THẬP ĐẠI NGUYỆN VƯƠNG PHỔ HIỀN BỒ TÁT + TỔNG KẾT
6 -THẬP ĐẠI NGUYỆN VƯƠNG PHỔ HIỀN BỒ TÁT
Lễ kính chư Phật
· Khen ngợi Như Lai
· Rộng tu cúng dường
· Sám hối nghiệp chướng
· Tuỳ hỷ công đức
· Thỉnh chuyển pháp luân
· Thỉnh Phật trụ thế
· Thường tùy Phật học
· Hằng thuận chúng sanh
· Hồi hướng tất cả
Khóa mục sau cùng là Mười Đại Nguyện Vương của Bồ Tát Phổ Hiền, đây là đạt đến cứu cánh viên mãn. Chỗ mà Bồ Tát Phổ Hiền nói không giống như các vị Bồ Tát khác, chính là tâm lượng phải rộng lớn, khởi tâm động niệm của họ đều là vì chúng sanh mà lo nghĩ, họ không có nghĩ chính mình, cũng không nghĩ đến gia đình, cũng không nghĩ đến một quốc gia của họ hay một thế giới. Điều mà họ nghĩ là tận hư không khắp pháp giới, cái tâm lượng này thì rộng lớn, lớn đến chân chánh viên mãn. Tâm lượng lớn như vậy nên tất cả hạnh mà họ đã tu đều là đại hạnh. Các vị đọc Kinh Vô Lượng Thọ rất nhiều rồi, trong Kinh Vô Lượng Thọ nói mỗi người ở Thế giới Tây Phương Cực Lạc đều là tu hạnh Phổ Hiền, mỗi một người cái tâm lượng nhãn quang đó rộng xa giống như Phật A Di Đà vậy. Hành trì như vậy gọi là hạnh Phổ Hiền.
1.
Nếu chúng ta nói đến tầng thứ trình tự tu học Phật pháp, thì đó là Tín-Giải-Hành-Chứng mà trong Kinh Phật thường nói. Thứ nhất bạn phải có tín tâm. Nếu như không có lòng tin đối với Phật pháp thì bạn không thể tiếp nhận. Còn nếu sanh lòng tin đối với Phật pháp, thực tế mà nói cũng không phải là một việc dễ dàng, trong thế xuất thế gian pháp thường gọi là duyên phận, trong Phật pháp gọi là thiện căn phước đức nhân duyên. Nếu như không có thiện căn phước đức nhân duyên thì việc này sẽ rất khó. Chúng ta tỉ mỉ mà nghĩ thử xem, lời nói này đích thực rất có đạo lý. Khi tôi còn trẻ, vào thời kỳ đang đi học ở trường, lúc đó trong xã hội đang phá trừ mê tín, mọi người đều xem Phật pháp là mê tín, cho nên chúng tôi từ nhỏ, vì quan niệm này nên cũng xem Phật pháp là mê tín, không cách gì tiếp nhận.
Biểu hiện bên ngoài của Phật pháp cũng thật sự là mê tín. Ở khu vực Đài Loan là một nơi nhỏ, có mấy vị pháp sư bên Đại lục đến Đài Loan thường hay giảng Kinh nói pháp, ở Đại lục thì không có. Đến sau này chúng ta mới hiểu được, ở Đại lục lúc đó pháp sư có thể giảng Kinh nói pháp đại khái không đến mười mấy vị, với một quốc gia lớn đến như vậy mà chỉ trong mấy thành phố lớn mới có pháp sư giảng Kinh, cho nên như chúng tôi ở nông thôn, ở trong huyện thị nhỏ, căn bản chưa từng có nghe nói qua có giảng Kinh, chỉ có nghe nói Hòa thượng tụng Kinh. Cho nên biểu hiện ra là độ người chết, cái tự viện đó họ cùng qua lại với người chết, dường như là không có quan hệ gì với người sống cả. Cho nên khi nhỏ đến giáo đường, đến giáo đường của Ki Tô giáo còn được nghe mục sư giảng đạo, có lúc còn nghe thấy có đạo lý, trái lại Phật pháp thì không bằng họ. Cho nên khi tôi còn trẻ, tôi rất ngưỡng vọng đối với Ki Tô giáo, đối với Hồi giáo. Tôi ở trong Hồi giáo một năm, ở trong Ki Tô giáo hai năm, thế nhưng đối với Phật pháp vẫn nhất định không thể tiếp nhận. Sau khi đến Đài Loan tôi học triết học với tiên sinh Đông Phương Mỹ. Phương tiên sinh dạy tôi mục sau cùng là triết học Phật Kinh. Phương tiên sinh nói với tôi triết học Phật Kinh là đỉnh cao nhất của triết học toàn thế giới, đó là hưởng thụ cao nhất của nhân sinh. Tôi bỗng nhiên hiểu ra trong Phật giáo có thứ tốt đến như vậy, đáng tiếc không có người biết. Thực tế mà nói, ngay đến pháp sư xuất gia cũng không nói qua việc này. Bạn đến học Phật, bạn đến niệm Phật với pháp sư xuất gia, nhưng vì sao phải học Phật, vì sao phải niệm Phật thì pháp sư không nói ra được thì làm sao có thể dạy được một phần tử tri thức? Phần tử tri thức rất ngoan cố, làm sao có thể tiếp nhận chứ?
Cho nên sau khi tôi tiếp nhận dạy bảo của Phương tiên sinh, tôi mới biết được trong cửa Phật có bảo vật, có thứ quý giá. Thế nhưng thứ quý giá này người xuất gia không nói ra, chỉ có chúng ta đến Tự viện tìm Kinh điển để đọc, thật là vô cùng đáng tiếc. Về sau tôi mới nghe được pháp sư giảng Kinh. Có thể thấy được cái duyên này là quá khó, thật khó. Phát hiện được có thứ tốt đến như vậy, không phát hiện thì chẳng hề gì, đã phát hiện, đã có được thọ dụng rồi, nếu như không đem Phật pháp mở mang rộng lớn, không thể làm tốt công tác tuyên truyền Phật pháp thì chúng ta cảm thấy rất có lỗi với Thích Ca Mâu Ni Phật. Ngài đã lưu lại điển tích nhiều đến như vậy nên chúng ta cũng phải khởi phát cái tâm, phải chân thật mà phát tâm hoằng dương Phật pháp. Vì vậy, sau khi học giảng Kinh xong tôi mới xuất gia. Tôi vừa xuất gia thì liền giảng Kinh, đến nay đã 38 năm gần như là không có gián đoạn. Một tuần lễ giảng ít nhất bảy lần, khi nhiều thì giảng đến hai ba chục lần, một ngày giảng ba lần, giảng được một thời gian. Hoằng dương Phật pháp đáng được chúng ta xem là một sứ mạng. Phải nên đem Phật pháp nói ra cho mọi người biết. Cho nên việc thứ nhất chúng ta phải tin tưởng đối với lão sư, tin tưởng Thích Ca Mâu Ni Phật không thể gạt chúng ta, tin tưởng tổ sư đại đức nhiều đời, đời đời truyền nối nhau là chân thật.
Thế nhưng chỉ riêng tin thôi thì không đủ, nhất định phải cầu giải. Phật pháp không giống như Ki Tô giáo là tin rồi thì có thể được cứu, Phật pháp tin rồi chưa đủ. Bạn có lòng tin thì bạn có thể vào cửa nhưng không thể được cứu, bạn phải lý giải chính xác, lý giải viên mãn rồi sau đó phải hành. Hành là phải làm được, phải đem cảnh giới phương pháp lý luận của Phật pháp biến thành đời sống việc làm thực tế của chính chúng ta, đó gọi là hành. Vậy cái gì gọi là chứng? Ngay trong đời sống chứng thật đạo lý Phật đã nói, những giáo huấn mà Phật đã dạy là không sai; chứng minh từ trước ta đã tin, chứng minh từ trước ta đã lý giải, ý nghĩa là như vậy. Nghĩa thú của Tín-Giải-Hành-Chứng đã nói phía trước là như nhau, có thứ lớp có viên dung mới là viên mãn.
Thứ hai, quy củ tu học của thời xưa tốt hơn so với hiện tại chúng ta. Đây chính là sư thừa mà ngày thứ nhất tôi đã giảng với các vị, điểm này then chốt vô cùng. Sư thừa của Trung Quốc thời xưa ứng dụng trong văn hóa truyền thống, ứng dụng trong tu học của Phật pháp là quyết định chính xác, nhất định có thể đạt đến mục tiêu của giáo học, nhà Phật chúng ta gọi là tu hành chứng quả. Thế nhưng sư thừa ở hiện đại đã không còn nữa. Tôi được xem là rất may mắn còn nếm được một chút nhỏ, đại khái từ cỡ tôi về sau thì không còn nữa. Cái gì gọi là sư thừa vậy? Là cùng học với một thầy.
Khi tôi còn trẻ thích học triết học, gặp được tiên sinh Đông Phương Mỹ tôi rất tôn kính đối với Ngài, tôi muốn học với Ngài. Vào lúc đó tôi đang làm việc, chỉ hy vọng ngoài thời gian làm việc ra thì đến dự thính các buổi giảng bài của Ngài. Ngài dạy triết học ở Trường Đại học Đài Loan, tôi muốn đến trường để nghe bài của Ngài, tôi viết một bức thư cầu xin Ngài, tôi còn viết một thiên văn chương đưa cho Ngài xem. Ngài trả lời thư của tôi và muốn tôi đến nhà Ngài gặp mặt nói chuyện. Sau khi nói chuyện xong, Ngài không để tôi đến trường học, Ngài nói với tôi trường học hiện tại và trường học của 40 mươi năm trước không giống nhau. Trường học hiện tại so với 40 mươi năm trước có sự biến hóa quá lớn, tiên sinh không giống tiên sinh, học trò không giống học trò. Ngài nói, chú muốn đến trường học để nghe giảng bài thì chú sẽ thất vọng lớn. Ngài nói câu nói này như là gáo nước lạnh xối lên đầu, không còn hy vọng, khi tôi nghe rồi trong lòng rất là khổ sở. Đến sau cùng Ngài rất từ bi, Ngài nói: "Như vầy thì tốt hơn, chú chủ nhật mỗi tuần đến nhà tôi đây, tôi sẽ dạy chú học hai giờ đồng hồ'. Cho nên tôi học triết học là ở bàn tròn nhỏ trong phòng khách nhỏ của nhà thầy, một thầy giáo một học sinh, như vậy mà truyền dạy. Lúc đó tôi không hiểu, về sau học Phật rồi mới biết đây gọi là sư thừa. Vì sao Ngài không cho tôi đến trường học để dự thính vậy? Ngài muốn ngăn chặn ô nhiễm, việc này hiện tại gọi là hoàn bảo. Tôi đến trường học nhất định sẽ quen biết rất nhiều thầy giáo, nhất định sẽ quen biết rất nhiều bạn học, khi vừa tiếp xúc thì sẽ thường nói chuyện, trong lòng liền bị ô nhiễm, cho nên ông muốn đơn độc dạy, chỉ nghe một mình ông. Hay nói cách khác, ngoài một mình ông ra, bất cứ người nào tôi cũng không có cơ hội tiếp xúc, xem sách thì chỉ có một mình ông chỉ đạo, đó là sự thương yêu của ông đối với học sinh, chân thật được lợi ích. Nghe hai vị thầy bạn liền sẽ khởi vọng tưởng, hai vị thầy hai người giảng không giống nhau, rốt cuộc thì vị nào đúng, vị nào không đúng? Như vậy thì phiền não liền đến. Ba vị thầy là ngã ba đường, bốn vị thầy là ngã tư đường, bạn sẽ không biết theo ai, đến sau cùng nhất định không được thứ gì. Một vị thầy đi một con đường, đó chân thật là từ bi, cho nên tôi rất là biết ơn đối với thầy.
Học trò đối với thầy giáo phải tin theo một trăm phần trăm. Thế nên tôi từ chỗ Phương tiên sinh biết được chỗ tốt của Phật pháp, nhận biết Phật pháp rồi, tin tưởng Phật pháp rồi thì tôi nghiên cứu Phật Kinh. Xem như tôi có vận may rất tốt, chỉ xem Kinh Phật có một tháng thì có một người bạn giới thiệu cho tôi quen biết với Đại Sư Chương Gia. Đại Sư là một vị Đại đức của Mật Tông, chân thật có học vấn có đạo đức. Dáng vẻ của Đại Sư lúc đó khoảng sáu mươi mốt hoặc sáu mươi hai. Lúc đó tôi 26 tuổi. Cũng giống như Phương tiên sinh vậy, mỗi một tuần Đại Sư dạy cho tôi hai giờ đồng hồ, Đại Sư chỉ dạy tôi đọc Kinh. Khi có câu hỏi thì mỗi một tuần gặp mặt một lần, tôi nêu ra vấn đề và Đại Sư giải đáp cho tôi. Đại Sư dạy tôi một số yếu lĩnh tu học, nền tảng Phật học của tôi là do Đại Sư Chương Gia định đặt. Tôi theo Đại Sư ba năm, chỉ một thầy. Sau ba năm thì Đại Sư Chương Gia viên tịch, tôi lúc đó không còn cách gì nên lại đi tìm một thầy giáo. Lão cư sĩ Châu Kính Vũ giới thiệu tôi đến Đài Trung tìm Lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam, tôi theo lão sư Lý mười năm. Lần đầu gặp mặt lão sư Lý liền hỏi tôi, chú về trước học tập với những ai? Học được những thứ gì? Tôi đơn thuần chỉ theo một người, lão sư Lý cũng rất là bội phục đối với Đại Sư Chương Gia, nhưng tuy là theo một mình Đại Sư cũng không được.
Lão sư Lý nêu ra các điều kiện với tôi:
- Thứ nhất, nếu chú muốn theo tôi học thì tính từ hôm nay, chú chỉ có thể nghe một mình tôi giảng Kinh nói pháp, ngoài tôi giảng Kinh nói pháp ra, bất cứ Pháp sư, cư sĩ, Đại đức nào giảng Kinh đều không được nghe.
- Thứ hai thì chú xem sách, không luận là xem sách gì, nếu không được sự đồng ý của tôi thì không được xem.
- Điều thứ ba còn hà khắc hơn, những gì hồi trước chú học với Đại Sư Chương Gia tôi không thừa nhận, đều phủ định, chú phải ở nơi đây học lại từ đầu.
Tôi nghĩ vị lão sư này rất hà khắc, rất lợi hại, nhưng cuối cùng nghĩ lại vẫn là tiếp nhận điều kiện của Lão sư, làm học trò của Lão sư. Thế là Lão sư nói với tôi là tôi phải tuân thủ ba điều này trong thời gian là năm năm, hơn nữa Lão sư rất khách sáo mà nói với tôi: "Năng lực của tôi có thể dạy chú năm năm". Đây chính là sư thừa. Bây giờ đến nơi nào để tìm một vị lão sư? Học sinh nào chịu tiếp nhận những điều kiện này? Tôi nếm được loại giáo dục này nên tôi tiếp nhận, Lão sư vừa đưa ra điều kiện thì tôi liền tiếp nhận. Sau khi tiếp nhận khoảng nửa năm thì chân thật được lợi ích, được điều hay, cho nên tôi mới giác ngộ ra là từ trước Phương tiên sinh, Đại Sư Chương Gia đối đãi với tôi đều rất chân thành từ bi, chăm sóc đến cùng, ngăn chặn tà tri tà kiến để tôi đi một con đường chánh lộ. Cho nên ở nơi lão sư Lý tôi đạt được kết quả, dưới hội của lão sư Lý tôi sâu sắc cảm nhận được sự lợi ích tốt đẹp từ loại giáo học này. Lão sư yêu cầu tôi tuân thủ năm năm, tôi tự mình gia hạn thêm năm năm nữa, tôi tuân thủ mười năm. Mười năm tuyệt đối không trái phạm quy củ của Lão sư. Sau mười năm thì đích xác là tương đối thuần thục, đặc biệt là ở trên giảng đài có thể biểu hiện ra được, muốn sao làm được vậy, tất cả đều trôi chảy. Trước kia giảng Kinh phải chuẩn bị rất kỹ, mười năm sau không hề chuẩn bị, không hề viết nháp. Cho nên hiện tại nếu có người mời tôi đi diễn giảng mà muốn tôi viết giảng cảo, tôi tuyệt đối không đi, tôi không có thói quen này, tôi không có giảng cảo. Hơn nữa tôi còn có thói quen gì? Nhất thời đưa ra đề mục, nhất thời giới hạn thời gian đưa ra đề mục, bảo tôi giảng hai giờ hay ba giờ đồng hồ, tôi nhất định sẽ không giảng kém đi một giây một phút, đến giờ thì tôi giảng xong. Khi trước giảng Kinh thì phải chuẩn bị, sau mười năm thì không còn, đây là được lợi từ sư thừa. Loại phương pháp giáo học cổ xưa này so với phương pháp giáo học của khoa học hiện đại cao minh hơn rất nhiều.
Thế nên tôi khuyên mọi người một môn thâm nhập, trước tiên tụng một bộ Kinh Vô Lượng Thọ ba ngàn lần. Dụng ý ở đâu vậy? Sau ba ngàn biến thì tâm của bạn định lại, tụng Kinh chính là trì giới, tụng đến tâm thanh tịnh thì tự nhiên khai trí tuệ, đến lúc đó bạn vừa nghe Kinh thì khai ngộ, thì liền hiểu. Nếu như tâm của bạn không thanh tịnh, vọng tưởng tạp niệm quá nhiều, dù chư Phật Bồ Tát đến giảng Kinh bạn cũng sẽ không khai ngộ, đạo lý ngay chỗ này. Còn có một vấn đề thường thức mà đồng tu học Phật cần thiết nên biết, đó chính là nghệ thuật giáo học của Phật pháp. Loại giáo học truyền thống như vầy chính là nghệ thuật. Thầy giáo tuyệt đối chịu trách nhiệm đối với học sinh, rất xem trọng đối với học sinh, dẫn dắt họ được định, dẫn dắt họ khai ngộ. Thầy giáo thì đích thực cao minh, có trí tuệ, có kỹ năng, họ chỉ ra cho bạn một con đường phá mê khai ngộ. Thế nhưng nếu như bạn không nghe lời, không tiếp nhận thì không còn cách gì. Cho nên bạn nhất định phải hợp tác, thầy giáo dạy như thế nào thì bạn học như thế đó, như vậy mới có thể thành công. Đây chính là nghệ thuật của giáo học. Ngoài việc này ra, có thể nói Phật ở vào trước 2500 năm trước, tất cả giáo học đều đạt đến nghệ thuật tối cao. Ví dụ như âm nhạc Phạm âm của nhà Phật (đáng tiếc là Phạm âm của nhà Phật đã bị thất truyền), âm nhạc Phạm âm của nhà Phật lúc đó không như hiện tại, hiện tại chúng ta nghe những thứ xướng niệm này, nếu bạn tỉ mỉ mà nghe thì sẽ thấy tạp loạn rối rắm. Chúng ta xem thấy ghi chép trong sách xưa, người thời xưa nghe được Phạm âm này tâm thanh tịnh, cho nên Phạm âm có thể tịnh hóa thân tâm, đó là âm nhạc, dùng thứ này để đạt đến Giới-Định-Huệ tam học.
Dùng mỹ thuật, điêu khắc, bạn xem tạo tượng của Phật pháp, tượng của Phật, tượng của Bồ Tát, tượng của A La Hán, tượng của Thiên thần là biểu pháp, là giáo học. Nhưng ngày nay chúng ta xem thành thần minh để cúng bái, bạn nói xem là có đáng lo ngại không? Đã sai đến mức độ nào? Chúng ta nêu ra một thí dụ rất phổ biến, thí dụ bạn bước vào một tự viện, tự viện chính là trường học của nhà Phật thuở trước, vì sao phải xây dựng hình thức cung điện? Bởi vì lão bá tánh thời xưa của Trung Quốc tôn kính nhất là Hoàng đế, nơi Đế Vương ở là cung điện, cho nên nơi mà Phật Bồ Tát giáo hóa chúng sanh cũng xây dựng hình thức cung điện, đạo lý là như vậy. Vì sao gọi là chùa? Chùa ở vào triều nhà Hán là tên gọi cơ cấu làm việc của chính phủ, hiện tại nó đã biến thành miếu rồi, ý nghĩa này là sai rồi. Chùa là cơ quan làm việc của chính phủ. Tự của Phật giáo chính là giáo dục của Phật Đà, công việc chủ yếu trong đó chính là truyền bá giáo dục của Phật Đà. Phật tự chính là một bộ phận giáo dục của Phật giáo.
Phật tự chính là một bộ phận giáo dục của Phật giáo. Sau đời hậu Hán thì Trung Quốc có hai loại giáo dục then chốt. Giáo dục của nhà Nho là quốc gia chọn lấy Khổng Tử làm chủ đạo, trong sáu bộ dưới Thủ Tướng có một bộ gọi là Lễ Bộ. Lễ Bộ là Bộ Giáo dục của quốc gia, còn Tự là do Hoàng Đế trực tiếp quản lý. Dưới Hoàng Đế có 9 Tự, Tự quan lớn gọi là Khanh, cửu Khanh. Sau khi Phật giáo đến Trung Quốc, lúc đó có Hồng Lô Tự tiếp đãi khách đến từ nước ngoài (Hồng Lô Tự tương đương với Bộ Ngoại giao ngày nay), về sau Trung Quốc chúng ta muốn để họ thường lưu lại Trung Quốc, không để cho họ đi, vậy thì phải là thế nào? Hồng Lô Tự không thể tiếp đãi dài lâu, nên liền xây dựng một Tự khác, thế là dưới Hoàng Đế liền biến thành mười Tự. Vậy thì Tự này tên gọi là gì? Lúc đó Ngựa trắng kéo Kinh Phật tượng Phật từ Tây vực đến Trung Quốc, bạn từ nơi đây có thể thấy được hậu đạo của lòng người Trung Quốc. Công lao của Ngựa trắng chúng ta không thể nào quên ân nó, nên Tự này liền được đặt tên là Bạch Mã Tự. Đây là Phật Tự thứ nhất của Trung Quốc.
Cho nên Tự là cơ cấu giáo dục của Phật giáo, không phải là Miếu Thần, cần phải hiểu điều này cho rõ ràng, hiểu cho thấu đáo. Vậy thì đại điện của Tự là lễ đường, cúng ngay ở giữa là tượng Phật, bạn xem tượng Phật chúng ta là một vị Phật hai vị Bồ Tát, vì sao không cúng hai vị Phật vậy? Không cúng thêm nhiều vị Bồ Tát hơn? Phải nhất định là một vị Phật hai vị Bồ Tát. Phật biểu thị cái ý như vậy? Phật đại biểu cho bản thể tự tánh, Phật đại biểu bản tánh chân tâm của chúng ta, hai vị Bồ Tát đại biểu hai loại đức năng lớn trong tự tánh của chúng ta là trí tuệ và từ bi. Bạn xem chúng ta thờ, nếu như nói thông thường thờ Thích Ca Mâu Ni Phật thì hai bên là Bồ Tát Văn Thù và Bồ Tát Phổ Hiền. Bồ Tát Văn Thù đại biểu trí tuệ, Bồ Tát Phổ Hiền đại biểu thực tiễn, một vị là giải, một vị là hành, tri hành hợp nhất. Thờ hai Ngài là biểu thị cái ý này. Tây Phương Tam Thánh, ngay giữa là Phật A Di Đà đại biểu bản thể tự tánh, Quán Âm Bồ Tát đại biểu từ bi, Bồ Tát Đại Thế Chí đại biểu trí tuệ, vô lượng vô biên trí tuệ đức năng, hai vị Bồ Tát thì đã đại biểu đầy đủ rồi, không cần phải ba vị. Việc này phải biết không phải là thần minh, các Ngài là giáo học, các Ngài để bạn nhìn thấy tượng Phật thì liền biết là các Ngài dạy bạn việc gì.
Thích Ca Mâu Ni Phật - tên gọi này chính là giáo học của Phật giáo, chính là phương châm giáo học của giai đoạn này. Bởi vì người thế gian chúng ta khiếm khuyết lòng từ bi, tự tư tự lợi, cho nên phương châm giáo học của Phật giáo là nhân từ, Thích Ca có nghĩa là nhân từ. Thứ hai là tất cả chúng sanh tâm không thanh tịnh, một ngày từ sớm đến tối nghĩ tưởng lung tung, tham sân si mạn, cho nên trong danh hiệu Phật có chữ Mâu Ni, Mâu Ni có nghĩa là tâm thanh tịnh. Có thể thấy được Phật Bồ Tát làm gì có danh hiệu, danh hiệu chỉ là phương châm giáo học của giai đoạn hiện tại, bất cứ người nào ở nơi đây thành Phật, danh hiệu của họ đều phải gọi là Thích Ca Mâu Ni Phật. Đây là dựa vào tâm bệnh của chúng sanh chúng ta, tuỳ bệnh mà cho thuốc. Mỗi một vị Bồ Tát, mỗi một vị Phật đều đại biểu nghĩa thú thâm sâu của giáo học, nếu sau khi bạn hiểu rồi thì vừa nhìn thấy là được rồi, không cần phải nói chuyện. Giáo học này của Phật pháp bạn sẽ đạt được viên mãn tròn đầy.
Chúng ta nêu ra một thí dụ rất rõ ràng, thông thường chúng ta bước vào một Tự Viện, trong sơn môn thứ nhất là xây điện Thiên Vương, Tứ Đại Thiên Vương. Tứ Đại Thiên Vương gọi là Thần Hộ Pháp, hộ pháp cho ai vậy? Hộ chính mình, các Ngài dạy chúng ta làm thế nào giữ gìn chính mình. Đông Phương Trì Quốc Thiên Vương - Ngài đại biểu cho việc tận hết trách nhiệm. Con người chúng ta ở xã hội này, không luận bạn ở một cương vị nào, bạn phải tận hết bổn phận của mình, dốc hết chức trách của bạn thì đúng. Người người đều có thể tận hết trách nhiệm, tận hết chức vụ, thì xã hội làm sao mà không phồn vinh, không hưng vượng chứ? Cho nên chúng ta phải biết cái đạo lý này, Ngài đại biểu cho việc gánh vác trách nhiệm. Nam Phương Tăng Trưởng Thiên Vương đại biểu cho tiến bộ, ngày mới càng mới, không ngừng cầu tiến bộ. Không thể nói việc này tôi làm tốt rồi thì hết việc, không được vậy, mà vẫn phải cầu phát triển, vẫn phải cầu tiến bộ. Vị thứ ba là Quảng Mục Thiên Vương, vị thứ tư là Đa Văn Thiên Vương. Bạn xem qua cái danh tự này thì liền biết được, Quảng Mục nghe nhiều thấy nhiều, đọc ngàn quyển sách đi vạn dặm đường, bạn phải có thể đem công việc của chính mình làm cho được tốt, phải nghĩ bạn chính mình ngày ngày đang tiến bộ, thấy nhiều nghe nhiều, Ngài biểu thị cái ý này. Cho nên nếu bạn hiểu rồi, thì bạn sẽ cảm thấy càng thú vị.
Trên tay các Ngài đều có cầm đạo cụ, mỗi đạo cụ đều có ý nghĩa. Bạn xem Trì Quốc Thiên Vương bảo bạn gánh vác trách nhiệm, thì trên tay Ngài cầm cây đàn Tỳ Bà. Tỳ Bà đại biểu cái gì? Điều tiết âm nhạc, đại biểu tất cả đều phải thích hợp, bạn xem dây đàn không thể quá căng vì căng thì sẽ đứt, cũng không thể quá lỏng vì sẽ kêu không thanh, cho nên phải điều chỉnh thích hợp. Điều này chính là dạy bạn đối nhân xử thế tiếp vật phải chú trọng trung đạo, không được thái quá cũng không được bất cập, Ngài biểu thị cái ý này. Nam Phương Tăng Trưởng biểu thị tiến bộ, thì trên tay cầm thanh kiếm, bảo kiếm trí tuệ. Bạn không có trí tuệ thì bạn không thể tiến bộ. Nếu bạn muốn tiến bộ thì trước tiên phải có trí tuệ, do đó kiếm là đại biểu trí tuệ. Phương Tây Quảng Mục Thiên Vương bảo bạn phải xem nhiều, thì trên tay Ngài cầm một con rồng hoặc là một con rắn. Chỗ này đại biểu cho cái gì? Rồng rắn đều là biến hóa, đại biểu sự biến hóa phức tạp, trong xã hội này tất cả người tất cả việc đều biến hóa vô chừng. Nếu bạn tỉ mỉ mà quan sát, thì sẽ thấy tay kia Ngài cầm một hạt châu, biểu thị trong biến hóa có bất biến. Những nguyên lý nguyên tắc này, bạn phải nắm vững nó thì bạn mới có thể khống chế được rồng rắn này. Phương Bắc Đa Văn Thiên Vương thì cầm một cây dù, cây dù là để ngăn chặn ô nhiễm. Ở trong xã hội phức tạp, phải giữ gìn thân tâm mình thanh tịnh, không nên bị ô nhiễm.
Hiện tại mọi người đều xem các Ngài là thần minh để cúng bái, bạn nói xem có oan uổng hay không? Có mấy người hiểu được đạo lý này? Ngay giữa đại điện là thờ Bồ Tát Di Lặc. Bồ Tát Di Lặc mặt cười hoan hỷ, cái bụng thật to. Ngài đại biểu cái gì vậy? Đại biểu tâm hoan hỷ, nhìn thấy bất cứ người nào trên mặt phải thường nở nụ cười, cái bụng to biểu thị có thể bao dung. "Sanh tâm bình đẳng, thành tướng vui vẻ", một đệ tử Phật đối nhân xử thế tiếp xúc mọi vật phải có thể bao dung, phải sanh tâm hoan hỉ đối với tất cả chúng sanh, bạn xem cái kiến trúc thứ nhất chính là một bài giảng.
2.
Thời gian đi qua rất nhanh, lần diễn giảng này của chúng ta đến hôm nay thì viên mãn rồi. Nhận Thức Phật Giáo - đề mục này cũng là rất đơn giản mà giới thiệu với các vị. Chúng ta lợi dụng một giờ rưỡi sau cùng, đem một số ý nghĩa then chốt mà phía trước chưa thể nói ra được tường tận sẽ bổ sung nói rõ hơn. Buổi tối hôm nay còn có một số đồng tu phát tâm thọ Tam quy ngũ giới, cho nên cũng ở ngay nơi đây cử hành nghi thức đơn giản nhưng long trọng này. Ý nghĩa của Tam quy ngũ giới, chúng ta có một băng thu âm, cũng có một quyển sách nhỏ cung cấp cho các vị làm tham khảo. Ngày mai tôi ở bờ biển Hoàng Kim có một buổi diễn giảng, thế nên các đồng tu hy vọng tôi lợi dụng thời gian này, đem Tam quy y giảng giải một cách tường tận. Phật pháp chúng ta đem nó làm một tổng kết là "Phật pháp là giáo dục thù thắng nhất viên mãn nhất cứu cánh nhất của Phật Đà đối với tất cả chúng sanh". Mục đích của Phật pháp là khai mở trí tuệ đức năng vốn đầy đủ trong tự tánh chúng ta. Trên Kinh Đại Thừa, Phật đã nói với chúng ta: "Tất cả chúng sanh đều có trí tuệ đức tướng của Như Lai", hay nói cách khác, trong tự tánh của chúng ta vốn dĩ đầy đủ trí tuệ đức hạnh tài nghệ năng lực, cho đến phước báo, không hề khác với tất cả chư Phật, không hề khác biệt.
Nếu như chúng ta muốn biết hoàn cảnh đời sống vật chất của Phật, trong Kinh Vô Lượng Thọ, ở trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ, chúng ta sẽ thấy Thế giới Tây Phương Cực Lạc; ở trong Kinh Hoa Nghiêm sẽ thấy tình trạng đời sống của Phật Tỳ Lô Giá Na. Thân thể của các Ngài là thân Tử Ma, sắc vàng chắc thật, thể kim cang bất hoại, vĩnh viễn không già, không bệnh, không có sanh tử. Hoàn cảnh cư trú thì trong Kinh nói với chúng ta rất rõ ràng, cung điện lầu cát là do bảy báu tạo thành, đất đai của Thế giới Tây Phương Cực Lạc là dùng Lưu Ly làm đất (Lưu Ly ngày nay chúng ta gọi là Tỷ Thúy, ngọc màu xanh trong suốt), đường đi đắp bằng vàng ròng, đó là phú quí, người thế gian này của chúng ta không thể nào so sánh. Trong Kinh nói, Thiên Vương trên trời, phước báo của Đại Phạm Thiên Vương cũng không thể so sánh với lão bá tánh thông thường của Thế giới Tây Phương Cực Lạc. Ở trong Kinh, Phật nói những lời nói này có phải là mê hoặc chúng ta không? Hoàn cảnh sinh hoạt của Phật đẹp đến như vậy? Lời Phật nói là chân thật, tuyệt đối không mê hoặc lừa gạt. Bạn xem trong ngũ giới có giới không vọng ngữ, làm sao Phật có thể nói vọng ngữ chứ?
Cho nên trong Kinh Kim Cang nói, Như Lai là "Chân ngữ giả". "Chân" chính là không giả, không hư dối. "Thật ngữ giả" là thành thật trung thực. "Như ngữ giả": "Như" chính là sự thật, là chiếu theo cái sự thật này mà nói, không cần thêm vào một chút, không bớt đi một chút, hoàn toàn căn cứ vào chân tướng sự thật để nói, đây gọi là như ngữ, không cuồng ngữ, cũng chính là không vọng ngữ, không dị ngữ. Tất cả chư Phật đã nói không hề khác nhau, Phật Phật đạo đồng, cái thấy của Phật đều như nhau, giảng pháp cũng như nhau. Trong Kinh Kim Cang nói, Phật có năm loại ngữ, lấy "như ngữ" làm chủ, chính là sự thật là như thế nào thì y theo sự thật đó mà nói. Cho nên chư Phật Bồ Tát nói với chúng ta tất cả pháp, có thể nói đều là chân tướng của vũ trụ nhân sanh. Ngày nay hoàn cảnh sinh hoạt chúng ta như vậy, hoàn cảnh sinh hoạt mỹ mãn thù thắng của chúng ta đã mất đi rồi. Phật nói với chúng ta, cái mất đó không phải thật đã mất đi, mà là mê mất thôi. Bạn mê mất đi tự tánh thì trí tuệ đức năng của tự tánh không thể hiền tiền. Giáo học của Phật pháp không gì khác hơn là dạy chúng ta giác ngộ, dạy chúng ta phá mê khai ngộ. Khai ngộ rồi thì trong vô lượng vô biên đức năng tự tánh của chúng ta, tự nhiên liền sẽ hiện tiền, cảnh giới đã hiện chính là Hoa Nghiêm, Hoa Nghiêm so với Thế giới Tây Phương Cực Lạc hình dáng đại khái là không hề khác nhau. Đây chính là mục tiêu giáo học của Phật pháp, có thể nói thù thắng không gì bằng. Những danh từ Phật, Bồ Tát, A La Hán, phía trước đã nói qua với các vị rồi, là tên gọi học vị trong giáo dục của Phật. Chúng ta chân thật giác ngộ rồi thì liền lấy được học vị thứ nhất, chánh giác thì gọi là A La Hán. Lại tiến thêm một bước nữa, có thể đạt đến chánh đẳng chánh giác thì gọi là Bồ Tát, học vị của Bồ Tát cao hơn học vị A La Hán. Đạt đến giác ngộ, đạt đến cứu cánh viên mãn rồi, thì chúng ta gọi họ đã thành Phật. Cho nên Phật là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Có thể thấy được Phật, Bồ Tát, A La Hán là tên gọi học vị trong nhà Phật, giống như hiện tại học vị khi đạt được ở trường học là Tiến sĩ, Thạc sĩ, Cử nhân.
Do dó, Phật pháp là pháp bình đẳng. Tất cả chúng sanh vốn dĩ thành Phật. Thích Ca Mâu Ni Phật đã nói ra ở trong Kinh Hoa Nghiêm là tất cả chúng sanh vốn dĩ thành Phật. Vốn dĩ là Phật, hiện tại lại muốn làm Phật, vậy thì làm gì có cái đạo lý không thành công chứ? Đây đích thực là ở trên từ tu hành chứng quả xây dựng tràn đầy lòng tin. Chúng ta tu học có căn cứ của lý luận, lý luận này rất là thực tiễn, nhất định không phải là hư vọng. Vậy phải làm thế nào hồi phục lại tự tánh của chúng ta? Nhất định phải tu hành. Chúng ta đã mê rồi mà, mê chính là sai lầm, chúng ta đã nghĩ sai thấy sai đối với cả vũ trụ nhân sanh. Hiện tại tuy là có không ít các nhà khoa học (hiện tại gọi là nhà lý luận vật lý học), đối với vũ trụ lớn vũ trụ nhỏ, vũ trụ lớn là thái không, vũ trụ nhỏ là hạt tử, ngày nay nói đến lượng tử, đây là vật chất nhỏ nhất, họ có rất nhiều rất nhiều thuyết minh cho chúng ta, có phải là thật tướng không? Có thể nói là một bộ phận của chân tướng, nhưng không phải là chân tướng cứu cánh viên mãn. Những nhà khoa học, những nhà triết học, có cách gì hiểu rõ chân tướng cứu cánh viên mãn hay không? Trên Kinh Phật nói với chúng ta là không thể nào. Nếu như người thế gian này có năng lực nhận biết rõ ràng chân tướng của vũ trụ nhân sanh, thì Phật không cần xuất thế, Phật xuất hiện ở thế gian cũng không ý nghĩa gì, vì vấn đề này các người đã có thể giải quyết rồi. Phật xuất hiện ở thế gian là vì các vị muốn giải quyết vấn đề nhưng không có cách gì giải quyết, Ngài không thể không đến giúp bạn giải quyết.
Vì sao nói tất cả học thuyết thế gian này không thể giải quyết được vấn đề? Trên cơ bản mà nói, là do phương pháp sai lầm. Cái người thế gian dùng, ở trong Phật pháp chúng ta gọi là "thế trí biện thông", thông minh trí tuệ này phát nguồn từ trong tâm ý thức mà ra, tính chất của ý thức là phân biệt mà nghiên cứu, chúng ta dùng suy xét suy nghĩ mà nghiên cứu. Ngày nay lại ở trên rất nhiều phương tiện máy móc khoa học tiên tiến mà quan sát, thì thấy đều dùng phương pháp như vậy. Phật nói với chúng ta dùng phương pháp này không thể giải quyết vấn đề. Trong nhà Phật nếu như nói đến triết học thuần tuý, thuần học thuật, thì Phật pháp vẫn có, không phải không có, chính là Pháp Tướng tông. Pháp Tướng tông có thể giải thích được viên mãn không? Không thể. Vì sao vậy? Vì dùng suy nghĩ. Suy nghĩ là phân biệt, là ý thức. Ý thức chỉ có thể giải quyết là trong phạm vi nhất định. Trên thực tế chân tướng của vũ trụ nhân sanh, không thể dùng tâm phân biệt (chính là suy nghĩ) mà lý giải, mà tìm tòi. Phật nói với chúng ta phải dùng phương pháp gì vậy? Phải dùng tâm thanh tịnh, phải dùng công phu của thiền định. Thiền định đến độ sâu nhất định, như trong Kinh Lăng Nghiêm đã nói: "Tịnh cực quang thông đạt". Tịnh đến trình độ nhất định thì tâm liền phát sáng, mới có thể chiếu kiến vũ trụ nhân sanh. Đến lúc đó, cái bạn thấy chính là chân tướng sự thật.
Ngày nay phương pháp của nhà khoa học dùng cùng với Pháp Tướng tông của chúng ta dùng là giống nhau, cho nên nhiều nhất là ở trong tông Pháp Tướng của chúng ta nói, họ chỉ có thể giải thích ở trong A Lại Da thức, phạm vi này thì được, họ có thể giải thích được đến "duy thức sở biến". Thế nhưng sâu hơn một tầng, là "duy tâm sở hiện", thì họ không thể, họ không đạt đến. Cho nên tâm ý thức này, chúng ta ngày ngày suy nghĩ, năng lực của tư tưởng rất lớn, bên trong có thể nghĩ đến A Lại Da Thức, bên ngoài có thể nghĩ đến hư không pháp giới, có thể thấy được ý thức thứ sáu tác dụng của nó đích thực là rất rộng lớn. Thế nhưng chính là duyên không đến "chân như bổn tánh", nói đến chân như bổn tánh thì nó không có tí biện pháp nào cả. Nếu như không minh tâm kiến tánh thì bạn không thể giải quyết vấn đề. Cho nên khi nhà khoa học vừa phát hiện ra, thì hiện tại cảm thấy rất là kinh ngạc, nhưng sau mấy mươi năm lại có phát hiện mới, thì cái phát hiện kia liền bị thay đổi. Hiện tại rất nhiều nhà khoa học biết là khoa học kỹ thuật không ngừng tiến bộ, họ không dám nói định luật này của họ là chân lý, hay định luật này của họ là vĩnh hằng, không ai dám nói câu nói này. Người học Phật chúng ta hiểu được, họ đã dùng sai phương pháp, nếu như các nhà khoa học này đều chịu tu thiền, vậy thì sẽ rất vượt bậc, vì trí tuệ mới có thể "soi thấy" chân tướng của tất cả pháp thế xuất thế gian. Cho nên tu hành là rất quan trọng. Tu sửa cách nghĩ, cách nhìn, cách làm, cách nói sai lầm của mình, đây gọi là tu hành. Nguyên lý tu hành phía trước đã có nói qua, là Giới-Định-Huệ. Giới là giữ pháp, giữ phép tắt; định là tâm thanh tịnh, tâm thanh tịnh khởi được tác dụng thì sanh trí tuệ, đó là trí tuệ thật, không phải trí tuệ của thế gian. Người thông minh ở thế gian chưa đọc được phiền não, chưa đoạn được thị phi nhân ngã, tham sân si mạn. Họ có thể bị ít hơn so với người thông thường, nhưng họ tuyệt nhiên chưa đoạn dứt, như vậy thì Phật pháp không thừa nhận họ là Chánh giác, tuy là họ có giác nhưng không xem là Chánh giác. Chánh giác nhất định phải đoạn kiến tư phiền não.
Vậy thì do đây có thể biết, cương lĩnh tu hành của chúng ta là Giác-Chánh-Tịnh. Bước đầu nhập môn học Phật tiếp nhận Tam quy giới. Tam quy giới là chính mình phát tâm, nếu bạn muốn học Phật, bạn muốn tiếp nhận giáo dục của Phật Đà, thì bạn phát cái tâm này. Bạn tìm đến tăng đoàn, tìm đến người xuất gia, vị lão sư xuất gia này đem tổng cương lĩnh mục tiêu phương hướng của Phật pháp truyền thụ cho bạn, đó gọi là truyền thọ Tam Quy. Đem thứ này truyền đạt cho bạn, bạn liền biết được con đường tương lai phải nên đi như thế nào, phải đi về hướng nào. Quy y Tam Bảo, Tam Bảo là Phật Pháp Tăng. Thế nhưng cái danh từ này rất dễ sanh ra hiểu lầm, vừa nghe đến Phật thì nghĩ ngay đến tượng Phật, nghe nói đến Pháp thì nghĩ ngay đến Kinh điển, nghe nói Tăng thì nghĩ ngay đến người xuất gia. Xin nói với các vị là ba thứ này không thể nương được, vì tượng Phật bị một đám lửa thì cháy tiêu, người xuất gia chính mình không tu hành, chính mình còn khó giữ thì bạn làm sao có thể nương được họ. Cho nên phải hiểu được Tam Bảo chân thật là gì? Tượng Phật, Kinh sách, người xuất gia chỉ là hình tướng của Tam Bảo, dáng vẻ của Tam Bảo, thực chất Tam Bảo là ở ngay trong tâm của chính bạn. Cho nên Phật dạy chúng ta quy y Tam Bảo là quy y tự tánh Tam Bảo. Tự tánh của ta có giác, quy y tự tánh giác. Vậy bạn muốn nói, hiện tại tôi không giác, tôi mê rồi, tuy là tự tánh có giác nhưng tự tánh giác ở đâu rồi? Bạn phải hiểu rõ cái đạo lý vì sao bạn mê? Mắt ta thấy sắc, vì sao có thể bị mê? Bởi vì bạn phân biệt chấp trước nên bạn liền bị mê. Tôi hỏi bạn những thứ bày ra trước mắt bạn, bạn có nhìn thấy hay không? Bạn không thể nói bạn không thấy. Bạn thấy rõ ràng tường tận, sờ sờ trước mắt, nhưng bên trong không có phân biệt, không có chấp trước thì đó chính là giác. Vừa có phân biệt, vừa có chấp trước thì liền mê. Bạn phải tỉ mỉ mà suy xét cái việc này. Bày ra trước mắt chúng ta bất cứ hoa gì, màu sắc gì, màu hồng, màu vàng, màu xanh, thì mê rồi. Bạn nói xem mê ở đâu vậy? Nó vốn dĩ không có tên, vốn dĩ không có màu sắc, màu sắc ở đâu ra vậy? Hiện tại các nhà khoa học biết được, là do ánh sáng chiếu xuống góc độ khác nhau mà phản xạ ra. Nó vốn dĩ không có màu sắc đó, vốn dĩ không có tên, tướng là giả tướng, tên là do người đặt cho nó cái tên, là tên giả. Chúng ta hiểu được, tên có thể gọi là không phải tên thật, giả danh giả tướng, cho nên rời khỏi tất cả danh và tướng thì bạn thấy được cái chân tướng. Chúng ta thì bị mê trong cái giả danh giả tướng, trong những danh tướng, sắc tướng, hình tướng, cho nên phải đem những thứ này vứt đi, đích thực là không chấp trước, bạn phải huấn luyện chính mình như vậy, đây gọi là quy y Phật, quy y Giác. Người ta hỏi bạn đây là loại hoa gì vậy? Vì sao bạn gọi nó là hoa? Bởi vì các người gọi nó là hoa nên tôi cũng kêu nó là hoa, các vị gọi nó đây là lá, tôi cũng kêu nó là lá, tôi tùy thuận chấp trước của các vị mà thôi. Còn chính mình thì sao? Không chấp trước, đó là chư Phật Bồ Tát, cho nên tâm của họ thanh tịnh, không nhiễm một trần. Họ cùng ở với chúng sanh, bạn gọi tên là gì thì họ gọi nó cái tên đó, bạn chấp trước như thế nào thì họ cũng làm như vậy, đó là "Hằng thuận chúng sanh, hòa với hồng trần". Thế nhưng họ chính mình thì trong sạch vắng lặng, không hề nhiễm ô, đây gọi là quy y Giác. Cho nên sau khi bạn quy y, về sau ngay trong cuộc sống thường ngày, đối nhân xử thế tiếp vật, bạn phải biết dùng cái tâm như vậy thì bạn giác ngộ rồi, bạn không còn mê nữa, tâm của bạn vĩnh viễn là thanh tịnh, vĩnh viễn là bình đẳng, hơn nữa còn có thể giúp đỡ tất cả chúng sanh, đây gọi là quy y Phật.
Quy y Pháp, Pháp là chánh tri chánh kiến, tư tưởng chính xác, kiến giải chính xác. Điều này thì khó. Sau khi chân thật giác ngộ thì cái tư tưởng kiến giải đó mới là chính xác, hiện tại chúng ta không đạt được. Không đạt được thì phải làm sao? Trước tiên chọn lấy Thích Ca Mâu Ni Phật, những gì Phật đã giảng trong Kinh điển, cách nghĩ cách làm của Ngài đó là chính xác. Chúng ta trước tiên phải nương vào Ngài, nhưng nương vào Ngài chỉ là một thời gian ngắn, chỉ là một giai đoạn, Phật cũng không bảo chúng ta mãi mãi nương vào Ngài, không có đạo lý này. Bạn vừa mới học, giống như học trò ở trường học nương vào thầy giáo, khi tốt nghiệp rồi thì bạn độc lập, bạn phải ra đi. Cũng như cha mẹ dạy bảo con cái, khi nó còn nhỏ thì bạn cần phải chăm sóc nó, nó phải nương vào bạn, khi nó dần dần thành người lớn, nó sẽ không ỷ lại vào bạn nữa, nếu cả đời ỷ lại vào bạn thì đứa nhỏ đó không thể có công danh. Phật dạy bảo chúng ta cũng là như vậy, trước khi bạn chưa có đại triệt đại ngộ thì phải nương vào lão sư, nương vào vị lão sư là Thích Ca Mâu Ni Phật. Hôm nay tôi ở đây truyền thụ Tam quy, bạn cũng không thể nương vào tôi, nương vào tôi thì bạn sai, là sai lầm nghiêm trọng. Bạn phải nương vào Thích Ca Mâu Ni Phật, nương vào Phật A Di Đà. Phật ở nơi đâu vậy? Chính là Kinh điển, Kinh Vô Lượng Thọ là Thích Ca Mâu Ni Phật giảng cho chúng ta, 48 lời nguyện là Phật A Di Đà giảng cho chúng ta, chúng ta nương vào giáo huấn trong Kinh điển chính là nương vào Phật. Phật đích thân đến dạy bảo chúng ta thì làm gì còn có sai lầm chứ? Phật dạy chúng ta nên làm thì chúng ta nỗ lực mà làm, Phật dạy chúng ta không nên làm thì chúng ta nhất định không làm, vậy mới là học trò của Phật, là đệ tử ngoan của Phật. Tất cả đều lấy đây làm căn cứ cho đời sống của chúng ta, để làm việc và đối nhân xử thế, đó gọi là quy y Pháp.
Quy y Tăng, Tăng là đại biểu ý nghĩa thanh tịnh, đại biểu ý nghĩa hòa thuận. Phía trước đã giảng qua sáu phép hòa kính, Tăng là đại biểu cho sáu phép này. Khi nhìn thấy người xuất gia, bạn không nên nghĩ là người xuất gia này có phải là cao tăng hay không? Người xuất gia này có phá giới hay không? Ông ấy cao tăng cũng tốt, phá giới cũng tốt, không quan hệ gì với bạn, có quan hệ gì với bạn chứ? Thế nhưng có quan hệ với chúng ta là nhắc nhở chính chúng ta là ta có tuân thủ sáu phép hòa hay không? Ta có tu tâm thanh tịnh hay không? Tăng là đại biểu sáu căn thanh tịnh, không nhiễm một trần. Cho nên khi nhìn thấy cái tướng này thì phải nghĩ đến tâm chính mình có thanh tịnh hay chưa? Tăng là ý nghĩa hòa kính thanh tịnh, đây gọi là chân thật quy y.
Đó là tác dụng đối với thế gian của Tam Bảo. Chúng ta mê đã quá lâu rồi, mê từ vô lượng kiếp đến nay, lỗi lầm cũ, thói xấu xưa thường hay phạm phải. Thọ Tam quy ở đây, chúng tôi đã giảng giải cho bạn rõ ràng, nhưng khi ra khỏi cửa rồi thì quên hết, vậy có ích gì chứ? Cho nên trong nhà của bạn nên thờ cúng Tam Bảo, bạn thờ tượng Phật, nhìn thấy Phật thì nhắc nhở ta phải giác. Giác cái gì vậy? Sáu căn của ta tiếp xúc với cảnh giới sáu trần bên ngoài, ta không khởi tâm không động niệm là định; không phân biệt, không chấp trước là giác, như vậy mà tu được định huệ. Không phải một ngày từ sớm đến tối xếp bằng quay mặt vào vách, định này không thể dùng được. Định chân thật chính ngay trong đời sống là ở sáu căn tiếp xúc với cảnh giới sáu trần mà tu định, không khởi tâm không động niệm chính là thiền định, không phân biệt không chấp trước là huệ. Trí tuệ cao độ thì bạn sẽ thấy được rõ ràng tường tận, thông suốt thấu đáo, là bạn kiến tánh, kiến sắc tánh, văn tánh, văn thanh tánh. Người minh tâm kiến tánh, họ khác nhau với chúng ta ở chỗ nào vậy? Khác nhau ngay chỗ này. Sáu căn của chúng ta tiếp xúc với cảnh giới sáu trần thì khởi tâm động niệm, phân biệt chấp trước, còn người minh tâm kiến tánh sáu căn tiếp xúc với cảnh giới sáu trần thì không phân biệt, không chấp trước, không khởi tâm, không động niệm, cái họ nhìn thấy là chân tướng, cái ta nhìn thấy là vọng tướng. Tâm họ dùng là chân tâm không sanh không diệt, tâm chúng ta dùng là vọng tâm sanh diệt, chỗ không giống nhau là ngay đây.
Nếu bạn học được rồi, bạn cũng có thể làm Phật, cũng có thể làm Bồ Tát. Bạn phải hiểu rõ cái đạo lý này, phải hiểu được cái bí quyết này, phải biết được chính mình phải tu thế nào? Cho nên chính ngay khi quy y phải giảng cho rõ lý, giảng tường tận, vậy mới chân thật truyền thụ cho bạn. Thế nhưng cũng có người nói, khi mật tông thượng sư truyền thụ phải quán đảnh, chúng ta không có quán đảnh thì có kém hơn người một bậc không? Việc quán đảnh đó có phải thật có được linh nghiệm không? Khi tôi ở Mỹ có hỏi không ít đồng tu. Họ rất nhiệt tâm lái xe mười mấy giờ đồng hồ để đi tìm một vị Thượng sư quán đảnh, rưới vài giọt nước lên đầu. Sau khi họ trở về, tôi hỏi họ, bạn có khai được trí tuệ không? Phiền não của bạn có phải đã được giảm đi? Họ lắc đầu nói không có. Như vậy vẫn còn tốt, còn nói lời thành thật. Tôi nói, nếu như nói rẩy vài giọt nước lên đầu của bạn thì gọi là quán đảnh, bạn đi xối nước tắm gội vậy thì là đại quán đảnh rồi! Không hiểu được phương pháp này, không hiểu được ý nghĩa, hoàn toàn chỉ là trên hình thức, bạn nói xem có đáng thương không? Ngày nay chúng ta quy y thọ giới đều là hình thức, không giảng cho bạn nghe rõ ràng.
Quán có nghĩa là từ bi gia trì, Quán là biểu thị ý từ bi gia trì. Đảnh là Phật pháp thù thắng nhất, đỉnh cao Phật pháp, không có gì có thể so sánh cao hơn. Đem đỉnh cao của Phật pháp truyền thụ cho bạn, dạy bảo bạn, đó gọi là quán đảnh. Các vị xem chú giải Kinh Vô Lượng Thọ của cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, trong đó có nói cách nhận pháp quán đảnh. Bản thân lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ cũng là thượng sư của mật tông, không gạt người, không hỏi người để lấy tiền. Ở Mỹ mỗi lần quán đảnh phải tốn 50 đồng, quy y cũng phải thâu tiền. Tôi đến Miami giảng Kinh, các đồng tu muốn tôi truyền thọ Tam quy, trước tiên họ hỏi tôi: Pháp sư à! Giá Quy y của Ngài là bao nhiêu? Bạn nói xem, có còn cách nào không?! Hiện tại những người thanh niên này đều đã nhận qua giáo dục cao đẳng, nhận lấy bằng thạc sĩ, tiến sĩ còn bị họ gạt, tin giả không tin thật, nghe gạt không nghe khuyên, thế giới hiện tại là như vậy, thật khiến người phải cảm thán!
Thế nên, ngày nay chúng ta tu học pháp môn Tịnh Độ, chúng ta biết được Kinh Vô Lượng Thọ là bậc nhất trong tất cả Kinh, chân thật là đảnh pháp. Đem Kinh Vô Lượng Thọ, Kinh A Di Đà truyền thụ cho bạn, đó là đại quán đảnh. Bạn đem Kinh này đọc qua một lần thì mười phương tất cả chư Phật đã quán đảnh cho bạn một lần, một ngày bạn đọc qua hai lần là quán đảnh cho bạn hai lần. Mười phương tất cả chư Phật Như Lai quán đảnh cho bạn, bạn đều không hề biết, còn đi tìm một người mê hoặc điên đảo gì đó đến để rẩy vài giọt nước cho bạn, thì gọi là quán đảnh. Bạn nói xem, bạn có đáng thương không? Cho nên nhất định phải hiểu được phương pháp tu học, nhất định phải có nền tảng. Cái nền tảng này là tam phước: "Hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng, từ bi không sát hại, tu mười nghiệp thiện". Đây là căn bản. Tu hành phải tu từ đâu vậy? Phải tu từ ngay đây. Nếu như bạn cảm thấy chỗ này mình không làm được, đó chính là không có thiện căn, không có phước đức, Phật pháp ngay trong một đời này, bạn cũng không có hy vọng rồi. Bạn ở trong cửa Phật không luận là tu học pháp môn nào, chỉ có được một ít thường thức của Phật học mà thôi, nhất định bạn không thể có được thọ dụng lợi ích chân thật của Phật pháp, vì bạn không chịu làm thật. Nhất định phải nỗ lực làm thật, phải làm cho được, thì mới có thể được. Cho nên việc này là vô cùng cần thiết, từ Tam phước mà bắt tay vào.
Đối nhân xử thế phải y theo sáu phép hòa kính. Đặc biệt là ngày nay chúng ta di dân đến nơi đây, ở nơi đây cũng có rất nhiều người của các quốc gia khu vực khác di dân đến nơi này, hình thành một xã hội nhiều văn hóa khác nhau. Mỗi một người của quốc gia khu vực khác đến nơi đây, bối cảnh văn hóa trước đây của họ, bối cảnh lịch sử, hình thái ý thức, tín ngưỡng tôn giáo, phương thức đời sống đều không giống nhau, chúng ta làm sao có thể cùng ở với nhau một cách dung hòa, đôi bên tôn kính, giúp đỡ lẫn nhau, việc này rất quan trọng. Những việc này đều ở trong sáu phép hòa kính: " kiến hòa đồng giải, giới hòa đồng tu, thân hòa cùng ở, khẩu hòa không tranh, ý hòa cùng vui, lợi hòa cùng chia", đều ở trong đây. Cho nên chúng ta học rồi thì lập tức có chỗ dùng, rất là hữu dụng. Không những đời sống của chính mình có thể trải qua được rất hạnh phúc rất mỹ mãn, còn có thể làm cho xã hội này, khu vực này, quốc gia này đạt đến hòa bình an định phồn vinh hưng vượng. Chúng ta học Phật là học những thứ này.
Vậy thì những cảnh giới phương pháp đạo lý này, căn cứ vào Kinh điển của Phật, chúng ta phải nghiên cứu tìm hiểu sâu vào, phải giảng giải. Lý thông hiểu rồi, hiểu được phương pháp rồi, biết được phải làm thế nào để ứng dụng trong đời sống, ứng dụng trong công việc, ứng dụng trong đối nhân xử thế tiếp xúc mọi vật. Phật pháp là đời sống, Phật pháp không phải để nói suông, không phải huyền học, không phải là thứ sau khi học rồi thì không có chỗ dùng. Phật pháp không những vì mang đến hạnh phúc hiện tiền cho chúng ta, hơn nữa Phật pháp càng có thể khiến cho chúng ta đạt đến hạnh phúc vĩnh hằng. Giáo dục thế gian nói đến một đời, giáo dục Phật pháp nói đến ba đời, nói đến quá khứ, nói đến vị lai, cho nên đây là giáo dục của ba đời, giáo dục viên mãn nhất. Chúng ta cần phải nhận biết nó một cách tường tận. Sau cùng chúng ta quay về Tịnh Độ.
Vì sao phải quy tâm Tịnh Độ? Đạo lý trong đây rất là sâu. Quy tâm Tịnh Độ là tất cả chư Phật khuyên bảo chúng ta, việc này không phải là nói người tu Tịnh Độ khuyên các vị. Mười phương tất cả chư Phật khuyến khích các vị niệm Kinh A Di Đà. Kinh A Di Đà sáu phương Phật tán thán, các vị đã đọc qua rồi, không một vị Phật nào mà không tán thán Tịnh Độ. Trong Kinh Vô Lượng Thọ, Thích Ca Mâu Ni Phật tán thán được càng rõ ràng, tán thán Phật A Di Đà là "quang trung cực tôn, Phật trung chi vương", đó là tán thán đến tột đỉnh. Chúng ta muốn quy y một vị Phật, vậy thì vị Phật vua trong các Phật là tốt nhất. Cho nên Thích Ca Mâu Ni Phật không hề nói con phải quy y ta, mà Ngài khuyên chúng ta quy y Phật A Di Đà, bởi vì Phật A Di Đà là vua trong các Phật. Chúng ta lại xem thấy từ xưa đến nay, xem thấy từ trong Kinh Hoa Nghiêm, Bồ Tát Văn Thù, Bồ Tát Phổ Hiền đều cầu sanh Thế giới Tây Phương Cực Lạc. Nếu thế giới Cực Lạc không thù thắng, thì Bồ Tát Văn Thù, Bồ Tát Phổ Hiền là Bồ Tát Đẳng giác của thế giới Hoa Tạng hà tất phải cầu sanh? Họ vì lý do gì mà cầu sanh chứ? Việc này đáng để chúng ta suy nghĩ. Nếu Tây Phương Cực Lạc không đặc biệt thù thắng, thì không thể vãng sanh thế giới Cực Lạc. Những việc này đều nói được tỉ mỉ ở trong Kinh Vô Lượng Thọ.
Trước đây, tôi đã giảng qua Kinh Vô Lượng Thọ rất nhiều lần, hiện tại đồng tu của Singapore đem lần diễn giảng thứ hai ở thư viện, giảng được tương đối tỉ mỉ, tổng cộng đã giảng 107 buổi làm thành đĩa CD, làm thành VCD. Lần này dường như có mang đến đây rất nhiều bộ, có một vị Phật tử phát tâm làm một ngàn bộ. Đĩa thì lưu giữ thời gian được lâu, chất lượng không bị biến đổi, họ nói với tôi có thể lưu giữ đến 200 năm mà âm lượng không bị thay đổi. Thế nên chúng ta dùng đĩa CD này để copy thu âm mang đi phổ biến, hiệu quả rất là tốt. Vì sao chúng ta phải tu Tịnh Độ? Vì sao phải niệm Phật A Di Đà? Vì sao phải cầu sanh Thế giới Tây Phương Cực Lạc? Các vị đem bộ Kinh Vô Lượng Thọ này tỉ mỉ nghe qua vài lần thì sẽ hiểu rõ, bạn cũng sẽ hiểu được phải tu thế nào, phải học ra sao. Đây là cuối cùng nói đến quy tâm Tịnh Độ. Nếu như chúng ta không muốn phải tốn nhiều tinh lực đi truy cứu đến cùng chân tướng của vũ trụ nhân sanh, đến đây thì được rồi, đã tương đối viên mãn rồi. Vì sao vậy?
Tương lai đến Thế giới Tây Phương Cực Lạc, sau khi đến đó rồi thì tất cả hưởng thụ, đức năng trí tuệ của chúng ta là bình đẳng với Phật A Di Đà. Thế giới Tây Phương Cực Lạc là bình đẳng, thế thì chân tướng của vũ trụ nhân sanh rốt cuộc là thế nào, đến Thế giới Tây Phương Cực Lạc không cần đến một tuần thì bạn thảy đều hiểu rõ. Đây là sự thật. Hà tất phải ở nơi đây, ngày ngày phải động não, có làm thế nào cũng không thể thông được. Đây là đường tắt để thành Phật. Chỗ này thông thường người gọi là thành Phật chi đạo, con đường thành Phật. Tịnh tông là đường tắt thành Phật. Con đường thành Phật rất xa rất dài, vô cùng xa thẳm, đây là con đường gần, bảo đảm ngay trong một đời này của chúng ta quyết định có thể thành tựu. Vậy thì do đây mà biết, pháp môn này đích thực là thù thắng không gì bằng. Chư Phật tán thán, Bồ Tát tán thán, các tổ sư đại đức nhiều đời không một ai không tán thán, ngay một đời này của chúng ta có thể gặp được là việc khó được. Trên kệ khai Kinh nói: "Trăm ngàn muôn kiếp khó được gặp", lời nói này là thật, không phải là giả. Cư sĩ Bàng Tế Thanh đã nói: "Vô lượng kiếp đến nay hy hữu khó gặp". Ngày hôm nay chúng ta có thể gặp được rồi, gặp được rồi mà để lỡ qua trước mắt, bạn nói xem đáng tiếc dường nào? Vô lượng kiếp hy hữu khó gặp, bạn gặp được rồi thì phải nắm chặt lấy, nhất định không thể bỏ lỡ qua, phải nỗ lực học tập, nỗ lực tu hành.
Lần diễn giảng này, tôi nghĩ chỉ giảng đến chỗ này thôi, chúng ta dừng lại ở đây. A Di Đà Phật!
KỆ HỒI HƯỚNG
Nguyện đem công đức này
Trang nghiêm Phật Tịnh Độ
Trên đền bốn ơn nặng
Dưới cứu khổ ba đường
Nếu có người nghe thấy
Đều phát tâm Bồ Đề
Hết một báo thân này
Đồng Sanh cõi Cực Lạc!
Nam Mô A Di Đà Phật
***********
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top