Nhạc Phi Diễn Nghĩa 20
Nghe thương nhân nói một cách chân thành, lại có ý ca tụng quân giáp nghiêm ngặt của quân Kim, Ngột Truật nhìn hắn từ đầu chân rồi dịu giọng:
- Nếu ngươi quả thật là lương dân thì ta tha ngay.
Hấp Mê Xi thấy vậy bước tới nói:
- Chúa công chớ nên tha hắn, tôi đoán chắc hắn là gian tế không sai vì nếu hắn là lương dân thì thấy chúa công phải biến đổi sắc mặt, giọng nói run rẩy, có đâu trả lời xuôi chảy như vậy? Trên thế gian này không có một tên lương dân nào mà lớn gan vậy cả, để tôi đem hắn về dinh tra hỏi mới được.
Ngột Truật nghe theo, truyền quân dẫn tên ấy về dinh trước rồi tiếp tục săn bắn vui chơi.
Chiều về cơm nước xong, Ngột Truật cho đòi tên ấy ra hỏi thì hắn vẫn nói y như trước chẳng sai lệch một tiếng. Ngột Truật nói với quân sư:
- Quả nhiên hắn là người lương thiện, hãy thả hắn đi cho rồi.
Quân sư nói:
- Muốn thả thì phải xét trong mình hắn đã.
Vừa nói Hấp Mê Xi vừa bước tới lục lọi khắp mình nhưng không tìm thấy vật gì lạ cả. Hấp Mê Xi co chân đá vào mông hắn một đá nói:
- Hãy đi đi cho khuất mắt.
Chẳng dè hắn lại đánh rơi ra một vật lạ, xem lại thì vật ấy là một phong thư. Quân sư reo lên:
- Có thư của gian tế đây rồi!
Ngột Truật hỏi:
- Thư gì vậy?
- Đây chính là lạp hoàn thư dùng để mang các mật thư để cho người ta đừng để ý.
Dứt lời lấy dao rạch chiếc bao lấy ra một mảnh giấy gấp làm tư mở ra xem thì ra thư này của quan tổng binh Hàn Thế Trung gửi cho tiểu Gia Cát Lục Đăng.
Trong thư nói:
- Nay có tiết đạt sứ Tôn Hạo ở Biện Kinh phụng chỉ lãnh binh ra tiếp ứng. Nếu Tôn Hạo có ra trận thì xin đừng giúp y vì y chính là kẻ tâm phúc của Trương Bang Xương nên hãy coi chừng y phản phúc. Nếu y có chết vì tay giặc cũng không đáng tiếc. Nay tôi sai Triệu Đắc Thắng mang thư này đến cho ngài biết rõ!
Ngột Truật xem thư xong nói với quân sư:
- Bức thư này cũng chẳng có điều chi quan trọng.
Quân sư nghiêm sắc mặt nói:
- Chúa công chưa rõ chứ bức thư này lọt vào tay chúng ta thì quan trọng lắm đấy chứ. Vì hễ Tôn Hạo đem quân đến đây đánh với chúa công mà Lục Đăng dẫn binh ra trợ chiến thì ta thừa dịp ấy phát binh đoạt thành. Còn bức thư này lọt vào tay Lục Đăng hắn sẽ kiên trì cố thủ thành trì, biết đời nào ta đoạt thành cho được?
Ngột Truật gật đầu cho là phải rồi hỏi Hấp Mê Xi:
- Thế bây giờ chúng ta liệu sao đây?
Quân sư nói:
- Để tôi xem, ta hãy theo thư này giả khắc ấn cho giống rồi nhái theo kiểu chữ này viết ra một bức thư khác bảo Lục Đăng hãy ra trợ chiến. Chúng ta chờ cho Lục Đăng ra khỏi thành thì vây chặt lại rồi truyền chư tướng thúc quân công hãm thành trì thì chắc chắn là nắm phần thắng lợi trong tay.
Ngột Truật mừng rỡ nói:
- Vậy thì quân sư hãy tính việc ấy gấp đi, còn tên gian tế này hãy giết quách đi cho rồi.
Quân sư đáp:
- Chẳng nên giết nó, chúa công hãy giao nó cho tôi, tôi sẽ có chuyện dùng.
Hấp Mê Xi làm một phong thư lạp hoàn giả xong rồi đến ra mắt Ngột Truật. Ngột Truật gọi chư tướng hỏi:
- Có ai dám đem thư này đến gặp Lục Đăng?
Hỏi mấy lần vẫn không thấy ai lên tiếng, quân sư Hấp Mê Xi nói:
- Giả dạng làm kẻ gian tế phải biết tùy cơ ứng biến và đầy đủ mưu chước mới được, hình như việc này tôi cần phải đi mới xong, nếu như có bề nào thì chúa công hãy chăm lo săn sóc đến vợ con tôi.
Ngột Truật đáp:
- Quân sư cứ an tâm ra đi, miễn là được việc thì công lao chẳng nhỏ.
Hấp Mê Xi bèn thay đổi y phục giả làm Triệu Đắc Thắng, giấu chiếc bao lạp hoàn trong mình rồi từ biệt Ngột Truật đi thẳng đến bên hào thành kêu lớn:
- Hãy thả cầu xuống cho tôi lên thành có việc cơ mật.
Lục Đăng đứng trên thành thấy thế truyền quân thả cầu xuống. Khi qua khỏi hào, Hấp Mê Xi lại gọi mở cửa thành nhưng cửa thành không mở. Trên thành lại thòng xuống một cái giỏ, quân sĩ gọi vọng xuống bảo y ngồi trong giỏ để chúng kéo lên.
Hấp Mê Xi không biết làm sao đành phải vào trong giỏ ngồi. Chiếc giỏ từ từ được kéo lên nhưng khi gần đến biên thành thì dừng lại treo lơ lửng ở đó.
Lục Đăng cúi xuống hỏi:
- Ngươi tên họ là chi, vâng lệnh ai đến đây? Có thư chi không?
Tuy Hấp Mê Xi nói tiếng Trung Quốc rất thạo và đã làm gian tế vào Trung Nguyên rất nhiều lần song chưa lần nào gặp hoàn cảnh kỳ dị như hôm nay.
Hấp Mê Xi gượng đáp:
- Tôi là Triệu Đắc Thắng vâng lệnh Lưỡng Lang quan tổng binh đến đây đem thư cho lão gia.
Lục Đăng nghe nói nghĩ thầm:
- "Ta cũng có nghe Hàn nguyên soái dùng một tên Triệu Đắc Thắng song ta chưa hề biết mặt, không biết tên này thật hay giả để ta hỏi hắn thử cho biết".
Nghĩ vậy Lục Đăng cất tiếng hỏi:
- Ngươi bảo là ngươi ở với Hàn nguyên soái, vậy ngươi có biết Hàn nguyên soái lập công trạng gì ở đâu mà được phong đến chức ấy không?
Hấp Mê Xi đáp:
- Nguyên soái của tôi với Trương Thúc Dạ đã chiêu an được bọn hảo hán nơi trại Thủy Hử nên mới được phong chức lãnh nhiệm vụ trấn thủ tại Lưỡng Lang quan.
Lục Đăng lại hỏi:
- Còn phu nhân của Hàn nguyên soái họ chi?
- Bà phu nhân ấy chẳng ai bì kịp, nghĩa là đang chấp chưởng cái ấn ngũ quân đô đốc, ai lại không biết người là Lương Thị phu nhân?
- Người xuất thân thế nào?
- Dạ điều ấy tôi không dám nói.
- Người có con cái chi không? Tên gì, mấy tuổi?
- Người có hai vị công tử, đại công tử tên là Hàn Thượng Đức năm nay mười lăm tuổi còn nhị công tử là Hàn Ngạn Trực.
Lục Đăng vui vẻ:
- Thế thì đúng rồi, hãy đưa thư cho ta xem nào.
Hấp Mê Xi đáp:
- Xin kéo tôi lên tới thành rồi tôi sẽ trao thư.
Lục Đăng nói:
- Để ta xem thư xong rồi sẽ cho ngươi lên cũng chẳng muộn.
Hấp Mê Xi chẳng biết tính sao đành phải dâng thư lên.
Sở dĩ Hấp Mê Xi biết hết việc nhà của Hàn Thế Trung là vì y bắt được Triệu Đắc Thắng đem về nhà hỏi cặn kẽ suốt một đêm nên việc gì cũng biết rõ và lĩnh mệnh đi làm gian tế.
Khi Lục Đăng bóc lạp hoàn thư ra xem rồi thầm nghĩ:
- "Lạ thật Tôn Hạo là phe đảng của gian thần sao lại bảo ta giúp hắn? Nếu ta ra thành tiếp chiến, Ngột Truật thừa cơ cướp phá thành trì thì chống sao lại?".
Còn đang nghi hoặc, Lục Đăng bỗng ngửi thấy mùi thịt dê phảng phất liền hỏi gia tướng:
- Hôm nay chúng bay có ăn thịt dê phải không?
Gia tướng bẩm:
- Chúng tôi chẳng hề ăn thịt dê bao giờ.
Lục Đăng lấy làm lạ nhưng rồi cuối cùng đưa lá thư lên mũi ngửi, ông ta gật đầu cười lẩm bẩm:
- "Nếu chẳng có cái mùi dê thoảng qua đây thì đã bị chúng nó lừa rồi!".
Lục Đăng lại cúi xuống nói với Hấp Mê Xi:
- Loài Phiên nô dám cả gan lập kế lừa gạt ta. Bây giờ mi làm cách nào thoát khỏi tay ta được? Hãy nói tất cả sự thật ra cho mau. Như mi có địa vị gì bên Phiên thì ta thả về còn như mi là một tên vô danh tiểu tốt thì ta giết quách cho rồi.
Hấp Mê Xi kinh hãi mồ hôi toát ra ướt mình, thầm nghĩ:
- Người này cao kiến thật, hèn chi tiếng đồn chẳng sai.
Rồi Hấp Mê Xi gượng cười đáp:
- Đã biết trên rừng có cọp nhưng vẫn phải làm liều, xét ra không còn cách nào hơn nữa vì ngươi cứ ở trong thành cố thủ hoài thì khó mà đánh phá được, buộc lòng phải làm mưu ấy thôi. Ta đây chẳng ai khác hơn là đại kim quốc quân sư Hấp Mê Xi.
Lục Đăng nói:
- Ta cũng thường nghe bên Kim Phiên có một tên hay giả dạng qua Trung Nguyên do thám những bí mật quốc gia đại sự, khi biết rõ nội tình mới sinh việc can qua này, mãi đến nay mới tận mắt thấy ngươi. Nếu ta giết ngươi theo tội kẻ gian tế thì người ta sẽ chê ta nhát gan không dám để cho ngươi sống trù mưu lập kế thu đoạt Trung Nguyên. Còn nếu thả ngươi về ngươi sẽ cho ta là dại, ngươi sẽ qua do thám nữa thì làm sao truy ra được. Thôi để ta làm dấu cho người trong nước ta dễ phân biệt.
Đoạn truyền lệnh cho quân sĩ cắt chiếc mũi Hấp Mê Xi rồi thòng xuống thả về.
Hấp Mê Xi đau đớn vô cùng nhưng chẳng dám tỏ vẻ sợ sệt. Đợi cho giỏ thòng xuống tới đất mới hối hả bước ra, lấy tay che mũi chạy thẳng về dinh Phiên.
Ngột Truật trông thấy Hấp Mê Xi hớt hải chạy vào, mình mẩy đầy những máu kinh hãi hỏi:
- Sao quân sư lại đến nỗi này?
Hấp Mê Xi kể lại câu chuyện đem thư giả bị bại lộ và giơ cái mặt bị cắt mất mũi cho Ngột Truật xem. Ngột Truật vừa căm giận Lục Đăng vừa thương hại quân sư vội kiếm lời an ủi:
- Xin quân sư hãy về dinh dưỡng bệnh chờ khi nào vết thương kia lành hẳn tôi sẽ bắt Lục Đăng đem về cho quân sư trả thù cho hả dạ.
Hấp Mê Xi lạy tạ ơn rồi lui về dinh lo băng bó thuốc men đến hai tuần mới lành nhưng đã trở thành một người sứt mũi suốt đời.
Quân sư bèn đến dinh Ngột Truật hiến kế:
- Đánh theo đường bộ đã mấy phen bị thất bại, nay ta phải dùng đường thủy tấn công địch mới được.
Ngột Truật cho là phải, nội trong đêm ấy kiểm điểm binh mã chọn một ngàn người biết bơi lội giỏi cho sung vào tiền đội kéo thẳng xuống thành nhảy xuống nước để phá thủy quan.
Ngờ đâu dưới nước đã có giăng lưới cột đầy móc câu, lại đeo đầy lục lạc nên khi quân Ngột Truật nhảy xuống nước bị sa lưới, lục lạc reo vang quân trên thành cứ việc kéo lên chém đầu từng đứa bêu trên thành làm lệnh.
Ngột Truật xem thấy cả kinh, tặc lưỡi lắc đầu giậm chân rồi thu quân về trại nói với quân sư:
- Tên Lục Đăng này có lắm mưu thần chước quỷ, chúng ta khó bề thắng nổi. Ta quyết chuyến này đích thân đi phá cho bằng được thuỷ quan mới nghe. Chư tướng ở ngoài chờ sẵn, khi nào ta phá được thuỷ quan sẽ mở cửa thành cho tràn vào, bằng ta có thác chư tướng hãy lui về nước cho xong.
Ai nấy đều khuyên chủ soái không nên mạo hiểm nhưng Ngột Truật vẫn không nghe, cứ việc chọn sẵn một ngàn quân tinh nhuệ chờ canh ba kéo đến thủy quan cho binh đứng chực trên bờ , một mình Ngột Truật lặn xuống đáy sông, lần đến thủy quan chui vào. Bị lưới cản lại, lục lạc kêu vang, quân lính trong thành vừa thò móc xuống giật lên thì Ngột Truật đã lấy dao nhỏ bén cắt đứt hết lưới ở dưới đáy rồi trồi lên mặt nước, nhảy phóc lên bờ.
Quân canh bất ngờ bị Ngột Truật vung búa chém sạch không kịp kêu lên tiếng nào.
Ngột Truật thừa thế chạy riết đến cửa thành chém quân canh cửa rồi mở toang cửa ra và hạ cầu xuống cho quân bên ngoài ùa vào.
Lúc ấy Lục Đăng đang ở trong dinh ngồi bấm óc tìm mưu kế bỗng thấy bọn tùy tướng sợ hãi chạy vào báo:
- Quân Phiên hãm được thành đã kéo vào vô số, xin lão gia liệu định.
Lục Đăng nghe vậy vội vào hậu đường gọi phu nhân nói:
- Thành này đã thất thủ tôi còn sống làm chi nữa? Phải hy sinh cho trọn nghĩa quân vương.
Lục phu nhân đáp một cách tỉnh táo:
- Nếu tướng công quyết tận trung vì nước, thiếp đây cũng quyết tận tiết cùng chồng vậy.
Dứt lời bà quay lại nói với người vú:
- Hôm nay ta với lão gia tử tiết, dòng họ Lục chỉ còn một giọt máu này thôi, xin người vì tình ráng nuôi dưỡng cho cháu thành người để mai sau có người thờ phụng tổ tiên thì ngươi là đại ân nhân của dòng họ Lục, hai ta ở chốn tuyền đài vẫn đội ơn ngươi đấy.
Bà dặn dò đôi ba phen rồi vào trong phòng thắt cổ chết.
Lục Đăng thấy vợ chết trước mình liền than thở:
- "Thôi đã đến bước đường cùng rồi, ta nên tự xử là hơn".
Rồi bước ra đại đường rút dao đâm xuyên qua cuống họng. Chết rồi mà thây vẫn trơ như tượng đồng nên có thơ điếu Lục Đăng như sau:
Thành vỡ, anh hùng đã hết mong
Âu đành tử tiết, thế là xong
Gương trung muôn thuở không phai nhạt
Tiết nghĩa nêu danh khách má hồng.
Tướng sĩ thấy Lục Tiết Đạt sứ và phu nhân đã vì nước quyên sinh nên không chống cự, chỉ lo chạy trốn hết. Bà vú còn đang lo gom góp vàng bạc cùng đồ tế nhuyễn đã nghe lạc ngựa đến gần, túng thế phải bế Lục công tử chạy trốn sau cánh cửa.
Ngột Truật vừa xông đến vội xuống ngựa cắp búa bước vào chợt trông thấy một người cầm gươm đứng sững giữa đại đường liền quất lớn:
- Ngươi là ai, hãy xem cây búa của ta đây.
Vừa hét vừa chém tới nhưng chẳng thấy người ấy động đậy và nói năng gì hết. Ngột Truật lấy làm lạ dừng tay bước đến nhìn kỹ xem, thì ra người ấy là Lục Đăng nhưng đã tự vẫn chết rồi.
Ngột Truật nghĩ thầm:
- "Lạ thật, lý nào người đã chết sao chưa chịu ngã?".
Ngột Truật tiến sâu vào hậu đường nhưng vẫn im phăng phắc không một tiếng động, chỉ có một cái thây đàn bà nằm chết dưới đất, lục soát khắp nơi chẳng thấy một ai bèn trở ra đại đường thì thấy Lục Đăng hãy còn đứng trơ trơ.
Ngột Truật lại nghĩ thầm:
- "Hay là Lục Đăng đã chết rồi mà còn sợ ta vào thành nhiễu hại đến bá tính nên chưa an tâm chết chăng?".
Còn đang ngạc nhiên, bỗng Hấp Mê Xi đến vui vẻ nói:
- Tôi nghe chúa công ở đây nên đến trợ giúp.
Ngột Truật nói:
- Có quân sư đến thì hay lắm, vậy thì quân sư hãy ra truyền lệnh cho quân sĩ hãy tìm chỗ trống mà an dinh hạ trại, chớ có động chạm đến của dân. Ai vi lệnh thì chém đầu lập tức.
Hấp Mê Xi lĩnh mệnh ra truyền lệnh cho quân sĩ. Ngột Truật đến trước thây xác Lục Đăng nói:
- Lục tiên sinh ơi! Tôi chẳng hề hại đến bá tính của ngài xin ngài hãy nằm xuống cho yên thân.
Dứt lời Ngột Truật vẫn thấy xác Lục Đăng đứng trơ trơ không nhúc nhích lại tiếp:
- Có phải người đàn bà chết nơi hậu đường là phu nhân của ngài đã vì chồng mà tận tiết chăng? Nếu quả vậy thì tôi xin đem thây hai vợ chồng chôn chung một chỗ và chôn ngoài đại lộ để thiên hạ qua lại biết danh hai vợ chồng tiên sinh là trung thần và tiết phụ, như vậy ngài có bằng lòng không?
Nhưng vẫn không thấy Lục Đăng ngã, Ngột Truật lại nói:
- Tôi nghe xưa Sở bá vương Hạng Võ tự vẫn cũng đứng sừng sững như vậy, đến khi Hán vương Lưu Bang vái lạy mới chịu ngã. Nay Lục tiên sinh là kẻ trung thần, tôi có lạy ngài vài lạy cũng chẳng hại chi.
Nói rồi liền sụp lạy nhưng cũng vẫn không thấy xác của Lục Đăng ngã xuống. Ngột Truật lấy làm lạ không biết tính sao bỗng thấy quân sĩ bắt được một người đàn bà trong tay có bồng đứa con nít dắt đến bẩm:
- Người đàn bà này đang bồng đứa con nít cho bú sau cánh cửa, chúng tôi bắt được xin trình chúa công.
Ngột Truật bèn hỏi người đàn bà ấy:
- Ngươi là ai lại bồng đứa bé nấp sau cửa cho bú?
Mụ vú sa nước mắt đáp:
- Đứa bé này là công tử của Lục lão gia, còn tôi đây là người vú nuôi công tử. Cảm thương cho lão gia và phu nhân đã vì nước quyên sinh, chỉ còn một chút huyết mạch đây thôi, xin lão gia dung thứ.
Ngột Truật nghe nói cảm động sa nước mắt liền quay lại nhìn Lục Đăng và nói:
- Lục tiên sinh ơi, tôi không khi nào tuyệt hậu tự của ngài đâu và nguyện nhận con của ngài làm con, đưa về bổn quốc để cho vú này nuôi dưỡng cho khôn lớn nên người, rồi cũng để theo họ ngài thừa tiếp hương hỏa ngày sau, chẳng biết ngài có vui lòng không?
Nói vừa dứt lời thì thấy xác Lục Đăng ngã xuống đất, Ngột Truật cả mừng bèn bồng Lục công tử vào lòng.
Lúc ấy Hấp Mê Xi bước vào thấy thế vội hỏi:
- Chúa công bồng con ai vậy?
Ngột Truật bèn thuật lại mọi việc cho quân sư nghe, Hấp Mê Xi nói:
- Nếu quả đứa bé này là con của Lục Đăng thì xin chúa công hãy cho tôi, để tôi giết nó mà báo thù về việc bị bố nó xẻo mũi.
Ngột Truật nghiêm sắc mặt hét:
- Đừng làm như vậy, đứa bé này có tội tình gì? Vả lại làm tôi thì ai vì chúa nấy, phỏng như quân sư có bắt được kẻ gian tế có bao giờ tha cho hắn không? Tuy Lục Đăng là kẻ địch nhưng ta kính người là một đấng trung thần, chớ nên làm càn. Phải cắt năm trăm quân hộ tống công tử với nhũ mẫu đem về bổn quốc mà nuôi dưỡng, đồng thời phải khâm liệm Lục tiên sinh và phu nhân đem đến chỗ cao ráo chôn cất tử tế.
Sau đó Ngột Truật để Hấp Lợi Tô trấn thủ Lộ An Châu, còn bao nhiêu thì kéo qua đánh Lưỡng Lang quan.
Lưỡng Lang quan có tổng binh Hàn Thế Trung trấn giữ. Hôm ấy người đang thao luyện quân sĩ, bỗng có quân thám tử vào phi báo:
- Lộ An Châu đã bị thất thủ, vợ chồng Lục lão gia đều tử tiết, nay Ngột Truật lại dẫn quân đến đây còn cách thành chừng trăm dặm xin nguyên soái định liệu.
Nghe tin phi báo Hàn Thế Trung lập tức truyền lệnh cho các tướng sĩ ra nơi tam khẩu là nơi yếu địa để ngăn chặn rồi cho phục binh ở đó và đặt súng ống rất nhiều, một mặt làm biểu văn sai người về Biện Kinh cấp báo.
Hàn Nguyên soái còn đang lo liệu toan tính bỗng có quân vào phi báo:
- Nay có tiết đạt sứ là Tôn Hạo đem năm vạn quân đi vòng qua thành lướt tới dinh Phiên rồi.
Hàn Thế Trung lấy làm lạ nghĩ thầm:
- Lạ thật tên gian tặc ấy mãi đến bây giờ nó mới tới sao? Nhưng sao nó lại không đến hợp với ta lại đến thẳng dinh Phiên? Phải chăng binh của Ngột Truật hơn năm mươi vạn còn binh của nó tài cán gì mà dám đương đầu như vậy?
Hàn Thế Trung lại nghĩ:
- Nếu không phát binh tiếp ứng thì đạo binh của Tôn Hạo sẽ bị tiêu diệt hết, bằng ra tiếp ứng thì ải chẳng ai giữ.
Còn đang do dự có kẻ chạy vào báo:
- Có phu nhân đến hội kiến.
Nguyên soái bèn ra mắt phu nhân, vợ chồng ngồi đối diện, nguyên soái lên tiếng hỏi:
- Phu nhân có mưu chước chi hay không?
Phu nhân nói:
- Thiếp nghe Tôn Hạo dẫn quân đến dinh Phiên, thiết tưởng hắn tài cán bao nhiêu mà dám chống chọi với năm mươi vạn quân của Ngột Truật, nhưng nếu tướng công chẳng phát binh tiếp ứng thì ắt gian thần sẽ dâng bổn về triều báo buộc tướng công rằng ngồi yên chẳng tiếp cứu. Vì theo ngu ý của thiếp thì tướng công phải phát binh đi tiếp cứu mới được.
Hàn nguyên soái nói:
- Lời phu nhân nói rất phải.
Rồi quay qua hỏi chư tướng:
- Có ai dám lãnh binh đi cứu ứng Tôn Hạo không?
Bỗng có một tiểu tướng bước ra bẩm:
- Con xin lãnh mạng.
Nguyên soái xem lại thì tiểu tướng ấy không ai khác hơn là đại công tử Hàn Thượng Đức.
Nguyên soái nói:
- Thế thì hay lắm, con hãy đem một ngàn quân tinh nhuệ đi cứu Tôn Hạo.
Công tử điểm binh mã ra đi, bỗng nghe phu nhân kêu lại bảo nhỏ:
- Phàm đạo làm tướng thì cần phải nghe cho đủ tám hướng và thấy cho đủ bốn phương. Gặp lúc nên đánh thì chớ có chần chừ, gặp lúc không nên đánh thì chớ có cưỡng. Con không thấy mặt Tôn Hạo thì không nên xông vào chỗ nguy hiểm nghe chưa?
Công tử lĩnh mệnh dẫn quân ra khỏi thành đến gần dinh Phiên chàng quay đầu ngó qua thấy một vùng đất khá rộng đều là quân Phiên đồn trú.
Thượng Đức nghĩ thầm:
- Quân Phiên đông như vậy nếu ta đánh tới thì một ngàn binh này chết hết, bằng chẳng đánh tới thì không biết Tôn Hạo ở đâu, bây giờ biết liệu sao đây?
Nghĩ vậy, vội quay qua dặn quân sĩ:
- Chúng bay hãy đóng tại đây để một mình ta xông vào dinh Phiên tìm Tôn Hạo. Như tìm được thì hiệp nhau đánh phá, bằng không gặp Tôn Hạo ta có chết tại dinh Phiên, chúng bay hãy chạy về báo cho lão gia hay.
Quân sĩ vâng lệnh đóng binh tại đó rồi một mình Thượng Đức vỗ ngựa vung đao xông đến dinh Phiên hét lớn:
- Có lưỡng lang quan Hàn Thượng Đức đến phá dinh bay đây.
Vừa hét vừa múa đao xông tới chém quân Phiên rụng đầu như sung những tưởng đâu vào tìm cho được Tôn Hạo có ngờ đâu cả đạo quân của y đã chết hết rồi.
Quân Phiên chạy vào báo với Ngột Truật:
- Nay có một tên tiểu nam man xưng là Hàn Thượng Đức xông vào đánh phá dinh ta vô cùng lợi hại, xin chúa công định liệu.
Ngột Truật quay hỏi quân sư:
- Hàn Thượng Đức là người thế nào?
Hấp Mê Xi đáp:
- Tên ấy là con trai lớn của Hàn Thế Trung, tôi đã nói với chúa công trước rồi đó. Vì cha mẹ nó võ nghệ cao cường nên mới sinh con dũng mãnh như vậy.
Ngột Truật mỉm cười:
- Dẫu sao nó cũng chỉ có một mình xông vào dinh trại ta, há lại có thề chống nổi năm mươi vạn quân của ta sao? Thôi để ta đi bắt sống dụ nó đầu hàng.
Nói rồi truyền lệnh các tướng sĩ cần phải bắt sống Hàn Thượng Đức cho kỳ được nhưng chớ gây thương tích. Quân Phiên ào ra một lượt bao vây Thượng Đức nhưng Thượng Đức không chút sợ hãi, chàng tả xông hữu đột tung hoành trong đám quân Phiên giết chúng vô số nhưng lớp này ngã lớp kia ùa vào, công tử không tài nào thoát ra nổi.
Binh tướng của Hàn Thượng Đức đóng ngoài xa trông ngóng hơn nửa ngày vẫn không thấy tin tức công tử đâu cả, chúng đoán chắc công tử đã chết trong dinh Phiên rồi, bèn đem nhau trở về thành báo với nguyên soái Hàn Thế Trung:
- Công tử bảo chúng tôi đóng binh ở ngoài rồi một người một ngựa xông pha trong dinh Phiên đã hơn nửa ngày mà không thấy ra, chúng tôi đoán chắc tính mạng người khó bảo toàn.
Nguyên soái nghe báo vội vào chốn hậu đường nói lại cho phu nhân hay.
Bà phu nhân nghe xong liền khóc rống lên nói:
- Đành rằng đã làm tướng thì phải liều mình vì nước, ngặt vì con tôi tuổi còn trẻ chưa từng thụ hưởng tước lộc của triều đình mà lại bỏ mình chốn sa trường, thật tội nghiệp.
Nguyên soái nói:
- Thôi phu nhân chớ nên bi thương làm gì, tôi quyết đem quân ra đó để nghe tin tức quân Phiên và báo thù cho con.
Nói rồi kiểm điểm binh mã kéo ra thành nhắm dinh Phiên thẳng tới.
Đi được nửa đường binh sĩ đều dừng ngựa, nguyên soái lấy làm lạ hỏi:
- Tại sao đến đây chúng bay lại không đi nữa?
Quân sĩ bẩm:
- Lần trước cũng đến tại đây, công tử truyền lệnh rằng trong dinh Phiên binh mã đông lắm, dù cho chúng ta có đôi ba nghìn quân đi nữa đến đó cũng chỉ nạp mạng mà thôi, nên để chúng tôi đồn trú tại đây chờ đợi.
Nghe vậy nguyên soái rơi nước mắt nói:
- Trước đây đã có lệnh của con ta như vậy thì đến lượt ta, các người cũng đóng binh tại đây mà đợi ta.
Dứt lời nguyên soái một mình một ngựa xông vào dinh Phiên hét lớn:
- Có Đại Tống Hàn nguyên soái đến đây!
Vừa hô hét vang rền vừa vung dao xông vào dinh Phiên chém giết mở đường qua khỏi mấy lớp dinh của giặc, không ai ngăn cản nổi.
Ngột Truật nghe quân phi báo khen nức nở:
- Hàn Thế Trung quả thật là anh hùng.
Rồi quay lại bàn việc cơ mật với quân sư, đoạn truyền quân sĩ hãy bao vây Hàn Thế Trung cho chặt, cố bắt sống không được giết.
Ngột Truật điểmmấy mươi vạn binh mã đi vòng sang phía hữu quyết chiếm lấy Lưỡng Lang quan.
Quan tổng binh Hàn Thế Trung tuy võ nghệ tinh thông song quân Phiên đông như kiến khó bề thoát khỏi vòng vây, vì thế đành chịu mắc kẹt trong đám quân giặc.
Một ngàn quân của Hàn Thế Trung đang đóng giữa đường bỗng thấy Ngột Truật rầm rộ kéo quân tới, hoảng hốt chạy về thành phi báo:
- Nguy tai! Nguy tai! Nguyên soái cũng đã bỏ mạng bên dinh Phiên rồi.
Phu nhân đang đứng trên ải nghe quân về phi báo tin dữ, lòng đau như cắt nhưng không dám khóc than vì sợ rối lòng quân khó bề phòng thủ.
Phu nhân tỏ ra bình tĩnh, không một chút nao núng truyền lệnh:
- Chúng bay phải cố sức canh giữ ải quan cho nghiêm ngặt, nếu ai trái lệnh ta chém đầu lập tức.
Quân sĩ dạ ran rồi bà cho gọi hai vợ chồng người vú giữ nhị công tử vào phòng dặn nhỏ:
- Việc đã khẩn cấp không biết rồi đây ta sống chết ra sao chưa có thể đoán trước được. Hai ngươi hãy thu góp hết vàng bạc cùng đồ tế nhuyễn , bồng con ta lên ngựa chạy ra khỏi ải, lựa chỗ rừng rậm ẩn nấp để nghe ngóng tin tức. Nếu như ta thắng được giặc thì hai ngươi sẽ trở về thành, bằng ta có thất thủ bỏ thây giữa trận tiền thì hai ngươi phải bồng con ta đi cho thật xa, dùng tiền của đó buôn bán làm ăn, nuôi con ta ăn học nên người. Khi khôn lớn hãy đưa về triều để nối chức của lão gia. Hai ngươi cũng được chung hưởng phú quý với nó.
Nói đến đây phu nhân thò vào túi lấy cái ấn trao cho vợ chồng người vú nói:
- Ngươi hãy giữ kỹ hai cái tướng ấn đây, phòng ngày sau dâng cho Thiên triều để làm tín vật. Ta phó thác chút huyết thống ấy cho hai ngươi, xin hai ngươi vì tình mà tận tâm với ta chớ nên sơ suất, linh hồn ta dưới suối vàng sẽ theo phù hộ hai ngươi.
Hai người động lòng rơi lụy, lo thu nhặt vàng bạc rồi bồng công tử lên ngựa chạy thẳng ra khỏi thành.
Chỉ mấy khắc sau quân lại vào phi báo:
- Quân Phiên đã đến bên thành rồi.
- Tướng Phiên đang đứng trước thành khiêu chiến.
Quân vào cáo cấp dồn dập, Lương phu nhân vội nai nịt gọn gàng rồi cầm thương lên ngựa ra quan ải.
Khi bà đến nơi, các tướng tá nghênh tiếp lên ải và thưa:
- Thưa Ngũ quân đề đốc, quân Phiên tràn đến thế mạnh như nước vỡ bờ, xin phu nhân chớ nên xuất trận, hãy kiên trì phòng thủ thành chờ binh tiếp cứu đến rồi sẽ hay. Nhưng Lương phu nhân lúc ấy tưởng chồng mình đã bỏ mạng trong dinh trại địch nên quyết sống chết với chúng một phen, làm sao có thể ngồi chờ quân tiếp viện cho đành?! Ngũ quân Đề Đốc nghe chư tướng nói như vậy đáp:
- Chư tướng đề nghị như vậy cũng phải, song chồng con ta đã chết về tay Phiên nô, thù ấy không đội trời chung, ta đã có cách phá tan bọn Phiên quân tàn bạo.
Mọi người im lặng, phu nhân lại truyền lệnh:
- Chư vị hãy tuân lệnh ta thi hành cho nghiêm cách mới được. Nơi Tam Sơn khẩu đã có bố trí sẵn súng thần công. Bây giờ phải đem hết thiết hỏa xa ra đó để làm chướng ngại vật cản đường tiến của quân địch. Khi chặn được địch rồi thì phải nhả đạn trước sau cho đều chớ để một tên nào tẩu thoát, nhớ chưa?
Chư tướng đồng thanh tuân lệnh đi bày trí đâu đó xong xuôi thì phu nhân cũng kiểm điểm binh mã, đội ngũ chỉnh tề kéo binh ra ngoài thành lập trận thế.
Ngột Truật xem thấy phu nhân oanh oanh liệt liệt, chép miệng khen thầm:
- "Hèn chi thiên hạ đồn chẳng sai, rõ ràng là trang nữ trung hào kiệt".
Lương phu nhân thấy Ngột Truật nhìn sững liền quát lớn:
- Tên mọi kia, ra trận sao không xưng tên còn đứng đó sao?
Ngột Truật đáp:
- Đại Kim Quốc, tứ điện hạ Xương Bình Vương Tảo Nam đại nguyên soái, Hoàn Nhan Ngột Truật chính là ta, còn ngươi là ai hãy xưng tên ra trước đây cho thiên hạ biết.
Ngột Truật lại nói:
- Ta hằng nghe ngươi là một tay võ nghệ cao cường tinh thông thao lược nhưng nay ta cử đại binh thi hành theo thiên mạng chiếm đoạt giang san nhà Tống, chẳng khác đá kia đem đi chọi trứng, nội nay mai Biện Kinh sẽ thuộc về tay ta. Nếu ngươi thức thời hãy tuân theo mạng trời quy hàng cho sớm thì mạng ngươi được bảo toàn mà chức Ngũ Quân đô đốc của ngươi cũng không mất. Ngươi hãy chọn một đường mà đi kẻo ăn năn không kịp đấy.
Lương phu nhân nghe mấy lời ngạo mạn nổi giận mắng:
- Loài mọi Phiên, chồng con ta đã vì mi bỏ thây trong Phiên trại, ta hận vì chưa bắt được mi để ăn gan cho hả giận nên quyết đến đây liều sinh tử một phen. Mi đừng uốn ba tấc lưỡi đối với ta vô ích.
Ngột Truật cười gằn:
- Ai giết chồng ngươi để làm gì? Ta chỉ truyền lệnh vây chặt trong dinh ta đó thôi, nếu ngươi bằng lòng quy hàng ta sẽ trả chồng con ngươi ngay tức khắc.
Lương phu nhân không tin hết lớn:
- Đừng nói dối, hãy xem ngọn thương của ta đây.
Vừa nói phu nhân vừa vung thương đâm thẳng. Ngột Truật đưa búa ra đỡ rồi tiếp đánh.
Hai người đánh nhau chừng năm hiệp vẫn chưa phân thắng bại nhưng xét thấy nữ nhi chống với anh hùng được sao? Lương phu nhân liệu bề đánh không nổi nên quay ngựa chạy lui vào ải.
Ngột Truật vỗ ngựa rượt theo. Khi quân Phiên đến gần trước ải, Lương phu nhân truyền lệnh nổ súng thần công và xô thiết hỏa xa ra cản đường.
Chư tướng vâng lệnh cho nổ súng vào đám quân Phiên. Đột nhiên một tiếng sét nổ vang lên long trời lở đất, khói bốc lên chín tầng mây loang ra ngoài mấy dặm.
Trước cảnh tượng ấy ai nấy đều kinh hồn táng đỏm. Khi bình tĩnh lại thì thấy mấy khẩu thần công đều toác miệng ra làm đôi, cửa ải bị vỡ toang, tạo thành một con đường lớn chạy thẳng tắp vào ải.
Cho nên đời sau thiên hạ thường có câu: "Lôi chấn Tam Sơn khẩu, pháo toạc Lưỡng Lang quan" nghĩa là trời đã giúp quân Phiên phá súng, mở đường cho Ngột Truật xua quân theo đại lộ tràn vào ải.
Lương phu nhân thấy lòng trời giúp cho Ngột Truật nên chép miệng thở dài than:
- Thôi thế này thì khí số nhà Tống đã hết rồi.
Bà không chần chừ vội quất ngựa chạy thẳng vào rừng. Thật từ khi bà biết cầm thương lên ngựa đến giờ chưa khi nào thảm bại một cách kinh khủng như chuyến này.
Bà chạy một đỗi xa xa đến một lùm cây rậm rạp muốn tìm chỗ nghỉ ngơi đôi chút, bỗng nghe có tiếng gọi văng vẳng:
- Phu nhân ôi, công tử ở đây này, xin phu nhân hãy xuống ngựa vào đây.
Phu nhân nghe vậy vội gò cương nhìn vào lùm cây rậm kia thì rõ ràng hai vợ chồng người vú con đang bồng công từ. Bà vội xuống ngựa chạy đến bồng con hôn và khóc một hồi.
Vợ chồng người vú hỏi:
- Chẳng hay phu nhân ra trận thắng bại thế nào?
Phu nhân lắc đầu đáp:
- Trời đã giúp cho kẻ địch chiếm cứ thành trì rồi. Ta chắc lão gia và con ta khó toàn mạng được. Bây giờ chưa biết chúng ta phải nên ẩn trú nơi nào?
Nói đến đây phu nhân tủi lòng rơi lụy, than thở cùng vợ chồng người vú trong rừng rậm rất bi thảm.
Trong lúc ấy Hàn Thế Trung còn đang mắc trong vòng vây đánh phá tứ tung mà không sao thoát ra được.
Trong cơn lúng túng, thoạt trông thấy vòng vây địch quân nới lỏng dần, quân vây trở nên thưa thớt. Hàn Thế Trung lấy làm mừng rỡ nhưng nguyên soái có biết đâu Ngột Truật đã cầm chân nguyên soái để tràn vào chiếm cứ ải quan. Trong lúc ấy ải quan đã thất thủ rồi mà Hàn Thế Trung lại mừng rỡ, nỗ lực phá vòng vây tẩu thoát.
Nguyên soái chạy được một quãng xa chợt thấy một viên tướng Phiên đang cố rượt bắt một tên tiểu tướng, Hàn Thế Trung nhìn kỹ thì viên tiểu tướng kia chính là Đại công tử con mình.
Nguyên soái mừng rỡ reo lên:
- Hãy chạy đến đây, có cha đây này.
Công tử cứ việc chạy và la to:
- Cha ôi, tướng Phiên ấy võ nghệ cao cường quá, con đánh không lại hắn.
Hàn nguyên soái vội thúc ngựa chạy đến rồi dồn thần lực chém xuống một dao vang lên tiếng kêu, tưởng đối phương đã phải rụng đầu, ngờ đâu lưỡi đao lại tỏa ra một luồng bạch quang dội ngược lại suýt nữa bị rời khỏi tay.
Nguyên soái Hàn Thế Trung thấy thế thất kinh quất ngựa cùng con chạy dài. Vừa chạy vừa nghĩ:
- "Thế thì thần thánh đã yểm hộ cho tướng Phiên này rồi".
Thật vậy, tướng ấy chính là Kỳ Ốc Ôn Thiết Mộc, ngày sau sinh hạ ra Hốt Tất Liệt danh vang trong hoàn vũ, đánh chiếm gần hết nước Nga, Ba Tư, Ấn Độ, thâu Kim, diệt Tống, đoạt Trung Nguyên, sáng lập nhà Nguyên.
Tướng Phiên ấy bị Hàn nguyên soái chém xuống đầu một dao thình lình, lấy làm kinh khủng nên hắn quay ngựa trở về dinh chứ không rượt theo nữa.
Còn Hàn nguyên soái và công tử hiệp lực giải phá vòng vây chạy thẳng về ải, bỗng thấy trên ải toàn là cờ đề hiệu Kim Phiên bay phất phới. Hai cha con lại thất kinh chạy tuốt vào rừng.
Vừa ngang qua lùm cây rậm chợt nghe có tiếng phu nhân gọi:
- Tướng công, tuớng công, thiếp ở đây này.
Hàn Thế Trung nửa mừng nửa tủi vội xuống ngựa bước tới nắm tay phu nhân mừng rỡ. Công tử cũng lật đật xuống ngựa mừng mẹ. Nguyên soái hỏi:
- Vì cớ gì ải quan bị thất thủ?
Phu nhân đáp:
- Tôi nghe quân chạy về báo rằng tướng công đã tử trận nên quyết ra binh báo thù, ngờ đâu trời xui cho sét đánh họng súng thần công toác làm đôi trên Tam Sơn khẩu, khai đường tại Lưỡng Lang quan nên mới ra nông nỗi này.
Nguyên soái nghe nói thở dài đáp:
- Lòng trời đã vậy thì dù cữong cũng không được.
Phu nhân hỏi:
- Nay quan ải đã thất thủ rồi chúng ta đi đâu bây giờ?
Hàn nguyên soái đáp:
- Chúng ta phải trở về Biện Lương vào yết kiến thánh thượng xem thánh thượng chỉ dạy thế nào.
Thế rồi vợ chồng nguyên soái cùng hai con và hai vợ chồng người vú ra đi nhắm hướng Biện Kinh thẳng tới.
Đi vừa đến sông Hoàng Hà bỗng gặp quan khâm sai đệ thánh chỉ ra. Vợ chồng nguyên soái cùng quì lạy tiếp thánh chỉ. Quan khâm sai giở chiếu ra đọc:
- Hàn Thế Trung thất thủ Lưỡng Lang quan thật đáng tội, song bởi xét công trạng trước đây nên tha khỏi tội chết, phải cất chức trở về làm dân.
Vợ chồng cùng lạy tạ ơn thánh thượng rồi giao hai cái tướng ấn lại cho quan khâm sai, dẫn nhau nhắm hướng Hiệp Tây trở về quê cũ.
Nói về Ngột Truật, khi vào Lưỡong Lang quan an dinh hạ trại xong lập tức kiểm điểm lương thảo cùng khí cụ trong kho lại thấy thiết hỏa xa chẳng biết dùng để làm gì nên vội hỏi quân sư:
- Ai chế ra loại xe này và dùng để làm chi vậy?
Quân sư tâu:
- Những xe ấy là của Hàn Tín từ đời Tây Hán chế ra dùng để vây Sở Bá Vương, nay chúa công lấy được ải này mà không bị nó cản trở thật là hồng phúc của chúa công lớn lắm đấy.
Ngừng một lát quân sư tiếp:
- Nay trời giúp ta lấy được ải này, vậy chúa công hãy thừa thế tiến quân lấy luôn Hà Giang phủ. Được như vậy thì chúng ta chỉ còn qua con sông Hoàng Hà là thẳng đường đến Biện Lương, chẳng còn quan ải nào ngăn cản nữa cả.
Ngột Truật cả mừng cho người ở lại trấn giữ thành Lưỡng Lang rồi truyền lệnh kiểm điểm lương thảo, chỉnh đốn binh mã nhắm Hà Giang rầm rộ kéo đến.
Tướng giữ Hà Giang phủ là tiết đạt sứ Trương Thúc Dạ thình lình nghe quân báo Lưỡng Lang quan đã thất thủ, lại nghe Ngột Truật sắp kéo binh đến trong lòng vô cùng bối rối nghĩ thầm:
- "Mưu lược như Lục Đăng mà giữ không nổi lộ An Châu, tài trí có thừa như vợ chồng Hàn Thế Trung lại thêm có súng thần công, thiết hỏa xa mà vẫn bị thất thủ Lưỡng Lang quan, huống hồ ta đây tài cán bao nhiêu làm sao giữ nổi Hà Giang phủ này?
Nghĩ đoạn triệu tập chư tướng đến bàn bạc, Trương Thúc Dạ nói:
- Quân Phiên quá hùng mạnh và đông ngót năm mươi vạn lại thêm nhiều tướng kiêu dũng như thiên thần, nếu ta cố tình kiên trì cố thủ thành này chắc chắn khác nào lấy trứng chọi đá, đem số binh sĩ ta hy sinh một cách vô ích. Chi bằng hễ ngộ biến thì phải tòng quyền, ta nên tạm đều Kim Phiên để bảo toàn bá tính. Rồi đợi chúng nó kéo quân qua sông Hoàng Hà ta thừa thế chặn chỗ yếu địa phản công kịch liệt, Ngột Truật ắt phải thua. Lúc ấy chúng muốn rút lui lại phải chạy ngang qua đây chứ không còn đường nào khác nữa. Ta sẽ đem quân chặn đánh một trận tơi bời thế nào cũng bắt được Ngột Truật. Vậy chư tướng hãy nghe theo lời ta cắm cờ hàng trên thành cho sẵn, đợi quân Phiên đến đây giả kế quy hàng.
Chư tướng vâng lệnh sắp đặt việc đầu hàng Kim Phiên.
Tướng Trương Thúc Dạ giữ ải này có hai người con trai: đại công tử tên là Trương Lập vóc dáng to lớn, mình cao hơn trượng, mặt vuông tai lớn, nhị công tử tên Trương Dụng thân hình cũng to lớn, mắt đen láy. Cả hai sức mạnh phi thường đều dùng côn sắt làm binh khí.
Hôm ấy hai anh em đang ở trong phòng học tập thấy đã quá giờ ngọ mà không thấy thư đồng mang cơm vào. Trương Dụng nói với anh:
- Tại sao hôm nay cơm nước lại trễ như thế? Lẽ nào tên đầu bếp lại quên chúng ta sao?
Trương Lập đáp:
- Chính anh cũng lấy làm thắc mắc.
Hai anh em đang nói chuyện bỗng thấy thư đồng bưng cơm vào, Trương Lập hỏi:
- Tại sao hôm nay cơm nước lại trễ như vậy?
Trương Dụng xen vào:
- Chắc ngươi mải lo chơi bời nên quên mang cơm cho anh em ta chứ gì? Thật tội ngươi đáng đánh đòn lắm.
Thư đồng thưa:
- Thưa hai cậu, tuy bữa nay trễ mà còn có cơm, sợ vài hôm nữa không có mà ăn mới khổ cho chứ.
Nghe lời nói trái tai Trương Lập mắng:
- Hôm nay ngươi điên rồi sao lại nói bậy quá vậy? Việc gì đến nỗi không có cơm ăn?
Thư đồng thưa:
- Hai cậu mải lo học tập trong phòng làm sao biết được mọi việc xảy ra ở bên ngoài? Tôi cho hai cậu biết, Kim Phiên đã cử đại binh xâm lấn bờ cõi ta. Chúng hạ xong lộ An Châu và Lưỡng Lang quan, nay mai sẽ kéo binh đến đây. Lão gia lấy làm kinh sợ nên bàn với chư tướng lo việc dâng phủ Hà Giang này mà đầu hàng quân giặc. Thiên hạ cả phủ này đều xôn xao hoảng loạn tới lui rộn rịp, không làm chi được nên mới trễ cơm như vậy. Nếu Ngột Truật cho quy hàng thì may phúc cho bá tính bằng không cho quy hàng cử việc đập phá thành trì tàn hại sinh linh thì lúc ấy lấy ai nấu cơm?
Trương Dụng nói:
- Đừng nói bậy. Lẽ nào cha ta lại chịu nhục đi đầu hàng quân giặc sao?
Thư đồng đáp:
- Nếu cậu không tin thì cứ việc ra ngoài hỏi thử thì biết. Việc ai ai đều biết cả chỉ có hai cậu là không.
Dứt lời thư đồng từ tạ lui ra, đại công tử rất buồn bã nói với em:
- Cha chúng ta có công lớn với triều đình, có lẽ nào hôm nay lại hành động bất trung như thế sao?
Nhị công tử Trương Dụng nói:
- Anh em ta cứ việc ăn cơm no rồi ra hỏi mẹ ta xem có đúng vậy không? Nếu đúng vậy chúng ta đừng nói chi cả, cứ giả đò xin ra ngoài có việc. Lúc ra đi ta nhớ mang theo bạc vàng để tuỳ thân. Anh em ta sẽ chặn tên tướng Phiên Ngột Truật đánh cho một trận, nếu thắng được thì chẳng nói làm chi bằng thua thì bỏ chạy sang xứ khác, ở đây làm gì cho mang nhục.
Trương Lập gật đầu đáp:
- Em tính như vậy thật hợp với ý anh.
Cơm nước xong hai anh em lật đật chạy đến trung đường chào mẹ và hỏi:
- Thưa mẹ vì sao cha chúng con lại chịu làm kẻ gian thần thính đi đầu hàng giặc phiên như vậy?
Trương phu nhân đáp:
- Chúng con thơ ngây làm sao biết được việc đại sự của nước nhà? Cha chúng con có đủ toàn quyền định đoạt, dù dạy thế nào mẹ cũng nghe theo.
Hai anh em cùng thưa:
- Xin mẹ hãy vui lòng cho chúng con vài trăm lượng bạc.
Phu nhân hỏi:
- Lúc này đang lộn xộn , thiên hạ không yên, các con xin bạc làm gì?
- Thưa mẹ chúng con tính mua sách và vài món đồ chi dụng cho sớm, kẻo quân Phiên kéo vào thành rồi không thể đi mua được.
Phu nhân nghe nói có lý vội vào lấy ba trăm lượng bạc trao cho con.
Hai anh em tạ ơn rồi đem chia đôi số bạc, đoạn trở về phòng nai nịt khôi giáp chỉnh tề, tay cầm côn sắt lén ra phía sau vườn nhảy qua bờ tường trốn đi mất.
Đi được ba mươi dặm, bỗng thấy đằng xa có uân Phiên kéo đi rầm rộ.
Hai anh em bước qua bên mé núi, leo tuốt lên đỉnh đứng xem thế giặc. Thấy quân Phiên tiến quân cuồn cuộn như nước chảy, lô nhô lúc nhúc tràn đồng nội, Trương Dụng nói với anh:
- Chúng ta thừa cơ địch bất ngờ không đề phòng xông xuống đánh chơi một chặp cho thỏa chí.
Hai anh em chờ cho quân Phiên đến sát, chạy bổ xuống vung côn sắt đánh như sấm sét, làm cho đứa thì bể đầu phọt óc, đứa què tay gãy chân. Càng đánh hai anh em càng hăng máu không một sức nào kháng cự nổi. Quân Phiên hoảng loạn chạy lùi lại báo với Ngột Truật.
Ngột Truật nghe báo liền truyền lệnh quân sĩ cố bao vây bắt sống cho kỳ được.
Quân Phiên lập tức bua vây tứ phía. Hai anh em họ Trương nỗ lực mang hết sức bình sinh đánh phá quyết liệt mãi đến trời tối lúc nào không hay biết.
Bỗng Trương Lập ngoái lại kiếm em thì chẳng thấy đâu hế, nghĩ thầm:
- "Thôi để ta đánh tháo chạy ra cho xong kẻo trời đã tối rồi".
Nghĩ vậy chàng ra sức đánh thủng một phía, cố mở đường thoát ra.
Bấy giờ trời đã tối mà quân Phiện chưa kịp nổi đèn đuốc nên hàng ngũ có phần lộn xộn. Trương Lập thừa cơ phá được vòng vây chạy thoát.
(Vì vậy hai anh em chạy lạc mỗi người một nơi, mãi đến sau này khi Nhạc Phi ba phen thu phục Hà Nguyên Khánh, anh em mới gặp lại nhau)
Binh Phiên bị anh em Trương Lập phá rối nên phải đình trệ. Bây giờ trời đã tối Ngột Truật đành phải truyền quân an dinh hạ trại, đợi sáng ngày sẽ tiến binh.
Hôm sau Ngột Truật đốc thúc binh sĩ thẳng đến bên thành, bỗng thấy một tướng quỳ cách thành chừng vài trăm dặm, trong tay có cầm cây cờ hàng, sau lưng có vài tên bộ hạ không cầm binh khí chi cả.
Quân Phiên tiếp tục kéo đến thì người ấy cúi đầu sát đất và nói:
- Hà Giang Phủ tiết đạt sứ Trương Thúc Dạ là tôi, đợi xin đầu hàng và nghênh tiếp chúa công nhập thành.
Quân Phiên thấy thế vội dừng bước, chạy trở lại báo cho Ngột Truật hay.
Ngột Truật vỗ ngựa chạy đến trước xem thì quả thấy người ấy còn đang quỳ mọp, đầu cúi xuống sát đất.
Ngột Truật vẫn ngồi yên trên ngựa quay qua hỏi quân sư:
- Tôi nghe Trương Thúc Dạ vốn là một trung thần phải không?
Hấp Mê Xi đáp:
- Cũng có thể lắm nhưng nếu quả hắn là trung thần thì chúng ta sẽ biệt đãi, để tôi hỏi hắn vài câu xem thế nào?
Hấp Mê Xi lên tiếng hỏi:
- Ngươi có phải là Trương Thúc Dạ không?
- Vâng chính là hạ thần đây.
Hấp Mê Xi cười khẩy:
- Lâu nay ta có nghe danh ngươi là bậc trung thần nghĩa sĩ, sao nay ngươi lại làm theo lối gian manh đi đầu hàng địch quân vậy? Hay là ngươi trá hàng?
Trương Thúc Dạ vẫn quỳ mọp thưa:
- Muôn tâu chúa công, tôi đâu có dám cả gan làm điều ấy? Song chỉ vì trong Tống triều lũ gian nịnh đã chuyên quyền, manh tâm sát hại kẻ tôi trung nên tôi chẳng biết trông cậy vào đâu nữa. Nay lộ An Châu và Lưỡng Lang quan là những nơi hiểm yếu còn bị thất thủ huống hồ thành này cũng không chắc chắn gì, binh tướng của tôi lại ít ỏi đánh sao cho lại? Nếu miễn cưỡng chống trả ắ tàn hại sinh linh nên tôi quyết định ra quy hàng để cứu sinh linh khỏi vòng binh lửa chứ không mong quan tước chi cả, mong chúa công thẩm xét và mở lượng bao dung.
Ngột Truật nghe thế cả mừng nói:
- Thế thì tướng công là kẻ trung thần song đã thấu lòng trời và biết thương xót sinh linh nên mới chịu quy hàng, quả thật tướng quân là người nhân đức vậy. Bây giờ ta phong cho tướng quân chức Lỗ Vương để trấn thủ thành này. Chỉ vì ta muốn bá tính nơi Hà Giang phủ được bình yên nên ta chẳng cần vào thành làm gì. Ta sẽ dẫn binh đi vòng ngoài thành để tiến quân đến Biện Kinh, nếu binh sĩ ta có kẻ nào lén vào thành phá phách ta cho phép tướng quân chém đầu làm lệnh.
Trương Thúc Dạ nghe mấy lời khoan nhân của Ngột Truật lấy làm mừng rỡ vội giập đầu xuống đất lạy đôi ba phen mới trở về thành. Đoạn hối thúc quân sĩ mang rất nhiều rượu thịt đến dinh Phiên khao thưởng binh sĩ.
Quân Phiên ăn uống no say rồi, vâng lệnh chúa soái đi vòng qua thành thẳng đến bờ sông Hoàng Hà, lựa một chỗ đất trống rộng an dinh hạ trại.
Dinh trại quân Phiên liên tiếp kéo dài theo bờ sông, hàng ngũ nghiêm chỉnh kỷ luật đường hoàng khiến bá tính phủ Hà Giang bình yên như chẳng có giặc vậy. Binh sĩ Phiên chẳng có tên nào dám bén mảng đến thành.
Dinh trại quân Phiên sắp đặt xong liền lo đóng thuyền bè để vượt qua sông.
Quan địa phương nơi ấy phi ngựa đi ngày đêm về Biện Lương cấp báo. Khi đến Biện Lương thì gặp buổi lâm triều.
Quan địa phương vào trước điện Kim giai tâu:
- Muôn tâu thánh thượng, Kim Phiên Ngột Truật kéo binh năm mươi vạn đến đóng bên bờ sông Hoàng Hà, cúi xin Thánh thượng điều binh khiển tướng lập tức đẩy lui quân giặc kẻo nhân dân đang vô cùng khiếp đảm.
Vua Khâm Tông nghe tin ấy lấy làm kinh hãi phán hỏi bá quan:
- Binh thế của Ngột Truật quá hùng cường, chẳng hay chư khanh có kế chi đánh lui được quân giặc không?
Trương Bang Xương vội quỳ tâu:
- Muôn tâu bệ hạ, vợ chồng Lục Đăng thất thủ lộ An Châu đã tử tiết, vợ chồng Hàn Thế Trung đã bỏ ải Lưỡng Lang chạy trốn còn Trương Thúc Dạ thì dâng Hà Giang phủ đầu hàng, tất cả cũng chỉ cản trở bước tiến của quân giặc đôi chút mà thôi. Đến khi Ngột Truật vượt khỏi sông rồi thì thành Biện Lương này nhất định sẽ vào tay hắn.
- Trong cơn nguy cấp này tôi xét các quan văn võ không ai đủ tài ba cho bằng Lý Can, Tông Trạch. Nếu thánh thượng muốn sớm trừ giặc Kim Phiên thì phải phong Lý Can làm đại nguyên soái, Tông Trạch làm tiên phong, phát cho năm vạn quân ra Hoàng Hà phá giặc ắt là xong.
Vua Khâm Tôn y tấu lập tức hạ chỉ phong Lý Can làm Bính Bắc đại nguyên soái, Tông Trạch làm tiên phong thống lãnh binh nhung đi dẹp giặc.
Hai người tạ ơn rồi lãnh chỉ lui ra.
Lý Can vốn là một quan văn nhưng nhờ tài bác học túctrí đa mưu nên làm được đến chức Gián nghị. Nếu dùng văn chương thì giỏi thật song qua việc võ điều binh khiển tướng thì thật chưa từng. Nay bọn Kim Phiên binh hùng tướng mạnh đã xâm nhập vào địa phận chỉ còn cách có con sông Hoàng Hà mà loài gian nịnh tâu vua cho Lý Can ra điều binh khiển tướng, đủ thấy gian thần xem sơn hà xã tắc có ra chi? Miễn chúng hại được người trung là hả dạ. Thế mà vua cũng nhắm mắt nghe theo.
Lý Can về đến phủ vào hậu đường, giã biệt phu nhân để sửa soạn lên đường, bỗng thấy một hảo hán đang đứng dưới thềm ngó lên, tướng mạo cao lớn vạm vỡ khác thường. Lý Can vội hỏi:
- Ngươi tên họ là chi?
Người ấy đáp:
- Bẩm lão gia tôi là Trương Bảo.
Lý Can lại hỏi:
- Lâu nay ngươi ở đâu, làm nghề gì?
Trương Bảo đáp:
- Lâu nay tôi ra hải ngoại chuyên nghề buôn bán.
- Ngươi tự xét ngươi có tài cán gì không?
Trương Bảo đáp không nghĩ:
- Tôi có thể vác năm sáu trăm cân chạy cả ngày không biết mệt.
Phu nhân nghe vậy đề nghị:
- Tướng công nên đem nó theo làm kẻ hầu hạ tâm phúc thì tốt lắm.
Lý Can nghe lời cho Trương Bảo sửa soạn đi theo.
Sáng hôm sau Tông Trạch đến rất sớm mời chủ soái ra giáo trường để lo việc khiển binh. Lý Can vội vã ra tận ngoài thềm nghênh tiếp Tông Trạch vào trong đãi đằng trà nước rồi nói:
- Thưa ngài xin ngài xét thử xem có phải là gian thần nó quyết làm hại tôi không. Tôi đây là quan văn biết gì đến việc điều binh khiển tướng thế mà nó bảo tấu cho ra cầm quân đánh giặc. Tôi chỉ còn cách trông mong nơi ngài và xin gửi cả tính mệnh cho ngài, nếu ngài thể tình tôi lấy làm đội ơn.
Tông Trạch thưa:
- Nguyên soái chớ lo điều ấy, trời nào lại bỏ người ngay đâu mà nguyên soái sợ.
Hai người chuyện vấn hồi lâu rồi lên ngựa ra ngoài giáo trường kiểm điểm binh mã, phát pháp, làm lệnh nhắm sông Hoàng Hà tiến quân.
Để ngăn ngừa giặc, nguyên soái truyền cho quân sĩ kéo hết thuyền ở dưới sông lên bờ rồi bài binh bố trận theo dọc tuyến sông. Sắp đặt đâu đó an bài, Tông Trạch liền sai người tâm phúc mang một bức thư chạy thẳng đến Thang Âm huyện, triệu thỉnh mấy anh em Nhạc Phi đến. Trong thư Tông Trạch tha thiết mời anh em Nhạc Phi hãy đem tài sức ra cứu nước.Mấy ngày sau tên gia nhân mang thư trở về bẩm với Tông Trạch.
- Con đi suốt ngày đêm không nghỉ nhưng khi đến Thang Âm huyện trao thư thì được biết Nhạc Phi đang cơn bệnh nặng, anh em xúm xít bên giường săn sóc thuốc men chẳng ai chịu xa Nhạc Phi nên cùng từ chối cả, bất đắc dĩ con phải về đây phục lệnh.
Tông Trạch nghe qua than vắn thở dài hồi lâu và nói:
- Sao Nhạc Phi lâm bệnh trong lúc này? Thế thì trời kia muốn dứt nhà Tống rồi.
Khi Ngột Truật kéo quân đến sông Hoàng Hà an dinh hạ trại xong bèn phi ngựa chạy men theo mé sông để xem địa thế.
Ngột Truật thấy nước sông chảy quá mạnh không thể nào đưa quân qua sông được, cần phải đóng thuyền bè gấp mới có thể tiến quân như ý muốn.
Nghĩ rồi Ngột Truật trở về dinh cho đòi hai nguyên soái là Ô Quốc Long và Ô Quốc Hổ đến bảo:
- Hai ngươi phải lập tức truyền lệnh cho quân sĩ mang tiền qua phủ Hà Giang mua gỗ ván và mọi vật liệu về thuê thợ mộc đến đóng thuyền cho thật nhiều để đưa quân sĩ qua sông, sớm ngày nào hay ngày nấy.
Còn bên dinh Tống hàng ngày Lý Can đều cho binh sĩ đi do thám tình hình bên dinh Phiên xem địch quân động tĩnh thế nào để kịp thời ứng phó. Lý Can được tin quân Phiên canh phòng rất nghiêm ngặt nên sộ quân Phiên dùng thuyền nhỏ sang do thám bèn sai Trương Bảo lãnh vài mươi chiếc thuyền nhỏ chèo dọc theo ven sông để tuần phòng.
Trương Bão tuần tiễu ven sông Hoàng Hà vẫn nghe nói binh Phiên đông lắm, có đến năm sáu mươi vạn nhưng trong lòng nghi hoặc không tin, ngặt vì cứ đi lại bên này sông không thấy tận mắt, Trương Bảo nghĩ thầm:
- Để bữa nào ta lén qua sông đột nhập vào dinh Phiên xem có phải binh lính của chúng đông đảo như lời người ta đồn đại không?
Rồi một hôm trời tối ngửa bàn tay không thấy Trương Bảo dẫn mười mấy đứa thủy thủ xuống một chiếc thuyền con bí mật vượt sông.
Qua đến bờ bên kia Trương Bảo tìm chỗ cây rậm rạp giấu thuyền vào đó rồi nhẹ nhàng nhảy phóc lên bờ.
Thường thường Trương Bảo chỉ dắt trong lưng một cây đoản đao, hôm nay chàng lại xách theo một cây côn sắt to tướng, men theo bờ sông thẳng đến dinh quân Phiên.
Đến nơi vào khoảng canh năm, quân Phiên đang ngủ mê man. Trương Bảo rón rén đến gần nắm cổ một đứa, bụm miệng, cặp nách chạy dông đến chỗ rừng rậm mới vứt xuống để hỏi tin tức. Ngờ đâu sức Trương Bảo quá mạnh, chỉ kẹp sơ một chút mà tên lính Phiên ấy hộc máu chết tự lúc nào rồi!
Trương Bảo lấy làm tức giận, vội chạy trở lại bắt một đứa khác. Tên này bị chộp thình lình hoảng vía toan la lên nhưng chợt thấy đoản đao đã kề bên cổ, hắn cứng lưỡi lại toàn thân run lẩy bẩy.
Trương Bảo khẽ nói:
- Mi hãy đi cùng ta ra ngoài kia ta hỏi chút việc, bằng la lên ta giết chết ngay.
Dứt lời Trương Bảo ôm ngang eo tên lính chạy thẳng ra bên rừng vắng vẻ để xuống hỏi:
- Mi hãy cho ta biết trong dinh quân Phiên có bao nhiêu binh mã?
Tên lính Phiên đáp:
- Thưa lão gia, nghe nói độ năm sáu chục vạn.
Trương Bảo lại hỏi:
- Dinh Ngột Truật ở phía nào?
- Thưa lão gia, chúa công tôi an dinh cách đây hơn ba mươi dặm.
- Chỗ mi ở đó là dinh của ai?
- Thưa đó là dinh của một tướng tiên phong tên Hắc Phong Cao.
- Còn dinh của ai ở kế bên?
- Thưa đó là dinh của hai nguyên soái Ô Quốc Long và Ô Quốc Hổ. Hai người này vâng lệnh chúa công đến đó đốc thúc thợ mộc đóng thuyền cho chóng.
Thế là Trương Bảo biết cả những điều muốn biết nên cười gằn nói:
- Ta cám ơn ngươi.
Dứt lời Trương Bảo giáng cho hắn một côn trúng ngay đỉnh đầu bể não chết tươi.
Trương Bảo vung côn sắt chạy xông vào dinh Hắc Phong Cao la hét om sòm, vung côn đánh đập tơi bời khiến quân Phiên đang ngủ không biết đầu đuôi ra sao cả, vừa bàng hoàng đứng dậy đã bị đoản côn vụt chết ngay.
Quân Phiên hoảng hốt bỏ chạy ra ngoài hết. Trương Bảo rút đoản đao cắt một số đầu quân Phiên cột xung quanh mình rồi chạy thẳng đến mấy trại đóng thuyền gần đó.
Đến đây Trương Bảo thấy thầy thợ đông đảo, kẻ nấu cơm người nấu nước lăng xăng ăn uống để khởi công cho sớm. Chàng nhảy bổ vào, đoàn thợ hoảng kinh đạp nhào trên lò bếp chạy bán sống bán chết. Đứa nhanh chân thoát khỏi, đứa quýnh cẳng phải bỏ mạng.
Trương Bảo đánh giết một số thầy thợ, còn bao nhiêu chạy trốn hết. Sẵn có lửa trong bếp chàng nổi lửa đốt hết mấy trại đóng thuyền, ngọn lửa bốc lên cao đỏ rực một vòm trời. Bấy giờ Trương Bảo mới chịu chạy đến chỗ giấu thuyền hối thúc quân lính chèo nhanh sang bên kia sông.
Tướng tiên phong Hắc Phong Cao đang ngon giấc trong trướng bỗng nghe quân sĩ cấp báo, bèn giật mình chỗi dậy nai nịt chỉnh tề cầm binh khí xông ra. Nhưng chẳng thấy giặc đâu cả chỉ thấy quân mình nhớn nhác và một số tử thi nằm ngổn ngang dưới đất.
Hắc Phong Cao giận lắm nhưng không biết làm sao, phải truyền lệnh đem chôn các tử thi ấy.
Nguyên soái Ô Quốc Long và Ô Quốc Hổ vẫn còn đang mê man trong giấc nồng, bỗng nghe quân canh trại đóng thuyền chạy vào phi báo:
- Bẩm soái gia, có một thằng Nam man rất hung tợn, nửa đêm xông vào trại đánh chết thợ mộc rất nhiều, lại phóng hỏa đốt mấy trại đóng thuyền cháy rụi rả rồi, lại nghe nói hắn cũng xông vào dinh tiên phong giết rất nhiều quân sĩ, cắt lấy một mớ thủ cấp cột vào lưng dông xuống thuyền chạy qua sông rồi!
Hai tên nguyên soái Long, Hổ vừa nai nịt binh khí vừa hỏi tên quân báo:
- Hắn dẫn quân theo nhiều hay ít? Hắn đi được bao lâu rồi?
Tên quân bẩm:
- Bẩm soái gia, nó qua chỉ có một mình, nó cũng vừa xuống thuyền sang sông chưa lâu lắm đâu.
Ô Quốc Long và Ô Quốc Hổ vội điểm quân kỵ mã chạy bay đến mé sông Hoàng Hà nhưng chẳng thấy tăm hơi gì cả, trời còn tối chỉ thấy sương tỏa mịt mờ, nước chảy như cắt. Hai Phiên soái đứng nhìn ngơ ngác, trong lòng căm giận sục sôi lên nhưng không biết làm sao phải dằn lòng trở về dinh.
Sáng sớm hai tướng Phiên chạy đến chỗ Ngột Truật báo lại những điều xảy ra trong đêm hôm. Ngột Truật lập tức truyền quân sĩ cất lại trại, một mặt sai người qua phủ Hà Giang mộ thêm thợ mộc, mua gỗ ván đem về đóng thuyền gấp.
Trương Bảo làm náo loạn quân Phiên trong đêm hôm nên rất khoái chí. Sáng sớm chàng đem thủ cấp quân Phiên đến báo công với nguyên soái Lý Can.
Lý Can trông thấy giật nẩy người, nạt lớn:
- Sao ngươi dám cả gan trái quân lệnh, một mình qua sông mạo hiểm như vậy? Rủi sơ sẩy bị bắt, ngươi chết đã uổng mạng mà lại mất oai khí của quân ta nữa. Ấy chính là tội vi phạm quân lệnh chớ không phải công cán chi đâu. Nếu lần sau để xảy ra chuyện tương tự ta sẽ không dung đấy.
Trương Bảo cúi đầu làm thinh rồi đi ra ngoài nói lẩm bẩm:
- Không công cán cũng được miễn là giết lũ Phiên nô một đêm cũng đủ sướng tay rồi. Thôi bây giờ lo đi làm nhiệm vụ tuần thủ sông Hoàng Hà.
Thời gian trôi qua, nếu chẳng có việc chi khác thường xảy đến thì với tài phòng thủ của Lý Can và Tông Trạch tại bờ sông Hoàng Hà, Ngột Truật không thể nào đưa quân qua sông nổi. Nhưng lòng trời đã định cho giang san nhà Tống phải nghiêng ngửa, sinh linh Trung Nguyên phải chịu một phen binh lửa, khốn khổ tiêu điều nên trong lúc xuân sang mà gió bấc đột nhiên thổi lên cuồn cuộn suốt ngày đêm không ngớt, lạnh lẽo thấu xương.
Quân Phiên là dân miền Bắc nên quen khí lạnh, thế mà đã mặc khôi giáp bằng lông cừu còn run rẩy huống hồ quân Trung Nguyên sống trong xứ ôn đới nay lại gặp phải thời tiết lạnh lẽo lạ thường như vậy làm sao chịu nổi? Vì vậy quân Trung Nguyên bị nứt da, chết cóng rất nhiều.
Suốt ngày đêm gió bấc vẫn thổi vi vu, mưa phùn lắc rắc mây che vần vũ,lạnh đến teo gan héo ruột làm cho nước sông Hoàng Hà đóng băng lại dày trên hai thước.
Ngột Truật ngồi trong ngưu bì trướng thấy khí trời lạnh lẽo khác thường, ước chừng lạnh hơn giữa mùa đông bên Phiên quốc bèn hỏi quân sư:
- Nghe nói khí trời Trung Nguyên ôn hòa lắm, sao nay lại lạnh dữ vậy?
Quân sư Hấp Mê Xi nói:
- Lẽ thường thì phía bắc lạnh lẽo, phía nam ấm áp, hơn nữa từ khi tôi được biết đến giờ chưa từng nghe Trung Nguyên lạnh dữ như thế này. Hay là trời giúp cho chúa côgng đây cũng nên.
Ngột Truật nghe nói lấy làm lạ:
- Trời lạnh thấu xương tại sao quân sư lại bảo là trời giúp? Hấp Mê Xi nói:
- Trong lúc này trời lạnh chừng nào thì tốt chừng ấy. Tôi đã từng xem sử Trung Nguyên có đoạn chép về sự tích Quách Ngạn Oai dấy binh muốn thâu đoạt thiên hạ của Lưu Trí Viên. Khi đại binh kéo đến sông Hoàng Hà không thể qua sông được đột nhiên khí trời lạnh lẽo một cách lạ thường đến nỗi nước sông đóng băng lại. Quách Ngạn Oai nhờ đó xua binh qua sông đánh lấy kinh thành. Biết đâu hôm nay lòng trời chẳng giúp chúa công? Xin chúa công hãy sai quân thăm dò nước sông xem thử thế nào, nếu quả nước đã đóng băng thì phải lập tức xua quân qua, được như vậy thì lấy Biện Lương dễ như trở bàn tay.
Ngột Truật nghe nói lập tức sai quân cưỡi ngựa chạy thẳng ra sông xem thì chỉ một khắc sau quân về báo là nước đã đặc cứng rồi.
Ngột Truật cả mừng vội hạ lệnh cho tướng sĩ lập tức đạp băng vượt qua sông Hoàng Hà, nếu ai trễ nải thì chém đầu.
Năm mươi vạn quân Phiên, tướng nào binh nấy rầm rộ ké nhau vượt sông rất dễ dàng. Lúc ấy quân Tống đang lạnh cóng run lẩy bẩy xúm xít cho ấm, bỗng thấy quân Phiên kéo đến đông như kiến thì kinh hồn hoảng vía, mạnh ai nấy chạy.
Trương Bảo thấy vậy xông vào dinh kề vai cõng Lý Can chạy như bay nhắm Biện Lương thẳng tiến, còn Tông Trạch thấy quân mình đã rã rời nên cũng bỏ dinh chạy thẳng về Biện Kinh.
Dọc đường Tông Trạch gặp Trương Bảo đang cõng Lý Can bèn hợp đoàn cùng về triều bảo tấu.
Ngờ đâu trong lúc lộn xộn, có kẻ đã phi ngựa thẳng về Biện Lương cấp báo rồi, nên khi Lý Can và Tông Trạch mới về đến ngoài thành đã thấy khâm sai đệ chiếu chỉ ra tuyên bố:
- Lý Can và Tông Trạch bỏ Hoàng Hà mà chạy giặc, tội đáng chết, song vì nghĩ công bảo giá nên chỉ cách chức cho trở về quê làm dân, các ấn triện phải nạp cho khâm sai đem về triều phục chỉ.
Hai người cúi đầu lạy tạ thánh chỉ rồi giao ấn triện cho khâm sai đem về triều.
Tông Trạch nói với Lý Can:
- Dầu sao cũng là ơn sâu của thiên tử.
Lý Can cắt ngang nói:
- Ơn huệ gì mà bảo rằng sâu với nông? Ấy chẳng qua là quỷ kế của bọn gian thần, quyết chặt bớt vây cánh của nhà vua. Hôm nay chúng ta nỡ lòng nào ở lại chốn Biện Lương này để chứng kiến cái cảnh bán nước cầu vinh của chúng, nỡ lòng nào nhìn giang san gấm vóc này lọt vào tay rợ Phiên? Thôi chúng ta hãy về quê cho chóng để khỏi chướng tai gai mắt.
Tông Trạch đáp:
- Lời ngài nói chí lý lắm.
Rồi Tông Trạch sai công tử Tông Phương vào thành đem hết gia quyến trở về quê. Lý Can cũng sai Trương Bảo vào thành đem gia quyến ra.
Tông Trạch và Lý Can chia tay rồi ai nấy trở về cố hương.
Lúc ấy vua Khâm Tông nghe tin quân Phiên kéo gần đến thành Biện Lương bèn hạ chỉ cho chư tướng cố thủ thành trì chờ cho kẻ hào kiệt bốn phương dấy binh cần vương đánh lui giặc.
Khi ấy Ngột Truật xua binh qua khỏi sông Hoàng Hà chém giết quân Tống không chừa một tên, thây nằm chật đất, máu chảy thành sông.
Đến lúc quân nhà Tống bị đánh tan tác thì gió bấc cũng vừa im bặt, bầu trời quang đãng như thường, nước sông Hoàng Hà lại chảy cuồn cuộn như xưa. Thật quả nhiên là trời giúp Ngột Truật vậy.
Ngột Truật quay nhìn sang bên kia sông thấy còn mấy đạo quân chưa kịp qua sông, liền sai lấy hết thuyền bè sang chở qua hết. Đoạn truyền lệnh cho Mã Đề Đốc, nguyên soái Hắc Phong Cao lãnh năm ngàn binh đi tiên phong, nguyên soái Ô Quốc Long và Ô Quốc Hổ cũng lãnh năm ngàn quân kéo xốc tới Biện Kinh, cách thành chừng hai mươi dặm mới an dinh hạ trại.
Quân thám tử thấy thế chạy về phi báo, vua Khâm Tông liền triệu hết văn võ bá quan phán hỏi:
- Nay binh Ngột Truật đã qua khỏi Hoàng Hà kéo đến kinh thành, các khanh có cach gì làm cho chúng lui binh?
Trương Bang Xương quỳ tâu:
- Hạ thần đã truyền hịch khắp các nẻo cần vương để mang binh đến đánh với Ngột Truật, chẳng ngờ Lý Can bất tài để cho Ngột Truật qua sông quá gấp. Bây giờ chúng đã đến kinh thành rồi xin chúa thượng phải sắm lễ vật cho nhiều để cầu hòa. Chờ cho chúng rút binh qua khỏi Hoàng Hà, chúa thượng sẽ điều động binh mã các nẻo về chận đánh cho một trận tơi bời. Chúa thượng sẽ khôi phục lại Trung Nguyên chẳng khó chi.
Khâm Tông nói:
- Từ xưa đến nay đã có ông vua nào cầu hòa như vậy không?
Bang Xương đáp:
- Ngày xưa Hán gả Chiêu Quân, Đường dâng công chúa, nay chẳng qua bệ hạ chỉ ngộ biến tòng quyền, cứu cấp cho qua thời gian ngắn thế thôi. Vậy bệ hạ hãy nghe theo hạ thần dâng cho chúng vàng ròng một xe, gấm vóc ngàn cây, mỹ nữ năm chục ả, ca đồng năm chục đứa, trâu, heo, dê, rượu các loại đừng thiếu sót. Nhưng ngặt một nỗi chẳng biết có vị trung thần nào chịu đi cầu hòa cho bệ hạ không?
Khâm Tông vội nhìn hai bên văn võ bá quan hỏi:
- Có ai dám mang lễ vật sang dinh Phiên không?
Vua hỏi luôn mấy lần vẫn không thấy ai lên tiếng, Trương Bang Xương lại tâu:
- Hạ thần tuy bất tài song cũng xin đi thử một phen xem sao.
Khâm Tông mừng rỡ nói:
- Thái sư đã hết lòng với triều đình thật xứng đáng bậc trung thần.
Nói rồi truyền chỉ sắm lễ vật giao cho Trương Bang Xương.
Trương Bang Xương mang lễ vật đến dinh Phiên quân, thấy lính vào báo, nguyên soái Hắc Phong Cao vội truyền lệnh cho vào.
Sau khi Trương Bang Xương giập đầu bái kiến, Hắc nguyên soái hỏi:
- Tên Nam man kia, có phải hoàng đế của ngươi sai ngươi đến đây dâng lễ vật không?
Truơng Bang Xương đáp:
- Vâng chính chúa thượng sai tôi mang lễ vật sang đây để cống hiến, vậy xin nguyên soái cho tôi được ra mắt chúa công để dâng nạp.
Hắc nguyên soái nghe nói vùng nạt lớn:
- Hãy đem hắn ra chém quách cho ta.
Kẻ tả hữu vâng lệnh áp tới, Trương Bang Xương năn nỉ:
- Xin nguyên soái bớt cơn nóng giận để tôi dâng nạp ngay.
Nói rồi mang tờ ghi lễ vật hai tay dâng lên cho Hắc nguyên soái.
Hắc nguyên soái xem xong đổi giận làm vui nói:
- Trương Bang Xương, ngươi hãy bình thân, giao lễ vật lại đây cho ta về đi để ta tâu giùm lại với chúa công ta cho.
Trương Bang Xương lại nói:
- Tôi còn một việc cần bẩm với chúa công.
- Có việc gì ngươi cứ nói ra, ta sẽ tâu giùm cho ngươi cũng được.
Bang Xương trịnh trọng nói:
- Xin nguyên soái tâu cho chúa công biết rằng có tôi là Trương Bang Xương đến đây để dâng giang san nhà Tống cho người, trước tiên tôi làm cho hao tài tốn của nhà Tống trước đã.
Hắc nguyên soái cười ha hả nói:
- Ồ tưởng việc gì chứ việc ấy ta biết cả rồi, ngươi hãy về đi để ta tâu lại với chúa công ta cho.
Trương Bang Xương từ tạ ra khỏi dinh Phiên đi thẳng về triều phục chỉ.
Nói về Hắc Phong Cao xem thấy lễ vật rất nhiều lại thêm mỹ nữ ca đồng, vàng ròng gấm vóc, động lòng tham nghĩ rằng:
- Ta giúp Ngột Truật thâu đoạt giang san nhà Tống, công ấy to lớn biết bao nhiêu, nay ta có lấy của hắn bấy nhiêu lễ vật cũng chưa đáng công.
Nói rồi thu hết lễ vật, truyền tướng sĩ nhổ trại kéo rốc qua phía Tây Sơn trở về nước.
Quân sĩ phi báo cho Ngột Truật hay, Ngột Truật nghĩ thầm:
- "H8ác Phong Cao theo ta thâu đoạt Trung Nguyên, chỉ nay mai này là chiếm đoạt thiên hạ của nhà Tống, ta sẽ hậu thưởng cho y xứng đáng. Hôm nay chẳng biết duyên cớ gì y lại bỏ về như vậy?".
Nghĩ xong liền truyền lệnh cho binh mã tiến thêm trăm dặm nữa mới hạ trại.
Quân Tống vội chạy vào triều phi báo:
- Nay quân Phiên chẳng biết vì sao đã áp gần chỉ cách thành độ năm dặm nữa, hay là chúng muốn công thành chăng?
Khâm Tông nghe báo kinh hãi hỏi Trương Bang Xương:
- Hôm qua đã đem lễ vật cầu hòa, tại sao hôm nay địch quân lại xáp tới thành ta làm chi vậy?
Trương Bang Xương nói:
- Hạ thần thiết tưởng tướng Phiên quá đông mà lễ vật ta quá ít nên chúng chia nhau không đủ, thành thử chưa chịu hòa đó. Vậy xin bệ hạ hãy dâng thêm lễ vật nữa thì chúng sẽ lui khỏi Hoàng Hà.
Khâm Tông không biết làm sao đành phải sắm sửa lễ vật như trước rồi sai Trương Bang Xương đi một lần nữa.
Tên gian thần ấy lãnh lễ vật lui ra khỏi ngọ môn liền đi thẳng sang dinh quân Phiên.
Quân Phiên vào phi báo, Ô Quốc Long nguyên soái lập tức cho vào. Trương Bang Xương quỳ mọp dưới đất thưa:
- Hôm nay tôi đến xin dâng lễ vật lên chúa công, đồng thời có việc cơ mật muốn tâu với người.
Ô Quốc Long và Ô Quốc Hổ xem qua lễ vật rồi bảo:
- Ta chẳng phải là chúa công. Hôm trước những lễ vật ngươi đem đến, Hắc nguyên soái đã thu hết và đi về nước rồi, nguyên soái ấy có dâng một tí gì cho chúa công đâu? Nay những lễ vật này chúng ta sẽ dâng giùm cho ngươi, ngươi hãy về thành mà đợi tin lành.
Trương Bang xương vui vẻ lạy tạ về triều phục chỉ.
Trương Bang Xương ra khỏi dinh, Ô Quốc Long và Ô Quốc Hổ bàn nhau. Ô Quốc Long nói:
- Hèn chi Hắc nguyên soái về nước cũng phải, bọn ta từ ngày dấy binh đến nay công lao không ít. Nay những lễ vật này có thu riêng cũng xứng đáng. Vậy chúng ta cũng thu hết rồi về nước cho sớm.
Ô Quốc Hổ nói:
- Tính như vậy thì gọn biết bao nhiêu.
Rồi truyền lệnh ba quân nhổ trại kéo vòng sang phía đông đi thẳng về đại Kim quốc.
Quân sĩ chạy vào báo với Ngột Truật:
- Không biết vì lý do gì hai ông nguyên soái họ Ô nhổ trại đi về hết rồi.
Ngột Truật cau mày:
- Lạ thật! Thôi để ta tự thân kéo binh đến tra xét xem sao?
Quân Tống lại hớt hải chạy vào triều phi báo:
- Bây giờ quân của Ngột Truật lại xông đến sát thành đóng trại.
Vua Khâm Tông lại hỏi Trương Bang Xương:
- Nay chúng nó còn đến nữa là sao vậy?
Trương Bang Xương tâu:
- Thần đến dâng lễ hai phen, nhưng chưa hề giáp mặt Ngột Truật. Vậy nay bệ hạ phải sắm sửa lễ vật cho thần đi một phen nữa may ra có giáp mặt Ngột Truật mới có thể cầu hòa được.
Khâm Tông sa nước mắt nói:
- Thái sư đã mang đi hai lần lễ vật quá nhiều, nay bảo trẫm phải dâng nữa thì biết lấy gì dâng đây?
Trương Bang Xương nói:
- Nếu bệ hạ chẳng nghe lời kẻ hạ thần thì ngày sau có bề gì xin chớ quở trách.
Khâm Tông nói:
- Vậy thì phải sai người ra ngoài mua thêm ca đồng và mỹ nữ mới đủ.
Trương Bang Xương lắc đầu:
- Nếu đi mua ngoài dân gian thì thần e không vừa ý Ngột Truật, chi bằng cứ việc chọn lựa trong cung mới xong.
Khâm Tông không biết làm sao nên phải tự mình đi điểm tra cung nữ, sắm lễ vật cho đầy đủ như hai lần trước để rồi cũng sai Trương Bang Xương đi nữa.
Chuyến này Trương Bang Xương đi thẳng đến dinh Phiên, quân canh gác rất nghiêm ngặt. Bang Xương thưa với viên quan Bình Chương tỏ việc muốn vào ra mắt Ngột Truật để dâng lễ vật cầu hòa.
Viên quan Bình Chương chạy vào báo:
- Có một tên Nam man xưng là thừa tướng nhà Tống đến xin ra mắt chúa công để dâng lễ vật cầu hòa.
Ngột Truật vội hỏi quân sư:
- Tên thừa tướng Trương Bang Xương ấy là trung thần hay kẻ gian nịnh?
Hấp Mê Xi đáp:
- Hắn là đứa gian thần đệ nhất của triều đình nhà Tống. Ngột Truật nói:
- Thế thì bắt nó xé thịt cho rồi.
Hấp Mê Xi can:
- Không nên đâu chúa công ạ, vì lúc này là lúc ta đang cần dùng đứa gian thần ấy nên phải nuôi dưỡng nó, lúc nào được thiên hạ rồi sẽ giết nó cũng chẳng muộn.
Ngột Truật khen phải liền cho vào.
Trương Bang Xương vào đến Ngưu bì trướng quỳ mọp dưới đất tâu:
- Tôi là Trương Bang Xương xin vào yết kiến chúa công.
Ngột Truật hỏi:
- Trương lão nhi đến đây có việc gì không?
Trương Bang Xương nói:
- Lúc tôi chưa gặp được chúa công tôi đã dự định làm một kế làm cho nhà Tống hao tài tổn sức. Đã hai phen tôi đem lễ vật đến đây đều bị mấy vị thu hết, nay đem lễ vật đến nữa tính đã ba phen rồi.
Ngột Truật vội lấy tờ ghi các lễ vật xem qua rồi nói:
- Lễ vật quý giá như vậy hèn chi binh mã của hai tướng ấy kéo về nước hết cũng phải.
Hấp Mê Xi kề tai nói nhỏ với Ngột Truật:
- Chúa công nên phong cho hắn một chức vương để làm vừa lòng hắn thì có lo chi chẳng lấy được giang san nhà Tống.
Ngột Truật gật đầu rồi gọi Trương Bang Xương bảo:
- Ta phong cho ngươi làm chức Sở Vương, ngươi hãy đầu hàng ta gấp đi.
Trương Bang Xương cúi đầu tạ ơn. Ngột Truật lại nói:
- Hiền khanh, nay ngươi đã làm bề tôi cho ta rồi, vậy ngươi hãy lập một kế chi để ta thâu tóm thiên hạ của nhà Tống?
Trương Bang Xương nói:
- Nếu như chúa công muốn thâu tóm hết thiên hạ nhà Tống thì phải làm cho chúa Tống tuyệt hậu đi mới được.
Ngột Truật hỏi:
- Khanh nói thế nghĩa là gì?
Trương Bang Xương tâu:
- Nay chúa công hãy sai một viên quan đi với hạ thần đến ra mắt Tống chúa để đòi một vị thân vương làm con tin. Nếu bằng lòng như vậy chúa công mới chịu lui binh. Trong lúc ấy hạ thần sẽ lấy lời lợi hại gạt vua Tống, chắc chắn vua Tống phải đem thái tử dâng cho chúa công. Chừng ấy chúa công muốn gì mà không được?
Ngột Truật nghe nói trong lòng giận dữ, nghiến răng nghĩ: "Tên gian thần này quả hiểm độc thật".
Nhưng bề ngoài Ngột Truật giả vờ khen:
- Kế ấy hay lắm, thôi để ta sai tả thừa tướng Hấp Mê Cang và hữu thừa tướng Hấp Mê Cường đi với ngươi, còn những ca đồng kỹ nữ ta chẳng dùng, ngươi hãy đem về đi.
Trương Bang Xương cùng tả hữu thừa tướng Kim Phiên đem ca đồng kỹ nữ vào triều Tống. Hấp Mê Cang và Hấp Mê Cường còn đứng ngoài ngọ môn, Trương Bang Xương đã vào quỳ tâu:
- Ngột Truật chẳng dùng ca đồng và kỹ nữ, chỉ nài cho được một vị thân vương làm con tin mới chịu lui binh. Nay bệ hạ muốn thi hành kế ấy tất nhiên phải đưa điện hạ đến Kim Phiên làm con tin, rồi âm thầm điều động binh mã các xứ đến cho mau giết sạch quân Phiên cứu điện hạ về triều. Bằng không thì thiết tưởng quân Phiên đông lắm chúng sẽ đánh phá kinh thành, lúc đó vàng đá cũng tiêu tan không còn ăn năn kịp nữa.
Vua Khâm Tông còn đang suy nghĩ, Bang Xương lại tiếp:
- Việc đã gấp rút xin bệ hạ hãy liệu định cho mau.
Khâm Tông nói:
- Thế thì Trương tiên sinh hãy mời Phiên sứ ra nơi Kim Đình quán dịch chờ đợi, để trẫm hỏi ý phụ vương đã rồi sẽ quyết định dứt khoát.
Trương Bang Xương dịu giọng khẽ tâu:
- Việc này rất hệ trọng, có thể nói là việc mất còn của giang sơn nhà Tống, thế mà bệ hạ còn đi hỏi ý Thái Thượng Hoàng. Thế nào Thái Thượng Hoàng lại chẳng thương con xót cháu. Nếu người không bằng lòng thì việc lớn của bệ hạ hỏng mất, bệ hạ hãy liệu lấy, đừng vì chút tình cảm nhỏ nhen mà làm hỏng cả việc đại sự.
Vua Khâm Tông hứa chịu nhưng cũng vào cung tỏ cùng phụ vương:
- Nay Ngột Truật nó nài cho được một thân vương ở làm con tin mới chịu lui binh.
Huy Tông nghe tâu, sa nước mắt nói:
- Như vậy chắc là kế của gian thần rồi, song đã đến nước này con có cưỡng cũng chẳng được! Vậy con hãy sai em con là Triệu Vương đi mới được.
Huy Tông cho đòi Triệu Vương vào An Lạc cung vừa khóc vừa nói:
- Vương nhi, con có hay việc gì không? Nay Phiên quân nó hung hăng đến thế, Vương huynh con đã ba phen dâng lễ cầu hòa nhưng Ngột Truật vẫn nài cho được một vị thân vương ở làm con tin mới chịu lui binh. Nay cha muốn sai con đi mà lòng không nỡ nên chưa biết nên liệu sao đây?
Vị điện hạ này chính tên là Hoàn mới mười lăm tuổi, một người hiếu thảo ít ai bì, nên thấy cha mình rầu rĩ vội thưa:
- Phụ Vương chớ nên thương tiếc con. Đây chỉ vì việc đại sự của quốc gia, chớ nên vì tình cảm mà làm hỏng cả việc lớn, vả lại tổ tông ta khai sáng giang san chẳng phải là dễ. Chi bằng để con qua bên dinh Phiên giả làm con tin, chờ binh mã các tỉnh kéo đến giết hết giặc Phiên cứu con về cũng không sao.
Huy Tông nghe nói vậy cực chẳng đã phải ra ngự triều, nhìn hai bên văn võ phán hỏi:
- Nay Triệu Vương muốn qua dinh Phiên làm con tin, không biết trong các khanh có ai dám theo bảo hộ Điện hạ không?
Vừa dứt lời, tân khoa trạng nguyên Tần Cối bước ra tâu:
Thần xin theo bảo hộ Điện hạ.
Huy Tông vui vẻ đáp:
- Nếu được khanh đi theo thì hay biết chừng nào,. Lúc nào về triều trẫm sẽ phong quan chức cho.
Thượng hoàng lui giá về cung, các quan cũng bãi triều.
Sau đó Trương Bang Xương, Tần Cối cùng hai tên Phiên sứ dắt Triệu Vương qua bên dinh Phiên.
Trong lúc chia tay, Triệu Vương chẳng nỡ xa cha vùng khóc rống lên, hồi lâu mới cắn răng nuốt lệ ra khỏi ngọ môn lên ngựa thẳng đến dinh Phiên.
Trương Bang Xương, Hấp Mê Cang và Hấp Mê Cường vào trước còn Tần Cối thì bảo hộ Triệu Vương đứng ngoài cửa dinh chờ đợi.
Trương Bang Xương vào dinh ra mắt. Ngột Truật hỏi:
- Việc ấy ra sao?
Bang Xương chưa mở miệng, Hấp Mê Cang đã nói:
- Quả thật Sở Vương tài cán ít ai bì, đã làm Nam man hoàng đế phải nghe lời đưa em trai đến làm con tin, lại có một tên trạng nguyên tên là Trần Cối theo đến nữa, cả hai còn đang đứng ngoài dinh đợi chỉ.
Ngột Truật nói:
- Thế thì hãy bảo chúng vào đây.
Ngờ đâu dưới trướng có một tướng Phiên tên là Bồ Lư Ôn mặt mày dữ tợn nghe bảo ra gọi vào, hắn tưởng bảo ra bắt đem vào vội chạy ra ngoài dinh trợn mắt hỏi:
- Ai là tiểu điện hạ?
Tần Cối trỏ Triệu Vương bảo:
- Vị này là điện hạ đấy.
Bồ Lư Ôn liền xap lại bắt Triệu Vương kẹp nách chạy vào dinh. Tần Cối thấy thế chạy theo gọi lớn:
- Chớ nên làm dữ điện hạ ta sợ.
Bồ Lư Ôn vào đến trước trướng buông Triệu Vương xuống ngờ đâu Triệu Vương sợ quá tắt thở rồi.
Tần Cối bước vào thấy thế hỏi:
- Tại sao lại làm cho điện hạ ta chết như vậy?
Ngột Truật quay sang hỏi Hấp Mê Xi:
- Người này là ai? Hấp Mê Xi tâu:
- Người này là tân khoa trạng nguyên Tần Cối. Xin chúa công cho giữ nó lại không cho nó về Trung Nguyên.
Ngột Truật nói: Phải đấy, có lúc ta sẽ dùng đến nó! Ngột Truật bảo Tần Cối đem thây Triệu Vương đi chôn cất rồi sau đó cho đi làm gia nhân cho một tướng Phiên.
Ngột Truật hỏi Trương Bang Xương:
- Triệu Vương chết, con cái Tống Vương còn đứa nào không?
Trương Bang Xương đáp:
- Triều Tống còn một vị điện hạ thứ chín là Khương Vương Triệu Cấu, để thần lừa hắn đến cho chúa công!
Nói xong từ tạ Ngột Truật trở về triều ra mắt Thái thượng hoàng Huy Tông , giả vờ khóc lóc nói:
- Triệu Vương điện hạ đã rủi ro bị ngã ngựa hết bên dinh Phiên rồi. Nay Ngột Truật lại muốn một vị thân vương khác ở làm con tin thì hắn mới lui binh. Nếu không y theo lời hắn thì hắn sẽ đánh thẳng vào cung.
Thái thượng hoàng nghe nói lòng đau xót vô cùng, cực chẳng đã phải gọi Khương Vương vào rồi thuật hết mọi việc cho nghe. Khương Vương tâu:
- Xã tắc là trọng, con đâu dám tiếc thân. Vậy con cần phải qua đó mới xong.
Huy Tông lại hỏi:
- Có ai dám theo điện hạ không?
Bỗng có quan Lại bộ Thị Lang tên là Lý Nhược Thủy bước ra tâu:
- Hạ thần xin lĩnh mệnh theo bảo hộ điện hạ cho.
Rồi cùng Khương Vương ra khỏi thành theo Trương Bang Xương thẳng qua dinh Phiên.
Trương Bang Xương vào trước ra mắt Ngột Truật tâu:
- Điện hạ Khương Vương Triệu Cấu đã bị hần lừa đến đây rồi. Bây giờ trong triều nhà Tống không còn một điện hạ nào nữa cả.
Ngột Truật nghe nói sợ Khương Vương lại bị chết nữa thì nguy, vội sai quân sư ra nghênh tiếp.
Lý Ngược Thủy lén căn dặn Khương Vương:
- Điện hạ nên nhớ câu: "Năng nhược năng cường thiên niên kế, hữu dũng vô mưu nhứt dán vong". Nghĩa là có lúc yếu có lúc phải mạnh là kế hay ngàn đời, bằng ỷ mạnh không mưu thì nguy. Khi điện hạ vào ra mắt Ngột Truật tùy cơ ứng biến, chớ nên làm mất nhuệ khí của mình mà cũng chớ nên cứng cỏi quá mà mang hại.
Khương Vương nói:
- Việc ấy ta biết rồi.
Rồi theo Hấp Mê Xi vào dinh ra mắt Ngột Truật. Ngột Truật trông thấy Khương Vương tuổi còn nhỏ mà tướng mạo khôi ngô, mặt ngọc mắt sáng như sao. Thật là một vị điện hạ hiếm có trên đời.
Ngột Truật nói:
- Nếu ngươi bằng lòng xem ta như cha thì ta lấy được giang san nhà Tống sẽ giao lại cho ngươi làm hoàng đế, ngươi có bằng lòng không?
Khương Vương nghe nói sẽ giao giang sơn lại cho mình thì ráng bước ba bước tới nói:
- Con xin bằng lòng!
Ngột Truật mừng rỡ bảo Khương Vương ra sau dinh lập riêng phòng trướng để ở. Bỗng thấy Lý Nhược Thủy theo vào, Ngột Truật bèn gọi lại hỏi:
- Ngươi là ai?
Lý Nhược Thủy trợn mắt đáp:
- Ta là ai mặc kệ, can chi ngươi hỏi?
Nói rồi đi theo Khương Vương. Ngột Truật lấy làm lạ hỏi quân sư:
- Người ấy là ai mà cứng cỏi quá vậy?
Hấp Mê Xi đáp:
- Người ấy là đại trung thần của nhà Tống, đang làm chức Lại bộ Thị Lang tên là Lý Nhược Thủy.
Ngột Truật nói:
- Nếu vậy ông ta là một lão tiên sinh mà ta không biết nên thất lễ.
Nói rồi cho mời Lý Nhược Thủy ở lại dinh quân sư khoản đãi, mặc dầu lúc ấy trời đã tối.
Hôm sau Ngột Truật ra trướng cho gọi Trương Bang Xương đến hỏi:
- Nay còn phải làm gì nữa?
Trương Bang Xương nói:
- Thần đã hứa với chúa công, lẽ đâu dám chẳng hết lòng. Thần còn muốn đem cả nhị đế dâng cho chúa công nữa cơ.
Ngột Truật nói:
- Được như vậy thì gay lắm nhưng phải làm thế nào?
Trương Bang Xương kề tai Ngột Truật nói nhỏ:
- Bây giờ phải làm như vậy...như vậy!
Ngột Truật gật đầu lia lịa rồi y kế Trương Bang Xương mà làm.
Bang Xương trở về thành ra mắt Khâm Tông và nói:
- Hôm qua thần qua bên dinh Xương Bình Vương Ngột Truật vì trời tối nên nghị việc không kịp phải nghỉ lại đó. Nay Ngột Truật lại bảo rằng Khương Vương tuy là một vị thân vương song cũng chưa đủ, chúng còn muốn giữ cái bài vị của Tiên Vương năm đời chúng mới chịu. Thần thiết nghĩ, giữ lại cái bài vị đó cũng chẳng làm cho quân giặc lùi bước được, chi bằng ta cứ tạm giao cho chúng rồi chờ viện binh Cần Vương các tỉnh đến, lúc ấy sẽ tiêu diệt chúng rồi rước bài vị về cũng chẳng hại chi.
Khâm Tông chẳng dám phản đối nhưng rất đau lòng, vừa khóc vừa nói:
- Con cháu quá bất hiếu nên mới để lụy đến Tiên Vương.
Rồi đếnThái Miếu khóc rống lên một hồi, mới trao cho Bang Xương bưng bài vị đi, Bang Xương nói:
- Để tỏ lòng hiếu đạo, Nhị Đế phải thân hành đưa đi vài dặm mới phải lẽ.
Thái thượng hoàng Huy Tông và Khâm Tông đành nghe theo, đưa bài vị ra ngoài thành. Vừa ra khỏi đếu cầu bị quân Phiên áp lại bắt đem về dinh của Ngột Truật, còn Trương Bang Xương thì trở lại giữ thành.
Bắt được Nhị Đế, Ngột Truật vội sai Hấp Mê Xi điểm một trăm binh mã hộ tống Nhị Đế về Đại Kim quốc ở phía bắc.
Lý Nhược Thủy ở trong hay được tin ấy liền gọi Tần Cối dặn dò bảo hộ điện hạ rồi chạu thẳng ra dinh chửi mắng Ngột Truật một hồi rồi quyết đi theo hộ giá nhị đế Huy Tông và Khâm Tông.
Ngột Truật nghĩ thầm: "Lý Nhược Thủy này tính khí quá cương cường, thế nào qua đất bắc cũng bị phụ vương ta sát hại"
Nghĩ đoạn, gọi quân sư Hấp Mê Xi bảo:
- Người này tính cứng cỏi, quân sư phải coi chừng chớ nên giết hắn ta.
Hấp Mê Xi gật đầu đáp:
- Vâng, việc ấy tôi hiểu rồi nhưng còn chúa công cũng nên mau mau lui binh chớ nên vào thành vì e binh mã của Cần Vương chín tỉnh kéo đến chặn đứt đường về thì nguy tai. Chi bằng tạm lui về nước rồi qua mùa xuân sẽ dấy đại binh sang quét sạch nhà Tống, chừng ấy sẽ lên ngôi hoàng đế thống lĩnh cả Trung Nguyên. Chúa công nghĩ thế nào?
Ngột Truật khen phải vội sai Trương Bang Xương giữ thành Biện Kinh rồi đem hết gia thuộc của Tần Cối về Kim Phiên mới truyền lệnh lui binh.
Quân sư Hấp Mê Xi đẫn đoàn quân đi hộ tống Nhị Đế có Lý Nhược Thủy đi theo bảo hộ. Khi đi đến phủ Hà Giang bỗng thấy trước mặt có một tướng quỳ mọp xuống đất tiếp giá, xem kỹ lại thì người ấy chính là Trương Thúc Dạ. Vua tôi nhà Tống trông thấy nhau đều khóc rống lên.Lý Nhược Thủy gằn giọng hỏi:
- Ngươi là đứa gian thần còn đến đây khóc lóc làm gì?
Trương Thúc Dạ phân trần:
- Lý đại nhân chưa rõ đó thôi, việc tôi đầu hàng Phiên Vương chỉ là kế trá hàng. Vì thấy Lục Đăng thủ tiết, Thế Trung bỏ chạy. Trong thế cùng ấy ngoài kế trá hàng tưởng không còn cách nào khác hơn nữa. Tôi cũng tưởng phải dùng hạ sách đó để cứu bá tính khỏi vòng binh lửa để chờ bệ hạ triệu tập binh sĩ Cần Vương ở các tỉnh về tiêu diệt bọn Kim Phiên, tôi sẽ thừa cơ hội ấy chận đường về đánh cho chúng không còn manh giáp. Ngờ đâu sông Hoàng Hà nước bỗng đóng băng, triều đình lại cất chức Lý Can, Tông Trạch, nghe lời đứa gian thần để đến nỗi phải chịu tù đày thế này.
Nói đến đây Trương Thúc Dạ rút gươm giơ lên nói lớn:
- Nay tôi đã bất tài không giúp gì được cho triều đình thì sống cũng chẳng ích gì.
Nói rồi đâm vào cổ tự vẫn. Nhị đế thấy thế khóc rống lên, Khâm Tông nói:
- Bởi trẫm nghe lời đứa nịnh mới ra nông nỗi này.
Lý Nhược Thủy nói với Hấp Mê Xi:
- Ngươi phải chôn Trương Thúc Dạ cho tử tế nhé.
Hấp Mê Xi liền truyền lệnh quân sĩ chôn cất Trương Thúc Dạ rồi áp giải Nhị đế về Phiên.
Đi dọc đường Lý Nhược Thủy lại hỏi Hấp Mê Xi
- Đường đi còn xa lắm không?
Hấp Mê Xi đáp:
- Chẳng còn bao xa nữa, xong Lý tiên sinh qua đó phải ăn nói cho cẩn thận vì mấy vị Vương gia ở bên đó không phải có tính chất thương người như điện hạ Ngột Truật đâu.
Lý Nhược Thủy bĩu môi:
- Ta đi đây đã quyết liều một chết, thì mọi việc có nghĩa gì đối với ta đâu?
Ngày hôm sau Huy Tông và Khâm Tông bị áp giải về đến Hoàng Long phủ, đế đô của Đại Kim quốc. Dân trong nước đua nhau đến xem hai Hoàng đế nhà Tống rất đông. Khi vào đến Ngọ môn, Hấp Mê Xi đứng lại đợi chỉ. Một tên Phiên quan bước vào tâu với Kim Vương Ô Cốt Đạt.
- Nay có Hấp Mê Xi giải hai Hoàng đế nhà Tống là Khâm Tông và Huy Tông về hiện còn đang đứng ngoài Ngọ môn đợi lệnh.
Kim Vương nghe tâu cả mừng liền truyền lệnh cho vào.
Hấp Mê Xi vào triều kiến xong xuôi, đem hết việc hoàng tử Ngột Truật đi đánh Trung Nguyên kể lại rõ ràng và nói:
- Nay hoàng tử sai thần giải Nhị đế Tống Triều về nước để hầu chỉ.
Kim Vương hỏi:
- Vậy nay hoàng tử Ngột Truật còn ở tại đâu?
Hấp Mê Xi tâu:
- Hiện giờ bên Trung Quốc tuy không có Hoàng đế song binh mã chín tỉnh chưa phục nên điện hạ phải tạm lui về nước, người còn đang đi sau, chờ đến mùa xuân tới đây sẽ đem quân tảo thanh nhà Tống và rước chúa công qua đó lên ngôi hoàng đế.
Kim Vương mừng rỡ vội truyền bày yến tiệc ăn mừng, lại sai dẫn Nhị đế nhà Tống vào.
Quân Phiên vâng lệnh ra dẫn nhị đế vào trước Kim giai. Nhị đế vân đứng sừng sững không chịu quỳ. Kim Vương trợn mắt hét:
- Đã bao phen Tống triều sát hại binh tướng của ta, nay bị bắt rồi sao không chịu quỳ còn ương ngạnh sao?
Nhị đế vẫn thản nhiên không chịu khuất phục, Kim Vương bèn truyền quân đem lửa đến đốt chỗ đất trước Ngân An Điện cho thật nóng đồng thời lột hết áo mũ của Nhị đế, cho đội một chiếc mũ da chó, mình mặc áo xanh, phía sau lại bắt mang một cái đuôi chó, trên lưng mang cái trống thiếc, lại buộc thêm sáu cái lục lạc, hai tay cột hai nhành liễu nhỏ. Giày, tất đều lột hết chỉ để chân không.
Giây phút sau lửa nung chỗ đất trước Ngân An Điện đỏ ngầu. Kim Vương sai lính xô Nhị đế vào chỗ đất đốt đỏ ấy. Nhị đế bị nóng bỏng hai chân chịu không nổi phải nhảy lên nhảy xuống, trống cùng lục lạc kêu lên leng keng. Văn võ bá quan triều đình nhà Kim ăn uống vui cười khoái chí như xem một trò chơi.
Thương hại thay cho hai vị Tống trào Hoàng đế bị Kim Phiên bắt ra làm trò cười nhục nhã ấy cũng bởi nghe lời gian nịnh phế bỏ kẻ trung thần nên phải chịu báo ứng.
Lý Nhược Thủy đứng ngoài thấy thế lửa giận bốc lên tận đỉnh đầu, bèn nhảy bổ vào ôm Nhị đế chạy ra ngoài.
Kim Vương thấy vậy hỏi Hấp Mê Xi:
- Người ấy là ai vậy?
Hấp Mê Xi quỳ tâu:
- Tên ấy là Lý Nhược Thủy, một kẻ đại trung thần của nhà Tống đấy. Thái tử Ngột Truật yêu chuộng hắn lắm, sợ chúa công giết chết nên dặn thần phải gìn giữ,nếu hắn bị giết thì kẻ hạ thần phải đền mạng, xin chúa công ban ơn rộng tha cho hắn.
Kim Vương cười ha hả nói:
- Nếu vậy đừng đếm xỉa gì đến hắn.
Hấp Mê Xi tạ ơn, vừa đứng dậy bỗng Lý Nhược Thủy chạy đến trỏ vào mặt Kim Vương mắng lớn:
- Mi là tên chúa mọi tì nô chẳng biết lẽ trời, dám bắt Hoàng đế Trung Nguyên lăng nhục. Cũng có ngày chúng ta đem thiên binh vạn mã đến Huỳnh Long phủ này bắt hết bọn mọi chúng bay và đạp thành bình địa để rửa cái nhục hôm nay.
Lý Nhược Thủy lớn tiếng chửi rủa không ngớt khiến Ô Cốt Đạt nổi giận cho chặt đứt ngón tay Lý Nhược Thủy đi để cho khỏi chỉ trỏ nữa.
Bị đứt mất một ngón tay vẫn không thấy Lý NhượcThủy tỏ vẻ đau đớn gì cả mà lại càng giận dữ hơn nữa. Nhược Thủy lại lấy ngón tay khác chỉ vào mặt Lang chúa mắng tiếp:
- Tên dã man mọi rợ kia, ta tưởng trên đời này không ai ngu hơn mi nữa, mi chỉ cắt đứt được ngón tay của ta chứ làm sao mi cắt được sự giận dữ của ta? Làm sao mi cấm không cho ta chửi mi được.
Kim Vương nổi giận truyền chặt một ngón tay nữa nhưng Lý Nhược Thủy lại càng mắng chửi thậm tệ hơn. Đến nỗi đã chặt đứt hết mười ngón tay mà Lý Nhược Thủy lại lấy cùi tay chỉ vào mặt Kim chúa la lối nhiếc mắng om sòm.
Giận quá, Kim Vương truyền cắt lưỡi, máu tuôn lai láng mà Lý Nhược Thủy ú ớ mãi, tuy không nghe rõ tiếng gì nhưng người ta cũng hiểu rõ ông ta không chịu im.
Tuy không nói được nữa, Lý Nhược Thủy nổi giận xung thiên, múa tay múa chân nhảy qua nhảy lại trước điện la ó giận dữ. Phiên tướng thấy vậy đều cười rộ lên cho đó cũng là trò vui nhộn, cứ việc ăn uống vui say không thèm đếm xỉa gì đến Nhược Thủy nữa.
Lý Nhược Thủy liền nhảy phóc lên điện môn ôm lấy Kim Vương cắn mạnh vào tai không nhả. Ô Cốt Đạt đau đớn vùng vẫy không nổi. Lúc ấy văn võ bá quan áp đến một lượt ôm Lý Nhược Thủy kéo ra nhưng than ôi, tai Kim Vương đã đứt nằm gọn trong miệng Lý Nhược Thủy rồi. Bọn Phiên tướng liền đemLý Nhược Thủy ra bằm nát như tương.
Người sau có thơ rằng:
Vì vua mắng giặc giữa Phiên triều.
Tay đứt mà lòng chẳng chút xiêu
Cắn tai Lang chúa cho hả giận
Chí khí anh hùng thật đáng nêu.
Bọn Phiên quan tề tựu đến hỏi thăm sức khỏe của Kim Vương còn Hấp Mê Xi thì lo lượm thây Lý Nhược Thủy đựng vào trong cái hộp sơn vàng giấu riêng để đó. Thái y lập tức được gọi đến vào cho thuốc băng bó chiếc tai Kim Vương bị cắn đứt. Kim Vương truyền đem Nhị đế ra nhốt dưới giếng cạn.
Chẳng bao lâu Ngột Truật dẫn đại binh khải hoàn vào triều bái kiến phụ vương và tâu:
- Nhờ hồng phúc và oai vũ của phụ vương nên con đánh thốc vào kinh đô Trung Nguyên dễ dàng như chẻ tre.
Kim Vương khen ngợi Ngột Truật không ngớt vội truyền mở đại yến đãi hoàng tử Ngột Truật cùng chư tướng rồi đem chuyện Lý Nhược Thủy thóa mạ và cắn đứt tai mình cùng việc giết chết Nhược Thủy kể hết cho Ngột Truật nghe. Ngột Truật ra vẻ tiếc rẻ nhân tài cứ hỏi đi hỏi lại việc ấy đôi ba lần.
Khi đại yến đã mãn, Phiên Vương hạ chiếu đến các nước Phiên nhỏ mượn quân, hẹn mùa xuân năm tới sẽ họp tại Huỳnh Long phủ khởi binh vào Trung Nguyên lần thứ hai.
Từ khi nhị vị Tống đế bị cầm tù dưới đáy giếng tại Ngũ Cốc thành đến nay, tai chẳng được nghe tiếng nói của loài người, mắt không trông thấy mọi vật trên đời nữa, lúc nào cũng chỉ thấy một khoảng trời tròn bằng chiếc nia, trong lòng vẫn nuôi hy vọng thoát khỏi chốn tù hãm này nhưng rồi ngày tháng trôi qua, lòng hy vọng mỗi ngày một nhạt đi chỉ còn nỗi thất vọng tràn trề.
Bị cầm tù như vậy còn khổ sở hơn mọi cách cầm tù khác. Hơn nữa những vị đế vương từ nhỏ sống sung sướng đã quen, nay sa vào cảnh này còn khổ sở hơn người dân gấp bội.
Đang lúc thất vọng, bỗng nghe đâu đây có tiếng gọi:
- Bệ hạ! bệ hạ ơi!
Ôi! tiếng gọi ấy bị biến mất đã lâu, nay bỗng dưng lọt vào tai nó êm ái biết dường nào. Lòng hai vị vua thất thế lại bùng lên bao nhiêu hy vọng, vội vàng đáp:
- Ai gọi đó? Có ta đây!
Lại nghe một giọng nói đặc sệt tiếng Trung Nguyên đáp lại một cách vui mừng và quyến luyến lạ thường.
Người đứng trên miệng giếng, chõ miệng gọi xuống ấy chính là Thôi Hiếu, tổng binh Đại Châu Nhạn Môn quan ngày xưa. Nhưng sao người ấy lại ở bên Kim Phiên mà lại được hân hạnh vào chốn giam cầm hai vua Tống?
Nguyên mười tám năm về trước cũng thuộc đời Tống, quân Phiên đến hãm thành Nhạn Môn quan, bắt tổng binh Thôi Hiếu về nước. Bởi Thôi Hiếu có nghề cho thuốc ngựa rất hay nên binh tướng Phiên tin dùng.
Mười tám năm chuyên nghề làm thuốc cho ngựa trong các dinh quân Phiên nên bọn tướng sĩ Phiên ai nấy đều biết mặt.
Một hôm Thôi Hiếu đang trị bệnh ngựa trong dinh, nghe lỏm được tin Kim Vương bắt nhị vị Tống đế đem giam cầm dưới giếng cạn tại Ngũ Cốc thành. Thôi Hiếu vội về lấy hai cái áo da cừu, nướng ít chục cân khô bò gói lại tử tế, lại cầm theo vài sợi dây da đi thẳng đến Ngũ Cốc thành cười nói với quân canh:
- Tôi mới nghe chúa cũ của tôi bị giam cầm nơi đây, nên muốn vào thăm giây lát để tỏ lòng ngay cùng chúa cũ, xin chư vị hãy vui lòng cho phép tôi vào một tí nhé.
Quân canh nghe Thôi Hiếu nói vậy mỉm cười đáp:
- Cũng được nhưng vào một lát rồi trở ra ngay chớ có ở lâu đấy. Ngươi thường cho thuốc chữa ngựa giùm cho chúng ta mới được vậy, chớ người khác thì không được đâu.
Vừa nói vừa mở cửa thành cho Thôi Hiếu vào. Thôi Hiếu quay lại nói:
- Tôi chẳng dám ở lâu đâu, xin cảm ơn liệt vị.
Vào được Ngũ Cốc thành, Thôi Hiếu chạy khắp các miệng giếng kêu gọi chúa om sòm. Ở đây giếng cạn nhiều quá kêu gọi muốn đứt hơi, chạy đã mỏi gối mà vẫn chưa tìm ra cái giếng giam nhốt Nhị đế. Ông lão trung thần này chạy kiếm suốt nửa ngày chưa ra, mệt quá lăn ra đất nằm nghỉ. Trong lúc đang thiu thiu bỗng nghe đâu đây có tiếng nói rất khẽ:
- "Này Vươnt tử"
Thôi Hiếu chỗi dậy lắng tai nghe kỹ thì tiếng ấy phát ra gần lắm, lão ta lầm bầm:
- "Thôi đích là Nhị đế ở dưới giếng kia rồi".
Rồi Thôi Hiếu lật đật chạy lại kề miệng xuống gọi:
- "Bệ hạ ôi! bệ hạ ôi!".
Vừa nghe tiếng vua đáp, Thôi Hiếu mừng quá không đợi vua hỏi đã nói:
- Muôn tâu bệ hạ, thần đây chính là Đại Châu Nhạn Môn quan tổng binh ngày xưa tên là Thôi Hiếu đây.
Ngừng một lát, Thôi Hiếu tiếp:
- Nghe Nhị đế bị giam cầm nơi đây lòng thần lấy làm đau đớn nhưng vì ở đất khách quê người nên chẳng có chi đem dâng cho thánh thượng, chỉ có ít chục cân khô bò nướng vàng và hai cái áo lông cừu để thánh thượng ngự hàn. Hạ thần cầu xin cho thánh thượng được giữ yên quý thể.
Nói xong buộc áo và khô bò vào chiết dây da dòng xuống giếng.
Hai vị Tống đế mở dây nhận lấy và phán khen:
- Đã mười mấy năm mà lòng không quên vua cũ, thật ít ai có tấm lòng chung thủy như khanh vậy.
Thôi Hiếu lại hỏi:
- Chăng hay bây giờ bên nước còn ai lên ngôi kế vị cho thánh thượng không?
Hai vị Tống đế đáp:
- Bởi quá tin đứa gian thần Trương Bang Xương nên bị nó thi hành quỷ kế mãi quốc cầu vinh, lừa Triệu Vương đến dinh Phiên cho bỏ mạng. Trong triều chỉ còn có Cửu điện hạ Khương Vương cũng bị nó bày mưu dâng cho Ngột Truật làm con tin. Cuối cùng nó gạt bắt cả hai ta qua đây. Bây giờ trong nước không còn ai kế vị cả.
Thôi Hiếu nghe nói tỏ ý mừng thầm nói:
- Nếu có Cửu điện hạ ở theo dinh Ngột Truật thì cúi xin chúa thượng thảo cho một bức thư để hạ thần đi tìm Cửu điện hạ. Nếu như lòng trời còn thương nhà Tống thì chắc có thể gặp người. Lúc ấy hạ thần sẽ lập kế cho người trốn về nước lên ngôi, sau đó sẽ điều binh chín tỉnh đến đây ra sức cứu chúa thượng trở về nước.
Hai vị Tống đế than:
- Bị giam cầm dưới đáy giếng như vậy thì giấy bút đâu mà bảo có gia thảo chiếu?
Thôi Hiếu nói:
- Thần cam chịu tội muôn chết, xin Nhị chúa công cho thần vô lễ tấu một điều.
- Điều gì ngươi cứ việc tâu ra xem nào?
- Xin chúa công phải thảo huyết chiếu mới được.
Nhị vị Tống đế nghe nói tủi lòng khóc tức tưởi một hồi rồi xé vạt áo trải lên gối, cắn đầu ngón tay cho chảy máu viết ra một bức huyết chiếu như sau:
- "Ta sai Khương Vương phải tìm cách trốn về nước lên ngôi đế, chỉnh tu sơn hà xã tắc cho khỏi dứt nghiệp đế do tiên vương để lại".
Huyết chiếu thảo xong, vội cuốn buộc vào dây da bảo Thôi Hiếu rút lên.
Thôi Hiếu xem xong huyết chiếu liền giấu kín vào vạt áo trong, đoạn khóc than một cách thảm thiết. Lão trung thần Thôi Hiếu trước khi đi không quên cúi lạy mấy lạy giã biệt. Nhị vị Tống đế dòm lên thấy thế cũng mủi lòng khóc rống lên nói:
- Hôm nay cha con cô gia phải sa vào chốn này chẳng thấy được một ai, may khanh có lòng trung nghĩa tìm đến đây, cha con cô gia xem như thể ruột rà chí thích. Nhưng gặp nhau than thở chưa được bao lâu, lẽ nào khanh đành dời gót vội thế? Để cho cha con trẫm ngày đêm vò võ thế này, thật quá đỗi đoạn trường chịu sao cho thấu?
Thôi Hiếu cũng sụt sùi tâu:
- Cúi xin nhị vị chúa công giảm bớt cơn phiền lụy, phải dằn lòng sầu não để bảo trọng mình rồng chờ cơ hội. Kẻ hạ thần này còn sống ở đây được ngày nào thì nhất định tìm cách đến thăm viếng chúa thượng luôn luôn. Xin chúa thượng chớ quá lo lắng.
Nói xong bái biệt hai vua ra đi.
Thôi Hiếu đi được ít bước đã thấy bọn quân canh chạy đi tìm la ó om sòm. Vừa gặp Thôi Hiếu chúng nắm áo gằn giọng nói:
- Kìa Thôi Hiếu, ngươi làm gì ở trong này đến nửa ngày, làm chúng ta đi tìm kiếm ngươi khổ muốn chết.
Nói đến đây, tên đầu sỏ ra lệnh:
- Quân sĩ, hãy bắt nó chém quách cho rồi!
Thôi Hiếu hoảng kinh hồn vía, nghĩ bụng: "Mình chết thì cũng chẳng sao nhưng còn huyết chiếu thư của Nhị đế? Biết lấy ai giúp đỡ cho Khương Vương về nước lên ngôi?
Rồi Thôi Hiếu sụp lạy, nức nở:
- Thân già này làm chi nên tội mà các vị đem chém! Nghe vậy, tên tướng Phiên nạt nộ:
- Ta chỉ cho ngươi vào một lát thôi, sao ngươi ở trong ấy hơn nửa ngày còn chưa chịu ra làm khổ chúng ta đi tìm ngươi khắp nơi. Nếu chuyện này đến tai chúa công thì không chỉ đầu ngươi mà cả đầu bọn ta cũng lìa khỏi cổ.
Thôi Hiếu làm ra vẻ lễ phép vái lia vái lịa rồi chắp tay thưa:
- Xin liệt vị hãy xem thử, giếng cạn ở đây nhiều như thế này thì tôi tài nào tìm ra được chúa cũ tôi bị giam trong giếng nào? Vì vậy tôi phải đi tìm khắp nơi nên mới lâu như vậy. Vả lại tôi già cả lụm cụm như vầy làm sao đi cho mau được? Xin liệt vị cũng nên xét kỹ dung thứ cho già này một phen. Nếu giết chết tôi đi thì còn ai chữa ngựa cho liệt vị?
Thôi Hiếu nói một hồi lại xá lia lịa nên chúng không nỡ giết và nói:
- Chúng ta nghĩ tình tha cho ngươi lần này. Thôi từ nay trở đi không cho ngươi bén mảng đến đây nữa, nếu trái lệnh chúng ta sẽ giết chết không tha nữa đâu.
Thôi Hiếu cảm tạ lia lịa và lui ra khỏi thành chạy riết về nhà.
Rồi bắt đầu từ hôm ấy, mỗi lần vào dinh cho thuốc ngựa,Thôi Hiếu lại cố ý tìm cho ra tung tích Khương Vương.
Lại nhắc đến Ngột Truật ngày đêm thao luyện binh mã thì thấy tiết xuân đã đến rồi. Vào lúc tháng hai, Ngột Truật kiểm điểm năm mươi vạn binh mã hiệp cùng các nước tiểu Phiên rầm rộ kéo qua đánh Tống.
Lần đi đánh Trung Nguyên này là lần thứ hai, quân kéo đi đến trung tuần tháng tư mới đến Lộ An Châu.
Sở dĩ chuyến này đi lâu là vì dọc đường còn săn bắn chơi bời cho thỏa thích.
Khi đến Lộ An Châu, Ngột Truật bèn thuật lại việc Lục Tiết Đạt hy sinh vì nước cho mấy vị điện hạ nghe. Ai nấy đều thương tiếc cho vị anh hùng chẳng cùng.
Khi đến Lưỡng Lang quan, Ngột Truật lại nhắc việc sét đánh Tam Sơn khẩu vẹt đường cho quân Phiên kéo vào một cách bình yên vô sự. Mấy vị điện hạ đều nói:
- Ấy là chúa ta phúc lớn nên trời mới khiến như vậy.
Khi đến phủ Hà Giang, Ngột Truật bèn truyền lệnh đóng quân ngoài thành không cho nhiễu nhương bá tính vì sợ phụ lòng Trương Thúc Dạ.
Qua mấy ngày sau đã đến sông Hoàng Hà nhằm lúc trung tuần tháng sáu, khí trời nóng bức. Ngột Truật truyền cho binh sĩ đóng binh dọc theo sông tạm nghỉ, chờ cho khí trời mát mẻ rồi mới qua sông.
Thời gian qua nhanh, chẳng bao lâu đã đến rằm tháng bảy, Ngột Truật truyền quân xây một tòa Lư Bồng, làm thịt heo, dê, gà, vịt quay qua phía Bắc tế tự tổ tiên.
Lễ vật sắm sửa sẵn sàng, các vị vương gia đều họp nhau chờ đợi, bỗng thấy Ngột Ttuật cưỡi ngựa Hỏa Long Cu, phía sau có mấy vị Vương tử, thảy đều mặc áo đại hồng, bêntả mang cung, bên hữu đeo tên, mình cưỡi sa mã, đầu đội thúc phát tử kim quang có giắt hai cây lông trĩ rẽ làm hai còn Thôi Hiếu thì cũng lúc nhúc chạy theo sau lẫn lộn trong đám quân hầu.
Sở dĩ có mặt Thôi Hiếu ở đây là vì từ khi Thôi Hiếu dò được tin tức Khương Vương nên cố theo sát không rời, chờ cơ hội để hành động.
Con tuấn mã của Khương Vương đang chạy bỗng vấp quỵ hai chân trước ngã nhào xuống. Khương Vương vội siết chặt cương lại. Nhờ vậy mà con ngựa nương thế đứng dậy được, Ngột Truật nhìn lại thấy thế lên tiếng khen:
- Vương nhi cưỡi ngựa giỏi thật.
Ngờ đâu khi con ngựa vấp ngã đã làm cho cung tên của Khương Vương đều rơi xuống đất, Thôi Hiếu ở sau vội chạy đến nhặt rồi hai tay dâng lên nói:
- Xin điện hạ thu lấy.
Ngột Truật nghe Thôi Hiếu nói tiếng Trung Nguyên rành rõi liền hỏi:
- Ngươi là ai vậy?
Thôi Hiếu quỳ xuống trước đầu ngựa bẩm:
- Thần là Thôi Hiếu chính là người Trung Nguyên, nhân qua làm thuốc ngựa cho chúa công đã mười chín năm trời rồi.
Ngột Truật gật đầu ra vẻ hài lòng:
- Ngươi già cả mà ăn ở trung hậu, vậy ta cho ngươi đi theo phục dịch điện hạ, lúc nào ta lấy được giang san nhà Tống, ta sẽ phong cho người làm quan lớn.
Thôi Hiếu cúi đầu tạ ơn.
Khi ra đến chỗ Lư Bồng, Khương Vương xuống ngựa làm lễ ra mắt mấy vị Vương bá, Vương thúc, sau đó Ngột Truật hướng về phía bắc làm lễ tế tự tổ tiên.
Tế rồi đem nhau về dinh ăn uống. Mấy vị Vương tử cùng các vị Bình Chương ăn uống chuyện trò vui vẻ, duy có Khương Vương cứ cúi đầu thầm nghĩ:
- "Bọn Phiên nô dã man mà chúng còn biết phụng thờ tổ tiên, còn ta đây, Nhị đế bị giam cầm còn tôn miếu thì hư nát. Hoàng thiên ôi: nếu chẳng giúp tôi hàn gắn lại thì đau đớn biết chừng nào".
Ngột Truật đang ăn uống vui vầy chợt thấy Khương Vương sa nước mắt và không muốn ăn bèn hỏi:
- Sao Vương nhi không ăn uống gì cả vậy?
Thôi Hiếu nghe hỏi liền quỳ xuống tâu:
- Lúc nãy điện hạ bị ngã ngựa giật mình, bây giờ lại đau bụng, trong mình không yên nên không muốn ăn uống gì cả.
Ngột Truật bảo Thôi Hiếu:
- Thế thì ngươi hãy mau mau phò điện hạ ngươi vào dinh dưỡng bệnh.
Thôi Hiếu lĩnh mệnh phò Khương Vương về dinh, Khương Vương vào trướng than khóc thảm thiết. Thôi Hiếu vội ra sau trướng nói với bọn lính Phiên:
- Hôm nay trong mình Điện hạ chẳng yên, các ngươi khỏi cần hầu hạ, hãy đi ra ngoài chơi cho điện hạ nghỉ.
Bọn lính Phiên mừng rỡ chạy ra ngoài chơi hết. Thôi Hiếu nhìn trước sau thấy không còn ai nữa liền đến gần nói:
- Có chiếu chỉ của Nhị đế, điện hạ hãy quỳ xuống mà nghênh tiếp.
Khương Vương nghe nói có chiếu chỉ vội vàng quỳ xuống. Thôi Hiếu vội lấy bức huyết chiếu ra dâng cho Khương Vương, Khương Vương tiếp lấy giở ra xem.
Xem xong, Khương Vương lại còn bi thảm hơn nữa. Còn đang khóc lóc bỗng nghe tiểu Phiên vào phi báo:
- Có chúa công đến.
Khương Vương vội vã giấu bức huyết chiếu vào mình rồi bước ra nghênh tiếp. Ngột Truật vào trướng ngồi xong cất tiếng hỏi:
- Trong mình Vương nhi thấy đã đỡ chưa?
Khương Vương đáp:
- Cám ơn Vương phụ đã có lòng đoái tưởng, hiện giờ trong mình con đã khá rồi.
Trong lúc đang chuyện vãn, bỗng thấy trên không có một con chim vóc lớn bằng con gà mái , lông năm sắc đỗ xuống trước dinh kêu the thé:
- "Triệu Cấu, Triệu Cấu! Lúc này chưa chạy còn đợi lúc nào?"
Thôi Hiếu nghe thất kinh còn Ngột Truật không hiểu chi hết, vội hỏi:
Con chim ấy nó nói chi vậy? Từ trước đến nay ta chưa từng thấy con chim nào biết nói và lại nói tiếng Trung Nguyên nữa chứ.
Khương Vương đáp:
- Ấy là quái điểu bên Trung Quốc thường có, nó tên là ? nha, hễ thấy nó thì là điềm không tốt, nay nó lại đến đây chửi phụ vương thật là vô lễ.
Ngột Truật lại hỏi:
- Nó chửi thế nào?
Khương Vương lắc đầu:
- Dạ con không dám nói.
Ngột Truật giải thích:
- Ấy đâu phải là lỗi của Vương Nhi? Con cứ việc nói có việc gì mà ngại?
Khương Vương đáp:
- Nó chửi phụ vương rằng: loài nghiệt súc, loài nghiệt cẩu, cắt họng, chém đầu cũng đáng lắm.
Ngột Truật nổi giận nói:
- Để ta cho nó một mũi tên chết phắt cho rồi.
Khương Vương nói:
- Xin phụ vương để cho con bắn cho.
- Được lắm, vậy thì con hãy bắn đi, để cha xem tài thiện xạ của con đến mức nào.
Khương Vương đứng dậy lầm rầm khấn vái:
- "Quả như trời đất chưa dứt nhà Tống, đã khiến con chim đến dắt tôi đi thì hãy cho tôi bắn trúng con chim này."
Vái rồi giương cung bắn một mũi, con chim há miệng ngậm phứt mũi tên bay đi. Thôi Hiếu liền dắt ngựa đến bẩm:
- Điện hạ hãy theo nó cho mau.
Khương Vương không còn nghĩ ngợi gì nữa, vội tung mình nhảy lên lưng ngựa chạy theo thần điểu. Thôi Hiếu cầm roi chạy theo sau, gặp phải bụi bờ cũng sải bước nhảy qua. Còn Ngột Truật ngồi trong trướng thấy Khương Vương rượt theo con chim chạy như bay, bèn lẩm bẩm một mình:
- Con ta dại quá, đáng giá gì một mũi tên mà chạy theo chi cho mệt.
Dứt lời liền trở về dinh ngồi ăn uống vui chơi với mấy vị vương tử. Bỗng có quan Bình Chương vào báo:
- Điện hạ cưỡi ngựa phi nhanh quá làm ngã hết mấy cái trướng phòng.
Ngột Truật nạt lớn:
- Việc như vậy mà cũng đến cấp báo làm rộn lên làm gì.
Bình Chương nghe quở mắng chẳng dám nói thêm, cúi đầu lui ra lập tức. Mấy vị Vương tử thấy Ngột Truật thương yêu Khương Vương như vậy trong lòng không phục. Xương Bình Vương bèn lên tiếng nói:
- Trướng phòng hư hại chẳng nói làm chi, ngặt vì Vương nhi tuổi còn thơ ấu cưỡi ngựa chưa quen, nếu rủi ro té ngã thì biết làm sao.
Ngột Truật cười đáp:
- Vương huynh nói rất phải, vậy để đệ ra coi thế nào.
Ngột Truật vội vàng nhảy lên lưng Hỏa Long Cu phóng như bay ra ngoài hỏi bọn lính Phiên:
- Chúng bay thấy Vương nhi chạy đi ngả nào?
Bọn lính Phiên bẩm:
- Chúng tôi thấy điện hạ ra khỏi dinh rồi chạy đi thẳng không biết đi đâu.
Ngột Truật nghe nói vội giục ngựa chạy theo. Con Hỏa Long Cu của Ngột Truật chạy nhanh lắm. Chỉ trong chốc lát Ngột Truật đã thấy xa xa có bóng người phi ngựa và Thôi Hiếu chạy sau không kịp mệt thở hổn hển.
Ngột Truật nghĩ thầm:
- "Chắc lão già này nói to nói nhỏ gì với nó rồi nên nó mới đi như vậy. Nhưng sao nó lại dại khờ đến thế? Nay thiên hạ đã thuộc về của ta rồi, chạy đi đâu cho khỏi?"
Ngột Truật giục ngựa sải tới gọi:
- Vương nhi, vương nhi! Sao không trở về, còn chạy đi đâu?
Khương Vương đang chạy bỗng nghe Ngột Truật chạy theo gọi lại kinh hồn hoảng vía, ráng sức thúc ngựa chạy nhanh hơn nữa.
Ngột Truật nghĩ thầm:
- "Con ta nó dại quá, thôi để ta bắn chết con ngựa hắn cưỡi xem hắn chạy đi đâu cho được".
Nghĩ đoạn giương cung nhắm phía sau ngựa bắn tới một mũi. Con ngựa bị tên ngã lăn ném Khương Vương nhào xuống đất. Khương Vương liền lồm cồm đứng dậy chạy bộ.
Ngột Truật thấy thế cười thầm:
- "Ta đã làm cho con ta sợ hết hồn".
Đang cơn nguy cấp Khương Vương bỗng thấy trong rừng có một ông già bịt khăn vuông, mình mặc áo đạo sĩ, một tay dắt ngựa một tay cầm roi chạy ra kêu lớn:
- Chúa công, chúa công! Hãy lên ngựa cho mau.
Khương Vương tiếp lấy roi ngựa rồi tung mình nhảy lên lưng ngựa ra roi chạy như bay.Ngột Truật thấy thế chỉ vào mặt ông già mắng:
- Lão súc sinh kia, chốc nữa ta trở lại đây ta sẽ giết chết ngươi đấy.
Khương Vương chạy miết đến Hiệp Giang thì trước mặt là con sông rộng mênh mông và sâu thăm thẳm. Nhìn lại phía sau lại thấy Ngột Truật rượt theo cũng đã gần kịp.
Khương Vương cất tiếng than:
- Thế là trời đã hại ta rồi.
Nói chưa dứt lời, con ngựa Khương Vương cưỡi liền giậm chân nhảy ùm xuống sông. Ngột Truật thấy vậy thất kinh chạy riết tới mé sông kiếm tìm không thấy hình bóng Khương Vương đâu cả.
Ngột Truật đinh ninh rằng Khương Vương đã bị chìm chết dưới đáy sông kia rồi, liền khóc rống lên rồi quay lại tìm lão già khi nãy thì không thấy tung tích đâu cả. Đi mấy bước nữa lại thấy Thôi Hiếu tự vẫn chết bên vệ đường, Ngột Truật lại càng thê thảm hơn nữa.
Trở về dinh, mấy vị vương tử đến hỏi thăm, Ngột Truật sa nước mắt thuật lại việc Vương Khương bị rơi xuống nước chết đuối rồi.
Mấy vị Vương tử khuyên giải:
- Nó vô phận bạc phúc nên rủi ro như vậy xin vương huynh chớ có ưu sầu mà hao mòn quý thể.
Nhắc lại Khương Vương, khi con ngựa nhảy ùm xuống sông thì nổi lều phều trên mặt nước mà Ngột Truật không thấy là nhờ có thánh thần bảo hộ lấp che.
Khương Vương ngồi trên lưng ngựa cũng như ngồi trong đám sa mù không dám mở mắt ra chỉ nghe bên tai gió lướt qua ào ào.
Độ một canh giờ sau con ngựa đã vượt khỏi sông nhảy phóc lên bờ cất vó chạy riết một hồi nữa. Khi tới chỗ đám rừng rậm, bỗng con ngựa nghiêng mình trút Khương Vương xuống đất rồi chạy biến vào rừng mất dạng.
Khương Vương nhìn theo ngựa cất tiếng than:
- Thần mã ôi! Ngươi đã có lòng độ ta đến đây, sao ngươi chẳng ráng sức thêm một vài dặm nữa, lại bỏ ta giữa chốn rừng sâu như vậy?
Khương Vương than thở hồi lâu rồi thả bộ đi lần tới mé rừng, bỗng thấy có một tòa cổ miếu phía trước có tấm biển đề năm chữ lớn bằng vàng. Khương Vương lẩm nhẩm đọc:
- "Thôi Phù Quân thần miếu".
Khương Vương bước vào miếu lại thấy một con ngựa bằng đất hình dạng giống hệt con ngựa chở mình đi khi nãy, mình mẩy lông lá đều ướt đẫm. Khương Vương nghĩ thầm:
- Chẳng lẽ con ngựa này đã đưa ta qua sông được sao? Nghĩ đoạn liền cất tiếng nói:
- Con ngựa này bằng đất mà xuống nước lại không rã hay sao?
Vừa nói dứt lời, bỗng thấy con ngựa rã rời sụm xuống đất nát tan. Thấy thế Khương Vương than thở chẳng cùng rồi bước tới giữa bàn thờ giơ tay lên nói:
- Đội ơn thần hộ mạng đã độ ta qua sông Hiệp Giang. Ta là Triệu Cấu Cửu điện hạ của Tống triều, nếu ta khôi phục được giang sơn nhà Tống, ta sẽ cho người đến đây sửa sang ngôi miếu và tạc tượng bằng vàng thờ phụng để tạ ơn.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top