16. Những Đường Hướng Mục Vụ Cần Xây Dựng Lại

"Nhân danh Thầy họ sẽ trừ quỷ" (Mc 16,17). Lời khẳng định đơn giản kết thúc Phúc Âm Marcô này đã đủ để dùng làm nên đường hướng mục vụ hoàn hảo cho việc giải thoát trong suốt những thế kỷ đầu tiên của Kitô giáo. Justin, Tertulianô, và Origênê đều nói cho chúng ta rằng mỗi Kitô hữu là một nhà trừ quỷ, tức là có quyền trừ quỷ, quyền đó được thành lập trên đức tin và nhân danh Chúa Giêsu.

Rồi các công thức trừ quỷ bắt đầu nhân rộng và được hệ thống lại.
Trong khi ấy những người có thẩm quyền trong Giáo Hội bắt đầu điều chỉnh các việc trừ quỷ, ủy thác hầu hết các trường hợp nghiêm trọng chỉ cho các cá nhân có khả năng. Đồng thời Giáo Hội thêm nhiều các á bí tích, cho phép mọi người dùng chúng trong những tình huống nhẹ.

Bắt đầu vào thế kỷ mười bảy, khi hầu hết các cuộc trừ quỷ hết sức nghiêm trọng đã được dành cho các giám mục hoặc cho các linh mục được giám mục ủy cho, như trong trường hợp ngày nay, mỗi giáo phận đều có đầy đủ các nhà trừ quỷ. Cơn khủng hoảng hiện nay của sự vô tín trong thực hành đã khiến cho các giám mục tránh đối mặt với một vấn đề vốn là một phần của mọi thực hành mục vụ thông thường của mỗi giáo phận.

Hậu quả là các linh mục không
được chuẩn bị cũng không sẵn lòng chấp nhận chức vụ này. Giáo luật khuyên riêng các linh mục coi xứ hãy đặc biệt gần gũi các gia đình và các cá nhân đang đau khổ; hãy giúp đỡ người nghèo, người bệnh tật, túng thiếu, và những ai đang chịu những thử thách nghiêm trọng (điều 529).
Chắc chắn rằng những chỉ dẫn này bao gồm những nhu cầu đặc biệt của những người đang là nạn nhân của ma quỷ. Nhưng còn ai tin những nạn nhân này?

Kết quả là, việc chạy đến với các phù thủy, thày cúng, kẻ bói bài, những người bỏ bùa ngải ngày càng gia tăng; có rất ít các nạn nhân chạy đến cùng các nhà trừ quỷ trước khi đã chịu đau
khổ dưới tay những người khác. Chúng ta đang chứng kiến sự ứng nghiệm những lời trong Kinh
Thánh liên quan đến Vua Ahaziah. Trong lúc vua bị bệnh nặng, ông đã sai sứ giả đi cầu vấn Baalzebub (vua các loài quỷ!), thần của dân Ekron, để hỏi cho biết tương lai. Tiên tri Êlia đã chặn các sứ giả này và hỏi họ: "Ở Israel không có Thiên Chúa hay sao mà các ngươi đi hỏi thần Baalzebub?" (2Vua 1, l-4).

Ngày nay, Giáo Hội Công Giáo đã quá lơ là với sứ mạng đặc biệt này, và con cái Giáo Hội không chạy lại với Thiên Chúa nữa nhưng là tìm đến với Satan.
"Nhu cầu lớn lao nhất của Giáo Hội ngày nay là gì? Đừng có nghĩ rằng câu trả lời của chúng tôi là quá giản dị hoặc mê tín và không thực tế: một trong những nhu cầu lớn nhất ngày
nay là bảo vệ cho khỏi sự dữ mà chúng ta gọi là ma quỷ" (Paul VI, 15.11.1972).

Trong khi những lời của Đức Thánh Cha nhằm nhắm đến những lãnh vực rộng lớn hơn nhiều, thì hiển nhiên là
những việc trừ quỷ cũng được bao gồm. Uỷ ban chuyên trách đang duyệt lại sách Nghi thức phải đối phó với nhiều công việc rất phức tạp. Thêm vào với việc duyệt lại kinh nguyện và các qui tắc trừ quỷ, cũng phải bàn đến
toàn thể đường lối mục vụ về vấn đề.
Hiện nay, sách Nghi Thức trực tiếp đề cập đến chỉ trường hợp quỷ nhập, là trường hợp nghiêm trọng nhất và hiếm có nhất trong tất cả các hoạt động của ma quỷ.

Trong thực tế, các nhà trừ quỷ phải quan tâm đến mọi kiểu can thiệp của ma quỷ: quỷ hành (nhiều hơn trường hợp quỷ ám hoàn toàn), quỷ ám ảnh, quỷ quấy phá nhà cửa, và đến hoạt động khác xem ra có lợi từ các lời cầu nguyện của chúng ta. Câu ngạn ngữ cổ: "natura non facit saltus" (thiên nhiên không nhảy vọt, nhưng tiến từ từ, qua dòng tiến hoá) cũng có giá trị cho hoạt động Satan.

Chẳng hạn, không có sự phân biệt rõ ràng giữa trường hợp quỷ hành và quỷ nhập, cũng như đường ranh giữa quỷ hành và các sự dữ khác cũng không rõ ràng. Một số những bệnh hoạn thể lý có thể bị gây ra bởi ma quỷ, cũng như chắc chắn nó gây ảnh hưởng trên một số hình thức bệnh tinh thần (tình trạng thường xuyên sống trong tội trọng, đặc biệt trong những trường hợp hết sức nghiêm trọng).

Tôi đã nhìn thấy những lợi ích của việc làm một cuộc trừ quỷ vắn tắt, bên cạnh kinh nguyện bình thường cầu cho bệnh nhân, khi tôi nghi ngờ căn bệnh có nguồn gốc ma quỷ. Thỉnh thoảng tôi đã làm một cuộc trừ quỷ vắn tắt trong khi giải tội khi tôi phải đối mặt với tội đặc biệt ương bướng,
như tội dâm dục đồng phái. Thánh Alphongsô Liguori, Tiến sĩ Giáo Hội về thần học luân lý, đã nói với các nhà giải tội rằng linh mục, trước hết mọi sự, phải trừ quỷ cách kín đáo bất cứ khi nào nghi có ma quỷ quấy phá.

Theo lối giải thích ngặt của cuốn Nghi Thức hiện hành, nhà trừ quỷ chỉ được phép can thiệp khi hồ nghi có quỷ nhập. Tất cả những trường hợp có ảnh hưởng sự dữ khác có thể được giải quyết qua những biện pháp thông thường để nhận được ân sủng: cầu nguyện, lãnh các bí tích, á bí tích, cầu nguyện nhóm cho sự giải thoát... Đây là một lãnh vực quá rộng bị bỏ rơi cho
sáng kiến riêng tư mà không có bất cứ qui tắc đặc biệt nào.

Cuối chương này có lá thư của thánh
bộ Giáo lý Đức tin gửi cho tất cả các giám mục vào ngày 29.9.1985. Thư này nhắc nhở cho các giám mục về những qui tắc hiện hành, mà không nói đến những vấn đề phức tạp mà ủy ban xét
duyệt sách Nghi thức đang phải đối phó. Tôi không biết các giám mục có gửi những bài bình luận và những đề nghị cho uỷ ban đó không, nhưng tôi hồ nghi rất nhiều, vì sự thiếu quan tâm hiện nay đến vấn đề.

Đức Hồng y Suenens chắc chắn là một vị nhạy cảm nhất trong các giám mục trước vấn đề trừ quỷ. Ngài biết rất rõ những thực tế hiện nay bởi vì ngài sống nó qua những lời cầu nguyện
giải thoát được thực hành bởi các nhóm canh tân. Trong cuốn sách của ngài, cuốn mà tôi đã nêu trên, ngài viết: "Cần phải bàn giải để xác định ranh giới rõ ràng cho những việc giải thoát khỏi ma quỉ được phép thực hiện mà không cần đến sự uỷ quyền hay việc trừ quỉ. Vì thoạt nhìn, làn
ranh có vẻ rõ ràng: trường hợp nghi có quỷ nhập thực sự thì chỉ đức giám mục và những người mà ngài ủy nhiệm mới được giải quyết.

Còn các trường hợp khác đều là lãnh vực bỏ ngỏ và không có luật nào ràng buộc, do đó, ai làm cũng được." Tuy nhiên, Đức Hồng Y biết rất rõ ràng những trường hợp quỷ ám thực sự thì ít và đòi hỏi một sự chẩn đoán chuyên môn và đặc biệt trước khi chúng có thể được xác định. Do đó, ngài thêm: "Mọi sự ở ngoài trường hợp quỷ ám thực sự thì giống như một lãnh vực mà các ranh giới của nó lờ mờ khó xác định, nơi còn nhiều lẫn lộn nhập nhằng. Sự quá phức tạp về thuật ngữ
không giúp cho đơn giản hoá vấn đề; không có định nghĩa nào thống nhất cả, và chúng ta tìm thấy nhiều vấn đề khác nhau dưới cùng một nhãn hiệu (Rinnovamento e potenza delle tenebre,p.95).

Trong những trang kế tiếp, đức Hồng y cho những gợi ý thực tế: "Sẽ rất hữu ích nếu, trong số những cách khác, chúng ta giải thích rõ ràng thuật ngữ và xác định rõ ràng và chính xác sự
khác nhau giữa cầu nguyện giải thoát và trừ quỷ giải thoát, với sự nhấn mạnh đến ma quỷ. Sự trừ quỷ giải thoát trong trường hợp có quỷ nhập, được dành riêng cho giám mục phân định. Tuy nhiên, khi xảy ra những cuộc trừ quỷ được thực thi ngoài những trường hợp quỷ ám hoàn toàn,
thì không có ranh giới rõ ràng" (sđd. tr. 119-120).

Nói cho ngay, tôi có thể nhìn thấy một đường phân ranh rõ ràng theo những tiêu chuẩn sau đây: một cuộc trừ quỷ đích thực được dành cho một giám mục hoặc người đại diện ngài là một á bí tích, và như thế nó có sự cầu bầu của Giáo Hội làm bảo chứng; tất cả những cuộc trừ quỷ khác là một hình thức cầu nguyện riêng tư, ngay cả khi được thực hiện bởi một nhóm. Tôi không biết tại sao Đức Hồng y Suenens đã không nói về những cuộc trừ quỷ như một á bí tích và như hình thức giải thoát độc nhất có thể được gọi đúng là trừ quỷ.

Mặc dù ngài dành vài chương trong sách của ngài về á bí tích và kể ra một số ví dụ, nhưng ngài không liệt kê sự trừ quỷ vào trong số đó; theo ý kiến của tôi, việc gộp nó vào số các á bí tích sẽ định nghĩa nó cách rõ ràng, ít nhất về điểm này. Tôi chắc rằng Đức Hồng y sẽ tha thứ cho tôi về nhận xét này.Đức Hồng y Suenens có những gợi ý đề nghị thực tiễn như sau: "Tôi đề nghị dành riêng cho giám mục không chỉ những trường hợp quỷ nhập, theo những qui tắc cũ, nhưng hãy để cho
ngài quyền phán quyết trên tất cả các trường hợp nghi có ảnh hưởng của ma quỷ.

Mặc dù chức vụ trừ quỷ đã biến mất, ít nhất như một chức nhỏ, thì bất cứ hội đồng giám mục nào cũng có thể
xin Roma cho tái lập lại nó" (Sđd. tr. 121-122). Đức Hồng Y đề nghị cho phép giáo dân được lãnh phận vụ của nhà trừ quỷ trong những trường hợp ít nghiêm trọng.

Cha Grua trong cuốn sách tuyệt vời mà tôi đã trích dẫn, đưa ra những đề nghị khác. Ngài đề cập đến lời khuyên của Hồng y Suenens và thêm một số lời khuyên có thể theo được tạm thời
trong khi chờ đợi những quyết định chính thức. Những đề nghị này rất thực tiễn và nếu được thi hành, có thể cung cấp chất liệu tốt cho uỷ ban duyệt xét phần Nghi thức trừ quỷ.

Trong mỗi giáo phận, đức giám mục nên bổ nhiệm một nhóm người sáng suốt, gồm ba hay bốn người, để làm việc cận kề với mỗi nhà trừ quỷ, mỗi nhóm nên có một nhà tâm lý học và
một bác sĩ. Mỗi trường hợp được nghi có hoạt động của ma quỷ nên đem tới nhóm này, để sau cuộc nghiên cứu thích hợp, sẽ đưa bệnh nhân đến đúng chỗ: một bác sĩ, một nhà trừ quỷ, hoặc một nhóm cầu nguyện.

Tất cả các sự cố nhẹ hơn nên đưa tới nhóm cầu nguyện, hoặc các nhóm tuỳ theo sự cần thiết, và nhà trừ quỷ sẽ chỉ được giới thiệu cho các biến cố nghiêm trọng. Một linh mục nên luôn luôn có mặt tại các nhóm cầu nguyện.
Do đó, sự giải thoát luôn luôn nên là một phần của sự chăm sóc mục vụ dành cho bệnh nhân. Một liệu pháp đúng nghĩa nên bao gồm những việc sau: Phúc Âm hoá, thực hành bí tích
thống hối và Thánh Thể, các việc thiêng liêng, gia nhập các nhóm cầu nguyện.

Khỏi phải nói, trong các biến cố nhẹ, một nhóm cầu nguyện không được phép trừ quỷ nhưng chỉ cầu nguyện
trên bệnh nhân, trừ khi có sự có mặt của một linh mục có đủ thẩm quyền (Sđd. tr. 113- 114). Việc tăng thêm các nhà trừ quỷ và huấn luyện họ biết thi hành tác vụ của mình cho đúng không chỉ là những thách đố duy nhất. Có nhiều vấn đề khác còn bỏ ngỏ cần phải được giải quyết trước khi điều này sẽ không còn là một chương trong sách của Giáo Hội bị niêm phong
với hàng chữ "Công trình đang tiến hành".

Ma quỷ không bao giờ ngưng hoạt động, trong khi các đầy tớ Chúa đang ngủ, y như trong dụ ngôn lúa mì và cỏ lùng kể lại. Bước đầu tiên, bước cơ
bản, là đánh thức sự hiểu biết của các giám mục và các linh mục, theo đúng âm điệu học thuyết mà Kinh Thánh, Truyền Thống, và Huấn quyền đã luôn luôn truyền đạt, cả qua Công Đồng Vaticanô II, các giáo huấn của các Đức Thánh Cha gần đây, và mới đây nhất là cuốn giáo lý của Giáo Hội Công Giáo, mà tôi đã trích dẫn trong các chương đầu. Mục đích chính của cuốn sách của tôi là góp phần cho việc đánh thức này, và tôi sẽ cho là thành công nếu tôi đạt được mục tiêu này, không quan tâm đến bất cứ lời khen ngợi, chỉ trích hoặc số lượng cuốn được bán ra lớn thế nào.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top