Người Mỹ và Chiến tranh Việt Nam
Người Mỹ và Chiến tranh Việt Nam
Chương 10
Nixon và Kissinger
Từ một đứa học trò tiểu học thường bị những đám trẻ thuộc nhóm Đức
Quốc xã ăn hiếp ở quê nhà, rồi thành một anh binh nhì đào những hố cá
nhân đầy đất đỏ trong trại lính Mỹ ở South Carolina... cho đến khi được
ngồi trong căn phòng lớn nhất ở tầng lầu thứ bẩy của Bộ Ngoại giao
Hoa Kỳ, đời của Kissinger là một cuộc đời ngoại hạng - dựa trên bất cứ
tiêu chuẩn nào. Sự nghiệp của Kissinger được nhiều người ca tụng,
nhưng cũng không thiếu kẻ dèm pha, đả kích.
Heinz Alfred Kissinger sanh năm 1923, tại Furth, một làng nhỏ ở ngoại
ô thành phố Nuremburg, Đức. Mẹ ở nhà nội trợ; cha dạy học. Phía bên
nội thích con cái theo ngành sư phạm; phía bên ngoại thì giàu và trung
lưu hơn. Theo lời bà mẹ kể lại, lúc còn nhỏ Kissinger thích đọc sách,
hay trầm tư, và rất ngoan học kinh đạo. Nhưng năm ông chào đời cũng
là năm những luồng sóng bài Do Thái đang nổi lên ở Đức vài năm sau
đệ nhất thế chiến. Ở Nuremberg, một đảng viên cuồng tín Đức Quốc xã
là Julius Streicher xuất bản một tuần báo, kêu gọi triệt tiêu tất cả những
người Do Thái [1] . Năm 1935, phong trào bài Do Thái ở Đức lên gần
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
cực độ khi Bộ luật Nuremberg cấm hôn phối giữa Đức và Do Thái; cấm
Do Thái không được hoạt động hay làm nhiều ngành nghề, trong đó có
nghề dạy học - một nghề duy nhất mà cha của Kissinger có thể đem lợi
tức về nuôi gia đình. Khi thấy chủng tộc Do Thái đang bị dần dần cô
lập, mẹ của Kissinger - có thân nhân đang ở New York - quyết định ra
đi. Tháng 8 năm 1938, khoảng ba tháng trước ngày những đám đông
cuồng tín Đức Quốc xã nổi lên đốt phá, huỷ diệt văn hoá, định chế xã
hội và tôn giáo của Do Thái (được gọi là Kristallnacht), Kissinger,
người em trai, và song thân rời Đức di cư qua Mỹ. Đến Mỹ, Kissinger
đổi tên Heinz thành Henry - Henry Alfred Kissinger.
Kissinger hội nhập vào xã hội Mỹ chậm hơn những người bạn cùng
lứa, có lẽ tại thích đời sống nội tâm, nhưng không đến nổi bị thụt lùi
đằng sau. Từ bậc trung học, Kissinger làm việc ban ngày, đi học ban
đêm. Theo học bạ ở trường, Kissinger học giỏi, nếu không nói là xuất
sắc, ở những năm cuối của bậc trung học và năm đầu ở trường đại học
City College of New York. Kissinger nói mộng của ông rất đơn giản:
chỉ học ra trường đại học và hành nghề kế toán. Và có thể Kissinger đã
trở thành một kế toán viên nếu Hoa Kỳ không nhảy vào thế chiến thứ
hai. Tháng 2 năm 1943, Kissinger bị động viên và lên đường nhập ngũ.
Trong thời gian thụ huấn căn bản quân sự ở trung tâm huấn luyện
Camp Croft, South Carolina, Kissinger được hợp thức hoá trở thành
công dân Hoa Kỳ. [2]
Sau khoá căn bản quân sự Kissinger và tất cả những tân binh khác được
thi một khoá thi định lượng khả năng chuyên môn. Quân đội Hoa Kỳ
thường tuyển chọn những quân nhân ưu tú bằng loại thi tuyển này, để
lựa ra các quân nhân có khả năng chuyên môn và gởi đi học các lớp
huấn luyện đặc biệt cao hơn. Kissinger được tuyển chọn và gởi về một
đại học ở Pennsylvania để tiếp tục huấn luyện. Ở khoá huấn luyện đặc
biệt này, so với đám bạn quân nhân ưu tú đồng môn, Kissinger đã
chứng tỏ ông ta ưu tú hơn. Theo bạn bè kể lại, lúc nào Kissinger cũng
kè kè có sách vở bên người: ăn, ngủ, thở, đều với sách vở. Niên học đó
Kissinger lấy 12 lớp và được điểm ưu cả 12. Nhưng khoá học chưa đầy
một năm thì bị đình chỉ vào tháng 4.1944: Hoa Kỳ chuẩn bị đổ bộ lên
Âu Châu; quân đội cần tất cả quân nhân để tác chiến, dù ưu tú, trí thức,
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
hay là không. Kissinger không muốn ra tác chiến nên thi vào quân y để
tránh. Ông đậu khoá thi nhưng không được tuyển chọn. Kissinger và
nhóm bạn bị đưa về trại Fort Claireborne, Louisiana, nhập vào Sư đoàn
84 bộ binh, tiếp tục huấn luyện kỹ thuật tác chiến để chuẩn bị đổ bộ lên
Âu Châu. Ở Sư đoàn 84 bộ binh, Kissinger gặp một người làm đời ông
thay đổi.
Tư lệnh Sư đoàn 84 là một thiếu tướng. Ông thiếu tướng này có một
binh nhì làm việc cho ông, vừa là thông dịch viên, vừa và chuyên viên
về chiến tranh tâm lý. Nhưng binh nhì Fritz Gustav Anton Kraemer
không phải là một binh nhì tầm thường. Sanh năm 1908 ở Đức, trong
một gia đình thượng lưu người gốc Phổ (Prussia). Gia đình Kraemer
khinh bỉ Hitler, coi Hitler chỉ là một tên hạ sĩ quèn gặp thời. Kraemer
có chứng chỉ ở London School of Economics và hai bằng tiến sĩ ở Đại
học Frankfurt và Đại học Rome. Đang làm việc cho Liên hội Quốc gia
(League of Nations, tiền thân của Liên hiệp quốc bây giờ) ở Ý thì đệ
nhị thế chiến xảy ra. Kraemer quyết định sống cuộc sống tự lưu đày ở
xứ người, không muốn trở lại Đức. Khi Mỹ tham chiến, Kraemer qua
Mỹ đầu quân. Trong thời gian phục vụ tại Sư đoàn 84, ban huấn luyện
cần người nói tiếng Đức để giả làm đối phương trong các cuộc tập trận,
và Kraemer tình nguyện giả làm sĩ quan Đức trong những lần tập trận
đó. Vị tư lệnh Sư đoàn 84 để ý Kraemer và gọi ông về làm việc trong
bộ tư lệnh sư đoàn. Ngoài nhiệm vụ là thông dịch viên, Kraemer còn
phụ trách về tâm lý chiến: giải thích về ý thức hệ Đức Quốc xã và sự
nguy hiểm của Hitler ở Âu Châu. (Vào đệ nhị thế chiến, Hoa Kỳ động
viên tất cả mọi thành phần trong xã hội, và ít người được miễn dịch như
những cuộc chiến mà Hoa Kỳ liên hệ đến sau nầy. Một số đông tân
binh là những giáo sư, sinh viên, trí thức... Và các bộ tư lệnh thường có
những buổi học tập về tâm lý chiến để giải thích sự gia nhập của Hoa
Kỳ vào thế chiến chống lại trục quân sự Đức - Ý - Nhật.)
Một hôm, Kissinger là cử toạ trong một bài diễn thuyết của Kraemer.
Nghe Kraemer giảng xong, Kissinger viết cho Kraemer một lá thư
ngắn, tự giới thiệu, và đề nghị Kraemer một cách diễn thuyết hay hơn.
Kraemer (lớn hơn Kissinger 16 tuổi) hơi sửng sốt về tính chất thẳng
thắn của Kissinger, nhưng cũng muốn gặp coi Kissinegr là ai. Gặp
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
nhau, Kramer thích lối suy nghĩ của Kissinger (Kissinger có một bộ óc
chính trị khác thường, Kraemer nói cho Kissinger biết); trong khi
Kissinger thích tính ngạo mạn, thái độ bất cần và phong cách quí tộc
của Kraemer. Quen được Kraemer làm thay đổi cuộc đời của Kissinger:
chỉ trong ba năm, từ một anh binh nhì vô danh, với ước vọng tầm
thường trở thành một kế toán viên, Kissinger được mọi người chú ý và
- quan trọng nhất - nhờ Kraemer, Kissinger đã khám phá ra những tiềm
năng trí thức chưa được phát triển đúng mức bên trong.
Khi Sư đoàn 84 bộ binh đổ bộ lên Âu Châu và tiến vào nước Đức, thiếu
tướng Bolling, tư lệnh sư đoàn, nhận lời tiến cử của Kraemer, cho
Kissinger về làm tài xế, thông dịch viên và tuỳ viên cho ông. Trong
thời gian các sư đoàn Hoa Kỳ được lệnh tạm thời quản trị các vùng
trong phạm vi trách nhiệm của họ, vì không đủ chuyên viên hành chánh
rành cả hai ngôn ngữ Anh - Đức, Kissinger được giao trách nhiệm quản
trị cả một quận lỵ nhỏ ở gần Frankfurt. Tháng 6.1945, mang lon trung
sĩ và có chức vụ chỉ huy trưởng một biệt đội phản gián chuyên truy
lùng những đảng viên Đức Quốc xã đang lẩn trốn quân đội Đồng minh,
Kissinger có thẩm quyền bắt giữ tất cả những ai nằm trong vùng trách
nhiệm của ông [3] . Giữ chức vụ đó chưa đầy một năm thì Kraemer tìm
gọi Kissinger: Kraemer vừa thành lập một trường tình báo ở gần
Munich, mục đích của trường là huấn luyện các sĩ quan Đồng minh
khám phá những tổ chức Nazis còn sót lại, và tái lập thẩm quyền dân sự
cho nước Đức. Kissinger nhận lời. Ban đầu Kissinger dạy như là một
quân nhân trong ban giảng huấn của trường. Nhưng khi xuất ngũ và
được mướn trở lại như một giảng viên dân sự, Kissinger được trả lương
10.000 mỹ kim một năm, một số tiền khá lớn vào năm 1946. Những
học viên của trường - sau này là những nhân vật có nhiều thẩm quyền
của chính phủ Mỹ, hay khoa trưởng ở những đại học nổi tiếng - đều
công nhận Kissinger có lối nói chuyện và một tư cách rất thẩm quyền,
nếu không nói là độc đoán. Với số lương cao như vậy, nhưng Kissinger
muốn trở lại Hoa Kỳ để tiếp tục học. Nhất là khi người đở đầu của ông,
Kraemer, khuyên ông nên có một mảnh bằng đại học. Kissinger được
nhận vào Đại học Harvard và nhập học vào mùa thu năm 1947. Năm đó
Kissinger được 24 tuổi.
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
Ở Đại học Harvard Kissinger học giỏi và tạo cho mình một tên tuổi,
nếu không nói là một huyền thoại. Chọn ngành Chánh quyền và Triết
học là môn căn bản, Kissinger không gia nhập một hội đoàn nào ở
trường, không tụ tập vào những cuộc hội họp cuối tuần, và cũng không
tham dự vào môn thể thao nào. Kissinger chỉ học và có một cuộc sống
gần như cô độc. Vì Kissinger học giỏi từ năm đầu, ông được liệt vào
hạng sinh viên danh dự và được trường đề cử một giáo sư để làm cố
vấn. Vị giáo sư đó là William Yandell Elliott, một trong những giáo sư
nổi tiếng về ngành nhân văn của Đại học Harvard đương thời. Cũng
như Kraemer, lúc đầu giáo sư Elliott ngộ nhận Kissinger chỉ là một
sinh viên thường như những sinh viên khác mà ông đã bị trường bắt
làm cố vấn. Để tỏ sự khó chịu và để cho Kissinger biết ông là một giáo
sư cố vấn khó tánh, giáo sư Elliott bắt Kissinger đọc 25 quyển sách để
viết cho ông một luận đề, so sánh giữa lý trí thuần tuý và lý trí thực
nghiệm trong hệ thống triết học của Immanuel Kant. Theo lời kể của
hai người bạn ở chung phòng, Kissinger vào thư viện mượn tất cả
những quyển sách đó về chất trong phòng, rồi đêm nào ông cũng thức
đến hai giờ sáng đọc và viết. Ba tháng sau Kissinger nộp bài cho giáo
sư Elliott. Nộp bài buổi sáng thì buổi chiều giáo sư Elliott gọi điện
thoại muốn Kissinger trở lại gặp ông. Gặp Kissinger, Elliott nói từ
trước đến nay chưa có một sinh viên nào đọc hết những quyển sách ông
chỉ định, và chưa có sinh viên nào viết được một luận đề mạch lạc như
bài viết của Kissinger [4] . Trong một lá thư giới thiệu ông viết cho
Kissinger, giáo sư Elliott nói trong năm năm qua, ngay cả trong nhóm
sinh viên liệt vào hàng tối ưu, ông chưa gặp ai có một cái nhìn sâu sắc
về triết lý chính trị như Kissinger. Bốn năm ở Harvard, Kissinger chỉ có
một lớp bị điểm B, tất cả các lớp còn lại đều điểm A. Vào năm thứ hai
ở đại học, Kissinger lập gia đình với một cô bạn đã quen biết từ thời
trung học. Vợ Kissinger cũng là người Đức gốc Do Thái, cũng chạy tị
nạn Nazis cùng thời với ông.
Tiểu luận cử nhân của Kissinger ở Đại học Harvard làm ông trở thành
một huyền thoại; một "tiểu" luận đã làm cho Harvard đề ra một qui luật
mới về cách viết tiểu luận ở bậc cử nhân. Tiểu luận của Kissinger mang
tên "Ý nghĩa của lịch sử", dầy 383 trang. Nội dung chánh của tiểu luận
nói về phương thức phân tích lịch sử; thẩm định lại để coi lịch sử có
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
phải là một sự tất định - trong ý nghĩa lịch sử là định mệnh - hay lịch sử
là hậu quả của những quyết định đến từ những cá nhân trong lịch sử tạo
ra. Kissinger bàn về nhận định của triết gia Immanuel Kant; nhà xã hội
học Oswald Spengler; và sử gia Arnold Toynbee. Không mấy ai nói
nhiều - hay đọc hết - về tiểu luận của Kissinger. Nhưng với tiểu luận đó
và thứ hạng trong suốt bốn năm học, Kissinger tốt nghiệp cử nhân hạng
tối ưu. Và cũng qua tiểu luận của Kissinger, đại học Harvard qui định
từ đó về sau, tiểu luận bậc cử nhân không được quá 150 trang. [5]
Nếu Kissinger đã may mắn gặp được Fritz Kraemer, thì Kissinger may
mắn hơn lúc được William Elliott đở đầu. Khi Kissinger quyết định
tiếp tục theo học lên bậc tiến sĩ ở Harvard, Elliott tìm mọi cách để giúp
đỡ Kissinger về vấn đề tài chánh. Mùa hè năm 1951, trong lúc
Kissinger đang viết luận án tiến sĩ, giáo sư Elliott cho Kissinger phụ
trách một chương trình quan trọng mà sau này (khi Kissinger trở thành
Cố vấn an ninh quốc gia, rồi Tổng trưởng ngoại giao) đã giúp đỡ
Kissinger liên lạc dễ dàng với nhiều yếu nhân quan trọng trên thế giới.
Chương trình do giáo sư Elliott đề nghị có tên là Hội thảo Quốc tế
Harvard. Đây là một khoá hội thảo mùa hè do Đại học Harvard tổ chức.
Những thành phần được chọn đến tham dự là những lãnh tụ, khoa bảng
trẻ, có nhiều tương lai ở quốc gia của họ. Kissinger được Elliott cho
phụ trách tuyển chọn những người tham dự [6] . Nhiều người theo dõi
sự nghiệp của Kissinger cho rằng Harvard International Seminar là bắt
đầu của Kissinger vào thao trường chính trị. Ngoài nhiệm vụ phụ trách
Harvard International Seminar, Kissinger còn ấn hành một tạp chí với
nội dung về chính trị quốc tế có tên là Confluence: An International
Forum (Hội tụ: một diễn đàn quốc tế). Tạp chí phát hành bốn số một
năm, và Kissinger đã thu hút được nhiều tác giả khoa bảng có tiếng lúc
đương thời. [7]
Tháng 5 năm 1954, Kissinger được cấp bằng tiến sĩ qua luận án "A
World restored: Metternich, Castlereagh, and the Problems of Peace
1812-22". Một luận án rất lỗi thời so với những sôi động trong giới
khoa bản và lý thuyết gia về chiến lược nguyên tử đương thời. Trong
luận án, Kissinger phân tích về vai trò của Clemens von Metternich,
Thủ tướng Áo, và Ngoại trưởng Anh, Robert Steward Castlereagh,
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
trong cuộc hội nghị ở Vienna để bàn về số phận của Pháp và Napoleon,
và tạo lại thế quân bình trên lục địa Âu Châu sau khi ảnh hưởng của đế
quốc Pháp tàn lụn. Trong lịch sử ngoại giao quốc tế, Metternich được
nhắc đến nhiều với đường lối ngoại giao bí mật để thương lượng thế
lực giữa các cường quốc. Metternich hô hào những biện pháp như đàn
áp và kiểm duyệt để duy trì an ninh nội bộ của một quốc gia. Kissinger
tán dương Metternich, cho rằng nhờ nhà ngoại giao này mà Âu Châu
được yên tĩnh cho đến khi thế chiến thứ nhất bùng nổ. [8]
Với bằng tiến sĩ trong tay, Kissinger hy vọng được bổ nhiệm một chức
giáo sư trong ban giảng huấn của Harvard. Nhưng Harvard không bổ
nhiệm ông một chức gì thực thụ, ngoài chức tạm thời là phụ giáo. Thất
vọng, nhưng Kissinger kiên nhẫn ở lại Harvard, dù hai trường đại học
khá có tiếng khác mời ông về dạy với chức giáo sư thực thụ (Đại học
Chicago và Đại học Pennsylvania). Kissinger kiên nhẫn ở lại Harvard
vì biết đó là tụ điểm của tiếng tăm và danh vọng.
Làm phụ giảng chưa đầy năm thì một may mắn tình cờ khác xảy đến
với Kissinger. Giáo sư sử học Arthur Schlesinger, Jr., của Harvard có
viết một tiểu luận chỉ trích chiến lược nguyên tử đương thời của Hoa
Kỳ cho tạp chí ngoại giao và chính trị Foreign Affairs. Ông nhờ
Kissinger đọc và cho ý kiến. Kissinger đọc và viết lời phê bình về bài
viết của Schlesinger. Bài phê bình của Kissinger làm cho Schlesinger
thích đến độ ông gởi bài phê bình của Kissinger đến chủ bút tờ Foreign
Affairs; và bài viết đầu tiên về an ninh quốc gia và chiến lược nguyên
tử của Kissinger được đăng trên một nguyệt san tên tuổi, chuyên
nghiên cứu về đường lối ngoại giao Hoa Kỳ. [9] Sau khi bài viết được
đăng trên Foreign Affairs, và nhờ sự giới thiệu của những giáo sư danh
tiếng ở Harvard như Elliott, Schlesinger, hay McGeorge Bundy,
Kissinger được mời vào làm giám đốc một ban nghiên cứu về ảnh
hưởng của vũ khí nguyên tử đối với đường lối ngoại giao. Kissinger xin
Harvard cho nghỉ dạy một thời gian và dọn về New York làm việc. Ban
nghiên cứu do Kissinger làm giám đốc (mà hội viên là những thành
phần nổi tiếng trong giới quân sự, tình báo, kinh tế và ngoại giao Hoa
Kỳ đương thời) nằm trong một cơ sở có tiếng nói rất quan trọng đối với
nền ngoại giao Hoa Kỳ: Hội đồng Liên hệ Ngoại giao (Council on
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
Foreign Relations). Khi đặt chân vào làm việc cho Council on Foreign
Relations, Kissinger mới thật sự đối diện với cơ cấu và quyền lực của
Chính phủ Hoa Kỳ [10] . Làm việc chung với những chuyên gia tên tuổi
về quân sự và ngoại giao chuyên về chiến lược nguyên tử, sau 18 tháng
làm việc miệc mài, năm 1957, Kissinger hoàn tất một tác phẩm được
nhiều người trong giới chính trị, ngoại giao và quân sự nhắc đến:
Nuclear Weapons and Foreign Policy (Đường lối ngoại giao và vũ khí
nguyên tử). Tác phẩm được chánh quyền Mỹ chú ý; giới chuyên nghiệp
bàn tán, và nằm trên đầu những quyển sách bán chạy nhất ở Mỹ trong
14 tuần lễ liên tục. Nhưng theo những nhà quan sát, Kissinger chỉ
"khoa bảng hoá" ý nghĩ và suy luận của các chuyên viên làm việc
chung với Kissinger. Tác phẩm của Kissinger bán chạy chỉ vì đúng vào
thời điểm và sự hiếu kỳ của độc giả trong hoàn cảnh chiến tranh lạnh
đang diễn ra giữa hai siêu cường Nga - Mỹ [11] .
Sau thời gian ở Council on Foreign Relations, sau khi tên tuổi đã được
ít nhiều sự chú ý trong cộng đồng khoa bảng, Kissinger trở lại Harvard.
Đại học Harvard bổ nhiệm Kissinger chức giảng sư, rồi phó giáo sư; và
giáo sư thực thụ vào năm 1962. Tuy trở về Harvard dạy, nhưng
Kissinger vẫn tiếp tục giữ liên lạc với Council on Foreign Relations và
các cơ sở có ít nhiều liên hệ với chính quyền. Cuối năm 1962,
Kissinger được 34 tuổi, có hai con, trai và gái, và đã ly dị vợ.
Khi chúng ta nói về sự may mắn trong cuộc đời, có lẽ khó ai gặp nhiều
may mắn như Kissinger. Kissinger biết Kraemer lúc còn một binh nhì
trong lính; được giáo sư Elliott giúp đỡ khi mới vào Harvard. Rồi trong
thời gian làm việc ở Council on Foreign Relations, Kissinger gặp một
bảo nhân khác quan trọng hơn, thế lực hơn: nhà tỉ phú Nelson
Rockefeller [12] . Nelson Rockefeller biết Kissinger qua những lần hội
thảo về tình hình an ninh quốc gia/quốc tế (Nelson là phụ tá cho tổng
thống Eisenhower về an ninh quốc tế một thời gian), và trong thời gian
Kissinger làm việc cho Council. Nelson kính nễ Kissinger, nghĩ rằng
ông có thể nhờ vào trí thức và khoa bảng của Kissinger để cố vấn trong
cho sự nghiệp chính trị của ông về sau. Từ năm 1956 cho đến năm
1968, Nelson đích thân mướn Kissinger soạn thảo và nghiên cứu nhiều
dự án cho cá nhân ông. Năm 1969, khi Kissinger chánh thức về làm
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
việc cho chính phủ (Cố vấn an ninh quốc gia cho Nixon), Nelson đã
biếu Kissinger 50000. mỹ kim như một món quà đưa tiễn [13] . Đã lọt
vào thế giới khoa bảng, giáo khoa, ở Đại học Harvard, bây giờ, nhờ sự
quen biết với Nelson Rockefeller, Kissinger lại được giới thiệu, hay có
dịp làm việc chung những khuôn mặt quan trọng trong Chính phủ Hoa
Kỳ.
Năm 1961, khi John F. Kennedy nhậm chức tổng thống, vị tổng thống
trẻ tuổi này đưa hầu hết các bạn bè đồng môn ở Harvrad về làm việc
cho ông (Kennedy cũng tốt nghiệp ở Harvard năm 1940, hạng danh dự
cum laude). Một trong hai giáo sư đang dạy ở Harvard là Schlesinger
và McGeorge Bundy được Kennedy mời về làm cố vấn và phụ tá quan
trọng trong toà Bạch Ốc. Theo lời mời của Bundy, Kissinger được về
làm cố vấn bán thời gian ở Hoa Thịnh Đốn. Nhưng trong thời gian làm
việc ở toà Bạch Ốc, thái độ và tư cách của Kissinger gây nhiều khó
chịu cho nhiều người - trong đó có Tổng thống Kennedy và cố vấn an
ninh quốc gia McGeorge Bundy. Thấy mình không được trọng dụng
trong chính phủ Kennedy - hay là thấy không ai thích mình - Kissinger
làm chưa tới một năm rưỡi thì từ nhiệm, trở về Harvard tiếp tục nghiên
cứu và viết sách. Năm 1964, khi Nelson Rockefeller ra tranh cử vòng
sơ tuyển trong Đảng Cộng hoà cho cuộc bầu cử tổng thống năm 1964,
Kissinger là cố vấn cho Nelson về vấn đề an ninh quốc phòng. Nelson
thua, và Đảng Cộng hoà đề cử Thượng nghị sĩ Barry Goldwater ra
tranh cử lại Lyndon Johnson. Nhưng qua lần xuất hiện năm 1964 với
Nelson Rockefeller, Kissinger biết được thêm một số nhân vất quan
trọng trong Đảng Cộng hoà. Một trong những người quan trọng đó là
Henry Cabot Lodge, một nhân vật quan trọng đương thời trong Đảng
Cộng hoà. Lại thêm một tình cờ khác đưa Kissinger trở lại liên hệ với
chính quyền. Cũng từ Lodge, Kissinger lần đầu tiên biết đến Việt Nam
và cuộc chiến đang xảy ra ở miền Nam, một địa dư và cơ cấu chính trị
Kissinger rất còn xa lạ [14] .
Qua lời mời của Lodge, Kissinger đến Sài Gòn cuối năm 1965, và hai
lần tiếp theo sau đó vào năm 1966. Trong ba lần quan sát nghiên cứu
này, Kissinger đi thăm viếng nhiều nơi, nói chuyện với nhiều thành
phần và yếu nhân của Việt Nam Cộng hòa (VNCH). Sau những chuyến
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
quan sát đó, Kissinger tường trình bằng miệng lại cho Lodge và thẩm
quyền ở Hoa Thịnh Đốn. Tuy nhiên, theo những người biết chuyện bên
trong, Kissinger tường trình theo ý của người nghe: nghĩa là ông thay
đổi quan điểm tuỳ theo người đối diện [15] . Tháng 8 năm 1966,
Kissinger viết lên nhận định đầu tiên về vấn đề Việt Nam trên tạp chí
Look. Trong bài viết, Kissinger nói cuộc chiến ở Việt Nam khó kết thúc
bằng chiến thắng quân sự; thương thuyết để tìm một giải pháp hoà bình
là chuyện tất nhiên sẽ xảy ra. Nhưng quan trọng nhất trong thời gian
này, sự rút quân của Hoa Kỳ khỏi Việt Nam sẽ gây nhiều tổn thương về
danh dự của Hoa Kỳ đối với các quốc gia đồng minh chống cộng trên
toàn thế giới.
Liên hệ đầu tiên của Kissinger đối với Việt Nam tưởng đã chấm dứt
sau ba lần thăm viếng quan sát qua lời mời của đại sứ Lodge. Nhưng
vào năm 1967, một tình cờ khác đưa Kissinger đến những liên hệ bí
mật hơn của chiến tranh Việt Nam. Trong một lần tham dự hội thảo với
những giới chức khoa bảng quốc tế hàng năm tại Paris, Kissinger gặp
lại một người bạn Pháp tên Herbert Marcovich. Khi câu chuyện qua lại
đưa đến đề tài về chiến tranh Việt Nam, Marcovich nói với Kissinger
ông có một người bạn thân tên là Raymond Aubrac, và Aubrac quen
biết rất thân với Hồ Chí Minh từ năm 1946. Marcovich đề nghị ông thể
nhờ Aubrac đánh tiếng với Hồ Chí Minh, hay cấp lãnh đạo Hà Nội,
khởi đầu một liên lạc ngoại giao ngầm giữa Hà Nội và Mỹ về vấn đề
Việt Nam [16] . Trở lại Mỹ, Kissinger đem chuyện đó nói với McGeorge
Bundy, hỏi thẩm quyền có ý kiến gì không. Bundy hỏi Ngoại trưởng
Dean Rusk, và Rusk trình lên cho Tổng thống Johnson. Vài tuần sau,
toà Bạch ốc cho phép Kissinger liên lạc lại với Marcovich và Aubrac.
Nhưng để tránh sự lộ liểu và để giữ bí mật trong trường hợp sự liên lạc
không đi đến đâu, thẩm quyền Hoa Thịnh Đốn chỉ thị Kissinger liên lạc
Hà Nội với tư cách một "cá nhân quan tâm", muốn đi tìm một giải pháp
cho chiến tranh Việt Nam chứ không phải đại diện của chính phủ Hoa
Kỳ. Trong khi đó, được sự chấp thuận của Tổng thống De Gaulle,
Aubrac và Marcovich bay qua Hà Nội ngày 21 tháng 7 năm 1967. Ở Hà
Nội hai người được Phạm Văn Đồng và Hồ Chí Minh đón tiếp. Sau khi
nghe đề nghị Hoa Kỳ sẽ ngưng dội bom nếu Hà Nội thật sự muốn
thương lượng để chấm dứt cuộc chiến, Phạm Văn Đồng trả lời Hoa Kỳ
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
phải ngưng dội bom lập tức và vô điều kiện trước khi muốn có một
cuộc đối thoại nào. Aubrac chuyển tin tức từ Hà Nội về cho Kissinger;
Kissinger đưa lại cho toà Bạch ốc. Giữa tháng 10.1967, trong một buổi
họp cao cấp dưới sự chủ toạ của Johnson (và có mặt Kissinger), sau khi
bàn cãi về thái độ sự thành thật của Hà Nội, Tổng thống Johnson quyết
định chấm dứt những liên lạc ngoại giao giữa Hoa Kỳ và Hà Nội qua
Kissinger - Marcovich - Aubrac. Hoa Kỳ đoán đúng về thái độ hiếu
chiến của cộng sản Bắc Việt (CSBV): hơn hai tháng sau, CSBV mở
cuộc tổng công kích toàn diện ở miền Nam vào Tết Mậu Thân 1968 [17]
.
Chỉ mười một năm từ ngày Kissinger xuất bản tác phẩm về chiến lược
nguyên tử, cho đến năm bầu cử tổng thống 1968, tên tuổi Kissinger
được nhắc đến nhiều trong giới chiến lược, chính trị gia, và khoa bảng.
Giống như năm 1964, Kissinger được mời làm cố vấn quan trọng trong
cuộc vận động tranh cử tổng thống của Nelson Rockefeller vào năm
1968. Ở vòng sơ tuyển tranh cử nội Đảng Cộng hoà, Kissinger ra mặt
chỉ trích ứng cử viên Nixon [18] . Kissinger tuyên bố: "Nixon không
xứng đáng làm tổng thống", đầu óc Nixon "nông cạn", và Nixon là
"một thảm hoạ cho Đảng Cộng hoà... Nhưng may mắn, Nixon không
thể đắc cử tổng thống, nếu không thì [sự đắc cử của Nixon] là một thảm
hoạ cho Mỹ quốc" [19] . Nhưng sau khi Nixon đánh bại Rockefeller và
được đảng chính thức đề cử, Kissinger yên lặng. Nhưng Kissinger yên
lặng không lâu: khi cuộc tranh cử tổng thống đi vào giai đoạn hai -
Nixon của Đảng Cộng hoà đối lại Humphrey của Đảng Dân chủ - thì
ban cố vấn của Nixon gọi Kissinger, mời ông giúp một tay, cố vấn về
đường lối ngoại giao quốc tế. Kissinger chần chừ vài ngày rồi nhận lời
với một điều kiện: ông muốn cố vấn sau lưng và không muốn ra mặt
làm việc cho Nixon công khai. Ban tham mưu Nixon chấp nhận [20] .
Giấu mặt ở phía sau, Kissinger cung cấp một số tin tức liên quan về
những mật đàm sơ khởi đang xảy ra ở Paris giữa CSBV và Mỹ. Với
những tiên liệu cung cấp từ Kissinger, ứng cử viên Nixon theo đó mà
tuyên bố một cách dè dặt, theo chiều, về đường lối ngoại giao của ông
đối với cuộc chiến Việt Nam đang xảy ra. Tuy nhận tin tức từ
Kissinger, nhưng Nixon lúc nào cũng đề phòng một người đã từng làm
việc cho đối thủ của mình. Theo những người biết chuyện, tin tức
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
Kissinger cung cấp cho Nixon không quan trọng hay tối mật lắm,
nhưng có thể dùng được [21] .
Rồi chuyện xảy ra như chúng ta đã thấy: Nixon đắc cử năm 1968. Với
lời hứa là ông sẽ giải quyết vấn đề Việt Nam, Nixon cần một người mới
nhưng biết chút ít nội vụ thương nghị đang xảy ra ở Paris. Kissinger có
thể đóng vai trò đó. Gần một tháng sau ngày đắc cử, Nixon gọi
Kissinger về và giao cho chức Cố vấn an ninh guốc gia.
Chỉ trong vòng 26 năm, từ một anh lính quèn, Kissinger ngày nay trở
thành cố vấn quan trọng cho một vị tổng thống mạnh nhất trên thế giới.
Bây giờ, anh bình nhì Henry Alfred Kissinger có quyền sử dụng sĩ quan
cấp tướng để làm phụ tá cho mình [22] .
*
Ở phần trên là những điểm sáng, những thành công của cuộc đời
Kissinger. Nhưng ở phía sau những thành đạt, những khen ngợi đó, tư
cách và đạo đức của Kissinger bị rất nhiều tai tiếng, chê bai, phỉ nhổ.
Những tiếng như "con đĩ", "thằng điếm", "hai mặt", "tráo trở, đâm sau
lưng", được sử dụng để chỉ con người Kissinger.
Theo những người đã biết Kissiger từ lúc bắt đầu làm phụ khảo ở
Harvard, cho đến lúc ông rời chính phủ sau nhiệm kỳ của Tổng thống
Gerald Ford, tư cách và đạo đức của Kissinger có thể tóm gọn trong
câu "nịnh trên hiếp dưới". Kissinger sợ và tuân lệnh những người có
quyền hơn ông; đối với người dưới trướng thì ông doạ nạt và đày ải.
Một người thầy cũ của Kissinger ở Harvard nói Kissinger nịnh rất giỏi;
thích làm quen với các giới thượng lưu, quyền thế, để có thể nhờ vả về
sau. Những người bạn đồng môn nổi tiếng sau này như Zbigniew
Brzezinski, James Schlesinger, Adam Ulam (Brzezinski là Cố vấn an
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
ninh quốc gia cho Tổng thống Jimmy Carter; Schelesinger làm Giám
đốc CIA, rồi Tổng trưởng Quốc phòng thời Nixon và Ford; Ulam là
Giám đốc trung tâm nghiên cứu về Nga Xô của Đại học Harvard) đều
nghĩ Kissinger thích quan trọng hoá cá nhân, tư cách hồ đồ, tự cao tự
tại, thích được mọi người chú ý. Đối với những người đó, Kissinger chỉ
là một tên nói lừa dối không biết ngượng; một kẻ vô luân. "Kissinger
khoái lừa dối, và khi sự lừa dối càng phức tạp, Kissinger càng thích
thú". James Schlesinger nói về tư cách của Kissinger: "Mọi người thấy
xấu hổ khi nói dối; nhưng đối với Kissinger, nói dối là một trang vật;
Kissinger nói dối có phong độ". Vì Kissinger quá mong muốn được
mọi người thích và chấp nhận mình nên ông ta phải làm vừa lòng, phải
chiêu dụ nhiều loại người khác nhau. Để làm như vậy, Kissinger tạo ra
nhiều khuôn mặt cho từng loại người Kissinger muốn mua chuộc, lấy
lòng, khi giao thiệp. Morton Halperin, một trong những cố vấn tổng
thống như Kissinger trong toà Bạch ốc, nhưng sau này thưa Kissinger
ra toà vì Kissinger ra lệnh thu âm đường điện thoại của Halperin, nói về
Kissinger: "Không cần biết đúng hay sai, thật hay giả dối khi ông hứa
hẹn, thương thuyết với một người nào: Kissinger nói đại ra rồi tính sau"
[23] . Fritz Kraemer, người đỡ đầu từ lúc Kissinger mới vào lính, phải
lên tiếng phê bình, "Dần dần, tôi thấy người này [Kissinger] chẳng
những có một khác vọng về tri thức, mà còn có một tham vọng về sự
nghiệp cá nhân". Nahum Goldmann, một lãnh tụ tinh thần của cộng
đồng người Mỹ gốc Do Thái - và là bạn thân của gia đình Kissinger -
tuyên bố, nếu Kissinger "bớt thông minh đi mười phần, và thêm vào đó
mười phần chân thật, thì ông ta là một người vĩ đại".
Trong liên hệ nghề nghiệp giữa cá nhân và cá nhân, Kissinger thường
lấn quyền những người bạn đồng nghiệp, một đôi khi hất họ ra khỏi
vòng ảnh hưởng của quyền lực nếu được. Lúc còn làm việc trong chánh
quyền Kennedy, Kissinger đi lòn sau lưng cấp trên như McGeorge
Bundy, tìm cách để được gần Kennedy đến độ vị tổng thống khó chịu,
phải ra lệnh giới hạn lại sự ra vào của Kissinger [24] . Trong thời gian
Nixon đang vận động tranh cử, chính Richard Allen trong ban tham
mưu của Nixon là người giới thiệu và mời Kissinger về làm việc trong
ban tham mưu. Nhưng khi trở thành cố vấn cho Nixon, Kissinger hất
Allen ra, và cô lập ông này trong vòng ảnh hưởng quyền lực ở toà Bạch
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
ốc. Trường hợp tương tự cũng xảy ra với tướng Alexander Haig: khi
thấy Haig được sự tính nhiệm của Nixon, Kissinger đề nghị Nixon
thăng cấp cho Haig để cho ông tướng này trở về làm việc với quân đội
ở Bộ Quốc phòng [25] .
Về phương diện nghề nghiệp công vụ, trong khi đi thương lượng ngoại
giao, Kissinger coi trọng quyền lợi Hoa Kỳ trên tất cả quyền lợi của
những quốc gia khác. Chuyện đó dễ hiểu và thông cảm được. Nhưng
khi có sự xung đột giữa quyền lợi cá nhân của Kissinger và của quốc
gia mà ông đang phụng sự, Kissinger đặt quyền lợi cá nhân của ông
trên quyền lợi Hoa Kỳ: Kissinger coi trọng tên tuổi của mình hơn hết.
Brzezinski gọi lối ngoại giao "bí mật, khuynh đảo, lừa dối" của
Kissinger là vô luân, là đi ngược lại những nền tảng của người Mỹ".
Khi đi thương lượng, Kissinger thường nói xấu phía bên kia để lấy lòng
phía bên này; qua bên này lại nói xấu bên kia. Nói chuyện với Trung
Cộng, Kissinger chửi Nga; trước mặt thì vui cười, gọi Leonid Brezhnev
là bạn, nhưng khi nói chuyện với các nhà ngoại giao Anh quốc thì chửi
những nhà lãnh đạo Nga là "nói láo khủng khiếp". Lúc khởi đầu
thương lượng với Tàu, Kissinger khen ngợi Chu Ân Lai và Mao với
Nixon; nhưng khi nói chuyện với Tổng thống Ford về sau này thì gọi
những người đó "những thằng con rơi vô tình cảm". Sau khi Kissinger
bí mật liên lạc với Trung Cộng vào năm 1971, rồi đến chuyến viếng
thăm lịch sử của Nixon vào năm 1972, để lấy lòng lá bài cộng sản Tàu,
Kissinger đề nghị với Chu Ân Lai và Mao Trạch Đông, là Hoa Kỳ sẽ
cung cấp tất cả hình ảnh chụp bằng vệ tinh về vị trí đóng quân của Nga
bên kia biên giới Trung Cộng, và sẽ cập nhật hoá những hình ảnh chiến
lược đó nếu cần. Đến năm 1974, trong lúc thương lượng với Nga về
vấn đề giảm thiểu hoả tiễn nguyên tử liên lục địa, khi đại sứ Nga
Anatoly Dobrynin chất vấn Kissinger về việc Hoa Kỳ cung cấp hình
ảnh vệ tinh cho Trung Cộng, Kissinger trả lời: "Anatoly, bạn nghĩ tôi
tay mơ đến như vậy sao? Đó không phải là chuyện chúng ta cần lo
lắng". Kissinger cũng giả dối, lừa đảo như vậy khi thương lượng giảng
hoà ở Trung Đông giữa Do Thái và khối Ả Rập. Vì sợ người ngoài thấy
được sự gian dối và hai mặt của mình, Kissinger không bao giờ cho ai
biết sự thương lượng đi đến đâu, đang điều đình chuyện gì, và thời
khoá biểu ra sao. Kissinger giấu Ngoại trưởng William Roger khi
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
thương lượng bang giao với Trung Cộng; giấu ban tham mưu liên quân
khi thương lượng về vấn đề giảm thiểu vũ khí chiến lược; và trong
trường hợp Việt Nam, Kissinger giấu Tổng thống Thiệu và cả đại sứ
Ellsworth Bunker khi nói chuyện bí mật với cộng sản Bắc Việt về vấn
đề Việt Nam [26] .
Hầu hết những người phục vụ cùng với Kissinger trong hai chánh phủ
Nixon và Ford, không người nào nhắc đến Kissinger bằng tiếng tốt lời
khen. Những hằn học và khinh bỉ về Kissinger càng gia tăng khi số
lượng hồ sơ liên hệ về những việc làm bí mật của Kissinger được giải
mật sau khi Kissinger rời công vụ, và sau khi hồ sơ mật đã mãn hạn
theo luật định. Theo thời gian, những mảnh nhỏ từ chiếc mặt nạ của
Kisisnger bị rớt ra, và đến nay chúng ta có thể thấy khá rõ khuôn mặt
thật của Kissinger. Rất khôn ngoan, sau khi mãn nhiệm kỳ Tổng trưởng
ngoại giao, Kissinger đem tất cả tài liệt của chính phủ, và tài liệu có
liên hệ đến ông từ lúc còn làm Cố vấn an ninh quốc gia cho đến khi rời
chính quyền, giao cho Thư viện Quốc hội (The Library of Congress)
với điều kiện những tài liệu đó chỉ được bạch hoá năm năm sau khi ông
chết. Tuy nhiên, từ đầu tập niên 1990, dựa vào Bộ luật Quyền Tự do
Tin tức (Freedom of Information Act), Liên hội Báo chí và Tư nhân (sử
gia, chuyên viên nghiên cứu, giáo sư), yêu cầu Nha Văn khố (The
National Archives) và Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ phải giải mật một số
tin tức tài liệu đang nằm trong hồ sơ của Kissinger, nếu những tài liệu
đó không làm nguy hiểm đến nền an ninh quốc gia hay gây nguy hiểm
cho cá nhân nào. Bắt đầu từ đó, một số văn kiện và tin tức được giải
mật và công bố sau khi Toà án Liên bang xử cho phía nguyên cáo. Dựa
vào những tài liệu được giải mật, dựa vào những hồi ký của những
người từng làm việc chung hay có liên hệ với Kissinger, chúng không
thể hoàn toàn tin Kissinger, khi so sánh sự kiện trên thư liệu và những
gì Kissinger viết lại - nhất là những giai đoạn Kissinger thương lượng
ngoại giao bí mật [27] . Sau này, với những chứng cớ được phơi bày, khi
Kissinger được hỏi ông có thể giải thích những khác biệt giữa những gì
ông viết và những gì được ghi lại chánh thức..., Kissinger trả lời là ông
không còn nhớ rõ. Dĩ nhiên, nói theo tâm lý học hiện sinh, Kissinger
chỉ nhớ những gì ông muốn nhớ; và quên những gì ông muốn chối. Đô
đốc Elmo Zumwalt, cựu chỉ huy trưởng hải quân Mỹ ở Việt Nam và
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
sau này là tư lệnh hải quân Hoa Kỳ nói về Kissinger: "Lối viết sử của
Kissinger giống lối viết sử của những người cộng sản: Họ bắt đầu từ
hiện tại và giải thích ngược về trước; từng chi tiết một. Viết sử như vậy
thì lịch sử không xảy giống như đã xảy ra" [28] .
Nhưng trong năm năm làm việc cho Nixon, tại sao Kissinger có thể
lộng hành, tác quái, theo cá tính của ông ta được mà không bị một phản
đối nào từ Nixon hay từ những viên chức cao cấp trong nội các của
Nixon?
Nhiều tổng trưởng, cố vấn quan trọng đã lên tiếng phản đối Kisisnger
với Nixon nhưng vô hiệu quả. Nixon biết lối làm việc của Kissinger,
biết sự va chạm của Kissinger với những cố vấn khác, nhưng ông vẫn
giữ Kissinger vì Nixon cần Kissinger để thi hành những kế hoạch riêng
của Nixon. Chính Nixon thú nhận ông đã dùng một hai cố vấn thân cận
chêm vào giữa Kissinger và các tổng trưởng khác để giảm thiểu những
xung đột xảy ra hàng ngày giữa những cận thần thân tín của ông [29] .
Nixon cần một người như Kissinger để làm những việc mà cương vị
một tổng thống không thể nào làm được.
Nixon không phải là một chính trị gia có đạo đức hay lương thiện khi
chúng ta so sánh ông với những người tiền nhiệm - nhất là sau khi
những liên lạc, âm mưu, và thủ đoạn của Nixon được phơi bày ra công
luận. Nhưng ngược lại, Nixon cũng không phải là một vị tổng thống bất
tài, thiếu những cái nhìn chiến lược.
*
Khi Richard Milhous Nixon trở thành Tổng thống Hoa Kỳ vào ngày 20
tháng Giêng năm 1969, thì Nixon đã có nhiều kinh nghiệm trong đấu
trường chính trị lắm rồi. Nixon đã phục vụ mười bốn năm trong chính
phủ qua những chức vụ như là dân biểu, thượng nghị sĩ, và phó tổng
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
thống trước khi trở thành tổng thống. Trong đoạn đường chính trị đó,
Nixon được đối phương gán cho một hỗn danh là "Tricky Dick". Hỗn
danh đó không quá xa sự thật, dựa vào những thủ đoạn chính trị, ngoại
giao Nixon đã áp dụng ở nội địa và ngoại quốc [30] .
Sanh năm 1913 tại Yobar Linda, California, trong một gia đình vừa đủ
ăn. Theo hồi ký, Nixon nói thời ông còn nhỏ thì gia đình rất vất vả;
nhưng lúc ông được hơn mười tuổi thì nhà có được một trạm bán xăng
và đồ tạp hoá... và tương đối khá giả so với hàng xóm cùng thời. Tốt
nghiệp trung học năm 17 tuổi, muốn qua miền đông theo học đại học
nhưng nhà không đủ tiền nên theo học một trường đại học cộng đồng
tại địa phương. Học được hai năm thì Nixon xin được một học bổng về
luật của trường Đại học Duke ở Durham, North Carolina. Nixon qua
North Carolina theo học và ra trường năm 1937, đứng hàng thứ ba của
khoá tốt nghiệp năm đó. Trở lại California, lấy giấy phép hành nghề và
làm việc cho một văn phòng luật sư ở Whittier. Nixon lập gia đình năm
1940, rồi xin được một việc làm với chính phủ liên bang ở Hoa Thịnh
Đốn vào năm 1941, ngay khi Hoa Kỳ bước vào thế chiến thứ hai [31] .
Làm công chức cho Nha Kiểm soát Vật giá ở Hoa Thịnh Đốn được
chừng một năm thì Nixon tình nguyện đi sĩ quan hải quân. Mãn khoá
căn bản quân sự, Nixon bị thuyên chuyển về Iowa, một tiểu bang ở
miền trung Mỹ với một địa hình làm cho chữ hải quân trở nên khôi hài.
Nhưng theo Nixon, cuộc sống ở Iowa rất bình yên cho cặp vợ chồng
mới lấy nhau, tuy nhiên vì muốn chứng kiến mùi binh lửa, Nixon xin
thuyên chuyển ra mặt trận Thái Bình Dương; và được chấp nhận. Ở
Thái Bình Dương, mùi "binh lửa" mà Nixon kinh nghiệm được, chỉ
dưới cái nhìn của một sĩ quan tiếp liệu, đóng ở những căn cứ hải quân
dã chiến trên các đảo vừa chiếm lại được từ Nhật như New Caledonia,
Bougainville, Guadalcanal.
Sau cuộc chiến, do sự thúc giục của các chức sắc trong Đảng Cộng hoà,
Nixon quyết định ra tranh cử dân biểu của đơn vị nơi ông đang cư ngụ.
Kết quả là Nixon được đắc cử với số phiếu khá xa đối phương. Trong
thời gian làm dân biểu của Quốc hội thứ 80, Nixon được nhiều người
biết đến vì được chỉ định nằm trong một uỷ ban điều tra về những công
chức thân cộng đang phục vụ trong chính phủ Mỹ. Làm dân biểu sắp
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
hết nhiệm kỳ thì Nixon quyết định tranh cử nghị sĩ. Và trong cuộc bầu
cử quốc hội năm 1950, Nixon thắng với tỉ số cao nhất trong các cuộc
bầu cử nghị sĩ trên toàn quốc.
Năm 1951 trong một chuyến đi công lý bên Âu Châu, Nixon có dịp tiếp
chuyện với thống tướng Eisenhower, lúc đó là Tổng tư lệnh quân đội
NATO đóng ở Paris. Khi trao đổi ý kiến qua lại, Nixon nghĩ
Eisenhower là người xứng đáng ra tranh cử tổng thống vào năm 1952.
Trong vòng nội Đảng Cộng hoà năm đó, Robert Taft (con trai Tổng
thống thứ 26, William Howard Taft) và Dwight Eisenhower là hai
người có cơ hội đánh bại Adlai E. Stevenson của Đảng Dân chủ (cháu
nội cựu Phó tổng thống Mỹ có cùng tên, thời Tổng thống thứ 24,
Grover Cleveland). Với cuộc chiến đang xảy ra ở Đại Hàn; với làn sóng
đỏ đang lấn dần ở Á Châu và Âu Châu, cử tri đoàn của Đảng Cộng hoà
- và quan điểm của đa số của dân Mỹ lúc đương thời - nghĩ Eisenhower
là ứng cử viên thích hợp cho thời cuộc: Eisenhower đã thắng Đức Quốc
xã; Eisenhower sẽ đủ khả năng ngăn chận làn sóng đỏ trong thời kỳ bạo
hành nhất sau đệ nhị thế chiến. Theo hồi ký, Nixon nói từ đầu năm
1952, Robert Taft có đến nói chuyện và nhờ ông ủng hộ Taft. Nhưng
Nixon nói thẳng ông kính trọng Taft, nhưng đã dành sự ủng hộ cho
Eisenhower. Với thái độ đó, Nixon được nội bộ của Eisenhower mời
đến nói chuyện.
Sau khi Eisenhower được Đảng Cộng hoà đề cử, ông chọn Nixon để
đứng chung liên danh [32] . Liên danh Eisenhower-Nixon thắng hai
nhiệm kỳ liên tiếp - năm 1952 và 1956. Tuy nhiên vào năm 1956,
không hiểu gì lý do gì, cử tri chọn tổng thống và phó tổng thống Đảng
Cộng hoà nhưng lại dồn phiếu cho dân biểu và nghị sĩ thuộc Đảng Dân
chủ, một hiện tượng chính trị lần đầu tiên xảy ra trong 108 năm của lịch
sử chính trị Hoa Kỳ [33] . Trong tám năm làm Phó tổng thống, Nixon
giữ vai trò như một đại sứ lưu động cho Tổng thống Eisenhower: ông
công du vòng quanh thế giới, diễn đạt chủ thuyết tự do của Hoa Kỳ và
đồng minh vis-a-vis chủ nghĩa cộng sản đang hăm doạ quyền tự do căn
bản của nhân loại. Một trong những chuyến công du, Nixon có viếng
thăm Việt Nam năm 1953; tranh luận với Nikita Khrushschev năm
1959 ở Moscow; và chuyến viếng thăm gây ra nhiều biểu tình bạo động
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
ở Venezula vào năm 1958 - một thời điểm chống Mỹ cao nhất ở các
quốc gia Nam Mỹ sau khi Fidel Castro chiếm được Cuba. Trong tám
năm đó, Nixon được dư luận và báo chí đề cập nhiều vì thái độ cứng
rắn trong đường lối đương đầu với cộng sản quốc tế [34] .
Eisenhower, sau khi mãn hạn hai nhiệm kỳ tổng thống theo hiến định,
nhường ghế thủ lãnh Đảng Cộng hoà lại cho Nixon. Nixon đương nhiên
được Đảng đề ra tranh cử tổng thống năm 1960. Cuộc bầu cử năm 1960
giữa hai liên danh Nixon-Lodge và Kennedy-Johnson được coi là một
cuộc bầu cử có tỉ số chênh lệch sát nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Nixon
thua Kennedy chỉ 113000. phiếu trong tổng số 68 triệu 400 ngàn phiếu
cử tri. Theo Nixon, chỉ cần thay đổi nửa phiếu ở mỗi đơn vị đầu phiếu
thì kết quả cuộc bầu cử đã thay đổi. Có tin đồn nhiều vụ gian lận phiếu
xảy ra ở hai tiểu bang Texas và Illinois... nhưng Nixon quyết định chấp
nhận thua Kenney với kết quả công bố [35] .
Thua chức Tổng thống vào tay Kennedy, Nixon trở lại California nhận
làm việc cho một công ty luật quen biết từ lâu. Nhưng với những kinh
nghiệm và quen biết về chính trị từ trước, tuy trở lại một công dân
thường hành nghề luật sư, nhưng Nixon vẫn tiếp tục sinh hoạt khi được
những hội đoàn chính trị mời đến phát biểu ý kiến. Cuối năm 1961, qua
sự thúc giục của cấp lãnh đạo Đảng Cộng hoà, Nixon quyết định ra
tranh cử chức Thống đốc tiểu bang California. Qua những thăm dò ý
kiến sơ khởi, đa số ý kiến cho thấy Nixon sẽ đánh bại đối phương dễ
dàng. Nhưng không may cho Nixon vào năm đó: trong những tháng
cuối cùng của cuộc bầu cử, báo chí California phanh phui ra là, em ruột
của Nixon dựa vào tên tuổi của anh mình để mượn một số tiền khá lớn
từ một công ty chuyên đấu thầu làm ăn với chính phủ Hoa Kỳ. Mặc dù
vụ phanh phui đó không dẫn đến đâu, nhưng thanh danh của Nixon bị
nghi ngờ vì báo chí đặc câu hỏi suốt thời gian tranh cử. Cái xui thứ hai
cho Nixon - và cho cả đảng Cộng Hoà - là Kennedy, trong cuộc đối
diện với Khrushchev ở Vịnh Cuba tháng 101962., đã dằn mặt Nga Sô
bằng một thái độ thật cứng rắn khiến Nga phải tháo gỡ vũ khí nguyên
tử khỏi Cuba. Vụ "thắng" được Khrushchev đã đưa Kennedy và Đảng
Dân chủ lên cao trong lòng tin của cử tri Hoa Kỳ. Với hai biến cố đó,
Nixon thất cử chức Thống đốc tiểu bang California - Nixon thua xa.
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
Liền sau đó, qua một cuộc trao đổi với báo chí trong lúc được phỏng
vấn, Nixon không dằn được nóng giận, công kích giới báo chí đã không
công bằng khi điều tra và phanh phui, đặt nghi vấn về tư cách và liêm sĩ
của ông. Lần đó Nixon thề ông sẽ không trở lại chính trường; và báo
chí sẽ không bao giờ còn cơ hội để "đá lăn đá lóc" ông nữa. Lời tuyên
bố của Nixon một lần nữa được giới truyền thông trên cả nước Mỹ bàn
tán [36] .
Thua cuộc ở California; tuyên bố sẽ không bao giờ trở lại với chính trị,
Nixon dọn về New York khi được một công ty luật danh tiếng mời gia
nhập. Nhưng khi về New York, Nixon lại được thêm nhiều thân chủ cả
về mặt thương mại lẫn chính trị: về thương mại, Nixon đại diện cho
nhiều đại công ty có sản phẩm và chi nhánh trên toàn thế giới; về chính
trị, Nixon vẫn được nhiều ứng cử viên trong Đảng Cộng hoà mời diễn
thuyết giúp họ lấy phiếu cử tri ở cấp tiểu bang và quốc hội. Nixon giúp
những ứng cử viên Đảng Cộng hoà khi được kêu gọi, nhưng rất bí mật
và yên lặng về những dự tính chính trị trong tương lai. Từ năm 1962
đến cuối năm 1964, Nixon đứng bên ngoài chính trường, yên lặng quan
sát cuộc bầu cử tổng thống năm 1964 giữa hai liên danh Johnson-
Humphrey và Goldwater-Miller. Năm 1964 Đảng Cộng hoà bị thảm bại
ở phòng phiếu: Goldwater thua Johnson đến 16 triệu phiếu phổ thông;
434 phiếu cử tri đoàn; và chỉ thắng được 6 trên 50 tiểu bang. Chẳng
những được ghế Tổng thống, Đảng Dân chủ còn gia tăng số nghị viên
của họ ở hai viện quốc hội. Sự thất bại ê chề của Barry Goldwater đưa
uy tín Nixon lên cao hơn trong các tay lãnh đạo Đảng Cộng hoà còn lại.
Cùng thời gian ở ngoài vòng chính trị đó, Nixon có dịp đi nhiều nơi
trên thế giới, nói chuyện với nhiều nhà lãnh đạo, thấy được phản ứng
và thái độ của họ đối với chính sách ngoại giao Hoa Kỳ dưới quyền
lãnh đạo của Johnson.
Năm 1965, khi Johnson bắt đầu đưa quân tác chiến vào Việt Nam,
Đảng Cộng hoà kiếm cớ chỉ trích Tổng thống Johnson để hy vọng lấy
được phiếu trong mùa bầu cử tới. Riêng cá nhân Nixon, dù nói với mọi
người là ông chưa quyết định trở lại với chính trị, nhưng trong năm đó
Nixon nói chuyện nhiều về chính trị hơn là về nghề nghiệp. Thư từ liên
lạc, lời mời đi diễn thuyết chính trị nhiều đến độ người thư ký và vợ
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
ông làm không hết. Nixon mướn thêm nhân viên để bắt đầu thiết lập
một ban tham mưu chẩn bị cho hai kỳ bầu cử quan trọng của năm 1966
và 1968 [37] . Cuối năm 1965, để coi ảnh hưởng chính trị của mình còn
hay không đối với cử tri Hoa Kỳ, Nixon quyết định đứng ra vận động
giùm cho các ứng cử viên thuộc Đảng Cộng hoà trong mùa bầu cử quốc
hội và thống đốc năm 1966. Trong mùa bầu cử năm 1966, Nixon nói
chuyện với hơn 400 hội đoàn ở 40 tiểu bang, và quyên được hơn bốn
triệu mỹ kim để vận động bầu cử cho các ứng cử viên Đảng Cộng hoà.
Khi kết quả cuộc bầu cử năm 1966 được công bố, Nixon biết tương lai
chính trị của mình đang trên đường khôi phục: nhờ những vận động và
hỗ trợ của Nixon, Đảng Cộng hoà thắng 47 ghế ở Hạ viện; 3 Thượng
viện; 8 thống đốc; và 470 nghị viên ở quốc hội cấp tiểu bang. Đảng
Cộng hoà thắng lớn lần này giống như Đảng Dân chủ đã thắng hai năm
về trước. Và Nixon có quyền nói - cũng như không ai phủ nhận - nhờ
có bàn tay Nixon trong chiến thắng đó.
Đầu năm 1967 Nixon quyết định: ông ra lệnh cho ban tham mưu chuẩn
bị thâu thập tin tức, nghiên cứu tình hình chính trị để chuẩn bị cho năm
bầu cử tổng thống 1968. Nixon nói với ban tham mưu ông vẫn yên lặng
và giữ kín kế hoạch chính trị đến giữa năm 1967, nhưng ông đốc thúc
ban tham mưu phải làm việc hăng hái hơn để có thể đánh bại các đối
thủ trong đại hội đề cử toàn quốc của Đảng Cộng hoà vào mùa hè 1968.
Từ tháng Giêng cho đến tháng 6.1967, Nixon đi thăm viếng nhiều nơi
trên thế giới (trong đó có Việt Nam) một lần nữa để thăm dò phản ứng
thế giới về đường lối ngoại giao đương thời của Mỹ. Khi đến Á Châu,
Nixon nói với hầu hết các nhân vật lãnh đạo để lấy cảm nghĩ của họ về
vai trò của Hoa Kỳ ở Á Châu, đối với Trung Cộng, và đối với cuộc
chiến đang xảy ra ở Việt Nam. Trở lại Mỹ, sau khi đi thăm cựu Tổng
thống Eisenhower và nói chuyện với hầu hết các thống đốc tiểu bang
thuộc Đảng Cộng hoà, Nixon viết một tham luận, nói lên ý kiến về
đường lối ngoại giao Hoa Kỳ đối với Á Châu, nhất là đối với Trung
Cộng. Đại ý chính của bài viết đăng tạp chí Foreign Affairs là: Cộng
sản Trung Cộng chỉ buông tha - nếu không nói là không xâm lấn được -
các quốc gia lân bang ở Á Châu, nếu các quốc gia này có sức lực về
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
kinh tế, quân sự và chính trị... Và Hoa Kỳ chỉ nói chuyện với Trung
Cộng nếu quốc gia này chấp nhận những luật lệ căn bản quốc tế. Hoa
Kỳ muốn thấy Trung Cộng phát triển theo cộng đồng thế giới, chứ
không phải là một trung tâm của cách mạng thế giới [38] .
Dựa vào nhiều cuộc thăm dò dư luận, sau khi biết chắc mình đang đứng
ngang ngửa với các ứng cử viên tổng thống của hai đảng, Nixon tuyên
bố ra tranh cử tổng thống vào đầu năm 1968. Nixon không quan tâm
nhiều về hai đối thủ trong cùng Đảng Cộng hoà là Rockefeller và
George Romney; Nixon chỉ sợ phải đương đầu với đương kim Tổng
thống Johnson. Nhưng khi Johnson tuyên bố không ra tái cử thêm một
nhiệm kỳ nữa, và phía Dân Chủ chỉ còn Hubert Humphrey và George
Wallace, Nixon thấy bớt lo ngại đối với hai đối thủ còn lại. Từ lúc
tuyên bố ra tranh cử cho đến những ngày cuối cùng trước khi đầu
phiếu, Nixon lúc nào cũng dẫn đầu đối phương không ít thì nhiều.
Đương kim Tổng thống Johnson, sau khi không ra tái cử, tìm nhiều
cách giúp Humphrey lấy phiếu cử tri. Nhưng hoặc là quá trễ, hoặc là
lòng cử tri Mỹ đã muốn thay đổi, Humphrey chưa bao giờ đứng trước
Nixon trong các cuộc thăm dò dư luận người đi bầu.
Vấn đề sôi động nhất của năm bầu cử 1968 là chiến tranh Việt Nam.
Biết được sự ưu tư của quần chúng Mỹ về vấn nạn đó, Nixon cẩn thận
chỉ trích từng điểm sai lầm của chính phủ Johnson trong cuộc chiến và
trong sách lược giải quyết cuộc chiến. Khi Johnson ra lệnh ngưng dội
bom để khuyến khích Hà Nội ngồi vào bàn hội nghị, Nixon ngoài mặt
lên tiếng ủng hộ, nhưng ở phía sau, Nixon sai những phụ tá lên tiếng
chỉ trích Johnson đã quyết định quá hấp tấp. Như đã nói đến ở chương
trước, Nixon bí mật liên lạc với Tổng thống Thiệu, khuyên ông Thiệu
phản đối kế hoạch của Johnson. Với những mánh khoé chính trị đó,
Nixon rất xứng đáng với hỗn danh "Tricky Dick" [39] . Nixon đắc cử
năm 1968; tỉ số thắng không xa, nhưng đủ thắng. Cũng vào năm bầu cử
1968, trong khi Đảng Cộng hoà chiếm được toà Bạch ốc, toà nhà Quốc
hội thì rơi vào tay Đảng Dân chủ: ở Thượng và Hạ viện, Đảng Dân chủ
chiếm khối đa số.
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
[1]Tuần báo Der Studermer của Julius Streicher hô hào nhiều đường lối
bạo hành và sự triệt tiêu toàn diện chủng tộc Do Thái. Sau khi Đức đầu
hàng, Streicher bị đưa ra tòa án tội phạm chiến tranh ở Nuremberg, và
bị kết án tử hình bằng treo cổ.
[2]Về giai đoạn từ thiếu thời cho đến ngày Kissinger nhập ngũ, đọc:
Walter Isaacson, Kissinger: A Biography, trang 17-39.
[3]Isaacson, Sđd, trang 53. Về thân thế và trí thức của Kraemer, đọc:
Issacson, trang 44-45; Marvin Kalb và Bernard Kalb, Kissinger, trang
38-39.
[4]Isaacson, Sđd, trang 61-64. Trong phạm vi triết học, Luận về lý trí
thuần tuý và Luận về lý trí thực tiễn là hai tác phẩm được coi là khó
hiểu nhất của Immanuel Kant.
[5]Tiểu luận ra trường bậc cử nhân của Kissinger có tựa là "The
Meaning of History: Reflections on Spengler, Toynbee and Kant". Giới
sinh viên đồn với nhau là Carl Friedrich (hay là Elliott), một trong
những giáo sư triết của Kissinger ở Harvard, chỉ đọc đến 150 trang tiểu
luận của Kissinger rồi bỏ vì giọng văn quá chán. Kissinger đậu bằng cử
nhân hạng summa cum laude (tối ưu). Đọc: Isaacson, Sđd, trang 64- 67;
Marvin Kalb và Benard Kalb, Kissinger, trang 42-46.
[6]Mỗi khoá hội thảo có chừng 35 hội viên tham dự, đến từ mọi nơi trên
thế giới. Một trong số những người đến Harvard International Seminar
sau này lãnh đạo nước họ, như các thủ tướng, tổng thống, là Valery
Giscard dEstaíng (Pháp); Yasuhiro Nakasone (Nhật); Leo Tindermans
(Bỉ); Mahathir Bin Mohammad (Mã Lai Á); Bulent Ecevit (Thổ Nhĩ
Kỳ); Yigal Allon (Do Thái); hay Pierre Trudeau (Gia Nã Đại). Chương
trình kéo dài đến năm 1967 thì bị báo chí khui ra là do CIA cấp ngân
quỹ. Chương trình Harvard International Seminar chấm dứt vào năm
1969.
[7]Một số tác giả góp bài viết cho Confluence là McGeorge Bundy; Paul
Nitze; Hans Morgenthau; Czeslaw Milosz; Walt Rostow; Arthur
Schlesinger; John Kenneth Galbraith. Trong thời gian đó, có tin đồn
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
Kissinger làm mật báo viên cho FBI. Không chắc chắn tin đồn này có
thật hay không, nhưng đặc san Confluence với khuynh hướng chống
chủ nghĩa cộng sản rất được lòng Chính phủ Hoa Kỳ trong giai đoạn
đầu của chiến tranh lạnh. Hơn nữa, Harvard International Seminar là
một nơi qui tụ nhiều thành phần ưu tú quốc tế... nên sự chú ý của các
cơ quan tình báo Hoa Kỳ không phải là một điều ngạc nhiên. Một chi
tiết khác đáng chú ý: theo hai tác giả Marvin Kalb và Bernard Kalb
trong Kissinger (trang 49), trong hai năm 1951-52, Kissinger được
mướn làm cố vấn tư cho lục quân, và Ban tham mưu liên quân, với
nhiệm vụ nghiên cứu về quân đội Hoa Kỳ ở Nam Hàn, và về chiến lược
tâm lý chiến. Hồ sơ và tường trình của FBI về Kissinger được nhắc đến
trong Isaacson, Sđd, trang 71; và ở phụ chú 23.
[8]Về vai trò và lý thuyết ngoại giao của Metternich và Castlereagh, đọc
Isaacson, Sđd, trang 74-77; David Landau, Kissinger: The Uses of
Power, trang 29-30; và Kalb, Sdd, trang 46-48. Luận án của Kissinger
được một giải thưởng về giá trị khoa bảng.
[9]Arthur Schlesinger, Jr là bạn của John F. Kennedy. Khi Kennedy trở
thành tổng thống, Schlesinger được Kennedy mời làm phụ tá đặc biệt.
Khi Kennedy chết, Schlesinger được gia đình Kennedy mời làm sử gia
chính thức của cố Tổng thống Kennedy. Trong thập niên 1950, dưới
thời Tổng thống Eisenhower, chiến lược nguyên tử của Hoa Kỳ và
đồng minh NATO là trả đũa toàn bộ và huỷ diệt toàn bộ nếu phải khai
chiến với Nga Sô hay chư hầu. Schlesinger chỉ trích kế hoạch này
không còn hiệu quả vì Nga Sô đã theo kịp Hoa Kỳ về số lượng vũ khí
nguyên tử sản xuất hàng năm. Bài phê bình của Kissinger, "Military
Policy and the Defense of the Grey Areas," (Foreign Affairs, April,
1955) cũng đi theo đường lối tương tự như của Schlesinger, nhưng
nhấn mạnh một chủ thuyết mới về đường lối sử dụng vũ khí nguyên tử:
giới hạn và theo từng vùng, từng địa phương; sự trả đũa của Hoa Kỳ và
đồng minh là một sự trả đũa giới hạn tuỳ theo vùng xâm lấn và mức
xâm lấn của Nga Sô và chư hầu.
[10]Council on Foreign Relations là một tổ chức tư, do gia đình tỉ phú
Rockefeller thành lập năm 1921. Với ảnh hưởng về kinh tế và thế lực
tài chánh, Rockefeller Foundation mời và chiêu dụ được rất nhiều nhân
vật danh tiếng trong xã hội Mỹ về làm giám đốc và đứng trong ban
chấp hành. Các giám đốc của Council on Foreign Relations phần lớn là
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
những người lãnh đạo trong chính quyền về hưu, hay từ nhiệm để về
làm cho Council. Tờ Foreign Affairs do Council on Foreign Relations
ấn hành; chủ biên của tờ đó là những người có rất nhiều kinh nghiệm
trong Chính phủ Mỹ, như William Bundy, William Hyland, Leslie
Gelb... Về một số khuôn mặt trong Council, đọc David Landau, Sdd,
trang 43-48; Kalb, Sđd, 52-58.
[11]Hai phía khen chê tác phẩm của Kissinger đều đến từ những người
có tên tuổi. Phó tổng thống Nixon viết thư riêng khen ngợi; ngoại
trưởng John Foster Dulles đồng ý lý thuyết "chiến tranh giới hạn và vũ
khí nguyên tử chiến thuật" có lý (Dulles là người từng hăm doạ Nga
Sô, nếu có chiến tranh, thì đó sẽ là một chiến tranh toàn diện; một sự
huỷ diệt không giới hạn). Giới chỉ trích lý thuyết của Kissinger có
những người như George Kennan, Paul Nitze, Dean Rusk, là những tay
lão luyện trong ngành ngoại giao Hoa Kỳ. Đọc Landau, Sđd, trang 55-
57; 76-78; Isaacson, Sdd, trang 88-90; Charles R. Ashman, The
Adventure of Super-Kraut, trang 65-68; Kalb, Sđd, trang 54-55.
Kissinger trả một giá đắt về phương diện tình cảm gia đình cho công
trình này. Kissinger sống trong một thế giới hoàn toàn khác biệt trong
thời gian viết sách: ông ta yều cầu vợ không được nói chuyện với ông
nếu không cần thiết. Đọc Kalb, Sđd, cùng trang đã dẫn.
[12]Nelson Aldrich Rockefeller (1908-1979) là cháu nội của nhà tỉ phú
đầu tiên, John D. Rockefeller. Khởi đầu từ John Rockefeller, dòng họ
Rockefeller thành lập vô số cơ sở bất vụ lợi lo về từ thiện, giáo dục,
cũng như kinh tế, ngoại giao hay chính trị. Đại Học Chicago; Đại học
Rockefeller; Council on Foreign Relations; Rokefeller Brothers Fund...
là một trong những cơ sở tượng trưng của dòng họ Rockefeller. Nelson
Rockefeller làm Thống đốc tiểu bang New York gần bốn nhiệm kỳ (10
năm) rồi ra tranh cử ứng viên tổng thống sơ tuyển trong Đảng Cộng
hoà. Năm 1974 ông là Phó tổng thống dưới thời Tổng thống Gerald
Ford.
[13]Theo Isaacson, Sđd, trang 92, năm 1960 Nelson Rockefeller trả cho
Kissinger 12.000$; năm 1964, 18.000$; và năm 1968, 20.000$. Như
một so sánh, 12 ngàn mỹ kim của năm 1960 tương đương với 50 ngàn
của năm 2000; và 50 ngàn mỹ kim Kissinger nhận từ Rockefeller vào
năm 1969, tương đương 200 ngàn hiện nay.
[14]Như chúng ta biết, năm 1960 Henry Cabot Lodge đứng chung liên
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
danh với Richard Nixon của Đảng Cộng hoà tranh cử đối lại liên danh
Kennedy-Johnson Đảng Dân chủ. Liên danh Kennedy thắng cử. Nhưng
để có một ý kiến đa đảng trong đường lối ngoại giao về Việt Nam,
Kennedy bổ nhiệm Lodge làm đại sứ tại Sài Gòn năm 1963. Lodge ra
mặt ủng hộ cuộc đảo chánh Tổng thống Diệm; và sau khi cuộc đảo
chánh thành công, Lodge từ nhiệm trở lại Hoa Kỳ tham dự cuộc bầu cử
tổng thống năm 1964. Lần này Johnson của Đảng Dân chủ cũng thắng
nữa, và Johnson lại bổ nhiệm Lodge làm đại sứ tại Việt Nam lần thứ
hai. Khi nhận nhiệm sở vào năm 1965, Lodge yêu cầu Thứ trưởng Vụ
Viễn Đông, William Bundy (anh của McGeorge Bundy, Cố vấn An
ninh Quốc gia cho Kennedy và Johnson) mướn con của ông (đang là
một giáo sư dạy ở Harvard) và Kissinger để làm tư vấn cho ông về vấn
đề Việt Nam. Lodge nói lý do ông cần hai người đó vì ông muốn có
một cái nhìn mới về vấn đề Việt Nam từ những chuyên viên ở bên
ngoài, thay gì những ý kiến của các nhân viên chính phủ từ bên trong
như đã và đang xảy ra. Henry Cabot Lodge có liên hệ sâu đậm đối với
Việt Nam từ năm 1963 cho đến lúc ông từ chức Trưởng phái đoàn
thương thuyết ở Hội nghị Paris vào giữa năm 1969, khi Nixon lên
nhậm chức Tổng thống.
[15]Lối làm việc của Kissinger là ông tường trình cho từng người nghe,
và không bao giờ có nhiều người nghe cùng một lúc. Theo một nhân
vật trong cuộc, những tường trình của Kissinger không nhất thiết giống
nhau khi ông báo cáo lại cho mỗi thẩm quyền. Marvin and Bernard
Kalb, Sđd, trang 68.
[16]Marcovich lúc đó là một nhà sinh vật học vi phân; Aubrac, tốt
nghiệp từ hai đại học nổi tiếng MIT và Harvard, là viên chức của Liên
hiệp quốc, làm cho cơ quan Lương nông Thế giới ở Rome. Theo
Aubrac, năm 1946, khi Hồ Chí Minh qua Pháp thương thuyết với
Chính phủ Pháp về vấn đề chủ quyền của Việt Nam, ông ở nhà Aubrac,
và hai người thân nhau đến độ ông Hồ Chí Minh nhận con của Aubrac
làm con đỡ đầu. Xem David Kraslow và Stuart H. Loory, The Secret
Search for Peace in Vietnam, trang 219-224. Sử liệu cộng sản Việt
Nam viết về những hội họp bí mật trong thời gian đầu nằm trong, Lưu
Văn Lợi và Nguyễn Anh Vũ, Tiếp xúc bí mật Việt Nam - Hoa Kỳ trước
Hội nghị Paris (Hà Nội: Quân Đội Nhân Dân, 2000).
[17]Về những liên lạc ngầm đầu tiên này với mật danh "Pennsylvania"
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
đọc Isaacson, Sđd, trang 121-123. Cuộc hội ngộ giữa Hồ Chí Minh và
Aubrac ở Hà Nội được ghi lại trong Kalb, Sđd, trang 71-73. Tài liệu
chính phủ Hoa Kỳ sơ lược từng chi tiết về "Pennsylvania" nằm trong
The Pentagon Papers, Gravel Edition, Vol. IV, Chương 4.
[18]Tranh cử vòng sơ tuyển nội đảng là primaries và caucuses để chọn
một trong những ứng cử viên cùng một đảng, trước khi đi đến nghị hội
đề cử toàn quốc (national nomination convention). Ở nghị hội đề cử,
ứng cử viên có nhiều phiếu từ những đại biểu các tiểu bang sẽ được
đảng đề cử ra tranh cử với ứng cử viên của đảng đối lập. Bộ sách The
Making of the President của Theodore White là bộ sách rất hay để biết
về hệ thống bầu cử, vận động bầu cử, và đường lối chính trị chung
quanh nền tổng thống hiện đại Hoa Kỳ.
[19]Isaacson, Sđd, trang 126-128.
[20] Isaacson, op. cit., trang 214. Người gọi mời Kissinger là Richard
Allen, sau này là Cố vấn An ninh Quốc gia cho Tổng thống Ronald
Reagan trong một thời gian ngắn.
[21]Về những tin tức Kissinger cung cấp cho Nixon về hội đàm ở Paris,
và những gì Nixon biết được từ những đường giây khác (Chennault,
Bùi Diễm...), tác giả đã viết một số chi tiết ở chương 9. Tổng thống
Nixon trong The Memoirs of Richard Nixon, trang 323- 324, nói những
tin tức do Kissinger cung cấp đôi khi mơ hồ và có vẻ bí mật. Nixon nói
ông nhận tin từ Kissinger nhưng không hoàn toàn tin lắm.
[22]Phụ tá quân sự cho Cố vấn An ninh Quốc gia thường là cấp chuẩn
tướng trở lên. Kissinger nhận Alexander Haig làm phụ tá cho ông lúc
Haig còn là đại tá. Haig được thăng chuẩn tướng đầu năm 1970 để có
cấp bực phù hợp với chức vụ. Người phụ tá quân sự thứ nhì của
Kissinger là trung tướng không quân Brent Scowcroft. Scowcroft thay
Kissinger làm Cố vấn An ninh Quốc gia cho Tổng thống Ford.
[23]Isaacson, Sđd, ý kiến của Ulam về Kissinger ở trang 97-98;
Brzezinski, trang 699-700; Halperin và Schlesinger, trang 763-764.
Chương 34 trong sách của Isaacson nói rất hay và sâu sắc về tâm lý của
Kissinger.
[24]Isaacson, Sđd, trang 762. Để giới hạn khuôn khổ của các phụ chú
trong bài viết, người viết chỉ chú dẫn những lời phê bình, chỉ trích quan
trọng về tư cách và đạo đức Kissinger. Ngoài một số thư liệu phụ,
người viết đọc năm tác phẫm viết về Kissinger để soạn chương này:
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
Kissinger, của hai anh em ký giả Marvin Kalb và Bernard Kalb;
Kissinger: A Biography, của Walter Isaacson; Kissinger: The Uses of
Power, của David Landau; The Trial of Henry Kissinger, của
Christopher Hitchens; và The Price of Power: Kissinger in the Nixon
White House, của Seymour M. Hersh. Sách của anh em Kalb viết thiên
vị về Kissinger; Isaacson thì viết trung thực, có khen chê. Sách của
Hersh và Landau hoàn toàn nói về những khiếm khuyết đạo đức và tư
cách lừa dối của Kissinger. Sách của Hitchens như tựa sách đã gợi ý kết
án Kissinger về vụ đảo chánh bên Chí Lợi và những vụ dội bom bí mật
ở nội địa Cam Bốt. Về sự khó chịu của Kenendy đối với Kissinger, đọc
Isaacson, Sđd, trang 111.
[25]Haig nói, "Kissinger thăng cấp để cho tôi văng khỏi toà Bạch ốc",
Seymour, Sđd, trang 621. Alexander Haig được thăng chức từ thiếu
tướng lên đại tướng trong vòng sáu tháng (mang chức Đại tướng, Tư
lệnh phó lục quân, vào tháng 1.1973; tháng 6.1972 vẫn còn mang lon
thiếu tướng).
[26]Isaacson, Sđd, trang 764-765; đối thoại giữa Kissinger và Mao Trạch
Đông, Chu Ân Lai; và Leonid Brezhnev. Anatoly Dobrynin, nằm trong
tài liệu thuộc Nixon Presidential Materials Collection/Presidént's
Office Files/Memoranda for the President, hiện lưu trữ tại National
Archives. Nhật báo Washington Post có sơ lược nội dung trong số báo
ra ngày Chủ Nhật 10.1.1999. Trong khoảng 1969-1974, các chuyên
viên quan sát quốc tế đều biết Hoa Kỳ đang dùng lá bài Trung Cộng để
chèn ép Nga và dùng lá bài Nga để đưa Trung Cộng vào quỹ đạo quốc
gia tư bản Tây phương. Từ những tài liệu giải mật nói trên, nhiều văn
kiện cho thấy Nga đã gián tiếp hỏi Mỹ nghĩ thế nào nếu họ tấn công
những căn cứ chiến lược của Trung Cộng bằng vũ khí nguyên tử. Vào
tháng 4.1972, Kissinger bí mật gặp đại sứ Trung Cộng tại Liên hiệp
quốc là Hoàng Hoa, đề nghị Mỹ sẽ cung cấp thêm những phóng ảnh vệ
tinh về vị trí các đơn vị của Nga dọc theo biên giới Nga-Hoa. Trong
cuộc gặp bí mật đó, không biết hai bên có bàn gì liên hệ đến Việt Nam
hay không (thời gian đó là ngay vào trận "mùa hè đỏ lửa"), nhưng vài
tháng sau, Hoàng Hoa viết thư cho Kissinger hỏi Hoa Kỳ có phản ứng
gì khi Trung Cộng tiến chiếm quần đảo Hoàng Sa hay không. Kissinger
trả lời là hạm đội Mỹ được lệnh tránh xa khỏi những quần đảo đang
tranh chấp đó, và Chính phủ Hoa Kỳ không có ý kiến hay muốn tham
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
sự vào những tranh chấp đang xảy ra. Được đèn xanh, hải quân Trung
Cộng tiến đánh quần đảo Hoàng Sa vào tháng 11.974. Đọc thêm,
Nayan Chanda, Brother Enemy, trang 20-21; Kissinger, White House
Years, trang 1114.
[27]Kissinger viết tất cả (đến năm 2002) 15 quyển sách và 45 tiểu luận.
Trong số đó bốn tác phẩm có nhắc đến Việt Nam là White House Years
(1979); Years of Upheaval (1982); Diplomacy (1994), và Ending the
Vietnam War (2002). Chúng ta sẽ nói đến những chi tiết liên hệ trong
những tác phẩm này ở chương tới.
[28]Larry Berman, No Peace, No Honor: Nixon, Kissinger, and the
Betrayal in Vietnam, trang 9. Đọc, Elmo Zumwalt, On Watch, trang
411-511, để thấy Ban tham mưu liên quân khinh miệt Kissinger như thế
nào. Sau khi giải ngũ, Zumwalt là người công khai chỉ trích tư cách của
Kissinger trong các vụ thương lượng ngoại giao. Đọc Isaacson, Sđd,
trang 696-698.
[29]Đọc RN: The Memoirs of Richard Nixon, trang 443-444.
[30] Hỗn danh "Tricky Dick" được nữ dân biểu Hellen Douglas gọi
Nixon lần đầu tiên khi hai người tranh ghế nghị sĩ vào năm 1950.
"Dick" là tiếng rất thân mật để gọi tên "Richard". Trong tập quán Mỹ,
chỉ cha mẹ, người thân lâu đời, hay được cho phép, thì mới gọi người
có tên Richard là Dick. Nhưng, "dick" lại là tiếng lóng tục để chỉ
dương vật của đàn ông. "Tricky" là mánh khoé, mưu mô. Đây là một
lối chơi chữ khi gọi Richard Nixon là "Tricky Dick".
[31]Phần lớn những chi tiết về cá nhân của Nixon, tác giả trích theo hồi
ký của Richard Nixon, RN: The Memoirs of Richard Nixon.
[32]Richard Nixon, Sđd, trang 78-88. Nhưng liên danh Eisenhower -
Nixon gặp nhiều trở ngại từ lúc được đề cử cho đến ngày bầu cử vì
Nixon bị tố cáo đang sử dụng một quỹ đen do nhiều thương gia cung
cấp, để vận động cho quyền lợi của họ ở quốc hội. Sau này, trong năm
năm rưỡi làm tổng thống (1969-1974), Nixon lại bị báo chí và đối thủ
khui ra chuyện sử dụng quỹ đen thêm lần nữa. Về những nghi vấn của
quỹ đen năm 1952, đọc cùng sách, trang 92-110.
[33]Những năm bầu cử tổng thống cũng là năm bầu lại tất cả dân biểu và
một phần ba thượng nghị sĩ (và một số thống đốc ở các tiểu bang).
Thông thường, uy tín chính trị của ứng cử viên tổng thống giúp thêm
các ứng cử viên quốc hội cùng đảng lấy thêm được cử tri, và như vậy,
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
người tổng thống tương lai có được đa số nghị viên cùng đảng trong
quốc hội một lợi thế cho tổng thống khi cần dự luật nào đó được phê
chuẩn. Ít khi nào một đảng thắng chức Tổng thống nhưng lại thua tỉ lệ
đa số ở hai viện Quốc hội như trường hợp của Eisenhower vào năm
1956. Năm 1972 hiện tượng chính trị này xảy ra một lần nữa: Nixon
thắng cử Tổng thống nhưng Đảng Dân chủ chiếm phần đa số ở Quốc
hội. Chính những nghị viên Đảng Dân chủ đối lập đó đã gây nhiều khó
khăn cho Nixon, từ những dự luật phản đối chiến tranh Việt Nam cho
đến giới hạn quyền hành pháp của Tổng thống, và sau cùng là quyết
nghị hạ bệ Nixon vào tháng 8.1974 qua vụ phạm pháp ở Watergate.
Đọc Nixon, cùng sách, trang 180.
[34]Một trong những chi tiết về tổng thống Nixon ít được sách báo nói
đến, là liên hệ của ông trong cuộc chiến Việt - Pháp vào những ngày
cuối cùng: Nixon đề nghị gởi thêm chuyên viên cơ khí không quân
(trước đó Mỹ đã gởi 200 người rồi) để gia tăng đầu cầu không vận hầu
cứu vãn Điện Biên Phủ; đề nghị dùng không quân oanh tạc mạnh để
đánh tiếng với Trung Cộng và Việt Minh là Hoa Kỳ sẵn sàng can thiệp
nếu người Pháp không giữ nổi. Nixon có mặt trong tất cả các cuộc họp
quan trọng của Hội đồng An ninh Quốc gia về tình hình Điện Biên Phủ
trong tháng cuối cùng trước khi Pháp thất thủ. Về chuyến viếng thăm
Sài Gòn, Hà Nội, của Nixon, đọc Richard Nixon, Sđd, trang 122-125;
về những quyết định liên hệ đến Điện Biên Phủ, trang 150-155.
[35]Nixon, Sđd, trang 224-226. Kết quả số phiếu chính thức là,
Kennedy, 34.221.463; Nixon, 34.108.528. Kennedy được 49,7%;
Nixon 49,6%. Hai bên cách nhau 0,07%. Về chuyện lương lận, phiếu
giả ở Texas, Johnson đã một lần bị tai tiếng về chuyện đó trong cuộc
bầu cử thượng nghị sĩ năm 1949. Về cuộc bầu cử hào hứng Kennedy -
Nixon, đọc Theodore H. White, The Making of the President 1960, phụ
lục số 1.
[36]Nixon, Sđd, 442-447.
[37]Nixon, Sđd, trang 271-272.
[38]Nixon, Sđd, trang 285.
[39]Ở Chương 9, "Những con khỉ của năm Mậu Thân", người viết đã sơ
lược một số chi tiết quan trọng của năm bầu cử 1968 giữa Nixon và
Humphrey. Nếu Johnson đã có vài mưu lược để giúp Humphrey, thì
Nixon cũng đối lại bằng một số xảo thuật chính trị đang có trong tay
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
(dùng Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu để làm đình trệ kế hoạch của
Johnson). Đọc Nixon, Sđd, trang 322-335, để thấy Nixon thú nhận ông
quan tâm về những mánh khoé của Johnson vào những tuần cuối trước
ngày bầu cử; một tác phẩm khác thật hay của William Safire, Before
the Fall, về những mưu lược và kế hoạch chính trị của Nixon từ khi
tuyên bố tranh cử vào tháng Giêng 1967, cho đến khi đắc cử vào tháng
11.1968.
Nguồn: Nguyễn Kỳ Phong, Vũng lầy Bạch ốc - Người Mỹ và chiến
tranh Việt Nam, Tiếng Quê Hương xuất bản, Virginia 2006
Người Mỹ và chiến tranh Việt Nam
Phần 2
Sau hai năm làm dân biểu, bốn năm nghị sĩ, tám năm phó tổng thống,
và hai lần thất cử, Richard Nixon tuyên thệ nhậm chức Tổng thống thứ
37 của Hoa Kỳ vào đầu năm 1969.
Trong năm năm tám tháng giữ chức vụ tổng thống, những thành quả
của Nixon được nhiều người nhắc đến là thoả ước giảm thiểu vũ khí
nguyên tử giữa Mỹ và Nga; thiết lập ban giao với Trung Cộng; và đưa
quân đội và trách nhiệm của Hoa Kỳ ra khỏi chiến trường Việt Nam.
Chúng ta phải phân biệt chuyện Nixon đưa quân đội Mỹ khỏi Việt
Nam, và chấm dứt chiến tranh Việt Nam. Vì mọi người đều thấy:
Nixon đã thành công đưa quân đội Mỹ ra khỏi cuộc chiến, nhưng cuộc
chiến vẫn còn sau khi người Mỹ rút đi. Nixon đã ép buộc VNCH phải
ký vào hiệp định Ba Lê năm 1973, với lời hứa là nếu phía cộng sản
xâm phạm hiệp ước, Nixon sẽ dùng biện pháp mạnh để bảo vệ những
điều khoản đã ghi trong hiệp ước. Nixon hứa riêng với Tổng thống
Nguyễn Văn Thiệu là ông sẽ dùng tất cả khả năng của một vị tổng
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
thống để bảo đảm giá trị của một hiệp ước mà ông xin muốn VNCH
phải ký. Nhưng sự kiện lịch sử cho thấy Nixon không có cơ hội để
chứng tỏ với VNCH - và những đồng minh bị bỏ rơi trên thế giới, như
trong trường hợp Đài Loan - là ông có giữ đúng lời hứa hay không.
Nixon không có dịp để chứng tỏ danh dự của ông vì bị truy tố trước
Quốc hội Hoa Kỳ và phải từ chức để khỏi phải bị truất phế.
Ở phần dưới đây chúng ta sẽ bàn sơ về thái độ và hành động của Nixon
đối với chiến tranh Việt Nam từ lúc ông lên nắm quyền cho đến ngày
từ nhiệm.
Từ năm 1953 cho đến năm 1967 Nixon viếng thăm Việt Nam tất cả bốn
lần. Sau mỗi lần quan sát, ý kiến của Nixon về cuộc chiến Việt Nam
vẫn giống nhau: Nga và Trung Cộng đứng sau lưng cộng sản Bắc Việt
trong cuộc chiến xâm lấn miền Nam. Và chỉ có một cách để làm CSBV
từ bỏ ý định xâm lược là áp dụng áp lực quân sự. Nixon không sợ mang
tiếng là kẻ ỷ mạnh hiếp yếu; ngược lại, Nixon thích cho đối phương
biết ông ta sẵn sàng hiếp đối phương nếu cần. Trong những lần phát
biểu ý kiến về chiến tranh Việt Nam lúc ứng cử tổng thống, Nixon chỉ
trích chánh phủ Johnson là Hoa Kỳ đã không quyết tâm giải quyết cuộc
chiến Việt Nam bằng quân sự. Trong chuyến thăm Sài Gòn vào tháng
4.1967, ông được giới chỉ huy quân sự trình bày cho ông biết sự bực
tức của họ khi không được thẩm quyền quân sự cho phép đánh qua biên
giới, hay đánh thẳng vào bất cứ nơi nào CSBV dùng làm sào huyệt.
Nixon, trong một vài lần phát biểu, đã nhận định rất đúng về tình hình
"trung lập" của Lào. Đối với Nixon, khi để Lào thành một quốc gia
trung lập kiểu đó, Lào đã nằm trong quỹ đạo - nếu không nói thuộc về -
CSBV và cộng sản Tàu. Một mình đơn độc, Nixon nhấn mạnh, Lào
không bao giờ có thể giữ được sự trung lập theo ý nghĩa một quốc gia
được độc lập về ý thức hệ chính trị với một lãnh thổ toàn vẹn. Suy luận
song song theo chiều hướng chiến lược quân sự đó, Cam Bốt cũng nằm
trong hoàn cảnh tương tự như Lào. Nixon chỉ trích chính phủ Johnson
đã không thật lòng khi không đặt vấn đề, hay giải quyết, hai yếu tố
quan trọng Lào và Cam Bốt trong cuộc chiến Việt Nam. Nixon tuyên
bố vào năm 1967, nếu Hoa Kỳ không đối diện với tình hình Cam Bốt
và Lào; nếu Hoa Kỳ không thú nhận sự phức tạp của chiến tranh Việt
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
Nam trong địa hình của Đông Dương ngay bây giờ, thì Hoa Kỳ sẽ phải
thú nhận và đối diện vấn nạn đó về sau. Nixon nhấn mạnh - và chúng ta
thấy điều đó thật đúng vào những năm cuối cùng của cuộc chiến - chiến
tranh Việt Nam không phải chỉ giới hạn vào Việt Nam, mà là toàn cõi
Đông Dương [1] .
Chúng ta nên để ý sự khác biệt về tinh thần của các Tổng thống
Kennedy, Johnson và Nixon trong chiến tranh Việt Nam: Kennedy
thích hào hùng, quân tử, nhưng bên trong thì nhát; Johnson thì hăm hở
cuồng nộ nhưng không có trí thông minh, tài ngoại giao, hay sự kiên
nhẫn để thực hiện ý định; còn Nixon thì có tất cả những tánh tình của
hai tổng thống kia, cộng thêm tánh thích hành động bí mật từ bên trong
hay nhờ tay người khác hành động cho mình, và đôi khi hành động
ngoài vòng pháp luật. Nixon "mánh mung" hơn Kennedy và Johnson
khi muốn hoàn tất một ý định. Từ Truman cho đến Nixon, mỗi vị tổng
thống đều có liên hệ đến cuộc chiến Việt Nam bằng một hay nhiều
quyết định và mỗi quyết định được thực hiện qua cách này hay cách
khác. Truman, vì những quyền lợi của Mỹ ở Âu Châu, phải đành
nhượng bộ và ít niều giúp Pháp để tiếp tục sự đô hộ ở Việt Nam.
Eisenhower và Kennedy, với ý định muốn thiết lập một tiền đồn chống
cộng ở Đông Nam Á gắng bồi đắp và gầy dựng một nền tự do dân chủ
ở một quốc gia mới gọi là Việt Nam Cộng hoà. Sau Kennedy, Tổng
thống Johnson muốn giải quyết cuộc chiến nhanh hơn với quân tác
chiến, với vũ khí cơ hữu, với cấp số vài ba quân đoàn. Bây giờ cuộc
chiến chuyền đến tay Nixon. Đến Nixon thì nhiệm vụ khó khăn hơn:
ông phải đem người Mỹ ra khỏi cuộc chiến trong chiến thắng - hay ít
ra, phải bảo vệ miền Nam với một nền hoà bình trong danh dự.
Khi ra tranh cử tổng thống, cũng không khác hơn những ứng cử viên
trước và cùng lúc với ông, Nixon hứa sẽ chấm dứt cuộc chiến Việt
Nam, sẽ đem lại hoà bình trong danh dự. Nixon không hứa hẹn gì về
một chiến thắng quân sự, hay một thương thuyết ngoại giao nào để kết
thúc chiến tranh. Một tháng sau khi đắc cử, Nixon rất tự tin ông sẽ giải
quyết cuộc chiến Việt Nam trong vòng 12 tháng [2] . Nhưng khi thấy Hà
Nội chỉ lợi dụng cuộc thương thuyết để câu giờ và cuộc chiến đã kéo
dài ngoài dự định, Nixon quyết định cho đối phương thấy ông là người
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
biết dùng vũ lực để thuyết phục, và Nixon đã không ngần ngại dùng vũ
lực. Chúng ta có thể thấy một phần tinh thần của Nixon đối với cuộc
chiến Việt Nam khi ông tuyên bố trước công chúng: "Lỗi lầm quan
trọng nhất lúc tôi còn là tổng thống, là tôi đã không làm vào đầu năm
1969 những gì tôi đã làm vào ngày 3 tháng 5.1972, và 15 tháng
12.1972, nghĩa là dội bom và phong toả Bắc Việt. Tôi có bàn chuyện
này với Kissinger. Nhưng kẹt là chính phủ tiền nhiệm Johnson đã quyết
định ngừng dội bom để đi đến hội đàm Paris... tôi không tin họ [CSBV]
muốn thương thuyết thật sự, và dĩ nhiên sau này chúng ta đã thấy sự giả
tạo của cuộc thương thuyết đó. Nếu chúng ta thực hiện chuyện đó [dội
bom và phong toả Bắc Việt] chúng ta có thể kết thúc cuộc chiến vào
năm 1969 chứ không phải đến năm 1973. Đó là lỗi lầm lớn nhất của tôi
trong thời gian làm tổng thống" [3] .
Nhiều tác giả loại "bồ câu", phản chiến, và chống Nixon, thường luận
bàn là sau năm 1968, sau khi CSBV chịu vào bàn thương nghị, lẽ ra
cuộc chiến Việt Nam đã có cơ hội chấm dứt... Nhưng khi lên kế vị
Johnson, Nixon đã kéo dài thêm cuộc chiến, đưa đến hơn hai mươi
ngàn cái chết của quân nhân Hoa Kỳ, hơn một trăm ngàn quân VNCH
và bốn hay năm lần số thương vong đó bên phía Bắc Việt [4] . Lý luận
này không vững ở điểm những tác giả, sử gia nói trên không nói tại sao
Nixon không thể chấp nhận những "đề nghị thương thuyết" căn bản của
CSBV [5] .
Từ ngày đầu nhậm chức, Nixon đã cho phép giới quân sự dùng mọi kế
hoạch, kể cả những kế hoạch quân sự phạm luật của Quốc hội Mỹ và
công pháp quốc tế, để cho Hà Nội thấy Hoa Kỳ - dưới sự lãnh đạo của
Nixon - biết dùng sức mạnh khi cần. Sau khi Tổng thống Johnson ra
lệnh ngưng dội bom từ vĩ tuyến 20 trở lên, Nixon ra lệnh cho MACV [6]
dùng tất cả không lực dùng vào miền Bắc trước đó để đánh vào chiến
trường Lào và những căn cứ hậu cần của CSBV dọc theo biên giới Cam
Bốt. Tuy nói là ngưng dội bom, nhưng thật sự phi vụ oanh tạc gia tăng
nhiều hơn. Năm 1968 không lực Hoa Kỳ bay 3.377 phi vụ trên hệ
thống đường xâm nhập Hồ Chí Minh; năm 1969 số phi vụ tăng lên
5.567, với khoảng 160 ngàn tấn bom thả xuống Hạ Lào. Chỉ trong năm
tháng đầu năm 1969, bộ tư lệnh Đoàn 559 ở Trường Sơn đã thấy được
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
cường độ oanh tạc dưới nội các mới [7] . Nhưng chưa đủ, Nixon muốn
CSBV thấy rõ ý định của ông hơn. Đầu tháng 3.1969, Nixon nghe theo
đề nghị của ban tham mưu liên quân - một đề nghị bị bỏ quên nhiều
năm vì McNamara và Johnson không cho phép thực hiện - là phải huỷ
diệt cơ sở hậu cần của CSBV bên trong nội địa Cam Bốt. Nhưng đánh
qua Cam Bốt thì không được (ít ra là trong thời điểm đó), dội bom thì
lại vi phạm công pháp quốc tế vì tính chất trung lập của Cam Bốt. Chỉ
còn một cách duy nhất là bí mật dội bom - bí mật ở đây cũng có nghĩa
là phạm luật [8] . Với tất cả thận trọng để đánh lừa báo chí và Quốc hội,
Nixon cho phép Bộ tư lệnh Không quân Chiến lược và MACV hành
động. Từ tháng 3.1969 cho đến tháng 4.1970, không quân chiến lược
bay 3630. phi vụ, bỏ 110 ngàn tấn bom xuống các căn cứ hậu cần và
binh trạm của CSBV nằm trong lãnh thổ Cam Bốt từ vùng tam biên ở
Pleiku cho đến Mỏ Vịt ở Tây Ninh.
Để tránh bom, quân đội CSBV lấn sâu vào nội địa Cam Bốt về hướng
tây, gần các khu dân cư. Với chiến thuật này, CSBV đã vô hiệu hoá các
cuộc oanh tạc chiến lược bằng B-52 của Hoa Kỳ vào mật khu của họ
trên đất Cam Bốt. Khi đại tướng Abrams tư lệnh MACV báo cáo Hoa
Thịnh Đốn vấn đề đó, Nixon không ngần ngại quyết định tiến xa hơn:
dùng bộ binh đánh qua Cam Bốt. "Chúng ta phải chứng tỏ cho đối
phương biết chúng ta cương quyết với những gì đã hứa ở Việt Nam",
Nixon phát biểu khi đồng ý kế hoạch đánh qua Cam Bốt [9] . Để giới
hạn những phản đối đến từ các nghị viên đối lập ở Quốc hội và các
cuộc biểu tình của sinh viên trong và ngoài nước, Nixon chỉ cho phép
quân đội Hoa Kỳ hoạt động trong vòng 30 cây số trong nội địa Cam
Bốt, và quân Mỹ sẽ rút ra khỏi Cam Bốt sau 60 ngày. Thêm vào đó,
quân đội VNCH sẽ khai diễn cuộc tấn công trước và sẽ là thành phần
chủ động. Cuộc hành quân qua Cam Bốt chỉ thâu gặt được một số
thành công giới hạn: ba sư đoàn cơ hữu của Việt Cộng, 5, 7, và 9, được
lệnh phân tán mỏng từ một tháng trước đó. Các đơn vị CSBV được
lệnh tránh giao tranh nếu không cần thiết và rút xa về hướng tây, về
một cứ địa mới ở tỉnh Kratie. Tuy không gài bẫy được các đơn vị cộng
sản như ý muốn, quân đội VNCH và đồng minh khám phá và tịch thu
một số quân trang dụng, vũ khí và lương thực đủ trang bị và tiếp tế cho
tất cả các đơn vị cộng sản ở miền Nam hơn một năm trời [10] .
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
Nixon đã trả một giá rất cao về uy tín chính trị với cuộc tấn công qua
Cam Bốt: sau khi bốn sinh viên bị Vệ binh Quốc gia bắn chết trong một
cuộc biểu phản chiến ở đại học Kent State, tiểu bang Ohio, hơn hai
trăm ngàn người tham dự biểu tình chống Nixon ở thủ đô Hoa Thịnh
Đốn - một thành phố rất nhỏ để chứa hai trăm ngàn công dân bực tức.
Quốc hội Hoa Kỳ chỉ trích Nixon; thẩm vấn lại quyền hạn hiến pháp
của tổng thống có hay không khi đem quân tấn công qua một quốc gia
"trung lập" như Cam Bốt. Nhưng đối với một chính trị gia lão luyện
như Nixon, những cuộc biểu tình hay những ý kiến đối lập từ quốc hội
là chuyện thường: Nixon tiếp tục gia tăng lực quân sự đối với CSBV.
Hai ngày sau khi quân đội Mỹ và VNCH vượt biên giới, Nixon đích
thân đến Ngũ giác đài để được tường trình về biến chuyển của cuộc
hành quân. Khi nhìn bản đồ ghi chú địa điểm các căn cứ hậu cần khác
của CSBV ở bắc Cam Bốt và Hạ Lào, Nixon hỏi những sĩ quan đang có
mặt, là quân đội VNCH và Hoa Kỳ có khả năng tấn công tất cả những
căn cứ đó không. Khi được trả lời là những cuộc tấn công tiếp theo qua
biên giới sẽ gây nhiều phản ứng bất lợi từ dư luận và Quốc hội...,
Nixon trả lời cho các sĩ quan là chuyện lợi hại về chính trị để ông lo,
ông chỉ muốn họ trả lời là đánh được hay không. "Chúng ta đã bị thiệt
hại về chính trị trong cuộc hành quân [qua Cam Bốt] này rồi. Nếu có
thể huỷ diệt được tất cả các mật khu của địch để giảm thiểu thiệt hại
cho quân ta, thì đây là đúng lúc để hành động... Tôi muốn tấn công tất
cả các căn cứ đó. Chuẩn bị các kế hoạch cần thiết và thực hiện ngay",
Nixon tuyên bố với ban tham mưu liên quân [11] . Vài tháng sau khi
VNCH và Mỹ kết thúc cuộc hành quân ở Cam Bốt, Tướng Abrams của
MACV trình lên ban tham mưu liên quân kế hoạch đánh qua Lào.
Tháng 12.1970 ban tham mưu liên quân đồng ý kế hoạch và một tháng
sau, Nixon cho phép tiến hành. Trong khi kế hoạch đánh qua Lào vào
tháng 2.1971 có thành công như tiên liệu hay không là một vấn đề
chúng ta sẽ bàn cãi sau, ở đây, qua những quyết định quân sự, chúng ta
muốn chứng minh tinh thần quyết liệt của Nixon khi thương lượng với
Hà Nội. Trước đó, vào cuối tháng 11.1970, Nixon cho phép thực hiện
một kế hoạch rất táo bạo: dùng đơn vị lực lượng đặc biệt bay từ Thái
Lan qua Sơn Tây, một tỉnh chỉ cách Hà Nội vài chục cây số, để tiếp cứu
vài chục tù binh Mỹ, dù biết biết kế hoạch có xác suất thất bại nhiều
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
hơn thành công, nhưng Nixon muốn làm để cho đối phương thấy ông
sẵn sàng chấp nhận may rủi nếu phải hành động [12] .
Đầu tháng 4.1972, khi nghe tin CSBV đem tất cả lực lượng tinh nhuệ
của họ tấn công ba mặt ở miền Nam, Nixon phản ứng mãnh liệt với
một cường độ làm ngay cả giới quân nhân phải quan tâm: Nixon muốn
di chuyển tất cả B-52 mà bộ tư lệnh quân chiến lược có thể di chuyển
được, đem qua Thái Lan và Guam để trả đũa CSBV. Khi CSBV ồ ạt
xua quân chủ lực tấn công VNCH, Nixon nóng mặt vì thái độ ngoan cố
của Hà Nội đã làm tổn thương danh dự của một vị tổng thống. Cùng
lúc, Nixon thấy mình bị Nga và Trung Cộng lừa vì hai đàn anh quan
trọng của Hà Nội đã thất hứa trong việc kiềm toả đàn em của họ. Tháng
Giêng vừa qua Nixon có viết cho Brezhnev một lá thư, trong đó nhắn
khéo với ông Chủ tịch Đảng Cộng sản Nga là "Hoa Kỳ không có chọn
lựa nào khác hơn là phản ứng mạnh nếu Bắc Việt có những hành động
làm nhục chúng tôi". Rồi đến tháng Hai, Nixon vừa hoàn tất cuộc viếng
thăm lịch sử ở Trung Cộng, nói chuyện với Mao và Chu Ân Lai. Đã
cảnh cáo trước, Nixon không thể để những lời cảnh cáo của Tổng thống
Hoa Kỳ bị coi thường. Hơn nữa, năm 1972 là năm bầu cử tổng thống,
cuộc tấn công của Hà Nội không được để đi quá xa để trở thành một sự
kiện có thể làm hư kế hoạch đắc cử nhiệm kỳ thứ nhì của Nixon. Theo
hồi ký của nhiều nhân chứng và theo những tài liệu được giải mật về
sau, đích thân Nixon chỉ huy cuộc phản công vào những ngày đầu khi
CSBV tấn công toàn diện miền Nam vào năm 1972. Trong giai đoạn
cuối cùng của chiến tranh Việt Nam, chúng ta có thể nói đó là cuộc
chiến của cá nhân Nixon - đó là thái độ của Nixon vis-a-vis VNCH và
Hà Nội. [13]
Để đối phó với cuộc tổng tấn công của CSBV, Nixon ra lệnh hải quân
được quyền xử dụng hai hạm đội cho chiến trường Đông Nam Á, nếu
cần. Ý Nixon muốn nói, nếu hải lực của Hạm đội 7 chưa đủ, bộ tư lệnh
Thái Bình Dương có quyền trưng dụng chiến hạm của Hạm đội 1
(trong thời gian đó ở vùng biển Thái Bình Dương, Hoa Kỳ có hai hạm
đội, đệ Nhất và đệ Thất). Nixon ra lệnh nếu bộ tư lệnh không quân Thái
Bình Dương cần thêm không lực chiến thuật (vì lúc đó Hoa Kỳ đã sử
dụng phân nửa không lực chiến lược, B-52, để phản công) họ có toàn
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
quyền trưng dụng từ những bộ tư lệnh khác trên thế giới. Và đây là
mệnh lệnh do đích thân Nixon phán, chứ không phải đến từ ban tham
mưu liên quân, hay có sự yêu cầu của đại tướng Abrams ở MACV.
Cũng trong những tuần lễ đầu tiên của cuộc tấn công, nhiều tài liệu cho
thấy Nixon có nhắc đến hai kế hoạch để triệt tiêu tài nguyên và nhân sự
của miền Bắc. Hai kế hoạch Nixon nhắc đến - qua hội đàm hay điện
thoại với các cố vấn thân cận - là dội bom những bờ đê quan trọng dọc
trên sông Hồng Hà và sử dụng vũ khí nguyên tử chiến thuật giới hạn để
huỷ diệt quân đội CSBV. Nhưng phải nói, cho đến bây giờ, sau khi
khảo sát những tài liệu và nghe lại điện đàm đã được giải mật, chúng ta
vẫn không có đủ yếu tố để xác định Nixon nói đến việc sử dụng bom
nguyên tử chiến thuật như là một tính toán thận trọng, hay chỉ là những
phát ngôn trong cơn thịnh nộ đối với kẻ thù. Đây không phải là lần đầu
tiên một vị tổng thống Hoa Kỳ nghĩ đến chuyện sử dụng vũ khí nguyên
tử ở chiến trường Á Châu hay Việt Nam. Truman có đặt vấn đề đó ở
chiến tranh Triều Tiên khi quân Mỹ đối diện với chiến thuật biển người
của Trung Cộng; Eisenhower bàn luận về bom nguyên tử chiến thuật
trong lúc thời gian Điện Biên Phủ đang hấp hối; và Johnson yêu cầu
ban tham mưu cho ông biết kế hoạch nguyên tử, nếu cần phải sử dụng,
khi hơn ba sư đoàn CSBV bao vây Khe Sanh. Nixon nghĩ đến vũ khí
nguyên tử trong trường hợp này không phải là một ngoại lệ. Nhưng ở
đây chúng ta không hiểu được được tâm lý và tinh thần của Nixon ra
sao khi ông nói đến chuyện đó. Có thể Nixon đã uống quá nhiều và nói
trong cơn say, trong ý nghĩa rượu nói - và chuyện Nixon uống nhiều
vào cuối tuần, hay khi cần phải quyết định đại sự, là chuyện mọi cố vấn
thân cận đều biết. Trong khi chúng ta không biết rõ Nixon nói thật hay
chơi khi nói đến võ khí nguyên tử, nhưng chúng ta biết rõ Nixon cương
quyết không để cho miền Nam bị tràn ngập trong cuộc tổng tấn công
năm 1972 [14] .
Ngày 2 tháng 51972., khi nhận được tin Quảng Trị thất thủ trước sự tấn
công ồ ạt của hơn ba sư đoàn CSBV, Nixon một mặt ra lệnh gia tăng
phi vụ oanh tạc các cứ điểm quân sự chung quanh Hải Phòng và Hà
Nội, mặt khác, Nixon đích thân đánh một điện văn cho Tổng thống
Thiệu, cho ông biết Hoa Kỳ vẫn đứng sau lưng VNCH trong giờ phút
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
nghiêm trọng như lúc này. Cùng ngày, Nixon ra lệnh cho ban tham
mưu liên quân phát hoạ kế hoạch phong toả các giang cảng, bến tàu ở
Bắc Việt bằng thuỷ lôi [15] .
Liền sau khi ban hành lệnh, khi thấy giới quân sự có vẻ chậm chạp
trong lúc thi hành các phi vụ trên miền Bắc (không lực của hải và
không quân chỉ cung cấp được trên hai trăm phi vụ ở Bắc Việt mỗi
ngày vì thời tiết không cho phép), Nixon viết cho Kissinger một huấn
lệnh, yêu cầu Kissinger tìm cách đốc thúc giới quân sự và các viên
chức trong Hội đồng An ninh Quốc gia phải tìm mọi cách để gia tăng
áp lực quân sự với Bắc Việt. Trong huấn lệnh cho Kissinger, Nixon
đồng thời đặt câu hỏi về sự trung thành của những viên chức cao cấp ở
Bộ Quốc phòng và Ngoại giao. Theo hồi ký của đại tướng Alexander
M. Haig - một trong những phụ tá thân cận của Kissinger và Nixon -
Tổng thống Nixon đã mất tin tưởng vào Đại tướng tư lệnh MACV,
Abrams, và Tổng trưởng Quốc phòng Melvin Lair. Nixon nghĩ hai viên
chức trên không thật sự giúp VNCH hết lòng như ý ông muốn. Nixon
viết: "Tôi không thể nhấn mạnh thêm hơn, là tôi đã quyết định chúng ta
sẽ đánh cạn láng. Và chúng ta phải làm sao cho địch thấy được ấn
tượng đó... Đối phương đã quyết định đánh cạn láng; chúng ta cũng
đánh cạn láng. Chúng ta có trong tay quyền lực huỷ diệt bộ máy chiến
tranh của họ. Nhưng câu hỏi là chúng ta có ý chí để sử dụng quyền lực
đó không. Sự khác biệt giữa tôi và Tổng thống Johnson là, tôi có ý chí
đó [sử dụng quyền lực] rất rõ ràng. Nhưng nếu chúng ta thất bại lần này
thì cũng tại vì những viên chức quan lại ở Bộ Quốc phòng và những
đồng minh của họ ở Bộ Ngoại giao. Họ cố gắng tìm cách phá hoại
những quyết định mạnh bạo và quyết liệt mà tôi muốn chúng ta phải thi
hành" [16] .
Ngày 5 tháng 5.72, khi Kissinger từ Paris trở về báo cáo là Hà Nội đã
từ chối tiếp tục thương thuyết, Nixon không chần chờ: trưa ngày 8 ông
ra lệnh cho Đô đốc Thomas H. Moore, Tham mưu trưởng liên quân,
chuẩn bị phong toả tất cả giang và hải cảng Bắc Việt, và chuẩn bị khởi
diễn cuộc hành quân không lực Linebacker. Chín giờ tối cùng ngày,
Nixon lên đài truyền thông, thông báo cho dân chúng Mỹ ý định của
ông. Trong thông điệp, Nixon nói Hoa Kỳ có ba chọn lựa: lập tức rút
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
tất cả quân đội Hoa Kỳ khỏi Đông Nam Á; tiếp tục thương lượng với
Hà Nội để tìm một giải pháp; và, dùng áp lực quân sự để ép buộc đối
phương. Nhưng, Nixon tuyên bố, kinh nghiệm đã cho thấy hai chọn lựa
đầu chỉ kéo dài cuộc chiến, kéo dài thêm chết chóc. Bây giờ chỉ còn
chọn lựa thứ ba: Hoa Kỳ sẽ oanh tạc cho đến khi nào Bắc Việt chịu
ngồi lại thương thuyết.
Ngày 9 tháng 5, hải quân thả thuỷ lôi phong toả Vịnh Bắc Việt. Tàu bè
ngoại quốc có 48 tiếng đồng hồ để rời bến. Sau thời hạn đó, ngòi nổ tự
động của thuỷ lôi sẽ hoạt động kể từ sáng ngày 11. Ngày 10 tháng 5,
cuộc hành quân không lực Linebacker khởi diễn. Hôm đó, chỉ trong 12
tiếng đồng hồ, phi cơ chiến thuật của không và hải quân bay 414 phi vụ
thả bom chung quanh Hải Phòng và Hà Nội [17] .
Nixon tự nhận mình là một tay đánh phé giỏi, biết coi mặt để đoán bài
đối phương [18] . Nixon biết lúc nào phải tố; và càng tố mạnh khi có bài
trong tay. Đến cuối tháng 9.1972, cuộc tổng tấn công của CSBV đã
hoàn toàn thất bại: An Lộc được giải toả; Kontum vẫn nằm trong tay
quân đội VNCH như từ lúc đầu của cuộc tấn công; và cờ của VNCH đã
tung bay trở lại ở cổ thành Quảng Trị. Đối diện với sự thất bại quân sự,
Bắc Việt chịu trở lại bàn hội nghị. Nhưng Hoa Kỳ - và VNCH - không
thể chấp nhận hai đề nghị của Hà Nội đưa ra vào ngày 26 và 27 tháng
9.1972 ở Paris. Trong khi Kissinger tiếp tục thương lượng với Hà Nội -
và khẩn nài Sài gòn phải nghe theo kế hoạch của Mỹ - Nixon vẫn giữ
yên lặng về thái độ của CSBV cho đến qua ngày bầu cử tổng thống.
Kết quả bầu cử cho thấy Nixon được sự tính nhiệm lớn của cử tri Hoa
Kỳ. Với kết quả đắc cử trong tay, ngày 14 tháng 12.1972 Nixon quyết
định cho Hà Nội thấy họ không có chọn lựa nào khác. Đi ngược lại
những cố vấn quân sự của Tổng trưởng Quốc phòng Laird, Ban tham
mưu liên quân, và Tư lệnh Thái Bình Dương, ngày 17 tháng 12, Nixon
ra lệnh khai diễn cuộc hành quân không lực Linebacker II tiếp theo.
Trong ba ngày đầu dội bom, hỏa tiễn địa không của Bắc Việt bắn rớt 14
B-52. Khi thấy Ban tham mưu liên quân và Bộ tư lệnh Thái Bình
Dương nao núng, Nixon ra lệnh cho Đô đốc Moorer tiếp tục cường độ
oanh tạc và bắt vị tham mưu trưởng liên quân này phải đích thân chịu
trách nhiệm về kết quả của chiến dịch oanh tạc. [19] Sau mười một ngày
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
dội bom, hơn một ngàn phi vụ chiến thuật và 770 phi vụ chiến lược B-
52, Lê Đức Thọ xin trở lại bàn hội nghị lần cuối.
Không ai có thể nói Hiệp định Ba Lê 1973 đã đem lại một nền hoà bình
cho Việt Nam, hay một danh dự cho Hoa Kỳ. Hiệp định Ba Lê 1973 chỉ
là một văn kiện để cho Hoa Kỳ rút chân ra khỏi vũng lầy Việt Nam một
cách danh chánh ngôn thuận. Trong khi một số người chỉ trích hành
động dội bom của Nixon, đa số dân chúng Hoa Kỳ coi đường lối của
Nixon là một phương cách duy nhất để khuất phục CSBV. Từ đầu
tháng 5.1972, bắt đầu chiến dịch Linebacker, khi Nixon tuyên bố ông
sẵn sàng thất cử nhiệm kỳ hai hơn là để mất miền Nam, cho đến đầu
tháng Giêng khi Nixon tái đắc cử, và kết thúc chiến dịch Linebacker II,
những cuộc trưng cầu dân ý cho thấy 67% dân chúng ủng hộ đường lối
của Nixon [20] .
Không ai phủ nhận Nixon là một chính trị gia loại Machiavelli hành
động tốt xấu gì cũng được, miễn sao có lợi cho mục đích tối hậu của
chính trị. Để giữ lời hứa "đưa quân đội Mỹ ra khỏi Việt Nam" với cử
tri Hoa Kỳ, Nixon đã làm những gì một chính trị gia có thể làm vis-avis
kẻ thù; đồng minh; và người dân đã bỏ phiếu cho mình: áp dụng vũ
lực quân sự đối với kẻ thù; bắt buộc người bạn đồng minh phải chấp
nhận một thực tế chính trị; và chấp nhận ý muốn của cử tri là đã đến lúc
Hoa Kỳ phải rời Việt Nam. Sau đó, liên hệ còn lại giữa Hoa Kỳ và Việt
Nam chỉ là những lời hứa đến từ cá nhân của một tổng thống - khi còn
làm tổng thống - của Richard M. Nixon.
Lịch sử sẽ có nhiều bí ẩn nếu một hoàn cảnh lịch sử được giả định bằng
chữ nếu. Nếu Nixon không liên hệ đến vụ Watergate và không phải từ
chức, thì Nixon có giữ lời hứa với Tổng thống Thiệu, với Việt Nam
Cộng Hoà khi Bắc Việt tấn công cưỡng chiếm miền Nam vào năm
1975 hay không? Nếu Nixon không bị mất tín nhiệm ở Quốc hội, và
Quốc hội Hoa Kỳ vẫn tiếp tục chương trình viện trợ quân sự kinh tế
cho VNCH thì vận mệnh của VNCH có đổi khác không? Những câu
hỏi này là những tranh luận không ngừng của sử gia [21] .
Khi Nixon được ghi vào lịch sử những vị tổng thống Hoa Kỳ, ông có
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
thể được liệt kê là xấu hoặc tốt; giỏi, hay dỡ. Nhưng không ai có thể
phủ nhận Nixon có một sự nghiệp chính trị ngoại hạng.
Ngoài những bí ẩn, lịch sử còn có nhiều trớ trêu: sự nghiệp chính trị
ngoại hạng của Nixon bị sụp đổ chỉ vì một sơ hở của những tên ăn trộm
chuyên nghiệp nhưng làm biếng.
Và cũng có nhiều nhận định cho rằng, định mệnh của Việt Nam Cộng
Hoà có một phần nào đó liên luỵ đến hậu quả của những tên ăn trộm
lười biếng này [22] .
[1]Nixon, Sđd, trang 270-271.
[2]Nixon, Sđd, trang 390.
[3]Nixon tuyên bố trên hệ thống truyền hình NBC, ngày 10 tháng
4.1988, hơn 14 năm sau khi từ chức. Trích theo Bruce Oudes, trong
From: The President. Richard Nixons' Secret Files, trang 1.
[4]Trích theo A. J. Langguth, Our Vietnam: The War 1954-1975, trang
622. Về số tử thương hàng năm của quân đội Mỹ từ 1945 đến 1975,
đọc James Olson, ed., Dictionary of the Vietnam War, Appendix E.
[5]Trong hai năm đầu nói chuyện với CSBV, Hà Nội khăng khăng đề
nghị phải thi hành hai điều kiện tiên quyết: thay (nếu cần, ám sát) Tổng
thống Thiệu và rút quân ra khỏi Việt Nam, rồi sau đó Hà Nội sẽ thật sự
thương lượng. Nhưng nếu Mỹ thi hành hai điều kiện đó thì tương
đương với đầu hàng. Henry Kissinger, Diplomacy, trang 695; Jeffrey
Kimball, Nixons' Vietnam War, trang 233, 270, 272. Ở chương sau
chúng ta sẽ đi vào chi tiết hơn về những gặp gỡ bí mật giữa Hoa Kỳ và
CSBV.
[6]MACV: Military Assistance Command-Vietnam, Sở chỉ huy chiến
trường ở các địa phương trong chiến tranh Việt Nam (talawas).
[7]Seymour M. Hersh, The Price of Power: Kissinger in the Nixon
White House, trang 55 (phụ chú). Theo tác giả Trường Sơn, Cuộc hành
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
trình năm ngàn ngày đêm (đường Hồ Chí Minh), (Thành Phố HCM:
NXB Văn Nghệ, 1992), trang 185, trong năm tháng đầu của năm 1969,
bộ tư lệnh Trường Sơn (Đoàn 559) bị chết 2.500, bị thương 2.938, và
có 1.000 xe bị tiêu huỷ. Con số thiệt hại này rất khiêm nhường so với
các tài liệu khác. Cũng theo tác giả, không lực Hoa Kỳ làm đình trệ bốn
mươi lăm phần trăm công tác của hệ thống xâm nhập trong thời gian
trên. Trường Sơn là bút hiệu của đại tá Phạm Tề, một cựu sĩ quan của
Đoàn 559.
[8]Giải thích một cách vắn tắt ở đây, kế hoạch dội bom bí mật và giấu
các thẩm quyền quân sự khác được thực hiện như sau: bộ tư lệnh
MACV ở Sài Gòn yêu cầu những phi vụ B-52 dội bom những nơi tập
trung quân dọc theo biên giới Việt-Căm Bốt như thường lệ. Nhưng vài
giờ trước khi các phi vụ cất cánh, MACV cho người đến trung tâm điều
khiển oanh tạc (tất cả các phi vụ B-52 được điều khiển bằng hệ thống
radar hướng dẫn mục tiêu ở dưới đất) với những tọa độ mới. Trên
đường bay đến mục tiêu, một số phi công nhận những thay đổi vào giờ
chót, và được hướng dẫn đến mục tiêu mới. Sau mỗi phi vụ, quân lệnh
ghi toạ độ được thiêu huỷ; các sĩ quan liên hệ không được bàn luận về
những phi vụ đó với bất cứ ai. Sự việc đổ bể khi một số đơn vị đóng
quân bên này biên giới chứng kiến bom rơi bên kia biên giới, trong nội
địa Cam Bốt, và họ viết thư về kể chuyện này với nghị viên Quốc hội
Hoa Kỳ. Một trong những tác phẩm viết chi tiết nhất về kế hoạch dội
bom B-52 bí mật trong nội địa Cam Bốt là Sideshow: Kissinger, Nixon
and the Destruction of Cambodia của William Shawcross. Nixons'
Vietnam War của Kimball, và The Price of Power của Hersh cũng có
vài chương với nhiều tài liệu phong phú về cuộc dội bom này.
[9]Nixon, Sđd, trang 445.
[10]Về các chi tiết quan trọng của cuộc hành quân đánh qua Cam Bốt,
đọc: Chuẩn tướng Trần Đình Thọ, "The Cambodian Incursion". Theo
Lewis Sorley, trong A Better War: The Unexamined Victories and
Final Tragedies of Americas' Last Years in Vietnam, trang 208-209, tài
liệu tịch thu ở Cam Bốt cho thấy các đơn vị Việt Cộng trong vùng hành
quân đã nhận được chỉ thị trước về cuộc hành quân và cuộc đảo chánh
Sihanouk của tướng Lon Nol từ giữa tháng 3.1970. Trương Như Tảng,
trong A VietCong Memoir: An Inside Account of the Vietnam War and
Its Aftermath, trang 176-178, có nói sơ về cuộc di tản của Mặt trận Giải
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
phóng miền Nam và Chánh phủ Cách mạng Lâm thời về tỉnh Kratie khi
quân VNCH đánh vào sào huyệt họ. Cũng trong những trang đã trích,
Trương Như Tảng nói đầu tháng 3.1970, dựa vào tin tức từ tình báo
Nga, Hà Nội báo cho họ biết Sihanouk sắp bị đảo chánh, và có thể có
một cuộc tấn công trong tương lai của VNCH.
[11]Nixon, Sđd, trang 453-454. Chữ "tất cả" in nghiêng là nguyên thuỷ
của Nixon.
[12]Nixon, Sđd, trang 860. Về chi tiết cuộc hành quân giải cứu tù binh ở
Sơn Tây, đọc Benjamin F. Schemmer, The Raid. Tuy cuộc đột kích giải
cứu tù binh không thành công (tù binh được dời di trại khác vì bị mưa
lụt), cựu Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch thú nhận với nhà báo
Seymour Hersh là, Hoa Kỳ có khả năng tấn công tận hậu cứ của họ, và
họ phải cẩn thận canh chừng khả năng "dám liều" đó. Đọc Hersh, Sđd,
trang 305-306. Hersh nói chuyện với Nguyễn Cơ Thạch khi đến Hà Nội
vào tháng 3.1972.
[13]Về lời cảnh cáo Hà Nội, nhắn qua Nga và Trung Cộng, của Nixon,
đọc Seymour Hersh, Sđd, trang 504-505; Jeffrey Kimball, Nixons'
Vietnam War, trang 294.
[14] Khi một số tài liệu và điện đàm tối mật của Nixon và cố vấn than
cận được giải mật vào tháng 2.2002, công luận mới nghe và đọc được
chuyện Nixon nói về ý định dội bom các bờ đê ở Hà Nội và dùng bom
nguyên tử chiến thuật để chận đứng CSBV, trong lần họp với Kissinger
ở toà Bạch ốc vào ngày 25 tháng 4.1972. Lý do chúng ta không xác
định được thái độ hư thực của Nixon, vì sau khi nghe lại cuốn băng,
một số ký giả cho rằng Nixon nói với một giọng nghiêm trọng; một số
khác thì cho đó chỉ là những phát ngôn trong lúc Nixon nóng giận. Đọc
Jeffrey Kimball, The Vietnam War File: Uncovering the Secret History
of Nixon-Era Strategy, trang 214-218. Nhưng trước đó, vào giữa năm
1971, Nixon cũng có nói về chuyện sử dụng bom nguyên tử đối với
CSBV. Đọc Seymour, Sđd, trang 396 (phụ chú). Rất nhiều sách và
nhân chứng nói về tật uống rượu cuối tuần của Nixon. Vào cuối tuần
Nixon thường về Camp David, một nhà nghỉ mát của tổng thống chỉ
cách Hoa Thịnh Đốn chừng 150 cây số. Nixon cũng thường uống rượu
một mình ở toà Bạch ốc trong lúc phải quyết định chuyện quan trọng
hay lúc viết huấn lệnh cho thuộc cấp. Một trong số những tài liệu giải
mật, có một đoạn nói Thủ tướng Anh McMillian gọi Nixon muốn nói
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
chuyện, nhưng Kissinger ra lệnh cho phụ tá trả lời là Nixon không thể
nói chuyện được vì ông đã quá say rồi. Những thí dụ khác về tật uống
rượu của Nixon, đọc Seymour, Sđd, ở những trang 108-110, 396, 486,
513, và 528.
[15]Nixon, Sđd, Nixon ra lệnh cho Ngũ giác đài, trang 587; viết điện tín
cho Tổng thống Thiệu, trang 600.
[16]Nixon, Sđd, trang 607. Chữ nghiêng nguyên thuỷ của Nixon. Sự bất
tín nhiệm của Nixon đối với Tổng trưởng Laird và Đại tướng Abrams
được Đại tướng Alexander M. Haig viết trong hồi ký Inner Circles:
How Ameica Changed the World, trang 282-283.
[17]Về chi tiết ngày đầu cuộc hành quân không lực Linebacker, 10 tháng
5.1972, đọc One Day in a Long War, của Jefrrey Ethell và Alfred Price.
Đây là quyển sách rất đầy đủ về một ngày dội bom của Hành Quân
Linebacker.
[18]Nixon, Sđd, trang 29, 34. Sau khi rời quân ngũ, trở về đời sống dân
sự và chuẩn bị ra tranh cử, khi Nixon nói về tình trạng tài chánh của gia
đình, ông có kể luôn khoản tiền ăn được từ những canh bài phé.
[19]Nixon, Sđd, trang 734; Haig, Sđd, trang 311. Sự thiệt hại của không
quân Mỹ xảy ra một phần vì hoả lực phòng không của CSBV quá
mạnh, nhưng phần lớn do kế hoạch hành quân quá vội vàng của bộ tư
lệnh không quân chiến lược. Ba ngày oanh tạc đầu tiên, Hoa Kỳ thiếu
phản lực cơ yểm trợ và quấy nhiễu các hệ thống ra đa trước pháo đài
bay B-52 đến mục tiêu. Khuyết điểm thứ hai là các phi vụ bay đúng giờ
và cùng một đường bay, rất dễ cho đối phương đoán biết trước. Sau ba
ngày thiệt hại, bộ tư lệnh các không lực thay đổi chiến thuật tấn công,
và Hoa Kỳ không bị một thiệt hại nào ngoài số thiệt hại đã nói. Đọc
thêm, Carl Berger, chủ biên, The United States Air Force in Southeast
Asia: 1961-1973, trang 97-98.
[20]Haig, Sđd, trang 285, 314.
[21] Pat Buchanan, trưởng phòng báo chí toà Bạch ốc của Nixon, tuyên
bố, những ai đã phá hoại nền tổng thống của Nixon cũng đồng thời
liệng sự hy sinh của 58.000 quân nhân Mỹ ở Việt Nam xuống ống
cống. Ý Buchanan muốn nói, nếu Nixon không từ chức, chưa chắc
miền Nam bị rơi vào hoàn cảnh như đã xảy ra và sự hy sinh của các
quân nhân Mỹ không trở thành vô ích. Pat Buchanan, trả lời phỏng vấn
trên chương trình "Today" của hệ thống truyền hình NBC, thứ Bảy, 4
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
tháng 5.2005.
[22]Đêm 16 tháng 6.1972, năm người có liên hệ với một số viên chức
đang làm việc trong toà Bạch ốc, đột nhập vào một khách sạn/chung cư
sang trọng có tên là The Watergate, toạ lạc cách toà Bạch ốc vài cây số,
với ý định đặt máy thu âm và chụp một số tài liệu. Vì cửa ra vào ở các
khách sạn tự động khoá lại khi ra vào, thay vì dùng chìa khoá để mở
cửa mỗi khi ra vào, những người này dùng băng keo dán chốt khoá lại
để đỡ tốn thì giờ ra vô. Một nhân viên an ninh của khách sạn tuần hành
ngang và để ý thấy chốt khoá bị băng keo dán lại. Tưởng rằng nhân
viên sửa chữa dán lại trong khi làm việc, anh ta không quan tâm, tháo
băng keo ra và đóng cửa lại. Nhưng lần tuần hành thứ nhì trở lại, chốt
khoá lại bị dán kín nữa. Nghi ngờ là có vụ trộm đang xảy ra, anh ta gọi
cảnh sát: Vụ Watergate bắt đầu từ đó, và hơn hai năm sau đưa đến sự từ
nhiệm của Nixon. Năm người "ăn trộm" nói trên không phải là những
tay trộm tài tử, mà là những người đã từng hoạt động nhiều điệp vụ bí
mật. Một tháng trước, họ đã đột nhập vào Watergate, đã đánh cắp được
một số tài liệu mật của Đảng Dân chủ. Họ trở lại lần này vì cần phải
gắn lại một máy thu âm mới. Toán ăn trộm này nằm dưới sự điều động
của vài nhân viên cao cấp đang làm việc cho Nixon. Họ từng phục vụ
trong ngành tình báo quân sự và dân sự của Chính phủ Hoa Kỳ (thí dụ
như Gordon G. Lily, FBI; Howard Hunt, CIA; và Charles Colson, tình
báo quân đội). Rất nhiều tài liệu nói về vụ Watergate và sự sụp đổ của
Chính phủ Nixon bắt nguồn từ vụ Watergate. Vài tài liệu căn bản: Carl
Bernstein and Bob Woodward, All the Presidents' Men (New York:
Simon & Schuster, 1974); và, The Final Days (New York: Simon &
Schuster, 1976). Về những điều tra, tang chứng và kiện tụng trước toà
án, đọc Leon Jaworski, The Right and the Power (New York; Readers'
Digest Press, 1976). Alexander Haig, Inner Circles, cũng có nhiều chi
tiết bên trong toà Bạch ốc trong những ngày cuối của Nixon.
Người Mỹ và chiến tranh Việt Nam
Phần 3
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
Chương 11
Việt Nam hóa và rút quân
Trong cuộc chiến chống cộng, Việt Nam Cộng hòa (VNCH) có một số
lỗi lầm quan trọng về chiến thuật và chiến lược. Một trong những lỗi
lầm nghiêm trọng nhất VNCH vấp phải là sự chậm trễ trong nỗ lực
tổng động viên, dồn tất cả nhân lực của quốc gia vào mục tiêu chống
cộng.
Ở miền Bắc, từ sau quyết nghị "phải dùng vũ lực để thống nhất miền
Nam" của Lê Duẩn vào tháng 5-1959, chính quyền cộng sản đã động
viên nhân lực nhiều lần để thực hiện mục đích xâm lăng của họ. Trong
khi đó, phía VNCH chỉ chính thức ban hành luật động viên một cách
phổ quát sau cuộc tổng công kích Mậu Thân 1968 của Cộng sản Bắc
Việt (CSBV). Những năm trước đó, tháng 8-1957 và tháng 1-1959, các
sắc luật về động viên có tính cách giai đoạn, nằm dưới hình thức Nghĩa
vụ Quân sự. Hai sắc luật trên qui định: Nam công dân tuổi từ 20 đến 21
phải phục vụ trong quân đội một thời gian là 18 tháng rồi được trở về
đời sống dân sự. Hai sắc luật này rất lỏng lẻo, và nhà chức trách cũng
không thực tâm thi hành triệt để. Tháng 4-1964, sau cuộc đảo chánh
thứ nhì trong vòng hai tháng (đảo chánh Ngô Đình Diệm 1-11-1963; và
Nguyễn Khánh "chỉnh lý" Dương Văn Minh, 1-1-1964) một sắc luật
mới được ban hành, qui định về Nghĩa vụ Quốc gia và Phòng vệ Dân
sự. [1]
Luật tổng động viên 1968 do Quốc hội ban hành (thay vì chỉ là sắc luật
tạm thời) là kết quả của sự thúc bách khi VNCH đối diện vấn đề một
sống một còn với cộng sản. Tháng 3 năm 1968, sau khi cuộc tổng công
kích của cộng sản bị bẻ gãy và tình hình an ninh tương đối ổn định,
Quốc hội VNCH ban hành luật tổng động viên, bắt tất cả công dân
nam, tuổi từ 18 đến 35, phải thi hành nghĩa vụ quân sự trong một thời
gian vô hạn định. [2] Chính phủ đồng thời gọi tái ngũ những cựu quân
nhân trong hạn tuổi nói trên nếu chưa có đủ năm năm quân vụ trong
quá khứ.
Nhưng đầu năm 1968, trong khi chính phủ VNCH bắt đầu kế hoạch
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
tổng động viên để có đủ nhân lực đối phó với CSBV, thì Hoa Kỳ đã
muốn thay đổi vai trò của họ ở Việt Nam: Sau hơn ba năm chia sẻ gánh
nặng ngoài mặt trận, Hoa Kỳ bắt đầu nghĩ đến kế hoạch "nhường" cuộc
chiến lại cho quân đội VNCH và chuẩn bị rút quân.
Ở chương này chúng ta sẽ nói về kế hoạch Việt Nam hóa và kế hoạch
rút quân của người Mỹ ra khỏi chiến trường i và chiến tranh Việt Nam.
Đồng thời, chúng ta cũng nói đến những gánh nặng của quân lực
VNCH khi phải nhận thêm những vai trò của người Mỹ bỏ lại; sự thành
công qua chương trình bình định và phát triển Nông thôn; và nhất là
những cơ hội VNCH đã bỏ lỡ trong cuộc chiến chống lại sự xâm lăng
của cộng sản Bắc Việt N những cơ hội mà chúng ta có thể gọi là những
chiến thắng bị bỏ lỡ. [3] Đây là những giai đoạn quan trọng nhất trong
cuộc chiến, và cũng là những cố gắng cuối cùng của người Mỹ và Việt
Nam Cộng hòa trong chiến tranh Việt Nam.
*
Năm 1969.
Vừa nhậm chức, tổng thống Nixon ra lệnh cho Cố vấn An ninh Quốc
gia Kissinger soạn thảo một kế hoạch để giải quyết chiến tranh Việt
Nam nhanh chóng như những gì ông đã hứa với cử tri lúc vận động
tranh cử.
Như đã nói ở chương trước, Nixon N và bây giờ có thêm Kissinger rất
phấn khởi và tự tin về những gì ông có thể thực hiện để kết thúc cuộc
chiến. Nixon tuyên bố với các viên chức cao cấp trong buổi họp đầu
tiên của nội các, ông sẽ kết thúc cuộc chiến trong vòng một năm. Cùng
lúc, tân Cố vấn An ninh Quốc gia Kissinger nói với người ngoài và bạn
bè cũ ở đại học Harvard ông chỉ cần sáu tháng. [4]
Trước đó, ngay sau khi được Nixon bổ nhiệm chức Cố vấn An ninh
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
Quốc gia T 27 tháng 11-1968 cho đến ngày Nixon tuyên thệ nhậm chức
20 tháng 1-1969 Kissinger đã nhờ công ty RAND thực hiện làm một
nghiên cứu tổng quát để thu thập ý kiến của các giới chức cao cấp trong
chính phủ về chiến tranh Việt Nam. Người soạn thảo bản nghiên cứu
đó là Daniel Ellsberg, một nhân vật mà hai năm sau gây ra một chấn
động cho chính quyền Nixon. [5] Bản nghiên cứu của Ellsberg cho thấy
đầu năm 1969, trong nội các mới của Nixon có ba nhóm, với ba ý kiến
và nhận định khác nhau về kế hoạch kết thúc chiến tranh Việt Nam:
Nhóm A, gồm các viên chức cao cấp ở ban tham mưu liên quân,
MACV, bộ ngoại giao và nhân viên tòa đại sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn, lạc
quan về đường lối cuộc chiến đang diễn biến. Ý kiến của Nhóm A là cứ
tiếp tục dùng áp lực quân sự cho đến khi nào phía cộng sản chịu thương
lượng, hay bị đánh bại, thì lúc đó cuộc chiến mới được coi là kết thúc.
Nhóm này đề nghị Hoa Kỳ không nên rút quân ra khỏi Việt Nam nhiều
hay quá nhanh; phải cần ít nhất một năm, hay một năm rưỡi nữa mới
nên nói chuyện rút quân. Nhóm B, gồm có ông tổng trưởng quốc
phòng, các nhân viên cao cấp dưới quyền, một thiểu số ở bộ ngoại giao,
và một số viên chức CIA, có ý kiến bi quan về cuộc chiến. Họ nghĩ
chiến lược truy lùng và triệt tiêu của tướng Westmoreland không có
hiệu quả; và cuộc chiến không thể kéo dài dưới sự tốn kém về tài
nguyên và nhân lực như đang xảy ra. Nhóm B đề nghị Hoa Kỳ nên
thương lượng, nên nhân nhượng với cộng sản N thí dụ như chấp nhận
một chánh phủ liên hiệp ở miền Nam. Chỉ có cách đó, Nhóm B đề nghị,
thì Hoa Kỳ mới có thể rút khỏi Việt Nam trong danh dự. Một nhóm
khác, không có đại diện chính thức và không có tiếng nói quan trọng
trong chánh quyền, gọi là Nhóm C, thì có ý kiến rất thẳng và hoàn toàn
khác hai nhóm trên: Hoa Kỳ có được chiến thắng về quân sự hay
không; cuộc thương lượng chính trị với cộng sản ở Ba Lê có thành
công hay không, Hoa Kỳ phải rút quân ra khỏi Việt Nam trong vòng
một, hay hai năm c dù có hay không có sự tán thành hay đồng ý của
chính phủ VNCH. [6]
Với nhiều ý kiến trái ngược đến từ các cơ quan và nhân viên cao cấp
chính quyền, Kissinger muốn xác định lại một lần nữa trước khi quyết
định tổng kết một đường lối rõ rệt cho Việt Nam. "Đồng ý với nhau
còn chưa xong, thì làm gì có được một lập trường chung," Kissinger
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
phê bình những ý kiến gởi về. Nhận thấy điều đó, Ellsberg đề nghị N
và Kissinger đồng ý một nghiên cứu mới: thay gì hỏi ý kiến tổng quát
và giống nhau ở các cơ quan, lần này bản nghiên cứu nên hỏi riêng biệt
từng cơ quan, với một số câu hỏi dựa vào trách nhiệm cụ thể cơ quan
đó đối với cuộc chiến.
Ngày 21 tháng Giêng, 1969, Kissinger gởi đến bộ ngoại giao, ban tham
mưu liên quân, CIA, đại sứ Bunker ở Sài Gòn, và Bộ quốc phòng, một
huấn lệnh có tên là NSSM 1. Huấn lệnh NSSM 1 có 29 câu hỏi chánh
và 50 câu hỏi phụ, liên quan đến kế hoạch và ý kiến của mỗi cơ quan về
cuộc chiến ở Việt Nam. Mặc dù câu hỏi hơi khác nhau tùy theo nơi
nhận, phần lớn các câu hỏi có nội dung như: tình hình cuộc thương
thuyết ở Ba Lê [7] ; khả năng của quân đội VNCH; tiến triển của
chương trình bình định và Xây dựng Nông thôn; nội tình chính trị của
VNCH; tình hình của địch; và, hiệu quả về các hoạt động quân sự của
quân đội Hoa Kỳ đang diễn ra. [8] Tổng hợp các ý kiến và câu trả lời
trong bản nghiên cứu lần thứ nhì gởi về cho hội đồng an ninh quốc gia
không khác hơn lần trước. Tuy nhiên, lần này bản nghiên cứu có những
nhận định được gọi là tương đối tổng hợp các ý kiến chung của thẩm
quyền Mỹ ở Việt Nam. Ý kiến chung là: trước khi Hoa Kỳ rút đi, chính
phủ VNCH phải chỉnh đốn giai cấp lãnh đạo trong quân đội để nâng
cao tinh thần chiến đấu; quân đội VNCH có khả năng đối đầu với bất
cứ cuộc tấn công nào của CSBV nếu được sự yểm trợ hỏa lực của quân
đội Hoa Kỳ; tuy nhiên trên đường dài, VNCH không thể đương đầu với
một cuộc tổng tấn công qui mô của CSBV nếu không nhận được tiếp tế
đầy đủ về kinh tế và quân sự; và sau cùng ự cũng là vấn đề quan trọng
nhất nếu Hoa Kỳ quyết định rút quân, nhịp độ và số lượng quân rút đi
sẽ là một ảnh hưởng quan trọng trong thời kỳ quân đội VNCH đang cố
gắng bành trướng để thay vào chỗ trống của quân đội Hoa Kỳ.
Cuối tháng 3-1969, hội đồng an ninh quốc gia họp để điều nghiên về
kết quả của NSSM 1. Nhưng theo những gì chúng ta biết được sau này,
Kissinger và Nixon không quan tâm nhiều đến những ý kiến trả lời cho
huấn lệnh NSSM 1. Hoặc họ hỏi để mà hỏi, hoặc họ chỉ muốn nhận
diện ai là "bồ câu," ai "diều hâu" đối với cuộc chiến. "Hỏi để cho biết,"
Kissinger tuyên bố về bản nghiên cứu NSSM 1 sau này. Lý do Nixon
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
và Kissinger không quan tâm đến những câu trả lời, vì đối diện với một
mớ ý kiến lộn xộn và trái ngược của những giới chức đang điều hành
cuộc chiến, Nixon và Kissinger quyết định để ra vài tháng để đi tìm
một kế hoạch khả dĩ phù hợp với quần chúng và đường lối chính trị
đương thời. [9]
Mặc dầu danh từ Việt Nam hóa (Vietnamization) được dùng một cách
phổ thông trên báo chí từ lúc Nixon lên nắm quyền, khái niệm Việt
Nam hóa cuộc chiến Việt Nam được nảy sanh từ tổng trưởng
McNamara vào cuối năm 1967, và được chánh quyền Johnson áp dụng
một cách phôi thai từ giữa năm 1968 năm cuối cùng Lyndon Johnson
làm tổng thống. Trong bản tường trình cuối cùng trước khi từ chức,
tổng trưởng quốc phòng McNamara đặt lại chủ đích của Hoa Kỳ và có
ý hoài nghi về một chiến thắng quân sự chiến trường Việt Nam.
McNamara kết luận trong bản báo cáo cho tổng thống Johnson bằng
với đề nghị: (a) tìm một giải pháp thương lượng chính trị; và (b) lần lần
giao lại trách nhiệm tác chiến và bình định cho quân đội VNCH. [10]
Tháng 3-1968, trong cao điểm của cuộc tổng công kích Mậu Thân
1968, mặc dù thẩm quyền dân sự ở Hoa Thịnh Đốn [11] từ chối không
tăng viện thêm 200 ngàn quân cho đại tướng Westmoreland, nhưng họ
đồng ý tăng thêm quân viện và ngân sách với mục đích giúp VNCH
thành lập ra nhiều đơn vị mới để hoàn toàn gánh vác trách nhiệm chiến
đấu thay quân đội Hoa Kỳ trong những ngày sắp tới. [12] Theo đại sứ
Bùi Diễm, giới chức Hoa Kỳ đã có khái niệm về Việt Nam hóa từ năm
1965, nhưng đã không áp dụng cho đến năm 1968, vì nghĩ họ có thể
đánh bại cộng sản trong một thời gian ngắn mà không cần sự trợ lực
của quân đội VNCH. Nhận định của cựu đại sứ Bùi Diễm không xa sự
thật lắm, vì vào năm 1965, thái độ của Hoa Kỳ giống như thái độ của
một anh chàng khổng lồ cao mười trượng, nai nịch giáp phục, quay qua
nói với người bạn Đồng minh VNCH đại khái như, "Các anh đứng qua
một bên chờ tôi, để tôi giải quyết chuyện này cho ... sẽ không tốn nhiều
thì giờ đâu ..." [13] Thái độ tự tin đó cũng được thể hiện qua lời tuyên bố
của đại tướng Westmoreland vào năm 1966, khi ông nói với tổng thống
Johnson ông tin tưởng cuộc chiến sẽ kết thúc vào mùa Hè năm tới. [14]
Nhưng sau ba năm đổ máu với gần ba mươi ngàn tử sĩ, các tư lệnh
quân đội Mỹ mới thấy được sự giới hạn của vũ khí cơ giới trong chiến
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
trường du kích ở rừng núi Đông Dương; và sự giới hạn về những gì họ
được phép và không được phép thực hiện, ở một chiến trường mà luật
tác chiến bị qui định bởi nhu cầu chính trị ở bên nhà. Cùng lúc, con số
14.491 quân nhân Hoa Kỳ tử thương trong năm 1968 (so với hơn 9.000
của năm 1967), đã làm giới dân sự ở Hoa Thịnh Đốn nghĩ lại chiến
thuật quân sự của MACV ở Việt Nam. [15]
Trong khái niệm nguyên thủy của chương trình Việt Nam hóa chương
trình lúc được phác họa và đề nghị dưới thời tổng thống Johnson bộ tư
lệnh MACV của đại tướng Abrams và đại sứ Ellsworth Bunker có ba
nhiệm vụ:
(1) cấp tốc gia tăng các chương trình huấn luyện và trang bị các đơn vị
VNCH theo tiêu chuẩn của quân đội Hoa Kỳ. Sau khi các đơn vị
VNCH đủ khả năng để thay thế đơn vị Hoa Kỳ ở một vùng trách nhiệm
nào đó, đơn vị Hoa Kỳ sẽ rút đi;
(2) giảm tối đa thiệt hại nhân mạng của quân đội Mỹ, bằng cách chuyển
từ chiến lược truy lùng và triệt tiêu của Westmoreland qua chiến lược
bảo vệ cứ điểm và bình định cứ điểm đang chiếm đóng;
(3) gia tăng các chương trình bình, Xây dựng và phát triển Nông thông
để loại trừ hạ tầng cơ sở của cộng sản.
Nói một cách khác, quân đội và các cơ cấu dân sự của Hoa Kỳ sẽ rút ra
khỏi chiến trường Việt Nam theo nhịp độ và khả năng thay thế của
VNCH. Thêm vào đó, kế hoạch Việt Nam hóa nguyên thủy khác kế
hoạch được áp dụng khi Nixon lên cầm quyền là, quân đội Hoa Kỳ sẽ
không rút đi hết mà họ sẽ giữ lại một số đơn vị căn bản ở Việt Nam để
nâng cao tinh thần quân đội VNCH và canh chừng những cuộc tấn
công qui mô bất ngờ của CSBV. Một mô hình tương tự như mô hình
quân đội Đồng minh đóng lại ở Nam Hàn sau hội nghị đình chiến ở
Bàn Môn Điếm trong chiến tranh Đại Hàn. [16]
Nhưng khi Nixon lên thay Johnson; và Melvin Laird thay Clark
Clifford (Clifford thay McNamara trước đó không đầy một năm) ở Bộ
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
quốc phòng, chương trình Việt Nam hóa được coi là một kế hoạch tiêu
biểu của của chính phủ mới đối với Việt Nam N nhưng với một nội
dung hoàn toàn đổi khác, theo ý muốn của tân tổng trưởng Laird. Vừa
lên nhận chức, tổng trưởng quốc phòng Laird bay sang Việt Nam vào
tháng 3-1969, để quan sát tình hình. Khi về lại Hoa Thịnh Đốn, Laird
gởi bộ tư lệnh MACV ở Sài Gòn một huấn lệnh. Chỉ thị trong huấn
lệnh của Laird làm đại tướng Abrams ngỡ ngàng: Quân đội Hoa Kỳ sẽ
rút đi theo lịch trình và số lượng định sẳn, bất chấp tiến trình hay khả
năng thay thế của quân đội VNCH. [17] Cũng trong huấn lệnh đó, Laird
muốn MACV phải bắt đầu giảm thiểu các cuộc hành quân có tánh cách
tấn công; nhiệm vụ của quân đội Hoa Kỳ từ đây về sau là giúp đỡ và
huấn luyện quân đội VNCH mà thôi. Nội dung huấn lệnh của tổng
trưởng Laird có một hàm ý rất quan trọng: bộ tư lệnh MACV phải tìm
mọi cách để giới hạn số thương vong của quân nhân Hoa Kỳ dù phải
giới hạn những cuộc hành quân truy lùng và triệt tiêu CSBV. Với huấn
lệnh mới, bộ tư lệnh MACV thêm một lần nữa phải thay đổi chiến lược
và chiến thuật ngoài mặt trận theo nhu cầu chính trị ở bên nhà. Đáng
tiếc hơn, quân đội VNCH bây giờ trở thành nạn nhân bất đắc dĩ cho
một Chủ thuyết mới Chủ thuyết Nixon (the Nixon Doctrine).
Trong ba tháng đầu của năm 1969, phía VNCH có ý chờ một đường lối
ngoại giao và quân sự rõ ràng từ tổng thống Nixon, để từ đó VNCH
mới thay đổi đường lối chiến lược chiến thuật song song với người bạn
Đồng minh trong cuộc chiến. Từ cuối năm 1968, phía VNCH đã thỏa
mãn ý muốn của Hoa Kỳ bằng cách gởi một phái đoàn đến tham dự hòa
đàm ở Ba Lê. Cuộc họp đầu tiên giữa VNCH-Hoa Kỳ và CSBVMTGPMN
(Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam) vào
ngày 25 tháng 1-1969 cho thấy VNCH chấp nhận chuyện đối thoại với
MTGPMN như là một chuyện tất yếu. Nhưng từ tháng 3 trở đi, những
tuyên bố từ các nhân viên cao cấp Hoa Kỳ càng lúc càng trở nên "hiếu
hòa" trước những cuộc pháo kích và tấn công của CSBV vào nhiều thị
tứ ở miền Nam trong sáu tháng đầu của năm 1969. Tháng 4, ngoại
trưởng Rogers tuyên bố, "Hoa Kỳ không muốn đi tìm một chiến thắng
quân sự ở Việt Nam..." Cùng lúc, tổng trưởng quốc phòng Laird tuyên
bố, Hoa Kỳ sẽ rút quân nếu một trong ba điều kiện xảy ra... Một trong
ba điều kiện đó là ...khi quân lực VNCH đủ sức gánh vác cuộc chiến
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
một mình. Tuy tuyên bố như vậy, nhưng bên trong Laird đã thuyết
phục Kissinger và Nixon phải rút quân ngay trong năm và từ từ chuyển
giao tất cả trách nhiệm tác chiến lại cho quân đội VNCH. Với sự đồng
ý của Nixon, đầu tháng 4-1969, Kissinger gởi Laird một huấn lệnh, yêu
cầu Bộ quốc phòng sơ thảo một lịch trình rút tất cả quân tác chiến, nhân
viên bán quân sự, nhân viên hành chánh, cố vấn, quân nhu dụng và võ
khí. Theo lịch trình soạn thảo của Bộ quốc phòng, cuộc rút quân sẽ
được chia làm 14 giai đoạn, kéo dài 44 tháng. Bắt đầu từ tháng 7-1969
cho đến tháng 11-1972, Hoa Kỳ sẽ rút tất cả số quân 549.500 người
đang có mặt tại Việt Nam. [18]
Hơn nửa năm trước, từ tháng Giêng, nhiều hãng thông tấn loan tin Hoa
Kỳ sẽ rút đi ít nhất hai mươi ngàn quân trong vài tháng tới. Mặc dầu
giới chức Hoa Kỳ M và ngay cả tổng thống Nixon phủ nhận chính phủ
Mỹ đang có kế hoạch rút quân hay có kế hoạch Việt Nam hóa cuộc
chiến, nhưng những lời phủ nhận xuất hiện tới lui nhiều đến độ dư luận
có ấn tượng giới chức Hoa Kỳ đang thả nổi trái bóng rút quân và
chương trình Việt Nam hóa để thăm dò dư luận của VNCH. Và thật sự,
với tất cả sự ái ngại, Nixon đang cố gắng che đậy ý định lừa dối của
ông bằng nhiều tuyên bố ngược xuôi. Trong bài diễn văn đầu tiên về
Việt Nam, đọc trên hệ thống truyền thanh toàn quốc ngày 14 tháng 5
1969, Nixon tuyên bố Hoa Kỳ sẽ không bao giờ nghĩ đến chuyện rút
quân đơn phương, hay không có ý kiến chung với VNCH. Nhưng sau
này, trong một hồi ký viết về đường lối của ông đối với chiến tranh
Việt Nam, Nixon nói, ngay sau khi lên nhậm chức thì "chuyện rút quân
hay không, không còn là một câu hỏi nữa. Câu hỏi bây giờ là quân đội
Hoa Kỳ rời khỏi Việt Nam như thế nào và họ phải để lại gì khi sau khi
rút đi." [19]
Nhưng Hoa Kỳ không thể che giấu kế hoạch của họ dài lâu được:
Nixon thấy sự thật - dù phũ phàng như thế nào - cần phải được thông
báo cho phía VNCH. Cuối tháng 5, tòa Bạch Ốc loan báo hai tổng
thống Thiệu và Nixon sẽ gặp nhau ở đảo Midway vào thượng tuần
tháng 6, để trao đổi ý kiến và kế hoạch về Việt Nam. Hai bên gặp nhau
ngày 8 tháng 6-1969. Trong cuộc hội thảo, theo những gì chúng ta biết
được sau này, phía VNCH chỉ trao cho Hoa Kỳ một bản kế hoạch,
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
trong đó nói về quân số và khả năng của quân đội VNCH đương thời;
và những nhu cầu về tân trang và yểm trợ cho một khả năng quân sự
tương lai để thay vào chỗ trống của quân đội Mỹ. Chỉ như vậy, và
VNCH không biết gì chi tiết về kế hoạch rút quân của Hoa Kỳ. [20] Sau
cuộc hội thảo, sau khi trở lại Hoa Thịnh Đốn, Nixon tuyên bố: với sự
đồng ý của tổng thống Thiệu và đề nghị của tướng Abrams, quân đội
Mỹ sẽ rút khỏi Việt Nam trong hai tháng tới. Nhưng khi Nixon nói "có
sự đồng ý của tổng thống Thiệu và tướng Abrams," thì Nixon đã phóng
đại sự thật: cả Abrams và ông Thiệu đều phản đối đề nghị của Nixon về
việc rút quân, mặc dù những phản đối đó chưa bao giờ được để lộ ra
ngoài công cộng. Sau này trong hồi ký, chính Nixon cũng công nhận
ông đã "phóng đại" khi tuyên bố có sự đồng ý của tổng thống Thiệu và
đại tướng Abrams. [21]
Sau khi đã "thổ lộ" ý định thật về kế hoạch của Hoa Kỳ đối Việt Nam
trong vài năm tới, hơn một tháng sau, trên đường đi thăm viếng các
quốc gia ở Á châu, Nixon tuyên bố cho tất cả các Đồng minh một chiến
lược mới của Hoa Kỳ ở Thái Bình Dương: Hoa Kỳ vẫn sẳn sàng yểm
trợ các Đồng minh về mọi mặt để chống lại sự xâm lấn của cộng sản -
trừ việc yểm trợ về nhân lực. Hoa Kỳ sẽ không lập lại kinh nghiệm ở
Đại Hàn và Việt Nam, Nixon tuyên bố. Nghĩa là, trong tương lai Hoa
Kỳ chỉ yểm trợ về vật chất, nhưng sẽ không trực tiếp đem quân vào tác
chiến như đã làm ở Đại Hàn và Việt Nam. Nói một cách khác, Hoa Kỳ
sẳn sàng đổ tiền và yểm trợ vật chất, nhưng người Đồng minh bản xứ là
người phải đổ máu trong cuộc chiến bảo vệ tự do cho quê hương của
họ. Khi tuyên bố Chủ thuyết này, không biết Nixon có nhắm vào Việt
Nam như một thí dụ hay không. Nhưng cái gọi là "Chủ thuyết Nixon"
đối với chương trình Việt Nam hóa ở chiến trường Việt Nam. [22] Khi
Nixon ghé thăm Sài Gòn ngày 30 tháng Giêng, 1969, ông nói thêm ý
định của Hoa Kỳ về chuyện rút quân. Lần này Nixon nói rõ hơn: Hoa
Kỳ sẽ rút quân theo lịch trình, và nếu cần, sẽ rút quân dù có sự đồng ý
của VNCH hay không. [23]
Chương trình Việt Nam hóa, dù được nhìn qua góc độ lạc quan nhất,
chỉ là một kế họach tạp nhạp, thiếu hợp nhất ở thượng và hạ tầng cơ sở,
và thiếu thực tế khi được áp dụng. Nếu nhìn ở một góc độ bi quan nhất
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
- theo lời phát biểu của một ứng cử viên tổng thống Mỹ - thì chương
trình Việt Nam hóa chỉ là một kế hoạch thay đổi màu da của tử sĩ. [24]
Ngay cả danh xưng của kế hoạch cũng làm cho nhiều quân nhân
VNCH thấy ái náy: nếu đến bây giờ mới Việt Nam hoá cuộc chiến, thì
từ 1955 đến ngày nay cuộc chiến này do ai gánh vác và đã chết vì nó?
Với hơn 100 ngàn chiến sĩ VNCH đã hy sinh, những hy sinh đó không
phải là hy sinh cho mảnh đất VNCH và lý tưởng tự do của họ hay sao?
[25] Đồng ý là Hoa Kỳ đã cùng chung đứng mũi chịu sào, nhưng nếu
người Mỹ gọi đó là Việt Nam hóa thì quá vô tình. Khi người Mỹ gọi
như vậy thì chẳng khác nào ý nói quân dân VNCH đã đứng ngoài cuộc
chiến từ bao lâu nay, và đồng thời tự thú nhận chiến thuật chiến lược
của họ đã sai lầm trong cuộc chiến. [26] Tuy được gọi là Việt Nam hóa,
nhưng phía VNCH không biết gì, hay có ý kiến gì trong thời gian kế
hoạch được tính toán và soạn thảo. Kế hoạch được Hoa Kỳ trao đổi với
VNCH bằng miệng một cách tổng quát. Cả hai quốc gia không có một
thỏa hiệp nào nói về về yếu tố và điều kiện rút quân viết ra trên giấy tờ
thành văn kiện. Bộ tư lệnh MACV, như đã nói ở trên, không đồng ý về
thời gian và số lượng quân rút đi một cách quá cấp tốc như tổng trưởng
quốc phòng Laird muốn. Nhưng chính đại tướng Abrams cũng không
có một kế hoạch nào cụ thể, vì kinh nghiệm cho ông biết số lượng và
thời gian quân đội Mỹ rút đi không phụ thuộc vào tình hình ở chiến
trường Việt Nam, mà tùy thuộc vào tình hình chính trị ở nội địa Hoa
Kỳ. [27] Ngay cả khi đồng ý trên căn bản là phải rút quân, Abrams và Bộ
quốc phòng cũng không đồng ý về đơn vị nào rút trước, rút sau.
Abrams, với nhiều quan sát đã có trong quân đội, muốn các đơn vị rút
đi được chia đều ra, để các đơn vị còn lại vẫn còn một số hạ sĩ quan và
sĩ quan đã có kinh nghiệm về chiến trường ở Việt Nam để chỉ dẫn
những quân nhân chưa kinh nghiệm. Nhưng Bộ quốc phòng thì muốn
cho các đơn vị rút đi theo tiêu chuẫn thâm niên, bất chấp các đơn vị ở
lại còn đủ sĩ quan kinh nghiệm hay không. Abrams rất bực tức về
chuyện đó, nhưng lệnh là lệnh. Chẳng những như vậy, ngay lần rút
quân đầu tiên, tổng trưởng Laird muốn rút đi hai đơn vị thiện chiến như
một chứng minh cho dư luận Hoa Kỳ thấy chiến trường Việt Nam đã
lắng dịu đủ để cho các đơn vị đó rút đi. [28] Ban đầu, khi nói rút quân đi,
ban tham mưu MACV và Abrams nghĩ số quân rút đi sẽ là số quân tác
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
chiến và yểm trợ đang đóng ở Việt Nam. Nhưng nửa chừng, Bộ quốc
phòng cho biết các đơn vị không và hải lực yểm trở bên ngoài lãnh thổ
và và ngoài khơi duyên hải cũng nằm trong danh sách những đơn vị rút
đi (như những phi đoàn Không quân đóng ở Thái Lan với nhiệm vụ
không kích hệ thống đường xâm nhập Hồ Chí Minh; hay các chiến hạm
cung cấp hải lực để tuần phòng đường xâm nhập miền duyên hải).
Những lực lượng không lực yểm trợ này rất quan trọng để cầm chân
CSBV, và quân lực VNCH không thể nào thay vào khả năng do Hoa
Kỳ đảm nhiệm.
Ban tham mưu MACV tính toán và biết trách nhiệm giao lại cho quân
lực VNCH quá nặng, nặng hơn sức chịu đựng của người lính Việt Nam
vào lúc đương thời. Bộ tư lệnh MACV biết, với tất cả dụng cụ cơ giới
giao lại, với tất cả kỹ thuật chiến tranh quân đội Mỹ đang dùng, các
chuyên viên kỹ thuật của quân đội VNCH phải cần được huấn luyện
một thời gian để có thể am tường, rồi từ đó dạy lại các đơn vị hữu trách
cách sử dụng đúng cách. MACV cũng biết, với hơn 200 ngàn quân gia
tăng trong ba năm, những tân binh của các đơn vị tân lập không thể nào
có được kinh nghiệm chiến đấu qua đêm hay một sớm một chiều.
Trong khi tất cả những khó khăn nói trên cần một thời gian để giải
quyết, thì một yếu tố mà chính quyền Nixon không có nhiều trong lúc
đó lại là thời gian. Trong những năm 1969-1972, tất cả trách nhiệm đổ
lên vai người lính VNCH cùng một lúc nhiều đến độ đô đốc John
McCain, tư lệnh quân đội Hoa Kỳ ở Thái Bình Dương, lên tiếng lưu ý
bộ tư lệnh MACV, nếu tiến nhanh quá chương trình Việt Nam hóa sẽ tự
đánh bại lại mục đích của nó. [29]
Nhưng lệnh từ Hoa Thịnh Đốn là lịch trình rút quân sẽ được áp dụng:
chuẩn bị hay chưa chuẩn bị, quân đội VNCH phải thay vào chổ trống
khi quân đội Hoa Kỳ rút đi.
Ngày 22 tháng 11-1969, ý định và quyết định của tổng trưởng quốc
phòng Laird (chắc chắn phải có sự đồng ý của Nixon) được thông báo
rõ cho bộ tư lệnh MACV ở Sài Gòn. Trong một buổi họp có tất cả các
sĩ quan và viên chức dân sự quan trọng nhất của thẩm quyền Hoa Kỳ
tại Việt Nam, huấn lệnh của Laird được đọc cho đại tướng Abrams và
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
tất cả những người có mặt nghe. Kế hoạch rút quân và Việt Nam hóa
thông báo cho MACV có những điểm quan trọng sau. (1) Chương trình
Việt Nam hóa chấm dứt vai trò tác chiến của quân đội Mỹ tại Việt
Nam. (2) Trong kế hoạch Việt Nam hóa của chính phủ trước (Johnson),
Bộ quốc phòng ước lượng quân đội Bắc Việt sẽ rút khỏi lãnh thổ miền
Nam, và vai trò của quân đội VNCH chỉ giới hạn vào mục tiêu đương
cự với các lực lượng Việt Cộng còn lại ở miền Nam. Trong kế hoạch
mới của chính phủ Nixon và tổng trưởng Laird, vai trò của quân đội
VNCH không chỉ giới hạn vào nhiệm vụ chống lại quân Việt Cộng, mà
họ còn có nhiệm vụ đương đầu với các đơn vị chánh qui từ miền Bắc
đưa vào dù quân đội Bắc Việt có rút khỏi miền Nam hay không.
Buổi họp ngày thứ Bảy có hai ông đại sứ; ba đại tướng; sáu trung
tướng; năm thiếu tướng; chín chuẩn tướng; năm đại tá; và bốn, năm,
nhân viên dân sự cao cấp. Những người đang có mặt là đại diện cho tất
cả sức mạnh của Hoa Kỳ ở Việt Nam - nếu không nói là cho cả sứ
mạnh của Hoa Kỳ ở Thái Bình Dương. Thái độ của tất cả sau khi nghe
huấn lịnh của Laird là ngỡ ngàng, bực tức ... thấy chút xấu hổ đối người
bạn Đồng minh Việt Nam. Theo những gì được ghi lại, khi đại tướng
Abrams nghe người thuyết trình đọc đến đoạn ...quân đội VNCH được
giao phó luôn vai trò bảo vệ nội an (đương đầu với Việt Cộng) và
chống lại quân đội xâm lăng miền Bắc... ông ta cắt ngang lời người
đọc, nói rằng ông chưa hề được thông báo trước về chuyện này, và
trong kế hoạch rút quân/Việt Nam hóa cũng không dự liệu chuyện này.
Nhưng rất tiếc, rất tiếc, bây giờ thì Abrams được thông báo rồi, và ông
cũng không làm gì ngược lại được. Buổi họp kéo dài trong một bầu
không khí ngột ngạt, chua chát. Mỗi tư lệnh khi phát biểu đều không
dấu được sự thất vọng giống như họ bị thua cuộc - bất khả kháng trước
huấn lệnh của thẩm quyền từ bên nhà. Trong buổi họp, Abrams than
phiền là từ đầu năm, vì ngân quỹ thiếu hụt, Bộ quốc phòng đã ra lệnh
cho MACV giảm đi 50% phi vụ B-52; 20% phi vụ oanh tạc chiến thuật;
và 22% các yểm trợ hải pháo. ... Và bây giờ, Bộ quốc phòng còn hối
thúc rút nhanh, rút nhiều quân hơn.
Khi buổi họp kết thúc, đại tướng Abrams phát biểu một câu mà hàm ý
nói lên tất cả ý nghĩa của chương trình Việt Nam hóa: "Tôi vẫn thường
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
nói, ngày vui nhất của tôi là ngày đại tướng Cao Văn Viên gọi điện
thoại và xài xể tôi. Ngày đó là ngày tôi vui nhất. Nhưng tướng Viên sẽ
không làm chuyện đó; ông ta quá lịch sự. Nhưng tôi muốn ông ta làm
như vậy." [30] Tướng Abrams cũng không quên nhắc những người hiện
diện trong trong buổi họp là những gì được bàn luận ngày hôm đó là
những bí mật tuyệt đối, không được tiết lộ ra ngoài, hay cho những
cộng sự viên dưới quyền biết. Abrams không muốn chuyện này đến tai
phía VNCH trong lúc MACV chưa chuẩn bị để giải thích một sự thay
đổi đột ngột như vậy. Cũng có lẽ Abrams muốn đích thân là người báo
tin không vui cho tổng thống Thiệu và đại tướng Viên.
*
Cuối năm 1968 quân đội VNCH có hơn 717 ngàn quân. Trong đó, 365
ngàn thuộc về các đơn vị chủ lực như sư đoàn Nhảy dù; sư đoàn Thủy
quân lục chiến (TQLC); 10 sư đoàn Bộ binh 1, 2, 5, 7, 9, 18, 21, 22, 23,
và 25; 11 Tiểu đoàn (thiết đoàn) Thiết kỵ; 30 Tiểu đoàn Pháo binh; 20
Tiểu đoàn Biệt động quân; một Tiểu đoàn Lực lượng Đặc biệt (Tiểu
đoàn 81 Biệt kích Nhảy dù, và vào năm 1972, trở thành Liên đoàn 81
Biệt kích Nhảy dù). Hải quân và Không quân có khoảng 16, 17 ngàn
người ở mỗi quân chủng. Số còn lại là 185 ngàn Địa phương quân và
167 ngàn Nghĩa quân. [31]
Trong năm năm bành trướng, từ đầu 1969 đến cuối năm 1973, quân lực
VNCH tăng thêm gần 400 ngàn quân, nâng tổng số lên 1.100.000.
Trong số này hơn phân nửa (530 ngàn) thuộc về các đơn vị Địa phương
quân và Nghĩa quân. [32]
Lục quân (kể luôn sư đoàn Nhảy dù và TQLC) từ 358 ngàn tăng lên
thành 450 ngàn quân. Cuối năm 1971, Bộ binh có thêm một sư đoàn
mới (sư đoàn 3), tổng cộng thành 11 sư đoàn. Trong giai đoạn này, mỗi
trung đoàn có cấp số bốn Tiểu đoàn. Hỏa lực một trung đoàn Bộ binh
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
tân trang khá hùng hậu, với một Tiểu đoàn Pháo binh và một thiết đoàn
kỵ binh làm đơn vị cơ hữu cho trung đoàn. Ngoài ra, đóng kèm theo
bản doanh của sư đoàn mẹ là một Tiểu đoàn Pháo binh 155 ly. Tương
tự, ở mỗi quân khu, ngoài các sư đoàn Bộ binh cơ hữu dưới quyền, bộ
tư lệnh quân khu còn có một Tiểu đoàn pháo 175 ly nòng dài; một Tiểu
đoàn chiến xa M-48; và một lữ đoàn Thiết kỵ, như là những đơn vị
nòng cốt cho quân khu. TQLC, vào mùa xuân 1969, được nâng cấp lên
thành sư đoàn, với cơ cấu và cấp số như sư đoàn Nhảy dù. Đây là hai
sư đoàn tổng trừ bị duy nhất của quân đội VNCH. Hai binh chủng Địa
phương quân và Nghĩa quân được hiện đại hóa và trang bị vũ khí tối
tân hơn, để họ có thể tiếp tay và thay thế các đơn vị chủ lực trong
nhiệm vụ bảo vệ an ninh ở vùng trách nhiệm địa phương. Song song
với Địa phương quân và Nghĩa quân, lực lượng Cảnh sát Quốc gia cũng
được gia tăng rất mạnh. Từ nhân số 16.900 vào năm 1962, đến đầu năm
1973 Cảnh sát Quốc gia có một lực lượng khoảng 116.000 nhân viên.
[33]
Hai quân chủng tăng trưởng mạnh nhất và nhiều nhất, nếu tính theo tỉ
lệ, là Hải quân và Không quân. Cuối năm 1972, Hải quân có quân số
khoảng 43 ngàn và được trang bị với 1.680 chiến hạm, giang đĩnh.
Không quân có quân số 64 ngàn, với hơn 1.000 phi cơ đủ loại. [34]
Để huấn luyện và đào tạo sự bành trướng của số quân nói trên, chỉ
trong năm 1970, ba mươi ba trung tâm huấn luyện và trường chuyên
nghiệp của các quân binh chủng trên bốn vùng chiến thuật đã đào tạo
hơn 500 ngàn quân cán chính. [35] Nhưng người lính chỉ là một con số
chứ chưa là chiến sĩ nếu không được huấn luyện thuần thục, và tất cả
vũ khí, quân cụ tối tân sẽ trở thành vô dụng nếu quân nhân không biết
sử dụng một cách hiệu quả. Nhận biết điều đó, bộ tổng tham mưu và
MACV cố gắng tuyển chọn các huấn luyện viên Việt và Mỹ có kinh
nghiệm tác chiến về dạy tại các trung tâm huấn luyện, để học viên, tân
binh học hỏi được hiệu quả hơn từ những kinh nghiệm ở ngoài chiến
trường của huấn luyện viên. Trong năm 1969-1970, 3.700 huấn luyện
viên Hoa Kỳ có mặt tại các trung tâm huấn luyện, và ngoài chiến
trường, 14.332 cố vấn Mỹ có mặt từ Quân đoàn xuống cấp Tiểu đoàn.
[36]
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
Song song với kế hoạch giao lại cuộc chiến cho quân đội VNCH, chính
phủ Hoa Kỳ ra lệnh MACV và đại sứ Bunker tìm mọi cách giúp đỡ
chính phủ VNCH gia tăng các kế hoạch bình định và phát triển có tính
cách dân sự. Từ sau cuộc tổng tấn công năm Mậu Thân 1968, các cố
gắng đem lại an ninh và cơ cấu hành chánh cho làng xã để phát triển
đời sống cho người dân ở nông thôn, được chính phủ coi là những mục
tiêu ưu tiên.
Các kế hoạch chương trình bình định phát triển nông thôn được những
cơ quan như CORDS của Hoa Kỳ yểm trợ. CORDS được thành lập
giữa năm 1968 như một cơ cấu hỗn hợp giữa bộ tư lệnh quân sự
MACV và tòa đại sứ Hoa Kỳ để cung cấp chuyên viên, ngân quỹ và cố
vấn cho các chương trình có tính cách dân sự hay bán quân sự. [37] Về
mặt dân sự, CORDS giúp đỡ các chương trình tái định cư cho hơn hai
triệu người tị nạn từ các thành phố, làng xã bị hủy hoại sau trận Mậu
Thân, hay từ những vùng hoàn toàn bị cộng sản chiếm đóng. CORDS
cung cấp ngân quỹ cho các chương trình phát triển y tế, giáo dục, huấn
luyện cho các cán bộ Xây dựng Nông thôn hay các cán bộ hành chánh
cấp địa phương. Về mặt bán quân sự, CORDS thành lập các cơ quan
khá bí mật để giúp và huấn luyện Cảnh sát; Cảnh sát Dã chiến; các toán
Thám sát Tỉnh; trung tâm Thẩm vấn và Điều tra Tỉnh ... nhằm vào các
mục đích triệt tiêu hạ tầng cơ sở, cắt đứt đường giao liên của Việt Cộng
đang hoạt động tại địa phương. Cố vấn từ CORDS có mặt ở các chương
trình như Chiêu hồi; trung tâm huấn luyện cán bộ Xây dựng Nông thôn;
Nhân dân Tự vệ; Chiến dịch Phượng hoàng; hay các chương trình có
tính cách tâm lý chiến như hai chương trình phát thanh của đài Gươm
thiêng Ái quốc và Mẹ Việt Nam. [38]
Những kế hoạch của CORDS cũng như các chương trình bình định và
phát triển Nông thôn của chính phủ VNCH đã gây nhiều khó khăn,
thiệt hại cho cộng sản trong những năm 1969-1973. Với nhiều cơ sở,
đường giây giao liên bị cắt đứt và phá hủy; với nhiều cán bộ địa
phương bị khám phá và truy lùng, Trung ương Cục miền Nam - nếu
còn được gọi là Trung ương Cục miền Nam sau những thiệt hại nặng
vào hai cuộc tấn công của năm 1968 và 1969 - ra lệnh cho các đơn vị
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
cộng sản "ở đâu nằm đó," và tránh giao tranh với quân đội VNCH để
bảo toàn lực lượng. Chỉ thị trên của cộng sản được xác định thêm lần
nữa vào tháng 7-1969, khi giới lãnh đạo CSBV ban xuống cấp dưới
một huấn lệnh có tên là có tên là Nghị quyết 9. Nghị quyết 9, dài 42
trang, chỉ thị các cấp phải thay đổi chiến lược chiến thuật để phù hợp
với tình hình mới của mặt trận mới. Sau hai lần tấn công qui mô trong
hai năm 1968 và 1969, giới lãnh đạo quân sự và chính trị CSBV thú
nhận họ không thể nào chiến thắng về quân sự nếu quân đội Mỹ còn có
mặt ở Việt Nam. Quyết nghị 9 chỉ thị cấp dưới thi hành kế hoạch mới
là: Cố gắng tạo điều kiện để quân đội Mỹ rút ra khỏi chiến trường Việt
Nam càng sớm càng tốt; phá rối mọi kế hoạch Việt Nam hóa đang được
thực hiện về mặt quân sự và dân sự; ngăn chận mọi nỗ lực trong các
chương trình bình định và phát triển nông thôn; và, xây dựng lại cơ cấu
hạ tầng cơ sở để hoạt động và đấu tranh nếu có một thương lượng
ngưng bắn xảy ra trong tương lai. Sau khi Nghị quyết 9 được thông
báo, CSBV bắt đầu tránh đụng độ ở chiến trường lớn; mọi nỗ lực chỉ
nhắm vào thôn quê, làng xã; các đơn vị lớn phân tán ra từng đơn vị và
lực lượng nhỏ, để dể dàng di chuyển, dể dàng đánh du kích theo lý
thuyết trường kỳ kháng chiến. Một số các đơn vị chủ lực cũng được
lệnh di chuyển qua Lào hay đi trở ngược về miền Bắc để tái trang bị và
bổ sung. CSBV phải quay ngược về chiến tranh du kích vì hạ tầng cơ
sở của họ bị phá hủy hoàn toàn. Theo lời thú nhận của một cấp chi huy
cao cấp cộng sản ở vùng Sài Gòn-Gia Định-Chợ Lớn, sau trận Mậu
Thân, "Ba đồng chí Bí thư, một đồng chí Tư lệnh phân khu (đều là ủy
viên thường vụ Khu ủy Sài Gòn-Gia Định trước đây) và hơn phân nửa
ủy viên Phân khu ủy đã hy sinh sau Mậu Thân. Một đại đội bảo vệ của
Bộ tư lệnh Phân khu 1 trong khi làm nhiệm vụ bảo vệ và tiếp tế lương
thực đã hy sinh gần hết. Một tư lệnh quân sự của B2 cũng cho biết một
tư lệnh sư đoàn và một phó tư lệnh quân khu đã hy sinh trong hai cuộc
tấn công trong trận Mậu Thân." [39]
Nếu VNCH có một cơ hội để chiến thắng trong cuộc chiến chống cộng
thì những năm 1969-1971 là một cơ hội không bao giờ trở lại. Đó là
một giai đoạn mà những người quan sát về chính trị quân sự sau này
gọi là một chiến thắng bỏ lỡ; nột chiến thắng đã nằm trong tay nhưng
để vuột đi. Qua những thú nhận từ các cán bộ cao cấp của cộng sản đã
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
trình bày ở trên, chúng ta thấy các lực lượng địa phương và chủ lực của
cộng sản bị thiệt hại nặng qua những đợt tấn công trong hai năm 68 và
69 vào thị tứ và căn cứ của VNCH. CSBV không còn phương tiện hay
nhân lực để chiến đấu; họ đã đánh cạn láng trong một canh bạc rất sai
lầm. Phía VNCH, sau khi đánh tan những cuộc tấn công và ổn định lại
tình hình an ninh, hai kế hoạch tổng động viên và bình định Xây dựng
nông thôn do chính phủ đưa ra tiếp tục gây thêm nhiều khó khăn cho
cộng sản. Những con số cán binh ra đầu thú hay hồi chánh trong ba
năm 69-71 cho thấy sự tuyệt vọng của các cán binh cộng sản; những
con số về sự an ninh và kiểm soát dân cư ở những xã ấp nông thôn cho
thấy người dân tin và ngả về với chính phủ hơn. Nếu con số 16 ngàn
cán binh hồi chánh trong năm 1968 chưa cho thấy sự chán nản của phía
bên kia, thì con số 45 ngàn cán binh về đầu thú trong năm 1969 sẽ cho
thấy. Trước năm 1968 chính phủ chỉ hy vọng kiểm soát và đem lại an
ninh cho chừng 72-75% làng xã và dân cư, đến đầu năm 1971 chính
phủ VNCH đã kiểm soát và đem lại an ninh cho 85% dân cư trên toàn
lãnh thổ. [40]
Với sự an ninh ở nông thôn được tương đối duy trì và bảo vệ, nền kinh
tế nông nghiệp phát triển thấy rõ. Tổng số lúa gạo thu hoạch trong năm
1969 vượt hơn 5 triệu tấn, và lên đến 5 triệu 700 ngàn tấn trong mùa
lúa năm 70-71. Những con số này cho thấy kế hoạch bình định và phát
triển nông thôn của chính phủ VNCH đã thành công rực rỡ; và cũng
cho thấy các cơ sở địa phương của cộng sản bị bứng đi theo đà phát
triển của kế hoạch an ninh địa phương của chính phủ VNCH. Trong
những năm 1970-71, tình hình an ninh ở các vùng quê được bảo đảm
đến mức một số nhân vật cao cấp Việt-Mỹ lái xe Jeep không hộ tống,
đi thăm viếng ngoại thành Quảng Trị-Huế ban đêm, để thấy sự thay đổi
về an ninh ở một nơi được gọi là tuyến đầu của chiến tuyến. [41]
*
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
Trong hai năm 1970 và 1971 T khoảng thời gian mà báo chí và bộ tư
lệnh MACV gọi là Việt Nam hóa quân đội VNCH đã chứng tỏ khả
năng tác chiến của họ, nếu được yểm trợ và trang bị đúng nhu cầu, qua
hai cuộc hành quân lớn tấn công vào sào huyệt của CSBV ở Cam Bốt
và Lào.
Từ năm 1964, nếu không nói trước đó, đất Cam Bốt là cửa ngõ nhận
hàng quân nhu dụng của Trung Cộng tiếp tế cho CSBV. Hàng được tàu
Trung Cộng hay của các quốc gia trong khối cộng sản Đông Âu được
chuyên chở bằng đường biển đến hải cảng Shihanoukville (bây giờ là
Kompong Som), và từ đó bằng đường bộ chuyển về các trạm hậu cần
của CSBV thiết lập dọc theo biên giới VNCH-Cam Bốt. Tài liệu tịch
thu được của CSBV cũng như tin tức của nhiều cơ quan tình báo Hoa
Kỳ cho thấy số lượng quân nhu dụng cung cấp cho CSBV qua hải cảng
Shihanoukville nhiều hơn số lượng di chuyển bằng đường bộ qua hệ
thống đường xâm nhập Hồ Chí Minh trong thời gian đó. Nhưng từ năm
1964 đến năm 1969, bộ tư lệnh MACV và thẩm quyền dân sự Mỹ
không có quyết định nào rõ ràng để đối phó với các căn cứ hậu cần
CSBV đang hoạt động ở nội địa Cam Bốt. Giới thẩm quyền phân vân
giữa hai tin tức đến từ hai cơ quan tình báo khác nhau: Một mặt, tin
tình báo từ CIA cho biết số lượng quân nhu dụng nhập cảng từ
Shihanoukville rất khiêm nhường so với những gì CSBV có thể vận
chuyển vào nam qua hệ thống đường xâm nhập Hồ Chí Minh; mặt kia,
tin tức tình báo quân sự của MACV thì nói ngược lại: năm 1964 đến
năm 1968, số lượng hàng đi qua cửa khẩu Shihanoukville bằng hoặc
nhiều hơn số lượng hàng đi qua vĩ tuyến 17 đi vào nội địa Lào. Với hai
tin tức trái ngược này, cộng với thái độ ngụy tín đi hàng hai của Hoàng
thân Shihanouk, thẩm quyền Hoa Kỳ ở Hoa Thịnh Đốn rất phân vân và
ái ngại khi muốn giải quyết vấn đề quân CSBV trú đóng ở đất Cam
Bốt.
Về phương diện chính trị và chủ quyền quốc gia, từ năm 1964 đến năm
1970 vương quốc Cam Bốt sống trong một thế giới nửa thật nửa ảo.
Hoàng thân Shihanouk ngấm ngầm cho phép CSVN đóng trong đất
Cam Bốt để thâu tiền và đồng thời cho phép các sĩ quan dưới quyền
nhận hối lộ của các đơn vị CSBV đóng quân ở vùng trách nhiệm của
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
họ. Tài liệu cho thấy năm 1964 Shihanouk đã cho một sĩ quan cao cấp
của ông đích thân đi qua Bắc Kinh để thương lượng giá cả với Chu Ân
Lai của Trung Cộng khi nhận hàng qua Shihanoukville và chuyển đến
tay CSBV. Nhưng cùng lúc, Shihanouk nhắm mắt để cho Không quân
Mỹ dội bom xuống những cứ địa của CSBV vì thật sự Shihanouk
không muốn thấy CSBV có mặt trên đất Cam Bốt, khi ông thấy trò chơi
hai hàng càng ngày càng nguy hiểm. Trong khi ở phiá CSBV, dù các
căn cứ bị tàn phá và thiệt hại nặng về nhân mạng từ những trận bom
B52, nhưng họ không dám lên tiếng vì từ trước đến giờ lúc nào họ cũng
phủ nhận sự hiện diện trái phép trên đất Cam Bốt. Bên phía Hoa Kỳ thì
lại càng vô lý hơn: họ dội bom các căn cứ CSBV ngày đêm bằng hàng
ngàn tấn bom, nhưng cố dấu hành vi đó vì sợ công pháp quốc tế lên án
sự di phạm nền "trung lập" của Cam Bốt. Cả ba chính phủ đều biết
chuyện gì xảy ra trên đất Chùa tháp, nhưng cả ba đều cố gắng giữ kín
chuyện họ làm để chữ "trung lập" của Cam Bốt được toàn vẹn. [42]
Tình hình chính trị của Cam Bốt thay đổi vào thượng tuần tháng 3-
1975, khi thủ tướng Lon Nol đảo chánh Shihanouk và lên nắm quyền.
Lập tức Lon Nol ra lệnh giới hạn hàng nhập cảng Shihanouk và đồng
thời thông báo cho CSBV biết họ phải rời khỏi đất Cam Bốt trong vòng
72 tiếng đồng hồ. CSBV, thấy được chiều hướng bất lợi cho họ khi một
người thân Tây phương như Lon Nol nắm quyền, liên kết với cộng sản
Cam Bốt (Khmer Đỏ sau này) ra mặt tấn công các vị trí của quân đội
hoàng gia Cam Bốt. Với số quân hỗn hợp chừng 40 đến 60 ngàn,
CSBV và Khmer Đỏ đánh về hướng tây, về hướng thủ đô Nam Vang
(Phnom Penh). [43]
Với tình hình chính trị Cam Bốt có chiều hướng thuận lợi cho Hoa Kỳ
và VNCH, giữa tháng 3-1970, tướng Abrams của MACV đến "dọ hỏi"
tướng Cao Văn Viên ở bộ tổng tham mưu về những cuộc hành quân đột
kích vào mật khu của CSBV ở bên kia biên giới. Đây không phải là lần
đầu tiên bộ tư lệnh MACV nghĩ đến chuyện đánh qua Cam Bốt. Từ đầu
Xuân năm 1969, một số viên chức cao cấp Hoa Kỳ như đô đốc John
McCain của bộ tư lệnh Thái Bình Dương, William Colby của chương
trình CORDS (thật sự là đại diện CIA ở CORDS) và tướng Abrams đã
có ý tấn công qua Cam Bốt. Cuối năm 1969, ban tham mưu liên quân
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
từ Hoa Thịnh Đốn yêu cầu MACV sơ thảo một kế hoạch cho quân đội
VNCH đánh qua Cam Bốt (chỉ có quân VNCH, không có quân đội hay
cố vấn Mỹ đi kèm). Abrams lưỡng lự về kế hoạch này, vì theo ông,
ngay cả quân đội Hoa Kỳ cũng có thể gặp khó khăn khi đánh qua Cam
Bốt, nếu để quân đội VNCH đơn độc đánh qua một mình thì ông rất ái
ngại. [44] Nhưng đến tháng 3-1971 thì MACV được phép đột kích giới
hạn vào các căn cứ của CSBV ở bên kia biên giới. Tuy nhiên, không
phải đợi đến lúc Hoa Kỳ đề nghị thì quân lực VNCH mới có kế hoạch
truy kích các đơn vị cộng sản bên đất Cam Bốt. Sau khi thấy Shihanouk
bị lật đổ và một chánh phủ Lon Nol thân thiện với VNCH lên thay, bộ
tổng tham mưu đã ra lệnh cho các đơn vị ở vùng III và IV được quyền
truy kích qua biên giới nếu tình trạng chiến sự cho phép. Ngày 14 tháng
4-1970, quân khu III mở cuộc hành quân Toàn Thắng 41 đánh qua Cam
Bốt ở một vùng đối diện với địa phận ranh giới hai tỉnh Kiến Tường và
Tây Ninh. Trong cuộc đánh qua biên giới này, quân VNCH chỉ có sự
hỗ trợ của Pháo binh Hoa Kỳ. Trận tấn công này làm quân đội VNCH
phấn khởi: chỉ bị tổn thất tám tay súng để đổi lại 378 xác địch, 37 tù
binh, và nhiều cơ sở bị phá hủy. Với sự khả quan đó, hai tuần sau quân
khu III tiếp tục một cuộc hành quân khác đánh qua biên giới. Tuy
nhiên, vì tầm yểm trợ Pháo binh của Hoa Kỳ giới hạn từ bên này biên
giới, quân đội VNCH chỉ tấn công không hơn mười cây số vào nội địa
Cam Bốt trong hai lần đột kích đầu tiên này. [45]
Hạ tuần tháng 4, ban tham mưu liên quân thông báo cho tướng Abrams,
là "thẩm quyền tối cao" đồng ý trên nguyên tắc về một cuộc hành quân
hỗn hợp Việt-Mỹ qua Cam Bốt. Ngày 29 tháng 4-1970 thẩm quyền tối
cao không ai khác hơn là tổng thống Nixon, cho phép cuộc hành quân
tiến hành. Tuy nhiên, để giữ một lễ nghi ngoại giao đối với dư luận
quốc tế, Nixon đề nghị để một lực lượng của VNCH tấn công qua biên
giới trước, rồi lực lượng Mỹ theo chân liền sau đó.
Cuộc hành quân, với tên Toàn Thắng ở phía Việt Nam và Operation
Rockcrusher bên phía Hoa Kỳ, khởi sự ngày đầu của tháng 5-1970,
chia ra làm ba hướng: hai lực lượng không kỵ Hoa Kỳ và Nhảy dù
VNCH đánh ở hướng bắc xuống nam (vùng Lưỡi Câu), tiến vào vào
Krek và Snoul; ở phía nam (Mỏ Vẹt), quân VNCH đánh vào Svay
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
Rieng tiến ngược về hướng bắc, đi vào Kampong Trach. [46] Phía Hoa
Kỳ có chừng 19.300 quân, phía VNCH có 29.000 tay súng. Cuộc tấn
công gặp vài kháng cự đáng kể vào hai ngày đầu, nhưng đến ngày thứ
năm của cuộc hành quân thì mặt trận kể như tàn: CSBV bỏ căn cứ và
rút nhanh về hướng tây, sâu vào nội địa Cam Bốt đối diện với sức tiến
quân của các đơn vị VNCH và Hoa Kỳ. Hơn hai tuần trước đó, bộ tư
lệnh B3 đã ra chỉ thị cho các đơn vị ở Cam Bốt phải, "tránh kháng cự,
rút quân khỏi mặt trận, để bảo toàn lực lượng." [47] Trong cuộc hành
quân này, vì bị giới hạn bởi luật của Quốc hội Hoa Kỳ, các đơn vị Mỹ
(kể luôn cố vấn đi kèm theo các đơn vị VNCH) chỉ được tiến vào đất
Cam Bốt không quá ba mươi cây số, và không được ở lại đó sau ngày
30 tháng 6 (60 ngày từ ngày bắt đầu hành quân). [48]
Vũ khí tịch thu từ những căn cứ của CSBV cho thấy những tiên đoán,
uớc lượng của MACV và tình báo VNCH là đúng ấ và những tin tức từ
CIA là sai, sai một cách đáng xấu hổ. [49] Quân đội VNCH và Hoa Kỳ
tịch thu được 23 ngàn súng cá nhân; 2 ngàn 500 súng cộng đồng; hơn
16 triệu viên đạn súng cá nhân; 143 ngàn đạn súng cối, hỏa tiến, đại
pháo; 200 ngàn đạn phòng không và 7.000 tấn gạo. Đó là chưa kể
những dụng cụ, thuốc y dược, hay những quân nhu dụng linh tinh khác
bị phá hủy. Khoảng 75 phần trăm số quân nhu dụng tịch thu đến từ
Trung Cộng. Số vũ khí tịch thu đủ để trang bị cho 74 Tiểu đoàn, và số
gạo lấy được có thể nuôi tất cả các đơn vị cộng sản ở B2 trong nửa
năm. Về tổn thất nhân sự: VNCH có 638 chết và hơn 3.000 bị thương;
Hoa Kỳ có 338 chết và 1.525 bị thương. Phía CSBV chết hơn 11 ngàn
lính và 2.500 bị bắt làm tù binh. [50] Sau khi tất cả quân đội Mỹ rút khỏi
Cam Bốt theo thời hạn đã định, quân đội VNCH vẫn truy lùng, tảo
thanh những đơn vị còn lại của địch sâu trong biên giới. Một trong
những cuộc đụng độ quan trọng vào những ngày cuối của cuộc hành
quân, là khi quân đội VNCH tiến về Kampong Cham và đồn điền cao
su Chup. Tại đây quân đội VNCH đã đánh tan một đơn vị của sư đoàn
9 Việt Cộng đang gây áp lực vào thủ đô Nam Vang chỉ cách đó 75 cây
số. Tất cả các đơn vị VNCH thuộc Vùng III rút khỏi Cam Bốt vào ngày
22 tháng 7-1970. Tuy nhiên từ đó cho đến cuối năm 1972, bộ tư lệnh
Vùng III vẫn đột kích ra vào trên đất Cam Bốt để truy kích các đơn vị
CSBV theo nhu cầu quân sự.
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
Cuộc hành quân tấn công qua Cam Bốt, không thể chối cãi, là một
chiến thắng quân sự. Nhưng nếu nhìn sâu hơn, phía sau chiến thắng đó
nhiều phản ứng bất lợi xảy đến cho VNCH và Hoa Kỳ - những phản
ứng bất lợi mà không ai có thể tiên đoán trước được. Một trong những
bất lợi về mặt quân sự là, khi VNCH và Đồng minh đánh tan các căn cứ
CSBV, quân đội cộng sản không còn cách nào khác hơn là phải đánh
mở đường máu về hướng tây, đánh sâu vào nội địa Cam Bốt và gây áp
lực về hướng thủ đô Nam Vang. Như vậy, nếu nhìn từ góc độ quân sự
chiến lược, địa bàn cuộc chiến Việt Nam lan rộng hơn: Hoa Kỳ và
VNCH phải canh chừng cả Lào và Cam Bốt. "Cuộc chiến tranh Đông
Dương" có ý nghĩa là trong giai đoạn này: địa bàn của cuộc chiến đã
lan tràn gần như toàn cõi Cam Bốt. Khi CSVN ra mặt tấn công quân
đội Cam Bốt để tìm đường sống, Hoa Kỳ và VNCH không còn chọn
lựa nào khác hơn là phải tiếp cứu người bạn Đồng minh bất ngờ. Phản
ứng bất lợi về chính trị là sự chống đối mạnh mẻ của giới sinh viên và
nhiều nhóm nghị viên của Quốc hội Mỹ. Sự tấn công qua Cam Bốt gây
nhiều náo động trong nội địa Mỹ, nhất là sau vụ lính vệ binh quốc gia
bắn tử thương bốn sinh viên ở đại học Kent, tiểu bang Ohio. Liền sau
đó tất cả các đại học ở các tiểu bang lớn gần như đồng nổi loạn với sinh
viên ở 441 đại học biểu tình và bãi khóa. Về phía Quốc hội Hoa Kỳ, để
trừng phạt Nixon, một số ủy ban ở hạ và thượng viện bắt đầu nhóm họp
để đưa ra một số dự luật nhằm vào việc giới hạn những hoạt động quân
sự của Hoa Kỳ ở Việt Nam, nếu không nói ở toàn Dông Dương. Ngay
trong khi quân đội VNCH và Hoa Kỳ vẫn còn hiện diện trong đất Cam
Bốt, ngày 24 tháng 6-1970, thượng viện Mỹ ra quyết nghị rút lại (hủy
bỏ) Quyết Nghị Vịnh Bắc Bộ 1964 (Tonkin Gulf Resolution). Ngày 30
cùng tháng, thượng viện chấp thuận một dự luật cấm quân đội Mỹ hoạt
động trên lãnh thổ Cam Bốt nếu không có sự ưng thuận của Quốc hội.
Tuy nhiên dự luật bị hạ viện bác bỏ khi được đưa xuống cho hạ viện
phê chuẩn. [51] Một bất lợi khác có ảnh hưởng nhiều đến chương trình
Việt Nam hóa: Sự thành công mỹ mãn của quân đội VNCH ở Cam Bốt
làm cho Ngũ Giác Đài và Tòa Bạch Ốc quá lạc quan về sự thành công
của chương trình Việt Nam hóa. Và từ đó họ suy luận: nếu quân đội
VNCH đã thành công như vậy thì quân đội Hoa Kỳ có thể rút nhanh
hơn và có thể nhường gánh nặng chiến trường lại cho quân đội VNCH
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
nhiều hơn. Đây là một lạc quan rất lầm lẫn, rất ngộ nhận cho chương
trình Việt Nam hóa. Sự lạc quan của Hoa Kỳ đi xa sự thật và quá vội.
Cuộc hành quân đánh qua Cam Bốt không phải không có khuyết điểm.
Qua cuộc hành quân, các sĩ quan tham tham mưu cao cấp của quân lực
VNCH nhận thấy quân đội còn một vài khuyết điểm: Nhiều đơn vị gặp
trở ngại về tiếp vận và bảo trì khi di chuyển trên một mặt trận xa, nhất
là các đơn vị cơ giới; khả năng ngôn ngữ (Anh ngữ) còn yếu khi phải
liên lạc với các sĩ quan cố vấn trong vấn đề yểm trợ hỏa lực hay chấm
tọa độ cho phi cơ bạn đánh bom; Bộ binh không tận dụng hết khả năng
yểm trợ của Pháo binh cơ hữu; phối hợp tác chiến giữa các đôn vị Bộ
binh và thiết giáp. ... Những khuyết điểm này phải cần thêm một thời
gian huấn luyện nữa thì mới thuần thục. [52] Cuộc hành quân đánh qua
Cam Bốt, để tóm gọn lại, là một quyết định chẳng đặng đừng: không
giải quyết một nguy hiểm quân sự thì không được; giải quyết được
nguy hiểm quân sự thì phải chịu đựng những bất lợi về chính trị.
[1]Về những giai đoạn động viên, cơ chế quân dịch, hay các sắc luật về
nghĩa vụ quân sự, đọc, trung tướng Đồng Văn Khuyên, The RVNAF,
trang 33-37; Đoàn Thêm, Việc từng ngày: 1954-1964; Việc từng ngày:
1968, tháng 8-1957; 1-1959, 4-1964; và 6-1968; chuẩn tướng James
Lawton Collins, Jr., The Development and Training of the South
Vietnamese Army, trang 12, 57, và 68. Quyển The RVNAF (nguyên tác
bằng Anh ngữ, RVNAF là chữ tắt của Republic of Vietnam Armed
Forces - Quân đội Việt Nam Cộng hòa) là một tác phẩm rất chi tiết về
cơ sở, quân số và cấu trúc, của quân lực VNCH, từ lúc thành hình cho
đến ngày thất thủ.
[2]Luật Tổng động viên 1969 được tổng thống Thiệu chánh thức ban
hành ngày 19 tháng 6-1969 (ngày Quân lực) tại Phú Văn Lâu, Huế.
[3]William Colby, Lost Victory; và Stephen B. Young, Cuộc chiến thắng
bỏ lỡ (bản dịch Việt ngữ của Nguyễn Vạn Hùng), là hai tác phẩm nói
về những cơ hội có thể đem lại chiến thắng mà VNCH không đạt được
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
trong những năm 1969-1972.
[4]Về chuyện Nixon tin tưởng chiến tranh Việt Nam sẽ kế thúc trong
vòng năm tới, đọc trang 542, Chương 10 trong sách này. Tháng 5-1969,
Kissinger tuyên bố cuộc chiến sẽ được giải quyết trong vòng sáu tháng.
Đọc, Marvin Kalb and Bernard Kalb, Kissinger, trang 120. Sách của
Hersh, The Price of Power, trang 119, nói Kissinger tuyên bố "sẽ có kết
quả trong vòng ba tháng."
[5]Daniel Ellberg, giữa năm 1971, thất vọng về đường lối cuộc chiến
Việt Nam, ăn cắp tài liệu tối mật do Ngũ Giác Đài, do ông và một số
viên chức cao cấp soạn thảo về lịch sử và liên hệ của Hoa Kỳ trong
chiến tranh Việt Nam, đưa cho báo chí đăng tải. Ellsberg đã phục vụ ở
Việt Nam như một quan sát viên quan trọng của Bộ Quốc phòng. Là
một tay khoa bảng từ đại học Harvard (tiến sĩ đại học Harvard, bạn với
Kissinger), Ellsberg gia nhập chính phủ với chức vụ phụ tá cho John
McNaughton, nhân vật đứng hàng thứ ba trong Bộ Quốc phòng dưới
thời của McNamara. Tài liệu Ellsberg đánh cắp từ Ngũ Giác Đài là căn
bản của các ấn bản The Pentagon Papers sau này. Ellsberg xuất bản hai
tác phẩm, Papers on the War, và Secrets: A Memoir of Vietnam and the
Pentagon Papers. Ngoại trừ tính chất tối mật của những Việc Ellsberg
làm được ghi lại trong sách, hai tác phẩm của Ellsberg không có gì hay
nếu không nói là dở.
[6]Jeffrey Kimball, Nixon's Vietnam War, trang 91-93.
[7]Paris. BT
[8]Tất cả các câu hỏi này nằm dưới dạng Huấn lệnh Nghiên cứu An ninh
Quốc gia số 1 (National Security Study Memorandum 1), gởi ra từ Hội
đồng An ninh Quốc gia của Kissinger. Đọc Ellsberg, Secrets, trang
235-241; Kimball, sđd, trang 94. Về chi tiết của các câu hỏi, đọc
Jeffrey Clarke, Advice and Support: The Final Years, 1965-1973, trang
341-342. Về các câu hỏi liên quan đến quân đội Mỹ và VNCH, đọc,
trung tướng Phillip B. Davidson, sđd, trang 588-589.
[9]Sau này, trong hồi ký, Kissinger nói huấn Lệnh NSSM 1 chỉ là một
tham khảo sơ lược về cuộc chiến. Năm 1972, khi MSSM 1 bị lộ ra
ngoài báo chí, đại tướng Alexander Haig, đang làm phụ tá cho
Kissinger, tuyên bố, khi NSSM 1 đến tay các thẩm quyền thì "đã lỗi
thời và quá xa [thẩm quyền trung ương]" để được áp dụng. Đọc, Kalb
and Kalb, sđd, trang 129. Cũng theo hai tác giả Kalb, phúc trình gởi trả
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
lời huấn Lệnh NSSM 1 dầy hơn một ngàn trang.
[10]Bản tường trình cuối cùng của McNamara, viết cho Johnson ngày 1
tháng 11-1967, có những đề nghị hoàn toàn trái ngược với tinh thần
"diều hâu" của ông từ sáu năm qua. McNamara đề nghị không cho
thêm quân; ngưng dội bom vô hạn định, và trao nhiệm vụ tác chiến lại
cho quân đội VNCH để giới hạn thiệt hại về nhân mạng cho quân đội
Hoa Kỳ. Đọc, Deborah Shapley, Promise and Power: The Life and
Times of Robert McNamara, trang 436. Hơn một tuần sau, Johnson bổ
nhiệm McNamara làm giám đốc Ngân Hàng Thế Giới (the World
Bank), một chức vụ McNamara giữ đến tám năm sau.
[11]Oasinhton. BT
[12]Theo đô đốc Elmo R. Zuwalt, Jr., cựu Tư lệnh Hải quân Hoa Kỳ tại
Việt Nam, và sau này là Tư lệnh Hải quân Hoa Kỳ, từ tháng 8-1968
ông đã nhận được chỉ thị của đại tướng Abrams cấp tốc huấn luyện và
chuyển giao vùng trách nhiệm cho Hải quân Việt Nam. Zumwalt nói
Abrams nhận lệnh này từ tổng thống Johnson. Đọc, Zumwalt, On
Watch, trang 36-37. Về những huấn Lệnh liên quan đến chương trình
Việt Nam Hóa của Bộ Quốc phòng, và quân số sự định của VNCH vào
các tháng đầu của năm 1968, đọc, chuẩn tướng James Collins, sđd,
trang 86-90.
[13]Bùi Diễm, trong tuyển tập Vietnam as History, Peter Braestrup, chủ
biên, trang 62. Ở cùng trang, đại sứ Bùi Diễm nói thêm, ông nghĩ kế
hoạch Việt Nam hóa được đề ra để đáp ứng với nhu cầu chính trị một
cách tạm thời, hơn là một kế hoạch có tính toán kỹ càng. Cũng nên
nhắc lại, khi Hoa Kỳ đổ bộ đơn vị TQLC đầu tiên lên Đà Nẵng vào
tháng 3-1965, họ quên thông báo cho VNCH cho đến khi đặc chân
xuống lãnh thổ VNCH. Và trong một ý nghĩa nào đó, Hoa Kỳ muốn
"Mỹ hóa" cuộc chiến hai tháng sau, khi hai Tiểu đoàn tác chiến của lữ
đoàn 173 Nhảy dù đổ bộ ở Vũng Tàu ngày 5 tháng 5. Đọc, Bui Diem
with David Chanoff, In the Jaws of History, trang 131-132; Shelby
Stanton, The Rise and Fall of an American Army, trang 45-46.
[14]Trích theo Sorley, A Better War, trang 5. Tháng 2-1967, Tham mưu
trưởng liên quân Wheeler sau khi sang thăm Việt Nam, trở về báo cáo
với tổng thống Johnson, "[theo chiều hướng này] chúng ta có thể thắng
về quân sự nếu chúng ta tiếp tục áp lực như đang áp dụng ở miền Bắc
và miền Nam." Chữ nếu của Wheeler đã không được Johnson và
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
McNamara theo đuổi tới mức. Op. cit., ibid.
[15]Về tổn thất của Hoa Kỳ, VNCH, CSBV, trong năm 1968, đọc,
Doulas Pike, chủ biên, The Bunker Papers, Vol. 3, trang 647; về con số
thương vong của Mỹ trong các năm trước đó, đọc, James Olson,
Dictionary of the Vietnam War, Appendix E.
[16]Đọc, Đại tướng Bruce Palmer, Jr., The 25-Year War: America's
Military Role in Vietnam, trang 92-93; Lewis Sorley, A Better War,
trang 39-39; cùng tác giả, Vietnam Chronicles: The Abrams Tapes,
1968-1972, trang 308. Theo một tác gỉa khác, đầu năm 1972, khi
Thomas Polgar chuẩn bị lên đường sang Saigon thay Ted Shackley làm
trưởng phòng CIA, Polgar có đến bộ quốc phòng từ giã Melvin Laird.
Trong cuộc nói chuyện, Laird trấn an Polgar, nói rằng, "... đừng lo, Hoa
Kỳ sẽ còn giữ lại một số quân cho đến 30 năm nữa như ở Tây Đức."
Kim Wellenson et al., The Bad War, trang 102. Trích theo Sorley, A
Better War, trang 282.
[17]Lewis Sorley, Thunderbolt: General Creighton Abrams and the
Army of His Times, trang 254-259. Về những thay đổi Huấn lệnh từ
Hoa Thịnh Đốn, và những chiến thuật, chiến lược mới của MACV, đọc
Sorley, A Better War, trang 17-30.
[18]Jeffrey Clarke, sđd, trang 384, và Appendix C. 549.500 người là số
quân cao nhất của quân đội Hoa Kỳ ở Việt Nam. Một tài liệu khác của
Bộ Quốc phòng cho số 543.400 là cao nhất.
[19]Richard Nixon, No More Vietnams, trang 96.
[20] Theo Clarke, sđd, trang 351, phụ chú 22, bản Kế hoạch do Bộ Tổng
Tham mưu VNCH soạn, được trao cho phía Hoa Kỳ tại Đảo Midway
cùng ngày hội họp. Cũng theo Clarke, ông Thiệu nghe về chuyện rút
quân một cách bán chánh thức từ đại tướng Abrams và đại sứ Bunker
vào tháng Giêng, 1969. Trong lần nói chuyện đó tướng Abrams nói với
tổng thống Thiệu là đây chưa phải là thời điểm có thể rút các đơn vị tác
chiến đi được. Từ đầu năm 1968 ông Thiệu có tuyên bố trên báo chí về
chuyện Hoa Kỳ sẽ rút quân nhưng nói rõ chi tiết, hay cho biết đó có
phải là một kế hoạch hỗn hợp giữa hai bên hay không. Xem, Clarke,
sđd, trang 346; Đoàn Thêm, Chuyện từng ngày: 1968, tháng Giêng, và,
1969, tháng Tư.
[21]Nixon, RN: The Memoirs of Richard Nixon, trang 392. Lewis Sorley,
trong A Better War, trang 423, phụ chú 37, có viết, tướng William B.
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
Rosson, đang là Tư lệnh phó MACV, có mặt ở dinh Độc Lập với tổng
thống Thiệu khi cả hai nghe Nixon tuyên bố. Ngay sau đó, Tổng thống
Thiệu nói với tướng Rosson là những gì Nixon nói hoàn toàn sai sự
thật. Ông không có đề nghị chuyện rút quân với Nixon. Ngược lại,
chính Nixon nói với ông là Nixon phải rút quân vì đó là ước muốn của
dân Hoa Kỳ. Đại tướng Abrams chẵng những không đề nghị mà còn
phản đối chuyện rút quân đột ngột như ý định của Nixon và tổng
trưởng Laird. Đọc Jeffrey Clarke, sđd, trang 348.
[22]Chủ thuyết Nixon (The Nixon Doctrine) về liên hệ của Hoa Kỳ và
nền an ninh ở Á châu, còn được được gọi là The Guam Doctrine, vì
Nixon tuyên bố chủ thuyết này tại Đảo Guam vào tháng 7-1969, trên
đường đi đón các phi hành gia Apollo XI (phi thuyền đáp lên mặt
trăng) trở lại địa cầu. Guam là nơi Nixon khởi hành thăm viếng sáu
Quốc gia ở Nam Á và Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Về chủ
thuyết này, đọc, Nixon, RN: The Memoirs of Richard Nixon, trang,
394-395.
[23] Henry Kissinger, White House Years, trang 276-277.
[24]"Thay đổi màu da của tử sĩ," lời phát biểu của thượng nghị sĩ Eugene
McCarthy, ứng cử viên tổng thống năm 1968. Trích theo Seymour
Hersh, sđd, trang 310.
[25]Tổng số tử thương của quân lực VNCH từ năm 1962 đến cuối năm
1969, theo hai tài liệu của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ. Một tài liệu soạn
năm 1972 có số tử thương là 117.075; tài liệu kia soạn năm 1975, với
số tử thương là 110.176.
[26]Những ý nghĩ này nằm trong tác phẩm của đại tướng Cao Văn Viên
và trung tướng Đồng Văn Khuyên, Reflections on the Vietnam War,
trang 91-92. Cũng trong tác phẩm, hai tác giả cho biết chính tổng thống
Thiệu cũng không thích tên gọi đó và không ban hành một Huấn lệnh
nào để cho chỉ thị về chương trình Việt Nam hóa. Thiếu tướng Nguyễn
Duy Hinh, trong Vienamization and the Cease-fire, trang 19, cũng có
những quan sát tương tự.
[27]Đọc, Bùi Diễm, sđd, trang 285. Đại sứ Bùi Diễm từ sau hội nghị
Midway 1969, là nhân viên duy nhất đại diện cho phía VNCH trong
các cuộc bàn luận kế hoạch Việt Nam Hóa ở Ngũ Giác Đài. Ông viết về
các buổi thảo luận, "...gặp nhau hai tuần một lần, buổi họp tẻ nhạt...
không có kế hoạch hay tổ chức."
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
[28]Jeffrey Clarke, sđd, trang 351, phụ chú 20. Hai đơn vị rút đi lần đầu
tiên là 2 lữ đoàn của sư đoàn 9 Bộ binh ở vùng IV, và một trung đoàn
TQLC ở vùng I. Đầu năm 1969, quân lực Hoa Kỳ ở Việt Nam gồm có
351.965 Lục quân; 52.034 Không quân; 35.709 Hải quân; và 81.892
TQLC. Đọc, Clarke, sđd, Appendix C.
[29] Clarke, sđd, trang 354.
[30] Lewis Sorley, Vietnam Chronicles: The Abrams Tapes 1968-1972,
trang 302-316. Hiện diện trong buổi họp là các đại tướng Abrams;
George S. Brown (Tư lệnh phó MACV về không lực,) William B.
Rosson (Tư lệnh phó MACV); đại sứ Ellsworth Bunker và William
Colby (Colby lúc đó là Tư lệnh chương trình CORDS, với cấp bậc đại
sứ); các trung tướng, thiếu tướng, còn lại là các Tư lệnh cố vấn quân
đoàn, quân chủng. Các đại tá là Tư lệnh lực lượng đặc biệt; điệp vụ bí
mật (SOG). Dân sự thì có những nhân vật như John Paul Vann (chỉ huy
trưởng CORDS vùng II, sau này là cố vấn trưởng Vùng II), George G.
Jacobson (phụ tá tham mưu trưởng MACV về CORDS, phục vụ ở Việt
Nam liên tục hơn mười năm). Ngày họp hôm đó là ngày 22 tháng 11-
1969, sau khi Hoa Kỳ đã rút đi 65 ngàn quân để bắt đầu chương trình
rút quân từ lúc Nixon lên, nhưng bây giờ tổng trưởng Laird và Ngũ
Giác Đài muốn rút thêm và nhanh hơn kế hoạch đã tính. Câu nói chua
xót và hối tiếc của tướng Abrams về tướng Cao Văn Viên cho thấy
những gì bộ Tư lệnh MACV đã hứa với Bộ Tổng Tham mưu và tướng
Viên sẽ không thực hiện được. Trước khi có huấn Lệnh của Laird,
Abrams thông báo cho Bộ Tổng Tham mưu VNCH là Hoa Kỳ sẽ rút
quân theo khả năng gánh vác của quân đội VNCH; và, quân đội Mỹ
vẫn duy trì một lực lượng tác chiến căn bản để canh chừng những vi
phạm, hoạt động, của CSBV, như họ đã làm ở Nam Hàn. The Abrams
Tapes, do tác giả Lewis Sorley ghi lại từ băng thâu âm hơn hai ngàn
giờ họp quan trọng của MACV, là một tập tài liệu quan trọng và tối
mật, viết lại từng chi tiết bên trong đầu não của bộ Tư lệnh quân sự
Hoa Kỳ ở Việt Nam. Huấn lệnh mà Laird yêu cầu đọc cho ban tham
mưu MACV nghe trong buổi họp nói trên, là những gì Laird đã tường
trình cho Ủy ban Ngoại giao Thượng viện vài ngày trước đó ở Hoa
Thịnh Đốn. Đọc cùng sách, cùng trang đã dẫn.
[31]Sư đoàn TQLC vào năm 1969 chỉ có sáu Tiểu đoàn. Cùng chung với
Tiểu đoàn 81 Biệt kích Nhảy dù là 12 toán thám sát Delta. Về sự thành
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
hình và lịch sử của Biệt cách Nhảy dù, đọc, đại tá Phan Văn Huấn, Đặc
san Biệt cách Dù Lực lượng Đặc bbiệt, Số IV, Tháng 1-2005, trang 9.
Ba mươi Tiểu đoàn pháo binh là kể luôn sáu Tiểu đoàn pháo 155 ly và
hai Tiểu đoàn pháo binh của Nhảy dù và TQLC. Đọc, thiếu tướng
Nguyễn Duy Hinh, Vietnamization and the Cease-fire, trang 32. Tương
tự như tác phẩm The RVNAF của trung tướng Đồng Văn Khuyên, tác
phẩm của Nguyễn Duy Hinh cung cấp nhiều chi tiết về chương trình
Việt Nam hóa trong những năm 1969-1973.
[32]Các con số về số quân của các đơn vị, quân chủng, hơi khác nhau
giữa sách của Nguyễn Duy Hinh, Đồng Văn Khuyên và Jeffrey Clarke.
Vì số chênh lệch không nhiều giữa ba sách (từ bảy đến mười ngàn
người), người viết dùng sách của tác giả Nguyễn Duy Hinh để các chi
tiết được đồng nhất. Đọc Nguyễn Duy Hinh, sđd, trang 32, 40; Clarke,
sđd, trang 349-356; Đồng Văn Khuyên, trang 19-22. Cũng cần nói
thêm: Vì sách của hai tác giả Hinh và Khuyên dựa vào một số hồ sơ
quân sự chưa được giải mật trong lúc viết nên trong sách không có chú
dẫn tài liệu. Sách của sử gia quân đội Jeffrey Clarke viết sau này, khi
một số tài liệu đã được giải mật, và từ sách của Clarke, chúng ta có thể
suy luận những nguồn tài liệu trong sách của hai tác giả Hinh và
Khuyên đến từ đâu. (Hai tác giả được coi một số tài liệu mật liên quan
đến chủ đề trong thời gian soạn sách. Nhưng sau khi hoàn tất, Trung
tâm Quân Sử Lục quân Hoa Kỳ giữ bản thảo lại vài năm và chỉ xuất
bản giới hạn sau khi những tài liệu liên quan đã được chánh thức bạch
hóa)
[33]Chẩn tướng James L. Collins, Jr., sđd, trang 91. Về sơ lược các hoạt
động và cơ cấu Cảnh sát Quốc gia, đọc, đại tá Hoàng Ngọc Lung,
Intelligence, trang 49-54.
[34]Chi tiết về quân số, vũ khí và quân nhu dụng gia tăng trong thời
khoảng 1969-1973, đọc, Nguyễn Duy Hinh, sđd, trang 30-48; Đồng
Văn Khuyên, sđd, trang 18-21.
[35] Collins, sđd, Appendix C.
[36]James H. Willbanks, Abandoning Vietnam: How America Left and
South Vietnam Lost Its War, trang 40-41. Hai con số về huấn luyện
viên và cố vấn Mỹ, Willbanks trích theo tài liệu của MACV, và sách
của Cao Văn Viên và Đồng Văn Khuyên, The U.S. Advisors.
[37]CORDS là chữ tắc của Civil Operations and Rural Development
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
Support (Dân sự Vụ và Phát triển Nông thôn) Trước đó chương trình
còn được gọi là Civil Operations and Revolutionary Development
Support (Dân sự Vụ và Cải cách Nông thôn). Nhiều chương trình có
mục tiêu tương tự như CORDS đã hiện hữu từ trước. Nhưng chương
trình nằm dưới tên CORDS, và qua sự điều khiển của đại sứ Robert
Komer và sau này là William Colby, sát nhập hai chương trình Civil
Operations của tòa đại sứ (dân sự) và Rural Development của MACV
(quân sự) để trở thành một chương trình duy nhất. Về lịch sử của các
chương trình bình định, phát triển hay xây dựng nông thôn, đọc,
William Colby, Lost Victory, Appendix B, trang 384-387.
[38]Một số kế hoạch có tính cách "bán quân sự" của chương trình
CORDS liên hệ đến CIA nếu không nói hoàn toàn nằm dưới thẩm
quyền của CIA. Theo tài liệu và sách vở khả tín, các chương trình như
Chiến dịch Phượng hoàng; Thám sát Tỉnh; hai đài phát thanh dùng vào
kế hoạch "tuyên truyền xám" Gươm thiêng Ái quốc và Mẹ Việt Nam;
và chương trình tâm lý chiến trong Kế hoạch 38 (Operation 38), đều
nằm dưới sự điều khiển của CIA và Đặc ủy Trung ương Tình báo
VNCH. Ba người có liên hệ sâu đậm đến CORDS đều xuất thân từ
CIA: Theodore (Ted) Shackley, Robert Komer, và William Colby.
Shackley chỉ huy CIA ở Lào trước khi đến Saigon; Komer làm cho CIA
trước khi qua làm cho Hội đồng An ninh Quốc gia; và Colby thì như
chúng ta đã rõ, chỉ huy trưởng CIA ở Saigon từ thời tổng thống Diệm.
Có khá nhiều tài liệu sách vở nói về CORDS và các hoạt động tình báo
nằm song song với kế hoạch này. Đọc, David Corn, Blond Ghost: Ted
Shackley and the CIA's Crusades; William Colby, Lost Victory; và,
Ralph McGehee, Deadly Deceit. Sách của Corn có rất nhiều chi tiết vì
tác giả đã phỏng vấn gần một trăm cựu nhân viên CIA hoạt động ở Việt
Nam; trong khi MacGeehee là nhân viên điều tra chánh của CIA trong
vụ khám phá ổ gián điệp Huỳnh Văn Trọng và Vũ Ngọc Nhạ ở Phủ
Tổng thống vào giữa năm 1969. Sách Colby như là một hồi ký nói về
liên hệ mười sáu năm của tác giả với Việt Nam qua các chức vụ như
xếp CIA và xếp chương trình CORDS.
[39]Về Nghị quyết 9, đọc, Sorley, The Abrams Tapes, trang 91, 263-266;
A Better War, trang 154-168; Willbanks, sđd, trang 67; David Corn,
sđd, trang 202-203; Davidson, Vietnam at War, trang 600-601. Về
những khó khăn CSBV phải đương đầu vào những năm 1968-1971,
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
đọc, Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp, Ký ức Tây Nguyên, trang 131-141.
Theo tướng Hiệp, có lúc tất cả gạo tồn kho chỉ còn đủ để nuôi lính của
chiến trường B3 một tuần; và, lính và thương binh CSBV rút về Lào và
miền Bắc đông và nhiều như cuộc "tập kết lần thứ hai" trong hai năm
đó. Ở một đoạn khác trong sách (trang 367), tác giả cho biết Sư Đoàn
10 của ông bị chết 9.900 quân trong thời gian chưa đầy ba năm (9-1972
đến 4-74). Đặng Vũ Hiệp là chính ủy B3, chính ủy Sư Đoàn 10, rồi
chính ủy Quân Đoàn 3 vào năm 1975. Tình hình của CSBV ở những
mặt trận khác như B5 (tương đương với Vùng I), hay Quân Khu 7 và 9
(Vùng II và IV) cũng rơi vào tình trạng nguy khốn tương tự. Đọc,
Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh, Miền Trung những tháng ngày
không quên, trang 415-417. Tướng Khánh là Tư lệnh B5 (Khu 5). Về
tình hình ở Saigon-Gia Định và vùng phụ cận, người viết trích theo hồi
ký Mai Chí Thọ (lúc đó Mai Chí Thọ và Võ Văn Kiệt là Tư lệnh và
chính ủy của "nội đô," hay là Phân Khu 6, bao gồm Saigon, Gia Định,
Bình Dương và các vùng khác ở Quân Đoàn III) viết trong Theo bước
chân lịch sử, trang 168-174. Trần văn Trà, trong Kết thúc cuộc chiến 30
năm, Tập 5, trang 190, cho biết những Tư lệnh tử trận năm 1968 và
1969 là, Trần Đình Xu, Tư lệnh khu Saigon; sư đoàn trưởng Nguyễn
Thế Truyện; và Tư lệnh phó quân khu 8 Nguyễn Văn Nhỏ (Hai Nhỏ).
[40]Những con số về hồi chánh, an ninh địa phương, đọc, The Bunker
Papers, các tờ tường trình vào tuần lễ cuối của những năm 1967, 1968,
1969, 1970, và 1971. Trong những tường trình cuối năm, đại sứ
Bunkers thường báo cáo cho tổng thống tất cả các con số về kinh tế,
tình hình chính trị, an ninh, số thương vong của Hoa Kỳ, VNCH,
CSBV, số cán binh ra hồi chánh, cũng như tiến triển của các chương
trình có tính cách dân sự. Về những thay đổi tình hình an ninh ở xã, ấp
trong những năm 1967-1971, đọc, William Colby, sđd, Appendix D,
trang 420-421.
[41] Đọc, William Colby, Victory Lost, trang 313.
[42]Ngày 5 tháng 2-1970, Hoàng thân kiêm đệ nhất Thủ tướng Cam Bốt,
Sirik Matak, tuyên bố trên đài phát thanh Quốc gia là quân đội Cam
Bốt chuyên chở và bán gạo cho CSBV theo những thỏa thuận từ trước,
nhưng ông không muốn thấy liên hệ đó tiếp tục nữa. Trước đó gần hai
tuần, bộ trưởng Nguyễn Văn Tiến của Chính phủ Lâm lhời Việt Cộng
có đến thương lượng với Matak lần cuối để được tiếp tục mua gạo và
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
đóng quân. ... Khi nghe Matak dọa quân đội Cam Bốt sẽ có biện pháp
với các đơn vị CSVN đang có mặt trên đất Cam Bốt, bộ trưởng Tiến trả
lời các đơn vị cộng sản sẽ chiến đấu tự vệ, vì "họ đã trả một số tiền rất
lớn cho Shihanouk để được phép đóng quân và thiết lập căn cứ trên đất
này." Đọc, Sorley, The Abrams Tapes, trang 360, 383-384. Theo ký giả
Nayan Chanda, Hoàng thân Shihanouk, với sự đồng ý của Chu Ân Lai,
lấy 10% tổng số hàng nhập vào hải cảng Shihanoukville. Từ
Shihanoukville quân đội Cam Bốt dùng quân xa chuyển hàng giao đến
tay CSBV và tính thêm tiền chuyên chở. Shihanouk lấy lại tiền bán gạo
cho CSBV từ Trung Cộng. Đọc, Chanda, Brother Enemy, trang 61, 420
(phụ chú 17); Qiang Zhai, China and the Vietnam War: 1950-1975,
trang 135-137, 248 (phụ chú 33 và 35). Trong hồi ký của Trường Sơn
(bút hiệu của đại tá Phạm Tề thuộc bộ Tư lệnh Đoàn 559) tác giả cũng
có nói về vấn đề chi tiền cho quân đội Cam Bốt để được đóng quân và
tích trữ quân nhu dụng. Đọc, Trường Sơn, cuộc hành trình năm ngàn
ngày đêm, trang 129-139. Về thái độ hai hàng và ngụy tín của
Shihanouk, đọc, Davidson, Vietnam at War, trang 624-625.
[43] Davidson, sđd, cùng trang.
[44]Sorley, A Better War, trang 200, và những phụ chú liên hệ Đô đốc
McCain đề nghị với tham mưu trưởng liên quân Wheeler là phải đánh
qua Cam Bốt; William Colby nói, còn căn cứ của CSBV ở Cam Bốt thì
chúng ta sẽ còn ở lại Việt Nam vĩnh viễn. Một vị tướng khác, quen
thuộc với tình hình quân sự Việt Nam, nhận định là các căn cứ của
CSBV đóng dọc theo biên giới Việt Nam tương tự như một khẩu súng
lên đạn kề vào đầu VNCH. Đọc, Dave Palmer, Summons of the
Trumphet, trang 228.
[45]Sorley, A Better War, trang 200-203; William Hammond, Reporting
Vietnam, 201-218; Jeffrey Kimball, Nixon's Vietnam War, trang 197-
212; Davidson, sđd, trang 623-633; James H. Willbanks, Abandoning
Vietnam, trang 77-86. Tất cả các tác phẩm nói trên đều đề cập chút ít gì
về cuộc tấn công qua Cam Bốt của quân lực VNCH vào tháng 5-1970.
Tuy nhiên, để có chi tiết và lịch sử đầy đủ hơn về cuộc hành quân, xin
đọc, The Cambodian Incursion, của chuẩn tướng Trần Đình Thọ. Cũng
nói thêm, phần lớn vũ khí tịch thu được trong những cuộc hành quân
được quân đội VNCH giao lại cho quân đội Cam Bốt.
[46]Vì tính chất phức tạp với nhiều giai đoạn, nhiều tên gọi, cho các
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
cánh quân (mỗi chiến đoàn phụ trách một giai đọan/ mục tiêu của cuộc
tấn công), người viết dùng tên Toàn Thắng là tên chánh của cuộc hành
quân đánh qua Cam Bốt. Để biết thêm chi tiết về mục đích, hướng
đánh, chiến đoàn tham dự, hay của các tên cuộc hành quân phụ như
Bình Tây I-III; Toàn Thắng 41-46; và Cửu Long 44, xin đọc, chuẩn
tướng Trần Đình Thọ, The Cambodian Incursion, trang 53-133.
[47]Trần Đình Thọ, The Cambodian Incursion, trang 95.
[48] Về chi tiết những hoạt động của phía Hoa Kỳ trong cuộc hành quân
Rockcrusher, đọc, đại tướng Donn A. Starry, Mounted Combat in
Vietnam, trang 166-176. Trong cuộc hành quân đánh qua Cam Bốt,
tướng Starry mang chức đại tá, chỉ huy trưởng Trung đoàn 11 Thiết kỵ
(Black Horse Regiment), trung đoàn mà trước đó một năm được con
trai của đại tướng lừng danh Patton chỉ huy.
[49]Với số lượng vũ khí, quân nhu dụng, tịch thu được từ những căn cứ
và kho dự trữ ở Cam Bốt, tình báo CIA đã mất đi tiếng nói với hầu hết
thẩm quyền của chính phủ Hoa Kỳ, nhất là với tổng thống Nixon.
Những dự đoán sai lạc về số lượng hàng xâm nhập qua hải cảng
Shihanouk của CIA từ năm 1964 làm cho Hội đồng An ninh Quốc gia
và với quân sự nghi ngờ về khả năng của CIA trong những tiên đoán họ
đưa ra. Đọc, Henry Kissinger, White House Years, trang 240-241;
Sorley, A Better War, trang 209-210, trích lại lời phê bình của đại
tướng Bruce Palmer (từng là Tư lệnh phó MACV). Tháng 11-1970,
CIA lại thiếu chính xác thêm lần nữa khi họ không biết chắc chắn tù
binh Hoa Kỳ còn có mặt ở trại tù Sơn Tây hay không, cho đến những
ngày cuối cùng. Nhưng đến giờ phút đó cuộc hành quân giải cứu tù
binh đã trên đường đến Thái Lan, và từ đó bay qua không phận Thượng
Lào để đến Sơn Tây. Đọc, Benjamin F. Schemmer, The Raid, trang
219-220.
[50]Chi tiết về thiệt hại đôi bên, vũ khí và quân nhu dụng tịch thu của
CSBV, đọc, chuẩn tướng Trần Đình Thọ, sđd, trang 193-194.
[51]Hầu kết các sách về chiến tranh Việt Nam đề có viết ít nhiều về phản
ứng của dân cũng như quốc hội khi đồng minh tấn công qua Cam Bốt.
Một tổng kết nói lên đầy đủ các phản ứng từ nội địa, ngoại quốc và giới
chính trị ở quốc hội được Paul M. Kattenburg viết trong The Vietnam
Trauma in American Foreign Policy, 1945-75, trang 241-281.
Kattenburg là chuyên viên về Đông Dương thập niên 1950, và giám
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
đốc Việt Nam Vụ năm 1963-1964. Ngày 30 tháng 6-1970 ngày cuối
cùng của quân đội Mỹ trên đất cam Bốt để nhấn mạnh thái độ của họ
đối với tính chất pháp lý về liên hệ của Hoa Kỳ ở Việt Nam, thượng
viện Mỹ biểu quyết thêm một lần nữa rút lại Quyết nghị Vịnh Bắc Việt,
một quyết nghị căn bản cho phép tổng thống Mỹ can thiệp và đưa quân
vào Việt Nam. Hai tháng trước đó, tiểu bang Massachutsetts chấp thuận
một dự luật rất "phản chiến" và ngược lại đường lối của chính phủ liên
bang: Tiểu bang này cho phép công dân của tiểu bang "được tị nạn
nghĩa vụ quân sự" cho đến khi nào quốc hội Hoa Kỳ chính thức tuyên
chiến với một Quốc gia nào đó (trong trường hợp này là tuyên chiến
với Bắc Việt). Dự luật của tiểu bang Massachutsetts đặt nền hành pháp
vào một thế kẹt, vì theo Hiến pháp Hoa Kỳ, chỉ có Quốc hội mới có
thẩm quyền tuyên chiến (declaration of war clause). Đọc, Chester
Cooper, The Lost Crusade: America in Vietnam, trang 462-463.
[52]Trần Đình Thọ, The Cambodian Incursion, trang 175-180.
Người Mỹ và chiến tranh Việt Nam
Phần 4
Với những chiến thắng ở Cam Bốt được thâu lượm quá dễ dàng, gần
cuối năm 1970, thẩm quyền dân sự từ Hoa Thịnh Đốn "đề nghị"
MACV đề nghị với bộ tổng tham mưu VNCH mở một cuộc hành quân
qua Hạ Lào với mục đích tương tự như cuộc hành quân đánh qua Cam
Bốt. Nhưng cuộc hành quân lần này hơi khác, thẩm quyền dân sự thông
báo cho MACV: Vì luật Quốc hội không cho phép quân đội Hoa Kỳ có
mặt trên đất Lào, cuộc hành quân sẽ hoàn toàn do quân đội VNCH đảm
nhiệm. Hoa Kỳ chỉ có thể yểm trợ quân đội VNCH bằng các phương
tiện như không vận, hỏa lực Pháo binh và không yểm.
Nhưng lần này, mục đích của Hoa Thịnh Đốn khi đánh qua Hạ Lào
năm 1971 không thuần túy chỉ là mục đích quân sự. Theo những tài
liệu giải mật có liên hệ đến chủ đích của kế hoạch đánh qua Hạ Lào đã
được công bố, Cố vấn An ninh Quốc gia Kissinger đề nghị VNCH đánh
qua Lào năm 1971 để làm gián đoạn tiềm năng quân sự của CSBV vào
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
năm 1972, năm bầu cử tổng thống Mỹ. Chính Kissinger là người
khuyên Nixon là đừng nên rút quá quân nhiều, quá vội trong năm 1971:
đợi đến cuối năm 1972 rồi sẽ rút hết. Giữ lại một số quân để bảo đảm
tình hình quân sự ở Việt Nam và đồng thời có được một an toàn cho
cuộc bầu cử năm 1972 (trong ý nghĩa tình hình chiến sự ở Việt Nam
được yên lặng thì giới phản chiến Mỹ không có lý do để biểu tình và
đảng Dân Chủ không có cớ nói đảng Cộng Hòa vẫn chưa giải quyết
được tình hình quân sự ở Việt Nam). Đây là một chiến thuật chính trị
khá độc đáo của Kissinger. Và Nixon nghe theo. [1]
Sử liệu sau này - hay ít ra là sử liệu viết trước khi cuốn hồi ký của
Hademan ra đời, và một số tài liệu giải mật được công bố gần đây -
không xác định chắc chắn ai là cha đẻ của kế hoạch đánh qua Hạ Lào
năm 1971. Và sau khi cuộc hành quân kết thúc với một kết quả không
được hoàn hảo như dự tính, dĩ nhiên không ai muốn nhận làm cha đẻ
của một kế hoạch thiếu mỹ mãn. Mặc dù các sử gia không thể xác định
chắc chắn, nhưng dựa vào nhiều hồi ký và tài liệu, họ có thể suy luận
kế hoạch có thể bắt nguồn từ Nixon; Kissinger; Hội đồng An ninh
Quốc gia; hay cũng có thể là khởi nguồn từ tướng Alexander Haig, một
phụ tá tín cẩn của Kissinger đương thời. [2] Kissinger, trong hồi ký viết
sau này, chẳng những không nói rõ ai là tác giả đề nghị kế hoạch đánh
qua Lào, mà còn chối là mình có khởi sự và tham dự vào kế hoạch đó.
[3]
Kế hoạch tấn công qua Hạ Lào để cắt đứt đường tiếp vận và xâm nhập
vào chiến trường miền Nam của CSBV, không phải là một quyết định
hay đề nghị mới. Năm 1964 Lục quân Hoa Kỳ phát họa một kế hoạch,
trong đó dùng bốn sư đoàn đánh và giữ một phòng tuyến dài từ Đông
Hà qua Savannakhet. Kế hoạch được tư lệnh Lục quân Harold K.
Johnson chấp thuận, nhưng bị đô đốc Sharp của bộ tư lệnh Thái Bình
Dương phủ phản đối trên lý do đóng quân như vậy thì quá thụ động,
không làm được gì. Từ năm 1966 tướng Westmoreland đã yêu cầu ban
tham mưu MAVC phát họa một kế hoạch đánh qua Lào, bắt đầu từ Lao
Bảo, dọc theo quốc lộ 9 đến Sê Pôn, một trung tâm nhận và chuyển
hàng của CSBV. Giữa năm 1969, khi Abrams thừa nhiệm
Westmoreland, tướng Abrams cũng đề nghị đánh qua Lào trước khi có
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
cuộc hành quân đánh qua Cam Bốt. Năm 1972, trong một bài viết về
một chiến lược để cô lập CSBV, đại tướng Cao Văn Viên nói từ năm
1966 ông đã đề nghị hai giải pháp quân sự để cô lập đường tiếp tế của
cộng sản: Hoặc đánh vào Vinh để cắt đứt nút xâm nhập ở các đèo Mụ
Già, đèo Ban Karai; hoặc đánh theo đường số 9 để chiếm giữ Sê Pôn.
Nhưng vì một lý do chính trị nào đó, thẩm quyền dân sự ở Hoa Thịnh
Đốn không ưng thuận hay khuyến khích các kế hoạch do các tư lệnh
quân sự đề nghị. [4]
Nhưng dưới chính phủ của tay đánh phé Nixon và ông cố vấn phù thủy
Kissinger, kế hoạch đánh qua Lào quyền rũ hơn lần đánh qua Cam Bốt.
Năm 1971 là năm bầu cử tổng thống VNCH, và năm 1972 là năm bầu
cử tổng thống Mỹ. Sau khi đánh qua Lào, thắng hay thua, với thiệt hại
đôi bên, tình hình quân sự sẽ tạm lắng dịu, và như vậy tình hình sẽ có
lợi cho hai chính phủ đương nhiệm ở Hoa Kỳ và Việt Nam. Hơn nữa,
theo chương trình rút quân, vào cuối năm 1972 tổng số quân Mỹ còn có
mặt ở Việt Nam sẽ không hơn 50 ngàn người. Nếu phải đánh tan - hay
ít ra giảm thiểu - tiềm năng quân sự của CSBV, thì đây là cơ hội duy
nhất còn lại. Với những suy luận đó, Nixon quyết định ra tay trước khi
CSBV có thể tái bổ sung những thiệt hại ở Cam Bốt. Ban đầu, Nixon
có ý định dùng TQLC và Bộ binh đổ bộ lên Vinh (kế hoạch tương tự
như kế hoạch của tướng Viên), nhưng cố vấn Kissinger đề nghị đánh
trở lại Cam Bốt thêm một lần thứ nhì nữa để dọn sạch những căn cứ
của CSBV. Sau cùng họ để ý đến một đề nghị của đô đốc John
McCain, tổng tư lệnh quân đội Hoa Kỳ ở Thái Bình Dương. McCain,
trong một điện tín gởi cho Abrams vào tháng 10-1970, đề nghị MAVC
nghiên cứu những mục tiêu nhắm vào các căn cứ hậu cần của CSBV
nằm dọc theo biên giới Việt-Lào (Đề nghị của đô đốc McCain chỉ là
một trong những đề nghị hành quân thông thường, không liên quan gì
đến ý định của Nixon và Kissinger. Giữa tháng 6-1970, McCain có
thăm viếng bộ tư lệnh MACV để duyệt xét tình hình của cuộc hành
quân đang diễn tiến bên Cam Bốt.). Nixon và Kissinger chọn kế hoạch
của McCain nhưng thay đổi đi một vài mục tiêu để phù hợp với kế
hoạch chính trị của họ: Thay gì chỉ đánh vào các mục tiêu nằm gần và
dọc theo biên giới Việt-Lào, kế hoạch sẽ đánh 30 cây số sâu vào nội địa
Lào (tới Sê Pôn), rồi sau đó quân đội VNCH sẽ bọc trở lại để tiếp tục
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
phá hủy các căn cứ hậu cần nằm dọc theo biên giới. Chưa hết, cùng lúc
đánh qua Lào, một lực lượng khác của quân đội VNCH sẽ tấn công trở
lại Cam Bốt, đánh sâu vào khu vực đồn điền cao su Chup, nơi cộng sản
đang xây dựng những căn cứ mới. [5]
Đầu tháng 12-1970, ban tham mưu liên quân liên lạc qua đô đốc
McCain, cho phép tướng Abrams bàn thảo với tướng Viên về kế hoạch
hành quân qua Lào. [6] Ngày 7, tướng Abrams và đại sứ Bunker gặp
tổng thống Thiệu gần một tiếng rưỡi để trình bày sơ qua khái niệm
cuộc hành quân. Trở về bộ tư lệnh, Abrams đánh điện tín thông báo cho
đô đốc McCain là, tổng thống Thiệu đồng ý kế hoạch. Abrams cho biết
tổng thống Thiệu chọn vùng Sê Pôn là mục tiêu chính; đường số 9 là
trục lộ di chuyển quân; cấp số căn bản cho cuộc hành quân là hai sư
đoàn, cộng thêm một số quân Thiết kỵ; thời điểm bắt đầu hành quân là
sau Tết; thời gian hành quân kéo dài chừng hai đến ba tháng; sau đó
vẫn giữ lại một số đơn vị nhỏ để đánh phá quấy rối chung quanh các
căn cứ hậu cần cộng sản. [7] Ngày 8, một điện tín từ ban tham mưu liên
quân gởi qua McCain cho tướng Abrams, xác định lại chi tiết rõ ràng
hơn: hành quân qua Lào, dọc theo đường số 9. ... Hoa Kỳ sẽ yểm trợ
hỏa lực và không vận. ... Cùng lúc, cũng phải soạn thảo kế hoạch tấn
công qua Cam Bốt. Hai ngày sau, đích thân đô đốc Thomas Moorer,
tham mưu tưởng ban tham mưu liên quân, chuyển lại cho Abrams một
huấn lệnh của tổng trưởng quốc phòng viết theo lệnh của tổng thống
Nixon. Huấn lệnh thông báo, "tổng thống giao trách nhiệm [cho
Abrams] phối hợp với quân đội VNCH và quân đội Cam Bốt [trong
cuộc hành quân đánh qua Cam Bốt] để tấn công quân địch với tất cả
khả năng ... nhưng nằm trong giới hạn chính trị của quân đội Hoa Kỳ
[nghĩa là quân đội Hoa Kỳ không thể đi kèm theo quân VNCH qua biên
giới]." Bức điện tín đồng thời cho biết Nixon sẽ cho tướng Alexander
Haig đến Sài Gòn và Nam Vang để cùng tham khảo kế hoạch của hai
cuộc hành quân. [8] Tướng Haig đến Sài Gòn trung tuần tháng 12, thảo
luận với tổng thống Thiệu, tướng Abrams và đại sứ Bunker. Sau
chuyến đi tham khảo của Haig, tổng trưởng quốc phòng Laird đến Sài
Gòn thượng tuần tháng 1, năm 1971. Theo những gì được viết lại, Laird
cũng có thảo luận với tổng thống Thiệu về kế hoạch hành quân qua
Lào. [9] Ngày 18 tháng 1-1971, tòa Bạch Ốc nhóm họp để quyết định về
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
cuộc hành quân đánh sang Lào. Buổi họp có mặt của Nixon, tổng
trưởng quốc phòng Laird, ngoại trưởng William Rogers, tham mưu
trưởng liên quân Moorer, xếp CIA Richard Helm, tướng Haig, và
Kissinger. Trên nguyên tắc, tất cả hiện diện đều đồng thuận với kế
hoạch. Chỉ trừ ngoại trưởng Rogers. Rogers phản đối kế hoạch và phản
đối rất có lý: cấp số quân quá ít; cuộc hành quân đi vào địa thế nguy
hiểm. Ông ngoại trưởng nhắc cho mọi người nhớ, kế hoạch của ban
tham mưu Lục quân, và kế hoạch của Westmoreland vài năm trước đây
đòi hỏi một lực lượng không dưới bốn sư đoàn quân Hoa Kỳ, cộng với
không lực yểm trợ của ba quân chủng. Bây giờ, với một lực lượng dưới
ba sư đoàn lính VNCH và một hỏa lực yểm trợ rất giới hạn của Hoa
Kỳ, làm sao chúng ta đặt tin tưởng tuyệt đối vào cuộc hành quân được?
Nhưng Nixon gạt ngang sự phản đối của ngoại trưởng Rogers, chấp
thuận kế hoạch hành quân và ra lệnh soạn thảo để thi hành. [10]
Từ tháng 3-1970, trước khi có cuộc hành quân của VNCH và Hoa Kỳ
vẫn đánh qua Cam Bốt, và trong thời gian cuộc hành quân đang diễn ra,
hệ thống tình báo điện tử của Hoa Kỳ thâu được một số điện tín của bộ
tư lệnh cao cấp CSBV gởi cho các binh trạm đóng dọc trên hệ thống
đường xâm nhập Hồ Chí Minh từ Lào xuống cam Bốt. Bộ tư lệnh
CSBV ra lệnh cho các binh trạm chuẩn bị tác chiến nếu cần, vì địch có
thể tiếp tục tấn công qua Cam Bốt, Lào hay qua khu vùng ba biên giới.
Những tháng kế tiếp, tình báo điện tử tiếp tục ghi nhận lệnh từ cấp trên
lưu ý các đơn vị đóng từ Vinh cho đến Hạ Lào, là địch có thể tấn công
bất thần, kể cả chuyện đổ bộ lên Vinh. Đầu tháng 10, 1970, CSBV thiết
lập một bộ tư lệnh cấp Quân đoàn có tên là 70B, đóng ở khu vực đường
9 bên kia biên giới, để chuẩn bị trả chống trả mọi cuộc tấn công qua
biên giới của quân đội VNCH. Từ tháng 3-1970, các tư lệnh cấp trung
đoàn và sư đoàn được lệnh phải đích thân đi thám thính địa hình dọc
theo, và chung quanh đường số 9. Với những biến chuyển và hoạt động
quân sự đang diễn ra ở Vùng I và Khe Sanh, CSBV biết cuộc tấn công
qua Hạ Lào sắp sửa tiến hành. [11]
Về phía VNCH. Sau khi nghe đề nghị của Hoa Kỳ; sau khi nghe đại
tướng Viên tường trình kế hoạch hành quân mà bộ tư lệnh MACV đã
thảo luận với ông, tổng thống Thiệu cho phép soạn thảo kế hoạch Hành
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
Quân Lam Sơn 719. Kế hoạch hành quân có khái niệm tổng quát như
sau: Cuộc hành quân có bốn giai đoạn. Giai đoạn I: Giai đoạn này bắt
đầu từ đầu tháng 1, phần lớn do Hoa Kỳ phụ trách. Các đơn vị công
binh, Thiết kỵ Mỹ sẽ giải tỏa, tái thiết và thiết lập an ninh trên quốc lộ 9
từ Đông Hà đến Lao Bảo; tái chiếm căn cứ Khe Sanh để làm nơi đổ bộ
quân và làm hậu cứ tiền phương bên này biên giới. [12] Giai Đoạn II:
Với một cấp số quân tương đương ba sư đoàn, gồm sư đoàn Nhảy dù,
sư đoàn 1 Bộ binh, lữ đoàn 1 Thiết kỵ, và Liên đoàn 1 Biệt động quân.
Quân Dù và Thiết kỵ sẽ tiến theo trục lộ đường 9, đáng qua biên giới về
hướng tây. Trong thời gian đó, một Tiểu đoàn Dù được trực thăng vận
nhảy vào một mục tiêu trước mặt, cách biên giới khoảng 12 cây số, có
tên là Bản Đông (trên bản đồ hành quân có tên là A Lưới) để thiết lập
bộ chỉ huy tại mặt trận. Cùng lúc, hai Tiểu đoàn Dù được trực thăng
vận lên chiếm hai đỉnh đồi hướng đông bắc (căn cứ hỏa lực 30) và tây
bắc (căn cứ hỏa lực 31) của Bản Đông để thiết căn cứ hỏa lực và bảo vệ
mặt bắc của trục tiến quân. Đồng thời, về hướng đông bắc của căn cứ
hỏa lực 30, ba Tiểu đoàn Biệt động quân (BĐQ) sẽ thiết lập hai điểm
phòng thủ như một tiền đồn quan sát và canh chừng địch quân có thể
tràn xuống tiếp viện từ hướng đông bắc. Ở phía nam của trục tiến quân,
các Tiểu đoàn của sư đoàn 1 sẽ thiết lập những căn cứ hỏa lực ở cao
điểm Co Roc, từ biên giới chạy dài đến Bản Đông để bảo vệ mặt nam
của hướng tiến quân. Sau khi các đơn vị đã nằm vào vị trí của họ, quân
Thiết kỵ sẽ theo dường số 9, đánh thẳng về Sê Pôn để bắt tay với một
lữ đoàn Dù được trực thăng vận vào đó cùng lúc. Ngoài các lực lượng
tấn công qua bên kia biên giớ, ở bên này căn cứ Khe Sanh, hai lữ đoàn
TQLC sẽ nằm phòng thủ như một lực lượng trừ bị. Giai đoạn III: Với
giả định quân Dù chiếm được Sê Pôn, và quân Thiết kỵ tiến vào bắt tay
quân bạn, quân Dù sẽ lục soát chung quanh Sê Pôn; các đơn vị của sư
đoàn 1 sẽ lục soát các khu vực phía nam Sê Pôn. Giai Đoạn IV: Khi
được lệnh lui quân, các lực lượng tấn công sẽ lui quân theo hai kế
hoạch. Theo kế hoạch 1, Dù và Thiết kỵ sẽ rút về Bản Đông. Từ đó, hai
lực lượng này sẽ bảo vệ sư đoàn 1 vừa lục soát các căn cứ địch, vừa
tiến về hướng đông nam để rút về biên giới. Trong khi đó, quân BĐQ ở
hướng đông bắc sẽ nhập vào quân Thiết kỵ và rút ngược về biên giới
theo quốc lộ 9. Các đơn vị TQLC sẽ hành quân dọc theo biên giới trong
thời gian đó, vừa quấy phá vừa ngăn ngừa những cuộc phục kích có thể
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
xảy ra cho quân bạn. Kế hoạch lui quân 2 chỉ khác 1 ở chỗ quân Dù sẽ
tiếp tục nối đuôi theo sau sư đoàn 1 để lục soát căn cứ địch, nhưng thay
gì đi theo hướng tây nam về biên giới, hai cánh quân này sẽ theo hướng
đông để về đường 9. [13] Tư lệnh của cuộc hành quân là trung tướng
Hoànhg Xuân Lãm, đương nhiệm tư lệnh Vùng I. Trừ sư đoàn Nhảy dù
(và hai lữ đoàn TQLC nằm trừ bị ở Khe Sanh), tất cả các đơn vị tham
gia cuộc hành quân đều là đơn vị cơ hữu của Quân đoàn I. Ngày hành
quân được ấn định là sau Tết Tân Hợi.
Giữa tháng tháng 1, bộ tổng tham mưu và MACV cho sĩ quan hành
quân ra trình bày kế hoạch với tướng Hoàng Xuân Lãm và trung tướng
James W. Sutherland của Quân đoàn XXIV. Ngày 21, cả hai vị tướng
bay về Sài Gòn để tường trình kế hoạch chung cho MACV và bộ tổng
tham mưu. Cùng ngày, đích thân tướng Lãm trình kế hoạch hành quân
cho tổng thống Thiệu duyệt xét. Ngày 25 tháng 1-1970, tin hành quân
đánh qua Lào được chánh thức loan báo xuống tận cấp Tiểu đoàn ở một
vài đơn vị tham dự. [14]
Sau gần bốn ngày bị đình trệ vì thời tiết, qui luật hành quân từ phía Hoa
Kỳ, và tai nạn, hành quân Lam Sơn 719 bắt đầu vào ngày 8 tháng 2-
1971, khi quân Dù và Thiết kỵ băng qua biên giới để tham dự vào một
cuộc hành quân qui mô và tốn kém nhất trong lịch sử cuộc chiến. [15]
Trên giấy tờ, kế hoạch hành quân Lam Sơn 719 nhìn rất đơn giản: tin
tức về các lực lượng địch quân đang có mặt trong vùng không quá
nhiều để gây nhiều lo lắng cho ban tham mưu soạn thảo; không ảnh cho
thấy địa hình phức tạp, nhưng không phức tạp đến độ gây trở ngại cho
quân Thiết kỵ. Và với những hứa hẹn hỏa lực yểm trợ từ Không quân
chiến thuật và chiến lược của Hoa Kỳ, ban tham mưu không thấy cuộc
hành quân sẽ gặp một trở ngại nào. Sự thành công trong lần đánh qua
Cam Bốt đã làm cho ban tham mưu soạn thảo hành quân lạc quan hơn.
Nhưng tin tức tình báo và hình chụp từ trên trời không thể nhìn thấy tất
cả những gì được che đậy dưới những cánh rừng dầy của Hạ Lào. Tình
báo cũng không thể nào cập nhật được sự di động liên tục của các đơn
vị đối phương. Sự ước lượng về quân số của CSBV trong vùng hành
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
quân chỉ chính xác trong thời điểm soạn thảo kế hoạch; và khi không
ảnh cho thấy đường số 9 tuy bị hư nhiều vì bom nhưng còn di chuyển
được thì chỉ là trên ...hình ảnh. Trên thực tế, hai chi tiết quan trọng này
khác xa ước tính. Trong thời gian soạn thảo, kế hoạch ước lượng CSBV
chỉ có khoảng 22 ngàn quân ở chung quanh Sê Pôn. Đến đầu tháng 1,
ước lượng về cấp số quân của đối phương trong vùng hành quân được
tăng lên tương đương ba sư đoàn rưỡi (bằng quân số dưới tay của của
Quân đoàn 70B). Nhưng đến thượng tuần tháng 2, khi quân đội VNCH
chuẩn bị băng qua biên giới, CSBV đã có khả năng quy động một số
quân tương đương với bảy sư đoàn để chuẩn bị ứng chiến trong vùng
hành quân. [16]
Về trục lộ di chuyển và địa hình của mặt trận: Không ảnh không cho
thấy nhiều chỗ hư nát của đường số 9 vì bị cỏ và lá thấp bao phủ.
Đường số 9 là một con đường bị bỏ hoang gần 20 năm (khúc từ biên
giới Việt Nam đi về Sê Pôn), tất cả cầu trên đường đã bị Không quân
Mỹ đánh sập. Những trận oanh kích ngày đêm đã cắt con đường ra từng
đoạn bằng những hố bom sâu năm, bảy thước. [17] Địa hình Hạ Lào
không thuận lợi nếu không nói bất lợi cho chiến xa và quân Thiết kỵ.
Đường số 9, với bên phải là rừng cây dầy dặt, bên trái là sông Sê Pôn
với rừng và chỏm đá cao dọc theo bờ sông, giới hạn tầm quan sát của
Thiết kỵ. Địa hình dọc theo trục lộ lại càng giới hạn chiến thuật sử
dụng chiến xa khi chiến xa không thể rời được lộ chánh để nới rộng địa
bàn hoạt động hay trinh sát, canh chừng vòng đai an ninh xa hơn.
Không như ở mặt trận Cam Bốt, địa hình ở Hạ Lào không phải là địa
hình để có thể dàn một mặt trận dài sáu cây số hàng ngang, với 200 xe
tăng và thiết vận xa, mỗi chiếc cách nhau 25 mét, và cứ thế tác xạ và
tiến quân. [18]
Tuần đầu tiên của cuộc hành quân mọi chuyện xảy ra như dự định.
Nhảy dù và BĐQ chiếm các tọa độ và thiết lập các căn cứ hỏa lực như
được chỉ định; bộ chỉ huy mặt trận đã nằm ở Bản Đông hai ngày trước
khi quân Thiết kỵ tiến 12 cây số từ biên giới đến để gia nhập họ. Ở phía
đông nam Bản Đông, lính Bộ binh của sư đoàn 1 đã an tọa trên những
cao điểm, nhìn về hướng nam canh giữ.
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
Nhưng đến tuần thứ hai, tình hình thay đổi: sau khi xác định được vị trí
của các lực lượng VNCH và sau khi đã viện quân đầy đủ, CSBV chuẩn
bị tấn công vào các cao điểm và căn cứ hỏa lực của VNCH.
Trong khi đó, lực lượng Thiết kỵ từ Bản Đông tiến về mục tiêu Sê Pôn
ở hướng tây được chừng năm cây số thì gặp sức kháng cự. Căn cứ hỏa
lực 30 bắt đầu bị pháo vào ngày 16 tháng 2. Ở hướng tây của căn cứ 30,
quân CSBV phối hợp chiến xa và Bộ binh để tấn công trực diện điểm
phòng thủ của đồi 31, nơi đặt bộ chỉ huy của lữ đoàn 3 Nhảy dù. Ở phía
nam, tất cả cứ điểm của sư đoàn 1 Bộ binh đều bị tấn công lẻ tẻ. Vấn đề
tiếp tế cho các căn cứ hỏa lực bằng trực thăng càng lúc càng khó khăn
hơn vì hỏa lực phòng không của địch quá mạnh. Không ảnh và phi cơ
quan sát cho biết CSBV có một lực lượng tương đương 19 Tiểu đoàn
phòng không, trang bị khoảng 525 đến 575 súng phòng không các loại
12.7, 23, 37, hay đôi khi 57 ly. [19] Cuộc tiến quân về Sê Pôn chậm lại
theo đà kháng cự của đối phương. Ngày 16 tháng 2, tướng Viên và
tướng Abrams bay ra bộ tư lệnh tiền phương ở Đông Hà để họp với
tướng Lãm và Sutherland. Trong cuộc họp này họ thay đổi kế hoạch
hành quân: Các lực lượng Bộ binh của sư đoàn 1 sẽ nhảy chiếm các
ngọn đồi cao ở phía nam sông Sê Pôn để giúp cho quân Dù và Thiết kỵ
tiến nhanh hơn về mục tiêu Sê Pôn. Ba ngày sau, ngày 19, tổng thống
Thiệu cũng bay ra Đông Hà để nghe thuyết trình tình hình chiến sự.
Sau khi nghe tình hình, tổng thống Thiệu ra lệnh cho tướng Lãm tiến
quân chậm lại và bỏ nhiều thì giờ hơn lục soát các kho chứa quân nhu
dụng ở hướng tây nam Bản Đông. Nhưng sự đình trệ này đã giúp cho
đối phương có thêm thì giờ củng cố nhân lực và tập trung hỏa lực để
phản công. [20] Đến thời điểm đó VNCH có hơn 10.600 quân ở Hạ Lào,
đối diện với 35 ngàn quân của năm sư đoàn CSBV. [21]
Ngày 18 tháng 2, địch tấn công mạnh vào hai căn cứ BĐQ ở hướng
đông bắc do Tiểu đoàn 21 và 39 trấn giữ. Ngày hôm sau CSBV pháo
kích để cầm chân Tiểu đoàn 21, trong khi nỗ lực tấn công Tiểu đoàn
39. Ngày 20, chịu không nổi áp lực địch, Tiểu đoàn 39 di tản khỏi cao
điểm và rút về căn cứ của Tiểu đoàn 21 BĐQ ở cách đó vài cây số.
Nhưng hai ngày sau, chính Tiểu đoàn 21 cũng được lệnh di tản về căn
cứ hỏa lực 30 của Nhảy dù. Đến đây, trừ căn cứ hỏa lực 30 và 31,
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
CSBV đã gần như làm chủ các cứ điểm ở hướng bắc của Bản Đông và
đường số 9. [22] Mười một giờ sáng ngày 25, sau một trận pháo kích tàn
khốc, CSBV sử dụng chiến xa và Bộ binh ồ ạt tấn công căn cứ hỏa lực
31 từ bốn hướng. Khoảng năm giờ chiều, căn cứ 31 thất thủ. Ngày 3
tháng 3, Tiểu đoàn 2 Nhảy dù, sau hai ngày không được tiếp tế nước và
lương thực, và với số thương vong khoảng 200 quân, được lệnh di tản
bằng đường bộ ra khỏi căn cứ hỏa lực 30. Hướng bắc của đường 9 bây
giờ hoàn toàn nằm trong tay CSBV. [23]
Thấy sự kháng cự của địch càng lúc càng mạnh, ngày 28 tháng 2 tổng
thống Thiệu bất thần ra lệnh sư đoàn TQLC nhảy vào Hạ Lào để thay
thế sư đoàn Nhảy dù tại mặt trận. Nhận được quân lệnh thay quân rất
khó khăn đó, trưa ngày 28 tuớng Hoàng Xuân Lãm bay về Sài Gòn để
bàn thảo tình hình với tổng thống Thiệu. Thay gì dùng TQLC thay thế
quân Dù, tướng Lãm đề nghị, Quân đoàn I sẽ dùng Bộ binh của sư
đoàn 1 nhảy vào Sê Pôn; dùng quân Dù bảo vệ hướng bắc và đường số
9; hai lữ đoàn TQLC sẽ thay vào chỗ của sư đoàn 1 ở các cao điểm
hướng nam đường 9. Sau khi nghe kế hoạch trình bày, tổng thống
Thiệu chấp nhận đề nghị của tướng Lãm. [24] Với sự tham dự của sư
đoàn TQLC và một vài đơn vị BĐQ và Bộ binh, quân đội VNCH bây
giờ có gần 17 ngàn quân ở mặt trận Hạ Lào.
Từ ngày 3 đến ngày 5 tháng 3, các Tiểu đoàn của hai trung đoàn 1 và 2
của sư đoàn 1 tiếp tục nối đuôi nhau chiếm những cao điểm ở phía nam
đường số 9, dẫn dài về mục tiêu Sê Pôn. Ngày 6 và 7, một đoàn trực
thăng 120 chiếc chở hai Tiểu đoàn 2 và 3 của trung đoàn 2 nhảy vào Sê
Pôn. Chiếm được mục tiêu, các đơn vị chia nhau lục soát chung quanh
căn cứ quan trọng nhất trên con đường chuyển vận, xâm nhập vào nam
của CSBV. Ngày 12 tháng 3 quân đội VNCH bắt đầu chuẩn bị rút quân
khỏi địa phận Hạ Lào. [25] Cuộc rút quân không phải không khó khăn
nhất là rút quân khi mặt trận vẫn còn tiếp diễn. Một vài đơn vị bị thiệt
hại nặng khi họ bị chận đánh trên đường về. [26] Cuộc hành quân Lam
Sơn 719 được coi như kết thúc khi những đơn vị cuối cùng của VNCH
bước về bên này biên giới vào ngày 24 tháng 3-1971.
Số thương vong chết và bị thương của VNCH trong cuộc hành quân là
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
8.300 quân, và 651 mất tích. Số tử thương phía cộng sản ước lượng hơn
16.000 người. [27] Số lượng vũ khí, quân nhu dụng bị tịch thu và phá
hủy trong trận Hạ Lào bằng ba lần số lượng trong cuộc hành quân qua
Cam Bốt năm 1970.
Cuộc hành quân 45 ngày đánh qua Lào, ngoài sự thiệt hại gần 50 phần
trăm số quân tham dự, đã không hoàn tất được mục tiêu hoạch định:
thời gian hành quân không kéo dài 90 ngày như dự định để có thể lục
soát tận tường các kho dự trữ của CSBV ở chung quanh Sê Pôn; và kế
hoạch truy lùng ngược về các căn cứ nằm trong vùng Co Roc, gần sát
biên giới Việt Lào cũng không thực hiện được. Cuộc hành quân có
nhiều khiếm khuyết. Nhưng những khiếm khuyết đó không đến từ sự
chiến đấu của tất cả các đơn vị tham dự, mà đến từ những lỗi lầm của
ban tham mưu lúc soạn thảo kế hoạch hành quân.
Trái với những tin đồn là tình báo Bắc Việt có được trong tay tin tức và
chi tiết cuộc hành quân từ lúc được phác họa. Trên thực tế, cuộc hành
quân được tổ chức quá hấp tấp, quá lộ liễu, để có thể che mắt đối
phương. Căn cứ và phi trường Khe Sanh bị bỏ hoang từ tháng 7-1968,
nhưng đến cuối tháng 1-1971 thì công binh Hoa Kỳ trở lại sửa chữa,
thiết lập phi đạo để cung ứng cho phi cơ vận tải chiến lược (C-130).
Quân Thiết kỵ và Không Kỵ Mỹ bắt đầu thiết lập an ninh trên trục lộ
Đông Hà-Khe Sanh ...các phi trường ở tuyến đầu Vùng I nhộn nhịp với
những chuyến phi cơ vận tải đổ quân từng vùng khác về. ... Với những
họat động quân sự đó, một người mù cũng có thể đoán được ý định của
đối phương. Thêm vào đó, sau cuộc hành quân đánh như chẻ tre qua
Cam Bốt, sau khi lực lượng đặc biệt Mỹ nhảy thẳng vào Sơn Tây như
chổ không người, từ giữa năm 1970 giới lãnh đạo Bắc Việt đã báo động
cho tất cả các mặt trận và bộ tư lệnh phải lo phòng thủ những cuộc tấn
công của quân đội VNCH vào lãnh địa của họ. Sự đề phòng và bảo vệ
con đường chuyển vận sinh tử ở Hạ Lào là chuyện đương nhiên.
Ban tham mưu soạn thảo kế hoạch hành quân coi thường sức kháng cự,
và ước đoán quá thấp cấp số của CSBV đang hay sẽ có mặt ở vùng
hành quân. Trái với những đơn vị cộng sản mà quân lực VNCH đối
diện ở Cam Bốt (ba sư đoàn địa phương 5, 7, và 9 của Việt Cộng), các
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
sư đoàn có mặt ở Hạ Lào là các sư đoàn chính qui, được trang bị nhiều
hơn là đầy đủ, với một nhiệm vụ sống còn là phải bảo cái yết hầu của
con đường xâm nhập vào Nam. Sau khi đã mất những cứ địa bên Cam
Bốt, bây giờ nếu CSBV mất luôn những cứ địa ở Hạ Lào thì cuộc chiến
kể như thua. Vì lý do đó, dù bị thiệt hại nặng, CSBV phải bảo vệ Hạ
Lào cho đến người cán binh cuối cùng.
Địa hình ở Hạ Lào không những bất lợi cho chiến xa và Thiết kỵ, mà
còn bất lợi luôn cho vấn đề chuyên chở và yểm trợ bằng không lực: trời
chỉ quang đãng từ mười giờ sáng đến ba giờ trưa. Trước hay sau giờ đó,
mây mù bao phủ toàn vùng và vấn đề tiếp tế hay yểm trợ bằng trực
thăng không thể nào thực hiện được. Và dù thời được tiết quang đãng,
tìm một chổ đáp ở rừng núi Hạ Lào không dễ: lõm rừng nào trống trải,
thích hợp, để đáp trực thăng thì địch đã ghi tọa độ sẵn hay chĩa thẳng
(súng) phòng không vào đó. Khi thấy trực thăng sà xuống thì họ bắn
hay pháo vào mục tiêu đã định. 82 trực thăng bị hủy diệt hoàn toàn và
618 chiếc khác bị trúng đạn, cho thấy cường độ phòng không của địch
ở mặt trận. Hỏa lực phòng không giới hạn tiếp tế: quân đồn trú trên các
căn cứ hỏa lực bị thiếu tiếp tế đạn, nước và lương thực hai, ba ngày là
chuyện thường. Những ước tính về thời tiết và địa hình thiếu sót đến độ
quân phục của lính hành quân không đủ ấp để chống lại cái lạnh của Hạ
Lào về đêm. [28]
Cuộc hành quân không có một hệ thống chỉ huy và điều khiển suôn sẻ
và trôi chảy ở cấp Quân đoàn trong ba tuần lễ đầu tiên hai mươi mốt
ngày đầu quan trọng của cuộc hành quân. Trong khi bộ tư lệnh tiền
phương của Quân đoàn XXIV nằm ở Quảng Trị, bộ tư lệnh tiền
phương của Quân đoàn I thì ở Đông Hà. Bộ tư lệnh chiến thuật hỗn hợp
Việt Mỹ ở tại Khe Sanh thì thiếu một thẩm quyền cao cấp để quyết
định lập tức cho mặt trận. Quân đoàn XXIV không có sĩ quan đại diện
ở Khe Sanh để điều động hai đơn vị chánh đang hỗ trợ cho quân đội
VNCH là Liên đoàn 101 Không lực và Liên đoàn 108 Pháo binh. Cố
vấn Mỹ của các sư đoàn VNCH không có thẩm quyền xin yểm trợ trực
tiếp và phải chuyển yêu cầu ngược về bộ tư lệnh Quân đoàn XXIV ở
Quảng Trị. Ở một vài trường hợp, cố vấn sư đoàn không trực tiếp yểm
trợ cho sư đoàn của mình, hay không bắt được liên lạc với các cánh
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
quân của sư đoàn trong giây phút sống chết nhất. [29] Sự hợp tác và yểm
trợ của Hoa Kỳ rất rời rạc và thiếu nhiệt tình vì chính hai quân chủng
Lục quân Và Không quân Hoa Kỳ cũng có nhiều dị biệt khi làm việc
chung: tất cả yểm trợ của Không lực 7 đều do Lục quân (Quân đoàn
XXIV) điều khiển và hoạch định, trong khi nhiệm vụ của Không quân
rất quan trọng với hỏa lực của B-52 hay những loại bom 15 ngàn cân
(Anh) dùng để dọn bãi đổ bộ quân. Ngay từ lúc soạn thảo kế hoạch
hành quân, hai quân chủng đã cãi nhau về vai trò của không lực. Không
quân lưu ý Lục quân là trực thăng của họ không đủ để áp đảo hỏa lực
phòng không của CSBV. Lục quân thì cho rằng Không quân đã quan
trọng hóa và phóng đại khả năng phòng không của đối phương. Sau khi
cuộc hành quân khai diễn, Không quân có đại diện ở bộ chỉ huy chiến
thuật, nhưng phải chờ lịnh yêu cầu của Lục quân từ Quân đoàn XXIV.
Hai tuần sau ngày hành quân, Liên đoàn 101 Không vận lâm vào tình
trạng không đủ trực thăng vận chuyển, và hỏa lực từ trực thăng cũng
không đủ mạnh để áp đảo phòng không hay phá hủy xe tăng địch như
Không quân đã tiên đoán. Đến giờ phút đó, khi bộ tổng tham mưu của
VNCH lên tiếng phàn nàn thì MACV mới cho người từ Sài Gòn bay ra
Vùng I để dàn xếp tình trạng chỉ huy và điều khiển ở Khe Sanh. Sự
vắng mặt của một sĩ quan cao cấp của MACV ở bộ tư lệnh tiền phương
Quảng Trị hay bộ chỉ huy chiến thuật Khe Sanh có thể là một yếu tố
thắng thua của cuộc hành quân. Trên cương là tư lệnh MACV, đại
tướng Abrams không nhiều ít phải chịu trách nhiệm về sự thiếu sót
trong lối tổ chức chỉ huy và điều khiển của cuộc hành quân. [30] Khi tin
tức về những lộn xộn của cuộc hành quân được mật báo ngược về Hoa
Thịnh Đốn, trong một phút nổi giận tống thống Nixon lên tiếng đòi
cách chức đại tướng Abrams. [31] Với hệ thống chỉ huy và điều khiển
thiếu trôi chảy và gián đoạn đó, sự yểm trợ của quân đội Hoa Kỳ trong
cuộc hành quân Lam Sơn 719 đã không được đúng mức và đầy đủ như
đã phác họa trong kế hoạch một sự kiện mà tất cả các nhà quan sát
quân sự đều công nhận.
Ước lượng sai lầm quan trọng khác là sự chênh lệch giữa lực lượng tấn
công và quân phòng thủ. Trên lý thuyết quân sự, thông thường quân tấn
công cần một lực lượng đông hơn quân phòng thủ ít nhất là ba lần để
nắm phần thắng. Nên nhớ, vào năm 1966 khi tướng Westmoreland soạn
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
thảo hành quân đánh qua Lào, kế hoạch của ông đòi hỏi ít nhất là bốn
sư đoàn quân tác chiến, cộng với yểm trợ không lực của tất cả bốn
quân binh chủng. [32] Khi tấn công qua Lào, quân đội VNCH không
những không có số quân tương đương mà lại ít hơn quân phòng thủ hai
lần. Ở một vài trận đánh như trận ở căn cứ Ranger North, Tiểu đoàn 39
BĐQ phải đối chọi với một lực lượng đông gấp sáu đến tám lần. [33]
Trong năm 1971, các giai đoạn Việt Nam hóa cuộc chiến gần như là
hoàn tất. Quân đội VNCH nhận lãnh gần như hầu hết nhiệm vụ chiến
đấu từ các đơn vị Mỹ. Họ chiến đấu không thua bất cứ đơn vị nào của
đối thủ ở chiến trận nếu họ có được cơ hội. Và quân đội VNCH có cơ
hội chứng minh khả năng tác chiến vào năm 1972 khi họ đóng vai quân
phòng thủ và đánh bại 14 sư đoàn quân tấn công của CSBV. Nhưng
trong trận đánh qua Hạ Lào vào mùa xuân 1971, quân lực VNCH nói
chung, cùng một thời gian cố gắng nhận lãnh một trách nhiệm vượt xa
khả năng họ có trong lúc đó. Quân lực VNCH rơi vào tình trạng mà đô
đốc John McCain, tư lệnh quân đội Hoa Kỳ Thái Bình Dương, đã lưu ý
hơn một năm trước: "Quá tham vọng; tiến nhanh quá [chương trình
Việt Nam hóa và và bao thầu trách nhiệm] sẽ tự hại mình." [34] Quân
đội VNCH phải đánh hai mặt trận lớn cùng một lúc với tất cả lực lượng
tinh nhuệ có trong tay: 17.000 quân ở Hạ Lào và 21.000 quân ở Cam
Bốt hai miếng ăn quá lớn để có thể nuốt và tiêu hóa cùng một lúc.
Nhưng đối diện với sự nguy hiểm thường trực mà CSBV đặt trước mặt,
quân đội VNCH không có chọn lựa nào khác hơn là đánh. Nguy hiểm,
chết, có thể thất bại, nhưng phải đánh.
Cuối năm 1971 quân đội Hoa Kỳ còn 139 ngàn quân ở Việt Nam. Với
tất cả trách nhiệm tác chiến giao lại cho quân đội VNCH, số thương
vong của Hoa Kỳ trong năm 1971 giảm đi rất nhiều so với những năm
trước: với 1.381 quân nhân tử thương và 4.767 bị thương. Nhưng bên
phía VNCH, tương tự như lời một chính trị gia Mỹ đã nói, dù nhìn ở
khía cạnh nào, chương trình Việt Nam hóa chỉ là một kế hoạch thay đổi
màu da của tử sĩ. Năm 1971 màu da của những tử sĩ ở chiến trường
Việt Nam vàng nhiều hơn trắng: năm đó quân lực VNCH có 22.738 tử
sĩ. Ở phía bên kia, CSVN có hơn 98 ngàn quân thiệt mạng. [35]
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
*
Sau khi cuộc hành quân Lam Sơn 719 đã chấm dứt; sau khi những báo
cáo kết quả hành quân được trình lên bàn giấy ... Abrams vẫn còn bực
tức với ban tham mưu, với Không lực 7, với Quân đoàn XXIV và cả
với chính ông. Trong một lần họp với các tướng lãnh MACV, Abrams
noi bóng gió là ông thấy ái náy khi những gì ông hay những sĩ quan
dưới quyền ông hứa hẹn và không giữ vẹn lời hứa. Có lần, khi nghe
một trung tướng kể lại chuyện ông ta đã bội hứa với trung tướng Đỗ
Cao Trí ra sao, tướng Abrams thông cảm và đồng thời cũng nói cho
viên tướng thuộc hạ sự khó chịu khi ông phải nhận lệnh từ Hoa Thịnh
Đốn để thúc dục và ép buộc phía VNCH thực hiện một số kế hoạch mà
Hoa Thịnh Đốn muốn thực hiện. "Nhưng cũng còn đỡ hơn, so với
những gì tôi thấy đại sứ Bunker bị [Hoa Thịnh Đốn] bắt phải thương
lượng [với VNCH]," ông đại tướng tiết lộ với người sĩ quan phụ tá. [36]
Nói về người Mỹ và chiến tranh Việt Nam mà không nói chút gì về đại
tướng Creighton Williams Abrams là một điều thiếu sót. Abrams cũng
phục vụ ở Việt Nam một khoảng thời gian năm năm như người tiền
nhiệm - và bạn đồng khóa từ trường võ bị West Point - là đại tướng
William Westmoreland. Nhưng nếu chúng ta so sánh hai người về tư
cách và chiến thuật chiến lược áp dụng trong cuộc chiến,
Westmoreland và Abrams hoàn toàn khác nhau.
Sanh năm 1914 tại Springfield, Massachutsettes, trong một gia đình đủ
ăn. Được theo học và ra trường võ bị West Point năm 1936 - khóa của
những vì sao - và chọn binh chủng Thiết giáp. Hai mươi bảy tuổi và
mang đại úy khi Hoa Kỳ gia nhập thế chiến thứ II. Ông chỉ huy một
Tiểu đoàn thiết giáp và phục vụ dưới quyền của tướng Patton khi Đồng
minh đổ bộ lên châu Âu. Abrams được cấp trên chú ý khi Tiểu đoàn
của ông phá vỡ đường giây của Đức để giải cứu sư đoàn 101 Nhảy dù ở
trận Bastogne. Sau thế chiến thứ II, Abrams được mang lon đại tá thực
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
thụ khi còn 30 tuổi. Trong chiến tranh Đại Hàn, Abrams lần lược được
chọn làm tham mưu trưởng cho ba Quân đoàn tham chiến ở đó (Quân
đoàn I, IX, và X). Làm việc ở các Quân đoàn Abrams có dịp phục vụ
dưới quyền của những đại tướng có tiếng như Maxwell Taylor, Bruce
Clarke. Lên chuẩn tướng năm 1958 (một trong ba sĩ quan ra trường
năm 1936 lên tướng đầu tiên) khi đang phục vụ ở trường Thiết giáp
Fort Knox; rồi lên thiếu tướng và được chỉ định qua Đức coi sư đoàn 4
Thiết giáp. Trở về Mỹ phục vụ ở Ngũ Giác Đài; được thăng trung
tướng năm 1963 và trở qua Đức lần thứ hai để làm tư lệnh Quân đoàn
V. Chưa đầy một năm sau, Ngũ Giác Đài gọi Abrams trở lại Mỹ, gắn
thêm một sao nữa và đề cử làm tư lệnh Tư lệnh Phó Lục quân - ông
được chọn trên đầu 45 sĩ quan cấp trung và đại tướng thâm niên hơn
ông cho chức vụ đó. Trong lúc đó, người bạn cùng lớp West Point với
ông, Westmoreland, đã là đại tướng và mới vừa nhận chức tư lệnh
MACV ở Việt Nam. [37] Tháng 5 năm 1967, Abrams được đề cử qua
Việt Nam làm tư lệnh phó cho Westmoreland. Một năm sau, ông thay
Westmoreland làm tư lệnh MACV.
Nhìn ở bên ngoài, Abrams và Westmoreland hoàn toàn khác nhau:
Westmoreland ăn bận chải chuốt, tươm tất; trong khi quân phục của
Abrams thì rất lè phè, nhăn nhíu. Một ký giả khi nhìn thấy ông ăn bận,
đã gọi ông là "một cái giường ngủ chưa dọn đang hút xì gà." Sau lưng
ông, những người lính gọi ông qua hỗn danh là ông "thượng sĩ già." [38]
Đúng, đó là Creighton Williams Abrams. Về tánh tình và lối chỉ huy:
Westmoreland mềm mỏng, ngoại giao và biết dấu ý nghĩ, tình cảm của
mình qua lời nói; trong khi Abrams thì la hét, bùng nổ như một hỏa
diệm sơn khi chuyện xảy ra không vừa ý. Nhưng lính dưới quyền
thương và kính trọng ông, vì sau cơn bùng nổ ông biết hạ giọng - và
nếu cần, nói lời xin lỗi - nếu nhận thấy mình đã đi quá trớn. [39]
Về chiến thuật, chiến lược áp dụng vào cuộc chiến: Abrams và người tư
lệnh tiền nhiệm hoàn toàn khác nhau - khác nhau đến độ Abrams thấy
rất khó khăn và cô đơn trong thời gian hơn một năm làm tư lệnh phó
cho Westmoreland. Tuy không hợp nhau về lối đánh nhưng Abrams
không bao giờ lên tiếng phản đối người tư lệnh của mình. Trong những
lúc tâm sự riêng với bạn bè đồng cấp, Abrams nói ông phải trung thành
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
và ủng hộ Westmoreland trong tư cách là tư lệnh phó. [40] Như đã nói
qua, chiến thuật và chiến lược của Westmoreland là truy lùng và tiêu
diệt; đánh nhanh, đánh mạnh bằng những đơn vị chủ lực quân đội Hoa
Kỳ. Từ giữa năm 1964 đến đầu năm 1968, Westmoreland không chú
tâm đến quân đội VNCH trong ý nghĩa ông không chú trọng về các
phương diện như tân trang và hiện đại hóa vũ khí, hay đặt nặng vấn đề
huấn luyện quân đội VNCH, hay quan trọng các kế họach bình định và
bảo vệ an ninh ở Nông thôn. Những cuộc hành quân hỗn hợp Việt Mỹ
được thực hiện rất ít dưới thời Westmoreland. Đối với Westmoreland,
cuộc chiến được quản trị và tiến hành bởi hai quân đội riêng biệt của
Việt Nam và Mỹ.
Khi Abrams vừa lên thay Westmoreland, theo một sĩ quan cao cấp kể
lại, thì chiến thuật và chiến lược của cuộc chiến thay đổi "trong vòng
15 phút." [41] Chiến thuật của Abrams không chú trọng vào truy lùng và
triệt tiêu, mà là tảo thanh và giữ đất; chiến lược của Abrams không còn
Mỹ đánh theo lối Mỹ, Việt đánh theo lối Việt, mà là một cuộc chiến
chung. [42] Abrams đề nghị nhiều cuộc hành quân phối hợp Việt Mỹ;
cũng như ông muốn những báo cáo hàng tuần về tình hình quân sự phải
nói đến tình hình và thiệt hại của VNCH. Ngay từ những buổi họp đầu
tiên sau khi nhậm chức, Abrams quan tâm đến cơ cấu huấn luyện và vũ
khí của quân đội VNCH. Ông nói nếu chúng ta (người Mỹ) muốn quân
đội VNCH vững mạnh để chống lại cộng sản, thì ít ra phải trang bị cho
họ đúng mức (nghĩa là có hỏa lực tương đương như quân Bộ binh Mỹ).
Trong những buổi họp Abrams thường xuyên nhắc tên đến các đơn vị
và sĩ quan của quân đội VNCH, cho sĩ quan tham mưu nghe. Vì
Abrams thăm viếng các đơn vị Việt Mỹ ngoài mặt trận thường xuyên,
ông có kiến thức rất tường tận về chuyện xảy ra ngoài mặt trận. Đôi khi
ông tranh luận về sự giỏi dở của sĩ quan VNCH với các thuộc tướng,
khi những bình phẩm của họ đi ngược lại sự quan sát của ông. [43] Và
khi nói về người dân miền Nam Việt Nam, về sự hy sinh của họ,
Abrams đã không ngần ngại nói trước mặt các sĩ quan cao cấp là chính
phủ Hoa Kỳ không bao giờ hiểu được những hy sinh và đau khổ người
dân và chiến sĩ miền Nam đang chịu đựng trong cuộc chiến đang xảy
ra. [44]
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
Nhưng cuộc chiến mà Abrams nhận lãnh trong năm năm còn lại là một
cuộc chiến khó khăn. Khó khăn trong ý nghĩa ông không còn được
đánh trận theo như ý ông muốn. Khó khăn trong ý nghĩa ông phải nhận
lãnh nhiệm dụ thu dọn chiến trường của người Mỹ và bàn giao chiến
trường lại cho quân dân miền Nam. Trong những năm còn lại của cuộc
chiến, Abrams nhìn những gượng ép mà chính phủ Hoa Kỳ đang cố
gắng dàn xếp để rút ra khỏi cuộc chiến; những bó buộc chính trị, tài
chánh, mà cấp trên bắt ông phải thi hành... riết rồi ông cũng buông tay
đầu hàng, thi hành theo chỉ thị. Trong hai năm 1970-71, thẩm quyền
dân sự ở Hoa Thịnh Đốn viếng thăm bộ tư lệnh MACV ở Sài Gòn
thường xuyên hơn. Viếng thăm là tiếng lịch sự, thật ra thẩm quyền dân
sự đến bộ tư lệnh để thông báo ngân quỹ bị cắt giảm; chi phí cho cuộc
chiến phải được giới hạn. Những chi phí được giới hạn đến từ đạn Pháo
binh, phi vụ oanh tạc chiến thuật và chiến lược, hay đến từ những đợt
rút quân chi phí cho một quân nhân Mỹ ở Việt Nam tốn kém hơn ở tại
lục địa Mỹ. Năm 1970, khi ngân sách cho chiến trường Việt Nam đã bị
giảm xuống còn 11 tỉ (so với khoảng 30 tỉ của năm 1967-68), nhưng
giới chức dân sự ở bộ Lục quân vẫn muốn MACV phải cắt giảm hơn
nữa để phù hợp với chỉ thị của Bộ quốc phòng. Khi Abrams và MACV
phản đối là, ở chiến trường họ không thể nào đánh giặc theo sự giới hạn
của tiền bạc; hơn nữa, họ đã cắt giảm tối đa rồi... Nhưng phản đối chỉ
để phản đối, lệnh là lệnh. Abrams phải tìm mọi cách để thi hành. [45]
Nếu Westmoreland có những khó khăn của ông ta trong thời điểm
1964-1968 (bị bó tay với ban tham mưu liên quân và Hoa Thịnh Đốn
về chiến thuật chiến lược cho cuộc chiến Việt Nam; phải đối đầu với
tình hình quân sự và những cuộc đảo chánh liên tục trong giai cấp
tướng lãnh VNCH; cố gắng giàn xếp những xáo trộn chính trị dân
sự/tôn giáo ở Vùng I), thì Abrams cũng có những "vấn nạn" trong
những năm 1968-1972 khi ông nắm quyền tư lệnh. Một trong những
khó khăn mà Abrams phải đối đầu ở Việt Nam không nhất thiết thuộc
về phạm vi quân sự, mà là tinh thần chiến đấu của những người lính
dưới quyền ông. Từ sau năm 1969, tinh thần chiến đấu của quân đội
Hoa Kỳ ở Việt Nam thật ra trên toàn thế giới không còn nữa. Tệ nạn về
quân phong quân kỷ lan tràn ở nhiều đơn vị: lính tìm các ám hại sĩ quan
và hạ sĩ quan chuyên nghiệp; sĩ quan quay mặt làm ngơ với những quân
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
nhân ba gai vì chỉ muốn làm cho xong nhiệm vụ để được thuyên
chuyển về hậu cứ hay về nước (sĩ quan Mỹ được thuyên chuyển ra khỏi
các đơn vị tác chiến, về làm việc ở văn phòng sau sáu tháng ngoài mặt
trận). Những năm kế tiếp, 1970-1971, tình trạng bất tuân quân lệnh, bất
tuân thượng cấp xảy ra hàng ngày; nạn hút sách nghiện ngập, và nạn ẩu
đả giửa các toán lính khác màu da xảy ra như cơm bữa. Tinh thần tác
chiến và ý thức hệ về cuộc chiến của các binh sĩ (ở đây chúng ta nhấn
mạnh chữ binh sĩ là những tân binh hay lính ở cấp bực thấp nhất) ở
Việt Nam càng tồi tệ hơn, khi đa số đến từ giai cấp lao động, thất học,
và thất nghiệp. Ở Mỹ, trong thời gian chiến tranh Việt Nam đang xảy
ra, Nha Động viên Hoa Kỳ cũng cho phép nhiều hình thức hoãn dịch:
hoãn dịch vì lý do gia cảnh, học vấn, sức khoẻ, hay tài nguyên quốc gia
(nhân viên quan trọng trọng trong cơ sở nào đó). Và với một lý do này
hay lý do nọ, giới trung lưu và giới có tài sản đều "chạy" được một lý
do để xin hoãn dịch. Cuối cùng, đa số tầng lớp bị bắt lính, bị đưa qua
Việt Nam tham chiến, là tầng lớp thuộc giai cấp thấp nhất, không còn
lối thoát, hay cơ hội lối tiến thân trong xã hội Hoa Kỳ. Cái nhìn này
không những đến từ những nhà xã hội học, mà còn đến từ chính người
tư lệnh của quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam. Một lần, khi nói chuyện với
tổng trưởng quốc phòng Melvin Laird về vấn đề tổng động viên, về vấn
đề quân dịch, Abrams nói thẳng là, "Chỉ có những công dân Mỹ dốt,
nghèo, và da đen, là những người có được hân hạnh hy sinh cho tổ
quốc của họ ở Việt Nam." [46] Ý của Abrams không phải khinh miệt; ý
của ông chỉ muốn nói vì không có lệnh tổng động viên cho cuộc chiến,
nên phần lớn tân binh là tình nguyện hoặc bị bắt quân dịch. Tân binh
tình nguyện thì đến từ giai nằm trong hoàn cảnh khó khăn về kinh tế;
tân binh bị bắt quân dịch thì chỉ vì họ không có cơ hội đi học lên tiếp
để được hoản dịch về lý do học vấn. Ý của Abrams là vậy.
Mới nhận được bộ tư lệnh chưa đầy một năm, và trong khi chương
trình Việt Nam hóa còn trong thời kỳ phôi thai, Abrams đã thấy Hoa
Thịnh Đốn muốn ông phải làm gì trong thời gian ông cầm cây baton
chỉ huy: phải tìm mọi cách để giảm thiểu tối đa thương vong của quân
đội Mỹ. Vào hai tuần đầu tiên của tháng 5-1969, một lữ đoàn Nhảy dù
Mỹ bao vây một trung đoàn CSBV ở vùng thung lũng A Shau, ở một
cao điểm có tên là Núi Ap Bia, gần biên giới Lào. Các đơn vị CSBV
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
thường vùng cứ địa này để chuẩn bị tập kích Huế và Đà Nẵng. Trong
mười một ngày, Nhảy dù Mỹ bao vây chung quanh,chờ cho Pháo binh
và phi cơ oanh tạc nát mục tiêu trước khi tấn công đánh chiếm đỉnh đồi.
CSBV để lại gần 600 xác trong khi phía Hoa Kỳ chỉ có 70 tử thương.
Thông thường, với kết quả như vậy, trận đánh là một chiến thắng, nếu
không nói là chiến thắng lớn. Nhưng vào mùa xuân 1969 Nixon vừa lên
làm tổng thống với nhiều hứa hẹn về cuộc chiến; và những phong trào
phản chiến đang tìm mọi nổ lực để mê hoặc người dân Mỹ chống lại
chiến tranh Việt Nam tổn thất như vậy không chấp nhận được. Thế là
Báo chí và các phong trào phản chiến đặt tên cho trận đó là trận "Đồi
Thịt Bằm" (Hamburger Hill) và phóng đại tổn thất của quân đội Mỹ.
Với áp lực của các tổ chức phản chiến, báo chí, và thẩm quyền dân sự
từ nội địa, bộ tư lệnh các cấp ở chiến trường Việt Nam hiểu ngầm là họ
phải tìm mọi cách giảm thiểu tổn thất về nhân mạng. Nhưng chừng một
tháng, sau trận đánh Núi Ap Bia, để bộ tư MACV hiểu rõ ràng hơn,
Nixon trực tiếp ra lệnh cho Abrams bằng mọi giá, "giảm thiểu tối đa
thương vong của Hoa Kỳ" trong cuộc chiến. [47]
Trong những năm còn lại của chiến tranh Việt Nam, Abrams bị bó tay
nhiều hơn người tư lệnh tiền nhiệm. Quân đội Mỹ bị rút đi nhanh hơn ý
muốn của ông. Vì phần lớn quân rút đi là Lục quân, chiến trường Việt
Nam bấy giờ sống nhờ vào sự yểm trợ hỏa lực của Không và Hải quân.
Nhưng hai quân chủng này cũng bị giới hạn bởi chính ngân quỹ riêng
của họ: họ đáp ứng nhu cầu đòi hỏi của Abrams nhưng theo giới hạn đã
được ấn định sẳn từ ngân quỹ của mỗi quân chủng. Mùa xuân năm
1972 khi CSBV mở cuộc tổng tấn công vào bốn vùng chiến thuật
VNCH, dưới tay của Abrams không còn hơn 39 ngàn quân, là một đại
tướng Lục quân, Abrams bực tức nhìn cuộc phản công được đảm
nhiệm bởi hai quân chủng Hải quân và Không quân. Có hiểu được sự
cạnh tranh và hiềm tị giữa các quân chủng trong quân đội Hoa Kỳ thì
mới thấy được sự tức giận của Abrams. [48] Cũng trong năm 1972,
Abrams không được quyền tác chiến theo kinh nghiệm quân sự của
ông, mà phải đánh giặc theo chiều hướng của những kế hoạch chính trị
rất ngây thơ đến từ tòa Bạch Ốc. Trong chiến dịch dội bom Linebacker
đợt đầu (Linebacker I) từ tháng 5 đến cuối tháng 6-1972, Nixon muốn
dùng tất cả B-52 vừa để huy hiếp miền Bắc, vừa trừng phạt CSBV về
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
cuộc tổng tấn công ở Miền Nam, vừa uy hiếp họ trở lại bàn hội nghị.
Cũng trong thời gian đó, vào trung tuần tháng 5 ở Kontum, sau khi các
căn cứ hỏa lực phía nam và bắc Tân Cảnh, Võ Định, bị thất thủ, CSBV
dồn tất cả lực đánh bức Dakto, rồi tiến thẳng về Kontum. Thấy tình thế
nguy ngập, Abrams ra lệnh triệu hồi một số phi cơ B-52 đang được chỉ
định cho các mục tiêu ở miền Bắc, thay đổi phi vụ để bảo vệ Kontum.
Nhờ những phi vụ B-52 này, những đơn vị của sư đoàn 320 CSBV bị
chận đứng trước khi họ có thể tập trung quân để tràn ngập Kontum. Khi
nghe tin, Nixon rất nóng giận, nói rằng ông cần tất cả B-52 dội bom ở
Bắc Việt để tạo một áp lực cho CSBV sợ và trở lại thương lượng thành
thật hơn. Abrams trả lời, nếu để mất Kontum thì tất cả những hội đàm
chính trị sẽ không còn ý nghĩa nữa. Sau này, có tin đồn nói Nixon ghét
Abrams từ đó. [49]
Những buổi chiều sau giờ làm việc, Abrams trở về căn nhà tiền chế là
một cái trailer, đặt bên cạnh bộ tư lệnh MACV, bên trong phi trường
Tân Sơn Nhất. Ở đó ông nghe nhạc hòa tấu thật lớn và uống rượu tới
khuya. Ông giải thích cho một người bạn thân đến thăm là, ông giải trí
như vậy để làm dịu cơn nhức đầu vì hàng ngày phải đọc những chỉ thị
và quân lệnh ngược ngạo ông nhận từ Hoa Thịnh Đốn về cuộc chiến
ông đang chỉ huy. [50]
Rời Việt Nam vào cuối tháng 6-1972, Abrams được đề cử vào chức Tư
lệnh Lục quân. Ông chết trẻ; chết vì bệnh ung thư vào năm 60 tuổi
trong khi đang tại chức. Abrams có ba người con là sĩ quan; hai người
đã phục vụ ở chiến trường Việt Nam. Người con cả giải ngũ với cấp
bực chuẩn tướng; người kế là đại tướng; người còn lại là một đại tá
hiện dịch. Một lần, có người hỏi người con cả là ông nghĩ sao nếu có
người nói lẽ ra đại tướng Abrams xứng đáng hơn cho một cuộc chiến
khác, tốt và khá hơn. "Ba tôi không nghĩ như vậy," Người con trả lời
ngay, "ba tôi nghĩ chính người dân miền Nam Việt Nam mới xứng
đáng [nhận sự giúp đỡ của Hoa Kỳ và của thân phụ ông]." [51]
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
[1]H.R. Haldeman, The Haldeman Diaries, trang 225-226, 239.
Haldeman viết trong nhật ký, ngày 21 tháng 12-1970, Henry Kissinger
muốn gặp riêng Nixon để bàn về kế hoạch đánh qua Lào. Cũng theo
Haldeman, Kissinger nói ông ta có hẹn với tổng trưởng quốc phòng
Laird và tham mưu trưởng liên quân Thomas Moorer vào ngày kế tiếp
để bàn luận về kế hoạch đó. Sáu ngày trước (ngày 15), Kissinger đã nói
cho Haldeman nghe sơ qua những gì ông ta lập lại vào ngày 21.
[2]Theo Seymour Hersh trong The Price of Power, trang 308, kế hoạch
do Alexander Haig đề nghị và hoạch thảo. Ai đề nghị thì không chắc
chắn, nhưng có một điều chắc chắn là kế hoạch đến từ phía dân sự ở tòa
Bạch Ốc chứ không xuất phát từ giới quân sự. Trong nhật ký của
Haldeman, tác giả nói rõ Kissinger muốn nói chuyện (về kế hoạch đánh
qua Hạ Lào) với Tổng trưởng Quốc phòng Melvin Laird và tham mưu
trưởng liên quân Thomas Moorer trước mặt Tổng thống Nixon, vì
Kissinger "muốn Tổng thống trực tiếp ra lệnh, vì họ [phía quân sự] sẽ
không thi hành vì không có lệnh trực tiếp từ tổng thống." Haldeman
Diaries, trang 224. Riêng tướng Haig thì nói trong hồi ký là, Ngũ Giác
Đài soạn thảo kế hoạch hành quân qua sự thúc dục của Nixon và
Kissinger. Đọc, Alexander Haig, Inner Circles, trang 273.
[3]Coi tất cả nhận xét của Kissinger về cuộc hành quân qua Lào trong,
Kissinger, White House Years, trang 987-1010. Với nhân cách luôn
luôn phủ nhận khi cần chạy tội, Kissinger không nghĩ là qua hai lần nói
chuyện (bằng miệng, khác với văn thư, và dễ chối hơn) với Haldeman,
những gì Kissinger nói về kế hoạch đánh qua Lào đã được Haldeman
ghi lại trong nhật ký. Và Kissinger cũng không ngờ người phụ tá quan
trọng là Alexander Haig cũng sẽ viết lại chuyện đó trong cuốn hồi ký
của ông ta. Những tài liệu giải mật sau này (mà chúng ta sẽ lần lượt đưa
ra) cho thấy Kissinger là người tham dự, nếu không nói hoạch định kế
hoạch từ đầu.
[4]Về các đề nghị đánh qua Lào để cắt đứt đường tiếp tế và xâm nhập
vào nam, đọc, William Westmoreland, A Sodier Reports, trang 431;
Lewis Sorley, A Better War, trang 229; và, Cao Văn Viên, Những Ngày
Cuối của Việt Nam Cộng Hòa, trang 288. Kế hoạch thiết lập phòng
tuyến từ Đông Hà sang Savannakhet của Lục Quân được Robert
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
Buzzanco chú trong Masters of War, trang 171.là người tham dự, nếu
không nói hoạch định kế hoạch từ đầu.
[5]James H. Willbanks, sđd, trang 96-97.
[6]Căn cứ theo và suy luận từ một số ít tài liệu được giải mật liên hệ đến
kế hoạch hành quân đánh qua Lào, chúng ta biết bộ Tư lệnh MACV đã
nhận được lệnh soạn thảo cuộc hành quân ít nhất là từ ngày 28 tháng
11-1970. Trong buổi họp "Cập nhật Tin tức Tình báo hàng tuần"
(Weekly Intelligence Updates) ở MACV ngày thứ Bảy, 28 tháng 11,
trung tướng Fred Weyand ngồi chủ tọa thay cho đại tướng Abrams
vắng mặt, có nói một cách úp mở về kế hoạch hành quân qua Lào khi
ông nói với các sĩ quan có mặt là tướng Abrams sắp gặp tướng Viên để
nói chuyện, và, "bằng cách này hay cách nọ, chúng ta phải nói chuyện
với ông ta [đại tướng Viên] về chiến lược này. Hoa Thịnh Đốn giao
trách nhiệm này cho chúng ta và kế hoạch phải được bàn thảo với chính
phủ VNCH." (chiến lược viết chữ nghiêng là nguyên tác của tác giả
Lewis Sorley). Đọc, Sorley, A Better War, trang 230. Tuy nhiên trong
The Abrams Tapes (những cuộn băng thâu lại các buổi họp hàng tuần
của MACV do Abrams chủ tọa, từ năm 1968 đến năm 1972) của cùng
tác giả, Sorley chỉ ghi lại nội dung của tuần lễ 7 và 21, không nói đến
(hay không được nói đến) hai tuần lễ 14 và 28. Điều này cho thấy nội
dung buổi họp của hai tuần 17 và 28 vẫn chưa được giải mật (tất cả các
buổi họp Cập nhật Tin tức Tình báo hàng tuần xảy ra các ngày thứ Bảy
trong tháng). Nhưng ba ngày sau, ngày 1 tháng 12-1970, trong buổi họp
của các sĩ quan cao cấp MACV, với sự có mặt của đại tướng Abrams,
chúng ta đọc được lời mở đầu của thuyết trình viên (chuẩn tướng
William E. Potts) nhắc Đại tướng Abrams là, "để chuẩn bị cho cuộc
gặp mặt vào buổi trưa này giữa Đại tướng và Đại tướng Viên, chúng ta
sẽ bắt đầu buổi họp nói về các cuộc oanh kích và lưu lượng xâm nhập
của những đoàn xe chuyển vận [của CSBV ở Hạ Lào]." Đọc Sorley,
The Abrams Tapes, trang 502-507. Về tính cách tối mật của những buổi
họp, trong phần giới thiệu về quyển The Abrams Tapes, tác giả Sorley
nói rõ là một số lớn nội dung của các buổi họp vẫn chưa được giải mật
(trang XXII, sđd). Như vậy chúng ta có thể suy luận, nội dung các thảo
luận có liên hệ đến kế hoạch cuộc hành quân qua Lào vẫn chưa được
các cơ quan thẩm quyền giải mật.
[7]Sorley, A Better War, trang 234.
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
[8]Willbanks, sđd, trang 97; Sorley, A Better War, trang 234. Đến đây
thì chúng ta thấy rõ ràng những gì Kissinger nói với Haldeman ở tòa
Bạch Ốc ngày 15 và 21 tháng 12-1970, chỉ là những lời nói xã giao để
giữ bí mật kế hoạch hành quân qua Lào.
[9]Seymour, sđd, trang 309.
[10]Davidson, sđd, trang 641; Willbanks, sđd, trang 98-99.
[11]Nội dung những điện tín gởi cho các binh trạm được thông báo trong
các buổi họp Cập nhật Tin tức Tình báo hàng tuần ở Bộ Tư lệnh
MACV. Đọc, Sorley, The Abrams Tapes, trang 428, 433, 525, 599.
Thượng tướng Nguyễn Hữu An, trong Chiến Trường Mới, trang 103-
105, có nói về những dự bị để phòng hờ cuộc tấn công qua biên giới
của quân lực VNCH. Tướng An nói ông đích thân đi quan sát địa hình
ở vùng Lao Bảo, Lang Vei, nằm sát biên giới Lào. Bộ Tư lệnh cấp quân
đoàn 70B (còn được gọi là bộ Tư lệnh mặt trận đường 9-Nam Lào) do
Lê Trọng Tấn làm Tư lệnh, Cao Văn Khánh và Đồng Sỹ Nguyên, Tư
lệnh phó. Dưới quyền điều động của 70B là các sư đoàn 304, 308 và
320, cùng với tất cả binh trạm và lực lượng phòng không ở Nam Lào.
Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh trong Lam Son 719 (xuất bản năm
1979), trang 25, có liệt kê một số đơn vị CSBV ở chung quanh khu vực
hành quân vựa vào tin tức tình báo của VNCH và những gì Hoa Kỳ
cung cấp. Những tin tức đó khá chính xác so với tài liệu giải mật sau
này. Đọc, Sorley, trích ở trên. Một trong nhiều binh trạm có điện tín bị
tình báo Mỹ đọc được là binh trạm 9, 27, 33, và 44. Về vị trí các binh
trạm, đọc, Võ Bẩm, Đồng Sĩ Nguyên, Nguyễn Viết Phương, Đường về
thành phố mang tên Bác, Hà Nội: Quân Đội Nhân Dân, 2005, trang
566-576.
[12]Bộ Tư lệnh Quân Đoàn XXIV của Hoa Kỳ là lực lượng chánh hỗ trợ
cuộc hành quân, gồm có các đơn vị trực thăng vận tải và võ trang; thiết
kỵ; công binh; pháo binh; và cơ giới. Không quân từ Không lực 7 (7th
Air Force) sẽ yểm trợ oanh tạc chiến thuật và chiến lược. Về cấp số các
đơn vị Hoa Kỳ hỗ trợ cuộc hành quân, đọc, thiếu tướng Nguyễn Duy
Hinh, Lam Son 719, Appendix B, trang 175.
[13]Căn bản kế hoạch hành quân nằm trong, thiếu tướng Nguyễn Duy
Hinh, Lam Son 719, trang 32-39. Cấp số hành quân trong thời gian
soạn thảo là các đơn vị, sư đoàn Nhảy dù; hai trung đoàn 1 và 3 của sư
đoàn 1 Bộ binh; ba Tiểu đoàn 21, 37 và 39 của liên đoàn 1 BĐQ; hai
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
thiết đoàn 11 và 17 của lữ đoàn 1 thiết kỵ; Tiểu đoàn 44 pháo binh; và
Tiểu đoàn 101 công binh. Hai lữ đoàn TQLC nằm trừ bị ở Khe sanh là
lữ đoàn 147 và 258.
[14]Trương Duy Hy, Tử thủ căn cứ hỏa lực 30 Hạ Lào, trang 15-16. Một
vài chi tiết rất khôi hài về vấn đề bảo mật trong cuộc hành quân Lam
Sơn 719: Cho đến ngày 30 tháng 1, đại tướng Abrams ở MACV vẫn
cương quyết không tiết lộ cho báo chí biết có hay không một cuộc tấn
công qua Lào, khi ông nhận được điện tín từ Hoa Thịnh Đốn hỏi nên
cho báo chí và cơ quan truyền thông biết được chưa. Đọc, The Abrams
Tapes, trang 252; The Haldeman Diaries, trang 241. Nhưng theo đại úy
Trương Duy Hy, một sĩ quan pháo binh tham dự cuộc hành quân, ngày
25 tháng 1 ông đã được gọi về tham dự buổi thuyết trình hành quân ở
bộ chỉ huy Tiểu đoàn. Như vậy, phần lớn các đơn vị ở Vùng I đã biết
trước (và thân nhân họ cũng nghe nói) là họ sẽ đi hành quân qua Lào
sau Tết Tân Hợi (1971). Năm 1971, mùng 1 Tết là ngày 27-1-1971.
Trong khi đó ở một vài đơn vị khác, tin tức hành quân lại được giữ rất
kỹ: khi bộ Tư lệnh Tiếp vận vùng I nhận được lệnh hành quân thì họ
không có đủ thì giờ để sửa soạn cho đơn vị họ. Nguyễn Duy Hinh, sđd,
trang 47.
[15]Hai ngày 4 và 5 trời mưa và mây thấp, không quân Hoa Kỳ không
thể dọn bãi và yểm trợ. Ngày 5 và 6 thời tiết khá hơn và tướng Lãm ra
lệnh tiến quân. Nhưng khi phía VNCH yêu cầu trực thăng võ trang bay
yểm trợ trước khi họ băng qua biên giới, quân đoàn XXIV trả lời là luật
hành quân của MAVC cấm không cho bất cứ đơn vị nào của Hoa Kỳ
băng qua biên giới trước các đơn vị VNCH. Cũng trong ngày 6, phản
lực cơ của Hải quân đánh lầm vào một điểm tập trung quân của lính Dù
và Thiết kỵ gần biên giới, làm sáu quân nhân tử thương và 51 bị
thương. Ngày 8, hai Bộ Tư lệnh đồng ý là Nhảy dù sẽ gởi một toán
quân qua biên giới trước, và liền sau đó Không kỵ Hoa Kỳ sẽ lập tức
theo sau. Đọc Nguyễn Duy Hinh, sđd, trang 63-64.
[16]Theo Lịch sử Quân đội Nhân dân, quyển 2, trang 374, lực lượng
đang có mặt là năm Sư đoàn bộ binh 308, 304, 320, 324, và 2; hai
Trung đoàn biệt lập 27 và, 278; tám Trung đoàn pháo binh; ba Trung
đoàn công binh; ba Tiểu đoàn chiến xa; sáu Trung đoàn phòng không;
tám Tiểu đoàn đặc công; và một số số lính hậu cần của các binh trạm
trong vùng. Số quân 22 ngàn trong thời gian đầu là kể luôn năm ngàn
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
quân Lào Cộng có mặt gần đó. Đọc, Davidson, sđd, trang 644. Ngày 19
tháng 2 (ngày thứ 11 của cuộc hành quân), MACV loan báo CSBV có
12 Trung đoàn bộ binh (tương đương bốn Sư đoàn) đang tụ lại vùng
hành quân. Đó là chưa kể các đơn vị chiến xa, phòng không, hậu cần,
hay đặc công, đi kèm với 12 Trung đoàn bộ binh. Sorley, The Abrams
Tapes, trang 537.
[17]Sorley, The Abrams Tapes, trang 533; Donn A. Starry, Mounted
Combat in Vietnam, trang 191.
[18]Đại tướng Donn A. Starry, sđd, trang 172, cước chú 4.
[19]Bộ Tư lệnh Không quân Thái Bình Dương, Lam Son 719: January
30-March 24, 1971 (Project CHECO), trang 18, 34. Tài liệu do Bộ Tư
lệnh Không quân Thái Bình Dương (Headquarters Pacific Air Forces)
soạn, dựa vào tài liệu hành quân và báo cáo chiến trường nhận được từ
MACV và Không Lực 7).
[20]Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh, sđd, trang 74, 79.
[21] Sorley, sđd, trang 535-536.
[22]Nguyễn Duy Hinh, sđd, trang 79-80; James H. Willbanks, sđd, trang
107. CSBV áp đảo được hai căn cứ Ranger North (Tiểu đoàn 39) và
Ranger South (Tiểu đoàn 21) là chuyện phải xảy ra. Vì trước mặt
Ranger South vài cây số là bộ Tư lệnh của sư đoàn 308, với ba Trung
đoàn 102, 36, và 88. Đọc, Nguyễn Hữu An, sđd, trang 109.
[23]Tác phẩm của đại úy Trương Duy Hy, trang 96-236, tả trận chiến từ
khi căn cứ hỏa lực 31 bị tràn ngập cho đến khi căn cứ 30 được Lệnh di
tản bằng đường bộ.
[24]Nguyễn Duy Hinh, sđd, trang 89-90.
[25]Đọc, Nguyễn Duy Hinh, sđd, trang 96-104, về lý do, quyết định, và
kế hoạch rút quân.
[26]Tiểu đoàn 4, trung đoàn 1/sư đoàn 1, với nhiệm vụ bảo vệ cho những
Tiểu đoàn bạn đi trước, đã đánh một trận thư hùng để mở đường máu
rút quân. Hai sĩ quan Tiểu đoàn trưởng và phó đều tử trận. Tiểu đoàn
chỉ còn 82 người khi về được nơi an toàn. Nhưng trong trận đánh ở
phía đông nam Tchepone này, CSBV đã để lại hơn 1.000 xác chết,
phần lớn bị phi cơ oanh kích. Về những chiến đấu hào hùng, dũng cảm,
của các quân nhân thuộc Sư đoàn 1 Bộ binh, đọc, Nguyễn Duy Hinh,
sđd, trang 104-108; Phạm Huấn, Trận Hạ Lào 1971, trang 98-105. Tại
bộ Tư lệnh MACV, ngày 25 tháng 3, đại tướng Abrams cũng nhắc lại
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
sự anh dũng của các Tiểu đoàn bộ binh và BĐQ trong buổi họp ban
tham mưu. Đọc, Sorley, sđd, trang 569-570.
[27]Chi tiết về thiệt hại nhân sự và quân nhu dụng đôi bên được liệt kê
trong, Nguyễn Duy Hinh, sđd, trang 128-133. VNCH công bố CSBV
có khoảng 13 ngàn quân tử thương; trong khi bản tường trình của Quân
Đoàn XXIV ghi 19 ngàn, kể luôn số tử thương vì bom của B-52. Con
số 16 ngàn quân CSBV tử thương người viết dùng, đến từ tin tình báo
của MAVC. Ngày 5 tháng 6-71, MACV cho biết một cố vấn quân sự
Ba Lan ở Vạn Tượng cho biết Bắc Việt bị thiệt hại rất nặng trong trận
Hạ Lào; tin từ Nga và Đông Âu cũng cho biết tương tự. Một nguồn tin
tình báo khác nói, vài viên chức của Bắc Việt cho biết chính xác số tử
thương của quân đội CSBV ở Hạ Lào là 16.224 người. Đọc, Sorley,
sđd, trang 635. Phía Hoa Kỳ có 215 tử thương, 1149 bị thương và 38
mất tích (số thương vong tính luôn các đơn vị hỗ trợ ở bên này biên
giới).
[28]Trương Duy Hy, sđd, trang 53; Nguyễn Duy Hinh, sđd, trang 88.
[29]Trường hợp mất liên lạc hoặc liên lạc chậm đã xảy ra cho Sư đoàn
Nhảy dù, và từ đó có thể đưa đến sự thất thủ của bộ chỉ huy Lữ đoàn 3
Dù ở căn cứ hỏa lực (đồi) 31. Trong khi đó, bộ chỉ huy Tiểu đoàn 2 Dù
đóng ở căn cứ hỏa lực 30, sau hai ngày không được tiếp tế nước và đạn,
không liên lạc được với cố vấn, hay bộ Tư lệnh sư đoàn mẹ và trong
tay đang có gần 200 thương vong, đánh một điện văn trên hệ thống
truyền tin chung, xin các phi cơ nhắn lại với "thẩm quyền" là họ phải di
tản vì không còn lương thực, đạn dược để chiến đấu. Hai ngày sau, đại
tướng Abrams giải nhiệm vị đại tá cố vấn sư đoàn Dù (đại tá William
Pence) và đưa một đại tá khác về thay (đại tá James Vaught). Abrams
tỏ ý mất tín nhiệm trung tướng Sutherland khi ông hỏi Sutherland có
thấy "phiền phức" khi đại tá Vaught chỉ thi hành trực tiếp chỉ thị đến từ
ông mà thôi. Abrams cũng bất mãn và chỉ trích trung tướng William
McCaffrey, Tư lệnh phó MACV, và đang thay Abrams đại diện ở bộ
Tư lệnh tiền phương chỉ huy trưởng sư đoàn 101 Nhảy dù. Sorley, The
Abrams Tapes, trang 544-546; A Better War, trang 243-260. Về bản
truyền tin của Tiểu đoàn 2 Nhảy dù, đọc Project CHECO, Lam Son
719, trang 128.
[30]Phạm Huấn, trong, Trận Hạ Lào 1971, trang 136, có thuật lại cuộc
đối thoại của tác giả với tướng Dư Quốc Đống ở Khe Sanh. Sau đó tác
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
giả trình bài sự khó khăn hay lủng củng của Nhảy dù vis a vis kế hoạch
hành quân và yểm trợ đến từ phía Hoa Kỳ cho phó tổng thống (lúc đó
còn là thượng nghị sĩ) Trần Văn Hương nghe. Ngày 28, 2-1971, phó
tổng thống Hương họp báo và công khai trình bày những thiếu sót đến
từ phía Hoa Kỳ. Cuộc họp báo của phó tổng thống Hương đã đánh thức
Bộ Tư lệnh MACV về những sai lầm của họ.
[31]Với báo cáo của cuộc hành quân gởi về cho Kissinger hàng ngày, khi
thấy cuộc hành quân có những biến chuyển bất lợi, thêm vào đó là sự
vắng mặt của Abrams ở Saigon, trong một buổi họp với Nixon ở tòa
Bạch Ốc ngày 23 tháng 3, Kissinger nói với Nixon: "Tôi nghĩ cuộc
thành quân này là một thành quả quan trọng, dù với nhiều hư hỏng
[trong vấn đề chỉ huy và điều khiển cuộc hành quân]." "Tôi muốn nói
thẳng với tổng thống là ... chính nguời của chúng ta đã làm cho chúng
ta thất vọng chứ không phải [quân đội] VNCH. Họ [các thẩm quyền
quân sự Mỹ] đã làm chúng ta thất vọng ngay trong ba tuần lễ đầu tiên
[của cuộc hành quân], rồi họ còn báo các với tổng thống là tôi xen vào
kế hoạch của họ quá nhiều." Tiếp theo, Kissinger nói về tướng Abrams:
"Trời ơi, Abrams đi thăm gia đình bên Thái Lan hàng tuần, trong khi
chúng ta đặt tất cả vào chuyện này [cuộc hành quân đánh qua Lào]. ...
Rồi bây giờ Abrams bắt đầu uống rượu từ giữa trưa. Tôi nghĩ rất kỹ,
chúng ta phải quyết định coi có nên thay ông ta hay không." Trích theo
Deb Riechmann, AP Press, 10-6-1999, bài báo viết về nội dung những
tài liệu và băng thâu âm từ tòa Bạch Ốc do, National Archives giải mật
và công bố vào năm 1999. Trong hồi ký Inner Circles, trang 275-276,
đại tướng Haig (lúc đó mang lon chuẩn tướng, làm phụ tá cho
Kissinger) nói Nixon gọi ông vào phòng, không giải thích gì, ra lệnh
cho ông, "Về nhà chuẩn bị hành lý, rồi lên chuyến bay sớm nhất qua
Saigon," để thay thế Abrams làm Tư lệnh MACV. Nhưng Haig dùng
lời lẽ hợp lý để làm dịu cơn giận của Nixon. Ngày hôm sau Nixon ra
lệnh cho Haig bay qua Saigon để duyệt xét tình hình cuộc hành quân ở
Hạ Lào. Trong những trang đã trích dẫn trên, Haig cũng viết ý kiến của
ông về những khuyết điểm của cuộc hành quân đó.
[32]Cấp số một sư đoàn Hoa Kỳ (12-14 ngàn quân) đông hơn cấp số của
sư đoàn VNCH (10-12 ngàn). Bốn quân binh chủng, Hải, Lục, Không
quân và TQLC Hoa Kỳ đều có không lực cơ hữu riêng của họ.
[33]James Willbanks, sđd, trang 107. Phạm Huấn, Trận Hạ Lào 1971,
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
trang 98-105.
[34]Jeffrey Clarke, Advice and Support: The Final Years, 1965-1973,
trang 354. Nhưng lời lưu ý của vị đô đốc bị Tổng trưởng quốc phòng
Melvin Laird phủ quyết.
[35] Số thương vong hai bên, người viết lấy trong tài liệu giải mật năm
1980, được công bố từ Phòng Giám đốc Tình báo Quốc Ngoại/ Phụ tá
Tư lệnh Lục quân/Tình báo. Tài liệu này được trích đăng lại trong,
Jeffrey Clarke, sđd, trang 275.
[36]Sorley, A Better War, trang 237; The Abrams Tapes, trang 565. Đại
tướng Abrams thổ lộ với trung tướng Michael Davison, Tư lệnh Quân
đoàn II Dã chiến, khi nghe ông trung tướng nói, "Mình đã đưa họ vào
chỗ đó, rồi mình lại kéo tấm thảm dưới chân họ [để họ hụt chân]. Tôi
có nói với tướng [Đỗ Cao] Trí là, 'tôi thấy kỳ quá, trung tướng.'" Chúng
ta không hiểu chuyện "đưa họ vào chỗ đó" là chuyện gì, nhưng có thể ở
đây ám chỉ cuộc hành quân đánh qua Cam Bốt hay Lào. Davison là Tư
lệnh Quân đoàn II Dã chiến (quân đoàn Hoa Kỳ nằm kèm theo Quân
đoàn III của VNCH) năm 1971-1972.
[37]Sorley, Thunderbolt: General Creighton Abrams and the Army of
His Times, trang 179. Về truyện đời của Abrams, người viết dựa theo
tác phẩm nói trên của Sorley. Trong tổ chức quân đội Hoa Kỳ, được
chọn làm Tư lệnh hay Tư lệnh phó quân chủng (Lục quân, Hải quân,
hay Không quân...) là một hãnh diện tuyệt đối trong binh nghiệp của
một quân nhân, nhưng không hẳn phải là một nhiệm sở các cấp tướng
lãnh mong muốn. Nhiệm sở mà các tướng lãnh mong muốn là các bộ
Tư lệnh Hỗn hợp như Thái Bình Dương, NATO, MACV, Lộ quân Thứ
8 ở Đại Hàn, Bộ Tư lệnh Trung Á. ... Rất nhiều vị Tư lệnh Lục quân,
sau khi hết nhiệm sở, vẫn xin được tái bổ nhiệm ở những bộ Tư lệnh
nói trên. Khi trở thành Tư lệnh một quân chủng, trách nhiệm của vị
tướng phần lớn chỉ là hành chánh, và những hoạt động hàng ngày rất gò
bó ở Ngũ Giác Đài.
[38]Davidson, Vietnam at War, trang 583.
[39]Bruce Palmer, The 25-Year War: America's Military Role in
Vietnam, trang 69, 133, 134. Đại tướng Palmer là bạn cùng khóa với
Westmoreland và Abrams; cũng từng giữ chức Tư lệnh phó MACV
dưới quyền Westmoreland và Abrams; Tư lệnh phó Lục quân, và trong
một thời gian ngắn, nhiệm chức Tư lệnh Lục quân. Trung tướng Phillip
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
B. Davidson, trong, Vietnam at War, trang 579-580, cũng có nhiều
nhận xét sâu đậm về tánh tình của Abrams. Davidson là sĩ quan tình
báo của MACV, làm việc dưới quyền Abrams gần một năm. Một thí dụ
khác về tánh tình của Abrams trong, Sorley, Thunderbolt, trang, 145-
146.
[40]Sorley, Thunderbolt, trang 199; A Better War, trang 10-11.
[41]Sorley, Thunderbolt, trang 232. Người nói câu đó là đại tướng
Frederick Weyand, Tư lệnh phó MACV, và sau cũng trở thành Tư lệnh
Lục quân.
[42]"Tảo thanh và giữ đất," và "Một cuộc chiến chung" là "Clear and
hold," và "One war" trong chiến thuật, chiến lược của Abrams. Shelby
Stanton, The Rise and Fall of an American Army, trang 283-284;
Sorley, Thunderbolt, 237-241.
[43]Khi bàn về cuộc hành quân đánh qua Cam Bốt 1970, Abrams tuyên
bố với ban tham mưu là tướng Nguyễn Viết Thanh soạn thảo và hành
quân nhanh đến độ ông làm cho các đơn vị Hoa Kỳ đang tham dự
chung có cảm tưởng cánh quân của họ di chuyển chậm như những con
voi. Một lần khác, Abrams chỉnh một sĩ quan cấp tướng khi người đó
có ý kiến sai lạc về kinh nghiệm quân sự và lối làm Việc của đại tá
Nguyễn Bá Liên. Thiếu tướng Thanh (Tư lệnh quân đoàn III) và cố
chuẩn tướng Liên (sau khi rời binh chủng TQLC, làm Tư lệnh Biệt khu
24, Vùng II) đều bị tử nạn trực thăng trong năm 1970 và 1969. Đọc,
Sorley, The Abrams Tapes, trang 83-84; 418-419.
[44]Sorley, The Abrams Tapes, trang 565.
[45]Bộ trưởng Lục Quân Stanley Resor bàn về vấn đề giảm thiểu chi phí
với MACV tại Saigon ngày 29 tháng 6-1971, trong, Sorley, The
Abrams Tapes, trang 445. Lính ở Việt Nam tốn kém hơn ở nội địa Mỹ
vì họ trang bị nhiều hơn và được hưởng nhiều phụ cấp khác như phụ
cấp tác chiến. Trong năm 1970-71, phi vụ và phi pháo của Hải quân
(các lực lượng đóng ngoài khơi Việt Nam) bị giảm thiểu từ 20 đến 30%
hàng tháng. Không quân thông thường bay từ 28 đến 30 ngàn phi vụ
oanh kích hàng tháng, nay bị giảm lại còn chừng 14 ngàn. Đọc, Sorley,
sđd, trang 495.
[46]Sorley, Thunderbolt, trang 183. Ở chương 12, Tinh thần người Mỹ
trong cuộc chiến, chúng ta sẽ nói sâu hơn về vấn đề bất bình đẳng trong
chế độ quân dịch của Hoa Kỳ trong chiến tranh Việt Nam.
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
[47]Ray L. Bowers, The United States Air Force in Southeast Asia:
Tactical Airlift, trang 467. Cũng theo Bowers, sau đó, ngày 28 tháng 7-
1969, Tổng trưởng Quốc phòng Laird cũng gởi cho Ban tham mưu liên
quân một huấn lệnh có nội dung tương tự như huấn Lệnh của Nixon.
Op. cit., ibid., trang 777, phụ chú số 1. Về chi tiết của trận Ap Bia
Mountian/Hamburger Hill, đọc, trung tướng E.M. Flanagan, The
Rakkasans: The Combat History of the 187th Airborne Infantry, trang
283-302. Một trong những sự phóng đại của giới báo chí phản chiến là,
tuần báo Life, số ra ngày 27 tháng -1969, có đăng hình 241 quân nhân
tử thương trên toàn cõi chiến trường Việt Nam trong một tuần trước,
nhưng chú đó là tổn thất của trận Ap Bia Mountain. Con số tổn thất
chính thức của trận đánh là 70 chết và 372 bị thương. Trung đoàn 187
Nhảy dù Tác chiến có nguồn gốc từ "Glider Infrantry," của sư đoàn 11
Nhảy dù vào đệ nhị thế chiến, chuyên phụ trách mặt trận Á châu. Tiểu
đoàn 3, trung đoàn 187 là đơn vị đánh chiếm ngọn đồi Ap Bia. Lý do
báo chí nói nhiều về trung đoàn 187 vì đây là một trung đoàn thiện
chiến do Westmoreland chỉ huy trong chiến tranh Đại Hàn. Trung
tướng Flanagan, lúc ở chiến trường Việt Nam, là trưởng phòng Huấn
luyện của MACV. Người chỉ trích kịch liệt về tổn thất trận Ap Bia là
thượng nghị sĩ Edward Kennedy, một lãnh tụ phản chiến ở quốc hội
Mỹ cho đến ngày sau cùng của cuộc chiến.
[48]Một vài thí dụ về những bó buộc làm Abrams bực tức: Không quân
chỉ có thẩm quyền cung cấp một số phi vụ hàng tháng, khi MACV
"xài" hết số phi vụ ấn định, không quân không thể cung cấp thêm được.
Đồng thời, có một số mục tiêu dù Abrams muốn nhưng không quân
không được quyền oanh tạc. Mỗi bốn tháng MACV phải xin Hoa Thịnh
Đốn gia hạn thẩm quyền dội bom vào các mục tiêu ngoài lãnh thổ Nam
Việt Nam và khoảng giữa vĩ tuyến 17-20. Không lực 7 tuy nằm dưới
quyền và có nhiệm vụ hỗ trợ MACV nhưng vẫn phải xin thẩm quyền từ
bộ Tư lệnh gốc, nhất là những phi vụ đến từ bộ Tư lệnh Không quân
Chiến lược (B-52). Đọc Sorley, Abrams Tapes, trang 385, 591, 654; A
Better War, trang 331-316. Trong cao điểm của trận "Mùa hè đỏ lửa"
1972, không còn quân tác chiến bộ binh trong tay, Abrams phải tùy
thuộc vào hỏa lực của không quân và hải quân. Abrams đã nổi trận lôi
đình khi một số chiến đỉnh rời vị trí yểm trợ của họ ở ngoài duyên hải
Việt Nam mà không cho ông biết lý do. Hỏi ra thì mới biết họ được
^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^
[email protected] - [email protected]
----------------------------------------------------------------------------------------------------------
---------------------------------------------------------------------------------------------------------
Allrights reserved by Rosea
HD300606056 http://danghoanghai.999.org
Lệnh từ Ngũ Giác Đài rời vị trí để đi yểm trợ cho các chiến đỉnh khác
đang hành quân thả ngư lội phong tỏa các cửa khẩu dẫn vào Hải Phòng
và Hà Nội. Bộ Tư lệnh Hải quân và Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương...
quên thông báo cho MACV về kế hoạch của họ. Trước khi tổng trưởng
quốc phòng Laird gọi Abrams để xin lỗi về sự sơ hở đó, Abrams đã
chửi tan nát quân chủng Hải quân trước mặt nhiều sĩ quan và nhân viên
cao cấp của Hải quân và Bộ Quốc phòng. Đọc, Sorley, Thunderbolt,
trang, 323-325.
[49]Willbanks, sđd, trang,141,147; Sorley, Thunderbolt, 326.
[50]Đại tướng Bruce Palmer, The 25-Year War, trang, 133-135.
[51]Sorley, The Abrams Tapes, trang XV. Câu nói nguyên tác đến từ ký
giả Robert Shaplen, "General Abrams deserves a better war." Ký giả
Kelvin P. Buckley, trong tạp chí phụ bản The New York Times
Magazine, ngày 5 tháng 10-1969, có viết một bài về Abrams với tựa đề
tương tự. Ý của Buckley và Shaplen, khi nói về một cuộc chiến tốt hơn,
khá hơn, là một cuộc chiến không bị giới hạn vì chính trị, một chiến
tranh với chủ đích duy nhất là đánh để hủy diệt dối phương mà không
cần quan tâm về những áp lực khác. Dĩ nhiên chiến tranh Việt Nam
không nằm trong phạm trù đó. Buckey và Shaplen, nhất là Shaplen, là
hai ký giả có ảnh hưởng nhiều với đọc giả Mỹ. Thân phụ của Buckley,
William F. Buckley, là một trong những tiếng nói quan trọng của khối
bảo thủ đảng Cộng Hòa trong thập niên 1960-70.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top