nguyemhoan_qn
HOA HỌC TRÒ > Tuổi Chúng Mình > Điều Hay Ý Lạ
<STRONG>[DBM] 1000 câu hỏi "tại sao" </STRONG>
Biệt danh
Ghi Nhớ?
Mật mã
Đăng Ký
Hỏi/Ðáp
Thành Viên
Lịch<BR>
Thông Cáo
<B>0ff be bé xinh xinh mừng Halloween năm 2010 hay không?? <BR><BR><BR>Cuộc thi: HHT - Happy 10th B'Day! <BR><BR><BR>Cuộc thi Ảnh HHT 10 năm. Giá trị giải thưởng $150,000 HHT $ </B><BR><BR>
Nhảy đến trang số ...
Trang 1/3
<STRONG>1</STRONG>
2
3
>
Tiện Ích
vbmenu_register("threadtools");
13-10-2008, 12:27 AM
#<STRONG>1</STRONG>
DuyênBòMộng
vbmenu_register("postmenu_4153138", true);
Bé còn quấn tã
<BR>
<BR>
Tham gia ngày: Jul 2008
Nơi Cư Ngụ: ...
Bài gởi: 7
Giới Tính: ...
Đô: 4,349
<STRONG>[DBM] 1000 câu hỏi "tại sao"</STRONG>
<B>
Trong cuộc sống có rất nhiều điều kì lạ, không phải ai cũng giải thích được. Bài viết này sẽ giúp các bạn giải đáp 1 số những câu hỏi "tại sao", "vì sao", "như thế nào" .<BR><BR><BR>Bài viết do member Memory Garden sưu tầm từ nhiều nơi như VnExpress, bacbaphi, 24h.com, KH-ĐS...vv...<BR>Duyên up phần nội dung trước, up hình minh họa sau nha </B><BR><BR>-------<BR><BR><B>Mèo rên như thế nào?</B><BR><BR>Không giống như các tiếng kêu khác của mèo, tiếng rên ư ử được phát ra trong cả chu trình thở, bao gồm hít vào và thở ra. Còn tiếng meo chỉ được tạo thành khi chúng thở ra.<BR><BR>Các nhà khoa học vẫn chưa tìm ra cơ chế chính xác của tiếng rên các loài vật. Nhưng ý kiến được chấp nhận nhất vẫn là một vùng não mèo truyền tín hiệu tới cơ thuộc hộp âm thanh, gọi là cơ thanh quản, để điều khiển nó rung lên.<BR><BR>Đồng thời, con vật vừa hít vào thời ra, gửi đi một luồng không khí đi qua dây thanh quản. Hai hành động này kết hợp với nhau khiến dây thanh quản rung lên, và tạo nên tiếng rên quen thuộc đối với những người yêu mèo.<BR><BR>-------<BR><BR><B>Vì sao chó hay nhỏ dãi?</B><BR><BR>Nước bọt chứa các enzyme tiêu hóa giúp chó (và cả con người) phân hủy thức ăn dễ dàng hơn. Nước bọt cũng làm ướt cổ họng giúp thức ăn trôi tuột vào trong bụng.<BR><BR>Nhưng tất cả những điều đó đều diễn ra trong cơ thể. Còn dãi bị chảy ra ngoài là khi nước bọt quá đầy. Đó chỉ là một cơ chế đơn giản. Một số con chó, chẳng hạn như chó bun và giống chó lớn tai cụp, có cái mõm quá ngắn nên không thể chứa hết nước bọt, nên dãi thường xuyên chảy ra.<BR><BR>Chó với lớp da gấp ở quanh miệng, như chó St. Bernards, chó săn, chó baxet cũng là những kẻ chuyên chảy dãi.<BR><BR>-------<BR><BR><B>Tóc xoăn hay thẳng dễ rối nhất?</B><BR><BR>Một cuộc hợp tác giữa các bác thợ cắt tóc và các nhà vật lý đã tìm ra câu trả lời cho vấn đề này. Chính là tóc thẳng, rối nhiều gấp đôi so với tóc xoăn. <BR><BR>150.000 sợi tóc xù xì trên đầu bạn là một hiện tượng hấp dẫn nhưng lại ít được biết đến trong vật lý học. Nhà nghiên cứu Pháp Jean-Baptiste Masson từ Trường Bách khoa ở Palaiseau đã thực hiện thí nghiệm thực sự đầu tiên về vấn đề này.<BR><BR>Ông yêu cầu vài bác thợ cắt tóc đếm các cuộn rối trên tóc người vào cuối buổi chiều, là thời điểm các đám rối dễ phát sinh nhất. <BR><BR>Trong 3 tuần, các bác thợ đã đánh giá 123 người tóc thẳng và 89 người tóc xoăn. Kết quả là "rõ ràng và đáng ngạc nhiên", nhà vật lý cho biết: <BR><BR>Tóc thẳng có số đám rối (được định nghĩa là những đám tóc không chải được) nhiều gấp đôi so với tóc xoăn. Con số rối trung bình là 5,3 ở người tóc thẳng so với chỉ 2,9 ở nhóm còn lại. <BR><BR>Masson muốn biết vì sao lại như vậy, do đó ông đã phát triển một mô hình toán học để xem các sợi tóc liên kết với nhau như thế nào. Mô hình tính đến hai thông số cơ bản: khả năng hai sợi tóc chạm nhau và góc mà chúng gặp gỡ. <BR><BR>Mặc dù tóc xoăn có nhiều khả năng chạm với các sợi tóc khác, nhưng Masson phát hiện tóc thẳng lại có xu hướng góc tiếp xúc giữa các sợi lớn hơn. Chính thông số thứ hai này là quan trọng nhất trong việc tạo ra các đám rối. <BR><BR>Nghiên cứu của Masson có thể ứng dụng không chỉ trong lĩnh vực làm lược chải. Một khả năng có thể là thiết kế các sản phẩm giống như khoá dán, ông nói.<BR><BR>-------<BR><BR><B>Đâu là chớp thật?</B><BR><BR>Tuy nhiên, chớp mở đường không tạo ánh sáng mạnh lắm. Khi đầu tia chớp kéo dài tới gần sát mặt đất thì điện tích dương tập trung ở đỉnh nhọn các vật thể dưới đất bị điện tích âm của chớp mở đường hút lên, tất cả điện tích dương ùa theo, đi ngược lại con đường mà chớp mở đường đã mở ra. Tại đấy, chúng trung hoà với các điện tích âm vốn có trên đường đi mà phát ra ánh sáng chói loà. Đây mới là ánh chớp chúng ta nhìn thấy. Do đi ngược lại con đường cũ mà chớp mở đường tạo ra nên nó cũng có dạng hình cành cây treo ngược. Tia chớp này được gọi là sét đánh ngược. <BR><BR>Khi chớp mở đường đánh tới mặt đất, tại nơi nó đánh vào thường có thể sinh ra chớp hình cầu mà ta thường gọi là sét hòn. Sét hòn là một quả cầu thể khí mang điện tích có đường kính từ 10-20 cm. Nó rất nhẹ, có thể bay lơ lửng theo gió, có thể tự hoá dẹt để lách qua khe cửa vào nhà, sau đó lại khôi phục hình dáng quả cầu lửa như cũ. Sét hòn thích di chuyển dọc theo dây điện, đường ống nước, luồng khí nóng... khi di chuyển nó luôn phát ra tiếng xì xì hoặc nổ lép bép. mằu sắc của sét hòn thường là đỏ, da cam, nhưng đôi khi còn mang màu trắng xanh hoặc tím đỏ.<BR><BR>-------<BR><BR><B>Vì sao gấu cọ lưng vào cây?</B><BR><BR>Không phải vì ngứa lưng không chịu nổi mà những chú gấu xám Bắc Mỹ chà mình vào thân cây. Chúng làm vậy vì muốn... trò chuyện với con khác. <BR><BR>Các nhà nghiên cứu từng đưa ra nhiều giả thuyết vì sao gấu xám Bắc Mỹ thường cọ mình vào thân cây. Một số người lập luận các con cái làm vậy khi chúng dễ thụ thai nhất, trong khi giả thuyết khác nói rằng gấu đang gãi ngứa trên lưng, hoặc cố gắng phủ nhựa cây lên mình để xua đuổi côn trùng. <BR><BR>Tuy nhiên, trong một nghiên cứu mới đây trên những con gấu xám ở bang British Columbia, kéo dài 2 năm, người ta đã sử dụng các camera số để thu thập dữ liệu xem những con gấu nào thường cọ lưng vào cây và thời điểm làm việc đó. Gấu thường cọ lưng vào những cái cây quen thuộc từ đời này qua đời khác, vì thế việc theo dõi chúng là rất dễ dàng. Các thiết bị vệ tinh cũng giúp lần theo dấu vết của những con gấu đơn lẻ. <BR><BR>"Các camera cho thấy gấu đực trưởng thành hay cọ lưng vào cây nhất, và chúng thường di chuyển từ thung lũng này sang thung lũng khác trong các lộ trình lớn, đánh dấu các cây khi chúng đi, trong khi tìm kiếm những bạn tình", nhà sinh thái học Owen Nevin từ Đại học Cumbria, Mỹ, người thực hiện nghiên cứu, cho biết. <BR><BR>Nevin cho rằng bằng cách đánh dấu mùi của mình lên thân cây, gấu đực sẽ biết những con khác rõ hơn, và có thể giảm các vụ ẩu đả giữa các chàng trong việc tìm kiếm con cái. <BR><BR>"Những con gấu đực to lớn có thể bị thương nặng hoặc thậm chí tử vong khi giao chiến với con khác. Nếu một con nhận ra hơi của đối thủ trên một thân cây trong vùng, nó sẽ biết mình gặp phải một tay khó chơi, và có thể cách tốt nhất là tránh xa cuộc thách thức nguy hiểm". <BR><BR>Người ta cũng bắt gặp gấu con chà xát lưng vào cây khi một con đực cố gắng tách chúng ra khỏi mẹ (gấu đực đôi khi giết chết con của một con cái để có cơ hội giao phối với nó).<BR><BR>Có thể nếu bắt gặp thứ mùi thân thuộc, chúng sẽ được an toàn hơn. Vì những con có họ hàng thường có mùi tương tự nhau, và chúng cũng ít hung hãn với nhau hơn, Nevin giải thích.<BR><BR>-------<BR><BR><B>Vì sao người trong ảnh nhìn theo chúng ta?</B><BR><BR>Chắc hẳn mọi người đều từng thấy những bức chân dung biết dõi mắt theo khi chúng ta đi ra xa. Cái đặc tính kỳ lạ đó đã được người ta chú ý từ lâu, và thật khó giải đáp. Những người yếu bóng vía thậm chí còn bị nó làm cho sợ hết hồn... <BR><BR>Nhưng thực ra bí mật này chỉ là một loại ảo giác của thị giác mà thôi. Toàn bộ lý do là: con ngươi trên những bức chân dung đó được đặt ở chính giữa mắt. Khi một người nhìn thẳng vào bạn, bạn sẽ thấy mặt anh ta chính là như vậy, nhưng khi người đó nhìn đi chỗ khác, bạn sẽ thấy con ngươi và tất cả lòng đen của anh ta không ở chính giữa mắt mà chuyển dời đôi chút về phía bên. <BR><BR>Khi bạn đi về một phía xa bức chân dung thì hai con mắt của bức chân dung không hề thay đổi vị trí của chúng, nghĩa là vẫn ở nguyên chính giữa mắt. Và vì ngoài lý do trên ra, toàn bộ bộ mặt mà bạn tiếp tục trông thấy vẫn ở nguyên vị trí cũ, cho nên tự nhiên bạn có cảm tưởng rằng hình như bức chân dung quay đầu và theo dõi mình. <BR><BR>Cũng có thể dựa vào cách ấy để giải thích những đặc điểm tương tự trên một bức tranh: con ngựa lao thẳng về phía chúng ta, mặc dù chúng ta rời xa bức tranh về phía nào; một người bao giờ cũng chỉ tay vào chúng ta vì bàn tay đưa về phía trước của hắn luôn luôn hướng thẳng vào chúng ta... <BR><BR>Hình trên là một ví dụ về trường hợp đó. Những loại tranh này thường được dùng làm áp phích tuyên truyền cổ động hoặc quảng cáo. <BR><BR>-------<BR><BR><B>Vì sao con chỉ mang họ cha?</B><BR><BR><BR>Nếu dựa vào "cơ chế" thụ thai thì trong một tháng, người mẹ chỉ có thể tạo sinh linh mới trong một ngày, còn người cha có khả năng "giúp" hàng chục phụ nữ mang bầu. Ấy thế mà, đứa trẻ nào sinh ra cũng chỉ mang họ cha.<BR><BR>Một người mẹ thắc mắc rằng, con bà sống gắn bó với bên ngoại từ nhỏ, chưa hề về thăm quê cha một lần, vậy mà trên mọi bản khai lý lịch "theo mẫu quy định" đều phải ghi quê quán theo cha. Liệu thế có bất bình và coi khinh nữ giới?<BR><BR>Con người ta ai lại không có họ hàng. Chính vấn đề dòng họ gây ra bao chuyện tiêu cực ở nông thôn đã thôi thúc Nhà văn Nguyễn Khắc Trường viết lên tác phẩm đặc sắc Mảnh đất lắm người nhiều ma được chuyển thành phim. Những năm gần đây, có lẽ nhiều người đã nhận ra sự không công bằng ấy nên nhiều em học sinh đã mang họ kép gồm cả họ cha và họ mẹ, ví dụ như Lê Nguyễn Kiều Miên, Võ Trần Thịnh...<BR><BR>Ông Nguyễn Văn, một nghiên cứu sinh học ở nước ngoài, đặt vấn đề "quan niệm về gia tộc của chúng ta có lỗi thời lắm không?" Ông nêu dẫn chứng, khi đọc tiểu sử một danh nhân Việt Nam, ta thường thấy nói đến cụ tổ 4 hay 5 đời đến lập nghiệp ở một vùng nào đó lập nên một dòng họ mới. Như vậy, mặc nhiên chỉ có cụ ấy là cụ tổ duy nhất của vị danh nhân; cũng như khi nói đến gia phả của một người, chúng ta hay bảo người ấy thuộc họ Nguyễn hay Lê... Làm như các họ khác không có liên hệ gia tộc gì với đương sự hết. Quan niệm như thế chỉ vì trọng nam khinh nữ.<BR><BR>Cũng do thời xưa không biết nhiều về vấn đề sinh lý và di truyền nên cho rằng trong việc sinh đẻ, người cha truyền khí huyết cho người mẹ; người mẹ nhận lấy nuôi dưỡng thành đứa con "cha sinh, mẹ dưỡng", có nghĩa là khí huyết đứa con hoàn toàn phụ thuộc vào người cha. Ngày nay, sinh học đã cho chúng ta biết, người mẹ cũng đóng góp tương đương với người cha trong việc tạo thành con cái.<BR><BR>Thử đi ngược lên một thế hệ nữa, nếu mẹ của người cha (bà nội) thuộc họ Lê và mẹ của người mẹ (bà ngoại) thuộc họ Phạm thì ta thấy ngay từ thế hệ ấy có 4 họ đóng góp vào việc cấu tạo nên huyết thống của người con. Giả sử như cha họ Nguyễn, người mẹ họ Trần thì người con đó là con cháu của 4 họ: Nguyễn Lê Trần Phạm, và có bà con với tất cả những người trong 4 họ trên chứ không chỉ bà con với một dòng họ Nguyễn. Theo cách tính này, cứ tính ngược lên một đời thì số họ có quan hệ bà con tăng lên gấp 2, 4, 6, 8, 16, 32, 64... Và như vậy, có thể nói vui, trên một địa bàn cố định, hầu hết mọi người đều có quan hệ bà con với nhau, trừ những người mới đến nhập cư. Do đó, cách lập gia phả theo một dòng họ như lâu nay rõ ràng là một khiếm khuyết vì chỉ mới cho ta biết quan hệ huyết thống trong dòng họ đó mà thôi. Hơn nữa, nó có thể có hại, gây chia rẽ, nếu quá đề cao một dòng họ này và xem thường những dòng họ khác.<BR><BR>Ý kiến của ông Nguyễn Văn nêu lên đã gợi mở một vấn đề lý thú, nó cung cấp kiến thức giúp ta thay đổi nếp nghĩ cũ, ít ra cũng giảm bớt sự độc tôn dòng họ của người cha khi nói đến một con người.<BR><BR>Nhưng mặt khác, nếu bàn đến con người mà chỉ đơn thuần dựa vào cách tính rành rẽ như toán học, thì cũng chưa hợp lý. Và xét đơn thuần về khoa học di truyền, các nhà sinh học tuy đã chỉ ra, đứa con sinh thành từ nửa mẹ nửa cha hợp lại nhưng ai đã dám chắc rằng hai nửa ấy cân bằng trong việc tạo nên tính cách và thể chất của con. Và như thế, các con số "2, 4 , 8, 16, 32,..." theo cách tính của ông Nguyễn Văn là chưa hoàn toàn chính xác, nhất là xét về "chất".<BR><BR>Không ai dám khẳng định phần nửa khí huyết của người cha có ảnh hưởng vượt trội hơn người mẹ trong việc tạo nên phẩm cách của con hay ngược lại. Nếu dựa vào "cơ chế" thụ thai thì trong một tháng, chỉ có một ngày người mẹ có thể tạo sinh linh mới, trong khi đó, người cha có thể khiến hàng chục phụ nữ "dính chưởng"; như vua Minh Mạng, tương truyền rằng mỗi đêm, "chấm" 5 bà nên có câu "nhất dạ ngũ giao tam hợp tửu" - một đêm năm lần ân ái, 3 lần có con - đã có thể khẳng định là hai nửa ấy không cân bằng nhau.<BR><BR>Bên cạnh đó, mối quan hệ xã hội, nền nếp sinh hoạt theo truyền thống dân tộc cũng ảnh hưởng không nhỏ đến phẩm cách một con người. Thông thường, người ta vẫn trưởng thành từ quê hương bên nội, sống trong vòng tay bên nội, nên xưa nay đa phần thiên hạ lấy họ nội cũng có cái lý của nó. Tất nhiên, cũng có trường hợp con lấy theo họ mẹ, khi người mẹ, do một hoàn cảnh nào đó, không muốn cho con biết cha nó là ai.<BR><BR>Xã hội ngày nay biến động nhiều, nhất là ở thành thị, một người con trưởng thành không nhất thiết phải gắn kết với bên nội, nên cách ghi "họ kép" và các bản lý lịch cũng nên thay đổi mục "quê quán" thành "quê cha" và "quê mẹ" thì đầy đủ và đúng đắn hơn.<BR><BR>Bàn về quan niệm họ tộc không phải để mọi người đeo vào trước cái tên của mình một chuỗi họ có liên hệ mà để có một cái nhìn rộng rãi hơn về họ hàng thân thuộc, rồi ý thức rằng thể chất và phẩm cách mỗi chúng ta không chỉ mang huyết thống dòng họ của bố mà còn là của mẹ, của bà nội, bà ngoại, cố nội, cố ngoại... nghĩa là có phần đóng góp của nhiều dòng họ khác. Từ đó, những tiêu cực và hiềm khích ganh tỵ giữa các dòng họ sẽ bị loại trừ và mọi người sẽ giúp đỡ lẫn nhau không phân biệt dòng họ để toàn xã hội cùng tiến bộ.<BR><BR>-------<BR><BR><B>Xe màu gì an toàn nhất?</B><BR><BR>Màu của chiếc xe bạn đang đi có thể có một tác động to lớn tới khả năng gặp tai nạn trên đường. Màu trắng là an toàn nhất, tiếp đến là các màu kem, vàng và be. Trong khi đó những màu như xám, xanh lá, đỏ, đen và xanh dương là những màu có nguy cơ cao.<BR><BR>Bản báo cáo do hiệp hội các tổ chức xe hơi Australia tài trợ đã đánh giá mối liên quan giữa màu sắc xe hơi và nguy cơ gặp tai nạn thông qua việc phân tích các cuộc đụng xe diễn ra trong khoảng từ năm 1987 đến 2004.<BR><BR>Giám đốc điều hành của hiệp hội Edmund King phát biểu: "Nghiên cứu này cho thấy những chiếc xe tải cỡ lớn thường có màu trắng là đúng, bởi các phương tiện màu trắng có nguy cơ bị tai nạn thấp nhất trong tất cả các màu".<BR><BR>"Ngược lại, những màu sẫm và kém tương phản so với môi trường xung quanh như xám, xanh lá, đỏ, đen và xanh dương thường gặp nguy cơ cao hơn, đặc biệt là vào ban ngày. Ban đêm đèn pha của xe dường như giảm tác dụng của màu sơn".<BR><BR>Một nghiên cứu năm 2003 của các nhà khoa học New Zealand cũng tiết lộ các loại xe màu bạc an toàn nhất.<BR><BR>-------<BR><BR><B>Nghe mp3 thường xuyên có hại ko?</B><BR><BR>Có !<BR><BR>Khoảng 2/3 số người trẻ tuổi luôn "thủ sẵn" chiếc MP3 trong người và không hề bận tâm đến những nguy hại mà đôi tai bé bỏng phải chịu đựng vì âm lượng quá lớn. <BR><BR>Viện Nghiên cứu Hoàng gia Anh dành cho Người điếc (RNID) đã đưa ra cảnh báo này với những fan hâm mộ MP3 cuồng nhiệt. Riêng tại thị trường Anh, có khoảng 80 triệu chiếc MP3 được tiêu thụ trong một năm.<BR><BR>Viện này cũng cáo buộc sự vô trách nhiệm của các nhà sản xuất khi không in nổi và rõ ràng cảnh báo trên bao bì sản phẩm.<BR><BR>RNID khuyên những người hâm mộ CNTT nên đầu tư một bộ lọc cho tai nghe của MP3. <BR><BR>Sản phẩm này sẽ làm giảm những tạp âm bên ngoài và khiến cho người dùng không cần tăng volume mà vẫn có thể nghe rõ.<BR><BR>RNID điều tra 110 người dùng MP3 tại các đô thị lớn như Brighton, Manchester và Birmingham, thì có tới 72 người nghe với âm lượng lớn hơn 85 đề-xi-ben. <BR><BR>Âm lượng này tương đương với tiếng của một chiếc đồng hồ báo thức ở cự li cực gần.<BR><BR>Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) cho biết nghe bằng tai nghe ở 85 đề-xi-ben hoặc hơn trong vòng 1 giờ đồng hồ liên tục sẽ gây hại cho màng nhĩ.<BR><BR>Theo RNID, quá nửa số người trẻ tuổi sử dụng MP3 hơn 1h/ngày và khoảng 1/4 nghe hơn 21h/tuần.<BR><BR>Tới 58% số người tham gia vào cuộc điều tra nói trên của RNID không ý thức được những tác hại của máy nghe nhạc đối với tai và 79% chẳng buồn ngó đến hướng dẫn sử dụng và cảnh báo về mức độ tiếng ồn khi mua một chiếc MP3.<BR><BR>Người phát ngôn của RNID cho biết tháng 9 năm ngoái, cơ quan này đã viết thư ngỏ gửi đến 55 nhà sản xuất MP3 và điện thoại di động yêu cầu họ in những cảnh báo về âm lượng cao rõ ràng và dễ gây chú ý với người dùng hơn nữa. Nhưng kết quả là "chúng tôi nhận được phản hồi của duy nhất 2 công ty".<BR><BR>Brain Lamb, giám đốc điều hành của RNID, phát biểu: "Các nhà sản xuất MP3 có trách nhiệm làm cho khách hàng của họ ý thức được sự nguy hiểm khi nghe với âm lượng lớn bằng cách in cảnh báo rõ ràng trên bao bì và sản phẩm. Họ cũng cần chỉ ra sự tương đương giữa âm lượng và đề-xi-ben".<BR><BR>"Thật quá dễ dàng để chuyển âm lượng từ bình thường sang mức độ nguy hiểm, đặc biệt khi người dùng đang ở nơi đông đúc, ồn ào. Hãy lưu ý, nếu người khác có thể nghe thấy tiếng nhạc phát ra từ MP3 của bạn khi đứng cách bạn khoảng một mét, bạn và tai đang "lâm nguy" đấy nhé!". <BR><BR>-------<BR><BR><B>Vì sao bóng bay bơm khí heli chóng xẹp? </B><BR><BR>Bóng bơm khí heli rất chóng xẹp so với bóng thường<BR><BR>Hai quả bóng bay giống hệt nhau, một bơm bằng không khí thường, một bơm bằng khí heli. Được một lúc, bóng bơm khí heli đã teo lại, dúm dó dần, trong khi quả kia hầu như vẫn tròn căng cho đến vài ngày sau. Bóng kín như thế, heli thoát đi đâu?<BR><BR>Heli là loại khí rất nhẹ. Các phân tử của nó được cấu tạo từ các đơn nguyên tử, nên có kích thước rất nhỏ bé, đường kính chỉ bằng 0,1 nanomét. Nhờ thân hình "cực mini" này, heli rất dễ dàng khuyếch tán qua màng kim loại nhờ "vi hành" theo các khe hổng, lỗ rỗng, do vậy người ta thường sử dụng nó để kiểm tra chất lượng các hệ thống hút bụi trong phòng thí nghiệm và trong công nghiệp, xem chúng có bị các khe nứt hay không. <BR><BR>Khi bơm heli vào bóng, khí này sẽ nhanh chóng thoát ra ngoài theo các khe, ống nhỏ xíu trên vỏ bóng bay, làm bóng xẹp đi nhanh chóng. <BR><BR>Trong khi đó, phân tử nitơ và ôxy (hai khí chính trong khí quyển) có đường kính lớn hơn nhiều nguyên tử heli, nên chúng ít bị khuyếch tán qua vỏ bóng bay. <BR><BR>Một nguyên nhân khác cũng khiến hơi nhanh chóng thoát ra là do cấu tạo của vỏ bóng. Bóng bay được làm từ chất dẻo, là một tập hợp các sợi polyme đan vào nhau. Các sợi này không thể sít chặt với nhau, mà còn để chừa các lỗ hổng, hay các khe, rãnh. Vì thế, ngay ở áp suất thấp, heli vẫn có thể khuyếch tán ra ngoài như thường. <BR><BR>Khi bóng được bơm căng, các sợi polyme giãn ra, vỏ bóng trở nên mỏng hơn, lỗ rỗng mở rộng ra, áp lực tăng lên đẩy các phân tử khí chui ra ngoài nhanh hơn, đi qua "quãng đường" ngắn hơn. Đó là các lý do tại sao khi bóng căng, quá trình xẹp hơi diễn ra rất nhanh và chậm dần khi kích cỡ quả bóng thu nhỏ lại. <BR><BR>Bóng có thể tự phồng lên?<BR><BR>Tuy nhiên, bạn cũng sẽ nhận thấy quả bóng không hoàn toàn xịt hẳn. Đó là do ngoài dòng khí đi ra, còn có dòng khí từ bên ngoài đi vào cũng qua các khe rỗng này. Nếu quả bóng được bơm đầy khí sulphur hexaflourid (có kích thước phân tử rất lớn, rất khó khuyếch tán ra ngoài) thì chúng sẽ không bị xẹp đi. Đồng thời, không khí từ ngoài lại đi vào trong quả bóng, khiến nó dần dần tăng lên về kích cỡ. <BR><BR>Hiện nay, người ta đã chế tạo ra những loại bóng bay làm từ vật liệu không đàn hồi, không có lỗ rỗng và được phủ màng để giảm sự thoát khí. Mặc dù vẫn có hiện tượng xẹp hơi, nhưng chắc chắn, thời gian căng tròn của bóng đủ cho trẻ em chơi đến khi chúng chán trò này. <BR><BR>-------<BR><BR><B>Vì sao gián mất đầu vẫn sống?</B><BR><BR>Con vật bị nhiều người ghét bỏ này có bản năng sinh tồn cực mạnh. Mất đầu, song chúng vẫn sống thêm hằng tuần. Các nhà khoa học đã khám phá vì sao chúng làm được điều đó, còn người thì không. <BR><BR>Nhà sinh lý học và hoá sinh học Joseph Kunkel, từ Đại học Amherst, Massachusetts (Mỹ), đã nghiên cứu sự phát triển của gián để tìm ra nguyên nhân sống sót của gián khi mất đầu, và tìm hiểu tại sao con người không thể làm điều đó. <BR><BR>Đầu tiên, việc mất đầu ở người sẽ dẫn đến kết quả là mất máu và huyết áp giảm dến mức không thể vận chuyển ôxy và chất dinh dưỡng tới các mô trong cơ thể. "Người ta mất máu mà chết", Kunkel bình luận.<BR><BR>Ngoài ra, con người thở bằng miệng hoặc mũi và não kiểm soát các chức năng sống còn này, vì thế khi mất đầu, việc thở cũng ngừng luôn. Hơn nữa, cơ thể người không thể ăn được nếu không có đầu, đảm bảo một cái chết đói chắc chắn. <BR><BR>Song, gián không bắt buộc phải có huyết áp theo cách của con người. "Chúng chẳng có mạng lưới mạch máu rộng khắp như của chúng ta - nghĩa là các mạch tí hon cần áp suất lớn để máu có thể lưu thông. Chúng có một hệ tuần hoàn mở, với áp suất thấp hơn nhiều". <BR><BR>"Nếu bạn cắt đầu chúng, cái cổ sẽ được liền lại bằng máu cục. Không hề có sự kiểm soát chảy máu ở đây", Kunkel nói. <BR><BR>Sinh vật này cũng lấy khí trời bằng các lỗ thở, nằm trên các đốt cơ thể. Ngoài ra, não của gián không kiểm soát quá trình thở này và máu không cần mang ôxy đi nuôi các nội tạng. Thay vào đó, các lỗ thở hút không khí trực tiếp vào các mô thông qua một loạt ống nhỏ gọi là khí quản.<BR><BR>Ngoài những yếu tố trên, gián còn là một sinh vật máu lạnh, nghĩa là chúng cần ít máu hơn nhiều so với hoạt động sống của con người. "Một con côn trùng có thể sống sót trong hằng tuần với một bữa ăn mà chúng có", Kunkel nói. <BR><BR>Nhà côn trùng học Christopher Tipping tại Đại học Delaware Valley ở Doylestown đã thí nghiệm cắt đầu hai con gián châu Mỹ, "rất cẩn thận dưới kính hiển vi", và làm lành vết thương bằng sáp, ngăn cho chúng khỏi chết vì mất dịch. Kết quả là hai con vật kéo dài tuổi thọ thêm vài tuần trong một cái bình. "Chúng đứng vững, sờ vào nhau và di chuyển". <BR><BR>Không chỉ cơ thể của chúng sống sót mà không cần đầu, bản thân cái đầu gián cũng sống sót, vẫy râu vài giờ trước khi mất hết nước. Nếu được tiếp dinh dưỡng và làm lạnh, nó có thể sống lâu hơn.
<EM>thay đổi nội dung bởi:<STRONG> DuyênBòMộng</STRONG>, 26-08-2010 lúc 06:24 AM. </EM>
DuyênBòMộng
Xem hồ sơ
Tìm bài viết của DuyênBòMộng
13-10-2008, 12:34 AM
#<STRONG>2</STRONG>
DuyênBòMộng
vbmenu_register("postmenu_4153149", true);
Bé còn quấn tã
<BR>
<BR>
Tham gia ngày: Jul 2008
Nơi Cư Ngụ: ...
Bài gởi: 7
Giới Tính: ...
Đô: 4,349
<B>Tại sao có hiện tượng sởn gai ốc?</B><BR><BR>Lạnh và sự sợ hãi đã làm cho các cơ bắp nhỏ xíu ẩn dưới lớp lông của chúng ta co thắt. Khi đó những sợi lông này dựng đứng lên, đồng thời làm cho lớp da bao quanh chúng nổi lên vô số những nốt nhỏ.<BR><BR>Mọi loài động vật có vú đều có lông bao phủ trên cơ thể để chống lại cái rét. Khi nhiệt độ bên ngoài hạ xuống, chúng tự động dựng đứng lên. Lớp không khí giữa lớp lông và lớp da đã tăng dày lên. Chính vì lý do này mà mèo dường như to hơn khi trời lạnh.<BR><BR>Là con người nên chúng ta có ít lông hơn rất nhiều so với các loài động vật có vú khác. Chúng ta thay thế lớp lông bằng những bộ quần áo. Nhưng khi gặp lạnh, những sợi lông trên cơ thể ta cũng dựng đứng lên y như ở động vật, và đó chính là hiện tượng sởn gai ốc.<BR><BR>-------<BR><BR><B>Tại sao dế thích chọi (đá) nhau?</B><BR><BR>Chọi nhau chính là tập tính không thể tách rời của dế. Tính tình nó cô độc, con dế đực bao giờ cũng sống một mình trong một cái hang hoặc một khe đất của nó.<BR><BR>Tuy khi giao phối dế đực có cùng sống với một con dế cái, nhưng quyết không bao giờ chịu chung sống với một con dế đực khác cùng loài. Tính cách cô độc bẩm sinh này khiến nó không thể dung nạp dế đực làm bạn, nên khi giáp mặt là chọi nhau ngay.<BR><BR>-------<BR><BR><B>Tại sao mũi chó thường xuyên ướt?</B><BR><BR>Chó có khứu giác rất nhạy cảm. Cấu tạo mũi chó phức tạp hơn nhiều so với mũi những loài động vật khác. Bộ phận để phân biệt các mùi vị của nó cũng đặc biệt lớn.<BR><BR>Trong các loài động vật cấp cao, xoang mũi có nhiều nếp nhăn, bên trên có một màng nhầy, niêm mạc trên thường xuyên tiết ra chất dịch nhầy làm ướt các tế bào khứu giác này. Nhờ đó, chúng có thể đưa các loại mùi vị từ thần kinh khứu giác lên đại não.<BR><BR>Đầu mũi con chó có một tổ chức niêm mạc không lông, phía trên có rất nhiều nốt nổi lên. Đó là bộ phận chủ yếu của khí quan khứu giác. Trên tổ chức niêm mạc đầu mũi này thường xuyên tiết ra rất nhiều dịch nhờn để làm ướt mũi, khiến cho khứu giác của chó đặc biệt nhạy cảm.<BR><BR>-------<BR><BR><B>Vì sao sờ vào kim loại thấy lạnh?</B><BR><BR>Khi chạm vào một vật bằng kim loại, ta cảm thấy lạnh mặc dù bản thân vật đó không phải như vậy. Đó chính là bởi kim loại dẫn nhiệt tốt: nhiệt lượng của tay ta đã truyền sang vật đó.<BR><BR>Nói cách khác, tay ta bị mất nhiệt lượng, và chính kim loại đã tạo cho ta cảm giác lạnh.<BR><BR>Các vật bằng kim loại có khả năng truyền dẫn nhiệt một cách dễ dàng. Da của tay ta là nơi nóng nhất, sự di chuyển của nhiệt sẽ diễn ra theo chiều từ tay sang kim loại. Chính vì thế mà ta có cảm giác bị lạnh đi khi chạm vào kim loại. Ngược lai, gỗ và vải là những chất dẫn nhiệt kém nên chúng không "hấp thụ" được nhiệt lượng do tay ta phát ra. Vì thế chúng không tạo cho ta cảm giác lạnh.<BR><BR>-------<BR><BR><B>Vì sao không nên nắm tai thỏ?</B><BR><BR>Hai tai thỏ rất to. Khi bắt thỏ, để cho tiện lợi, người ta thường nắm lấy đôi tai nó mà không biết rằng tai là nơi non nớt nhất trên mình thỏ. Chúng toàn do xương sụn tạo nên, không thể gánh vác trọng lượng toàn thân nó được.<BR><BR>Sau khi bị bắt, thỏ rất căng thẳng, sợ hãi, giãy dụa. Nếu ta cầm tai nó xách lên, nó sẽ dễ bị gãy tai.<BR><BR>Bạn càng không nên cầm 2 chân sau của thỏ, dốc ngược đầu nó xuống. Điều này sẽ làm cho tuần hoàn máu bị trở ngại, dẫn đến xung huyết não và chết.<BR><BR>Phương pháp đúng đắn nhất khi bắt thỏ là nắm nhẹ bên ngoài da cổ, khe khẽ nâng nó lên, rồi dùng tay kia đỡ thân sau của nó. Chú ý không nên làm cho da đứt khỏi thịt để thỏ khỏi bị thương.<BR><BR>-------<BR><BR><B>Nguồn gốc cụm từ "nước mắt cá sấu" từ đâu?</B><BR><BR>Các quan sát cho thấy cá sấu và họ hàng gần gũi của nó thực sự nhỏ lệ, kể cả khi chúng lao vào xé toạc con mồi. Nhưng các nhà khoa học vẫn chưa hiểu rõ vì sao<BR><BR>Giai thoại về "nước mắt cá sấu" ám chỉ một người bày tỏ sự buồn bã một cách giả tạo. Nhưng không hẳn cá sấu và họ hàng của nó thể hiện sự thương tiếc một cách bịp bợm.<BR><BR>Các nhà nghiên cứu tại Đại học Florida, Mỹ, nhận định nước mắt có thể có chức năng tương tự như nước bọt ở con người, giúp động vật tiêu hóa thức ăn. Tuyến nước mắt của cá sấu nối liền với khoang mũi và có ý kiến cho rằng nước mắt được tạo ra từ mắt, chảy vào khoang mũi và trôi xuống cổ họng.<BR><BR>"Quan niệm từ xưa là nước mắt làm trơn ướt thức ăn khi nó được nuốt và những giọt lệ chúng ta nhìn thấy là một sự sản xuất hơi quá đà", nhà nghiên cứu Kent Vliet nói.<BR><BR>Một khả năng khác: Nước mắt có thể là kết quả của việc con mồi xuýt xoa và hổn hển khi ăn. Không khí chui vào mũi có thể đẩy nước mắt rơi ra, Vliet cho biết.<BR><BR>-------<BR><BR><B>Vì sao ong chúa sống lâu gấp 10 lần ong thường?</B><BR><BR>Có thể bạn sẽ nói rằng, ong chúa sống lâu bởi nó to gấp 3, gấp 4 lần những con ong thợ khác. Hoặc vì nó có nhiệm vụ đẻ trứng và duy trì nòi giống cho cả đàn, nên không được phép chết non... Tuy nhiên, không hẳn đúng như vậy.<BR><BR>Trong đàn thường có 3 loại ong: Thứ nhất là ong thợ. Đó là những con cái không có khả năng sinh đẻ. Chúng chiếm số lượng đông nhất trong đàn, và chuyên đảm nhận những công việc nặng nhọc như xây tổ, kiếm mồi, chăm sóc ong con, chống kẻ thù. Loại thứ hai là ong đực. Chúng cũng phải kiếm ăn và xây tổ, nhưng ít nặng nhọc hơn ong thợ. Và thứ ba là ong chúa.<BR><BR>Trong đàn chỉ có ong chúa là có quyền đẻ trứng. Vì thế, nó được nâng niu và bảo vệ rất cẩn thận. Trong khi các con khác phải bươn trải bên ngoài để kiếm thức ăn, thì ong chúa chỉ nằm trong tổ, "mưa không tới mặt, nắng không tới đầu". Nó được cung phụng loại mật hoa ngon nhất. Cho dù cả đàn ong phải nhịn đói thì ong chúa vẫn no đủ. Cả cuộc đời, ong chúa hầu như không phải chạm trán với kẻ thù. Có lẽ vì vậy mà ong chúa có thể sống hết tuổi thọ của nó (5-6 năm), trong khi các con ong khác chỉ sống được 6 tháng đến một năm mà thôi.<BR><BR>-------<BR><BR><B>Vì sao mặt trăng đi theo chúng ta?</B><BR><BR>Những đêm trăng sáng, nếu vừa đi bộ vừa chú ý nhìn trăng, bạn sẽ thấy như chị Hằng đang đi theo bạn. Không riêng gì mặt trăng, nếu để mắt quan sát các đỉnh núi xa xa, bạn cũng sẽ có cảm giác tương tự.<BR><BR>Nguyên do là khi ta đi bộ, chúng ta không thể không chú ý tới mọi vật xung quanh. Nhưng tầm mắt của ta lại có giới hạn. Lúc ta đi về phía trước, mọi vật gần quanh ta (chiếm khoảng lớn trong tầm nhìn) trôi đi rất nhanh, nhưng những vật ở xa (chiếm khoảng rất nhỏ trong tầm nhìn) thì trôi đi rất chậm và rất lâu mới ra khỏi tầm mắt.<BR><BR>Các bạn hãy nhớ lại cảm giác trên xe lửa đi với tốc độ nhanh. Bạn sẽ thấy các cột điện ở dọc đường trôi qua vùn vụt ngoài cửa sổ, nhưng cây cối, cột điện, nhà cửa ở phía xa xa thì trôi rất chậm, còn dãy núi ở tận cuối chân trời thì như dán chặt vào cửa sổ. Hiện tượng này giống hệt như khi mặt trăng, các vì sao, cây cối, núi cao đi theo bạn. Những vật này cũng chiếm khoảng rất nhỏ trong tầm nhìn, nên bạn sẽ thấy nó rất lâu. Đặc biệt là mặt trăng, vì là vật to và sáng nhất trong đêm nên nó nổi bật hơn hẳn các vì sao và vật thể khác. Vì thế, ta luôn có cảm giác mặt trăng theo sát bước chúng ta.<BR><BR>-------<BR><BR><B>Trí thông minh là gì?</B><BR><BR>Edison cần tính dung tích một bóng đèn hình quả lê, ông giao nhiệm vụ đó cho trợ lý Chapton. Hơn một tiếng đồng hồ, Chapton loay hoay mãi với các công thức dày đặc mà vẫn chưa ra. Edison đi qua, nói: "Có gì phức tạp lắm đâu!" Ông mang chiếc bóng ra vòi, hứng đầy nước và nói với Chapton: "Anh đổ vào ống đo, xem dung tích là bao nhiêu. Đó là dung tích của bóng đèn".<BR><BR>Chapton vỗ trán: "Chà, thật đơn giản, có thế mà mình nghĩ mãi không ra". Chapton đã tốt nghiệp khoa Toán, Đại học Primton, lại tu nghiệp một năm ở Đức, còn Edison mới chỉ học 3 tháng tiểu học, sau đó tự học với mẹ mình.<BR><BR>Câu chuyện trên đây giúp chúng ta hiểu đại khái thế nào là "trí thông minh". Nó không ngang bằng với trí thức. Rõ ràng Chapton có tri thức chuyên môn cao hơn Edison nhiều. Ông ta căn cứ vào các công thức toán học để tính dung tích bóng đèn, nhưng không nghĩ ra được cách đơn giản như Edison. Phản ứng nhạy bén của Edison phản ánh trí thông minh của ông, được xây dựng trên cơ sở tri thức rộng. Sự thông minh đó có thể gọi là trí thông minh mạnh.<BR><BR>Vậy trí thông minh là gì?<BR>Các nhà tâm lý học có những quan điểm khác nhau và giải thích khác nhau về vấn đề này, nhưng đều có chung một nhận định: Trí thông minh không phải là một năng lực đơn độc, nó là sức mạnh tổng hợp của nhiều loại năng lực. Theo điều tra tâm lý và quan điểm của các nhà tâm lý học Trung Quốc, trí thông minh chúng ta nói ở đây bao gồm khả năng quan sát, khả năng của trí nhớ, sức suy nghĩ, óc tưởng tượng, kỹ năng thực hành và sáng tạo. Trí thông minh chính là sự phối hợp tốt các năng lực đó để làm thành một kết cấu hữu hiệu.<BR><BR>Kết cấu trí thông minh cũng ví như một chiếc xe đạp. Nó được lắp ghép bởi những phụ tùng chủ yếu như khung, bánh xe, trục giữa, moayơ, đùi đĩa... Có thể phụ tùng đều rất tốt, nhưng nếu lắp ghép xộc xệch, xe đi vài hôm sẽ hỏng, thậm chí không đi nổi. Cho nên xe phải đi ít lâu, được điều chỉnh lại, mới có thể bon bon trên đường một cách êm ru. Nếu có phụ tùng nào đó bị hỏng, sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ xe.<BR><BR>Kết cấu của trí thông minh cũng vậy, chúng ta cần làm cho mọi năng lực của chúng ta đều được phát huy đầy đủ, và nâng cao dần, đồng thời làm cho những năng lực đó (quan sát, trí nhớ, suy nghĩ, tưởng tượng, thực hành, và sáng tạo) phối hợp đồng bộ, hoạt động đều.<BR><BR>-------<BR><BR><B>Tại sao không biết đau là đáng sợ?</B><BR><BR>Đau - cảm giác giúp cơ thể nhận biết nguy hiểm để tự vệ.<BR><BR>Bé gái Kinchen sau khi được 6 tháng tuổi bỗng mất cảm giác đau. Khi tiêm, em không hề khóc. Bị bỏng, em cũng chẳng kêu. Một lần bị gãy tay, phải bó bột, Kinchen thấy vướng đã tự tháo băng ra, đùa nghịch với cánh tay, làm chỗ gãy không khớp lại được nữa...<BR><BR>Đau là một loại cảm giác giúp con người phân biệt những kích thích có thể gây hại cho cơ thể. Ví dụ chạm tay vào lửa, cảm giác đau rát ở da làm người ta rụt lại, đau bụng báo cho người ta biết dạ dày có vấn đề, đau ngực cho thấy tim phổi hoặc gì đó không ổn. Bởi thế cảm giác đau có ý nghĩa tâm sinh lý đặc biệt, giúp con người sinh tồn. Nó có ý nghĩa báo động, giúp cơ thể sớm nhận biết và đề phòng hiểm nguy. Nếu không có cảm giác ấy, chúng ta có thể gặp những hoàn cảnh chết người mà không nhận ra được<BR><BR>Hiện tượng mất cảm giác đau thường chỉ xảy ra do một biến động tâm sinh lý đột ngột nào đó. Rất hiếm khi có trường hợp mất cảm giác đau kéo dài. Tuy vậy, trên thực tế, nếu tập trung vào một việc nhất định, người ta có thể "quên" cảm giác đau. Lúc ấy, các tín hiệu cảnh báo sự nguy hiểm trong não bộ tạm thời nhường chỗ cho các hoạt động khác. Ví dụ, Quan Vũ đã dùng ý chí tập trung vào việc đánh cờ để Hoa Đà cạo xương tay mà không hề kêu ca gì. Nhưng thường chỉ sau khi hết tập trung, cảm giác đau lại xuất hiện.
<EM>thay đổi nội dung bởi:<STRONG> DuyênBòMộng</STRONG>, 26-08-2010 lúc 06:25 AM. </EM>
DuyênBòMộng
Xem hồ sơ
Tìm bài viết của DuyênBòMộng
13-10-2008, 12:41 AM
#<STRONG>3</STRONG>
DuyênBòMộng
vbmenu_register("postmenu_4153162", true);
Bé còn quấn tã
<BR>
<BR>
Tham gia ngày: Jul 2008
Nơi Cư Ngụ: ...
Bài gởi: 7
Giới Tính: ...
Đô: 4,349
<B>Tại sao không đến được chân cầu vồng?</B><BR><BR>Chẳng bao giờ bạn đến được chân trời, cũng như không thể bay tới chân cầu vồng. Đó là bởi cả hai trường hợp đều cần khoảng cách xa giữa vật thể và người quan sát mới tạo nên hiệu ứng.<BR><BR>Cầu vồng thực chất gồm nhiều giọt nước hấp thụ ánh sáng theo cách nào đó. Những giọt nước tròn, trong vắt khúc xạ và phản xạ một vài tia sáng tới người quan sát. Ánh sáng có bước sóng khác nhau khúc xạ ở những góc khác nhau, vì thế ánh sáng trắng của mặt trời được phân tách ra thành một dải ánh sáng nhiều màu. <BR><BR>Vì những cảnh tượng rực rỡ này được tạo thành từ ánh sáng và nước, nên đừng hy vọng tìm kiếm điểm dừng chân của nó. Hiện tượng quang học này phụ thuộc vào việc bạn phải đứng cách xa các giọt nước, và mặt trời phải ở sau lưng.<BR><BR>-------<BR><BR><B>Tại sao không thể uống nước biển</B><BR><BR>Bên cạnh thực tế là nó chẳng hề ngon, thì uống nước mặn còn khiến bạn bị khát khô họng. Nhưng một số loài vật có thể xử lý được độ mặn trong nước biển.<BR><BR>Chẳng hạn, nếu bạn uống vài ngụm nước biển, cơ thể bạn sẽ cần phải thải ra nhiều lượng nước hơn so với mức bạn uống, để loại bỏ hết số muối thừa đang khiến bạn khát hơn cả trước khi uống.<BR><BR>Nước biển có thể được khử để giảm hàm lượng muối xuống tới mức có thể uống được, nhưng kỹ thuật đòi hỏi rất nhiều công sức và tiền bạc. <BR><BR>Một số loài động vật được ban tặng những cách riêng để xử lý vấn đề muối mặn trong nước biển. Chẳng hạn, chim hải âu lớn có tuyến muối đặc biệt ở ngay sau hốc mắt. Tuyến này sẽ thu hết muối trong nước mà chúng uống và thải ra thành dung dịch qua đầu mỏ của chúng.<BR><BR>-------<BR><BR><B>Vì sao trong vũ trụ các giọt nước có hình cầu?</B><BR><BR>Nhà du hành Leroy Chiao, một sĩ quan trên trạm vũ trụ quốc tế (phi đoàn 10) đang quan sát một giọt nước hình cầu lơ lửng giữa anh và chiếc máy quay phim, ở trên trạm. Trong giọt nước hiện lên ảnh của Chiao.<BR><BR>Trên trái đất, dù là nước ở trong một cái hồ hay trong một chiếc cốc, lực hấp dẫn sẽ kéo chất lỏng xuống dưới thành hình dạng của vật chứa nó. Nhưng trong vũ trụ, ảnh hưởng của hấp dẫn lại khác. <BR><BR>Các vật thể bay trên quỹ đạo cũng bị ảnh hưởng của lực hấp dẫn, nhưng chúng ở trong trạng thái rơi tự do, chuyển động liên tục sang ngang trong khi rơi về phía trái đất. Điều này khiến cho chúng trở nên không trọng lượng một cách tương đối. <BR><BR>Ở đó, sức căng bề mặt biến nước trở thành hình cầu. Các phân tử giống như nam châm trên bề mặt nước khiến cho bề mặt này ứng xử theo kiểu một lớp da đàn hồi. Mỗi phân tử được kéo giãn bởi các phân tử xung quanh với sức căng tương đương nhau. Nhóm các phân tử bị ràng buộc chặt chẽ này tạo nên diện tích nhỏ nhất có thể - một hình cầu.<BR><BR>-------<BR><BR><B>Vì sao cá voi hát?</B><BR><BR>Dường như những bài hát nổi tiếng của cá voi lưng gù không phải để dành cho bạn tình, mà chỉ là để thăm dò vùng biển xung quanh. Các nhà nghiên cứu vừa phát hiện thấy khi một gã cá voi lưng gù bơi đến vùng biển mới, nó sẽ thay đổi giai điệu để phù hợp với âm thanh của những con cá voi khác gần đó.<BR><BR>"Cách giải thích truyền thống về việc cá voi hát là các con đực đang cưa cẩm con cái, và rằng những cô nàng ấy thực sự đã hưng phấn lên khi nghe được những bài hát hợp mốt thịnh hành", nhà thần kinh học nhận thức Eduardo Mercado III từ Đại học bang New York ở Buffalo, cho biết. <BR><BR>Nhưng thực ra, theo Mercado, cá voi lưng gù thay đổi bài hát chỉ để giúp nó định vị môi trường mới. <BR><BR>Trong nơi ở phức tạp dưới nước của chúng, việc biết những con khác ở đâu chỉ bằng cách dỏng tai nghe có thể khiến cá voi gặp nhiều khó khăn. Thay vào đó, nó có thể tăng khả năng định vị các con khác bằng cách học theo những bài hát của chúng. Bằng việc so sánh âm thanh tới và những ký ức về âm thanh nguyên thuỷ, cá voi có thể đoán ra khoảng cách mà âm thanh đã đi qua. <BR><BR>"Tương tự, một người chơi bóng chày biết về kích cỡ quả bóng sẽ giúp anh ta đoán xem thời điểm và vị trí quả bóng sẽ rơi xuống", Mercado nói. <BR><BR>Các nhà khoa học khác cũng đồng tình rằng nguyên nhân khiến cá voi hát vẫn còn chưa rõ ràng, và bất kỳ gợi ý mới nào cũng được hoan nghênh. Tuy nhiên, phỏng đoán của Mercado không có bằng chứng trực tiếp, và giả thuyết chúng hát để tìm bạn đời cũng vậy.<BR><BR>-------<BR><BR><B>Vì sao cá heo có thể vừa ngủ, vừa... bơi?</B><BR><BR>Loài cá heo chỉ ngủ với một nửa bộ não và nửa còn lại sẽ điều khiển các hoạt động với điều minh chứng là trong trạng thái ấy chúng vẫn có thể bơi vòng tròn theo hướng ngược chiều kim đồng hồ. <BR><BR>Nhiều người cho rằng cá heo bơi như vậy là do tính không đối xứng trong não, song nhà khoa học Thụy Điển Paul Manger thuộc Trường đại học Stockholm lại cho rằng loài cá heo ở Bắc bán cầu bơi ngược chiều kim đồng hồ trong khi cá heo ở Nam bán cầu lại bơi theo hướng ngược lại. <BR><BR>Trong những ngày theo dõi loài cá heo ở Nam Phi, ông và đồng nghiệp còn phát hiện những con cá heo ở Nam bán cầu đã sử dụng ít nhất 86% thời gian bơi di chuyển theo chiều kim đồng hồ. Điều này cho thấy phương hướng bơi của chúng có thể còn tùy thuộc khu vực bán cầu nào và chịu sự chi phối của các lực tác động của Trái đất. <BR><BR>Một khả năng khác của loài cá heo là trong quá trình nửa tỉnh nửa mê như thế, những con cá heo trong đàn vẫn có thể bơi theo cùng một hướng để bảo vệ lẫn nhau vì đây cũng là lúc chúng dễ bị tấn công nhất. Khả năng này - cũng theo các nhà chuyên môn - có thể do các con cá heo trong đàn đã được huấn luyện trước hoặc chúng đã được lập trình sẵn bẩm sinh trong gen để cùng bơi theo một hướng đi của bầy đàn. <BR><BR>-------<BR><BR><B>Vì sao điểm nóng nhất không phải là xích đạo?</B><BR><BR>Xích đạo thường được coi là nơi nóng nhất là vì ở vùng này quanh năm có Mặt trời trên đỉnh đầu. Nhưng hãy xem lại tài liệu thống kê tình hình thời tiết trên toàn thế giới: Tại vùng xích đạo, nhiệt độ cao nhất rất ít khi vượt quá 35 độ C. Vậy mà tại sa mạc Sahara ở châu Phi, nhiệt độ ban ngày lên tới 55 độ C, trong khi Sahara cách xa xích đạo tới hàng ngàn dặm. <BR><BR>Tại các vùng sa mạc Ả Rập, nhiệt độ ban ngày cao nhất cũng lên tới 45 - 50 độ C. Tại vùng sa mạc Trung Á, nhiệt độ cao nhất ban ngày cũng lên đến 48 độ. Sa mạc Gobi (Mông Cổ) khoảng 45 độ C. <BR><BR>Vùng xích đạo được hấp thụ nhiều nhiệt lượng Mặt trời nhất, vậy tại sao lại không phải là nơi nóng nhất? Nhìn vào bản đồ thế giới ta thấy, những vùng thuộc xích đạo phần lớn đều có biển cả như Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương. <BR><BR>-------<BR><BR><B>Vì sao khi đổ bộ vào đất liền thì cường độ của bão giảm xuống nhưng mưa lớn không ngừng?</B><BR><BR>Bão là vòng tròn khí lớn nhiệt đới xoay tròn dữ dội ở trung tâm khí áp thấp bao quanh. Sau khi đi vào đất liền, cơn bão chịu ảnh hưởng của ma sát mặt đất không bằng phẳng, sức gió dần dần giảm xuống, vận tốc khí áp nhanh chóng tăng lên. Nhưng ở trên cao, bão vẫn thổi bao quanh trung tâm khí áp thấp, luồng không khí có độ ẩm cao, nhiệt độ cao thổi từ biển vẫn đang lên cao và ngưng kết lại, không ngừng tạo ra các giọt mưa. Nếu luồng không khí ẩm ướt gặp phải núi cao, sườn núi đón gió khiến cho bão càng tăng thêm tốc độ và sự ngưng kết, mưa lớn nơi đây càng thêm dữ dội hơn. Có lúc sau khi bão đổ bộ vào đất liền, "mệt" đến thực sự không còn muốn hoạt động gì nữa, không những sức gió giảm đi, ngay cả trung tâm khí áp cũng chuyển động chậm dần thậm chí là thường chỉ dừng lại quẩn quanh một chỗ, mưa lớn chỉ trút xuống ở cùng một nơi trong mấy ngày mấy đêm liền. Tình trạng lụt lội đương nhiên là càng thêm trầm trọng. Hiện tượng mưa đặc biệt lớn ở tỉnh Hà Nam phải hứng chịu như đã từng nói ở trên chính là hiện tượng được tạo thành bởi trung tâm khí áp thấp sau khi cơn bão đổ vào đất liền chỉ quẩn quanh ở một chỗ trong mấy ngày liền. <BR><BR>-------<BR><BR><B>Vì sao trên máy bay không được mở ĐTDĐ?</B><BR><BR>Một phi công của hãng Air China đã để ý thấy trước khi tới Bắc Kinh, máy bay bị lệch 30° khỏi đường bay. Khi tìm kiếm nguyên nhân thì xác định được rằng một hành khách vẫn để điện thoại di động mở. <BR><BR>Một ví dụ khác: Khi một chiếc máy bay của hãng hàng không Alitalia chuẩn bị hạ cánh ở phi trường Turin thì suýt xảy ra thảm họa: điện thoại di động của một hành khách đã tắt chế độ bay tự động. <BR><BR>Trong luật giao thông hàng không của Đức có ghi: "cấm sử dụng và mở điện thoại di động trên máy bay của Đức" với lập luận rằng: "Tính năng của điện thoại di động là gửi đi những năng lượng điện từ, những năng lượng này có thể kết nối với các thiết bị của máy bay và gây nhiễu, tạo ra những tình huống gây nguy hiểm đến tính mạng". Trường hợp vi phạm có thể bị phạt tiền hoặc phạt tù. <BR><BR>Trên thực tế thì hoàn toàn không đơn giản như vậy. Các nhà khoa học trong các cuộc thử nghiệm cho tới nay vẫn chưa có những chứng cứ rõ ràng là sóng điện thoại đi động thực sự gây nhiễu các thiết bị trong khoang lái. Tuy nhiên có một trường hợp được ghi nhận là sóng điện thoại đi động đã ảnh hưởng đến những dây cáp sau các vách cabine và làm sai lệch tín hiệu. <BR><BR>-------<BR><BR><B>Cực quang là hiện tượng như thế nào?</B><BR><BR>Vào những đêm trời quang mây tạnh, trên vùng trời ở hai cực Trái đất thường liên tiếp xuất hiện những dải ánh sáng màu hồng, lam, vàng, tím... rực rỡ và biến ảo khôn lường. Tia này vừa tắt đi, tia khác lại xuất hiện, nhảy múa, lung tinh đủ màu sắc... <BR><BR>Có lúc chúng chỉ là một tia sáng mong manh, có khi mang hình dẻ quạt, hình ngọn lửa, rồi lại hoá thành những vòng cung màu lá cây vắt trên nền trời. Đó chính là cực quang. <BR><BR>Cực quang là một hiện tượng hiếm thấy ở nhiều nơi trên Trái đất. Nhưng ở Alaska (Mỹ), phần lớn lãnh thổ Canada, hay vùng nằm từ vĩ độ 60 trở lên, đây lại là một chuyện bình thường. Cực quang thường xuất hiện vào buổi đêm. Có người yếu bóng vía, nhìn thấy hiện tượng này liền cho là... ngày tận thế sắp đến. <BR><BR>Vào những năm 80 của thế kỷ XIX, người ta khám phá ra rằng từ trường của Trái đất có liên quan đến hiện tượng kỳ ảo này. Khi electron va vào một vật thể nào đó, nó có thể tạo ra ánh sáng (điều này cũng tương tự như nguyên lý hoạt động của màn hình tivi và máy tính). Như vậy, các nhà khoa học cho rằng cực quang có thể sinh ra khi các dòng hạt mang điện tích trong vũ trụ va chạm với bầu khí quyển. <BR><BR>Kết quả nghiên cứu khoa học vào các năm 1957 - 1958 cho rằng khi trên Mặt trời xuất hiện các vết đen, gió Mặt trời tạt vào Trái đất, mang theo một dòng hạt năng lượng cao gây ra hiện tượng cực quang. Các electron và proton trong dòng hạt này đi vào bầu khí quyển. Dưới ảnh hưởng của địa từ, chúng bị hút về hai cực Trái đất. Tại đây, chúng va chạm và kích thích các phần tử khí, làm các phân tử này phát ra bức xạ điện từ dưới dạng ánh sáng nhìn thấy. Bầu khí quyển có rất nhiều chất như oxy, nito, heli, hydro, neon... Dưới tác động của dòng hạt mang điện, ánh sáng do các chất khí khác nhau tạo ra cũng khác nhau, vì thế cực quang có muôn màu ngàn sắc. <BR><BR>Cực quang khi sẽ xuất hiện mạnh thường đi kèm với những thay đổi trong địa từ và kéo theo sự giao thoa với sóng vô tuyến, sóng điện thoại... Thời kỳ mạnh, yếu của cực quang có mối liên quan chặt chẽ tới chu kỳ hoạt động của Mặt trời. Khi Mặt trời ở đỉnh chu kỳ, (hoạt động mạnh nhất), nó sẽ bức xạ nhiều hơn mức bình thường. Lúc này dòng hạt mang điện va chạm nhiều hơn với khí quyển, do đó, cực quang sẽ xuất hiện rất nhiều và kỳ vĩ.<BR><BR>-------<BR><BR><B>Dàn máy tính điện tử đầu tiên trên thế giới được ra đời như thế nào?</B><BR><BR>Năm 1943 trong thời kỳ chiến tranh thế giới thứ hai. Bộ lục quân Mỹ yêu cầu trường đại học Pennsylvania và phòng nghiên cứu đạn đạo Aderdeen mỗi ngày phải cung cấp sáu biểu hoả lực. Với tốc độ máy tính thời đó quả là khó có thể hoàn thành nhiệm vụ. Người phụ trách công việc đó là Godistein đã đề xuất ý kiến chỉ có chế tạo ra máy tính điện tử mới có thể giải quyết được vấn đề này. <BR><BR>Qua gần ba năm nghiên cứu chế tạo, chiếc máy tính điện tử đầu tiên đã ra đời mang tên ANIAC tại trường đại học Pennsylvania. Diện tích gian phòng đặt máy tính là 170m2, bên trong máy gồm 18.800 bóng điện tử, 70.000 điện trở, 10.000 tụ điện, 1.500 bộ rơ le, tổng trọng lượng máy nặng 30 tấn, lượng điện tiêu hao 170KW với giá thành 480.000 USD. <BR><BR>Máy tính ENIA mỗi giây có thể giải được 5000 phép tính cộng trừ, 340 phép tính nhân. Tốc độ tính toán như vậy là một điều tuyệt vời ở thời ấy. ENIA chính là cơ sở, nền tảng cho loại máy tính điện tử hiện đại sau này.
<EM>thay đổi nội dung bởi:<STRONG> DuyênBòMộng</STRONG>, 26-08-2010 lúc 06:28 AM. </EM>
DuyênBòMộng
Xem hồ sơ
Tìm bài viết của DuyênBòMộng
13-10-2008, 12:48 AM
#<STRONG>4</STRONG>
DuyênBòMộng
vbmenu_register("postmenu_4153175", true);
Bé còn quấn tã
<BR>
<BR>
Tham gia ngày: Jul 2008
Nơi Cư Ngụ: ...
Bài gởi: 7
Giới Tính: ...
Đô: 4,349
<B>Tại sao tổ ong đều là hình lục giác đều?</B><BR><BR>Nếu quan sát kỹ càng tổ ong, bạn chắc chắn sẽ rất kinh ngạc khi phát hiện ra rằng, kết cấu của tổ ong thật là một kỳ tích của tự nhiên, tổ ong là do rất nhiều lỗ với hình dạng to nhỏ không giống nhau tạo thành, nhìn qua từ bên trên, chúng là hình lục giác đều, nhưng sắp xếp rất có trật tự. Nhưng nếu nhìn từ bên trái, chúng lại do rất nhiều hình lăng trụ lục giác đều ghép lại với nhau. Mà đáy của mỗi hình lăng trụ lục giác đều lại càng làm cho con người ta kinh ngạc. Nó không phẳng, cũng không phải tròn. Mà là nhọn, là do ba lăng trụ đáy nhọn hoàn toàn giống nhau hợp thành. <BR><BR>Hình lục giác đều kỳ diệu ở tổ ong từ rất lâu đã thu hút được sự chú ý của con người, tại sao những chú ong nhỏ bé lại làm tổ mình bằng những hình lục giác đều nhỉ, mà không phải là hình tam giác đều, tứ giác đều hay là ngũ giác đều? <BR><BR>Hầu hết các vật thể có hình ống tròn, khi mặt trước, mặt sau, bên phải, bên trái chịu áp lực, bề mặt chịu lực của nó sẽ biến thành hình lục giác. Vì thế nhìn từ góc độ lực học, hình lục giác là ổn định nhất. Vậy thì, những chú ong nhỏ khi làm tổ có phải là để tránh áp lực từ bên ngoài và giữa các tổ với nhau không? Đương nhiên là không phải rồi, bởi vì tổ ong ngay từ ban đầu đã là một khối gắn liền với nhau rồi. <BR><BR>Đầu thế kỷ thứ XVIII, nhà khoa học người Pháp Malaerqi đã từng đo được góc của tổ ong, phát hiện ra một quy luật thú vị, đó là mỗi góc của hình lăng trụ là 109 độ 26 phút, mà góc nhọn là 70 độ 32 phút. Hiện tượng này đã gợi lên trong đầu nhà vật lý học người Pháp Leomiule một gợi ý: hình dáng cố định và đặc biệt này, phải có tốn ít nhiên liệu nhất không, mà diện tích sử dụng lại là lớn nhất? Vì thế, ông xin ý kiến nhà toán học người Thụy Sĩ Kenige, sau khi nghiên cứu tỷ mỷ, Kenige đã chứng thực cho phỏng đoán của ông. Nhưng góc của tổ ong tính ra lần này là 109 độ 26 phút và 70 độ 34 phút sai hai phân so với góc mà Leomiule tính ra. <BR><BR>Năm 1734, nhà toán học Anh lại tiến hành tính toán từ đầu, kết quả hoàn toàn phù hợp với góc của tổ ong. Thì ra, số liệu mà Kenige sử dụng trên biểu bảng đều đã bị in sai. <BR><BR>Qua vài thế kỷ nghiên cứu kết cấu của tổ ong, con người phát hiện ra kết cấu này có lợi nhất cho việc tiết kiệm nhiên liệu và tận dụng không gian. Con người còn tìm ra không ít những vận dụng diệu kỳ của nó. Hiện nay con người đang ứng dụng rộng rãi trong các lĩnh vực như kiến trúc, hàng không, vô tuyến điện... Từ kiến trúc "Tầng hầm kiểu tổ ong" cách âm cách điệu đến thiết kế con tàu con thoi phóng vào vũ trụ, đều quan hệ mật thiết với kết cấu của tổ ong.<BR><BR>-------<BR><BR><B>Vì sao trong sa mạc có nấm đá?</B><BR><BR>Trong sa mạc, thỉnh thoảng bạn sẽ bắt gặp từng hòn nham thạch cô độc nhô lên như những cây nấm đá, có hòn cao đến 10 mét. Ngắm cái "bụng" thon và cái "đầu" nặng nề của chúng thật là thú vị. Chúng là kiệt tác của nhà điêu khắc nào vậy? Của nhà điêu khắc vô danh - gió trong sa mạc. <BR><BR>Những khối nham thạch kỳ lạ này là do bị gió cát cọ sát, mài mòn ngày này qua ngày khác mà nên. Những hạt cát nhỏ bị gió cuốn lên rất cao, trong khi những hạt cát tương đối thô nặng thì chỉ bay là là gần mặt đất. Trong điều kiện tốc độ gió bình thường, hầu như toàn bộ sỏi đều tập trung ở tầm cao chưa tới 2 mét. Có người đã làm một thực nghiệm thú vị ở phần nam Đại sa mạc Takla Makan, thì thấy khi tốc độ gió là 5,7 m/giây thì có tới 39% sỏi chỉ bay tới độ cao dưới 10 centmét, trong đó phần cực lớn hầu như bay sát mặt đất. <BR><BR>Vì vậy khi những cơn gió cuốn sỏi cát bay qua, phần dưới của tảng nham thạch cô lập giữa sa mạc bị rất nhiều hạt sỏi cát không ngừng mài mòn, phá huỷ tương đối nhanh. Còn phần trên, vì gió mang theo tương đối ít sỏi cát nên sự mài mòn sẽ diễn ra chậm hơn. Ngày qua tháng lại, quá trình này dần dần hình thành nên "nấm đá" có phần trên thô lớn, phần dưới nhỏ. <BR><BR>Nếu phần dưới của nham thạch mềm, phần trên cứng chắc thì thậm chí ở những chỗ không bị gió cát mài mòn, chỉ dưới tác dụng phá hoại của các lực trong tự nhiên khác, tảng nham thạch cũng sẽ bị tạc thành nấm đá.<BR><BR>-------<BR><BR><B>Vì sao trong sa mạc có ốc đảo?</B><BR><BR>Giữa sa mạc mênh mông cát trắng, không một giọt nước, thỉnh thoảng lại thấy xuất hiện những ốc đảo xanh tươi với nhiều loại động thực vật rất đa dạng. Tại sao ở đây lại có nhiều nước đến như vậy, dù rất ít mưa? <BR><BR>Đa số các ốc đảo đều dựa vào núi cao, hướng ra sa mạc. Vào mùa Đông, băng tuyết thường đọng lại trên các đỉnh núi. Đến mùa hè, băng tan ra thành nước, chảy thành sông. Do địa thế dốc nên nước chảy xiết, mang theo bùn đất, thậm chí có cả các tảng đá lớn từ trên núi. Nhưng khi đến cửa sông, địa thế đột nhiên bằng phẳng, bùn đất lắng đọng lại hai bên bờ, tích tụ dần thành những khu vực đất đai màu mỡ. <BR><BR>Đa số các dòng nước ấy không đủ mạnh để chảy ra biển, mà chỉ chảy một đoạn rồi thấm vào đất cát thành các mạch nước ngầm. Ở hai vùng bờ sông, gần các mạch nước ngầm, cây cối mọc lên xanh tươi. Đó chính là các ốc đảo.<BR><BR>-------<BR><BR><B>Sương muối hình thành như thế nào?</B><BR><BR>Những đêm giá rét, bầu trời đầy trăng sao, không hề có gió lay động những ngọn lá. Sáng dậy ra ngoài cửa thấy khắp trên các ngọn cỏ, mái nhà, thậm chí là cả ở dưới mặt viên ngói phủ đầy sương muối trắng muốt. Người ta gọi tiết đó là "sương giáng", nghĩa là "sương muối rơi". Nhưng thật ra, chưa ai thấy sương muối "rơi" bao giờ... <BR><BR>Giở quyển lịch ra xem thấy hàng năm, vào tầm hạ tuần tháng 10 luôn có một tiết gọi là "sương giáng". <BR><BR>Ban ngày, mặt đất nhận được ánh sáng Mặt trời, nhiệt độ tăng cao hơn, làm cho nước ở đó không ngừng bốc hơi, khiến lớp không khí sát mặt đất lúc nào cũng có lượng hơi nước nhất định. <BR><BR>Sang cuối thu, trong mùa Đông và đầu mùa Xuân, vào những đêm tiết trời rất giá rét, nhất là vào những đêm không có mây, gió. Khí lạnh đọng lại sát mặt đất, khi tiếp xúc với những vật thể có nhiệt độ lạnh dưới 0 độ C thì một phần hơi nước sẽ bám vào bề mặt vật đó mà ngưng kết thành tinh thể băng nhỏ. Đó chính là sương muối. <BR><BR>Vì sương muối là hơi nước ở sát mặt đất ngưng kết thành những tinh thể băng nhỏ nên nó không thể là từ trên trời rơi xuống được. Khi ấy bắt gặp bất cứ nơi nào, chỉ cần đủ điều kiện là nó ngưng kết lại đó. Do vậy đôi khi chúng ta có thể phát hiện sương muối đọng ở cả mặt dưới viên ngói hoặc hòn gạch... Có lẽ cái từ "sương giáng" cũng cần phải sửa lại cho chính xác. Nhưng vì cái tên này đã được dùng quen, truyền từ bao đời nay, nên để nguyên cũng chẳng sao, miễn là bạn hiểu chính xác nguyên lý tạo ra nó. <BR><BR>Không phải chỗ nào cũng có <BR><BR>Đối với các vật thể để ngoài trời ban đêm giá rét, mỗi vật lại có điều kiện ngưng kết sương muối khác nhau. Như đồ sắt chẳng hạn, do ti nhiệt thấp, sau khi khuyếch tán nhiệt lượng rất dễ trở nên lạnh giá, nên dễ dàng xuất hiện sương muối. <BR><BR>Gạch ngói do có nhiều lỗ xốp nhỏ, sự cách nhiệt giữa các bộ phận của chúng là rất tốt nên một khi đã bị lạnh rồi chúng sẽ khó nóng lên bởi nhiệt độ từ chỗ khác truyền tới. Trong thời tiết giá rét, đó cũng là vật để đọng sương muối. Lá cỏ cây vì mỏng lại có cả hai mặt cùng tản nhiệt nên cũng dễ làm lạnh, có đủ điều kiện để xuất hiện sương muối. Đất ruộng chỗ đã cày tơi so với chỗ chưa được cày cũng vì độ dẫn nhiệt khác nhau mà điều kiện ngưng kết sương muối cũng khác nhau, vì thế sương muối thường xuất hiện ở những chỗ đã được cày trước rồi sau đó mới có ở những chỗ chưa được cày.<BR><BR>-------<BR><BR><B>Tiếng hát từ sa mạc do đâu?</B><BR><BR>Cách đây 1.200 năm, nhiều văn bản của Trung Quốc đã tường thuật về những âm thanh quái lạ được phát ra từ sa mạc Gobi hoang vắng mênh mông của xứ Mông Cổ. Sa mạc Đơn Hoàng của Trung Quốc cũng có những âm thanh lạ lùng, khi thì giống tiếng nhạc, tiếng hát, có lúc lại giống tiếng trống, tiếng sấm... <BR><BR>Đến nay, theo các nhà nghiên cứu, trên thế giới có khoảng 30 sa mạc biết "hát" ở châu Mỹ, châu Phi và châu Á. Những tiếng vọng này có nhiều âm điệu khác nhau, chưa thống kê được loại âm điệu nào có nhiều hơn, vì vậy các nhà nghiên cứu khi thì gọi là tiếng hát, khi thì gọi là âm vang, tiếng rền... Nhưng nói chung, gọi là tiếng "hát" thì nhiều hơn. Nhưng điều gì đã tạo nên những tiếng "hát" này? <BR><BR>Từ một thế kỷ nay, các nhà khoa học đã cố gắng đưa ra nhiều lời giải thích về hiện tượng "sa mạc phát âm" này. Qua nhiều so sánh nghiên cứu tính chất những loại cát tại sa mạc phát âm và loại cát tại sa mạc không phát âm, các nhà khoa học đã đưa ra giả thiết rằng hạt cát là nguyên nhân tạo nên âm thanh. Ngay khi dẫm chân đi trên bãi biển, bạn có thể nghe được những âm thanh nho nhỏ. <BR><BR>Đặc điểm của những hạt cát sa mạc phát âm: <BR><BR>- Kích thước của chúng đều nhau, bình quân một hạt cát có 0,3 mm đường kính <BR><BR>- Bề mặt của những hạt cát này không hoàn toàn tròn trịa, trơn láng. <BR><BR>- Độ ẩm của cát rất thấp. Nếu độ ẩm lên cao đến một mức nào đó, cát sẽ không "hát" được nữa. <BR><BR>- Cung bậc âm thanh có tần số từ 50 đến 300 Hz. Vì vậy, người ta có thể nghe được nhiều loại âm thanh khác nhau như tiếng nhạc, tiếng hát, tiếng trống, tiếng sấm rền, có khi lại giống như tiếng những binh khí va chạm. <BR><BR>Các loại cát biết hát có tỷ lệ silic lên đến 95%. Các loại cát "câm" có tỷ lệ 50% silic lẫn vào các chất khoáng khác. <BR><BR>Nhiều tác động tạo nên âm thanh của sa mạc <BR><BR>Độ ẩm: Ban đêm cát giữ độ ẩm, kết dính hạt cát này với hạt cát khác. Sự kết dính này chỉ là tạm thời. Gió nóng thổi xuyên qua các lớp cát phủ làm khô chúng đi và rung động đồng loạt. Sự kết hợp các dao động trong không khí và trong cát tạo thành những âm thanh kỳ lạ. Tuỳ loại cát, tuỳ sức gió mà có những loại âm thanh khác nhau. <BR><BR>Sức gió: Vai trò của gió cũng không kém phần quan trọng. Vận tốc gió phải từ 22 km / giờ trở lên. Ở vận tốc chuẩn này, những hạt cát trong đụn cát bắt đầu bị rung động và nảy lên hàng loạt. Đến khi gió tăng vận tốc, các hạt cát va chạm vào nhau mạnh hơn làm thay đổi hình dạng của đụn cát. Khi đụn cát có độ dốc 25 độ theo hướng nghịch với hướng gió thổi, mỗi khi rung động sẽ gây nên hiện tượng cát lở, tạo ra những âm thanh vang dội. <BR><BR>Trong khi cát lở, tuỳ theo sức gió và kích thước của hạt cát, khối không khí xen kẽ có thể tăng giảm tạo nên những âm thanh cao thấp trầm bổng khác nhau. <BR><BR>Mặt đất rung động: Nếu khối cát sạt lở là rất lớn, mặt đất sẽ bị rung động, làm cho âm thanh từ sa mạc thêm vang động, nghe được rất xa và lâu. Có trường hợp âm thanh vang trong bán kính 10 km và lâu đến 5 phút.<BR><BR>-------<BR><BR><B>[Vì sao xương đầu lại có các đường nẻ?</B><BR><BR>Đúng là trên xương đầu người có các vết nứt ngoằn nghèo. Do một sự va chạm mạnh nào đó khiến cho xương sọ vỡ ra, những mảnh vỡ bị tách ra theo hình dạng nhất định, chúng vỡ theo một đường ngoằn nghèo. Thực ra không chỉ có xương đầu người mới như vậy. Mèo, chó, trâu, ngựa mà xương đầu của các loài động vật đều có đường nứt nẻ. <BR><BR>Trong chuyên môn, người ta gọi đường nứt nẻ này là các khe nối và các mảnh xương đầu là bộ khung chủ yếu để bảo vệ đại não. Trẻ con từ khi ở trong bụng mẹ cho đến khi ra đời, các đường nứt nẻ trên xương đầu của nó không ngừng thay đổi, co dãn một cách linh hoạt để có thể dễ dàng ra khỏi sinh đạo của người mẹ. <BR><BR>Sau đó, tuỳ theo sự phát triển từng ngày của đại não, xương đầu từng lúc to dần. Nhờ các đường nứt nẻ ở xương đầu mà việc đó sẽ được tiến triển rất thuận lợi. Cho nên, các đường nứt nẻ ở trên đầu không phải là do vết thương gây nên mà chính là hiện tượng tự nhiên. Chỉ có điều là trên đầu bạn có lớp thịt dày bao bọc, lại có đầu tóc đen che phủ nên không nhìn thấy, sờ thấy các đường nứt nẻ ấy.<BR><BR>-------<BR><BR><B>Tại sao phụ nữ thường ẵm con bằng tay trái?</B><BR><BR>Các nhà tâm lý học đã có được lời giải cho hiện tượng kỳ lạ này. Một nghiên cứu mới cho thấy, não phải của phữ (quyết định hoạt động của nửa người bên trái) kiểm soát thông tin về khuôn mặt. Vì thế, khi bế con bên trái, họ sẽ theo dõi được tình trạng của trẻ tốt hơn. <BR><BR>Brenda Todd và Victoria Bourne, hai nhà tâm lý học tại Đại học Sussex (Anh), đã tìm hiểu thói quen ẵm trẻ của 32 người thuận tay phải (12 người trong số đó là đàn ông). Những người này cũng được kiểm tra xem họéd vùng não nào trong việc đánh giá các khuôn mặt. Khi được yêu cầu giữ một đứa trẻ hay một con búp bê, trong hai phần ba số trường hợp, người phụ nữ đều ẵm nó ở bên trái. Ở số đàn ông thì lại không cho thấy sự chênh lệch này. <BR><BR>Các nhà nghiên cứu phát hiện thấy, những người phụ nữ ẵm trẻ bằng tay trái đã sử dụng não phải trong việc xử lý thông tin về khuôn mặt. Trong khi đó ở nam giới không hề tồn tại mối liên hệ này. <BR><BR>Các nhà khoa học cho rằng não phải của phụ nữ đã chuyên hoá để nhận biết chỉ những thay đổi trên khuôn mặt và tình cảm với trẻ nhỏ. Điều đó có nghĩa là, thông tin trong tầm nhìn bên trái của họ (chẳng hạn như khi phụ nữ ẵm trẻ ở bên trái) sẽ đi thẳng vào bán cầu não phải. Như vậy, bế trẻ bên tay trái là vị trí tối ưu giúp người mẹ đánh giá được tình trạng của con mình.<BR><BR>-------<BR><BR><B>Văn hoá phục hưng ở châu Âu được bắt nguồn như thế nào?</B><BR><BR>Thế kỷ XIV và XV, châu Âu vẫn nằm dưới sự kiểm soát nghiêm ngặt của Giáo hội Thiên chúa La Mã. Bất kể ai, chỉ cần hoài nghi Thượng đế, chỉ trích Giáo hoàng hoặc trong tác phẩm có ý trái với "Kinh Thánh", đều bị coi là "dị đoan", và bị bắt và chịu sự tra khảo nhục hình và bị đưa ra toà phán xử bị giam, trục xuất, bị thiêu. Một số người chống lại chế độ chuyên chế phong kiến vạch trần những chuyện đen tối trong Giáo hội kể cả một số nhà khoa học tiến bộ thời đó, đều bị toà án dị đoan kết tội, phải chịu những nhục hình tàn bạo. Rất nhiều cuốn sách và những công trình tiến bộ đã bị thiêu huỷ, cấm đoán. Sự tiến bộ của xã hội bị trở ngại nghiêm trọng. <BR><BR>Nhưng cũng thời kỳ này, phương thức sản xuất tư bản cũng đã bắt đầu hình thành và phát triển, nhất là ở các thành phố Bắc Italia giáp Địa Trung Hải như Vơ-ni-dơ, Flo-ren-xơ, là những thành phố công nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp và ngân hàng phát triển. Giai cấp tư sản mới nổi, để bảo vệ quyền lợi chính trị và kinh tế của họ, đã tiến hành đấu tranh với Giáo hội. Các nhà tư tưởng tư sản chống thần học Thiên chúa giáo, giam cầm lòng người hàng ngàn năm nay, họ phất cao ngọn cờ "Phục hưng" văn hoá cổ điển, nêu lên tư tưởng "nhân văn" tư sản. <BR><BR>Đi tiên phong là phong trào văn nghệ "Phục hưng" được một số văn nghệ sỹ theo chủ nghĩa nhân văn đề xướng ra. Tác phẩm của họ có đặc điểm dân tộc chống phong kiến, chống thần học. Đan-tê, người được coi là "Đại thi hào đầu tiên của thời đại mới". Trong thi phẩm nổi tiếng "Thần khúc", biểu hiện trào lưu tư tưởng nhân văn sớm nhất. Ông đã đề xướng rằng "con người" là gốc của thế giới, lên án Giáo hoàng và các thầy tu. Đan-tê đã bị Giáo hội trục xuất, sống cuộc đời lưu vong nơi đất khách. Nhưng ông vẫn kiên trì đấu tranh không mệt mỏi đối với Giáo hội và Giáo hoàng. Sau Đan-tê còn có rất nhiều nhà thơ, nhà văn đã đứng lên đả kích sự hủ bại của triều đình Giáo hội và sự sa đoạ của các thầy tu. Dưới sự nỗ lực của nhiều nhà văn hoá, văn học nghệ thuật cận đại châu Âu đã có một nền tảng vững chắc. <BR><BR>Trong thời kỳ này, khoa học tự nhiên cận đại cũng ra đời, chủ yếu thể hiện trong thiên văn học, toán học và cơ học, trong đó thiên văn học mang một ý nghĩa cạch thời đại. <BR><BR>Sản xuất tư bản chủ nghĩa ra đời và phát triển đã thúc đẩy sự tiến bộ cả khoa học tự nhiên. Khoa học tự nhiên phát triển lại tăng thêm sức mạnh để tấn công vào hệ thống thần học của đạo Thiên chúa. <BR><BR>Cô-pec-ních là nhà khoa học Ba Lan, khi còn trẻ chịu ảnh hưởng của tư tưởng nhân văn. Trên cơ sở nghiên cứu nhiều năm về thiên văn học, quan sát các thiên thể, ông đã viết "Thuyết vận hành các thiên thể". Trong cuốn sách này, ông nêu ra "Thuyết mặt trời trung tâm", phủ định luận điệu trong "Kinh thánh" rằng: "Thượng Đế đã tạo ra Mặt trời, Mặt trăng, bắt chúng chạy quanh Trái đất", phủ định thuyết Trái đất là trung tâm, lay đổ tận gốc vũ trụ quan thần học của Thiên chúa giáo. Từ đó bắt đầu cuộc cách mạng trong thiên văn học, thay đổi về căn bản cách nhìn của loài người đối với vũ trụ. <BR><BR>Nửa thế kỷ sau, triết gia người Ý, Brunô vì bảo vệ học thuyết của Cô-pec-nich đã bị Giáo hội giam vào ngục tối 7 năm trời. Brunô kiên định lòng tin vào học thuyết đó, từ chối thừa nhận sai lầm, ngày 8-2-1600, ông đã bị toà án dị đoan tuyên án tử hình và thủ tiêu toàn bộ những tác phẩm của ông. <BR><BR>Sau khi Bruno chết dược 30 năm, tháng 2 năm 1633, Ga-li-lê_nhà khoa học người Italia lại bị Giáo hội giam vào ngục tối. Ông đã tạo ra kính thiên văn để quan sát vũ trụ và các thiên thể, và một lần nữa lại phủ định vũ trụ quan thần học. Ông còn có những phát minh về toán học, vật lý khiến cho nhân loại có nhận thức hoàn toàn mới về vũ trụ. Ông đã bị Giáo hội kết tội, bắt giam và tra tấn. <BR><BR>Trải qua mấy thế hệ đấu tranh và phải trả giá nặng nề, cuối cùng khoa học tự nhiên đã thoát ra khỏi thần học, mạnh bước trên con đường tiến bộ. <BR><BR>Từ thế kỷ XIV đến thế kỷ XVII đã xảy ra phong trào văn nghệ phục hưng ở nhiều nước Tây Âu, đó là phong trào văn hoá của giai cấp tư sản, họ đã dùng sức mạnh không gì lay chuyển nổi, phá vỡ những ràng buộc của sự chuyên chế về văn hoá thời kỳ Trung cổ, làm tan rã nhanh chóng chế độ phong kiến đồi bại, mở ra một thời kỳ mới giải phóng tư tưởng, phát triển văn nghệ và khoa học.<BR><BR>-------<BR><BR><B>Tại sao khuy áo của người đàn ông thì ở bên phải còn của đàn bà thì ở bên trái?</B><BR><BR>Nếu có hai bộ quần áo với màu sắc và kiểu dáng giống hệt nhau đặt cùng chỗ, vậy làm sao có thể phân biệt chiếc nào là của nam, chiếc nào là của nữ? <BR><BR>Có lẽ điều mà nhiều người đầu tiên nghĩ đến là cần phải xem quần áo to hay nhỏ (dài, ngắn, rộng, hẹp) và nếu nghĩ như thế thì chiếc lớn sẽ là của nam, chiếc nhỏ sẽ là của nữ. <BR><BR>Tất nhiên các cách như thế để phân biệt phục trang của đàn ông và đàn bà thì cũng có lí lẽ nhất định, song những người trong nghề sẽ dứt khoát chỉ xem vị trí các khuyết áo. Nếu là áo của đàn ông thì khuyết áo sẽ ở tà áo bên trái, còn khuy áo ở tà áo bên phải. Còn áo của đàn bà thì ngược lại, khuyết áo sẽ ở bên phải và khuy áo ở bên trái. <BR><BR>Ở các nước phương Tây các khuy áo đầu tiên đã xuất hiện như những vật trang sức. Đến khoảng thế kỷ XIII, các chi tiết trang sức ấy mới trở thành những khuy áo thực sự và có mặt trên trang phục của nam giới cũng như nữ giới. <BR><BR>Theo truyền thuyết thì cánh đàn ông trong các gia đình quý tộc ở thời kỳ Trung thế kỷ, bên lưng họ phải đeo kiếm, khi khuy áo đính ở bên phải, còn tà áo ở bên trái không có gì, nếu dùng tay phải thì có thể rút kiếm ra ở bên trái mà không vướng víu gì. Ngoài ra, ở châu Âu mùa đông rất lạnh, muốn bảo vệ bàn tay phải cầm kiếm không bị lạnh giá, thì nếu khuyết áo ở bên tay trái, lúc ấy tay phải sẽ có thể thọc vào trong tà áo để giữ được ấm áp. <BR><BR>Còn chuyện khuyết áo của phụ nữ ở bên phải, đó là do phụ nữ trong xã hội thượng lưu thời bấy giờ, những khi mặc áo họ phải có đầy tớ gái giúp việc. Để thuận tiện cho người đầy tớ gái có thể đứng đối diện với chủ mà dùng tay phải để cài khuy áo, khuy áo tất nhiên phải đính trên tà áo bên trái, còn khuyết áo bên tà áo phải. <BR><BR>Ngoài ra khi phụ nữ cho con bú, nói chung họ thường dùng tay bên phải khoẻ và thuận hơn để ôm con, nếu khuy áo ở tà áo bên trái thì dùng tay trái dễ cởi áo hơn. <BR><BR>Do các mục đích khác nhau trên đã hình thành kiểu bố trí khuy áo ở trên áo của đàn ông và đàn bà có sự khác biệt một cách mặc định như vậy.<BR><BR>-------<BR><BR><B>Tại sao khi tàu bè hạ thuỷ phải làm lễ đập chai rượu?</B><BR><BR>Khi có một chiếc tàu mới, người ta thường cử hành một nghi thức hạ thuỷ long trọng: người chủ trì giơ cao một chai rượu sâm banh, cổ chai được buộc bằng một sợi dây, sau đó người ấy dùng hết sức để đập chai rượu vào thành tàu cho vỡ để rượu bắn ra tung toé. Sau đó chiếc tàu mới được từ từ trườn trên đòn trượt để xuống nước và bắt đầu chuyến đi biển đầu tiên của nó. <BR><BR>Tương truyền nghi thức này có từ thời xa xưa ở phương Tây. Hồi ấy hàng hải là một nghề cực kỳ nguy hiểm, thường xuyên xảy ra những vụ đắm tàu, người chết. Vì chưa có vô tuyến điện, cho nên mỗi khi gặp tai nạn. người trên tàu chỉ còn có thể viết giấy báo nạn, rồi bỏ vào một cái chai, đậy kín lại và ném xuống biển, để nó trôi đi đâu thì trôi, hy vọng rằng cái chai sẽ trôi qua một chiếc tàu khác hay dạt vào bờ biển, được người ta nhìn thấy rồi nhờ đó mà sẽ có tàu tới cứu. <BR><BR>Người phương Tây vốn thích uống rượu sâm bank, vì thế khi ném chai rượu xuống thường là rượu sâm banh. Trong thời kỳ kỹ thuật hàng hải còn rất lạc hậu, mỗi khi gặp nạn trên biển người ta rất khó cứu nhau, vì thế các thuyền viên ném chai rượu sâm banh xuống nước nói rằng mình đã bị tai nạn và có thể tử vong. Tất nhiên gia đình của các thuyền viên cũng muốn tìm thấy các chai rượu như thế, cho nên họ mong muốn giải trừ những điều bất hạnh và nỗi lo sợ như vậy, mỗi khi hạ thuỷ một chiếc tàu mới, người ta đập chai sâm banh vào mũi tàu với mong muốn con tàu ra đi sẽ được thuận buồm xuôi gió, vạn sự may mắn. <BR><BR>Nhưng vẫn còn một cách giải thích khác nữa. Tương truyền trong thời cổ xưa người ta cho rằng công việc đi biển là cực kỳ nguy hiểm, cho nên để tiêu trừ các mối nguy hiểm này, người ta thường trói một nô lệ vào bên dưới thân tàu mới, để khi con tàu trượt qua thân thể người nô lệ và máu của người này sẽ thay lời cầu Thượng Đế bảo hộ. Nhưng về sau người Hy Lạp đã không còn thực hiện tập tục dã man này nữa, vì thế người ta đã dùng rượu để thay cho máu người nô lệ, như vậy nghi lễ hạ thuỷ con tàu mới vẫn còn giữ được cho đến ngày nay với động tác đập chai rượu vào thành tàu.
<EM>thay đổi nội dung bởi:<STRONG> DuyênBòMộng</STRONG>, 26-08-2010 lúc 06:29 AM. </EM>
DuyênBòMộng
Xem hồ sơ
Tìm bài viết của DuyênBòMộng
13-10-2008, 12:54 AM
#<STRONG>5</STRONG>
DuyênBòMộng
vbmenu_register("postmenu_4153185", true);
Bé còn quấn tã
<BR>
<BR>
Tham gia ngày: Jul 2008
Nơi Cư Ngụ: ...
Bài gởi: 7
Giới Tính: ...
Đô: 4,349
<B>Tại sao người Trung Quốc thường dùng số 5 và số 10 để nói lên sự viên mãn?</B><BR><BR>Trong tiếng Hán có nhiều từ ngữ được đặt với hai chữ "ngũ" (năm) và "thập" (mười). Các từ ngữ này thường nói lên ý nghĩa "toàn bộ" hoặc "viên mãn" (trọn vẹn). Thí dụ: <BR><BR>- "Ngũ vị" (năm mùi vị) <BR><BR>- "Ngũ sắc" (năm màu sắc) <BR><BR>- "Ngũ cốc phong đãng" thì nói lên một cách khái quát việc thu hoạch phong phú tất cả các thứ lương thực dùng cho con người. <BR><BR>- Các dãy núi nổi tiếng nhất trong thiên hạ thì được gọi là "ngũ nhạc" <BR><BR>- Còn năm loại vật chất: kim, mộc, thủy, hoả, thổ được gọi là "ngũ hành", tức chỉ nguồn gốc của vạn vật trên trời đất. <BR><BR>Còn các từ dùng chữ "thập" để nói lên sự trọn bộ, toàn vẹn thì gồm có: <BR><BR>- "Thập toàn" (hoàn toàn trọn vẹn" <BR><BR>- "Thập mỹ" (hoàn toàn tốt đẹp) <BR><BR>- "Thập phân mãn ý" (mười phân vừa ý) <BR><BR>- "Thập ác bất xá" (tất cả các điều ác đều không tha)... <BR><BR>Thật ra các sự vật mà các từ ngữ này biểu thị trên thực tế có số lượng vượt xa hơn "năm" và "mười" nhiều, thế thì tại sao người Trung Quốc thích dùng hai chữ "ngũ" và "thập" để nói lên sự trọn vẹn đầy đủ? Điều này không thể tách rời khỏi tập quán của người đời xưa dùng các ngón tay trên hai bàn tay của mình để tính các con số. <BR><BR>Đời xưa con người sống trong các bộ lạc nguyên thuỷ, xã hội còn chưa có văn tự, càng chưa có sự hiểu biết về các con số. Muốn tính số, người ta chỉ có thể dùng các ngón tay trên hai bàn tay để so sánh, sau khi lần lượt so sánh hết các ngón tay của mình rồi thì không có cách nào đếm thêm được nữa, một bàn tay chỉ có năm ngón tay, hai bàn tay có tất cả mười ngón, vì thế sau khi đã đếm đến năm và đến mười rồi thì coi là đã trọn vẹn và đầy đủ nhất. Thí dụ sau khi đi săn trở về người ta giơ hai bàn tay ra để nói với những người khác rằng mình đã săn được và mang về bao nhiêu vật săn, mọi người trông thấy thế rất vui mừng và phấn khởi. Trên thực tế các con vật mà những người đi săn mang về thường có thể nhiều hơn mười, nhưng họ vẫn chỉ có thể dùng hai bàn tay để biểu thị vì đó là con số lớn nhất mà người ta có thể biểu đạt. <BR><BR>Như vậy năm và mười tự nhiên trở thành những con số trọn vẹn và đầy đủ. <BR><BR>Về sau văn hoá dần dần phát triển, người ta đã có văn tự và kiến thức về số học, nhưng tập quán dùng năm và mười để biểu đạt sự trọn vẹn thì vẫn cứ được lưu truyền từ đời này qua đời khác.<BR><BR>-------<BR><BR><B>Tại sao trên lá cờ Olympic lại có năm vòng tròn?</B><BR><BR>Đại hội thể dục thể thao long trọng và có quy mô lớn nhất trên thế giới là Thế vận hội Olympic. Mỗi khi khai mạc Thế vận hội Olympic, trên hội trường bao giờ cũng phải kéo lên lá cờ Thế vận hội. Vì trên lá cờ này có in năm cái vòng, cho nên nó cũng được gọi là cờ "năm vòng tròn". <BR><BR>Lá cờ năm vòng tròn đã được thiết kế năm 1913, theo ý kiến của Chủ tịch Uỷ ban Olympic Quốc tế, ông Cubectanh. Năm 1914, nó đã được sử dụng lần đầu tiên tại Đại hội Đại biểu Olympic cử hành ở Paris, nước Pháp. Lá cờ Olympic làm bằng vải màu trắng không viền, thêu năm vòng tròn với ba vòng bên trên màu xanh, đen, đỏ, còn hai vòng bên dưới màu vàng và màu lục, lần lượt xếp từ trái sang phải. <BR><BR>Ông Cubectanh đã chọn năm màu này vì đây là màu quốc kỳ của các nước tham gia cuộc vận động Olympic thời bấy giờ. <BR><BR>Về sau ngời ta lại có một cách giải thích khác về màu sắc của năm cái vòng, cho rằng năm cái vòng này tượng trưng cho năm lục địa trên thế giới: màu xanh tượng trưng cho châu Âu, màu vàng tượng trưng cho châu Á, màu đen tượng trưng cho châu Phi, màu lục tượng trưng cho châu Đại Dương, còn màu đỏ tượng trưng cho châu Mỹ. <BR><BR>Vì tính rằng người ta có thể có những cách giải thích khác nhau về lá cờ năm cái vòng, cho nên năm 1979 tờ tạp chí Olympic, Uỷ ban Olympic Quốc tế đã chính thức nêu rõ rằng dựa theo hiến chương Olympic, ý nghĩa của năm cái vòng này là tượng trưng cho sự đoàn kết giữa năm lục địa, đồng thời tượng trưng cho tinh thần thi đua công bằng thẳng thắn và hữu nghị giữa các vận động viên toàn thể thế giới đến tập trung tại Thế vận hội Olympic. <BR><BR>Bắt đầu Thế vận hội Olympic lần thứ 7, khi khai mạc Thế vận hội Olympic, bao giờ cũng cử hành nghi thức đại biểu thành phố chủ nhà của Thế vận hội lần này đem lá cờ Olympic trao cho thị trưởng thành phố tổ chức Thế vận hội Olympic lần sau. Tiếp đó thành phố này sẽ giữ lá cờ tại phòng chính của toà thị chính, rồi bốn năm sau sẽ lại cử hành một nghi thức như thế.<BR><BR>-------<BR><BR><B>Chỉ số Đao Giônx do đâu mà có?</B><BR><BR>Những người quan tâm đến thị trường cổ phiếu đều biết tới chỉ số Đao Giônx, gọi một cách đầy đủ là chỉ số bình quân cổ phiếu công nghiệp Đao Giônx. Nội dung được công bố là chỉ số bình quân hơn 30 cổ phiếu công nghiệp của thị trường cổ phiếu New York. Vì các cổ phiếu này là những cổ phiếu nóng được mua bán sôi nổi nhất trong thị trường cổ phiếu, phản ảnh được xu thế hiện hành trên thị trường cổ phiếu của nước Mỹ, cho nên chỉ số Đao Giônx đã trở thành tin tức thị trường mà người ta không thể nào không quan tâm. <BR><BR>Chỉ số Đao Giônx là do Công ty Đao Giônx nhà xuất bản báo chí tài chính của nước Mỹ, hàng ngày tính toán ra và công bố trên tờ Nhật báo phố Wall. Đao Giônx là hai họ của hai người Mỹ gộp lại <BR><BR>Một người là Tracđơ Đao, sinh năm 1851, đã từng là phóng viên biên tập của tờ Nhật báo Phố Wall, ông này vốn có hứng thú đối với các tin tức kinh tế và tài chính. Trên cơ sở chuyên tâm nghiên cứu, ông dã phát biểu rất nhiều bài về vấn đề này và trở thành một phóng viên nổi tiếng của ngành tài chính. <BR><BR>Về sau ông ta làm quen với một người cũng làm về báo là Etuốt Giônx, rồi sau đó hai người rất ý hợp tâm đầu. Năm 1882, hai người hợp tác thành lập công ty chuyên công bố các tin tức kinh tế, tức là công ty Đao Giônx, chuyên môn sưu tầm các tin tức về mặt tài chính và mậu dịch để công bố định kỳ. <BR><BR>Tracdơ Đao về sau trở thành tổng biên tập và người phát hành của tờ Nhật báo Phố Wall. Ông đã nghiên cứu và dự toán các tin tức kinh tế một cách sâu sắc, trở thành người đầu tiên dùng các con số thống kê để dự đoán về thị trường cổ phiếu New York. <BR><BR>Năm 1897, công ty Đao Giônx lựa chọn 30 công ty công nghiệp có tính chất đại biểu ở cơ sở giao dịch cổ phiếu New York, tính toán chỉ số bình quân trị giá của các cổ phiếu ấy và đem công bố trên tờ Nhật báo phố Wall. Đó tức là nguồn gốc chỉ số Đao Giônx, cho đến nay đã tồn tại được hơn 100 năm rồi.<BR><BR>-------<BR><BR><B>Thế giới có bao nhiêu dân tộc?</B><BR><BR>Trung Quốc có 56 dân tộc. Có người cho rằng Trung Quốc có thể là quốc gia có nhiều dân tộc nhất thế giới, kỳ thực không phải như thế. Ở châu Á, nếu tính các quốc gia có hơn 50 dân tộc thì còn có Ấn Độ, Philippin, Indonesia. Nghe nói Indonesia có 150 dân tộc. Quốc gia có nhiều dân tộc nhất thế giới là Nijenia, có tới 250 dân tộc lớn nhỏ với hơn 80 triệu người, chiếm 1/8 tổng số dân tộc trên thế giới. <BR><BR>Nói tóm lại trên thế giới có bao nhiêu dân tộc? Theo những thống kê chưa đầy đủ, con số chừng 2000. <BR><BR>Số lượng nhân khẩu của các dân tộc trên thế giới khác nhau rất xa. Dân tộc lớn nhất lên tới nghìn triệu, dân tộc nhỏ nhất chỉ có vài chục người. Bảy dân tộc có tổng số nhân khẩu lên tới quá 100 triệu người là người Hán, người Inđuxtan, người Mỹ người Bănggan, người Nga, người Nhật, người Braxin, 60 dân tộc có nhân khẩu từ 10 triệu, 92 dân tộc có nhân khẩu từ mười vạn đến một triệu. Nhân khẩu các dân tộc khác không có đủ mười vạn. <BR><BR>Tổng số các dân tộc ở châu Á là trên một nghìn, đại khái chiếm nửa tổng dân số trên thế giới, châu Á là đại lục có nhiều dân tộc nhất trên thế giới, châu Âu ước tính có 170 dân tộc, khoảng 20 quốc gia cơ bản chỉ có một dân tộc.<BR><BR>-------<BR><BR><B>Dế có kêu bằng miệng không?</B><BR><BR>Buổi tối mùa thu, trong lùm cỏ, dưới góc tường thường phát ra tiếng tuýt tuýt của con dế. Điều thú vị là tiếng kêu này không phải được phát ra từ miệng của nó, mà thông qua sự ma sát lẫn nhau của đôi cánh của chúng. <BR><BR>Dế trưởng thành đều có hai đôi cánh. Cánh trước tương đối cứng, có tác dụng phát ra tiếng kêu và bảo vệ cơ thể chúng. Cánh sau mềm có tác dụng bay lượn. Cánh trước của dế đực thông thường có các loại gân cánh đan xen ngang dọc hoặc song song, giữa gân cánh hình thành cửa sổ cánh trong suốt. Một đường gân của hai cánh trước rất to, trở thành cơ quan phát âm của loài dế. Còn phía dưới gân ngang của cánh phải trước có một loạt mấu răng cưa nổi lên, hình thành âm răng. <BR><BR>Khi dế đực kêu, âm răng của cánh phải trước và gân ngang của cánh trái trước không ngừng cọ sát vào nhau, lôi kéo sự cộng hưởng của cửa sổ cánh trong suốt, làm phát ra âm thanh (giống như chiếc cung của đàn violon không ngừng ma sát vào dây đàn). Khi dế sống ở trong hang, khe gạch, kẽ đá, nhờ tác dụng phóng thanh của nơi ở, tiếng kêu sẽ càng vang hơn.<BR><BR>-------<BR><BR><B>Âm thanh trong phích nước từ đâu ra?</B><BR><BR>Ghé sát tai vào phích nước rỗng, bạn sẽ thấy âm thanh o o như là tiếng gió lùa. Phích kín như vậy thì gió ở đâu ra nhỉ. Thực tế, đây chỉ là hiện tượng cộng hưởng âm thanh bình thường, xảy ra với tất cả các dụng cụ chứa mà thôi. <BR><BR>Trước hết, ta hãy tìm hiểu hiện tượng cộng hưởng âm: <BR><BR>Sóng âm là sự thay đổi mật độ lúc đặc lúc loãng của không khí, được truyền đi từ nguồn âm tới mọi hướng với tốc độ nhất định. Số lần biến đổi loãng - đặc trong một giây gọi là tần số. Khoảng cách giữa hai phần đặc hoặc hai phần loãng kề nhau gọi là bước sóng. Tần số của âm thanh càng cao, hoặc là bước sóng càng ngắn thì âm thanh nghe được càng cao. <BR><BR>Nói chung, âm thanh là do vật dao động gây ra. Ví như khi đánh trống, do mặt trống dao động lên xuống nên phát ra âm thanh trong không khí. Những vật thể khác nhau khi dao động sẽ phát ra những âm thanh không cùng tần số. <BR><BR>Nếu hai vật thể phát ra âm thanh có cùng tần số và nằm ở gần nhau, thì khi để cho một vật phát âm, vật kia cũng có thể phát âm theo. Hiện tượng này gọi là cộng hưởng. <BR><BR>Điều thú vị là hầu như không khí (hay cột không khí) trong bất kì vật chứa nào cũng đều có thể cộng hưởng với các vật phát âm. Đưa một vật phát âm tới gần miệng một dụng cụ chứa, nếu tần số hoặc bước sóng của nguồn âm phù hợp với tần số hoặc bước sóng riêng của cột không khí, thì cột không khí sẽ cộng hưởng ngay (tức là nó dao động) và làm âm thanh lớn lên rất nhiều. <BR><BR>Theo các nhà nghiên cứu, chỉ cần bước sóng bằng bốn lần, hoặc ¾, 4/5 ... độ dài cột không khí, thì sau khi truyền vào dụng cụ chứa, nó sẽ gây ra cộng hưởng. Chiều cao bên trong của phích thường khoảng 30 cm. Từ đó có thể tính được rằng, khi những âm thanh có bước sóng là 120 cm, hoặc 40, 24 cm, .... truyền vào phích thì đều có thể gây ra cộng hưởng. <BR><BR>Xung quanh chung ta có đủ loại âm thanh to nhỏ. Chúng có thể đồng thời cộng hưởng với cột khong khí trong phích tạo thành tiếng o o mà khi ghé tai vào ta sẽ nghe thấy. Do cột không khí ngắn, nên bước sóng những âm thanh được cộng hưởng cũng ngắn. Vì vậy, những âm o o phát ra từ một chai nhỏ sẽ nhọn và sắc hơn từ phích phát ra. <BR><BR>Nếu bình chứa có chỗ hư hỏng khiến cho cột không khí không hoàn chỉnh thì âm thanh cộng hưởng cũng bị thay đổi. Chính vì thế mà người ta thường thông qua việc nghe các tiếng o o để kiểm tra xem phích nước có bị hỏng hay không.<BR><BR>-------<BR><BR><B>Tại sao không nên uống nước đun đi đun lại nhiều lần?</B><BR><BR>Đó là do trong nước thông thường có chứa các hàm lượng nhỏ nitrat và một số kim loại nặng như chì, cadimium... Sau khi nước đun nóng trong thời gian dài, do quá trình thuỷ phân không ngừng bốc hơi, nồng độ nitrat và các kim loại nặng trong nước sẽ tăng lên. Nước đun sôi có chứa nhiều nitrat khi uống vào trong cơ thể sẽ bị khử trở lại là muối nitric. Mà muối nitric sẽ làm hỏng công năng vận chuyển dưỡng khí trong máu, làm cho tim đập nhanh, hô hấp khó khăn, nặng hơn có thể ảnh hưởng, nguy hiểm đến tính mạng. Đồng thời, các kim loại có trong nước đó cũng có hại đối với sức khoẻ con người. <BR><BR>Không nên uống nước lã, cũng không nên uống nước nước đun lại nhiều lần, vậy uống nước tinh khiết hoặc nước cất liệu có vệ sinh không? Thực ra, trong nước bình thường có chứa các nguyên tố như canxi, magiê... đều là những nguyên tố mà cơ thể chúng ta cần, canxi chiếm khoảng 1,38% trọng lượng của cơ thể chúng ta, nó là thành phần chủ yếu cấu tạo nên xương và răng, ngoài ra nó còn có tác dụng duy trì sự co bóp của cơ tim và thúc đẩy quá trình đông máu... Magiê chiếm khoảng 0,04% trọng lượng cơ thể, trong đó 70% có trong xương, mỗi người một ngày cần khoảng 0,3 - 0,5 gram magiê. Hai loại nguyên tố này một phần được hấp thụ khi ta uống nước. Có thể thấy, chỉ uống nước tinh khiết và nước cất chưa chắc đã tốt nhất. <BR><BR>Như vậy, uống nước như thế nào là thích hợp? Khi đun nước, khi nước trong ấm đun bắt đầu sôi, như vậy nhiệt độ nước trong ấm đã đạt tới 100 độ C, các loại vi khuẩn trong nước đã bị tiêu diệt. Nếu như mùi clo trong nước máy hơi nặng có thể đun thêm 1 - 2 phút nữa. Nước được đun theo cách như vậy dùng để pha trà hay nấu cơm có thể coi là thích hợp.<BR><BR>-------<BR><BR><B>Hiệu ứng nhà kính là gì?</B><BR><BR>Mùa đông ở phía Bắc trời buốt giá, cây cỏ khô cằn. Nhưng trong nhà kính lại ấm áp như mùa xuân, khắp nơi cây cỏ xanh tươi cảnh sắc rất sinh động. Đây là nguyên nhân gì vậy? Thì ra kính có một đặc điểm đặc thù, nó có thể cho bức xạ Mặt trời chiếu vào trong phòng kính, lại có thể ngăn ngừa bức xạ nóng trong nhà kính lọt ra ngoài tạo ra bầu không khí trong nhà kính càng ngày càng ấm áp. <BR><BR>Trên thực tế, Trái đất ngày nay cũng đang trở thành "một nhà kính lớn". <BR><BR>Trong không khí bao quanh Trái đất ngoài khí Nitơ, Oxi còn có rất nhiều khí khác như Cacbonic, Mêtan, Clorua, Florua, hyđrocacbon, v.v... Những khí này có tác dụng tương tự như kính, nó có thể làm cho bức xạ sóng ngắn của Mặt trời chiếu qua. Như vậy ánh Mặt trời sẽ trực tiếp chiếu xuống mặt đất làm cho nhiệt độ Trái đất tăng cao. Đồng thời những khí này lại có thể hút bức xạ nóng toả ra từ mặt đất. Điều này nói lên năng lượng bức xạ vào thì dễ mà toả ra thì khó. Hiện tượng này rất giống hiện tượng trong nhà kính. Con người đã gọi hiện tượng này là hiệu ứng nhà kính, khí CO2 đóng vai trò chủ yếu, vai trò của các khí khác chỉ chiếm khoảng 1/8. <BR><BR>Hiệu ứng nhà kính dẫn đến nhiệt độ Trái đất tăng cao. Tring thời gian từ năm 1850 đến năm 1988, nồng độ Cacbonic trong không khí đã tăng 25%. Thập kỷ 80 của thế kỷ XX, nhiệt độ bình quân của Trái đất cao hơn 0,6 độ C so với thế kỷ trước. Nếu nhiệt độ Trái đất tiếp tục tăng cao như hiện nay thì hệ sinh thái của Trái đất sẽ mất thăng bằng và gây ra thiên tai.<BR><BR>-------<BR><BR><B>Vì sao vận động viên leo núi không được gào to?</B><BR><BR>Khi chinh phục các đỉnh núi thấp, bạn có thể hò reo hay thậm chí la ó, cái đó chẳng ảnh hưởng gì. Nhưng đối với những ngọn núi cao phủ tuyết, hãy coi chừng vì điều này cực kỳ nguy hiểm. Và nếu chịu khó quan sát, bạn sẽ thấy nói chung các vận động viên đều chỉ im lặng, cắm cúi leo lên... <BR><BR>Trên núi cao, quanh năm tuyết không ngừng rơi và phủ trắng đỉnh núi. Cứ sau mỗi lần tuyết rơi, tầng tuyết ở đây lại dày thêm một chút. Tầng tuyết càng dày, áp lực mà tầng dưới phải chịu càng lớn, tuyết ở tầng dưới do vậy bị nén chặt lại thành những tảng băng dạng tuyết. <BR><BR>Đồng thời tầng tuyết này cũng giống như một cái chăn phủ lên núi làm cho nhiệt lượng ở tầng đáy không thoát đi được, vì thế nhiệt độ ở tầng đáy thường cao hơn nhiệt độ ở tầng trên cùng từ 10 - 20 độ C. Do vậy, một phần băng tuyết ở tầng đáy đã biến thành nước. <BR><BR>Lớp nước này có tính chất như lớp dầu nhờn, và tầng tuyết dày trở thành "một đống sắt thép được bôi trơn" nằm nghiêng trên sườn núi, lúc nào cũng có thể trượt xuống. Nếu một tảng đá lớn lăn qua hoặc một loại chấn động từ đâu truyền tới, tầng tuyết này sẽ đùng đùng sụt lở toàn bộ xuống và vùi sâu tất cả các vật mà nó gặp trên đường. Hiện tượng này gọi là tuyết lở. <BR><BR>Khi người ta gào to sẽ phát ra âm thanh có nhiều loại tần số khác nhau, rồi thông qua không gian truyền tới tầng tuyết làm cho tầng tuyết bị chấn động. Nếu như có tần số nào đó của âm thanh gần bằng với tần số dao động riêng của tầng tuyết thì sẽ hình thành cộng hưởng, tầng tuyết có thể vì thế sẽ dao động dữ dội mà sụt lở xuống. Điều này rất nguy hiểm đối với các vận động viên leo núi. Vì vậy cấm gào thét to đã trở thành luật của các đội leo núi.<BR><BR>-------<BR><BR><B>Vì sao thỏ màu trắng có mắt đỏ?</B><BR><BR>Lông của loại thỏ nhà có nhiều màu sắc. Mắt của chúng cũng vậy, cũng sặc sỡ đủ kiểu và thường là giống với màu lông, như đỏ, xanh da trời, nâu chè, xám, đen,... Sở dĩ mắt loài thỏ có các loại màu như vậy là do trong cơ thể chúng chứa các loại sắc tố. Nhưng, thỏ trắng lại là một ngoại lệ. <BR><BR>Thỏ trắng có màu mắt đỏ rực. Vậy phải chăng cơ thể chúng chứa sắc tố màu đỏ? <BR><BR>Thì ra, giống thỏ trắng không có sắc tố, cho nên lông của nó có màu trắng. Ngay chính nhãn cầu của mắt thỏ cũng không có màu. Cái màu đỏ trong mắt thỏ mà ta nhìn thấy là màu máu trong nhãn cầu phản ánh ra ngoài, chứ không phải là màu sắc của nhãn cầu.
<EM>thay đổi nội dung bởi:<STRONG> DuyênBòMộng</STRONG>, 26-08-2010 lúc 06:29 AM. </EM>
DuyênBòMộng
Xem hồ sơ
Tìm bài viết của DuyênBòMộng
13-10-2008, 01:00 AM
#<STRONG>6</STRONG>
DuyênBòMộng
vbmenu_register("postmenu_4153202", true);
Bé còn quấn tã
<BR>
<BR>
Tham gia ngày: Jul 2008
Nơi Cư Ngụ: ...
Bài gởi: 7
Giới Tính: ...
Đô: 4,349
<B>Vì sao thềm miệng của ếch lúc phồng lúc bẹp?</B><BR><BR>Chú ý quan sát những động vật lưỡng cư này, bạn sẽ thấy ngay thềm miệng của nó phình ra co vào, giống như thể nó vừa chạy một đoạn đường rất dài rồi dừng lại để thở. <BR><BR>Miệng ếch tuy rất rộng, nhưng ngoài việc đớp mồi ra thì rất ít khi nó mở miệng. Lỗ mũi của ếch thông với xoang miệng. Khi ếch hít không khí từ mũi vào thì miệng nó mím chặt, thềm miệng hạ xuống, miệng phình to chứa đầy không khí. Sau khi khép lỗ mũi bằng van, thềm miệng của nó được nâng lên nhờ cơ gian hàm và cơ gian móng, đẩy khí qua khe họng vào phổi, cũng giống như khi ta bơm hơi vào quả bóng. Không khí vào phổi có chứa O2 (ôxy) sẽ tiến hành trao đổi với CO2 (cácboníc) trong máu trong vi huyết quản. Sau đó, sự co bóp của cơ bụng và sự đàn hồi của thành phổi (làm cho phổi mở rộng trở lại trạng thái ban đầu) sẽ đem lượng lớn khí CO2 trong phổi ép vào xoang miệng, rồi lại qua lỗ mũi. Như vậy, thềm miệng cứ không ngừng lúc phồng lúc bẹp, giống như lồng ngực của chúng ta lúc nâng lên lúc hạ xuống. <BR><BR>Ếch tuy giống người cũng thở bằng phổi, song phổi của ếch còn chưa phát triển, cấu tạo rất đơn giản, chỉ là một đôi túi khí có vách ngăn ở trong thành nhiều lỗ tổ ong. Lượng khí trao đổi ở đây cũng rất ít. Nếu ếch chỉ dựa vào lượng khí mà phổi có được thì không thể nào đáp ứng đủ cho nhu cầu của cuộc sống, nên nó phải bù đắp bằng sự hô hấp qua da. <BR><BR>Da của ếch thường tiết ra dịch dính, để duy trì trạng thái ẩm ướt giúp cho oxy trong không khí bên ngoài và cacbonic trong máu trong vi huyết quản ở da của ếch tiến hành trao đổi, nhằm bổ sung lượng hô hấp. Oxy mà ếch hô hấp qua da chiếm khoảng trên dưới 40% tổng lượng oxy hô hấp.<BR><BR>-------<BR><BR><B>Thuốc nổ được phát minh như thế nào?</B><BR><BR>Thuốc nổ đen là loại thuốc nổ mà con người sử dụng sớm nhất, nó được người Trung Quốc phát minh từ hơn 1000 năm trước. Tên của thuốc nổ đen có từ đâu ? Nếu căn cứ vào tên để suy nghĩ thì thuốc nổ đen có lẽ là một loại nguyên liệu thuốc màu đen có thể nổ phát ra lửa. Nhưng, thuốc nổ sao lại liên quan đến nguyên liệu thuốc. Điều này phải bắt đầu từ những nhận thức ban đầu của con người đối với thuốc nổ. <BR><BR>Trong thời kỳ cổ đại, ngay từ rất sớm con người đã lấy quặng nitratkali (diêm tiêu) và lưu huỳnh để làm những nguyên liệu thuốc quan trọng rồi. Ví dụ như trong "Thần nông bản thảo kinh" thời Hán quặng nitoratkali được liệt vào vị trí số sáu trong các loại thuốc thương phẩm, nghe nói nó có thể chữa được hơn 20 loại bệnh, lưu huỳnh được liệt vào vị trí số 3 trong số các loại thuốc trung phẩm, cũng có thể trị được hơn 10 loại bệnh. Hai loại nguyên liệu thuốc này chính là những loại nguyên liệu chính để chế tạo thuốc nổ đen. Theo khảo chứng thì loại thuốc nổ sớm nhất được ra đời từ tay một nhà luyện đơn. Ở thời cổ đại , để thoả mãn ham muốn trường thọ bất lão của mình, các bậc đế vương phong kiến đã chỉ định một nhóm thuật sĩ đốt lò để nghiên cứu và điều chế đơn dược. Các thuật sĩ luyện đơn đã tiến hành các thí nghiệm như phân li, hoà tan, chưng cất, thăng hoa, đốt... nhiều loại vật chất. Đây có lẽ là hình thức thí nghiệm hoá học sớm nhất mà con người đã làm. Thuật luyện đơn tuy bắt nguồn từ mơ ước của các bậc đế vương nhưng hoạt động thực tiến của nó lại có tác dụng thúc đẩy đối với sự phát triển của khoa học. Một số tác phẩm nổi tiếng của các nhà luyện đơn đựoc lưu truyền hậu thế đã thể hiện những nhận thức tạo nên vật chất của người xưa. Thuốc nổ đen chính là một trong những ví dụ điển hình. <BR><BR>Những nhà luyện đơn Trung Quốc đã tiếp xúc với các vật chất như quặng nitơratkali, lưu huỳnh và than gỗ từ rất sớm và nhận thức được rằng khi chúng trộn lẫn cọ xát hoặc va đập với nhau thì thường sẽ xảy ra cháy có tính nổ. Nhà luyện đơn thời Hán là Ngụy Bá Dương đã dùng lưu huỳnh để kiểm nghiệm quặng nitơratkali là thật hay giả. Qua cọ xát mạnh, nếu đúng là quặng nitơratkali thì gặp lưu huỳnh nó sẽ cháy rất nhanh. Nhà luyện đơn thời Nam Bắc triều Đào Hoằng Cảnh cũng chỉ ra chính xác rằng, quặng nitơratkali gặp than gỗ đỏ và nóng sẽ xảy ra cháy mang tính nổ. Trong những năm đầu của triều Đường trong cuốn sách "Đan kinh" nhà luyện đơn Tôn Tư Mạo đã viết về cách lấy ba thứ là quặng nitoratkali, lưu huỳnh và bột than trộn theo tỷ lệ nhất định thành thuốc nổ đen.Từ đó có thể thấy rằng, lúc đó mọi người đã nắm được đầy đủ về cách chế tạo và tính chất của thuốc nổ đen. <BR><BR>Trong những năm cuối triều Đường thuốc nổ đen bắt đầu được dùng vào lĩnh vực quân sự, thành phần và tỷ lệ thuốc nổ cũng chính xác hơn, quặng nitoratkali 75%, bột than 15%, lưu huỳnh 10%. Đến triều Tống, quy mô sản xuất thuốc nổ liên tục được mở rộng, đất nước còn thành lập các "công thành tác" (xưởng công binh) trong đó có xưởng chuyên sản xuất thuốc nổ đen - lò luyện thuốc nổ, quy mô từ mấy tấn đến mấy chục tấn một ngày. Năm thứ tư đời Bắc Tống (Năm 1040 Công nguyên) trong "võ kinh tổng yếu" do Tăng Công Lượng biên soạn đã viết về cái tên "thuốc nổ" và tỷ lệ điều chế có liên quan. Trong tỷ lệ điều chế, ngoài quặng nitoratkali, lưu huỳnh , than ra còn có thêm các vật dễ cháy như axit sunfuric, nhựa thông, sáp ong, sơn khô... <BR><BR>Khoảng đầu thời kỳ Nam Tống, việc chế tạo thuốc nổ đen được đưa vào trong dân gian . Khi ăn Tết người dân đã dùng thuốc nổ đen để chế tạo pháo và pháo hoa để đốt. Phong tục này còn được giữ cho đến ngày nay. <BR><BR>Thuốc nổ đen là một loại chất hỗn hợp: Quặng nitơratkali là chất oxy hoá sinh ra oxy kích thích cháy, lưu huỳnh và than là những chất có thể cháy, khi cháy kết hợp với oxy hoá sinh ra các thể khí như S02 , CO2. Nhiệt độ bốc cháy của lưu huỳnh thấp hơn than làm cho thuốc nổ dễ cháy hơn, đồng thời lưu huỳnh còn kiêm luôn vai trò làm chất kết dính nữa. Thuốc nổ đen khi cháy có thể sinh ra một lượng lớn nhiệt và khí lớn, làm cho không khí xung quanh dãn nở nhanh mạnh, đột ngột tạo ra hiện tượng nổ. <BR><BR>Thuốc nổ là một trong những phát minh lớn của Trung Quốc, sau đó truyền từ Trung Quốc qua ẤN Độ, rồi xâm nhập vào vùng Ả Rập, rồi lại từ Arập qua các nước như Tây Ban Nha để xâm nhập vào Châu Âu. Do đó Châu Âu xuất hiện thuốc nổ chậm hơn Trung Quốc vài trăm năm. Việc phát minh ra thuốc nổ không những chấm dứt thời kỳ chiến tranh lạnh về mặt quân sự mà còn phát huy được uy lực to lớn trong việc xây dựng các công trình và trong sản xuất công nghiệp. Do đó, thuốc nổ đen đựơc coi là mốc quan trọng trong lịch sử hoá học.<BR><BR>-------<BR><BR><B>Làm thế nào để xác định được niên đại của đồ gốm đã được khai quật?</B><BR><BR>Ở các nơi khai quật được đồ gốm thường có một ít mảnh gỗ bị than hóa hoặc một ít tro than gỗ. Ngoài ra trong các ngôi mộ xây bằng vỏ sò thường có vỏ sò, khi khai quật đồ gốm đồng thời cũng khai quật được một số xương động vật. Các nhà khảo cổ có kinh nghiệm không chỉ đo và phát hiện lượng cacbon trong tro và các mảnh gỗ có trong phần mộ mà còn đo hàm lượng các bon ở dạng hợp chất canxi cácbon trong xương động vật và vỏ sò. <BR><BR>Trong hàm lượng cácbon có các nguyên tử các bon có nguyên tử lượng khác nhau (các đồng vị các bon 12, 13, 14). Nguyên tử cacbon có khối lượng nguyên tử bằng 14 được gọi là đồng vị phóng xạ C14 . Các bon phóng xạ trải qua thời gian sẽ dần dần biến thành nguyên tử nitơ. Thời gian để lượng nguyên tử các bon C14 còn một nửa lượng ban đầu là 5730+40 năm (còn gọi là chu kỳ bán rã hay chu kỳ tán huỷ). Do vậy chỉ cần đo tính phóng xạ của C14 có trong gỗ, trong vỏ sò khai quật được, người ta có thể biết được niên đại cụ thể của chúng. <BR><BR>Ví dụ ở Nhật Bản , đồ gốm đào được ở huyện Catagawa có niên đại sớm nhất 9450+40 năm về trước, trước đây, người ta cho rằng dư chỉ ở huyện Shiba có niên đại 5100+40 năm nhưng tính theo phương pháp đo cacbon phóng xa niên đại của dư chỉ này là khoảng 1950 năm.<BR><BR>-------<BR><BR><B>Tại sao mặt tiền các kiến trúc cổ Trung Quốc thường có một đôi sư tử đá?</B><BR><BR>Trong số các di vật văn hoá thời cổ đại khai quật được ở Trung Quốc, dù là ngọc, đồ gốm, đồ đất nung, đồ đồng thau, hay các bức vẽ, các bức điêu khắc trên đá, chúng ta thấy các động vật được thể hiện chỉ có hổ, dê, chim, cá, bò, lợn, hạc, hươu... Tất nhiên còn có rồng là con vật do con người tưởng tượng ra, nhưng hình như không có di vật nào có hình sư tử. <BR><BR>Nguyên nhân của việc này rất đơn giản. Trung Quốc thời cổ không có sư tử, người ta chưa biết đến sư tử, vì thế không thể khắc hoạ hình sư tử trong các tác phẩm nghệ thuật. <BR><BR>Quê hương của loài sư tử là những vùng nhiệt đới ở châu Phi, ẤN ĐỘ... Sư tử Trung Quốc chỉ có từ khi Hán Vũ Đế sai Trương Khiên đi sứ Tây Vực, được vua Tây Vực tặng như một lễ vật quý báu để đưa về Trung Quốc. <BR><BR>Khoảng năm 125 sau Công nguyên, hoàng đế thứ bảy của nhà Đông Hán là Thuận Đế Lưu Bảo lên ngôi. Quốc vương Sơ Lặc đất Tây Vực sai sử đem tới Lạc Dương tặng Thuận Đế một cặp sư tử. Vị hoàng đế trẻ tuổi này rất thích nên đã di chiếu lại rằng: sau khi trẫm băng hà, các khanh hãy dùng cặp sư tử này để canh lăng mộ cho trẫm. Khi Thuận Đế Lưu Bảo qua đời, vì không có sư tử thật nên người ta phải nghĩ cách tạc sư tử đá đặt ở trước lăng. Về sau, các quan lớn quyền quý cũng bắt chước tạc sư tử đá để canh lăng mộ cho người chết. <BR><BR>Tượng sư tử đá có thể uy nghiêm, mạnh mẽ và đầy sức sống, đặc biệt khi được tạc ở tư thế quỳ, hai chân trước đuổi, hai chân sau gập, ngực ưỡn, bụng thót, bờm rủ, khắp mình bắp thịt nổi cuồn cuộn - tất cả tập trung thể hiện vẻ dũng mãnh và sức mạnh của con sư tử. Hình tượng này cũng biểu hiện một cách khái quát thế giới nội tâm và sự tìm kiếm về tinh thần của người thợ tạc hình sư tử. <BR><BR>Những người thợ khéo tay và thông minh thời cổ Trung Quốc, trong những trường hợp khác nhau đã tạo ra những con sư tử đá với rất nhiều tư thế. Về sau chức năng của sư tử đá từ chỗ bảo vệ người chết ở trước các lăng mộ đã chuyển thành khả năng xua đuổi tà ma, tiêu trừ tai hoạ. Vì thế sư tử lại còn được đặt trước các công trình kiến trúc tôn giáo như chùa chiền, miếu mạo... Ngoài ra chúng còn xuất hiện như những hình tượng nghệ thuật trang trí thể hiện sự tốt lành, sinh động trên các công trình kiến trúc như: cầu, từ đường, cung điện... trong đó nổi tiếng nhất là có đôi sư tử đá trước Thiên An Môn Bắc Kinh. Thủ pháp điêu khắc của cặp sư tử đá này theo lối tả thực tương đối, hình tượng tinh vi, uy nghiêm hùng tráng được nhiều người ưa thích.<BR><BR>-------<BR><BR><B>Người nhảy dù rơi như thế nào?</B><BR><BR>Nhiều người thường nghĩ rằng,khi "rơi như hòn đá" mà không mở dù, thì người sẽ bay xuống dưới với vận tốc tăng lên mãi, và thời gian của cú nhảy đường dài sẽ ngắn hơn nhiều. Song, thực tế thì không phải như vậy. <BR><BR>Sức cản của không khí đã không cho vận tốc tăng mãi lên. Vận tốc của người nhảy dù chỉ tăng lên trong vòng 10 giây đầu tiên, trên quãng đường mấy trăm mét đầu tiên. Sức cản không khí tăng khi vận tốc tăng, mà lại tăng nhanh đến nỗi chẳng mấy chốc vận tốc đã không thể tăng hơn được nữa. Chuyển động nhanh dần trở thành chuyển động đều. <BR><BR>Tính toán cho thấy, sự rơi nhanh dần của người nhảy dù (khi không mở dù) chỉ kéo dài trong 12 giây đầu tiên hay ít hơn một chút, tuỳ theo trọng lượng của họ. Trong khoảng 10 giây đó, họ rơi được chừng 400 -500 mét và đạt được vận tốc khoảng 50 mét/ giây. Và vận tốc này duy trì cho tới khi dù được mở. <BR><BR>Những giọt nước mưa cũng rơi tương tự như thế. Chỉ có khác là thời kỳ rơi đầu tiên của giọt nước mưa (tức là thời kỳ vận tốc còn tăng) kéo dài chừng một phút, thậm chí ít hơn nữa.<BR><BR>-------<BR><BR><B>Tại sao trong không trung lại có hiện tượng bị mất trọng lực?</B><BR><BR>Vạn vật trên Trái đất đều chịu sức hút của Trái đất, và được gọi là trọng lực. Độ lớn của trọng lực giảm dần cùng với sự tăng lên của độ cao. Các tàu vũ trụ trong lúc bay xung quanh Trái đất hoặc trên quỹ đạo giữ các hành tinh , chúng thường cách xa quả đất và tinh cầu khác, tự nhiên sẽ ở vào trạng thái mất trọng lực, đây chính là hiện tượng mất trọng lực. Đương nhiên, mất trọng lực không phải là tuyện đối ko có trọng lực, chỉ có điều là trọng lực rất ít, cho nên mất trọng lực còn thường được gọi là trọng lực yếu. <BR><BR>Hiện tượng mất trọng lực chính là một đặc tính vô cùng quan trọng của môi trường trong vũ trụ. <BR><BR>Trong trạng thái mất trọng lực, cơ thể con người và các vật thể khác sẽ có thể bay lên dù chỉ cần chịu tác động của một lực rất nhỏ. Lợi dụng hiện tượng này, người ta có thể tiến hành gia công một số nguyên liệu và nghiên cứu khoa học mà khó lòng có thể thực hiện được trên mặt đất, ví dụ như sản xuất silíc đơn tinh thể độ thuần cao, chế tạo hợp kim siêu dẫn và kim loại siêu thuần, và chết tạo các dược phẩm sinh vật đặc biệt v.v... <BR><BR>Mất trọng lực cũng mang lại những điều kiện thuận lợi cho việc lắp ráp kết cấu hàng không to lớn (như trạm không gian, trạm điện dùng năng lượng Mặt trời trong vũ trụ) trong vũ trụ. <BR><BR>Đương nhiên, mất trọng lượng cũng có những tác hại nhất định đối với con người, chủ yếu là các nhà du hành vũ trụ thường mắc bệnh vận động vũ trụ. Đặc trưng điển hình của bệnh này là sắc mặt nhợt nhạt, ra mồ hôi lạnh, đau bụng buồn nôn, còn có lúc nước bọt tiết ra nhiều hơn bình thường, phần bụng phía trên khó chịu, thèm ngủ, đau đầu, mất cảm giác ngon miệng, có ảo giác bồng bềnh. Bị mất trọng lực trong thời gian dài còn có thể dẫn đến bệnh loãng xương và bắp thịt teo lại. Để phòng trừ và giảm thiểu bệnh vận động vũ trụ, đầu tiên phải đẩy mạnh việc luyện tập của các phi công trên mặt đất, tăng cường thể chất; Ngoài ra phải coi trọng việc luyện tập thể dục trong vũ trụ , khi chúng ta được xem các cảnh quay thực tế về hoạt động ở trong không trung, thường thường có thể thấy, các nhà phi hành vũ trụ đang luyện tập cơ thể trên máy vận động.<BR><BR>-------<BR><BR><B>Tại sao tàu ngầm có thể lặn xuống, nổi lên?</B><BR><BR>Những con tàu bình thường chỉ có thể lướt trên mặt biển. Nhưng tàu ngầm vừa có thể đi trên mặt nước lại vừa có thể lặn sâu xuống biển đi ngầm dưới nước. Ảo thuật gì ở đây vậy? Bí mật nằm trong hai lớp vỏ của nó. <BR><BR>Bất kỳ vật thể nào ở trong nước, ngoài việc phải chịu tác dụng theo hướng thẳng đứng xuống dưới, còn phải chịu lực nâng lên của nước. Lực nâng đó chính là sức đẩy. Khi sức đẩy lớn hơn trọng lực, vật thể sẽ nổi lên mặt nước, khi sức đẩy nhỏ hơn trọng lực, vật thể chìm xuống. Khi lực đẩy bằng hoặc chênh lệch rất ít so với trọng lực, vật thể sẽ lơ lửng ở bất kỳ vị trí nào trong nước. Như vậy, nếu điều chỉnh được độ chênh lệch giữa trọng lực và sức đẩy của tàu ngầm, ta có thể điều khiển nó chìm xuống hay nổi lên dễ dàng. <BR><BR>Nhưng thân tàu ngầm là cố định ko thay đổi, nên sức đẩy mà nó chịu trong nước là không thay đổi. Vì vậy, muốn điều chỉnh độ chênh lệch này, chỉ có thể thay đổi trọng lượng bản thân tàu ngầm. <BR><BR>"Bí mật" trong hai lớp vỏ <BR><BR>Thân tàu ngầm được thiết kế gồm hai lớp vỏ trong và ngoài. Trong khoảng không giữa hai lớp vỏ này chia thành một số khoang nước. Mỗi khoang nước đều lắp van dẫn nước vào và van xả nước ra. <BR><BR>Tàu ngầm đang nổi trên mặt nước, muốn lặn xuống chỉ cần mở van dẫn nước để nước biển nhanh chóng tràn đầy vào các khoang, lúc đó trọng lượng tàu ngầm sẽ tăng lên. Và khi trọng lượng vượt quá sức đẩy thì tàu sẽ chìm. <BR><BR>Tàu ngầm đang lặn dưới nước, khi muốn nổi lên thì chỉ cần dùng van dẫn nước vào rồi sau đó dùng không khí nén có áp lực cực lớn phun nước ở trong các khoang chứa nước qua van xả chảy ra ngoài, lúc đó trọng lượng giảm, sức đẩy của tàu ngầm lớn hơn trọng lực nên tàu nổi lên khỏi mặt nước. <BR><BR>Nếu tàu ngầm muốn chạy trong khoảng nước giữa mặt biển và đáy biển thì có thể cho nước vào một phần khoang chứa nước hoặc xả một phần nước ở khoang chứa ra nhằm điều tiết trọng lượng tàu ngầm, khiến cho trọng lượng bằng hoặc lớn hơn sức đẩy một chút, lúc đó tàu ngầm có thể đi trong khu vực nước độ nông sâu khác nhau.<BR><BR>-------<BR><BR><B>Với nhiệt độ cao bao nhiêu thì gây bỏng?</B><BR><BR>Mọi người đều biết, bỏng chỉ là loại vết thương cục bộ trên cơ thể con người do nhiệt độ gây ra. Có nhiều loại vết bỏng, mức độ của các vết thương cũng không giống nhau. Có ba loại nguyên nhân gây ra bỏng: một là vết bỏng do các chất khí bốc cháy gây ra; hai là vết bỏng do lửa than cháy; ba là vết bỏng do nước sôi hoặc một chất lỏng nóng nào đó gây nên. <BR><BR>Trong sinh hoạt hàng ngày người ta hay gặp vết bỏng do nước sôi gây nên. Cũng là bị thương do bỏng, nhưng có nhữngvết bỏng khi lành thì không để lại dấu vế, nhưng cũng có loại vết bỏng khi lành lại để lại dấu vết. Điều đó phụ thuộc vào nhiệt độ của nước và cách chữa chạy sau khi bị bỏng. <BR><BR>Với nhiệt độ nước nhỏ hơn 60 độ C sau khi bị nhiễm da chỉ hơi bị đỏ mà không gây nên vết phồng. Bị bỏng với nước sôi đến 110 độ C, chỗ vết thương giống như thịt khi bị đốt. Khi bỏng ở nhiệt độ cao hơn 120 độ C thì chỗ bị bỏng sẽ bị vết cháy đen. Nói chung, khi bị phồng da hoặc khi bị bỏng nặng sẽ có thể để lại những vết sẹo trên da. Vì vậy, các bạn phải hết sức cẩn thận với nước sôi hoặc các loại dầu mỡ khi đang nấu ở bếp.<BR><BR>-------<BR><BR><B>Mắt thú ăn thịt khác mắt thú ăn cỏ như thế nào?</B><BR><BR>Nếu để ý, bạn sẽ nhận thấy một hiện tượng rất thú vị. Với các loài thú ăn thịt như sư tử, hổ, báo, chó sói..., mắt của chúng đều nằm phía trước phần mặt, còn vị trí mắt của các loài thú ăn cỏ như trâu, ngựa, dê... lại ở hai bên. <BR><BR>Đây có phải là sự trung hợp ngẫu nhiên? Không phải, điều này có liên quan mật thiết với phương thức sinh sống của chúng. <BR><BR>Các loài ăn thịt trong tự nhiên đều là những kẻ tấn công chủ động, và tích cực. Một khi đã phát hiện thấy con mồi, chúng sẽ nhanh chóng truy đuổi. Trong quá trình này, chúng không những cần cơ đùi khoẻ, một cái miệng rộng với hàm răng sắc nhọn, mà còn phải dùng đến đôi mắt để quan sát chăm chú mục tiêu, ước lượng chính xác khoảng cách. Chính vì thế, mắt ở phía trước mặt sẽ tạo thuận lợi cho quá trình săn đuổi này. <BR><BR>Các loài động vật ăn cỏ lại không giống như vậy. Số phận của chúng là dễ trở thành mồi ngon cho các loài ăn thịt bất cứ lúc nào. Vì thế, mắt hai bên sẽ tạo ra tầm nhìn rộng rãi (có con tầm nhìn tới 360 độ), giúp chúng nhanh chóng phát hiện ra kẻ địch và chạy trốn. <BR><BR>Vượn và khỉ tuy không hung dữ như các loài thú ăn thịt, nhưng cũng có mắt mọc ở chính trước mặt. Đó là vì cấu trúc này có lợi cho chúng trong việc xác định khoảng cách giữa các cành cây. Từ đó, chúng có thể nhanh chóng lẩn tránh kẻ thù. <BR><BR>Gấu trúc tuy ăn lá tre, trúc nhưng lại có đôi mắt mọc ở phía trước. Đặc điểm này là do chúng thừa kế được từ tổ tiên - những động vật chuyên ăn thịt.<BR><BR>-------<BR><BR><B>Vì sao băng ở Nam Cực nhiều hơn ở Bắc Cực?</B><BR><BR>Nam cực và Bắc cực đều là hai mỏm tận cùng của Trái đất, ở cùng một vĩ độ giống nhau, thời gian chiếu và góc độ chiếu của Mặt trời cũng giống nhau, vậy mà chúng lại khác nhau đến kỳ lạ. Nếu như lớp áo băng Nam cực dầy trung bình khoảng 1.700 mét, thì ở cực Bắc, lớp vỏ lạnh giá này chỉ dày từ 2 đến 4 mét mà thôi. <BR><BR>Vốn là vùng Nam cực có một màng lục địa rất lớn gọi là "đại lục thứ bảy" của thế giới, có diện tích khoảng 14 triệu km2. Năng lượng giữ nhiệt của lục địa rất kém, vì thế , nhiệt lượng thu được trong mùa hè bức xạ hết rất nhanh khiến băng tích lại nhiều. Sông băng trên lục địa từ trên cao di động xuống bốn phía bị vỡ thành nhiều tảng băng rất lớn ở trên bờ biển, trôi nổi trên đại dương bao quanh lục địa, tạo nên những vật cản là những núi băng cao lớn. <BR><BR>Ngược lại, Bắc băng dương ở vùng Bắc cực có diện tích rất lớn khoảng 13,1 triệu km2, nhưng chỉ toàn là nước. Nhiệt dung của nước lớn, có thể hấp thụ tương đối nhiều nhiệt lượng nhưng rồi từ từ toả ra, nên băng ở đây ít hơn ở Nam cực. Hơn nữa, tuyệt đại bộ phận băng lại tích tụ ở trên đảo Greenland. <BR><BR>Người ta đã tính được rằng diện tích băng che phủ trên toàn Trái đất là khoảng gần 16 triệu km2, mà Nam cực chiếm tới 4/5. Tổng thể tích băng ở Nam cực ước khoảng 26 triệu km3, còn ở Bắc cực chỉ bằng gần 1/10 mà thôi. Nếu toàn bộ băng ở Nam cực tan hết thì mực nước biển trên thế giới sẽ dâng cao khoảng 70 mét.
<EM>thay đổi nội dung bởi:<STRONG> DuyênBòMộng</STRONG>, 26-08-2010 lúc 06:30 AM. </EM>
DuyênBòMộng
Xem hồ sơ
Tìm bài viết của DuyênBòMộng
13-10-2008, 01:06 AM
#<STRONG>7</STRONG>
DuyênBòMộng
vbmenu_register("postmenu_4153214", true);
Bé còn quấn tã
<BR>
<BR>
Tham gia ngày: Jul 2008
Nơi Cư Ngụ: ...
Bài gởi: 7
Giới Tính: ...
Đô: 4,349
<B>Tại sao khi uống rượu người ta thích chạm cốc?</B><BR><BR>Trong các bữa tiệc, yến hội người ta đều thích chạm cốc uống rượu để tăng thêm không khí vui mừng, long trọng, nhưng chúng ta có biết nghi thức của tập quán này bắt nguồn từ đâu? <BR><BR>Có người cho rằng tập quán chạm cốc uống rượu bắt đầu có từ thời La Mã cổ đại. Khi đó để coi trọng sức mạnh, người ta thường tổ chức những cuộc đấu võ. Trước khi vào cuộc các đấu sỹ thường uống rượu để tỏ lòng tôn trọng và khích lệ lẫn nhau. Nhưng để đề phòng những kẻ có lòng dạ bất chính cho thuốc độc vào rượu của đối phương, người ta nghĩ ra cách là trước khi vào đấu, hai đấu sĩ đều đổ ít rượu trong cốc của mình vào cốc của đối phương, để cho thấy rằng trong việc uống rượu không có sự gian trá. Trong khi thực hiện động tác này, hai chén rượu tất nhien phải chạm vào nhau. Về sau nghi thức này dần dần trở thành một nghi lễ trong các bữa tiệc. <BR><BR>Có quan điểm cho rằng tập quán chạm cốc khi uống rượu có từ thời đại cổ Hy Lạp. Người Hy Lạp thời cổ đại vốn rất thích uống rượu. Người ta nghĩ rằng trong khi uống rượu sẽ có rất nhiều bộ phận trong cơ thể con người có thể cùng tham gia hưởng thụ hoạt động thú vị này. Mũi thì được ngửi mùi thơm của rượu, mắt thì được ngắm màu sắc của rượu, lưỡi có thể thưởng thức vị ngon của rượu. Nhưng chỉ hai tai là không được thưởng thức gì cả. <BR><BR>Vậy cho nên người ta đã bổ sung được sự thiếu sót này bằng cách: trước khi uống rượu ta cho cốc chạm vào nhau, như thế tai sẽ được nghe thấy tiếng những cốc rượu vang lên khi chạm vào nhau và cũng được hưởng cái lạc thú khi uống rượu. Sau đó việc chạm cốc khi uống rượu đã trở thành phong tục tập quán.<BR><BR>-------<BR><BR><B>Người ta đã bắt đầu dùng vết ngón tay để phá án từ bao giờ?</B><BR><BR>Mùa hè năm 1892, tại một thị trấn nhỏ tên là Naykhơchia ở Ackhanghen đã xảy ra một vụ giết người cực kỳ tàn ác. Một người đàn bà không có chồng tên là Phranxixca đến báo cảnh sát rằng hai đứa con của chị ta, đứa trai sáu tuổi và đứa gái bốn tuổi, đã bị kẻ nào đó dùng đá đập vỡ đầu chết trong nhà. <BR><BR>Theo lời khai của Phranxixca, có một người đàn ông trong thị trấn tên là Velaxke có lần đã hỏi cưới chị nhưng bị chị cự tuyệt. Người đàn ông này đã doạ giết hai đứa con của chị. Vào hôm xảy ra án mạng, khi đi về nhà Phranxixca thấy Velaxke đang vội vã đi từ trong nhà mình ra. <BR><BR>Velaxke lập tức bị cảnh sát bắt giữ. Nhưng anh ta dứt khoát không thừa nhận đã phạm tội và còn có bằng chứng đáng tin cậy xác nhận rằng lúc sự việc xảy ra đã không có mặt ở hiện trường. <BR><BR>Viên cảnh sát trưởng đồn Lapulatha tên là Acphalayx cùng một cảnh sát viên khác tên là Aochitixi xem xét lại hiện trường. Họ kiểm tra căn phòng xảy ra án mạng, nhưng không tìm thấy một đầu mối nào cả. Chính lúc hai người thất vọng định ra về thì cảnh sát trưởng nhìn trong dải ánh nắng chiếu trên khung cửa phòng có vết máu màu nâu in hình một ngón tay. <BR><BR>Khi đó Acphalayx và Aochitixi đang cùng tìm hiểu sự khác nhau của các vết ngón tay của người. Họ cưa lấy miếng gỗ in dấu ngón tay bằng máu mang về. Qua nghiên cứu, họ phát hiện thấy đây là một vết ngón tay của con người. Cảnh sát trưởng đã lấy vết ngón tay của nghi phạm là Velaxke để so sánh, nhưng không đúng. Sau đó, ông ta lại gọi Phranxixca để kiểm tra, thì xảy ra một điều hết sức không ngờ là vết ngón tay của Phranxixca lại hoàn toàn khớp với vết ngón tay tìm thấy ở vết máu đọng trên khung cửa. <BR><BR>Phranxixca hết sức hoảng sợ đành thừa nhận do muốn kết hôn với người tình, mà người tình lại thấy hai đứa trẻ này đáng ghét, nên đã xảy ra ác tâm tự tay giết hai đứa con chính mình đẻ ra. <BR><BR>Vụ án này đã cổ vũ Aochitixi, ông đã đem các kết quả nghiên cứu của mình viết luôn thành một cuốn sách "Môn học nghiên cứu các vết ngón tay" để xuất bản. Còn cảnh sát Ackhanghen cũng bắt đầu chính thức dùng vết ngón tay để giám định và phân biệt nhân thân nhằm mục đích phá các vụ án. <BR><BR>Về sau những phương pháp này được cảnh sát khắp nơi trên thế giới áp dụng một cách phổ biến để phá các vụ án. Ngành nghiên cứu dấu vân tay phát triển hơn, người ta nhận thấy dấu vân tay của mọi người không giống nhau. <BR><BR>Hiện nay cảnh sát nhiều quốc gia đã lưu trữ vân tay của một số tội phạm trong mạng điện tử. Khi điều tra phá án, chỉ cần đem những vết ngón tay lấy được trên hiện trường so sánh với các vết ngón tay lưu trữ từ trước, thì có thể xác định được có phải là kẻ có tội nào đã tái phạm hay không?<BR><BR>-------<BR><BR><B>Ông già Noel trong truyền thuyết là ai?</B><BR><BR>Ngày 25 tháng Mười Hai mỗi năm là ngày lễ Noel. Hôm ấy ông già Noel sẽ tặng quà cho các cháu nhỏ, đó là sự việc thích thú nhất đối với các cháu nhỏ trong lễ Noel. <BR><BR>Ông già Noel trong truyền thuyết là một ông già có dáng vẻ rất nhân từ phúc hậu. Chiếc mũ đỏ, bộ râu dài trắng như tuyết, trên mình mặc một chiếc áo khoác có cổ lông màu trắng, lưng thắt chiếc dây lưng bằng da đen, chân đi đôi ủng. Hàng năm, cứ đến đêm trước Noel, ông già Noel đi trên một chiếc xe trượt tuyết có các chú hươu kéo từ phương Bắc tới, rồi vào từng nhà qua các ống khói để đem quà Noel bỏ vào trong bít tất của các cháu nhỏ. <BR><BR>Người ta cho rằng ông già Noel là hoá thân của thánh Nicola ở thành Mila, Thổ Nhĩ Kỳ. <BR><BR>Khi còn trẻ, thánh Nicola đã dùng những món tiền lớn được bố mẹ để lại mang đi giúp đỡ người nghèo khổ. Ở quê ông có một cụ già có ba cô con gái, vì gia cảnh bần hàn không có tiền làm lễ cưới, cho nên cả ba cô đều không thể đi lấy chồng được. Sau khi biết chuyện này, thánh Nicola lén tới nhà cụ già, leo lên mái nhà, tới ống khói và ném một túi tiền vàng nhỏ xuống, túi tiền rơi ngay vào chiếc bít tất dài mà các cô gái treo trên vách bếp lò. Sau khi có được tiền, ba cô gái đã có thể lấy chồng và có cuộc sống hạnh phúc. <BR><BR>Câu chuyện này đã được lưu truyền và về sau cứ đến lễ Noel, trước khi đi ngủ các cháu nhỏ không quên đặt bít tất của mình bên cạnh giường để cụ già Noel bỏ quà vào đó cho mình.<BR><BR>-------<BR><BR><B>Tại sao Australia có tám thủ tướng?</B><BR><BR>Australia nằm ở nam bán cầu, là một lục địa rộng lớn giữa Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Mãi đến thế kỷ XVIII, nơi này mới được các nhà thám hiểm châu Âu phát hiện, vì thế cho nên đã có nhiều dân di cư từ các nước châu Âu liên tục kéo đến lục địa này. <BR><BR>Vì lục điạ này có diện tích hết sức rộng lớn, dân di cư đã tập trung vào một số điạ phương để khai phá. Họ phát triển nông nghiệp, mở hầm mỏ, mở mang buôn bán, rồi dần dần hình thành các khu vực hành chính gọi là bang. <BR><BR>Lúc đầu các bang tồn tại độc lập, không có liên quan với nhau và đều có chính phủ riêng. Nhưng về sau, thực dân Anh tuyên bố nắm chủ quyền Australia, đưa quân đội đến cai trị sở tại, bắt nộp thuế và giở đủ trò áp bức. <BR><BR>Một thời gian dài dân chúng không còn chịu đựng được nữa, vì thế các bang quyết định liên hợp lại để đối phó với thực dân Anh và đi đến thành lập một chính phủ trung ương thống nhất. <BR><BR>Nhưng người Australia lo ngại rằng chính phủ liên hiệp trung ương này có quyền lực quá lớn, có thể hạn chế quyền độc lập của các bang, gây tổn hại cho lợi ích của họ. Vì thế họ lại đặt ra một số quy định rằng chính phủ trung ương thống nhất chỉ quản những việc lớn của toàn cõi Australia, chẳng hạn như tổ chức quân đội chống ngoại xâm, xây dựng đường sắt và với các công việc ngoại giao... còn chính phủ bang vẫn tồn tại độc lập, sản xuất nông nghiệp và buôn bán hàng hoá, mở trường quản lý giáo dục và quản lý y tế tại địa phương. Chính phủ bang được dân trong bang bầu qua tuyển cử. Việc xây dựng chính quyền trung ương phải thông qua ý kiến của chính phủ và dân các bang. <BR><BR>Do vậy, Australia có bảy bang, mỗi bang có một chính phủ và thủ tướng riêng của mình, cộng thêm một thủ tướng trung ương nên toàn quốc có tám thủ tướng. Đó gọi là thể chế liên bang. Trên thế giới hiện nay có nhiều quốc gia theo thể chế liên bang như Mỹ, Brazil, New Zealand, Canada...<BR><BR>-------<BR><BR><B>Tại sao xe tăng có thể xông vào hàng rào điện cao thế?</B><BR><BR>Lưới điện cao thế là công sự phòng ngự mặt đất rất hữu hiệu, chặn đứng đòn tiến công của bộ binh. Nhưng xe tăng - khối thép đồ sộ, vật dẫn điện rất tốt - lại có thể ung dung húc đổ, dứt tung và lướt qua mạng hàng rào cao thế, mở đường cho bộ binh tiến vào. Xe tăng có gì đặc biệt vậy? <BR><BR>Thực ra, "bản lĩnh" khác thường của xe tăng quyết định bởi đặc tính điện học của vật dẫn. Vỏ và xích xe tăng đều chế tạo bằng thép, hai dải xích vừa rộng vừa dài trờ thành điểm tiếp đất rất tốt, như vậy thân xe tăng trở thành khối vật liệu dẫn điện rỗng ruột. Theo nguyên lý, "lồng kim loại" tĩnh điện trong vật lý học, thì với một vật thể dẫn điện dạng rỗng có tiếp đất, điện trường bên ngoài sẽ không gây ảnh hưởng đối với các vật thể trong khoang. Bởi vậy, khi xe tăng tiếp cận hàng rào điện cao thế, vỏ thép của xe tăng sẽ phát huy tác dụng "lồng kim loại" rất tốt, làm cho điện trường trong khoang xe giảm thiểu. Điện trường này yếu tới mức cơ thể người có thể chịu đựng được, vì vậy mà pháo thủ vẫn bình yên. <BR><BR>Khi xe tăng xô vào hàng rào điện cao thế, bởi điện trở của bản thân xe tăng rất nhỏ, dòng điện cực mạnh truyền qua vỏ xe tăng, tạo nên những tia lửa điện chói mắt, nhưng dòng điện này nhanh chóng truyền qua dải xích xe tăng chạy tuột xuống đất. Còn điện trở của cơ thể người nếu so với điện trở của xe tăng thì lớn hơn nhiều, nên dòng điện chạy qua cơ thể người ngồi bên trong là rất nhỏ. Cường độ dòng điện này yếu đến mức cơ thể người không cảm thấy điều gì. <BR><BR>Điều này tương tự như hai mạch điện đấu song song (thân xe tăng và thân người) mà một mạch trong đó (thân xe tăng) bị đoản mạnh, có dòng điện chạy qua khá lớn, còn mạch kia (cơ thể người) có trị số dòng điện chạy qua là rất nhỏ. <BR><BR>Tuy nhiên, nếu xe thiết giáp bánh hơi chở quân mà bắt chước xe tăng bánh xích lao vào hàng rào điện cao thế thì... nguy to!<BR><BR>-------<BR><BR><B>Tại sao trong lễ sinh nhật người ta phải thổi tắt nến?</B><BR><BR>Đến ngày sinh nhật của mình, các bạn nhỏ bao giờ cũng thích ngồi quây quần với bố mẹ, họ hàng và bạn bè, rồi thổi tắt một số lượng nến bằng số tuổi của mình cắm trên chiếc bánh gatô, đồng thời hát bài hát mừng sinh nhật hạnh phúc. Cuối cùng chiếc bánh được cắt ra và chia cho mọi người. <BR><BR>Tập tục này đã nảy sinh sớm nhất ở nước Hy Lạp xưa. Trong thời cổ Hy Lạp, người ta rất sùng bái nữ thần Mặt trăng là Actemix và mỗi năm đều phải kỷ niệm ngày sinh của bà. Những ngày đó, trên bàn thờ người ta thường bày một cái bánh làm từ trứng, bột mỳ và mật ong. Trên mặt bánh có cắm rất nhiều nến đốt sáng và người ta cho rằng ánh sáng của các ngọn nến này tượng trưng cho ánh sáng lung linh của Mặt trăng và như vậy người ta sẽ bày tỏ được lòng sùng kính của mình với đối với vị nữ thần Mặt trăng. <BR><BR>Về sau mỗi khi làm lễ sinh nhật cho con mình người Hy Lạp cổ cũng thích bày trên bàn một chiếc bánh gatô và trên chiếc bánh ấy người ta cũng thắp nhiều ngọn nến nhỏ. Rồi sau đó lại có thêm động tác thổi tắt các ngọn nến. <BR><BR>Người ta tin rằng trong các ngọn nến được thắp sáng có một sức mạnh thần bí nào đó và trong khi người được ăn mừng sinh nhật ôm ấp trong lòng ý nguyện của người ấy sẽ được thực hiện. <BR><BR>Tập tục này được lưu truyền cho tới ngày nay và được phổ biến ở nhiều nước.<BR><BR>-------<BR><BR><B>Ai là thần bảo hộ cho các di tích cổ?</B><BR><BR>Thời gian tàn phá tất cả, kể cả những thứ tưởng như vĩnh cửu nhất - đá. Những bức tượng đá, phù điêu, bia đá... trong các công trình kiến trúc cổ hùng vĩ cũng cùng chung số phận. Năm này qua năm khác, mưa axit đang dần bào mòn, làm cho chúng trở nên xấu xí và biến dạng hoàn toàn... <BR><BR>Biện pháp tốt nhất để bảo vệ các di tích loại này là phủ lên chúng một màng mỏng trong suốt làm thành một lớp áo phòng hộ, nhưng chất liệu nào có thể đảm nhiệm vai trò đó? <BR><BR>Lớp "áo giáp" silic <BR><BR>Yêu cầu đầu tiên của loại hợp chất này phải có độ ổn định rất cao, có tính kỵ nước. Bản thân các chất này cũng phải không bị ngấm nước mới giữ được cho các phù điêu, các công trình kiến trúc không bị nước gây tổn thất, phong hoá. <BR><BR>Các nhà hoá học phát hiện ra các hợp chất hữu cơ chứa silic có đủ các ưu điểm đó. Những hợp chất này có tính ổn định phi thường. Thí nghiệm cho thấy chúng chịu được sự lão hoá bởi chất khí, không hề biến đổi sau 18 tháng bị ánh sáng Mặt trời chiếu vào, không bị dầu máy, dầu thực vật, axit cũng như kiềm ăn mòn. Ngoài ra, chúng còn có tác dụng ngăn nước và chịu đựng nước rất tốt. <BR><BR>Nếu đem hợp chất hữu cơ chứa silic sơn lên các phù điêu, các tượng đá hay các công trình kiến trúc một lớp mỏng, các giọt nước rơi trên bề mặt sẽ giống như giọt nước rơi xuống mình vịt vậy, không hề ngấm vào bên trong. Lớp sơn bằng hợp chất này sẽ phân cách bầu không khí xung quanh với công trình một cách hữu hiệu, tránh tác dụng bào mòn các di tích của thiên nhiên. Một điều rất quan trọng là các hợp chất hữu cơ chứa silic hoàn toàn trong suốt, cho phép giữ nguyên diện mạo của di tích, vừa có tác dụng bảo hộ di tích, vừa có tác dụng giúp cho du khách chiêm ngưỡng được các cổ vật đó. <BR><BR>"Chân dung" kẻ phá hoại <BR><BR>Trong tự nhiên luôn tồn tại một lượng nhỏ axit và các tác nhân có hại như lưu huỳnh dioxide, nitơ oxit... Chúng tàn phá các công trình kiến trúc cổ, nhưng với một tốc độ rất chậm, có thể tính tới hàng thế kỷ, hàng thiên niên kỷ. Nhưng cùng với sự phát triển của nền sản xuất đại công nghiệp ngày nay, sự tăng trưởng không ngừng các hoạt động giao thông vận tải, các loại khí độc hại này được thải ra ngày càng nhiều. Chúng kết hợp với hơi nước trong không khí tạo thành các cơn mưa axit có tính ăn mòn cực lớn. Đây chính là mối đe doạ nghiêm trọng tớ các công trình kiến trúc cổ bằng đá.<BR><BR>-------<BR><BR><B>Tại sao lại xuất hiện virut máy tính?</B><BR><BR>Virut máy tính không giống như virut trong cơ thể người, trên thực tế nó là một số các trình tự có thể phá hoại hoạt động của máy tính. Nó do một số người nào đó rất hiểu về các kiến thức máy tính nhưng thiếu đạo đức nghề nghiệp thiết lập ra. Những người này hoặc là "đùa nghịch" để thể hiện "tài hoa" của mình, hoặc là xuất phát từ những động cơ nào đó đã tạo ra các chương trình có virut rồi truyền sang máy tính hoặc lưu giữ trong đĩa mềm. Khi máy tính vận hành các chương trình này, trên màn hình máy tính sẽ xuất hiện các hình ảnh hay chữ viết không bình thường, thậm chí có thể làm máy tính ngừng hoạt động hoặc mất đi nhiều số liệu quan trọng, gây ra những tổn thất không thể ước tính được. <BR><BR>Nơi bắt nguồn của virut máy tính là nước Mỹ. Những năm 60 của thế kỷ 20, một số nhân viên nghiên cứu khoa học của một công ty nào đó của Mỹ thường chơi "những trò chơi" do họ tự sáng tạo ra ngoài giờ làm việc; mỗi người tạo ra một chương trình nhỏ rồi truyền vào và vận hành trong máy tính để chúng đánh lẫn nhau nhằm huỷ hoại chương trình của những người khác. Những chương trình này trên thực tế chính là "hình mẫu bước đầu" của virut máy tính. <BR><BR>Virut máy tính đang lan ra khắp toàn cầu với tốc độ truyền rất nhanh vượt ra ngoài dự tính của con người, đến nay đã phát hiện ra vài trăm loại virut, Trung Quốc cũng không ngoại lệ. Sau khi phát hiện ra virut máy tính không lâu vào tháng 04 năm 1984, nó đã lan truyền nhanh chóng và lặng lẽ ra mọi nơi ở Trung Quốc; các loại virut khá lưu hành có tới không dưới 10 loại, như: virut tiêu cầu, virut đại ma, virut thứ 6 màu đen, virut Pakistan, virus 2 chấm, virut sát thủ đĩa từ, virut sinh sôi điên cuồng, virut CIH... <BR><BR>Virut máy tính thường có những đặc điểm dưới đây: <BR><BR>1. Tính phá hoại: Nó có thể sửa đổi chương trình bình thường, khả năng phá hoại chương trình thông thường vốn có, thậm chí làm cho máy tính đưa ra những chẩn đoán sai, tổn thất tạo ra thường vượt xa dự tính của con người. Ví dụ, ngày 03-11-1988, hệ thống mạng Internet trong mạng lưới máy tính lớn nhất nước Mỹ đã bị các virut tấn công khiến cho 6,200 máy loại nhỏ, trạm làm việc đều nhiễm virut, tổn thất về kinh tế lên tới 92 triệu USD. <BR><BR>2. Tính truyền nhiễm: Các chương trình có virut sẽ khôi phục lại trạng thái bình thường, khiến cho chúng cũng bị nhiễm virut và không thể hoạt động bình thường. Nếu bạn dùng đĩa mềm có nhiễm virut, máy tính của bạn sẽ bị các virut xâm hại. Nếu một đĩa mềm không có virut mà sử dụng vào máy tính có virut thì đĩa mềm này cũng sẽ bị nhiễm virut. Nếu một số máy tính liên kết với mạng, vậy chỉ cần một chiếc có virut sẽ truyền sang các máy khác thông qua mạng. <BR><BR>3. Tính ẩn náu: Nó có thể ẩn trốn trong các chương trình vài ngày, vài tuần, thậm chí là vài tháng, vài năm. Khi có "điều kiện tiếp xúc", như đến một thời gian dự định nào đó, một tài liệu đặc biệt sẽ xuất hiện, nó giống như "quả bom hẹn giờ" gây ra nhiều khó khăn và uy hiếp hơn đối với máy tính. <BR><BR>Vì vậy có thể dễ dàng nhận thấy rằng, virut máy tính là một chương trình có tính phá hoại, nó truyền và lan ra trong máy tính và giữa các máy tính với nhau. Con người đã mượn danh từ "virut" trong vi sinh vật để gọi tên nó một cách hình tượng, nhưng nó không truyền nhiễm sang cho con người.<BR><BR>-------<BR><BR><B>Tại sao khi có gió lại thấy lạnh hơn?</B><BR><BR>Chắc hẳn ai cũng biết rằng trời rét mà im gió thì dễ chịu hơn so với lúc có gió. Nhưng, không phải tất cả mọi người đều biết nguyên nhân của hiện tượng ấy. Chỉ các sinh vật mới cảm thấy giá buốt khi có gió, còn các vật vô sinh thì không.<BR><BR>Chẳng hạn, nhiệt kế sẽ không hề tụt xuống khi để nó ra ngoài trời đang có lốc. Trước hết, sở dĩ ta cảm thấy rét buốt trong những ngày đông có gió là vì nhiệt từ mặt ta (và nói chung là từ toàn thân) tỏa ra lúc ấy nhiều hơn hẳn lúc trời im gió. Khi đứng gió, lớp không khí bị thân thể ta làm nóng lên không được thay thế nhanh bởi lớp không khí mới, còn lạnh. Còn khi gió mạnh, thì trong một phút, càng có nhiều không khí đến tiếp xúc với da thịt ta và do đó thân thể ta càng bị lấy đi nhiều nhiệt. Chỉ một điều đó thôi cũng đủ gây ra cảm giác lạnh. <BR><BR>Nhưng, hãy còn một nguyên nhân khác nữa. Da chúng ta luôn luôn bốc hơi ẩm, ngay cả trong không khí lạnh cũng vậy. Để bốc hơi cần phải có nhiệt lượng, nhiệt ấy lấy từ cơ thể chúng ta và từ lớp không khí dính sát vào cơ thể chúng ta. Nếu không khí không lưu thông thì sự bốc hơi tiến hành rất chậm, bởi vì lớp không khí tiếp xúc với da sẽ rất chóng no hơi nước (bão hòa). Nhưng nếu không khí lưu thông và lớp khí tiếp xúc với da luôn luôn đổi mới, thì sự bốc hơi lúc nào cũng tiến hành một cách mạnh mẽ, mà như vậy cơ thể sẽ tiêu hao rất nhiều nhiệt.<BR><BR>Vậy tác dụng làm lạnh của gió lớn đến mức nào? Điều này phụ thuộc vào vận tốc của gió và nhiệt độ của không khí. Nói chung, tác dụng ấy vượt xa mức mà mọi người tưởng. Bạn hãy xem một ví dụ sau để có thể hình dung được nó: Giả sử nhiệt độ của không khí là +4 độ C, nhưng không hề có gió. Trong điều kiện ấy, nhiệt độ của da chúng ta là 31 độ C. Nếu bây giờ có một luồng gió nhẹ thổi qua, vừa đủ lay động lá cờ nhưng chưa đủ làm rung chuyển lá cây (khoảng 2m/giây), thì nhiệt độ da chúng ta giảm đi 7 độ C. Còn khi gió làm ngọn cờ phấp phới bay (vận tốc 6m/giây) thì da chúng ta lạnh mất 22 độ C, nhiệt độ của da chỉ xuống còn 9 độ C!<BR><BR>-------<BR><BR><B>Đảo hình thành như thế nào?</B><BR><BR><BR>Nằm xa lắc ngoài khơi, một hòn đảo xinh đẹp với cây cối xanh rờn nhưng cô độc giữa bốn bề nước mênh mông. Cách nó hàng trăm km, một vòng tròn san hô trắng muốt lằn trên nền đại dương xanh ngắt cũng đang một mình chống chọi với sóng gió đại dương. Vì sao chúng lẻ loi vậy nhỉ? <BR><BR>Một số đảo vốn là bộ phận của lục địa. Do vỏ Trái đất vận động, giữa chúng và lục địa xuất hiện dải đất đứt gãy chìm xuống do đó mà thành đảo ngăn cách với lục địa bằng biển. Các đảo Đài Loan, Hải Nam ở Trung Quốc đều được hình thành như vậy. Cũng có khi do sông băng tan, mực nước biển dâng lên làm nhấn chìn các phần lõm ở bên bờ đại lục, chỉ còn lại một số vùng đất cao, đỉnh núi biến thành đảo. <BR><BR>Ngày nay, người ta còn phát hiện được do chịu tác dụng của lực trường, lục địa xảy ra những vết đứt gãy rất sâu, rất lớn và các vật chất trong lòng đất tràn ra theo vết nứt hình thành đáy biển mới, có một số mảnh vỡ từ lục địa phân tách tạo ra đảo ở cách xa lục địa. Theo nghiên cứu, hòn đảo lớn nhất thế giới Greenland đã phân tách từ lục địa châu Âu. <BR><BR>Từ núi lửa <BR><BR>Trong biển cũng còn rất nhiều hòn đảo vốn không phải là lục địa, mà là do các dung nham và vật chất vụn khác từ núi lửa phun ra tích tụ dưới đáy biển tạo nên. Quần đảo Hawaii ở giữa Thái Bình Dương là một minh chứng điển hình. Chúng là một dãy núi lửa nhô lên khỏi mặt nước. <BR><BR>Những đảo hình thành theo cách này nếu không có dung nham và các vật chất núi lửa tiếp tục bồi đắp thì có thể bị sóng biển va đập mà sụt lở cho đến khi mất hẳn dấu vết trên mặt biển. Tuổi thọ của chúng chỉ kéo dài vài năm thậm chí chỉ mấy tháng. Nhưng nếu vật chất không ngừng phun ra và tích tụ lại làm cho các đảo có thể tích tương đối lớn thì chúng có thể tồn tại lâu dài. <BR><BR>Đến san hô <BR><BR>San hô cũng là những người "thợ xây" đảo tích cực. Chúng tụ hợp lại với nhau, tiết ra chất đá vôi, tạo nên những "cây" san hô không ngừng sinh sôi nảy nở. Sóng gió có thể làm vỡ một bộ phận của chúng, nhưng những mảnh vụn đó lại lấp đầy khoảng trống trong "rừng san hô" làm cho chúng càng thêm chắc chắn. Cùng với xương của các sinh vật khác, chúng tích tụ lại thành những tảng đá ngầm và hòn đảo mọc đứng thẳng trong biển. Mặc dù diện tích của các đảo san hô không lớn, độ cao nhô lên mặt biển cũng có hạn, thường chỉ từ vài đến vài chục mét, nhưng chúng vẫn có thể tồn tại vững vàng giữa đại dương. <BR><BR>San hô cư trú ở vùng nước biển ấm, trong và có hàm lượng muối thích hợp. Chúng chỉ có thể sống ở những vùng nước nông, độ sâu vài chục mét. Chúng cần bám vào đáy biển có đá để mọc lên, vì thế rất nhiều đảo san hô được phân bố tại đường giáp giới với lục địa, như những đảo san hô ở bên bờ Đông Bắc Australia kéo dài tới hơn 2.000 km. Ở những nơi biển sâu, san hô không thể sinh trưởng, nhưng ở những nơi tồn tại núi lửa thì chúng có thể lấy núi lửa làm cơ sở, xoay quanh núi lửa để sinh sôi. Nếu phần giữa của núi lửa chìm xuống nước mà san hô vẫn tiếp tục sinh sôi hướng lên trên, một đảo san hô có hình vòng tròn mà ở giữa là nước. Đó chính là các vòng tròn trắng đặc biệt trên biển.
<EM>thay đổi nội dung bởi:<STRONG> DuyênBòMộng</STRONG>, 26-08-2010 lúc 06:31 AM. </EM>
DuyênBòMộng
Xem hồ sơ
Tìm bài viết của DuyênBòMộng
13-10-2008, 01:13 AM
#<STRONG>8</STRONG>
DuyênBòMộng
vbmenu_register("postmenu_4153221", true);
Bé còn quấn tã
<BR>
<BR>
Tham gia ngày: Jul 2008
Nơi Cư Ngụ: ...
Bài gởi: 7
Giới Tính: ...
Đô: 4,349
<B>Tổng thống Mỹ có phải do nhân dân Mỹ trực tiếp bầu ra hay không?</B><BR><BR>Chúng ta đọc báo thấy cứ bốn năm một lần, mỗi khi có đợt bầu cử Tổng thống thì những ứng cử viên thuộc Đảng Dân chủ và Đản Cộng hoà đều phải tới các bang trong toàn quốc để phát biểu vận động tranh cử, và cuối cùng còn phải có một cuộc bỏ phiếu tuyển cử trong toàn quốc. Vì thế người ta cho rằng Tổng thống Mỹ là nhân dân Mỹ trực tiếp bầu ra. Thực ra tình hình lại không phải như thế. <BR><BR>Theo một luật tuyển cử, cử tri Mỹ chỉ trực tiếp bầu ra hai loại người. Một là nghị viện Quốc hội và hai là những người được gọi là người tuyển cử. <BR><BR>Nhân dân Mỹ bỏ phiếu trực tiếp bầu ra các nghị viên Quốc hội, tức là những người tổ chức hình thành Quốc hội, Quốc hội này là một cơ cấu hoạt động thường trực. Điều này có điểm giống như Đại hội Đại biểu Nhân dân của Trung Quốc, nhưng giữa hai bên có một sự khác nhau về bản chất. Vì Quốc hội và Tổng thống Mỹ có một mối quan hệ quyền lực song song, chế ước lẫn nhau, còn Đại hội Đại biểu Nhân dân của Trung Quốc là cơ quan quyền lực tối cao của nhân dân toàn quốc, chủ tịch quốc gia là do Đại hội Đại biểu Nhân dân của Trung Quốc bầu ra, hai bên có mối quan hệ cấp trên cấp dưới. <BR><BR>Vì giữa Quốc hội và Tổng thống Mỹ có mối quan hệ đặc thù như vậy, cho nên đã có một biện pháp khác để tuyển cử Tổng thống, đó tức là chế độ những người tuyển cử. <BR><BR>Sau khi ứng cử viên hai đảng đã tranh cử xong, các bang dựa theo tỷ lệ nhân khẩu, tổ chức các cử tri bỏ phiếu bầu ra một số người tuyển cử. Sau đó, những người tuyển cử này (trong toàn quốc có khoảng hơn bốn trăm người) tổ chức một đoàn tuyển cử tập trung tới Thủ đô Washington để bỏ phiếu Tổng thống. <BR><BR>Tuy nhiên, những người tuyển cử cũng không bỏ phiếu tuỳ theo ý nguyện bản thân mình, họ phải dựa theo ý nguyện của cử tri trong bang của mình, trước hết phải trình bày với cử tri là sẽ bỏ phiếu cho ai, sau đó mới đi Washington. <BR><BR>Nếu như người tuyển cử không muốn dựa theo ý muốn của cử tri để bầu phiếu thì họ sẽ bị bãi miễn, vì thế phương pháp tuyển cử gián tiếp này mang tính sâu sát rất cao, cho nên nó cũng gần như là tuyển cử trực tiếp. <BR><BR>Dù là những đại biểu được dân trực tiếp bầu ra, song những người tuyển cử sau khi lựa chọn xong Tổng thống sẽ hết quyền lực và kết thúc sứ mệnh của họ <BR><BR>Tại sao trong quân đội Mỹ không có quân hàm nguyên soái? Dapan <BR>Trong quân đội Mỹ, quân hàm cao nhất là đại tướng năm sao chứ không có quân hàm nguyên soái. Trong cuộc Chiến tranh Thế giới II, một số tướng lĩnh có chiến công cao nhất như Marshal Aixenhao... đến sau chiến tranh cũng chỉ được đại tướng năm sao. Tại sao vậy? <BR><BR>Vốn là sau khi Chiến tranh Thế giới II kết thúc, ở nước Mỹ người ta cùng đã từng dự tính phong cho một số tướng lĩnh cao cấp nổi tiếng nhất quân hàm nguyên soái lục quân, thế nhưng các cơ quan hữu quan lại phát hiện thấy rằng danh từ nguyên soái (Marshal) lại hoàn toàn giống như tên họ của tham mưu trưởng lục quân Mỹ Marshal. Nếu được phong hàm nguyên soái thì nguyên soái Marshal gọi theo tiếng Anh sẽ là Marshal Marshal nghe quá lạ tai. <BR><BR>Các cơ quan hữu quan cảm thấy vấn đề này rất khó khăn để giải quyết, cho nên sau khi thảo luận nhiều lần đã trình bày với Tổng thống Rudơven. Cuối cùng người ta thấy tốt nhất là không đặt hàm nguyên soái nữa. Do đó cấp tướng năm sao đã trở thành quân hàm cao nhất trong quân đội Mỹ. Và những người như Marshal cũng chỉ được phong quân hàm tướng năm sao. <BR><BR>Trong lịch sử nước Mỹ, đã nhiều người được phong hàm nguyên soái lục quân, đó là Tổng thống đầu tiên Washington và Phanxing. Sau khi Phanxing qua đời thì quân hàm nguyên soái không bao giờ được sử dụng nữa.<BR><BR>-------<BR><BR><B>Có phải trẻ con ăn cá sẽ trở nên ngốc nghếch?</B><BR><BR>Có một số người già nhìn thấy trẻ con ăn cá thì ngăn cản và nói rằng: "ăn cá sẽ trở nên ngốc nghếch". Kỳ thực cách nói này không có khoa học. <BR><BR>Từ xưa đến nay, cá chính là một loại thức ăn quan trọng của con người. Các loại thức ăn dùng cá không những có vị tươi ngon, dinh dưỡng phong phú, cung cấp hàm lượng dinh dưỡng nhiều. Nhìn từ tổng thể mà nói, hàm lượng protein trong cá có thể đạt từ khoảng 15% đến 20%. Sau khi ăn vào trong bụng dễ được cơ thể người hấp thụ và những thành phần hoá học của cơ bắp con người cho nên có lợi đối với cơ thể khoẻ mạnh. <BR><BR>Trong cá còn có từ 5 đến 10% lượng mỡ có thể cung cấp năng lượng cho cơ thể. Ngoài ra cá còn chứa các vật chất: đường vitamin, canxo, photpho... Lấy ví dụ trong 500g cá hoa vàng, có chứa 81,5 gam protein, 44,5 gam mỡ, 15 gam đường, 5 mg canxi, 15,3 mg photpho, gần 10 mg các loại vitamin. Do vậy có thể thấy rằng: thành phần dinh dưỡng của cá là rất cao. <BR><BR>Trẻ nhỏ đang ở vào thời kỳ sinh trưởng phát triển, trong thức ăn cần chú ý bổ sung dinh dưỡng đầy đủ là vô cùng quan trọng, ăn một chút cá là có lợi đối với cơ thể, không những không làm cho người ta ngốc đi ngược lại còn có thể nâng cao sự phát triển của bộ não. Bởi vì protein, canxi, photpho, vitamin các loại đều là vật chất cần thiết cho sự phát triển của bộ não. <BR><BR>Cá được nấu chín rất ngon, nhưng khi ăn nhất định cần nhai kỹ, hơn nữa không nên ăn quá nhiều nếu không sẽ không tốt cho việc tiêu hoá.<BR><BR>-------<BR><BR><B>Băng phẳng và băng mấp mô, thứ nào trơn hơn?</B><BR><BR>Trên sàn nhà đánh thật bóng dễ trơn trượt hơn trên sàn nhà thường. Có lẽ trên băng cũng giống thế mới phải, nghĩa là băng phẳng phải trơn hơn băng lồi lõm, mấp mô. Nhưng thực tế lại trái với dự đoán đó.<BR><BR>Nếu có dịp kéo một xe trượt băng chở thật nặng qua mặt băng mấp mô, bạn sẽ thấy chiếc xe nhẹ hơn đi trên mặt băng phẳng rất nhiều. Mặt băng mấp mô trơn hơn mặt băng phẳng lỳ! Điều đó được giải thích như sau: Tính trơn của băng không phụ thuộc vào sự bằng phẳng, mà hoàn toàn do một nguyên nhân khác. Đó là điểm nóng chảy của băng giảm đi khi tăng áp suất.<BR><BR>Ta hãy phân tích xem có điều gì xảy ra khi trượt băng trên giày trượt hoặc bằng xe trượt. Đứng trên giày trượt, chúng ta tựa trên một diện tích rất nhỏ, tổng cộng chỉ độ mấy milimét vuông. Trọng lượng toàn thân ta nén cả trên cái diện tích bé nhỏ ấy, tạo ra một lực rất lớn. Dưới áp suất lớn, băng tan ở nhiệt độ thấp. Lúc ấy, giữa đế giày trượt và băng có một lớp nước mỏng. Thế là người trượt băng đi được. <BR><BR>Và khi chân anh ta vừa di chuyển đến nơi khác, thì lập tức ở đó lại xảy ra hiện tượng giống như trên, nghĩa là băng dưới chân anh ta biến thành một lớp nước mỏng. Trong tất cả các vật tồn tại trong thiên nhiên, chỉ một mình băng có tính chất ấy. Một nhà vật lý Xô Viết đã gọi nó là "vật trơn duy nhất trong thiên nhiên". Những vật khác tuy bằng phẳng nhưng không trơn.<BR><BR>Bây giờ, ta trở lại vấn đề băng bằng phẳng và băng mấp mô, thứ nào trơn hơn. Theo lý thuyết, cùng một vật đè nặng lên diện tích càng nhỏ, thì áp suất nó gây ra càng mạnh. Vậy thì, người trượt băng sẽ tác dụng lên trên đế tựa một áp suất lớn hơn khi đứng trên băng phẳng lỳ hay khi đứng trên băng mấp mô? Rõ ràng là khi đứng trên băng mấp mô. Bởi vì ở đây, họ chỉ đè lên một diện tích rất nhỏ chỗ nhô lên hay lồi ra của mặt băng mà thôi. Mà áp suất trên băng càng lớn, thì băng tan càng nhanh, và do đó băng càng trơn (nếu đế giày đủ rộng).<BR><BR>Nếu đế hẹp thì những điều giải thích trên không thích hợp nữa. Vì trong trường hợp đó, đế tựa sẽ khía sâu vào những chỗ băng nhô ra, và lúc này, năng lượng chuyển động đã bị tiêu hao vào việc khía băng.<BR><BR>-------<BR><BR><B>Tại sao Hitler sử dụng hình chữ "Vạn" làm biểu tượng cho đảng Quốc Xã?</B><BR><BR>Trong thời kỳ nước Đức chịu quyền thống trị của Hitler, hình chữ "Vạn" ở đâu cũng có, nó không những tượng trưng cho nền thống trị chuyên chế phát xít của nước Đức theo đảng Quốc Xã, mà còn tạo ra những nỗi đau khổ vô tận cho nhân dân Do Thái, cũng như nhân dân tất cả các nước bị nước Đức Quốc Xã xâm lược. <BR><BR>Chữ "Vạn" còn được gọi là chữ thập ngoặc. Nó đã có lịch sử rất xa xưa. Ngay từ hơn bốn ngàn năm trước Công nguyên, hình chữ "Vạn" đã xuất hiện. Ở nước Ấn Độ thời cổ đại, nó biểu hiện hạnh phúc tối cao. Ở Trung Quốc nó đã được lưu hành hồi Võ Tắc Thiên năm chính quyền, bà đã định âm chữ này là "Vạn". Trước thời Hitler, một số người Đức đã từng sử dụng hình tượng trưng cho chữ "Vạn" này rồi. <BR><BR>Mùa hè năm 1920, Hitler cảm thấy rằng Đảng Quốc Xã cần một biểu tượng tượng trưng có thể thu phục được lòng người. Sau nhiều suy nghĩ, hắn thiết kế một lá cờ với một vòng tròn trắng, ở giữa vẽ chữ "Vạn" màu đen và hắn đã cảm thấy hết sức đắc ý về lá cờ này. Theo cách giải thích của hắn thì mầu đen tượng trưng cho ý nghĩa xã hội trong cuộc vận động của bọn hắn, mầu trắng tượng trưng cho tư tưởng dân tộc chủ nghĩa, còn chữ Vạn thì tượng trưng cho sứ mệnh chiến thắng của giống người Arian. Thực ra thì Hitler tuyên truyền cho chủ nghĩa chủng tộc cực đoan, coi người Arian là chủng tộc cao quý nhất. Về sau dưới là cờ chữ "Vạn", đảng Quốc Xã đã không ngừng khuếch trương thế lực. <BR><BR>Đến năm 1933, đảng Quốc Xã lên chấp chính, chữ "Vạn" lại trở thành hình tượng trưng cho nước Đức Quốc Xã, nhưng dưới con mắt của nhân dân thế giới, nó chỉ tượng trưng cho tội ác mà thôi.<BR><BR>-------<BR><BR><B>Tại sao thiếu niên có tính khí thất thường?</B><BR><BR>Nếu các cô, các cậu có độ tuổi 15 - 16 hay cáu gắt hoặc hay gây hấn với người lớn, thì đó cũng là chuyện bình thường mà thôi, bởi vì ở độ tuổi đó, não bộ của chúng có những thay đổi đặc biệt. Tại thuỳ thái dương, các tế bào não mọc ra nhanh chóng, làm thay đổi tính khí của con người. <BR><BR>Đó là kết luận của Tiến sĩ Robert McGiver và cộng sự thuộc Đại học Quốc gia San Diego (Mỹ). <BR><BR>Nhóm nghiên cứu của McGiver đã làm một thử nghiệm như sau: Họ cho mời một nhóm gồm 20 đứa trẻ trong độ tuổi 11 - 18 và 20 người lớn tới một phòng rộng, rồi cho những người này xem các bức chân dung khác nhau. Đó là các bức ảnh miêu tả nhiều trạng thái cảm xúc của con người: giận dữ, hạnh phúc, vô cảm. Sau đó, những người tham gia thí nghiệm được yêu cầu miêu tả các khuôn mặt trong ảnh. <BR><BR>Kết quả là, những đứa trẻ vị thành niên thường mắc sai lầm khi đưa ra kết luận về cảm xúc của các khuôn mặt, trong khi người lớn lại nhận xét khá chính xác. Theo các nhà nghiên cứu, chính sự thất thường về tính khí của trẻ vị thành niên khiến chúng khó có thể ước đoàn được cảm xúc của người khác. <BR><BR>McGiver cho rằng, toàn bộ sự thất thường này của trẻ vị thành niên có liên quan đến sự phát triển của các tế bào não ở thuỳ thái dương (một số nhà nghiên cứu cho rằng, thuỳ thái dương chi phối các hành vi xã hội và ý thức đạo đức của con người). Khu vực não này bắt đầu phình to ra khi trẻ bước vào lứa tuổi thiếu niên, từ năm 11 đến năm 18 tuổi. Sau đó, não bộ sẽ được định hình, dẫn tới sự định hình về tính cách của con người chúng ta.<BR><BR>-------<BR><BR><B>Muỗi có khả năng phân biệt màu sắc không?</B><BR><BR>Khả năng phân biệt màu sắc nằm ở đôi mắt của muỗi. Đôi mắt này rất to, nó chiếm tới ¾ diện tích phần đầu, gồm nhiều mắt nhỏ ghép thành, gọi là "mắt ghép". Mắt muỗi không những phân biệt được các vật khác nhau mà còn có thể nhận biết màu sắc và cường độ ánh sáng mạnh hay yếu. <BR><BR>Đa số các loài muỗi đều thích ánh sáng mờ; tối quá hoặc sáng quá đều không hợp "gu" của chúng. Khi chúng ta mặc quần áo sẫm màu, ánh phản quang hơi tối rất hợp với tập tính của muỗi. Ngược lại, quần áo màu trắng phản quang mạnh sẽ xua đuổi muỗi tránh xa. Vì thế, người mặc quần áo sẫm màu dễ bị đốt nhiều hơn. <BR><BR>Đương nhiên do muỗi có nhiều loài khác nhau nên cường độ ánh sáng ưa thích của mỗi loài khác nhau là không giống nhau. Ví dụ như phần lớn loài muỗi vằn thích hoạt động ban ngày, còn các loài muỗi khác lại thích hoạt động vào lúc sẩm tối hoặc rạng sáng. Nhưng dù là loài muỗi nào, chúng cũng đều lẩn tránh nơi có cường độ ánh sáng cao. Ngay cả loài muỗi vằn thích hoạt động ban ngày thì cũng phải sau 3 - 4 giờ chiều mới tung hoành.<BR><BR>-------<BR><BR><B>Tại sao khi đón khách quý phải bắn 21 phát pháo lễ?</B><BR><BR>Mỗi khi có vị nguyên thủ quốc gia của nước ngoài đến thăm thì nước chủ nhà bao giờ cũng tiến hành bắn pháo để tỏ lòng hoan nghênh, việc này trở thành một nghi lễ thông dụng trong quan hệ quốc tế. Nếu như chúng ta đếm số pháo đại bác bắn thì đúng là 21 tiếng. Vậy thì nghi lễ bắn đại bác chào khách do đâu mà có? <BR><BR>Hơn 400 năm về trước, ở một số quốc gia châu Âu đã có tập quán bắn đại bác để đón tiếp khách quý. Nhưng hồi ấy nghi thức này chỉ phổ biến trên các chiến hạm. <BR><BR>Khi chiến hạm của một nước tiến vào cảng của một nước khác thì các khẩu pháo trên chiến hạm phải bắn cho hết đạn để tỏ rằng mình đến không có ý thù địch. Xưa kia các chiến hạm có trọng tải nhẹ, số các khẩu pháo lắp trên tàu không thể nhiều hơn bảy cỗ, hơn nữa chúng đều là loại lắp đạn từ đầu nòng, vì thế việc nổ pháo rất tốn sức, chỉ có thể nổ từng khẩu và bảy khẩu pháo bắn xong hết thì cũng không còn gì nữa. Còn trên các pháo đài của bến cảng thì chủ nhà bố trí rất nhiều cỗ pháo, họ bắn ba phát để trả lời và hoan nghênh. Ba lần bảy là hai mươi mốt, đó là nguồn gốc của 21 phát đại bác. <BR><BR>Về sau tập quán này đã dần dần biến thành một thông lệ quốc tế, hơn nữa nó không bị hạn chế ở các trường hợp phải có hải quân tiến nhập cảng của nước khác thì mới dùng. Trong các ngày lễ mững và các trường hợp đón tiếp khách quý, nghi lễ này cũng được áp dụng. <BR><BR>Nhưng vẫn có một cách giải thích khác cho rằng nghi thức này bắt đầu từ nước Anh. Trong hai thế kỷ XVII và XVIII, vương quốc Anh rất hùng mạnh và có nhiều thuộc địa trên thế giới. Mỗi khi tàu chiến của nước Anh chạy qua hay tiến vào pháo đài hoặc bến cảng của một nước thuộc địa thì họ yêu cầu đối phương phải nổ 21 phát đại bác để biểu thị lòng tôn kính và thần phục, còn các chiến hạm nước Anh chỉ bắn có 7 phát để trả lời. Về sau nghi thức này được lan rộng ra các nước khác trên thế giới, trở thành thông dụng trong những ngày lễ hay khi đón tiếp nguyên thủ các quốc gia.<BR><BR>-------<BR><BR><B>"Chiến tranh lạnh" là gì?</B><BR><BR>Sau khi Chiến tranh thế giới II kết thúc, trong tình hình chính trị thế giới đã xảy ra một sự thay đổi rất lớn: phe tư bản chủ nghĩa phương Tây do các nước Mỹ, Anh, Pháp đứng đầu và phe xã hội chủ nghĩa phương Đông do Liên Xô cũ đứng đầu, vì có niềm tin chính trị khác nhau, cho nên có thái độ thù địch với nhau. Nhưng sức mạnh quân sự của cả hai bên đều hết sức to lớn. Với vài triệu quân và vài ngàn đầu đạn hạt nhân, nếu đem sức mạnh quân sự này ra sử dụng thì bên nào cũng có thể tiêu diệt được đối phương đến vài lần, vì thế chẳng có ai dám sử dụng sức mạnh quân sự để phát động chiến tranh. Tuy nhiên bên nào cũng muốn làm cho đối phương bị suy yếu, đi tới tan vỡ, cho nên tất cả các thủ đoạn bên ngoài phạm vi quân sự đều được sử dụng. <BR><BR>Các thủ đoạn này bao gồm: phong toả kinh tế, không để cho các tài liệu kinh tế quan trọng lọt vào tay đối phương, cản trở sự phát triển kinh tế của đối phương; tấn công về chính trị, vận dụng mọi công cụ để tuyên truyền để tấn công vào các điểm yếu của đối phương, đánh vào lòng dân của đối phương; phá hoại, lật đổ, đào tạo gián điệp tiến hành các hoạt động phá hoại; chạy đua trang bị quân sự, không ngừng tăng cường các hoạt động quân sự, ra sức phát triển các vũ khí mũi nhọn, luôn luôn muốn làm cho sức mạnh quân sự của mình hơn được đối phương. <BR><BR>Tuy cả hai phe đều chưa trực tiếp nổ súng, nhưng thật ra cả hai phe đều đang nằm trong một trạng thái chiến tranh, chiến tranh có thể nổ ra bất cứ lúc nào. Thượng nghị sỹ Mỹ Becna Baluc đã mệnh danh trạng thái này là chiến tranh lạnh, để phân biệt với chiến tranh nóng trong đó có dùng pháo thật và đạn thật. <BR><BR>Đầu những năm 90 của thế kỷ XX, Liên Xô cũ tan rã, do đó các nước Đông Âu trải qua những biến động to lớn, cái gọi là phe phương Đông không còn tồn tại nữa. Từ đấy trở đi chiến tranh lạnh cũng đã kết thúc.<BR><BR>-------<BR><BR><B>Vò đất sét làm mát nước như thế nào?</B><BR><BR>Loại vò làm bằng đất sét không nung có khả năng làm cho nước ở bên trong trở nên mát hơn. Loại vò này rất thông dụng ở các nước Trung Á và có nhiều tên gọi: ở Tây Ban Nha gọi là "Alicaratxa", ở Ai Cập gọi là "Gâula"...<BR><BR>Bí mật về tác dụng làm lạnh của những vò này rất đơn giản: nước đựng trong vò thấm qua thành đất sét ra ngoài và từ từ bốc hơi, khi bốc hơi nó sẽ lấy một phần nhiệt từ vò và từ nước đựng trong vò.<BR><BR>Tuy nhiên, tác dụng làm lạnh ở đây không lớn lắm. Nó phụ thuộc rất nhiều điều kiện. Không khí càng nóng, nước thấm ra ngoài bình bốc hơi càng nhanh, càng nhiều, làm cho nước ở trong vò càng lạnh đi. Sự lạnh đi còn phụ thuộc vào độ ẩm của không khí xung quanh: nếu không khí có nhiều hơi ẩm thì quá trình bốc hơi xảy ra rất chậm và nước lạnh đi không nhiều lắm. Ngược lại, trong không khí khô ráo thì sự bay hơi xảy ra rất nhanh, khiến cho nước lạnh đi rõ rệt. Gió càng thổi nhanh, quá trình bay hơi càng mạnh và do đó tăng cường tác dụng làm lạnh (tác dụng của gió cũng có thể thấy khi ta mặc áo ướt trong những ngày nóng bức. Khi có gió, ta sẽ thấy mát mẻ, dễ chịu). <BR><BR>Sự giảm nhiệt độ trong các vò ướp mát thường không quá 5 độ C. Trong những ngày nóng bức ở Trung Á, khi nhiệt kế chỉ 33 độ C thì nước ở trong vò thường chỉ 28 độ C. Như vậy, tác dụng làm lạnh của loại vò này chẳng có lợi là bao. Nhưng loại vò này giữ nước lạnh rất tốt và người ta dùng chúng chủ yếu là nhằm vào mục đích đó.<BR><BR>Chúng ta có thể thử tính xem nước trong vò "alicaratxa" lạnh đến mức độ nào. Thí dụ, ta có một vò đựng được 5 lít nước. Giả sử rằng nước ở trong vò đã bay hơi mất 1/10 lít. Trong những ngày nóng 33 độ C, muốn làm bay hơi 1 lít nước (1kg) phải mất chừng 580 calo, nước ở trong vò đã bay hơi mất 1/10kg thành ra cần phải có 58 calo. Nếu như toàn bộ 58 calo này là do nước trong vò cung cấp thì nhiệt độ nước ở trong vò sẽ giảm đi 58/5, tức là xấp xỉ 12 độ. Nhưng đa số nhiệt cần thiết cho sự bay hơi lại được lấy từ thành vò; mặt khác, nước ở trong vò vừa đồng thời lạnh đi lại vừa bị không khí nóng tiếp giáp với thành vò làm nóng lên. Do đó, nước ở trong vò chỉ lạnh đi chừng nửa con số tìm được ở trên mà thôi.<BR><BR>Khó mà nói được, ở đâu vò lạnh đi nhiều hơn - để ra ngoài hay trong bóng mát. Ở ngoài nắng thì nước bay hơi nhanh hơn, nhưng đồng thời nhiệt đi vào trong vò cũng nhiều hơn. Nhưng chắc chắn nhất là để vò ở trong bóng râm, hơi có gió.<BR><BR>-------<BR><BR><B>Làm thế nào để bảo vệ mình giữa cơn dông?</B><BR><BR>Trong cơn dông, đáng sợ nhất không phải là bầu trời đen kịt, gió rít ào ào, sấm giật hay màn nước táp xiên vào mặt, mà là những cú sét chết người đánh xuống đất. Dưới đây là lời khuyên của các chuyên gia nếu bạn chỉ có một mình trong cơn dông.<BR><BR>Trên các cánh đồng<BR><BR>Trước tiên, để không bị đe dọa bởi nguy cơ cái cây đổ xuống đúng đầu, bạn hãy tránh xa các gốc cây, đặc biệt là những cây đứng riêng lẻ. Thực tế là những ngọn gió mạnh trong suốt cơn mưa khiến cho khả năng che mưa của cây không còn, nhất là khi trời mưa như trút nước. Sau nữa, với độ cao của nó, cái cây sẽ thu hút sét . Và vì khung xương của người có điện trở nhỏ hơn gỗ, nên chúng ta sẽ là một phương tiện tốt hơn cho sét tiếp đất. Khi bạn đứng cách xa cây, thậm chí khi đứng thẳng, cũng giảm nguy cơ thu hút sét hơn 50 lần.<BR><BR>Thế nhưng nguy hiểm vẫn còn. Người nông dân, với các dụng cụ bằng sắt trên tay, cũng vô tình biến mình thành mục tiêu của sét. Vì vậy, cách tốt nhất khi gặp dông tố ở nơi trống trải như cánh đồng là quỳ xuống đất. Dù có hơi bẩn, nhưng bạn ít có nguy cơ chạm trán Thiên Lôi.<BR><BR>Còn nếu đang bơi <BR><BR>Một tình huống nguy hiểm! Sét không cần đánh trực tiếp lên một người đang bơi vẫn có thể biến anh ta trở thành nạn nhân. Vì thực tế dòng điện từ trên trời không biến mất ngay khi nó đánh xuống đất, mà chỉ yếu dần trong môi trường đất. Bởi vì nước là một chất dẫn điện tốt. Do vậy, khi đánh xuống nước, hoặc xuống mặt đất ở gần đó, dòng điện sẽ rất dễ dàng chạy tới người. Vì vậy, không nên bơi khi trời nổi dông.<BR><BR>Trong xe hơi<BR><BR>Chiếc xe là một nơi ẩn nấp an toàn trong cơn dông. Ở đây, nó đóng vai trò tương tự như một "chiếc lồng Faraday" (tên của nhà khoa học đầu tiên đã chứng minh rằng việc ẩn mình phía trong một cấu trúc bằng kim loại là biện pháp tốt nhất để tránh sét). Nếu sét đánh trúng xe thì điện sẽ dẫn truyền trên vỏ xe mà không xuyên vào phía trong trước khi tiếp xúc với mặt đất. Do vỏ xe bằng kim loại dẫn điện tốt hơn nhiều so với không khí trong xe, nên dòng điện cực mạnh của sét sẽ được truyền nhanh chóng xuống mặt đất. Tuy nhiên, trong tình huống này, những người ngồi trong xe tuyệt đối không được sờ vào máy thu thanh hay bất kỳ một bộ phận kim loại nào khác của xe. Và nhất là không được bỏ mui.
<EM>thay đổi nội dung bởi:<STRONG> DuyênBòMộng</STRONG>, 26-08-2010 lúc 06:34 AM. </EM>
DuyênBòMộng
Xem hồ sơ
Tìm bài viết của DuyênBòMộng
13-10-2008, 01:18 AM
#<STRONG>9</STRONG>
DuyênBòMộng
vbmenu_register("postmenu_4153226", true);
Bé còn quấn tã
<BR>
<BR>
Tham gia ngày: Jul 2008
Nơi Cư Ngụ: ...
Bài gởi: 7
Giới Tính: ...
Đô: 4,349
<B>Những chữ Song Hỷ dùng trong đám cưới từ khi nào?</B><BR><BR>Ở Trung Quốc và một số nước châu Á, nếu trên cửa ra vào hay trên tường nhà nào có dán chữ Hỷ màu đỏ thì người ta đều biết ngay rằng ở nhà đó vừa có chuyện vui. Tương truyền rằng việc dán chữ Hỷ trong đám cưới là do nhà chính trị lớn triều nhà Tống, Vương An Thạch khởi xướng. <BR><BR>Hồi ông còn trẻ lên kinh thành đi thi, được qua một nơi gọi là Gia Mã Trấn, tại trấn này có một nhà tài chủ họ Mã, trước cửa nhà treo một cây đèn kéo quân, trên chiếc đèn có viết mấy chữ: <BR><BR>Tẩu mã đăng, đăng mã tẩu, đăng tức mã đình bộ <BR><BR>(Đèn kéo quân, ngựa đèn chạy, đèn tắt ngựa dừng bước) <BR><BR>Cây đèn này đã làm cho người ta hết sức chú ý, Vương An Thạch thấy thế ghi nhớ trong lòng. Cũng vừa may hôm sau ở trong trường thi Vương An Thạch là người đầu tiên nộp quyển, quan coi thi thấy ông làm bài nhanh như thế, muốn thử sức làm câu đối xem sao, bèn chỉ lá cờ thêu hình con hổ bay treo ở trước cửa, ra vế đối: <BR><BR>Phi hổ kỳ, kỳ hổ phi, quyển hổ tàng thân <BR><BR>(Cờ hổ bay, hổ trên cờ bay, cờ cuốn hổ náu mình) <BR><BR>Vương An Thạch nhớ tới những chữ viết trên cây đèn kéo quân bèn lấy ngay làm vế đối thứ hai, lập tức đối luôn: <BR><BR>Tẩu mã đăng, đăng mã tẩu, đăng tức mã đình bộ <BR><BR>Quan coi thi thấy Vương An Thạch làm vế đối thứ hai của câu đối cũng thần tốc như thế cho nên càng khen ngợi nhiều hơn. <BR><BR>Sau khi thi xong, Vương An Thạch lại qua Mã Gia Trấn, ông hỏi thăm thì biết rằng tài chủ họ Mã vốn có cô con gái yêu chưa lấy chồng. Câu đố trên cây đèn chính là ông đưa ra để kén rể. <BR><BR>Sau khi biết như thế, Vương An Thạch lại đem vế đối của viên quan giám khảo nêu ra để đối lại và viết lên giấy đưa cho tài chủ họ Mã xem. Tài chủ họ Mã vui mừng khôn xiết, lập tức hứa gả con gái cho Vương An Thạch. <BR><BR>Không bao lâu sau Vương An Thạch kết hôn cùng cô con gái của tài chủ họ Mã. Giữa hôm cô dâu và chú rể làm lễ lạy trời đất thì các sai dịch đến báo tin: "Vương đại nhân thi đỗ rồi". Vương An Thạch nghĩ rằng bản thân mình được động phòng hoa chúc là một điều "hỷ", tên mình được nêu tên trên bảng vàng lại là một điều "hỷ" nữa, vì thế ông lấy ngay một tờ giấy đỏ, viết lên đó hai chữ "hỷ" thành một chữ "Hỷ" do ông mới sáng tạo ra để thay cho hai chữ "hỷ" đơn dán lên cửa. Vì chữ "Hỷ" này biểu hiện đầy đủ nhất không khí vui mừng trong đám cưới, cho nên trong các lễ cưới người ta đều dán chữ "Hỷ" đỏ thắm.<BR><BR>-------<BR><BR><B>Tại sao cua lại nhả bọt?</B><BR><BR>Cua là loài động vật giáp xác sống trong nước, nó giống như cá cũng dùng mang để thở. Tuy vậy, mang của cua không mọc ở hai bên đầu mà là do rất nhiều miếng xốp mềm giống như hải miên hợp thành, mọc ở hai bên phía trên của cơ thể, bề mặt được bao phủ bởi vỏ cứng. <BR><BR>Khi cua sống trong nước, từ phần càng cua và phần chân gốc cua hút nước sạch vào (ôxy hoà tan trong nước sẽ đi vào trong máu của mao mạch mang), sau khi chạy qua mang được nhả ra bởi giác quan hai bên miệng cua. <BR><BR>Tuy cua thường sống trong nước nhưng nó lại khác với cá, nó thường xuyên bò lên đất liền tìm kiếm thức ăn, ngoài ra sau khi rời khỏi nước nó cũng không bị chết khô. Đấy là do trong mang của cua dự trữ rất nhiều nước, khi rời khỏi nước mà vẫn như còn ở trong nước vậy. Nó cũng có thể không ngừng thở, hít vào một số lượng lớn không khí, nhả ra bởi giác quan hai bên miệng. Bởi vì không khí mà nó hít vào tương đối lớn, hàm lượng nước và không khí trong mang có chứa tương đối lớn, hàm lượng nước và không khí trong mang có chứa cùng nhả ra đã hình thành vô số những bọt khí, càng ngày càng nhiều, do vậy phía trước miệng đùn thành rất nhiều bọt màu trắng.<BR><BR>-------<BR><BR><B>Mắt của trẻ sơ sinh có nhìn thấy được gì?</B><BR><BR>Cho đến tận bây giờ hãy còn nhiều vấn đề chưa làm rõ được về trẻ sơ sinh mới chào đời. Mắt trẻ sơ sinh có thể nhìn được bao xa cũng là một trong những vấn đề đó. Phải chăng đứa trẻ vừa lọt lòng có thể thấy rõ ngay những vật tí xíu như các bạn. Nhưng néu thử làm thí nghiệm với các loại thiết bị thì có thể biết nhiều điều rất thú vị. Trước hết, để sống được, trẻ sơ sinh cần phải bú sữa mẹ. Hãy tưởng tượng xem dáng vẻ của một trẻ sơ sinh được mẹ bế trong lòng đang ngẩng đầu lên nhìn vào mặt mẹ, mắt của con và mắt của mẹ cách nhau rất gần có vẻ như khoảng cách đó vừa đúng là khoảng cách mà trẻ sơ sinh có thể nhìn thấy được. Đó là khoảng cách quan trọng nhất. <BR><BR>Nếu nói là quan trọng thì khuôn mặt của mẹ cũng quan trọng vì đó là cái mà trẻ sơ sinh nhận biết trước hết. Người ta nói rằng khi người mẹ từ giường của bé bước ra ngoài phòng và khi trở lại gian phòng, da của trẻ sơ sinh liền xuất hiện sự khác biệt về nhiệt độ. Qua đó có thể thấy rằng, con mắt của trẻ sơ sinh có thể nhận ra mẹ thì cũng có thể thấy được các đồ vật.<BR><BR>-------<BR><BR><B>Thế nào là hệ số phân giải của màn hình ?</B><BR><BR>Hệ số phân giải của màn hình là chỉ trên màn hình có thể hiển thị được bao nhiêu điểm ảnh. Hệ số phân giải được cấu tạo bởi độ phân giải hiển thị ngang và độ phân giải hiển thị đứng. Chẳng hạn độ phân giải là 640 x 480 có nghĩa là độ phân giải ngang là 640 điểm, độ phân giải đứng 480 điểm. Độ phân giải của màn hình màu thường dùng là 800 x 6000, 1024 x 768, 1280 x 1024. Độ phân giải càng cao thì điểm ảnh trên màn hình càng nhiều. Ký tự và hình ảnh càng hoàn chỉnh, rõ nét hơn. Đương nhiên độ phân giải còn chịu ảnh hưởng của cự ly giữ các điểm sáng nhỏ nhất trên màn hình (cự ly điểm). Cự ly điểm càng nhỏ thì điểm ảnh hiển thị càng nhiều. Thông thường khi biết được kích thước lớn nhỏ của cự ly điểm của màn hình là có thể biết được lượng điểm ảnh và độ phân giải màn hình.<BR><BR>-------<BR><BR><B>Tại sao mắt mèo một ngày biến đổi 3 lần?</B><BR><BR>Đồng tử mắt mèo có thể co lại cực nhỏ để thích nghi với ánh sáng mạnh. <BR>Dân gian Trung Quốc có câu vè về sự giãn nở ngày 3 lần của đồng tử mắt mèo như sau: "Dần, mão, thân, dậu như hạt táo; Thìn, tỵ, ngọ, mùi như sợi chỉ; Tý, sửu, tuất, hợi như trăng rằm". Điều gì khiến cho mắt mèo có năng lực đó?<BR><BR>Thì ra, con ngươi (đồng tử) của mèo rất to, và năng lực co của cơ vòng ở con ngươi rất khỏe. Ở người, nếu nhìn chăm chú vào mặt trời, con ngươi của mắt sẽ thu nhỏ lại. Nhưng chúng ta chỉ nhìn được đến một mức độ nhất định mà thôi, không thể thu nhỏ thêm nữa, vì lâu sẽ cảm thấy nhức mắt. Còn nếu chong mắt lâu lâu một chút vào nơi tối tăm, ta sẽ cảm thấy chóng mặt. <BR><BR>Nhưng mèo, dưới sự chiếu rọi của ánh sáng không như nhau, lại có thể thích ứng rất tốt. Dưới ánh sáng rất mạnh vào ban ngày, con ngươi của mèo có thể thu lại cực nhỏ, giống như một sợi chỉ. Đến đêm khuya trời tối đen, con ngươi có thể mở to như trăng rằm. Dưới cường độ chiếu sáng vào lúc sáng sớm hoặc nhá nhem tối, con ngươi sẽ có hình hạt táo.<BR><BR>Như vậy con ngươi của mắt mèo có khả năng co lại rất lớn so với con ngươi trong mắt người, do đó khả năng phản ứng với ánh sáng cũng nhạy hơn chúng ta. Cho nên, dù ánh sáng có quá mạnh hoặc quá yếu, mèo vẫn nhìn rõ ràng các đồ vật như thường.<BR><BR>-------<BR><BR><B>Tiếng nói của người tí hon và khổng lồ trong Guylive</B><BR><BR>Trong bộ phim "Guylive du ký" của Liên Xô cũ, những người tí hon nói chuyện bằng âm điệu cao, bởi chỉ có âm điệu cao mới thích hợp với cuống họng nhỏ của họ, còn người khổng lồ Pêchya thì lại nói bằng giọng thấp. Nhưng khi quay phim đó thì người lớn lại đóng vai người tí hon và các em nhỏ đóng vai Pêchya. Vậy làm thế nào để đổi được giọng nói trên phim?<BR><BR>Đạo diễn Pơtusơco cho biết, lúc quay phim các diễn viên vẫn nói giọng bình thường, còn trong quá trình quay phim, người ta đã thay đổi tông bằng một phương pháp độc đáo, căn cứ vào đặc điểm vật lý của âm.<BR><BR>Muốn làm cho giọng của những người tí hon cao lên và giọng của Pêchya thấp xuống, các chuyên gia đã dùng những băng ghi âm chuyển động chậm để ghi lời nói của các diễn viên đóng vai người tí hon. Ngược lại, họ dùng băng ghi âm chuyển động nhanh để ghi lời nói của Pêchya. Khi chiếu phim thì cho cuốn phim chạy với vận tốc bình thường. Kết quả chiếu phim phù hợp với điều mà đạo diễn mong muốn. <BR><BR>Điều này xảy ra là vì khi giọng nói của người tí hon truyền đến tai thính giả, vì số lần dao động đã nhiều hơn hẳn so với các âm thanh thông thường nên đương nhiên tông sẽ cao lên. Còn khi giọng nói của Pêchya truyền đến tai thính giả, vì số lần dao động đã ít hơn âm thanh thông thường rất nhiều, nên tông sẽ thấp xuống. Tóm lại, trong cuốn phim này, âm điệu của giọng nói của người tí hon cao hơn người thường một quãng năm, và giọng nói của Pêchya thấp hơn âm điệu thông thường một quãng năm.<BR><BR>Với âm thanh, "kính lúp thời gian" đã được vận dụng một cách độc đáo như vậy. Hiện tượng này cũng thường xảy ra khi ta vặn máy hát với vận tốc lớn hơn hoặc nhỏ hơn vận tốc thông thường<BR><BR>-------<BR><BR><B>Bức tranh kỳ lạ dưới ánh chớp</B><BR><BR>Thử hình dung bạn đứng giữa cơn dông trong một thành phố cổ. Dưới ánh chớp bạn sẽ thấy một quang cảnh kì dị. Phố đang nhộn nhịp dường như hóa đá trong khoảnh khắc: những con ngựa giữ ở tư thế đang kéo xe, chân giơ lên trong không khí; các cỗ xe cũng đứng im, trông thấy rõ từng chiếc nan hoa.. <BR><BR>Sở dĩ có sự bất động biểu kiến đó là vì tia chớp, cũng như mọi tia lửa điện, tồn tại trong một khoảng thời gian cực kỳ ngắn ngủi - ngắn đến nỗi không thể đo được bằng những phương tiện thông thường. Nhưng nhờ những phương pháp gián tiếp, người ta đã biết được tia chớp tồn tại từ 0,001 đến 0,2 giây (tia chớp giữa các đám mây thì kéo dài hơn, tới 1,5 giây). <BR><BR>Trong những khoảng thời gian ngắn như thế thì chẳng có gì di chuyển một cách rõ rệt đối với mắt chúng ta cả. Mỗi nan hoa của bánh xe ở cỗ xe chạy nhanh chỉ kịp chuyển đi được một phần rất nhỏ của milimét, và đối với mắt thì điều đó cũng chẳng khác gì bất động hoàn toàn. Ấn tượng càng được tăng cường hơn nữa vì rằng ảnh được lưu lại trong mắt còn lâu hơn thời gian tồn tại của tia chớp.<BR><BR>-------<BR><BR><B>Vì sao đạn súng thần công bốc cháy khi đưa lên mặt biển?</B>[/<BR><BR>Hai nhà hoá học Anh tin rằng họ đã giải mã được một hiện tượng bí ẩn từ 26 năm nay, trả lời câu hỏi : Tại sao những viên đạn sắt lại bùng sáng thành những quả cầu lửa lớn, khi được vớt lên từ một con tàu đắm? <BR><BR>"Chúng bắt đầu rực đỏ lên và bạn có thể cảm thấy hơi nóng toả khi chiếc bàn kê bắt đầu bốc khói", Bod Child, nay là nhà hoá học tại Các Bảo Tàng và Phòng trưng bày tự nhiên của xứ Wales ở Cardiff, kể lại. <BR><BR>Hiện tượng kỳ lạ xảy ra năm 1976, khi Child đang bảo quản những đồ vật trục vớt được từ con tàu HMS Coronation, bị đắm năm 1961. Trong mẻ lưới kéo lên là vài chục viên đạn súng thần công bằng sắt, bị một lớp vỏ cát cứng như bê tông bao phủ sau 3 thế kỷ ngủ yên dưới đáy biển. Khi dùng búa đập vỡ lớp áo ngoài này, Child sửng sốt khi thấy một viên bi sắt đột nhiên nóng lên dữ dội, đến mức hầu như đã bén lửa sang chiếc bàn gỗ kê bên dưới. Theo phỏng đoán của ông, nhiệt độ của những quả cầu sắt phải lên tới 300 - 400 độ C. <BR><BR>Nay, khi "hâm nóng" lại hiện tượng này, Child và một nhà hoá học khác, David Rossinsky, cho hay họ đã biết lý do vì sao. Ông giải thích như sau: <BR><BR>Khi chiếc Coronation chìm nghỉm xuống đáy biển, do bị bao bọc bởi nước biển mặn và giàu oxy, những quả cầu sắt bị hoen gỉ mãnh liệt. Quá trình này khiến thể tích khối cầu tăng lên, chúng nở ra, và tỷ trọng giảm xuống (thực tế, những quả bi sắt được lôi lên mặt nước nhẹ hơn nhiều so với người ta tưởng). Cùng lúc đó, những quả cầu từ từ chìm vào cát, tương tác với tầng cát đáy biển tạo nên một lớp áo cứng chắc như xi. Qua nhiều thế kỷ, những vật chất hữu cơ thối rữa ở đó gần như đã khử các kim loại bị oxy hoá này, chuyển chúng trở lại thành sắt nguyên chất. Tuy nhiên, điều cần lưu ý ở đây là thể tích khối cầu vẫn giữ không đổi, nghĩa là những lỗ rỗng (mà trước đó là vị trí của các ion sắt ) vẫn được giữ nguyên. Khi đưa quả cầu lên mặt biển và đập vỡ lớp áo xi, không khí tràn vào các lỗ rỗng này, và phản ứng oxy hoá xảy ra tức thì, dữ dội bùng lên thành ngọn lửa. <BR><BR>Nhà nghiên cứu về quá trình ăn mòn Stephen Fletcher thuộc Đại học Loughborough, Mỹ, cho rằng hiện tượng này không có gì là bất thường. Khi sắt bị oxy hoá, nó giải phóng ra năng lượng. Và vì quả cầu sắt có vô số các lỗ rỗng, nên diện tích tiếp xúc của sắt với oxy là cực kỳ lớn, và quá trình oxy hoá xảy ra cực nhanh, đến mức có thể xảy ra hiện tượng bốc cháy.<BR><BR>-------<BR><BR><B>Khi máy tính đang làm việc có thể ngắt điện không?</B><BR><BR>Như mọi người đều biết máy tính phải có điện thì mới hoạt động được, nếu không có điện tất nhiên là máy tính không thể vận hành. Nhưng thỉnh thoảng xảy ra tình trạng mất điện. Vì vậy máy tính khi bị ngắt điện thì sẽ bị ảnh hưởng gì? <BR><BR>Khi đang sử dụng máy tính mà bị mất điện thì toàn bộ dữ liệu trong máy sẽ bị mất nếu chưa copy và sẽ phải làm lại sau khi có điện trở lại. Có những trường hợp không cho phép máy tính bị ngắt điện vấn đề: đối với những thiết bị máy móc y tế đang dùng khám và điều trị cho bệnh nhân mà dùng máy tính điều khiển nếu bị ngắt điện có thể dẫn đến điều trị sai thậm chí dẫn đến tử vong cho người bệnh; chúng ta sẽ có những tổn thất kinh tế nghiêm trọng nếu ngừng điện của mạng lưới máy tính trong hệ thống hoạt động tiền tệ, những sự cố lớn sẽ xảy ra nếu ngừng điện máy tính ở căn cứ quân sự quốc phòng và trung tâm phóng vệ tinh. Vậy thì làm thế nào để máy tính không bị ngắt điện? Sử dụng nguồn điện không gián đoạn UPS là một biện pháp tốt. <BR><BR>UPS là một loại thiết bị nguồn điện điện tử. Khi xảy ra tình trạng mất điện hoặc điện nguồn không ổn định vượt quá phạm vi quy định, thì thiết bị UPS có thể cung cấp năng lượng ổn định liên tục khiến cho các máy vẫn duy trì hoạt động bình thường trong một thời gian. <BR><BR>Thiết bị điện nguồn không gián đoạn UPS chủ yếu gồm các bộ phận hoán năng trữ năng, truyền tải cấu thành. Hiện nay UPS dạng biến hoán tĩnh tại là thông dụng nhất, tùy thuộc vào khuôn thức công việc mà có thể phân thành các dạng thức dự bị, dạng thức tại tuyến và dạng hỗn hợp dự bị và tại tuyến. <BR><BR>Với các chủng loại (khác nhau), công suất khác nhau thì dung lượng trữ năng UPS (cũng khác nhau) và thời gian có thể duy trì cung cấp điện không giống nhau, do đó nên căn cứ vào tình hình thực tế để chọn lực điện nguồn UPS thích hợp. Hiện nay ở thành phố có tình trạng cung cấp điện khá ổn định nên thiết bị điện nguồn UPS được sử dụng rất ít trong các hộ gia đình có sử dụng máy tính.<BR><BR>-------<BR><BR><B>Tại sao nên xếp hồng với lê khi giấm?</B><BR><BR>Kinh nghiệm dân gian cho thấy, khi ngắt những trái hồng xanh về giấm thường rất lâu chín. Nhưng nếu người ta để mấy quả lên hay vài quả hồng chín thì những quả xanh cũng mau chín hơn hẳn. <BR><BR>Trong mỗi quả xanh đều có một loại axit gây chua, chát. Ví dụ trong hồng có axit tanin, táo có axit malic, quýt, chanh có axit xitric... Khi quả chín, các axit này bị phân huỷ dần và vị chua, chát sẽ mất đi. Màu quả cũng chuyển từ xanh qua vàng. <BR><BR>Bình thường, chỉ cần chờ đợi thì quả xanh nào rồi cũng chín, nhưng không phải ai cũng kiên nhẫn được như vậy. Mặt khác, đến vụ người ta muốn thu hoạch một lần nhiều quả chín . Vì thế cần có cách làm cho chúng chín nhanh hơn, đó là nghệ thuật giấm hoa quả. Trước thế kỷ XX, người ta không hiểu vì sao khi đưa một vài quả chín vào đám quả xanh thì quá trình chín diễn ra nhanh hơn. <BR><BR>Mọi bí mật được hé mở khi nhà hóa học Svet tìm ra phương pháp sắc ký - tức là phương pháp xác định thành phần các chất khí. Đo đạc cho thấy quả chín thường thoát ra khí ethylene. Một số quả như lê, táo chín nhanh hơn các quả hồng, mận. Chúng cũng giải phóng nhiều ethylene hơn. Loại khi này có cấu trúc phân tử gồm một nguyên tử carbon và 4 nguyên tử hyđro, Nó có tính hoạt động hóa học tương đối mạnh, xúc tiến hoạt đông hô hấp của cây, khiến oxy dễ lọt qua lớp vỏ vào quả hơn, và quả cũng chín nhanh nhanh hơn. Chính vì vậy, khi xếp mấy quả lên hoặc vài quả hồng chín vào một rổ hồng xanh thì có thể tiết kiệm được thời gian giấm.
<EM>thay đổi nội dung bởi:<STRONG> DuyênBòMộng</STRONG>, 26-08-2010 lúc 06:39 AM. </EM>
DuyênBòMộng
Xem hồ sơ
Tìm bài viết của DuyênBòMộng
13-10-2008, 01:25 AM
#<STRONG>10</STRONG>
DuyênBòMộng
vbmenu_register("postmenu_4153232", true);
Bé còn quấn tã
<BR>
<BR>
Tham gia ngày: Jul 2008
Nơi Cư Ngụ: ...
Bài gởi: 7
Giới Tính: ...
Đô: 4,349
<B>Thiệp chúc Tết bắt đầu có từ bao giờ?</B><BR><BR>Ở Trung Quốc thời xưa, thiếp chúc Tết cũng được gọi là thích, là thiếp, cũng có khi gọi là môn trạng. <BR><BR>Thiếp xuất hiện sớm nhất dưới triều nhà Tống. Thời đó rất thịnh hành việc hàng năm gửi thiếp chúc Tết. Tương truyền hoạ sỹ của triều đình Nam Tống là Lý Tung có vẽ bức "Tuế chiêu đồ" (Bức tranh sáng đầu năm), trên đó vẽ cả nhà chủ nhân đang đón tiếp khách khứa trong viện, khi đó các gia nhân trong căn nhà bên cạnh nhận những tờ thiếp giấy đỏ để mừng năm mới. Trên các tờ thiếp màu đỏ ấy người ta ghi họ tên của mình gửi tới bạn bè để tỏ ý chúc mừng. Vì loại thiếp này là nhờ người khác mang đi cho nên mới gọi là phi thiếp. <BR><BR>Ngày 25 tháng Mười Hai là tết Noel, tức là ngày chúa Jesus, người sáng lập ra đạo Cơ Đốc ra đời. Ở nhiều nước châu Âu và châu Mỹ, nơi đạo Cơ Đốc được thịnh hành, lễ Noel cũng như là ngày Tết đầu năm của các nước châu Á là ngày lễ quan trọng trong cả năm. Để tiện cho việc chúc mừng, năm 1843, quốc vương Anh đã nhờ một hoạ sỹ thiết kế tấm thiệp mừng Noel đầu tiên, từ đó về sau bắt đầu từ một tháng trước ngày Noel người ta đã gửi cho nhau thiếp mừng. <BR><BR>Năm 1911 sau cách mạng Tân Hợi, Trung Quốc tính năm theo Công nguyên, bắt đầu coi trọng ngày tết Nguyên đán, vì thế cho nên việc ăn mừng năm mới cũng theo năm mới dương lịch, thiếp chúc mừng năm mới cũng bắt đầu có từ ngày ấy.<BR><BR>-------<BR><BR><B>Đeo nhẫn có phải chỉ vì muốn làm đẹp?</B><BR><BR>Trên thế giới hiện nay, nhẫn là vật trang sức được lưu hành rộng rãi nhát. Nhưng ngoài tác dụng trang sức ra, chiếc nhẫn lại có nhiều ý nghĩa tượng trưng khác. <BR><BR>Trong thời cổ đại Trung Quốc, phi tần của các đế vương lúc bình thường đeo nhẫn bằng bạc ở tay phải, nhưng đến khi có mang thì lại đeo nhẫn bằng vàng ở tay trái. Vì chiếc nhẫn ó ý nghĩa cấm kị, cấm giới, cho nên nó mới có tên là "giới chỉ". <BR><BR>Ở phương Tây, nói chung người ta cho rằng cái nhẫn bắt đầu có từ thời Ai Cập cổ đại. Trong thời kỳ này, trên ngón tay của các vương tôn quý tộc đều có đeo nhẫn dát ngọc quý có hình một con bọ cánh cứng. Theo truyền thuyết thì loại nhẫn này có tác dụng trừ tà ma, yêu quái, bảo vệ cho người đeo nó. <BR><BR>Sau khi thói quen này được truyền tới châu Âu thì ý nghĩa đầu tiên của việc đeo nhẫn cũng thay đổi và chiếc nhẫn được gán cho những ý nghĩa tượng trưng khác. <BR><BR>Dưới thời cổ La Mã đã từng có quy định chỉ có các nhân vật quý tộc mới được đeo nhẫn bằng vàng, còn người dân thường chỉ được đeo nhẫn bằng sắt. Trên các mặt nhẫn thương có khắc họ tên, thân phận, lời chúc tụng, còn nhận của các nhà quý tộc lại thường là những con dấu dùng để đóng dấu, ký tên trên các văn kiện. <BR><BR>Đến thời kỳ trung cổ ở châu Âu, giáo hội Cơ Đốc dùng nhẫn để chỉ rõ cấp bậc trong tôn giáo của nhân viên nhà thờ. Chẳng hạn: Giáo hoàng đeo nhẫn có hình thánh Pie kéo lưới, chiếc nhẫn cũng dùng làm con dấu để đóng dấu để đóng dấu trên các văn kiên và sau khi Giáo hoàng chết đi thì phải tiêu huỷ. <BR><BR>Ở các Hồng y Giáo chủ thì ngón giữa của bàn tay phải tượng trưng cho "Thánh linh" có đeo một chiếc nhẫn bằng ngọc quý. Các giáo chủ, tu viện trưởng đeo nhẫn bằng thạch anh màu tía, các linh mục đeo nhẫn bằng vàng trên ngón trỏ tượng trưng cho "Đức Chúa con". <BR><BR>Ở các nước phương Tây, ngoài việc tượng trưng cho thân phận, địa vị của người đeo, nhẫn còn có tác dụng chủ yếu nữa là xác định quan hệ hôn nhân. Con trai, con gái chỉ cần trao đổi những chiếc nhẫn có khắc tên, lời chúc phúc rồi đeo trên ngón vô danh bàn tay trái (ngón áp út), thế là hai bên gắn bó tâm linh với nhau đến khi tóc bạc răng long. <BR><BR>Phong tục này đã lưu truyền lâu đời ở châu Âu đến nỗi ngón tay vô danh (ngón áp út) đã trở thành "ngón tay hôn nhân". <BR><BR>Bất luận là đám cưới có được cử hành theo nghi thức tôn giáo hay không, nhưng cho đến nay trong các đám cưới, người châu Âu và châu Mỹ vẫn trao đổi nhẫn cưới một cách phổ biến coi đó là điều tượng trưng cho hôn nhân.<BR><BR>-------<BR><BR><B>Vì sao con hà khoét thủng được cả đá?</B><BR><BR>Trên các bãi biển, có những tảng đá lỗ chỗ như tổ ong do hà bám. Chúng làm thế nào để có thể phá huỷ được loại vật chất cứng rắn này, trong khi chúng không hề có răng? Thì ra, con hà tiết ra một chất dịch có tính axit cao, làm cho đá mềm ra. <BR><BR>Sau đó, chúng dùng chân và vỏi làm điểm tựa rồi xoay xoay toàn thân để cho những cái gai trên vỏ cứng của chúng cọ xát vào đá và làm đá vỡ vụn. Chúng cứ kiên nhẫn đào khoét suốt đời và tạo ra các hang động trên đá. Nếu không có đá để đục lỗ, loài hà này sẽ chết. Các nhà khoa học đã nuôi thử chúng trong các bể nước không có đá. Mặc dù được cung cấp đầy đủ thức ăn, hà vẫn không lớn được, vỏ trước bị khép lại, chân co vào và còm cõi đến chết. <BR><BR>Hà đá không chỉ đào hốc trên đá mà còn đục khoét ngay trên vỏ ngoài của các loài trai, hàu. Trên một số vỏ hàu có thể tìm thấy khoảng mươi con hà đá, trông như những điếu xì gà nằm gọn trong các hốc nhỏ do chúng tạo ra. Hà sống trên đá lại có hình dạng như những quả trứng nhọn đầu. Chúng sinh sôi nảy nở rất nhanh và làm các công trình xây dựng ở các hải cảng bị đục khoét lỗ chỗ như tổ ong. <BR><BR>Hà đá chỉ chịu thua đá hoa cương. Chính vì vậy mà người ta phải phủ đá hoa cương lên mặt ngoài các công trình xây dựng ở hải cảng, ở các vùng khai thác dầu khí ven biển.<BR><BR>-------<BR><BR><B>Thực vật thuỷ sinh vì sao không thối rữa?</B><BR><BR>Giữa đầm, những cây sen, cây súng ngâm nửa mình dưới nước, kiêu hãnh xoè lá và chìa hoa lên trời. Trong khi đó, cánh đồng ngô, bông chỉ cần gặp những cơn mưa dai dẳng vài ngày, đất vũng nước là đã ngắc ngoải rồi chết, lâu dần thối rữa. Cơ chế nào đã giúp sen? <BR><BR>Rễ cây hút nước và chất khoáng trong đất, nhưng cần phải có đủ không khí nó mới phát triển bình thường. Nếu rễ bị ngâm lâu trong nước, thiếu không khí nó sẽ ngừng sinh trưởng, thậm chí chết ngạt. Khi rễ đã chết thì thân cây cũng đổ theo. Nhưng rễ của loài cây thuỷ sinh lại khác. Chúng đã thích nghi hoàn hảo với môi trường "khó thở" này. Đặc điểm rõ nhất là chúng đều có thể hấp thụ ôxy trong nước, vẫn thở bình thường trong điều kiện ít ôxy. <BR><BR>Trong lớp vỏ rễ cây thuỷ sinh đều có những khoang rỗng tương đối lớn giữa các tế bào, thông với nhau thành một hệ thống dẫn khí. Đặc biệt, biểu bì rễ cây là một lớp màng mỏng mờ đục, cho phép lượng oxy ít ỏi hoà tan trong nước thấm qua (thẩm thấu), vào trong rễ. Theo các khoang rỗng giữa các tế bào, oxy được phân tán đi khắp rễ, cung cấp đầy đủ dưỡng khí cho bộ phận này hô hấp. <BR><BR>Ngoài ra, để thích nghi với môi trường nước, một số thực vật thuỷ sinh còn có cấu tạo đặc biệt. Ví dụ như loài sen. Tuy chúng sống trong bùn, một môi trường rất yếm khí, hô hấp tự nhiên gặp khó khăn, nhưng trong ngó sen lại có rất nhiều lỗ to nhỏ khác nhau. Những lỗ này ăn thông với các lỗ trên cuống lá, đồng thời trong lá lại có nhiều khoang rỗng ăn thông với khí khổng của lá. Vì vậy ngó sen tuy nằm sâu trong bùn nhưng vẫn sống bình thường nhờ tự do thở qua mặt lá. <BR><BR>Một ví dụ khác là củ ấu, rễ của nó cũng mọc trong bùn, nhưng cuống lá phình to, hình thành rất nhiều túi khí, chứa đủ khí để cho rễ thở. Hay như bèo ong, dưới lá có rất nhiều rễ củ. Kỳ thực không phải rễ thật mà là biến dạng của lá, đảm nhiệm tác dụng của rễ. <BR><BR>Lớp biểu bì của thân thực vật thuỷ sinh cũng có tác dụng như rễ. Lớp cutin (vốn giữ cho khỏi mất nước ở mặt lá) không phát triển hoặc hoàn toàn không có. Tế bào lớp vỏ chứa chất diệp lục có khả năng quang hợp, tự tạo chất hữu cơ. Nhờ có thể hô hấp bình thường, lại có "thức ăn để ăn", nên thực vật thuỷ sinh có thể sống lâu dài trong nước mà lại không bị thối rữa.<BR><BR>-------<BR><BR><B>Tại sao người phương Tây kỷ niệm lễ Noel?</B><BR><BR>Đối với người dân các nước phương Tây, thì lễ Noel cũng như là Tết năm mới của người Việt Nam. Đó là một ngày quan trọng nhất trong năm, vì ở các nước phương Tây người ta phần lớn là theo đạo Cơ Đốc do chúa Jesus sáng lập, mà ngày lễ Noel là ngày chúc mừng chúa Jesus ra đời <BR><BR>Theo truyền thuyết thì vào một đêm mùa đông năm đầu Công nguyên, Jesus đã ra đời trong một chuồng cừu ở Bethlehem thành Jerusalem và Jesus là do thánh mẫu Maria chịu linh cảm rồi mang thai sinh ra, cho nên Jesus vốn là con của Thượng đế giáng lâm xuống dân gian để cứu loài người. <BR><BR>Vì Jesus chủ trương bình đẳng, bác ái, phản đối những kẻ thống trị là chủ nô lệ thời bấy giờ, cho nên cuối cùng ông đã bị những kẻ thống trị khép vào tội "xưng vương, mê hoặc dân chúng", đồng danh câu rút và để cho chết trên giá thập tự. <BR><BR>Để bày tỏ tình cảm, lòng kính trọng, hàng năm các tín đồ đạo Cơ Đốc ở phương Tây đều cử hành những nghi thức tưởng niệm. Nhưng hồi đầu, ngày các giáo đồ tưởng niệm Jesus không được nhất trí. Mãi tới năm 354 sau Công nguyên, Giáo hội Thiên Chúa giáo ở Rôma mới quy định lấy ngày 25 tháng Mười Hai để kỷ niệm ngày sinh của Jesus. Từ đấy các tín đồ đạo Cơ Đốc sử dụng cùng một phép làm lịch mới đã có được lễ Noel thống nhất. <BR><BR>Giáo hội Thiên Chúa giáo quy định lễ Noel vào ngày ấy, ngoài việc biểu thị Jesus giáng sinh cũng là Mặt trời tái sinh. Họ lại còn muốn dựa vào tín ngưỡng của dân gian để làm tăng thêm sức hấp dẫn của đạo Cơ Đốc. Vì thế cho nên ngay từ đầu ngày lễ Noel đã có quan hệ mật thiết với sinh hoạt thế tục, trở thành ngày hội chung cho các tín đồ Cơ Đốc giáo lẫn những người không phải là tín đồ. Cùng với sự phát triển ảnh hưởng của đạo Cơ Đốc, lễ Noel đã trở thành một ngày hội vui của nhân dân phương Tây.<BR><BR>-------<BR><BR><B>Tại sao người lớn thường tặng tiền mừng tuổi cho trẻ con vào ngày Tết đầu năm?</B><BR><BR>Ngày Tết, các em nhỏ thường rất vui vẻ và sung sướng vì được an ngon, mặc đẹp, lại còn được người lớn cho tiền mừng tuổi (gọi là "áp tuế tiền"). <BR><BR>Ngày xưa ở Trung Quốc đã lưu hành phong tục lúc giao thừa thì cho trẻ con tiền mừng tuổi (người Việt Nam ta cũng có phong tục này). Người ta làm như thế không phải là cốt đem lại một sự vui mừng gì cho con trẻ, mà chỉ là giúp cho con trẻ xua đuổi được tà ma và những điều xấu xa. <BR><BR>Người đời xưa cho rằng trẻ con sống suốt một đời thì khó lòng tránh khỏi phải chịu vài lần bệnh tật, thậm chỉ còn có thể bị chết yểu. Nhưng do người lớn chưa nhận thức đúng đắn về bệnh tật, cho rằng trẻ con mắc bệnh tật là do trúng tà. Vì thế họ cho con trẻ ít tiền để chúng hối lộ tà ma, ác quỷ, nhờ đó mà thoát khỏi những tổn hại. <BR><BR>Trong đêm giao thừa, sau bữa cơm đoàn tụ, những người lớn đem những món "áp tuế tiền" gói sẵn trong giấy đỏ phát cho trẻ con đồng thời nói vài câu khuyến khích, hy vọng chúng sẽ cố gắng học tập, chăm ngoan. <BR><BR>Cũng có khi người ta chờ cho con trẻ ngủ say, mới lén đặt "áp tuế tiền" vào dưới gối của chúng, để bọn trẻ sẽ cảm thấy ngạc nhiên và niềm vui sướng của chúng sẽ tăng thêm vào sáng hôm sau. Như vậy có thể thấy rằng việc tặng trẻ con tiền cũng chỉ nhằm tăng thêm không khí vui vẻ trong ngày Tết. <BR><BR>Ngày nay, việc cho tiền (hay còn gọi là mừng tuổi) con trẻ chỉ kéo là duy trì phong tục tập quán của đời xưa, nhưng ý nghĩa căn bản của việc này không còn như trước nữa. Người ta không những chỉ cho tiền con trẻ mà cả những người già với quan niệm: Cầu chúc sức khoẻ cho con người và cầu mong được may mắn, sung túc...<BR><BR>-------<BR><BR><B>Thực vật có chứa hoóc môn động vật không?</B><BR><BR>Năm nọ, lá dâu mất mùa, tằm lai đến tuần tuổi thứ năm, nếu nhịn đói sẽ không kéo kén được. Có người lượm được cỏ xước đem luôn lên, lấy nước phun lên lá dâu cho tằm ăn. Thật kỳ lạ! Tằm kéo kén ngay. Thì ra, thân cây có chứa chất kích thích lột xác, giống như chất mà côn trùng tự tiết ra. <BR><BR>Chính chất này làm tằm vội vàng "vứt áo bỏ giáp", lột xác hoá nhộng. Điều này thật khác thường, vì chất kích thích trong động vật và thực vật - hai ngành lớn trong giới sinh vật - không có liên quan gì với nhau. Chẳng hạn, chất kích thích trong thực vật có auxin, gibberelin, chất phân bào... không có tác dụng gì với động vật. <BR><BR>Hiện tượng này lần đầu tiên được biết đến vào năm 1966, một nhà khoa học Nhật Bản đã phát hiện trong cây thông la hán (Podocarpus chinesis) trồng ở Đài Loan có hoạt tính của chất kích thích lột xác. Từ đó, người ta mới biết giữa hai ngành này vẫn có những quan hệ lý thú. <BR><BR>Vậy các nhà khoa học đã tiến hành chọn lựa rộng rãi trong hơn 200 họ, hơn 1.000 loài cây và tìm ra hơn 100 loại chất kích thích lột xác. Ngày nay, việc ứng dụng chất kích thích này để tăng sản lượng tơ tằm không còn xa lạ nữa. <BR><BR>Điểm lý thú là chất kích thích lột xác thực vật có ưu điểm hơn hẳn chất kích thích do chính côn trùng tự tiết ra. Ngoài việc phân bố rộng, dễ kiếm, nó lại có hàm lượng rất cao, có loại cây chứa đến hơn 1 kg / 100 kg chất thô. Trong khi từ 500 kg nhộng tằm chỉ lấy được 25 gram chất kích thích lột xác. <BR><BR>Trong thực vật không những có chất làm côn trùng "chóng già" mà còn có "thuốc trường sinh bất lão" nữa. <BR><BR>Những năm 70, một nhà khoa học Tiệp Khắc chuyên nghiên cứu sự biến thái của côn trùng. Ông đem một giống sâu gọi là hồng xuân từ Prague đến Đại học Harvard ở Mỹ, và phát hiện thấy con sâu sau khi thay đổi nơi ở không hoá nhộng được, vẫn giữ nguyên trạng thái sâu non. Vì sao vậy? Đối chiếu điều kiện nuôi dưỡng ở hai nước mới thấy, nguyên nhân nằm ở tấm giấy lót dùng để nuôi cấy sâu ấy. <BR><BR>Hoá ra, trong một số loại giấy do Mỹ sản xuất có chứa chất kéo dài trạng thái sâu non hồng xuân. Lần về ngọn, thì thấy thứ cây dùng làm loại giấy này có chứa chất chống lão hoá như thung dung (Glyptostrobus pensilis), thông, thuỷ tùng, thông rụng lá (Larix gmelini). Đó là chất este methy, dẫn xuất của axit béo. Chính nó là chất làm cho côn trùng trường sinh bất lão. Tuy nhiên, thứ chất này chứa trong thực vật rất ít, phân bố cũng không rộng. <BR><BR>Vì sao thực vật lại có hoóc môn động vật. Có người giải thích rằng đó là nhu cầu tự vệ của thực vật, bởi vì côn trùng sau khi ăn những cây đó sẽ lột xác sớm hoặc dẫn tới ngộ độc, bất lợi cho chúng. Nhưng cũng có người cho rằng đây là nhu cầu sinh sản của bản thân thực vật. Tuy nhiên, đó cũng mới chỉ là các suy luận.<BR><BR>-------<BR><BR><B>Vũ khí laser hoạt động như thế nào?</B><BR><BR>Vũ khí laser khi được bắn ra, tuy không có đạn như súng pháo thường nhưng lại phát ra chùm tia laser năng lượng cao với tốc độ 300.000 km/giây. Năng lượng này tập trung rất mạnh, khi chiếu vào vật thể kim loại, trong nháy mắt sẽ làm cho kim loại nóng chảy, bốc hơi, thậm chí biến thành ion. <BR><BR>Tác dụng đó gọi là "hiệu ứng lan chảy nhiệt". Vũ khí laser phá hoại mục tiêu chủ yếu nhờ vào hiệu ứng đó. Chùm tia laser gây tác dụng lan chảy càng lớn hơn đối với cơ thể sống, thậm chí gây tử vong. Cho nên tia laser từng được mệnh danh là tia chết chóc. <BR><BR>Nếu bạn đưa kính hội tụ ra trước ánh nắng để lấy tiêu điểm sáng. Tiêu điểm này có thể làm cháy giấy. Vậy mà độ sáng của tia laser còn cao gấp vài trăm triệu, thậm chí vài tỷ lần so với ánh nắng Mặt trời. Năng lượng của nó dĩ nhiên là rất lớn. Do đó, người ta đã sử dụng vũ khí tia laser để bắn máy bay, tên lửa của đối phương. Ngoài ra, khi bắn vào mục tiêu dạng kim loại, tia laser còn sinh ra tác dụng phá hoại phụ. Đó là dạng ion hình thành dưới nhiệt độ cao của tia laser khi phát ra khỏi bề mặt kim loại, lực phản tác dụng sẽ gây phụ tải xung kích trên bề mặt kim loại, làm biến dạng, phá huỷ nhanh chóng vật thể. Đồng thời dạng ion còn phát ra bức xạ X, làm cho các linh kiện điện tử gần mục tiêu bị vô hiệu hoá. <BR><BR>Một điều cần phải nói thêm là, chùm tia laser còn làm cho người ta bị mù mắt hoặc tạm thời không nhìn thấy gì. Đó là vì mắt người giống như một thấu kính hội tụ, khi bị chùm laser chiếu vào qua hội tụ của thuỷ tinh thể sẽ hình thành tiêu điểm trong võng mạc, làm cho năng lượng laser càng tập trung hơn. Tổ chức võng mạc cực mỏng bị hấp thụ năng lượng lớn của tiêu điểm ánh sáng, sẽ nhanh chóng chuyển thành nhiệt năng làm cháy bỏng võng mạc, dẫn đến mù mắt.<BR><BR>-------<BR><BR><B>Đắng và ngọt có cùng chung "một nhà"?</B><BR><BR>Khả năng phân biệt vị ngọt và đắng do một loại tế bào gai vị giác đảm nhận. Sự khác biệt nằm ở loại hoá chất do tế bào này tiết ra. <BR><BR>Các tế bào trên lưới có khả năng cảm nhận bốn vị cơ bản là ngọt, mặn, chua và đắng, cộng với muối của một số axit. Các nhà khoa học đã nghiên cứu về cơ chế mà những tế bào này chuyển đổi sự kích thích thành mùi vị. <BR><BR>Nghiên cứu trên chuột cho thấy, có hai "hiệu lệnh" hóa học đặc biệt, một dành cho vị ngọt và một cho vị đắng, tiết ra từ cùng một gai nằm ở gốc lưỡi. Hóa chất "thông báo" vị đắng gọi là CCK đã được biết đến từ vài năm nay, hóa chất thông báo vị ngọt là neuropeptide Y (NPY) cũng nằm chung ở các gai vị giác trên lưỡi. <BR><BR>Gai vị giác là một chùm gồm 50 đến 100 tế bào, trong đó có một số tế bào được kết nối với dây thần kinh nối để gửi tín hiệu vị về não. Do đó, những tế bào không nối với dây thần kinh phải có một cách riêng nào đó để gửi thông điệp . Lời giải thích chính là các hóa chất "sứ giả" CCK và NPY. CCK có thể "bảo" những tế bào "hàng xóm" nối với dây thần kinh rằng có vị đắng trên lưỡi , còn NPY thì báo có vị ngọt. <BR><BR>Trong nghiên cứu, người ta đã phân lập các tế bào gai vị giác từ lưỡi của chuột và gắn vào chúng các điên cực siêu nhỏ. Sau đó, họ so sánh tín hiệu điện thu được khi NPY và CCK hoạt động. Kết quả cho thấy,, NPY kích hoạt loại tín hiệu hoàn toàn khác với CCK, chứng tỏ chúng kích thích những phản ứng vị giác hoàn toàn khác. <BR><BR>Thật ngạc nhiên khi NPY có phản ứng đối lập với CCK và điều này bảo đảm rằng bộ não nhận được tín hiệu rõ ràng của từng vị trên lưỡi. <BR><BR>Ngoài ra, khi nhuộm màu các tế bào gai vị giác để xem chúng chứa NPY hay CCK, người ta nhận thấy một số tế bào chưa cả hai. Khi đó "những tế bào này có thể giải phóng cả hai peptide trên khi trên lưỡi có vị ngọt hoặc đắng". Nếu đó là đắng thì CCK sẽ "cảm nhận" vị đắng, đồng thời kiềm chế vị ngọt, do đó chỉ có "thông điệp đắng" được tới não.<BR><BR>-------<BR><BR><B>Tại sao các hoàng đế của nước Nga được gọi là Sa hoàng?</B><BR><BR>Về vấn đề này, đầu tiên phải nói tới nhà độc tài của thành La Mã thời cổ đại Cesar. Năm 45 trước Công nguyên, Viện Nguyên Lão La Mã đã dựa vào chiến công của Cesar cũng như quyền thế và tài sản cực lớn của ông ta để tuyên bố Cesar là nhà độc tài trọn đời. Tuy rằng hồi bấy giờ, La Mã theo thể chế cộng hoà cổ đại, nhưng quyền lực cá nhân của Cesar đã lên tới đỉnh cao. <BR><BR>Sau khi ông chết đi, tên của ông đã trở thành từ tượng trưng cho kẻ độc tài, cho kẻ quân chủ chuyên chế, vì thế nhiều tay quân chủ chuyên chế ở các nước phương Tây đã dùng Cesar làm danh hiệu của mình, để nói lên quyền thế và uy lực tối cao của mình. <BR><BR>Ngày 16 tháng giêng năm 1547, hoàng đế Ivan Đệ Tứ của nước Nga (cũng gọi là Ivan Hung Bạo) lên nắm quyền. Tước hàm chính thức của ông là Đại công tước Moxcva và toàn cõi Nga. Ivan Đệ Tứ đã không thoả mãn với cái tước hiệu Đại công tước, vì thế lúc đội mũ miện, ông tự xưng là Sa hoàng. Chữ Sa là chuyển âm của từ La tinh Cesar, tức là ông ta tự coi mình là Cesar và tỏ ý rằng mình sẽ trở thành độc tài của toàn cõi Nga, xây dựng lại một đế quốc cường thịnh như La Mã xưa. Từ đó Sa hoàng trở thành danh hiện của các quân vương ở Nga. Còn nước Nga trở thành "Nước Nga của Sa hoàng". <BR><BR>Năm 1721, Pitotr Đại Đế đổi danh hiệu là Hoàng đế, nhưng nói chung người ta vẫn gọi ông là Sa hoàng và có khi dùng cả Sa hoàng lẫn Hoàng đế.
<EM>thay đổi nội dung bởi:<STRONG> DuyênBòMộng</STRONG>, 26-08-2010 lúc 06:43 AM. </EM>
DuyênBòMộng
Xem hồ sơ
Tìm bài viết của DuyênBòMộng
Trang 1/3
<STRONG>1</STRONG>
2
3
>
<BR>
<STRONG>«</STRONG> Ðề Tài Trước | Ðề Tài Kế <STRONG>»</STRONG> <BR>
Tiện Ích
Tạo trang in
Email trang này
Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn
Bạn <STRONG>không được quyền </STRONG>đăng bài
Bạn <STRONG>không được quyền</STRONG> trả lời bài viết
Bạn <STRONG>không được quyền</STRONG> kèm dữ liệu trong bài viết
Bạn <STRONG>không được quyền</STRONG> sửa bài
BB code is <STRONG>Mở</STRONG>
Smilies đang <STRONG>Mở</STRONG>
[IMG] đang <STRONG>Mở</STRONG>
HTML đang <STRONG>Tắt</STRONG>
<STRONG>Chuyển đến</STRONG><BR> Khung Ðiều Chỉnh Nhắn tin Ðang theo dõi Phúc Trình Vãng Lai Kiếm Trong Diễn Ðàn Trang Ðầu Những Thông Tin Của Diễn Đàn Hoa Học Trò Thông Báo Từ BBT Trò Chuyện Cùng BBT Sổ Bìa Đen Chương Trình Phát Thanh HHT Nghe Truyện Online Quà Tặng Âm Nhạc H2T Radio / Đường Yêu Online Bóng Mát Thời Gian Phòng Truyền Thống HHT - Nơi tôi có bạn Các cuộc thi của Diễn Đàn Chào Đón Thành Viên Mới Cuộc thi Ảnh HHT 10 năm Góc Cảm Xúc Cảm Nhận Cuộc Sống Túi Khôn Nhân Loại Đường Vào Tình Yêu Lượm Lặt Và Cất Giữ Những Lá Thư Tình Lời Trái Tim Muốn Nói Lưu Bút Tuổi Hoa Văn Thơ Tuổi Tím Vườn Thơ Chiều Tím Vườn Thơ Lá Cải Thơ Cho Ba Mẹ/Quê Hương Thơ Sưu Tầm Thi Thơ Đối Đáp Truyện ngắn - Truyện dài Truyện Ma (Kinh Dị) Truyện Tranh Truyện Cổ Tích & Thần Thoại Tác Giả Là Tôi Đã Hoàn Thành HHT - Bé mười tuổi vẫn còn son Giao Lưu Album Hình Thành Viên Phỏng Vấn Gương Mặt HHT Họp Mặt Đồng Hương CLB Tán Dóc & Nổ Nhí Nhố Những Hình Ảnh Dzui Dzẻ Nhịp Cầu Cung Chúc Tuổi Chúng Mình Khéo Tay - Hay Làm Góc Nội Trợ Thì Thầm Con Gái Điệu Một Chút Công Viên Các Hoàng Tử Gỡ Rối Tơ Lòng Trắc Nghiệm Vui Điều Hay Ý Lạ Danh Ngôn Trao Đổi & Học Hỏi Góc Học Tập Thư Viện Ebooks Bàn Tròn Thi Đại Học Đố Vui Lĩnh Thưởng Đố Vui Giải Trí Vui Chơi Giao Lưu Ngoại Ngữ Pháp/Đức/Việt Trung/Nhật/Hàn/Việt Máy tính & Internet Đồ họa Thiết kế web Điện Thoại Di Động Nhạc Chuông Trò Chơi/Tiện Ích Themes / Hình nền Tin Tức Tin Tức/Sự Kiện/Bình Luận Văn Hóa Nghệ Thuật Tài Tử Hình Diễn Viên - Ca Sĩ Lăng Kính Cuộc Sống Hình Ảnh Đẹp Sân Bóng ATC FC Du Lịch Thắng Cảnh Giải Trí Online Ca Sĩ *HHT* Việt Rap Âm Nhạc Việt Nam Nhạc Yêu Cầu Yêu Cầu Đã Đáp Ứng Âm Nhạc Nước Ngoài Âm Nhạc Châu Á Rock Dịch lời bài hát Nhạc Không Lời/Giao Hưởng Video Clips & Flash **Hài** Từ Âm Nhạc Đến Trái Tim Xem Phim / Bình Luận Phim Bộ Phim Online Phim Lẻ Phim Hoạt Hình Trung Tâm Thương Mại HEAD OFFICE <BR><BR>
Múi giờ GMT. Hiện tại là 11:03 AM.<BR>
-- Default Style -- ICE -- kfblue -- night
-- English (US) -- Viet Nam
<STRONG>Trang Chủ - Lưu Trữ - Trở Lên Trên </STRONG><BR>
Powered by: vBulletin Version 3.7.2 <BR>Copyright ©2000 - 2010, Jelsoft Enterprises Ltd.
vBCredits v1.4 Copyright ©2007 - 2008, PixelFX Studios
folder="./RTE/"
@import url( ./RTE/mviet.css );
.highslide IMG {
CURSOR: url(highslide/graphics/zoomin.cur), pointer !important
}
try {
_uacct = "UA-8319708-1";
urchinTracker();
} catch(err) {}
Loading...
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top