rất bực mình về những nhận xét đã nêu ra. Nhưng trong chiến tranh, mọi việc đều có thể xảy ra, không phải lúc nào cũng có thể tính đến những tâm tư riêng của mỗi người trong khi giải quyết những vấn đề to lớn và phức tạp.
Trên hướng Tây, sau các trận giao tranh cực kỳ ác liệt ở vùng Xmô-len-xcơ, cuộc chiến tạm thời ngừng lại. Cả hai bên chỉnh đốn lại quân đội và chuẩn bị cho các sự kiện sắp nổ ra. Riêng ở vùng En-nha, trận đánh không chấm dứt. Mỏm En-nha mà quân Đức chiếm được, là bàn đạp rất có lợi để đánh vào Mát-xcơ-va. Vào bất kỳ tình thế nào quân Đức củng cố giữ lấy nó.
Trên hướng Lê-nin-grát, địch tiếp tục tấn công. Nhưng, mặc dù có thắng lợi, chúng vẫn không chọc thủng được trận địa phòng ngự của quân đội Liên Xô và không tiến được tới những ngả đường gần vào Lê-nin-grát.
Trong thời gian diễn ra chiến trận Xmô-len-xcơ, cụm tập đoàn quân "Bắc" của Đức có âm mưu đánh qua Lu-ga để tiến gần đến Lê-nin-grát. Ngày 12-7, quân đoàn mô-tô cơ giới 41 địch tiến dọc theo đường Lê-nin-grát để tới Lu-ga, nhưng bị chặn lại. Song, sau khi tìm ra được chỗ phòng ngự yếu ở vùng Kin-ghi-xép - I-va-nốp-xcơ, các đơn vị của đạo quân xe tăng 4 địch đã nhanh chóng chuyển từ vùng Lu-ga sang và định chọc vào phòng ngự của ta ở đó, nhưng đội dự bị của ta đến kịp và đã chặn chúng lại.
Một đạo quân khác của địch âm mưu tiến vào Nốp-gô-rốt và sau đó tới Chu-đô-vô đã gặp phải sự chống cự kịch liệt và ở đây chúng cũng không thành công. Quân đoàn mô-tô cơ giới Đức đang tiến đến khu vực Xôn-xư thì bị các đơn vị của tập đoàn quân 11 tấn công. Cuộc phản kích này của tập đoàn quân 11 được tổ chức chu đáo, lại có không quân yểm hộ. Bị đánh bất ngờ, quân địch phải quay trở lại và bắt đầu vội vã rút lui. Các đơn vị của tập đoàn quân 11 đã truy kích quân địch và gây cho chúng những thiệt hại lớn. Nếu như không có tập đoàn quân 16 địch đến viện trợ kịp thì quân đoàn cơ giới 56 của Man-xten có thể đã bị tiêu diệt.
Khi giặc đưa quân bổ sung tới, thì các tập đoàn quân 11 và 27 của Phương diện quân Tây-bắc phải rút về tuyến Xta-rai-a Ru-xa - Khôn-mơ.
Mũi tấn công của cụm tập đoàn quân "Bắc" gồm hai tập đoàn quân và một đạo quân xe tăng đã gặp phải sự chống cự kịch liệt của quân ta ở khu phòng thủ Lu-ga, khu Đờ-nô, trên tuyến Xta-rai-a Ru-xa - Khôn-mơ cũng như ở vùng Kin-ghi-xép - Xi-vée-xki. Ở đây, địch bị thiệt hại nặng và vì thiếu lực lượng bổ sung, chúng không đủ sức tiến đánh Lê-nin-grát.
Kết quả của chiến trận Xmô-len-xcơ, các hoạt động ngày càng tích cực và sức mạnh đánh trả ngày càng tăng của các Phương diện quân Bắc, Tây-bắc, của Hạm đội Ban-tích và của không quân làm cho kế hoạch "Bác-ba-rô-xơ" của địch bị vỡ một mảng lớn.
Trong thời gian này, tình hình ở U-crai-na, nơi bộ đội hướng tây-nam đang tiến hành những trận đánh phòng ngự ác liệt, diễn ra như thế nào?
Chiếm U-crai-na có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với bọn Đức. Chúng cố gắng nhanh chóng chiếm lấy U-crai-na để làm cho Liên Xô mất một cơ sở công nghiệp và nông nghiệp lớn nhất, đồng thời để củng cố nền kinh tế của chúng bằng quặng miền Cri-vô-rô-giơ-xcơ, than Đôn-bát, măng-gan Ni-cô-pôn-xcơ và lúa mì U-crai-na.
Đứng về mặt chiến lược, chiếm được U-crai-na sẽ đảm bảo chi viện từ phía nam cho cụm tập đoàn quân "Trung tâm" là cụm vẫn được giao nhiệm vụ chủ yếu nhất là chiếm Mát-xcơ-va.
Ngay từ những ngày đầu chiến tranh, quá trình diễn biến của các sự kiện ở U-crai-na cũng phát triển không đúng như kế hoạch chiến tranh chớp nhoáng của bọn Hít-le dự tính. Trong khi rút lui trước các đòn đột kích của quân Đức, mặc dù bị thiệt hại rất nặng nề, Hồng quân vẫn dũng cảm chống cự lại.
Tập đoàn quân 5 do tướng M.I. Pô-ta-pốp chỉ huy, tập đoàn quân 26 do tướng Ph.Ya. Cô-xten-cô chỉ huy, và tập đoàn quân 6 do tướng I.N. Mu-dư-chen-cô chỉ huy đã chiến đấu vô cùng ngoan cường, tài giỏi và dũng mãnh.
Tôi đặc biệt phấn khởi nhắc đến các tư lệnh xuất sắc đó còn là bởi vì trước đây họ là các trung đoàn trưởng thuộc sư đoàn Cô-dắc sông Đông 4 và tôi đã có dịp cùng với họ, trong những năm 1932 - 1936, phục vụ dưới lá cờ của sư đoàn kỳ cựu nổi tiếng đó của tập đoàn quân kỵ binh thứ nhất.
Gặp phải sức đánh trả quyết liệt của quân ta ở vùng phòng thủ vững chắc Ki-ép, quân Đức ngoặt hẳn về phía nam để thọc vào hậu phương các tập đoàn quân 6 và 12 của ta đang rút khỏi tuyến Béc-đi-chép - Xta-rô-côn-xtan-ti-nốp - Prô-xcu-rốp. Một bộ phận lực lượng quân địch đã tiến tới phía nam Ki-ép đến trận địa của tập đoàn quân 26. Nhưng cuộc tiến quân này không có ý nghĩa quan trọng bởi vì bộ phận chủ yếu của các tập đoàn quân "Nam" của địch đã đi xuống phía nam. Sắp diễn ra giao chiến ác liệt giữa các tập đoàn quân 6, 12, và 18 của ta với đạo quân địch thọc vào hậu phương của họ.
Tình hình thêm gay go còn là vì tập đoàn quân 11 Đức sau khi đột phá phòng ngự của Phương diện quân Nam đã đánh qua Mô-ghi-lép - Pô-đôn-xcơ, tiến tới sườn và hậu phương của ba tập đoàn quân này.
Bộ đội của Phương diện quân Tây-nam phối hợp với Phương diện quân Nam cố gắng dùng các trận phản kích để kìm bước tiến của địch. Quân ta đã gây cho địch những thiệt hại lớn, song không chặn được chúng. Sau khi bố trí lại lực lượng chút ít, quân Đức lại đánh vào các tập đoàn quân 6 và 12 của ta đang rút lui, lần này các tập đoàn của ta đã rơi vào một tình thế khó khăn.
Vì cách xa và khó chỉ huy các tập đoàn quân này nên Phương diện quân Tây-nam đề nghị chuyển thuộc họ sang bộ tư lệnh Phương diện quân Nam. Đại bản doanh đồng ý, và các tập đoàn quân 6 và 12 đã được chuyển sang Phương diện quân Nam do đại tướng I.V. Chiu-lê-nép chỉ huy.
Phần lớn các binh đoàn đang rút lui của hai tập đoàn quân này đã bị bao vây trong thời gian chuyển sang Phương diện quân Nam.
Do bị thương nặng, tư lệnh tập đoàn quân 6, tướng I.N. Mu-dư-chen-cô bị bắt làm tù binh. Tư lệnh tập đoàn quân 12, tướng P.G. Pô-nê-đê-hn cũng không tránh được số phận đó. Lúc đó Phương diện quân Nam đang trong hoàn cảnh rất khó khăn, nặng nề. Tập đoàn quân 9 vừa rút lui vừa chiến đấu trong tình thế nửa bị bao vây. Các đơn vị còn lại của nó rút về sông In-gu-lét.
Việc quân địch tiến đến Đờ-nép, chọc thủng về phía Da-pô-rô-giơ, Đne-prô-pê-tơ-rốp-xcơ và Ô-đét-xa đã làm cho quân đội Xô-viết ở toàn bộ hướng tây-nam lâm vào tình thế phức tạp nghiêm trọng. Song quân Đức cũng phải trả giá rất đắt đối với thắng lợi này. Chúng bị tiêu hao trầm trọng và bị thiệt hại nặng.
Tất cả những sự kiện nói trên xảy ra từ sau khi tôi rời Phương diện quân Tây-nam về Mát-xcơ-va trở lại cương vị Tổng tham mưu trưởng và chính trên cương vị này mà tôi tham gia vào các sự kiện đó cùng gánh vác trách nhiệm với các ủy viên Đại bản doanh, cùng chia sẻ nỗi đau đớn của những thất bại và niềm vui sướng của những thắng lợi thưa thớt của quân ta. Ở đây tôi nghĩ rằng đúng chỗ để nói ít lời về công việc của Đại bản doanh và của I.V. Xta-lin.
Tháng 7-1941, theo quyết định của Bộ chính trị Ban chấp hành trung ương Đảng, hệ thống cơ quan chỉ đạo chiến lược của các lực lượng vũ trang được cải tổ. Ngày 10-7, Hội đồng quốc phòng Nhà nước quyết định cải tổ Đại bản doanh Bộ Tổng tư lệnh thành Đại bản doanh Bộ Tổng tư lệnh tối cao. Thành phần Đại bản doanh gồm có I V. Xta-lin (Chủ tịch), V.M. Mô-lô-tốp, các nguyên soái X.K. Ti-mô-sen-cô, X.M. Bu-đi-on-nưi, K.E. Vô-rô-si-lốp B.M. Sa-pô-sni-cốp, tướng G.K. Giu-cốp. Ngày 19-7, I.V. Xta-lin được cử làm Ủy viên nhân dân quốc phòng và ngày 8-8 được cử làm Tổng tư lệnh tối cao các lực lượng vũ trang Liên Xô. Từ ngày dó, cơ quan lãnh đạo chiến lược cao nhất được gọi là Đại bản doanh Bộ Tổng tư lệnh tối cao.
Việc cử I.V. Xta-lin - người có uy tín lớn - làm Tổng tư lệnh tối cao được nhân dân và quân đội nhiệt liệt hoan nghênh.
Bộ Ủy viên nhân dân quốc phòng cũng được cải tổ, chức năng của từng Cục được xác định rõ, các cơ quan mới được thành lập.
Cùng với việc thành lập Đại bản doanh Bộ Tổng tư lệnh tối cao, để phối hợp tốt hơn nữa các hoạt động của các phương diện quân và các hạm đội và để thống nhất các cố gắng của các quân chủng tại các hướng chiến lược quan trọng nhất, đã thành lập ba Bộ tổng tư lệnh. Nhưng điều đó không làm trở ngại việc Đại bản doanh lãnh đạo các phương diện quân, các hạm đội và thậm chí các tập đoàn quân. Bởi vì hồi ấy các lực lượng dự bị có hạn của bộ binh và không quân hoàn toàn ở trong tay Bộ Tổng tư lệnh tối cao. Việc này, tất nhiên, không thể không có ảnh hưởng đến mức nào đó tới sự chủ động của các Tổng tư lệnh các hướng.
Cùng hồi đó, theo chỉ thị của Ban chấp hành trung ương Đảng, đã thực hiện thêm một biện pháp nữa có ảnh hưởng tốt tới khả năng chiến đấu của quân đội, Đảng đã đánh giá đúng, xứng đáng ý nghĩa của các cơ quan hậu cần trong thời gian chiến tranh. Chức vụ Chủ nhiệm Tổng cục hậu cần Hồng quân được đặt ra, một hệ thống mới các cơ quan hậu cần trong tất cả các lực lượng vũ trang được kiên quyết thành lập. Tại các phương diện quân và các hạm đội thành lập các cục hậu cần, trong các tập đoàn quân thành lập các phòng hậu cần, tại các quân đoàn và sư đoàn có chức phó tư lệnh phụ trách về vật chất kỹ thuật. Theo quyết định của Ban chấp hành trung ương Đảng, tại các phương diện quân và các tập đoàn quân thành lập các phòng chính trị hậu cần và định ra chức vụ ủy viên Hội đồng quân sự chuyên trách hậu cần. Các tổ chức hậu cần của ta đã tiến hành công việc to lớn trong việc chuẩn bị các chiến dịch và các trận lớn. Về điều đó chúng ta sẽ còn nói tới sau.
Đại bản doanh không có cơ quan điều khiển công việc nào khác ngoài Bộ Tổng tham mưu. Thông thường, các mệnh lệnh và chỉ thị của Bộ Tổng tư lệnh tối cao đều đi qua Bộ Tổng tham mưu. Các mệnh lệnh và chỉ thị này được thảo ra và thường được thông qua trong điện Crem-lanh, tại phòng làm việc của I.V. Xta-lin.
Đó là một căn phòng rộng, khá sáng sủa. Các tường lát bằng gỗ sồi màu sẫm, một chiếc bàn dài phủ nỉ xanh. Trên tường bên trái và phải, treo các chân dung Mác, Ăng-ghen, Lê-nin. Trong thời gian chiến tranh, có các chân dung Xu-vô-rốp và Cu-tu-dốp. Ghế cứng, không có đồ vật gì thừa. Một quả địa cầu lớn đặt ở phòng bên, cạnh quả địa cầu có chiếc ghế, trên tường là các tấm bản đồ thế giới.
Phía sâu trong phòng làm việc, bên tường là bàn làm việc của I.V. Xta-lin, lúc nào cũng đầy tài liệu, giấy tờ, bản đồ. Ở đây có máy điện thoại mạnh đường dài và máy điện thoại trong Crem-lanh, một lô các bút chì màu đã gọt nhọn. I.V. Xta-lin thường viết ý kiến của mình bằng bút chì xanh, viết nhanh, ngoáy, nhưng khá dễ xem.
Lối vào phòng làm việc đi qua phòng của A.N. Pô-xcơ-rê-bư-sép và một căn phòng nhỏ của đội trưởng bảo vệ riêng Tổng tư lệnh tối cao. Sau phòng làm việc là phòng nghỉ và phòng liên lạc, ở đây có các máy điện thoại và máy "Bô-đô". Qua các máy này, A.N. Pô-xcơ-rê-bư-xép tổ chức các cuộc nói chuyện của I.V. Xta-lin với các tư lệnh phương diện quân và các đại diện của Đại bản doanh tại các phương diện quân.
Các cán bộ Bộ Tổng tham mưu và các đại diện Đại bản doanh trải các bản đồ trên chiếc bàn lớn và theo các bản đồ đó báo cáo về tình hình ở các mặt trận, đứng báo cáo, đôi khi dùng sổ tay. I.V. Xta-lin thường vừa nghe vừa đi đi lại lại trong phòng bằng những bước đi rộng, người hơi ngả, chốc chốc lại đi tới gần bàn lớn, cúi xuống chăm chú xem bản đồ trải rộng. Thỉnh thoảng quay lại bàn của mình, lấy gói thuốc sợi, tẽ rời thuốc và chậm rãi nhét vào tẩu.
Nhiệm vụ cơ bản của Đại bản doanh là nghiên cứu và đề ra nhiệm vụ chiến lược cho các đơn vị, phân bố các lực lượng và phương tiện giữa các phương diện quân và các hướng, đặt kế hoạch và quyết định sự hoạt động chiến đấu về toàn cục cho quân đội và hải quân. Trong việc này, các lực lượng dự bị của Đại bản doanh, luôn luôn được bổ sung và thành lập thêm, đóng vai trò to lớn. Các lực lượng này là công cụ mạnh mẽ trong tay Đại bản doanh để tăng cường một cách đáng kể cho các đơn vị quân ta ở các hướng quan trọng nhất và trong các chiến dịch có nhiệm vụ nặng nhất.
Các cuộc thảo luận trong Đại bản doanh về những quyết định chiến lược quan trọng thường có sự tham gia của các ủy viên Hội đồng quốc phòng Nhà nước. Các cán bộ lãnh đạo Bộ tổng tham mưu, các tư lệnh không quân, pháo binh, Chủ nhiệm Tổng cục xe tăng, xe bọc thép, Chủ nhiệm hậu cần Hồng quân, các cán bộ lãnh đạo các tổng cục khác của Bộ Ủy viên nhân dân quốc phòng, thường được mời tới họp. Tư lệnh các phương diện quân được triệu tập về Đại bản doanh, khi xem xét các vấn đề liên quan tới phạm vi của họ, nhất là khi thảo luận về trận đánh sắp mở. Có khi các công trình sư máy bay, xe tăng, pháo binh cũng được mời tới dự.
Nếp làm việc của Đại bản doanh khẩn trương, không ồn ào, mọi người đều có thể nói lên ý kiến của mình. I.V. Xta-lin đối xử với mọi người như nhau, nghiêm nghị và khá chính quy. I.V. Xta-lin biết nghe, khi người báo cáo nắm chắc vấn đề .
Nhân đây cần nói rằng, như tôi đã được thấy rõ trong những năm chiến tranh, I.V. Xta-lin hoàn toàn không phải là người mà khi quan hệ với người đó, ta không thể đặt ra những vấn đề gay gắt, không thể tranh luận, mà thậm chí không thể giữ vững quan điểm của mình. Nếu như có ai khẳng định trái lại, tôi xin nói thẳng: điều khẳng định của họ không đúng.
Cơ quan làm việc của Đại bản doanh là Bộ Tổng tham mưu. Hồi đầu chiến tranh, tôi cùng các cán bộ lãnh đạo Bộ Tổng tham mưu thực tế là suốt ngày đêm phải cùng một lúc nhận những tin tức có khi trái ngược nhau từ tất cả các mặt trận gửi về, và nghiên cứu báo cáo lên Đại bản doanh Bộ Tổng tư lệnh tối cao những đề nghị khẩn cấp. Chức năng của Bộ Tổng tham mưu ngay từ đó trở nên phức tạp. Khối lượng công việc tăng lên quá nhanh, nhiều cái trong việc tổ chức công việc ở thời bình là tốt, nay không còn hợp nữa. Tuy đã nhanh chóng chỉnh đốn lại, song chúng tôi không làm ngay được mọi việc.
Khó mà có được những tài liệu tình báo chính xác và xác định được tính chất của sự bố trí của quân ta và của lực lượng địch vào mọi thời gian khác nhau trong ngày đêm; khó mà nhanh chóng đưa ra được những đề nghị có căn cứ về khả năng bảo đảm vũ khí, đạn dược cho mặt trận này hay mặt trận kia; khó mà viết được những chỉ thị quan trọng nhất của Bộ Tổng tư lệnh tối cao do Đại bản doanh giao cho trong vòng mấy tiếng đồng hồ và có khi trong vòng mấy phút.
Đi lên Đại bản doanh báo cáo với I.V. Xta-lin, mà mang theo các bản đồ còn có những "điểm trắng" nào đó, hoặc với những số liệu ước lượng, chứ đừng nói gì những số liệu quá sự thật, là điều không thể được. I.V. Xta-lin không chịu được lối trả lời mò mẫm, đòi hỏi phải hết sức đầy đủ và rõ ràng.
I V. Xta-lin nhạy cảm đặc biệt đối với những chỗ yếu trong các báo cáo hoặc các tài liệu, phát hiện ra ngay những chỗ đó và nghiêm khắc khiển trách người có lỗi về báo cáo không rành rọt.
Có được trí nhớ giỏi, I.V. Xta-lin nhớ kỹ những việc đã nói, phê bình khá gay gắt đối với những việc bị quên. Vì vậy, khi chuẩn bị các tài liệu tham mưu, chúng tôi làm hết sức kỹ càng, với mọi khả năng của mình trong những ngày đó.
Song, trong khi tình hình ở các mặt trận vô cùng nặng nề, trong khi nhịp sống ở điều kiện chiến tranh chưa được hoàn toàn vào nền nếp, tôi cần phải nói tới nỗ lực của các cán bộ lãnh đạo Bộ tổng tham mưu: về toàn cục, trong Bộ Tổng tham mưu đã xây dựng được ngay nếp làm việc khẩn trương và sáng tạo, mặc dù mức độ căng thẳng trong công tác hồi đó lên đến tột bậc.
Về sau trong suốt thời gian chiến tranh, tôi vẫn giữ được mối quan hệ riêng và liên hệ công tác với Bộ Tổng tham mưu, mối liên hệ này đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong điều kiện ở mặt trận, khi chuẩn bị và lúc tiến hành các chiến dịch lớn. Bộ Tổng tham mưu đã tiến hành có kết quả việc chuẩn bị các lực lượng vũ trang mới, có đủ khả năng và nhanh chóng nghiên cứu đề ra dự thảo các chỉ thị và mệnh lệnh của Bộ Tổng tư lệnh tối cao, theo dõi chặt chẽ việc thực hiện các chỉ thị của Hội đồng quốc phòng Nhà nước, lãnh đạo công tác của các bộ tham mưu trung ương các quân chủng và binh chủng, có tín nhiệm trong việc báo cáo các vấn đề lớn và quan trọng với Đại bản doanh Bộ Tổng tư lệnh tối cao.
I.V. Xta-lin suy tính các vấn đề quan trọng phần nhiều căn cứ vào báo cáo của các đại diện Đại bản doanh được phái đến các nơi để xem xét tình hình ngay tại chỗ và hỏi ý kiến các bộ tư lệnh binh đoàn, hoặc căn cứ vào những kết luận của Bộ Tổng tham mưu, những ý kiến và các đề nghị của các bộ tư lệnh phương diện quân và các thông báo đặc biệt.
Tôi hiểu biết I.V. Xta-lin được sát từ sau năm 1940, khi tôi làm việc ở chức vụ Tổng tham mưu trưởng, và trong thời gian chiến tranh ở chức vụ Phó Tổng tư lệnh tối cao.
Về bề ngoài của I.V. Xta-lin, nhiều người đã diễn tả nhiều lần. Người không cao và trông ngoài không có gì đặc biệt. I.V. Xta-lin gây cho những người khác ấn tượng mạnh mẽ. Không có cử chỉ cách điệu hóa, I.V. Xta-lin hấp dẫn người nói chuyện với mình bằng cách đối xử giản dị. Phong thái tự nhiên khi nói chuyện, tài diễn đạt một cách rành rọt ý nghĩ, trí thông minh phân tích bẩm sinh, sự uyên bác và trí nhớ giỏi, thậm chí làm cho những người tài giỏi và rất hiểu biết cũng phải tập trung suy nghí và thận trọng trong khi nói chuyện với I.V. Xta-lin.
I.V. Xta-lin không thích ngồi, trong khi nói chuyện chậm rãi đi đi lại lại trong phòng, chốc chốc đứng lại, tới gần người nói chuyện và nhìn thẳng vào mắt người đó. I.V. Xta-lin có cái nhìn sáng sủa, sâu sắc. I.V. Xta-lin nói khoan thai, mạch lạc từng câu một, hầu như không có điệu bộ, trong tay thường cầm tẩu thuốc, cả lúc tẩu thuốc đã tắt, thích dùng cán tẩu rẽ râu mép.
I.V. Xta-lin nói giọng Gru-di-a, nhưng rất thạo tiếng Nga và thích dùng những hình tượng so sánh văn học, những ví dụ, những ẩn dụ. I.V. Xta-lin ít cười, và khi cười thì cười khẽ, tựa như cười thầm. Nhưng hiểu chuyện vui và biết đánh giá sự tinh tế và lời nói đùa.
I.V. Xta-lin có sức nhìn rất tốt, đọc vào bất kỳ lúc nào trong ngày, đêm cũng không cần kính. Thông thường I.V. Xta-lin tự tay mình viết. Đọc nhiều và là người hiểu biết rộng trong đủ mọi lĩnh vực. Sức làm việc rất lớn, tài nhanh chóng hiểu được tài liệu đã giúp cho trong một ngày I.V. Xta-lin xem và nắm được một số lượng tài liệu về đủ mọi vấn đề.
Bình thường I.V. Xta-lin bình tĩnh và từ tốn, nhưng có khi hay nổi nóng. Khi đó mất tính khách quan, con người thay đổi ngay, nét mặt càng tái, mắt nhìn trở nên nặng nề và khắc nghiệt. Tôi thấy có ít người can đảm chịu nổi cơn giận dữ của I.V. Xta-lin và dám chống lại.
Khó mà nói được đặc điểm gì lớn hơn cả ở I.V. Xta-lin. Một con người hiểu biết nhiều mặt và có tài, I.V. Xta-lin không phải là người thản nhiên. I.V. Xta-lin có nghị lực lớn, tính tình kín đáo và nóng.
I.V. Xta-lin hàng ngày làm việc có phần khác thường: làm việc chủ yếu là vào chiều tối và đêm. Không dậy trước 12 giờ trưa. Làm việc nhiều, tới 12 - 15 tiếng đồng hồ trong một ngày đêm. Để thích ứng với giờ làm việc của I.V. Xta-lin, Ban chấp hành trung ương Đảng, Hội đồng Ủy viên nhân dân, các Bộ Ủy viên nhân dân và các cơ quan Nhà nước và các cơ quan lập kế hoạch chủ chốt, cũng làm việc đến tận đêm khuya. Điều đó rất làm mệt mọi người.
Nhiều vấn đề chính trị, quân sự có tính chất quốc gia được thảo luận và giải quyết, không phải chỉ trong các cuộc họp chính thức của Bộ chính trị và trong Ban bí thư Ban chấp hành trung ương Đảng, mà cả vào các buổi tối trong bữa ăn tại nhà ở hoặc tại nơi nghỉ mát của I.V. Xta-lin. Ở đây, thường có mặt các ủy viên Bộ chính trị gần gũi nhất của I.V. Xta-lin. Ngay trong bữa ăn thường hết sức giản dị, I.V. Xta-lin giao nhiệm vụ cho các ủy viên Bộ chính trị hoặc các Ủy viên nhân dân được mời đến để bàn về các vấn đề thuộc phạm vi của họ. Cùng với Ủy viên nhân dân quốc phòng, có khi Tổng tham mưu trưởng cũng được mời đến.
Trong thời kỳ trước chiến tranh, tôi khó đánh giá được độ sâu về hiểu biết và năng lực của I.V. Xta-lin trong lĩnh vực khoa học quân sự, trong các vấn đề nghệ thuật chiến dịch và chiến lược, bởi vì Bộ chính trị và riêng I.V. Xta-lin (ít ra thì cũng vào những khi tôi được có mặt) chủ yếu là xem xét và quyết định những vấn đề về tổ chức, động viên và vật chất, kỹ thuật.
Tôi chỉ có thể nói rằng I.V. Xta-lin luôn luôn chú ý nhiều đến các vấn đề vũ khí và kỹ thuật chiến đấu, I.V. Xta-lin thường mời các tổng công trình sư máy bay, pháo binh và xe tăng tới cặn kẽ hỏi họ về những chi tiết cơ cấu của những loại kỹ thuật chiến đấu đó ở nước ta và ở nước ngoài. Cần phải đánh giá cho dúng là I.V. Xta-lin hiểu biết khá đầy đủ những tính chất của các loại vũ khí cơ bản.
I.V. Xta-lin đòi hỏi các tổng công trình sư, các giám đốc các nhà máy quốc phòng, mà trong số này nhiều người I.V. Xta-lin quen biết riêng, phải sản xuất các loại mẫu máy bay, xe tăng, pháo và kỹ thuật quan trọng nhất khác trong thời hạn quy định, và về chất lượng không những phải bằng mà còn phải hơn những loại của nước ngoài.
Như tôi đã nói, nếu không được I.V. Xta-lin chuẩn y thì không một loại mẫu vũ khí nào hoặc kỹ thuật chiến đấu nào được sử dụng để trang bị cho quân đội hoặc bị gạt đi. Tất nhiên điều đó đụng chạm đến sự chủ động của Ủy viên nhân dân quốc phòng và các Phó ủy viên nhân dân quốc phòng phụ trách vấn đề trang bị của Hồng quân.
Trước cuộc chiến tranh giữ nước và đặc biệt sau chiến tranh, I.V. Xta-lin được coi là người đã giữ vai trò lỗi lạc trong việc xây dựng các lực lượng vũ trang, trong việc đề ra những nền tảng của khoa học quân sự Xô-viết, những nguyên tắc cơ bản trong lĩnh vực chiến lược và cả nghệ thuật chiến dịch.
I.V. Xta-lin có thực sự là nhà tư tưởng quân sự lỗi lạc trong lĩnh vực xây dựng các lực lượng vũ trang và là người tinh thông các vấn đề về chiến dịch và chiến lược không?
Là một cán bộ quân sự, tôi đã tìm hiểu kỹ I.V. Xta-hn, bởi vì đã cùng với I.V. Xta-lin trải qua suốt cả cuộc chiến tranh.
I.V. Xta-lin nắm được các vấn đề tổ chức các trận đánh của một phương diện quân và các trận đánh của nhiều phương diện quân và đã lãnh đạo các trận đánh đó với sự hiểu biết đầy đủ công việc, hiểu biết đầy đủ các vấn đề chiến lược lớn. Nhưng khả năng đó của I.V. Xta-lin, với tư cách là vị Tổng tư lệnh, đặc biệt được thể hiện bắt đầu từ Xta-lin-grát.
Trong việc lãnh đạo cuộc đấu tranh vũ trang nói chung, trí tuệ sẵn có, trực giác lớn lao đã giúp I.V. Xta-lin. I.V. Xta-lin biết tìm ra khâu chủ yếu trong tình thế chiến lược và nắm lấy nó, đối phó trả lại quân giặc, tiến hành những trận tấn công lớn. Rõ ràng I.V. Xta-lin là vị Tổng tư lệnh tối cao xứng đáng.
Tất nhiên, I.V. Xta-lin không đi vào toàn bộ khối lượng các vấn đề mà các đơn vị quân đội và các cơ quan chỉ huy các cấp phải thực hiện tỉ mỉ để chuẩn bị tốt trận đánh của một hoặc của nhiều phương diện quân. Và điều đó I.V. Xta-lin không nhất thiết phải biết đến. Trong những trường hợp này, lẽ đương nhiên, I.V. Xta-lin bàn bạc với các ủy viên Đại bản doanh, Bộ Tổng tham mưu và các chuyên viên về các vấn đề pháo binh, xe tăng, thiết giáp, không quân và hải quân, về các vấn đề bảo đảm hậu phương và cung cấp. Riêng I.V. Xta-lin viết nhiều tài liệu quan trọng, trong số đó có tài liệu nói về phương thức tấn công của pháo binh, về việc giành quyền khống chế trên không, về phương thức bao vây địch, về việc cắt các đạo quân địch bị bao vây và tiêu diệt chúng từng phần một, v.. v...
Tất cả những vấn đề hết sức quan trọng đó của nghệ thuật quân sự là những kết quả đạt được trên thực tiễn, trong các trận đánh và chiến dịch chống quân thù, là những kết quả của sự suy nghí và tổng hợp sâu sắc kinh nghiệm của tập thể lớn các tướng lĩnh và của bản thân các quân chủng, binh chủng. Ở đây, công lao của I.V. Xta-lin là ở chỗ đã tiếp nhận một cách đúng đắn những ý kiến của các chuyên gia quân sự lớn của chúng ta, bổ sung và phát triển những ý kiến đó và đã tổng hợp lại trong các thông tư, chỉ thị và điều lệnh, nhanh chóng đưa xuống quân đội làm phương hướng lãnh đạo thực hiện. Hơn nữa, trong việc bảo đảm các trận đánh, xây dựng các lực lượng dự bị chiến lược, tổ chức sản xuất kỹ thuật chiến tranh và nói chung trong việc tạo ra mọi điều kiện cần thiết cho tiền tuyến, tôi xin nói thẳng là I.V. Xta-lin đã tỏ ra là một nhà tổ chức lỗi lạc. Nếu như chúng ta không đánh giá đúng điều đó thì sẽ thiếu sự công bằng.
Nhưng, tất nhiên, trước hết chúng ta cần phải rạp mình cúi chào người Xô-viết chúng ta đã hy sinh cả những thứ cần thiết nhất, không ăn và không ngủ, làm tất cả những gì mình cần làm để làm tròn những nhiệm vụ mà Đảng cộng sản đề ra trước nhân dân nhằm tổ chức đánh thắng quân thù.
Tháng thứ hai của chiến tranh diễn ra, lời hứa hẹn được quảng cáo ầm ĩ của Hít-le là trong thời hạn ngắn nhất sẽ tiêu diệt Hồng quân, chiếm Mát-xcơ-va và tiến tới sông Đông, đã bị tan vỡ. Ở khắp nơi, quân Đức đều bị những thiệt hại hết sức lớn. Mặt trận chung của địch bị mở rộng ra. Mật độ chiến dịch của quân Đức bị giảm thấp rất nhiều, và bây giờ chúng không còn đủ số quân để tấn công cùng một lúc ở tất cả các hướng chiến lược.
Nhưng tuy vậy, các lực lượng xung kích chủ yếu của quân Đức - các đạo quân xe tăng thiết giáp và không quân - vẫn hoàn toàn có khả năng làm cho quân ta thiệt hại nghiêm trọng bằng những đòn đánh tập trung lớn.
Trước tình hình nặng nề tại các mặt trận, Đảng đã đặc biệt chú trọng tới tinh thần của quân đội. Theo chỉ thị của Ban chấp hành trung ương Đảng, Tổng cục chính trị Hồng quân, mà nói chung trong những năm chiến tranh đã tiến hành công tác sáng tạo to lớn trong quân đội, hồi giữa tháng 7 đã gửi hai chỉ thị quan trọng cho các đơn vị, trong đó nêu sự đánh giá về tình hình trong ba tuần lễ đầu chiến tranh đề ra yêu cầu nâng cao vai trò tiền phong của các đảng viên và đoàn viên thanh niên cộng sản ngay trong chiến đấu và trong việc thi hành các mệnh lệnh của người chỉ huy.
Các cơ quan chính trị, các tổ chức Đảng và Đoàn thanh niên cộng sản, gánh vác trách nhiệm đặc biệt về tinh hình tư tưởng đơn vị và khả năng chiến đấu của nó, có nhiệm vụ làm cho các đảng viên và đoàn viên thanh niên cộng sản, đặc biệt là trong tình thế khó khăn và phức tạp, biết dẫn dắt các chiến sĩ theo mình, kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện hoang mang, vô tổ chức, biết phổ biến kinh nghiệm chiến đấu, nêu gương dũng cảm và ngoan cường, chủ động và nhanh trí, giúp đỡ lẫn nhau trong chiến đấu. Công tác chính trị trong quân đội ngày càng được tăng cường đã mang lại nhiều kết quả và đã có ý nghĩa to lớn.
Sau khi thảo luận về tình hình chung với Cục trưởng Cục tác chiến V.M. Giô-lô-bin, tướng A.M. Va-xi-lép-xki và các cán bộ tác chiến khác của Bộ Tổng tham mưu, chúng tôi đi đến kết luận rằng, trong thời gian gần nhất chắc là quân địch sẽ mưu toan đánh tan Phương diện quân Trung ương của ta để thọc vào sườn và hậu phương của Phương diện quân Tây-nam.
Còn về cuộc tấn công vào Mát-xcơ-va, thì cuộc tấn công này chắc là chỉ sẽ bắt đầu khi nào quân địch khắc phục được nguy cơ từ phía Phương diện quân Trung ương và từ phía các đơn vị thuộc hướng tây-nam của ta đối với sườn cụm tập đoàn quân trung ương của chúng. Ở hướng tây-bắc, quân địch sau khi tăng cường lực lượng, muốn nhanh chóng chiếm lấy Lê-nin-grát và liên kết với quân Phần Lan.
Một lần nữa sau khi cân nhắc và thẩm tra kỹ càng mọi việc, tin chắc rằng những phán đoán đó là đúng, tôi quyết định báo cáo ngay những điều này với Tổng tư lệnh tối cao để có những biện pháp đối phó cần thiết.
Ngày 29-7, tôi gọi dây nói tới I.V. Xta-lin đề nghị được gặp để báo cáo công việc khẩn cấp.
Mang theo bản đồ tình hình chiến lược, bản đồ đội hình quân Đức những tài liệu về tình hình quân ta và các lực lượng dự trữ vật chất kỹ thuật của các phương diện quân và của trung ương, tôi tới phòng tiếp khách gặp A.N. Pô-xcơ-rê-bư-sép. Tôi yêu cầu báo cáo là tôi đã có mặt. A.N. Pô-xcơ-rê-bư-sép trả lời:
- Mời đồng chí ngồi. Có lệnh chờ đồng chí Mê-khơ-lít.
Mười phút sau tôi được mời vào gặp I.V. Xta-lin.
- Thế nào, đồng chí có gì báo cáo đi - I.V. Xta-lin nói.
Trải các tấm bản đồ lên bàn, tôi báo cáo cặn kẽ về tình hình, bắt đầu từ hướng tây-bắc và kết thúc bằng hướng tây-nam. Tôi nêu lên những số liệu về những thiệt hại chủ yếu ở các mặt trận và quá trình xây dựng các lực lượng dự bị. Tôi nói tỉ mỉ về sự bố trí lực lượng của quân địch, kể về các cụm tập đoàn quân của chúng và trình bày tính chất của những hoạt động chiến lược của địch mà chúng tôi phán đoán. I.V. Xta-lin chăm chú nghe, hơi cúi xuống xem xét các bản đồ, tất cả những ghi chú nhỏ trên các bản đồ đó.
- Do đâu mà đồng chí biết được quân Đức sẽ hành động như thế? - L.D. Mê-khơ-lít hỏi.
- Tôi không biết được các kế hoạch quân Đức sẽ hành động, - tôi đáp, - nhưng, qua phân tích tình hình tôi thấy chúng có thể hành động đúng như vậy chứ không thể nào khác. Những điều phán đoán của chúng tôi dựa trên sự phân tích trạng thái và sự bố trí của quân đội Đức và trước hết của các đạo quân xe tăng thiết giáp và cơ giới là lực lượng chủ chốt trong các chiến dịch có ý nghĩa chiến lược của chúng.
- Đồng chí báo cáo tiếp đi. - I.V. Xta-lin nói.
Tôi tiếp tục:
- Ở hướng chiến lược Mát-xcơ-va, trong những ngày sắp tới quân Đức không thể mở trận tấn công, bởi vì chúng đã bị những thiệt hại quá lớn. Ở đây chúng không có các lực lượng dự bị chiến lược lớn để đảm bảo cánh phải và cánh trái của cụm tập đoàn quân "Trung tâm"; ở hướng Lê-nin-grát, nếu không có lực lượng tăng viện, quân Đức không thể mở trận đánh để chiếm Lê-nin-grát và hợp với quân Phần Lan; ở U-crai-na, các trận chính có thể nổ ra tại vùng Đơ-me-prô-pê-tơ-rốp-xcơ, Crê-men-chúc, nơi quân chủ lực của đạo quân xe tăng thiết giáp thuộc cụm tập đoàn quân "Nam" của địch đã kéo tới; Nơi yếu và nguy hiểm nhất trên các mặt trận của chúng ta là Phương diện quân Trung ương. Các tập đoàn quân bảo vệ hướng U-nê-cha, Gô-men quá ít quân và yếu về kỹ thuật. Quân Đức có thể lợi dụng chỗ yếu này đánh vào sườn và hậu phương của Phương diện quân Tây-nam.
- Đồng chí đề nghị như thế nào? - I.V. Xta-lin hỏi.
- Trước hết phải củng cố Phương diện quân Trung ương, giao cho nó ít nhất ba tập đoàn quân được tăng cường bằng pháo binh. Một tập đoàn quân lấy của hướng tây, một tập đoàn quân lấy của Phương diện quân Tây-nam, tập đoàn quân thứ ba lấy ở lực lượng dự bị của Đại bản doanh. Cứ một tư lệnh có kinh nghiệm và kiên nghị để phụ trách mặt trận. Cụ thể tôi đề nghị cử N.Ph. Va-tu-tin.
- Sao, - I.V. Xta-lin hỏi, - đồng chí cho rằng có thể làm yếu hướng vào Mát-xcơ-va?
- Không, tôi không nghĩ vậy. Sau 12 - 15 ngày, chúng ta có thể đưa từ Viễn Đông về ít nhất 8 sư đoàn có khả năng chiến đấu đầy đủ trong đó có một sư đoàn xe tăng. Số quân này sẽ không làm yếu mà sẽ làm mạnh thêm hướng Mát-xcơ-va.
- Còn Viễn Đông, chúng ta sẽ giao cho bọn Nhật? - L.D. Mê-khơ-lít bực bội hỏi.
Tôi không trả lời và nói tiếp:
- Cần phải đưa toàn bộ Phương diện quân Tây-nam về đằng sau Đờ-nép. Phía sau nơi tiếp giáp giữa Phương diện quân Trung ương và Phương diện quân Tây-nam, cần tập trung lực lượng dự bị ít nhất là 5 sư đoàn được tăng cường.
- Còn Ki-ép thì sao? - I.V. Xta-lin hỏi.
Tôi hiểu hai chữ "bỏ Ki-ép" đối với tất cả những người Xô-viết và đối với I.V Xta-lin có nghĩa như thế nào. Nhưng tôi không thể đi theo tình cảm. Là cán bộ quân sự tôi bắt buộc phải đề nghị một quyết định, theo quan điểm của tôi, duy nhất có thể thực hiện được trong tình hình đã diễn ra.
- Buộc phải bỏ Ki-ép, - tôi trả lời. - ở hướng tây cần phải khẩn cấp tổ chức cuộc phản kích để tiêu diệt địch ở mỏm En-nha. Quân địch có thể dùng bàn đạp này để đánh vào Mát-xcơ-va.
- Phản kích nào nữa ở đấy, sao lại có chuyện hồ đồ ấy? - I.V. Xta-lin bực lên - Thế nào mà đồng chí lại có thể nghĩ đến việc bỏ Ki-ép cho quân thù?
Tôi không thể kìm được mình và trả lời:
- Nếu như đồng chí cho rằng Tổng tham mưu trưởng chỉ có thể làm được những chuyện hồ đồ, vậy thì Tổng tham mưu trưởng ở đây không có việc gì để làm nữa. Tôi đề nghị cho tôi thôi chức vụ Tổng tham mưu trưởng và cử tôi ra tiền tuyến. Chắc là ở ngoài đó có ích hơn đối với Tổ quốc.
- Đồng chí dừng nóng, - I.V. Xta-lin nói - Nếu đồng chí đặt vấn đề một cách như vậy, thì không có đồng chí chúng tôi cũng xong...
Tôi nói rằng, tôi có quan điểm riêng đối với tình hình và các phương thức tiến hành chiến tranh và đã báo cáo quan điểm đó như tôi và Bộ Tổng tham mưu suy nghĩ.
- Đồng chí hãy ra làm việc đi, chúng tôi bàn ngay với nhau một tí và sẽ gọi đồng chí sau.
Thu lấy các bản đồ, tôi bước ra ngoài phòng, trong lòng nặng trĩu.
Chừng 40 phút sau tôi được gọi vào gặp Tổng tư lệnh tối cao.
- Bây giờ thế này, - I.V. Xta-lin nói, - chúng tôi đã bàn bạc và quyết định để đồng chí thôi trách nhiệm Tổng tham mưu trưởng. Chúng tôi sẽ cử B.M. Sa-pô-sni-cốp làm Tổng tham mưu trưởng. Thực ra sức khỏe của đồng chí ấy không được tốt lắm, nhưng không sao, chúng tôi sẽ giúp đỡ đồng chí ấy.
- Đồng chí ra lệnh cho tôi đi đâu?
- Vậy đồng chí muốn đi đâu?
- Tôi có thể làm bất kỳ công tác gì. Tôi có thể chỉ huy sư đoàn, quân đoàn, tập đoàn quân, phương diện quân.
- Đừng nóng, đừng nóng! Đồng chí vừa nói tới việc tổ chức cuộc phản kích ở En-nha. Vậy đồng chí đảm đương lấy việc đó. Chúng tôi sẽ cử đồng chí làm tư lệnh Phương diện quân Dự bị. Bao giờ đồng chí có thể đi?
- Một giờ sau.
- B.M. Sa-pô-sni-cốp sẽ tới Bộ Tổng tham mưu ngay, đồng chí bàn giao công việc rồi lên đường. Đồng chí cần biết rằng đồng chí vẫn là ủy viên Đại bản doanh Bộ Tổng tư lệnh tối cao. - I.V. Xta-lin kết thúc.
- Đồng chí cho phép tôi đi?
- Đồng chí hãy ngồi lại đây uống nước chè với chúng tôi, - I.V. Xta-lin nói, lúc này đã mỉm cười, - chúng ta còn có việc cần nói chuyện.
Mọi người ngồi vào bàn và uống nước chè, nhưng chuyện thì không thành.
Tôi chuẩn bị rất chóng. Chẳng bao lâu B.M. Sa-pô-sni-cốp từ Phương diện quân miền Tây đã trở về, tại đây đồng chí là đại diện Đại bản doanh Bộ Tổng tư lệnh tối cao. Tôi lên đường tới vùng Gơ-giát-xcơ. Cơ quan chỉ huy của Phương diện quân Dự bị đóng ở đó.
---
[1] Tin về xe tăng nêu ra bị phóng đại - TG.
Zhukov
NHỚ LẠI VÀ SUY NGHĨ
Chương 11
TỪ EN-NHA ĐẾN LÊ-NIN-GRÁT
TÔI dừng lại ở bộ tham mưu phương diện quân không lâu. Sau khi tìm hiểu những tình hình mới nhất trên các khu vực thuộc phạm vi phụ trách của phương diện quân, tôi cùng với đồng chí tư lệnh pháo binh, tướng L.A. Gô-vô-rốp, tới vùng En-nha, đến bộ tham mưu tập đoàn quân 24. Khuya chúng tôi mới tới nơi. Trên đường đi, chúng tôi thấy ánh lửa của những đám cháy lớn ở vào khoảng vùng Yác-xê-vô và En-nha.
Chưa biết cái gì cháy, nhưng thấy có đám cháy lớn là lòng chúng tôi nặng trĩu. Lửa đã thiêu cháy của cải của nhân dân Xô-viết, kết quả lao động bao nhiêu năm của họ. Tôi tự hỏi: đối với bọn giặc gieo rắc tai họa trên bước đường đẫm máu của nó, thì nhân dân Xô-viết phải trả lời thế nào và bằng gì đây? Bằng gươm súng, chỉ bằng gươm súng, tiêu diệt không thương tiếc. Đó là cách trả lời duy nhất đối với kẻ thù độc ác đó ...
Đón chúng tôi ở bộ tham mưu tập đoàn quân 24 có đồng chí tư lệnh K.I. Ra-cu-tin và các đồng chí chỉ huy các binh chủng. K.I. Ra-cu-tin là người mà trước đây tôi chưa biết. Khi báo cáo về tình hình bố trí lực lượng, đồng chí đã gây cho tôi ấn tượng tốt. Nhưng trình độ chiến dịch - chiến thuật của đồng chí rõ ràng là còn yếu. Đó cũng là chỗ yếu chung của các đồng chí sĩ quan và tướng lĩnh trước đây công tác trong bộ đội biên phòng thuộc Bộ Ủy viên nhân dân nội vụ. Ở đó, anh em hầu như không được bồi dưỡng về nghệ thuật tác chiến.
Sáng sớm hôm sau chúng tôi cùng với đồng chí K.I. Ra-cu-tin đến En-nha để trực tiếp trinh sát thực địa. Lúc đó ta và địch đang bắn nhau. Sau khi bàn bạc về tình hình với các đồng chí chỉ huy các đơn vị chúng tôi thấy rằng, quân Đức ở đây đã tổ chức phòng ngự rất vững, rồi đây chắc chúng sẽ chống cự ác liệt. Ngoài tiền duyên và trong tung thâm phòng ngự địch đã đặt xe tăng, pháo và các loại súng tấn công chìm dưới đất và đã biến mũi En-nha thành một khu vực đặc biệt kiên cố.
Khi nghiên cứu tình hình, chúng tôi thấy ta chưa phát hiện được hết hệ thống hỏa lực của địch, vì vậy, các đơn vị của chúng ta khi bắn thường không phải nhằm vào những hỏa điểm thật mà phần nhiều là những mục tiêu phán đoán là có.
Tập đoàn quân 24 rõ ràng không đủ sức phản kích.
Sau khi tính toán kỹ càng mọi thứ cần thiết để tổ chức phản kích và trao đổi ý kiến với đồng chí tư lệnh tập đoàn quân và các đồng chí chỉ huy binh chủng, chúng tôi kết luận: cần 10 đến 12 ngày để tập trung thêm 2 đến 3 sư đoàn bộ binh và đơn vị pháo binh, để nghiên cứu sâu hơn nữa toàn bộ hệ thống phòng ngự địch và vận chuyển những phương tiện vật chất, kỹ thuật tới. Như thế thì cuộc tấn công chỉ có thể tiến hành sớm nhất là trong nửa tháng 8 về sau. Trước thời gian đó quân ta phải tiếp tục tích cực đánh tiêu hao quân địch, nghiên cứu hệ thống phòng ngự của chúng và bố trí lại lực lượng và phương tiện, chuẩn bị cho những hoạt động kiên quyết sắp tới.
Đến giữa tháng 8, chúng tôi đã có tài liệu đầy đủ về quân địch, hệ thống hỏa lực và hầm hào của chúng.
Ngày 12-8, tôi có dịp hỏi cung tên tù binh Mít-téc-man bị bắt trong một trận phản công của quân Đức.
Tên Mít-téc-man 19 tuổi, bố hắn là đảng viên quốc xã, bản thân hắn cũng ở trong tổ chức "I-u-ghen-phôn-ke[1]", hắn đã cùng với sư đoàn đi đánh ở Pháp, Bỉ, Hà Lan và Nam Tư.
Hắn khai như sau:
- Phần lớn lính trong sư đoàn đều từ 19 đến 20 tuổi. Từng người đều được chọn lọc theo thể thức đặc biệt. Sư đoàn SS này tới En-nha theo sau sư đoàn xe tăng 10.
Theo Mít-téc-man, vùng En-nha được coi là tuyến phía trước để từ đó tiếp tục tiến sâu vào trong nước. Hắn cho rằng, dừng lại 3 tuần lễ và chuyển sang phòng ngự ở vùng En-nha là một cách tranh thủ thời gian để bộ tư lệnh Đức đưa thêm lực lượng dự bị và quân bổ sung tới.
Tên tư lệnh tập đoàn quân Đức, tướng Gu-đê-ri-an đã ra mệnh lệnh đặc biệt giải thích: "Chúng ta đã vượt xa rồi, bây giờ cần đưa lực lượng dự bị tới để tiếp tục tiến lên".(Thật là một cách giải thích kỳ lạ cho binh lính về việc quân đội chúng phải dừng lại và chuyển sang phòng ngự. Cái đó người ta gọi là lừa bịp, nói trắng ra đen).
- Trung đoàn "Đớt-sơ-lan" của chúng tôi phòng ngự trong vùng En-nha, - Mít-téc-man khai tiếp - Trung đoàn này đã được rút ra cho nghỉ ngơi nhưng rồi lại bị đẩy lên trận địa phía trước vì các trung đoàn bị thiệt hại nhiều và các hành động phòng ngự bị thất bại. Trung đoàn bị thiệt hại nặng đến nỗi người ta phải tống bọn lính ở cơ quan hậu cần bổ sung vào các phân đội bộ binh. Quân Đức thiệt hại nhiều nhất là vì pháo binh Xô-viết. Pháo binh của người Nga đánh rất ác, làm ảnh hưởng đến tinh thần lính Đức.
Qua mệnh lệnh giải thích của bộ tư lệnh Đức về phong trào du kích ở vùng bị chiếm, Mít-téc-man được biết rằng trong rừng có nhiều đơn vị vũ trang xô-viết luôn luôn bắn vào quân Đức...
Mọi người đều biết là vào giữa tháng 7-1941, Ban chấp hành trung ương Đảng đã ra một nghị quyết riêng về "Tổ chức chiến đấu trong vùng sau lưng quân đội Đức". Đảng đã có những biện pháp rất kiên quyết để tổ chức các tổ và đội du kích. Trong những vùng có thể bị quân Đức chiếm đóng, đã tổ chức sẵn chi bộ Đảng và chi đoàn thanh niên cộng sản bí mật để lãnh đạo phong trào du kích. Năm 1941, ở các tỉnh Lê-nin-gtát, Ca-li-nin, Xmô-len-xcơ, Ô-ri-ôn và Cuốc-xcơ, ở các nước cộng hòa U-crai-na, Bê-lô-ru-xi, Môn-đa-vi đã có đến 800 đảng ủy thành phố, khu phố hay huyện và trung tâm lãnh đạo các khu phố và huyện, trên 300 ban chấp hành thành phố, khu phố và huyện của Đoàn thanh niên cộng sản bắt đầu hoạt động chống giặc, phong trào du kích ở Lát-vi-a, Lít-va và E-xtô-ni-a cũng đã được phát động. Nhiều đội và tổ du kích hợp lại thành các binh đoàn lớn do những cán bộ Đảng và Nhà nước chỉ huy, các binh đoàn này đã gây cho địch những thiệt hại đáng kể.
Cuối lời khai, Mít-téc-man nói rằng, do những thiệt hại và thất bại nặng nề trong những tuần lễ gần đây ở En-nha, bộ tư lệnh sư đoàn SS và cả đến các chỉ huy trung đoàn đều bị cách chức.
Tất cả những tin tức đó cùng với những lời khai của nhiều tù binh khác đã giúp chúng tôi đặt kế hoạch chu đáo tỉ mỉ cho pháo binh bắn, cho máy bay ném bom và nêu nhiệm vụ cụ thể cho các đơn vị bộ đội và binh đoàn. Thiếu tương L.A. Gô-vô-rốp rất giỏi về sử dụng pháo binh, đã có nhiều đóng góp về mặt này.
Vào những ngày 20 của tháng 8, tập đoàn quân 24 bắt đầu mở cuộc phản kích chính. Chiến đấu ở mọi khu vực đều rất ác liệt và nặng nề cho cả hai bên. Quân địch đã giăng một lá chắn hỏa lực dày đặc bằng pháo và súng cối chống lại các sư đoàn tấn công.
Chúng ta đã đưa vào chiến đấu tất cả số máy bay, xe tăng, pháo binh và súng cối phản lực có lúc đó. Cuộc chiến đấu diễn ra liên tục cả ngày và đêm. Dải đất lồi ra ở mạn En-nha bị các gọng kìm sắt của bộ đội chúng ta kẹp lại khiến ngày một thu hẹp dần. Người ta có cảm giác là quân địch đa bị kiệt sức.
Các sư đoàn 19, 100, 107 của chúng ta chiến đấu đặc biệt dũng cảm. Từ đài quan sát của đồng chí P.V. Mi-rô-nốp, tư lệnh sư đoàn 107, tôi được tận mắt nhìn thấy cảnh chiến đấu quyết liệt không thể quên được của trung đoàn bộ binh do đồng chí I.N. Nê-cra-xốp chỉ huy.
Trung đoàn của đồng chí I.N. Nê-cra-xốp nhanh chóng chiếm được làng Vô-lô-xcô-vô, nhưng lại rơi vào tình trạng bị bao vây. Anh em đánh trong 3 ngày đêm. Được các đơn vị khác của sư đoàn 107 yểm hộ , có pháo binh và không quân chi viện, trung đoàn của I.N. Nê-cra-xốp không những đã chọc thủng được vòng vây mà còn quần nát quân địch và sau đó chiếm được nhà ga xe lửa - một điểm tựa quan trọng.
Biết bao tấm gương anh hùng, dũng cảm của đông đảo quần chúng đã xuất hiện bên tôi và xung quanh tôi, ở khắp mọi nơi, cả ban ngày và ban đêm...
Lợi dụng đêm tối và dải đất chưa bị vây chặt, bọn địch còn sống sót đã rút chạy khỏi mũi En-nha, bỏ lại trên chiến trường rất nhiều xác chết, vũ khí nặng và xe tăng. Ngày 6-9, quân ta tiến vào En-nha.
Bàn đạp nguy hiểm của địch đã bị thủ tiêu. Cố gắng giữ En-nha của giặc đã phải trả một giá đắt. Nhân đó tôi đã báo cáo vắn tắt kết quả của chiến dịch En-nha với I.V. xta-lin.
Trong các trận chiến đấu ở vùng En-nha, quân Đức đã bị tiêu diệt tất cả đến 5 sư đoàn, bị chết và bị thương khoảng 45.000 - 47.000 tên, một số lớn súng máy, súng cối và đại bác bị pháo binh và không quân ta phá hủy. Theo lời khai của tù binh thì một số trung đoàn địch đã không còn đến một khẩu súng cối và pháo nào. Trong thời gian cuối của trận đánh, chúng chỉ sử dụng xe tăng và pháo binh thành từng tổ lẻ tẻ, và chỉ để chống lại những cuộc tấn công của ta trên những khu vực quan trọng nhất. Rõ ràng là địch đã chuyển các phương tiện đó sang các hướng khác.
Về phía ta, chúng ta đã không hoàn thành được nhiệm vụ bao vây và bắt sống đạo quân địch đóng ở En-nha, vì chưa đủ sức, nhất là chưa đủ xe tăng.
Pháo binh của chúng ta kể cả các sư đoàn mới thành lập đã đánh rất tốt. Đạn phản lực tỏ ra có sức phá hoại rất mạnh. Tôi đã xem những nơi bị đạn phản lực bắn thì thấy các công sự phòng ngự bị phá hủy hoàn toàn. U-sa-kô-vô, trung tâm phòng ngự chính của địch đã bị các loạt đạn phản lực phá sạch, còn các hầm trú ẩn thì bị sụp đổ, tan nát.
Các đơn vị chúng ta truy kích quân địch, đến ngày 7-9 tới sông Xtơ-ri-a-na, chiếm lại con sông đó và từ sáng ngày 8-9, nhận nhiệm vụ phát triển tấn công, phối hợp với các đơn vị của tướng P.P. Xô-ben-ni-cốp.
Do kết quả của chiến dịch, tinh thần của quân ta lên cao, lòng tin tưởng vào thắng lợi được củng cố. Các đơn vị của ta đã vững tâm hơn để đánh bại các cuộc phản công của địch, dùng hỏa lực diệt chúng, và đồng loạt chuyển sang phản công.
Mặc dù những trận chiến đấu diễn ra vô cùng ác liệt, và chiến dịch đã thu được thắng lợi, tôi vẫn không quên cuộc nói chuyện ở Đại bản doanh ngày 29-7. Những dự kiến về chiến lược của Bộ Tổng tham mưu chúng ta lúc đó có đúng không?
Hiện nay có nhiều cách nói khác nhau về thái độ của Đại bản doanh, Bộ Tổng tham mưu, bộ tư lệnh hướng tây-nam và Hội đồng quân sự Phương diện quân Tây-nam đối với công cuộc phòng thủ Ki-ép và việc Phương diện quân Tây-nam rút về sông Pờ-xen để tránh bị bao vây, vì vậy, tôi thấy cần trích ra ở đây cuộc nói chuyện của I.V. Xta-lin với bộ tư lệnh Phương diện quân Tây-nam ngày 8-8-1941.
"I.V. Xtallin ở máy nói. Chúng tôi được tin phương diện quân của đồng chí đã nông nổi quyết định bỏ Ki-ép cho quân giặc vì cho là thiếu những đơn vị có khả năng bảo vệ Ki-ép. Có đúng thế không?
Thượng tướng M.P. Kiếc-pô-nô-xơ. Chào đồng chí Xta-lin. Người ta báo cáo không đúng với đồng chí. Tôi và hội đồng quân sự phương diện quân đã dùng mọi biện pháp để dù sao cũng không bỏ Ki-ép cho địch. Quân địch ở mặt biên giới phía nam nước Cộng hòa U-crai-na, có lực lượng hơn ta đến 5 sư đoàn và được không quân chi viện, đã thọc sâu vào U-crai-na đến 4 km. Trong ngày hôm qua có đến 4.000 quân địch chết và bị thương. Trận đánh diễn ra rất ác liệt, nhiều vùng dân cư phải giành đi giật lại nhiều lần.
Để tăng cường cho các đơn vị ở U-crai-na, hôm qua và hôm nay, chúng tôi đã điều 2 lữ đoàn quân đổ bộ đường không với 30 xe tăng làm nhiệm vụ tiêu diệt các đơn vị địch đã lọt vào U-crai-na và khôi phục lại hình thái cũ. Tôi cho rằng những lực lượng và phương tiện mà chúng tôi hiện có, đủ bảo đảm làm tròn nhiệm vụ.
I.V. Xta-lin. Đồng chí có thể nói chắc chắn rằng, đồng chí đã dùng mọi biện pháp để bất cứ trong điều kiện nào cũng có thể khôi phục lại tình hình ở dải phía nam U-crai-na không? Đồng chí hãy lấy một số đơn vị từ các hướng khác về để tăng cường việc giữ Ki-ép. Tôi cho rằng, sau khi đồng chí Mu-dư-chen-cô rút khỏi vòng vây thì cuộc tấn công của chúng ta ở hướng mà đồng chí đã biết, sẽ không còn ý nghĩa ban đầu nữa. Như vậy, đồng chí có thể rút một số đơn vị ra khỏi hướng ấy và lấy lực lượng đó tăng cường cho Ki-ép được không?
Hội đồng quốc phòng và Đại bản doanh tha thiết yêu cầu đồng chí dùng hết thảy mọi biện pháp có thể để bảo vệ Ki-ép. Chừng hai tuần nữa tình hình sẽ dễ chịu hơn. Lúc đó chúng tôi sẽ có thể chi viện cho các đồng chí những lực lượng mới, còn trong hai tuần trước mắt dẫu như thế nào cũng phải giữ bằng được Ki-ép.
M.P. Kiếc-pô-nô-xơ. Đồng chí Xta-lin, tất cả ý nghĩ và cố gắng của chúng tôi, của tôi cũng như của cả Hội đồng quân sự đều nhằm không cho quân địch chiếm được Ki-ép. Chúng tôi sẽ sử dụng tất cả mọi thứ có trong tay để giữ Ki-ép, làm tròn nhiệm vụ trên đã giao.
I.V. Xta-lin. Rất tốt. Bắt chặt tay đồng chí. Chúc đồng chí thắng lợi. Chào đồng chí.
M.P. Kiếc-pô-nô-xơ. Xin cảm ơn những lời chúc thắng lợi của đồng chí".
Còn tôi thì vào nửa cuối tháng 8-1941, khi phân tích tình hình chiến lược chung và tính chất những hoạt động của quân địch, tôi lại tin chắc rằng, những ý kiến tôi đã báo cáo với I.V. Xta-lin ngày 29-7-1941 về khả năng hành động của quân địch trong thời gian tới là đúng. Vì vậy, với tư cách một thành viên của Đại bản doanh, tôi thấy có trách nhiệm phải báo cáo lại một lần nữa với Tổng tư lệnh tối cao những dự kiến về việc quân địch có thể tấn công vào sườn và phía sau các đơn vị thuộc Phương diện quân Tây-nam.
Ngày 18-8 tôi gửi lên I.V. Xta-lin bức điện sau đây:
"Quân địch biết chắc là ta đã tập trung những lực lượng rất lớn trên các đường tiến vào Mát-xcơ-va, và thấy ở hai bên sườn của chúng lại có Phương diện quân Trung ương và bộ phận lực lượng ta đóng ở Vê-li-ki - Lu-ki, nên chúng đã tạm thời bỏ ý định tấn công Mát-xcơ-va và chuyển sang phòng ngự tích cực, chống lại Phương diện quân miền Tây và Phương diện quân Dự bị, mà tung tất cả các đơn vị cơ động và xe tăng xung kích tấn công vào các Phương diện quân Trung ương, Tây-nam và phía Nam.
Có thể là địch âm mưu tiêu diệt Phương diện quân Trung ương và sau khi tiến ra vùng Chéc-ni-gốp - Cô-nô-tốp - Pri-lu-ki, sẽ từ phía sau đánh tan các tập đoàn quân của Phương diện quân Tây-nam. Sau đó chứng sẽ vòng qua các khu rừng Bri-an-xcơ mà đánh mũi đột kích chủ yếu vào Mát-xcơ-va, đồng thời tiến đánh vùng Đôn-bát.
Muốn phá tan âm mưu nguy hiểm đó của địch, tôi thấy ta nên tập trung thật nhanh một số lớn lực lượng vào vùng Glu-khốp - Chéc-ni-gốp - Cô-nô-tốp và lấy lực lượng đó đánh vào sườn quân địch đang tấn công.
Thành phần cụm xung kích của ta nên có 11 đến 12 sư đoàn bộ binh, 2 đến 3 sư đoàn kỵ binh, ít ra 1.000 xe tăng và 400 - 500 máy bay. Có thể lấy những lực lượng ấy ở Phương diện quân Viễn Đông ở vùng phòng thủ và phòng không Mát-xcơ-va và ở các quân khu bên trong" .
Để đập tan thủ đoạn của địch , tôi đề nghị với Đại bản doanh tiến hành nhiều biện pháp kể cả việc tổ chức một cuộc phản công lớn từ vùng Bri-an-xcơ.
Ngày hôm sau, 19-8, tôi nhận được điện của Đại bản doanh Bộ tổng tư lệnh tối cao như sau:
"Chúng tôi cho rằng ý kiến của đồng chí về sự tiến lên của địch ở phía Chéc-ni-gốp - Cô-nô-tốp - Pri-lu-ki là đúng. Quân Đức tiến lên ... có nghĩa là địch sẽ vòng qua Ki-ép ở phía đông sông Đờ-nép, và thực hiện bao vây các tập đoàn quân 3 và 21 của chúng ta ... Do nhìn thấy trước tình hình phức tạp đó và để ngăn ngừa nó, nên đã thành lập Phương diện quân Bri-an-xcơ do Ê-rê-men-cô chỉ huy. Còn có nhiều biện pháp khác nữa, sẽ thông báo đặc biệt sau.. Chúng tôi hy vọng chặn được cuộc tiến công của địch. Xta-lin, Sa-pô-sni-cốp".
Tôi rất lo lắng cho số phận của Phương diện quân Trung ương và Tây-nam, nên sau đó, không nhớ rõ một hay hai ngày sau, tôi quyết định gọi dây nói cho B.M. Sa-pô-sni-cốp, Tổng tham mưu trưởng. Tôi muốn biết Bộ tổng tư lệnh tối cao đã có những biện pháp cụ thể gì để tránh cho Phương diện quân Trung ương và Tây-nam khỏi rơi vào tình trạng khó khăn.
B.M. Sa-pô-sni-cốp thông báo cho tôi tình hình các khu vực nói trên và các biện pháp của Bộ tổng tư lệnh nhằm chống lại những thủ đoạn của tập đoàn quân Gu-đê-ri-an và của các đơn vị cánh phải cụm tập đoàn quân "Trung tâm" quân địch.
Đồng chí cho biết, Tổng tư lệnh tối cao cho phép rút một số đơn vị thuộc cánh phải Phương diện quân Tây-nam về bờ phía đông sông Đờ-nép. Các đơn vị đóng ở Ki-ép, vẫn ở tại chỗ, có nhiệm vụ bảo vệ các đường vào Ki-ép, và phải giữ vững Ki-ép cho tới những khả năng cuối cùng.
- Cá nhân tôi - B.M. Sa-pô-sni-cốp nói tiếp - tôi cho rằng, Phương diện quân Bri-an-xcơ mới thành lập sẽ không thể chặn được mũi đột kích có thể có của cụm tập đoàn quân "Trung tâm" quân địch.
- Thế mà - đồng chí nói thêm - trung tướng Ê-rê-men-cô lúc nói chuyện với I.V. Xta-lin có hứa sẽ tiêu diệt các đơn vị địch tiến đánh Phương diện quân Trung ương, không cho chúng lọt vào sườn và phía sau phương diện quân Tây-nam.
Tôi biết các đơn vị của Phương diện quân Bri-an-xcơ mới vội vã thành lập ra như vậy sẽ chiến đấu như thế nào, nên thấy hết sức cần thiết phải báo cáo lại một lần nữa bằng máy cao tần với Tổng tư lệnh tối cao, để kiên trì đề nghị phải rút thật nhanh tất cả các đơn vị thuộc cánh phải của Phương diện quân Tây-nam sang bên kia sông Đờ-nép.
Nhưng đề nghị của tôi không được chấp nhận.
I.V. Xta-lin nói rằng, đồng chí vừa trao đổi ý kiến một lần nữa với N.X. Khơ-rút-xốp và M.P. Kiếc-pô-nô-xơ, và các đồng chí này vẫn đảm bảo rằng, hiện nay dầu tình hình như thế nào cũng không bỏ Ki-ép. Riêng I.V. Xta-lin cũng tin là, dù cho quân địch không bị Phương diện quân Bri-an-xcơ đánh tan thì thế nào chúng cũng bị chặn lại ở đấy.
Chúng ta biết là bộ đội của Phương diện quân Tây-nam sau đó đã bị thiệt hại nặng vì những quyết định không dựa trên sự phân tích tình hình một cách nghiêm chỉnh đó.
Ngày 8-9 tôi được gọi về gặp I.V. Xta-lin.
Tôi vào phòng tiếp khách thì đêm đã muộn. Các đồng chí cho biết I.V. Xta-lin đợi tôi ở nhà riêng trong điện Crem-lanh. Mấy phút sau tôi đã đến nhà đồng chí. I.V. Xta-lin đang ăn cơm tối.
Cùng ăn với đồng chí có đồng chí A.X. Séc-ba-cốp, V.M. Mô-lô-tốp, G.M Ma-len-cốp, và các đồng chí ủy viên khác trong Bộ chính trị.
I.V. Xta-lin niềm nở tiếp đón tôi. .
- Mũi En-nha của đồng chí được đấy, - I.V. Xta-lin nói - Ý kiến đồng chí lúc đó là đúng (ý nói đến bản báo cáo của tôi ngày 29-7). Bây giờ đồng chí muốn đi đâu?
- Tôi xin trở lại mặt trận.
- Mặt trận nào?
- Đến mặt trận nào mà đồng chí thấy cần thiết.
- Đồng chí hãy đến Lê-nin-gtát. Lê-nin-grát đang trong tình trạng hết sức gay go. Nếu quân Đức chiếm được Lê-nin-grát và liên lạc được với quân đội Phần Lan thì chúng có thể sẽ từ hướng đông-bắc đánh vu hồi vào Mát-xcơ-va và lúc đó tình hình sẽ khó khăn hơn nữa.
- Xin sẵn sàng đi ngay đến Lê-nin-grát. Tôi chỉ đề nghị cho hai, ba đồng chí cấp tướng cùng đi để nếu cần thì có người thay thế các đồng chí tư lệnh nào bị yếu mệt quá sức.
- Tùy đồng chí muốn lấy ai cũng được - Sau đó ngừng một lát, I.V. Xta-lin đột nhiên nói - Ở hướng tây-nam tình hình không được tốt. Chúng tôi quyết định thay đổi người lãnh đạo ở đó. Theo đồng chí thì nên cử ai đến.
- Trong thời gian gần đây nguyên soái Ti-mô-sen-cô có nhiều kinh nghiệm thực tế trong công tác tổ chức chiến đấu, và đồng chí đó lại rất quen thuộc U-crai-na, tôi đề nghị cử đồng chí Ti-mô-sen-cô - tôi trả lời.
- Hay đấy, đồng chí nói đúng. Thế nên cử ai thay thế Ti-mô-sen-cô ở phương diện quân miền Tây?
Tôi bèn đề nghị cử trung tướng I.X. Cô-nép, tư lệnh tập đoàn quân 19. I.V. Xta-lin đồng ý, và ngay lúc đó gọi dây nói, chỉ thị cho B.M. Sa-pô-sni-cốp triệu tập nguyên soái Ti-mô-sen-cô về và truyền lệnh cho I.X. Cô-nép lên làm tư lệnh Phương diện quân miền Tây.
Tôi sắp cáo từ thì I.V. Xta-lin lại hỏi:
- Đồng chí đánh giá những kế hoạch và khả năng sau này của địch thế nào?
- Hiện nay - tôi trả lời, - ngoài Lê-nin-grát ra thì Phương diện quân Tây-nam là nơi đang gặp nguy hiểm nhất. Tôi cho rằng, trong những ngày sắp tới tình hình ở đây có thể sẽ gay go. Cụm tập đoàn quân "Trung tâm" của địch nếu tiến được ra khu vực Chéc-ni-gốp - Nốp-gô-rốt - Xê-véc-xki thì nó có thể đánh bại tập đoàn quân 21 của chúng ta và thọc vào phía sau Phương diện quân Tây-nam.
Tôi tin rằng cụm tập đoàn quân "Nam" của Đức, sau khi chiếm được căn cứ đầu cầu trong vùng Crê-men-chúc sẽ hiệp đồng chiến dịch với tập đoàn quân Gu-đê-ri-an. Phương diện quân Tây-nam bị đe dọa nghiêm trọng. Tôi lại đề nghị rút ngay các lực lượng của chúng ta ở Ki-ép sang bờ phía đông sông Đờ-nép và lấy nơi nào đó trong các đơn vị đó thành lập ra những lực lượng dự bị ở một vùng Cô-nô-tốp.
- Thế còn Ki-ép?
- Tuy đau xót, nhưng buộc phải bỏ Ki-ép. Chúng ta không còn cách giải quyết nào khác.
I.V. Xta-lin cầm lấy ống nói và gọi điện thoại cho B.M. Sa-pô-sni-cốp.
- Đối với bộ phận quân ta ở Ki-ép chúng ta sẽ xử trí thế nào? - I.V. Xta-lin hỏi - Giu-cốp kiên trì đề nghị rút ngay.
Tôi không nghe Sa-pô-sni-cốp trả lời như thế nào, nhưng cuối cùng I.V. Xta-lin nói:
- Ngày mai Ti-mô-sen-cô sẽ đến đây. Đồng chí hãy cùng đồng chí đó suy nghĩ về các vấn đề, rồi buổi tối chúng ta sẽ nói chuyện với Hội đồng quân sự Phương diện quân Tây-nam.
Cuộc nói chuyện với Hội đồng quân sự Phương diện quân diễn ra ngày 11-9. Đây là nội dung của cuộc nói chuyện:
Đầu máy nói bên kia - các đồng chí: Kiếc-pô-nô-xơ, Buốc-mi-xten-cô, Tu-pi-cốp.
ở đây - các đồng chí: Xta-lin, Sa-pô-sni-cốp, Ti-mô-sen-cô.
I.V. Xta-lin. Tôi thấy đề nghị của các đồng chí về việc rút bộ đội tới tuyến sông đã nói là nguy hiểm.
Trong tình hình hiện nay ở bên bờ phía đông sông Đờ-nép, nếu cho rút các đơn vị theo như đề nghị của các đồng chí, thì có nghĩa là sẽ đưa bộ đội ta đến chỗ bị bao vây, bởi vì quân địch sẽ đánh các đồng chí không những từ phía Cô-nô-tốp, tức là từ phía bắc, mà còn từ phía nam, nghĩa là từ Cờ-rê-men-chúc và cả từ phía tây, vì khi quân ta rút khỏi sông Đờ-nép thì chỉ trong chốc lát quân địch sẽ chiếm bờ phía đông con sông đó và chúng sẽ bắt đầu ngay các cuộc tấn công. Nếu bộ phận quân địch ở Cô-nô-tốp bắt liên lạc được với bộ phận của chúng ở Crê-men-chúc thì các đồng chí sẽ bị hợp vây.
Như các đồng chí đã thấy, đề nghị rút quân ngay của các đồng chí mà không có hai điều kiện: một là, chuẩn bị trước tuyến phòng ngự trên sông Pơ-xen; hai là, hiệp đồng với Phương diện quân Bri-an-xcơ tấn công mãnh liệt vào bộ phận quân địch đóng ở Cô-nô-tốp - tôi nhắc lại, nếu không có hai điều kiện đó thì đề nghị rút quân của các đồng chí thật là nguy hiểm và có thể dẫn đến thảm họa. Làm thế nào để thoát khỏi tình trạng đó? Lối thoát có thể như sau:
Một là, sau khi đã tập trung 9/10 lực lượng không quân vào trong vùng này, phải điều động bố trí lại ngay các lực lượng, dù chỉ là những lực lượng bộ đội đang phòng thủ Ki-ép và những đơn vị khác, hiệp đồng với Ê-rê-men-cô tấn công vào bộ phận quân địch ở Cô-nô-tốp. Ê-rê-men-cô đã nhận được những chỉ thị liên quan. Ngày hôm nay chúng tôi đã ra lệnh riêng, chuyển cụm không quân của Pê-tơ-rốp sang Khác-cốp, thuộc quyền chỉ huy của Phương diện quân Tây-nam.
Hai là, phải tổ chức ngay tuyến phòng ngự trên sông Pờ-xen hay một nơi nào trên dải đó, bố trí một cụm pháo lớn của phương diện quân hướng bắn về phía bắc, phía tây và rút từ 5 đến 6 sư đoàn về tuyến phòng ngự đó.
Ba là, sau khi đã tạo ra thành quả đấm mạnh đánh bộ phận quân địch ở Cô-nô-tốp và thiết lập được tuyến phòng ngự trên sông Pờ-xen, nói tóm lại, khi đã làm xong tất cả những việc đó thì bắt đầu cho rút khỏi Ki-ép; trước khi rút phải chuẩn bị chu đáo việc phá sập các cầu
Không được để lại một phương tiện qua sông nào trên sông Đờ-nép, mà phải phá hủy hết đi, và sau khi đã rút khỏi Ki-ép phải trụ lại bên bờ phía đông sông Đờ-nép, không để quân địch vượt sang đó.
Cuối cùng, ở đó phải tìm cách chống cự và chỉ có chống cự, không được tìm đường rút lui nữa.
Kiếc-pô-nô-xơ. Chúng tôi không hề có ý định rút quân trước khi nhận được chỉ thị nêu phương hướng rút bộ đội sang phía đông và định rõ các tuyến. chúng tôi chỉ đề nghị cấp trên tăng cường cho phương diện quân lực lượng dự bị vì chính diện đã kéo dài đến trên 800 km.
Theo chỉ thị của Đại bản doanh nhận được đêm ngày 10 rạng sáng 11 tháng 9, chúng tôi đang rút 2 sư đoàn bộ binh cùng với pháo binh của tập đoàn quân đồng chí Cô-xten-cô, chuyển nó theo đường sắt sang phía Cô-nô-tốp để làm nhiệm vụ cùng với các tập đoàn quân của đồng chí Pốp-lát và Cu-dơ-nét-xốp tiêu diệt đoàn quân mô-tô cơ giới địch đã lọt vào hướng Rôm-ma. Theo ý kiến của chúng tôi thì không nên rút bớt lực lượng ở Ki-ép và U-crai-na đi nữa, vì đã lấy đi hơn 2 sư đoàn rưỡi cho hướng Chéc-ni-gốp rồi. Chỉ có thể lấy ở đây một bộ phận pháo thôi.
Những chỉ thị của Bộ tổng tư lệnh mà chúng tôi vừa nhận sẽ được thi hành ngay lập tức. Hết.
I.V. Xta-lin. Thứ nhất. Việc rút bộ đội của Phương diện quân Tây-nam là do đề nghị của đồng chí và đồng chí Bu-di-on-nưi, tổng tư lệnh mặt trận hướng tây-nam. Đây là trích yếu báo cáo của đồng chí Bu-di-on-nưi ngày 11:
"Đồng chí Sa-pô-sni-cốp cho biết, Đại bản doanh Bộ tổng tư lệnh tối cao thấy việc rút các đơn vị thuộc Phương diện quân Tây-nam sang phía đông lúc này còn sớm. Nếu như Đại bản doanh Bộ tổng tư lệnh không có khả năng tập trung một cụm quân mạnh vào lúc này thì việc rút lui đã hoàn toàn chín muồi đối với Phương diện quân Tây-nam".
Như đồng chí đã thấy, đồng chí Sa-pô-sni-cốp chống lại việc rút quân còn đồng chí Bu-di-on-nưi cũng như Phương diện quân Tây-nam thì lại chủ trương rút ngay.
Thứ hai. Về những biện pháp tổ chức lực lượng đánh bọn địch ở Cô-nô-tốp và việc chuẩn bị dải phòng ngự trên tuyến đã định, đồng chí thông báo thường xuyên cho chúng tôi biết.
Thứ ba. Không được bỏ Ki-ép và không được phá cầu nếu chưa được phép đặc biệt của Đại bản doanh. Chào các đồng chí.
Kiếc-pô-nô-xơ. Chỉ thị của đồng chí đã rõ. Xin chào đồng chí.
Lúc chia tay trước khi tôi sắp lên máy bay đi Lê-nin-grát, Tổng tư lệnh tối cao nói:
- Có cái giấy này đồng chí chuyển cho Vô-rô-si-lốp, còn mệnh lệnh bổ nhiệm đồng chí sẽ được chuyển tới, khi nào đồng chi đến Lê-nin-grát.
Trong giấy gửi K.E. Vô-rô-si-lốp có nói: "Giao quyền chỉ huy phương diện quân cho Giu-cốp, còn đồng chí đáp máy bay về ngay Mát-xcơ-va".
Trước khi lên máy bay đi Lê-nin-grát tôi qua gặp A.M. Va-xi-lép-xki lúc đó là Phó Tổng tham mưu trưởng thứ nhất. A.M. Va-xi-lép-xki phụ trách các vấn đề thuộc hướng tây-nam. Khi tôi hỏi nhận định của đồng chí về các khu vực ở hướng tây-nam, đồng chí Va-xi-lép-xki nói :
- Tôi nghĩ rằng, chúng ta đã quá chậm chạp trong việc rút các đơn vị sang sông Đờ-nép...
Đến đây tôi muốn tạm ngừng việc trình bày tương đối liên tục các sự kiện.
Đã qua một tháng rưỡi đầu tiên vô cùng gay go của cuộc chiến tranh. Những thiệt hại của chúng ta rất lớn. Riêng trong ngày đầu tiên của chiến tranh, không quân của các quân khu giáp biên giới đã mất gần 1.200 máy bay. Các binh đoàn xe tăng và cơ giới của địch, được những lực lượng không quân lớn yểm hộ, tiếp tục tiến về phía trước, đột phá vào những nơi tiếp giáp giữa các đơn vị quân ta, đánh vào sườn các cánh quân ta, phá hoại các đầu mối và đường dây thông tin liên lạc. Hàng vạn chiến sĩ Xô-viết và dân lành hy sinh...
Nhưng cũng trong thời gian đó, ngay từ đầu, mọi việc đã xảy ra không theo đúng ý muốn của bộ tổng tư lệnh Đức. Các nhà viết sử còn phải nghiên cứu xem, mọi ý định của nhóm cầm đầu Hít-le, mặc dù có những thắng lợi gì đi nữa, cũng đã bị đập tan triệt để như thế nào. Tất cả điều đó đã có những hậu quả rất sâu xa mà chúng tôi sẽ còn có dịp nói đến vài lời.
Bước đầu tiên đặt chân lên đất nước ta, quân đội phát-xít đã vấp phải cái gì? Cái gì trước tiên đã ngăn cản làm cho chúng không thể tiến quân theo tốc độ quen thuộc của chúng? Đó chính là chủ nghía anh hùng tập thể, sự đánh trả quyết liệt của quân đội ta, ý chí kiên cường và lòng yêu nước vĩ đại của quân đội và nhân dân ta.
Trước kia và hiện nay không thiếu gì điển hình của những quân đội tuy có ưu thế về vũ khí nhưng lại nhanh chóng mất tinh thần chống cự, hay nói giản đơn hơn là phải chạy dài. Không ai có thể phân biệt rạch ròi ranh giới giữa vai trò của vũ khí, kỹ thuật nói riêng và ý nghĩa của yếu tố tinh thần quân đội. Tuy vậy không ai chối cãi được rằng, trong những điều kiện như nhau, quân đội nào có ý chí giành thắng lợi kiên cường hơn, có giác ngộ về mục tiêu chiến đấu sâu xa hơn, có quyết tâm vững chắc hơn và có lòng trung thành sắt đá hơn với lý tưởng mà họ chiến đấu, quân đội đó nhất định sẽ chiến thắng trong những trận đánh lớn và cả cuộc chiến tranh.
Về điều này tôi thấy nên nhường lời cho kẻ địch mà chúng ta đã đối phó trong cuộc Chiến tranh giữ nước vĩ đại. Phần lớn những nguồn tài liệu dẫn ra đây đều thuộc về những ngày đầu tiên ấy chứ không phải là thuộc về những năm sau, khi mà những lợi ích về chính trị, tuyên truyền và cá nhân đã có thể chi phối tác giả những tài liệu ấy. ở đây cần chú ý rằng, trước cuộc tấn công vào Liên Xô, trong nhiều năm, báo chí, đài phát thanh, tài liệu của bọn phát-xít, lẽ tất nhiên, đều rặt một giọng đắc thắng. Và những bộ đội nhắc đến trong những nguồn tài liệu đó đã chiến đấu ở mặt trận nào, do ai chỉ huy, thì điều đó cũng không có gì là quan trọng. Quan trọng chính là cái xu hướng chung trong việc đánh giá tình hình và sự phát triển của sự kiện,đánh giá phẩm chất của chiến sĩ và cán bộ ta, ngay trong thời kỳ mà chúng ta có những thất bại, lúc mà chúng ta đang có những khó khăn cực kỳ to lớn.
Lẽ cố nhiên, lúc bấy giờ trước mắt còn nhiều việc, còn phải chiến đấu hàng năm ròng vì bọn phát-xít Đức sẽ ngày càng ném thêm nhiều lực lượng mới đến mặt trận phía đông, khi lực lượng chúng chưa cạn hết sạch. Nhưng mong bạn đọc sẽ thấy, mặc dù địch đang có những thắng lợi trên mặt trận phía đông, cái giọng đắc thắng ngay từ các trận đánh đầu tiên đã bắt đầu tiêu tan, nhường chỗ cho sự kinh ngạc, thất vọng.
Mức độ địch hiểu biết về đất nước, về lực lượng vũ trang, về nền kinh tế của Liên Xô như thế nào cũng là một điều đáng chú ý.
Đúng là lúc đó chúng ta đang xây dựng cuộc sống hòa bình, không phải mọi người đã có đầy đủ ý thức cảnh giác, không phải không có sự dễ dãi và sự tự mãn. Nhưng dù trong hoàn cảnh như thế, đất nước chúng ta đã tỏ rõ là một "quả bồ đào rắn chắc" như thế nào trước kẻ thù?
Tôi không chọn những dòng và chữ riêng lẻ trong các nguồn tài liệu nước ngoài đó. Bằng cách đó nói chung có thể chứng minh mọi điều có thể bác bỏ ngay cả bản thân mình, có thể lấy ngay kinh thánh để chống lại Đức Chúa. Vì vậy tôi sẽ phải trích cả từng đoạn một. Và hãy cứ giữ nguyên lời lẽ xa lạ với chúng ta, những cách nói làm chúng ta bực mình đôi chút. Như thế, đông đảo người đọc, đặc biệt là các bạn trẻ, sẽ càng thấy rõ hơn cái điểm, cái nét mà tôi muốn họ chú ý tới.
Những nguồn tài liệu đó đã được các giới quân sự biết rõ, tất cả đều đã được đưa ra công khai ở Liên Xô. Trong đó không có gì mới, nhưng ngay cả những trang sách đó cũng có thể giúp cho đông đảo các bạn đọc dễ dàng hình dung được bức tranh về những ngày đó, một bức tranh anh dũng hơn rất nhiều so với hình ảnh mà đôi khi chúng ta thường hay vẽ .
Dưới đây là vài đoạn trích trong cuốn sách của tướng Cuốc-tơ Ti-pen-xkiếc[2], khi sắp nổ ra Thế chiến thứ hai đã được Hít-le cử làm cục trưởng cục tình báo thuộc bộ Tổng tham mưu quân đội Đức.
"Hầu như không thể xác định được sức mạnh quân sự của Liên Xô dù là ước chừng. Rất nhiều yếu tố nếu như trong những điều kiện thông thường khác có thể giúp ta phác họa được bản sơ đồ phức tạp về khả năng động viên lực lượng vũ trang và về những nguồn kinh tế của nó, nhưng ở đây lại được gìn giữ tuyệt đối bí mật... Kết quả mong muốn đạt được là: chúng ta đã đánh giá quá thấp khả năng của người Nga trong những lĩnh vực có ý nghĩa quyết định của nền kinh tế như giao thông và công nghiệp chiến tranh.
Trong các nước khác, hoạt động gián điệp được tiến hành dễ dàng dưới cái vỏ những hoạt động kinh tế tư nhân vô hại, thì ở Liên Xô, trong điều kiện nền kinh tế có sự lãnh đạo tập trung, hoạt động đó không có đất để làm ăn.
Dựa vào những tài liệu tình báo nhận được từ Liên Xô, mặc dù Liên Xô hoàn toàn cách biệt với ngoài, những tài liệu thu được bằng phương pháp thuần túy kinh nghiệm là phương pháp có thể dùng để đánh giá số lượng lực lượng vũ trang của bất cứ nước nào (ví dụ như có một tỷ lệ cố định giữa số dân và số lượng những binh đoàn có thể được thành lập), bộ Tổng tham mưu Đức đã có dự kiến đại khái về khả năng của Liên Xô khi chiến tranh xảy ra. Cuộc chiến tranh Nga - Phần Lan cũng cho ta những tài liệu có giá trị, tuy vậy tài liệu này trong nhiều trường hợp đã đưa đến những kết luận không đúng sự thật.
Người Đức đã đánh giá khá đúng tổng số quân đội Nga.[3]
Dĩ nhiên số binh đoàn đó tất nhiên hoàn toàn chưa phải là toàn bộ dự trữ nhân lực của cái nước to lớn mỗi năm gọi khoảng 1,5 triệu người vào bộ đội mà vẫn có ít ra là 12 triệu thanh niên đủ điều kiện phục vụ quân dịch. Công nghiệp chiến tranh của nước Nga có khả năng trang bị cho khối người đó đến mức nào vẫn còn là một vấn đề chưa rõ. Vì vậy, việc tiêu diệt công nghiệp chiến tranh của nước Nga có một ý nghĩa quyết định.
Chúng ta được biết rằng, các sư đoàn bộ binh mà quân ta sẽ gặp trước nhất, được trang bị phù hợp với yêu cầu hiện đại; chúng ta cũng biết rằng các sư đoàn bộ binh Nga khác với các sư đoàn Đức ở chỗ trong biên chế của nó có các tiểu đoàn xe tăng...
Chiến tranh Nga - Phần Lan đã bộc lộ trình độ huấn luyện về chiến thuật của cán bộ trung, sơ cấp còn yếu so với yêu cầu. Cũng được biết thêm rằng, Bộ trưởng quốc phòng Nga Ti-mô-sen-cô rút được bài học chiến tranh đó, đã quyết định cải tiến việc huấn luyện từng người cho các chiến sĩ, bồi dưỡng cho cán bộ chỉ huy có tính chủ động nhiều hơn, khắc phục tính máy móc và nâng cao năng lực hợp đồng binh chủng.
Có vẻ không thể tin được rằng, những thiếu sót ấy mà trong Thế chiến thứ nhất hãy còn bộc lộ và phần nào đã thành thuộc tính của dân Nga lại có thể được thanh toán trong một thời gian ngắn. Cần phải dự kiến rằng, Bộ chỉ huy tối cao Nga với bản tính chín chắn và cần cù của mình đã nghiên cứu rất kỹ diễn biến của cuộc chiến tranh ở Ba Lan và ở Pháp và qua sự nghiên cứu đó đã rút ra những kết luận của mình...
Các giới chính trị ở Đức tràn ngập hy vọng rằng, sau những thất bại nặng nề về quân sự, Nhà nước Xô-viết sẽ sụp đổ.
Đứng về mặt quân sự và chính trị thì khó có thể tin rằng Liên Xô trong một tương lai gần đây sẽ tự gây xung đột quân sự với Đức; nhưng lại có đầy đủ căn cứ để lo ngại rằng, khi có những điều kiện thuận lợi hơn thì Liên Xô có thể trở thành người láng giềng hoàn toàn không dễ dãi gì, mà thậm chí còn nguy hiểm nữa.
Hiện nay thì Liên Xô chưa có lý do gì để từ bỏ cái chính sách cho đến nay đã bảo đảm cho họ đạt những thắng lợi tuyệt vời mà hầu như không dùng tới sức mạnh. Liên Xô đang lo hiện đại hóa xe tăng, máy bay cũ kỹ của họ và chuyển một bộ phận đáng kể công nghiệp chiến tranh đến vùng U-ran. Các chính khách thận trọng và khôn khéo của Crem-lanh chưa thể tính đến chuyện tấn công nước Đức, một nước chỉ để một phần nhỏ lực lượng trên các mặt trận khác, còn lực lượng không quân khổng lồ thì có thể được tập trung bất cứ lúc nào sang phía đông. Vả chăng năm 1941, người Nga cảm thấy họ yếu hơn người Đức.
Tất nhiên chúng ta không thể che giấu khỏi con mắt tình báo Liên Xô trọng điểm sức mạnh quân sự của chúng ta ngày càng chuyển dần sang phía đông. Bộ tư lệnh Nga đã có những biện pháp đối phó. Ngày 10-4, Hội đồng quân sự tối cao dưới sự chủ tọa của Ti-mô-sen-cô đã quyết định chuyển tất cả các đơn vị bộ đội đóng quân ở phía tây vào tình trạng sẵn sàng chiến đấu. Ngày 1-5, đã tiến hành thêm nhiều công tác chuẩn bị gấp rút cho chiến tranh và áp dụng nhiều biện pháp để bảo vệ biên giới phía tây của Liên Xô...
Liên Xô đã chuẩn bị cho cuộc xung đột quân sự với tất cả khả năng có thể có. Bất ngờ về chiến lược là điều mà bộ tư lệnh Đức không hy vọng thực hiện. Kết quả cao nhất có thể đạt được là giữ bí mật được thời gian tiến công, giành lấy sự bất ngờ về chiến thuật để dễ dàng xâm nhập vào đất của đối phương".
"Mục tiêu chính[4] là mở những chiến dịch táo bạo với những mũi nhọn thọc sâu bằng xe tăng để tiêu diệt những lực lượng chủ yếu của quân Nga đóng ở miền Tây nước Nga và ngăn chặn không cho các lực lượng còn sức chiến đấu của họ rút được về phía trong của nước Nga bao la rộng lớn. Sau đó, bằng một cuộc truy kích nhanh chóng, các đơn vị Đức phải chiếm giữ được tuyến chiến đấu mà từ đó không quân Nga không thể đến ném bom đất Đức được.
Mục tiêu cuối cùng của các chiến dịch là tiến đến tuyến Von-ga - Ác-khan-ghen-xcơ, tạo điều kiện để khi cần thiết có thể dùng không quân làm tê liệt khu vực công nghiệp chiến tranh còn lại cuối cùng của Nga ở vùng U-ran...
Phương hướng đó đầy vẻ lạc quan, niềm lạc quan gây ra từ những thắng lợi ở Pháp và Ba Lan. Vì vậy, nó cho rằng, đối thủ cũng đóng một vai trò bị động như những đối thủ mà nước Đức đã từng gặp trong hai cuộc chiến tranh trước. Một lần nữa người ta lại hy vọng rằng dùng chiến tranh chớp nhoáng để đánh đối phương thì có thể bỏ qua luận điểm của Môn-kê cho rằng "không một kế hoạch tác chiến nào có thể được giữ nguyên sau cuộc đụng độ đầu tiên với lực lượng chủ yếu của quân địch".
Nếu sự đánh giá đối phương lần này cũng đúng thì bộ tư lệnh có đầy đủ căn cứ để dùng lại cái chiến thuật nói trên đã hai lần được xác nhận trong thực tế là đúng; trong trường hợp trái lại, sẽ không tránh khỏi những thất vọng và những sự rắc rối".
"Hít-le không nghi ngờ một chút nào về khả năng chỉ một chiến cục cũng đủ tiêu diệt Liên Xô. ông ta tin chắc điều đó đến nỗi ngay từ trước ngày bắt đầu các hành động chiến tranh chống Liên Xô, ông ta đã ấn định thời gian cho những chiến dịch sẽ được mở vào mùa thu năm 1941 "sau chiến dịch "Bác-ba-rô-xơ" ...".
"3 giờ 30 phút ngày 22-6, quân đội Đức bắt đầu cuộc tấn công có tính chất tai hại về phía đông trên khắp mặt trận từ Biển Đen đến Biển Ban-tích...
Tập đoàn quân 17 sau những thắng lợi bước đầu trên biên giới ở phía tây tuyến Lvốp - Ra-va Ru-xcai-a đã gặp một đối phương khá mạnh phòng ngự trên những trận địa kiên cố, nhưng đã lập tức chiếm được những trận địa đó. Tập đoàn quân 6 đã tiến qua sông Stư-rơ. Nhưng ở đây tập đoàn quân 6 cũng như đạo xe tăng 1 đã gặp lúc đầu ở phía nam, và sau đó ở phía bắc, những cuộc phản kích mạnh mẽ của người Nga có lực lượng xe tăng mới đưa tới tham gia.
Các cuộc chiến đấu ác liệt vẫn tiếp diễn trên khắp mặt trận đến ngày 3-7. Người Nga rút về phía đông rất chậm và thường thường họ chỉ rút sau những cuộc phản kích quyết liệt chống các đơn vị xe tăng Đức đã vượt lên phía trước".
"Quân Đức đã tiến đến tuyến kéo dài từ sông Đơ-ne-xtơ-rơ qua Slút-chơ, Đờ-nép trong vùng Oóc-sa đến bờ phía nam của hồ Chút-xki. Đây là một dải công sự phòng ngự không liên tục lắm, nhưng cũng là một chuỗi những chốt dã chiến có hào chống tăng và hàng rào dây thép gai, đã bắt đầu xây dựng từ trước năm 1941 và được tiếp tục xây dựng rất gấp rút trong những tuần lễ gần đây.
Tướng lĩnh và bộ đội tỏ ra có bản lĩnh cao, đáp ứng với đòi hỏi của một chiến trường đặc biệt khó khăn hơn nhiều so với những chiến trường trước đây. Tính ngoan cường của đối phương thể hiện rất rõ ràng; số lượng xe tăng tham gia vào các cuộc phản công thật đáng kinh ngạc.
Đây là một đối thủ có ý chí sắt đá, họ không tiếc gì trong việc tung quân vào chiến đấu nhưng không phải họ không có kiến thức về nghệ thuật tác chiến. Chưa có căn cứ gì để lo ngại nhiều, nhưng một điều đã rõ ràng là: ở đây không thể nói đến khả năng dùng những cú đánh nhanh chóng để "phá tan ngôi nhà làm bằng bìa". Cuộc chiến đấu ở đây sẽ không diễn ra theo đúng kế hoạch như các cuộc chiến đấu trước kia".
"Trong tháng 7 các cụm tập đoàn quân Đức còn tấn công có kết quả, và chiến đấu với một đối thủ ngoan cường, tuy có sự căng thẳng khác thường nhưng quân ta vẫn vững tin vào ưu thế của mình.
Hít-le không hài lòng lắm về những thắng lợi đã đạt được. Theo kinh nghiệm của cuộc chiến tranh ở châu Âu, người ta chờ đợi ở các mũi thọc sâu bằng xe tăng những kết quả lớn hơn nhiều. Người Nga phòng ngự với lòng quyết tâm và chí ngoan cường không thể ngờ được, ngay cả khi họ bị đánh vu hồi và bị bao vây. Làm như vậy họ đã tranh thủ được thời gian và đưa được lên phía trước những lực lượng dự bị mới, mạnh hơn mức ta dự đoán để tiến hành những đòn phản kích.
Xuất phát từ tình hình đó, Hít-le cho rằng: chiến thuật dùng từ trước đến nay đòi hỏi quá nhiều lực lượng mà kết quả đạt được lại ít Các lòng chảo lớn do các binh đoàn xe tăng tiến ào ạt tạo nên không khỏi có một hình thù rất dài, mà các lực lượng bao vây bị kéo dài ra thì rất yếu.
Trước khi các quân đoàn tiến quân, các binh đoàn cơ động có nhiệm vụ không những giữ vững vòng vây phía trong mà còn phải đánh lui tất cả những mưu đồ từ ngoài đánh tháo các đơn vị đang bị bao vây. Vì vậy, các trận địa bao vây không phải ở khắp nơi đều vững chắc như nhau, còn các binh đoàn cơ động thì, trong suốt mấy ngày, có khi suốt cả tuần, đã bắt buộc phải tác chiến rất ác liệt trên cả hai mặt, cái đó ảnh hưởng tai hại đến khả năng chiến đấu của họ".
"Đối phương đã tỏ ra có khả năng kháng cự hoàn toàn ngoài sức tường tượng. Họ đã bị tổn thất rất nặng không chỉ trong mùa hè năm 1941 mà cả trong cuộc tấn công mùa đông là thời kỳ một số rất đông bộ đội tham gia. Nhưng tất cả những thiệt hại đó vẫn chưa đè bẹp được ý chí kiên cường của Hồng quân. Họ còn đủ cán bộ để tổ chức bộ máy chỉ huy cho các đơn vị mới và để bảo đảm việc huấn luyện chiến đấu cho các đơn vị đó".
Thiếu tướng Phôn Bút-la-rơ "Chiến tranh ở Nga".
"Tập đoàn quân 6 được giao nhiệm vụ chọc thủng các trận địa biên phòng của quân Nga trong vùng phía nam Cô-ven, tạo điều kiện cho đạo xe tăng 1 tiến vào dải chiến dịch...
Sau một vài thắng lợi bước đầu, các đơn vị của cụm tập đoàn quân gặp ngay những lực lượng đáng kể của đối phương phòng ngự trên những vị trí được chuẩn bị sẵn từ trước, mà ở một đôi chỗ có cả những điểm hỏa lực bằng bê-tông cốt sắt. Trong cuộc chiến đấu để giữ vững các vị trí đó, đối phương sử dụng những lực lượng xe tăng rất lớn và đã mở hàng loạt trận phản kích vào các đơn vị Đức tiến công.
Sau những trận chiến đấu ác liệt kéo dài hàng mấy ngày, quân Đức đã chọc thủng được trận địa phòng ngự kiên cố ở phía tây tuyến Lvốp - Ra-va Ru-xcai-a và sau khi vượt sông Stư-rơ đã đẩy về phía đông những đơn vị đối phương chống cự kiên cường và luôn luôn tiến hành phản kích.
Sự kháng cự kiên cường của người Nga ngay từ những ngày đầu tiên đã làm cho quân Đức bị thiệt hại về người và vũ khí rõ ràng là lớn hơn những thiệt hại đã từng có ở Ba Lan và phương Tây. Người ta thấy rất rõ ràng là phương thức tác chiến và tinh thần chiến đấu của đối phương cũng như những điều kiện địa lý của nước này hoàn toàn không giống với những nước mà trước đây người Đức đã gặp trong những cuộc "chiến tranh chớp nhoáng" đã đưa đến những thắng lợi làm cho cả thế giới phải kinh ngạc.
Ngày nay nếu đánh giá nghiêm khắc những trận chiến đấu dọc theo biên giới ở nước Nga thì có thể đi tới kết luận rằng: chỉ có cụm tập đoàn quân "Trung tâm" là đã đạt được những thắng lợi to lớn eả về mặt chiến dịch".
Gi. Ph.X Phu-le-rơ "Thế chiến tranh thứ II 1939-1945"
(Ngay ngày 29-6, trên báo "Phôn-ki-sơ Bê-ô-ba-khơ-te" đã có một bài viết như sau :
"Người lính Nga hơn hẳn những đối thủ của ta ở phương Tây ở chỗ họ coi khinh cái chết. Tinh thần chịu đựng và thuyết định mệnh làm cho họ kiên trì cho đến tận khi bị giết trong chiến hào hoặc bị chết trong trận đánh giáp lá cà".
Ngày 6-7, một bài tương tự ở báo "Phơ-răng-phuốc-tơ Xây-tung" đã viết rằng: "ở phương Tây sau những đòn đột kích chớp nhoáng của quân Đức, người ta thấy có hiện tượng tê liệt về tinh thần, nhưng ở phương Đông thì không có hiện tượng này; trong nhiều trường hợp quân địch không những không mất khả năng chiến đấu mà có khi chính họ lại đánh vu hồi các gọng kìm của quân Đức".
Đó là một điều tương đối mới về chiến thuật của chiến tranh, mà đối với người Đức thì đó là một điều kỳ lạ bất ngờ.
Đầu tháng 9, báo "Phôn-ki-sơ Bê-ô-ba-khơ-te" viết về vấn đề đó như sau:
"Trong thời gian quân Đức vượt sông Búc, các đợt tiến công đầu tiên có thể phát triển hết sức thuận lợi ở một vài nơi, nhưng sau đó thì hỏa lực bất ngờ và ác liệt bắn vào các đợt tấn công tiếp sau, còn bộ đội tấn công trong các đợt đầu thì bị bắn vào sau lưng. Không thể không khen ngợi tinh thần kỷ luật tuyệt vời của những người phòng ngự, chính tinh thần kỷ luật đó đã khiến họ có thể giữ vững được một trận địa gần như đã mất.
Nói tóm lại, theo lời Ác-vít Phơ-rết-boóc-gơ, thì "lính Đức gặp một đối thủ có một sự ngoan cường như cuồng tín, kiên quyết giữ vững niềm tin chính trị của mình và chống lại cuộc tấn công chớp nhoáng của người Đức bằng một cuộc kháng cự tổng hợp".
Chẳng bao lâu, người ta đã thấy rõ là nước Nga không đưa hết lực lượng ra bố trí dọc biên giới như người Đức đã tưởng. Và cũng chẳng bao lâu người ta đã hiểu rằng chính người Đức đã phạm sai lầm rất lớn trong việc đánh giá lực lượng dự bị của Nga. Trước khi bắt đầu chiến tranh với Nga, cơ quan tình báo Đức vẫn đặt hy vọng vào "đoàn quân thứ 5". Với nước Nga, tuy cũng có những người bất mãn, nhưng không có "đoàn quân thứ 5". Những khó khăn ngày càng tăng lên nhanh chóng..."
Trích nhật ký công tác của Tổng tham mưu trưởng lục quân Đức, thượng tướng Ph. Gan-đe.
"23-6-1941 (ngày thứ 2 của cuộc chiến tranh).
Tình hình không được xác định đúng nhất trong báo cáo của bộ tham mưu tập đoàn quân 4: đối phương ở trong túi Bê-lô-xtốc chiến đấu không phải để sống mà để giành lấy thời gian.
Tuy vậy, tôi không tin rằng bộ tư lệnh địch đã thực sự lãnh đạo các đơn vị của họ một cách thống nhất và có kế hoạch. Chắc chắn hơn cả là mọi sự điều động tại chỗ của các đơn vị lục quân và không quân đều bị động do cuộc tiến quân của chúng ta gây ra, chứ không phải là rút lui có tổ chức với những mục đích nhất định. Cho đến lúc này vẫn chưa thể nói có một cuộc rút lui có tổ chức như vậy.
Có lẽ tình hình ở vùng tiến quân của cụm tập đoàn quân "Bắc" là trường hợp ngoại lệ. ở đây cuộc rút lui qua sông Đờ-vi-na Tây rõ ràng đã được sắp đặt và chuẩn bị trước. Tại sao lại có được sự chuẩn bị như thế, hiện nay chưa thể xác định được...
24-6-1941 (ngày thứ 3 của cuộc chiến tranh).
... Trên gần suốt cả mặt trận các đơn vị thuộc cụm tập đoàn quân "Bắc" (trừ sư đoàn 291 bộ binh đang tấn công vào Li-ba-va) đã đánh lui những cuộc phản kích mãnh liệt bằng xe tăng của địch, những cuộc phản kích này, theo dự đoán là của quân đoàn cơ giới mô-tô 3 được một vài lữ đoàn bộ binh cơ giới chi viện (quân đoàn cơ giới mô-tô đóng quân ở đây từ thời bình). Tuy vậy, cánh phải được tăng cường của cụm tập đoàn quân vẫn tiến được đến Vin-cô-mia (Úc-méc-ghe). Trên đoạn này của mặt trận, người Nga cũng chiến đấu ngoan cường và quyết liệt.
24-6-1941 (ngày thứ 3 cửa cuộc chiến tranh).
Nói chung bây giờ đã rõ ràng là quân Nga không nghĩ đến việc rút lui, trái lại họ đã tung ra tất cả những gì có trong tay để đánh lại các đơn vị Đức đã thọc sâu ... Vì thiếu hẳn những lực lượng dự bị chiến dịch lớn cho nên đối phương không thể phòng ngự tích cực có hiệu quả. Tuy vậy, trên dải biên giới có nhiều lực lượng dự trữ, điều đó chứng tỏ rằng ngay từ đầu người Nga đã có kế hoạch phòng ngự ngoan cường ở vùng biên giới và họ đã lập ở đây những căn cứ tiếp tế cho kế hoạch đó.
26-6-1941 (ngày thứ 5 của cuộc chiến tranh).
Tin tổng hợp tối về ngày 25-6 và tin sáng ngày 26-6 cho biết:
"Rất tiếc là cụm tập đoàn quân "Nam" tiến quân chậm và đã bị những tổn thất đáng kể. Về phía quân địch hoạt động đối phó với cụm tập đoàn quân "Nam", người ta thấy có một sự lãnh đạo vững vàng và kiên quyết. Đối phương điều động liên tục những lực lượng mới và nguyên vẹn từ nội địa tới để đánh lại mũi dao nhọn bằng xe tăng của chúng ta. Địch không chỉ đưa lực lượng dự bị tới khu vực giữa của mặt trận như trước mà còn đưa cả tới sườn phía nam của cụm tập đoàn quân...
29-6-1941 (ngày thứ 8 của cuộc chiến tranh).
Tin tức từ mặt trận gửi về xác nhận rằng ở đâu người Nga cũng đánh đến người cuối cùng; số người ra hàng chỉ là lẻ tẻ ... Một điều đập vào mắt là trong phần lớn các đại đội pháo binh mà ta tóm được ta chỉ bắt được rất ít tù binh. Một số trong bọn họ đã chiến đấu đến chết, một số khác thay quần áo giả làm nông dân để tìm cách ra khỏi vòng vây.
29-6-1941 (ngày thứ 8 của cuộc chiến tranh).
Tướng Ốt, chỉ huy bộ binh, báo cáo những cảm tưởng của mình về trận đánh trong vùng Grốt-nô. Sự chống trả kiên quyết của người Nga đã bắt chúng tôi phải chiến đấu theo tất cả các quy định của điều lệnh chiến đấu của ta. Ở Ba Lan và các nước phương Tây chúng tôi đã có thể tự cho phép mình tùy tiện và không theo những nguyên tắc điều lệnh một phần nào; bây giờ thì không thể làm như thế được. Tác động của không quân đối phương đối với bộ đội ta xem ra rất yếu...
Tình hình buổi tối: ... Trong vùng Lvốp đối phương rút chậm về phía đông, vừa rút vừa đánh quyết liệt, để giữ địa giới cuối cùng. ở đây người ta thấy lần đầu tiên đối thủ phá hàng loạt cầu ...
1-7-1941 (ngày thứ 10 của cuộc chiến tranh).
Trên mặt trận của cụm tập đoàn quân "Nam", tập đoàn quân 17 tiến quân thuận lợi. Quân đoàn cơ giới 14 hoạt động bên sườn trái tập đoàn quân 17, đang tiến về phía đông. Sự rắc rối trong vùng Đúp-nô coi như đã hết. Quân đoàn cơ giới 8 của Nga đã bị bao vây. Có lẽ họ không đủ nhiên liệu. Đối phương đã chôn xe tăng xuống đất và cứ như thế họ đánh để giữ trận địa. Bên cánh phía bắc của cụm tập đoàn quân, sư đoàn xe tăng 11, như đã dự kiến, không thể tiến lên được.
Chỉ có sư đoàn xe tăng 13 là tiến được như cũ. Theo sau nó là sư đoàn xe tăng 14 và sư đoàn cơ giới 25. Việc điều thêm các sư đoàn bộ binh cần thiết cho cuộc tiến công trên chính diện cũng như để bảo vệ cạnh sườn phía bắc và phía đông trong trường hợp cụm tập đoàn quân quặt về phía nam, được tiến hành rất chậm. Cần kiên quyết nhắc bộ tư lệnh cụm tập đoàn quân "Nam" là phải đẩy nhanh chóng việc điều động đó.
3-7-1941 (ngày thứ 12 của cuộc chiến tranh).
Đối phương rút lui trước chính diện của cụm tập đoàn quân "Nam" có lẽ xảy ra ngoài ý muốn của Bộ tư lệnh Nga ... Vì vậy sẽ không phải là quá đáng nếu tôi nói rằng chiến cục đánh nước Nga đã thắng trong vòng 14 ngày. Lẽ cố nhiên là nó chưa xong. Đất đai rộng lớn và sự kháng cự ngoan cường bằng mọi phương tiện của quân địch sẽ còn chôn chân lực lượng của chúng ta trong nhiều tuần nữa.
4-7-1941 (ngày thứ 13 của cuộc chiến tranh).
Trong quá trình tiến quân của các tập đoàn quân Đức, mọi mưu toan chống cự của đối phương rõ ràng là sẽ bị đập tan nhanh chóng. Lúc đó vấn đề đánh chiếm Lê-nin-grát và Mát-xcơ-va sẽ trở thành gần gũi đối với chúng ta. Chúng ta hãy thử xem bài diễn văn của Xta-lin kêu gọi tất cả nhân dân lao động tham gia vào cuộc chiến tranh nhân dân chống chúng ta, có kết quả hay không. Điều đó sẽ quyết định ta phải dùng những biện pháp và phương tiện gì để san bằng những vùng công nghiệp rộng lớn mà chúng ta cần chiếm đoạt....
7-7-1941 (ngày thứ 16 của cuộc chiến tranh).
Cụm tập đoàn quân "Nam". Thái độ lạc quan của bộ tư lệnh tập đoàn quân lại biến đi mất. Cuộc tấn công của tập đoàn quân 11 lại bị chặn đứng. Nguyên nhân chưa rõ. Tập đoàn quân 17 đang tiến thắng lợi lên phía trước và đang tập trung các đơn vị tiền vệ để đánh về phía Prô-xcu-rốp.
8-7-1941 (ngày thứ 17 của cuộc chiến tranh).
Cụm tập đoàn quân "Trung tâm" dùng một bộ phận lực lượng để đánh lại quân địch phản kích và cho tập đoàn quân xe tăng 2 tiến về phía sông Bê-rê-di-a. Ở đây đối phương dùng bộ binh và xe tăng từ hướng Oóc-sa phản kích vào sườn phía bắc tập đoàn quân xe tăng 2. Tập đoàn quân xe tăng 3 đã dùng các đơn vị đi đầu để vượt qua sông Đờ-vi-na tây ở một vài chỗ và đang đánh lui cuộc phản kích của đối phương từ phía bắc để cố gắng thọc vào hướng Vi-tép-xcơ
Đối phương đã không thể lập mặt trận liên tục, thậm chí cả trên những hướng quan trọng nhất. Có thể hiện nay Bộ tư lệnh Hồng quân đề ra chủ trương dùng tất cả những lực lượng dự bị hiện có để tiến hành những cuộc phản kích làm tiêu hao thật nhiều quân Đức và chặn cuộc tiến công của quân Đức, có thể là, ở xa hơn nữa về phía tây....
Đối với đối phương việc lập những binh đoàn mới (tất nhiên là với quy mô lớn) chắc là không thể thực hiện được vì thiếu sĩ quan, chuyên viên và phương tiện kỹ thuật pháo binh.
12 giờ, báo cáo với quốc trưởng (ở tổng hành dinh). Đầu tiên tổng chỉ huy lục quân báo cáo về tình hình mới nhất của mặt trận. Sau đó tôi báo cáo về tình hình đối phương và đánh giá tình hình bộ đội ta... .
Cuối cùng là thảo luận các vấn đề được nêu ra.
Kết quả :
1. Quốc trưởng cho rằng "quyết định lý tưởng" đáng mong muốn nhất là:
Cụm tập đoàn quân "Trung tâm" thực hiện vu hồi từ hai phía có nhiệm vụ hợp vây và tiêu diệt bộ phận đối phương hoạt động ở phía trước và như vậy là sau khi đập tan sự chống cự có tổ chức cuối cùng của đối phương trên một tuyến dài, sẽ mở cho mình đường tiến về Mát-xcơ-va. Sau khi cả 2 tập đoàn quân xe tăng tiến vào những vùng đã ấn định trong chỉ lệnh triển khai chiến lược, có thể hạ lệnh cho tập đoàn quân xe tăng của tướng Gốt tạm thời dừng lại (để dùng vào việc chi viện cho cụm tập đoàn quân "Bắc", hoặc để tiếp tục tấn công về phía đông, nhưng không phải để đánh vỗ mặt mà để bao vây Mát-xcơ-va). Cụm xe tăng của tướng Gu-đê-ri-an sau khi tới vùng đã định cần chuyển về phía nam hoặc đông-nam ở phía đông sông Đờ-nép để yểm hộ cuộc tấn công của cụm tập đoàn quân "Nam".
2. Quyết tâm không lay chuyển của quốc trưởng là san bằng Mát-xcơ-va và Lê-nin-grát để rũ sạch dân cư của hai thành phố đó, vì nếu không thì về sau đến mùa đông chúng ta lại buộc phải nuôi dưỡng chúng. Nhiệm vụ tiêu diệt các thành phố là của không quân. Không nên dùng xe tăng vào việc đó.
11-7-1941 (ngày thứ 20 của cuộc chiến tranh).
Cụm tập đoàn quân "Bắc". Đạo xe tăng của Ghép-ne đã đánh lui các cuộc tấn công của đối phương và tiếp tục chuẩn bị để sau này tiếp tục tấn công bằng cánh phải mạnh ở vùng đông-nam Lê-nin-grát...
Đại tá Óc-xne báo cáo về chuyến đi kiểm tra các đạo xe tăng của Gu-đê-ri-an và Gốt. Đáng chú ý các điểm sau đây:
a) Không quân Nga ném bom vào các bến vượt sông Đờ-vi-na Tây ở phía tây-nam Vi-tép-xcơ;
b) Bộ tư lệnh đối phương hành động khôn khéo. Đối phương chiến đấu ác liệt và cuồng tín;
c) Các binh đoàn xe tăng đã bị thiệt hại lớn về người và vật chất. Bộ đội đã mệt mỏi...".
Tháng 7-1941. Trên mặt trận Xô-Đức khổng lồ, các trận đánh ngày càng trở nên to lớn, căng thẳng và ác liệt hơn...
Gan-đe bắt buộc phải thừa nhận rằng, sự chống cự mạnh mẽ không ai ngờ tới của quân đội Xô-viết đã không cho phép bộ tư lệnh phát-xít Đức đạt được mục tiêu cơ bản của kế hoạch Bác-ba-rô-xơ: hợp vây và tiêu diệt trong một chiến cục rất ngắn những lực lượng chủ yếu của Hồng quân ở phía tây tuyến sông Đờ-nép, không cho các lực lượng rút vào phía trong của đất nước.
Ngày 26-7, Gan-đe viết: "Báo cáo với quốc trưởng về các kế hoạch hoạt động của các cụm tập đoàn quân. Từ 18 giờ đến 20 giờ 15, thảo luận kéo dài, đôi lúc sôi nổi, về việc đã bỏ lỡ cơ hội bao vây quân địch".
Ngày 30-7, Tổng tham mưu trưởng Đức ghi vào nhật ký của mình rằng, bộ tư lệnh tối cao đã ra chỉ lệnh mới số 34. Trong chỉ lệnh có nói:
"Tình hình phát triển trong những ngày gần đây, việc xuất hiện những lực lượng lớn của đối phương ở phía trước và hai bên sườn cụm tập đoàn quân "Trung tâm", tình hình cung cấp và sự cần thiết phải để cho các đạo xe tăng 2 và 3 độ 10 ngày để khôi phục và bổ sung các binh đoàn đã bắt buộc chúng ta phải tạm thời hoãn việc thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ đề ra trong chỉ lệnh số 33 ngày 19-7 và chỉ lệnh bổ sung ngày 23-7".
Ngay trong tháng đầu chiến tranh, trước sức chống cự kiên quyết của Quân đội Xô-viết, nhiều người lãnh đạo quân sự của nước Đức phát-xít đã có hiện tượng thiếu tin tường, phát khùng.
Ví như, đến ngày thứ 29 của cuộc chiến tranh, Gan-đe viết:
"Tính ác liệt trong các trận đánh của các binh đoàn cơ động tổ chức thành từng cụm độc lập của ta, tình trạng đến muộn của các sư đoàn bộ binh từ phía tây lại, sự chậm trễ nói chung trong việc chuyển quân trên các đường xấu, và ngoài ra, các đơn vị ngay từ đầu chiến tranh đã phải liên tục hành quân xa và đánh những trận dai dẳng đẫm máu - tất cả đã gây ra trong các giới lãnh đạo một sự sa sút nhất định về tinh thần. Đặc biệt, tình trạng đó đã biểu lộ rõ rệt ở thái độ hoàn toàn chán ngán của ngài tổng tư lệnh lục quân".
Đến cuối tháng 7, quân đội phát-xít Đức không thể giành được những thắng lợi quyết định. Ngay từ ngày 18-7-1941, Gan-đe viết:
"Chiến dịch của cụm tập đoàn quân "Nam" ngày càng mất thế trận của nó. Khu vực trận tuyến ở phía trước Cô-rốt-ten vẫn cần có những lực lượng lớn như trước đây mới có thể giữ vững được. Các lực lượng to lớn còn sung sức của đối phương chuyển từ phía Bắc đến khu vực Ki-ép bắt buộc chúng ta phải kéo về đây các sư đoàn bộ binh để đỡ đòn cho các binh đoàn xe tăng của quân đoàn cơ giới 3 và sau đó, thay phiên cho các binh đoàn đó để sử dụng vào hướng đột kích chủ yếu. Kết quả là: ở khu bắc chính diện của cụm tập đoàn quân đã phải chôn chân một bộ phận lực lượng lớn hơn rất nhiều so với ý muốn của chúng ta".
Thành tích của cụm tập đoàn quân "Bắc" còn làm cho Gan-đe ít hài lòng hơn nữa.
"Lại xuất hiện - Gan-đe viết ngày 22-7 - một điều lo ngại lớn ở cụm tập đoàn quân "Bắc" vì nó không có đơn vị xung kích và luôn luôn phạm sai lầm. Thật thế, trên trận tuyến của cụm tập đoàn quân "Bắc" không phải tất cả mọi việc đều ổn như các khu vực khác của mặt trận phía đông".
Trong giới lãnh đạo chóp bu của quân đội Đức đã có những sự bất đồng ý kiến về mục tiêu của những chiến dịch sau này và về những hướng đột kích chủ yếu. Có sự không nhất quán trong việc nêu các nhiệm vụ trước, sau cho các đơn vị.
Chẳng hạn, ngày 26-7 Gan-đe viết: "...Cụm của Phôn Bốc hễ chuẩn bị xong là phải bắt đầu tiến quân từ từ về Mát-xcơ-va, vừa tiến vừa dồn ép quân địch từ phía chính diện". Ba ngày sau, ngày 30-7, lại có mệnh lệnh mới: "Khu vực giữa của mặt trận cần chuyển sang phòng ngự". Ngày 26-7, Hít-le đòi "Cụm của Phôn Cơ-luy-gơ mới được thành lập phải tấn công tiêu diệt lực lượng quân đối phương ở Gô-men". Ngày 30-7, I-o-đên thông báo cho Gan-đe biết một quyết định khác của cấp trên: "Khu vực phía nam của mặt trận hiện thời đừng tấn công vào Gô-men nữa". Tất cả những việc đó đều do sự chống cự kiên cường của Hồng quân mà ra.
Qua nhật ký của Gan-đe chúng ta thấy rõ quân Đức trên mặt trận Xô-Đức ngay từ những tuần lễ đầu đã chịu những tổn thất rất đau. Đây là một vài thí dụ.
17-7-1941. "Quân số các binh đoàn của chúng ta hoạt động trên mặt trận giảm đi rõ rệt".
20-7-1941. "Tình hình quân số của các binh đoàn xe tăng: sư đoàn xe tăng 16 còn chưa đầy 40% quân số theo biên chế, sư đoàn 11 còn gần 40%, tình hình sư đoàn xe tăng số 13 và 14 thì khá hơn chút ít".
24-7-1941. "Vấn đề cho các binh đoàn nghỉ 10 ngày để bổ sung trước khi bắt đầu cuộc tấn công mới. Nếu cho nghỉ như vậy có thể làm cho quân số các binh đoàn xe tăng đạt được 60% - 70% quân số biên chế".
Thực tế mà bộ tư lệnh phát-xít Đức vấp phải trên mặt trận Xô-Đức trong tháng đầu tiên là như thế. Phải, đây rõ ràng không phải là cái thực tại mà ban lãnh đạo của Hít-le mong chờ! Những đoạn trích dẫn nói trên thể hiện rõ tinh thần đó. Xin nêu thêm một số sự việc nữa.
Riêng trong hai tháng đầu của cuộc chiến tranh ở Liên Xô, lục quân Đức đã mất gần 40 vạn người. Nhân tiện tôi xin lưu ý rằng, từ tháng 6 đến tháng 12 năm 1941, trên các mặt trận ở các nước khác, lục quân xâm lược phát-xít mất tất cả có 9.000 tên (!).
Tính đến cuối chiến cục hè thu, trên mặt trận Xô-Đức, địch đã bị mất ít nhất 80 vạn tên thuộc các bộ đội và binh đoàn chọn lọc, tinh nhuệ nhất.
Và tất cả tình hình đó xảy ra trong hoàn cảnh chúng ta không có thuận lợi. Thật vậy: quân địch có kinh nghiệm chiến đấu, vì chúng đã tác chiến một thời gian dài; chúng chủ động vì chúng đã bội ước mà tấn công; số lượng, chất lượng bộ đội và binh khí kỹ thuật của chúng có nhiều loại hơn ta, vì chúng đã chuẩn bị từ lâu, chúng đã xúc tiến việc hiện đại hóa và cơ giới hóa quân đội tấn công trong nhiều năm; chúng có một nền kinh tế và nguồn lực lượng để tấn công trong thời kỳ đầu mạnh hơn do chúng nắm trong tay toàn bộ tiềm lực quân sự của cả châu Âu.
Một điều cần tính nữa là: khi tung bộ máy chiến tranh ra, ban lãnh đạo của Hít-le vẫn chưa tiêu phí hết là bao, những gì mà chúng đã chuẩn bị cho cuộc xâm lược châu Âu. Nhiều lực lượng dự bị hùng mạnh đã được dư ra để ném vào Liên Xô.
Khi chúng ta đã nói đến sự phá sản của chiến tranh chớp nhoáng, thì không nên chỉ nói đến những số thiệt hại.
Lẽ tất nhiên - và trên kia chúng ta đã nói đến điều này - trước mắt chúng ta còn những năm đấu tranh lâu dài và gay go, và chúng ta còn phải gắng sức nhiều hơn nữa để đánh lui những đợt tấn công của quân giặc, để giành quyền chủ động, làm cho chúng mất những ưu thế tạm thời và khi đã hơn chúng về mọi mặt thì tống cổ chúng ra khỏi đất đai của Tổ quốc ta, giúp đỡ nhân dân các nước châu Âu vất bỏ ách phát-xít.
Tuy vậy, trong sự nghiệp vĩ đại đó, thời kỳ đầu của cuộc chiến tranh cũng có vai trò lịch sử của nó, trong thời kỳ này, chẳng những các kế hoạch và những sự tính toán về các hoạt động quân sự bị sụp đổ, mà cả nền kinh tế, hệ tư tưởng, hệ thống tuyên truyền và nền chính trị của chủ nghía phát-xít, cả toàn bộ chế độ xã hội kỳ quái của nó cũng đã bị một đòn hết sức nặng nề.
Ngày 9-9-1941, chúng tôi cùng với trung tướng M.X. Khô-din và thiếu tướng I.I. Phê-điu-nin-xki đáp máy bay tới thành phố Lê-nin-grát đang bị bao vây.
Thời gian ấy, nhân dân Lê-nin-grát đúng là đang trải qua những ngày cực kỳ khó khăn gian khổ. Hoàn cảnh của bộ đội và nhân dân gay go đến mức, nếu không phải là con người Xô-viết, có lẽ không ai có thể chịu đựng được.
Nghĩ đến đây, chúng tôi, những người còn sống, xin kính cẩn cúi đầu tưởng nhớ đến những người đã hiến dâng cái quý nhất của con người là sự sống cho Tổ quốc, cho tương lai của con cháu.
Cuối tháng 8, đầu tháng 9 năm 1941, cụm tập đoàn quân "Bắc" sau khi chiếm Sli-xen-bua, đã bao vây Lê-nin-grát trên bộ theo sông Nê-va đến Côn-pin và xa hơn nữa đến Y-am - I-giô-ra, La-đô-ga, nhà ga Xu-xa-ni-nô, Pa-ri-xa, I-li-nô. Cụm chiến dịch bờ bể của chúng ta đã phải rút lui và chốt lại trên tuyến Pê-téc-gốp - U-xtơ - Ru-đi-xa - ven bờ bể, Lê-nin-grát chỉ có thể liên lạc với cụm chiến dịch đó bằng đường biển và đường không. ở eo đất Ca-rê-li, trên biên giới quốc gia cũ của chúng ta, thì có quân đội Phần Lan lăm le chờ thời cơ thuận lợi để từ phía bắc nhảy vào Lê-nin-grát. Lê-nin-grát chỉ có thể liên hệ với đất liền bằng đường qua hồ La-đô-ga và đường không.
Từ Mát-xcơ-va đến hồ La-đô-ga, chúng tôi đi máy bay trong điều kiện thời tiết "thuận lợi": có mưa và mây thấp. Nói tóm lại là máy bay địch không thích thời tiết này và chúng tôi có thể yên trí bay không cần bảo vệ .
Khi gần tới hồ La-đô-ga thì thời tiết tốt lên, vì vậy chúng tôi phải lấy lực lượng bảo vệ - một biên đội máy bay tiêm kích. Máy bay của chúng tôi bay là thấp trên hồ và bị hai chiếc "Mét-xéc-mít" theo dõi. Sau đó một lúc chúng tôi đã hạ cánh an toàn xuống sân bay thành phố. Tại sao biên đội bảo vệ chúng tôi lại không đuổi các máy bay tiêm kích địch, lúc đó không còn thời giờ để tìm hiểu nữa.
Chúng tôi vội vàng đi đến điện Xmôn-nưi, tới bộ tư lệnh Phương diện quân Lê-nin-grát.
Khi vào điện Xmôn-nưi, đơn vị bảo vệ giữ chúng tôi lại đòi xem giấy ra vào mà chúng tôi không có. Tôi tự xưng tên nhưng cũng không được vào. Phép nhà binh là phép nhà binh.
- Đề nghị đồng chí đợi một lát, - đồng chí sĩ quan bảo vệ trả lời.
Đại để, chúng tôi phải đứng ở cổng đợi trên 15 phút để chờ đồng chí đội trường cảnh vệ bộ tư lệnh cho phép vào Xmôn-nưi.
Ở bộ tư lệnh, tôi được thông báo cho biết, Hội đồng quân sự phương diện quân đang họp, có mặt các đồng chí tư lệnh và chỉ huy các binh chủng thuộc phương diện quân, đồng chí tư lệnh hạm đội Ban-tích và cả giám đốc một số công trình nhà nước quan trọng nhất.
Ngay trong điện Xmôn-nưi, tôi đã hỏi ra là hội nghị đang bàn về những biện pháp cần dùng trong trường hợp không thể giữ vững Lê-nin-grát. Những biện pháp đó (tôi sẽ không kể ra đây) dự kiến phá hủy những mục tiêu quân sự quan trọng nhất. Đến nay, sau một phần tư thế kỷ, các kế hoạch đó có vẻ như không thể tin là có được Còn lúc đó thì sao? Lúc đó chiếc nôi của Cách mạng tháng Mười - thành phố Lê-nin-grát - đang nằm trong nguy cơ bị tiêu diệt; cuộc chiến đấu để bảo vệ Lê-nin-grát thật là một cuộc chiến tranh một mất một còn.
Sau khi thảo luận với K.E. Vô-rô-si-lốp, A.A. Giơ-đa-nốp, A.A. Cu-dơ-nét-xốp và các đồng chí ủy viên khác của Hội đồng quân sự phương diện quân, chúng tôi quyết định kết thúc hội nghị và ra chỉ thị lúc này không được tiến hành bất cứ một điểm nào trong các biện pháp dành cho trường hợp phải bỏ thành phố. Chúng ta sẽ bảo vệ Lê-nin-grát đến người cuối cùng.
Ngày 10-9, tôi nhận chức tư lệnh Phương diện quân Lê-nin-grát. Ngày 11-9, K.E. Vô-rô-si-lốp theo nhiệm vụ của I.V. Xta-lin giao cho, đáp máy bay đến tập đoàn quân 54 do tướng G.I. Cu-lích chỉ huy. Trung tướng M.X. Khô-din nhận lệnh giữ ngay chức vụ tham mưu trưởng phương diện quân thay đại tá N.V. Gô-rô-đét-xki, còn tướng I.I. Phê-điu-nin-xki ngay hôm đó được phái đi nghiên cứu tình hình phòng ngự của các đơn vị thuộc tập đoàn quân 42 ở U-rít-xcơ và trên các điểm cao Pun-cốp-xki.
Suốt đêm 10 rạng 11 tháng 9, tôi cùng bàn với các đồng chí A.A. Giơ-đa-nốp và A.A. Cu-dơ-nét-xốp, đô đốc hải quân I.X. I-xa-cốp, tham mưu trưởng tư lệnh các binh chủng và chủ nhiệm các ngành trong phương diện quân về những biện pháp bổ sung cho việc động viên lực lượng và phương tiện để phòng ngự Lê-nin-grát. Nguy cơ đe dọa chính là ở phía U-rít-xcơ mà một phần đã bị quân Đức chiếm. Các điểm cao Pun-cốp-xki cũng bị đe dọa không kém phần nghiêm trọng.
Tập thể đã thảo luận tình hình và đi đến quyết định :
- Rút ngay trong lực lượng phòng không của thành phố một bộ phận súng cao xạ làm súng bắn thẳng để tăng cường cho việc phòng ngự chống xe tăng trên các khu vực phòng ngự hiểm yếu nhất của Lê-nin-grát;
- Tập trung hỏa lực của tất cả các pháo trên các hạm tàu để yểm hộ các đơn vị của tập đoàn quân 42 trên khu vực U-rít-xcơ - điểm cao Pun-cốp-xki; bắt tay ngay vào việc gấp rút xây dựng hệ thống công sự phòng ngự có chiều sâu gồm nhiều tuyến, trên các hướng hiểm yếu đặt mìn và tổ chức bộ phận mìn điều khiển nổ bằng điện;
- Gấp rút bắt tay xây dựng hệ thống công sự có chiều sâu, nhiều tầng ở tất cả các hướng xung yếu, đặt mìn và một phần nào có bắt điện vào;
- Điều từ eo đất Ca-rê-li một bộ phận lực lượng của tập đoàn quân 23 đến bổ sung cho tập đoàn quân 42 để tăng cường phòng ngự vùng U-rít-xcơ;
- Lấy các chiến sĩ hải quân của hạm đội Ban-tích Cờ Đỏ, các học sinh quân sự ở Lê-nin-grát và các cơ quan thuộc Bộ Ủy viên nhân dân nội vụ để thành lập từ 5 đến 6 lữ đoàn bộ binh độc lập, thời hạn từ 6 đến 8 ngày phải tổ chức xong.
Các biện pháp dó được tiến hành ngay từ sáng hôm sau.
Hội đồng quân sự, trong đó ngoài A.A. Giơ-đa-nốp và A.A. Cu-dơ-nét-xốp ra, còn có T.Ph. Stư-cốp và N.V. Xô-lô-vi-ốp, làm việc rất nhất trí, sáng tạo, kiên quyết và không kể ngày đêm, không kể mệt nhọc. Hiện nay các đồng chí đó không còn nữa. Phải nói rằng các đồng chí đó là những người hoạt động lỗi lạc của Đảng và Nhà nước. Các đồng chí đã làm tất cả những gì có thể để chiến đấu thắng lợi, bảo vệ thành phố của Lê-nin đang bị đe dọa nghiêm trọng.
Đảng bộ và nhân dân lao động thành phố Lê-nin-grát đã đóng góp cực kỳ nhiều công sức để biến Lê-nin-grát thành một pháo đài không ai xâm phạm được. Tuy đã kiệt sức, đói lả ở ngay nơi làm việc trên đường phố và trong các nhà ở không có lò sưởi, nhưng người Lê-nín-grát vẫn hoàn toàn không nghi gì đến mình! Họ chăm lo đến việc phòng thủ thành phố của mình, chăm lo việc tiếp tế súng ống, đạn dược và phương tiện kỹ thuật quân sự cho bộ đội đang chiến đấu. Họ làm tất cả những việc đó dưới làn đạn bắn, bom rơi liên tục của quân địch.
Hôm tôi đến, quân Đức đang tấn công hết sức ác liệt ở khu vực tập đoàn quân 42. Xe tăng địch đã chọc vào U-rít-xcơ, quân Đức tấn công liên tiếp vào các điểm cao Pun-cốp-xki, trong khu Pu-skin và Côn-pin. Hành động của quân Đức được yểm hộ bằng những đợt công kích dữ dội của máy bay ném bom và pháo hạng nặng.
Trên eo đất Ca-rê-li tình hình yên tĩnh hơn. Quân Phần Lan thỉnh thoảng mới nổ súng. Các đơn vị thuộc tập đoàn quân 3 cũng bắn trả thưa thớt. Thái độ "hòa hoãn" đó của quân Phần Lan trong tháng 9-1941 đã cho phép bộ tư lệnh phương diện quân rút được toàn bộ đội dự bị của tập đoàn quân 23 và cả một phần các trung đoàn của một số sư đoàn bộ binh để tăng cường phòng ngự trong khu vực U-nt-xcơ và các điểm cao Pun-cốp-xki.
Trên mặt trận của cụm chiến dịch Bờ biển, các lực lượng của cả chúng ta và địch đôi lúc có đẩy mạnh hoạt động, nhưng tất cả những hành động đó đều không đáng kể.
Trong khu Pê-téc-gốp chúng ta đã cho đội đổ bộ đường biển đột nhập sau lưng địch, phối hợp với cụm chiến dịch. Các chiến sĩ hải quân ta đã hành động vừa dũng cảm vừa hết sức táo bạo.
Bằng cách nào đấy, quân địch phát hiện thấy quân ta đổ bộ vào, chúng đã nổ súng khi anh em còn ở dưới nước. Hỏa lực địch không làm chùn bước các chiến sĩ hải quân ta. Họ nhảy lên bờ, và tất nhiên quân Đức bỏ chạy. Trước đó, quân địch đã biết rõ thế nào là "cái chết đen", - tên chúng gọi lính thủy đánh bộ.
Rất tiếc là tôi không nhớ họ và tên đồng chí hải quân dũng cảm chỉ huy đội đổ bộ đường biển ấy. Say sưa với thắng lợi đầu tiên, các chiến sĩ hải quân rượt đuổi theo bọn địch rút chạy, nhưng đến sáng thì họ bị mất liên lạc với biển và phần lớn các đồng chí không trở về nữa. Cả đồng chí chỉ huy cũng không trở về.
Những đội đổ bộ đường biển như thế được phái vào sau lưng địch nhiều lần. Ở khắp mọi nơi, các đồng chí đều tỏ rõ lòng dũng cảm tuyệt vời, nêu cao vinh quang và danh dự của Hải quân Xô-viết. Các lữ đoàn bộ binh do các chiến sĩ hải quân Hạm đội Ban-tích lập nên hồi tháng 9 cũng chiến đấu xuất sắc.
Phần Lê-ép, tư lệnh cụm tập đoàn quân "Bắc" của Đức, nôn nóng thúc giục bộ đội. Hắn đòi gấp rút đập tan sự chống cự của những người bảo vệ Lê-nin-grát để liên lạc với cụm quân Phần Lan ở Ca-rê-li. Bộ tổng tư lệnh Đức muốn, sau khi chiếm được Lê-nin-grát thì dốc toàn lực đánh vòng từ phía đông-bắc vào Mát-xcơ-va. Nhưng Lê-nin-grát vẫn đứng vững, rắn chắc, không chịu đầu hàng, dù quân địch tấn công điên cuồng, ác liệt đến đâu.
Hít-le điên lên. Hắn hiểu rằng thời gian không ủng hộ nước Đức mà ủng hộ Liên Xô; Liên Xô vượt qua nhiều khó khăn to lớn, đang động viên lực lượng và sản xuất ra nhiều phương tiện chiến đấu mới. Mùa hè thắng lợi đã chấm dứt không bao giờ trở lại nữa. Mùa thu đã tới.
Thành phố Lê-nin-grát và các đơn vị bộ đội phòng ngự trong vùng ven thành phố đã chiến đấu dũng cảm tuyệt vời.
Chúng tôi cũng đã có những lúc hết sức gay go, đặc biệt là khi giặc chiếm được, các điểm cao Pun-cốp-xki và U-rít-xcơ, và có mấy tốp xe tăng độc lập của địch lại thọc đến tận nhà máy làm thịt hộp. Hình như chỉ một tí nữa thôi, cái điều mà mọi người lo ngại ngấm ngầm[5] sẽ đến. Nhưng cả trong những giờ phút khó khăn nhất đó, những chiến sĩ bảo vệ dũng cảm của thành phố đã có đủ sức mạnh để hết lượt này đến lượt khác hất bọn địch tiến công điên cuồng trở về những trận địa xuất phát tấn công của chúng.
Thời gian trôi qua. Quân địch đã đổ nhiều máu, nhưng tiêu diệt các đơn vị Hồng quân ở Lê-nin-grát thì chúng không thể nào làm được.
Tình hình cứ tiếp tục như thế cho đến gần cuối tháng 9.
Những ngày cuối tháng 9, chúng ta không chỉ phòng ngự mà đã chuyển sang hoạt động tích cực. Chúng ta đã tổ chức một loạt trận phản kích trong các khu Côn-pin, Pu-skin, điểm cao Pun-cốp-xki, và những hoạt động đó chắc đã làm cho quân địch cuối cùng phải tin rằng; công cuộc phòng ngự Lê-nin-grát còn mạnh, không thể phá vỡ nó với số lực lượng hiện có.
Quân Đức ngừng tấn công và chuyển sang phá hoại thành phố bằng đường không và bằng hỏa lực của pháo binh.
Các đơn vị Hồng quân, Hải quân và nhân dân thành phố đã chiến đấu 900 ngày để bảo vệ Lê-nin-grát thân yêu của mình. Chết chóc hàng loạt, đói, rét đều không thể phá hủy được tinh thần và lòng dũng cảm của những người bảo vệ thành phố Lê-nin-grát.
Ban chấp hành trung ương Đảng theo dõi hàng ngày tình hình Lê-nin-grát, đã động viên mọi lực lượng và phương tiện có thể để chi viện cho Lê-nin-grát. Chiến công của Lê-nin-grát đã trở thành thần thoại.
Tôi muốn viết chi tiết hơn nữa về tất cả những điều đó nhưng thật ra không có đủ những chữ xứng đáng với những việc làm anh hùng của những người bảo vệ Lê-nin-grát.
Tôi cũng lấy làm tự hào rằng trong thời kỳ quân địch tiến gần đến sát thành phố và thành phố có nguy cơ bị xâm chiếm thì tôi được nhận nhiệm vụ chỉ huy các đơn vị bộ đội thuộc Phương diện quân Lê-nin-grát, các đơn vị bảo vệ Lê-nin-grát.
Tôi muốn đi lướt một chút để nói rằng: tháng Giêng năm 1943, Hội đồng quốc phòng Nhà nước đã giao cho tôi cùng với K.E. Vô-rô-si-lốp tổ chức phối hợp hành động giữa Phương diện quân Lê-nin-grát và Phương diện quân Vôn-khốp trong kế hoạch phá vây. Tất cả những điều đó càng làm cho tôi gắn bó chặt chẽ thêm với nhân dân Lê-nin-grát mà tôi mãi mãi đã và đang vô cùng kính phục.
Người ta đã viết nhiều về công cuộc phòng thủ anh hùng của Lê-nin-grát. Tuy vậy, về Lê-nin-grát trong những năm chiến tranh cũng như các thành phố anh hùng khác, tôi cảm thấy cần phải soạn riêng một loại sách - anh hùng ca, có nhiều tranh ảnh và in thật đẹp, dựa chủ yếu vào những việc thật và tư liệu, viết bằng lời văn chân thật, thực thà. Còn đủ mọi loại thành phố: thành phố kết nghĩa, thành phố vệ tinh và v..v... Thành phố anh hùng thì không nhiều lắm, nhưng có ở trên đất nước Xô-viết chúng ta.
Tôi nghĩ rằng, mỗi người dân Lê-nin-grát, Mát-xcơ-va, Xê-va-xtô-pôn đều nên có ở trong nhà một cuốn sách tranh ảnh như thế, cuốn sách như thế con cháu chúng ta nên đọc, và có lẽ nên học ở nhà trường. Hãy làm cho thế hệ trẻ hiện nay nhìn vào hình ảnh các anh hùng mà hiểu rõ cha mẹ mình, nhìn vào các khu phố mới, các sân rộng mới, và các đường phố lớn mới mà thấy được các phố và ngõ hẻm đẫm máu, thấy được các bức tường đổ vỡ, thấy được mảnh đất đã bật tung lên và quét sạch kẻ thù mạnh mẽ và tàn bạo.
Việc đó rất nên làm, khi những người được chứng kiến và tham gia vào các sự tích anh hùng đó còn sống, khi mọi điều kiện đang có đủ trong tay.
Nếu đúng là phải xóa khỏi mặt đất càng nhanh càng tốt dấu vết của chiến tranh và tàn phá, không để cho những dấu vết đó làm rầu cuộc sống của những người đang sống, thì cũng cần phải truyền lại cho các thế hệ mai sau hình ảnh và tinh thần của thời đại anh hùng của chúng ta.
---
[1] Đội quân thanh niên - ND
[2] "Lịch sử Thế chiến thứ hai". Cuốc-tơ Ti-pen-xkiếc
[3] Tiếp đó là kể tên các binh đoàn - TG.
[4] của kế hoạch "Bác-ba-rô-xơ" - TG
[5] địch chiếm Lê-nin-gtát - ND
Zhukov
NHỚ LẠI VÀ SUY NGHĨ
Chương 12
CUỘC CHIẾN ĐẤU BẢO VỆ MÁT-XCƠ-VA
NGÀY 5-10-1941, từ Đại bản doanh có điện gọi:
- Đồng chí Xta-lin muốn nói chuyện với tư lệnh phương diện quân.
Tôi đang ở trong phòng họp của bộ tham mưu Phương diện quân Lê-nin-grát liền cầm máy "Bô-đô" nói chuyện:
- Có Giu-cốp đây.
Điện trả lời:
- Đợi một tí.
Chưa hết 2 phút thì đồng chí phụ trách máy "Bô-đô" của Đại bản doanh đã nói:
-Có đồng chí Xta-lin đây.
I.V. Xta-lin:
- Chào đồng chí.
G.K. Giu-cốp:
- Chúc đồng chí khỏe.
I.V. Xta-lin:
- Tôi chỉ hỏi đồng chí một điều: đồng chí có thể đi máy bay về Mát-xcơ-va được không? Tình hình khu Yu-khơ-nốp ở cánh trái Phương diện quân Dự bị trở nên phức tạp, Đại bản doanh muốn thảo luận với đồng chí về những biện pháp cần áp dụng. Hãy để một đồng chí nào đó, có thể là đồng chí Khô-din thay đồng chí.
G.K. Giu-cốp:
- Đề nghị cho phép về vào sáng sớm ngày 6-10.
I.V. Xta-lin:
- Được. Ngày mai tôi đợi đồng chí ở Mát-xcơ-va.
Tuy vậy, vì phải giải quyết một số việc quan trọng ở khu vực tập đoàn quân 54, lúc đó do G.I. Cu-lích chỉ huy, cho nên sáng 6-10 tôi không thể đi được và Tổng tư lệnh tối cao đã đồng ý lui chuyến bay về Mát-xcơ-va của tôi sang ngày 7-10.
Chiều ngày 6-10, I.V. Xta-lin lại gọi dây nói đến Lê-nin-grát.
- Công việc của đồng chí thế nào? Quân địch có hành động gì mới không? - Đồng chí hỏi tôi.
- Cuộc tiến công của quân Đức đã yếu dần - Tôi báo cáo - Theo những tin do tù binh khai, thì trong những trận đánh tháng 9, quân địch đã bị thiệt hại nặng và xung quanh Lê-nin-grát chúng đang chuyển sang phòng ngự. Hiện nay chúng bắn pháo và dùng máy bay ném bom vào thành phố. Máy bay trinh sát của ta phát hiện thấy nhiều đoàn xe tăng và cơ giới địch đang chuyển vận từ Lê-nin-grát về phía nam. Chắc là địch điều lực lượng đó về hướng Mát-xcơ-va.
Sau khi đã nắm chắc được tình hình ở tập đoàn quân của G.I. Cu-lích, tôi hỏi Tổng tư lệnh tối cao xem có phải đáp máy bay về Mát-xcơ-va nữa không?
- Giao công việc cho tham mưu trưởng phương diện quân, tướng Khô-din, hay Phê-điu-nin-xki - I.V. Xta-lin nhắc lại - Còn đồng chí đáp máy bay về ngay Mát-xcơ-va .
Chia tay với các ủy viên Hội đồng quân sự Phương diện quân Lê-nin-grát A.A. Giơ-đa-nốp, A.A. Cu-dơ-nét-xốp, T.Ph. Xtư-cốp, Ya.Ph. Ca-pu-xtin và N.V. Xô-lô-vi-ốp - những người đã cùng làm việc rất tâm đồng ý hợp với tôi trong những ngày tháng hiểm nghèo ở Lê-nin-grát, tôi lên máy bay về Mát-xcơ-va. Chỉ huy Phương diện quân Lê-nin-grát tạm thời giao cho tướng I.I. Phê-điu-nin-xki, vì tướng M.X. Khô-din có việc phải cấp tốc xuống tập đoàn quân của tướng G.I. Cu-lích.
Tôi đến Mát-xcơ-va ngày 7-10. Đồng chí phụ trách bảo vệ Xta-lin ra đón và báo cho tôi biết, I.V. Xta-lin bị cúm, đang làm việc ở nhà riêng. Chúng tôi đi ngay đến đó.
Xta-lin gật đầu chào, gọi tôi đến chỗ bản đồ và nói:
- Xem đây này. Tình hình khu vực này rất gay go. Tôi không làm thế nào có được một báo cáo đầy đủ và chính xác của Phương diện quân miền Tây. Chúng tôi không thể hạ quyết tâm được, một khi không biết quân địch tiến công ở đâu, số lượng đơn vị chúng như thế nào và không biết tình hình quân ta ra sao. Đồng chí hãy đi ngay tới bộ tham mưu Phương diện quân miền Tây, tìm hiểu cặn kẽ tình hình và từ đó gọi dây nói báo cáo về vào bất cứ lúc nào, tôi sẽ đợi
Tôi đi thẳng đến chỗ làm việc của Tổng tham mưu trưởng B.M. Sa-pô-sni-cốp.
- Tổng tư lệnh tối cao vừa gọi dây nói ra lệnh chuẩn bị bản đồ mặt trận hướng tây[1] cho anh, - đồng chí Sa-pô-sni-cốp nói.- Bản đồ sẽ có ngay bây giờ. Bộ tư lệnh Phương diện quân miền Tây đóng ở vị trí bộ tham mưu phương diện quân Dự bị hồi tháng 8, khi anh tới đó chỉ huy chiến dịch tiêu diệt quân địch ở En-nha.
Trong khi chờ bản đồ, B.M. Sa-pô-sni-cốp mời tôi uống nước chè đậm. Đồng chí kêu trong người mệt lắm và tôi cũng thấy đồng chí có vẻ yếu thật. Rời Bộ Tổng tham mưu, tôi lên ô-tô đi đến bộ tham mưu Phương diện quân miền Tây. Trên đường đi, tôi dùng chiếc đèn bấm bỏ túi soi bản đồ, nghiên cứu tình hình ngoài mặt trận và hành động của hai bên. Chúng tôi buồn ngủ quá nên thỉnh thoảng phải dừng lại, xuống xe, vận động, chạy đi chạy lại để khỏi ngủ gật.
Khuya hôm đó chúng tôi tới bộ tham mưu Phương diện quân miền Tây. Đồng chí trực nhật báo cáo: tất cả các đồng chí lãnh đạo đang họp ở buồng đồng chí tư lệnh.
Phòng đồng chí tư lệnh tranh tối tranh sáng, mấy cây nến bằng sáp cháy leo lét. Ngồi xung quanh bàn là I.X. Cô-nép, V.Đ. Xô-cô-lốp-xki, N.A. Bun-ga-nin và G.K. Ma-lan-đin, tất cả đều có vẻ mệt mỏi. Tôi nói, được lệnh của Tổng tư lệnh tối cao đến nghiên cứu tình hình và báo cáo về bằng dây nói.
Báo cáo của trung tướng G.K. Ma-lan-đin, trưởng phòng tác chiến bộ tham mưu phương diện quân, về những diễn biến mới nhất đã bổ sung và xác minh những tài liệu mà tôi đã nắm.
- Tình hình ngoài mặt trận hướng tây ra sao?
- Khi quân phát-xít Đức bắt đầu tiến công trên hướng Mát-xcơ-va thì trên những ngả đường phía xa vào Mát-xcơ-va có 3 phương diện quân bố trí phòng ngự: Phương diện quân miền Tây (tư lệnh - thượng tướng I.X. Cô-nép), Phương diện quân Dự bị (tư lệnh - nguyên soái Liên Xô Bu-di-on-nưi)[2] và Phương diện quân Bri-an-xcơ (tư lệnh - trung tướng Ê-rê-men-cô). Tất cả 3 phương diện quân đó, tính đến cuối tháng 9, có 80 vạn chiến sĩ có thể chiến đấu được, 82 xe tăng, 6.808 đại bác và súng cối, 545 máy bay. Phương diện quân miền Tây có nhiều lực lượng và phương tiện hơn cả.
Quân địch dồn về hướng Mát-xcơ-va một lực lượng tính ra còn lớn hơn cả 3 phương diện quân của ta cộng lại. Về bộ binh, chúng hơn ta 1,2 lần, xe tăng - 2,2 lần, đại bác và súng cối - 2,1 lần, máy bay - 1,7 lần.
Mở đầu cuộc tiến công vào ngày 30-9, quân Đức đã dùng đạo xe tăng của Gu-đê-ri-an và tập đoàn quân 2 đột kích vào bộ phận của Phương diện quân Bri-an-xcơ đóng ở khu vực Giu-cốp-ca - Sốt-ca. Ngày 2-10, quân địch mở rộng những trận đánh lớn vào các Phương diện quân miền Tây và Dự bị. Tiếp theo đó là những trận giao chiến mãnh liệt trong các vùng bắc Đu-khốp-si-na và đông Rô-xláp. Quân địch đã chọc thủng tuyến phòng ngự của quân ta. Các đơn vị xung kích của chúng tiến vượt lên phía trước và từ phía nam và phía bắc đánh vu hồi, bao vây tất cả các đơn vị thuộc các Phương diện quân miền Tây và Dự bị đóng trong vùng Vi-a-dơ-ma.
Tình hình phía nam Bri-an-xcơ trở nên hết sức gay go. Các tập đoàn quân 3 và 13 thuộc Phương diện quân Bri-an-xcơ đóng tại đây có nguy cơ bị bao vây. Không vấp phải sự chống cự mạnh mẽ nào, bộ đội của Gu-đê-ri-an lao lên phía O-ri-ôn và ở đây ta cũng không có lực lượng để đánh bại cuộc tiến công của chúng. Ngày 3-10, quân Đức chiếm được O-ri-ôn. Phương diện quân Bri-an-xcơ bị chia cắt. Bộ đội thuộc Phương diện quân bị thiệt hại, vừa đánh vừa rút lui về phía đông.
Ở hướng Tu-la, tình hình cũng đáng lo ngại. Tư lệnh Phương diện quân miền Tây, thượng tướng Cô-nép, đã ra lệnh phản kích vào gọng kìm vu hồi phía bắc của quân địch. Tiếc thay, trận phản kích không thắng lợi. Đến chiều 6-10, một bộ phận lớn các đơn vị bộ đội thuộc các Phương diện quân miền tây và Dự bị đã bị hợp vây ở phía tây Vi-a-dơ-ma.
Bản đồ tuyến phòng ngự Mát-xcơ-va
Qua buổi thảo luận ở bộ tham mưu Phương diện quân miền Tây và sau khi phân tích tình hình, tôi nảy ra ý nghĩ là có thể tránh được thảm họa ở vùng Vi-a-dơ-ma. Dù cho quân địch có ưu thế về người và kỹ thuật quân ta vẫn có thể tránh khỏi bị bao vây. Muốn thế, phải kịp thời xác định thật đúng hướng đột kích chủ yếu của địch và tập trung những lực lượng và phương tiện chủ yếu lấy từ các khu vực khác, chưa quan trọng, đánh vào quân địch ở hướng chủ yếu đó. Trước đây đã không làm như thế, nên phòng ngự của các phương diện quân không đủ sức chịu những cú đánh tập trung của địch mà bằng những cú đánh như thế địch đã tạo nên những cửa mở mà chúng ta không thể bịt được, vì trong tay bộ tư lệnh không còn lực lượng dự bị nào nữa.
Lúc 2 giờ rưỡi đêm 8-10, tôi gọi dây nói đến I.V. Xta-lin.
I.V. Xta-lin vẫn đang làm việc. Sau khi báo cáo về tình hình Phương diện quân miền Tây, tôi nói:
- Nguy cơ chính hiện nay là ở chỗ tuyến Mô-gia-ích còn yếu, vì vậy bộ đội xe tăng thiết giáp địch có thể bất ngờ tiến đến gần Mát-xcơ va. Cần phải rút bộ đội từ các nơi khác thật nhanh hơn nữa về tuyến phòng ngự Mô-gia-ích.
I.V. Xta-lin hỏi:
- Các tập đoàn quân 19, 20 và bộ phận lực lượng của Bôn-đin thuộc Phương diện quân miền Tây hiện nay ở đâu? Cả các tập đoàn quân 24 và 32 của Phương diện quân Dự bị nữa cũng ở đâu rồi?
- Bị bao vây ở phía tây và tây-bắc Vi-a-dơ-ma. - Tôi trả lời.
- Bây giờ đồng chí định xử trí như thế nào?
- Tôi đến gặp Bu-di-on-nưi ngay bây giờ.
- Đồng chí có biết chỗ bộ tham mưu của Bu-di-on-nưi không?
- Tôi sẽ tìm ở một nơi nào đó trong vùng Ma-lô-ya-rô-xla-vét.
- Được đồng chí đi gặp Bu-di-on-nưi đi và từ đó gọi dây nói ngay về cho tôi.
Trời mưa phùn lấm tấm, sương mù dày trải trên mặt đất, làm cho người ta khó nhìn được xa. Sáng ngày 8-10 khi tới gần ga xép Ốp-nin-xcôi-ê (cách Mát-xcơ-va 105 km) chúng tôi nhìn thấy hai đồng chí thông tin lúi húi kéo dây điện từ phía cầu qua sông Prốt-va lại. Tôi hỏi:
- Các đồng chí kéo dây thông tin đi đâu đấy?
- Kéo đến nơi nào mà cấp trên ra lệnh, - đồng chí chiến sĩ vóc người to lớn thản nhiên trả lời.
Tôi đành phải xưng tên và cho các đồng chí biết, chúng tôi đang đi tìm bộ tham mưu Phương diện quân Dự bị và X.M. Bu-di-on-nưi. Đồng chí chiến sĩ lúc này liền nghiêm chỉnh lại, trả lời:
- Xin lỗi đồng chí Đại tướng, chúng tôi không biết đồng chí, vì vậy mới trả lời như thế. Đồng chí đã đi quá chỗ bộ tham mưu phương diện quân rồi. Khoảng 2 giờ trước đây bộ tham mưu phương diện quân mới chuyển về đây, ở chỗ có mấy cái nhà nhỏ trên núi kia kìa. Đến đó các đồng chí bảo vệ sẽ chỉ cho các đồng chí đường vào.
Ô-tô quay ngược lại, chẳng bao lâu tôi đã tới buồng làm việc của đồng chí đại diện Dại bản doanh, chính ủy tập đoàn quân bậc một L.D. Me-khơ-lít; thiếu tướng A.Ph. A-ni-xốp tham mưu trưởng phương diện quân cũng có mặt ở đây. L.D. Me-khơ-lít đang nói điện thoại và khiển trách nặng đồng chí nào đấy.
Khi tôi hỏi đồng chí tư lệnh ở đâu, đồng chí tham mưu trưởng trả lời:
- Chúng tôi không biết. Trưa nay đồng chí ấy ở tập đoàn quân 43. Tôi sợ hay là X.M. Bu-di-on-nưi lại gặp gì không may.
- Thế đồng chí đã cho đi tìm chưa?
- Có. Chúng tôi đã cử sĩ quan hên lạc đi nhưng họ chưa về.
Lúc này. L.D. Me-khơ-lít mới quay về phía tôi, hỏi:
- Đồng chí đến đây có việc gì?
- Được ủy nhiệm của Tổng tư lệnh tối cao với danh nghĩa ủy viên của Đại bản doanh, tôi đến để nắm tình hình ở đây - Tôi trả lời.
- Đây đồng chí xem chúng tôi dang trong tình trạng nào - L.D. Me-khơ-lít nói - Hiện nay chúng tôi đang tập hợp những người đã rút lui vô tổ chức. Chúng tôi sẽ trang bị lại và tổ chức thành các đơn vị mới tại những địa điểm đang tập trung đó.
Qua nói chuyện với L.D. Me-khơ-lít và A.Ph. A-ni-xốp, tôi biết được rất ít về tình hình quân ta và quân địch ở đây. Tôi liền lên ô-tô và đi về phía Yu-khơ-nốp, hy vọng có thể nắm tình hình ngay tại chỗ nhanh hơn.
Khi qua Prốt-va tôi nhớ lại mình hồi nhỏ. Địa hình vùng này rất quen thuộc đối với tôi, vì hồi trẻ tôi đã đi ngang đi dọc khắp nơi đây. Quê tôi, làng Xtơ-ren-cốp-ca cách Ốp-nin-xcôi-ê, nơi đóng quân của bộ tham mưu Phương diện quân Dự bị 10 km. Lúc này ở đó còn mẹ tôi, bà chị với bốn cháu. Không biết gia đình tôi thế nào? Sẽ ra sao đây, nếu qua nhà một tí? Không, không thể được thời gian không cho phép. Còn nếu bọn phát-xít tới đó thì sẽ ra sao? Chúng sẽ đối xử với những người thân của tôi thế nào, nếu chúng biết đó là gia đình đại tướng Giu-cốp? Chắc chắn là chúng bắn thôi. Việc trước hết có thể làm là đón gia đình tôi đến Mát-xcơ-va ở với tôi.
Hai tuần sau, làng Xtơ-ren-cốp-ca và cả khu U-gốt-xki - Da-vốt đều bị quân Đức chiếm. Nhưng người dân quê tôi không chịu ngồi bó tay. Trong khu đã tổ chức đội du kích rất lớn, chỉ huy là đoàn viên thanh niên cộng sản Vích-to Ca-ra-xép, một chiến sĩ dũng cảm bảo vệ Tổ quốc, một con người thông minh, có tài tổ chức, còn chính ủy là đồng chí A.lếch-xan-drơ Cuốc-ba-tốp, bí thư Khu ủy khu U-gốt-xki - Da-vốt. Trong đội du kích đó có cả Mi-kha-in A-lếch-xây-ê-vích Gu-ri-a-nốp, chủ tịch ủy ban hành chính khu, một chiến sĩ dũng cảm hết lòng vì nhân dân.
Đội du kích khu đã tổ chức những cuộc tập kích táo bạo vào các cơ quan tham mưu, hậu cần và những đơn vị lẻ của quân địch. Trong một trận tập kích ban đêm, đội đã diệt bộ phận tham mưu của cơ quan hậu cần một quân đoàn địch.
Tháng 11-1941, đảng viên cộng sản Mi-kha-in A-lếch-xây-ê-vích Gu-ri-a-nốp đã bị quân Đức bắt, đánh đập rất dã man và treo cổ. Dân làng tôi đến nay vẫn chăm nom chu đáo phần mộ của người anh hùng gan dạ đó.
Sau này, khi rút lui, giặc Đức đã đốt làng Xtơ-ren-ni-cốp-ca và nhiều làng khác, nhà mẹ tôi cũng bị đốt. May là tôi đã đưa được mẹ tôi đi nơi khác. Sư đoàn bộ binh 17 do tướng Đ.M. Xê-le-dơ-nép chỉ huy và các binh đoàn khác thuộc tập đoàn quân 49 đã giải phóng khu U-gốt-xki - Da-vốt.
Sau chiến tranh, trên mảnh đất làng Pi-át-ki-nô (bị quân Đức đốt khi rút lui), nơi đóng quân của bộ tham mưu Phương diện quân Dự bị và sau đấy của Phương diện quân miền Tây năm 1941, đã xây dựng thành phố Ốp-nin-xcơ. Tên thành phố Ốp-nin-xcơ đã vượt ra ngoài biên giới Liên Xô: nhà máy điện đầu tiên chạy bằng năng lượng nguyên tử đã được xây dựng ở đây. Hiện nay thành phố là một trung tâm khoa học lớn nhất.
Nhưng chúng ta hãy quay lại những sự kiện hồi đó.
Xe ô-tô đi đến giữa thành phố Ma-lô-ya-rô-xla-vét rồi mà tôi chưa gặp một người nào cả. Thành phố tựa như đã rời đi nơi khác.
Gần trụ sở ủy ban hành chính khu, tôi thấy hai chiếc xe con.
- Ô-tô này của ai? - Tôi đánh thức lái xe và hỏi.
- Báo cáo đồng chí Đại tướng, xe của Xê-mi-on Mi-khai-lô-vích Bu-di-on-nưi.
- Đồng chí đó đâu?
- Trong trụ sở ủy ban hành chính khu.
- Các đồng chí ở đây lâu chưa?
- Chúng tôi đã ở đây 3 tiếng đồng hồ.
Bước vào ủy ban hành chính khu, tôi nhìn thấy X.M. Bu-di-on-nưi đang nghiên cứu và suy nghĩ trên bản đồ.
Hai người chúng tôi gặp nhau tay bắt mặt mừng. Rõ ràng là đồng chí Bu-di-on-nưi đã phải chịu đựng nhiều trong những ngày khó khăn này.
- Cậu từ đâu đến thế? - Bu-di-on-nưi hỏi.
- Từ chỗ Cô-nép.
- Thế tình hình ở đó ra sao? Đã hơn hai ngày nay tôi không có liên lạc gì với Cô-nép. Hôm qua tôi ở bộ tham mưu tập đoàn quân 43, còn bộ tham mưu phương diện quân đã chuyển đi chỗ khác lúc vắng tôi và bây giờ không biết nó đã dừng lại ở đâu.
- Tôi đã tìm thấy nó ở cách Mát-xcơ-va 105 km trong khu rừng phía trái, bên kia chiếc cầu xe lửa qua sông Prốt-va. Anh em đang đợi anh ở đó. Rất tiếc là bên Phương diện quân miền Tây, một phần đáng kể lực lượng ta đã bị bao vây.
- Ở đây tình hình cũng không hơn, - X.M. Bu-di-on-nưi nói, - Các tập đoàn quân 29 và 32 bị chia cắt rồi. Chiều qua tí nữa tôi cũng rơi vào tay quân địch ở khoảng giữa Yu-khơ-nốp và Vi-a-dơ-ma. Hàng đoàn bộ đội xe tăng và cơ giới địch đi về phía Vi-a-dơ-ma, chắc là để đánh bao vây thành phố từ phía đông.
- Hiện nay Yu-khơ-nốp thuộc về ta hay địch?
- Bây giờ tôi không biết. Trên sông U-gơ-ra trước có đến 2 trung đoàn bộ binh nhưng không có pháo binh. Tôi cho rằng Yu-khơ-nốp đã bị địch chiếm.
- Thế ai giữ con đường từ Yu-khơ-nốp vào Ma-lô-ya-rô-xla-vét?
- Khi đi xe đến đây tôi không gặp ai ngoài 3 đồng chí cảnh sát ở Mê-đư-nhơ. Chính quyền địa phương đã rút khỏi Mê-đư-nhơ.
- Anh nên về bộ tham mưu phương diện quân, - tôi nói với Bu-di-on-nưi - để nắm chắc tình hình và báo cáo về Đại bản doanh, còn tôi sẽ đi đến khu Yu-khơ-nốp. Nhớ báo cáo với Tổng tư lệnh tối cao về cuộc gặp gỡ giữa chúng ta và nói là tôi đi về Ca-lu-ga. Tôi cần biết tình hình ở đằng ấy.
Khi tôi đến Mê-đư-nhơ thì thấy đúng là không có một ai. Chỉ có một bà già đang tìm kiếm vật gì trong đống gạch ngói đổ nát của một ngôi nhà bị bom phá hủy.
- Bà cụ ơi, cụ tìm gì đấy? - Tôi hỏi.
Bà cụ ngẩng đầu lên. Bằng đôi mắt mở rộng, mơ màng, cụ như người không hồn, nhìn tôi.
- Cụ làm sao thế ?
Không trả lời gì cả, bà cụ lại moi xới. Từ một ngóc ngách nào đó của đống nhà đổ nát, một bà khác xách túi đi tới, trong có đến lưng túi các vật gì đó.
- Không nên hỏi bà cụ. Cụ đã mất trí vì đau khổ. Hôm kia máy bay Đức đã bay đến đây. Chúng ném bom và bắn phá. Bà cụ sống với các cháu ở đây, trong căn nhà này. Khi máy bay địch bắn phá thì cụ đang lấy nước ở giếng và cụ đã trông tận mắt thấy rõ quả bom rơi trúng nhà. Các cháu bị chết. Nhà của chúng tôi cũng bị phá sập. Cần phải đi nhanh khỏi nơi này, vâng, nhưng tôi còn tìm xem trong đống gạch vụn này còn có thể lấy được ít quần áo, giày dép nào không.
Trên gò má của bà, nước mắt ròng ròng chảy.
Tôi đi về phía Yu-khơ-nốp, lòng đau thắt lại. Thỉnh thoảng chúng tôi phải dừng xe quan sát kỹ càng xung quanh để khỏi nhảy vào chỗ giặc đóng.
Đi được khoảng 10 đến 12 km bỗng nhiên có một số chiến sĩ đeo súng, mặc quần áo và đội mũ lái xe tăng ở trong rừng ra ngăn chúng tôi lại. Một người trong số đó tiến lại gần xe.
- Không thể đi nữa được đâu. - Người đó nói - Các đồng chí là ai?
Tôi xưng tên và sau chuyển sang hỏi lại bộ đội của các đồng chí đó ở đâu
- Ở trong rừng này, phòng tham mưu lữ đoàn xe tăng cách đây hơn 100 mét.
- Tốt lắm. Dẫn tôi vào phòng tham mưu lữ đoàn.
Tôi rất vui mừng được gặp lữ đoàn xe tăng tại đây.
Ra đón tôi là một chiến sĩ bộ đội xe tăng người tầm thước, tư thế nghiêm chỉnh trong bộ quần áo công tác màu xám. Tôi nhận ra ngay đó là một đồng chí mà tôi đã có lần gặp ở một nơi nào đó.
- Báo cáo: tôi là đại tá Tơ-rốt-xki, tư lệnh lữ đoàn xe tăng dự bị của Đại bản doanh.
- A! Đồng chí Tơ-rốt-xki. Tôi không ngờ gặp đồng chí ở đây.
I.I. Tơ-rốt-xki gợi cho tôi nhớ đến trận Khan-khin Gôn. Hồi đó, năm 1939, đồng chí Tơ-rốt-xki là tham mưu trưởng lữ đoàn xe tăng 11, một đơn vị đáng sợ đối với quân Nhật.
- Tôi cũng không nghí sẽ được gặp đồng chí ở đây, thưa đồng chí Đại tướng. - I.I Tơ-rốt-xki nói - Tôi được biết đồng chí chỉ huy Phương diện quân Lê-nin-grát, còn việc đồng chí lại về đây thì không nghe nói.
- Thế nào? Tình hình ra sao rồi. Báo cáo đi. Trước tiên cần biết quân địch ở đâu?
Đại tá I.I Tơ-rất-xki kể lại:
- Địch chiếm Yu-khơ-nốp. Các đơn vị phái đi trước của chúng chiếm giữ cầu trên sông U-gơ-ra. Tôi đã cử trinh sát đến Ca-lu-ga. Trong thành phố đó hiện nay chưa có địch nhưng trong khu đó đang có những trận đánh ác liệt. Sư đoàn 5 bộ binh và một số đơn vị của tập đoàn quân 43 rút về đang chiến đấu ở đó. Lữ đoàn do tôi phụ trách thuộc đội dự bị của Đại bản doanh. Chúng tôi ở đây đã hai ngày nhưng không nhận được chỉ thị nào cả.
- Đồng chí hãy cử sĩ quan liên lạc đến bộ tham mưu Phương diện quân Dự bị trong khu ga xép ốp-nin-xcôi-ê bên kia sông Prốt-va, để báo cáo tình hình cho đồng chí X.M. Bu-di-on-nưi. Đồng chí hãy triển khai một bộ phận của lữ đoàn và tổ chức đánh chặn không cho địch tiến về hướng Mê-đư-nhơ. Qua bộ tham mưu Phương diện quân Dự bị, báo cáo cho Bộ Tổng tham mưu biết mệnh lệnh đó của tôi và nói là tôi đến sư đoàn bộ binh 5 ở Ca-lu-ga.
Sau này tôi mới biết chiếc cầu qua sông Prốt-va đã bị đội du kích của thiếu tá I.G. Xta-rơ-trác phá, trước khi nó bị quân Đức chiếm. Thiếu tá Xta-rơ-trác trước đây phụ trách bộ đội nhảy dù của Phương diện quân Dự bị.
Đội du kích được thành lập do sáng kiến của đồng chí Xta-rơ-trác gồm 400 người, lấy trong số bộ đội biên phòng được chuẩn bị sẵn vào hoạt động trong vùng sau lững địch. Sau đó lại có sự phối hợp của đội du kích gồm học viên các trường trung học quân sự ở Pô-đôn-xcơ do thượng uý L.A. Mam-trích và đại úy Ya.X. Rô-xi-cốp chỉ huy. Các đội du kích đó đã đẩy lui các cố gắng của địch định vượt sông U-gơ-ra tiến về Mê-đư-nhơ.
Sau 5 ngày chiến đấu quyết liệt, nhiều đồng chí đã hy sinh nhưng bằng khí phách anh hùng, tinh thần xả thân vì nước, các đồng chí đó đã phá tan kế hoạch chớp nhoáng chiếm Ma-lô-ya-rô-xla-vét của địch và như vậy, đã tạo điều kiện cho bộ đội ta có thời gian cần thiết để tổ chức phòng ngự trên các đường vào Mát-xcơ-va.
Hôm tôi đang ở Ca-lu-ga, có một sĩ quan liên lạc đem đến cho tôi bức điện của đồng chí Tổng tham mưu trưởng, trong đó đồng chí báo cho biết Tổng tư lệnh tối cao lệnh cho tôi đến bộ tham mưu Phương diện quân miền Tây vào ngày 10-10.
Trong những ngày đó, một ủy ban của Hội đồng quốc phòng Nhà nước đang làm việc tại đây.
Bộ tham mưu Phương diện quân miền Tây đóng ở Cra-xnô-vi-đô-va. Vừa tới nơi tôi liền được gọi ngay đến máy để nói chuyện với I.V. Xta-lin.
- Đại bản doanh quyết định cử đồng chí làm tư lệnh Phương diện quân miền Tây. Cô-nép ở lại làm phó tư lệnh. Đồng chí có ý kiến gì khác không?
- Không, làm thế nào mà có ý kiến khác được? Tôi thấy nên giao cho Cô-nép đặc trách hướng Ca-li-nin. Hướng đó xa quá, cần có sự chỉ huy bổ trợ của phương diện quân.
- Đồng ý, - I.V. Xta-lin trả lời. - Thuộc quyền đồng chí có các bộ đội còn lại của Phương diện quân Dự bị, các đơn vị hiện đóng trên tuyến Mô-gia-ích. Nên nhanh chóng nắm lấy tất cả lực lượng trong tay và hành động đi.
- Xin hứa thực hiện đầy đủ chỉ thị của đồng chí, nhưng tôi đề nghị, điều gấp những lực lượng dự bị lớn hơn nữa đến, vì thời gian tới thế nào bọn Hít-le cũng mở rộng cuộc tiến công vào Mát-xcơ-va.
Sau khi thảo luận tình hình với I.X. Cô-nép, chúng tôi đề ra mấy chủ trương đầu tiên: rời bộ tham mưu phương diện quân đến A-la-bi-nô; cử đồng chí Cô-nép đem theo những phương tiện chỉ huy cần thiết và một số cán bộ chỉ huy đi tổ chức hiệp đồng tác chiến giữa các đơn vị ở hướng Ca-li-nin; đề nghị Hội đồng quân sự phương diện quân đến Mô-gia-ích gặp đại tá X.I. Bốc-đa-nốp, chỉ huy khu phòng thủ Mô-gia-ích để nắm tình hình tại chỗ trên hướng đó.
Bộ tham mưu phương diện quân được chuyển ngay đến A-la-bi-nô, còn tôi và ủy viên Hội đồng quân sự N.A. Bun-ga-nin khoảng 2 giờ sau đã đến Mô-gia-ích. Ở đây chúng tôi nghe thấy tiếng pháo và bom nổ rền. X.I. Bốc-da-nốp báo cáo, trên đường vào Bô-rô-đin, sư đoàn bộ binh 32 có xe tăng và pháo binh tăng cường đang đánh các đơn vị cơ giới và xe tăng đi đầu của địch. Đại tá Pô-lô-xu-khin sư đoàn trưởng là một người chỉ huy rất có kinh nghiệm. Có thể tin ở sư đoàn được.
Ra xong những chỉ thị cần thiết cho X.I. Bốc-da-nốp, chúng tôi về bộ tham mưu phương diện quân.
Ở bộ tham mưu phương diện quân, sau khi tạm thu xếp việc ăn, ở trong những lều dã chiến, mọi người bắt tay ngay vào việc tổ chức chiến đấu vì khối lượng việc cần làm rất lớn.
Trước hết cần lập ngay trận địa phòng ngự vững chắc trên tuyến Vô-lô-cô-lam-xcơ - Mô-gia-ích - Ma-lô-ya-rô-xla-vét - Ca-lu-ga; phải làm cho trận địa phòng ngự trở thành có chiều sâu, tổ chức thê đội 2 và đội dự bị của phương diện quân để có lực lượng cơ động tăng cường cho những nơi xung yếu. Phải tổ chức trinh sát mặt đất và trên không cho cẩn mật, bộ máy chỉ huy của phương diện quân cho vững vàng, việc cung cấp vật tư kỹ thuật cho hợp lý. Và một việc chủ yếu nữa là phải triển khai công tác Đảng, công tác chính trị, nâng cao tinh thần các chiến sĩ, củng cố lòng tin của họ vào sức mạnh của mình nhất định sẽ tiêu diệt được quân địch ngay ở cửa ngõ Mát-xcơ-va.
Bộ đội làm việc căng thẳng suốt ngày này sang đêm khác. Nhiều người vì mệt mỏi và thiếu ngủ tường chừng như có thể ngã gục xuống, nhưng nghĩ đến trách nhiệm của mình trước vận mệnh của Mát-xcơ-va, của Tổ quốc, và được Đảng động viên dìu dắt, họ lại đứng dậy, hăng hái, tích cực làm cho đến hết khối lượng công việc khổng lồ nhằm thiết lập bằng được thế trận phòng ngự vững chắc cho các đơn vị của phương diện quân trên các đường vào Mát-xcơ-va.
Mùa hè và mùa thu năm 1941, Ban chấp hành trung ương Đảng, Hội đồng quốc phòng Nhà nước và Bộ tổng tư lệnh tối cao đã áp dụng nhiều biện pháp lớn nhằm tăng cường việc bảo vệ Mát-xcơ-va. Chúng ta đã thành lập một số khá lớn đội dự bị, bổ sung nhiều đơn vị, binh đoàn mới và binh khí kỹ thuật cho quân đội đang tác chiến. Nhưng lúc này, nhiều biện pháp lại được thi hành thêm nhằm chặn đứng quân địch.
Ngay trong đêm 6 rạng ngày 7 tháng 10 đã bắt đầu chuyển các đơn vị thuộc lực lượng dự bị của Đại bản doanh và của các phương diện quân khác đến tuyến phòng ngự Mô-gia-ích. Số quân này gồm 14 sư đoàn bộ binh, 16 lữ đoàn xe tăng, hơn 40 trung đoàn pháo binh và nhiều đơn vị khác nữa. Các tập đoàn quân 16, 5, 43 và 49 được thành lập lại. Đến giữa tháng 10, quân số các tập đoàn quân đó đã lên tới 9 vạn. Đương nhiên là số lực lượng đó chưa đủ để xây dựng một hệ thống phòng ngự dày đặc và chắc chắn. Nhưng lúc đó Đại bản doanh chưa có những khả năng lớn hơn, còn việc điều động bộ đội từ miền Viễn Đông và ở các vùng xa xôi khác về thì bị chậm trễ vì nhiều lý do. Vì vậy, chúng tôi quyết định trước hết hãy chiếm giữ những hướng chủ yếu nhất như: Vô-lô-cô-lam-xcơ - Mô-gia-ích - Ma-lô-ya-rô-xla-vét - Ca-lu-ga. Những phương tiện pháo binh và chống xe tăng chủ yếu cũng được tập trung ở ngay trên những hướng đó.
Chúng tôi quyết định cử bộ tham mưu và bộ tư lệnh tập đoàn quân 16 do các đồng chí K.K. Rô-cô-xốp-xki, A.A. Lô-ba-chép và M.X. Ma-li-nin phụ trách đến hướng Vô-lô-cô-lam-xcơ. Trong biên chế của tập đoàn quân 16 đã có các sư đoàn mới vì các sư đoàn cũ được chuyển thuộc tập đoàn quân 20 hiện còn đang bị bao vây ở phía tây Vi-a-dơ-ma. Tập đoàn quân 5 do thiếu tướng Đ.Đ. Lê-liu-sen-cô chỉ huy, khi Lê-hu-sen-cô bị thương thì tướng L.A. Gô-vô-rốp thay thế, được tập trung về hướng Mô-gia-ích, còn tập đoàn quân 43 của thiếu tướng K.Đ. Gô-lu-bép thì được đưa về hướng Ma-lô-ya-rô-xla-vét, và tập đoàn quân 49 do trung tướng I.G. Da-khác-kin chỉ huy đến hướng Ca-lu-ga.
Chúng tôi biết rõ các đồng chí đó là những người cầm quân giàu kinh nghiệm và hoàn toàn tin tưởng ở các đồng chí đó. Chúng tôi biết, với số lượng bộ đội giao cho, các đồng chí sẽ làm tất cả những gì có thể để không cho quân địch lọt đến Mát-xcơ-va.
Ở đây chúng tôi muốn nêu cao tính chính xác trong công tác của bộ tham mưu phương diện quân đứng đầu là trung tướng V.Đ. Xô-cô-lốp-xki và trưởng phòng tác chiến trung tướng G.K. Ma-lan-đin. Chúng tôi cũng muốn kể đến những cố gắng rất lớn của thiếu tướng N.Đ. Pơ-cuốc-xép chỉ huy các đơn vị thông tin đã giữ vững đường dây liên lạc thường xuyên giữa các đơn vị trong phương diện quân.
Ở phía sau các đơn vị thê đội 1 của Phương diện quân miền Tây đã xây dựng những công trình rất lớn nhằm phát triển chiều sâu phòng ngự và các khu chống tăng được thiết lập trên tất cả những hướng bị xe tăng uy hiếp. Lực lượng dự bị của phương diện quân được đưa đến những hướng chủ yếu.
Ít lâu sau bộ tham mưu phương diện quân đã chuyển đến Péc-khu-scô-vô. Từ đó các đường dây điện tín, điện thoại được kéo đi để liên lạc với các đơn vị mặt đất và trên không. Đường dây liên lạc với Đại bản doanh Bộ tổng tư lệnh tối cao cũng được mắc riêng.
Vậy là trên thực tế đã lập lại Phương diện quân miền Tây để đảm đương nhiệm vụ lịch sử: giữ Mát-xcơ-va.
Dưới sự lãnh đạo của Ban chấp hành trung ương, Đảng ta đã giải thích sâu rộng trong nhân dân về tình thế khó khăn của đất nước và mối nguy cơ đang trực tiếp đe dọa Mát-xcơ-va. Trung ương Đảng kêu gọi toàn dân Liên Xô hoàn thành nhiệm vụ vinh quang trước Tổ quốc: không cho quân giặc tới Mát-xcơ-va.
Trong thời gian đó , ở vùng sau lưng địch tại khu vực phía tây Vi-a-dơ-ma, các đơn vị quân ta đang bị vây hãm vẫn chiến đấu anh dũng và cố gắng chọc thủng vòng vây để liên lạc với các đơn vị Hồng quân. Nhưng những cố gắng đó không đem lại kết quả. Để chi viện cho các đơn ví bị bao vây, bộ tư lệnh phương diện quân và Đại bản doanh cho máy bay ta ném bom vào đội hình quân Đức và thả dù lương thực, vũ khí, đạn dược xuống. Nhưng nhiều hơn nữa thì phương diện quân và Bộ tổng tư lệnh không làm được vì không đủ lực lượng và phương tiện.
Tuy ở sau lưng địch, bộ đội ta không chịu bỏ súng mà vẫn tiếp tục chiến đấu dũng cảm để kìm chân những lực lượng chủ yếu của địch, không cho chúng phát triển tiến công vào Mát-xcơ-va.
Đã hai lần - vào ngày 10 và 12 tháng 10 - qua vô tuyến điện, chúng tôi chuyển đến các đơn vị bị vây mấy bức điện thông báo vắn tắt tình hình địch, đề ra nhiệm vụ phá vây và giao cho tướng M.Ph. Lu-kin, tư lệnh tập đoàn quân 19 chỉ huy chung cuộc phá vây đó. Chúng tôi cũng đề nghị các đồng chí đó cho biết ngay kế hoạch rút khỏi vòng vây và tập kết bộ đội, và những khu vực cần không quân của phương diện quân chi viện. Tuy vậy, cả hai bức điện của chúng tôi đều không được trả lời: các bức điện ấy quả là đã muộn rồi. Có lẽ đã mất sự chỉ huy chung và chỉ có những đơn vị lẻ tẻ thoát khỏi vòng vây thôi.
Đây là lời của An-đrây Tơ-rô-phi-mô-vích Xtu-sen-cô, nguyên tư lệnh sư đoàn kỵ binh 45 sau này kể lại với tôi:
"Trong cuộc chiến đấu phá vòng vây để bắt liên lạc với phương diện quân, chúng tôi, những bộ phận còn lại của các sư đoàn, đã tiêu diệt bất cứ tên địch nào mà chúng tôi gặp, số địch bị giết đó lên đến hàng nghìn. Giữa tháng 10, không có ngày nào là chúng tôi không đánh nhau ác liệt với quân địch. Nhiều chiến sĩ, cán bộ chỉ huy và cán bộ chính trị xuất sắc đã hy sinh trong các trận đó."
An-đrây Tơ-rô-phi-mô-vích Xtu-sen-cô kể lại rất xúc động về cái chết anh hùng của chính ủy sư đoàn A.G. Pô-lê-khin khi đồng chí đó không nề nguy hiểm, đã tự mình dẫn đầu đội trinh sát.
Mặc dầu phần lớn cán bộ và chiến sĩ trong sư đoàn đã hy sinh, nhưng các đồng chí còn lại vẫn sống và chiến dấu với khát vọng duy nhất: bắt liên lạc thật nhanh với các đơn vị của phương diện quân để cùng nhau tiếp tục chiến đấu bảo vệ Mát-xcơ-va. Và ngày sung sướng nhất là ngày chúng tôi thoát được vòng vây của địch, trở lại hòa cùng đội ngũ các đơn vị của phương diện quân tiếp tục đánh lại quân thù đang liều lĩnh tiến công....
Do các đơn vị bị vây trong khu Vi-a-dơ-ma đã chiến đấu ngoan cường, nên chúng tôi đã có được thời gian rất quý báu để tổ chức phòng ngự trên tuyến Mô-gia-ích. Những hy sinh đổ máu của các đơn vị bị vây thật không phải là vô ích. Chiến công của các chiến sĩ Xô-viết chiến đấu dũng cảm ở Vi-a-dơ-ma đã góp phần to lớn vào sự nghiệp bảo vệ Mát-xcơ-va. Những chiến công đó đang chờ đợi được viết thành văn.
Từ ngày 13-10, các trận chiến đấu ác liệt đã nổ ra ở các hướng quan trọng trên các ngả đường đi về Mát-xcơ-va.
Đó là những ngày bão táp. Ban chấp hành trung ương Đảng và Hội đồng quốc phòng Nhà nước đã quyết định đưa một số cơ quan trung ương và toàn bộ Đoàn ngoại giao sơ tán ra khỏi Mát-xcơ-va, về vùng Quy-bi-sép và chuyển vận những kho tàng đặc biệt quan trọng ra ngoài thủ đô.
Mát-xcơ-va ngày càng bị ném bom nhiều hơn. Hầu như đêm nào cũng có báo động máy bay. Tuy vậy, trong thời kỳ đó Đảng đã làm nhiều việc để củng cố việc phòng không ở địa phương. Thực hiện nghị quyết tháng Bảy của Chính phủ và Hội đồng quốc phòng, hàng triệu dân chúng đã được huấn luyện về phòng không. Đối với người Mát-xcơ-va, lửa đạn không đáng sợ nữa. Bộ tổng tư lệnh tối cao đã tập trung ở vùng Mát-xcơ-va những đơn vị máy bay cường kích, tiêm kích và ném bom mới xây dựng trong mùa thu.
Từ 20-10, Hội đồng quốc phòng Nhà nước đã đặt Mát-xcơ-va và các vùng lân cận trong tình trạng giới nghiêm. Sinh hoạt của tất cả các đơn vị bảo vệ thủ đô được tổ chức hết sức nghiêm ngặt. Mỗi hành động vi phạm nghiêm trọng kỷ luật đều được kiên quyết xử lý. Nhân dân Mát-xcơ-va tích cực chống lại những bọn phao tin đồn nhảm, coi đó là bọn tiếp tay cho địch.
Thủ đô Xô-viết đã tỏ rõ tinh thần dũng cảm trước nguy cơ đang tới gần. Ban chấp hành trung ương và thành ủy Mát-xcơ-va đã phát đi lời thiết tha kêu gọi bảo vệ Thủ đô Xô-viết, tiêu diệt quân giặc. Lời kêu gọi đó đã được mỗi người dân Mát-xcơ-va, mỗi chiến sĩ Hồng quân cũng như mọi người Xô-viết hiểu rõ và nhiệt liệt hưởng ứng. Nhân dân Mát-xcơ-va đã biến Thủ đô và các vùng ven thành một pháo đài bất khả xâm phạm. Để đối phó với các đơn vị địch có thể lọt vào thành phố, nhân dân lao động đã thành lập và trang bị hàng trăm đội tự vệ chiến đấu và những tổ xung kích đánh xe tăng. Gần 10 vạn người đã vừa làm vừa học quân sự. Trong thời kỳ chiến đấu bảo vệ Thủ đô, họ đã gia nhập các đơn vị quân đội. Những hoạt động nhiều mặt của các đảng viên cộng sản Mát-xcơ-va để động viên nhân dân lao động đoàn kết đứng lên chống quân thù hung ác, bảo vệ Thủ đô, đã biến thành một bản trường ca anh hùng.
Theo sáng kiến của nhân dân Thủ đô , trong những tháng đầu chiến tranh, đã thành lập 12 sư đoàn dân quân. Các cơ quan quân sự và tổ chức Đảng tiếp tục nhận được hàng nghìn đơn của nhân dân xin ra mặt trận. Trong các sư đoàn dân quân tình nguyện có chuyên gia đủ các nghề: công nhân, kỹ sư, nhân viên kỹ thuật, bác học, văn nghệ sĩ. Tất nhiên những người đó chưa quen lắm với sinh hoạt và công tác quân sự. Việc phục vụ trong quân đội còn mới đối với họ và họ phải vừa đánh vừa học. Nhưng điều nổi nhất của tất cả mọi người là: lòng yêu nước cao độ quyết tâm vững chắc và lòng tin vào thắng lợi. Và rõ ràng không phải ngẫu nhiên mà các tổ chức chiến đấu tình nguyện do các tổ chức Đảng lãnh đạo trong nhiều thành phố, sau một thời gian, có kinh nghiệm tác chiến, đã trở thành những binh đoàn chiến đấu nổi tiếng.
Anh chị em dân quân là nòng cốt của nhiều phân đội chuyên môn như trinh sát, trượt tuyết, họ tích cực hoạt động trong các đội du kích. Hàng chục vạn người Mát-xcơ-va ngày đêm làm việc để xây dựng những phòng tuyến bao quanh thành phố.
Đáp ứng lời kêu gọi của Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản liên bang (b), hàng ngàn đảng viên cộng sản và đoàn viên thanh niên Mát-xcơ-va cũng như các thành phố khác, đã ra mặt trận để làm các chiến sĩ chính trị. Họ đi đến đó, dùng hành động gương mẫu của mình nâng cao sức chiến đấu của bộ đội.
Hội đồng quân sự Phương diện quân miền Tây trong những ngày khó khăn gian khổ đã gửi thư kêu gọi, trong đó nói:
"Các đồng chí! Trong những giờ phút nước nhà lâm nguy này, cuộc sống của mỗi chiến sĩ đều thuộc về Tổ quốc. Tổ quốc đòi hỏi ở mỗi chúng ta sự cố gắng cao nhất, lòng dũng cảm, khí phách anh hùng và tinh thần bền bỉ. Chúng ta hãy xiết chặt hàng ngũ, đứng lên thành một bức tường thành không sức gì phá vỡ nổi để chặn không cho bầy phát-xít đến được Mát-xcơ-va thân yêu. Bây giờ, hơn lúc nào hết, cần phải có tinh thần cảnh giác, kỷ luật sắt, tinh tổ chức, tinh kiên quyết trong hành động, cần có ý chí sắt đá giành thắng lợi và tinh thần sẵn sàng xả thân vì Tổ quốc".
Những sự kiện có ý nghĩa quyết định đang nhích gần lại.
Vì lực lượng phòng ngự trên tuyến Vô-lô-cô-lam-xcơ - Mô-gia-ích - Ma-lô-ya-rô-xla-vét - Xéc-pu-khốp còn mỏng, và đôi chỗ đã bị địch lấn chiếm, cho nên Hội đồng quân sự phương diện quân đã chọn tuyến Nô-vô - Da-vi-dốp-xki - Clin - Hồ chứa nước I-xtơ-ra - Cra-xnai-a Pa-khơ-ra - Xéc-pu-khốp - A-lếch-xi-na làm tuyến phòng ngự chủ yếu có nhiệm vụ ngăn không cho địch đột phá vào Mát-xcơ-va.
Do mặt trận kéo dài quá và việc chỉ huy các đơn vị thuộc khu vực Ca-li-nin gặp khó khăn, theo đề nghị của Hội đồng quân sự phương diện quân, ngày 17-10, Đại bản doanh đã ra lệnh tách các tập đoàn quân 22, 29, 30 và 31 khỏi biên chế của Phương diện quân miền Tây và thống nhất các tập đoàn quân đó vào Phương diện quân Ca-li-nin mới thành lập lại. Thượng tướng I.X. Cô-nép được cử làm tư lệnh Phương diện quân Ca-li-nin, Đ.X. Lê-ô-nốp, chính ủy quân đoàn - ủy viên Hội đồng quân sự, thiếu tướng I.I. I-va-nốp - tham mưu trưởng. Do việc thành lập phương diện quân này, dải phòng ngự của Phương diện quân miền Tây được rút ngắn lại và việc chỉ huy bộ đội cũng dễ dàng hơn.
Phương diện quân Bri-an-xcơ do trung tướng A.I. Ê-rê-men-cô chỉ huy cũng đang gặp nhiều khó khăn rất lớn. Phần lớn các đơn vị của phương diện quân đã bị bao vây và dang vất vả phá vây để rút về phía đông. Bằng những cố gắng dầy khí phách anh hùng, ngày 23-10, các đơn vị đó đã vượt khỏi vòng vây. Rượt theo các đơn vị còn lại của Phương diện quân Bri-an-xcơ, những đơn vị phái đi trước của tập đoàn quân Gu-đê-ri-an đã tới Tu-la vào ngày 29-10.
Trước ngày 10-11, thành phố Tu-la nằm trong dải phòng ngự của Phương diện quân Bri-an-xcơ. Sau khi chiếm được O-ri-ôn, quân Đức tiến về Tu-la. Lúc đó ở đây chỉ có các cơ quan hậu cần đang được thành lập của tập đoàn quân 50, vì vậy không còn đơn vị nào có đủ sức giữ thành phố. Hạ tuần tháng 10, 3 sư đoàn bộ binh đã bị tổn thất nặng được rút về đóng ở khu Tu-la. Quân số các sư đoàn này có từ 500 đến 1.500 chiến sĩ, nhưng trung đoàn pháo binh thì chỉ còn tất cả 4 khẩu. Các đơn vị khi rút về đều hết sức mệt mỏi. Nhân dân thành phố Tu-la đã tận tình giúp đỡ quân đội, họ khẩn trương vá quần áo, khâu giày dép và sửa vũ khí cho anh em.
Dưới sự lãnh đạo của các tổ chức Đảng, mọi người lao động ngày đêm để nhanh chóng khôi phục sức chiến đấu của các đơn vị. Trong một thời gian ngắn, ủy ban bảo vệ thành phố, đứng đầu là đồng chí Va-xi-li Ga-vri-lô-vích Gia-vô-rôn-cốp bí thư Tỉnh ủy, đã thành lập và trang bị xong các đội ngũ công nhân. Cùng với các đơn vị của tập đoàn quân 50 thuộc Phương diện quân Bri-an-xcơ, các đội ngũ đó đã chiến đấu dũng cảm trên các cửa ngõ sát Tu-la và đã không cho địch lọt vào thành phố.
Đặc biệt ngoan cường và dũng cảm trong chiến đấu là trung đoàn công nhân Tu-la do đại úy A.P. Goóc-scốp và chính ủy G.A. A-ghê-ép lãnh đạo và chỉ huy.
Trung đoàn cùng với các đơn vị rút lui từ các nơi khác đến chiếm giữ tuyến phòng ngự trong vùng Cô-xai-a Gô-ra. Tướng V.X. Pô-pốp, tư lệnh khu phòng thủ Tu-la đã dùng trung đoàn cao xạ để đánh lui xe tăng Đức tại các cửa ngõ sát thành phố. Bộ đội ở khu Tu-la chiến đấu rất dũng cảm.
Cuộc tiến công của tập đoàn quân Gu-đê-ri-an ngày 30-10 đã bị những người bảo vệ khu phòng thủ Tu-la đánh lui, và ở đây địch bị thiệt hại nặng. Gu-đê-ri-an dự định chiếm Tu-la trong hành tiến (như đã chiếm O-ri-ôn) và tiến quân vu hồi Mát-xcơ-va từ phía nam. Nhưng trong tháng 10 chúng đã không làm được.
Ngày 10-11, Đại bản doanh quyết định giao việc phòng ngự Tu-la cho Phương diện quân miền Tây phụ trách. Phương diện quân Bri-an-xcơ bị giải thể. Dải phòng ngự của Phương diện quân miền Tây lại mở rộng ra khá nhiều.
Dù quân địch có cố gắng đến đâu cũng không thể lấy được Tu-la trong tháng 11. Âm mưu của chúng chiếm Tu-la để mở đường từ phía nam tiến đánh Mát-xcơ-va cuối cùng bị đánh bại. Thành phố đã đứng vững như một pháo đài bất khả xâm phạm. Tu-la đã bó chân bó tay tất cả các đơn vị cánh phải của quân Đức. Không vào được Tu-la, địch chủ trương vòng qua, nhưng, chính vì thế mà chúng phải kéo dài đội hình ra, làm cho tập đoàn quân Gu-đê-ri-an bị mất độ dày đặc về chiến dịch và chiến thuật.
Trong việc tiêu diệt quân Đức gần Mát-xcơ-va, nhân dân cả thành phố Tu-la đã góp phần xứng đáng.
Trận phản công Mát-xcơ-va
Tôi nghĩ rằng, không cần phải kể hết toàn bộ các diễn biến về quân sự vì nó đã được nhiều lần kể lại tỉ mỉ trong nhiều tác phẩm lịch sử và mọi người đều biết đến kết quả của những trận chiến đấu phòng ngự tháng 10 ở Mát-xcơ-va. Trong một tháng tác chiến ác liệt và đẫm máu, tính tổng cộng, quân phát-xít Đức đã tiến được từ 230 đến 250 km. Tuy vậy, kế hoạch của bọn chỉ huy Hít-le mưu toan chiếm Mát-xcơ-va trong giữa tháng 10 đã bị đổ vỡ; lực lượng giặc bị tiêu hao nghiêm trọng, lực lượng xung kích của chúng bị phân tán.
Cuộc tiến công của quân Đức ngày càng yếu dần và đến cuối tháng 10 bị chặn đứng trên tuyến Tuốc-ghi-nô-vô - Vô-lô-cô-lam-xcơ - Đô-rô-khô-vô - Na-rô Phô-min-xcơ, tây Xéc-pu-khốp, A-lếch-xi-na. Cùng thời gian này, ở khu vực Ca-li-nin, thế trận phòng ngự của bộ đội Phương diện quân Ca-li-nin đã trở nên ổn định.
Không thể kể hết tên các anh hùng đã xuất hiện trong cuộc chiến đấu bảo vệ Thủ đô tháng 10-1941. Không phải chỉ từng người mà có từng binh đoàn đã vì Tổ quốc lập nên những chiến công hiển hách làm rạng rỡ thêm truyền thống vẻ vang của quân đội. Ở bất cứ khu vực chiến đấu nào cũng đều có những đơn vị và binh đoàn như thế.
Trên hướng Vô-lô-cô-lam-xcơ là nơi có mũi tiến công thoạt đầu của quân đoàn 5 Đức và sau đó thêm hai quân đoàn cơ giới địch nữa, các đơn vị của tập đoàn quân 16 mới thành lập lại đã ngoan cường chống lại quân giặc, kiên cường giữ vững các khu phòng thủ. Đặc biệt xuất sắc là sư đoàn bộ binh do thiếu tướng Păng-phi-lốp chỉ huy, về sau được đổi thành sư đoàn cận vệ 8. Trung đoàn học viên sĩ quan do đại tá I.X. Mơ-la-đen-xép chỉ huy, được ba trung đoàn pháo chống tăng yểm hộ, cũng chiến đấu rất anh dũng tại đây.
Trên hướng Mô-gia-ích, sư đoàn 32 bộ binh, do đại tá V.I. Pô-lô-xu-khin chỉ huy, đã ngoan cường chiến đấu chống lại một lực lượng lớn quân địch gồm quân đoàn cơ giới Đức số 40 và những đơn vị lớn xe tăng và máy bay yểm hộ khác. 130 năm sau cuộc chinh chiến của Na-pô-lê-ông, sư đoàn đã được đấu súng với quân giặc ngay trên cánh đồng Bô-rô-đi-nô, cánh đồng từ lâu đã trở thành niềm kiêu hãnh của dân tộc, đài kỷ niệm bất diệt về nền nghệ thuật quân sự vẻ vang của nước Nga. Các chiến sĩ sư đoàn bộ binh 32 đã không làm tổn hại mà còn tô thắm thêm truyền thống vinh quang đó.
Ở cửa ngõ thành phố Ma-lô-ya-rô-xla-vét là nơi quân đoàn 12 và quân đoàn cơ giới 57 Đức tiến công, sư đoàn bộ binh 312 do đại tá A.Ph. Na-u-mốp chỉ huy cùng với học viên trường trung học lục quân và pháo binh Pô-đôn-xcơ đã chiến đấu rất dũng cảm. Trong vùng Mê-đư-nhơ, đơn vị xe tăng của đại tá I.I. Tơ-rốt-xki mà tôi có nói ở trên, đã quyết tử để giữ vững trận địa. Chiến sĩ và cán bộ sư đoàn bộ binh 110 và lữ đoàn cơ giới 181 đã tô thắm thêm lá cờ vẻ vang của đơn vị mình trong các trận chiến đấu ở thành phố Nga Bô-rốp-xcơ cổ kính. Tiểu đoàn xe tăng 127 đã cùng với họ kề vai chiến đấu đánh lui cuộc tiến công của quân địch. Chỉ sau khi bị tổn thất rất lớn, địch mới đẩy được chúng ta lui về sông Prốt-va rồi đến sông Na-ra, nhưng tới đây chúng không thể tiến thêm một bước nào nữa.
Mỗi khi nhắc đến các chiến công anh hùng đó, chúng ta không phải chỉ nói đến công lao của các chiến sĩ, cán bộ chỉ huy và cán bộ chính trị. Tất cả những thành quả trên chiến trường trong tháng 10 và trong các trận sau đó chỉ có thể đạt được, một khi có sự nhất trí và cố gắng chung của các đơn vị bộ đội Xô-viết, của các đảng viên cộng sản, của nhân dân lao động Thủ đô và tỉnh Mát-xcơ-va, được sự ủng hộ đều khắp của toàn thể nhân dân đất nước chúng ta.
Trong thời gian khó khăn ấy, Đại bản doanh đã tăng cường cho Phương diện quân miền Tây tập đoàn quân 33, do trung tướng Ê-phơ-rê-mốp chỉ huy. Tập đoàn quân 33 phòng ngự trong vùng Na-rô Phô-min-xcơ, ở nơi tiếp giáp giữa tập đoàn quân 5 và tập đoàn quân 43. Tập đoàn quân 43 thì phòng ngự ở phía nam Na-rô Phô-min-xcơ dọc theo bờ phía đông sông Na-ra và tập đoàn quân 49 thì chiếm giữ tuyến tây Xéc-pu-khốp - đông Ta-ru-xa, A-lếch-xi-na.
Sau khi đã trụ vững trên tuyến đó, bộ đội thuộc phương diện quân có đầy đủ quyết tâm dùng mọi vu khí có trong tay để đánh trả cuộc tiến công của quân địch. Các chiến sĩ Phương diện quân miền Tây đã học tập được nhiều qua ba tuần chiến đấu của tháng 10. Trong các đơn vị, công tác Đảng, công tác chính trị và công tác giáo dục đã được tiến hành sâu rộng với nội dung cơ bản là phổ biến rộng rãi các phương pháp tiêu diệt địch, giáo dục chủ nghĩa anh hùng của tập thể và của từng người, động viên tinh thần dũng cảm chiến đấu của các đơn vị.
Tôi muốn đặc biệt nêu lên Đ.A. Le-xtép, chính ủy sư đoàn, chủ nhiệm chính trị Phương diện quân miền Tây. Đ.A. Le-xtép, một đảng viên xuất sắc, một chiến sĩ rất can đảm đã có công lao rất lớn trong việc chỉ đạo tiến hành công tác chính trị trong các đơn vị. V.E. Ma-ca-rốp, người thay đồng chí khi đồng chí bị thương, cũng đã cố gắng nhiều để tăng cường công tác Đảng và công tác chính trị trong các đơn vị.
Ngày 1-11-1941, tôi được gọi về Đại bản doanh. I.V. Xta-lin nói:
- Nhân dịp kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười, ngoài lễ kỷ niệm trọng thể ra, chúng tôi muốn tổ chức ở Mát-xcơ-va cả duyệt binh nữa. Đồng chí thấy thế nào? Tình hình ngoài mặt trận có cho phép chúng ta tổ chức long trọng như thế không?
Tôi trả lời:
- Những ngày sắp tới giặc chưa mở được những cuộc tiến công lớn. Chúng bị thiệt hại nặng trong những trận đánh vừa qua và buộc phải bổ sung thêm quân số và chấn chỉnh tổ chức, nhưng chắc chắn chúng sẽ tăng cường các hoạt động bằng không quân. Vì vậy, tôi đề nghị tăng cường công tác phòng không, và điều các đơn vị máy bay tiêm kích của ta từ các mặt trận khác về Mát-xcơ-va.
Như mọi người đều biết, hôm trước ngày hội, trong phòng khách của ga xe điện ngầm Mai-a-cốp-xki đã cứ hành buổi lễ long trọng kỷ niệm lần thứ 24 Cách mạng Tháng Mười và ngày 7-11 đã tổ chức lễ duyệt binh cổ truyền tại Quảng trường đỏ. Còn các chiến sĩ thì từ Quảng trường đỏ đi thẳng ra mặt trận.
Sự kiện đó có tác dụng rất lớn trong việc củng cố tinh thần của quân đội và nhân dân Liên Xô và có ý nghĩa quốc tế lớn lao. Trong lời nói của I.V. Xta-lin, một lần nữa chúng ta thấy lòng tin tưởng của Đảng và Chính phủ vào sự thất bại không thể tránh khỏi của bọn xâm lược.
Cùng trong thời gian đó, trên những khu vực bị uy hiếp, chúng ta đã tổ chức phòng ngự chống tăng thành nhiều tuyến, xây dựng những điểm tựa và khu chống tăng. Theo chỉ thị của Hội đồng quốc phòng Nhà nước và Đại bản doanh, các đơn vị quân đội được bổ sung quân số, trang bị đạn dược, phương tiện thông tin liên lạc, công binh và vật chất kỹ thuật khác. Cả nước đã cung cấp các thứ đó cho các chiến sĩ bảo vệ Mát-xcơ-va.
Bộ tổng tư lệnh lấy lực lượng dự bị xây dựng ở hậu phương lớn chuyển cho mặt trận những binh đoàn bộ binh và xe tăng bổ sung để có lực lượng sử dụng tập trung ở các hướng xung yếu nhất. Phần lớn các đơn vị được đưa đến các hướng Vô-lô-cô-lam-xcơ - Clin và I-xtơ-ra, nơi dự kiến sẽ là hướng tiến công chủ yếu của các tập đoàn xe tăng thiết giáp địch. Chúng ta đưa cả lực lượng dự bị đến vùng Tu-la, Xéc-pu-khốp để chuẩn bị chống lại đòn tiến công thứ hai của tập đoàn quân xe tăng 2 và tập đoàn quân dã chiến 4 Đức. Từ ngày 1 đến 15 tháng 11, Phương diện quân miền Tây đã được bổ sung 10 vạn cán bộ và chiến sĩ, 300 xe tăng, 2 nghìn cỗ đại bác.
Một hôm giữa Tổng tư lệnh tối cao và tôi đã có một cuộc nói chuyện không được thoải mái trên dây nói.
- Quân địch đang hành động thế nào? - I.V. xta-lin hỏi.
- Chúng đang hoàn thành việc tập trung các tập đoàn xung kích, có lẽ, chẳng bao lâu nữa chúng sẽ chuyển sang tiến công. - Tôi trả lời.
- Theo đồng chí thì mũi đột kích chủ yếu của địch sẽ ở đâu?
- Đòn mạnh nhất của địch sẽ đánh từ Vô-lô-cô-lam-xcơ. Tập đoàn quân của Gu-đê-ri-an chắc sẽ vòng qua Tu-la để đánh Ca-si-ra.
- Chúng tôi và Sa-pô-sni-cốp thấy, ta cần phải mở những mũi phản kích trước để phá vỡ các mũi đột kích mà địch đang chuẩn bị. Nên tổ chức một mũi phản kích ở vùng Vô-lô-cô-lam-xcơ và một mũi từ vùng Xéc-pu-khốp đánh vào sườn tập đoàn quân 4 Đức. Vì đây là nơi địch đang tập trung những lực lượng lớn để đánh vào Mát-xcơ-va.
- Ta sẽ dùng lực lượng nào để thực hiện các cuộc phản kích đó? Tất cả lực lượng của Phương diện quân miền Tây đều sử dụng cả rồi. Chúng tôi chỉ có đủ lực lượng để phòng ngự.
- Trong vùng Vô-lô-cô-lam-xcơ các đồng chí hãy sử dụng các binh đoàn bên sườn phải thuộc tập đoàn quân của Rô-cô-xốp-xki, sư đoàn xe tăng và quân đoàn kỵ binh của Đô-va-to. Trong vùng Xéc-pu-khốp, nên sử dụng quân đoàn kỵ binh của Bê-lốp, sư đoàn xe tăng của Ghét-man và một phần lực lượng của tập đoàn quân 49.
- Bây giờ không nên làm việc đó. Chúng tôi không dám dùng lực lượng dự bị cuối cùng của mình để tiến hành phản kích khi chưa nắm chắc phần thắng. Chúng tôi sẽ không có lực lượng để tăng cường củng cố phòng ngự khi các tập đoàn xung kích địch chuyển sang tiến công.
- Phương diện quân các đồng chí có 6 tập đoàn quân, thế có phải là ít không?
- Nhưng thật ra tuyến phòng ngự của bộ đội Phương diện quân miền Tây bị kéo ra rất dài; với nhiều khúc cong hiện nay nó đã dài đến hơn 600 km. Chúng tôi có rất ít lực lượng dự bị ở bên trong, nhất là ở giữa.
- Vấn đề tổ chức các đòn phản kích đã được quyết định rồi. Đồng chí cho chúng tôi kế hoạch thực hiện vào chiều hôm nay. - I.V. Xta-lin không hài lòng cắt đứt cuộc nói chuyện.
Chừng 15 phút sau, N.A. Bun-ga-nin đến chỗ tôi, và ngay từ cửa đã nói:
- Tôi vừa bị phê bình một trận gay gắt.
- Phê bình gì thế?
- Xta-lin nói với tôi: "Đồng chí và Giu-cốp ở đấy tự kiêu lắm. Nhưng chúng tôi sẽ tìm cách sửa chữa cho các đồng chí". Đồng chí yêu cầu tôi đến đây và cùng với anh tổ chức ngay các cuộc phản kích.
- Thôi, còn gì nữa, hãy ngồi xuống đây. Chúng ta sẽ gọi Va-xi-li Đa-ni-lô-vích Xô-cô-lốp-xki và báo trước cho các tư lệnh tập đoàn quân Rô-cô-xốp-xki và Da-khác-kin biết về việc đó.
Khoảng 2 tiếng đồng hồ sau, bộ tham mưu phương diện quân ra mệnh lệnh tổ chức phản kích cho các tư lệnh tập đoàn quân 16, 49 và chỉ huy các binh đoàn, rồi báo cáo mệnh lệnh đó lên Đại bản doanh. Tuy vậy, những đòn phản kích mà chủ yếu là do các đơn vị kỵ binh tiến hành, đã không đem lại kết quả tích cực như Tổng tư lệnh tối cao mong đợi. Quân giặc còn đầy đủ sức mạnh và tinh thần hăng say tiến công của chúng chưa nguội.
Để tiếp tục cuộc tiến công vào Mát-xcơ-va, bộ chỉ huy quân Đức đã điều những lực lượng mới đến, và đến ngày 15-11, chúng đã tập trung được ở phía trước Phương diện quân miền Tây 51 sư đoàn, trong đó có 31 sư đoàn bộ binh, 13 sư đoàn xe tăng và 7 sư đoàn cơ giới, tất cả được bổ sung đủ về quân số, xe tăng, pháo binh và phương tiện kỹ thuật.
Trên hướng Vô-lô-cô-lam-xcơ - Clin và I-xtơ-ra, quân địch tập trung hai cụm xe tăng 3 và 4, thành phần có 7 sư đoàn xe tăng, 3 sư đoàn cơ giới, 3 sư đoàn bộ binh được 2.000 khẩu pháo và một tập đoàn không quân mạnh chi viện.
Trên hướng Tu-la - Ca-si-ra, tập đoàn xung kích quân giặc gồm có: quân đoàn cơ giới 24 và 47, quân đoàn 53 và 43, tổng số tất cả có 9 sư đoàn (trong đó có 4 sư đoàn xe tăng) và trung đoàn cơ giới SS "Đại Đức" được một tập đoàn không quân mạnh chi viện.
Tập đoàn quân dã chiến 4 Đức trong biên chế có 6 quân đoàn đã triển khai trên các hướng: Dơ-vê-ni-gô-rốt, Cu-bin-ca, Na-rô Phô-min-xcơ, Pô-đôn-xcơ và Xéc-pu-khốp. Chính tập đoàn quân này đã nhận lệnh tiến công vào chính diện, kiềm chế các đơn vị phòng ngự của Phương diện quân miền Tây, làm cho các đơn vị của ta ở đó yếu đi rồi sau đó đột kích vào giữa mặt trận tiến về Mát-xcơ-va.
Như thế là ngày 15-11, bộ chỉ huy quân Đức đã bắt đầu giai đoạn hai của cuộc tiến công vào Mát-xcơ-va lấy mật danh là "Bão táp" bằng đòn đột kích vào tập đoàn quân 30 thuộc Phương diện quân Ca-li-nin. Tập đoàn quân 30 này có trận địa phòng ngự rất yếu ở phía nam hồ chứa nước Von-ga. Cùng lúc đó, quân địch cũng tiến công các đơn vị thuộc Phương diện quân miền Tây, đánh vào sườn phải tập đoàn quân 16 ở phía nam sông Sô-si. Mũi đột kích bổ trợ của địch đánh vào dải phòng ngự của tập đoàn quân 16 trong vùng Tê-ri-a-ê-vai-a Xlô-bô-đa.
Chống lại trên 300 xe tăng địch, tập đoàn quân 30 chỉ có 56 xe tăng loại nhẹ, được trang bị kém. Vì vậy, dải phòng ngự của tập đoàn quân đã nhanh chóng bị chọc thủng.
Từ sáng 16-11, quân địch bắt đầu phát triển tiến công mạnh vào Clin. Trong khu vực này chúng ta không có lực lượng dự bị, vì theo lệnh của Đại bản doanh, lực lượng đó đã được sử dụng để tổ chức mũi phản kích ở vùng Vô-lô-cô-lam-xcơ và hiện đang bị địch kiềm chế tại đấy.
Cũng trong ngày đó, quân phát-xít Đức đã tiến công mãnh liệt vào khu Vô-lô-cô-lam-xcơ. Trên hướng I-xtơ-ra có 2 sư đoàn xe tăng và 2 sư đoàn bộ binh Đức tiến công. Quân địch đã dùng 400 xe tăng hạng trung chống với 150 chiếc hạng nhẹ của chúng ta. Cuộc chiến đấu diễn ra rất ác liệt. Các sư đoàn bộ binh của ta chiến đấu rất ngoan cường, nhất là sư đoàn bộ binh 316 của tướng I.V. Păng-phi-lốp, sư đoàn 78 của tướng A.P. Bê-lô-bô-rô-đốp và sư đoàn của tướng P.N. Chéc-nư-sép, sư đoàn xe tăng cận vệ 1, các lữ đoàn xe tăng độc lập 23, 27, 28 và đoàn kỵ binh của thiếu tướng L.M. Đô-va-to.
Lúc 23 giờ ngày 17-11, tập đoàn quân 30 của Phương diện quân Ca-li-nin được lệnh của Đại bản doanh chuyển thuộc sang Phương diện quân miền Tây, vì vậy tuyến phòng ngự của phương diện quân lại mở rộng hơn nữa lên phía bắc (tới hồ chứa nước Von-ga) Đại bản doanh quyết định cử thiếu tướng Đ.Đ. Lê-liu-sen-cô làm tư lệnh tập đoàn quân 30 thay thiếu tướng V.A. Khô-men-cô bị huyền chức.
Những cuộc chiến đấu từ ngày 16 đến ngày 18 tháng 11 thật gay go khó khăn đối với chúng ta. Quân giặc không kể gì đến thiệt hại, đã vượt qua mọi trở ngại để tiến vào và cố gắng bằng mọi giá, lao các mũi nhọn xe tăng về phía Mát-xcơ-va. Nhưng do dải phòng ngự của ta có bố trí pháo binh và pháo chống tăng sâu thành nhiều tuyến, lại có sự hợp đồng chặt chẽ giữa các binh chủng, nên quân địch đã không chọc thủng được đội hình của quân ta. Tập đoàn quân 16 đã rút dần và hoàn toàn có trật tự về những tuyến phòng ngự đã chuẩn bị trước lại có pháo binh bố trí sẵn để tiếp tục cuộc chiến đấu kiên cường đánh lui những đợt tiến công điên cuồng của bọn Hít-le.
Lữ đoàn xe tăng cận vệ 1, được chuyển thuộc tập đoàn quân 16 đã tác chiến với một tinh thần dũng cảm vô song. Hồi tháng 10, lữ đoàn này (lúc đó là lữ đoàn xe tăng 4) chiến đấu anh dũng ở O-ri-ôn và Mơ-xen-xcơ, và đã được tặng danh hiệu cao quý lữ đoàn xe tăng cận vệ 1. Bây giờ đây, trong tháng 11 này, các đồng chí cán bộ và chiến sĩ xe tăng cận vệ bảo vệ cửa ngõ Mát-xcơ-va lại nêu cao hơn nữa truyền thống chiến đấu vẻ vang của mình, lập thêm những chiến công mới.
Hội đồng quốc phòng Nhà nước, một bộ phận cơ quan lãnh đạo của Ban chấp hành trung ương Đảng và của Hội đồng các Bộ ủy viên nhân dân tiếp tục làm việc ở Mát-xcơ-va như trước. Công nhân Mát-xcơ-va lao động từ 12 đến 18 giờ một ngày để bảo đảm vũ khí, binh khí kỹ thuật, đạn dược cho các đơn vị bảo vệ Mát-xcơ-va.
Nhưng Thủ đô vẫn chưa qua khỏi cơn nguy nan.
Một hôm - tôi không nhớ rõ ngày - vào khoảng ngay sau khi quân địch đã chọc thủng khu phòng ngự chiến thuật của tập đoàn quân 30 Phương diện quân Ca-li-nin và của cánh phải tập đoàn quân 16, I.V. Xta-lin gọi điện thoại cho tôi và hỏi:
- Đồng chí có tin là chúng ta sẽ giữ được Mát-xcơ-va không? Tôi rất đau lòng hỏi đồng chí vấn đề đó. Đồng chí hãy lấy danh dự một người cộng sản cho tôi biết ý kiến.
- Bất cứ trong điều kiện nào chúng tôi cũng sẽ giữ được Mát-xcơ-va. Nhưng cần thêm ít ra là hai tập đoàn quân và 200 xe tăng nữa.
- Tin như vậy là rất tốt, - I.V. Xta-lin nói, - đồng chí hãy gọi dây nói về Bộ Tổng tham mưu và thống nhất với các đồng chí trên đó về địa điểm cần tập trung hai tập đoàn quân dự bị mà đồng chí đề nghị bổ sung. Cuối tháng 11 sẽ có đủ hai tập đoàn quân ấy nhưng xe tăng thì hiện nay chưa có.
Nửa tiếng đồng hồ sau, chúng tôi đã thỏa thuận với A.M. Va-xi-lép-xki là tập đoàn quân xung kích 1 đang thành lập sẽ tập trung ở khu Ya-khơ-rô-ma, còn tập đoàn quân 10 ở khu Ri-a-dan.
Trên hướng chiến dịch Tu-la - Mát-xcơ-va quân địch chuyển sang tiến công vào ngày 18-11. Các sư đoàn xe tăng 3, 4, 17 của địch tiến công ở hướng Vê-nép, nơi phòng ngự của các sư đoàn bộ binh 413 và 299 thuộc tập đoàn quân 50 của ta. Sau khi đột phá phòng ngự của ta, các sư đoàn địch đã chiếm khu Bô-lô-khô-vô - Đê-đi-lô-vô. Chúng ta liền tung các sư đoàn bộ binh 239 và sư đoàn kỵ binh 41 ra để chống trả quân địch ở U-dơ-lô-vai-a. Quân ta đã nêu cao chủ nghĩa anh hùng tập thể, chiến đấu quyết liệt không phân biệt đêm ngày. Chiến đấu ngoan cường nhất là các đơn vị thuộc sư đoàn 413 bộ binh.
Ngày 21-11, U-dơ-lô-vai-a và Xta-li-nô-goóc-xcơ bị chủ lực của cụm xe tăng Gu-đê-ri-an chiếm. Trên hướng Mi-khai-lốp thì có quân đoàn cơ giới 47 của giặc đang tiến công. Tu-la đã ở trong hoàn cảnh rất phức tạp. Trong những điều kiện đó, Hội đồng quân sự phương diện quân đã hạ quyết tâm tăng cường cho đoạn phòng ngự Ca-si-ra sư đoàn xe tăng 112 do đại tá A.L. Ghét-man chỉ huy[3]; cho đoạn Ri-a-ran - một lữ đoàn xe tăng và một số đơn vị khác, cho đoạn Da-rai - một lữ đoàn xe tăng 9 và các tiểu đoàn xe tăng độc lập 35 và 127; cho đoạn Láp-tê-va - trung đoàn bộ binh 510 với một đại đội xe tăng.
Ngày 26-11, sư đoàn xe tăng 3 địch đã dồn được các đơn vị của chúng ta lại và cắt đứt đường sắt và đường cái Tu-la đi Mát-xcơ-va ở phía bắc Tu-la. Tuy nhiên, quân đoàn kỵ binh I của tướng P.A. Bê-lốp, sư đoàn xe tăng 112 và nhiều đơn vị khác của phương diện quân ở vùng Ca-si-ra đã không cho quân địch tiến sâu vào đoạn đó. Sư đoàn bộ binh 173 và trung đoàn súng cối cận vệ 15 được điều động bổ sung đến để chi viện cho các đơn vị đang chiến đấu tại đây. Ngày 27-11, quân đoàn kỵ binh của tướng P.A. Bê-lốp hiệp đồng với sư đoàn xe tăng 112, sư đoàn bộ binh 173 và các đơn vị khác, đã mở đòn phản kích vào các đơn vị của Gu-đê-ri-an và đẩy chúng lùi xuống phía nam được 10 đến 15 km về phía Moóc-đơ-vét.
Các trận chiến căng thẳng trong khu Ca-si-ra - Moóc-đơ-vét tiếp diễn đến tận 30-11. Quân giặc ở đây không sao thu được thắng lợi. Gu-đê-ri-an, tư lệnh tập đoàn quân xe tăng 2 Đức đã thấy không thể bẻ gãy được sự kháng cự kiên cường của Quân đội Xô-viết trong vùng Ca-si-ra và không thể tiến nổi về phía Mát-xcơ-va. Quân Đức buộc phải chuyển sang phòng ngự ở khu này. Các đơn vị Quân đội Xô-viết tác chiến ở đây đã đánh lùi tất cả các đòn tiến công của giặc, gây cho chúng những thiệt hại to lớn và không cho chúng tới Mát-xcơ-va.
Tình hình bên cánh phải phương diện quân trong khu vực I-xtơ-ra - Clin, Xô-nét-nô-goóc-xcơ tiến triển xấu hơn nhiều.
Ngày 23-11, các đơn vị xe tăng địch đột nhập vào Clin. Để tránh khỏi bị bao vây, trong đêm 23 rạng 24 tháng 11, đã cho các đơn vị thuộc tập đoàn quân 16 rút về tuyến phòng ngự ở phía sau. Tập đoàn quân này đã rút khỏi Clin sau những trận chiến đấu ác liệt. Clin bị mất, tạo nên một khoảng cách giữa tập đoàn quân 16 và 30 mà chỉ có một bộ phận lực lượng nhỏ của phương diện quân kiểm soát khoảng cách đó.
Ngày 25-11, tập đoàn quân 16 lại phải rút khỏi thành phố Xô-nét-nô-goóc-xcơ. Ở đây đã hình thành một nguy cơ lớn. Hội đồng quân sự phương diện quân liền bổ sung cho tập đoàn quân 16 trong khu Xô-nét-nô-goóc-xcơ tất cả lực lượng có thể lấy được từ các nơi khác của phương diện quân, trong đó có những nhóm chiến sĩ có vũ khí chống tăng, những tổ xe tăng độc lập, các đại đội pháo binh và tiểu đoàn cao xạ lấy của tướng M.X. Grô-ma-đin, tư lệnh phòng không Mát-xcơ-va, v..v... Dù thế nào cũng phải chặn được quân địch ở khu vực này cho đến khi sư đoàn bộ binh 7 từ Xéc-pu-khốp, 2 lữ đoàn xe tăng và 2 trung đoàn pháo chống tăng thuộc lực lượng dự bị của Bộ tổng tư lệnh kịp tới tiếp viện.
Tuyến phòng ngự của chúng ta đã móp lại thành hình cung, tạo nên nhiều chỗ rất yếu, tưởng chừng như sắp sửa rạn nứt không sao hàn gắn được. Nhưng không! Các chiến sĩ ta vẫn kiên cường giữ vững tinh thần, và sau khi được chi viện, đã xây dựng lại trận tuyến phòng ngự đủ sức giữ không cho quân địch vượt qua.
Chiều ngày 29-11, lợi dụng đoạn phòng ngự yếu ở chỗ cầu qua sông đào Mát-xcơ-va - Von-ga trong khu Ya-khơ-rô-ma, một đơn vị xe tăng địch đã đánh chiếm cầu và vượt sang bên này sông đào. Đến đây, chúng bị những đơn vị phái đi trước của tập đoàn quân xung kích 1 do trung tướng V.I. Cu-dơ-nét-xốp chỉ huy chặn lại, và sau một trận chiến đấu ác liệt, chúng lại bị đánh bật trở về bên kia sông.
Tình hình mặt trận diễn biến thật vô cùng phức tạp Vì vậy đôi lúc đã xảy ra những việc chỉ có thể lấy tính chất hết sức căng thẳng của tình hình lúc đó ra mà giải thích. Đây là một ví dụ:
Một hôm, không biết từ đâu, Tổng tư lệnh tối cao nhận được tin quân ta rút khỏi Đê-đốp-xcơ, một thành phố ở phía tây-bắc Na-kha-bin. Thành phố này rất gần Mát-xcơ-va.
Tất nhiên là I.V. Xta-lin rất lo lắng về tin đó. Mới ngày 28 và 29 tháng 11 vừa qua, sư đoàn bộ binh cận vệ 9 do thiếu tướng A.P Bê-lô-bô-rô-đốp chỉ huy đã đánh lui nhiều cuộc tiến công ác liệt của địch ở khu I-xtơ-ra. Thế mà chỉ qua một ngày đêm đã có tin, Đê-đốp-xcơ bị sa vào tay bọn Hít-le.
I.V Xta-lin gọi tôi, hỏi qua dây nói:
- Đồng chí có biết tin Đê-đốp-xcơ bị địch chiếm không?
- Thưa đồng chí Xta-lin, tôi không biết.
Tổng tư lệnh tối cao có vẻ nổi nóng, nói ngay: "Làm tư lệnh là phải biết những việc xảy ra ở mặt trận của mình" và lệnh cho tôi phải đến ngay tại chỗ để trực tiếp nghiên cứu, tổ chức phản công lấy lại Đê đốp-xcơ
Tôi có ý kiến nói lại rằng, trong tình hình gay go hiện nay có nên bỏ bộ tham mưu phương diện quân mà ra đi hay không.
- Không sao, chúng ta sẽ có cách khắc phục tình hình đó, sẽ giao cho Xô-cô-lốp-xki thay thế đồng chí trong thời gian này.
Đặt máy nói xuống, tôi liên lạc ngay với K.K. Rô-cô-xốp-xki[4] và yêu cầu giải thích tại sao bộ tham mưu phương diện quân không được thông báo về việc rút lui khỏi Đê-đốp-xcơ. Ngay lúc đó tôi được biết là thành phố Đê-đốp-xcơ chưa bị dịch chiếm, mà có lẽ làng Đê-đô-vơ đã bị chiếm. Trong khu Khơ-va-xcôi-ê - Đê-đô-vơ - Xne-ghi-ri và quá xuống phía nam, có sư đoàn bộ binh cận vệ 9 đang chiến đấu quyết liệt để ngăn không cho địch đột phá dọc theo đường cái Vô-lô-cô-lam-xcơ tiến vào Đê-đốp-xcơ, Na-kha-bin.
Đúng là có sự nhầm lẫn. Tôi quyết định gọi dây nói về Đại bản doanh báo cáo tất cả những sự nhầm lẫn ấy. Nhưng lần này cũng vậy, và như người ta nói "cái hái đã đụng vào đá". Tổng tư lệnh tối cao nổi nóng thực sự. Đồng chí yêu cầu tôi đến ngay chỗ K.K. Rô-cô-xốp xki để tìm cách chiếm bằng được cái thị trấn đang bị mắc nạn đó ra khỏi tay địch. Tổng tư lệnh tối cao lại còn ra lệnh lấy L.A. Gô-vô-rốp tư lệnh tập đoàn quân 5 đi theo. Tổng tư lệnh nói: "Gô-vô-rốp là một cán bộ pháo binh. Đồng chí ấy sẽ giúp K.K. Rô-cô-xốp-xki tổ chức pháo bắn yểm hộ cho tập đoàn quân 16".
Phản đối lại trong hoàn cảnh này là không nên. Lúc tôi triệu tập tướng L.A Gô-vô-rốp lại để giao nhiệm vụ thì đồng chí đã nêu ra đầy đủ các lý lẽ sau đây để chứng minh rằng đồng chí không cần đi: Tập đoàn quân 16 cũng có chủ nhiệm pháo binh là thiếu tướng pháo binh V.I. Ca-da-cốp và bản thân tư lệnh tập đoàn quân cũng biết những việc cần phải làm, việc gì phải bắt đồng chí đó[5] bỏ tập đoàn quân mình trong lúc nước sôi lửa bỏng thế này.
Để khỏi bàn cãi thêm nhiều, tôi phải nói với tướng Gô-vô-rốp rằng, đây là mệnh lệnh của I.V. Xta-lin.
Chúng tôi qua chỗ K.K. Rô-cô-xốp-xki và cùng nhau đi ngay đến sư đoàn của A.P. Bê-lô-bô-rô-đốp. Chắc đâu tư lệnh sư đoàn đã vui mừng về sự có mặt của chúng tôi ở sư đoàn. Trong lúc công việc nhiều đến tận cổ mà còn phải để thì giờ trình bày cho chúng tôi về việc địch chiếm mấy ngôi nhà nhỏ bé trong làng Đê-đô-vơ ở tận bờ khe bên kia.
A.P. Bê-lô-bô-rô-đốp báo cáo tình hình và nói như thuyết phục chúng tôi rằng, về ý nghĩa chiến thuật, không cần phải chiếm lại mấy ngôi nhà đó. Rất tiếc là tôi không thể nói với đồng chí đó rằng, trong trường hợp này tôi hành động không phải vì tuân theo yêu cầu của chiến thuật. Vì vậy, tôi đã lệnh cho A.P. Bê-lô-bô-rô-đốp cử ra 1 đại đội bộ binh cùng 2 xe tăng để đánh bật trung đội Đức đang bám mấy ngôi nhà đó. Khoảng sáng ngày 1-12, công việc đó được làm xong.
Nhưng chúng ta hãy quay trở lại cái sự kiện quan trọng hơn.
Ngày 1-12, quân Hít-le đã bất ngờ đột phá khoảng giữa mặt trận, chỗ tiếp giáp của hai tập đoàn quân 5 và 33 và tiến theo đường cái về Cu-bin-ca. Tuy nhiên, đến làng A-cu-lô-vô chúng bị sư đoàn bộ binh 32 chặn lại. Sư đoàn đã dùng pháo bắn tiêu diệt một bộ phận xe tăng địch. Nhiều xe tăng địch cũng bị tan xác trong các bãi mìn.
Lúc này các đơn vị xe tăng địch bị thiệt hại nặng đã phải quay về Gô-lít-sư-nô và cuối cùng bị các đội dự bị của phương diện quân và các đơn vị của tập đoàn quân 5 và 33 tiếp cận đến tiêu diệt gọn
Ngày 4-12, chúng ta hoàn toàn bẻ gãy mũi đột phá của quân địch. Chúng phải bỏ lại trên chiến trường hơn 1 vạn xác chết, 50 chiếc xe tăng tan tành và nhiều phương tiện kỹ thuật khác.
Trong những ngày đầu tháng 12, trên tính chất những hành động và mức độ các trận đánh của tất cả các binh đoàn của chúng, địch đã tỏ ra thấm mệt và không còn đủ lực lượng và phương tiện tiếp tục tiến công.
Trong quá trình diễn biến của chiến dịch tiến công Mát-xcơ-va, quân địch đã triển khai các lực lượng xung kích trên một chính diện rộng và tung các quả đấm bằng xe tăng đi khá xa, kết quả là chúng đã dàn các đơn vị của chúng trên một tuyến dài đến nỗi trong các trận đánh cuối cùng ở cửa ngõ Mát-xcơ-va, chúng không còn đủ sức chọc thủng mặt trận của ta nữa. Bọn chỉ huy quân đội Hít-le đã không ngờ nổi những thiệt hại to lớn như vậy trong khi tiến đánh Mát-xcơ-va, chúng không thể bù đắp những thiệt hại đó, không thể tăng cường cho các đơn vị của chúng ở gần Mát-xcơ-va.
Qua các lời khai của tù binh, chúng ta được biết rằng trong một số đại đội, quân số của chúng chỉ còn từ 20 - 30 tên, tinh thần chúng đã sa sút hẳn, chúng không còn tin sẽ chiếm được Mát-xcơ-va.
Quân ta thuộc Phương diện quân miền Tây cũng bị mất mát, mệt mỏi nhưng đã giữ không để một đoạn mặt trận nào bị chọc thủng. Có lực lượng dự bị đến tăng cường, được Đảng động viên, cán bộ và chiến sĩ ta đã nhân sức mạnh lên gấp mười lần để chiến đấu với địch ở cửa ngõ Mát-xcơ-va.
Trong 20 ngày giai đoạn 2 cuộc tiến công vào Mát-xcơ-va, quân Đức đã chết và bị thương đến trên 15,5 vạn tên, bị diệt và phá hủy gần 800 xe tăng, trên 300 khẩu pháo và khoảng 1.800 máy bay. Những thiệt hại nặng nề, khả năng không thực hiện nổi các nhiệm vụ chiến lược đã gieo rắc trong binh lính Đức sự nghi ngờ về kết cục thắng lợi của chiến tranh nói chung. Giới lãnh đạo quân sự và chính trị phát-xít đã mất uy tín trước con mắt của nhân dân thế giới.
Ngày nay bọn tướng lĩnh và thống chế cũ của Hít-le đổ lỗi cho chính Hít-le đã làm cho kế hoạch đánh chiếm Mát-xcơ-va nói riêng và kế hoạch chiến tranh nói chung bị phá sản. Họ buộc tội Hít-le đã không nghe lời họ , mà đã cho cụm tập đoàn quân "Trung tâm" ngừng tiến vào Mát-xcơ-va trong tháng 8 để chuyển một phần lực lượng xuống, tiến đánh U-crai-na.
Ví dụ, Ph. Mê-len-tin viết: "Đòn tiến công vào Mát-xcơ-va được Gu-đê-ri-an ủng hộ (hồi tháng 8 có lúc chúng tôi không đồng ý vì chúng tôi muốn đánh chiếm U-crai-na trước) có thể đem lại thắng lợi có ý nghĩa quyết định, nếu chúng ta coi đó là đòn tiến công chính, đòn quyết định sự phát triển của cả cuộc chiến tranh. Bị đòn đó[6], nước Nga coi như là bị
đánh trúng tim"[7].
Tướt g Gu-đê-ri-an, tướng G. Gốt và những người khác cho rằng nguyên nhân chính cuộc thất bại của chúng ở Mát-xcơ-va, bên cạnh sai lầm của Hít-le, là khí hậu khắc nghiệt của nước Nga.
Tất nhiên thời tiết và thiên nhiên giữ một vai trò của nó đối với mọi hành động quân sự. Nhưng thật ra những nhân tố đó tác động đến cả hai bên tham chiến. Đúng là, để chống chọi với cái rét ác nghiệt ở Nga, bọn lính Đức đã phải mặc những đồ ăn cướp được của nhân dân và đi trong những đôi giày cao cổ kỳ quái làm lấy bằng rơm. Áo khoác ấm, giày ấm, áo trấn thủ, quần áo lót ấm - mọi thứ đó cũng là vũ khí. Đất nước chúng ta đã cung cấp quần áo và sưởi ấm cho các chiến sĩ. Còn các nhà lãnh đạo nước Đức Hít-le, mưu toan "dễ dàng" chiếm nước Nga, chỉ tính thời gian tác chiến từng tuần, từng tháng. Phải nói: đây là những tính toán sai lầm về chính trị và chiến lược của bọn phát-xít đầu sỏ.
Những tướng lĩnh và nhà viết sử tư sản khác lại đổ lỗi tất cả cho bùn lầy và đường xấu. Nhưng chính mắt tôi đã trông thấy trong bùn lầy và trên các con đường xấu đó hàng ngàn, hàng ngàn người Mát-xcơ-va, nói chung chưa quen làm đất, đá đã rời những gian nhà đầy đủ tiện nghi ở thành phố đi đào các hố chống tăng, hào giao thông, đắp những ụ đất làm các vật chặn đường, hàng rào dây thép gai, khuân vác những bao cát. Bùn đất bám vào chân họ, vào bánh các xe chở đất, bùn đất đã làm cho các lưỡi xẻng thêm nặng, mà ngay khi không có bùn đất bám, xẻng đó đã không phù hợp với bàn tay phụ nữ.
Đối với những kẻ muốn lấy thời tiết xấu để che lấp nguyên nhân thực sự của các thất bại ở Mát-xcơ-va, cần nói thêm rằng, tháng 10-1941, đường sá chỉ lầy lội trong một thời gian tương đối ngắn. Đầu tháng 11 bắt đầu rét, tuyết rơi thì đất đai và đường sá đều dễ đi rồi.
Trong cuộc "tổng tiến công" tháng 11 của quân Đức, ôn độ ở các khu có chiến sự trên hướng Mát-xcơ-va vào khoảng -7 đến -100 và trong thời tiết ấy, mọi người đều biết rằng, không thể có lầy lội.
Không phải! Mưa và tuyết không thể chặn được bước tiến của quân địch ở Mát-xcơ-va. Chính là đạo quân hơn 1 triệu tên lính phát-xít tinh nhuệ đã vấp phải tinh thần vững như thép, lòng dũng cảm và khí phách anh hùng của các chiến sĩ Xô-viết có sự hậu thuẫn của nhân dân, của Thủ đô và Tổ quốc.
Chúng ta có thể nói rằng nếu bọn Đức không tạm thời bỏ cuộc tiến công vào Mát-xcơ-va và chuyển bộ phận lực lượng xuống U-crai-na thì tình hình của đạo quân "Trung tâm" còn tồi tệ nhiều hơn nữa. Vì rằng, nếu chúng tiến công vào Mát-xcơ-va thì các lực lượng dự bị của Bộ tổng tư lệnh dùng vào việc hàn gắn những cửa mở ở hướng tây-nam trong tháng 9 và sau này rút về phòng ngự ở cửa ngõ gần Mát-xcơ-va trong tháng 11, có thể được sử dụng để đột kích vào sườn và phía sau cụm tập đoàn quân "Trung tâm".
Điên dại trước sự thất bại của cuộc tiến công vào Mát-xcơ-va, trước sự phá sản của kế hoạch chiến tranh "chớp nhoáng", Hít-le đi tìm người để hành hạ. Hắn phế truất tướng Brau-khích khỏi chức vụ tổng tư lệnh lục quân, cách chức Phôn Bốc, tư lệnh cụm tập đoàn quân "Trung tâm", tướng Gu-đê-ri-an, tư lệnh tập đoàn quân xe tăng 2 và hàng chục tướng khác mà hắn gắn cho huân chương chữ thập ngoặc mới có một tháng rưỡi - hai tháng trước đây. Hít-le tuyên bố tự thân làm tổng tư lệnh lục quân với hy vọng đó là phép thánh có thể tác động đến bộ đội của hắn.
Người ta đã hỏi tôi nhiều lần: làm thế nào mà Quân đội Xô-viết có thể tiêu diệt được đạo quân phát-xít Đức mạnh nhất ở gần Mát-xcơ-va? Làm thế nào mà trong thời tiết mùa đông ác nghiệt lại có thể đánh bật được tàn quân của chúng về phía tây? Trận tiêu diệt bọn Đức ở gần Mát-xcơ-va đã được viết nhiều và theo tôi, về cơ bản là viết đúng. Tuy vậy, với tư cách nguyên tư lệnh Phương diện quân miền Tây, tôi cũng muốn phát biểu ý kiến của mình về vấn đề đó.
Như mọi người đều biết, khi mở ở hướng Mát-xcơ-va chiến dịch lấy mật danh là "Bão táp", bộ chỉ huy phát-xít Đức định tiêu diệt các đơn vị Quân đội Xô-viết trên hướng Vi-a-dơ-ma - Mát-xcơ-va và Bri-an-xcơ - Mát-xcơ-va và sau đó đánh vu hồi từ phía bắc và nam để trong một thời gian ngắn có thể chiếm được Mát-xcơ-va. Để đạt mục đích chiến lược đó, địch chủ trương dùng hai đòn vu hồi liên tiếp. Trước hết chúng định bao vây và tiêu diệt Quân đội Xô-viết trong khu Bri-an-xcơ và Vi-a-dơ-ma; sau đó trong đợt hai, chúng định bao vây và chiếm Mát-xcơ-va bằng 2 mũi vu hồi sâu của các đơn vị xe tăng, một từ phía tây-bắc qua Clin, một từ phía nam qua Tu-la, Ca-si-ra để khép những gọng kìm hợp vây chiến lược trong khu Nô-ghin-xcơ.
Tuy vậy, bộ chỉ huy tối cao quân Hít-le, trong khi đặt kế hoạch cho một chiến dịch có ý nghĩa chiến lược phức tạp với quy mô to lớn như chiến dịch "Bão táp", đã phạm sai lầm rất nặng trong việc tính toán lực lượng và phương tiện. Chúng đánh giá quá thấp khả năng của Hồng quân và đánh giá quá cao quân đội của chúng.
Những lực lượng mà bộ chỉ huy phát-xít Đức tập trung được chỉ đủ sức chọc thủng phòng ngự trong các khu Vi-a-dơ-ma và Bri-an-xcơ và uy hiếp các đơn vị quân ta ở các Phương diện quân miền Tây và Ca-li-nin trên tuyến Ca-li-nin - Ya-khơ-rô-ma - Cra-xnai-a - Pô-li-a-na - Criu-cô-vô - sông Na-ra và sông Ô-ca - Tu-la - Ca-si-ra - Mi-khai-lốp mà thôi. Cũng cần nói lại lần nữa rằng, cuộc chiến đấu anh dũng của các đơn vị Xô-viết phòng ngự và bị vây hãm ở khu phía tây Vi-a-dơ-ma đã gây cho địch những trở ngại lớn, góp phần làm cho chúng khôn~thể thực hiện được mục tiêu chiến lược chủ yếu là đánh chiếm Mát-xcơ-va.
Kết quả là sau khi đã đạt được mục tiêu trước mắt vào đầu tháng 10, quân địch không thực hiện được đợt 2 của chiến dịch.
Trong việc hình thành các tập đoàn xung kích cho đợt 2 của chiến dịch "Bão táp", quân địch cũng đã tính toán rất sai. Những đơn vị địch ở hai bên sườn, đặc biệt là các đơn vị tác chiến ở khu Tu-la đều yếu và thiếu các binh đoàn binh chủng hợp thành. Chỉ dựa vào các binh đoàn thiết giáp, trong trường hợp này là không đúng. Chúng đã bị thiệt hại nặng và mất sức mạnh đột phá. Bộ chỉ huy Đức cũng không biết đồng thời đánh vào giữa mặt trận, tuy rằng ở đây chúng có đủ lực lượng. Vì vậy, chúng ta có thể tự do điều động lực lượng dự bị - kể cả lực lượng dự bị của các sư đoàn - từ phía giữa, khu ít tác chiến, đến hai bên sườn để đánh vào những tập đoàn xung kích của địch.
Một vài tác giả sách lịch sử quân sự đã xác nhận rằng, các trận đánh của Phương diện quân miền Tây, Dự bị và Bri-an-xcơ trong tháng 10 không nằm trong chiến dịch lịch sử Mát-xcơ-va, rằng hình như lúc đầu bọn địch đã bị hoàn toàn chặn đứng ở tuyến phòng ngự Mô-gia-ích và sau đó bộ chỉ huy quân Hít-le buộc phải chuẩn bị một "chiến dịch tổng tiến công" mới.
Tất cả những điều nói trên đây về sự phá sản của chiến dịch "Bão táp" đã đánh đổ những điều xác nhận ấy. Cũng không thể dựa vào việc bổ sung các đơn vị và phương diện vật chất của địch trong tháng 11, vào sự phân bố lại một vài binh đoàn xe tăng bên cánh trái mà nói rằng địch chuẩn bị một chiến dịch mới. Vì đó là những biện pháp thường làm trong các chiến dịch tiến công có tính chất chiến lược chứ không phải là những yếu tố để quy định việc mở đầu và chấm dứt một chiến dịch loại như thế.
Đầu tháng 11, chúng ta đã kịp thời phát hiện việc địch tập trung các lực lượng xung kích ở hai bên sườn tuyến phòng ngự của ta. Do đó chúng ta đã xác định đúng hướng đột kích chủ yếu của chúng. Để chống lại quả đấm xung kích của địch trên các hướng đó, chúng ta đã xây dựng phòng ngự sâu thành nhiều tuyến, có đủ phương tiện chống tăng và phương tiện công binh. Tất cả những đơn vị xe tăng chủ yếu của ta đều được tập trung tại những hướng bị uy hiếp nhất này.
Những ngày đầu tháng 12, quân đội phát-xít Đức lại bị đánh đau. Mạch giao thông vận tải của giặc kéo dài trên 1.000 km luôn luôn bị các đội du kích đánh phá và bằng những hành động anh hùng của mình, các đội du kích đã làm gián đoạn việc cung cấp cho quân đội địch và mọi hoạt động của cơ quan hậu cần của chúng. Những thiệt hại to lớn, tình trạng chiến tranh bị kéo dài, sự chống trả quyết liệt của các chiến sĩ Xô-viết - tất cả những cái đó đã ảnh hưởng rõ rệt đến khả năng chiến đấu của các đơn vị quân đội phát-xít Đức, gieo rắc tình trạng rối ren, hoài nghi thắng lợi trong hàng ngũ chúng.
Quân đội Xô-viết qua các trận chiến đấu gần Mát-xcơ-va cũng bị thiệt hại nhiều, nhưng được Tổ quốc thường xuyên chi viện, bộ đội vẫn giữ được khả năng chiến đấu và tin tưởng vững chắc vào thắng lợi đến tận lúc kết thúc các trận đánh phòng ngự.
Nhân dân Xô-viết và lực lượng vũ trang của mình đã trải qua thời kỳ gian khổ khó khăn nhất, nhưng đồng thời lại được hưởng niềm vui sướng của những chiến thắng đầu tiên. Hồng quân đã đập tan kế hoạch của Hít-le định chiếm Lê-nin-grát và kế hoạch liên kết hành động của quân đội phát-xít Đức với lực lượng vũ trang Phần Lan. Chuyển sang phản công ở khu Ti-khơ-vin, Hồng quân đã tiêu diệt quân địch và chiếm thành phố. Bộ đội của Phương diện quân Nam trong thời gian đó cũng chuyển sang phản công và chiếm Rô-xtốp trên sông Đông.
Quân ta phấn khởi trước những thắng lợi đạt được trong các trận phòng ngự ở Mát-xcơ-va, không một phút dừng lại, lập tức chuyển sang phản công. Cuộc phản công được chuẩn bị trong quá trình các trận đánh phòng ngự và phương pháp tiến hành đã được xác định lần cuối khi bộ đội Hít-le có nhiều dấu hiệu không thể chịu đựng nổi đòn phản kích của ta. Đó là một sự kiện vĩ đại và vui mừng, nó cổ vũ không những toàn thể nhân dân Xô-viết mà cả loài người tiến bộ .
Lợi dụng những điều kiện thuận lợi ở khu Mát-xcơ-va, Đại bản doanh đã hạ lệnh cho các đơn vị của Phương diện quân ở Ca-li-nin và cánh phải của Phương diện quân Tây-nam chuyển sang phản công cùng một lúc với Phương diện quân miền Tây. Cuối tháng 11, đầu tháng 12, Bộ tổng tư lệnh tối cao thực hiện đúng lời đề nghị của Hội đồng quân sự Phương diện quân miền Tây, đã tập trung tập đoàn quân xung kích 1 ở Tây-bắc Mát-xcơ-va và phía đông sông đào Mát-xcơ-va - Von-ga. Cùng thời gian đó tập đoàn quân 10 cũng được tập trung ở vùng Ri-a-dan.
Ngày 29-11, tôi gọi dây nói về Tổng tư lệnh tối cao và sau khi báo cáo tình hình, tôi đề nghị Tổng tư lệnh cho lệnh chuyển thuộc tập đoàn quân 1 và 10 cho Phương diện quân miền Tây để mở những trận đánh mạnh hơn nữa, hất chúng lùi cách Mát-xcơ-va xa hơn nữa.
I.V. Xta-lin chú ý nghe và sau đó hỏi:
- Đồng chí tin là quân địch đã đến lúc hiểm nghèo và chúng không còn khả năng tổ chức ra một tập đoàn chiến đấu lớn mới nữa à?
- Quân địch đã kiệt sức, nhưng bộ đội thuộc phương diện quân cũng sẽ không thể thanh toán được những mũi thọc sâu của quân địch nếu không được tăng cường tập đoàn quân xung kích 1 và tập đoàn quân 10. Nếu bây giờ chúng ta không tiêu diệt chúng, quân địch sau này có thể dùng những lực lượng dự bị lớn lấy trong các đạo quân của chúng ở phía bắc và phía nam đến chi viện cho các đơn vị trong khu Mát-xcơ-va và lúc đó tình hình có thể trở nên rất phức tạp.
I.V. Xta-lin nói là đồng chí sẽ hội ý với Bộ Tổng tham mưu.
Tôi đề nghị tham mưu trưởng phương diện quân V.Đ. Xô-cô-lốp-xki (là người cũng đồng ý đưa 2 tập đoàn quân xung kích 1 và 10 vào chiến đấu) liên lạc với Bộ Tổng tham mưu để trình bày lợi ích của việc chuyển giao nhanh chóng các tập đoàn quân dự bị nói trên cho Phương diện quân. Đêm khuya ngày 29-11, chúng tôi được thông báo quyết định của Đại bản doanh về việc chuyển giao tập đoàn xung kích 1, tập đoàn quân 10 và tất cả các binh đoàn thuộc tập đoàn quân 20 cho Phương diện quân miền Tây. Đồng thời Đại bản doanh yêu cầu gửi báo cáo về kế hoạch sử dụng các tập đoàn quân đó.
Sáng ngày 30-11, chúng tôi báo cáo về Đại bản doanh dự án mà cơ bản như sau:
Tập đoàn quân xung kích 1 dưới sự chỉ huy của trung tướng V.I. Cu-dơ-nét-xốp triển khai tất cả lực lượng của mình trong khu Đơ-mi-tơ-rốp - Ya-khơ-rô-ma có nhiệm vụ phối hợp với các tập đoàn quân 30 và 20 tiến công quân địch ở phía Clin và sau đó theo hướng chung, tiến về Tê-ri-a-ê-va Xlô-bô-đa;
Tập đoàn quân 20 từ Cra-xnai-a Pô-li-a-na - Be-lưi Ra-xtơ, hợp đồng với tập đoàn quân xung kích 1 và tập đoàn quân 16, tổ chức đột kích theo hướng chung tới Xô-nét-nô- goóc-xcơ, từ phía nam đánh vu hồi vào thành phố và tiếp sau tiến về Vô-lô-cô-lam-xcơ; ngoài ra, tập đoàn quân 16 có nhiệm vụ dùng các đơn vị ở cánh phải tiến công vào Criu-cô-vô; tiếp sau sẽ do tình hình cụ thể mà quyết định;
Tập đoàn quân 10, hợp đồng với bộ đội của tập đoàn quân 50, sẽ đánh quân địch ở hướng Xta-li-nô-goóc-xcơ - Bô-gô-rô-đít-xcơ và sau đó tiếp tục tiến công ở phía nam sông U-pa.
Nhiệm vụ phản công trước mắt ở hai bên sườn của Phương diện quân miền Tây là tiêu diệt các lực lượng xung kích địch thuộc cụm tập đoàn quân "Trung tân" và thủ tiêu mối uy hiếp trực tiếp đối với Mát-xcơ-va. Lúc đó chúng ta chưa có đủ lực lượng để đề ra cho bộ đội của phương diện quân những mục tiêu xa hơn và có ý nghĩa quyết định hơn. Chúng ta chỉ mới có ý định đẩy lùi quân địch khỏi Mát-xcơ-va càng xa càng tốt và gây cho địch những thiệt hại lớn nhất.
Tuy được tăng cường thêm 3 tập đoàn quân nhưng Phương diện quân miền Tây vẫn chưa có ưu thế về số lượng so với quân địch (trừ lực lượng không quân). Quân giặc vẫn hơn ta về số lượng xe tăng và pháo binh. Đó là đặc điểm cơ bản của cuộc phản công của quân ta ở gần Mát-xcơ-va.
Trong giai đoạn đầu của cuộc phản công, các tập đoàn quân 5, 33 và 49 ở khu giữa của phương diện quân có nhiệm vụ hoạt động tích cực kiềm chế quân địch và chuẩn bị chuyển sang phản công cùng với cả phương diện quân.
Tối khuya ngày 4-12, Tổng tư lệnh tối cao gọi dây nói hỏi tôi:
- Phương diện quân cần được giúp đỡ gì thêm, ngoài những điều đã làm?
Tôi trả lời cần có sự chi viện của lực lượng không quân dự bị của Bộ tổng tư lệnh và của bộ đội phòng không Nhà nước và, ngoài ra, cần chừng 200 xe tăng và các đội lái kèm theo. Phương diện quân không đủ xe tăng và nếu không có xe tăng thì cuộc phản công không thể phát triển nhanh được.
- Không có xe tăng nên không thể tăng cường cho các đồng chí được, - I.V. Xta-lin nói. - Không quân thì sẽ có. Đồng chí hãy thỏa thuận với Bộ Tổng tham mưu. Tôi sẽ gọi dây nói đến đó ngay bây giờ. Đồng chí nhớ là Phương diện quân Ca-li-nin sẽ chuyển sang tiến công ngày 5-12. Và ngày 6-12, cụm chiến dịch ở cánh phải Phương diện quân Tây-nam ở khu En-xa cũng sẽ chuyển sang tiến công.
Lớp tuyết dày mới rơi gần đây đã gây khó khăn không nhỏ cho việc tập trung chấn chỉnh đội hình và việc chuyển các đơn vị vào khu vực xuất phát của chiến dịch. Sau khi khắc phục những khó khăn đó, đến sáng ngày 6-12, tất cả các binh chủng đã sẵn sàng bước vào giai đoạn mới của cuộc chiến đấu bảo vệ Mát-xcơ-va.
Và ngày 6-12-1941 đã đến. Các đơn vị Phương diện quân miền Tây ở phía bắc và nam Thủ đô bắt đầu phản công. Trong khu Ca-li-nin và En-xa, các phương diện quân bạn cũng tiến lên. Cuộc chiến đấu lớn đã triển khai xong.
Ngay trong ngày tiến công đầu tiên, các đơn vị thuộc Phương diện quân Ca-li-nin đã thọc sâu vào tiền duyên phòng ngự của địch, nhưng chưa thể đánh quỵ chúng. Phải sau 10 ngày chiến đấu kiên trì quân ta ở đây mới tiến lên được, sau khi cánh phải của Phương diện quân miền Tây đã tiêu diệt được các đơn vị quân Đức ở khu Rô-ga-chê-vô - Xô-nét-nô-goóc-xcơ và tiến vòng qua Clin.
Ngày 13-12, tập đoàn quân xung kích 1 và một phần lực lượng của tập đoàn quân 30 thuộc Phương diện quân miền Tây tiến tới Clin. Bao vây thành phố từ khắp các mặt, các đơn vị Quân đội Xô-viết đã đột nhập vào và sau những trận chiến đấu ác liệt trong đêm 14 rạng 15 tháng 12, đã quét sạch quân địch khỏi Clin.
Cuộc tiến công của các tập đoàn quân 20 và 16 cũng phát triển có kết quả. Đến hết ngày 9-12, sau khi khắc phục được sự kháng cự quyết liệt của quân địch, tập đoàn quân 20 dã tới Xô-nét-nô-goóc-xcơ và ngày 11-12, đã đuổi quân địch khỏi thành phố.
Tập đoàn quân 16, sau khi giải phóng Criu-cô-vô vào ngày 8-12, đã phát triển tiến công đến hồ chứa nước I-xtơ-ra.
Các đơn vị cánh phải của tập đoàn quân 5 do tướng L.A. Gô-vô-rốp chỉ huy cũng tiến quân thắng lợi về phía trước. Bước tiến của tập đoàn quân 5 hỗ trợ rất nhiều cho tập đoàn quân 16 tiến công thắng lợi.
Một tổn thất lớn đã đến với chúng tôi trong ngày 19-12: thiếu tướng L.M. Đô-va-to chỉ huy quân đoàn kỵ binh cận vệ 2 và trung tá M.P. Ta-vơ-li-ép chỉ huy sư đoàn kỵ binh 20 đã hy sinh ở làng Pa-la-ski-nô (phía tây-bắc Ru-da 12 km). Theo đề nghị của Hội đồng quân sự phương diện quân, Đoàn chủ tịch xô-viết tối cao Liên xô đã truy tặng L.M. Đô-va-to danh hiệu Anh hùng Liên xô.
Cuộc phản công ở cánh phải Phương diện quân miền Tây tiếp tục không ngừng, được sự chi viện đắc lực của lực lượng không quân phương diện quân, lực lượng.phòng không Nhà nước và không quân hoạt động tầm xa. Lực lượng không quân đó do tướng A.E. Gô-lô-va-nốp chỉ huy. Không quân đã đánh rất mạnh vào các trận địa pháo, các đơn vị xe tăng, các sở chỉ huy địch và khi quân Hít-le rút lui, đã ném bom và bắn phá vào các đơn vị bộ binh, các đoàn xe tăng và ô-tô vận tải của chúng. Kết quả là các con đường đi về phía tây sau khi địch rút chạy, đã bị những phương tiện kỹ thuật và xe cơ giới địch nằm la liệt chắn ngang ở nhiều chỗ.
Bộ tư lệnh phương diện quân đã phái các đơn vị trượt tuyết, kỵ binh và đổ bộ đường không vào sau lưng địch để đánh bọn giặc đang rút chạy. Quân du kích phối hợp hành động với Hội đồng quân sự các phương diện quân đã mở rộng chiến tranh du kích đánh địch. Các hoạt động du kích này đã làm cho tình hình thêm phức tạp đối với bộ tư lệnh Đức.
Bên cánh trái của phương diện quân, ngày 3-12, các đơn vị của tập đoàn quân 50 và quân đoàn kỵ binh của tướng P.A. Bê-lốp bắt đầu mở trận đánh tiêu diệt tập đoàn quân xe tăng của Gu-đê-ri-an trong khu Tu-la. Các sư đoàn xe tăng 3, 17, sư đoàn cơ giới 29 của Gu-đê-ri-an đã phải bỏ lại 70 xác xe tăng trên chiến trường và vội vã rút chạy về Vê-nép.
Ngày 6-12, tập đoàn quân 10 cũng bước vào chiến đấu ở khu vực Mi-khai-lốp, nơi quân địch mưu toan chốt lại để phòng ngự nhằm che chở cạnh sườn của tập đoàn quân xe tăng 2 đang rút lui. Ngày 8-12, từ khu vực Tu-la các đơn vị còn lại của tập đoàn quân 50 cũng chuyển sang tấn công, uy hiếp cắt đường rút lui của quân địch ra khỏi Vê-nép và Mi-khai-lốp.
Lực lượng không quân của phương diện quân và Đại bản doanh liên tục chi viện cho cuộc tấn công của quân đoàn kỵ binh của tướng P.A. Bê-lốp và những trận đánh của tập đoàn quân 50 và 10.
Tập đoàn quân Gu-đê-ri-an bị đánh thọc sâu ở bên sườn. Không còn đủ lực lượng đối phó với các đòn phản công của Phương diện quân miền Tây, của cụm chiến dịch thuộc phương diện quân tây-nam, chúng bắt đầu vội vã rút lui về hướng chung tới U-dơ-lô-vai-a, Bô-gô-rô-đít-xcơ và xa hơn nữa tới Xu-khi-ni-chi, bỏ lại cả súng hạng nặng, xe ô-tô, xe kéo và tăng.
Trong 10 ngày chiến đấu, các đơn vị cánh trái của Phương diện quân miền Tây đã đánh cho tập đoàn quân xe tăng 2 của Gu-đê-ri-an bị thất bại nặng, và đã tiến được 130 km.
Bên trái Phương diện quân miền Tây, các binh đoàn của Phương diện quân Bri-an-xcơ mới thành lập lại cũng tiến quân thắng lợi.
Giai đoạn I cuộc phản công của bộ đội Xô-viết gần Mát-xcơ-va đến đây kết thúc; bộ đội ta đã tiến đến tuyến O-re-ski - Xta-rít-xa - sông La-ma và sông Ru-da - Ma-lô-ya-rô-xla-vét - Ti-khô-nô-va Pu-xtư-nhơ - Ca-lu-ga - Mô-xan-xcơ - Xu-khi-ni-chi - Bê-lép - Mơ-xen-xcơ - Nô-vô-xin. Cuối cùng chúng ta đã thủ tiêu được mối uy hiếp đối với Tu-la. Trong cuộc phản công này, sư đoàn xe tăng của A.L. Ghét-man, quân đoàn kỵ binh của P.A. Bê-lốp và cụm chiến dịch của tập đoàn quân 50 do thiếu tướng V.X. Pô-pốp chỉ huy đã giữ vai trò chính.
Các tập đoàn quân của Hít-le bị mất sức, tiêu hao trong các trận chiến đấu. Bị thiệt hại nặng và bị quân ta uy hiếp, chúng phải rút lui về phía tây. Đối với mặt trận hướng tây (gồm các Phương diện quân miền Tây, Ca-li-nin và Bri-an-xcơ) theo chúng tôi thì, sau khi được tăng cường những lực lượng và phương tiện cần thiết, giai đoạn tiếp sau của cuộc phản công phải được tiếp tục cho tới lúc đạt được kết quả triệt để, có nghía là khôi phục được hình thái của các phương diện quân trước khi quân phát-xít Đức mở chiến dịch tấn công lấy tên là "Bão táp".
Nếu như lúc đó Đại bản doanh Bộ tổng tư lệnh tối cao có thể tăng cường thêm cho 4 tập đoàn quân nữa (cho phương diện quân Ca-li-nin và Bri-an-xcơ mỗi nơi một tập đoàn quân và cho Phương diện quân miền Tây hai tập đoàn quân) thì chúng tôi có khả năng hiện thực làm cho quân địch bị thêm những thất bại mới khác, hất chúng ra khỏi Mát-xcơ-va xa hơn nữa và quân ta có thể tiến tới tuyến Vi-tép-xcơ - Xmô-len-xcơ - Bri-an-xcơ.
Trong tất cả các trường hợp, giữa các ủy viên Hội đồng quân sự và trong bộ tham mưu phương diện quân không hề có ý kiến khác nhau về sự cần thiết phải sử dụng tất cả số lượng hiện có ở hướng chiến lược phía tây để gây cho địch những thiệt hại lớn nhất.
Thắng lợi của cuộc phản công tháng 12 ở hướng chiến lược phía giữa có ý nghĩa rất lớn. Các tập đoàn đột kích của cụm tập đoàn quân "Trung tâm" quân Đức bị thiệt hại nặng nề đã phải rút lui. Nhưng nói chung, quân giặc ở hướng tây và cả các hướng khác vẫn còn mạnh. Ở vùng giữa của mặt trận, quân địch đã chống cự lại mãnh liệt, vì vậy các cuộc tấn công lúc đầu có kết quả của chúng ta ở gần Rô-xtốp và Ti-khơ-vin đã bị kéo dài mà không đạt được kết quả thỏa đáng.
Tuy vậy, Tổng tư lệnh tối cao, trước thắng lợi của trận tiêu diệt quân phát-xít Đức ở gần Mát-xcơ-va và các thắng lợi khác đạt được trong quá trình phản công, đã tỏ ra lạc quan. Tổng tư lệnh tối cao cho rằng, ở các mặt trận khác bọn Đức cũng sẽ không chịu nổi các đòn tấn công của Hồng quân. Từ đó xuất hiện ý định bắt đầu cuộc tổng tiến công trên toàn bộ các mặt trận từ hồ La-đô-ga đến Biển Đen càng nhanh càng tốt.
Là một ủy viên của Đại bản doanh, tôi được triệu tập về Bộ vào chiều ngày 5-1 để thảo luận về dự án kế hoạch tổng tiến công của Hồng quân. Sau khi B.M. Sa-pô-sni-cốp thông báo tóm tắt về tinh hình các mặt trận và báo cáo dự án kế hoạch, I.V. Xta-lin nói:
- Quân Đức đang lúng túng trước những thất bại gần Mát-xcơ-va, chúng chưa chuẩn bị đầy đủ để bước vào mùa đông. Lúc này là thời cơ thích hợp nhất để chuyển sang tổng tiến công.
Ý định của Bộ tổng tư lệnh tối cao như sau. Phát huy kết quả của tiến trình phản công thắng lợi ở các phương diện quân trên mặt trận hướng Tây, mục đích của tổng tiến công là tiêu diệt quân địch ở gần Lê-nin-grát, phía tây Mát-xcơ-va và ở phía nam Liên xô.
Đòn tiến công chủ yếu dự định đánh vào cụm tập đoàn quân "Trung tâm" quân Đức. Việc tiêu diệt quân địch ở đây, dự định giao cho các lực lượng cánh trái Phương diện quân Tây-bắc, Phương diện quân Ca-li-nin và Phương diện quân miền Tây; phương pháp đánh là mở hai mũi gọng kìm khép lại, sau đó hợp vây và tiêu diệt những lực lượng chủ yếu của địch trong khu vực Rơ-giép, Vi-a-dơ-ma và Xmô-len-xcơ.
Bộ đội của các phương diện quân Lê-nin-grát, Vôn-khốp, cánh phải Phương diện quân Tây-bắc và Hạm đội Ban-tích có nhiệm vụ tiêu diệt cụm tập đoàn quân "Bắc" và phá vây Lê-nin-grát.
Phương diện quân Tây-nam và miền Nam phải đánh bại cụm tập đoàn quân "Nam", giải phóng Đôn-bát, còn Phương diện quân Cáp-ca-dơ và Hạm đội Biển Đen phải đuổi địch khỏi Crưm.
Dự kiến sẽ chuyển sang tổng tiến công trong thời gian ngắn nhất.
I.V. Xta-lin đề nghị những người có mặt phát biểu ý kiến về dự án kế hoạch đã trình bày.
Tôi báo cáo:
- Cần tiếp tục tiến công trên hướng tây vì ở đây đã tạo được những điều kiện thuận lợi hơn, quân địch lại chưa kịp khôi phục sức chiến đấu. Nhưng để đạt kết quả, cần phải bổ sung người, phương tiện kỹ thuật cho các đơn vị và phải tăng cường lực lượng dự bị, trước hết là các đơn vị xe tăng.
Còn nói về cuộc tiến công của bộ đội ta ở Lê-nin-grát và ở mặt trận hướng tây-nam, thì quân ta ở đó gặp một hệ thống phòng ngự nghiêm mật của địch. Nếu không có phương tiện pháo binh mạnh, bộ đội ta sẽ không thể phá vỡ hệ thống phòng ngự của chúng, mà ta thì sẽ bị tiêu hao, chịu những tổn thất không cần thiết. Tôi tán thành việc tăng cường cho các phương diện quân ở mặt trận hướng tây để ở đây sẽ tiến công mạnh hơn.
- Hiện nay chúng ta chưa có phương tiện vật chất đủ bảo đảm tiến công đồng loạt trên tất cả các mặt trận - N.A. Vô-dơ-nê-xen-xki có ý kiến.
- Tôi đã nói chuyện với Ti-mô-sen-cô - I.V. Xta-lin nói - Đồng chí ấy chủ trương tiến công. Cần phải nghiền nát quân Đức nhanh hơn nữa, để sang xuân chúng không thể tiến công được.
I.V. Xta-lin hỏi:
- Còn ai muốn phát biểu ý kiến nữa?
Không ai trả lời.
- Sao, còn gì nữa không, chúng ta sẽ chấm dứt cuộc thảo luận ở đây được chứ.
Ra khỏi buồng họp, B.M. Sa-pô-sni-cốp nói:
- Cậu tranh luận vô ích. Vấn đề đó, Tổng tư lệnh tối cao đã quyết định trước rồi.
- Thế đồng chí ấy còn hỏi ý kiến tôi để làm gì?
- Không biết, không biết, ông bạn thân ạ - Bô-rít Mi-khai-lô-vích Sa-pô-sni-cốp nói và thở dài.
Bộ tham mưu phương diện quân nhận được chỉ thị tấn công vào ngày 7-1. Chấp hành chỉ thị đó, Hội đồng quân sự đề ra cho các đơn vị thuộc phương diện quân những nhiệm vụ bổ sung dưới đây:
Cánh trái của phương diện quân (gồm tập đoàn quân xung kích 1, các tập đoàn quân 20 và 16) tiếp tục tấn công trên hướng chung tới Xư-chép-ca và hợp đồng với phương diện quân Ca-li-nin tiêu diệt cụm quân địch ở Xư-chép-ca - Rơ-giép.
Các đơn vị ở phía giữa (gồm các tập đoàn quân 5 và 33) tấn công trên hướng chung tới Mô-gia-ích - Gơ-giát-xcơ; các tập đoàn quân 43, 49 và 50 đánh về Yu-khơ-nốp, tiêu diệt quân địch ở Yu-khơ-nốp Côn-đơ-rốp và phát triển cuộc tấn công về Vi-a-dơ-ma.
Quân đoàn kỵ binh tăng cường của tướng P.A. Bê-lốp có nhiệm vụ tiến vào vùng Vi-a-dơ-ma, bắt liên lạc với quân đoàn kỵ binh của thiếu tướng X.V. Xô-cô-lốp thuộc Phương diện quân Ca-li-nin, để phối hợp tấn công vào phía sau cụm quân địch đóng ở Vi-a-dơ-ma (thời kỳ đó có sự hoạt động tích cực của những đội du kích lớn trong khu Vi-a-dơ-ma).
Tập đoàn quân 10 tấn công vào Ki-rốp và yểm hộ sườn trái của phương diện quân.
Đơn vị bạn bên phải là phương diện quân Ca-li-nin, có nhiệm vụ tấn công trên hướng chung tới Xư-chép-ca, Vi-a-dơ-ma, dùng một bộ phận lực lượng đánh vòng qua Rơ-giép; tập đoàn quân 22 của Phương diện quân phát triển tấn công về phía Be-lưi.
Phương diện quân Tây-bắc tấn công trên hai hướng rẽ đôi. Tập đoàn quân xung kích 3 do trung tướng M.A. Puốc-ca-ép chỉ huy tấn công trên hướng chung về phía Vê-li-ki, Lu-ki; tập đoàn quân xung kích 4 do thượng tướng A.I. Ê-rê-men-cô chỉ huy mở cuộc tấn công vào Tô-rô-pét - Vê-li-giơ.
Các tập đoàn quân cánh phải của Phương diện quân Tây-nam và Phương diện quân Bri-an-xcơ được giao nhiệm vụ kiềm chế quân địch ở đằng trước, không cho chúng chuyển lực lượng về hướng giữa và về phía Đôn-bát.
Bộ đội thuộc mặt trận hướng tây-nam tiến đánh Khác-cốp và chiếm những căn cứ bàn đạp trong vùng Đơ-ne-prô-pê-tơ-rốp-xcơ và Da-pô-rô-gie.
Kế hoạch thì lớn, nhưng trên nhiều hướng, kế hoạch đó không được bảo đảm đủ về lực lượng và phương tiện. Tình hình đó đã ảnh hưởng đến nhịp độ và kết quả cuộc tấn công mùa đông đầu tiên của chúng ta. Riêng có cuộc tiến quân của các đơn vị thuộc Phương diện quân Tây-bắc phát triển thắng lợi, vì ở đó không có tuyến phòng ngự dày đặc của địch.
Đến đầu tháng 2, các tập đoàn quân xung kích 3 và 4 của Phương diện quân Tây-bắc đã tới cửa ngõ Vê-li-ki-lu-ki, Đê-mi-đốp và Vê-li-giơ, vượt được khoảng 250 km. Trong lúc đó, tập đoàn quân 22 của Phương diện quân Ca-li-nin tiến đánh thành phố Be-lưi, còn quân đoàn kỵ binh 11 tiến ra khu tây-bắc Vi-a-dơ-ma. Ở phía tây Rơ-giép, các tập đoàn quân 39 và 29 thuộc Phương diện quân Ca-li-nin tiến chậm. Các đơn vị cánh trái của Phương diện quân Ca-li-nin không đạt được thắng lợi, vì phía trước họ, quân địch phòng ngự vững chắc.
Tính chất chung những hành động của địch trong thời kỳ đó được quy định trong mệnh lệnh của Hít-le ngày 3-1-1942 như sau: "Bám chặt lấy từng vùng dân cư, không lùi một bước, phòng ngự đến viên đạn cuối cùng, đến quả lựu đạn cuối cùng. Đó là yêu cầu đối với chúng ta trong lúc này".
"Các ngài chỉ huy! - Tư lệnh sư đoàn bộ binh 33 Đức viết trong mệnh lệnh của y. - Tình hình chiến sự chung nghiêm khắc đòi hỏi các đơn vị chúng ta trên tuyến sông La-ma không được rút nữa và sư đoàn có nhiệm vụ phòng ngự cố thủ ở đây. Phải bảo vệ những trận địa trên sông La-ma đến người cuối cùng. Đây là vấn đề sống còn của chúng ta...".
Căn cứ vào đâu mà bộ chỉ huy Hít-le lại yêu cầu các đơn vị của chúng kiên quyết dừng lại trên tuyến La-ma?
Vì chúng cho rằng có thể tạm thời trụ lại, dựa vào những trận địa phòng ngự do quân ta xây dựng trong tháng 10, 11. Các trận địa đó nằm ở hai bên sông La-ma, chạy từ phía bắc đến phía nam và, xa hơn nữa, nối liền với những trận địa trên các sông Ru-da và Na-ra.
Ngoài ra, đến giữa tháng 12, quân địch đã đưa từ hậu phương đến đây nhiều sư đoàn các loại, từ tinh nhuệ chọn lọc đến hậu bị và cả các sư đoàn rút từ các nước bị chúng chiếm đóng, vì vậy chúng có lực lượng để củng cố thêm các trận địa phòng ngự đó. Và khi các đơn vị địch rút lui từ Mát-xcơ-va về tới tuyến các con sông nói trên thì các tuyến phòng ngự đã được xây dựng xong.
Ngày 10-1, sau một tiếng rưỡi pháo bắn chuẩn bị, các đơn vị Phương diện quân miền Tây (tập đoàn quân 20, một bộ phận tập đoàn quân xung kích 1, quân đoàn kỵ binh 2 của I.A. Pơ-li-ép, lữ đoàn xe tăng 22, năm tiểu đoàn trượt tuyết) đã bắt đầu tấn công nhằm chọc thủng mặt trận ở khu Vô-lô-cô-lam-xcơ. Kết quả sau 2 ngày chiến đấu kiên cường đã phá vỡ được phòng ngự địch. Trong trận này quân đoàn kỵ binh của tướng I.A. Pơ-li-ép cùng với 5 tiểu đoàn trượt tuyết và lữ đoàn xe tăng 22 được sử dụng vào mũi đột phá.
Ngày 16 và 17 tháng 1-1942, bộ đội cánh phải phương diện quân có các đội du kích hoạt động phối hợp đã chiếm Lô-tô-si-nô, Sa-khốp-xcai-a và cắt đứt đường xe lửa Mát-xcơ-va - Rơ-giép.
Lẽ ra cần đưa thêm lực lượng vào để phát triển thắng lợi. Nhưng tình hình xảy ra lại khác hẳn.
Ngày 19-1, chúng tôi nhận được mệnh lệnh rút tập đoàn quân xung kích 1 về làm dự bị cửa Đại bản doanh. Cả tôi và V Đ Xô-cô-lốp-xki đều gọi dây nói về Bộ Tổng tham mưu yêu cầu để tập đoàn quân đó lại. Câu trả lời duy nhất nhận được: đây là mệnh lệnh của Tổng tư lệnh tối cao. Tôi gọi dây nói đến I.V. Xta-lin. Tôi nghe thấy: "Chấp hành đi, không bàn luận gì nữa". Khi tôi tuyên bố rằng nếu rút tập đoàn quân đó đi thì lực lượng xung kích sẽ trở nên yếu, Tổng tư lệnh tối cao trả lời: "Đồng chí có nhiều quân rồi. Thử tính xem, đồng chí có bao nhiêu tập đoàn quân?"
Tôi nói rằng, mặt trận của chúng tôi rất rộng, hiện nay hướng nào cũng đang tác chiến ác liệt, không thể xếp sắp lại đội hình ngay được, vì vậy đề nghị, trước khi kết thúc trận tấn công này, không nên rút tập đoàn quân xung kích 1 ra khỏi đội hình cánh phải của Phương diện quân miền Tây, không nên làm giảm sức ép đối với quân địch ở khu vực đó.
I.V Xta-lin đặt máy nói xuống, không trả lời. Cuộc nói chuyện với B.M. Sa-pô-sni-cốp về vấn đề đó cũng không đi đến kết quả gì hơn.
- Bạn thân mến, - B.M.Sa-pô-sni-cốp nói - tôi không thể làm gì khác được, đó là quyết định trực tiếp của Tổng tư lệnh tối cao.
Chúng tôi buộc phải rải tập đoàn quân 20 trên một chính diện rộng. Lực lượng bên cánh phải bị yếu đi, cho nên cuộc tấn công ở đây chỉ tới Gơ-giát-xcơ thì bị hệ thống phòng ngự có tổ chức của quân địch chặn lại và quân ta không thể tiến lên được nữa.
Các tập đoàn quân 5 và 33 tấn công ở khu giữa của phương diện quân đến ngày 20-1 giải phóng được Ru-da, Đô-rô-khô-vô Mô-gia-ích, Vê-rê-i-a. Các tập đoàn quân 43 và 49 tới vùng Đô-ma-nốp và tác chiến với các đơn vị địch ở Yu-khơ-nốp.
Ở đây tôi muốn nói tỉ mỉ về hành động của các đơn vị Quân đội Xô-viết ở Vi-a-dơ-ma. Từ ngày 18 đến ngày 22 tháng 1, trong khu Giê-la-nhe, phía nam Vi-a-dơ-ma 40 km, chúng ta đã thả 2 tiểu đoàn của lữ đoàn dù 201 và trung đoàn đổ bộ đường không 250 xuống chiếm giữ các đường tiếp tế của địch. Tập đoàn quân 33 của trung tướng M.G. Ê-phơ-rê-mốp được lệnh mở cửa đột phá và, hiệp đồng với quân đoàn kỵ binh 1 của P.A. Bê-lốp, quân đổ bộ đường không, các đội du kích và quân đoàn kỵ binh 11 của Phương diện quân Ca-li-nin, đánh chiếm Vi-a-dơ-ma.
Ngày 27-1, quân đoàn kỵ binh của tướng P.A. Bê-lốp đã vượt qua đường cái Vác-xô-vi ở phía tây-nam Yu-khơ-nốp 35 km và ba ngày sau đã bắt liên lạc được với bộ đội đổ bộ đường không và các đội du kích ở phía nam Vi-a-dơ-ma. Ngày 1-2, 3 sư đoàn bộ binh (113, 338 và 160) thuộc tập đoàn quân 33 do trung tướng M.G. Ê-phơ-rê-mốp trực tiếp chỉ huy cũng tới vùng này và đánh địch ở vùng ven Vi-a-dơ-ma. Để tăng cường cho quân đoàn kỵ binh 1 của tướng P.A. Bê-lốp và thực hiện hiệp đồng tác chiến với quân đoàn kỵ binh 11 của Phương diện quân Ca-li-nin, Đại bản doanh ra lệnh thả xuống khu Ô-đê-rê-chi quân đoàn đổ bộ đường không 4 nhưng vì thiếu máy bay vận tải nên thực tế chỉ thả được lữ đoàn 8 với quân số 2.000 người.
Phát triển tấn công từ khu Na-rô Phô-min-xcơ theo hướng chung về Vi-a-dơ-ma, tập đoàn quân 33 trong ngày cuối cùng của tháng Giêng đã nhanh chóng tới khu San-xki Da-vốt và Đô-ma-nốp, là một khu phòng ngự rất rộng mà địch bỏ trống. Nhận thấy hệ thống phòng ngự của địch không dày đặc và liên tục, chúng tôi cho rằng địch ở hướng này không đủ lực lượng giữ Vi-a-dơ-ma, do đó chúng tôi hạ quyết tâm: trong lúc quân địch chưa kịp đưa lực lượng dự bị tới phải chiếm lại Vi-a-dơ-ma trong hành tiến, và mất Vi-a-dơ-ma, bọn địch ở đây sẽ rơi vào tình trạng hết sức khó khăn.
Trung tướng M.G. Ê-phơ-rê-mốp quyết định trực tiếp dẫn đầu đoàn xung kích của tập đoàn quân tiến thật nhanh vào Vi-a-dơ-ma. Ngày 3 và 4 tháng 2, khi bộ phận chủ lực gồm 2 sư đoàn của đoàn xung kích đột phá tới gần Vi-a-dơ-ma thì bị quân địch đánh vào phía sau mũi đột phá, cắt đôi đội hình ra và địch khôi phục lại trận địa phòng ngự dọc theo sông U-gơ-ra. Thê đội 2 của tập đoàn quân lúc đó đành phải dừng lại ở khu San-xki Da-vốt còn quân bạn bên trái, tập đoàn quân 43 - ở khu Mê-đư-nhơ. Tập đoàn quân 43 không thể chi viện kịp thời cho đoàn xung kích của tướng M.G. Ê-phơ-rê-mốp theo như mệnh lệnh của Bộ tham mưu phương diện quân.
Quân đoàn kỵ binh của P.A. Bê-lốp bước vào chiến đấu ở hướng Vi-a-dơ-ma, tiến ra khu Vi-a-dơ-ma và sau khi bắt được liên lạc ở đó với các đơn vị của M.G. Ê-phơ-rê-mốp, thì bản thân cũng bị cắt đứt đường tiếp tế.
Vào khoảng thời gian đó, bộ tư lệnh Đức đã rút quân từ Pháp và các mặt trận khác ném vào Vi-a-dơ-ma những lực lượng dự bị rất lớn và đã ổn định lại được phòng ngự của chúng, nên chúng ta không sao chọc thủng được.
Kết quả là, chúng ta phải để tất cả các đơn vị đó ở lại vùng sau lưng địch, trong vùng rừng phía tây-nam Vi-a-dơ-ma, nơi có rất nhiều đơn vị du kích.
Trong thời gian suốt hai tháng trời ở lại vùng sau lưng địch, quân đoàn của P.A. Bê-lốp, các đơn vị của M.G. Ê-phơ-rê-mốp, các đơn vị đổ bộ đường không, cùng với du kích, đã đánh cho địch những đòn đau, tiêu diệt nhiều sinh lực và phương tiện của chúng.
Ngày 10-2, lữ đoàn 8 quân đổ bộ đường không và các đội du kích đã chiếm khu Moóc-sa-nô-vô - Đi-a-ghi-lê-vô, ở đó họ đã diệt được cơ quan tham mưu sư đoàn xe tăng 5 Đức và thu được nhiều chiến lợi phẩm. Cùng trong ngày đó, chúng tôi đã báo cho tướng P.A. Bê-lốp và tướng M.G. Ê-phơ-rê-mốp biết tin trên. Chúng tôi cũng lệnh cho các đồng chí đó phối hợp hành động với chỉ huy lữ đoàn 8 quân đổ bộ đường không, cơ quan tham mưu của lữ đoàn đóng ở Đi-a-ghi-lê-vô.
Sau khi bắt được liên lạc vô tuyến với P.A. Bê-lốp và M.G. Ê-phơ-rê-mốp, bộ tư lệnh phương diện quân đã cố gắng đến mức cao nhất tổ chức việc tiếp tế đạn dược, thuốc men và lương thực bằng đường không cho các đơn vị đó. Một số lớn thương binh được chuyển vận bằng máy bay. Thiếu tướng V.X. Gô-lút-kê-vích, trưởng phòng tác chiến bộ tham mưu phương diện quân và các đồng chí cán bộ thông tin vẫn đáp máy bay nhiều lần vào đó công tác.
Đầu tháng Tư, tình hình khu Vi-a-dơ-ma trở nên khó khăn phức tạp hơn nhiều. Quân địch, sau khi tập trung được những lực lượng lớn, bắt đầu dồn quân ta lại, muốn trong mùa xuân thủ tiêu "cái dằm" nguy hiểm đối với chúng. Cuối tháng Tư, trời bắt đầu hửng nắng làm tan băng tuyết đồng thời làm giảm sút khả năng vận động và gây khó khăn cho việc giao thông liên lạc với các khu du kích - nguồn cung cấp lương thực cho bộ đội và thức ăn cho ngựa.
Theo đề nghị của tướng P.A. Bê-lốp và tướng M.G. Ê-phơ-rê-mốp, bộ tư lệnh phương diện quân cho phép rút bộ đội ra để trở về với những lực lượng chủ yếu của ta. Thực hiện việc rút quân ấy, chúng tôi đã quy định dứt khoát là phải rút bằng đường rừng qua các khu du kích, theo hướng chung về Ki-rốp, ở đó tập đoàn quân 10 sẽ chuẩn bị đột phá, làm yếu hệ thống phòng ngự của địch và mở cửa phối hợp.
Quân đoàn kỵ binh của tướng P.A. Bê-lốp và các đơn vị đổ bộ đường không đã thi hành mệnh lệnh rất chính xác. Theo đường vành móng ngựa, khoảng cuối tháng 5 đầu tháng 6 năm 1942, các đơn vị đó đã tới khu vực của tập đoàn quân 10. Khéo tránh những đơn vị lớn quân địch và kiên quyết tiêu diệt những đơn vị nhỏ của chúng trên đường rút, anh em đã vượt qua cửa đột phá của tập đoàn quân 10 và ra tới vùng đóng quân của phương diện quân. Trong thời gian hoạt động ở sau lưng địch và lui quân, đã bị mất một số lớn vũ khí nặng và phương tiện kỹ thuật. Nhưng phần lớn người đã ra được và về tới đơn vị. Cuộc gặp gỡ giữa những người rút từ phía sau quân địch ra và những người bảo đảm đường rút cho họ thật vui mừng biết bao? Chiến sĩ và cán bộ khôn cầm được nước mắt: đó là những giọt nước mắt sung sướng và của tình bạn chiến đấu.
Trung tướng M.G. Ê-phơ-rê-mốp thấy con đường rút nói trên đối với đơn vị mình đã mệt mỏi là dài quá, nên đã liên lạc thẳng với Bộ Tổng tham mưu đề nghị cho phép vượt khỏi vòng vây bằng con đường ngắn nhất - qua sông U-gơ-ra.
Lúc đó I.V. Xta-lin cũng gọi dây nói hỏi tôi, có đồng ý với đề nghị của Ê-phơ-rê-mốp không. Tôi kiên quyết tỏ ý không tán thành. Nhưng Tổng tư lệnh tối cao nói rằng, nên đồng ý với Ê-phơ-rê-mốp, vì đó là một tư lệnh tập đoàn quân có kinh nghiệm. Đại bản doanh lệnh cho phương diện quân tổ chức trận đánh để đón đoàn quân của Ê-phơ-rê-mốp. Trận đánh đó do tập đoàn quân 43 chuẩn bị và thực hiện, song không thấy phía đơn vị của tướng M.G. Ê-phơ-rê-mốp đánh phối hợp ra.
Sau này mới được biết là quân Đức đã phát hiện thấy và vây đánh đơn vị của ta trên đường đi về phía sông U-gơ-ra. Tư lệnh tập đoàn quân M.G. Ê-phơ-rê-mốp chiến đấu như một người anh hùng chân chính. Bị thương nặng và không muốn rơi vào tay địch, đồng chí đã tự sát. Cuộc đời của một người chỉ huy quân sự có tài và vô cùng dũng cảm, cùng với một phần lớn chiến sĩ anh hùng của đơn vị đã hy sinh đau đớn như thế đấy.
Trung tướng M.G. Ê-phơ-rê-mốp bắt đầu chỉ huy tập đoàn quân từ ngày 25-10-1941, khi quân Đức tiến đến Mát-xcơ-va. Trong cuộc chiến đấu bảo vệ Mát-xcơ-va, cán bộ và chiến sĩ thuộc tập đoàn quân của đồng chí đã chiến đấu dũng cảm, không cho địch vượt qua tuyến phòng ngự của mình. Tướng M.G. Ê-phơ-rê-mốp được tặng thưởng Huân chương Cờ đỏ vì đã dũng cảm chiến đấu trong chiến dịch lịch sử bảo vệ Mát-xcơ-va. Hy sinh trong trận này còn có cả thiếu tướng P.N. A-phơ-rô-xi-mốp, tư lệnh pháo binh của tập đoàn quân, một cán bộ pháo binh rất có năng lực, một người có tâm hồn cao cả, và nhiều đồng chí cán bộ chỉ huy và cán bộ chính trị rất xuất sắc trong các trận đánh bảo vệ Mát-xcơ-va.
Ngày nay nghiêm khắc kiểm điểm lại những sự kiện năm 1942, tôi thấy rằng, chúng tôi có khuyết điểm trong việc đánh giá tình hình trong khu Vi-a-dơ-ma. Chúng tôi đã đánh giá khả năng của ta quá cao và đánh giá địch thấp. "Quả hồ đào" ở đó còn vững chắc hơn những điều ta dự kiến...
Vào tháng 2 và 3, Bộ tổng tư lệnh yêu cầu đẩy mạnh tấn công trên mặt trận hướng tây, nhưng lúc này ở các phương diện quân lực lượng và phương tiện đã cạn.
Nói chung, những nguồn dự trữ của nước ta hồi đó còn bị hạn chế nhiều. Nhu cầu của các đơn vị chưa được thỏa mãn đúng theo yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ. Mỗi khi được gọi về Đại bản doanh, chúng tôi phải hỏi xin Tổng tư lệnh tối cao từ khẩu súng chống tăng cá nhân, tiểu liên, mươi, mười lăm đại bác chống tăng, đến những đạn pháo và cối cần thiết tối thiểu. Tất cả những thứ nhận được đều đứa ngay lên ô-tô và chuyển đến những tập đoàn quân nào cần nhất.
Đạn dược được cung cấp rất ít. Ví như trong 10 ngày đầu của tháng Giêng, so với số lượng đề nghị thì phương diện quân chỉ nhận được 1% đạn cối 82 mm, 20-30% đạn pháo. Còn cả tháng Giêng thì chúng tôi nhận được 2,7% đạn cối 50 mm, 36% đạn cối 120 mm, 55% đạn cối 82 mm, 44% đạn pháo. Kế hoạch đạn dược trong tháng 2 hoàn toàn không thực hiện được. Trong 10 ngày đầu tháng, chúng tôi không nhận được một toa xe nào trong số 316 toa dự trù theo kế hoạch. Vì không có đạn nên đã phải đưa một bộ phận pháo phản lực về hậu phương.
Nói ra thì khó ai tin được, nhưng đúng là chúng tôi đã phải quy định mỗi khẩu pháo trong một ngày chỉ được bắn 1-2 quả đạn. Các đồng chí thấy không, đó là trong lúc tấn công đấy! Báo cáo của phương diện quân lên Tổng tư lệnh tối cao ngày 14-2-1942 có nói:
"Theo kinh nghiệm các trận đánh, tình trạng thiếu đạn dược không cho phép chúng ta đùng pháo binh trong tấn công. Kết quả là hệ thống hỏa lực địch không bị tiêu diệt và các đơn vị của chúng ta đánh vào quân địch phòng ngự ít bị chế áp, đã bị thiệt hại lớn mà không đạt được kết quả mong muốn".
Vào cuối tháng 2 đến tháng 3 năm 1942, Đại bản doanh quyết định tăng cường và củng cố các phương diện quân hoạt động trên hướng tây về người và phương tiện, nhưng lúc đó thì đã chậm rồi.
Quân địch rất chú ý đến sự phát triển của tình hình, đã tăng cường nhiều cho quân của chúng ở Vi-a-dơ-ma, và dựa vào những trận tuyến được xây dựng kiên cố từ trước, chúng bắt đầu hoạt động tích cực chống lại bộ đội thuộc các Phương diện quân miền Tây và Ca-li-nin.
Các đơn vị ta đã thấm mệt và suy yếu, nên vượt qua sự kháng cự của quân giặc ngày càng trở nên khó khăn. Chúng tôi đã báo cáo và đề nghị nhiều lần cho quân ta dừng và trụ lại trên những tuyến đã chiếm được nhưng đều bị Đại bản doanh bác bỏ. Trái lại, trong chỉ thị ngày 20-3-1942, Tổng tư lệnh tối cao lại đòi hỏi phải kiên quyết hơn nữa để tiếp tục hoàn thành nhiệm vụ đã đề ra trước đây.
Cuối tháng 3 - đầu tháng 4, các phương diện quân ở mặt trận hướng tây cố gắng thực hiện chỉ thị tiêu diệt cả cụm địch ở Rơ-giép, Vi-a-dơ-ma, song những cố gắng đó không đem lại kết quả. Cuối cùng, Đại bản doanh buộc phải chấp nhận đề nghị của chúng tôi, chuyển sang phòng ngự trên tuyến Vê-li-ki-lu-ki - Vê-li-giơ - Pô-gô-rê-lôi-ê Gô-rô-đi-sê - Gơ-giát-xcơ - sông U-gơ-ra - Xát-đê-men-xcơ - Ki-rốp - Liu-đi-nô-vô - Khôn-mi-si - sông Ô-ca.
Các đơn vị của Phương diện quân miền Tây trong thời kỳ tiến công mùa đông, đã tiến được 70 đến 100 km và đã cải thiện được một phần tình hình chung về mặt chiến dịch và chiến lược trên hướng tây.
Những kết quả chung đạt được trong chiến dịch lịch sử vĩ đại gần Mát-xcơ-va là một nguồn cổ vũ đối với chúng ta và là một đòn nặng đánh vào quân địch.
Tướng Đức Vét-phan mô tả trận đánh gần Mát-xcơ-va, đã phải thú nhận rằng: "Quân đội Đức trước đây được coi là không thể bị đánh bại, nay sắp bị tiêu diệt". Các tướng khác của quân Đức như K. Ti-pen-xkiếc, G. Bliu-men-tơ-rít, Ph. Bai-éc-bê-in, Ph. Man-tây-phen và v..v... đều tuyên bố như vậy.
Cái gì đúng thì vẫn đúng. Trong cuộc chiến đấu ở Mát-xcơ-va, bọn Hít-le đã mất tổng cộng hơn nửa triệu tên, 1.300 xe tăng, 2.500 đại bác, trên 15.000 ô-tô và nhiều phương tiện kỹ thuật khác. Quân của chúng bị đánh bật khỏi Mát-xcơ-va từ 150 đến 300 km về phía tây.
Cuộc phản công mùa đông năm 1941-1942 đã diễn ra trong điều kiện thời tiết phức tạp mùa đông, nhưng chủ yếu nhất là nó được tiến hành trong khi chúng ta không có ưu thế về quân số so với địch. Cũng trong thời kỳ đó, các phương diện quân không có đủ những binh đoàn xe tăng và cơ giới thật mạnh, và nếu không có nó, theo kinh nghiệm thực tế của chiến tranh, thì không thể tiến hành những chiến dịch tấn công quy mô lớn nhằm thực hiện những mục đích kiên quyết. Vượt quân địch đang vận động, nhanh chóng vu hồi đánh vào sườn chúng, cắt đứt đường liên lạc với hậu phương, bao vây và chia cắt các đơn vị lớn của địch, tất cả những nhiệm vụ đó chỉ có thể thực hiện được, nếu có sự trợ lực của những binh đoàn xe tăng và cơ giới mạnh.
Trong cuộc chiến đấu ở Mát-xcơ-va, lần đầu tiên trong 6 tháng chiến tranh, Hồng quân đã làm cho các đơn vị chủ lực của Hít-le phải chịu những thiệt hại lớn nhất. Trước đó, lực lượng vũ trang Xô-viết đã mở nhiều chiến dịch quan trọng làm chậm bước tiến của quân đội Đức trên cả 3 hướng tấn công chủ yếu của chúng. Nhưng về quy mô và kết quả, các chiến dịch đó vẫn chưa bằng cuộc chiến đấu ở ngay chân tường Thủ đô Xô-viết này.
Giỏi đánh phòng ngự, phản kích thắng lợi và chuyển nhanh sang phản công, đó là những nét đã làm giàu thêm nghệ thuật quân sự Xô-viết đánh dấu sự trưởng thành về chỉ đạo chiến lược và chiến dịch, chiến thuật của những người chỉ huy quân sự Xô-viết, sự tiến bộ về bản lĩnh chiến đấu của các chiến sĩ trong tất cả các binh chủng.
Việc tiêu diệt các đơn vị của Hít-le gần Mát-xcơ-va có ý nghĩa quốc tế lớn. Quần chúng nhân dân các nước liên minh chống phát-xít đã vô cùng hào hứng khi nhận được tin chiến thắng lừng lẫy của lực lượng vũ trang Xô-viết. Với những thắng lợi đó nhân loại tiến bộ lại có thêm căn cứ để tin sẽ được giải phóng khỏi ách nô dịch phát-xít.
Thất bại của quân Đức ở Lê-nin-grát, Rô-xtốp, trong khu Ti-khơ-vin và cuộc chiến đấu ở Mát-xcơ-va đã làm chấn động các giới phản động Nhật Bản và Thổ Nhĩ Kỳ, buộc chúng phải có chính sách thận trọng hơn đối với Liên Xô.
Quân phát-xít Đức chuyển sang phòng ngự. Để khôi phục lại sức chiến đấu, giới lãnh đạo quân sự, chính trị nước Đức bắt buộc phải thi hành một loạt biện pháp tổng hợp và chuyển sang mặt trận Xô - Đức một số lượng đáng kể những đơn vị lấy ở Pháp và ở các nước bị chúng chiếm đóng. Đã đến lúc Đức phải dùng thủ đoạn gây sức ép đối với chính phủ các nước chư hầu của chúng, bắt họ phải gửi sang mặt trận Liên Xô những binh đoàn mới và những nguồn vật chất bổ sung, làm cho tình hình chính trị bên trong các nước đó thêm xấu đi.
Sau trận tiêu diệt quân Hít-le ở Mát-xcơ-va, không những bọn binh lính, mà cả nhiều tên sĩ quan và tướng đã thấy rõ sức mạnh của nhà nước Xô-viết, thấy rõ lực lượng vũ trang Xô-viết là vật chướng ngại không thể vượt qua trên con đường thực hiện những mục đích do chính phủ Hít-le đề ra.
Nhiều lần người ta hỏi tôi về vai trò của I.V. Xta-lin trong cuộc chiến đấu ở Mát-xcơ-va.
I.V. Xta-lin ở Mát-xcơ-va trong suốt thời gian đó để tổ chức lực lượng và phương tiện tiêu diệt quân giặc. Cần thấy vị trí xứng đáng của Xta-lin. Đứng đầu Hội đồng quốc phòng Nhà nước và dựa vào bộ máy lãnh đạo của các Bộ ủy viên nhân dân, Xta-lin đã làm một khối lượng công việc khổng lồ để tổ chức các lực lượng dự bị chiến lược và những phương tiện vật chất kỹ thuật cần thiết. Có thể nói là bằng tính nghiêm khắc triệt để của mình, Xta-lin đã đạt được những kết quả hầu như không thể đạt được.
Nếu có ai hỏi tôi: điều gì nhớ nhất trong cuộc chiến tranh vừa qua, tôi luôn luôn trả lời, đó là cuộc chiến đấu ở Mát-xcơ-va. Trong những điều kiện khắc nghiệt, thường hết sức phức tạp và khó khăn, quân đội ta đã được tôi luyện, thêm can trường, tích lũy được kinh nghiệm và sau khi có được một số lượng phương tiện kỹ thuật cần thiết tối thiểu, đã chuyển từ một lực lượng đang rút lui, phòng ngự, thành lực lượng tiến công rất mạnh. Con cháu chúng ta được hường nhiều thuận lợi, may mắn sẽ không bao giờ quên công tác tổ chức lớn lao của Đảng, sự nghiệp lao động anh hùng của nhân dân Xô-viết và những chiến công của các chiến sĩ trong thời kỳ đó.
Bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối với những người tham gia chiến đấu còn sống, tôi cúi đầu trước kỷ niệm chói lọi của những người đã hy sinh thân mình, chiến đấu không cho quân địch lọt vào Thủ đô, trái tim của Tổ quốc, thành phố anh hùng Mát-xcơ-va. Chúng ta còn chịu những người đó món nợ không bao giờ trả được.
---
[1] Ngày 30-6-1941, thành lập Hội đồng quốc phòng Nhà nước đứng đầu là I.V. Xta-lin. Ngày 10-7-1941, Hội đồng quốc phòng quyết đinh thành lập 3 Bộ tổng tư lệnh trên các hướng mặt trận: Mặt trận hướng tây-bắc do K.E. Vô-rô-si-lốp làm Tổng tư lệnh, mặt trận hướng tây do S.M. Ti-mô-sen-cô, mặt trận hướng tây-nam do Bu-di-on-nưi. Đại bản doanh Bộ tổng tư lệnh chuyển thành Đại bản doanh Bộ tổng tư lệnh tối cao và ngày 8-8, I.V. Xta-lin làm Tổng tư lệnh tối cao trong Đại bản doanh Bộ tổng tư lệnh tối cao - ND.
[2] Trong tháng 8 - 9 năm 1941, lại cải tổ việc chỉ huy quân đội và bãi bỏ việc thành lập Bộ Tổng tư lệnh trên các hướng mặt trận. Nguyên soái X.M. Bu-di-on-nưi rút về làm tư lệnh Phương diện quân Dự bị, bố trí ở phía sau Phương diện quân miền Tây để tăng thêm chiều sâu phòng ngự trên hướng Mát-xcơ-va - ND.
[3] ngày nay đồng chí Ghét-man đã là đại tướng - TG
[4] tư lệnh tập đoàn quân 16 ở hướng Vô-lô-cô-lam-xcơ - ND.
[5] tức Gô-vô- rốp - ND.
[6] đòn đánh vào Mát-xcơ-va - ND.
[7] Ph. Mê-len-tin: Những trận đánh xe tăng năm 1939-1945
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top