nguyentuan hehe
-Iris-
(sưu tầm)
Phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân qua "Người lái đò
sông Đà"
Đề bài: Phân tích những biểu hiện đặc sắc của phong
cách nghệ thuật Nguyễn Tuân trong tuỳ bút "người lái
đò sông Đà". So sánh với "Chữ người tử tù", nhận xét về
những chỗ thống nhất và chỗ khác biệt trong phong cách
nghệ thuật Nguyễn Tuân trước và saucách mạng.
Bài làm:
"Nguyễn Tuân là một định nghĩa về người nghệ sĩ tài
hoa" (Nguyễn Minh Châu). Toàn bộ cuộc đời cũng như
gần 5000 trang viết của ông đã tạo nên một "huyền sử"
- huyền sử của một người ưu lối chơi "độc tấu". Cung
đàn văn chương Nguyễn Tuân được viết trên cùng một
khuông nhạc nhưng với thanh âm trầm bổng khác nhau
của các nốt nhạc. Phong cách Nguyễn Tuân vì vậy mà có
sức hấp dẫn người đọc. Những nét thống nhất và khác
biệt ấy thể hiện rõ qua hai tác phẩm "Chữ người tử
tù" (1939) và "Người lái đò sông Đà" (1960).
Sau nhiều lần đến với Tây Bắc đặc biệt là chuyến đi thực
tế năm 1958 tại nơi đây Nguyễn Tuân đã viết tập tuỳ
bút "Sông Đà". "Người lái đò sông Đà" được coi là một
trong những tác phẩm thành công xuất sắc nhất của tập
tuỳ bút này. Với khát khao truy tìm "chất vàng mười của
tâm hồn vùng Tây Bắc" - "thứ vàng mười đã được thử
lửa" (Đi mở đường), Nguyễn Tuân đã viết lên bài ca cuộc
sống của con người và thiên nhiên Tây Bắc với nhiều nét
độc sáng mới lạ.
Những nhà văn lớn phải là những nhà phong cách lớn.
Sinh thời Nguyễn từng ao ước khi chết đi sẽ mang theo
nguyên cảo của mình và không để lại bất cứ bản sao
nào khác trên cuộc đời. Có lẽ, cái Nguyễn Tuân sợ mất
đi nhất chính là phong cách, cá tính của mình. Phong
cách nghệ thuật chính là diện mạo thẩm mĩ độc đáo,
riêng biệt của nhà văn trong cách sáng tác, được tạo
thành bởi sự thống nhất của các phương tiện biểu hiện,
phù hợp với cái nhìn riêng biệt của nhà văn về đời sống.
Phong cách nghệ thuật được hình thành nhờ sự lặp đi
lặp lại một số yếu tố thuộc phạm trù nội dung và hình
thức một cách có thẩm mĩ, xuyên suốt sự nghiệp sáng
tác của tác giả. Đặc trưng nhất quán đầu tiên của phong
cách nghệ thuật là tính thống nhất, ổn định, bền vững.
Phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân không nằm ngoài
đặc điểm này.
Nhìn lại toàn bộ sự nghiệp văn học Nguyễn Tuân, ta
thấy các sáng tác của ông hướng tới nhiều chủ đề khác
nhau: ca ngợi truyền thống văn hoá, phong cảnh đất
nước, cách mạng,... những đề tài này được triển khai ở
nhiều thể loại như truyện ngắn, tuỳ bút, ký, tiểu luận...
Văn ông có thể viết trong nhiều hoàn cảnh khác nhau:
những chuyến đi phiêu bạt để "thay đổi thực đơn cho
các giác quan", trong một xóm cô đầu, một con thuyền
trên sông hương... Còn sau cách mạng, ông viết trong
những chuyến đi thực tế lên Tây Bắc, khi hành quân
cùng bộ đội lên Việt Bắc... thế nhưng ta vẫn tìm thấy
trong những sáng tác ấy có một cốt cách chung. Trước
hết, ta thấy một Nguyễn Tuân luôn say mê truy tìm vẻ
đẹp độc đáo của con người và cuộc sống.
Trong "Chữ người tử tù", Nguyễn viết về một thời đã xa
nhưng còn vang bóng. Ông trân trọng, nâng nịu và giữ
gìn, làm sống dậy trong lòng người đọc một thú chơi tao
nhã của người xưa: Thú chơi chữ. Khi hiện thực bấy giờ
với những "ông nghè, ông cống cũng nằm co" (Tú
Xương). Vũ Đình Liên làm ta rơi nước mắt xót xa trước
cảnh ông đồ già bị lãng quên giữa dòng chảy cuộc đời,
thì Nguyễn lại cho ta rạo rực sống lại cái thủa hoàng
kim, hán học với nghệ thuật thư pháp điêu luyện từng
"Vang bóng một thời". Cái thi vị hoài cựu đưa ta về với
những mảnh lụa trắng, bút lông, nghiên mực hay câu
đối, hoành phi... - cái đẹp thanh khiết của cả người cho
chữ và người chơi chữ. Tất cả cuốn người đọc về với hồn
dân tộc, với nét đẹp truyền thống ngàn năm còn vang
mãi. Một chàng Nguyễn ngông ngạo, ngang tàn, chỉ
muốn "ném đá" vào những người xung quanh lại thiết
tha với giá trị văn hoá tinh thần của cha ông. Vùng mĩ
cảm của Nguyễn Tuân rất riêng cho ta thấy một tấm
lòng yêu nước thầm kín, một tinh thần dân tộc có màu
sắc độc đáo trong chàng trai kiêu bạc của những năm 30
của thế kỉ 20. "Có thể nói, lòng yêu nước, tinh thần dân
tộc gắn liền với những giá trị văn hoá cổ truyền là tư
tưởng chủ đạo của Nguyễn Tuân, đã tạo nên giá trị chân
chính và lâu bền cho các tác phẩm của ông" (Giáo sư:
Nguyễn Đăng Mạnh).
Vẫn với lòng đam mê đi tìm vẻ đẹp độc đáo của con
người và cuộc sống, đến với sông Đà, Nguyễn Tuân đã
thực sự bị cuốn hút bởi sự khác thường của nó:
"Chúng thuỷ giai Đông tẩu
Đà giang độc Bắc lưu"
Nếu sông Đà cứ chảy xuôi dòng như bao con sông khác
thì có lẽ sẽ chẳng bao giờ Nguyễn Tuân viết về nó, bởi
không có gì đặc biệt thì làm sao có thể hấp dẫn ngòi bút
của nhà văn?! Một dòng sông hung bạo và trữ tình,
khám phá nó như trèo lên một cái cây đầy gai, nhưng
trên ngọn là quả ngọt, không ít khó khăn nhưng cũng
đầy thú vị. Nguyễn Tuân đã chọn đúng đối tượng miêu
tả để mang lại cho người đọc cảm giác kỳ thú, tò mò khi
ở nơi thượng nguồn sông Đà và chợt khoan khoái, yên
bình khi về đến hạ lưu. Màu nước sông cũng rất độc đáo
tưởng như những chiếc khăn với màu sắc khác nhau mà
núi rừng Tây Bắc quàng lên mình mỗi khi chuyển mùa:
"Mùa xuân dòng xanh ngọc bích, chứ nước sông Đà
không xanh màu xanh canh hến của sông Gâm, sông Lô.
Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người
bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận giữ ở một
người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về".
Nguyễn Tuân cũng có cách cảm nhận về ngoại hình
người lái đò rất độc đáo. Người lái đò ấy dù gần 70 tuổi,
nhưng vẫn tráng kiện, có thân hình "cao to và gọn
quánh như chất sừng, chất mun" cùng với "cái đầu quắc
thước", "đôi cánh tay trẻ tráng"... Nét riêng ấy của ông
lái đò đã cho ta một cách cảm nhận về những con người
lao động khoẻ khoắn, từng trải nơi rừng núi Tây Bắc.
Những vẻ đẹp độc đáo trong văn Nguyễn Tuân đã gây
ấn tượng với người đọc ngay từ những trang đầu tiên, là
nét phong cách dễ nhận ra nhất của ông.
Một nét đặc sắc nữa trong phong cách Nguyễn Tuân là
ông thường miêu tả những cảnh đẹp tuyệt mỹ, tuyệt
đích; cái đẹp ấy là sự hội tụ của cái đẹp thi vị trữ tình và
vẻ đẹp hoàng tráng dữ dội đến dữ dằn.
Ta bắt gặp một không khí hừng hực lửa cháy và khói
trắng trong đêm cho chữ ở nhà tù Tỉnh Sơn (Chữ người
tử tù). Đây là ấn tượng của Nguyễn Tuân về một "cảnh
tượng xưa nay chưa từng có". Những tưởng sẽ chẳng có
cảnh gì đẹp giữa không gian nhà tù u tối, "chật hẹp, ẩm
ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột,
phân gián". Thế nhưng bằng đôi mắt nghệ sĩ, Nguyễn
Tuân đã khám phá ra cái đẹp tinh tế, mới mẻ ở chốn
"bùn lầy nước đọng" ấy. Không gian nhà tù trở thành
nơi cho chữ thiêng liêng, gợi không khí của thời tiền sử
với "ánh sáng đỏ rực" của bó đuốc toả sáng đỏ cả không
gian, khói toả bốc lên mờ ảo, huyền bí. Ngỡ như sương
mờ của chiều hoàng hôn lạnh cháy đỏ trời đã thu hẹp
và được Nguyễn Tuân đặt trong không gian này. Một
cảnh thơ ảo nhưng cũng rất huyền bí ẩn chứa sức mạnh
tiềm tàng.
Đến với "Người lái đò sông Đà" ta cảm thấy "sởn gai ốc"
khi Nguyễn Tuân miêu tả thác đá sông Đà. Hai bên bờ
sông dựng đứng vách đá như những hùm beo, ăn chẹn
lòng sông Đà, gợi lên thế hiểm trở của dòng sông:
"Những vách đá bờ sông dựng vách thành (...), có chỗ
vách đá thành chẹn lòng sông Đà như một cái yết hầu".
Cái dữ dội của nước, hút nước, thác và thạch bàn trận
trên sông Đà đã khơi nguồn cảm hứng nghệ thuật cho
nhà văn. Nước sông Đà như uẩn ức, oán thán mà thành
"nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng
gió gằn gè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ suýt". Nhà
văn tưởng tượng ra cái hút nước sông Đà giống như "cái
giếng bê tông (...) nước ở đây thờ và kêu như cái cửa
cống bị sặc". Cái đẹp dữ dội, hoành tráng của dòng sông
làm người đọc giật mình nhưng không gây cảm giác sợ
hãi, rợn ngợp. Thác sông Đà "như tiếng một ngàn con
trâu mộng đang ***g lộn giữ rừng vầu, rừng tre nổ lửa,
phá tuông rừng lửa, rừng lửa cũng gầm thét với đàn
trâu da cháy bùng bùng". Con sông như đang ***g lộn
trong một cơn cuồng phong, giống như một người trong
cơn thịnh lộ ghê gớm. Cái mặt dữ dằn của sông Đà còn
hiện lên trên gương mặt đá: "Mặt hòn đá nào cũng ngỗ
ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm, méo mó (...) tiu nghỉu
xanh lè". Con sông Đà hung bạo như hùm, beo, thuỷ
quái đã giúp Nguyễn Tuân tô đậm vẻ đẹp của núi rừng
Tây Bắc hùng vĩ uy nghiêm.
Việc tiếp cận con người sự việc từ phương diện thẩm mĩ,
từ góc độ của cái đẹp của Nguyễn Tuân đã cho ta thấy
một con sông trữ tình, lãng mạn. Dòng sông mơ mộng,
huyền ảo bởi cái dáng hình uốn lượn tự nhiên, bởi
khung cảnh thi vị hai bên bờ sông. Đây là nét đẹp thứ
hai của dòng sông được Nguyễn miêu tả bằng cảm quan
của một nhà văn lãng mạn với cái nhìn duy mĩ. Sông Đà
gợi cảm khiến nhà văn cảm thấy "vui như thấy nắng
giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt
quãng, dòng sông đã gợi ra niềm vui ngây thơ con trẻ,
đưa ta trở về với giây phút hồn nhiên trong quá khứ của
chính mình. Cảnh bờ bãi sông Đà có lẽ đã đẹp đến tận
cùng qua ngòi bút miêu tả của Nguyễn Tuân: "Bờ sông
hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như
một nỗi niềm cổ tích thuở xưa". Không hiểu sao tôi lại
thấy thú vị với cách so sánh vừa trừu tượng, vừa cụ thể
này. Sông Đà chính là nơi hội tụ của đất trời, là sợi dây
nối giữa thiên nhiên hoang dại của thủa hồng hoang với
cảnh vật tươi đẹp, mộng mơ của hiện tại. Nét đẹp mềm
mại, trong sáng của sông Đà gợi ra từ những câu văn
thướt tha duyên dáng: "Con sông Đà tuôn dài, tuôn dài
như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện
trong mây trời Tây Bắc, bung nở hoa ban, hoa gạo tháng
2 và cuồn cuộn mùi khói núi Mèo đốt nương xuân". Có
lẽ đọc đến câu văn này không ít người muốn lên ngay
Tây Bắc để chiêm ngưỡng ngay khung cảnh huyền diệu
ấy. Cái đẹp của cảnh trời quê hương vẫn luôn là một
niềm sáng trong văn Nguyễn Tuân.
Con người trong văn Nguyễn Tuân bao giờ cũng đẹp với
vẻ tài hoa nghệ sĩ trong nghề nghiệp của mình. Với
Nguyễn Tuân những người bình thường khi thực hiện
những công việc bình thường trong phạm vi nghề nghiệp
của mình nếu đạt tới một trình độ tinh xảo, nhuần
nhuyễn, khéo léo mà người khác khó lòng theo kịp thì
được coi là một kẻ tài hoa: "mỹ thuật vốn không có bà
con luận lí với thời đại, một thằng ăn cắp cũng trở lên
đẹp đẽ khi nó cắt túi người ta rất gọn, rất nhanh". Vì
vậy trong "Vang bóng một thời", Nguyễn Tuân không chỉ
ca ngợi tài "thả thơ", "đánh thơ", tài ném bút chì... mà
còn trân trọng tài viết chữ "rất nhanh rất đẹp" của Huấn
Cao - "những nét chữ vuông tươi tắn nói lên cái hoài
bão tung hoành của cả một đời con người". Đẹp hơn
nữa là cái nhân cách đáng trọng in tâm hồn Huấn Cao.
Đó là thiên lương cao đẹp, khí phách hiên ngang không
khuất phục quyền uy. Chính vì vậy, đối với quản ngục,
xin chữ Huấn Cao không chỉ bởi chữ quý mà còn như
vớt được một linh hồn cao khiết giữa chốn trần ai bụi
bặm thời bấy giờ. Huấn Cao toả sáng rực rỡ trong ngục
tù tăm tối, ông chính là "tấm lụa bạch còn nguyên vẹn
lần hồ" và cũng là người muốn trao tấm lụa ấy cho thầy
thơ lại, quản ngục. Nếu như Nguyễn để cho cụ ấm mơ
ước "chỉ có những người tao nhã cùng một thanh khí
mới có thể cùng nhau ngồi bên một ấm trà" (Chén trà in
sương sớm) thì đến với Huấn Cao không chỉ muốn mình
giữ được thanh khí mà còn muốn những người tốt xung
quanh mình không mất đi cái thanh khí. Đó là một con
người có cái tâm cao cả, rộng lớn.
Sau cách mạng, Nguyễn Tuân cũng khai thác vẻ đẹp
nghệ sĩ của ông lái đò. Đọc trang tuỳ bút Nguyễn Tuân
ta thấy hiện lên không phải là một ông lái đò bình
thường mà là một nghệ sĩ trong nghề sông nước, như
một nhạc sĩ thiên tài chỉ huy giàn nhạc trên con thuyền
để vượt lên bảng trường ca sóng nước ào ạt kia. Ông đò
không chịu được cảnh phẳng lặng của sông nước mà vẫn
muốn tìm đến nơi nhiều ghềnh lắm thác để thử sức. ý
nghĩa giản dị mà đáng quý biết bao: "chạy thuyền trên
khúc sông không có thác, nó dễ dại tay, dại chân và
buồn ngủ". Luôn muốn vượt qua những thử thách khó
khăn như không sống một cuộc sống mờ mờ, nhàn
nhạt, hời hợt như đĩa đèn - ấy là cái cốt cách tài hoa
trong một nghệ sĩ chèo đò. Với kinh nghiệm dạn dày,
ông đò điều khiển chiếc thuyền vượt thác dữ một cách
điêu luyện: "thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh
qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái lượn được".
Đó là nét đẹp kết tinh, là chất "vàng mười" đáng quý
nhất của tâm hồn Tây Bắc.
Cái uyên bác của Nguyễn Tuân thể hiện rõ ở những hiểu
biết sâu sắc về nhiều lĩnh vực khoa học, nghệ thuật
được ông đưa vào ngôn ngữ trong văn của mình. Đọc
"Chữ người tử tù" ta thấy tầm hiểu biết lịch sử của
Nguyễn về triều đại phong kiến nhà Nguyễn, về giáo thụ
Cao Bá Quát để tạo nên không khí lịch sử và nhân vật
Huấn Cao. Nguyễn Tuân còn tỏ ra rất kinh nghiệm khi
tung ra những hiểu biết về lĩnh vực văn hoá (nghệ thuật
tư pháp), xã hội (những ứng xử, cung cách của các nhân
vật). Cảnh cho chữ cuối cùng trong thiên truyện in đậm
dấu ấn của cái nhìn điện ảnh. Sự tương phản, đối lập rõ
nét giữa ánh sáng và bóng tối, cái đẹp rực rỡ của cảnh
cho chữ với cái xấu xa nhơ bẩn của nhà tù. Giữa không
gian đỏ rực và màn khói trắng. Nguyễn Tuân đã tạc lên
bức điêu khắc biểu tượng, hội tụ cái đẹp: "Một người tù,
cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang đậm tô nét chữ
trên tấm lụa trắng tinh". Cái uyên bác của Nguyễn Tuân
đã đem lại cho trang văn tính tạo hình và trở nên phong
phú và chính xác hơn.
Đến "Người lái đò sông Đà" nét phong cách này vẫn
được giữ nguyên khi ông tung ra những hiểu biết của
mình về địa lý, lịch sử, hội hoạ, điện ảnh, quân sự, thể
thao... để miêu tả con sông Đà. Người đọc như được
chiêm nghiệm một cuốn từ điển sống, một cuốn Bách
khoa toàn thư đồ sộ hấp dẫn kì lạ. Nguyễn mang đến
trang văn của mình với góc nhìn của nghệ thuật thứ bảy
khi ông quay cái hút nước ghê rợn của sông Đà: "Cái th
quay tít, những thước phim màu cũng quay tít".
Có khi ông lại đẩy ống kính ra xa hơn để thu toàn bộ
cảnh thác đá và vượt thác của ông lái đò. Với con mắt
của một nhà hội hoạ, Nguyễn Tuân cho người đọc cảm
nhận đúng màu nước sông Đà một cách tinh tế nhất.
Dưới bàn tay tài hoa của một nhà điêu khắc đá sông Đà
lại được Nguyễn miêu tả với những nét "mặt hòn đá nào
cũng ngỗ ngược, nhăn nhúm, méo mó"... Cuộc giao
chiến giữa ông lái đò và thác nước hiện lên sống động
dưới con mắt chiến lược quân sự của nhà văn. Vốn văn
hoá sâu rộng, lịch lãm của Nguyễn Tuân mở ra tầm hiểu
biết mới cho người đọc về tài nguyên tổ quốc bao la, tất
cả đều sống dậy như một sinh thể có hồn cốt, thức dậy
trong ta lòng yêu tổ quốc vô bờ bến...
Nhận xét về phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân, Anh
Đức viết: "Không biết chừng nào mới lại có một nhà văn
như thế, một nhà văn mà khi ta gọi là một bậc thầy của
ngôn từ ta không hề thấy ngại miệng, một nhà văn độc
đáo, vô song mà mỗi dòng, mỗi chữ tuôn ra đầu ngọn
bút đều như có đóng một dấu triện riêng". Nét phong
cách này thể hiện rõ trong "Chữ người tử tù" và "Người
lái đò sông Đà". Ngôn ngữ trong văn ông đa dạng, phong
phú, mới mẻ, in đậm dấu ấn cá tính riêng. Do viết về đề
tài "vang bóng" các nhân vật chính là nho sĩ nên ngôn
ngữ Nguyễn Tuân trong "Chữ người tử tù" rất cổ kính,
bác học: "Phiến trát, lạc khoan, pháp trường, thằng
thập, bút con...".
Những từ ngữ ấy được Nguyễn Tuân sử dụng một cách
nhuần nhuyễn, linh hoạt, tạo âm vang ngàn xưa vọng
lại - âm vang của một thời xa vắng. Trong "Người lái đò
sông Đà", người đọc được thưởng thức một loạt ngôn từ
mới mẻ, sáng tạo, mang bản sắc riêng: "lặng tờ, bờ tiền
sử, nỗi niềm cổ tích, thơ ngộ..." Nhà văn thực sự là một
ông lái tài hoa trên dòng sông ngôn ngữ. Các câu văn
Nguyễn Tuân giàu nhạc điệu, co duỗi nhịp nhàng. Nhạc
điệu trầm bổng, đưa người đọc đến với cái yên ả của
dòng sông đà nơi hạ lưu: "Dòng sông quãng này lững lờ
như thương nhớ những hòn thác đá xa xôi để lại trên
thượng nguồn Tây Bắc. Và con sông như đang lắng nghe
những giọng nói êm êm của người xuôi, và con sông
đang trôi những con đò mình nở chạy buồm vải no khác
hẳn những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển dòng
trên". Đọc "Chữ người tử tù" ta không thể nào quên
những câu văn đầy chất thơ của ông: "Trong khung cửa
sổ có nhiều con song kẻ những nét đen thẳng lên nền
trời lốm đốm, tinh tú, một ngôi sao hôm nhấp nháy như
muốn tụt xuống phía chân giời không định". Cái nhịp
điệu buồn buồn, kéo dài văng vẳng một nỗi tiếc nuối
như thấm vào câu văn. Chính câu văn giàu nhịp điệu và
âm vang cho nên Vũ Ngọc Phan có cảm tưởng "Đọc lên
nó ngân sâu như những tiếng đàn trầm".
Sự vận động, đổi mới trong phong cách nghệ thuật tồn
tại song song với tính thống nhất, ổn định của phong
cách nghệ thuật. Quy luật sáng tạo đòi hỏi người nghệ
sĩ phải biết vượt lên chính mình và không được dẫm lên
dấu chân người khác.
Phong cách Nguyễn Tuân cũng có sự vận động theo
chiều hướng tích cực ấy. Trước và sau cách mạng là cả
một sự thay đổi kì diệu trong văn ông. Cách mạng đã
giải thoát cho tâm hồn và nghệ thuật Nguyễn, hướng
nhà văn tới cuộc sống và nhân dân.
Trước cách mạng, Nguyễn Tuân tách rời cái đẹp khỏi cái
có ích, đề cao cái đẹp thuần tuý, không vụ lợi. Ông nâng
niu, trân trọng và khao khát cái đẹp. Nhưng trong đêm
tối trước cách mạng, cái đẹp đâu dễ tìm, vây bủa xung
quanh người nghệ sĩ toàn cái xấu xa, lừa lọc, với xã hội
"kim tiền, chó đểu" (Vũ Trọng Phụng). Nguyễn đã quay
ngược thời gian tìm cái đẹp trong quá khá, ít quan tâm
đến thực tại mà chỉ chú trọng tới cảm giác chủ quan của
mình. Ông tìm đến những con người mang nét tài hoa
thiên về lĩnh vực nghệ thuật. Ngợi ca cái đẹp nhưng ông
vẫn vẽ lên một bức tranh héo úa, tàn tạ, hắt hiu về
một thế giới tàn lụi trong "Chữ người tử tù". Vui say với
cái đẹp của nghệ thuật thư pháp, trân trọng cái thiên
lương, trong sáng, nhân cách hơn đời của Huấn Cao
nhưng nhà văn vẫn trầm ngâm nuối tiếc bởi Huấn Cao
sẽ phải chịu án và lìa xa cõi đời. Biết bao mến thương,
luyến tiếc khi Nguyễn Tuân để quản ngục "chắp tay nói
một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho
nghẹn ngào". Có phải giọt lấp lánh ấy, cái nghẹn ngào
kia cũng chính là của Nguyễn Tuân, cái đau xót của lòng
Nguyễn đã tràn ra câu chữ?
Nhưng sau cách mạng, Nguyễn Tuân không còn nhấm
nháp, say sưa chắt chiu cái đẹp trong những tiểu thế
giới tù túng, chật hẹp nữa. Nhà văn cảm nhận được cái
khoẻ đẹp, rộng rãi, bao la của đất trời đổi mới. Có lẽ bởi
Nguyễn sinh ra để tôn thờ cái đẹp, mà cách mạng chính
là cái chân - thiện - mĩ, chân chính nhất. Cái nhìn của
nhà văn với cuộc sống, con người trở nên đôn hậu hơn.
Quan niệm của ông về cái đẹp vì thế mà bớt đi sự phù
phiếm, phiến diện, từng bước tiếp cận với cái đẹp chân
chính và tiến bộ. Tuỳ bút "Người lái đò sông Đà" là một
trong những cái mốc quan trọng của Nguyễn Tuân trong
quá trình chuyển từ phương pháp sáng tác lãng mạn
sang phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa. Ông đi
tìm cái đẹp trong con người lao động bình thường. Ông
lái đò trong tuỳ bút này là một con người như thế. Miêu
tả tư thế vượt thác hiên ngang, anh dũng của ông lái
đò, Nguyễn Tuân ca ngợi phẩm chất của người lao động
thời đại mới, chủ động trước thiên nhiên, dám tấn công
vào những thế lực dữ dội nhất của thiên nhiên. Đây là
khám phá mới mẻ, độc đáo của Nguyễn về hình ảnh con
người mới.
Nếu như trước cách mạng, Nguyễn Tuân có cái ngông,
khinh bạt, ngạo đời với xung quanh thì nay ông dùng cái
nhìn ấy để đả kích, tấn công kẻ thù. Mượn lời Huấn
Cao, Nguyễn Tuân gián tiếp bộc lộ thái độ của mình. Đó
là lối nghĩ "cố ý làm ra khinh bạt đến điều" để đợi "một
trận lôi đình báo thù" của Huấn Cao. Có lẽ cái thói
ngông ngạo của Nguyễn sở dĩ vấn được người đọc yêu
mến bởi trước khi là một nhà văn ông đã là một con
người có nhân cách lớn. Sau cách mạng, nhà văn để
dành lối khinh bạt ấy cho thực dân Pháp nhằm đả kích,
mỉa mai "chưa hề bao giờ tôi thấy dòng sông Đà "đen"
như thực dân Pháp đã đè ngửa con sông ta ra đổ mực
Tây vào mà gọi bằng một cái tên Tây lếu láo mà cứ như
thế mà phết vào bản đồ lai chữ". Sự thay đổi sắc sảo
trong ngòi bút Nguyễn Tuân cũng là kết quả của quá
trình "lột xác" đầy đau đớn của ông.
Trước và sau cách mạng có sự thay đổi lớn trong thể loại
văn Nguyễn Tuân. Nếu như trước cách mạng, ở các tập
truyện ngắn Nguyễn được coi là bậc thầy với những nét
độc đáo, riêng biệt thì nét phong cách này được thể hiện
rõ trong "Chữ người tử tù" - một truyện ngắn "gần đạt
tới sự toàn mĩ" (Vũ Ngọc Phan). Sau cách mạng, thể loại
tuỳ bút phát triển mạnh mẽ hơn, "Người lái đò sông Đà"
là một trong những thành công xuất sắc của tuỳ bút
Nguyễn Tuân. Sự chuyển hướng này phù hợp với cái tôi,
bản lĩnh Nguyễn Tuân. Có thể nói trong thể loại tuỳ bút
trong làng văn Việt Nam đã xuất hiện Thạch Lam, Vũ
Bằng, Bàng Sơn... nhưng chưa ai theo kịp được "thể
phách Nguyễn Tuân".
Ngôn ngữ nghệ thuật trong "Người lái đò sông Đà" cũng
trở nên giản dị, dễ hiểu hơn dù vẫn rất hàm súc và trau
chuốt.
Nếu cần phải minh hoạ cho bản chất sáng tạo của văn
học thì phải kể đến Nguyễn Tuân - người với những
trang văn tài hoa, độc đáo đã tạo ra không chỉ một con
đường, một lối đi riêng mà phải nói là một "đại lộ" riêng
trên các ngả khai phá của văn học Việt Nam. Trên "đại
lộ" ấy ta bắt gặp nét quen thuộc và cả những điều mới
mẻ - cái làm nên hồn cốt Nguyễn Tuân.
Thạc sĩ Phạm Hữu Cường
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top