Chương 1

Năm 1880, cuối cùng tôi cũng có dịp về thăm lại mảnh đất quê hương tôi đã cách xa gần năm chục năm.

Tôi sinh ra và lớn lên trong một thành phố phồn hoa gần như sánh ngang với thủ đô thời bấy giờ, và rồi đi học xa xứ, lấy vợ và đón cha mẹ tới sống cùng luôn.

Bẵng đi một thời gian dài, do phải dành nhiều thời gian cho việc xử lí giấy tờ sổ sách trong sở, tôi đã quên khuấy mất cái ý tưởng về thăm lại quê cũ.

Một trong những lí do khác ngăn tôi trở thành kẻ hồi hương sớm hơn, là vì chiến loạn. Cha mẹ tôi, với nghề nghiệp là những thương nhân, thường xuyên đi đi về về để đón những chuyến hàng từ cảng quê tôi mà cũng có ngày không lựa chọn về đấy nữa.

"Chiến loạn lắm, người ta đánh mấy tay cảnh sát trưởng rồi vác cuốc thuổng gậy gộc đi khắp nơi ấy."

Có một lần, tôi tình cờ nghe được cha mẹ tôi nói thế với nhau, và đó cũng hẳn là lí do khiến cả hai đấng sinh thành đều thống nhất sẽ đến vùng khác buôn bán.

Dù sao thì nơi đó loạn lạc thành ra như vậy rồi, rất có thể ngoài cha mẹ tôi ra, thì những thương nhân nào mà có ý thức một chút về việc hàng hóa hay tính mạng của họ quan trọng hơn, thì cũng sẽ rời bỏ cái nơi từng là chốn cập bến cho cả những tàu buôn nước ngoài và tàu buôn của xứ.

Lần về thăm quê này, cũng phải đến vài chục năm kể từ khi tôi đọc được mẩu tin trên báo, viết về việc những cuộc chiến loạn chống đối chế độ của cái tầng lớp đặc thù chủ yếu tập trung ở thành phố ấy đã bị dẹp sạch, dù rằng rất vất vả.

Sau ngần ấy năm chiến loạn kết thúc, tôi cũng đoán là thành phố trong ký ức của tôi thế nào cũng đã nhộn nhịp trở lại như thuở nào, nên cũng có ý muốn dẫn vợ con về thăm.

Vả lại lần này về thăm quê, cũng là vì tôi có việc cần phải suy ngẫm và tò mò nữa.

Vài ba tuần trước, tôi nhận được một lá thư, mà địa chỉ lại từ quê nhà tôi. Nhìn nơi gửi mà tôi không thể nhớ được là ai, phải đến lúc trông thấy cái tên kí bút trên đó, tôi mới nhận được ra.

Đó là lá thư từ một người bạn cũ của tôi, thời gian đầu khi tôi mới chuyển đi, cả hai cũng trao đổi thư từ như những người bạn tốt, nhưng khi chiến loạn xảy đến, tin tức của bạn tôi cũng mất tăm, làm tôi cứ tưởng gã ta đã chuyển đi nơi khác hoặc không còn có nhu cầu duy trì tình bạn với một kẻ đã ở nơi đất khách quê người là tôi.

Đó chỉ là hiểu lầm, tôi nhớ mang máng trong lá thư, sau lời chào hỏi khiến tôi cảm thấy mình vẫn còn rất được quý mến, thì gã ta còn muốn hỏi tôi có định về thăm quê không.

Gã hỏi vậy, tôi thấy giờ về thăm quê nhà cũng chẳng có vấn đề gì, nên cũng viết thư trả lời rồi sắp soạn hành lí chờ ngày lên đường.

Vả lại, ngoài việc rủ tôi về thăm quê, gã ta còn có ý nhờ vả tôi điều gì đấy mà chỉ có tôi mới làm được, cái này thì thật sự khiến tôi tò mò.

"Chúng ta sắp đến nơi rồi phải không?" - Vợ tôi, với chiếc váy màu mận, phần mông váy bồng lên do đeo chiếc lồng váy mà phái nữ rất ưa chuộng bên trong, đang dựa tay lên thành tàu, nàng hỏi.

Tôi nhìn về phía xa, nhìn mãi, cuối cùng cũng thấy thấp thoáng ánh đèn phía xa. Trời đã đang tối dần, nhưng có cái gì đó mách bảo tôi, một cách rõ ràng và sâu nặng khắc trong tâm khảm.

Rằng chính đó chính là quê hương tôi.

"Sắp rồi, thưa bà." - Người lái tàu nói. "Yên tâm là khi tàu cập bến thì ông bà vẫn còn thấy trời còn lờ mờ."

Vợ tôi thấy ông ta khéo ăn nói, nên cũng quay sang tám chuyện dọc đường đi cho đỡ buồn.

"Dân nơi này có sùng đạo lắm không thưa ông?" - Nàng hỏi.

"Có chứ, Terra Santa mà lại. Bây giờ thì không chứ nó từng có một thời là địa điểm lí tưởng cho những người hành hương đấy thưa bà."

À, 'nơi này' trong lời vợ tôi là ý chỉ Terra Santa quê tôi.

Vợ tôi là một người đàn bà sùng đạo, nàng lui tới những nhà thờ rất thường xuyên. Thời gian đầu mới cưới nàng, ai cũng khen tôi may phước khi cưới được một cô vợ giàu lòng yêu kính Chúa như vậy.

Người tin yêu Thiên Chúa như nàng, hẳn là phước lành và may mắn luôn tràn trề.

"Mà đến Terra Santa ấy, tôi nghĩ bà nên ghé thăm nhà thờ lớn, thưa bà. Đó là một nhà thờ tồn tại gần một thế kỷ nay rồi mà trông vẫn còn hùng tráng như thế, hẳn kiến trúc và cảnh bên trong lẫn bên ngoài sẽ khiến bà thích thú."

Vợ tôi gật đầu và nghe hết những lời ấy, trong khi tôi đang nhớ lại cái hình bóng của nhà thờ mà người lái tàu vừa nhắc đến với hai chúng tôi.

Nhắc mới nhớ, người bạn của tôi cũng là linh mục trong nhà thờ lớn.

Tôi nói với vợ rằng thế nào chúng tôi cũng sẽ đến tham quan nhà thờ, vì người bạn mà tôi cần gặp cũng có công việc ở đó.

Thuyền chúng tôi cập bến ngay khi ánh sáng cuối ngày tắt lịm, tôi đưa tiền, cũng thầm đánh giá cao tay lái tàu này không phải dạng nói khoác.

Tôi đỡ nàng xuống khỏi tàu. Vợ tôi nhìn quanh một vòng, và bảo với tôi thế này:

"Chỗ này không giống những gì anh kể lắm, em thấy nó buồn nhiều hơn là vui nhộn đấy."

Tôi cũng thấy ngạc nhiên, vì cái tầm giờ này đáng lẽ ra bến tàu cũng phải đông vì những chuyến hàng, song lúc này trước mắt tôi lại còn cảnh con phố buồn tẻ, vắng người.

"Anh muốn tìm chỗ trọ trước hay đi thăm bạn anh trước?" - Nàng hỏi tôi

"Ta cứ đi tìm chỗ trọ trước đã." - Tôi đáp.

Cảnh phố chẳng có thay đổi gì mấy. Trời tối, chúng tôi men theo con đường lát đá đẹp đẽ nhưng bụi nặm, vợ tôi, người từ lúc xuống bến tới giờ luôn có gắng nhìn cảnh hiện tại mà tưởng tượng ra cái thời vàng son trong kí ức của tôi trông ra làm sao, chân mày thanh tú đã hơi nhíu lại vì vô tình trông thấy mấy vết bẩn đen bám trên thành những căn nhà dọc trên đường.

Cũng may là nơi này tuy tồi tàn nhưng ánh sáng thì vẫn còn. Trước và trong mỗi ngôi nhà, chúng tôi vẫn còn thấy cái ánh đèn màu vàng ấm áp, và chúng tôi thì dựa vào đó để đi đường.

Có lẽ chính chiến loạn là tác nhân phá hoại vẻ đẹp ban đầu của thành phố này, tôi nghĩ bụng, và cũng phải thú nhận một cách thật lòng rằng tôi, có phần nào đấy thấy thất vọng và hụt hẫng khi thấy cảnh giờ không được như xưa.

Đành là chiến tranh đã qua rất nhiều năm, nhưng hình như nơi này vẫn chưa gượng dậy được.

Chúng tôi không khó để tìm được nơi cho thuê trọ. Cũng có, nhưng như dự đoán, khách không đông. Tôi đã mong đợi chủ quán là người người luống luống tuổi tôi, để có khi còn nhận ra nhau, nhưng rất nhanh sau đó tôi đã phải thất vọng thêm.

"Vùng này chẳng được mấy người là dân bản địa cũ nữa đâu thưa ông." - Người đàn ông nói, trong khi đang chuẩn bị bữa tối cho những vị khách ít ỏi. "Họ chủ yếu lánh đi để tránh chiến loạn từ lâu lắm rồi, mấy người ở lại cũng có còn sống được mấy ai đâu."

Tôi thở dài.

Vợ tôi nắm lấy tay tôi, an ủi.

"Không sao, còn có bạn anh ở đây mà."

Tôi gật đầu với nàng.

Sau bữa tối, mấy vị khách lật đật trở về phòng, còn mỗi tôi và vợ là còn ngồi bên dưới.

Tôi không biết đường đến nhà bạn, đành phải hỏi tay chủ quán dù trông gã có lẽ cũng không hiểu biết hơn tôi là mấy.

"Nhà của linh mục Shiba á? Tôi cũng không rõ lắm, tôi mới đến đây được một hai năm thôi, cũng không nghe đến cái tên đấy.

Tôi nhìn vợ mình với một ánh nhìn ái ngại, ý rằng có lẽ nàng không cần đi cùng tôi để tìm người đâu.

Trời đầu đông ở đây se se lạnh, đôi lúc có một cơn gió từ đâu thổi qua. Tôi đã xác định rằng sẽ lần mò xung quanh nơi này, nhưng chẳng lẽ lại bắt nàng cũng chịu cực y như vậy?

"Sao anh không hỏi người đi đường nhỉ?" - Nàng hỏi. "Có lẽ họ sẽ biết thì sao?"

Nàng cũng là kiểu người hay tò mò như tôi, có lẽ sự khó khăn để tìm ra người nọ đã thành công gợi lẻn sự hiếu kỳ ở nàng, nên vợ tôi quyết đi cùng cho bằng được.

Vậy là chúng tôi lại cùng nhau đi sâu vào trong phố, và trước tiên thì phải đến nhà thờ trước đã.

Có lẽ một địa điểm lớn sẽ dễ tìm hơn là một người, chúng tôi đều nhất trí như thế.

Quả nhiên, không mất quá lâu để chúng tôi đến được nhà thờ ấy.

Vợ tôi tròn xoe mắt, vì nàng chưa từng được thấy một công trình tôn giáo nào lại đẹp đẽ thế này.

Những ánh đuốc cháy rập rờn trong nhà thờ rọi cho chúng tôi nhìn thấy nhau. Trên những cửa kính màu, vợ tôi trầm trồ vì những hoa văn là tranh chân dung Thiên Chúa, Đức Mẹ và minh họa lại một vài phân cảnh trong kinh thánh. Mùi thơm của nến quanh quẩn nơi đầu mũi, mang lại cho chúng tôi cảm giác dễ chịu hơn hẳn, sau hai ngày đường để đến được nơi này, Terra Santa.

Tôi ngắm nghía lại, và thấy vui trong lòng vì hình như khác với con phố ngoài kia, nơi này sạch sẽ không bám bụi, cái nét đẹp từ những đường chạm tinh tế trên công trình vẫn còn nguyên vẹn.

Cứ như đây là chốn duy nhất trong trấn mà tôi vẫn còn thấu rõ được vẻ đẹp của nó từ thuở xưa không thay đổi.

Vợ tôi ngồi xuống một cái ghế, chắp tay lại cầu nguyện. Thấy vậy, tôi cũng ngồi xuống và làm theo nàng.

Có lẽ vợ tôi đang cầu nguyện cho gia đình, như nàng vẫn hay làm thế, và sám hối cũng như bày tỏ lòng biết ơn.

Nàng đã cầu nguyện hết, tôi cũng không nghĩ được thêm cái gì để nguyện cầu, đành chắp tay cầu một cách chân thành rằng tôi sẽ sớm gặp được và giúp bạn tôi cái việc mà gã cần đến mức tha thiết mong tôi ghé lại quê nhà.

Tôi đã nghĩ bụng, bạn bè bao nhiêu năm, chẳng lẽ họ nhờ mà ta lại không giúp? Chưa kể là đằng nào cũng một công ghé thăm quê nhà, tạt qua thăm bạn và giúp người chút chuyện cũng là việc tốt.

Tôi mở mắt ra, định đứng dậy thì vợ tôi lại níu áo tôi lại.

Tôi ngạc nhiên.

"Sao thế?"

"Hay anh thử hỏi người phụ nữ kia đi." - Cô ấy đang nhìn sang hướng chéo với cả hai, thì thầm với tôi.

Tôi trông theo hướng mắt của cô ấy, vậy mà thật sự thấy một người ngồi ở đó, đang thành tâm chắp tay cầu nguyện.

Đó là một người đàn bà với những nếp nhăn hiện lên rõ rệt trên gương mặt, dáng người nhỏ, bộ quần áo đã cũ, giống như quần áo của bất kì người dân nào ở nơi này mà tôi đã trông thấy suốt từ lúc đến Terra Santa đến giờ.

Vì một lí do nào đó không biết, nhưng ngay lúc nhìn thấy người đàn bà có vẻ nhạt nhòa tầm thường này, có cái gì đấy dấy lên trong tôi, thôi thúc tôi hãy đến mà hỏi người đàn bà ấy.

Chờ cho người đàn bà ấy cầu nguyện xong và đã đứng dậy, tôi mới rời khỏi chỗ ngồi và từ từ tiến đến bên bà ta, lịch sự bắt chuyện.

"Thưa bà, bà có phải người ở đây lâu năm không?"

Người đàn bà có vẻ ngạc nhiên vì bị bắt chuyện bất ngờ, đôi mắt nâu của bà ta nhìn tôi từ đầu đến chân, theo cái cách mà người ta muốn nói một cách mạnh bạo thì là thô lỗ.

"Ông là..."

Tôi vẫn giữ nụ cười, đáp lời bà ta:

"Tôi từng là người ở đây, có điều đã xa xứ lâu lắm rồi, giờ về đây tôi chẳng biết ai ngoài cái tên một người bạn cũ."

"Nếu bà có biết linh mục Shiba thì thật tốt quá, tôi đang tìm ông ấy."

Người đàn bà vẫn giữ thái độ bình thản, thế mà khi nghe được cái tên nọ thì bắt đầu phản ứng lại.

"Ông tìm ông ấy có việc gì?"

Tôi không thích việc bị hỏi một cách thô lỗ như vậy, nhưng đồng thời trong lòng cũng mừng khôn siết. Tôi chắc mẩm người đàn bà này biết ông bạn cũ của tôi rồi, nên mới lấy ra một phong thư từ túi áo đưa ra cho bà ta xem.

"Tôi là bạn cũ của linh mục Shiba, mấy tuần vừa rồi ông ấy có viết thư rủ tôi về thăm quê cũ, đây bà xem, đây hẳn là bút tín của ông ấy phải không?"

Người đàn bà nghi hoặc nhìn lá thư trên tay tôi, và phải đến lúc tận mắt trông thấy cái tên được kí trên đó, bà ta mới khẽ thả lỏng chân mày.

"Đi theo tôi." - Bà ta bảo. "Tôi biết đường tới nhà ông ấy."

Bỏ qua thái độ của bà ta từ nãy đến giờ, tôi sung sướng đến độ quay lại chỗ vợ tôi ngay lập tức, và định bụng bảo với nàng, nhưng nàng đã đọc được biểu cảm của tôi.

Nàng khoác lấy tay tôi, và gật đầu.

Chúng tôi đi theo người đàn bà kì lạ đó vào trong những con đường ngoằn nghèo bụi bặm.

Quê tôi mặc dù lúc này trông cũ kĩ là thế, nhưng không biết tại sao, có thể là do chính tiếng gọi cội nguồn của một người con xa xứ đã lâu nay trở về, tôi lại dần lờ mờ thấy được trong cái bóng tối đìu hiu này, hình như phong cảnh quê hương tôi đang dần hiện ra trước mắt.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top