nhieu truyen ma doc cuc ki hayyyyyyyyyyyy

Mối Khinh Khủng Tại Đồn Lính Pháp

Cùng tác giả

Cái tính hiếu sát của hắn đã tỏ lộ rõ ràng hai lần: lần thứ nhất, khi hắn được tập "bay-don-nét" đâm vào những thằng người rơm giả làm quân địch. Hắn tự nhiên thấy nóng mắt, hai hàm răng nghiến chặt vào nhau, và tưởng tượng ngay rằng những thằng người rơm đó là những kẻ bằng da bằng thịt... Chính vì thế mà lưỡi "bay-don-nét" nhọn hoắt và sáng loáng kia, hắn đâm phập vào một cách rất là sung sướng, hơn nữa, khi rút đầu nhọn ra, còn có máu nóng nung theo!

Chúng ta cũng nên công nhận cho hắn rằng trước đây, hắn không bao giờ ngờ rằng mình lại có ý muốn "thích giết người" đến như vậy... Lần thứ hai, là trong cuộc tập bắn. Mỗi phát súng của hắn trúng bia, là hắn thấy trong lòng hồi hộp vô cùng, tưởng tượng ngay rằng hồng tâm ấy chính là trái tim một kẻ trúng đạn ngã xuống và giãy giụa trong vũng máu. Cũng may là trường bắn lúc đó đông người, chứ không thì rất có thê hắn quay súng chếch đi, đê nhắm bắn vài người bạn đồng ngũ đứng không xa bia mấy, cốt đê hô to lên số điêm của người tập bắn trúng hay sai đích nhiều ít thế nào.

Một người lính thường, có một bộ thần kinh lành mạnh tất không bao giờ có những ý tưởng khát máu như hắn. Nhưng có lẽ ông thầy thuốc khi khám sức khỏe của hắn đã không lưu ý đến cái bệnh "tinh thần" kia của hắn, nên hắn mới có thê khoác được lên người bộ quân phục, và trong khi tập bắn và tập "bay-don-nét" mới có ý nghĩ ghê gớm kia!

Trong thời đại chiến thứ nhất - mà các ông "quyền" thường gọi là thời "la ghe đít-nớp-săng-cà-cộ", cái đồn lính Pháp này, đóng sát ngay biên giới, ở một chỗ đèo heo hút gió nhưng được cái không khí trong quân ngũ cũng không lấy gì làm buồn tẻ lắm. Vì ở đây đã thu thập được một số người có rất nhiều nghề lạ: anh Vệ Choắt, trước đã đi theo gánh xiếc có tài thổi kèn "bú-dích" bằng dọc đu đủ, và vận hơi trong bụng nói được thành tiếng rõ ràng, nghe vẳng như tự đằng xa đưa lại trong khi hai môi anh không hề mấp máy chút nào... Lại anh Binh Thông, hãy còn ít tuổi mà đã bạc đầu - trước hình như đi hát tuồng trong một rạp nào ở ngõ Sầm Công hay Tam Thương gì đó - trong lúc hứng chí vẫn ca những bài hát Nam hay hát Khách, với những điệu bộ ngẩn ngơ thì thực khó ai nín cười với anh được! Lại cả anh Bếp Toóng-đơ nữa, trước có kiêm cả nghề thầy cúng, thầy tướng, cung văn và kép nhà trò nên anh không bỏ lỡ một dịp nào mà không thi thố những sở trường... Anh em trong đồn săn được một con hoẵng, thế là anh lập tức tổ chức ngay một buổi tế... bà chúa rừng. - Có đủ cả bát âm, hát nhà tư và múa bài bông nữa. Nhờ có bọn người vui tính ấy, nên không khí trong cái đồn biên giới này không bao giờ buồn tẻ, mặc dầu bọn người lìa gia đình này chẳng phải là không có nhiều lúc thương nhớ vợ con...

Đêm hôm đó, - vào hạ tuần tháng mười - đã bắt đầu giá lạnh. Trong đồn, dưới ánh mấy cây nến ấm áp, bọn Bếp Toóng-đơ đương quây quần lại mà hát cô đầu với nhau, cười nói giòn giã, thì điệu kèn "tắt lửa" nổi lên...

Binh Thông buông hai thanh tre dùng làm phách xuống, rồi ra hiệu cho Vệ Choắt tắt nến đi:

- Bọn ta quấy nhộn lắm, xem chừng ngài Đội đã có ý "trù", kèn "tắt lửa" rồi mà còn đê nến, khéo mà anh em ăn cơm muối nhọc!

Vệ Choắt đã thổi nến, sực nhớ lại hỏi:

- À, mà cậu Cả Hợp mò mẫm đi đâu bây giờ chưa thấy về?

Cả Hợp là một anh lính mới, xinh tươi, rất được bọn các cô "mái" miền sơn cước quý mến... Hợp hiền lành, ngoan ngoãn, nên được tất cả các bạn đồng ngũ coi như đứa em nhỏ và hết sức che chở mỗi khi mắc phải lỗi lầm. Bếp Toóng-đơ chép miệng mà bảo:

- Tôi thấy thằng Hợp đi vào trong làng Mường từ lúc chập tối, chắc nó lại có hò hẹn với cô nào... Nhưng thằng bé độ này cũng mảng vui chơi quá, thường về ngủ chậm, thế nào cũng có một hôm ngài Đội vớ được lại phải tù sớm!

Nhưng không, Bếp Toáng đã quá lo xa... Lần này, dù vắng mặt lâu đến chừng nào, binh Hợp cũng không phải bị phạt.

Vì buổi sớm hôm sau, anh gác đã tìm thấy xác Hợp co quắp trên một mô đất nhỏ, cách đồn không xa mấy. Đầu Hợp bị chém gần lìa khỏi cổ, bằng một lưỡi "bay-don-nét", lưỡi hãy còn sáng loáng một cách rùng rợn, dưới ánh triêu dương hãy còn nặng trĩu sương mờ!

Hợp bị ám sát một cách bí mật như vậy đã là một lối lo nghĩ cho các cấp chỉ huy. Cuộc điều tra lập tức được mở ngay, nhưng kết quả cũng không có gì, thì lại xảy ra một việc khác cũng tương tự như vậy.

Khác hẳn vụ án mạng trước, lần này người ta không còn nghi ngờ gì là chuyện thù hằn nữa. Vì kẻ bị giết, anh lính trẻ tuổi Lặc, lại là một người ngoan ngoãn hiền lành nhất trong cái đồn biên giới này. Lặc mới mười chín tuổi, không hề giận ai bao giờ, mặc dầu anh em đồng ngũ có tinh nghịch mà đặt cho cái biệt hiệu Di Lặc. Vì Lặc tuy còn ít tuổi, nhưng phốp pháp béo tròn. Hai má lúm đồng tiền, cái bụng anh phè phè, ai có đùa nhiều, chế giêu quá thì anh chỉ đỏ mặt mà cười hề hề...

Vậy mà Lặc cũng bị giết, và cũng trong một trường hợp rất dị kỳ. Đêm hôm ấy, Lặc nhân có người nhà gởi lên cho một ít tiền và quà bánh, đã đem khao anh em... Một bữa linh đình được tổ chức và nhân những dịp này, các bạn ít có liên lạc gia đình cũng được chia vui, bớt phần buồn bã... Chính bữa ăn linh đình ấy đã giết Lặc. Vì anh em ăn uống xong, đi ngủ quá lúc 1 giờ đêm, Lặc lổm ngổm bò dậy. Người bạn nằm bên hỏi:

- Di Lặc đêm khuya còn định đi đâu đấy?

Lặc ôm bụng nhăn nhó đáp:

- Nguy quá, anh ạ, tôi đau bụng từng cơn cuồn cuộn, tưởng có thê chết đi được. Tôi đã uống gần nửa chai dầu Nhị Thiên mà cũng không đỡ.

Và Lặc với tay lấy chiếc mũ vải vàng:

- Trời bên ngoài lạnh lắm, bây giờ phải ra giải quyết cái vấn đề "tiêu hóa" thì thực là buồn...

Lặc ra khỏi phòng, người bạn đồng ngũ lại còn cười, hỏi đùa tiên một câu:

- Liệu đi nhanh nhanh mà về nhé, ngồi lâu ngoài ấy, ông "ba mươi" vồ bắt thì lại cũng được một bữa "thương thực" đấy!

Nào có ai ngờ câu nói ấy lại là một lời vĩnh biệt: Lặc không bị con cọp vồ, nhưng lại bị ám sát thì cũng thế... Người bạn nói câu ấy sau đó đi ngủ, nhưng tới sáng, bừng mắt dậy, vẫn không thấy Lặc đâu cả... Trước hắn còn tưởng cái bệnh đau bụng của Lặc chưa khỏi, nhưng đợi mãi một lúc, vẫn không thấy Lặc trở về, hắn mới hoảng hốt đi báo cho viên Đội.

Thế là trong đồn phút chốc đã náo động vì cái tin Lặc bị ám sát, lần này cũng bị đâm chết bằng "bay-don-nét". Một điều đáng chú ý hơn nữa là Lặc lại bị giết cách chỗ người đứng gác không xa là mấy. Theo lời người gác nói thì hắn đứng gác chỗ cách cây quéo cổ thụ chừng ba mươi thước đúng lệ thường, cứ nửa giờ đồng hồ thì hắn đổi "rỏn" một lần, đi đến đầu Suối Bạc thì trở về... Đêm hôm đó hắn cũng vẫn theo thường lệ đi gác và đi "rỏn" và cũng không thấy có điều gì lạ cả, mãi cho tới khi sáng, lúc thấy trong đồn náo động, hắn mới đê ý thấy phía sau gốc cây quéo như có nhiều ruồi nhặng bâu quanh một vật gì.

Và đó chính là xác chết của Lặc.

Theo sự khám nghiệm của ông quan ba thầy thuốc thì Lặc bị giết không sớm hơn trước lượt đi "rỏn" lần thứ ba của người gác là mấy. Cuộc điều tra tiến hành ráo riết và chỉ đi đến một kết quả là: Lặc đã bị giết một cách thật là oan uổng, có lẽ hung phạm nhằm giết người gác kia, đã núp vào sau gốc cây quéo từ lâu lắm, và vô tình, Lặc đã tới đó trước khi người gác đi "rỏn" nên hung phạm nhầm tưởng là hắn mà hạ sát.

Điều này khám phá ra, làm cho những sĩ quan được lệnh mở cuộc điều tra càng thêm bối rối vì khi hung phạm đã nhằm giết một người như vậy, tức là phải có một duyên cớ xác đáng nào...

Điều đáng chú ý nữa là giữa Hợp, - kẻ bị giết lần trước - với người lính gác, bị giết hụt lần này, không hề có một chút gì dính líu với nhau cả. Hợp thì có thê ngờ rằng vì chuyện ghen tuông mà bị giết, nhưng đối với người gác chết hụt này thì thực không còn có thê nghi ngờ điều gì được. Hắn là người lính gương mẫu, không hề phạm lỗi bao giờ, đối với anh em rất là khéo xử lại sẵn sàng giúp đỡ đối với mọi người... Có thê nói rằng ai hắn chỉ có thân ít hoặc thân nhiều mà thôi chứ không hề có một kẻ thù..

.

Binh lính trong đồn bàn tán rất nhiều về việc Lặc bị giết oan uổng, và nhiều người mê tín lại cho ngay rằng đó là một chuyện tác quái của con ma cây quéo. Người ta xì xào bảo: Cây quéo có một con ma to lắm, là một người con gái trước đây đã treo cổ lên cây đó đê tự tử, và oan hồn lẩn khuất, thường vẫn mặc áo trắng hiện lên trêu ghẹo mọi người...

Nhưng còn Hợp? Bọn người mê tín cũng buộc tội cho con ma cây quéo đã run rủi cho Hợp bị giết một cách bất ngờ...

Các nhân viên có nhiệm vụ điều tra thì nhận xét một cách thiết thực hơn, nhất là ở chỗ hai người bị thiệt mạng cũng đều bị lưỡi "bay-don-nét" đâm hay chém cả. Như vậy thì hung phạm là một quân nhân ở trong đồn, mới quen sử dụng thứ khí giới này và thứ nhất mới có thê đi lại trong khu vực mà những người gác không nghi ngờ gì hết.

Điều thứ nhất này làm cho một tờ báo trong quân đội có viết những câu: "Có một con yêu ở ngay trong hàng ngũ chúng ta. Nó lặng lẽ, hung tợn, trong đêm tối đi quanh quẩn rình mò trong trại rồi giết người, không vì một mục đích gì... Bởi vậy tuy có hình dáng người mà đích thực là một con yêu tinh ghê gớm, giết người chỉ vì khát máu mà thôi!".

Anh em binh sĩ đọc bài báo này chẳng khỏi nhìn nhau mà e ngại. Sự thực họ không phải là người nhút nhát, ra trận, đối diện với cái chết, không có gì đáng sợ, đằng này cái chết lại len lỏi một cách ghê tởm, bất ngờ...

Nhưng họ còn ghê tởm hơn nữa, nếu biết chính con yêu tinh ấy cũng đọc bài báo ấy, sẽ nhếch mép cười một cách rùng rợn, rồi gấp tờ báo lại.

Và trong tuần tới, lại đến lượt viên Cai 73 bị giết, ngay sát cạnh đồn, khi viên này đi kiêm soát các vọng gác. Cũng vẫn mấy nhát "bay-don-nét" gọn gàng, vẫn không một nguyên cớ gì tỏ ra rằng hung phạm đã giết người vì Tiền, vì Thù hay vì Tình!

Một lần nữa, cũng vẫn một con yêu tinh ghê gớm kia hành động!Đê cho một tờ nhật báo trong quân ngũ, sau khi thuật lại rõ vụ án mạng bí mật này, kết luận bằng một câu hỏi làm cho mọi người rợn gáy: "Vậy đến bao giờ thì đến lượt anh hay tôi bị giết?".

Anh Bếp Toóng-đơ đứng dậy ngáp dài rồi nói:

- Chán quá, tôi đi quanh trại một lúc cho đỡ buồn!

Một bạn nói:

- Trời tối như mực, có gì ở ngoài ấy mà chơi với bời... Anh hãy ngồi xuống đây, hát nốt cái bài "ả phiền" 36 giọng ấy cho anh em nghe nhờ với nào!

Bếp Toóng-đơ với tay lấy cái mũ treo ở trên tường:

- Sẩm hát mãi mà chẳng có ma nào thưởng gì đâu? Thôi, đê đằng này đi cho đỡ cuồng cẳng một lát, rồi chốc nữa lại về hát cho anh em nghe mà...

Vệ Choắt cười bảo:

- Phải, bây giờ anh Toóng-đơ còn phải ra hát cho... con ma cây quéo nghe!

Bốn tiếng ghê gớm này làm cho mọi người cùng bỗng sợ sệt, nín thinh. Có lẽ Bếp Toóng-đơ cũng thấy rờn rợn, nhưng chẳng lẽ lại không đi nữa, sợ sẽ bị anh em cười là nhút nhát, đành nói cứng một câu:

- Này, đừng có dọa đằng này nhé! Cũng đã từng làm thầy kiều thầy cúng cả đây, đủ cả tay ấn, tay quyết, có là... ma cà-lồ thì cũng chỉ một cái ấn "ngũ lôi thần tướng" là tan xác! Thôi, lâu lâu anh chưa trở lại cái tài nói bằng hơi bụng, vậy bây giờ lại biêu diên đi cho anh em xem... chốc lát tôi sẽ về ngay rồi lại hát!

Bếp Toóng-đơ đã đi rồi, bị anh em thúc giục, Vệ Choắt đành phải trổ tài mọn khi anh còn theo gánh xiếc Tiên Long: anh ngậm nguyên mồm, môi không mấp máy mà vẫn đóng được cái kịch "hai ông bà già ngồi nói chuyện tâm sự, đú đởn với nhau" giọng nói nghe xa văng vẳng, làm cho anh em cười lăn cười lóc.

Trong khi ấy, Bếp Toóng-đơ bước chầm chậm qua mấy rặng cây sim đầy hoa nở, trắng xen với tím. Bỗng có người từ phía trước mặt đi tới hỏi:

- Anh Toóng-đơ đi đấy à?

Toóng-đơ nhận ra Thiệp, một người lính mới, vốn lầm lì, ít nói và hiền lành như con gái, trả lời:

- Tôi ngồi lâu, cuồng cẳng, đi chơi quanh chốc lát, chú cũng dám ra ngoài trời tối này kia à, chắc là đã làm quen được với con ma cây quéo!

Thiệp nói, giọng hơi khác:

- Tôi chỉ sợ người, chứ không sợ ma. Tôi ra mượn anh gác bao diêm cũng về đây, chẳng lẽ gì mà lảng vảng ở đây lâu, nhỡ oan gia thì thiệt mạng!

Thiệp đã quay về, Toóng-đơ đi một mình và thấy chờn chợn! Trong cái bóng tối âm u và huyền bí của núi rừng, mặc dầu chính mình đã từng làm cái nghề thầy bùa, thầy pháp, Toóng-đơ cũng vẫn cảm thấy một cái gì ghê gớm và rùng rợn! Trời hơi mưa bụi, nhưng Toóng-đơ cũng cứ đi. Bỗng một tiếng hô đứng lại xé bầu không khí lặng lẽ của núi rừng, và một mũi "bay-don-nét" nhọn hoắt cản Toóng-đơ dừng bước. Tiếp đó là tiếng anh lính Hồng đứng gác ở đó nói một cách vui vẻ như trút được gánh nặng:

- Trời, anh Toóng-đơ! Chỉ thiếu một ly nữa thì tôi bấm cò súng!

Toóng-đơ cười:

- Chắc anh hoảng tưởng tôi là con ma cây quéo?

Hồng gật đầu:

- Anh đi nhẹ không một tiếng động làm cho tôi sợ quá! Thôi, anh quay về đi!

Thấy Toóng-đơ lộ vẻ ngạc nhiên chưa hiêu, Hồng tiếp ngay:

- Đó là lệnh trên! Không một ai được qua ngoài vòng gác!

Toóng-đơ gật đầu:

- Phải, tôi nhớ ra rồi! Số lính gác hình như đã tăng gấp đôi thì phải!

Hồng đáp:

- Tăng gấp ba kia đấy. Chẳng kê con ma cây quéo chứ ma... cây gì cũng khó mà giở trò trống ra bây giờ nữa!

Toóng-đơ quay bước và dặn với lại Hồng:

- Thôi tôi về! Mà hê anh thấy có ma thì lập tức cứ bắn luôn nhé!

Hồng cười đáp:

- Đúng rồi, nó không tha chúng mình thì mình tha nó sao được?

Câu chuyện đối đáp này chưa qua được năm phút thì Hồng đến tua đi "rỏn" qua chỗ vừa đứng nói chuyện với Toóng-đơ được chừng ba mươi thước thì vấp phải một vật gì nằng nặng mềm mềm...!

Đó chính là xác chết của anh Bếp Toóng-đơ bị một lưỡi "bay-don-nét" đâm xọc từ phía sau lưng ra tới phổi, nằm còng queo bên vũng máu mới đông được chừng dăm phút!

Một phen nữa, trong đồn lại líu ríu, náo động chẳng khác gì vừa có tin báo bọn thổ phỉ vượt qua biên giới sắp sửa tấn công... Một vị sĩ quan có nhiệm vụ mở cuộc điều tra từ mấy tuần nay, ra lệnh:

- Phải lập tức khám xét khu này: Chắc hung phạm chưa thoát ra xa được nơi tìm thấy xác chết kia... Mọi người hãy tập hợp...

Lát sau, viên sĩ quan tới nơi tìm thấy thi hài Bếp Toóng Đơ, thấy Vệ Choắt cùng hai bạn đồng ngũ đã ở đấy. Vệ Choắt đứng lên chào, rồi thưa:

- Thưa ngài, lần này cũng vẫn một lưỡi "bay-don-nét" đâm từ đằng sau lại.

Viên sĩ quan chỉ cúi xem xét thi hài trong chốc lát, rồi lại lập tức cùng bọn lính gác đi khắp trong đồn... Những ánh sáng đèn điện bấm chiếu trên mặt đất, mong tìm thấy được một vết tích gì của hung phạm. Nhưng núi rừng bí hiêm với muôn vàn côn trùng cây cỏ, vẫn giấu kín những điều mà thế nhân tò mò muốn biết...

Sừng sững, cây quéo cổ kính cũng trơ trơ đứng đó, với một con ma ghê gớm, hiên hiện rõ ràng trong đầu óc những người mê tín dị đoan?

Từ mấy hôm nay, Vệ Choắt như bận nghĩ nhiều việc, nên ít khi thấy hát hỏng cười đùa. Kê ra thì chúng ta cũng không lấy làm lạ, và ở đây đã xảy ra nhiều chuyện quá lạ lùng... Thần chết như rình nấp quanh quẩn đâu đây... Nhiều người bạn thân của họ, mấy phút trước còn vui vẻ nói cười mà chốc lát sau, đã chỉ còn là một thây ma bên vũng máu. Câu hỏi rùng rợn của một tờ báo: "Vậy bao giờ đến lượt chúng ta bị giết?" lại càng làm cho ai nấy mỗi khi bước qua gần cây quéo gớm ghiếc lại thấy lành lạnh nơi lưng...

Tuy vậy, Vệ Choắt càng buồn bã, ít nói cười, hát hỏng, thì lại càng hay đi quanh quẩn, hoặc ngồi chơi một mình ở chỗ vắng vẻ. Nhiều khi trong đêm tối, Vệ Choắt cũng cứ vẫn đi thơ thẩn bên ngoài lều, hầu như quên hẳn đã có ba, bốn người vừa mới đây đã bị thiệt mạng, cũng chỉ vì không biết e dè... bóng tối.

Vệ Choắt đương vơ vẩn nghĩ ngợi chợt có tiếng quát:

- Ai đấy, đứng lại!

Một lưỡi "bay-don-nét" chĩa ra... Giọng người hô nghe hơi run run có lẽ vì sống trong bầu không khí bí mật, không một người nào được bình tĩnh khi chợt thấy một việc thất thường xảy đến.

Vệ Choắt ngước nhìn người lính gác rồi cười bảo:

- Vệ Choắt đây. Làm gì mà hốt hoảng thế? Sợ à?

- Sợ ai?

- Sợ con ma cây quéo, chứ còn sợ ai nữa! Anh nên nhớ rằng bẵng ít lâu, anh em mình chưa ai mới bị giết thêm, vậy rất có thê lúc này là lúc nó đương tìm một người... xấu số!

Thiệp xoa xoa nơi báng súng:

- Mà kẻ xấu số thiệt mạng ấy, rất có thê là anh hay tôi nhỉ!

Vệ Choắt nhìn thẳng vào mặt Thiệp:

- Tôi thì có, chứ anh thì chắc không thê xảy ra điều gì! Thiệp hỏi lại, giọng hơi khác:

- Sao anh lại nói thế?

Vệ Choắt thở dài:

- Vì tôi nghĩ những người như anh thì chưa đáng chết... Tôi trái lại là kẻ đã phong trần, lưu lạc nhiều, mọi nỗi chua cay bùi ngọt ở đời đã nếm đủ, vậy bây giờ có chết cũng là đáng đời...

Thiệp lơ đãng tiếp:

- Có lẽ anh nghĩ rằng... hung phạm hoặc con ma cây quéo kia, lại biết lựa chọn xem kẻ nào nên giết hay không nên giết?

Vệ Choắt không đáp, hỏi lại:

- Thế anh nghĩ rằng "nó" giết là vì thích giết mà thôi, gặp bất cứ người nào, miên là trong trường hợp thuận tiện thì... hạ sát.

Thiệp nín lặng trong chốc lát, như suy nghĩ. Lâu lâu, Thiệp mới lại gật gù đáp:

- Kê ra thì chúng mình cũng khó căn cứ vào đâu mà đoán biết được "nó" có khi cũng lựa người rồi mới giết không chừng. À, anh này, hay là ma?

Vệ Choắt mỉm cười lắc đầu:

- Làm gì có những ma quái ở đây!... Tôi biết chắc kẻ giết người chẳng phải là ai xa lạ hết, cũng là trong bọn anh em ta thôi...

Ngừng lại một phút, Vệ Choắt tiếp:

- Chúng ta không nên ngạc nhiên một chút nào cả vì "nó" rất có thê là anh hay là tôi, không chừng! Câu nói gớm ghê gieo trong khoảng đêm tối âm u lại càng thêm rùng rợn.

Thiện vén tay áo xem đồng hồ rồi bảo Vệ Choắt:

- Anh có cần về lều ngay bây giờ không? Hay là cùng đi "rỏn" với tôi một tua, cho tôi... đỡ sợ!

Vệ Choắt gật đầu:

- Đi cũng được, vì sự thực, nói ngay đê anh biết: tôi "vào sinh ra tử" đã nhiều, nên sự sống chết coi rất thường... Tôi không biết sợ là cái gì!

Thiệp hỏi như khiêu khích:

- Kê cả con ma cây quéo?

Vệ Choắt gật đầu:

- Kê cả con ma cây quéo, vì dù nó có ở ngay trước mặt tôi bây giờ tôi cũng không coi vào đâu! Vì anh nhớ cho kỹ tôi biết rõ nó lắm rồi... Thiệp im lặng không nói gì, cùng Vệ Choắt song song tiến bước về phía cây quéo. Bỗng Thiệp dừng lại, hỏi Vệ Choắt:

- Anh nói như anh có thê biết rõ được, con ma cây quéo hiện nó ở đâu?

Vệ Choắt điềm nhiên bảo:

- Hiện nó ở đây chứ còn ở đâu nữa!

- Anh biết nó từ bao giờ?

Vệ Choắt ung dung đáp:

- Tôi biết nó từ sau vụ án mạng thứ ba...

Tôi đã lập một bản danh sách những người vắng mặt trong khi xảy ra vụ giết người này...

Thiệp ngắt lời:

- Anh vì cớ gì mà đoán chắc hung phạm là một người trong số anh em ta?

Vệ Choắt gật đầu đáp:

- Không khó khăn gì cả. Một điều rất dê hiêu là trong mấy vụ án mạng ấy kẻ bị giết trong trường hợp bất ngờ, trong vòng canh gác lại bị giết bằng lưỡi "bay-don-nét"! Như vậy, tất nhiên hung phạm phải là một quân nhân, có thế thì mới quen sử dụng lưỡi lê, có thê đi lại tự do trong khu canh gác, và có thê lén tới sau lưng kẻ xấu số một cách thản nhiên, dù có xảy ra trường hợp người kia chợt quay lại, hắn cũng không bị lộ hành tích!

Thiệp tươi cười tiếp:

- Tôi không ngờ anh có tài xét đoán chẳng kém gì một trinh sát nhà nghề. Nhưng bao giờ trong vụ án mạng cũng có cái cớ khiến cho hung phạm xuống tay... Vậy trong những vụ trước đây anh bảo hung phạm đã giết người vì thù, vì tiền, vì tình hay vì cớ nào khác?

Vệ Choắt lắc đầu:

- Không có gì cả... Tôi kê một ví dụ anh nghe: anh hãy giao cho một đứa bé một khẩu súng lục giả, cho nó chơi... Tất nhiên anh phải thấy nó cầm khẩu súng ấy rồi tưởng tượng như có kẻ thù đứng trước mặt nó sẽ hô đứng lại, hô giơ tay lên rồi nhắm bắn... Nghĩa là khi giao khí giới vào tay đứa bé thì trong trí nó lập tức nghĩ ngay đến chuyện chém giết một cách tự nhiên... Hung phạm của chúng ta đây thực cũng giống như đứa bé ấy. Hắn cầm khẩu súng nhìn ánh sáng bạc của chiếc lưỡi lê nhọn hoắt là cũng lập tức nghĩ ngay đến phải đâm lưỡi lê ấy vào một thân người... Hắn bỗng thành một kẻ khát máu.

Ngoảnh nhìn thẳng vào mặt Thiệp đương lăm lăm khẩu súng trong tay, Vệ Choắt nói luôn:

- Tôi ví dụ ngay như chính anh bây giờ: có phải với khẩu súng trong tay, anh hiện cũng đương muốn giết người, muốn giết ngay tôi chẳng hạn!

Thiệp bước lùi một bước, cầm đầu súng chĩa vào Vệ Choắt, nghiến răng bảo:

- Anh nói đúng lắm! Bây giờ tôi thấy rất thích giết anh.

Vệ Choắt điềm nhiên như thường, hỏi lại:

- Chắc anh cũng sẽ dùng lưỡi lê mà đâm tôi cho giống mấy vụ giết người trước của anh chứ không bắn, vì nổ súng, tiếng động sẽ làm cho anh khó lẩn tránh!

Thiệp lắc đầu:

- Anh tính nhầm rồi, tôi bắn anh cũng không sao hết, vì anh nên nhớ rằng hiện tôi có bổn phận canh gác và tôi đã nhận được lệnh rõ ràng: tôi được phép bắn chết bất cứ ai khả nghi nếu tôi hô đứng mà còn cứ tiến. Tôi sẽ bắn chết anh rồi tôi sẽ trình rằng tới đây, tôi thấy anh nấp ở sau cây quéo... Anh định xông ra giết tôi, nên tôi phải bắn... Thế là anh chết một cách thiệt thòi... Từ đây tôi sẽ không giết ai nữa, và người ta sẽ yên trí chính anh là con ma cây quéo, có ngờ đâu con ma ấy lại chính là tôi...

Thiệp đã ra lệnh:

- Anh còn muốn nói thêm gì nữa thì nói đi... Đê tôi còn nổ súng.

Vệ Choắt chợt có một ý nghĩ thần kỳ:

- Tôi không cần nói thêm gì nữa, chỉ cần báo cho anh biết rằng tôi đến đây không phải là có một mình... cùng đi với tôi có cả thầy đội sơ-mèn và ba anh em nữa!... Anh bắn thì cứ bắn nhưng chắc chắn anh sẽ bị tử hình!

Rồi ngoảnh lại phía trái, chỗ có nhiều bụi cây sim dại, Vệ Choắt hô lớn:

- Các anh em hãy lại cả đây! Ngay lúc ấy, Thiệp vẫn lăm lăm khẩu súng, cười khanh khách:

- Thôi anh hãy bỏ cái trò ấy đi! Tôi không phải là trẻ con đâu mà anh hòng nạt nộ!...

Ngay lúc này có tiếng người quát:

- Đừng quên, còn có chúng ta đây nữa!

Thiệp giật mình quay lại phía sau...

Và cũng đúng lúc này, Vệ Choắt nhảy tới, choàng lấy Thiệp. Một lần nữa, cái kinh nghiệm của đời sống giang hồ lưu lạc đã giúp anh vật ngã Thiệp, tì một đầu gối lên ngực hắn không cho động cựa, không khó khăn gì cả.

Thiệp không chối cãi gì cả khi bị đưa ra xử trước tòa án binh. Lúc ông chánh án đã tuyên án tử hình hỏi Thiệp có muốn nói thêm gì nữa không thì Thiệp thưa:

- Tôi chỉ muốn biết: Vệ Choắt đã biết trước đâu được rằng tôi định giết hắn mà mang theo mấy người hộ vệ?

Vệ Choắt mỉm cười trả lời:

- Sao anh ngây thơ thế? Làm gì có ai ở đấy bao giờ? Anh đã quên rằng tôi vẫn có nghề riêng là nói được thành tiếng bằng cách vặn hơi bụng mà hai môi không mấp máy chút nào!

Phạm cao Củng

Những Câu Chuyện Kinh Dị

Cùng tác giả

Đoàn Văn Thông

Cho đến nay, các nhà địa chất, các nhà sử học, cổ sinh vật học, môi trường học, các nhà nghiên cứu về địa cầu vật lý, các nhà khoa học... đều công nhận rằng trên hành tinh của chúng ta vẫn còn vô số hiện tượng kỳ lạ mà khoa học chưa giải thích được. Nhiều sách vở tài liệu nghiên cứu từ cổ đại đến nay đã ghi nhận nhiều sự kiện lạ kỳ. Chẳng hạn như các địa điểm thường sẩy ra hiện tượng quái lạ, bí hiểm hiện vẫn còn nhiều trên thế giới đã thu hút hàng ngàn khoa học gia đến nghiên cứu nhưng lời giải thích thì vẫn còn mơ hồ; những hiện tượng lạ kỳ ở Úc, ở Ái Nhĩ Lan, ở Péru, những vùng đất huyền bí ở Nam Mỹ, ở Ai Cập, những địa điểm huyền bí như ở Tích Lan, Ấn Độ, ở Loe Bar, Newgrange và cả vùng bí hiểm Atlantic nữa...

Trường hợp điển hình nhất là vấn đề đoàn quân ma xuất hiện ở vùng đất Loe Bar:

Một buổi trưa tháng 8 năm 1936, Stephen Jenkins sáu mươi tuổi nhà nghiên cứu địa chất thường tới vùng Loe Bar, một địa điểm thuộc vùng bờ biển Cornish. Trong khi Jenkins đang chăm chú theo dõi các vùng đất thì bỗng nhiên ông ta vô cùng kinh ngạc khi thấy phía trước mặt mình một đạo quân thuộc thời Trung Cổ xuất hiện. Quân phục của họ chứng tỏ họ đang trải qua những cuộc chạm trán trong trận mạc. Các chiến sĩ mặc áo đủ màu và khoác loại áo choàng không có tay màu trắng, màu đỏ và màu đen. Ngựa của họ có tấm che phủ với đầy đủ yên cương và những thứ trang sức cho ngựa. Một người lính đứng giữa đội quân, hai tay chống kiếm, mình khoác áo choàng màu đỏ tía đang quắc mắc nhìn chăm chăm về phía Jenkins đứng.

Vừa lạ lùng vừa kinh ngạc, Jenkins, với tính tò mò, gan dạ và thích mạo hiểm, đã không ngần ngại tiến về phía đoàn quân. Nhưng hành động ấy đã làm toàn thể đạo quân thời Trung Cổ biến mất tức thì. Jenkins giật mình ngơ ngác và tưởng mình vừa trải qua một giấc mợ Ông kể lại chuyện này cho người vợ nghe và họ đã ghi vào nhật ký hiện tượng lạ lùng này. Thế rồi, 38 năm sau, ông Jenkins đã chọn đúng vào ngày mà cách đó 38 năm ông đã trông thấy điều kỳ lạ để cùng với vợ đến ngay địa điểm mà ngày xưa ông đã đứng.

Hai vợ chồng lên đường với bức họa đồ ghi địa điểm của trước đây Jenkins đã đứng thì lạ lùng thay hình ảnh đoàn quân thời Trung Cổ hiện ra lần này còn rõ ràng hơn lúc trước. Mặc dầu trước đó bà Jenkins không tin chuyện chồng mình kể nhưng lần này bà thấy rõ ràng điều mà bà không thể tin được. Đoàn quân với sắc phục rực rỡ, cờ xí, ngựa và

gươm giáo dàn ra trước mắt mình, bà sợ quá níu chặt lấy cánh tay chồng và cố dụi mắt vì cứ tưởng mình nằm mơ.

Khi tường trình sự việc này cho một nhóm nhà khoa học, ông Stephen Jenkins đã nói như sau:

" Nếu lúc đó vài người trong quý vị có mặt với chúng tôi thì có lẽ lời trình bày này sẽ nặng cân hơn và có giá trị đứng đắn trung trực hơn... "

Nhiều giả thiết đã được nêu ra để giải thích cho hiện tượng này. Theo sự giải thích của chính Stephen Jenkins thì có thể đạo quân ma này thường xuất hiện ngay nơi vùng Cornish và con người may mắn thấy được là do một năng lực tinh thần nào đó phát nguồn từ một giao điểm (node).

Loe Bar vẫn còn đó nhưng nơi mà năm 1936 cũng như năm 1974, Jenkins đã đứng sẽ không nhất thiết luôn luôn đều thấy được hiện tượng kể trên vì còn tùy thuộc vào môi trường, khí hậu, tầm nhìn và nhất là tùy vào từng con người đứng nơi địa điểm ấy. Điều này, mới nghe qua có vẻ không hợp lý nhưng theo Janet và Collin (hai nhà nghiên cứu về hiện tượng siêu hình, ma quái) thì đó là vấn đề cần phải đặt ra. Hai nhà nghiên cứu này đã ghi nhận một trường hợp về "hồn ma" xuất hiện vào năm 1904.

Tháng ba năm ấy, một toán học sinh được thầy giáo dẫn đi du khảo. Họ leo lên ngọn đồi Marlpit gần Honiton. Tất cả các học sinh hôm đó đều trông thấy một người đàn ông khoác áo choàng màu nâu và đội mũ rộng vành màu đen. Toàn thể con người và gương mặt u ám như phủ một màn sương khói. Theo tài liệu của Collin thì đó là hồn ma ấy đã được ghi nhận (tài liệu thư viện) từ năm 1685. Người đàn ông này là một trong những người trốn chạy từ trận đánh ở Sedgemoor vào năm 1685 và sau đó đã bị quân địch giết chết. Nhà anh ta ở ngay trên đồi Marlpit.

Tuy nhiên, điều kỳ lạ là tất cả các học sinh trong chuyến du khảo ấy đều thấy (người đàn ông trong quá khứ ấy) nhưng thầy giáo dẫn các học sinh thì tuyệt nhiên không

Chùa Tứ Phương Tăng

Cùng tác giả

Sau 1975, tôi cũng như nhiều người khác tìm đường vượt biên, nhưng lần nào khi tôi ngỏ ý với Sư-Phụ của mình, thì đều bị Ổng thản nhiên nói: "Nhà ngươi không vượt biển được đâu!." Tôi nghe thì nghe, nhưng bản tánh tôi lúc nào cũng "Tận nhân lực trước cái đã, Thiên mạng...tính sau", vì thế một hôm, chuyện vượt biên bị bể, tôi chạy toán loạn từ Vũng Tàu về, trong túi chỉ còn có 7$, và 1 bộ đồ dính da!, đến Biên Hoà, tôi hay tin có 1 đệ-tử của mình ở Cần Thơ vừa chạy lên kiếm tôi xuống đi chung chiếc ghe của nó. Thời giờ cấp bách, tôi không thể ghé về nhà mình được, nên tôi đi thẳng ra Xa-Cảng Miền Tây, và nghĩ rằng với 7$, tôi đủ tiền xuống đến Cần Thơ.

Đến Xa Cảng Miền Tây lúc hơn 11 giờ tối, khi leo lên thùng sau của 1 chiếc xe hàng, chú lơ xe trẻ tuổi nói: "Đi Cần Thơ là 10$" Tôi năn nỉ nói là tôi còn có 7$, xin cho quá giang, thì chú lơ đáp: "7$ thì đi tới Vĩnh-Long thôi". Tôi thấy khuya, chỉ có mỗi một xe, nên lẳng lặng ngồi yên, vì nghĩ rằng từ Vĩnh Long về Cần Thơ chỉ có 30km, đến Vĩnh Long, mình năn nỉ chắc họ sẽ cho quá giang qua Cần Thơ. Không ngờ trong xe chật khách, vậy mà đến Vĩnh Long, chú lơ xe vẫn nhớ đến tôi, chú nói: "Ê cha nội, tới Vĩnh Long rồi, xuống đi!" Tôi vừa mở miệng năn nỉ, thì bất ngờ, chú ta chụp lấy cái túi của tôi rồi quăng xuống đất. Tôi thấy lòng đau quặn thắt, không phải vì mình bị từ chối, nhưng tôi đau cho cái tâm-bất-nhẫn của chú lơ trẻ tuổi đó. Và tôi không còn cách nào hơn là leo xuống xe để nhặt lấy cái túi xách, trong đó chỉ có cái khăn, bàn chải và cuốn Kinh- "Phép Mật" của Môn pháị

Tôi không quen 1 ai ở Vĩnh Long, trong túi không có 1$, và đứng ở ngả ba lộ tẻ lúc hơn 2 giờ sáng, cái giờ dễ bị Công-An xét hỏi và bắt, trong người tôi lại không có 1 miếng giấy tờ tuỳ thân nào, tôi nghĩ cách hay nhất là đi lủi ra ngoại ô, tránh ánh đèn khu phố chợ cho yên thân. Trời tối đen như mực, tôi không biết Vĩnh Long, nên cứ lầm lũi đi bừa trong bóng tối, mà không biết sẽ đi đâụ Đến khi tôi thấy trước mặt mình là 1 mái Chùa, bóng ngói cong in lờ mờ trên nền trời đen thẳm, bên trong có ánh đèn dầu leo lét, tôi gõ cửa, thì 1 Sư Cô già ra mở cửa, tôi nói mình lỡ đường xin tá túc qua đêm, Sư Cô liền mời tôi vào,và ân cần hỏi tôi có đói không? cô dọn cơm cho ăn. Cả 2 ngày lăn lộn từ Vũng Tàu về, nên tôi xin phép tắm rửa trước rồi vào lễ Phật xong mới ăn cơm.

Khi ngồi vào bàn ăn, lúc đó tôi mới nhớ là 2 ngày qua mà tôi chỉ ăn có 1 dĩa cơm ở bến xe, bây giờ đói run cả taỵ Nhưng có 1 điều rất lạ, mà chính tôi cũng không hiểu được! vì vừa cầm đũa trên tay, tự nhiên tôi hỏi: "Thầy của Sư Cô đi lâu chưả" Sư Cô cũng đáp: "Ổng mới đi" "Vậy chớ... "Bửu Bối" của ổng để đâủ" Lúc này Sư Cô mới nhìn tôi chăm chằm và nói: "Chú em ở đâu tới đây, xin ngủ, tôi cho ngủ, tôi còn cho ăn nữa, đói thì lo ăn đi, sao chú em hỏi bửu bối này bửu bối nọ làm chỉ" Tôi không biết tại sao, lại hỏi tiếp, câu hỏi đường-đột, vôđuyên, vô-nghĩa và gần như là...mấy dậy! "Tui muốn hỏi Sư Cô là 3 cái bửu bối của thầy Cô để đâu mà?" Sư Cô vẫn nhìn tôi chằm chằm và hỏi lại: " Chú em nói cái gì vậỷ tui hổng hiểu!"

"Thì tui nói 3 cái bửu bối của ông Thầy chứ nói cái gì mà Sư Cô hổng hiểủ Cô để đâu lấy ra cho tui đi!" Đến lúc này thì Bà Sư Cô mới nở 1 nụ cười làm khuôn mặt già nua của Bà tươi hẳn lên, Bà nói: "À phải rồi, đúng rồi, hồi trước khi đi, Thầy tui có dặn, bao giờ, nửa đêm khuya, có chú em nào đến hỏi bửu bối, thì đưa ra cho chú, thôi chú em lo ăn cơm đi, để tui vô lấy bửu bối chọ" Khi Sư Cô cầm cây đèn đi khuất vào phòng trong, tôi mới bắt đầu ăn cơm và vừa nhai cơm vừa suy nghĩ, ngạc nhiên cho chính mình, lối nói chuyện của tôi vừa qua thật là lạ, đó hoàn toàn không phải cung cách của mình!, dường như ai đó...đã dùng miệng của tôi mà nói vậy! Ai là người có thể qua được phép Hộ-Pháp của tôi để nhập vào tôỉ và "bửu bối!", chà chà, từ này tôi đọc thuở nhỏ trong sách truyện rất xưa, thời nay làm gì có bửu bối!, mà bửu bối là cái gì mới được chứ? thiệt là...lãng nhách!

Khi tôi ăn cơm xong thì Sư Cô đem lại cho tôi 1 bọc nylon trắng, cô nói: "Nè, cả 3 cái Thầy để ở trỏng, chú em lấy đi, tui cũng không biết cái gì nữa" Tôi nóng lòng định mở ra xem, thì Sư Cô xua tay nói: "Chú em khoan mở, chờ tui đi ngủ cái đã, chú uống nước xong chừng nào muốn ngủ thì cái bộ ván ngựa ở đàng kia kìa, tui soạn mùng chiếu sẵn cho chú, thôi bây giờ tui đi ngủ đâỵ" "Khoan, Sư Cô!, cho tui hỏi vậy chứ Chùa này tên gì, và Thầy của Sư Cô Pháp Danh là gì, ổng đi khỏi chùa bao lâu rồỉ" "Chùa này là Chùa Tứ Phưong Tăng, thường có nhiều Sư ở khắp nơi tới lắm, tốp này tới rồi lớp khác đi, tui không để ý...còn Thầy tui đi 3 năm rồi, ổng lẹ lắm, mới hôm qua bên Xiêm, bữa nay lại về chùa, bữa sau lại đi Xiêm...ổng đi đi về về hoài à, mà ổng có dặn là hổng cho chú em biết Pháp Danh của ổng. Thôi để tui vô ngủ, mệt quá rồị" Nói xong Sư Cô lọm khọm đi ngủ, tôi không dám phiền Bà nữa nên lặng thinh....Tôi mở cái bọc bửu bối ra, bên trong chỉ có 3 miếng vải vàng, có chữ Phép màu đỏ, và vài tờ giấy trắng, đã ngả màu vàng có ghi chú chỉ dẫn bằng những nét chữ rắn rỏi và đẹp. Hoá ra đó là 3 lá Phép: thứ nhất là chỉ cách...bắt Ma Quỷ, Thần Thánh nhập vào người, thứ hai là Phép Nhịn Đói, còn phép thứ 3 thì cấm, không phổ biến, cho nên, xin lỗi các bạn, tôi không thể kể ra đây! Về phép bắt Ma Quỷ, có chỉ dẫn rõ ràng, rất...tế-nhị !

Vì đa số các Thầy bắt Ma Quỷ bằng cách...đánh đập bằng tay, bằng ấn phép, dọa nạt, hoặc dùng Binh, Tướng, ra oai diễn võ. Cách đó dễ gây đến nghiệp oán thù! Còn phép này thì chỉ... "Khoá" cho Ma, Quỷ hoặc thần Thánh nào đó, khi nhập vào người ai, thì dính trong người đó luôn, không ra được! Mà Ma, Quỷ, Thần, Thánh, khi nhập vào ai, thường thì lúc ra, lúc vào, bởi vậy người bịnh, lúc tỉnh, lúc mê...(giống trường hợp mát thần kinh, chạm giây hoặc..short circuit) cho nên khi bị phép khoá, không ra được. sẽ đâm ra sợ mà xin...mở khoá cho rạ Lúc đó mình mới nói là tại quý vị muốn vô xác người này, tôi chỉ chiều ý cho vô luôn, chớ không gì khác...dĩ nhiên là Ma, Quỷ, Thần, Thánh, lúc đó sẽ năn nỉ, và mình giảng cho họ vui vẻ để hứa là "đi" luôn, mình mới mở khóạ Tôi đọc thấy thích thú vì Phép mà có vẻ..logic lắm...Tôi đi lạy Phật xong ngủ 1 giấc thật ngon đến 10 giờ sáng mới thức!

Khi từ giã Sư Cô, tôi đi ra cổng Chùa, mới thấy cái bảng tên chùa rất cũ kỹ: "Tứ Phương Tăng" các bạn nào ở Vĩnh Long hẳn có biết đến chùa này, tôi không nhớ là ở khúc nào, mà chỉ biết chắn chắn là nó ở ngoại ô của Thị-Xã Vĩnh Long, đường vào chùa có trồng 2 hàng cây làm hàng rào hai bên, tôi lấy làm lạ là lối đi nhỏ xíu, vậy mà đêm qua tôi không thấy hàng rào gì cả, mà tôi lại mò đi được 1 đường thẳng vào chùa, không đụng phải cây cối gì hết!

(Còn tiếp...đến phần Người Đẹp Mỹ-Nương)

ATOANMT

Bóng Ma Trường Áo Tím

Cùng tác giả

Thái ngóc đầu lên để vói rút khăn lông trên đầu giường đặng che mặt mà ngủ, vì đèn chong nóng quá.

Rút khăn xong, anh thả rơi đầu xuống thì nghe một cái cộp, rồi lại nghe anh ta la: " Ui cha ! " Ở mấy chiếc giường hai bên, ngườI ta rúc rích cười. Anh đã bị bạn kế giường rắn mắc ăn cắp gối lúc anh ngóc đầu lên. Tên ăn cắp là Ngư. Ngư hô:

- Nè chụp nè ! Rồi liệng gối Thái theo đường vòng cầu. Gối bay ngang mình Thái rồi rơi qua giường bên kia. Nguyên đưa tay sẵn để hứng lấy rồi dồi gối qua cho Thoại bên cạnh , y như người ta chơi bóng rỗ.

Gối chuyền tay mà bay từ giường này đến giường khác , Thái rượt theo mãi mà không kịp. Rốt cuộc anh đành trở về giường, cuốn mền lạI kê đầu mà nằm.

Những người chơi cái trò trẻ con trên đây toàn là ngườI lớn cả, trên dưới bốn mươi tuổi đầu.

Đó là những thầy giáo ở tỉnh , nhân dịp bãi trường về Sàigòn theo học các lớp tu nghiệp tại trường Gia Long.

Tất cả, ngày xưa đều là lưu trú học sinh ở một trường trung học nào đó ở miền Nam.

Cuộc sống chung trong mùa tu nghiệp năm nay bỗng dưng gây lại cái không khí mười mấy năm về trước với những dãy giường sắt ngay hàng thẳng lối , với trống điểm giờ ăn, giờ tắm, giờ nằm, vớI bóng đèn chong màu xanh xanh tỏa ánh sáng trăng nhơn tạo xuống những chiếc mùng rung rinh mà trong đó các cậu thiếu niên mơ những mộng đẹp ngoài đời.

Ôi, cái đời lưu trú năm xưa, xa lắm rồi mà nghe sao như là mới hôm qua này thôi !

Ôi, những cái đầu, tóc còn dưỡng rẽ, ôi những chiếc tủ đầu giường thơm mùi thuốc rệp mà trong đó bao thiếu niên mơ mộng đã xếp kỹ những bức thư xanh, những bức thư tím, những bức thư hồng, cũng như họ đã ủ kín trong lòng non dại của họ niềm yêu bâng quơ tác giả các bức thư kia.

Ôi ,những gói bánh tổ bột gạo, đường hạ Biên hòa mà các cậu thiếu niên gặm mòn trong đêm tối như chuột gặm khoai, ôi những kỷ niệm xa xưa , nay đã đâu rồi !

Ngày đầu vào trường Gia Long, ai nấy lòng cũng quặn thắt đau, nghẹn ngào xúc động mà nhìn những dãy nhà giống hệt những dãy nhà của trường Petrus Ký, trường Sở Cọp, trường Cần Thơ, trường Mỹ Tho mà trong đó đã nghỉ yên quá khứ của họ.

Làm sao không ngậm ngùi được vì đó là nơi mà một khi kia trong đời họ, họ đã hoài thai nhiều mộng vĩ đại, đã mơ những giấc mơ tiên Nhưng rồi sự học tập và cuộc sống tập thể lôi cuốn họ vào một nhịp khắc khổ hơn nên họ tạm dẹp tình cảm lại.

Nhưng họ vẫn cảm nghe họ trẻ lại đi mườI mấy năm, ham nô đùa vớI nhau như lũ lưu trú học sinh ngày trước Các thầy giáo hôm nay cũng rắn mắc y hệt như cái bản sao của họ hồi tiền chiến Khi chiếc gối bay đến giường cuốI dãy thì anh Trung chụp rồI dộng vào cửa buồng một cái rầm nghe như vợ chồng ai đang đánh lộn vớI nhau - Mấy thằng dịch già này , không cho tao ngủ hở bây?

Đó là lời mắng rất hiền của một ông cụ bốn lăm. Mới bốn lăm mà ông ta ra vẻ cụ lắm - Thôi ngủ bây ơi, kẻo cụ giận không gả con cho thì chết đến sáu bảy cửa lận: cửa trước không ai đóng, cửa sau không ai gài, cửa túi rách không ai vá, cửa tủ tiền chạy ra không ai ngăn, cửa miệng không ai tiếp tế lương thực nè ...... Cả bọn cười xòa, và anh Hạc hát giọng tuồng:

- Nhạc gia ơi ! Xin đó mựa đừng vội giận, đây nguyền nuốt hận làm im cho nhạc gia ngủ đó a nhạc gia !

- Thùng ! anh Trinh đánh trống miệng một cái nghe ngọt xớt - Thôi phát nầy ngủ thật đa ! Dung nói - Khoan, để mổ ra câu đối, đứa nào đối được, sáng mổ bao ăn kem. Ráng nghe các cha:

- Ngủ giả mà nói ngủ thật, là giả ngủ - Xuất đối đi, đối đối nan, thỉnh tiên sinh đối vậy - Im !

- Đèn chong sáng quá làm sao ngủ - Trong Petrus Ký đó nghen tụi bây, hồi đó nó không chong đèn bóng xanh như ở đây, vì bóng xanh sáng lắm, học trò lén thức học, bỏ ngủ rồi bịnh cả đám. Biết nó làm sao hôn? Nó chong bằng bóng trắng mà ngoài sơn dầu sơn xanh. Như vậy ánh sáng tốI hù, đứa nào ham học thì bơ.

Có một bận đó nghen, tụi nó đòng đòng lên ba đứa như làm trò xiệc ấy, để lấy dao cạo dầu sơn. Quên nói là trường Petrus Ký khôn lắm , nó rút bóng đèn lên sát tận trên trần để mình phá không được.

Đang cạo sột sột bỗng đâu thầy Su-quây-dăng mở cửa kiếng kêu cái bực mà bứơc ra, vì tụi ngoài này làm ồn như giặc, thầy ta chịu không thấu đời quyết ra chụp vài cậu phạt cho hả giận Đám hát xiệc nghe nguy hoảng hốt, anh kép ở dướI quăng anh kép đứng giữa, anh kép giữa quăng anh kép trên. Anh nầy, tao nhớ tên là anh Gừng. Anh ta té cái rầm , năm bất tỉnh nhơn sự , con dao đâm lủng tai trái anh ta, máu ra linh láng.

Thầy Su vừa bước ra, thấy vậy ngỡ anh ta chết, sợ chịu nhơn mạng, vội thốI trở vô. Vừa lúc ấy thì mùng cháy rần rần vì anh Ký thắp đèn cầy mà học , học mê không hay gì cả, đến chừng nghe cái rầm anh ta giật mình hươi tay đụng đèn ngã vào mùng mà gây hỏa hoạn.

- Rồi sao nữa?

- Rồi áp nhau mà la mã tà chớ sao. Có thằng hô to " Hỏa thiêu Hồng Liên Tự rồi bây ơi ! " Đêm ấy, nhà ngủ tụi tao rầm rầm như đám giựt giàn cúng làm chay.

- Rồi anh Gừng có sao không?

- Sau đó , anh ta hóa thành thi sĩ.

- Lạ không?

- Anh ta làm thơ như vầy:

Cạo đèn bây học, lại quăng tao, Nghĩ giận tụI bây , máu muốn trào Hát xiệc không lương , xương lạI gãy, Thầy Su hoảng sợ, thích biết bao !

Chưa chết mà bây châm lửa đốt, Tao chẳng dân Miên, hỏa táng tao !

Từ rày nhắn vớI quân ham học, Vùi đầu vào sách sẽ ho lao - Toàn vần ao không mà thôi - Phải, đó là anh ta cố ý, vì anh ta nói anh ta đã bị nóc ao mà !

- Thôi bỏ mùng xuống ngủ các cha !

- TụI bây ơi, mùng của mình vén coi có vẻ thất trận lắm ! Tụi áo tím hồi đó tao đi ngoài đường thấy chúng nó vén mùng khéo mà bắt thèm. Chúng nó may mùng trùm phủ ngoài trụ, rồi muốn vén, vo tròn lại từ lai trôn vo lên, như con gái thợ cấy xăn ống quần. Thật là tay con gái có khác.

- Các cô con gái áo tím dễ yêu hồi đó bây giờ đã hóa ra bà già rồi bây ơi, trời hỡi nè, đời ngườI sao mà thấm thoát , cô áo tím của tôi đã năm con bảy cháu rồi nè trời !

- Hu.....hu.....!

- Thùng !

- Các anh ơi, sao mà nằm trên giường nầy, tôi nghe như hương thừa của ai còn phảng phất đâu đây.....

- Giường cũ biết còn hay không?

- Sao lại không. Trường Gia Long là cái trường độc nhứt không bị quân đội Nhật và Pháp sung công thì cái gì cũng còn nguyên vẹn cả, trừ người xưa. Kìa cái cây dé ngựa ngoài sân, ngày xưa, cô áo tím của tôi chiều chiều đã dựa vào đó mà làm thơ.

Cây cối bây giờ đã thành đoàn cổ thụ già, đang chờ người đi mất tự ngàn xưa ... Ngày nào tròn trăng lại nhớ.....

- Có ai xuôi vạn lý , nhắn đôi câu.....

- Thùng !

- Tân cổ nhạc hằm bà lằng, mại dô !

- Quỉ dịch, có để người ta ngủ hay không nè?

Bấy giờ chắc cũng đã khuya rồi, nên phần đông mòn mỏi và lời mắng cuối cùng đã bịt miệng họ được.

Tuy nhiên, những người chưa ngủ vẵn lăn qua trở lại hoài. Nhớ vợ, nhớ con ở tỉnh nhà , hay nhớ một mối chinh phục mớI? Ừ, một dịp đi Sàigòn y như là ngày kép núi hạ san và rất có thể gặp đào giữa truông mây Thầy giáo Lâu ngồi dậy định bước ra cửa sổ dòm sao. Thầy giáo Niệm cận giường còn thao thức , thầy kéo bạn dậy và nói nho nhỏ:

- Chưa ngủ à? Ra đây hứng mát. Trời, tháng bảy mà sao nóng nực quá?

Giáo Niệm là tay làm ồn nhứt trường từ hổm nay, không ai chịu nổi thầy ta cả. Mỗi đêm thầy ta đều rủ các bạn tái diễn cái trò kêu rệp ngày xưa nghe muốn bể con rái.

Thầy gác , tiếng Pháp kêu là Su-quây-dăng , nhưng hồi xưa học sinh lại kêu lầm họ là rê-pê-ti-tơ và kêu tắc là Rệp.

Đêm đêm hễ thầy gác đi rình là họ kêu than có rệp:

- Rệp mắc dịch ! Bò hoài sáng đêm !

Rồi họ đập giường rầm rầm Giáo Niệm nô đùa dữ quá , cười muốn bể cửa kiếng nhưng ai tinh ý thì thấy trong cái quá lố ấy có ẩn hiện một hơi hướng đau thương, như là sầu quá hóa điên, cườI ra nước mắt.

Nhứt là từ lúc các bạn nhắc đến các cô áo tím cho vui thì thấy thầy ta ngậm câm, không tham gia buổi tối vui nữa.

Tiểu tiết ấy không thoát khỏi mắt quan sát của ngườI bạn thân giữa đường của giáo Niệm là giáo Lâu.

Còn một điều lạ lùng nầy nữa là từ Phong Dinh ( Cần Thơ) lên để theo học lớp tu nghiệp Anh văn mà giáo Niệm không thèm học hành gì cả. Theo chỗ dọ biết thì ngày xưa thầy rất khá Ăng lê, mà đã quên hết rồi.

- Thì nay học lại , chớ khó khăn gì đâu.

- Nhưng thầy ta như cóc cần học. Mỗi lần bà giáo người Mỹ gọi đến thầy là thầy cứ trả lời độc một câu mà thầy còn nhớ:

- I can't speak English (1) " Tâm sự gì? " Lâu tự hỏi thầm và ái ngại cho người bạn mới mà thầy rất mến.

Một người từ Bình Dương xuống, một ngườI từ Phong Dinh lên, chơn trời góc biển gặp nhau, lại mến nhau như bạn thâm giao đâu từ thuở ấu thời.

Đôi bạn thót lên ngồi trên đầu tủ com-mốt , rồi Lâu chỉ vòm trời đen lóng lánh sao mà hỏi bạn:

- Giống cái gì?

- Giống sao vàng rải trên hòm sơn đen - Ghê quá ! Sao anh lại nghĩ đến cách so sánh tang tóc như vậy?

- Có lẽ vì liên tưởng.

- Đến cái gì?

Giáo Lâu đặt tay lên vai bạn không nói gì, nhưng cử chỉ ấy hùng biện biết bao ! Đôi bạn thông cảm nhau một niềm thương mến sẵn sàng trao đổi nhau nghe tất cả cái gì ray rứt trong lòng họ.

Giáo Niệm cúi xuống nhìn sân trường tối om, xa xa một vừng ánh đèn vườn làm nổi bật lên cây lá trong một khoảng nhỏ....

- Trong cái im lặng bao phủ cảnh trường nầy, tôi bồi hồi tưởng nhớ năm xưa ....

- Ngỡ gì, ai lại không như thế. À, hồi đó anh học trường nào?

- Petrus Ký - Còn tôi thì học Sở Cọp. Trường của mình nên thơ hơn trường này phảI không anh. Thuở ấy, đêm tôi dòm ra sở thú, lắng nghe tiếng thủ thỉ của dân rừng bị nhốt... - Còn tôi thì đêm đêm dòm ra thành Ngã Bảy lúc đó còn là một cánh đồng ma, để xem đèn ma và nghe mấy chị bột khoai kêu mả tà. Ấy ,quanh trường hoang vắng nên tối nào cũng có cướp cạn.

- Còn ở đây lâu đài, dinh thự nhiều quá, không đẹp gì hết.

- Tôi, tôi lại nghĩ khác. Tôi thấy ở đây rất nên thơ vì có lẽ trường này dính líu đến tôi nhiều.

Giáo Lâu đã thành công nhờ khôn khéo. Thầy ta biết nếu tra hỏi thì chắc bạn không chịu khai. Còn gợi chuyện thì tự nhiên việc nầy đưa đến việc khác, và đầu dây mốI nhợ sẽ được tháo tung ra.

Giáo Niệm đột ngột hỏi:

- Anh có biết là tôi chưa vợ hay không?

- Không , trời ơi, đã bốn mươi hai rồi mà ....

- ...... Mà còn cô độc, ừ. Tôi đi lên đây , mục đích chánh là đi hành hương. Hễ có dịp vào trường Gia Long là tôi vào, không biết để chi, nhưng không thể đừng được.

Trường nầy không phảI cảnh cũ, nhưng có lẽ nó gợi nhớ nên tôi thích. Hễ nhớ là đau, nhưng lạI cứ muốn nhớ, nhớ hoài để nghe như nó còn mới hoài, mới như vừa xảy ra hôm qua đây.

Năm ấy tôi học năm thứ hai. Một hôm Chúa nhựt ra chơi nhà ngườI chịu trách nhiệm về tôi đối với nhà trường, tôi gặp Oanh, trường áo tím, cháu của nhà nầy mà tôi không dè.

Tôi còn nhát gái lắm, nên bẽn lẽn một lúc rồi bỏ đi luôn.

TốI lại về trường tôi mới thấy là tôi ngu quá. Bạn hữu trong trường đứa nào cũng có bạn gái ở ngoài cả chỉ trừ tôi thôi. Nhà quê không biết làm quen với ai, nay gặp dịp tốt lại trốn mất thì có ngốc quá hay không?

Nhưng bây giờ mà có bạo gan tuần sau ra đó để gặp cô ấy chắc cũng sẽ ú ớ , không biết nói gì Cô bé đẹp quá ! Áo tím làm nổi bật nước da trắng nõn của cô và cái e lệ của cô sao làm tôi điếng người đi.

Bí quá, tôi lén bạn hữu kéo anh Lưu ra góc sân và hỏi:

- Anh Chín nè, làm sao anh quen với bạn gái?

Lưu là một học sinh rất đẹp trai. Anh ấy lại biết làm thơ nữa. Anh có một tập thơ nhan đề là " Anh Chín thi tập ", trong đó anh sưu tầm thơ của anh và của nhiều bạn gái của anh. Anh Chín là biệt hiệu cà rỡn mà bạn hữu gán cho anh và anh vui vẻ nhận lấy.

- Cái đó tùy anh, Lưu đáp. VớI mỗI người, phảI mỗi cách. Cô ấy thế nào?

Tôi kể chuyện gặp gỡ cho anh nghe. Anh trề môi mà rằng:

- Anh thật là thằng chúa ngục, anh trốn như vậy nó khinh anh rồI thì còn mong gì.

Tôi khổ sở quá, và luôn hai ba Chúa nhựt không dám ra đó nữa.

Tuần ấy tôi xáng bịnh: sốt rét rừng. Nhà thương cứu cấp ở trường gởi tôi vào nằm điều trị trong Chợ Rẫy.

Thuở ấy công chức và học sinh đi Chợ Rẫy đều nằm chung một trại , gọi là " Nhà giàu I".

Tôi được tiêm thuốc hai hôm là hết sốt. Nhưng lệ nhà thương , sốt rét rừng cho nằm mườI lăm hôm.

Hôm thứ ba tôi ra ngoài sân, lại gốc me ngồi chơi thì lạ quá, trên băng đá dưới gốc me ấy , cô áo tím đang ngồi đan nón.

Tôi hoảng vía toan thối lui để chạy vào trại thì cô ta thấy tôi, mỉm cười chào tôi một cái. Tôi quýnh lên, đỏ cả hai tai rồi ú ớ như thằng câm.

Để cứu tôi, cô hỏi:

- Anh vào nằm đây bao lâu rồi?

- Dạ ơ....hơ .... mười lăm Sợ quá, đến số ngày cũng nói bậy.

- Em thì mớI có ba ngày. Anh bịnh làm sao và nằm phòng số mấy?

Bấy giờ tôi đã hoàn hồn, bước lại gần băng mà đáp:

- Tôi nằm số bảy, trên lầu. Cô bịnh làm sao và nằm ở đâu?

Thì ra cả hai đều sốt rét. Cô ấy nằm số 25 dưới đất. Hỏi phăng tới thì biết cô cũng học năm thứ hai , ban sư phạm, và tên là Oanh.

Oanh nói:

- Mấy tuần nay, em có ra luôn. Cậu em ngạc nhiên lắm mà thấy anh không tới. Cậu em nói anh học giỏI lắm, không lẽ lại bị phạt ở lạI ngày Chúa nhựt.

Không, không bao giờ cậu Oanh và Oanh biết lý do vì sao tôi không ra cả.

Nhà thương Chợ Rẫy lúc ấy là nơi gặp gỡ của lưu trú học sinh các trường trung học ở Sàigòn. Vài mươi hôm hết hạn , rồi lắm khi thân đến suốt đời. Kỷ niệm chung cũng nhiều lắm.

Oanh và tôi, cố nhiên, cũng trở thành đôi bạn. Đêm nào chúng tôi cũng ra hàng rào sắt đón chú giò chó quảy mua vài chiếc để ăn với sữa đặc nhà thương phát cho.

Cái thú ăn giò chó quảy to bằng cườm chân ở cửa Chợ Rẫy, không anh học sinh tiền chiến nào quên được cả.

VớI lại cái thú kéo nhau xuống nhà xác , rồI hù một tiếng, mạnh đứa nào đứa nấy chạy, chạy đến vắt giò lên cổ.

Một bận Oanh chạy như vậy rồi vấp té , nhờ tôi đỡ kịp. Không hiểu sao kể từ phút đó chúng tôi không còn thẳng thắn với nhau được nữa.

Ra nhà thương , tuần nào chúng tôi cũng gặp nhau ở nhà người chịu trách nhiệm.

Ở đó, câu chuyện giữa chúng tôi là câu chuyện học hành, là chương trình đại số, là phản động hóa học, là định lý hình học, chớ không còn là câu chuyện trăng , sao thú vị ở nhà thương.

Vì vậy, tôi cố tìm cách gặp Oanh nơi khác, đổi không khí để tìm lại những ngày thần tiên khác.

Và chúng tôi đã tìm được.

Không nói chắc anh hiểu ngay là chúng tôi yêu nhau. PhảI, nhưng con ngườI của chúng tôi đứng đắn lắm, nên chỉ yêu nhau suông vậy thôi, chớ không có gì tội lỗi hết.

Nhà cũng biết thế, nhưng tin chúng tôi lắm, nên cũng chẳng rầy la gì, mặc dầu nhiều chúa nhựt, chúng tôi rủ nhau đi tuốt, bỏ cơm trưa. Tối lại vào trường mới ăn.

Tôi hẹn với Oanh ra trường sẽ xin làm thầy giáo để cùng nghề với vợ tôi cho tiện lúc đổi đi nơi nầy nơi khác.

Và tôi đã giữ lời hứa. Nhưng vì chưa cướI nhau nên Oanh được bổ đi Sóc Trăng , còn tôi thì Bà Rịa.

Tuy cách trở, mà thơ từ qua lạI luôn. Oanh bị tang bà nội, nên chúng tôi chưa thành hôn với nhau được.

Cứ mỗi ba tháng là tôi xin phép nghỉ, đi xuống thăm Oanh một ngày ! Oanh vẫn yêu tôi như thường, có lẽ yêu hơn trước vì hễ tình yêu chưa toạI thì nó cứ càng ngày càng tăng.

Cả hai chúng tôi đều nóng lòng đợi mãn khó tang bà và cùng dự liệu nhiều việc về tương lai.

Như vậy được một năm. Còn có bốn tháng nữa là hết tang. Tôi nao nức lắm và vừa định xuống thăm bạn lần chót để thỏa thuận nhau về chi tiết đám cưới, thì bỗng được thư Oanh.

Oanh bảo tôi đừng xuống nữa, giọng nhứt quyết lắm và hăm sẽ giận tôi luôn nếu tôi cãi lời Oanh. Oanh lại cho biết rằng đám cưới phảI đình lại không biết đến bao giờ.

Đọc xong thư, tôi đâm nghi. Tại sao nàng lại cấm tôi xuống, và đòi đình hôn lễ? Có phải nàng đã yêu kẻ khác hay không? Tôi ghen tức lên , rồi tôi đau xót không thể tả được.

Vài hôm sau, tôi định cứ đi đạI xuống đó, xem cho biết sự thật. Thà là phảI bật ngửa ra mà thấy mình bị phụ tình, còn hơn là ngồi nhà mà xốn xang, mà nghi hoặc.

Nhưng tôi lại không đi, vì tôi hờn Oanh. Thôi, người ta không thương mình nữa thì thôi, đeo đuổI theo làm gì, Con ngườI bạc nghĩa ấy còn xứng đáng sao được mốI tình chung thủy của mình !

Thế rồi tôi nín đi hai tháng. Tôi ốm xanh xao, và bỏ công việc đến nỗi bị ông Thanh tra hàng tỉnh phê bình cảnh cáo mấy lần.

Không chịu được nữa , tôi gởI thư, gửi liên tiếp mỗI ngày một bức, hăm tự tử, dọa xuống thăm nàng ,đủ thứ việc.

Nàng trả lời cũng liên tiếp và nói nếu tôi xuống là nàng sẽ chết mất.

Rồi đùng một cái, đến tháng tư là tháng xả tang, Oanh gởI cho tôi một bức thư vĩnh biệt. Tôi còn thuộc lòng bức thư ấy.

Anh Niệm ơi !

Em đã chết rồi. Kể từ giờ phút anh được bức thư nầy thì em không còn ở trên đờI nầy nữa. Hay là em còn, mà không bao giờ anh thấy mặt em được cả.

Anh ơi, em ích kỷ lắm, rất muốn làm vợ anh cho dẫu một ngày thôi, để thỏa tình em yêu anh từ bao lâu nay.

Nhưng mà suy cho cùng , nghĩ cho tận, hưởng thụ ấy không ích lợI gì cho em cả, mà hạI cho anh không biết bao nhiêu.

Vậy anh cứ xem là em đã chết rồi. Dầu anh có lục lạo thế nào cũng chẳng tìm được em đâu. Mà tìm làm chi , nếu anh muốn mốI tình đôi ta cứ còn chớm nở mãi mà không tàn rụng bao giờ.

Nghĩ ra thì thái độ của em cũng do ích kỷ xui giục mà có. Tránh ích kỷ kia lạI phạm ích kỷ nầy. Đừng tìm hiểu, không bao giờ anh hiểu được đâu.

Em đã khóc ra không biết bao nhiêu là nước mắt khi quyết định điều trên. Anh có lường được niềm đau xót của em không?

Nhưng em là gái mà em đã can đảm được , thì anh cũng nên theo gương em. Đừng sầu muộn gì hết, cố mà quên đi rồI lập gia thất. Trong đờI chắc không thiếu chi ngườI đáng yêu hơn em, anh đừng có lãng mạn lắm mà thiệt thân.

TrờI ơi ! Tôi đau nhói như ai cắt ruột tôi ! Anh ơi, em chết đây !

Dưới thư không có lời chào nào, cũng không ký tên, dường như Oanh không còn can đảm viết thêm chữ nào nữa hết.

Tôi chết sững nửa tiếng đồng hồ, rồI đánh điện ngay cho ông Hiệu trưởng trường Sóc Trăng , vì đã bỏ bê công việc lại xin phép mãi, e bị quở nếu xin nghỉ nữa.

Điện tín , tôi viết như vầy:

Trân trọng yêu cầu cho biết sức khỏe của Oanh.

Ông ấy đáp:

Oanh thôi việc. Đi không để lại địa chỉ.

Hừ, thế nầy là làm sao? Thoạt tiên, tôi đoán là Oanh đã lỡ dại với ai, có nghén nên sợ xấu và sợ tội ( trong giáo giới ngườI ta nghiêm khắc về hạnh kiểm của giáo viên lắm ) nên trốn đi. Lại ân hận nên viết thư cho tôi thế.

Nhưng xem kỹ lại lờI thư thì không phải vậy.

Hay là? Tôi nhớ có đọc một tiểu thuyết trong đó tác giả kể chuyện một cô kia ho lao, rồi trốn tình nhơn để chết.

Nhưng cũng không phảI. Oanh có học, dư biết bịnh lao không hoàn toàn tuyệt vọng (2) , thì dại gì nàng phảI làm như vậy.

Mà nàng tự tử hay trốn đi đâu? Đó là điều tôi cần biết, nên đánh liều làm mặt lì, tôi xin nghỉ phép nữa.

Oanh ngườI Thủ Thừa. Cha mẹ nàng vẫn ở đó. Tôi vừa vào tớI sân thì bà cụ đã khóc rền nhà.

- Con ơi, vợ con nó đã chết rồi à ! Ơ.....Ơ.. trời ơi là trời , con tôi chết.

Chúng tôi không có làm đám hỏi, nên chưa kêu cha mẹ Oanh là ba má. Thế mà nay bà cụ lạI ăn nói như vậy thì tôi hiểu ngay là Oanh không có tội lỗI gì đối với tôi cả.

Tôi chỉ ngậm câm , khóc không được mà nói cũng chẳng ra lời.

Ông cụ chạy ra xách valy cho tôi và kéo tôi vô nhà. Bà cụ khóc kể một hơi rồi hối trẻ bắt vịt làm thịt đãi tôi. Đàn bà Việt Nam bao giờ cũng vậy. Đau đớn làm sao, họ cũng dẹp lại để lo ăn cho chồng con, cho khách khứa Đàn ông chúng tôi không khóc, nhưng im lặng còn đau thương hơn những kể lể của đàn bà không biết bao nhiêu Ông cụ cứ làm thinh mà săn sóc tôi, coi như con rể cũ mới về và nó đang sầu, cần thương yêu nó để an ủi nó.

Khi bà ra sau chỉ huy bữa nấu ăn, ông cụ mới mở miệng:

- Nó về đây, cất một cái chòi nhỏ trong ruộng, thật xa. Nó căn dặn tôi với mẹ nó hễ .... con đến - ông cụ ngập ngừng trước tiếng "con ", ngại thốt nó ra, nhưng rốt cuộc vẫn dùng tiếng ấy- hễ con đến thì nên giấu biệt chỗ trú ẩn của nó. Ngỡ như vậy là xong , nào dè mấy hôm sau thì nó uống thuốc ngủ để quyên sinh.

Bấy giờ tôi mới khóc được. Đàn ông khóc chắc là trông xấu lắm ! Nhưng tôi bất kể, cứ khóc mùi mẩn như không có ông cụ ở đó.

Khóc cạn lệ tôi mới hỏi xin ông cụ cho biết vì sao em Oanh tôi lại như vậy.

- Con yêu nó quá rồi hoa mắt, hay nhờ nó che giấu khéo thì không rõ. Thật ra nó đã mang bịnh từ một năm rồi, Nó nổi đơn.....

- TrờI ! Tôi kêu thầm - Trong gia đình, bên nội và bên ngoại nó , ba đời liền , không thấy ai có bịnh đó. Xem sách thì thấy nói bịnh cùi có thể lặn trốn hai ba thế hệ lìên rồi mới xuất hiện trở lại.

Tội nghiệp nó quá, căn bịnh bất nhơn lại trồi lên vào thế hệ của nó Hay nó bị truyền nhiễm do người ngoài không biết chừng , vì không nghe nói ông bà hồi trước có ai bị phong đơn.

Nó hoảng sợ hết sức lúc buổi đầu, uống lu bù thứ thuốc mà đơn cứ nổi lên: da sần sần, trái tay dầy ra. Chắc là nó đánh phấn khéo nên con không thấy.

Về sau , nó tuyệt vọng lắm, và có ý muốn quyên sinh. Cái ngày mà nó viết thư dặn con đừng xuống là ngày đơn nổi dữ sau một bữa ăn cua đinh.

Bạn hữu khuyên nó theo thuốc Tây, trị bằng thuốc xanh trộn vời dầu chùm bao. Lối điều trị ấy có hiệu nghiệm thật. Các dề đơn lỳ mặt xuống, nhưng khốn thay, da mặt nó lại xanh lè như đã nhúng chàm ,đánh phấn thế nào cũng chẳng lấp được cả.

Sở giáo huấn cũng chưa nói gì, ông Thanh tra chỉ khuyên sơ sơ nó nên nghĩ dài hạn mà điều trị. Nó còn đang trù tính thì đơn lại nổI trở lên, lần này tao loạn lạ kỳ, bất chấp thuốc men, và nổi cao như phỏng lửa.

Thế là nó xin thôi, viết thư vĩnh biệt con , rồI lùi về đây.

Mấy ngày ở trong chòi cô quạnh, chắc nó khổ sở lắm về viễn ảnh tương lai của nó , nên trong một lúc tuyệt vọng kia , nó hủy mình Trời ơi, bấy giờ tôi mớI hiểu thấu mấy tiếng kêu than của Oanh ở cuối thư, và mới hiểu được tạI sao nàng bảo là nàng ích kỷ.

Oanh muốn cho tôi giữ mãi trong trí hình ảnh tươi đẹp của nàng , y như ngườI quí phi bên Tàu ngày xưa cấm đoán ông vua ấy vào thăm nàng lúc nàng đã tiều tụy sau một trận ốm nặng.

Nhưng không, Oanh có ích kỷ đâu. Nàng chỉ thương tôi thôi, muốn tránh cho tôi nỗi thất vọng vì thể chất của nàng.

Lâu kính nể sự yên lặng của Niệm sau câu chuyện ấy. Trên trời đen sao giống như các điểm vàng trên cỗ săng, cỗ hòm chôn vùi nàng Oanh kiều mị ngày xưa.

- Anh thấy không. Niệm tiếp, làm sao mà tôi quên được mối tình chớm nở ấy. Nó có tàn rụng sau một thờI ăn ở với nhau đâu. Mãi đến giờ phút nầy, tôi nghe vẫn còn yêu Oanh , còn nghe như Oanh còn sống đâu đó. Tuổi tôi cứ chồng chất lên , nhưng tôi có ấn tượng rõ rệt là tôi còn là học sanh mới ra trường với một mớ mộng xuân.

Chúng tôi day lưng dòm vào phòng ngủ thì, qua lướI mùng "tuyn", các cậu học sanh già đang yên giấc, ngáy pho pho.

Ánh đèn chong xanh xanh gợI lên hình ảnh huyền hoặc của một thế giớI ma quái mà trong đó hồn ngườI xưa như đang rung rinh bay qua bay lại, hồn những cô áo tím ngày trước, những cô mà thất tình, bịnh tật, chiến tranh đã cướp đi khỏi thế giới của chúng ta.

Dưới sân đen ngòm , nhiều bóng đen dường như thơ thẩn.

Những bóng ma của dĩ vãng !.

Chú Thích. (1): Tôi không nói được tiếng Anh. (2): Thuở ấy, tuy chưa có thuốc trụ sinh, nhưng bịnh lao nhiều trường hợp cũng trị khỏi được.

Bình Nguyên Lộc

Con Quỷ Truyền Kiếp

Cùng tác giả

Đang đọc sách, Swanhild dừng lại. Trong khoảng có nửa giờ nàng trông lên đồng hồ những năm lần. Mỗi phút nàng một thêm nóng ruột. Mười hai giờ ba mươi lăm rồi. Sao vằng vặc đầy trời và đêm lạnh giá như thế này mà Oliver, anh nàng vẫn chưa thấy về.

Oliver với Swanhild là hai người cuối cùng còn lại trong dòng họ Hammond, ở với nhau vẫn rất thuận hòa, rồi từ sau chiến tranh và từ ngày Reggie, người anh cả chết đi, dây thân ái của hai người càng thêm khắng khít.

Tối hôm đó tâm trí người thiếu nữ lại bị ám ảnh vì câu sấm truyền lại từ đời tổ tiên nhà nàng.

Ở đâu thông mọc um

Đêm sao tạnh và rét,

Gia trưởng nhà Hammond

Sẽ gặp phải lúc chết.

Bên ngoài gió bão tự miền bể thổi tới, bao vây cả lớp dinh cợ Những tiếng ồ ạt không ngớt tưởng như thấy mông mênh vô cùng. Bốn phía tường đầy tiếng gió gầm rít không tới được tai người thiếu nữ và trong gian phòng Holbein (#1) là nơi nàng đang tĩnh trú, sự im lặng như chết kia trùm phủ quanh nàng lại có vẻ đáng e ngại hơn lên giữa những trận giông tố hoành hành.

Quang cảnh khắp gian phòng càng khiến nàng thêm băn khoăn lo sợ. Hai bên lò sưởi, hai bức ảnh mập mờ (chưa chắc đã là do Holbein vẽ) phô diễn chân dung Godfrey Hammond và bà vợ, cả hai đều bị con quỷ nghìn đời ở Dannow ám hại năm 1556 trong một đêm giá lạnh như băng. Giữa hai bức treo đó, chân dung ông thân sinh Godfery tục danh là Sir Magnus Pháp sư: ông này tự tử chết sau lúc đã thắng nổi con quái vật.

Swanhild lại nhìn lên đồng hồ lần nữa và mắt nàng trông lướt qua ba bức tranh. Nhà chỉ thắp có một ngọn đèn, khác nào một khu ấm áp, sáng sủa nhỏ nhoi, ở lẻ loi giữa cả một miền mênh mông vắng lạnh của gian phòng tường lát gỗ và đầy những hình bóng chập chờn. Khi lửa không bập bùng cháy nữa trong lò thì bao nhiêu sự hoạt động của cả nhà đều tắt hết.

Swanhild là một cô gái hai mươi, dáng dong dỏng cao nhưng vẻ người khỏe mạnh, nét mặt quả quyết, đôi mắt mờ xanh lặng lẽ và mở tọ Mớ tóc hung vàng trùm sau khuôn mặt một màu vàng ánh tuyệt đẹp, phơn phớt màu từ da đồng tới màu sáng tương tự như bạc. Nàng quả là dòng dõi của ông Magnus Pháp sư kia. Dòng dõi người có khuôn mặt phai mờ, nét mặt rắn rỏi, dưới cái mũ kiểu Tudor và nổi bật trên nền đen tối của bức tranh.

Người đầu bếp Walton lúc ấy đi vào, ngoài mặt thì ra điệu vào để nói mấy câu chuyện với cô chủ. Thực ra thì lão ta vào đây là cốt để khuây khỏa bớt nỗi lo ngại của chính mình. Lão ngượng ngập bảo Swanhild:

- Cậu Oliver nhà về khuya quá cô nhỉ!

- Miễn là đừng xảy ra những điều chẳng lành cho anh ấy là may rồi.

- Thưa cô, thiết tưởng bao giờ cũng nên ngại rằng cậu nhà phải gặp chuyện không haỵ Đêm như đêm nay thì thế nào cũng có anh em nhà tên Ades.

- Anh em nhà ấy chỉ là những tên đi đánh bẫy thôi, sợ gì.

- Nhưng thưa cô, cô còn lạ gì những kẻ đã đi đặt cạm mắc bẫy để bắt những con vật vô tội như thế thì còn cái gì mà chúng chẳng làm? Anh em nhà Ades là những đứa hay mang oán, mà thằng Charlie thì vẫn còn tức giận về chuyện cậu Oliver sửa phạt nó tháng vừa rồi.

- Đúng lý ra họ có tức thì tức tôi mới phải, vì chính tôi bảo anh tôi đến chỗ họ mắc bẫy. Oliver chỉ muốn người ta bắt giam Charlie lại thôi.

- Dẫu sao thằng Bed với nó vẫn đã thề rằng hễ cứ gặp cậu Oliver ra ngoài trại là báo thù.

- Chính vì thế mà tôi yên lòng đấy, lão Walton ạ; Chúng nó đã nói ra miệng như thế thì không dám làm gì nữa đâu.

- Ồ, cô ạ, biết đâu là chừng mà...

Malton ngập ngừng rồi lại tiếp:

- Cậu Oliver nhà xuống Lower Dannow (Đa-nô-hạ) giá đừng chọn lối tắt qua rừng thì hay.

Swanhild chưa trả lời vội; người lão bộc vừa thốt ra những điều lo ngại của chính nàng. Sau cùng nàng mới nói:

- Về phần con quái vật thì không phải lọ Bốn mươi năm nay rồi mà chưa lần nào thấy nó.

- Nhưng thưa cô, đó không phải là một lẽ. Đã có hồi nó ở yên ròng rã một trăm hai mươi năm rồi, lúc hiện ra lại càng ghê gớm hơn trước.

Lão bất giác đưa mắt nhìn bức chân dung Warlock Swanhild rùng rợn khắp người. Nàng đành phải bỏ không thể giữ được mãi cái vẻ thản nhiên bề ngoài. Nàng thở dài, nói:

- Giá mà ta biết trước được lúc nào nó hiện ra nhỉ!

- Biết trước thì cô định làm gì?

- Thì ta sẽ mời thầy Doyle đến, hay giáo sư Lodge hay cô Bartendale đến giúp ta.

- Bartendalẻ Cô này đã đến Dannow lần nào chưa ạ?

- Chưa. Tôi chỉ biết tiếng cô ta là người cao tay nhất trong những người có phép trừ tà giải nạn. Hình như ngoài cái khiếu tìm mạch nước, cô ta còn có tài trinh thám nữa kia!

Walton lắc đầu:

- Ôi chao! Đối với con quái vật nhà ta tôi chỉ sợ không ai có phép gì trừ được. Cô còn trẻ tuổi quá, cô ạ, chứ tôi thì tôi vẫn nhớ hồi Blavastsky với giáo sư Grookes đến đây sau cái ngày cụ thân sinh ra ông nhà ta khuất đi. Đến họ cũng chẳng tìm được phương kế gì nữa là...

Tôi xem ý ra thì có phàn nàn lão cũng chỉ phàn nàn đôi chút thôi. Vì nếu con quái vật nhà này không còn nữa thì cái thánh giá nhà này cũng kém bớt, có phải không nhỉ, chính thức ra thì đã hàng ngàn năm nay dòng dõi nhà Hammond bao giờ cũng gặp những cái chết dị kỳ với những vận rất may mắn...

Nàng chợt dừng lại: từ căn ngoài, tiếng chuông điện thoại văng vẳng đưa vào. Không hiểu tại sao, thiếu nữ với người lão bộc cũng thấy rùng rợn. Hai người vội vàng cùng ra.

Căn ngoài, một đại sảnh chạy dài ngang phòng, ánh đèn không được sáng. Ở một phía xa nhất, người đầy tớ gái hầu phòng vẫn ngồi đợi chủ về, lúc đó đang trả lời vào ống nói. Chị ta ngoảnh lại, khuôn mặt nổi một điểm sáng trong bóng mờ tối của căn nhà.

Cụ Walton ơi! Cô ơi! (chị ta nói tiếng nhỏ và nhát gừng) nhà gác cổng (#2) gọi dây nói vào bảo rằng con quỷ đang ở trong rừng... họ nghe thấy tiếng nó rú... vậy mà cậu Hammond vẫn chưa thấy về!

Swanhild tưởng chừng quả tim ngừng đập, song nàng cố sức bình tĩnh lại. Nàng cần phải giữ sáng suốt để cứu Oliver. Nàng cầm lấy ống điện thoại ở tay giá lạnh của chị đầy tớ gái. Tiếng con trai người gác cổng hỏi:

- Allô, allô!... sao không vào gọi cô Hammond ra?

- Tôi đây. Gì thế anh Will?

- Thưa cô, con quỷ ở trong rừng đấy! Biết đâu không phải là một con chó bị mắc cạm?

- Ồ không! Tôi ở dưới Lower Dannow về đây, tôi xuống đất lấy thuốc cho thầy tôi, lúc qua cầu tôi nghe thấy những tiếng rú nửa như tiếng chó tru, nửa như tiếng một con mẹ điên hú.

- Được rồi. Anh sắp sẵn cho tôi một cái đèn rồi đợi đấy nhé, hễ thấy xe ra thì tức khắc mở cổng cho tôi.

Ba hồi chuông điện đánh thức người tài xế dậy.

- Srewick, bác cho xe chạy và đánh xe ra ngay.

Swanhild chạy nhanh lên phòng riêng, rồi tức thời trở xuống với chiếc áo khoác ngoài. Tiện thể, nàng cầm theo cả khẩu súng lục của anh nàng Walton với chị hầu phòng (cả đầy tớ trong nhà chỉ có hai người này khuya thế vẫn còn thức) thì ngồi lì ở bên máy điện thoại.

Lão bộc kêu lên:

- Cô Swanhild! Cô không không vào rừng bây giờ được!

Sự khủng khiếp in trên đôi mắt lão ta khiến người thiếu nữ nghĩ đến sự thực. Từ ngày còn trẻ lão đã trông thấy lúc chính Reginald Hammond, tổ phụ Swanhild, trở về nhà sau khi gặp con quái vật trong rừng: chỉ trong mấy giờ đồng hồ mà tóc lão bạc hết.

Swanhild mở cửa chính cố tình xua đuổi nỗi sợ hãi xâm chiếm tâm hồn nàng.

Gió bên ngoài liền vây quấn lấy người thiếu nữ từ đầu đến chân.

Bên ngoài bức tường rào, những khóm cây, bụi rậm trông giống như những xe tang cắm lông chỏm. Đằng xa, miền thung lũng tắm trong một bầu sương phủ giá băng. Những ngọn sóng sau cùng phía bể bắc dồn về cồn cát, vật mình tan tác trên đỉnh cồn Thunderbarrow Beacon. Nhô lên khỏi khu rừng và nổi ra ngoài màn sương, một hình tượng quái gỡ vươn thân, đen sì trên một nền trời sao điểm.

"Thằng người Dannow" là một hình thù khổng lồ mà thời gian đã tạc vào những hang núi đá bờ bể, một tượng huynh đệ với hình Trường Nhân (Leng Man) gần Eastbourne và những hình "bạch mã" ở rải rác nhiều nơi trong nước Anh. Đêm hôm ấy "người Dannow" trông khác nào một con quỷ lớn lao phi thường đang vặn mình trong cơn hấp hối.

Trước sự lặng lẽ đáng gờm của ban đêm trống rỗng. Swanhild thấy mình vô cùng yếu đuối; không đủ sức để chống chọi với cái vật đã kinh ngạo tâm lực và can đảm của ba mươi thế hệ nhà nàng. Xe chưa đánh đến ngay được khiến nàng bực dọc. Thì giờ lúc ấy quí từng giây từng phút. Nếu Oliver mà thực mắc phải tay con quái vật ở trong khu rừng bí mật kia, trong cái nơi mà bao nhiêu tổ tiên nàng đã gặp cái chết kinh khủng, thì chỉ có nàng có thể cứu được anh nàng, rồi chính dù có chết một cách ghê gớm hoặc phát điên rồ đến hủy hoại tính mệnh, nàng cũng cam tâm. Bởi vì trong dòng họ Hammond tất cả những người mắt trông thấy cái sự ấy đều quyên sinh hết: từ tổ phụ nàng rồi Warlock, Sir Magnus, rồi vợ chồng Godfrey cho đến bao nhiêu người khác nữa cũng vậy! Họ đều muốn thà chết đi còn hơn là sống để phải nhớ mãi cái ác mộng quái gở mà không một người nào chịu tiết lộ ra.

Swanhild mở to mắt nhìn và lắng tai nghe ngóng chiếc xe hơi, bỗng một cái mõm lạnh giá chạm nhẹ vào bàn tay nàng:

- Alex! (nàng vừa nói vừa vuốt ve con chó lúc nãy theo nàng ra) Alex! Suýt nữa tao quên mất mày đấy.

Nàng định sẽ cho con vật có nghĩa đi cùng, vì nàng đã thừa biết rằng khắp vùng đó, không một người nào dám xông pha vào rừng trong cái đêm kinh hoàng ấy.

- Thưa cô (lời lão Walton) cô đi một mình bây giờ thì tôi không thể nào đành lòng được. Tôi cũng đi với cô.

Lão nói câu ấy với một giọng quả q uyết của lòng tuyệt vọng. Hàm răng cầm cập va vấp từng tiếng; tay lão bấm chặt lấy khung cửa hình như chính sự cả gan quá sức khiến lão không đứng được vững vàng.

Swanhlid lắc đầu:

- Thôi, được! Có lẽ đây cũng chỉlà một chuyện dè chừng thôi, chưa có gì đáng sợ. Tôi muốn ông cứ ở nhà coi nhà. Ông đi nói cho bà ấy đỡ lo đi!

Lão mở miệng toan cãi thì đương lúc ấy ánh đèn pha chiếu sáng lụt nhà: chiếc xe hơi tiến đến đỗ trước cửa. Người lái xe, bộ áo tài xế mặc vội lên bộ quần áo ngủ, nhảy xuống.

Swanhild bảo hắn:

- Stredwick, đến rừng Thuderbrrow.

Sự kinh khủng hiện lên gương mặt người tài xế! Hắn run run tiếng đáp:

- Bẩm... tôi không thể đến đấy được. Con quái vật ngày xưa cũng đã bắt mất một người họ nhà tôi.

Chuyện ấy quả có xảy ra thực, Swanhild không muốn ép hắn. Nàng bảo:

- Mở cửa xe ra.

Nàng tự cầm lái, để con chó Alex ngồi bên cạnh; cho xe băng sấn qua chiếc cầu kéo(3) tiếng ầm như sấm dậy, rồi theo lối thẳng chạy ra phía cổng trang.

Chú thích:

(1-)Holbein: Phòng treo những bức vẽ của Holbein (1497 - 1543), một họa sĩ trứ danh dưới triều vua Herry VIII, bên Anh.

(2-) Nhà gác cổng: Nhà giàu miền quê bên Anh, ngoài cổng vẫn có nhà riêng cho gia đình người gác ở. Dây điện thoại liên lạc vào tận tư thất của chủ nhân (ND).

(3-) Chiếc cầu kéo: Thứ cầu kéo lên hạ xuống được ở cửa thành cổ hay dinh thự cổ. Khi hạ xuống là lối ra vào, khi cất lên là một thứ cửa đóng rất kiên cố.)

Jessie D. Kerruish

Đứa Con Ma

Cùng tác giả

Vào thời thơ ấu, lúc đó tôi khoảng 8 - 9 tuổi, gia đình dọn đến một vùng quê hẻo lánh để tìm sự yên tĩnh và không khí đồng quê mát mẻ, thiên nhiên. Mỗi ngày vào sáng sớm ba mẹ tôi ra đồng làm việc cầy cấy và chăn nuôi gia súc; còn tôi, lúc đó đang là mùa hè nên chỉ ở nhà trông nom nhà cửa, nhiều khi buồn chán tôi thường đi ra ngoài dạo mát.

Một hôm đang tung tăng đuổi theo mấy chú bướm thì tôi nghe có tiếng ai đó đang gọi mình, khi quay lại tôi chỉ thấy một bà già trạc 60 tuổi đang vẫy tay quắt mình. Tôi đi đến gần thì bà ta mỉm cười và nói:

- Nhà bà ở cách đây không xạ Mỗi ngày bà đều đi bộ ngang qua đây thấy con chơi đùa vui vẻ trong vườn nên bà không có ý quấy rầy, nhưng hôm nay bà thấy con chạy về phía căn nhà đó, vừa nói bà vừa đưa tay chỉ về phía trước, nên bà mới lên tiếng gọi con trở lại... Bà ngừng lại một vài phút, sau đó bà lấy tay xoa đầu tôi rồi nói tiếp:

- Căn nhà đó rất là ma quái, con không nên đến gần.

Khi nghe đến ma quái, tôi trợn hai mắt lên kinh ngạc hỏi:

- Bà ơi! Sao bà biết.

Bà kéo tôi lại ngồi trên một thân cây nằm ngã gần đó rồi với một giọng chậm rãi bà kể:

Vào khoảng 1880, có một cặp vợ chồng và 3 đứa con gái dọn vào căn nhà đó ở. Ðứa con gái lớn 8 tuổi, đứa kế 5, và đứa út chỉ được 3 tuổi mà thôị Mọi người chung quanh đây ai cũng yêu mến gia đình này, vì cặp vợ chồng này rất là tử tế và vui vẻ, nhưng đối với đứa con gái 8 tuổi khi gặp nó ai cũng có cảm giác rằng nó rất kỳ lạ, lạnh lùng và quái dị...

Nhiều khi hai đứa em chơi đùa vui vẻ, đong đưa trên chiếc xích đu ngoài sân thì đứa con gái 8 tuổi chỉ ngồi đó chăm chăm nhìn với cặp mắt lạnh lùng băng giá như là nó đang ghen tức vậy đó. Còn khi hàng xóm đến thăm, nó rất là lễ phép, và không bao giờ cằn nhằn hay hỗn xượt với cha mẹ, nhưng trên khuôn mặt nó lúc nào cũng nở một nụ cười nham hiểm.

Rồi một hôm, cả gia đình 5 người bỗng dưng biến mất một cách kỳ lạ. Hàng xóm đều lo lắng hỏi thăm xa gần nhưng không một ai biết gia đình này đã đi đâụ Cuối cùng họ báo cảnh sát.

Trưởng ty cảnh sát liền ra lệnh cho một nhóm người đến để điều trạ Khi nhóm này đến lục soát khắp nơi nhưng họ chỉ tìm thấy xác của hai vợ chồng đã bị người ta giết chết trên giường một cách kỳ bí, còn ba đứa con thì không thấy bóng dáng nơi đâụ Sau khi kiểm soát trong nhà xong, họ ra ngoài sân thì thấy ngay bên dưới chiếc xích đu có hai mô đất vừa mới đắp, đất hãy còn đậm màu và ươn ướt. Cả nhóm hết thảy là năm người lấy tay bới đất lên. Ðào chừng 1 thước, họ thấy 2 cái xác cứng đơ của hai đứa nhỏ, còn đứa 8 tuổi họ tìm mãi mà vẫn không thấy nơi đâụ Ai cũng nghĩ có thể đứa con gái này đã bị bắt cóc rồị Cả làng đều hồi hộp lo sợ cho số phận của đứa con gái này, nhưng đến chiều cả làng điều chấn động bởi một tin từ nơi cảnh sát cho biết rằng sự thật gia đình này chỉ có hai người con gái mà thôị Vậy người con gái 8 tuổi này là ai, không người nào có thể giải thích được... Từ đó, không còn ai đến ở trong căn nhà này nữạ Nhưng vào những đêm khuya hay những ngày mưa gió, người ta thường nghe tiếng cười rùng rợn của đứa con gái 8 tuổi phát ra từ trong nhà bỏ hoang nàỵ Có nhiều người còn thấy bóng dáng của đứa con gái ngồi trên xích đu đong đưa và cười một cách nham hiểm.

Kể xong câu chuyện bà già đứng lên quay bước đi về. Vừa đi bà vừa nói:

- Nhà bà cách đây chỉ 5 căn. Khi nào rảnh con xin phép cha mẹ đến nhà bà chơị

Tôi vừa vẫy tay chào, vừa nói:

- Dạ.

Lúc này hoàng hôn cũng vừa buông xuống, những ánh tà dương màu hồng tím nhuộm khắp cả bầu trờị Xa xa từng đàn chim đang bay về tổ... Và ba mẹ tôi cũng đã trở về nhà sau một ngày mệt nhọc ngoài đồng áng.

Sau khi ăn cơm tối xong, tôi leo lên gác nhìn sang hướng ngôi nhà mà bà già đã kể hồi chiềụ Dưới ánh trăng lưỡi liềm treo trên nền trời đầy sao, tôi thấy rõ hơn. Căn nhà này nằm trên một khoảng đất rộng khoảng một mẫu, xung quanh nhà mọc rất nhiều cỏ dạị Ngoài ra tôi còn thấy được phía sau khu vườn có chiếc xích đu đã xiêu vẹo, lâu lâu gặp cơn gió thổi mạnh chiếc xích đu hơi di động một chút. Càng nhìn tôi càng bị nó quyến rũ, càng khiêu khích trí óc tò mò non nớt của tôị Cuối cùng tôi nói với chính mình: "Ngày mai, ta sẽ qua bên đó làm quen với con ma 8 tuổị Hihihi!"...

Sáng ngày hôm sau, ba mẹ tôi vừa ra khỏi nhà thì tôi cũng khóa cửa lần mò đi qua căn nhà bỏ hoang cách nhà tôi chỉ một đám cỏ lao và một con sông cạn. May là lúc đó là mùa hè cây cỏ vàng úa và thưa thớt nên tôi dễ định được hướng mình đi và không sợ lạc trong đám cỏ lao cao ngất trờị Chỉ năm phút sau, tôi đã đứng trước căn nhà bỏ hoang. Nhìn tường vôi, cột trụ gẫy đổ tiêu điều, tôi không dám bước vào sợ nhà sụp đè chết nên tôi chỉ đứng ở ngoài mà nhìn vàọ Ở trong nhà không có tối lắm vì ánh sáng xuyên qua những vết nứt trên tường và những khung cửa sổ bị bể kiếng, nên tôi có thể thấy được ở trong nhà còn có vài cái bàn và vài cái ghế hư hỏng và xiêu vẹo, tất cả đều được phủ bởi một lớp bụi dầy đặc. Ðang nhìn tới nhìn lui, bỗng nhiên tôi nghe một vài tiếng xột xoạt ở tầng lầu trên.

À! Tôi quên nói với các bạn là nhà này có hai tầng, nhưng nhìn xa nó giống như một tầng vì tầng trên chỉ như một căn gác nhỏ.

Tôi vội đi thụt lùi ra ngoài hơi xa một chút để nhìn lên tầng thứ haị Vừa ngước cổ lên, tôi thấy, qua cánh cửa sổ đã bị rạn nứt nhiều nơi, một hình bóng của người con gái độ chừng tuổi tôi, với mái tóc đen dài che một nửa khuôn mặt trắng bệch, đang làm dấu kêu tôi vào nhà. Không hiểu tại sao lúc đó tôi lại định bước vào nhà nhưng vội đổi ý ngay lập tức khi thấy đứa con gái ném cho tôi một nụ cười ma quái; thay vì đi vào căn nhà hoang tôi lại quay lưng nhắm thẳng hướng nhà mình mà chạỵ Vừa chạy tôi vừa nghe thấy giọng cười ác quỷ của nó vang vọng trong đầu của tôi rất rõ ràng.

Cũng từ đó tôi không bao giờ dám đi ngang hay bén mạng tới căn nhà bỏ hoang này, kể cả những đứa con nít hàng xóm... Có nhiều đêm đang ngủ, tôi nghe tiếng cười ma quái đó trỗi lên... Giựt mình thức dậy nhìn dáo dác tôi mới biết mình chỉ nằm mơ, nhưng mồ hôi cũng đã toát ra đầm đìa...

Danica T.

*** Ðây là câu chuyện thật, nó xảy ra đã mười mấy năm rồi nhưng giọng cười ma quái của đứa con gái đó cứ mãi ám ảnh tôi cho đến ngày nay

Chiếc Bóng

Cùng tác giả

Sơn đến tìm tôi vào một buổi sáng thứ Bẩy. Hắn gọi sớm lắm, lúc tôi vẫn còn lười biếng trên giường ngủ theo thói quen của một ngày cuối tuần. Định cự nự mấy câu nhưng nghe giọng của Sơn thều thào trong điện thoại, tôi biết có chuyện chẳng lành đang xảy ra cho thằng bạn thân ở đầu giây bên kia, nên thôi. Mở cửa cho Sơn bước vào, tôi ngạc nhiên nhìn hắn, và suýt nữa tưởng lầm người nào! Mới gặp Sơn đúng một tuần trước, trong ngày lễ ra trường, áo thụng thênh thang, tươi tắn với tương lai huy hoàng chờ đón sau bốn năm vật lộn cùng đèn sách. Vậy mà trước mặt tôi lúc này, Sơn rũ rượi như tàu lá chuối mùa Đông. Hắn hốc hác, tóc tai bờm sờm, và nhất là áo để ngoài quần, chân đi dép, là điều tôi chưa hề thấy kể từ ngày quen nhau.

Vào đến nơi, Sơn thả người trên giường của tôi như không còn một chút sinh lực nào nữa. Có lẽ hắn phải cố gắng lắm mới lái xe nỗi tới đây. Nhìn Sơn lúc này cũng hiểu hắn vừa trãi qua một việc gì ghê gớm, một cú shock khủng khiếp nên mới ra nông nỗi. Tôi định hỏi ngay, nhưng kịp dằn xuống để Sơn lấy lại bình tĩnh. Tôi chậm rãi châm thuốc. Sơn chìa tay xin:

-Cho tao một điếu.

Lại một điều ngạc nhiên nữa. Trong đám bạn chung trường, Sơn thân với tôi nhất. Điều đáng nói là hai đứa tôi khác nhau hoàn toàn, như hai thái cực. Tôi ngoài giờ học vẫn hay lang thang, cà phê thuốc lá, vui đâu chầu đó... Sơn thì trái lại. Hắn bằng tuổi tôi, nhưng may mắn qua Mỹ sớm hơn với gia đình, từ nhỏ đến lớn vẫn quen sống trong khuôn khổ nên là một thằng con trai gương mẫu, chăm chỉ, và hiền lành. Sơn chưa bao giờ hút thuốc. Vậy mà lúc này Sơn đòi thuốc! Cũng được. Cho hắn sặc mấy cái biết đâu niềm u uất chất chứa bên trong theo khói thuốc tan ra chút nào chăng! Tôi đưa điếu thuốc mới châm cho Sơn. Hắn không hút, chỉ ngẩn ngơ nhìn đốm lửa và làn khói nhẹ bay lên trần nhà, hồn như để tận phương nào. Không kiên nhẫn được nữa, tôi hỏi:

- Chuyện gì?

Sơn chậm chạp ngồi dậy, hỏi lại:

- Bình ạ, mày theo đạo gì?

Tự nhiên hắn hỏi tôi một câu hỏi có vẻ không ăn nhập gì với tình thế trước mắt.

-Đúng ra thì đạo Phật. Nhưng nhà tao chỉ thờ cúng ông bà.

Sơn sáng mắt lên:

-À, thờ cúng ông bà nghĩa là mày tin khi người chết vẫn còn có linh hồn, và linh hồn người chết có thể trở lại trần gian?

Tôi gật đầu:

- Lý thuyết thì như vậy, nhưng mà tao nghĩ việc thờ cúng ông bà là để con cháu nhớ ơn tổ tiên vậy thôi chứ chưa chắc ông bà có về mà hưởng.

-Tao biết bên đạo Phật của mày có thuyết Luân Hồi gì đó. Thuyết đó là sao nhỉ?

Ô hay, Sơn bỗng dưng đi vào triết lý tôn giáo cao xa! Trông hắn có vẻ thành khẩn lắm, nhìn tôi chòng chọc chờ đợi câu trả lời.

- Ờ thì.... đại khái con người sống có nhiều kiếp. Đời sống hiện tại chỉ là một trong nhiều kiếp đó. Nếu kiếp này mày làm điều lành thì kiếp sau sẽ được hưởng phúc; hoặc nếu bây giò mày gặp những điều không may thì đó cũng là hậu quả của kiếp trước làm điều xấu. Thí dụ như kiếp này mày là nhà giàu nhưng sống keo kiệt ích kỷ, không giúp đỡ người nghèo khó chung quanh, thì lúc chết đi có thể bị đầu thai sang kiếp sau làm ăn mày nghèo khổ, đói không ai cho chẳng hạn.

Sơn gật gù:

-Té ra là vậy. Có điều trước khi đi đầu thai làm kiếp khác, người chết sẽ đi đâu?

-Đạo Phật tao dạy rằng nếu khéo tu nhân tích đức sẽ lên cõi Niết Bàn với Đức Phật. Còn không sẽ xuống Âm Phủ - Vậy trường hợp nào linh hồn cứ vất vưởng ở trần gian, không lên Niết Bàn cũng không xuống Âm Phủ?

- À, đó là trường hợp những người chết oan uổng, hay bất đắc kỳ tử. Linh hồn chưa dứt nợ trần nên cứ luyến tiếc ở lại, lang thang vất vưởng.

- Tức là....ma?

- Ừ.

- Vậy mày tin có ma?

- Nói thì nói vậy chứ tao chả có tin ma quỷ gì ráo trọi.... Còn mày? Tôi hỏi lại.

Sơn gật đầu lia lịa.

-Tin chứ. Trăm phần trăm.

-Thật sao? Mày có đạo mà.

-Thì cũng giống như mày đạo Phật mà không tin có ma vậy. Với lại....tao đã gặp ma từ mấy tháng nay, sao mà không tin cho được.

-Mày gặp ma?

Tôi suýt bật cười, nhưng kịp thời ngưng lại. Tính Sơn ít khi nói giỡn, và nhất là tình trạng thê thảm của hắn bây giờ lại càng không có lý do gì để đùa.

Sơn ôm đầu thiểu nảo:

-Đúng vậy.

Tôi chợt hiểu. Thì ra nảy giờ Sơn hỏi chuyện dông dài chỉ để chứng minh trên đời này thực sự có ma. Hắn sợ tôi không tin hắn đã gặp ma. Sơn nói tiếp:

-Đó là lý do tao tới đây gặp mày. Nói ra thì chắc không ai tin, nhưng tao chỉ có mày để chia xẻ. Để tao kể mày nghe chuyện này. Tin hay không tùy mày.

Và Sơn kể....

* Cũng mới đây thôi, khoảng ba tháng trước, một buổi tối cả nhà đều đi vắng, chỉ mình tôi ở nhà ngồi ôn bài cho Midterm ngày hôm sau. Khóa cuối cùng mà trượt một lớp là chậm ngày ra trường đến sáu tháng, nên dù nhức đầu đến đâu cũng ráng gạo. Không hiểu tại sao hôm đó tôi cứ hồi hộp lo ra. Mấy con số quay cuồng trên trang giấy. Càng suy nghĩ càng bí lối. Tôi bèn nảy ra ý định mở máy nhạc thật lớn để mong xóa bỏ những lý luận sai bét trong đầu(?). Giữa lúc tôi đang cố tĩnh dưỡng đầu óc với tiếng nhạc, bỗng nhiên có tiếng nói:

-Anh nghe nhạc lớn quá.

Tôi tưởng Thu, em gái tôi. Nhưng khi quay lại thì không phải. Môt người con gái lạ mặt, cũng trạc tuổi em tôi , đang đứng ở cửa mĩm cười. Nàng nói:

-Xin lỗi, Yến gõ cửa mà anh không nghe. Có Thu ở nhà không anh?

Tôi lại tắt máy nhạc, và nhớ ra Thu đã mượn xe đi đâu từ hồi chiều nên trả lời:

-Thu đi vắng rồi. Nó không phone cho cô sao?

Cô gái lắc đầu:

-Không, Yến chỉ nhân tiện đi ngang đây nên ghé lại định mượn Thu cái note hôm kia bệnh không vào lớp. Thôi để mai Yến gặp Thu trong trường cũng được. Xin lỗi làm phiền anh.

-Không sao. Tôi là Sơn. Cô, à...Yến muốn nhắn gì lại cho Thu không?

-Không cần lắm. Chào anh Sơn.

Nói xong, nàng đi thật mau ra ngoài, đột ngột cũng như lúc nàng đến. Tôi bỗng thấy cảm giác lân lân kỳ dị đối với người con gái lạ mặt tự xưng là bạn của em gái mình. Cuộc gặp gỡ bất ngờ và ngắn ngủi đến nỗi tôi quên mất thắc mắc làm sao nàng vào được trong nhà, và đi đến tận phòng của tôi?.

Sau hai ngày dồn hết tinh thần để thi cử, tôi gặp Thu và hỏi thăm về Yến. Nó ngạc nhiên nói không có bạn gái nào tên là Yến cả làm tôi chưng hững, nghi ngờ hỏi lại:

-Hay mày định dành một bất ngờ cho tao chăng?

Thu phì cười:

-Còn khuya ông ơi. Tui đâu có tốt dữ vậy. Lần trước ông làm tui quê quá, đâu dám thử lần nữa.

Nghe nó nói tôi mới thực sự tin, và thất vọng đi ra. Số là trước đây không lâu, có lẽ thấy ông anh cứ miệt mài với đèn sách nên thiếu vắng một bóng hồng trang điểm. Một hôm Thu nói với tôi:

-Thứ Bẩy này anh theo em tới party nhà con Thanh đi. Em giới thiệu con bạn mới quen. Nó mới ở tiểu bang khác tới, chưa có kép đâu.

Kết quả sau đêm party, em gái tôi cự một tràng dài:

-Trời ơi, anh thiệt là....cù lần quá mức. Linda nó qua đây từ nhỏ nói tiếng Việt không rành thì xài tiếng Anh, có sao đâu? Bày đặt mô-ran con người ta này nọ. Xí, ai mà chịu nỗi cái tính gàn của anh.

Từ đó , tôi biết rằng Thu sẽ không bao giờ bày lại màn giới thiệu nào nữa.

Vậy Yến là ai? Từ phương nào đến? Tôi cứ băn khoăn suy nghĩ vẫn vơ về người con gái đã gặp trong vài phút ngắn ngủi. Linh cảm cho tôi biết rằng, người tôi mong đợi từ lâu đã đến. Nhưng nàng là ai? ở đâu?

Tôi vẫn ôm mối thắc mắc đó trong lòng, và lén đến tất cả các lớp Thu em tôi học với hy vọng mong manh tìm gặp lại Yến. Tất cả đều vô ích. Nàng như bóng chim tăm cá. Tôi không thể làm được việc gì khác khi đầu óc cứ bị những dấu chấm hỏi không câu trả lời.

Giữa lúc tôi đang thất vọng, và tự an ủi sự gặp gỡ tuần trước chỉ là ảo giác mơ hồ, thì...Yến tìm đến.

Cũng giống như lần trước, tôi đangở bàn học lo mấy cái homework, bỗng nghe tiếng: Hello!

Tôi giật mình quay lại, suýt nữa bật kêu thành tiếng. Chao ôi, có phải tôi đang mơ? Yến đang đứng trước cửa, tươi cười vẫy tay chào. Tôi đứng phắt dậy, tay đụng vào mé bàn đau điếng. Rõ ràng là sự thực mà, nào phải là ảo ảnh mơ hồ gì đâu? Tim tôi đập mạnh, ấp úng hỏi:

-Yến, có phải Yến đó không?

Nàng vẫn giữ nguyên nụ cười, lễ phép:

-Dạ. Anh Sơn vẫn khỏe chứ?

-Yến vào chơi đi. Thu đi vắng , nhưng có lẽ sắp về.

Vừa nói xong, tôi thấy mình lạc đề, may sao Yến không để ý thái độ lúng túng của tôi. Nàng tiến đến bàn học của tôi và ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh. Tôi bắt đầu yên tâm bình tĩnh trở lại vì Yến có vẻ không ra đi vội vả như lần trước. Tôi nói:

-Tôi có hỏi Thu, nhưng nó nói... -Không có cô bạn nào tên Yến cả. Nàng tiếp lời.

Tôi gật đầu:

-À ha, con nhỏ xạo quá.

Yến hơi cúi đầu, chân lí nhí trên mặt đất.

-Không phải Thu xạo, mà là...Yến xạo đó.

Tôi ngạc nhiên:

-Yến không phải bạn của Thu thật sao?

-Không phải. Anh Sơn có trách Yến không?

-Đâu có sao. Vấn đề là Yến trở lại.

Nàng ngẩng mặt hỏi tiếp:

-Nhưng anh có thắc mắc là tại sao Yến đến đây, và lại nhận là bạn của Thu không?

-Có...sơ sơ. Tôi thành thật. Nhưng nếu Yến không muốn nói thì tôi cũng không hỏi.

Nàng bỗng trở nên nghiêm trang nói:

-Yến muốn kể cho anh Sơn nghe một câu chuyện.

Tôi im lặng, chờ nghe câu chuyện của người con gái bí mật đối diện.

Yến trầm ngâm giây lát và bắt đầu:

-Trước khi ba má anh mua căn nhà này, thì đây là nhà của Yến.

-À. Tôi khẽ thốt.

-Và căn phòng anh đang ở đây cũng là phòng của Yến.

Tôi lại "à" thêm một tiếng nữa -Từ khi anh dọn về đây, sự sắp xếp cũng không thay đổi gì mấy. Đây cũng là chỗ để bàn học ngày xưa của Yến. Kia là chiếc giường. Chỉ khác có chỗ anh để dàn máy, ngày trước Yến để cái piano ở đó. Tuần trước đến đây Yến định nói nhưng thấy anh bận học thi nên thôi. Yến muốn cám ơn anh Sơn đã nuôi con Jennie giùm Yến.

-Con Jennie?

Và tôi chợt hiểu.

Thực ra, khi mới dọn vào căn phòng này, cảm giác đầu tiên cho tôi thấy chủ nhân trước ở đây hẳn là phái nữ. Dù căn phòng đã được dọn sạch sẽ, vẫn như có mùi hương còn thoang thoảng chung quanh. Phía bên kia cửa sổ là vườn sau,có vài cụm hoa mọc sát tường, chỉ có con gái mới trồng hoa bên cạnh cửa phòng như vậy. Tôi nghĩ. Điều đặc biệt là một con chim Hoàng Yến không hiểu từ đâu bay đến đậu trên khung cửa sổ hót líu lo. Thu em tôi thích lắm, kiếm một cái lồng thật đẹp và dụ nó về phòng mình mà không được. Tôi lấy chiếc lồng, tháo bỏ cánh cửa, treo bên ngoài cửa sổ. Lạ thay, con chim nhỏ ban ngày ca hót rộn rã khắp vườn, tối đến tự động bay vô lồng ngủ ngon lành. Thỉnh thoảng lại bay khắp phòng ca hót như là một nơi quen thuộc của nó vậy. Cả nhà tôi đều cho là điều kỳ lạ , và chọc tôi có số.... nuôi chim.

-Té ra con chim , con Jennie trước kia ở đây với Yến , hèn gì nó cứ quen ở đây. Có phải Yến muốn lấy con chim lại? Mà lúc dọn nhà đi sao Yến không mang nó theo luôn?

-Yến không thể.

-Chỗ ở của Yến họ cấm nuôi chim ư?

Nàng lắc đầu, giọng trầm hẳn xuống.

-Không phải. Mà là nơi Yến đến , con Jennie không thể đến.

Tôi ngạc nhiên:

-Tại sao?

Yến cúi đầu xuống, hình như nàng bật khóc. Đôi vai rung rung làm tôi bối rối, không biết mình đã nói gì chạm đến tâm sự nàng.

Yên lặng một lúc, Yến ngẩng mặt, mắt hơi đỏ, hỏi:

-Anh Sơn biết tại sao ba má Yến bán nhà này không?

-Không. Tôi trả lời -Sau khi em bệnh mất , ba má Yến buồn quá nên bán nhà dọn đi nơi khác.

Tôi tưởng như mình nghe lầm nên hỏi lại:

-Yến nói gì?

-Sau khi em mất, ba má em bán nhà này và dọn đi.

Lần này tôi nghe rõ ràng từng chữ một "Sau khi em mất..." Nghĩa là nàng.... đã chết. Vậy ai đang ngồi nói chuyện cùng tôi đây? Tôi nhìn Yến. Nàng vẫn nghiêm trang và lặng lẽ, không chút gì tỏ vẻ đùa giỡn.

-Anh không hiểu Yến nói gì. Tôi thảng thốt.

-Yến nói bây giờ Yến không phải là người. Yến chỉ còn lại là một linh hồn, một chiếc bóng.

Tôi bắt đầu bực mình.

-Yến thực sự là ai? Tôi không thích lối nói đùa đó đâu.

Bỗng nhiên tôi thấy Yến mờ dần, mờ dần, rồi tắt hẳn. Thoáng chốc, nàng lại xuất hiện ở cửa, biến mất. Tôi lại thấy Yến trước mặt, bên trái, bên phải, khắp mọi nơi. Và cuối cùng trở về chiếc ghế trong tư thế cũ.

-Anh đã tin Yến chưa?

Nàng buồn bã hỏi. Dĩ nhiên tôi đã tin. Chúa ơi, người tôi mong đợi, tìm kiếm mấy ngày qua chỉ là một chiếc bóng, một hồn ma bóng quế. Tim tôi như ngừng đập, tri giác hoàn toàn mất hết. Yến nhìn hồi lâu thấy tôi không phản ứng, bèn đứng dậy đi về phía cửa, và tan biến...

Nguyễn Ngự Bình

Bức Tranh Quái Dị

Cùng tác giả

Trước nhà thờ Saint Sébalt, nơi góc đường Des Trabans là một quán nhỏ, vừa hẹp vừa cao, cửa kính bụi bậm, trên nóc có dựng bức tượng Đức Mẹ Đồng Trinh bằng thạch cao.

Đó là nơi tôi trải qua những ngày buồn thảm nhất đời.

Tôi đến thành phố Nureemberg đê học hội họa từ các họa sư tên tuổi ở Đức, nhưng vì thiếu tiền nên đành phải vẽ ảnh, những ảnh xoàng xĩnh như các mụ to béo lắm lời, con mèo ngồi trên đầu gối, những ông xã trưởng đội mũ ba góc,những ông nhà giàu, đầu chụp tóc giả...

Hết vẽ ảnh, tôi vẽ những bản phác họa (Croquis) và sau cùng vẽ hình bóng (Silhouettes).

Với tôi, không có gì thê thảm cho bằng luôn luôn bị viên quản lý khách sạn hạch sách. Sáng nào ông ta cũng mím môi giọng ồn ào, vẻ xấc láo nạt nộ: "Chừng nào ông mới chịu trả tiền cho tôi? Ông có biết tiền phòng của ông lên tới bao nhiêu rồi không? Hai trăm đồng "florin" và mười đồng "kreutzer". Không có bao nhiêu phải không?".

Những ai chưa nghe giọng xấc láo của tên quản lý khách sạn này không thê hiêu được nỗi khổ của tôi trong lúc bấy giờ. Tình yêu nghệ thuật, óc tưởng tượng, sự hăng hái đi tìm cái đẹp của tôi hoàn toàn khô héo. Tôi trở nên vụng về, nhút nhát. Bao nhiêu nghị lực đều biến cũng như lòng tự trọng... Và thấy ông xã trưởng từ xa là tôi đã cúi đầu chào cẩn thận.

Một đêm, không một xu dính túi, quá lo ngại, sợ bị viên quản lý dê sợ kia cho vào tù, tôi nhất định tự tử bằng cách cắt họng. Với ý nghĩ đó, tôi ngồi trên chiếc giường tồi tàn ngó ra cửa sổ, triền miên nghĩ ngợi đến trăm ngàn ý nghĩ về triết lý. Tôi tự hỏi: "Con người là gì? Một con thú ăn tạp! Hai hàm răng có các loại răng chó, răng cửa, răng hàm chứng minh điều đó. Răng chó đê ăn thịt, răng cửa đê ăn trái cây và răng hàm đê nghiền. Nhưng khi không còn gì đê nghiền thì con người là một thứ vô nghĩa trong vũ trụ, một điều thừa, một bánh xe thứ năm...".

Đó là những cảm nghĩ của tôi. Tôi không dám mở con dao cạo ra, sợ rằng tôi bỗng nhiên trở nên can đảm mà tự tử.

Sau những lý luận như thế, tôi thổi ngọn đèn sáp, hoãn lại mọi việc vào ngày mai.

Tên quản lý khách sạn đã làm cho tôi trở nên ngu ngốc hoàn toàn.

Tôi không thấy gì khác hơn là những hình bóng và điều mong muốn duy nhất của tôi là có tiền đê ném vào mặt hắn mỗi khi hắn ta đến quấy rầy tôi.

Nhưng đêm đó, có một cuộc cách mạng kỳ lạ trong đầu óc tôi. Tôi thức dậy vào lúc một giờ khuya, vẽ nhanh lên giấy một bức phác họa theo loại Hòa Lan, tức là loại kỳ quái, không có một chút liên hệ gì tới các quan niệm về hội họa thông thường của tôi.

Các bạn hình dung, bức phác họa là một khoảng sáng tối âm u, nằm giữa những bức tường cao, loang lở. Những bức tường dầy đó có những móc sắt nhọn hoắt đóng ở trên cao vào khoảng hai ba thước. Người ta đoán ngay từ đầu khung cảnh đó là một lò sát sinh.

Bên trại có một hàng rào mắt cáo. Bạn thấy một con bò mổ banh ra, treo lên trần bằng những cái móc to tướng. Những vũng máu chảy trên nền gạch và dồn xuống một đường mương đầy rác đến dị kỳ.

Ánh sáng chiếu từ trên, giữa các ống khói. Bóng các mái nhà kế cận chồng chất lên nhau.

Bên trong là một trại... Dưới trại là một đống củi. Trên đống củi có một cái thang, vài bó rơm, một đống dây, một chuồng gà và một chuồng thỏ phế thải.

Làm sao các chi tiết ô hợp đó lại chạy vào trí tưởng tượng của tôi? Tôi cũng không biết, không thấy một cảnh nào như vậy đê nhớ lại rồi vẽ ra.

Ấy vậy mà mỗi một nét bút chỉ là một nét vẽ chững chạc được nghiên cứu cẩn thận. Không thiếu một cái gì hết!

Nhưng bên mặt, còn một góc bỏ trắng. Tôi không biết vẽ gì lên đó. Kìa, có một vật gì thấp thoáng cử động. Bỗng nhiên tôi thấy một bàn chân, một bàn chân lật ngược, tách khỏi mặt đất. Mặc dầu vị trí đó không thê có được tôi vẫn theo sáng kiến đó, không hề hiêu rõ mình sẽ vẽ gì đây. Bàn chân đó dính vào ống quyên... và trên ống quyên có một chéo áo... Liền sau đó, một mụ già, xanh xao, tiều tụy, tóc rối bời té sấp trên bờ giếng trong khi chống cự với một nắm tay đang siết cổ mụ...

Thì ra tôi vẽ một bức tranh giết người. Ngọn bút rơi khỏi bàn tay tôi.

Mụ già trong tư thế chống cự tận lực, nằm vắt lên thành giếng, mặt nhăn nhó vì kinh hãi, hay tay bám chặt lấy cánh tay của kẻ sát nhân, mụ ta làm tôi hoảng sợ...

Tôi không dám nhìn mụ. Nhưng về phần tên sát nhân thì tôi không thấy, trừ cánh tay. Tôi không thê kết thúc được bức tranh.

Tôi tự nhủ: "Mệt rồi. Chỉ còn có nét mặt của tên sát nhân nữa mà thôi. Ngày mai mình sẽ vẽ nốt. Dê mà!".

Tôi nằm xuống giường, hãy còn kinh sợ trước những gì vừa thấy qua nét vẽ của chính mình. Năm phút sau, tôi ngủ như chết.

Sáng hôm sau, tôi thức dậy khi trời hãy còn mờ tối.

Vừa mặc quần áo xong và sắp sửa tiếp tục bức tranh bỏ dở thì có hai tiếng gõ cửa.

Tôi lên tiếng:

- Cứ vào!

Cánh cửa mở. Một người đã già, cao, ốm, mặc toàn màu đen bước vào thềm. Hai mắt ông gần nhau quá, mũi ông quặp xuống như mũi két, trán ông rộng, xương xẩu. Gương mặt ông có vẻ nghiêm khắc, ông chào tôi, hỏi thật nghiêm:

- Ông là họa sĩ Christian Vénius?

- Chính tôi thưa ông.

Ông ta gật đầu một lần nữa, tự giới thiệu:

- Tôi là Nam tước Frederic Van Spreckdal!

Sự xuất hiện của ông Van Spreckdal, chánh án tòa đại hình trước căn gác tối tăm của một họa sĩ vô danh khiến tôi thấy mất bình tĩnh. Tôi nhìn bàn ghế tồi tàn, sàn gác bụi bậm, xấu hổ trước cảnh nghèo của mình. Nhưng ông Van Spreckdal không chú ý đến những chi tiết đó. Ông ngồi trước bàn nhỏ của tôi nói:

- Họa sĩ, tôi đến đây...

Nhưng, cùng lúc đó, hai mắt ông dừng lại trên bức họa chưa hoàn thành... ông không nói hết câu. Tôi ngồi trên chiếc giường tồi tàn và sự chiếu cố bất ngờ của nhân vật này dành cho một trong các tác phẩm của tôi khiến tim tôi đập mạnh vì mối lo sợ khó nói.

Độ một phút, Van Spreckdal ngước đầu lên nhìn tôi thật chăm chú.

- Ông là tác giả bức họa kia?

- Dạ phải.

- Giá bức họa đó bao nhiêu?

- Tôi không bán các bức phác họa. Đó chỉ là một dự án.

Ông khách kêu lên một tiếng "A!" khi đỡ tờ giấy lên với mấy đầu ngón tay bằng vàng, ông lấy một kính phóng đại trong áo "gi lê" ra, bắt đầu nghiên cứu bức họa một cách trầm lặng.

Ánh nắng mặt trời chiếu xiên xiên qua gác. Van Spreckdal không nói một lời nào, sống mũi ông quằm xuống, đôi mày ông cau lại.

Không khí hoàn toàn im lặng, tôi nghe rõ tiếng vo ve của một con muỗi mắc trong lưới nhện. Sau cùng, không nhìn tôi, ông hỏi:

- Khuôn khổ bức tranh này như thế nào?

- Bề ngang ba bộ, bề dài bốn bộ.

- Giá tiền?

- Năm mươi đồng "ducat".

Van Spreckdal đặt bức ảnh xuống, lấy trong túi chiếc ví dày màu xanh lá cây, giống như một quả lê. Ông trút các đồng tiền vàng ra:

- Đây, năm mươi "ducát".

Nam tước đứng lên chào tôi. Tôi nghe tiếng chiếc gậy cán ngà của ông nện trên các bậc thang gác. Khi ông ta xuống đến tầng dưới tôi mới hoàn hồn và sực nhớ chưa cảm ơn ông ta. Tôi chạy nhanh xuống năm tầng lầu. Nhưng ra tới đường, nhìn hai bên, con đường vắng tanh. Tôi hổn hên" "Lạ quá!", rồi hổn hên leo trở lên gác.

Sự xuất hiện đột ngột của Van Spreckdai khiến tôi ngây ngất bàng hoàng. Ngắm chồng "ducat" ngời sáng dưới ánh nắng, tôi ngẫm nghĩ: "Hôm nay, mình tính cắt cổ tự tử vì mấy đồng "florin" không đáng, bây giờ thì cả một sản nghiệp từ trên trời rơi xuống. Mình không mở con dao cạo ra là phải! Và từ đây về sau, nếu có ý nghĩ tự tử nữa thì mình nên hoãn lại ngày hôm sau. Sau những cảm nghĩ đó tôi ngồi lại đê tiếp tục vẽ nốt bức tranh. Chỉ cần bốn nét bút là xong. Nhưng tôi thất vọng não nề. Bốn nét bút đó tôi không vẽ được. Tôi mất tong cảm hứng. Nhân vật bí hiêm kia, tôi không thê nào hình dung ra mặt mũi. Tôi cố suy nghĩ, cố phác họa, nhưng không vẽ ra hồn. Tôi đổ mồ hôi có giọt.

Đúng lúc đó, tên quản lý bước vào phòng tôi, không gõ cửa theo thói quen. Hắn nhìn chồng tiền vàng, kêu lên:

- A ha! Tôi bắt được quả tang ông có nhiều tiền vàng như thế này, thế mà ông bảo là không có tiền!

Và mấy ngón tay nhọn hoắt của hắn quờ quạng về phía đống tiền vàng trên bàn.

Tôi ngẩn ngơ vài giây. Rồi chợt nhớ tên quản lý luôn hoạnh họe bấy lâu nay, tôi nhảy xổ tới thộp cổ hắn tống ra khỏi phòng, rồi sập cửa, làm hắn dập cả mũi.

Tất cả những việc đó xảy ra thật nhanh. Tôi nghe viên quản lý kêu ầm lên ở bên ngoài:

- Trả tiền đây! Đồ ăn cắp!

Những người mướn phòng xung quanh đổ ra ngoài. Tiếng họ lao xao:

- Có việc gì vậy?

Tôi mở cửa thật bất ngờ, đạp mạnh vào mông tên quản lý khiến hắn lăn ùng ục xuống lầu, có đến vài mươi bậc thang.

Tôi hét lên:

- Việc gì hả? Tôi tống cổ thằng chó đó xuống lầu. Chỉ có vậy thôi!

Xong, tôi khóa cửa lại trong tiếng cười của các bạn phòng bên.

Tôi rất hài lòng về chuyện vừa làm, xoa tay thích thú.

Chuyện xảy ra khiến tôi hứng chí. Tôi ngồi xuống toan tiếp tục vẽ thì có tiếng động kỳ lạ. Đó là tiếng báng súng đặt xuống vỉa hè. Tôi nhìn qua cửa sổ, thấy ba cảnh sát, súng dựng dưới chân, đứng canh trước cửa nhà. Tôi lo sợ hỏi thầm: "Thằng quản lý gãy tay, lọi cẳng chăng?".

Các bạn có thấy điều kỳ quái trong đầu óc con người chưa. Ngày hôm qua tôi tính cắt cổ tự tử, mà bây giờ lại run rẩy khi nghĩ tới cảnh lính bắt về tội đạp tên quản lý té lầu!

Có tiếng ồn ào trên thang lầu, tiếng chân người, tiếng súng khua, tiếng những lệnh truyền cộc lốc.

Bỗng người ta cố mở cửa phòng tôi. Cửa đã khóa. Có tiếng hô to:

- Mở cửa! Cho lính vào!

Tôi đứng lên, run rẩy, hai chân lảo đảo.

- Mở cửa!

Tôi có ý nghĩ muốn trèo lên mái nhà. Nhưng vừa ló đầu qua khung cửa sổ nhỏ bé, tôi giật thụt lùi, đầu óc choáng váng. Tôi thấy các cửa sổ ở tầng dưới với những cửa kính, những chậu hoa... dưới nữa là bao lơn, sau cùng là trụ đèn đường, bảng hiệu "Tônnelet Rouge" và sau hết là ba lưỡi lê sáng chóe đang chờ tôi rơi xuống đê đâm suốt từ lòng bàn chân đến gáy.

Trên mái nhà đối diện có con mèo to, màu hung đỏ, núp sau ống khói rình một đàn chim sẻ đang kêu chíu chít trên màng xối.

Tôi không thê hình dung mắt con người có thê thấy thật rõ và nhanh đến vậy trong khi lo sợ.

Bên ngoài người ta ra lệnh đến lần thứ ba:

- Mở cửa! Hay đê người ta phá cửa đây!

Thấy trốn không được, tôi lảo đảo đến cửa... vặn khóa.

Vụt một cái, hai cánh tay chụp lấy cổ tay tôi. Một người mập lùn, miệng đầy hơi rượu nói:

- Đây rồi!

Ông ta mặc áo xanh ve chai, gài nút tới cổ, đê râu rậm, đeo đầy cà-rá và tên là Passauf. Hắn là cảnh sát trưởng.

Bên ngoài có đến năm tên lính bồng súng nhìn tôi chăm chỉ.

Tôi hỏi Passauf:

- Ông muốn gì?

Hắn quát:

- Xuống lầu!

Và ra lệnh cho một tên lính nắm tay tôi lôi đi.

Mấy tên kia lập tức xông đến lục tung căn phòng nhỏ bé của tôi.

Tôi bước xuống lầu, dựa vào tên lính, như một kẻ ho lao đến thời kỳ thứ ba, tóc tai rối nùi, mỗi bước mỗi vấp.

- Tôi bắt anh !

Người ta vứt tôi lên xe ngựa, kẹp tôi giữa hai tên lính vạm vỡ. Khi chiếc xe chạy, tôi còn nghe có tiếng bước chân chạy theo của trẻ nhỏ.

Tôi hỏi một trong hai người lính:

- Tôi bị bắt về tội gì?

Tên này nhìn tên lính kia, mỉm cười một cách khó hiêu, nói:

- Này Hana, nó hỏi nó bị bắt về tội gì kìa?

Nụ cười đó khiến tôi sợ tái người.

Không lâu, một bóng mát bao trùm lên chiếc xe. Tiếng chân ngựa vang dưới nền gạch khô khốc. Chừng như tôi đã được đưa tới khám đường. Đối với tôi, bây giờ cái gì cũng trở lên đen tối.

Từ móng vuốt của tên quản lý, tôi rơi vào nơi ngục tối, nơi người vô thì nhiều mà người ra thì ít. Người ta giam tôi một cách thản nhiên như cất một đôi vớ trong tủ, rồi mặc kệ đó, nghĩ đến những chuyện khác.

Tôi ngồi bất động đến mười phút, nghĩ mông lung:

Thằng cha quản lý đã hét to: "Nó giết tôi" khi bị tôi đạp té xuống thang lầu. Nhưng hắn không nói rõ là ai giết hắn. Mình sẽ khai thủ phạm là ông già bán kính ở kế bên. Lão ta sẽ bị treo cổ thay cho mình.

Ý nghĩ đó làm tôi bớt lo. Tôi nhìn xung quanh phòng giam. Phòng mới quét vôi, không có một hình vẽ nào trên tường trừ một hình cái giá treo cổ mà kẻ vào đây trước tôi đã vẽ. Ánh sáng bên ngoài chiếu vào qua một lỗ tròn trên cao, cách mặt đất chừng ba thước. Đồ đạc trong phòng chỉ gồm một cái ổ rơm và một cái chậu.

Tôi ngồi lên ổ rơm, hai tay bó gối, buồn thảm không tả nổi. Tôi nghĩ là tên quản lý trước khi chết đã tố cáo tôi. Tự nhiên tôi thấy nhột ở chân như có kiến bò và tôi ngẩng cổ lên, húng hắng ho như có sợi dây siết mạnh ở cổ.

Ngay lúc đó tên cai ngục mở cửa bảo tôi đi theo hắn. Tôi rùng mình vì lúc nào hắn cũng có hai tên đồ tê vạm vỡ theo sau. Chúng tôi đi qua mấy dãy hành lang dài. Tôi thấy sau lưới sắt tên Jic Jack sắp sửa bị hành quyết vào sáng hôm sau. Hắn mặc áo bó sát tay chào và hát lên với giọng khàn khàn. Khi thấy tôi hắn kêu lên:

- Chào người anh em! Tôi sẽ dành cho người anh em một chỗ ở phía bên mặt.

Hai tên lính và viên cai ngục nhìn nhau cười trong khi tôi nổi da gà.

*** Viên cai ngục đẩy tôi vào một gian phòng cao, thật tối, có ghế sắp theo hình bán nguyệt. Phòng vắng vẻ, có hai cửa sổ cao đóng lưới sắt kín mít và pho tượng chúa bằng gỗ nâu, hai tay dang ra, đầu ngả xuống vai. Cảnh tượng đó khiến tôi hoang mang cực độ. Tất cả ý nghĩ vu khống trước đó bỗng dưng biến mất. Đôi môi tôi mấp máy cầu nguyện.

Đã từ lâu tôi không cầu nguyện, nhưng tai biến luôn luôn khiến con người khuất phục trước đấng vô hình.

Trước mắt tôi, trên ghế cao là hai nhân vật ngồi quay lưng về phía ánh sáng. Dù vậy tôi cũng nhận ra Nam tước Van Spreckdal nhờ cái bóng ông in trên cửa kính. Nhân vật thứ hai mập, má đầy thịt, hai bàn tay ngắn. Hắn cũng mặc áo thẩm phán như ông Van Spreckdal. Người phía dưới là lục sự Conrad. Hắn đang cho cán viết vào đầu lỗ tai. Khi tôi đến hắn dừng tay lại, nhìn tôi một cách tò mò.

Người ta bảo tôi ngồi xuống. Van Spreckdal cao giọng hỏi:

- Christian Vénius, làm sao anh có bức ảnh này?

Ông ta đưa lên bức tranh tôi vẽ chưa xong. Người ta trao bức tranh đó cho tôi. Sau khi xem, tôi đáp:

- Tôi là tác giả.

Im lặng khá lâu, rồi lục sự Conrad ghi lời nói của tôi. Tôi nghe ngòi bút của ông ta cào trên giấy và tôi nghĩ: "Câu hỏi đó có nghĩa gì? Nó có liên quan gì đến việc tôi đập thằng cha quản lý đâu!"

Van Spreckdal lại hỏi:

- Anh là tác giả, chủ đề của bức tranh là gì?

- Đó là bức tranh tưởng tượng.

- Anh có thấy các chi tiết này ở đâu không?

- Thưa không. Tất cả các chi tiết đều do tôi tưởng tượng.

Ông chánh án nói với giọng nghiêm khắc:

- Bị can Christian! Tôi yêu cầu anh nêu suy nghĩ cẩn thận. Đừng có nói dối!

Đỏ mặt, và với giọng bất bình tôi kêu to:

- Tôi nói sự thật!

Van Spreckdal nói:

- Lục sự ghi vào biên bản.

Ngòi bút lại chạy rần rật trên giấy.

Ông chánh án lại hỏi:

- Còn người đàn bà này. Người đàn bà mà người ta giết bên miệng giếng, anh cũng tưởng tượng ra nốt?

- Đúng vậy!

- Anh không hề nhìn thấy bà ta?

- Không hề!

Van Spreckdal đứng lên, bực mình. Nhưng ông ta ngồi xuống tham khảo ý kiến đồng nghiệp.

Hai bóng đen thẩm phán nổi bật lên trên nền sáng của cửa sổ, và ba người đứng sau lưng tôi. Không khí trong phòng im lặng đến ngột ngạt... tất cả đều làm cho tôi hoang mang lo sợ đến bải hoải. Tôi nghĩ thầm: "Họ muốn gì ở mình?

Bỗng Van Spreckdal nói với ba người lính:

- Đưa hắn lên xe. Chúng ta tới đường Metzrstrasse.

Rồi ông nói với tôi:

- Christian Vénius. Anh đang ở trong tình thế ngặt nghèo. Nếu anh thấy công lý của loài người cứng rắn thì anh chỉ còn chờ sự tha thứ của Chúa. Anh sẽ xứng đáng với tình thương của Chúa nếu anh thú tội.

Lời nói đó như búa bổ vào đầu tôi. Tôi ngã người ra sau, đưa tay lên trời kêu to:

- Trời ơi! Thật là một cơn ác mộng!

Rồi tôi ngất xỉu.

Khi tôi tỉnh lại, chiếc xe đang chầm chậm trên đường. Phía trước có một chiếc xe khác. Hai tên đồ tê vạm vỡ vẫn luôn kè kè bên tôi. Một tên mời bạn hút thuốc. Tôi đưa tay về phía bao thuốc, hắn vội vàng giựt tay lại, cho vội bao thuốc vào túi.

Mặt tôi đỏ lên vì xấu hổ. Tôi quay đầu vào vai che giấu cơn xúc động.

Bỗng tên lính có bao thuốc nói:

- Nếu anh nhìn ra ngoài chúng tôi bắt buộc phải còng tay anh lại.

Tôi nghĩ thầm: "Đồ chó! Quỷ sao không vật mày chết cho rồi!".

Chiếc xe dừng lại. Một tên bước xuống. Tên còn lại nắm cổ tôi, khi thấy tên kia đã sẵn sàng đê đón tôi, hắn đẩy tôi xuống xe một cách tàn nhẫn. Tất cả những sự thận trọng đó cho thấy con người tôi đích thị là một kẻ bất lương. Nhưng tôi vẫn chưa hiêu rõ lời buộc tội từ phía hai ông thẩm phán.

Bỗng một cảnh tượng ghê gớm mở mắt tôi ra, đẩy tôi vào tận cùng tuyệt vọng.

Người ta đẩy tôi bước vào một con đường thấp, lót gạch lồi lõm, tường rỉ nước vàng, mùi hôi thối xộc vào mũi khiến tôi choáng váng.

Tôi mò mẫm đi giữa bóng tối, phía sau có hai tên lính vạm vỡ áp giải.

Đằng xa thấp thoáng một cái sân rộng. Càng đi tới gần tôi càng kinh sợ. Không phải một sự lo sợ thông thường, mà đó là một sự khiếp đảm ghê gớm, giống như một cơn ác mộng. Tôi chỉ muốn lùi lại, chứ không thê bước được.

Một tên lính đẩy mạnh vai tôi, ra lệnh:

- Bước tới chứ!

Đến đầu hành lang, tôi thấy trước mắt cái cảnh mà tôi vừa vẽ trong đêm qua.

Đúng là cái sân ở giữa những bức tưòng dày, có những móc sắt, những đống sắt vụn, chuồng gà, chuồng thỏ... không có một chi tiết nhỏ nào bị bỏ quên. Tôi như bị sét đánh ngang tai trước hiện tượng kỳ lạ đó. Hai ông thẩm phán đứng bên cạnh miệng giếng. Dưới chân họ nằm sóng sượt một mụ già. Mụ nằm dưới tóc tai rối bời, mặt tái ngắt, hai mắt mở trừng trừng, lưỡi thè giữa hai hàm răng. Thật là một cảnh tượng kinh tởm.

Van Spreckdal nói với giọng trịnh trọng:

- Sao, anh nghĩ gì?

- Anh có nhận đã ném mụ già này? Mụ Thérésa Beker xuống giếng sau khi bóp cổ giựt tiền của mụ ta?

Tôi gào to lên:

- Không! Tôi không biết mụ già này. Tôi không hề nhìn thấy mụ ta. Xin Chúa chứng cho tôi!

Van Spreckdal gắt:

- Thôi, bao nhiêu đó đủ rồi!

Không nói thêm một lời, ông cùng bạn đồng nghiệp bước nhanh ra.

Hai tên lính nghĩ là họ có bổn phận còng tay tôi lại. Họ đưa tôi trở về khám. Trong cơn bàng hoàng, lúc đó tôi hoàn toàn hoang mang, không biết có đúng là mình đã giết mụ già kia hay không.

Đối với những tên lính gác, tôi rõ ràng đã là một tên tử tội.

Tôi không kê ra đây cơn xúc động của tôi trong đêm đầu tiên nằm khám. Tôi ngồi thừ trên ổ rơm, nhìn qua khung cửa sổ nhỏ, thấy đoạn đầu đài xa xa. Tôi nghe tiếng người gác đêm kêu to lên trong thanh vắng: "Hỡi dân chúng Nuremberg. Hãy yên giấc. Một giờ!... Hai giờ!... Ba giờ!...".

Tôi thắc mắc, nghĩ ngợi nhiều. Người ta bảo thà bị xử giảo vô tội còn hơn là có tội. Đúng! Nhưng đó là về phần hồn. Còn về phần xác thì chết vô tội hay có tội cũng y như nhau. Trái lại, phần xác vẫy vùng, tự giải thoát khi biết vai trò của mình đã chấm dứt bằng sợi dây thắt cổ.

Đó là những cảm nghĩ buồn thảm của tôi trong đêm ghê gớm ấy.

Ngày dần dần sáng, thoạt tiên còn mờ mờ rồi từ từ sáng tỏ. Bên ngoài, đường phố nhộn nhịp. Ngày hôm ấy nhằm ngày thứ sáu, ngày nhóm chợ. Tôi nghe rõ mồn một tiếng cọc cạch của xe bò chở rau cải, gà vịt. Tiếng gà kêu trong chuồng, tiếng những người nông dân trò chuyện với nhau khiến lòng tôi lâng lâng.

Khu chợ trước mặt khám đã mở cửa. Người ta chắc đang sửa soạn chỗ ngồi. Khi ngày sáng rực, tiếng cười nói của dân chúng vang lên. Những người đi chợ lui tới, bàn cãi, mặc cả giúp tôi đoán bây giờ vào khoảng tám giờ sáng.

Với ánh sáng, tôi yên tâm hơn. Những ý nghĩ đen tối trong đêm biến mất. Tôi cảm thấy thèm thấy những gì đang xảy ra bên ngoài.

Những người tù trước tôi đã đục những lỗ hổng trên tường đê leo lên khung cửa sổ cho dê. Tôi leo lên đó, đút đầu qua cái lỗ tròn nhìn ra ngoài. Tôi thấy đám đông, sự sống. Tự nhiên tôi chảy nước mắt. Tôi không nghĩ tới tự vẫn nữa. Tôi cần sống, cần thở. Đó thật là một điều phi thường. Tôi lầm bầm: "Được sống là hạnh phúc. Dù người ta bắt mình kéo xe hay xiềng chân vào sắt cũng mặc, miên sống được là được rồi!".

Tôi lại nhìn sang chợ, nhìn những mụ già đang ngồi sau những thúng rau, giỏ gà... rổ trứng. Các người hàng thịt đang chặt thịt trên thớt. Mấy anh nông dân đầu đội nón nỉ rộng vành, chống gậy, chắp tay sau lưng hút thuốc.

Tiếng động của đám đông, sinh hoạt náo nhiệt của chợ giúp tâm trí tôi biết suy nghĩ và trong hoàn cảnh buồn thảm hiện tại tôi vẫn thấy sung sướng được còn sống trong thế giới loài người.

Khi tôi nhìn ra ngoài như vậy, có một người đi ngang qua. Hẳn là một tên đồ tê, đang nghiêng lưng vác một phần con bò trên vai. Hai cánh tay trần, khuỷu tay đưa lên trên, đầu cúi xuống. Tóc bay phất phới che kín cả mặt. Dù vậy, vừa thấy hắn ta là tôi đã giựt nảy mình.

Tôi nói thành tiếng:

- Chính hắn!

Tất cả máu trong người tôi chạy dồn về tim. Tôi leo xuống, toàn thân run rẩy đến cả đầu móng tay, tái xanh hết cả mặt mày, lẩm bẩm:

- Chính hắn!

Trong khi hắn tự do phây phây thì mình sắp chết thay cho hắn!

Chúa ơi! Bây giờ tôi phải làm gì? Phải làm gì?

Một ý nghĩ đột ngột, một sáng kiến từ trên cao lóe lên trong trí tôi. Tôi cho tay vào túi áo... hộp bút chì hãy còn trong đó. Tôi liền chạy ngay lại bức tường dày, vẽ lại khung cảnh xảy ra vụ ám sát với một hứng thú lạ thường, không còn có sự mơ hồ, dọ dẫm. Tôi biết kẻ sát nhân. Tôi trông thấy hắn dường như hắn đang làm mẫu trước mắt tôi.

Vào khoảng mười giờ, viên cai ngục bước vào khám giam. Nét mặt chim cú thường ngày của hắn nhường chỗ cho sự thích thú.

Bước trên thềm hắn hỏi:

- Có thê như thế chăng?

Tôi vẫn tiếp tục ngồi vẽ với tất cả sự phấn chấn tột cùng.

- Đi gọi các ông thẩm phán đến đây giùm tôi!

Tên cai ngục ngần ngừ:

- Các ông ấy đang chờ nơi phòng biện lý.

Tôi vẫn chăm chú vẽ nhân vật kỳ lạ trong bức tranh nói:

- Tôi muốn tiết lộ nhiều điều mới lạ với các ông thẩm phán.

Nhân vật tôi vẽ như sống thật. Bộ mặt hắn rất đáng sợ.

Tên cai ngục bước ra ngoài. Vài phút sau hai vị thẩm phán tới. Họ đứng nhìn bức tranh, kinh ngạc đến cực độ.

Tôi đưa cánh tay ra, cả người run rẩy, nói:

- Đây là thủ phạm!

Sau khi im lặng một lúc, Van Spreckdal hỏi:

- Tên hắn?

- Tôi không biết. Nhưng hắn hiện ở trong chợ, đang chặt thịt ở thớt thứ ba, bên trái nếu đi từ con đường Trabans vào chợ.

Van Spreckdal quay lại ông bạn đồng nghiệp:

- Ông nghĩ sao?

Ông thẩm phán kia trịnh trọng bảo:

- Cho người đưa hắn tới đây.

Vài tên lính đứng ngoài hành lang thi hành lệnh đó. Các thẩm phán vẫn đứng nhìn bức tranh của tôi. Còn tôi, tôi ngồi vật xuống ổ rơm, đầu gục lên gối mệt nhoài như chết.

Không bao lâu có tiếng chân vang lên bên ngoài. Những ai chưa hề chờ giải thoát, chưa đếm từng phút dài như những thế kỷ, những ai chưa biết đến xúc động cực mạnh của sự chờ đợi, của sự kinh hãi, của sự hy vọng, của hoang mang... những kẻ đó không thê thông cảm được rúng động của tôi lúc bấy giờ. Tôi nghe cả tiếng chân của tên sát nhân bước giữa đám lính. Tôi nghe họ tiến tới gần. Ngay cả hai vị thẩm phán cũng lộ vẻ xúc động. Tôi ngước đầu lên, tim se lại như có một bàn tay sắt đang siết chặt. Tôi nhìn chăm chú vào cánh cửa mở... Tên sát nhân bước vào.

Má hắn đỏ rực, hai hàm răng cắn chặt làm nổi bật hai thớ thịt, bạnh đến tận vành tai. Hai con mắt ti hí lo ngại, dữ tợn chợt như hai con mắt sói, long lanh dưới đôi chân mày rậm và nâu.

Van Spreckdal chỉ bức tranh cho hắn xem. Vừa nhìn, hắn tái mặt, rồi rú lên một tiếng dữ dội làm tất cả chúng tôi lạnh người. Đôi cánh tay vạm vỡ của hắn gạt bung mấy tên lính ra. Rồi hắn nhảy lùi ra đằng sau mấy bước. Một cuộc xung đột ác liệt diên ra ở hành lang. Người ta chỉ nghe tiếng thở hổn hên của tên đồ tê, những lời nói ngắn ngủi và tiếng chân của lính gác đổ lên. Cuối cùng là tiếng rơi nặng nề xuống sàn gạch.

Cuộc xung đột xảy ra hơn một phút.

Sau đó, tên sát nhân bước vào phòng, đầu cúi xuống mắt đầm đìa máu, tay bị trói thúc ra sau lưng. Hắn ngước nhìn bức tranh lần nữa, ra dáng suy nghĩ lung lắm, rồi nói nho nhỏ như nói với chính hắn:

- Làm sao lại có người trông thấy mình vào lúc nửa đêm?

Vậy là tôi thoát chết!

Trường Học Toàn Là Ma

Cùng tác giả

Nhà ông Khương Bộ Lang ở phía nam sông Vị, có nhiều ma quỷ, thường nhát người ta, vì thế ông phải dời đi chỗ khác, bỏ nhà trống cho một lão bộc giữ cửa bên ngoài thôị Lão này bị ma làm chết. Thay thế mấy người khác cũng chết nốt, thành phải bỏ hoang.

Trong làng có Đào Sinh, tên Vọng Tam, tánh ưa phóng khoáng, thích chơi gái, nhưng uống rượu ngà ngà rồi bỏ về.

Bạn cố bảo mấy ả chạy theo lôi vào, chàng cười mà không cự tuyệt ở lại cách đêm song chớ hề đụng chạm tới bao giờ. Có lần ngủ đêm ở nhà ông Bộ Lang một nàng hầu đêm khuya đến tự hiến cho chàng, thế mà chàng khăng khăng chối từ, không chịu làm quấỵ Bởi thế, ông Bộ Lang càng trọng là người đứng đắn.

Có điều nhà nghèo, vợ lại mới chết, nhà tranh mấy gain, ẩm thấp nực nội khó chịu, bèn xin Bộ Lang cho ở tòa nhà bỏ hoang kiạ Bộ Lang nghĩ nhà ấy nhiều ma, cho nên từ chốị Chàng viết bài luận vô quỷ đưa cho ông xem, và nói:

- Ma có làm gì được mình mà sợ !

Bộ Lang thấy nài nĩ quá, đành chọ

Chàng dọn đến ở nhà giữa, mới chặp tối để quyển sách đó. về lấy đồ vật khác đêm đến, thì sách đã biến đâu mất rồi, liền nằm ngữa trên giường, lặng lẻ chờ coi sự biến.

Giây lát nghe tiếng giày đi lẹp kẹp, liếc nhìn có hai thiếu nữ từ trong buồng đi ra, đặt quyển sách vừa mất trên bàn. Một cô chừng hai mươi tuổi, một cô độ mười bảy, mười tám, đều đẹp tuyệt trần, đứng quanh quẩn bên giường, ngó nhau mà cườị Chàng làm thinh không nhúc nhích. Cô lớn co một chân lên gác trên bụng chàng; cô nhỏ bụm miệng cười khúc khích. Chàng nghe trái tim hồi hộp, dường như bồn chồn không làm sao cầm được, liền ngồi lên chửng chạc trong trí suy nghĩ đứng đắn trở lại rồi thì ngảnh mặt ngó lơ.

Cô lớn thò tay trái vuốt râu chàng, còn tay mặt gỏ nhẹ trên trán kêu lộp bộp, cô nhỏ thích chí, càng cười dữ. Bây giờ chàng vùng dậy quát tháo:

- Lũ quỷ sao dám hỗn xược thế à?

Hai cô hoảng sợ bỏ chạy mất. Chàng sợ bị quấy nhiễu cả đêm, ý muốn dọn về, nhưng đã lỡ nói cứng mất rồi, bỏ đi thì xấu hổ. Nghĩ vậy rồi khêu đèn sáng ngồi đọc sách, thoáng thấy bóng ma chập chờn trong xó tối, nhưng chàng mặc kệ.

Gần nửa đêm, để đèn mà ngủ, nghe như có người lấy vật gì nhỏ ngoáy vào lỗ mũi bắt hắt hơi bắn người lên, trong xó có tiếng cười sặc sụạ Chàng không nói chi, giả đò ngủ để xem còn làm trò gì nữạ Một lát, hé mắt dòm thấy cô nhỏ mon men đến nơi, chàng nhỏm dậy mắng rầm cả hai lui lủi trốn mất.

Chừng dỗ được giấc ngủ vừa thiêm thiếp, lại bị ngoáy lỗ taị Suốt đêm họ nghịch ngợm quấy nhiễu, hết trò này đến trò kia, mãi đến gà gáy mới yên. Lúc ấy chàng mới được ngon giấc, cả ngày không nghe không thấy gì lạ.

Đến mặt trời lặng trở đi, ma lại xuất hiện. Chàng bàn tính cách nấu cơm đêm, cho được thức luôn tới sáng. Cô lớn dần dà ngồi xếp bằng trên ghế xem chàng đọc sách, rồi thò tay bịt lấy sách, chàng giận chụp bắt, nàng vụt biến đị Chốc lại mò đến, chàng để tay chận trên sách mà đọc. Cô nhỏ lén đến sau lưng, đưa tay bưng lấy mắt chàng, rồi chạy vụt ra đứng xa xa mà cườị Chàng phát cáu điểm mặt nhiếc mắng:

- Con ma bắt tì kia, hễ tao bắt được thì giết chết cả đôi !

Nàng cũng chẳng sợ, nhơn dịp, chàng nói giỡn chơi:

- Cái trò lăn lóc trên giường, tôi không thiện nghệ đâụ Các cô chọc nghẹo làm chi, vô ích !

Hai cô mỉm cười day mình đi vô trong bếp, chia nhau chẻ củi nhen lửa, vo gạo nấu cơm hộ chàng. Chàng ngó và khen:

- Hai cô làm việc có ích như thế, không hơn là nghịch ngợm ư?

Cơm nấu chín rồi lại tranh nhau lấy thìa muỗng đũa chén bày trên bàn, chàng nói:

- Cảm ơn phục dịch, lấy gì báo đền được nhau đây?

Nàng cười đáp:

- Trong cơm có bỏ thuốc độc đó, coi chừng kẽo chết.

Chàng trả lời:

- Xưa nay tôi có thù oán gì hai cô, lẽ đâu hại nhau đến thế?

Chàng ăn hết chén cơm, hai cô dành bới chén khác bưng lại, bôn tẩu xăng xái, chàng thấy rất vuị

Ngày ngày thành ra quen thân, cùng người nói chuyện, hỏi đến tánh danh, cô lớn nói:

- Em là Thu Dung, họ Kiều; con bé kia Tiểu Tạ, họ Nguyễn đó.

Chàng tò mò hỏi đến nguyên do tại sao ở chốn này, Tiểu Tạ cười và nói:

- Anh này ngốc quá! Đến mình mẩy còn chẳng dám phô ra cho người ta xem, ai mượn anh hỏi tới dánh tánh cửa nhà, dễ thường muốn xin cưới đó sao?

Chàng nghiêm nét mặt, nói:

- Đối diện người đẹp, bảo tôi vô tình sao được? Có điều âm khí nặng nề, người ta đụng vào tất là phải chết. Vậy, không vui ở chung với nhau thì nên đi, nếu vui ở chung với nhau thì cứ ở, ai yên phận nấỵ Ví bằng tôi chẳng được thương yêu, thì làm sao tôi xâm phạm được tới hai cô, ví bằng tôi đáng được thương yêu, thì chắc hai cô không nỡ lòng nào vật chết một thằng cuồng sị Hai cô thử nghĩ như thế có phải không?

Hai nàng nghe nói, ngó nhau có vẻ động lòng, từ đó trở đi không nghịch ngợm tinh quái nữa, nhưng thỉnh thoảng vẫn chơi đùa thọc tay vào bụng chàng, có khi lột quần xuống tới đất, chàng không lấy làm lạ.

Một hôm chàng chép quyển sách chưa xong, thì có việc gấp phải đi, lúc trở về thấy Tiểu Tạ đang cúi mình trên bàn, cầm bút chép nốị Nàng trông thấy chàng về, ném bút xuống đất mà cười; chàng đến gần xem, chữ viết tuy còn xấu, nhưng hàng lối ngay ngắn, tấm tắc khen:

- Cô viết khá đấy; nếu thích học thì tôi sẽ dạy chọ

Đoạn, ôm nàng vào lòng, cầm tay dạy viết.

Thu Dung ở ngoài chạy vô, mặt hơi tái, như có vẻ ghen tức. Tiểu Tạ cười nói:

- Hồi em con bé, ông thân em đã dạy viết chữ song bỏ lâu ngày, giờ cầm bút như bỡ ngỡ mới tập vậỵ

Thu Dung chẳng nói gì, chàng hiểu ý, giả đò không biết, rồi cũng ôm nàng vào lòng, trao cây bút cho và nói:

- Tôi xem cô có viết được không nào?

Cầm tay nàng viết mấy chữ, đứng lên nói tiếp:

- Chữ cô Thu viết tố đáo để !

Bấy giờ Thu Dung mới hả lòng.

Liền đó chàng rọc hai tờ giấy làm nòng, cho hai nàng cùng tập viết, còn mình thì ngồi học với một ngọn đèn riêng, trong bụng mừng thầm ai cũng có việc làm, hết quấy rối nhaụ

Viết xong, hai nàng đem đến cho chàng sửa chữa phê bình.

Từ trước, Thu Dung vốn chưa từng đi học, cho nên chữ viết nguệch ngoạc bất thành tự. Sau khi nghe chàng chỉ bảo, nàng tự xét thua kém Tiểu Tạ, mặt có vẻ thẹn, chàng phải vỗ về yên ủi rất khéo, nhan sắc nàng mới tươi trở lạị

Hôm đó về sau, họ coi chàng như một thầy đồ, ngồi thì gãi lưng, nằm thì bóp cẳng, đã không dám lớn mặt, lại còn tranh nhau chiều chuộng.

Cách mấy bữa, Tiểu Tạ viết chữ coi ngay ngắn tốt đẹp, chàng buộc miệng khen mãi, Thu Dung tủi thân, nước mắt rưng rưng, chàng phải khuyên giải đủ cách mới êm. Nhân đó, chàng lấy sách ra dậy học, cả hai cùng thông minh lạ thường, chỉ dạy qua một bận là nhớ, không hỏi tới hai lần. Thầy trò thi nhau đọc sách ê a, thường khi suốt đêm tới sáng.

Tiểu Tạ lại dắt thằng em là Tam Lang đến thọ nghiệp. Cậu này mới mười lăm, mười sáu tuổi, mặt mày điển trai, đem dâng lễ nhập môn là cái móc bằng vàng.

Chàng để Tam Lang học chung một sách với Thu Dung. Từ đó, chàng làm như mở trường dạy học toàn ma, cứ tối đến, tiếng đọc sách vang rân cả nhà. Ông Bộ Lang nghe lấy làm mừng, thỉnh thoảng cho người mang gạo củi tới giúp đỡ.

Được mấy tháng Thu Dung với Tam Lang đều biết làm thơ, thường cùng nhau xướng họạ Tiểu Tạ ngầm bảo chàng đừng dạy Thu Dung, chàng ừ; Thu Dung ngầm cũng bảo chàng đừng dạy Tiểu Tạ chàng cũng gật.

Một hôm, gần tới khoa thi, hai nàng cùng khóc lóc sắp tiễn đưa chàng ứng thí, nhưng Tam Lang nói:

- Chuyến này thầy nên cáo bịnh đừng đi thì hơn. Không vậy, e gặp sự chẳng lành đó.

Chàng nghĩ sự cáo bịnh trốn thì là nhục, cho nên cứ đị

Nguyên trước, chàng làm thơ chê bai thời sự, đã được chạm tới một nhà quý phá trong bản hạt; lão này vẫn ghi mối thù, đêm ngày tìm cách làm hạị Nay lão đem tiền đút lót quan đốc học, vu chàng hạnh kiểm không tốt, bắt giam vô ngục dây dưạ Chàng hết sạch tiền túi, khải xin ăn quanh bạn đồng tù, trong lòng tự nghĩ mình đến chết khô ở chốn này, không trông gì được sống nữạ

Bỗng thấy một người thoáng vào chỗ giam, nhìn ra chính là Thu Dung đem cơm đến nuôi chàng. Hai người ngó nhau khóc thút thít, nàng nói:

- Tam lang từng lo thầy đi chuyến này gặp sự chẳng lành, nay đã quả nhiên. Tam lang cùng đi với em, nhưng hắn cầm đơn vào phá viện kêu oan rồị

Nói qua loa một hai câu rồi nàng đi ra, nội ngục chẳng ai trông thấy gì cả.

Hôm sau, quan Hình bộ đi ra, Tam Lang đón đường kêu là có chuyện oan khuất, quan chấp đơn và giữ cả người để xét.

Thu Dung lại vô ngục báo tin cho chàng, rồi trở ra đi dò thăm, luôn ba ngày không thấy mặt, cah'ng buồn lòng đói bụng, coi một ngày đằng đằng như một năm.

Chợt thấy Tiểu Tạ đến, mặt mài ủ rủ muốn xỉu, nói Thu Dung bữa kia ở đây về, đi qua miễu Thành Hoàng, bị Ông Phán quan mặt lọ nồi ở hành làng mé tây chạy ra bắt đi, ép nàng làm vợ bé. Nàng không chịu khuất , hiện đang bị giam kín. Em rong ruổi hơn trăm dặm đường, vất vả muốn chết, khi đến cửa bắc lại bị gai gia đâm vào giữa gan bàn chưn đau buốt thấu xương tủy, em bận sau em không tới đây được nữạ

Nói đoạn, đưa bàn chưn ra phô, máu còn đóng giây đóng cục; vội vã trao tay cho chàng ba lượng vàng, rồi khập khễnh biến đị

Quan Hình bộ xét vụ Tam Lang khiếu nại, thấy và chẳng có họ hàng thân thuộc chi với bị cáo mà tự nhiên thay mặt kêu oan, cho thế là sự trái nghịch, toan thét lính căng nọc đánh đòn. Tam Lang ngã xuống đất biến mất, quan lấy làm kinh dị, xem tờ khiếu nại, thấy lời lẽ tha thiết, liền gọi lính giải chàng đến trước mặt xét hỏi Tam Lang là người thế nàọ Chàng giả đò không biết. Quan biết chàng oan uổng, lập tức thả về.

Chàng về nhà suốt cả buổi tối chả thấy một người nào tới, mãi đến nửa đêm mới thấy Tiểu Tạ bước vào sầu thảm và hỏi:

- Tam Lang biến ở sân quan Hình bộ, lập tức bị thần áp giải xuống âm ty, Diêm Vương thấy và có nghĩa, đã phú cho đi thác sanh vô nhà giàu sáng rồị Còn Thu Dung thì vẫn bị giam cầm, em đầu đơn kêu Thành Hoàng, lại bị ngăn trở không được vô, giờ làm thế nào?

Chàng nghe nổi doá nắng chửi um sùm:

- Thằng quỷ lọ nồi, sao dám ỷ thế hiếp người như vậy kìa? Để mai tao đạp pho tượng nó mà chà thành đất bùn, lại điểm vào mặt Thành Hoàng hỏi tội lão, tại sao để cho thuộc hạ bạo tàn đến thê? Lào ta say sưa mê mộng không biết hay sao?

Hai người bi phẫn nhìn nhau, mãi tới gần hết canh tư, bỗng Thu Dung vụt đến, làm cho hai người mừng rỡ sửng sốt vô cùng. Thu Dung khóc và nói:

- Thật là vì chàng mà em phải chịu muốn vàn khổ nhục. Lão phán quan lọ nồi hàng ngày đưa dao gậy ra hiếp bức. Đêm nay tự nhiên thả cho em về nói rằng: "Ta không có ý gì khác đâu, chỉ vì thấy người đẹp mà thương yêu, nếu lòng chẳng khứng thì ta cũng chẳng nỡ ép nhau mãị Giờ tha nàng về, cảm phiền nói nhắn với ông Đào Thu Tào, chớ hiềm thù trách giận ta nghe".

Chàng nghe chuyện vui lòng hả dạ đôi chút. Nhân dịp cao hứng, muốn cùng ngủ chung một giường, nói rằng hôm nay vì khanh mà chết cũng cam. Hai nàng nhăn nhó và nói:

- Bấy lâu nhờ chàng dạy bảo, chúng tôi hơi biết nghĩa lý ít nhiều, nỡ lòng nào lấy sự yêu chàng để giết chàng cho đành?

Hai nàng nhứt định không chịu ngủ chung, nhưng nghiêng đầu bá cổ, tình thân mật y như vợ chồng. Vì có gặp tai nạn, ý nghĩa ghen tương của họ đà tiêu đi hết.

Một vị đạo sĩ gặp chàng ngoài đường, bảo chàng có quỷ khí; chàng nghe nói lạ, bèn ngỏ chuyện thật. Đạo sĩ nói:

- Ma đó tốt lắm, chớ nên phụ nó.

Rồi viết hai lá bùa trao cho chàng, căn dặn:

- Về trao cho mỗi cô ma một lá bùa này, để tùy theo phước mạng run rủi, hễ nghe ngoài cửa có tiếng khóc con gái, thì nuốt lá bùa chạy ra tức khắc, cô nào ra trước thì sống lạị

Chàng cảm tạ, đem bùa về trao cho hai nàng, căn dặn như lời đạo sĩ.

Hơn tháng sau, quả nghe ngoài cửa có tiếng khóc thương con gái, hai cô tranh nhau chạy rạ Tiểu Tạ lật đật quá, quên nuốt lá bùạ Khi thấy đám táng vừa đi ngang, Thu Dung chạy thẳng tới, chun vô quan tài, còn Tiểu Tạ không chun vô đặng, khóc lóc trở về.

Chàng liền ra xem, thì ra đám táng người con gái nhà giàu, họ Hác; ai nấy cùng trông thoáng thấy một cô thiếu nữ chun vô quan tài rồi mất, đều xầm xì bàn tán, cho là chuyện quái lạ. Giữa lúc đó, nghe trong quan tài có tiếng động, người ta bèn đỗ lại để mở ra xem, thấy Hác nữ đã tỉnh lạị Tang gia bèn xin tạm ký ở ngoài cửa nhà học của chàng, sai người canh giữ.

Bỗng nàng mở mắt, hỏi Đạo Sinh đâu? Hác gia lấy làm lạ, xúm lại gạn hỏi nguồn cơn, nàng đáp:

- Ta không phải là con gái nhà ngươi nữa đâụ

Rồi kể rõ sự tình đầu cuốị Hác gia không tin, muốn khiêng về nhà. Nàng không nghe, chạy tuốt vô nhà học, nằm lỳ không dậỵ Hác gia đành nhận diện ở chàng là chú rể, rồi kéo nhau đị

Chàng đến gần xem, tuy diện mạo có khác, nhưng vẽ kiều diễm không kém gì Thu Dung, mừng quá sở vọng cùng nhau nhắc chuyện bình sanh một cách niềm nở. Chợt nghe góc nhà có tiếng ma khóc hu hu, thì ra Tiểu Tạ đang khóc một mình trong xó tốị Hai người rất thương cầm đèn đến soi và kiếm lời yên ủi, thấy nàng vẫn khóc nức nỡ, áo xuống đẫm lệ, cứ thế cho tới gần sáng mới đị

Sáng ngày, Hác gia đem rương hòm y phục vào cho mấy người hầu hạ sang ở nhà chàng, nghiễm nhiên thành nhạc gia và gia tế vậỵ

Tối lại, chàng vô buồng vợ, thì Tiểu Tạ lại khóc thảm thiết, kéo luôn sáu bảy đêm khiến hai vợ chồng cùng xót thương cảm động, không thành lễ hiệp cẩn với nhau đặng. Chàng lo nghĩ nát ruột không tìm ra kế gì. Thu Dung nói:

- Đạo sĩ chắc là tiên, vậy mình lại đi tìm ông mà cầu khẩn, may ra ổng thương tình cứu giúp.

Chàng lấy làm phải, liền đi tìm đến Đạo sĩ, quỳ mọp xuống dất bày tỏ sự tình. Đạo sĩ một mực trả lời rằng không có phép gì giúp được. Chàng ai cầu mãi, Đạo sĩ cưới, nói:

- Anh chàng si tình này khéo làm rầy người ta thôị Nhưng, thật anh có duyên số với con ma đó nữa, thôi để ta ráng sức giúp chọ

Đạo sĩ liền theo chàng về nhà, dời ở riêng một gian tĩnh mịch, đóng cửa ngồi bên trong, bảo không ai được gọi hỏi gì cả. Luôn mười đêm ngày không hề ăn uống. Lén dòm, thấy ông ngồi thiếp như ngủ.

Một hôm mới tảng sáng, có một thiếu nữ vén màn bước vô, mắt sáng miệng tươi, vẻ rất kiều diễm, mỉm cười và nói:

- Tôi bương chải suốt đêm, mệt quá. Bị ngà ngươi đeo theo làm rộn, mà phải bôn tẩu hơn trăm dặm đường, mới tìm ra một tòa nhà tốt đặng vô nghỉ chưn. Đạo sĩ đi rước và cùng đến đâỵ Chờ nàng vô để giao phó thì xong.

Chặp tối, Tiểu Tạ đến, thiếu nữ vội vàng đứng lên đón, ôm chầm lấy nàng, tức thời hai người nhập chung vào một thân thể, rồi ngã gục xuống đất, cứng đơ.

Lúc ấy, Đạo sĩ từ trong phòng bước ra, vòng tay chào rồi đi thẳng.

Chàng cảm tạ, tiễn chưn ra tới ngoài; chừng trỏ vô thì nàng đã tỉnh, liền ôm đặt lên giường. Hơi thở dần dần điều hòa, nhưng vẫn ôm cẳng la đau, mấy hôm sau mới đứng dậy đi lại được.

Sau, chàng đi thi, được khôi nguyên ghi tên va danh sách sĩ tử. Có bạn cùng số là Thái Tử Kinh, nhơn việc đến nhà chàng, ở chơi mấy ngàỵ Tiểu Tạ qua thăm lối xóm trở về, Thái trông thấy, rảo bước theo dõị Tiểu Tạ kiếm đường tránh đi, trong trí thầm giận người khách vô lễ. Thái về nói với chàng:

- Có một chuyện quái lạ vô cùng, anh có cho phép tôi nói chăng?

Chàng hỏi chuyện chi, Thái đáp:

- Ba năm về trước, cô em gái tôi chết yểu, cách hai đêm thì mất thi thể, đến nay hãy còn ngờ vực khó hiểụ Mới rồi dòm thấy phu nhơn sao mà giống cô em tôi hết sức.

Chàng cười:

- Vợ tôi là người quê mùa, làm sao sánh được quý muội, nhưng tôi với anh đã là bạn đồng phả với nhau, nghĩa rất thân thiết, vậy để tôi cho nhà tôi ra chàọ

Nói đoạn vô nhà trong, bảo Tiểu Tạ lấy đồ tuẫn táng hôm nọ mà mặc, rồi ra chào khách. Thái thất kinh nói:

- Chính em tôi đấy mà.

Rồi khóc rưng rức. Chàng thuật chuyện gốc ngọn cho nghe, Thái mừng rỡ nói:

- Thế là em gái tôi chưa chết, tôi phải về liền, báo tin cho bà thân mẫu tôi yên lòng.

Mấy hôm sau, cả Thái gia kéo đến thăm, từ đó về sau, thường thường lui tới như Hác gia vậỵ

Hết

Người Con Gái Tỉnh Bắc

Cùng tác giả

Vũ đến trọ học ở hàng cơm bà cụ Đỗ đã ba tháng rồị Nhà chật chội, mái lợp tôn, nên mùa hè rất nóng nực. Nhưng Vũ không muốn tìm chỗ trọ khác, bởi bà cụ Đỗ tính giá rẻ, phần vì mọi việc trong nhà, cụ làm lấy, ít phải thuê mượn, phần vì chính gian nhà ấy, cụ cũng không phải mất tiền thuê.

Bà cụ Đỗ hồi cư rất sớm, thấy gian nhà bị chiến tranh tàn phá, chỉ còn trơ lại hai bức tường và một gian gác xép đằng sau, nên dựng mái tạm trú. Mãi, chủ nhà chưa thấy về, nên cụ yên chí ở, tưởng chừng như đất của mình.

Gian gác xép ấy bỏ không. Có lẽ vì thấy có nhiều chiếc rầm gỗ bị cháy xém, sắp rơi, trần lại nhiều chỗ nứt lở, nên chẳng ai dại gì hứng lấy tai nạn. Mùa hè đến, cùng với những kỳ thị Vũ cần phải học nhiều lắm, nhưng không được như ý. Nhà chật chội quá. Khách ăn hàng lại thường đông, ăn uống bi bô rầm rĩ.

Hơn nữa, mái tôn càng làm nắng hè gay gắt. Bởi vậy, Vũ đã nghĩ nhiều đến gian gác xép bỏ hoang ấỵ Một chiều chủ nhật, Vũ mượn được thang, dựng trèo lên xem. Gác tuy bỏ hoang nhưng không đến nỗi bẩn quá. Sàn vẫn còn nguyên vẹn, chỉ có nhiều bụi cát, cùng một ít vôi vữa long trên trần xuống.

Tường cũng còn khá sạch. Riêng các cánh cửa đều đã mất hết. Gió bên ngoài lùa vào mát rượị Vũ suy tính nếu mình quét dọn qua loa, mỗi buổi tối, trèo lên gác xép này, thắp nến mà học rồi giải (trải) chiếu ngủ thì tốt quá. Vừa yên tĩnh, vừa mát mẻ.

Cẩn thận Vũ hỏi qua bà cụ thì được ưng thuận ngay, bà chỉ dặn thêm rằng:

- Nhưng cậu phải coi chừng, nhà cửa ọp ẹp lắm, khéo mà?oan giả.

Ngay buổi chiều, Vũ hì hục quét dọn. Gió lùa vào mát rợị Gian gác bỏ hoang đã được Vũ đặt cho cái tên văn vẻ:?Nghênh Phong Các. Mấy chồng sách, vừa để học, vừa để gối đầu, một ngọn nến, một manh chiếu, đó là tất cả đồ đạc trần thiết trong căn gái?đón gió? nàỵ

Tối đến, Vũ sung sướng trèo lên gác của mình. Lại rút luôn thang lên theo, vì e ngại mấy ông Tổng, Xã rượu say rồi lên phá quấỵ

Thật là tĩnh-mịch. Tiếng huyên áo trong hàng cơm vẳng xa hẳn; bên ngọn lửa nến lập lòe Vũ yên chí học.

Nhưng chưa ôn bài được mấy lần, Vũ đã thiu thiu ngủ gục. Cho đến lúc tiếng chuông đồng hồ nhà thờ dóng dả, Vũ mới choàng mở mắt. Trời bạch nhật, có lẽ đã sáu giờ sáng. Cây nến cháy đến gốc còn lưu lại vũng nến đọng. Cuốn sách đêm trước vẫn còn mở ở trang học dở.

Vũ bực mình quá, vì thường rất tỉnh táo, có khuya, mệt thì đi ngủ, chứ không bao giờ ngủ gục như vậỵ

Vũ cho đó là vì gác mát mẻ quá lại yên tĩnh nên dễ làm cho người ta chợp mắt.

Đêm hôm sau, Vũ đề phòng cẩn thận. Ăn cơm xong, Vũ uống một cốc cà phê thật đặc. Lại mang lên theo một bao thuốc lá nữạ Gió lùa mát rợị Tiếng cười nói văng vẳng xa...

Dưới ánh nến, chập chờn theo gió, Vũ ngồi chăm chú học, nhưng không hơn gì đêm trước chốc lát đã thiu thiu buồn ngủ. Sực nhớ, Vũ với tay cầm lấy bao thuốc lá. Nhưng lại nghĩ: Hãy cố dùng nghị lực chống chọi đã, cùng lắm hãy nhờ đến thuốc lá, dùng ngay e sẽ thành thói quen. Và Vũ không bóc bao thuốc vội, để bao lên chồng sách.

Nhưng chỉ một lát sau, Vũ đã ngủ gục, cho tới khi tỉnh dậy thì đã thấy cây nến hao quá nửạ Vũ giận mình vô cùng.

Vũ nhất định lấy thuốc lá để chống lại cơn buồn ngủ lạ lùng. Nhưng bao thuốc lúc nãy để trên chồng sách đã không thấy nữạ Có lẽ khi ngả lưng xuống, tôi đã quơ tay làm rơi bao thuốc chăng. Vũ bèn nhìn quanh và quả nhiên thấy bao thuốc lá ở ngay sau lưng mình. Nhưng lạ thay bao thuốc lá đã bị bốc ra tự bao giờ. Một điếu thuốc lại kéo lùi ra khỏi bao chút ít như sẵn sàng mời Vũ hút.

Vũ dụi con mắt, kinh ngạc! Chàng cố nhớ lại, và đinh ninh quả quyết lúc trước chàng chưa hề bóc bao thuốc mà chỉ để bao nguyên lên trên chồng sách. Vừa suy nghĩ Vũ vừa rút điếu thuốc ra ngậm lên môị Ngay phía sau Vũ, bỗng một que diêm xòe lên. Một bàn tay nhỏ nhắn, mềm mại, đưa que lửa mời Vũ châm thuốc.

Vũ hoảng hốt nhìn lạị Và thấy đó là một nữ lang rất đẹp, tuổi khoảng 16, 17, có vẻ như một nữ học sinh.

Vũ liếc mắt nhìn cái thang tre, thấy vẫn còn để nằm yên chỗ chân tường.

Nữ lang mỉm cười và nhắc:

- Anh châm thuốc.

Tiếng nói nhẹ nhàng như gió thụ Vũ ngập ngừng mãi mới thốt ra lời:

- Cô, cô đến đây? Đêm khuya...

Nữ lang ngắt lời:

- Nhà em ở gần đâỵ Nhân nhìn qua cửa sổ, thấy cây nến bị anh quờ tay đổ nghiêng, nên vào dựng lạị Vừa toan quay về, thì anh chợt tỉnh...

Vũ nhìn lại, quả nhiên thấy trên mặt chiếu, có vết sáp nến loang. Nếu vậy, không có nữ lang, lửa nến có thể bén dần qua chống sách! Nhưng Vũ vẫn tò mò muốn biết:

- Xin cảm ơn cộ Nhưng cô là...

Nữ lang mỉm cười:

- Em tên là Ngọc Bách, nhà ở cạnh đây... Nhân đêm khuya, trằn trọc không ngủ được, thấy gian gác này trước bỏ không, nay có ánh lửa và bóng người, nên tò mò nhìn vào... anh tha lỗi cho em nhé!

Vũ hỏi tiếp:

- Nhưng cô làm cách nào mà vào đây được?

Nàng mỉm cười:

- Anh không nên hỏi nhiềụ Em là phận gái, lại chưa hề quen anh bao giờ, nên đột ngột đến đây, thực quá ư trơ trẽn... Chính vì vậy mà em không muốn nói rõ, anh biết nhiều để làm chị Ngừng một lát, nàng lại tiếp:

- Chúng ta quả là tình cờ gặp gỡ, thời gian họp mặt chưa thể biết dài ngắn ra saọ Vậy tốt hơn hết là chúng a cứ vui khi chùng nhau gần gũị

Vừa nói xong, nàng đến ngồi xuống chiếu, sát bên cạnh Vũ. Vốn tính người đứng đắn, Vũ nghiêm sắc mặt nói:

- Trai gái gặp gỡ đêm khuya, là một sự chẳng haỵ Hơn nữa, cô và tôi lại chưa hề quen biết bao giờ. Vã lại, tôi đang cần yên tĩnh để học vì kỳ thi đã tới nơi... Nếu cô có lòng mến, xin để trưa mai, tôi có thì giờ rỗi rãi, tôi sẽ tiếng chuyện với cô.

Nữ lang làm ra bộ hờn dỗị Nàng đứng dậy, liếc nhìn chồng sách trên chiếu cười nhạt:

- Có lẽ anh tưởng chỉ có anh là học thôi ư? Và anh tưởng những?hình học không gian? những?phân tích hóa học? kia của anh là ghê gớm lắm rồi saỏ Có lẽ vì thế nên anh mới dám đem so sánh giữa Học với Tình!

Vũ sốt ruột:

- Cô muốn tranh luận gì, xin cũng hãy để đến trưa mai!

Nữ lang không nói gì hơn nữa, quay ngoắt đị Vũ xiết nỗi ngạc nhiên, khi thấy nàng không xuống lối cầu thang, mà lại vượt qua cửa sổ.

Gió đêm khuya càng thêm lạnh lẽọ Vũ bất chợt thấy rùng mình nhưng được cái không buồn ngủ nữạ Đêm ấy chàng học được kỹ càng cho đến ba giờ sáng mới dọn dẹp đi ngủ.

Hôm sau, lúc đi học về, ngồi ăn cơm, Vũ lại lựa lời hỏi bà cụ Đỗ. Nhưng bà cụ cho biết hai bên hàng xóm không hề có một thiếu nữ nàọ Và cả quanh đây không có cô con gái nào tên là Ngọc Bách giống như hình dáng của lời Vũ tả. Vũ ngạc nhiên nhưng chưa nói rõ sự thực ý muốn đợi xem trưa nay, người con gái kỳ dị ấy có đến gặp mình như lời đã yêu cầu không. Nhưng không thấy đến.

Buổi tới hôm ấy, Vũ lại lên căn gác của mình ngồi học. Chàng lại thấy thiu thiu buồn ngủ, khi gió mát lùa vàọ Tuy vậy, chàng đã biết trước việc xảy ra, nên ung dung lấy thuốc lá châm hút. Rồi ngồi đợị

Quả nhiên, chốc lát thấy Ngọc Bách đến. Lần này, Vũ thấy rõ ràng nàng do lối cửa sổ mà bước vào, nhẹ nhàng như một cái bóng.

Ra chiều thân mật, Ngọc Bách ngồi ngay xuống cạnh Vũ. Rồi lã lơi trách:

- Em hôm nay lại hơi muộn, anh có giận không?

Vũ lặng thinh không nói, chỉ lấy sách vở ra học. Nàng lại nhìn chăm chăm vào mặt Vũ rồi tiếp:

- Có lẽ không giận nhưng ý chừng cũng mong đợi lắm thì phảỉ

Vũ thẳng lời cự:

- Hôm qua tôi đã nói với cô rằng tôi bận học thi không tiện tiếp chuyện. Tôi đã hẹn buổi trưa, muốn nói năng gì, sao cô không lạỉ

Ngọc Bách ra vẻ phụng phịu:

- Anh tưởng con gái muốn gặp đàn ông một cách tự nhiên lúc nào cũng được hay saỏ Anh không sợ người ta trông thấy dị nghị ư? Về phần em thì không ngại, nhưng lo cho anh bị người chế riễụ

Vũ lắc đầu:

- Tôi không sợ. Việc làm đàng hoàng, chẳng sợ ai cười hết, mặc cho có người ngờ vực, nhưng lòng mình thẳng thắn thì dư luận sai lạc ấy tôi cũng chẳng quan tâm. Tôi ngại là ngại sự đêm hôm khuya khoắt cô lại đây, nguyên một sự gặp gỡ ấy cũng đã là bất chính rồị Vậy mong từ sau, cô đừng đến đây nữa, muốn hỏi gì xin đợi ban ngàỵ

Ngọc Bách rưng rưng ngồi khóc. Một lát sau mới nói:

- Em biết khi người con gái tự tìm đến gặp người con trai, bao giờ cũng bị khinh rẻ. Nhưng em dám đường đột, chẳng qua là tưởng anh khoáng đạt, không chấp nê những nhỏ nhặt thường tình. Không ngờ anh cũng chẳng hơn gì người khác...

Vừa nói nàng vừa gục xuống gối Vũ mà khóc nức nở.

Nhưng Vũ gạt ra, nghiêm giọng bảo:

- Những lời tôi nói đã đầy đủ. Cô nên hiểu biết và đừng quấy rầy thêm nữa!

Rồi quay sang phía khác mà ngồi học lớn tiếng làm như không có ai ở cạnh mình.

Ngọc Bích vùng đứng dậỵ Nàng biến sắc, nói:

- Số anh sắp chết đến nơi, ta thương tình đến cứụ Lại không biết thân, còn làm ra bộ kiêu kỳ, vậy hãy coi chừng.

Nói rồi, bước ra cửa sổ biến mất.

Vũ vừa ngạc nhiên vừa bâng khuâng. Chàng không hiểu người con gái ấy là ai, ma quái chăng, người thực chăng? Trước lời dọa nạt kia chàng không sợ. Những cảnh chinh chiến đã làm cho Vũ tin tưởng ở số mệnh. Sống, chết, chẳng phải là những thứ có thể tìm, hoặc tránh được dễ dàng...

Vũ vừa toan gác bỏ những ý nghĩ vẩn vơ ấy để chuyên tâm ngồi học, thì chợt cơn gió mạnh từ đâu ào ào tới làm cho ngọn nến tắt phụt. Vũ định sờ lấy bao diêm châm, nhưng không thấỵ Gió như lạnh hơn lúc trước, làm cho Vũ chợ rùng mình. Ngoài trời không đến nỗi tối lắm. Những lùm cây rung động như những bóng đen hình dáng to lớn lạ kỳ...

Giữa khung cửa sổ, Vũ bỗng thấy hiện ra một bộ xương người trắng xóa, dập dờn đi lạị

Vũ biết lời dọa nạt của người con gái kỳ dị đã thực hiện. Đã suy nghĩ từ trước, nên Vũ không lấy làm kinh hoảng. Bộ xương ấy bước vào, tiến đến trước mặt Vũ. Cái đầu nhe bộ răng trắng nhởn nhơ cười một cách rùng rợn.

Vũ ráng bình tĩnh, vẫn cứ ngồi yên giả bộ học.

Thoáng cái, bộ xương đã biến đâu mất. Vũ cười thầm:

- Mi dọa ai thì được, chớ dọa ta sao nổỉ

Chưa dứt lời, một thanh xương tay bỗng từ trên treần nhà rơi xuống, ngay trước mặt Vũ. Tiếp đó, là thanh xương mỗi chốc thêm nhiều, đến mấy chiếc xương sườn... Thấy đống xương mỗi chốc thêm nhiều, lù lù trước mặt... sẵn lọ mực trên bàn Vũ cầm luôn ném vào bộ xương. Mực đổ tung tóe, bộ xương vụt biến mất.

Vũ tưởng vậy là yên. Không ngờ Ngọc Bách lại hiện ra đứng cạnh chàng, nghiêm giọng trách:

- Anh thực là tệ! Lại là người đã hấp thụ văn minh Tây Âu, sao không biết quý người phái yếủ

Vũ thẳng lời, cự lại:

- Người ta chỉ có thể lịch sự đối với người lịch sự! Quấy rầy làm mất tự do của kẻ khác, đó có phải là cách cư xư của hạng người có giáo dục hay không?

Nữ lang không nói lại được, tần ngần đứng lặng người, chốc lát mới thở dàị Vũ thấy sắc mặt nàng vô cùng buồn thảm, cũng động lòng, hỏi:

- Cô là ai, xin nói thật: Nếu còn giấu diếm ta không bao giờ muốn nói chuyện.

Ngọc Bách hỏi lại:

- Nói thiệt liệu anh có khỏi sợ hay không?

Vũ cười:

- Hỏi thế là thừa, nếu là kẻ nhút nhác thì ngay từ đêm trước tôi đã không dám lên căn gác này ngồi mà học nữạ

Nữ lang gật đầu:

- Chính đó là một điều mà em lấy làm kính phục. Em không phải là người, chính là mạ

Vũ thản nhiên:

- Tôi cũng đã đoán biết ngaỵ

Rồi Vũ lại nói:

- Thường thường tôi nghe thấy nói đến oan hồn, song chưa tin là thực; hồn ma còn ẩn hiện lẩn quất nơi đây, ý hẳn cũng có điều oan khuất chứ chẳng không?

Ngọc Bách rơm rướm nước mắt, thưa:

- Sự đời man mác những nỗi oan khiêng nhiều không kể xiết, nhất là trong thời chiến tranh ly loạn này, chẳng phải là trường hợp riêng em. Có điều kẻ chết đi, dù sao cũng mong nắm xương tàn được vùi sâu, chôn chặt, thế mà em thì bộc lộ, gián nhấm, chuột gậm, thê thảm vô cùng...

Vũ thấy nàng từ nãy giờ vẫn đứng trước mặt mình, chớ không dám suồng sã như trước, nên dịu dàng bảo:

- Dù sao nữa cũng xin mời cô ngồi xuống đâỵ Theo luân lý Khổng Mạnh, trai gái?bất tương thân?, nhưng thiển nghĩ: đã là âm dương cách biệt, thì hai thế giới khác nhau, chúng ta là ngay thẳng nói chuyện, tất cũng không ai chê trách vào đâu được!

Nữ lang bùi ngùi nói:

- Nghe lời anh, em chợ nhớ đến ba em ngày xưa, tuy là người Tây học, mà vẫn giữ được nền nếp Đông Phương, quả thực cũng là hiếm có vậỵ Càng nhớ lại trong mấy hôm nay, có biết bao nhiêu cử chỉ hành động suồng sã, thẹn chết đi một lần nữa được.

Vũ gật gù, tán thưởng:

- Nghe lời, thấy rõ ràng là người có học thức. Mong rằng đừng giấu diếm, xin cô kể rành mạch câu chuyện từ đầụ

Ngọc Bách lau nước mắt thưa:

- Nguyên những lời vàng ngọc ấy cũng đủ an ủi em được ngàn phần. Em tên thật là Ngọc Bách, họ Nguyễn, vốn quên ở tỉnh Bắc, con của một ông Tham tá, đã từ trần từ lúc em mới lên 15 tuổi...

Mỉm cười chua chát, Ngọc Bách lại tiếp:

- Năm nay em 18 tuổi! Nói như vậy, nghĩa là: khi chết thì em mới 18 tuổi, nhưng nếu tính theo người sống, qua mấy năm tao loạn thì hiện nay em đã ngoài 20... già mất rồị

Vũ nghĩa thầm trong bụng:

- Khi đã là đàn bà, dù chết đi rồi, cũng vẫn còn lo lắng đến sắc đẹp tàn phaị

Nữ lang lại kể tiếp:

- Trong gia đình, tuy em là lớn nhất, nhưng vì em theo lời trối trăn của cha em dặn lại, nhất định cho em đi học đến nơi đến chốn. Bởi vậy, sua khi đỗ bằng cơ-thủy ở tỉnh Bắc, em được mẹ em cho về học bậc Trung học tại Hà Nộị Cẩn thận mẹ em cho em ăn trọ tại nhà bà Phán Tâm ở ngay liền vách nhà nàỵ

Nhừng lại giây phút, Ngọc Bách lại kể:

- Nếu không có chiến tranh thì không đâu đến nỗi... Khi được lệnh tản cư, bà Phán cùng những trẻ nhỏ đều về quê cả, chỉ còn lại một người con trai lớn, đi làm công sở và em cùng một người vú già ở lạị Bỗng đô thành khói lửa mù trời, căn nhà bên cạnh này (tức là nhà em ở) bị sụp đổ. Người u già, cũng như con trai bà Phán, đều bị chết vùi trong đống gạch ngóị Riêng có em là may mắn núp dưới chân cầu thang được thoát chết. Nghe tiếng bom đạn rầm ran, em sợ hãi vô cùng, bò lần sang hàng xóm, tức là căn nhà này, lúc đó bỏ không, vì người trong nhà đều đã tản cư từ trước. Sợ hãi, em tìm được chiếc thang, treo ẩn lên trên trần căn gác này, vì em cho đó là chỗ ẩn náu kín đáo nhất.

Thân gái trong thời binh lửa, may ra nhờ đó mà được an toàn chăng. Thường lệ, mỗi khi tìm kiếm thức ăn, nước uốn đầy đủ rồi thì em lại trèo lên trần nhà, và rút thang lên theọ Em có ngờ đâu, chính gian nhà này cũng bị sụp đổ, chiếc thang em vừa trèo lên bị rơi xuống. Thế là bỗng dưng bị giam gọn trên trần gác, với một số lượng thức ăn đủ chừng ba ngàỵ Em chỉ còn một hy vọng có thấy bóng người nào thì kêu cứu, không những trong lúc khói lửa tơi bời, ai cũng lo lẩn trốn nên em ngồi yên trên trần đã bốn ngày liền mà cũng không hề thấy có một bóng người nào... Vừa đói và khát, em đành phải chịu cực hình, giống hệt như người bị lạc lõng giữa nơi xa mạc. Cho đến khi sức một yếu dần em thở hơi cuối cùng, thiệt oan một đời xuân xanh đầy hứa hẹn.

Vũ nói tiếp:

- Rồi sao nữa, xin cô cứ kể tiếp cho nghe!

Ngọc Bách thở dài:

- Rồi ngày tháng trôi quạ Cảnh đô thành dần dần trở lại đông đúc, vui vẻ hơn xưạ Riêng có tấm oan hồn của em vẫn bị ngậm ngùi, đáng thương hại nhất là một nắm xương tàn rụi vẫn bị bộc lộ trên trần nhà này, làm mồi cho gián, chuột.

Vũ ngắt lời:

- Nhưng tại sao thấy tôi lên học trên đây, cô lại hiện hình bỡn cợt? Hồn oan đau tủi, há lại còn ưa thích những chuyện cợt đùa...

Ngọc Bách rơm rớm nước mắt:

- Anh quở trách như vậy, em xin nhận lỗi, nhưng chỉ vì em ngu muội, lóng nghe thấy bọn yêu quái thường bàn nhau rằng nếu chúng tìm được người thế mạng thì sẽ được đầu thai thành kiếp khác! Thoạt đầu thấy anh lên học trên căn gác trống này, em dùng tà khí làm cho tinh thần anh bị hôn quyện, rồi sau đó, định hiện nguyên hình người con gái đẹp, để nhờ nhan sắc mà quyến rũ anh... nhưng anh không hề vì sắc đẹp mà động tâm. Em lại định tác quái để cho anh sợ hãi... nhưng kết cục cũng bị thất bại... Em thực đã đắc tội với anh nhiều lắm.

Vũ ngắt lời hỏi:

- Bây giờ cô muốn gì?

Ngọc Bách gạt nước mắt, thưa:

- Em chỉ mong anh vì thương người bạc phận, ra tay tế độ, chôn cất cho yên đẹp nắm xương tàn của em mà thôị Như vậy, em không còn phải oán hận gì nữa...

Vũ nhận lời, Ngọc Bách sụp lại tạ Ơn, nhưng Vũ giục nàng hãy ra đi, vì âm dương cách biệt, lần lửa lâu lai, cũng e hại cho cả đôi bên.

Ngay sáng hôm sau, Vũ hỏi thăm những người ở gần đấy, họ đều nhận rằng có thực, tại nhà bà Phán Tâm khi xưa có cô con gái tỉnh Bắc trọ học, nhưng hình như đã thiệt mạng trong những ngày khói lửa đô thành... Vũ lại tìm thang trèo lên trên trần nhà lục lạo khắp nơi, quả nhiên có một đống xương người, nhện chăng, bụi phủ, riêng lạ một điều là có mấy khúc xương rõ ràng có vấy mực. Sau khi tìm được xương cốt của cô gái Vũ bèn nhờ người chôn cất, cho đúng lời hẹn với hồn ai!

Đêm Của Ma Mèo

Cùng tác giả

Mày có thể làm được việc này, Wendy. Hãy tập trung.

Wendy Chapman dồn hết sự chú ý vào cây xà rộng mười xăng ti mét. Thể thao là môn em ưa thích trong số các môn học ở trường. Nhưng việc giữ thăng bằng trên xà đã làm em sợ.

- Đẹp đấy, - cô bạn thân nhất của em là Tina Barnes trầm trồ thán phục.

Lần này mình sẽ không rơi. Mình sẽ không!

Sàn nhà ở xa bên dưới. Wendy thở thật sâu. Em đang cố chế ngự nỗi sợ bởi độ cao. Nó luôn làm em choáng.

- Xì ì ì!

Wendy liếc về phía phát ra âm thanh từ dưới sàn. Khuôn mặt giễu cợt của Nancy Morrow đập vào mắt em. Nancy xì thêm lần nữa rồi khua khua cánh tay nhại điệu bộ ai đó đang rơi.

Wendy nhìn lại cây xà. Hãy quên Nancy đi! Em thầm nhắc mình. Hãy tập trung để giữ thăng bằng.

Nhưng đã quá muộn, cái liếc nhìn đã khiến em choáng. Wendy loạng choạng rồi rơi khỏi cây xà. Cô Mason, giáo viên thể dục, giơ tay đỡ em đứng trên nệm nhưng em rơi mạnh, ngã nhào về phía trước.

- Sao vậy Wendy? - Nancy khiêu khích - Tớ nghĩ mèo thì luôn đứng được trên chân khi rơi chứ?

Nó bắt đầu cười và mấy đứa bạn kênh kiệu của Nancy cũng cười rống lên.

Mặt Wendy nóng bừng vì xấu hổ. Nancy luôn chế giễu em!

- Đủ rồi đấy, Nancy! - Cô Mason nói. Cô vỗ nhẹ vào vai Wendy - Wendy, em tập khá lắm, em sẽ tiến bộ nhanh thôi.

- Cám ơn cô!

Wendy lí nhí đáp. Em cố nở nụ cười. Nhưng trong lòng rất buồn. Thứ bảy tới, ba cô bé đứng đầu câu lạc bộ sẽ được chọn để biển diễn ở trường Shadyside trong cuộc gặp mặt với toàn thành phố. Giờ thì mình sẽ chẳng được chọn nữa rồi, em buồn bã nghĩ.

Trên đường đến phòng thay quần áo, Nancy lại trêu Wendy.

- Có lẽ đám bạn mèo tí hon của cậu sẽ dạy cho cậu mấy bài học, Wendy à! - Nó vẫn tiếp tục. - Loài mèo giữ thăng bằng tốt lắm, có phải không?

Nancy vuốt mái tóc đen sẫm được chải cẩn thận của mình ra sau.

Bực mình, Wendy xổ tung mái tóc vàng mỏng của mình xuống.

- Hãy để tớ yên! - Wendy nói to.

- Ái chà, tớ nghĩ đấy là ý kiến hay lắm, - Nancy vẫn cứ trêu. Giọng nó vẫn dịu dàng, nhưng Wendy đã kiềm chế được cơn giận. - Tớ nghĩ cậu rất muốn giống những con mèo dễ thương ấy cơ mà.

- o O o -

- Tại sao Nancy không chịu để tớ yên cơ chứ?

Wendy phàn nàn khi em và Tina rời trường sau buổi tập ở câu lạc bộ thể thao. Tina nhún vai.

- Chắc cậu ấy ganh tỵ vì cậu học nhảy lớp.

Wendy học nhảy lớp năm. Đa số học sinh lớp sáu đều ở độ tuổi mười hai. Nhưng chỉ có em là mười một tuổi mà vẫn học giỏi. Mẹ em bảo em lớn trước tuổi.

- Đừng có lo, - Tina nói tiếp lúc đang buộc cái đuôi gà màu nâu dài của mình, - Chẳng chóng thì chầy, Nancy sẽ tìm người khác để châm chọc.

- Ừ, tớ muốn cậu ấy làm điều ấy nhanh đi!

Tina và Wendy nhìn hai phía đường rồi đi qua, về phía điểm dừng xe buýt.

- Nhưng tại sao cậu ấy lại ghét mèo đến thế kia chứ?

Wendy chẳng thể hình dung nổi có ai đó lại có thể không quý những con vật xinh xắn ấy.

- Cậu không biết à? - Tina hỏi - Cậu ấy dị ứng với chúng. Em trai cậu ấy bảo với tớ là nếu cậu ấy đứng gần một con mèo thì cậu ấy sẽ bị sổ mũi và hắt xì hơi.

- Tớ ước bây giờ mình có một con mèo để mang gí mà mũi cậu ấy! - Wendy hồ hởi nói.

Tina cười, đôi mắt nâu tròn của cô bé lấp lánh.

- Cậu có thể kiếm được một con ở chỗ triển lãm mèo.

Cuộc triển lãm mèo ở Shadyside đã khai mạc chiều hôm ấy. Wendy và Tina đã mong đợi nó suốt từ nhiều tuần nay.

Wendy thở dài. Em yêu mèo. Nhưng bố mẹ em không cho phép em nuôi.

Chiếc xe buýt màu đỏ của thành phố đỗ lại.

- Ta đến xem cuộc triển lãm mèo đi!

Wendy reo lên. Em và Tina vỗ tay vào nhau năm lần rồi lên xe.

Cuộc triển lãm mèo được tổ chức tại một toà nhà còn để trống phía bên kia đại lộ Mall. Khi hai cô bé ra khỏi xe buýt, Wendy ngước mắt nhìn, em chỉ tay vào tấm băng vải treo vắt qua trước toà nhà.

- Nó kia kìa! Cuộc triển lãm các loài mèo ở Shadyside.

Em đọc lớn.

Em nắm tay Tina rồi cả hai chạy vào cổng. Những tiếng meo meo từ bên trong như đang mời gọi Wendy. Em háo hức đến nỗi gần như quên cả lấy lại tiền thừa khi em mua vé giá năm mươi xu.

Căn phòng lớn được xếp đầy những cái bàn dài. Những chiếc lồng nhốt mèo lớn và mèo con được đặt lên bàn. Chủ của chúng ngồi phía sau.

Mắt Wendy sáng rực lên.

- Tớ chưa từng được thấy nhiều mèo như thế này! - Em thốt lên. - Tớ có thể ở lại đây suốt cả tuần.

- Tớ cũng thích mèo, - Tina tán thành. - Nhưng chẳng có ai mê mèo như cậu!

- Tớ biết, - Wendy đồng ý. - Tớ yêu chúng. Cậu có nghĩ là bố mẹ tớ đồng ý cho tớ ở lại đây mãi không?

Hai cô bé đi lang thang, dọc ngang theo lối đi. Wendy không biết phải xem nơi nào trước. Những chú mèo xinh quá! Con sau lại còn đẹp hơn con Wendy đã xem trước.

Wendy dừng lại trước cái lồng nhốt con mèo có bộ lông dài, màu trắng sọc vàng. Nó lớn gần bằng con chó cảnh.

- Cyril là con mèo thuộc dòng họ Maine, chủ của nó nói với em. - Cháu thích vuốt ve nó chứ?

- Ồ, cháu được phép chứ?

Wendy thò tay vào lồng vuốt bộ lông mịn như tơ của con mèo. Tim em hồi hộp khi con mèo kêu prừ prừ và liếm tay em.

- Giá mà bố mẹ cháu cho phép cháu nuôi mèo, - em lặp lại câu nói đó cả triệu lần. - Khi lớn lên, cháu sẽ xây một ngôi nhà khổng lồ để nuôi mèo mẹ và mèo con.

- Nhìn đây này, Wendy.

Tina gọi.

Wendy chào tạm biệt Cyril và đi đến với cô bạn đang đứng ở cửa ngách. Cánh cửa dẫn vào căn phòng bé hơn. Căn phòng trống rỗng ngoại trừ một gian trưng bày lớn. Mấy mảnh vài rèm màu xanh được dán những chiếc nhãn có hình con mèo. Treo lên mấy cái móc cũng tạc hình đầu mèo.

Mấy bức rèm được kéo kín.

Wendy bước vào phòng. - Những chú mèo kỳ lạ của bà Bast, - em đọc từ tấm biển treo trên gian hàng. Dòng chữ được viết theo hình những cái vuốt, màu sắc sặc sỡ. Tina đứng bên cạnh em.

- Gian hàng đã đóng cửa.

Cô bạn nói.

- Nhưng dẫu sao chúng ta cũng tìm cách thử xem, - Wendy gợi ý - Tớ nghĩ bà Bast có những loại hàng đặc biệt.

- Hãy lưu ý lời mẹ cậu dặn về việc cậu tiêu quá nhiều tiền vào những thứ có liên quan đến mèo.

Tina nhắc nhở.

- Đừng lo, tớ sẽ không mua gì đâu. - Wendy trấn an cô bạn, - nếu tớ không thực sự, thực sự cần, - em nói kèm theo một nụ cười.

Wendy tiến đến gần gian hàng.

- Có ai ở trong đó không? - em gọi - Bà Bast ơi?

Không có tiếng trả lời.

- Có lẽ tớ phải meo meo lên - Wendy đùa. - Có lẽ bà Bast chỉ phục vụ những khách hàng là mèo.

- Ở đây không có ai cả, - Tina nói, - Ta đi thôi Wendy.

- Khoan đã nào Tina, tớ muốn nhìn qua bên trong quầy một tí. Tớ phải khám phá xem có cái gì trong này.

Wendy vén bức màn, ngay lập tức, một bàn tay từ bên trong đưa ra, chộp lấy cổ tay em.

Vùng vẫy, Wendy cố giằng ra. Nhưng em không thể. Bàn tay kia nắm quá chặt.

Tim Wendy như ngừng đập. Em cảm thấy mình bị lôi ngã vào trong bức rèm.

Ma Đúng Giờ

Cùng tác giả

Đây là truyện ma có thật 100% đó nha:

Truyện ma 5 giờ 15 phút sáng:

MA_ vẫn là 1 đề tài được nhiều người thích thú. Có nhiều tin là có ma, nhưng có nhiều người lại nói là kkhông tin. Có rất nhiều hiện tượng lạ xảy ra, và tất nhiên là không có lời giải thích. Câu chuyện mà tôi kể ở đây là có thật, nhưng không phải là bản thân tôi găp, mà là anh của tôi.

Đó là 1 lần anh ầy đi công tác với phái đoàn ngoài Hà Nội. Vào 1 đêm, khi mọi người đang ngồi o quầy tiếp tân để mướn phòng thì có 1 bà khách chạy từ trên lầu xuống. Bà ấy vừa khóc vừa nói với người quản lý khách sạn.

__ Tôi..Tôi...không ở đây nữa. Tôi trả phòng lại đó.

Anh tôi và mọi người rất ngạc nhiên vì phản ứng lạ của bà khách này. Vì vậy anh ấy lại gần và hỏi:

__ Có chuyện gì vậy? Phòng đó có vấn đề gì ah?

Bà khách trong điệu bộ hốt hoảng trả lời:

__ Tôi nghĩ là phòng đó có.......tôi không biết nữa. Tôi đang nằm ngủ trên giường thì tự nhiên cái giường dựng đứng lên. Tôi tưởng là nằm mơ nên đã tự nhéo mình. Nhưng tôi rất tỉnh táo.....

Bà ấy hoảng loạn thật sư. Thấy vậy anh tôi mới đưa cho bà ấy vài viên thuốc an thần và nhờ người tìm cho bà ấy 1 phòng khác. Bạn của anh tôi cũng không phải là hiền. Họ cũng rất hào hứng trong chuyện này. Trong lúc đang phân vân. 1 người bạn của anh tôi nói:

__ Hùng_ tên anh trai tôi, tụi này biết mày rất gan da. Thôi thì tụi mình cá với nhau đi. Bây giờ mày vào phòng đó ở, nếu mày ở đó được 3 ngày mà không sợ thì tụi này sẽ dắt mày đi ăn 1 chầu.

Anh tôi cũng tin vào những chuyện lạ như vậy, nhưng anh ấy cũng muốn thử xem sao. Vì vậy anh ấy nhận lời. Tối hôm đó, trước khi đi ngủ, anh ấy gọi người quản lý và dặn:

__ Huân, ngày mai em kêu anh dậy lúc 6h nha, anh còn phải vào bệnh viện có chuyện.

Anh quản lý đồng ý. Thế là tối hôm đó anh tôi vào ở cái phòng mà bà khách kia nói là có ma.......................

Đang ngủ say giấc, bỗng có tiếng của Huân:

__ Anh Hùng, dậy đi anh, 6h rồi, anh còn phải vào bệnh viện nưa.

Không chỉ gọi mà Huân còn đến gần và lay lay người anh tôi nưa. Anh tôi lim dim mở mắt, chộp lấy cài đồng hồ và nhin. Anh ấy trả lời lại:

__ Chỉ mới có 5h15 thôi, sao em kêu anh sớm vây?

Anh Hùng liến quay người hướng mặt vào tương. Nhưng cũng ngay lúc ấy, anh tôi bật ngồi dậy trong sự hoảng hôt...........

Anh ấy không hoảng hốt vì cái giường dựng đứng lên. Anh ấy cũng không giật mình vì Huân gọi anh ấy dậy sơm. Anh ấy bật dậy vì nhớ ra là Huân đã vào và lay lay gọi anh ây. Chuyện lay lay người để gọi 1 ai dậy là chuyện thương. Nhung nó sẽ trở nên quái lạ nếu cửa đã được anh tôi khoá 2 chốt, cài móc xích và đút chìa khoá ở ô. Điều đó cũng có nghĩa là, không 1 ai ở ngoài có thể mở cửa đươc. Bởi vì thắc mắc chuyện đó, nên anh ấy dậy và chuẩn bị đồ để đi làm luôn. Đến tối về, anh ấy lại vào phòng và đóng cửa kỹ như ngày hôm qua. Nhưng hôm nay, anh ấy không nghe gì hết, anh ấy để đồng hồ vào lúc 5h30 nhưng lại tỉnh dậy vào 5h15...........

Đến ngày cuối cùng là ngày thứ 7 và anh ấy ko cần đi làm vào ngày mai. Anh ấy quyết dịnh dùng thuốc ngủ để ngủ cho ngon giâc. Nhưng lạ 1 điều là, ngay cả khi uống 2 viên thuốc ngủ thì anh ấy vẫn thức dậy đúng 5h15. Điều này rất lạ đối với anh ấy vì anh thường thức dậy rất trễ khi ko làm vào buổi sang. Anh ấy xuống quầy tiếp tân và gặp bạn be. Mọi người đều hỏi han anh Hùng.

__Sao? Mày có gặp gì không?

Anh tôi trả lời:

__Có, tối đầu thì thấy Huân 5h15 lên kêu tôi.

Huân liền nói:

__Không có anh ah! Anh dặn em là 6h mới gọi anh ma. Với lại lúc đó em đang có ca trực bên khu kia, đâu có ở đây.

Nghe Huân nói vậy, mọi người đều há hốc miệng ra. Và rất ngạc nhiên khi thấy anh tôi vẫn bình thương. Anh tôi nói:

__ Anh biết, vì đó không phải là em. Cửa phòng anh khoá rất kỹ, nếu là em thì em cũng chẳng vào được __Anh tôi nói tiếp:

__ Có điều ngạc nhiên là, mấy ngày nay, lúc nào anh cũng dậy vào lúc 5h15. Không trễ củng không sớm hơn phút nào. Hôm qua anh đã uống thuốc ngủ, nhưng sáng nay cũng dậy vào đúng giờ đo. Mà lạ hơn nữa, khi thức dậy, anh rất tỉnh táo, không có chút gì nhức đầu hay ngái ngủ như trước đây.

Mọi người đã ngạc nhiên giờ càng ngac nhiên khi anh tôi hỏi người tổng quản lý khách sạn đã đứng tuổi:

__ Bà hãy kể sự thực về cái phòng đó đi.

Người tổng quản lý bèn kể nhỏ:

__ Cái phòng đó lúc trước có 1 bà khách mướn, và không biết vì chuyện gì mà bà ấy đã tự tử trong đó vào lúc 5h15...................................

Chúc các bạn hứng thú khi đọc truyện này!!!

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top