nguyên lý 2

ÔN TẬP MÔN NGUYÊN LÝ II

Câu1: Hàng hóa là gì? 2 thuộc tính của hàng hóa?

   

        Hàng hóa là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người thông qua trao đổi, buôn bán.

    

        Hai thuộc tính của hàng hóa là giá trị và giá trị sử dụng.

       

    Giá trị sử dụng (GTSD) là công dụng của vật phẩm có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người. GTSD của hàng hóa là do thuộc tính tự nhiên của vật thể hàng hóa quyết định, như vậy, GTSD là 1 phạm trù vĩnh viễn. Ví dụ, GTSD của gạo là có thể dùng nấu cơm, nhưng gạo cũng có thể dùng làm nguyên liệu trong ngành rượu bia,…

    Giá trị (GT) của hàng hóa là lao động xã hội của người sản xuất kết tinh trong hàng hóa. GT hàng hóa là biểu hiện quan hệ giữa những người sản xuất hàng hóa. GT là 1 phạm trù lịch sử, gắn liền với nền sản xuất hàng hóa. Nếu GTSD là thuộc tính tự nhiên, thì GT là thuộc tính xã hội của hàng hóa. Ví dụ, trao đổi 1 mét vải = 10 kg thóc.

     Hàng hóa là sự thống nhất của 2 thuộc tính GTSD và GT, nhưng đây là sự thống nhất của 2 mặt đối lập.

Câu 2: Trình bày khái niệm lượng giá trị hàng hóa và các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa.

      Giá trị hàng hóa được xét cả về mặt chất và mặt lượng.

      Chất giá trị hàng hóa là lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Vậy, lượng giá trị của hàng hóa là lượng lao động hao phí để sản xuất ra hàng hóa đó quyết định.

      Do thời gian lao động xã hội cần thiết luôn thay đổi, nên lượng giá trị của hàng hoá cũng là một đại lượng không cố định. Sự thay đổi lượng giá trị của hàng hoá tùy thuộc vào những nhân tố sau:

             Năng suất lao động

                   Khái niệm: Năng suất lao động là năng lực sản xuất của lao động, nó được tính bằng số lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hoặc số lượng thời gian cần thiết để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm.

                  Có hai loại năng suất lao động: năng suất lao động cá biệt và năng suất lao động xã hội nhưng chỉ có năng suất lao động xã hội có ảnh hưởng đến giá trị xã hội của hàng hóa vì trên thị trường, hàng hóa được trao đổi không phải theo giá trị cá biệt mà theo giá trị xã hội.

Năng suất lao động lại tuỳ thuộc vào nhiều nhân tố như: trình độ khéo léo của người lao động, sự phát triển của khoa học - kỹ thuật và trình độ ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, sự kết hợp xã hội của sản xuất, hiệu quả của tư liệu sản xuất và các điều kiện tự nhiên.

 Ảnh hưởng của năng suất lao động tới lượng giá trị của hàng hóa: năng suất lao động xã hội càng tăng, thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hoá càng giảm, lượng giá trị của một đơn vị sản phẩm càng ít. Ngược lại năng suất lao động xã hội càng giảm, thì thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hoá càng tăng và lượng giá trị của một đơn vị sản phẩm càng nhiều. Lượng giá trị của một đơn vị hàng hoá tỷ lệ thuận với số lượng lao động kết tinh và tỷ lệ nghịch với năng suất lao động xã hội. Như vậy, muốn giảm giá trị của mỗi đơn vị hàng hoá xuống, thì ta phải tăng năng suất lao động xã hội.

Mức độ phức tạp của lao động

 Mức độ phức tạp của lao động cũng ảnh hưởng nhất định đến lượng giá trị của hàng hoá. Theo mức độ phức tạp của lao động có thể chia lao động thành lao động giản đơn và lao động phức tạp.

 Lao động giản đơn là sự hao phí lao động một cách giản đơn mà bất kỳ một người bình thường nào có khả năng lao động cũng có thể thực hiện được. Lao động phức tạp là lao động đòi hỏi phải được đào tạo, huấn luyện thành lao động lành nghề. Trong cùng một đơn vị thời gian lao động như nhau, lao động phức tạp tạo ra được nhiều giá trị hơn so với lao động giản đơn.

 Trong nền sản xuất hàng hóa, hoạt động trao đổi diễn ra liên tục, phức tạp, để thuận tiện cho trao đổi, người ta lấy lao động giản đơn trung bình làm đơn vị trao đổi và quy tất cả lao động phức tạp thành lao động giản đơn trung bình.

Như vậy, lượng giá trị của hàng hoá được đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết, giản đơn trung bình.

Câu 3: Trình bày nội dung quy luật giá trị và tác động của quy luật giá trị.

   Nội dung yêu cầu của quy luật giá trị

 Quy luật giá trị là quy luật kinh tế căn bản của sản xuất và lưu thông hàng hóa, ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hoá thì ở đó có sự tồn tại và phát huy tác dụng của quy luật giá trị.

 Yêu cầu của quy luật giá trị:

 Thứ nhất, theo quy luật này, sản xuất hàng hóa được thực hiện theo hao phí lao động xã hội cần thiết, nghĩa là cần tiết kiệm lao động (cả lao động quá khứ và lao động sống) nhằm: đối với một hàng hóa thì giá trị của nó phải nhỏ hơn hoặc bằng thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hóa đó, tức là giá cả thị trường của hàng hóa

 Thứ hai, trong trao đổi phải tuân theo nguyên tắc ngang giá, nghĩa là phải đảm bảo bù đắp được chi phí cho người sản xuất (tất nhiên chi phí đó phải dựa trên cơ sở thời gian lao động xã hội cần thiết, chứ không phải bất kỳ chi phí cá biệt nào) và đảm bảo có lãi để tái sản xuất mở rộng.

 Sự tác động, hay biểu hiện sự hoạt động của quy luật giá trị được thể hiện thông qua sự vận động của giá cả hàng hoá. Vì giá trị là cơ sở của giá cả, còn giá cả là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị, nên trước hết giá cả phụ thuộc vào giá trị.

Trên thị trường, ngoài giá trị, giá cả còn phụ thuộc vào các nhân tố khác như: cạnh tranh, cung - cầu, sức mua của đồng tiền. Sự tác động của các nhân tố này làm cho giá cả hàng hoá trên thị trường tách rời giá trị và lên xuống xoay quanh trục giá trị của nó. Sự vận động giá cả thị trường của hàng hoá xoay quanh trục giá trị của nó chính là cơ chế hoạt động của quy luật giá trị. Thông qua sự vận động của giá cả thị trường mà quy luật giá trị phát huy tác dụng.

Tác động của quy luật giá trị

 Thứ nhất, điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá.

 Điều tiết sản xuất tức là điều hoà, phân bổ các yếu tố sản xuất giữa các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế. Tác dộng này của quy luật giá trị thông qua sự biến động của giá cả hàng hoá trên thị trường dưới tác động của quy luật cung - cầu.

* Nếu cung nhỏ hơn cầu, thì giá cả lớn hơn giá trị, nghĩa là hàng hóa sản xuất ra có lãi, bán chạy. Giá cả cao hơn giá trị sẽ kích thích mở rộng và đẩy mạnh sản xuất để táng cung; ngược lại cầu giảm vì giá tăng.

* Nếu cung lớn hơn cầu, sản phẩm sản xuất ra quá nhiều so với nhu cầu, giá cả thấp hơn giá trị, hàng hóa khó bán, sản xuất không có lãi. Thực tế đó, tự người sản xuất ra quyết định ngừng hoặc giảm sản xuất; ngược lại, giá giảm sẽ kích thích tăng cầu, tự nó là nhân tố làm cho cung tăng.

* Cung cầu tạm thời cân bằng; giá cả trùng hợp với giá trị. Bề mặt nền kinh tế người ta thường gọi là “bão hòa”. Tuy nhiên nền kinh tế luôn luôn vận động, do đó quan hệ giá cả và cung cầu cũng thường xuyên biến động liên tục.

Như vậy, sự tác động trên của quy luật giá trị đã dẫn đến sự di chuyển sức lao động và tư liệu sản xuất giữa các ngành sản xuất khác nhau. Đây là vai trò điều tiết sản xuất của quy luật giá trị.

 Điều tiết lưu thông của quy luật giá trị cũng thông qua diễn biến giá cả trên thị trường. Sự biến động của giá cả thị trường cũng có tác dụng thu hút luồng hàng từ nơi giá cả thấp đến nơi giá cả cao, do đó làm cho lưu thông hàng hoá thông suốt.

Như vậy, sự biến động của giá cả trên thị trường không những chỉ rõ sự biến động về kinh tế, mà còn có tác động điều tiết nền kinh tế hàng hoá.

 Thứ hai, kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, tăng năng suất lao động, thúc đẩy lực lượng sản xuất xã hội phát triển.

Trong nền kinh tế hàng hoá, mỗi ngưòi sản xuất hàng hoá là một chủ thể kinh tế độc lập, tự quyết định hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Nhưng do điều kiện sản xuất khác nhau nên hao phí lao động cá biệt của mỗi người khác nhau, người sản xuất nào có hao phí lao động cá biệt nhỏ hơn hao phí lao động xã hội của hàng hoá ở thế có lợi sẽ thu được lãi cao. Người sản xuất nào có hao phí lao động cá biệt lớn hơn hao phí lao động xã hội cần thiết sẽ ở thế bất lợi, lỗ vốn. Để giành lợi thế trong cạnh tranh và tránh nguy cơ vỡ nợ, phá sản, họ phải hạ thấp hao phí lao động cá biệt của mình sao cho bằng hao phí lao động xã hội cần thiết. Muốn vậy, họ phải luôn tìm cách cải tiến kỹ thuật, cải tiến tổ chức quản lý, thực hiện tiết kiệm chặt chẽ, tăng năng suất lao động. Sự cạnh tranh quyết liệt càng thúc đẩy quá trình này diễn ra mạnh mẽ hơn, mang tính xã hội. Kết quả là lực lượng sản xuất xã hội được thúc đẩy phát triển mạnh mẽ.

 Thứ ba, thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hoá người sản xuất hàng hoá thành người giàu, người nghèo.

Quá trình cạnh tranh theo đuổi giá trị tất yếu dẫn đến kết quả là: những người có điều kiện sản xuất thuận lợi, có trình độ, kiến thức cao, trang bị kỹ thuật tốt nên có hao phí lao động cá biệt thấp hơn hao phí lao động xã hội cần thiết, nhờ đó phát tài, giàu lên nhanh chóng. Họ mua sắm thêm tư liệu sản xuất, mở rộng sản xuất kinh doanh. Ngược lại những người không có điều kiện thuận lợi, làm ăn kém cỏi, hoặc gặp rủi ro trong kinh doanh nên bị thua lỗ dẫn đến phá sản trở thành nghèo khó.

Câu 4: So sánh công thức lưu thông của tư bản và công thức lưu thông của hàng hóa.

    Giống nhau: cả 2 sự vận động đều do 2 giai đoạn đối lập nhau là mua và bán hợp thành, trong mỗi giai đoạn đều có 2 nhân tố vật chất đối diện nhau là tiền và hàng và 2 người có quan hệ kinh tế vs nhau là người mua và người bán.

    Khác nhau:

LƯU THÔNG H GIẢN ĐƠN

üVận động: H – T – H.

üBắt đầu bằng việc bán, kết thúc bằng việc mua.

üT đóng vai trò trung gian.

üMục đích là giá trị sử dụng, H phải có giá trị sử dụng khác nhau.

üSự vận động kết thúc ở giai đoạn 2 khi có được GTSD mình cần.

LƯU THÔNG H TƯ BẢN

üVận động: T – H – T.

üBắt đầu bằng việc mua, kết thúc bằng việc bán.

üT vừa là điểm xuất phát, vừa là điểm kết thúc; T ứng ra rồi thu về; H là trung gian.

üMục đích là giá trị và giá trị tăng thêm è công thức đầy đủ là T – H – T’ (T’=T+ΔT).

üSự vận động không giới hạn.

Câu 5: Trình bày khái niệm sức lao động, điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa.

    

      Sức lao động là toàn bộ các thể lực và trí lực ở  trong thân thể 1 con người, trong nhân cách sinh động của con người, thể lực và trí lực mà con người phải làm cho hoạt động để sản  xuất ra những vật có ích.

    

     Điều kiện để  sức lao động trở thành hàng hóa:

    

      T1, người có sức lao động phải được tự do về thân thể, làm chủ được sức lao động của mình và có quyền bán sức lao động của mình như 1 hàng hóa.

      T2, người có sức lao động phải bị tước đoạt hết mọi tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt. Họ đã trở thành “vô sản”. Để tồn tại họ buộc phải bán sức lao động của mình để sinh sống.

Sức lao động biến thành hàng hóa là điều kiện quyết định tiền biến thành tư bản. Tuy nhiên, để tiền biến thành tư bản thì lưu thông hàng hóa và lưu thông tiền tệ phải phát triển tới 1 mức độ nhất định.

Câu 6: Phân tích 2 thuộc tính của hàng hóa sức lao động

Cũng giống như mọi hàng hóa khác, hàng hóa sức lao động cũng có hai thuộc tính: giá trị và giá trị sử dụng.

Giá trị hàng hoá sức lao động

 Giống như các hàng hoá khác, giá trị hàng hoá sức lao động cũng do thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái sản xuất sức lao động quyết định.

 Sức lao động chỉ tồn tại như năng lực sống của con người. Muốn tái sản xuất ra năng lực đó, người công nhân phải tiêu dùng một lượng tư liệu sinh hoạt nhất định để ăn, mặc, ở, học nghề, v.v.. Ngoài ra người lao động còn phải thoả mãn những nhu cầu của gia đình và con cái anh ta nữa. Chỉ có như vậy, thì sức lao động mới được sản xuất và tái sản xuất ra một cách liên tục.

Như vậy thời gian lao động xã hội cần thiết để tái sản xuất ra sức lao động sẽ được quy thành thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt nuôi sống bản thân người công nhân và gia đình anh ta; hay nói cách khác, giá trị hàng hoá sức lao động được đo gián tiếp bằng giá trị của những tư liệu sinh hoạt cần thiết để tái sản xuất ra sức lao động.

 Là hàng hoá đặc biệt, giá trị hàng hoá sức lao động khác với hàng hoá thông thường ở chỗ nó còn bao hàm cả yếu tố tinh thần và lịch sử.

Yếu tố tinh thần: ngoài những nhu cầu về vật chất, người công nhân còn có những nhu cầu về tinh thần, văn hoá...

Yếu tố lịch sử: nhu cầu của con người phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử của mỗi nước ở từng thời kỳ, đồng thời nó còn phụ thuộc cả vào điều kiện địa lý, khí hậu của nước đó.

 Mặc dù bao hàm cả yếu tố tinh thần và lịch sử, nhưng đối với mỗi một nước nhất định và trong một thời kỳ nhất định, thì quy mô những tư liệu sinh hoạt cần thiết cho người lao động là một đại lượng nhất định, do đó có thể xác định được lượng giá trị hàng hoá sức lao động do những bộ phận sau đây hợp thành:

Một là, giá trị những tư liệu sinh hoạt về vật chất vì tinh thần cần thiết để tái sản xuất sức lao động, duy trì đời sống của bản thân người công nhân;

Hai là, phí tổn đào tạo người công nhân;

Ba là, giá trị những tư liệu sinh hoạt vật chất và tinh thần cần thiết cho con cái và gia đình người công nhân.

 Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động

Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động thể hiện ra trong quá trình tiêu dùng sức lao động, tức là quá trình lao động của người công nhân.

 Quá trình sử dụng hay tiêu dùng hàng hoá sức lao động khác với quá trình tiêu dùng hàng hoá thông thường ở chỗ:

* Đối với các hàng hóa thông thường, sau quá trình tiêu dùng hay sử dụng thì cả giá trị lẫn giá trị sử dụng của nó đều tiêu biến mất theo thời gian.

* Đối với "hàng hoá sức lao động, quá trình tiêu dùng chính là quá trình sản xuất ra một loại hàng hoá nào đó, đồng thời là quá trình tạo ra một giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân hàng hoá sức lao động. Phần lớn hơn đó hình là giá trị thặng dư mà nhà tư bản sẽ chiếm đoạt.

Như vậy, giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động có tính chất đặc biệt, nó là nguồn gốc sinh ra giá trị, tức là nó có thể tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân nó. Đây chính là chìa khoá để giải thích mâu thuẫn của công thức chung của tư bản. Chính đặc tính này đã làm cho sự xuất hiện của hàng hóa sức lao động trở thành điều kiện để tiền tệ chuyển hóa thành tư bản.

Câu 7: Giá trị thặng dư, so sánh phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối và tuyệt đối.

  

  Giá trị thặng dư là 1 bộ phận của giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do công nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không.

     So sánh giá trị thặng dư tương đối và tuyệt đối:

vSX giá trị thặng dư tuyệt đối

üDo kéo dài t lao động vượt quá t tất yếu

üDiễn ra khi năng suất, giá trị SLĐ và t tất yếu không đổi

üGiả sử ngày lao động 8h: 4h tất yếu, 4h thặng dư:

m’ = 4/4 x 100% = 100%

üGiả sử kéo dài ngày lao động thêm 2h, t tất yếu không đổi:

m’ = 6/4 x 100% = 150%

vSX giá trị thặng dư tương đối

üĐược tạo ra do rút ngắn t tất yếu

üNâng cao năng suất lao động XH

üTăng t thặng dư trong điều kiện độ dài ngày lao động không đổi

üGiả sử ngày lao động 8h: 4h tất yếu, 4h thặng dư:

m’ = 4/4 x 100% = 100%

üGiả sử t tất yếu = 3h, t thặng dư = 5h:

m’ = 5/3 x 100% = 166%

 

Câu 8: Trình bày bản chất của tư bản, vai trò của tư bản bất biến và tư bản khả biến trong quá trình sản xuất giá trị thặng dư.

 Các nhà kinh tế học tư sản thường cho rằng mọi công cụ lao động, mọi tư liệu sản xuất đều là tư bản. Thực ra bản thân tư liệu sản xuất không phải là tư bản, nó chỉ là yếu tố cơ bản của sản xuất trong bất cứ xã hội nào. Tư liệu sản xuất chỉ trở thành tư bản khi nó trở thành tài sản của các nhà tư bản và được dùng để bóc lột lao động làm thuê. Khi chế độ tư bản bị xoá bỏ thì tư liệu sản xuất không còn là tư bản nữa.

Như vậy, tư bản không phải là một vật, mà là một quan hệ sản xuất xã hội nhất định giữa người với người trong quá trình sản xuất, nó có tính chất tạm thời trong lịch sử.

Tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột lao động không công của công nhân làm thuê. Như vậy, bản chất của tư bản là thể hiện quan hệ sản xuất xã hội mà trong đó giai cấp tư sản chiếm đoạt giá trị thặng dư do giai cấp công nhân sáng tạo ra.

Tư bản bất biến, tư bản khả biến

Muốn tiến hành sản xuất, nhà tư bản phải ứng tư bản (bỏ vốn) ra để mua tư liệu sản xuất và sức lao động, tức là biến tư bản tiền tệ thành các yếu tố của quá trình sản xuất, thành các hình thức tồn tại khác nhau của tư bản sản xuất. Các bộ phận khác nhau đó của tư bản có vai trò khác nhau trong quá trình sản xuất giá trị thặng dư.

Trước hết, xét bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thức tư liệu sản xuất.

Có loại được sử dụng toàn bộ trong quá trình sản xuất, nhưng chỉ hao mòn dần, do đó chuyển dần từng phần giá trị của nó vào sản phẩm như máy móc, thiết bị, nhà xưởng...

Có loại khi đưa vào sản xuất thì chuyển toàn bộ giá trị của nó trong một chu kỳ sản xuất như nguyên liệu, nhiên liệu. Song, giá trị của bất kỳ tư liệu sản xuất nào cũng đều nhờ có lao động cụ thể của công nhân mà được bảo toàn và di chuyển vào sản phẩm, nên giá trị đó không thể lớn hơn giá trị tư liệu sản xuất đã bị tiêu dùng để sản xuất ra sản phẩm. Cái bị tiêu dùng của tư liệu sản xuất là giá trị sử dụng, kết quả của việc tiêu dùng đó là tạo ra một giá trị sử dụng mới. Giá trị tư liệu sản xuất được bảo toàn dưới dạng giá trị sử dụng mới chứ không phải là được sản xuất ra.

Tư bản bất biến:

Bộ phận tư bản biến thành tư liệu sản xuất mà giá trị được bảo toàn và chuyển vào sản phẩm, không thay đổi về lượng giá trị của nó, được C.Mác gọi là tư bản bất biến, và ký hiệu là c.

Xét bộ phận tư bản dùng để mua sức lao động:

Một mặt, giá trị của nó biến thành các tư liệu sinh hoạt của người công nhân và mất đi trong tiêu dùng của công nhân.

Mặt khác, trong quá trình lao động, bằng lao động trừu tượng, công nhân tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân sức lao động, nó bằng giá trị sức lao động cộng với giá trị thặng dư.

Như vậy, bộ phận tư bản dùng để mua sức lao động đã không ngừng chuyển hoá từ đại lượng bất biến thành một đại lượng khả biến, tức là đã tăng lên về lượng trong quá trình sản xuất.

Tư bản khả biến:

Bộ phận tư bản biến thành sức lao động không tái hiện ra, nhưng thông qua lao động trừu tượng của công nhân làm thuê mà tăng lên, tức là biến đổi về lượng, được C.Mác gọi là tư bản khả biến, và ký hiệu là V.

Câu 9: Tại sao sản xuất giá trị thặng dư là quy luật kinh tế tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản.

   Mỗi một phương thức sản xuất có một quy luật kinh tế tuyệt đối, quy luật phản ánh mối quan hệ kinh tế bản chất nhất của phương thức sản xuất đó. Đối với sản xuất hàng hóa giản đơn, thì quy luật kinh tế cơ bản là quy luật giá trị, còn quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản là quy luật giá trị thặng dư.

Giá trị thặng dư là phần giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do công nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không, phản ánh mối quan hệ kinh tế bản chất nhất của chủ nghĩa tư bản - quan hệ tư bản bóc lột lao động làm thuê. Giá trị thặng dư do lao động không công của công nhân tạo ra là nguồn gốc làm giàu của các nhà tư bản.

Mục đích của sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải là giá trị sử dụng mà là sản xuất ra giá trị thặng dư, là nhân giá trị lên. Theo đuổi giá trị thặng dư tối đa là mục đích và động cơ thúc đẩy sự hoạt động của mỗi nhà tư bản, cũng như của toàn bộ xã hội tư bản. Nhà tư bản cố gắng sản xuất ra hàng hoá với chất lượng tốt đi chăng nữa, thì đó cũng chỉ vì nhà tư bản muốn thu được nhiều giá trị thặng dư.

 Sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa không chỉ phản ánh mục đích của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, mà còn vạch rõ phương tiện, thủ đoạn mà các nhà tư bản sử dụng để đạt được mục đích như tăng cường bóc lột công nhân làm thuê bằng cách tăng cường độ lao động và kéo dài ngày lao động, tăng năng suất lao động và mở rộng sản xuất.

Như vậy, quy luật giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản. Thực chất của quy luật này là tạo ra ngày càng nhiều giá trị thặng dư cho nhà tư bản bằng cách tăng cường bóc lột lao động làm thuê. Quy luật giá trị thặng dư ra đời và tồn tại cùng với sự ra đời và tồn tại của chủ nghĩa tư bản. Quy luật này quyết định toàn bộ sự vận động của chủ nghĩa tư bản, một mặt nó là động lục thúc đẩy sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển nhanh chóng, mặt khác lại làm tăng mâu thuẫn cơ bản của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa

 

Câu 10: Những nhân tố ảnh hưởng đến quy mô tích lũy tư bản? Quy mô tích lũy tư bản là gì?

    

         Tích lũy tư bản là sự chuyển hóa 1 phần giá trị thặng dư thành tư bản, hay là quá trình tư bản hóa giá trị thặng dư.

     Việc xem xét những nhân tố ảnh hưởng đến quy mô tích lũy tư bản phải được chia làm 2 trường hợp:

      

  Một là, trường hợp khối lượng giá trị thặng dư không đổi thì quy mô của tích lũy tư bản phụ thuộc vào tỷ lệ phân chia khối lượng giá trị thặng dư đó thành 2 quỹ: quỹ tích lũy và quỹ tiêu dùng của nhà tư sản. Trong đó, tỉ lệ quỹ này tăng lên thì tỉ lệ dành cho quỹ kia sẽ giảm đi.

         Hai là, nếu tỉ lệ phân chia đó đã được xác định thì quy mô của tích lũy tư bản phụ thuộc vào khối lượng giá trị thặng dư. Trong đó, khối lượng giá trị thặng dư phụ thuộc vào những nhân tố sau đây:

        Trình độ bóc lột sức lao động bằng những biện pháp: tăng cường độ lao động, kéo dài ngày lao động, cắt xén tiền công của công nhân. Điều đó có nghĩa là thời gian công nhân sáng tạo ra giá trị càng được kéo dài ra nhưng chi phí càng được cắt giảm, do vậy khối lượng giá trị thặng dư càng lớn và quy mô tích lũy tư bản càng lớn.

         Trình độ năng suất lao động xã hội: nếu tăng năng suất lao động xã hội lên thì giá cả tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt giảm xuống. Sự giảm này đem lại 2 hệ quả:

         

        T1, vs khối lượng giá trị thặng dư nhất định, phần dành cho tích lũy có thể tăng lên, nhưng tiêu dùng của các nhà tư bản không giảm, thậm chí có thể cao hơn trước.

        T2, 1 giá trị thặng dư nhất định dành cho tích lũy có thể chuyển hóa thành 1 khối lượng tư liệu sản xuất và sức lao động phụ thêm lớn hơm trước.

                    Như vậy, năng suất lao động tăng lên sẽ có thêm những yếu tố vật chất để biến giá trị thặng dư thành tư bản mới, nên làm tăng quy mô tích lũy.

       

         Sự chênh lệch giữa tư bản được sử dụng và tư bản đã tiêu dùng: Trong quá trình sản xuất, tư liệu lao động (máy móc, thiết bị) tham gia toàn bộ vào quá trình sản xuất, nhưng giá trị của chúng lại chỉ bị khấu hao từng phần. Như vậy là mặc dù đã mất dần giá trị, nhưng trong suốt thời gian hoạt động, máy móc vẫn có tác dụng như khi còn đủ giá trị. Sự hoạt động này của máy móc được xem như là sự phục vụ không công. Máy móc, thiết bị càng hiện đại , thì sự chênh lệch giữa tư bản được sử dụng và tư bản đã tiêu dùng càng lớn, tư bản lợi dụng được nhiều thành tựu của lao động quá khứ càng nhiều, nhờ vậy quy mô của tích lũy tư bản càng lớn.

       

          Quy mô của tư bản ứng trước: Vs trình độ bóc lột không thau đổi thì  khối lượng giá trị thặng dư do khối lượng tư bản khả biến quyết định. Do đó, quy mô của tư bản ứng trước càng lớn, nhất là bộ phận tư bản khả biến thì khối lượng giá trị thặng  dư bóc lột được càng nhiều, tạo điều kiện tăng thêm quy mô của tích lũy tư bản.

          Tóm lại, để tăng quy mô tích lũy tư bản cần khai thác tốt nhất lực lượng lao động xã  hội, tăng năng suất lao động, sử dụng triệt để công suất của máy móc, thiết bị và tăng quy mô vốn đầu tư ban đầu.

Câu 11: Phân biệt tư bản cố định và tư bản lưu động.

Tư bản sản xuất gồm nhiều bộ phận và có thời gian chu chuyển khác nhau về mặt giá trị, do đó ảnh hưởng đến thời gian chu chuyển của toàn bộ tư bản. Căn cứ vào sự khác nhau trong phương thức (đặc điểm) chu chuyển về mặt giá trị nhanh hay chậm của các bộ phận tư bản để phân chia tư bản sản xuất thành tư bản cố định và tư bản lưu động.

Tư bản cố định:

Tư bản cố định là bộ phận tư bản sản xuất tồn tại dưới dạng máy móc, thiết bị, nhà xưởng, v.v… tham gia toàn bộ vào quá trình sản xuất, nhưng giá trị của nó không chuyển hết một lần vào sản phẩm mà chuyên dần từng phần theo mức độ hao mòn của nó trong thời gian sản xuất.

Tư bản cố định được sử dụng lâu dài trong nhiều chu kỳ sản xuất và bị hao mòn dần trong quá trình sản xuất. Có hai loại hao mòn là hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình:

 Hao mòn hữu hình là hao mòn về vật chất, hao mòn về cơ học có thể nhận thấy. Hao mòn hữu hình do quá trình sử dụng và sự tác động của tự nhiên làm cho các bộ phận của tư bản cố định dần dần hao mòn đi tới chỗ hỏng và phải được thay thế.

Hao mòn vô hình là sự hao mòn thuần tuý về mặt giá trị. Hao mòn vô hình xảy ra ngay cả khi máy móc còn tốt nhưng bị mất giá vì xuất hiện các máy móc hiện đại hơn, rẻ hơn hoặc có giá trị tương đương, nhưng công suất cao hơn. Để tránh hao mòn vô hình, các nhà tư bản tìm cách kéo dài ngày lao động, tăng cường độ lao động, tăng ca kíp làm việc, v.v. nhằm tận dụng máy móc trong thời gian càng ngắn càng tốt.

Tư bản lưu động:

 Tư bản lưu động là bộ phận tư bản sản xuất tồn tại dưới dạng nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu phụ, sức lao động, v.v.. Giá trị của nó được hoàn lại toàn bộ cho các nhà tư bản sau mỗi một quá trình sản xuất, khi hàng hóa được bán xong.

Căn cứ để phân chia tư bản sản xuất thành tư bản cố định và tư bản lưu động là phương thức chuyển dịch giá trị khác nhau của từng bộ phận tư bản trong quá trình sản xuất.

Câu 12: Trình bày nguyên nhân chuyển biến của chủ nghĩa tư bản tự do sang độc quyền.

Chủ nghĩa tư bản độc quyền xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX do những nguyên nhân chủ yếu sau:

Sự phát triển của lực lượng sản xuất dưới tác động của tiến bộ khoa học kỹ thuật; một mặt, làm xuất hiện những ngành sản xuất mới, ngay từ đầu đã là những ngành có trình độ tích tụ cao, đòi hỏi những hình thức kinh tế tổ chức mới, đó là những xí nghiệp lớn. sản xuất lớn có ưu thế rõ rệt so với sản xuất nhỏ và đã phát triển rất mạnh. Mặt khác, nó dẫn đến tăng năng suất lao động, tăng sản xuất giá trị thặng dư tương đối. Việc nâng cao tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư đã mở rộng khả năng tích lũy tư bản, thúc đẩy sự phát triển sản xuất lớn, tăng tích tụ tư bản và sản xuất.

 Vào 30 năm cuối của thế kỷ XIX, những thành tựu khoa học kỹ thuật mới xuất hiện như lò luyện kim mới Betsơme, Máctanh, Tômát, v.v. đã tạo ra sản lượng lớn gang thép với chất lượng cao; phát hiện ra hoá chất mới như axít sunphuaric (H2S04), thuốc nhuộm, v.v.; máy móc mới ra đời: động cơ điêzen, máy phát điện, máy tiện, máy phay, v.v.; phát triển những phương tiện vận tải mới: xe hơi, tàu thuỷ, xe điện, máy bay, v.v. và đặc biệt là đường sắt. Những thành tựu khoa học kỹ thuật này, một mặt làm xuất hiện những ngành sản xuất mới đòi hỏi xí nghiệp phải có quy mô lớn; mặt khác, nó dẫn đến tăng năng suất lao động, tăng khả năng tích luỹ tư bản, thúc đẩy phát triển sản xuất lớn.

 Trong điều kiện phát triển của khoa học kỹ thuật, sự tác động của các quy luật kinh tế của chủ nghĩa tư bản như quy luật giá trị thặng dư, quy luật tích luỹ, v.v. ngày càng mạnh mẽ, làm biến đổi cơ cấu kinh tế của xã hội tư bản theo hướng tập trung sản xuất quy mô lớn.

 Cạnh tranh khốc liệt buộc các nhà tư bản phải tích cực cải tiến kỹ thuật, tăng quy mô tích luỹ để thắng thế trong cạnh tranh. Đồng thời, cạnh tranh gay gắt làm cho các nhà tư bản vừa và nhỏ bị phá sản, còn các nhà tư bản lớn phát tài, làm giàu với số tư bản tập trung và quy mô xí nghiệp ngày càng to lớn.

 Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1873 trong toàn bộ thế giới tư bản chủ nghĩa làm phá sản hàng loạt xí nghiệp vừa và nhỏ, thúc đẩy nhanh chóng quá trình tích tụ và tập trung tư bản.

 Sự phát triển của hệ thống tín dụng tư bản chủ nghĩa trở thành đòn bẩy mạnh mẽ thúc đẩy tập trung sản xuất, nhất là việc hình thành các công ty cổ phần, tạo tiền đề cho sự ra đời của các tổ chức độc quyền.

Câu 13: Trình bày những đặc điểm kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền.

Phân tích những hiện tượng mới trong nền kinh tế của các nước tư bản chủ nghĩa phát triển cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, có thể khái quát năm đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền như sau:

Tập trung sản xuất và các tổ chức độc quyền

Tích tụ và tập trung sản xuất cao dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền là đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa đế quốc.

 Tổ chức độc quyền là tổ chức liên minh giữa các nhà tư bản lớn để tập trung vào trong tay phần lớn việc sản xuất và tiêu thụ một số loại hàng hoá nào đó nhằm mục đích thu được lợi nhuận độc quyền cao.

 Khi mới bắt đầu quá trình độc quyền hoá, các liên minh độc quyền hình thành theo liên kết ngang, nghĩa là mới chỉ liên kết những doanh nghiệp trong cùng một ngành, nhưng về sau theo mối liên hệ dây chuyền, các tổ chức độc quyền đã phát triển theo liên kết dọc, mở rộng ra nhiều ngành khác nhau. Những hình thức độc quyển cơ bản là: cácten, xanhđica, tơrớt, côngxoócxiom, consơn cônglômêrát.

Tư bản tài chính và bọn đầu sỏ tài chính

Cùng với quá trình tích tụ và tập trung sản xuất trong công nghiệp cũng diễn ra quá trình tích tụ, tập trung tư bản trong ngân hàng, dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền trong ngân hàng.

Quy luật tích tụ, tập trung tư bản trong ngân hàng cũng giống như trong công nghiệp:

* Do quá trình cạnh tranh, các ngân hàng vừa và nhỏ bị thôn tính, dẫn đến hình thành những ngân hàng lớn.

* Khi sản xuất trong ngành công nghiệp tích tụ ở mức độ cao, thì các ngân hàng nhỏ không đủ tiềm lực và uy tín phục vụ cho công việc kinh doanh của các xí nghiệp công nghiệp lớn. Các tổ chức độc quyền này tìm kiếm các ngân hàng lớn hơn, thích hợp với các điều kiện tài chính và tín dụng của mình. Trong điều kiện đó, các ngân hàng nhỏ phải tự sáp nhập vào các ngân hàng mạnh hơn, hoặc phải chấm dứt sự tồn tại của mình trước quy luật khốc liệt của cạnh tranh.

 Sự xuất hiện, phát triển của các tổ chức độc quyền trong ngân hàng đã làm thay đổi quan hệ giữa tư bản ngân hàng và tư bản công nghiệp, làm cho ngân hàng bắt đầu có vai trò mới. Ngân hàng từ chỗ chỉ là trung gian trong việc thanh toán và tín dụng, nay đã nắm được hầu hết tư bản tiền tệ của xã hội nên có quyền lực vạn năng, khống chế mọi hoạt động của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.

* Dựa trên địa vị người chủ cho vay, độc quyền ngân hàng cử đại diện của mình vào các cơ quan quản lý của độc quyền công nghiệp để theo dõi việc sử dụng tiền vay, hoặc trực tiếp đầu tư vào công nghiệp.

* Trước sự khống chế và chi phối ngày càng xiết chặt của ngân hàng, một quá trình xâm nhập tương ứng trở lại của các độc quyền công nghiệp vào ngân hàng cũng diễn ra. Các tổ chức độc quyền công nghiệp cũng tham gia vào công việc của ngân hàng bằng cách mua cổ phần của ngân hàng lớn để chi phối hoạt động của ngân hàng, hoặc lập ngân hàng riêng phục vụ cho mình.

Quá trình độc quyền hoá trong công nghiệp và trong ngân hàng xoắn xuýt với nhau và thúc đẩy lẫn nhau làm nảy sinh một thứ tư bản mới, gọi là tư bản tài chính.

 Tư bản tài chính là kết quả của sự hợp nhất giữa tư bản ngân hàng của một số ít ngân hàng độc quyền lớn nhất, với tư bản của những liên minh độc quyền các nhà tư bản công nghiệp.

Sự phát triển của tư bản tài chính dẫn đến sự hình thành một nhóm nhỏ độc quyền, chi phối toàn bộ đồi sống kinh tế và chính trị của toàn xã hội tư bản gọi là bọn đầu sỏ tài chính. Bọn đầu sỏ tài chính thiết lập sự thống trị của mình thông qua chế độ tham dự. Thực chất của chế độ tham dự là một nhà tài chính lớn, hoặc một tập đoàn tài chính nhờ có số cổ phiếu khống chế mà nắm được một công ty lớn nhất với tư cách là công ty gốc (hay là “công ty mẹ”); công ty này lại mua được cổ phiếu khống chế, thống trị được công ty khác, gọi là “công ty con”; “công ty con” đến lượt nó lại chi phối các “công ty cháu” cũng bằng cách như thế... Nhờ có chế độ tham dự và phương pháp tổ chức tập đoàn theo kiểu móc xích như vậy, bằng một lượng tư bản đầu tư nhỏ, các nhà tư bản độc quyền tài chính có thể khống chế và điều tiết được một lượng tư bản lớn gấp nhiều lần.

Thống trị về kinh tế là cơ sở để bọn đầu sỏ tài chính thống trị về chính trị và các mặt khác. Về mặt chính trị, bọn đầu sỏ tài chính chi phối mọi hoạt động của các cơ quan nhà nước, biến nhà nước tư sản thành công cụ phục vụ lợi ích cho chúng. Sự thống trị của bọn tài phiệt đã làm nảy sinh chủ nghĩa phát xít, chủ nghĩa quân phiệt và nhiều thứ chủ nghĩa phản động khác, cùng chạy đua vũ trang gây chiến tranh xâm lược để áp bức, bóc lột các nước đang phát triển và chậm phát triển.

 Xuất khẩu tư bản

 Xuất khẩu tư bản là xuất khẩu giá trị ra nước ngoài (đầu tư tư bản ra nước ngoài) nhằm mục đích chiếm đoạt giá trị thặng dư và các nguồn lợi nhuận khác ở các nước nhập khẩu tư bản.

 Động cơ của xuất khẩu tư bản

* Một số ít nước phát triển đã tích luỹ được một khối lượng tư bản lớn và có một số "tư bản thừa" tương đối cần tìm nơi đầu tư có nhiều lợi nhuận so với đầu tư ở trong nước.

* Nhiều nước lạc hậu về kinh tế bị lôi cuốn vào sự giao lưu kinh tế thế giới nhưng lại rất thiếu tư bản, giá ruộng đất tương đối hạ, tiền lương thấp, nguyên liệu rẻ, nên tỷ suất lợi nhuận cao, rất hấp dẫn đầu tư tư bản.

 Xuất khẩu tư bản được thực hiện dưới hai hình thức chủ yếu: xuất khẩu tư bản hoạt động (đầu tư trực tiếp) và xuất khẩu tư bản cho vay (đầu tư gián tiếp).

Xuất khẩu tư bản hoạt động (đầu tư trực tiếp) là hình thức xuất khẩu tư bản để xây dựng những xí nghiệp mới hoặc mua lại những xí nghiệp đang hoạt động ở nước nhận đầu tư, biến nó thành một chi nhánh của công ty mẹ ở chính quốc. Các xí nghiệp mới hình thành thường tồn tại dưới dạng hỗn hợp song phương hoặc đa phương, nhưng cũng có những xí nghiệp toàn bộ vốn là của công ty nước ngoài.

Xuất khẩu tư bản cho vay (đầu tư gián tiếp) là hình thức xuất khẩu tư bản được thực hiện dưới hình thức cho chính phủ, thành phố, hay một ngân hàng ở nước ngoài vay tư bản tiền tệ có thu lãi.

 Thực hiện các hình thức xuất khẩu tư bản trên, xét về chủ sở hữu tư bản, có thể phân tích thành xuất khẩu tư bản tư nhân và xuất khẩu tư bản nhà nước.

* Xuất khẩu tư bản nhà nước là nhà nước tư bản độc quyền dùng nguồn vốn từ ngân quỹ của mình để đầu tư vào nước nhập khẩu tư bản; hoặc viện trợ có hoàn lại hay không hoàn lại, để thực hiện những mục tiêu về kinh tế, chính trị và quân sự.

Về kinh tế, xuất khẩu tư bản nhà nước thường hướng vào các ngành thuộc kết cấu hạ tầng để tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư của tư bản tư nhân. Nhà nước tư bản viện trợ không hoàn lại cho nước nhập khẩu tư bản để ký được những hiệp định thương mại và đầu tư có lợi...

Về chính trị, viện trợ của nhà nước tư sản thường nhằm duy trì và bảo vệ chế độ chính trị "thân cận" đã bị lung lay ở các nước nhập khẩu tư bản, tăng cường sự phụ thuộc của các nước đó vào các nước đế quốc, thực hiện chủ nghĩa thực dân mới, tạo điều kiện cho tư nhân xuất khẩu tư bản.

Về quân sự, viện trợ của tư bản nhà nước nhằm lôi kéo các nước phụ thuộc vào khối quân sự hoặc buộc các nước nhận viện trợ phải cho các nước xuất khẩu lập căn cứ quân sự trên lãnh thổ của mình...

* Xuất khẩu tư bản tư nhân là hình thức xuất khẩu tư bản do tư nhân thực hiện. Hình thức này có đặc điểm cơ bản là nó thường được đầu tư vào những ngành kinh tế có vòng quay tư bản ngắn và thu được lợi nhuận độc quyền cao, dưới hình thức các hoạt động cắm nhánh của các công ty xuyên quốc gia.

Việc xuất khẩu tư bản là sự mở rộng quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ra nước ngoài, là công cụ chủ yếu đẽ bành trướng sự thống trị, bóc lột, nô dịch của tư bản tài chính trên phạm vi toàn thế giới.

 Sự phân chia thế giới về kinh tế giữa các tổ chức độc quyền

 Quá trình tích tụ và tập trung tư bản phát triển, việc xuất khẩu tư bản tăng lên cả về quy mô và phạm vi tất yếu dẫn tới sự phân chia thế giới về mặt kinh tế giữa các tập đoàn tư bản độc quyền và hình thành các tổ chức độc quyền quốc tế.

 Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền, thị trường ngoài nước có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các nước đế quốc. Một mặt, do lực lượng sản xuất phát triển cao đòi hỏi ngày càng phải có nhiều nguồn nguyên liệu và nơi tiêu thụ; mặt khác, do thèm khát lợi nhuận siêu ngạch thúc đẩy tư bản độc quyền tăng cường bành trướng ra nước ngoài, cần có thị trường ổn định thường xuyên.

 Do cạnh tranh khốc liệt nhằm mở rộng thị trường ngoài nước giữa các tổ chức độc quyền lớn của các quốc gia tất yếu dẫn đến sự thỏa hiệp và hình thành các tổ chức độc quyền quốc tế dưới dạng cácten, xanhđica, tơrớt quốc tế...

 Sự phân chia thế giới về lãnh thổ giữa các cường quốc đế quốc

V.I.Lênin đã chỉ ra rằng: Chủ nghĩa tư bản phát triển càng cao, nguyên liệu càng thiếu thốn, sự cạnh tranh càng gay gắt và việc tìm kiếm các nguồn nguyên liệu trên toàn thế giới càng ráo riết, thì cuộc đấu tranh để chiếm thuộc địa càng quyết liệt hơn.

Các cường quốc đế quốc ra sức xâm chiếm thuộc địa, bởi vì thuộc địa là nơi bảo đảm nguồn nguyên liệu và thị trường thường xuyên; là nơi tương đối an toàn trong cạnh tranh, bảo đảm thực hiện đồng thời những mục đích về kinh tế, quân sự và chính trị.

Sự phần chia lãnh thổ và phát triển không đều của chủ nghĩa tư bản tất yếu dẫn đến cuộc đấu tranh đòi chia lại thế giới. Đó là nguyên nhân chính dẫn đến hai cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918) và Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945).

Năm đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa đế quốc có liên quan chặt chẽ với nhau, nói lên bản chất của chủ nghĩa đế quốc về mặt kinh tế là sự thống trị của chủ nghĩa tư bản độc quyền, về mặt chính trị là hiếu chiến, xâm lược.

Câu 14: Trình bày nguyên nhân ra đời và bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước.

Nguyên nhân dẫn đến sự hình thành của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là do:

Một là, tích tụ và tập trung tư bản càng lớn thì tích tụ và tập trung sản xuất càng cao, do đó đẻ ra những cơ cấu kinh tế to lớn đòi hỏi một sự điều tiết xã hội đối với sản xuất và phân phối, yêu cầu kế hoạch hoá tập trung từ một trung tâm. Nói cách khác, sự phát triển hơn nữa của trình độ xã hội hoá lực lượng sản xuất đã dẫn đến yêu cầu khách quan là nhà nước phải đại biểu cho toàn bộ xã hội quản lý nền sản xuất. Lực lượng sản xuất xã hội hoá ngày càng cao mâu thuẫn gay gắt với hình thức chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, do đó tất yếu đòi hỏi phải có một hình thức mới của quan hệ sản xuất để lực lượng sản xuất có thể tiếp tục phát triển trong điều kiện còn sự thống trị của chủ nghĩa tư bản. Hình thức mới đó là chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước.

Hai là, sự phát triển của phân công lao động xã hội đã làm xuất hiện một số ngành mà các tổ chức độc quyền tư bản tư nhân không thể hoặc không muốn kinh doanh vì đầu tư lớn, thu hồi vốn chậm và ít lợi nhuận, nhất là các ngành thuộc kết cấu hạ tầng như năng lượng, giao thông vận tải, nghiên cứu khoa học cơ bản... đòi hỏi nhà nước tư sản phải đứng ra đảm nhiệm kinh doanh các ngành đó, tạo điều kiện cho các tổ chức độc quyền tư nhân kinh doanh các ngành khác có lợi hơn.

Ba là, sự thống trị của độc quyền đã làm sâu sắc thêm sự đối kháng giữa giai cấp tư sản với giai cấp vô sản và nhân dân lao động. Nhà nước phải có những chính sách để xoa dịu những mâu thuẫn đó như trợ cấp thất nghiệp, điều tiết thu nhập quốc dân, phát triển phúc lợi xã hội...

Bốn là, cùng với xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế, sự bành trướng của các liên minh độc quyền quốc tế vấp phải những hàng rào quốc gia dân tộc và xung đột lợi ích với các đối thủ trên thị trường thế giới. Tình hình đó đòi hỏi phải có sự phối hợp giữa các nhà nước của các quốc gia tư sản để điều tiết các quan hệ chính trị và kinh tế quốc tế.

Bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước:

Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự kết hợp sức mạnh của các tổ chức độc quyền tư nhản với sức mạnh của nhà nước tư sản thành một thiết chế và thể chế thống nhất, trong đó nhà nước tư sản bị phụ thuộc vào các tổ chức độc quyền và can thiệp vào các quá trinh kinh tế nhằm bảo vệ lợi ích của các tổ chức độc quyền và cứu nguy cho chủ nghĩa tư bản.

Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là nấc thang phát triển mới của chủ nghĩa tư bản độc quyền (chủ nghĩa đế quốc). Nó là sự thống nhất của ba quá trình gắn bó chặt chẽ với nhau: tăng sức mạnh của các tổ chức độc quyền, tăng vai trò can thiệp của nhà nước vào kinh tế, kết hợp sức mạnh kinh tế của độc quyền tư nhân với sức mạnh chính trị của nhà nước trong một thể thống nhất và bộ máy nhà nước phụ thuộc vào các tổ chức độc quyền.

Trong cơ cấu của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, nhà nước đã trở thành một tập thể tư bản khổng lồ. Nó cũng là chủ sở hữu những xí nghiệp, cũng tiến hành kinh doanh, bóc lột lao động làm thuê như một nhà tư bản thông thường. Nhưng điểm khác biệt là ở chỗ: ngoài chức năng một nhà tư bản thông thường, nhà nước còn có chức năng chính trị và các công cụ trấn áp xã hội như quân đội, cảnh sát, nhà tù...

Như vậy, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là một quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội chứ không phải là một chính sách trong giai đoạn độc quyền của chủ nghĩa tư bản.

Bất cứ nhà nước nào cũng có vai trò kinh tế nhất định đối với xã hội mà nó thống trị, song ở mỗi chế độ xã hội, vai trò kinh tế của nhà nước có sự biến đổi thích hợp đối với xã hội đó. Các nhà nước trước chủ nghĩa tư bản chủ yếu can thiệp bằng bạo lực và theo lối cưỡng bức siêu kinh tế. Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh, nhà nước tư sản ở bên trên, bên ngoài quá trình kinh tế, vai trò của nhà nước chỉ dừng lại ở việc điều tiết bằng thuế và pháp luật. Cùng với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản độc quyền vai trò của nhà nước tư sản dần dần có sự biến đổi, không chỉ can thiệp vào nền sản xuất xã hội bằng thuế, luật pháp mà còn có vai trò tổ chức và quản lý các xí nghiệp thuộc khu vực kinh tế nhà nước, điều tiết bằng các biện pháp đòn bẩy kinh tế vào tất cả các khâu của quá trình tái sản xuất: sản xuất, phân phối, lưu thông, tiêu dùng. Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là hình thức vận động mới của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa nhằm duy trì sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản, làm cho chủ nghĩa tư bản thích nghi với điều kiện lịch sử mới.

Câu 15: Trình bày những hình thức biểu hiện của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước.

 Sự kết hợp về nhân sự giữa tổ chức độc quyền và nhà nước

 Sự kết hợp về nhân sự thực hiện thông qua các đảng phái tư sản. Chính các đảng phái này đã tạo ra cho tư bản độc quyền một cơ sở xã hội để thực hiện thống trị và trực tiếp xây dựng đội ngũ công chức cho bộ máy nhà nước.

 Cùng với các đảng phái tư sản, sự kết hợp về nhân sự còn được thực hiện thông qua các hội chủ xí nghiệp mang những tên khác nhau, thí dụ: Liên đoàn công nghiệp Italia, Tổ chức liên hợp công nghiệp Đức, Liên đoàn công thương Anh...

Các hội chủ xí nghiệp này trở thành lực lượng chính trị, kinh tế to lớn, là chỗ dựa cho chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước. Các hội chủ này hoạt động như là các cơ quan tham mưu cho nhà nước, chi phối đường lối kinh tế, đường lối chính trị của nhà nước tư sản nhằm "lái" hoạt động của nhà nước theo hướng có lợi cho tầng lớp tư bản độc quyền. Vai trò của các hội lớn đến mức mà dư luận thế giới đã gọi chúng là những chính phủ đằng sau chính phủ, một quyền lực thực tế đằng sau quyền lực của chính quyền. Thông qua các hội chủ, một mặt các đại biểu của các tổ chức độc quyền tham gia vào bộ máy nhà nước với những cương vị khác nhau; mặt khác, các quan chức và nhân viên chính phủ được cài vào các ban quản trị của các tổ chức độc quyền, giữ những chức vụ trọng yếu chính thức hoặc danh dự, hoặc trở thành những người đỡ đầu các tổ chức độc quyền. Sự thâm nhập lẫn nhau này (còn gọi là sự kết hợp) đã tạo ra những biểu hiện mới trong mối quan hệ giũa các tổ chức độc quyền và cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương.

 Sự hình thành và phát triển sở hữu nhà nước

 Sở hữu độc quyền nhà nước là sở hữu tập thể của giai cấp tư sản độc quyền có nhiệm vụ ủng hộ và phục vụ lợi ích của tư bản độc quyền nhằm duy trì sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản. Nó biểu hiện không những ở chỗ sở hữu nhà nước tăng lên mà còn ở sự tăng cường mối quan hệ giữa sở hữu nhà nước và sở hữu độc quyền tư nhân, hai loại sở hữu này đan kết với nhau trong quá trình tuần hoàn của tổng tư bản xã hội.

 Sở hữu nhà nước không chỉ bao gồm những động sản và bất động sản cần cho hoạt động của bộ máy nhà nước, mà gồm cả những xí nghiệp nhà nước trong công nghiệp và trong các lĩnh vực kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội như: giao thông vận tải, giáo dục, y tế, bảo hiểm xã hội... trong đó ngân sách nhà nước là bộ phận quan trọng nhất.

 Sở hữu nhà nước được hình thành dưới nhiều hình thức khác nhau: xây dựng xí nghiệp nhà nước bằng vốn của ngân sách; quốc hữu hoá các xí nghiệp tư nhân bằng cách mua lại; nhà nước mua cổ phần của các xí nghiệp tư nhân; mở rộng xí nghiệp nhà nước bằng vốn tích luỹ của các xí nghiệp tư nhân...

 Sở hữu nhà nước thực hiện các chức năng quan trọng sau:

Một là, mở rộng sản xuất tư bản chủ nghĩa, bảo đảm địa bàn rộng lớn cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản. Điều này liên quan đến những ngành sản xuất cũ không đứng vững được trong cạnh tranh và có nguy cơ thua lỗ, cũng như các ngành công nghiệp mới nhất đòi hỏi vốn đầu tư lớn và trình độ nghiên cứu khoa học, thiết kế và thử nghiệm cao được nhà nước đầu tư phát triển.

Hai là, giải phóng tư bản của tổ chức độc quyền từ những ngành ít lãi để đưa vào những ngành kinh doanh có hiệu quả hơn.

Ba là, làm chỗ dựa về kinh tế cho nhà nước để nhà nước điều tiết một số quá trình kinh tế phục vụ lợi ích của tầng lớp tư bản độc quyền.

Sự điều tiết kinh tế của nhà nước tư sản

Một trong những hình thức biểu hiện quan trọng của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự tham gia của nhà nước tư sản vào việc điều tiết quá trình kinh tế. Hệ thống điều tiết kinh tế của nhà nước tư sản là một tổng thể những thiết chế và thể chế kinh tế của nhà nước. Nó bao gồm bộ máy quản lý gắn với hệ thống chính sách, công cụ có khả năng điều tiết sự vận động của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, toàn bộ quá trình tái sản xuất xã hội theo hướng có lợi cho tầng lớp tư bản độc quyền.

Các chính sách kinh tế của nhà nước tư sản là sự thể hiện rõ nét nhất sự điều tiết kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước trong giai đoạn hiện nay. Chúng bao gồm nhiều lĩnh vực như: chính sách chống khủng hoảng chu kỳ, chống lạm phát; chính sách tăng trưởng kinh tế, chính sách xã hội, chính sách kinh tế đối ngoại.

Các công cụ chủ yếu của nhà nước tư sản dùng để điều tiết kinh tế và thực hiện các chính sách kinh tế là: ngân sách, thuế, hệ thống tiền tệ - tín dụng, các doanh nghiệt nhà nước, kế hoạch hoá hay chương trình hoá kinh tế và các công cụ hành chính - pháp lý.

Câu 16: Trình bày khái niệm giai cấp công nhân, nội dung và điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.

       

        Xuất phát từ quan điểm của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác- Lenin về giai cấp công nhân, nghiên cứu những biến đổi của giai cấp công nhân trong giai đoạn hiện nay có thể nhận định:

            “Giai cấp công nhân là 1 tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát triển cùng với quá trình phát triển của nền công nghiệp hiện đại, vs nhịp độ phát triển của lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa ngày càng cao; là lực lượng sản xuất cơ bản tiên tiến, trực tiếp hoặc tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội; là lực lượng chủ yếu của tiến trình lịch sử quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Ở các nước tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân là những người không có hoặc về cơ bản không có tư liệu sản xuất phải làm thuê cho giai cấp tư sản và bị giai cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư; ở các nước xã hội chủ nghĩa, họ là người đã cùng nhân dân lao động làm chủ những tư liệu sản xuất chủ yếu và cùng nhau hợp tác lao động vì lợi ích chung của toàn xã hội trong đó có lợi ích chính đáng của bản thân họ”.

Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân

Tự mình thực hiện và lãnh đạo nhân dân lao động thực hiện một cuộc cách mạng xã hội để tự giải phóng mình và giải phóng toàn thể nhân dân lao động khỏi mọi chế độ áp bức, bóc lột;

 Đồng thời, xây dựng chế độ xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.

Theo quan điểm duy vật lịch sử, sứ mệnh lịch sử của một giai cấp không phải do ý muốn chủ quan quy định mà trái lại, được quy định bởi những điều kiện khách quan của lịch sử; đồng thời cũng chính điều kiện lịch sử khách quan đó là cơ sở khách quan tạo cho giai cấp đó có được những đặc điểm chính trị - xã hội mang tính cách mạng có thể thực hiện được sứ mệnh lịch sử ấy.

Thứ nhất, theo lý luận hình thái kinh tế - xã hội, nhân tố quyết định sự phát triển của xã hội là sự phát triển của lực lượng sản xuất; trong đó, người lao động là lực lượng sản xuất hàng đầu. Trong xã hội tư bản chủ nghĩa hay trong bất cứ một xã hội nào dựa trên sự phát triển của nền đại công nghiệp thì lực lượng sản xuất hàng đầu của nó vẫn là người công nhân. Chính người công nhân là đại biểu cho sự phát triển của lực lượng sản xuất tiên tiến nhất của thời đại ngày nay; không có một giai cấp nào có thể thay thế địa vị đó.

Chú ý: ở đây là nói người công nhân với tư cách là sản phẩm của nền sản xuất đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa hay xã hội chủ nghĩa; nó đại biểu cho sự phát triển của lực lượng sản xuất tiên tiến của xã hội hiện thời và xã hội tương lai.

Thứ hai, trong các giai cấp, tầng lớp xã hội đối lập (mâu thuẫn) giai cấp tư sản thì chỉ có giai cấp công nhân là giai cấp ở vào địa vị mâu thuẫn trực tiếp nhất và có tính đối kháng. Điều này khiến cho giai cấp công nhân trở thành giai cấp có tính cách mạng triệt để nhất trong cuộc đấu tranh chống lại ách thống trị, áp bức và bóc lột của giai cấp tư sản. Trong cuộc đấu tranh để tự giải phóng mình và giải phóng toàn thể nhân dân lao động khỏi ách thống trị, áp bức, bóc lột của giai cấp tư sản, giai cấp công nhân (với tư cách là giai cấp vô sản) không mất gì cả, ngoại trừ mất xiềng xích, còn nếu được thì được cả thế giới.

Thứ ba, xuất phát từ đặc điểm của nền sản xuất công nghiệp, nhất là nền công nghiệp hiện đại, khiến cho giai cấp công nhân có được tính tổ chức cao với kỷ luật chặt chẽ. Đồng thời, với sự phát triển mở rộng, có tính xã hội hoá cao của nền sản xuất công nghiệp khiến cho giai cấp công nhân có được mối quan hệ liên minh mang tính quốc tế của nó từ cơ sở của nền công nghiệp phát triển và nền kinh tế thị trường mở rộng có xu hướng quốc tế hoá. Mặt khác, đội ngũ của nó cũng không ngừng lớn mạnh nhờ quá trình phát triển của công nghiệp hoá ngày càng mở rộng trong phạm vi một quốc gia cũng như ở nhiều quốc gia khác nhau.

Thứ tư, giai cấp công nhân là giai cấp thuộc những người lao động, điều đó là cơ sở khách quan cho sự liên minh vững chắc và lâu dài giữa giai cấp công nhân với các giai cấp và tầng lớp lao động khác trong toàn xã hội, tạo thành lực lượng cách mạng của công cuộc cách mạng xoá bỏ xã hội cũ, xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa.

Thứ năm, giai cấp công nhân là giai cấp có được hệ tư tưởng khoa học của nó - đó là chủ nghĩa Mác - Lênin.

Câu 17: Trình bày quy luật ra đời của Đảng cộng sản, vai trò của Đảng cộng sản với việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của  giai cấp công nhân.

Sự ra đời và lãnh đạo của Đảng Cộng sản là một tất yếu khách quan và là điều kiện tiên quyết bảo đảm giai cấp công nhân có thể thực hiện được sứ mệnh lịch sử của mình.

Theo quan điểm duy vật lịch sử, quần chúng nhân dân giữ vai trò sáng tạo lịch sử, quyết định tiến trình lịch sử xã hội nhưng vai trò đó không thể thực hiện được nếu như nó không được tổ chức lại thành lực lượng chính trị có tổ chức vững chắc - một tổ chức có sự lãnh đạo đúng đắn theo lý luận khoa học dẫn đường với đội ngũ lãnh tụ có tài năng và lập trường kiên định của nó. Đối với sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân cũng không là ngoại lệ.

Sự ra đời của Đảng Cộng sản không phải là ngẫu nhiên, bên ngoài phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân; trái lại, nó là một tất yếu xuất phát từ nhu cầu khách quan của sự phát triển về quy mô và chất lượng từ tự phát đến tự giác của chính phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Nhưng chỉ có nhu cầu đó vẫn chưa thể dẫn tới sự ra đời của Đảng Cộng sản mà chỉ khi có sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin và sự phát triển của phong trào công nhân đến độ chín muồi thì mới có thể dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản. Chỉ từ khi có sự ra đời và lãnh đạo của Đảng thì phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân mới có thể vượt qua tính tự phát và đạt tới trình độ tự giác; mới có thể làm cho phong trào công nhân đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác trên tiến trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình. Vai trò đó thể hiện ở 3 điểm chính sau đây:

Thứ nhất, trên cơ sở vận dụng những nguyên lý khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện lịch sử, cụ thể của mỗi quốc gia, mỗi thời kỳ lịch sử,... Đảng Cộng sản - với tư cách là tổ chức chính trị cao nhất của phong trào công nhân - xây dựng nên đường lối chiến lược, sách lược để lãnh đạo phong trào công nhân.

Thứ hai, trong quá trình lãnh đạo thực tiễn cách mạng, Đảng cũng chính là tổ chức chính trị cao nhất làm công việc tổ chức nghiên cứu, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, bổ sung, hoàn thiện lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin; tức là hoàn thiện, phát triển lý luận khoa học của

Câu 18: Trình bày khái niệm và nguyên nhân của cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Khái niệm cách mạng xã hội chủ nghĩa

Theo nghĩa hẹp, cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc cách mạng chính trị, được kết thúc bằng việc giai cấp công nhân cùng với nhân dân lao động giành được chính quyền, thiết lập được nhà nước chuyên chính vô sản - nhà nước của giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động.

 Theo nghĩa rộng, cách mạng xã hội chủ nghĩa bao gồm cả hai thời kỳ: cách mạng về chính trị với nội dung chính là thiết lập nhà nước chuyên chính vô sản và tiếp theo là thời kỳ giai cấp công nhân và nhân dân lao động sử dụng nhà nước của mình để cải tạo xã hội cũ về mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hoá, tư tưởng, v.v., xây dựng xã hội mới về mọi mặt nhằm thực hiện thắng lợi chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.

 Nguyên nhân khách quan của cách mạng xã hội chủ nghĩa

Nguyên nhân sâu xa của mọi cuộc cách mạng trong xã hội là do mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển của lực lượng sản xuất với sự kìm hãm của quan hệ sản xuất đã trở nên lỗi thời. Theo quy luật chung của sự phát triển trong xã hội, lực lượng sản xuất không ngừng phát triển tới khi mâu thuẫn với quan hệ sản xuất đã lỗi thời, kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, đòi hỏi tiến hành một cuộc cách mạng xã hội để xoá bỏ quan hệ sản xuất đã lỗi thời, thay thế bằng quan hệ sản xuất mới mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: từ chỗ là những hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội.

Thứ nhất, nguyên nhân sâu xa dẫn tới cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là từ mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển xã hội hoá của lực lượng sản xuất ngày càng cao với lính chất chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Mâu thuẫn này chỉ có thể giải quyết được thông qua cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Thứ hai, trên lĩnh vực chính trị, mâu thuẫn trong phương thức sản xuất (nói trên) biểu hiện thành mâu thuẫn đối kháng giai cấp giữa giai cấp công nhân làm thuê (đại biểu cho sự phát triển lực lượng sản xuất) với giai cấp tư sản (đại biểu cho tính chất chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất).

Thứ ba, với sự bành trướng của chủ nghĩa tư bản dưới hình thức chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc đã biến các dân tộc còn ở trình độ chậm phát triển kinh tế trở thành thuộc địa, phụ thuộc của các nước tư bản. Chính điều đó đã tạo nên một biểu hiện của mâu thuẫn nữa dẫn tới cách mạng xã hội chủ nghĩa đó là mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc với chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc.

Như vậy, cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa có nguyên nhân sâu xa của nó là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất có tính xã hội hóa cao với tính chất tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất dưới chủ nghĩa tư bản, cho nên chừng nào quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa vẫn được duy trì thì nguyên nhân khách quan, sâu xa của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa vẫn còn tồn tại và do đó cách mạng xã hội chủ nghĩa vẫn là một tất yếu khách quan của tiến trình phát triển lịch sử nhân loại.

Tuy nhiên, cách mạng xã hội chủ nghĩa có nổ ra hay không, khi nào và ở đâu thì còn phụ thuộc vào nhiều nhân tố khác như: sự phát triển của cuộc đấu tranh giai cấp, sự phát triển của phong trào giải phóng dân tộc, ý thức giác ngộ cách mạng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động,...

Câu 19: Trình bày tính tất yếu và đặc điểm của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

 Tính tất yếu của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.

Một là, bất kỳ quá trình chuyển biến từ một xã hội này lên một xã hội khác đều nhất định phải trải qua một thời kỳ gọi là thời kỳ quá độ. Đó là thời kỳ còn có sự đan xen lẫn nhau giữa các yếu tố mới và cũ trong cuộc đấu tranh với nhau. Có thể nói đây là thời kỳ của cuộc đấu tranh “ai thắng ai” giữa cái cũ và cái mới mà nói chung theo tính tất yếu phát triển lịch sử thì cái mới thường chiến thắng cái cũ, cái lạc hậu. Từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội không là ngoại lệ lịch sử. Hơn nữa, từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là một bước nhảy lớn và căn bản về chất so với các quá trình thay thế từ xã hội cũ lên xã hội mới đã từng diễn ra trong lịch sử thì thời kỳ quá độ lại càng là một tất yếu, thậm chí có thể kéo dài, nhất là đối với những nước còn ở trình độ tiền tư bản thực hiện thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội thì “những cơn đau đẻ” này còn có thể rất dài với nhiều bước quanh co.

Hai là, sự ra đời của một xã hội mới bao giờ cũng có những sự kế thừa nhất định từ những nhân tố do xã hội cũ tạo ra. Sự ra đời của chủ nghĩa xã hội là sự kế thừa đối với chủ nghĩa tư bản, đặc biệt là trên phương diện kế thừa cơ sở vật chất kỹ thuật đã được tạo ra bởi sự phát triển của nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên, cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội mặc dù cũng là nền sản xuất đại công nghiệp nhưng đó là nền sản xuất đại công nghiệp xã hội chủ nghĩa chứ không phải là nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa. Do đó nó cũng cần phải có thời kỳ quá độ của bước cải tạo, kế thừa và tái cấu trúc nền công nghiệp tư bản chủ nghĩa.

Đối với những nước chưa từng trải qua quá trình công nghiệp hóa tiến lên chủ nghĩa xã hội, thời kỳ quá độ cho việc xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội càng có thể kéo dài với nhiệm vụ trọng tâm của nó là tiến hành công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Đó là một nhiệm vụ vô cùng to lớn và đầy khó khăn, không thể “đốt cháy giai đoạn” được.

Ba là, các quan hệ xã hội của chủ nghĩa xã hội không tự phát nảy sinh trong lòng chủ nghĩa tư bản, chúng là kết quả của quá trình xây dựng và cải tạo xã hội chủ nghĩa. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, dù đã ở trình độ cao cũng chỉ có thể tạo ra những điều kiện, tiền đề cho sự hình thành các quan hệ xã hội mới xã hội chủ nghĩa, do vậy cũng cần phải có thời gian nhất định để xây dựng và phát triển những quan hệ đó.

Bốn là, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là một công việc mới mẻ, khó khăn và phức tạp. Với tư cách là ngươi chủ của xã hội mới, giai cấp công nhân và nhân dân lao động không thể ngay lập tức có thể đảm đương được công việc ấy, nó cần phải có thời gian nhất định.

Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở các nước có trình độ phát triển kinh tế - xã hội khác nhau có thể diễn ra với khoảng thời gian dài, ngắn khác nhau. Đối với những nước đã trải qua chủ nghĩa tư bản phát triển ở trình độ cao khi tiến lên chủ nghĩa xã hội thì thời kỳ quá độ có thể tương đối ngắn. Những nước đã trải qua giai đoạn phát triển chủ nghĩa tư bản ở trình độ trung bình, đặc biệt là những nước còn ở trình độ phát triển tiền tư bản, cỏ nền kinh tế lạc hậu thì thời kỳ quá độ thường kéo dài với rất nhiều khó khăn, phức tạp.

 Những đặc điểm cơ bản của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội

Đặc điểm nổi bật của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là sự tồn tại những yếu tố của xã hội cũ bên cạnh những nhân tố mới của chủ nghĩa xã hội trong mối quan hệ vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội.

Trên lĩnh vực kinh tế:

Thời kỳ quá độ là thời kỳ tất yếu còn tồn tại một nền kinh tế nhiều thành phần trong một hệ thống kinh tế quốc dân thống nhất. Đây là bước quá độ trung gian tất yếu trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, không thể dùng ý chí để xóa bỏ ngay kết cấu nhiều thành phần của nền kinh tế, nhất là đối với những nước còn ở trình độ chưa trải qua sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.

Nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được xác lập trên cơ sở khách quan của sự tồn tại nhiều loại hình sở hữu về tư liệu sản xuất với những hình thức tổ chức kinh tế đa dạng, đan xen hỗn hợp và tương ứng với nó là những hình thức phân phối khác nhau, trong đó hình thức phân phối theo lao động tất yếu ngày càng giữ vai trò là hình thức phân phối chủ đạo.

Trên lĩnh vực chính trị:

Do kết cấu kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đa dạng, phức tạp, nên kết cấu giai cấp của xã hội trong thời kỳ này cũng đa dạng phức tạp. Nói chung, thời kỳ này thường bao gồm: giai cấp công nhân, nông dân, tầng lớp trí thức, những người sản xuất nhỏ, tầng lớp tư sản và một số tầng lớp xã hội khác tuỳ theo từng điều kiện cụ thể của mỗi nước. Các giai cấp, tầng lớp này vừa hợp tác, vừa đấu tranh với nhau.

Trên lĩnh vực tư tưởng - văn hoá:

Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội còn tồn tại nhiều yếu tố tư tưởng và văn hoá khác nhau. Bên cạnh tư tưởng xã hội chủ nghĩa còn tồn tại tư tưởng tư sản, tiểu tư sản, tâm lý tiểu nông, v.v.. Theo V.I. Lênin, tính tự phát tiểu tư sản là “kẻ thù giấu mặt hết sức nguy hiểm, nguy hiểm hơn so với nhiều bọn phản cách mạng công khai”. Trên lĩnh vực văn hoá cũng tồn tại các yếu tố văn hoá cũ và mới, chúng thường xuyên đấu tranh với nhau.

Thực chất của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ diễn ra cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp tư sản đã bị đánh bại không còn là giai cấp thống trị và những thế lực chống phá chủ nghĩa xã hội với giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động. Cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra trong điều kiện mới là giai cấp công nhân đã nắm được chính quyền nhà nước, quản lý tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Cuộc đấu tranh giai cấp với những nội dung, hình thức mới, diễn ra trong lĩnh vực chính trị, kinh tế, tư tưởng - văn hóa, bằng tuyên truyền vận động là chủ yếu, bằng hành chính và luật pháp.

Tóm lại, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một thời kỳ lịch sử tất yếu trên con đường phát triển của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Đó là thời kỳ lịch sử có đặc điểm riêng với những nội dung kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội đặc thù mà giai đoạn xã hội xã hội chủ nghĩa trên con đường phát triển của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa chỉ có thể có được trên cơ sở hoàn thành các nội dung đó.

Câu 20: Trình bày đặc trưng cơ bản của xã  hội chủ nghĩa.

 Thứ nhất, về cơ sở vật chất, kỹ thuật của xã hội.

Cơ sở vật chất của xã hội xã hội chủ nghĩa là nền đại công nghiệp có trình độ phát triển cao; được xây dựng trên cơ sở kế thừa và phát triển cơ sở vật chất do sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đã tạo ra.

Thứ hai, về chế độ kinh tế của xã hội.

Chế độ kinh tế của xã hội xã hội chủ nghĩa là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất đã chiếm địa vị thống trị vững chắc trong nền kinh tế quốc dân. Đồng thời, cũng đã tạo ra được phương thức tổ chức lao động và kỷ luật lao động mới theo tinh thần xã hội chủ nghĩa với một chế độ phân phối theo lao động.

Thứ ba, về chế độ dân chủ của xã hội.

Xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội có nền dân chủ thực sự, dân chủ "gấp triệu lần dân chủ tư sản"; nền dân chủ đó mang bản chất của giai cấp công nhân và có tính chất nhân dân rộng rãi nhất, có tính dân tộc sâu sắc nhất chưa từng có trong lịch sử.

Thứ tư, về đời sống văn hoá, xã hội của dân cư.

Xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội đã thực hiện được sự giải phóng con người khỏi ách nô dịch, bị áp bức, bị bóc lột; tạo ra được những điều kiện về mọi mặt để mọi người đều có cơ hội phát triển bình đẳng.

Câu 21: Trình bày tính tất yếu và nội dung của liên minh giữa giai cấp công nhân và giai cấp nông dân trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.

 Thực hiện liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân là một tất yếu và có thể thực hiện được trong cách mạng xã hội chủ nghĩa ở những nước mà nông dân còn là một lực lượng đông đảo là do:

Sự phát triển của phương thức sản xuất công nghiệp và thị trường ngày càng mở rộng thì đương nhiên giai cấp công nhân ngày càng tăng lên, ngược lại giai cấp nông dân ngày càng giảm đi một cách tương ứng. Tuy nhiên, sự phát triển đó là không đồng đều ở các quốc gia khác nhau, ở các thời kỳ lịch sử khác nhau. Đối với những nước và ở thời kỳ lịch sử khi mà giai cấp nông dân còn là một lực lượng đông đảo trong xã hội thì việc giai cấp công nhân thực hiện sự liên minh chặt chẽ với giai cấp nông dân là một tất yếu khách quan của cách mạng xã hội chủ nghĩa, đồng thời sự liên minh đó là có thể thực hiện được do có cơ sở khách quan của nó.

Điều đó chủ yếu được phân tích ở các điểm chính sau đây:

Sự liên minh chặt chẽ giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân cũng như với nhiều tầng lớp nhân dân lao động khác mới có thể tạo ra được lực lượng tạo thành động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa.

 Bản thân giai cấp nông dân cũng là giai cấp cần sự giải phóng khỏi ách áp bức, bóc lột. Chỉ có đi theo sự liên minh chặt chẽ với giai cấp công nhân và thực hiện sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa thì giai cấp nông dân mới có thể thực sự giải phóng được sự áp bức, bóc lột của giai cấp khác và mới có thể vươn lên trình độ làm chủ xã hội.

 Chỉ có liên minh công - nông mới có thể tạo ra được cơ sở vững chắc bảo đảm sự phát triển và thực hiện sự lãnh đạo của chính Đảng của giai cấp công nhân trong toàn bộ đời sống kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội.

 Giai cấp công nhân và giai cấp nông dân đều có chung bản chất của người lao động.

 Cơ sở khách quan của khối liên minh công - nông là mối quan hệ tất yếu của cơ cấu kinh tế giữa hai ngành công nghiệp và nông nghiệp.

Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân, giai cấp nông dân cũng như nhiều tầng lớp lao động khác đều là những ngươi lao động, đều bị áp bức bóc lột.

 Nội dung cơ bản của liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác trong cách mạng xã hội chủ nghĩa là hết sức phong phú, toàn diện trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Mỗi thời kỳ lịch sử, mỗi lĩnh vực khác nhau sẽ có những nội dung cụ thể khác nhau, nhưng tất cả các nội dung đó đều nhằm hướng tới việc đảm bảo thành công sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Liên minh về chính trị:

Nội dung của liên minh chính trị là liên minh quyền lực chính trị nhằm thực hiện quyền lực thuộc về nhân dân lao động, dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua chính Đảng của nó.

Nội dung này được cụ thể hoá trong hai giai đoạn cách mạng: giai đoạn giành chính quyền về tay nhân dân và giai đoạn tổ chức chính quyền mới thực sự “của dân, do dân và vì dân”.

Liên minh về kinh tế:

Nội dung của liên minh này là thực hiện lợi ích kinh tế giữa giai cấp công nhân và giai cấp nông dân, trong đó bao gồm: thực hiện đúng đắn lợi ích giữa các giai cấp và tầng lớp xã hội; xây dựng và phát triển hợp lý cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp; tổ chức các hình thức trao đổi, hỗ trợ, giao lưu kinh tế giữa công nghiệp và nông nghiệp; xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý (cơ cấu thành phần, cơ cấu ngành và cơ cấu vùng) bảo đảm sự phát triển hài hoà trong hệ thống kinh tế quốc dân thống nhất;...

 Liên minh văn hoá, xã hội:

Liên minh văn hoá, xã hội trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa bao gồm nhiều nội dung cụ thể: thực hiện sự tăng trưởng gắn với sự tiến bộ và công bằng xã hội; xây dựng đời sống văn hoá mới của nhân dân; phát triển giáo dục, đào tạo và bồi dưỡng nhân tài cho sự nghiệp cách mạng; xây dựng văn hoá nông thôn;...

Câu 22: Trình bày khái niệm và bản chất của dân chủ xã hội.

Khái niệm dân chủ

Khái niệm dân chủ có một nội hàm hết sức phong phú với một lịch sử phát triển trên hai nghìn năm qua nhưng nếu hiểu vắn tắt và cơ bản thì có thể nói: Khái niệm dân chủ dùng để chỉ quyền làm chủ của nhân dân.

Khái niệm này được hình thành từ những cuộc tranh luận về chủ thể quyền lực của xã hội thuộc về ai? (nhân dân hay vua - “quân chủ”;...).

Nếu lý giải theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin thì khái niệm “dân chủ” bao hàm ba nội dung chủ yếu sau đây:

 Dân chủ là quyền lực của nhân dân (tức chủ thể quyền lực của xã hội thuộc về nhân dân). Theo nghĩa đó, một khi quyền lực cai trị xã hội thuộc về một người (ví dụ theo chế độ phong kiến) thì xã hội đó là xã hội không có dân chủ mà là xã hội “quân chủ” (vấn đề chỉ còn là “quân chủ tập quyền” hay “quân chủ phân quyền” mà thôi).

 Trong xã hội có giai cấp đối kháng thì không có dân chủ phi giai cấp. Trái lại, về thực chất (chứ không phải là trên phương diện tuyên ngôn - lời tuyên bố) dân chủ bao giờ cũng là dân chủ đối với một giai cấp xác định còn đối với giai cấp khác, giai cấp đối kháng với nó thì không có dân chủ. Bản chất giai cấp của dân chủ có cơ sở kinh tế của nó. Giai cấp nào nắm được tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội thì mới có thể thực sự thực hiện được quyền làm chủ xã hội.

Ví dụ, khái niệm dân chủ trong xã hội chiếm hữu nô lệ là dân chủ cho giai cấp chủ nô chứ không phải cho giai cấp những người nô lệ (những người bị coi không phải là “người”), cũng không phải thực chất cho tầng lớp lao động tự do (nông dân, thợ thủ công,... trong xã hội chiếm hữu nô lệ).

 Khái niệm dân chủ không phải là khái niệm bất biến, trái lại nó là một phạm trù có tính lịch sử và luôn gắn với sự tồn tại của các kiểu nhà nước trong mỗi điều kiện xác định. Bởi vậy, khái niệm “dân chủ" có mối quan hệ chặt chẽ với khái niệm “chế độ dân chủ" và “nền dân chủ”. Nếu không thế thì trong thực tế xã hội, khái niệm dân chủ chỉ là một khái niệm thuần tuý tư tưởng, thiếu một nội dung hiện thực triển khai trong thực tiễn tổ chức xã hội.

 Khái niệm nền dân chủ xã hội chủ nghĩa

Nền dân chủ (hay chế độ dân chủ) xã hội chủ nghĩa là hệ thống thiết chế (chính trị, nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội) được xác lập và thực thi trong xã hội theo mục tiêu thực hiện quyền lực cai trị (quản lý, điều khiển, kiểm soát,... xã hội) thực sự thuộc về nhân dân lao động.

 Cụ thể, nền dân chủ đó có những đặc trưng chủ yếu sau đây:

Một là, đó là nền dân chủ phát triển ở trình độ cao nhất trong lịch sử, được xác lập sau khi giai cấp công nhân và nhân dân lao động giành được quyền lực nhà nước trong cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Đó là một chế độ dân chủ rộng rãi nhất - dân chủ cho toàn thể nhân dân lao động. Các chế độ dân chủ trước đây về thực chất chỉ là dân chủ đối với thiểu số giai cấp thống trị - giai cấp nắm giữ tư liệu sản xuất của xã hội.

Hai là, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ hoàn toàn có khả năng thực hiện được quyền lực thuộc về nhân dân lao động vì quyền lực ấy được bảo đảm bằng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chiếm địa vị thống trị trong nền kinh tế.

Ba là, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là một chế độ dân chủ được thể chế hoá và vận hành trong hiện thực xã hội bằng một cơ chế chặt chẽ: Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ. Đó là một thể chế và cơ chế đảm bảo thực hiện được: quyền lãnh đạo của giai cấp công nhân, quản lý xã hội bằng công cụ quyền lực nhà nước và thực hiện được rộng rãi nhất quyền lực của nhân dân lao động.

Câu 23: Trình bày khái niệm dân tộc và nguyên tắc của chủ nghĩa Mác- Lênin trong việc giải quyết các vấn đề dân tộc.

Khái niệm dân tộc

 Theo nghĩa rộng, khái niệm dân tộc dùng để chỉ những cộng đồng người có bốn đặc trưng: cộng đồng về ngôn ngữ; cộng đồng về lãnh thổ; cộng đồng về kinh tế; cộng đồng về văn hoá, về tâm lý, tính cách.

Theo nghĩa này, những cộng đồng người được gọi là "dân tộc" là kết quả của sự phát triển hết sức lâu dài của các cộng đồng người trong lịch sử nhân loại: từ cộng đồng thị tộc, bộ lạc đến cộng đồng bộ tộc và phát triển lên hình thức tổ chức cộng đồng được gọi là dân tộc. Đồng thời, sự hình thành dân tộc theo nghĩa này thường gắn với hình thức tổ chức nhà nước vì thế cũng còn thường được gọi là “quốc gia - dân tộc”. Ví dụ nói: “các quốc gia dân tộc châu Âu”,...). Trong các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, khái niệm dân tộc thường được sử dụng theo nghĩa này.

Sự hình thành cộng đồng dân tộc có thể diễn ra sớm hay muộn khác nhau tuỳ theo các điều kiện lịch sử. Ví dụ, ở các nước Tây Âu, sự ra đời của các cộng đồng dân tộc khá muộn so với một số nước ở châu Á.

 Theo nghĩa hẹp, khái niệm dân tộc dùng để chỉ các tộc người; tức là dùng để chỉ các cộng đồng người có chung một số đặc điểm nào đó về kinh tế, tập quán sinh hoạt văn hoá,... Ví dụ khi nói: dân tộc Kinh, Thái, Tày, Nùng,... với tư cách là các cộng đồng dân tộc anh em tự nguyện gắn kết nhau lại thành cộng đồng dân tộc Việt Nam trong cuộc đấu tranh dựng nước và cứu nước.

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, các vấn đề dân tộc cần phải được giải quyết trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản sau đây:

Thứ nhất, các dân tộc hoàn toàn bình đẳng.

 Quyền bình đẳng giữa các dân tộc cần phải được coi là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm. Bất kể cộng đồng dân tộc nào (cho dù đó là cộng đồng có đông người hay ít người; có trình độ phát triển cao hay thấp;...) cũng đều có quyền lợi và nghĩa vụ như nhau; không thể có đặc quyền đặc lợi cho riêng một dân tộc nào về các mặt: kinh tế, chính trị, văn hoá, ngôn ngữ,...

 Trong phạm vi một quốc gia có nhiều dân tộc, quyền bình đẳng giữa các dân tộc cần phải được nhà nước bảo vệ bằng pháp luật; đồng thời nhà nước cần phải có chính sách phù hợp trong việc khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội giữa các dân tộc, tạo nên sự phát triển hài hoà giữa các dân tộc.

 Trong phạm vi quan hệ giữa các quốc gia - dân tộc trên thế giới, quyền bình đẳng dân tộc cần phải được gắn kết với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa bá quyền nước lớn; chống sự áp bức, bóc lột của các nước tư bản phát triển đối với các nước lạc hậu, chậm phát triển về kinh tế nhằm đạt được sự bình đẳng giữa các quốc gia - dân tộc trên phạm vi quốc tế.

 Thứ hai, các dân tộc được quyền tự quyết.

 Quyền tự quyết của các dân tộc là nói đến quyền làm chủ của mỗi dân tộc mà trước hết và cơ bản là quyền các dân tộc có thể tự mình quyết định con đường phát triển kinh tế, chính trị - xã hội của dân tộc mình, không chịu sự ràng buộc, cưỡng bức của dân tộc khác.

 Quyền tự quyết của các dân tộc bao gồm: quyền tự do phân tách, hình thành nên cộng đồng quốc gia - dân tộc độc lập vì lợi ích chính đáng của các dân tộc và quyền liên hiệp các dân tộc trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng của các dân tộc.

 Thứ ba, liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc.

 Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc là một nội dung cơ bản trong cương lĩnh dân tộc của V.I.Lênin; nó thể hiện bản chất quốc tế của giai cấp công nhân và phản ánh mối quan hệ chặt chẽ giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp; phản ánh tính thống nhất biện chứng giữa chủ nghĩa yêu nước chân chính và chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng.

 Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc là một quan điểm có tính nguyên tắc trong việc giải quyết các vấn đề dân tộc trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa; quan điểm này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc giải quyết các vấn đề thuộc quyền bình đẳng giữa các dân tộc và quyền tự quyết của cấc dân tộc.

Câu 24: Trình bày khái niệm tôn giáo, những nguyên nhân tồn tại của tôn giáo trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.

      

           Khái niệm tôn giáo:

           Chủ nghĩa Mác - Lênin xác định khái niệm tôn giáo với tư cách là một yếu tố thuộc thượng tầng kiến trúc của xã hội.

            

               Với tư cách đó, có thể nói bất cứ một tôn giáo nào, với hình thái phát triển của nó, cũng đều bao gồm: ý thức tôn giáo (thể hiện ở quan niệm về các đấng thiêng liêng cùng những tín ngưỡng tương ứng) và hệ thống tổ chức tôn giáo cùng với những hoạt động mang tính chất nghi thức tín ngưỡng của nó.

           

               Tiêu biểu cho tôn giáo với nghĩa như vậy là Phật giáo, Thiên Chúa giáo và Hồi giáo. Đây là những tôn giáo có tầm ảnh hưởng quốc tế, vượt qua phạm vi nhiều quốc gia dân tộc. Ngoài ra, tại một số quốc gia hay các khu vực còn có những tôn giáo có tầm ảnh hưởng ít hơn.

           

               Khi phân tích bản chất tôn giáo với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, Ph.Ăngghen đã cho rằng: “Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo vào trong đầu óc của con người - của những lực lượng bên ngoài chi phối cuộc sống của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang những hình thức của lực lượng siêu trần thế”.

      Nguồn gốc ra đời và tồn tại của tôn giáo:

        

           Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, sự ra đời và tồn tại của tôn giáo có nguồn gốc khách quan và chủ quan của nó; đó là:

              Thứ nhất, do sự hạn chế về khả năng chinh phục của con người trước sức mạnh tự phát của giới tự nhiên hay xã hội đã khiến cho con người sợ hãi trước sức mạnh ấy, từ đó dẫn tới sự hình thành tín ngưỡng và cao hơn là sự ra đời và tồn tại của tôn giáo.

(Khái niệm tín ngưỡng dùng để chỉ lòng tin và sự ngưỡng vọng của con người về các đấng siêu nhiên; khái niệm này không đồng nghĩa với khái niệm mê tín, dị đoan - là khái niệm dùng để chỉ lòng tin mù quáng của con người về những điều thần bí trong tự nhiên hay xã hội).

Thứ hai, trong xã hội có sự thống trị của các giai cấp áp bức, bóc lột, giai cấp này đã lợi dụng tôn giáo, tín ngưỡng,… để ru ngủ sức phản kháng của nhân dân lao động trước sự áp bức bóc lột đó.

Thứ ba, khả năng nhận thức của con người trước thế giới vô cùng tận là có hạn. Trong những giới hạn lịch sử nhất định, con người chưa thể giải thích được hết mọi bản chất của các hiện tượng tự nhiên và xã hội, do đó dẫn tới sự sùng bái chúng đến mức biến thành tín ngưỡng và tôn giáo.

Thứ tư, sự sợ hãi, bất lực và bất hạnh trong cuộc đời của mỗi cá nhân khiến con người ta tìm đến tôn giáo như một chỗ dựa tinh thần hay như một sự “đền bù hư ảo” trước cái gọi là “số phận”.

Thứ năm, trong tiến trình phát triển văn hoá truyền thống của các dân tộc, các tộc người, tôn giáo, tín ngưỡng đã trở thành một thành tố của sự phát triển văn hoá, nó hoà đồng và bám rễ sâu chắc vào các sinh hoạt đó và đồng hành cùng sự phát triển văn hoá của các cộng đồng người trong lịch sử.

Câu 25: Trình bày những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin trong giải quyết các vấn đề tôn giáo.

    

         Giải quyết những vấn đề tôn giáo trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội cần dựa trên những quan điểm cơ bản sau đây:

           

          Một là, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, xét về mặt hình thái ý thức xã hội thì ý thức tôn giáo là hình thái ý thức có nhiều hạn chế vì thế trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội cần phải được khắc phục và vượt qua.Tuy nhiên, cũng theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, cần phải xem xét tôn giáo một cách toàn diện không chỉ trên những phương diện còn có những hạn chế của nó mà còn phải là trên mặt tích cực của nó.

        

           Hai là, khi tín ngưỡng tôn giáo còn là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân thì nhà nước xã hội chủ nghĩa cần phải tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tôn giáo và tín ngưỡng của nhân dân; bảo đảm sự bình đẳng pháp luật về quyên lợi và nghĩa vụ giữa những người theo tôn giáo khác nhau cũng như giữa người có tôn giáo với người không có tôn giáo; nghiêm cấm những hành vi lợi dụng tôn giáo để xâm phạm lợi ích của nhân dân;...

      

            Ba là, thực hiện đoàn kết những người có tôn giáo với những người không có tôn giáo; đoàn kết các tôn giáo; đoàn kết những người theo tôn giáo với những người không theo tôn giáo;... đồng thời, nghiêm cấm mọi hành vi chia rẽ cộng đồng vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo.

            

            Bốn là, trong việc giải quyết các vấn đề tôn giáo cần phải phân biệt rõ mặt chính trị và mặt tư tưởng của nó. Mặt tư tưởng của vấn đề tôn giáo phản ánh nhu cầu tín ngưỡng và nhận thức của con người - đó là công việc lâu dài và cần phải có thái độ tôn trọng; còn mặt chính trị của vấn đề tôn giáo là nói sự lợi dụng tôn giáo (tư tưởng, tín ngưỡng hay hoạt động tôn giáo,...) để xâm hại lợi ích của nhân dân lao động, chống lại tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội,... thì cần phải giải quyết ngay, giải quyết triệt để với những biện pháp thích hợp.

           

             Năm là, phải có quan điểm lịch sử - cụ thể khi giải quyết vấn đề tôn giáo vì rằng một mặt trong mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau, vai trò và sự tác động của từng tôn giáo cũng có sự khác nhau; mặt khác, ngay cả đối với một tôn giáo nào đó, thậm chí một vấn đề cụ thể nào đó của một tôn giáo nhất định cũng có thể có vai trò khác nhau trong những điều kiện lịch sử khác nhau.

 

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: #thi