Người Mỹ và Chiến tranh Việt Nam

Người Mỹ và Chiến tranh Việt Nam

Chương 10

Nixon và Kissinger

Từ một đứa học trò tiểu học thường bị những đám trẻ thuộc nhóm Đức

Quốc xã ăn hiếp ở quê nhà, rồi thành một anh binh nhì đào những hố cá

nhân đầy đất đỏ trong trại lính Mỹ ở South Carolina... cho đến khi được

ngồi trong căn phòng lớn nhất ở tầng lầu thứ bẩy của Bộ Ngoại giao

Hoa Kỳ, đời của Kissinger là một cuộc đời ngoại hạng - dựa trên bất cứ

tiêu chuẩn nào. Sự nghiệp của Kissinger được nhiều người ca tụng,

nhưng cũng không thiếu kẻ dèm pha, đả kích.

Heinz Alfred Kissinger sanh năm 1923, tại Furth, một làng nhỏ ở ngoại

ô thành phố Nuremburg, Đức. Mẹ ở nhà nội trợ; cha dạy học. Phía bên

nội thích con cái theo ngành sư phạm; phía bên ngoại thì giàu và trung

lưu hơn. Theo lời bà mẹ kể lại, lúc còn nhỏ Kissinger thích đọc sách,

hay trầm tư, và rất ngoan học kinh đạo. Nhưng năm ông chào đời cũng

là năm những luồng sóng bài Do Thái đang nổi lên ở Đức vài năm sau

đệ nhất thế chiến. Ở Nuremberg, một đảng viên cuồng tín Đức Quốc xã

là Julius Streicher xuất bản một tuần báo, kêu gọi triệt tiêu tất cả những

người Do Thái [1] . Năm 1935, phong trào bài Do Thái ở Đức lên gần

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

cực độ khi Bộ luật Nuremberg cấm hôn phối giữa Đức và Do Thái; cấm

Do Thái không được hoạt động hay làm nhiều ngành nghề, trong đó có

nghề dạy học - một nghề duy nhất mà cha của Kissinger có thể đem lợi

tức về nuôi gia đình. Khi thấy chủng tộc Do Thái đang bị dần dần cô

lập, mẹ của Kissinger - có thân nhân đang ở New York - quyết định ra

đi. Tháng 8 năm 1938, khoảng ba tháng trước ngày những đám đông

cuồng tín Đức Quốc xã nổi lên đốt phá, huỷ diệt văn hoá, định chế xã

hội và tôn giáo của Do Thái (được gọi là Kristallnacht), Kissinger,

người em trai, và song thân rời Đức di cư qua Mỹ. Đến Mỹ, Kissinger

đổi tên Heinz thành Henry - Henry Alfred Kissinger.

Kissinger hội nhập vào xã hội Mỹ chậm hơn những người bạn cùng

lứa, có lẽ tại thích đời sống nội tâm, nhưng không đến nổi bị thụt lùi

đằng sau. Từ bậc trung học, Kissinger làm việc ban ngày, đi học ban

đêm. Theo học bạ ở trường, Kissinger học giỏi, nếu không nói là xuất

sắc, ở những năm cuối của bậc trung học và năm đầu ở trường đại học

City College of New York. Kissinger nói mộng của ông rất đơn giản:

chỉ học ra trường đại học và hành nghề kế toán. Và có thể Kissinger đã

trở thành một kế toán viên nếu Hoa Kỳ không nhảy vào thế chiến thứ

hai. Tháng 2 năm 1943, Kissinger bị động viên và lên đường nhập ngũ.

Trong thời gian thụ huấn căn bản quân sự ở trung tâm huấn luyện

Camp Croft, South Carolina, Kissinger được hợp thức hoá trở thành

công dân Hoa Kỳ. [2]

Sau khoá căn bản quân sự Kissinger và tất cả những tân binh khác được

thi một khoá thi định lượng khả năng chuyên môn. Quân đội Hoa Kỳ

thường tuyển chọn những quân nhân ưu tú bằng loại thi tuyển này, để

lựa ra các quân nhân có khả năng chuyên môn và gởi đi học các lớp

huấn luyện đặc biệt cao hơn. Kissinger được tuyển chọn và gởi về một

đại học ở Pennsylvania để tiếp tục huấn luyện. Ở khoá huấn luyện đặc

biệt này, so với đám bạn quân nhân ưu tú đồng môn, Kissinger đã

chứng tỏ ông ta ưu tú hơn. Theo bạn bè kể lại, lúc nào Kissinger cũng

kè kè có sách vở bên người: ăn, ngủ, thở, đều với sách vở. Niên học đó

Kissinger lấy 12 lớp và được điểm ưu cả 12. Nhưng khoá học chưa đầy

một năm thì bị đình chỉ vào tháng 4.1944: Hoa Kỳ chuẩn bị đổ bộ lên

Âu Châu; quân đội cần tất cả quân nhân để tác chiến, dù ưu tú, trí thức,

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

hay là không. Kissinger không muốn ra tác chiến nên thi vào quân y để

tránh. Ông đậu khoá thi nhưng không được tuyển chọn. Kissinger và

nhóm bạn bị đưa về trại Fort Claireborne, Louisiana, nhập vào Sư đoàn

84 bộ binh, tiếp tục huấn luyện kỹ thuật tác chiến để chuẩn bị đổ bộ lên

Âu Châu. Ở Sư đoàn 84 bộ binh, Kissinger gặp một người làm đời ông

thay đổi.

Tư lệnh Sư đoàn 84 là một thiếu tướng. Ông thiếu tướng này có một

binh nhì làm việc cho ông, vừa là thông dịch viên, vừa và chuyên viên

về chiến tranh tâm lý. Nhưng binh nhì Fritz Gustav Anton Kraemer

không phải là một binh nhì tầm thường. Sanh năm 1908 ở Đức, trong

một gia đình thượng lưu người gốc Phổ (Prussia). Gia đình Kraemer

khinh bỉ Hitler, coi Hitler chỉ là một tên hạ sĩ quèn gặp thời. Kraemer

có chứng chỉ ở London School of Economics và hai bằng tiến sĩ ở Đại

học Frankfurt và Đại học Rome. Đang làm việc cho Liên hội Quốc gia

(League of Nations, tiền thân của Liên hiệp quốc bây giờ) ở Ý thì đệ

nhị thế chiến xảy ra. Kraemer quyết định sống cuộc sống tự lưu đày ở

xứ người, không muốn trở lại Đức. Khi Mỹ tham chiến, Kraemer qua

Mỹ đầu quân. Trong thời gian phục vụ tại Sư đoàn 84, ban huấn luyện

cần người nói tiếng Đức để giả làm đối phương trong các cuộc tập trận,

và Kraemer tình nguyện giả làm sĩ quan Đức trong những lần tập trận

đó. Vị tư lệnh Sư đoàn 84 để ý Kraemer và gọi ông về làm việc trong

bộ tư lệnh sư đoàn. Ngoài nhiệm vụ là thông dịch viên, Kraemer còn

phụ trách về tâm lý chiến: giải thích về ý thức hệ Đức Quốc xã và sự

nguy hiểm của Hitler ở Âu Châu. (Vào đệ nhị thế chiến, Hoa Kỳ động

viên tất cả mọi thành phần trong xã hội, và ít người được miễn dịch như

những cuộc chiến mà Hoa Kỳ liên hệ đến sau nầy. Một số đông tân

binh là những giáo sư, sinh viên, trí thức... Và các bộ tư lệnh thường có

những buổi học tập về tâm lý chiến để giải thích sự gia nhập của Hoa

Kỳ vào thế chiến chống lại trục quân sự Đức - Ý - Nhật.)

Một hôm, Kissinger là cử toạ trong một bài diễn thuyết của Kraemer.

Nghe Kraemer giảng xong, Kissinger viết cho Kraemer một lá thư

ngắn, tự giới thiệu, và đề nghị Kraemer một cách diễn thuyết hay hơn.

Kraemer (lớn hơn Kissinger 16 tuổi) hơi sửng sốt về tính chất thẳng

thắn của Kissinger, nhưng cũng muốn gặp coi Kissinegr là ai. Gặp

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

nhau, Kramer thích lối suy nghĩ của Kissinger (Kissinger có một bộ óc

chính trị khác thường, Kraemer nói cho Kissinger biết); trong khi

Kissinger thích tính ngạo mạn, thái độ bất cần và phong cách quí tộc

của Kraemer. Quen được Kraemer làm thay đổi cuộc đời của Kissinger:

chỉ trong ba năm, từ một anh binh nhì vô danh, với ước vọng tầm

thường trở thành một kế toán viên, Kissinger được mọi người chú ý và

- quan trọng nhất - nhờ Kraemer, Kissinger đã khám phá ra những tiềm

năng trí thức chưa được phát triển đúng mức bên trong.

Khi Sư đoàn 84 bộ binh đổ bộ lên Âu Châu và tiến vào nước Đức, thiếu

tướng Bolling, tư lệnh sư đoàn, nhận lời tiến cử của Kraemer, cho

Kissinger về làm tài xế, thông dịch viên và tuỳ viên cho ông. Trong

thời gian các sư đoàn Hoa Kỳ được lệnh tạm thời quản trị các vùng

trong phạm vi trách nhiệm của họ, vì không đủ chuyên viên hành chánh

rành cả hai ngôn ngữ Anh - Đức, Kissinger được giao trách nhiệm quản

trị cả một quận lỵ nhỏ ở gần Frankfurt. Tháng 6.1945, mang lon trung

sĩ và có chức vụ chỉ huy trưởng một biệt đội phản gián chuyên truy

lùng những đảng viên Đức Quốc xã đang lẩn trốn quân đội Đồng minh,

Kissinger có thẩm quyền bắt giữ tất cả những ai nằm trong vùng trách

nhiệm của ông [3] . Giữ chức vụ đó chưa đầy một năm thì Kraemer tìm

gọi Kissinger: Kraemer vừa thành lập một trường tình báo ở gần

Munich, mục đích của trường là huấn luyện các sĩ quan Đồng minh

khám phá những tổ chức Nazis còn sót lại, và tái lập thẩm quyền dân sự

cho nước Đức. Kissinger nhận lời. Ban đầu Kissinger dạy như là một

quân nhân trong ban giảng huấn của trường. Nhưng khi xuất ngũ và

được mướn trở lại như một giảng viên dân sự, Kissinger được trả lương

10.000 mỹ kim một năm, một số tiền khá lớn vào năm 1946. Những

học viên của trường - sau này là những nhân vật có nhiều thẩm quyền

của chính phủ Mỹ, hay khoa trưởng ở những đại học nổi tiếng - đều

công nhận Kissinger có lối nói chuyện và một tư cách rất thẩm quyền,

nếu không nói là độc đoán. Với số lương cao như vậy, nhưng Kissinger

muốn trở lại Hoa Kỳ để tiếp tục học. Nhất là khi người đở đầu của ông,

Kraemer, khuyên ông nên có một mảnh bằng đại học. Kissinger được

nhận vào Đại học Harvard và nhập học vào mùa thu năm 1947. Năm đó

Kissinger được 24 tuổi.

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

Ở Đại học Harvard Kissinger học giỏi và tạo cho mình một tên tuổi,

nếu không nói là một huyền thoại. Chọn ngành Chánh quyền và Triết

học là môn căn bản, Kissinger không gia nhập một hội đoàn nào ở

trường, không tụ tập vào những cuộc hội họp cuối tuần, và cũng không

tham dự vào môn thể thao nào. Kissinger chỉ học và có một cuộc sống

gần như cô độc. Vì Kissinger học giỏi từ năm đầu, ông được liệt vào

hạng sinh viên danh dự và được trường đề cử một giáo sư để làm cố

vấn. Vị giáo sư đó là William Yandell Elliott, một trong những giáo sư

nổi tiếng về ngành nhân văn của Đại học Harvard đương thời. Cũng

như Kraemer, lúc đầu giáo sư Elliott ngộ nhận Kissinger chỉ là một

sinh viên thường như những sinh viên khác mà ông đã bị trường bắt

làm cố vấn. Để tỏ sự khó chịu và để cho Kissinger biết ông là một giáo

sư cố vấn khó tánh, giáo sư Elliott bắt Kissinger đọc 25 quyển sách để

viết cho ông một luận đề, so sánh giữa lý trí thuần tuý và lý trí thực

nghiệm trong hệ thống triết học của Immanuel Kant. Theo lời kể của

hai người bạn ở chung phòng, Kissinger vào thư viện mượn tất cả

những quyển sách đó về chất trong phòng, rồi đêm nào ông cũng thức

đến hai giờ sáng đọc và viết. Ba tháng sau Kissinger nộp bài cho giáo

sư Elliott. Nộp bài buổi sáng thì buổi chiều giáo sư Elliott gọi điện

thoại muốn Kissinger trở lại gặp ông. Gặp Kissinger, Elliott nói từ

trước đến nay chưa có một sinh viên nào đọc hết những quyển sách ông

chỉ định, và chưa có sinh viên nào viết được một luận đề mạch lạc như

bài viết của Kissinger [4] . Trong một lá thư giới thiệu ông viết cho

Kissinger, giáo sư Elliott nói trong năm năm qua, ngay cả trong nhóm

sinh viên liệt vào hàng tối ưu, ông chưa gặp ai có một cái nhìn sâu sắc

về triết lý chính trị như Kissinger. Bốn năm ở Harvard, Kissinger chỉ có

một lớp bị điểm B, tất cả các lớp còn lại đều điểm A. Vào năm thứ hai

ở đại học, Kissinger lập gia đình với một cô bạn đã quen biết từ thời

trung học. Vợ Kissinger cũng là người Đức gốc Do Thái, cũng chạy tị

nạn Nazis cùng thời với ông.

Tiểu luận cử nhân của Kissinger ở Đại học Harvard làm ông trở thành

một huyền thoại; một "tiểu" luận đã làm cho Harvard đề ra một qui luật

mới về cách viết tiểu luận ở bậc cử nhân. Tiểu luận của Kissinger mang

tên "Ý nghĩa của lịch sử", dầy 383 trang. Nội dung chánh của tiểu luận

nói về phương thức phân tích lịch sử; thẩm định lại để coi lịch sử có

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

phải là một sự tất định - trong ý nghĩa lịch sử là định mệnh - hay lịch sử

là hậu quả của những quyết định đến từ những cá nhân trong lịch sử tạo

ra. Kissinger bàn về nhận định của triết gia Immanuel Kant; nhà xã hội

học Oswald Spengler; và sử gia Arnold Toynbee. Không mấy ai nói

nhiều - hay đọc hết - về tiểu luận của Kissinger. Nhưng với tiểu luận đó

và thứ hạng trong suốt bốn năm học, Kissinger tốt nghiệp cử nhân hạng

tối ưu. Và cũng qua tiểu luận của Kissinger, đại học Harvard qui định

từ đó về sau, tiểu luận bậc cử nhân không được quá 150 trang. [5]

Nếu Kissinger đã may mắn gặp được Fritz Kraemer, thì Kissinger may

mắn hơn lúc được William Elliott đở đầu. Khi Kissinger quyết định

tiếp tục theo học lên bậc tiến sĩ ở Harvard, Elliott tìm mọi cách để giúp

đỡ Kissinger về vấn đề tài chánh. Mùa hè năm 1951, trong lúc

Kissinger đang viết luận án tiến sĩ, giáo sư Elliott cho Kissinger phụ

trách một chương trình quan trọng mà sau này (khi Kissinger trở thành

Cố vấn an ninh quốc gia, rồi Tổng trưởng ngoại giao) đã giúp đỡ

Kissinger liên lạc dễ dàng với nhiều yếu nhân quan trọng trên thế giới.

Chương trình do giáo sư Elliott đề nghị có tên là Hội thảo Quốc tế

Harvard. Đây là một khoá hội thảo mùa hè do Đại học Harvard tổ chức.

Những thành phần được chọn đến tham dự là những lãnh tụ, khoa bảng

trẻ, có nhiều tương lai ở quốc gia của họ. Kissinger được Elliott cho

phụ trách tuyển chọn những người tham dự [6] . Nhiều người theo dõi

sự nghiệp của Kissinger cho rằng Harvard International Seminar là bắt

đầu của Kissinger vào thao trường chính trị. Ngoài nhiệm vụ phụ trách

Harvard International Seminar, Kissinger còn ấn hành một tạp chí với

nội dung về chính trị quốc tế có tên là Confluence: An International

Forum (Hội tụ: một diễn đàn quốc tế). Tạp chí phát hành bốn số một

năm, và Kissinger đã thu hút được nhiều tác giả khoa bảng có tiếng lúc

đương thời. [7]

Tháng 5 năm 1954, Kissinger được cấp bằng tiến sĩ qua luận án "A

World restored: Metternich, Castlereagh, and the Problems of Peace

1812-22". Một luận án rất lỗi thời so với những sôi động trong giới

khoa bản và lý thuyết gia về chiến lược nguyên tử đương thời. Trong

luận án, Kissinger phân tích về vai trò của Clemens von Metternich,

Thủ tướng Áo, và Ngoại trưởng Anh, Robert Steward Castlereagh,

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

trong cuộc hội nghị ở Vienna để bàn về số phận của Pháp và Napoleon,

và tạo lại thế quân bình trên lục địa Âu Châu sau khi ảnh hưởng của đế

quốc Pháp tàn lụn. Trong lịch sử ngoại giao quốc tế, Metternich được

nhắc đến nhiều với đường lối ngoại giao bí mật để thương lượng thế

lực giữa các cường quốc. Metternich hô hào những biện pháp như đàn

áp và kiểm duyệt để duy trì an ninh nội bộ của một quốc gia. Kissinger

tán dương Metternich, cho rằng nhờ nhà ngoại giao này mà Âu Châu

được yên tĩnh cho đến khi thế chiến thứ nhất bùng nổ. [8]

Với bằng tiến sĩ trong tay, Kissinger hy vọng được bổ nhiệm một chức

giáo sư trong ban giảng huấn của Harvard. Nhưng Harvard không bổ

nhiệm ông một chức gì thực thụ, ngoài chức tạm thời là phụ giáo. Thất

vọng, nhưng Kissinger kiên nhẫn ở lại Harvard, dù hai trường đại học

khá có tiếng khác mời ông về dạy với chức giáo sư thực thụ (Đại học

Chicago và Đại học Pennsylvania). Kissinger kiên nhẫn ở lại Harvard

vì biết đó là tụ điểm của tiếng tăm và danh vọng.

Làm phụ giảng chưa đầy năm thì một may mắn tình cờ khác xảy đến

với Kissinger. Giáo sư sử học Arthur Schlesinger, Jr., của Harvard có

viết một tiểu luận chỉ trích chiến lược nguyên tử đương thời của Hoa

Kỳ cho tạp chí ngoại giao và chính trị Foreign Affairs. Ông nhờ

Kissinger đọc và cho ý kiến. Kissinger đọc và viết lời phê bình về bài

viết của Schlesinger. Bài phê bình của Kissinger làm cho Schlesinger

thích đến độ ông gởi bài phê bình của Kissinger đến chủ bút tờ Foreign

Affairs; và bài viết đầu tiên về an ninh quốc gia và chiến lược nguyên

tử của Kissinger được đăng trên một nguyệt san tên tuổi, chuyên

nghiên cứu về đường lối ngoại giao Hoa Kỳ. [9] Sau khi bài viết được

đăng trên Foreign Affairs, và nhờ sự giới thiệu của những giáo sư danh

tiếng ở Harvard như Elliott, Schlesinger, hay McGeorge Bundy,

Kissinger được mời vào làm giám đốc một ban nghiên cứu về ảnh

hưởng của vũ khí nguyên tử đối với đường lối ngoại giao. Kissinger xin

Harvard cho nghỉ dạy một thời gian và dọn về New York làm việc. Ban

nghiên cứu do Kissinger làm giám đốc (mà hội viên là những thành

phần nổi tiếng trong giới quân sự, tình báo, kinh tế và ngoại giao Hoa

Kỳ đương thời) nằm trong một cơ sở có tiếng nói rất quan trọng đối với

nền ngoại giao Hoa Kỳ: Hội đồng Liên hệ Ngoại giao (Council on

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

Foreign Relations). Khi đặt chân vào làm việc cho Council on Foreign

Relations, Kissinger mới thật sự đối diện với cơ cấu và quyền lực của

Chính phủ Hoa Kỳ [10] . Làm việc chung với những chuyên gia tên tuổi

về quân sự và ngoại giao chuyên về chiến lược nguyên tử, sau 18 tháng

làm việc miệc mài, năm 1957, Kissinger hoàn tất một tác phẩm được

nhiều người trong giới chính trị, ngoại giao và quân sự nhắc đến:

Nuclear Weapons and Foreign Policy (Đường lối ngoại giao và vũ khí

nguyên tử). Tác phẩm được chánh quyền Mỹ chú ý; giới chuyên nghiệp

bàn tán, và nằm trên đầu những quyển sách bán chạy nhất ở Mỹ trong

14 tuần lễ liên tục. Nhưng theo những nhà quan sát, Kissinger chỉ

"khoa bảng hoá" ý nghĩ và suy luận của các chuyên viên làm việc

chung với Kissinger. Tác phẩm của Kissinger bán chạy chỉ vì đúng vào

thời điểm và sự hiếu kỳ của độc giả trong hoàn cảnh chiến tranh lạnh

đang diễn ra giữa hai siêu cường Nga - Mỹ [11] .

Sau thời gian ở Council on Foreign Relations, sau khi tên tuổi đã được

ít nhiều sự chú ý trong cộng đồng khoa bảng, Kissinger trở lại Harvard.

Đại học Harvard bổ nhiệm Kissinger chức giảng sư, rồi phó giáo sư; và

giáo sư thực thụ vào năm 1962. Tuy trở về Harvard dạy, nhưng

Kissinger vẫn tiếp tục giữ liên lạc với Council on Foreign Relations và

các cơ sở có ít nhiều liên hệ với chính quyền. Cuối năm 1962,

Kissinger được 34 tuổi, có hai con, trai và gái, và đã ly dị vợ.

Khi chúng ta nói về sự may mắn trong cuộc đời, có lẽ khó ai gặp nhiều

may mắn như Kissinger. Kissinger biết Kraemer lúc còn một binh nhì

trong lính; được giáo sư Elliott giúp đỡ khi mới vào Harvard. Rồi trong

thời gian làm việc ở Council on Foreign Relations, Kissinger gặp một

bảo nhân khác quan trọng hơn, thế lực hơn: nhà tỉ phú Nelson

Rockefeller [12] . Nelson Rockefeller biết Kissinger qua những lần hội

thảo về tình hình an ninh quốc gia/quốc tế (Nelson là phụ tá cho tổng

thống Eisenhower về an ninh quốc tế một thời gian), và trong thời gian

Kissinger làm việc cho Council. Nelson kính nễ Kissinger, nghĩ rằng

ông có thể nhờ vào trí thức và khoa bảng của Kissinger để cố vấn trong

cho sự nghiệp chính trị của ông về sau. Từ năm 1956 cho đến năm

1968, Nelson đích thân mướn Kissinger soạn thảo và nghiên cứu nhiều

dự án cho cá nhân ông. Năm 1969, khi Kissinger chánh thức về làm

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

việc cho chính phủ (Cố vấn an ninh quốc gia cho Nixon), Nelson đã

biếu Kissinger 50000. mỹ kim như một món quà đưa tiễn [13] . Đã lọt

vào thế giới khoa bảng, giáo khoa, ở Đại học Harvard, bây giờ, nhờ sự

quen biết với Nelson Rockefeller, Kissinger lại được giới thiệu, hay có

dịp làm việc chung những khuôn mặt quan trọng trong Chính phủ Hoa

Kỳ.

Năm 1961, khi John F. Kennedy nhậm chức tổng thống, vị tổng thống

trẻ tuổi này đưa hầu hết các bạn bè đồng môn ở Harvrad về làm việc

cho ông (Kennedy cũng tốt nghiệp ở Harvard năm 1940, hạng danh dự

cum laude). Một trong hai giáo sư đang dạy ở Harvard là Schlesinger

và McGeorge Bundy được Kennedy mời về làm cố vấn và phụ tá quan

trọng trong toà Bạch Ốc. Theo lời mời của Bundy, Kissinger được về

làm cố vấn bán thời gian ở Hoa Thịnh Đốn. Nhưng trong thời gian làm

việc ở toà Bạch Ốc, thái độ và tư cách của Kissinger gây nhiều khó

chịu cho nhiều người - trong đó có Tổng thống Kennedy và cố vấn an

ninh quốc gia McGeorge Bundy. Thấy mình không được trọng dụng

trong chính phủ Kennedy - hay là thấy không ai thích mình - Kissinger

làm chưa tới một năm rưỡi thì từ nhiệm, trở về Harvard tiếp tục nghiên

cứu và viết sách. Năm 1964, khi Nelson Rockefeller ra tranh cử vòng

sơ tuyển trong Đảng Cộng hoà cho cuộc bầu cử tổng thống năm 1964,

Kissinger là cố vấn cho Nelson về vấn đề an ninh quốc phòng. Nelson

thua, và Đảng Cộng hoà đề cử Thượng nghị sĩ Barry Goldwater ra

tranh cử lại Lyndon Johnson. Nhưng qua lần xuất hiện năm 1964 với

Nelson Rockefeller, Kissinger biết được thêm một số nhân vất quan

trọng trong Đảng Cộng hoà. Một trong những người quan trọng đó là

Henry Cabot Lodge, một nhân vật quan trọng đương thời trong Đảng

Cộng hoà. Lại thêm một tình cờ khác đưa Kissinger trở lại liên hệ với

chính quyền. Cũng từ Lodge, Kissinger lần đầu tiên biết đến Việt Nam

và cuộc chiến đang xảy ra ở miền Nam, một địa dư và cơ cấu chính trị

Kissinger rất còn xa lạ [14] .

Qua lời mời của Lodge, Kissinger đến Sài Gòn cuối năm 1965, và hai

lần tiếp theo sau đó vào năm 1966. Trong ba lần quan sát nghiên cứu

này, Kissinger đi thăm viếng nhiều nơi, nói chuyện với nhiều thành

phần và yếu nhân của Việt Nam Cộng hòa (VNCH). Sau những chuyến

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

quan sát đó, Kissinger tường trình bằng miệng lại cho Lodge và thẩm

quyền ở Hoa Thịnh Đốn. Tuy nhiên, theo những người biết chuyện bên

trong, Kissinger tường trình theo ý của người nghe: nghĩa là ông thay

đổi quan điểm tuỳ theo người đối diện [15] . Tháng 8 năm 1966,

Kissinger viết lên nhận định đầu tiên về vấn đề Việt Nam trên tạp chí

Look. Trong bài viết, Kissinger nói cuộc chiến ở Việt Nam khó kết thúc

bằng chiến thắng quân sự; thương thuyết để tìm một giải pháp hoà bình

là chuyện tất nhiên sẽ xảy ra. Nhưng quan trọng nhất trong thời gian

này, sự rút quân của Hoa Kỳ khỏi Việt Nam sẽ gây nhiều tổn thương về

danh dự của Hoa Kỳ đối với các quốc gia đồng minh chống cộng trên

toàn thế giới.

Liên hệ đầu tiên của Kissinger đối với Việt Nam tưởng đã chấm dứt

sau ba lần thăm viếng quan sát qua lời mời của đại sứ Lodge. Nhưng

vào năm 1967, một tình cờ khác đưa Kissinger đến những liên hệ bí

mật hơn của chiến tranh Việt Nam. Trong một lần tham dự hội thảo với

những giới chức khoa bảng quốc tế hàng năm tại Paris, Kissinger gặp

lại một người bạn Pháp tên Herbert Marcovich. Khi câu chuyện qua lại

đưa đến đề tài về chiến tranh Việt Nam, Marcovich nói với Kissinger

ông có một người bạn thân tên là Raymond Aubrac, và Aubrac quen

biết rất thân với Hồ Chí Minh từ năm 1946. Marcovich đề nghị ông thể

nhờ Aubrac đánh tiếng với Hồ Chí Minh, hay cấp lãnh đạo Hà Nội,

khởi đầu một liên lạc ngoại giao ngầm giữa Hà Nội và Mỹ về vấn đề

Việt Nam [16] . Trở lại Mỹ, Kissinger đem chuyện đó nói với McGeorge

Bundy, hỏi thẩm quyền có ý kiến gì không. Bundy hỏi Ngoại trưởng

Dean Rusk, và Rusk trình lên cho Tổng thống Johnson. Vài tuần sau,

toà Bạch ốc cho phép Kissinger liên lạc lại với Marcovich và Aubrac.

Nhưng để tránh sự lộ liểu và để giữ bí mật trong trường hợp sự liên lạc

không đi đến đâu, thẩm quyền Hoa Thịnh Đốn chỉ thị Kissinger liên lạc

Hà Nội với tư cách một "cá nhân quan tâm", muốn đi tìm một giải pháp

cho chiến tranh Việt Nam chứ không phải đại diện của chính phủ Hoa

Kỳ. Trong khi đó, được sự chấp thuận của Tổng thống De Gaulle,

Aubrac và Marcovich bay qua Hà Nội ngày 21 tháng 7 năm 1967. Ở Hà

Nội hai người được Phạm Văn Đồng và Hồ Chí Minh đón tiếp. Sau khi

nghe đề nghị Hoa Kỳ sẽ ngưng dội bom nếu Hà Nội thật sự muốn

thương lượng để chấm dứt cuộc chiến, Phạm Văn Đồng trả lời Hoa Kỳ

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

phải ngưng dội bom lập tức và vô điều kiện trước khi muốn có một

cuộc đối thoại nào. Aubrac chuyển tin tức từ Hà Nội về cho Kissinger;

Kissinger đưa lại cho toà Bạch ốc. Giữa tháng 10.1967, trong một buổi

họp cao cấp dưới sự chủ toạ của Johnson (và có mặt Kissinger), sau khi

bàn cãi về thái độ sự thành thật của Hà Nội, Tổng thống Johnson quyết

định chấm dứt những liên lạc ngoại giao giữa Hoa Kỳ và Hà Nội qua

Kissinger - Marcovich - Aubrac. Hoa Kỳ đoán đúng về thái độ hiếu

chiến của cộng sản Bắc Việt (CSBV): hơn hai tháng sau, CSBV mở

cuộc tổng công kích toàn diện ở miền Nam vào Tết Mậu Thân 1968 [17]

.

Chỉ mười một năm từ ngày Kissinger xuất bản tác phẩm về chiến lược

nguyên tử, cho đến năm bầu cử tổng thống 1968, tên tuổi Kissinger

được nhắc đến nhiều trong giới chiến lược, chính trị gia, và khoa bảng.

Giống như năm 1964, Kissinger được mời làm cố vấn quan trọng trong

cuộc vận động tranh cử tổng thống của Nelson Rockefeller vào năm

1968. Ở vòng sơ tuyển tranh cử nội Đảng Cộng hoà, Kissinger ra mặt

chỉ trích ứng cử viên Nixon [18] . Kissinger tuyên bố: "Nixon không

xứng đáng làm tổng thống", đầu óc Nixon "nông cạn", và Nixon là

"một thảm hoạ cho Đảng Cộng hoà... Nhưng may mắn, Nixon không

thể đắc cử tổng thống, nếu không thì [sự đắc cử của Nixon] là một thảm

hoạ cho Mỹ quốc" [19] . Nhưng sau khi Nixon đánh bại Rockefeller và

được đảng chính thức đề cử, Kissinger yên lặng. Nhưng Kissinger yên

lặng không lâu: khi cuộc tranh cử tổng thống đi vào giai đoạn hai -

Nixon của Đảng Cộng hoà đối lại Humphrey của Đảng Dân chủ - thì

ban cố vấn của Nixon gọi Kissinger, mời ông giúp một tay, cố vấn về

đường lối ngoại giao quốc tế. Kissinger chần chừ vài ngày rồi nhận lời

với một điều kiện: ông muốn cố vấn sau lưng và không muốn ra mặt

làm việc cho Nixon công khai. Ban tham mưu Nixon chấp nhận [20] .

Giấu mặt ở phía sau, Kissinger cung cấp một số tin tức liên quan về

những mật đàm sơ khởi đang xảy ra ở Paris giữa CSBV và Mỹ. Với

những tiên liệu cung cấp từ Kissinger, ứng cử viên Nixon theo đó mà

tuyên bố một cách dè dặt, theo chiều, về đường lối ngoại giao của ông

đối với cuộc chiến Việt Nam đang xảy ra. Tuy nhận tin tức từ

Kissinger, nhưng Nixon lúc nào cũng đề phòng một người đã từng làm

việc cho đối thủ của mình. Theo những người biết chuyện, tin tức

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

Kissinger cung cấp cho Nixon không quan trọng hay tối mật lắm,

nhưng có thể dùng được [21] .

Rồi chuyện xảy ra như chúng ta đã thấy: Nixon đắc cử năm 1968. Với

lời hứa là ông sẽ giải quyết vấn đề Việt Nam, Nixon cần một người mới

nhưng biết chút ít nội vụ thương nghị đang xảy ra ở Paris. Kissinger có

thể đóng vai trò đó. Gần một tháng sau ngày đắc cử, Nixon gọi

Kissinger về và giao cho chức Cố vấn an ninh guốc gia.

Chỉ trong vòng 26 năm, từ một anh lính quèn, Kissinger ngày nay trở

thành cố vấn quan trọng cho một vị tổng thống mạnh nhất trên thế giới.

Bây giờ, anh bình nhì Henry Alfred Kissinger có quyền sử dụng sĩ quan

cấp tướng để làm phụ tá cho mình [22] .

*

Ở phần trên là những điểm sáng, những thành công của cuộc đời

Kissinger. Nhưng ở phía sau những thành đạt, những khen ngợi đó, tư

cách và đạo đức của Kissinger bị rất nhiều tai tiếng, chê bai, phỉ nhổ.

Những tiếng như "con đĩ", "thằng điếm", "hai mặt", "tráo trở, đâm sau

lưng", được sử dụng để chỉ con người Kissinger.

Theo những người đã biết Kissiger từ lúc bắt đầu làm phụ khảo ở

Harvard, cho đến lúc ông rời chính phủ sau nhiệm kỳ của Tổng thống

Gerald Ford, tư cách và đạo đức của Kissinger có thể tóm gọn trong

câu "nịnh trên hiếp dưới". Kissinger sợ và tuân lệnh những người có

quyền hơn ông; đối với người dưới trướng thì ông doạ nạt và đày ải.

Một người thầy cũ của Kissinger ở Harvard nói Kissinger nịnh rất giỏi;

thích làm quen với các giới thượng lưu, quyền thế, để có thể nhờ vả về

sau. Những người bạn đồng môn nổi tiếng sau này như Zbigniew

Brzezinski, James Schlesinger, Adam Ulam (Brzezinski là Cố vấn an

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

ninh quốc gia cho Tổng thống Jimmy Carter; Schelesinger làm Giám

đốc CIA, rồi Tổng trưởng Quốc phòng thời Nixon và Ford; Ulam là

Giám đốc trung tâm nghiên cứu về Nga Xô của Đại học Harvard) đều

nghĩ Kissinger thích quan trọng hoá cá nhân, tư cách hồ đồ, tự cao tự

tại, thích được mọi người chú ý. Đối với những người đó, Kissinger chỉ

là một tên nói lừa dối không biết ngượng; một kẻ vô luân. "Kissinger

khoái lừa dối, và khi sự lừa dối càng phức tạp, Kissinger càng thích

thú". James Schlesinger nói về tư cách của Kissinger: "Mọi người thấy

xấu hổ khi nói dối; nhưng đối với Kissinger, nói dối là một trang vật;

Kissinger nói dối có phong độ". Vì Kissinger quá mong muốn được

mọi người thích và chấp nhận mình nên ông ta phải làm vừa lòng, phải

chiêu dụ nhiều loại người khác nhau. Để làm như vậy, Kissinger tạo ra

nhiều khuôn mặt cho từng loại người Kissinger muốn mua chuộc, lấy

lòng, khi giao thiệp. Morton Halperin, một trong những cố vấn tổng

thống như Kissinger trong toà Bạch ốc, nhưng sau này thưa Kissinger

ra toà vì Kissinger ra lệnh thu âm đường điện thoại của Halperin, nói về

Kissinger: "Không cần biết đúng hay sai, thật hay giả dối khi ông hứa

hẹn, thương thuyết với một người nào: Kissinger nói đại ra rồi tính sau"

[23] . Fritz Kraemer, người đỡ đầu từ lúc Kissinger mới vào lính, phải

lên tiếng phê bình, "Dần dần, tôi thấy người này [Kissinger] chẳng

những có một khác vọng về tri thức, mà còn có một tham vọng về sự

nghiệp cá nhân". Nahum Goldmann, một lãnh tụ tinh thần của cộng

đồng người Mỹ gốc Do Thái - và là bạn thân của gia đình Kissinger -

tuyên bố, nếu Kissinger "bớt thông minh đi mười phần, và thêm vào đó

mười phần chân thật, thì ông ta là một người vĩ đại".

Trong liên hệ nghề nghiệp giữa cá nhân và cá nhân, Kissinger thường

lấn quyền những người bạn đồng nghiệp, một đôi khi hất họ ra khỏi

vòng ảnh hưởng của quyền lực nếu được. Lúc còn làm việc trong chánh

quyền Kennedy, Kissinger đi lòn sau lưng cấp trên như McGeorge

Bundy, tìm cách để được gần Kennedy đến độ vị tổng thống khó chịu,

phải ra lệnh giới hạn lại sự ra vào của Kissinger [24] . Trong thời gian

Nixon đang vận động tranh cử, chính Richard Allen trong ban tham

mưu của Nixon là người giới thiệu và mời Kissinger về làm việc trong

ban tham mưu. Nhưng khi trở thành cố vấn cho Nixon, Kissinger hất

Allen ra, và cô lập ông này trong vòng ảnh hưởng quyền lực ở toà Bạch

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

ốc. Trường hợp tương tự cũng xảy ra với tướng Alexander Haig: khi

thấy Haig được sự tính nhiệm của Nixon, Kissinger đề nghị Nixon

thăng cấp cho Haig để cho ông tướng này trở về làm việc với quân đội

ở Bộ Quốc phòng [25] .

Về phương diện nghề nghiệp công vụ, trong khi đi thương lượng ngoại

giao, Kissinger coi trọng quyền lợi Hoa Kỳ trên tất cả quyền lợi của

những quốc gia khác. Chuyện đó dễ hiểu và thông cảm được. Nhưng

khi có sự xung đột giữa quyền lợi cá nhân của Kissinger và của quốc

gia mà ông đang phụng sự, Kissinger đặt quyền lợi cá nhân của ông

trên quyền lợi Hoa Kỳ: Kissinger coi trọng tên tuổi của mình hơn hết.

Brzezinski gọi lối ngoại giao "bí mật, khuynh đảo, lừa dối" của

Kissinger là vô luân, là đi ngược lại những nền tảng của người Mỹ".

Khi đi thương lượng, Kissinger thường nói xấu phía bên kia để lấy lòng

phía bên này; qua bên này lại nói xấu bên kia. Nói chuyện với Trung

Cộng, Kissinger chửi Nga; trước mặt thì vui cười, gọi Leonid Brezhnev

là bạn, nhưng khi nói chuyện với các nhà ngoại giao Anh quốc thì chửi

những nhà lãnh đạo Nga là "nói láo khủng khiếp". Lúc khởi đầu

thương lượng với Tàu, Kissinger khen ngợi Chu Ân Lai và Mao với

Nixon; nhưng khi nói chuyện với Tổng thống Ford về sau này thì gọi

những người đó "những thằng con rơi vô tình cảm". Sau khi Kissinger

bí mật liên lạc với Trung Cộng vào năm 1971, rồi đến chuyến viếng

thăm lịch sử của Nixon vào năm 1972, để lấy lòng lá bài cộng sản Tàu,

Kissinger đề nghị với Chu Ân Lai và Mao Trạch Đông, là Hoa Kỳ sẽ

cung cấp tất cả hình ảnh chụp bằng vệ tinh về vị trí đóng quân của Nga

bên kia biên giới Trung Cộng, và sẽ cập nhật hoá những hình ảnh chiến

lược đó nếu cần. Đến năm 1974, trong lúc thương lượng với Nga về

vấn đề giảm thiểu hoả tiễn nguyên tử liên lục địa, khi đại sứ Nga

Anatoly Dobrynin chất vấn Kissinger về việc Hoa Kỳ cung cấp hình

ảnh vệ tinh cho Trung Cộng, Kissinger trả lời: "Anatoly, bạn nghĩ tôi

tay mơ đến như vậy sao? Đó không phải là chuyện chúng ta cần lo

lắng". Kissinger cũng giả dối, lừa đảo như vậy khi thương lượng giảng

hoà ở Trung Đông giữa Do Thái và khối Ả Rập. Vì sợ người ngoài thấy

được sự gian dối và hai mặt của mình, Kissinger không bao giờ cho ai

biết sự thương lượng đi đến đâu, đang điều đình chuyện gì, và thời

khoá biểu ra sao. Kissinger giấu Ngoại trưởng William Roger khi

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

thương lượng bang giao với Trung Cộng; giấu ban tham mưu liên quân

khi thương lượng về vấn đề giảm thiểu vũ khí chiến lược; và trong

trường hợp Việt Nam, Kissinger giấu Tổng thống Thiệu và cả đại sứ

Ellsworth Bunker khi nói chuyện bí mật với cộng sản Bắc Việt về vấn

đề Việt Nam [26] .

Hầu hết những người phục vụ cùng với Kissinger trong hai chánh phủ

Nixon và Ford, không người nào nhắc đến Kissinger bằng tiếng tốt lời

khen. Những hằn học và khinh bỉ về Kissinger càng gia tăng khi số

lượng hồ sơ liên hệ về những việc làm bí mật của Kissinger được giải

mật sau khi Kissinger rời công vụ, và sau khi hồ sơ mật đã mãn hạn

theo luật định. Theo thời gian, những mảnh nhỏ từ chiếc mặt nạ của

Kisisnger bị rớt ra, và đến nay chúng ta có thể thấy khá rõ khuôn mặt

thật của Kissinger. Rất khôn ngoan, sau khi mãn nhiệm kỳ Tổng trưởng

ngoại giao, Kissinger đem tất cả tài liệt của chính phủ, và tài liệu có

liên hệ đến ông từ lúc còn làm Cố vấn an ninh quốc gia cho đến khi rời

chính quyền, giao cho Thư viện Quốc hội (The Library of Congress)

với điều kiện những tài liệu đó chỉ được bạch hoá năm năm sau khi ông

chết. Tuy nhiên, từ đầu tập niên 1990, dựa vào Bộ luật Quyền Tự do

Tin tức (Freedom of Information Act), Liên hội Báo chí và Tư nhân (sử

gia, chuyên viên nghiên cứu, giáo sư), yêu cầu Nha Văn khố (The

National Archives) và Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ phải giải mật một số

tin tức tài liệu đang nằm trong hồ sơ của Kissinger, nếu những tài liệu

đó không làm nguy hiểm đến nền an ninh quốc gia hay gây nguy hiểm

cho cá nhân nào. Bắt đầu từ đó, một số văn kiện và tin tức được giải

mật và công bố sau khi Toà án Liên bang xử cho phía nguyên cáo. Dựa

vào những tài liệu được giải mật, dựa vào những hồi ký của những

người từng làm việc chung hay có liên hệ với Kissinger, chúng không

thể hoàn toàn tin Kissinger, khi so sánh sự kiện trên thư liệu và những

gì Kissinger viết lại - nhất là những giai đoạn Kissinger thương lượng

ngoại giao bí mật [27] . Sau này, với những chứng cớ được phơi bày, khi

Kissinger được hỏi ông có thể giải thích những khác biệt giữa những gì

ông viết và những gì được ghi lại chánh thức..., Kissinger trả lời là ông

không còn nhớ rõ. Dĩ nhiên, nói theo tâm lý học hiện sinh, Kissinger

chỉ nhớ những gì ông muốn nhớ; và quên những gì ông muốn chối. Đô

đốc Elmo Zumwalt, cựu chỉ huy trưởng hải quân Mỹ ở Việt Nam và

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

sau này là tư lệnh hải quân Hoa Kỳ nói về Kissinger: "Lối viết sử của

Kissinger giống lối viết sử của những người cộng sản: Họ bắt đầu từ

hiện tại và giải thích ngược về trước; từng chi tiết một. Viết sử như vậy

thì lịch sử không xảy giống như đã xảy ra" [28] .

Nhưng trong năm năm làm việc cho Nixon, tại sao Kissinger có thể

lộng hành, tác quái, theo cá tính của ông ta được mà không bị một phản

đối nào từ Nixon hay từ những viên chức cao cấp trong nội các của

Nixon?

Nhiều tổng trưởng, cố vấn quan trọng đã lên tiếng phản đối Kisisnger

với Nixon nhưng vô hiệu quả. Nixon biết lối làm việc của Kissinger,

biết sự va chạm của Kissinger với những cố vấn khác, nhưng ông vẫn

giữ Kissinger vì Nixon cần Kissinger để thi hành những kế hoạch riêng

của Nixon. Chính Nixon thú nhận ông đã dùng một hai cố vấn thân cận

chêm vào giữa Kissinger và các tổng trưởng khác để giảm thiểu những

xung đột xảy ra hàng ngày giữa những cận thần thân tín của ông [29] .

Nixon cần một người như Kissinger để làm những việc mà cương vị

một tổng thống không thể nào làm được.

Nixon không phải là một chính trị gia có đạo đức hay lương thiện khi

chúng ta so sánh ông với những người tiền nhiệm - nhất là sau khi

những liên lạc, âm mưu, và thủ đoạn của Nixon được phơi bày ra công

luận. Nhưng ngược lại, Nixon cũng không phải là một vị tổng thống bất

tài, thiếu những cái nhìn chiến lược.

*

Khi Richard Milhous Nixon trở thành Tổng thống Hoa Kỳ vào ngày 20

tháng Giêng năm 1969, thì Nixon đã có nhiều kinh nghiệm trong đấu

trường chính trị lắm rồi. Nixon đã phục vụ mười bốn năm trong chính

phủ qua những chức vụ như là dân biểu, thượng nghị sĩ, và phó tổng

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

thống trước khi trở thành tổng thống. Trong đoạn đường chính trị đó,

Nixon được đối phương gán cho một hỗn danh là "Tricky Dick". Hỗn

danh đó không quá xa sự thật, dựa vào những thủ đoạn chính trị, ngoại

giao Nixon đã áp dụng ở nội địa và ngoại quốc [30] .

Sanh năm 1913 tại Yobar Linda, California, trong một gia đình vừa đủ

ăn. Theo hồi ký, Nixon nói thời ông còn nhỏ thì gia đình rất vất vả;

nhưng lúc ông được hơn mười tuổi thì nhà có được một trạm bán xăng

và đồ tạp hoá... và tương đối khá giả so với hàng xóm cùng thời. Tốt

nghiệp trung học năm 17 tuổi, muốn qua miền đông theo học đại học

nhưng nhà không đủ tiền nên theo học một trường đại học cộng đồng

tại địa phương. Học được hai năm thì Nixon xin được một học bổng về

luật của trường Đại học Duke ở Durham, North Carolina. Nixon qua

North Carolina theo học và ra trường năm 1937, đứng hàng thứ ba của

khoá tốt nghiệp năm đó. Trở lại California, lấy giấy phép hành nghề và

làm việc cho một văn phòng luật sư ở Whittier. Nixon lập gia đình năm

1940, rồi xin được một việc làm với chính phủ liên bang ở Hoa Thịnh

Đốn vào năm 1941, ngay khi Hoa Kỳ bước vào thế chiến thứ hai [31] .

Làm công chức cho Nha Kiểm soát Vật giá ở Hoa Thịnh Đốn được

chừng một năm thì Nixon tình nguyện đi sĩ quan hải quân. Mãn khoá

căn bản quân sự, Nixon bị thuyên chuyển về Iowa, một tiểu bang ở

miền trung Mỹ với một địa hình làm cho chữ hải quân trở nên khôi hài.

Nhưng theo Nixon, cuộc sống ở Iowa rất bình yên cho cặp vợ chồng

mới lấy nhau, tuy nhiên vì muốn chứng kiến mùi binh lửa, Nixon xin

thuyên chuyển ra mặt trận Thái Bình Dương; và được chấp nhận. Ở

Thái Bình Dương, mùi "binh lửa" mà Nixon kinh nghiệm được, chỉ

dưới cái nhìn của một sĩ quan tiếp liệu, đóng ở những căn cứ hải quân

dã chiến trên các đảo vừa chiếm lại được từ Nhật như New Caledonia,

Bougainville, Guadalcanal.

Sau cuộc chiến, do sự thúc giục của các chức sắc trong Đảng Cộng hoà,

Nixon quyết định ra tranh cử dân biểu của đơn vị nơi ông đang cư ngụ.

Kết quả là Nixon được đắc cử với số phiếu khá xa đối phương. Trong

thời gian làm dân biểu của Quốc hội thứ 80, Nixon được nhiều người

biết đến vì được chỉ định nằm trong một uỷ ban điều tra về những công

chức thân cộng đang phục vụ trong chính phủ Mỹ. Làm dân biểu sắp

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

hết nhiệm kỳ thì Nixon quyết định tranh cử nghị sĩ. Và trong cuộc bầu

cử quốc hội năm 1950, Nixon thắng với tỉ số cao nhất trong các cuộc

bầu cử nghị sĩ trên toàn quốc.

Năm 1951 trong một chuyến đi công lý bên Âu Châu, Nixon có dịp tiếp

chuyện với thống tướng Eisenhower, lúc đó là Tổng tư lệnh quân đội

NATO đóng ở Paris. Khi trao đổi ý kiến qua lại, Nixon nghĩ

Eisenhower là người xứng đáng ra tranh cử tổng thống vào năm 1952.

Trong vòng nội Đảng Cộng hoà năm đó, Robert Taft (con trai Tổng

thống thứ 26, William Howard Taft) và Dwight Eisenhower là hai

người có cơ hội đánh bại Adlai E. Stevenson của Đảng Dân chủ (cháu

nội cựu Phó tổng thống Mỹ có cùng tên, thời Tổng thống thứ 24,

Grover Cleveland). Với cuộc chiến đang xảy ra ở Đại Hàn; với làn sóng

đỏ đang lấn dần ở Á Châu và Âu Châu, cử tri đoàn của Đảng Cộng hoà

- và quan điểm của đa số của dân Mỹ lúc đương thời - nghĩ Eisenhower

là ứng cử viên thích hợp cho thời cuộc: Eisenhower đã thắng Đức Quốc

xã; Eisenhower sẽ đủ khả năng ngăn chận làn sóng đỏ trong thời kỳ bạo

hành nhất sau đệ nhị thế chiến. Theo hồi ký, Nixon nói từ đầu năm

1952, Robert Taft có đến nói chuyện và nhờ ông ủng hộ Taft. Nhưng

Nixon nói thẳng ông kính trọng Taft, nhưng đã dành sự ủng hộ cho

Eisenhower. Với thái độ đó, Nixon được nội bộ của Eisenhower mời

đến nói chuyện.

Sau khi Eisenhower được Đảng Cộng hoà đề cử, ông chọn Nixon để

đứng chung liên danh [32] . Liên danh Eisenhower-Nixon thắng hai

nhiệm kỳ liên tiếp - năm 1952 và 1956. Tuy nhiên vào năm 1956,

không hiểu gì lý do gì, cử tri chọn tổng thống và phó tổng thống Đảng

Cộng hoà nhưng lại dồn phiếu cho dân biểu và nghị sĩ thuộc Đảng Dân

chủ, một hiện tượng chính trị lần đầu tiên xảy ra trong 108 năm của lịch

sử chính trị Hoa Kỳ [33] . Trong tám năm làm Phó tổng thống, Nixon

giữ vai trò như một đại sứ lưu động cho Tổng thống Eisenhower: ông

công du vòng quanh thế giới, diễn đạt chủ thuyết tự do của Hoa Kỳ và

đồng minh vis-a-vis chủ nghĩa cộng sản đang hăm doạ quyền tự do căn

bản của nhân loại. Một trong những chuyến công du, Nixon có viếng

thăm Việt Nam năm 1953; tranh luận với Nikita Khrushschev năm

1959 ở Moscow; và chuyến viếng thăm gây ra nhiều biểu tình bạo động

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

ở Venezula vào năm 1958 - một thời điểm chống Mỹ cao nhất ở các

quốc gia Nam Mỹ sau khi Fidel Castro chiếm được Cuba. Trong tám

năm đó, Nixon được dư luận và báo chí đề cập nhiều vì thái độ cứng

rắn trong đường lối đương đầu với cộng sản quốc tế [34] .

Eisenhower, sau khi mãn hạn hai nhiệm kỳ tổng thống theo hiến định,

nhường ghế thủ lãnh Đảng Cộng hoà lại cho Nixon. Nixon đương nhiên

được Đảng đề ra tranh cử tổng thống năm 1960. Cuộc bầu cử năm 1960

giữa hai liên danh Nixon-Lodge và Kennedy-Johnson được coi là một

cuộc bầu cử có tỉ số chênh lệch sát nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Nixon

thua Kennedy chỉ 113000. phiếu trong tổng số 68 triệu 400 ngàn phiếu

cử tri. Theo Nixon, chỉ cần thay đổi nửa phiếu ở mỗi đơn vị đầu phiếu

thì kết quả cuộc bầu cử đã thay đổi. Có tin đồn nhiều vụ gian lận phiếu

xảy ra ở hai tiểu bang Texas và Illinois... nhưng Nixon quyết định chấp

nhận thua Kenney với kết quả công bố [35] .

Thua chức Tổng thống vào tay Kennedy, Nixon trở lại California nhận

làm việc cho một công ty luật quen biết từ lâu. Nhưng với những kinh

nghiệm và quen biết về chính trị từ trước, tuy trở lại một công dân

thường hành nghề luật sư, nhưng Nixon vẫn tiếp tục sinh hoạt khi được

những hội đoàn chính trị mời đến phát biểu ý kiến. Cuối năm 1961, qua

sự thúc giục của cấp lãnh đạo Đảng Cộng hoà, Nixon quyết định ra

tranh cử chức Thống đốc tiểu bang California. Qua những thăm dò ý

kiến sơ khởi, đa số ý kiến cho thấy Nixon sẽ đánh bại đối phương dễ

dàng. Nhưng không may cho Nixon vào năm đó: trong những tháng

cuối cùng của cuộc bầu cử, báo chí California phanh phui ra là, em ruột

của Nixon dựa vào tên tuổi của anh mình để mượn một số tiền khá lớn

từ một công ty chuyên đấu thầu làm ăn với chính phủ Hoa Kỳ. Mặc dù

vụ phanh phui đó không dẫn đến đâu, nhưng thanh danh của Nixon bị

nghi ngờ vì báo chí đặc câu hỏi suốt thời gian tranh cử. Cái xui thứ hai

cho Nixon - và cho cả đảng Cộng Hoà - là Kennedy, trong cuộc đối

diện với Khrushchev ở Vịnh Cuba tháng 101962., đã dằn mặt Nga Sô

bằng một thái độ thật cứng rắn khiến Nga phải tháo gỡ vũ khí nguyên

tử khỏi Cuba. Vụ "thắng" được Khrushchev đã đưa Kennedy và Đảng

Dân chủ lên cao trong lòng tin của cử tri Hoa Kỳ. Với hai biến cố đó,

Nixon thất cử chức Thống đốc tiểu bang California - Nixon thua xa.

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

Liền sau đó, qua một cuộc trao đổi với báo chí trong lúc được phỏng

vấn, Nixon không dằn được nóng giận, công kích giới báo chí đã không

công bằng khi điều tra và phanh phui, đặt nghi vấn về tư cách và liêm sĩ

của ông. Lần đó Nixon thề ông sẽ không trở lại chính trường; và báo

chí sẽ không bao giờ còn cơ hội để "đá lăn đá lóc" ông nữa. Lời tuyên

bố của Nixon một lần nữa được giới truyền thông trên cả nước Mỹ bàn

tán [36] .

Thua cuộc ở California; tuyên bố sẽ không bao giờ trở lại với chính trị,

Nixon dọn về New York khi được một công ty luật danh tiếng mời gia

nhập. Nhưng khi về New York, Nixon lại được thêm nhiều thân chủ cả

về mặt thương mại lẫn chính trị: về thương mại, Nixon đại diện cho

nhiều đại công ty có sản phẩm và chi nhánh trên toàn thế giới; về chính

trị, Nixon vẫn được nhiều ứng cử viên trong Đảng Cộng hoà mời diễn

thuyết giúp họ lấy phiếu cử tri ở cấp tiểu bang và quốc hội. Nixon giúp

những ứng cử viên Đảng Cộng hoà khi được kêu gọi, nhưng rất bí mật

và yên lặng về những dự tính chính trị trong tương lai. Từ năm 1962

đến cuối năm 1964, Nixon đứng bên ngoài chính trường, yên lặng quan

sát cuộc bầu cử tổng thống năm 1964 giữa hai liên danh Johnson-

Humphrey và Goldwater-Miller. Năm 1964 Đảng Cộng hoà bị thảm bại

ở phòng phiếu: Goldwater thua Johnson đến 16 triệu phiếu phổ thông;

434 phiếu cử tri đoàn; và chỉ thắng được 6 trên 50 tiểu bang. Chẳng

những được ghế Tổng thống, Đảng Dân chủ còn gia tăng số nghị viên

của họ ở hai viện quốc hội. Sự thất bại ê chề của Barry Goldwater đưa

uy tín Nixon lên cao hơn trong các tay lãnh đạo Đảng Cộng hoà còn lại.

Cùng thời gian ở ngoài vòng chính trị đó, Nixon có dịp đi nhiều nơi

trên thế giới, nói chuyện với nhiều nhà lãnh đạo, thấy được phản ứng

và thái độ của họ đối với chính sách ngoại giao Hoa Kỳ dưới quyền

lãnh đạo của Johnson.

Năm 1965, khi Johnson bắt đầu đưa quân tác chiến vào Việt Nam,

Đảng Cộng hoà kiếm cớ chỉ trích Tổng thống Johnson để hy vọng lấy

được phiếu trong mùa bầu cử tới. Riêng cá nhân Nixon, dù nói với mọi

người là ông chưa quyết định trở lại với chính trị, nhưng trong năm đó

Nixon nói chuyện nhiều về chính trị hơn là về nghề nghiệp. Thư từ liên

lạc, lời mời đi diễn thuyết chính trị nhiều đến độ người thư ký và vợ

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

ông làm không hết. Nixon mướn thêm nhân viên để bắt đầu thiết lập

một ban tham mưu chẩn bị cho hai kỳ bầu cử quan trọng của năm 1966

và 1968 [37] . Cuối năm 1965, để coi ảnh hưởng chính trị của mình còn

hay không đối với cử tri Hoa Kỳ, Nixon quyết định đứng ra vận động

giùm cho các ứng cử viên thuộc Đảng Cộng hoà trong mùa bầu cử quốc

hội và thống đốc năm 1966. Trong mùa bầu cử năm 1966, Nixon nói

chuyện với hơn 400 hội đoàn ở 40 tiểu bang, và quyên được hơn bốn

triệu mỹ kim để vận động bầu cử cho các ứng cử viên Đảng Cộng hoà.

Khi kết quả cuộc bầu cử năm 1966 được công bố, Nixon biết tương lai

chính trị của mình đang trên đường khôi phục: nhờ những vận động và

hỗ trợ của Nixon, Đảng Cộng hoà thắng 47 ghế ở Hạ viện; 3 Thượng

viện; 8 thống đốc; và 470 nghị viên ở quốc hội cấp tiểu bang. Đảng

Cộng hoà thắng lớn lần này giống như Đảng Dân chủ đã thắng hai năm

về trước. Và Nixon có quyền nói - cũng như không ai phủ nhận - nhờ

có bàn tay Nixon trong chiến thắng đó.

Đầu năm 1967 Nixon quyết định: ông ra lệnh cho ban tham mưu chuẩn

bị thâu thập tin tức, nghiên cứu tình hình chính trị để chuẩn bị cho năm

bầu cử tổng thống 1968. Nixon nói với ban tham mưu ông vẫn yên lặng

và giữ kín kế hoạch chính trị đến giữa năm 1967, nhưng ông đốc thúc

ban tham mưu phải làm việc hăng hái hơn để có thể đánh bại các đối

thủ trong đại hội đề cử toàn quốc của Đảng Cộng hoà vào mùa hè 1968.

Từ tháng Giêng cho đến tháng 6.1967, Nixon đi thăm viếng nhiều nơi

trên thế giới (trong đó có Việt Nam) một lần nữa để thăm dò phản ứng

thế giới về đường lối ngoại giao đương thời của Mỹ. Khi đến Á Châu,

Nixon nói với hầu hết các nhân vật lãnh đạo để lấy cảm nghĩ của họ về

vai trò của Hoa Kỳ ở Á Châu, đối với Trung Cộng, và đối với cuộc

chiến đang xảy ra ở Việt Nam. Trở lại Mỹ, sau khi đi thăm cựu Tổng

thống Eisenhower và nói chuyện với hầu hết các thống đốc tiểu bang

thuộc Đảng Cộng hoà, Nixon viết một tham luận, nói lên ý kiến về

đường lối ngoại giao Hoa Kỳ đối với Á Châu, nhất là đối với Trung

Cộng. Đại ý chính của bài viết đăng tạp chí Foreign Affairs là: Cộng

sản Trung Cộng chỉ buông tha - nếu không nói là không xâm lấn được -

các quốc gia lân bang ở Á Châu, nếu các quốc gia này có sức lực về

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

kinh tế, quân sự và chính trị... Và Hoa Kỳ chỉ nói chuyện với Trung

Cộng nếu quốc gia này chấp nhận những luật lệ căn bản quốc tế. Hoa

Kỳ muốn thấy Trung Cộng phát triển theo cộng đồng thế giới, chứ

không phải là một trung tâm của cách mạng thế giới [38] .

Dựa vào nhiều cuộc thăm dò dư luận, sau khi biết chắc mình đang đứng

ngang ngửa với các ứng cử viên tổng thống của hai đảng, Nixon tuyên

bố ra tranh cử tổng thống vào đầu năm 1968. Nixon không quan tâm

nhiều về hai đối thủ trong cùng Đảng Cộng hoà là Rockefeller và

George Romney; Nixon chỉ sợ phải đương đầu với đương kim Tổng

thống Johnson. Nhưng khi Johnson tuyên bố không ra tái cử thêm một

nhiệm kỳ nữa, và phía Dân Chủ chỉ còn Hubert Humphrey và George

Wallace, Nixon thấy bớt lo ngại đối với hai đối thủ còn lại. Từ lúc

tuyên bố ra tranh cử cho đến những ngày cuối cùng trước khi đầu

phiếu, Nixon lúc nào cũng dẫn đầu đối phương không ít thì nhiều.

Đương kim Tổng thống Johnson, sau khi không ra tái cử, tìm nhiều

cách giúp Humphrey lấy phiếu cử tri. Nhưng hoặc là quá trễ, hoặc là

lòng cử tri Mỹ đã muốn thay đổi, Humphrey chưa bao giờ đứng trước

Nixon trong các cuộc thăm dò dư luận người đi bầu.

Vấn đề sôi động nhất của năm bầu cử 1968 là chiến tranh Việt Nam.

Biết được sự ưu tư của quần chúng Mỹ về vấn nạn đó, Nixon cẩn thận

chỉ trích từng điểm sai lầm của chính phủ Johnson trong cuộc chiến và

trong sách lược giải quyết cuộc chiến. Khi Johnson ra lệnh ngưng dội

bom để khuyến khích Hà Nội ngồi vào bàn hội nghị, Nixon ngoài mặt

lên tiếng ủng hộ, nhưng ở phía sau, Nixon sai những phụ tá lên tiếng

chỉ trích Johnson đã quyết định quá hấp tấp. Như đã nói đến ở chương

trước, Nixon bí mật liên lạc với Tổng thống Thiệu, khuyên ông Thiệu

phản đối kế hoạch của Johnson. Với những mánh khoé chính trị đó,

Nixon rất xứng đáng với hỗn danh "Tricky Dick" [39] . Nixon đắc cử

năm 1968; tỉ số thắng không xa, nhưng đủ thắng. Cũng vào năm bầu cử

1968, trong khi Đảng Cộng hoà chiếm được toà Bạch ốc, toà nhà Quốc

hội thì rơi vào tay Đảng Dân chủ: ở Thượng và Hạ viện, Đảng Dân chủ

chiếm khối đa số.

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

[1]Tuần báo Der Studermer của Julius Streicher hô hào nhiều đường lối

bạo hành và sự triệt tiêu toàn diện chủng tộc Do Thái. Sau khi Đức đầu

hàng, Streicher bị đưa ra tòa án tội phạm chiến tranh ở Nuremberg, và

bị kết án tử hình bằng treo cổ.

[2]Về giai đoạn từ thiếu thời cho đến ngày Kissinger nhập ngũ, đọc:

Walter Isaacson, Kissinger: A Biography, trang 17-39.

[3]Isaacson, Sđd, trang 53. Về thân thế và trí thức của Kraemer, đọc:

Issacson, trang 44-45; Marvin Kalb và Bernard Kalb, Kissinger, trang

38-39.

[4]Isaacson, Sđd, trang 61-64. Trong phạm vi triết học, Luận về lý trí

thuần tuý và Luận về lý trí thực tiễn là hai tác phẩm được coi là khó

hiểu nhất của Immanuel Kant.

[5]Tiểu luận ra trường bậc cử nhân của Kissinger có tựa là "The

Meaning of History: Reflections on Spengler, Toynbee and Kant". Giới

sinh viên đồn với nhau là Carl Friedrich (hay là Elliott), một trong

những giáo sư triết của Kissinger ở Harvard, chỉ đọc đến 150 trang tiểu

luận của Kissinger rồi bỏ vì giọng văn quá chán. Kissinger đậu bằng cử

nhân hạng summa cum laude (tối ưu). Đọc: Isaacson, Sđd, trang 64- 67;

Marvin Kalb và Benard Kalb, Kissinger, trang 42-46.

[6]Mỗi khoá hội thảo có chừng 35 hội viên tham dự, đến từ mọi nơi trên

thế giới. Một trong số những người đến Harvard International Seminar

sau này lãnh đạo nước họ, như các thủ tướng, tổng thống, là Valery

Giscard dEstaíng (Pháp); Yasuhiro Nakasone (Nhật); Leo Tindermans

(Bỉ); Mahathir Bin Mohammad (Mã Lai Á); Bulent Ecevit (Thổ Nhĩ

Kỳ); Yigal Allon (Do Thái); hay Pierre Trudeau (Gia Nã Đại). Chương

trình kéo dài đến năm 1967 thì bị báo chí khui ra là do CIA cấp ngân

quỹ. Chương trình Harvard International Seminar chấm dứt vào năm

1969.

[7]Một số tác giả góp bài viết cho Confluence là McGeorge Bundy; Paul

Nitze; Hans Morgenthau; Czeslaw Milosz; Walt Rostow; Arthur

Schlesinger; John Kenneth Galbraith. Trong thời gian đó, có tin đồn

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

Kissinger làm mật báo viên cho FBI. Không chắc chắn tin đồn này có

thật hay không, nhưng đặc san Confluence với khuynh hướng chống

chủ nghĩa cộng sản rất được lòng Chính phủ Hoa Kỳ trong giai đoạn

đầu của chiến tranh lạnh. Hơn nữa, Harvard International Seminar là

một nơi qui tụ nhiều thành phần ưu tú quốc tế... nên sự chú ý của các

cơ quan tình báo Hoa Kỳ không phải là một điều ngạc nhiên. Một chi

tiết khác đáng chú ý: theo hai tác giả Marvin Kalb và Bernard Kalb

trong Kissinger (trang 49), trong hai năm 1951-52, Kissinger được

mướn làm cố vấn tư cho lục quân, và Ban tham mưu liên quân, với

nhiệm vụ nghiên cứu về quân đội Hoa Kỳ ở Nam Hàn, và về chiến lược

tâm lý chiến. Hồ sơ và tường trình của FBI về Kissinger được nhắc đến

trong Isaacson, Sđd, trang 71; và ở phụ chú 23.

[8]Về vai trò và lý thuyết ngoại giao của Metternich và Castlereagh, đọc

Isaacson, Sđd, trang 74-77; David Landau, Kissinger: The Uses of

Power, trang 29-30; và Kalb, Sdd, trang 46-48. Luận án của Kissinger

được một giải thưởng về giá trị khoa bảng.

[9]Arthur Schlesinger, Jr là bạn của John F. Kennedy. Khi Kennedy trở

thành tổng thống, Schlesinger được Kennedy mời làm phụ tá đặc biệt.

Khi Kennedy chết, Schlesinger được gia đình Kennedy mời làm sử gia

chính thức của cố Tổng thống Kennedy. Trong thập niên 1950, dưới

thời Tổng thống Eisenhower, chiến lược nguyên tử của Hoa Kỳ và

đồng minh NATO là trả đũa toàn bộ và huỷ diệt toàn bộ nếu phải khai

chiến với Nga Sô hay chư hầu. Schlesinger chỉ trích kế hoạch này

không còn hiệu quả vì Nga Sô đã theo kịp Hoa Kỳ về số lượng vũ khí

nguyên tử sản xuất hàng năm. Bài phê bình của Kissinger, "Military

Policy and the Defense of the Grey Areas," (Foreign Affairs, April,

1955) cũng đi theo đường lối tương tự như của Schlesinger, nhưng

nhấn mạnh một chủ thuyết mới về đường lối sử dụng vũ khí nguyên tử:

giới hạn và theo từng vùng, từng địa phương; sự trả đũa của Hoa Kỳ và

đồng minh là một sự trả đũa giới hạn tuỳ theo vùng xâm lấn và mức

xâm lấn của Nga Sô và chư hầu.

[10]Council on Foreign Relations là một tổ chức tư, do gia đình tỉ phú

Rockefeller thành lập năm 1921. Với ảnh hưởng về kinh tế và thế lực

tài chánh, Rockefeller Foundation mời và chiêu dụ được rất nhiều nhân

vật danh tiếng trong xã hội Mỹ về làm giám đốc và đứng trong ban

chấp hành. Các giám đốc của Council on Foreign Relations phần lớn là

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

những người lãnh đạo trong chính quyền về hưu, hay từ nhiệm để về

làm cho Council. Tờ Foreign Affairs do Council on Foreign Relations

ấn hành; chủ biên của tờ đó là những người có rất nhiều kinh nghiệm

trong Chính phủ Mỹ, như William Bundy, William Hyland, Leslie

Gelb... Về một số khuôn mặt trong Council, đọc David Landau, Sdd,

trang 43-48; Kalb, Sđd, 52-58.

[11]Hai phía khen chê tác phẩm của Kissinger đều đến từ những người

có tên tuổi. Phó tổng thống Nixon viết thư riêng khen ngợi; ngoại

trưởng John Foster Dulles đồng ý lý thuyết "chiến tranh giới hạn và vũ

khí nguyên tử chiến thuật" có lý (Dulles là người từng hăm doạ Nga

Sô, nếu có chiến tranh, thì đó sẽ là một chiến tranh toàn diện; một sự

huỷ diệt không giới hạn). Giới chỉ trích lý thuyết của Kissinger có

những người như George Kennan, Paul Nitze, Dean Rusk, là những tay

lão luyện trong ngành ngoại giao Hoa Kỳ. Đọc Landau, Sđd, trang 55-

57; 76-78; Isaacson, Sdd, trang 88-90; Charles R. Ashman, The

Adventure of Super-Kraut, trang 65-68; Kalb, Sđd, trang 54-55.

Kissinger trả một giá đắt về phương diện tình cảm gia đình cho công

trình này. Kissinger sống trong một thế giới hoàn toàn khác biệt trong

thời gian viết sách: ông ta yều cầu vợ không được nói chuyện với ông

nếu không cần thiết. Đọc Kalb, Sđd, cùng trang đã dẫn.

[12]Nelson Aldrich Rockefeller (1908-1979) là cháu nội của nhà tỉ phú

đầu tiên, John D. Rockefeller. Khởi đầu từ John Rockefeller, dòng họ

Rockefeller thành lập vô số cơ sở bất vụ lợi lo về từ thiện, giáo dục,

cũng như kinh tế, ngoại giao hay chính trị. Đại Học Chicago; Đại học

Rockefeller; Council on Foreign Relations; Rokefeller Brothers Fund...

là một trong những cơ sở tượng trưng của dòng họ Rockefeller. Nelson

Rockefeller làm Thống đốc tiểu bang New York gần bốn nhiệm kỳ (10

năm) rồi ra tranh cử ứng viên tổng thống sơ tuyển trong Đảng Cộng

hoà. Năm 1974 ông là Phó tổng thống dưới thời Tổng thống Gerald

Ford.

[13]Theo Isaacson, Sđd, trang 92, năm 1960 Nelson Rockefeller trả cho

Kissinger 12.000$; năm 1964, 18.000$; và năm 1968, 20.000$. Như

một so sánh, 12 ngàn mỹ kim của năm 1960 tương đương với 50 ngàn

của năm 2000; và 50 ngàn mỹ kim Kissinger nhận từ Rockefeller vào

năm 1969, tương đương 200 ngàn hiện nay.

[14]Như chúng ta biết, năm 1960 Henry Cabot Lodge đứng chung liên

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

danh với Richard Nixon của Đảng Cộng hoà tranh cử đối lại liên danh

Kennedy-Johnson Đảng Dân chủ. Liên danh Kennedy thắng cử. Nhưng

để có một ý kiến đa đảng trong đường lối ngoại giao về Việt Nam,

Kennedy bổ nhiệm Lodge làm đại sứ tại Sài Gòn năm 1963. Lodge ra

mặt ủng hộ cuộc đảo chánh Tổng thống Diệm; và sau khi cuộc đảo

chánh thành công, Lodge từ nhiệm trở lại Hoa Kỳ tham dự cuộc bầu cử

tổng thống năm 1964. Lần này Johnson của Đảng Dân chủ cũng thắng

nữa, và Johnson lại bổ nhiệm Lodge làm đại sứ tại Việt Nam lần thứ

hai. Khi nhận nhiệm sở vào năm 1965, Lodge yêu cầu Thứ trưởng Vụ

Viễn Đông, William Bundy (anh của McGeorge Bundy, Cố vấn An

ninh Quốc gia cho Kennedy và Johnson) mướn con của ông (đang là

một giáo sư dạy ở Harvard) và Kissinger để làm tư vấn cho ông về vấn

đề Việt Nam. Lodge nói lý do ông cần hai người đó vì ông muốn có

một cái nhìn mới về vấn đề Việt Nam từ những chuyên viên ở bên

ngoài, thay gì những ý kiến của các nhân viên chính phủ từ bên trong

như đã và đang xảy ra. Henry Cabot Lodge có liên hệ sâu đậm đối với

Việt Nam từ năm 1963 cho đến lúc ông từ chức Trưởng phái đoàn

thương thuyết ở Hội nghị Paris vào giữa năm 1969, khi Nixon lên

nhậm chức Tổng thống.

[15]Lối làm việc của Kissinger là ông tường trình cho từng người nghe,

và không bao giờ có nhiều người nghe cùng một lúc. Theo một nhân

vật trong cuộc, những tường trình của Kissinger không nhất thiết giống

nhau khi ông báo cáo lại cho mỗi thẩm quyền. Marvin and Bernard

Kalb, Sđd, trang 68.

[16]Marcovich lúc đó là một nhà sinh vật học vi phân; Aubrac, tốt

nghiệp từ hai đại học nổi tiếng MIT và Harvard, là viên chức của Liên

hiệp quốc, làm cho cơ quan Lương nông Thế giới ở Rome. Theo

Aubrac, năm 1946, khi Hồ Chí Minh qua Pháp thương thuyết với

Chính phủ Pháp về vấn đề chủ quyền của Việt Nam, ông ở nhà Aubrac,

và hai người thân nhau đến độ ông Hồ Chí Minh nhận con của Aubrac

làm con đỡ đầu. Xem David Kraslow và Stuart H. Loory, The Secret

Search for Peace in Vietnam, trang 219-224. Sử liệu cộng sản Việt

Nam viết về những hội họp bí mật trong thời gian đầu nằm trong, Lưu

Văn Lợi và Nguyễn Anh Vũ, Tiếp xúc bí mật Việt Nam - Hoa Kỳ trước

Hội nghị Paris (Hà Nội: Quân Đội Nhân Dân, 2000).

[17]Về những liên lạc ngầm đầu tiên này với mật danh "Pennsylvania"

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

đọc Isaacson, Sđd, trang 121-123. Cuộc hội ngộ giữa Hồ Chí Minh và

Aubrac ở Hà Nội được ghi lại trong Kalb, Sđd, trang 71-73. Tài liệu

chính phủ Hoa Kỳ sơ lược từng chi tiết về "Pennsylvania" nằm trong

The Pentagon Papers, Gravel Edition, Vol. IV, Chương 4.

[18]Tranh cử vòng sơ tuyển nội đảng là primaries và caucuses để chọn

một trong những ứng cử viên cùng một đảng, trước khi đi đến nghị hội

đề cử toàn quốc (national nomination convention). Ở nghị hội đề cử,

ứng cử viên có nhiều phiếu từ những đại biểu các tiểu bang sẽ được

đảng đề cử ra tranh cử với ứng cử viên của đảng đối lập. Bộ sách The

Making of the President của Theodore White là bộ sách rất hay để biết

về hệ thống bầu cử, vận động bầu cử, và đường lối chính trị chung

quanh nền tổng thống hiện đại Hoa Kỳ.

[19]Isaacson, Sđd, trang 126-128.

[20] Isaacson, op. cit., trang 214. Người gọi mời Kissinger là Richard

Allen, sau này là Cố vấn An ninh Quốc gia cho Tổng thống Ronald

Reagan trong một thời gian ngắn.

[21]Về những tin tức Kissinger cung cấp cho Nixon về hội đàm ở Paris,

và những gì Nixon biết được từ những đường giây khác (Chennault,

Bùi Diễm...), tác giả đã viết một số chi tiết ở chương 9. Tổng thống

Nixon trong The Memoirs of Richard Nixon, trang 323- 324, nói những

tin tức do Kissinger cung cấp đôi khi mơ hồ và có vẻ bí mật. Nixon nói

ông nhận tin từ Kissinger nhưng không hoàn toàn tin lắm.

[22]Phụ tá quân sự cho Cố vấn An ninh Quốc gia thường là cấp chuẩn

tướng trở lên. Kissinger nhận Alexander Haig làm phụ tá cho ông lúc

Haig còn là đại tá. Haig được thăng chuẩn tướng đầu năm 1970 để có

cấp bực phù hợp với chức vụ. Người phụ tá quân sự thứ nhì của

Kissinger là trung tướng không quân Brent Scowcroft. Scowcroft thay

Kissinger làm Cố vấn An ninh Quốc gia cho Tổng thống Ford.

[23]Isaacson, Sđd, ý kiến của Ulam về Kissinger ở trang 97-98;

Brzezinski, trang 699-700; Halperin và Schlesinger, trang 763-764.

Chương 34 trong sách của Isaacson nói rất hay và sâu sắc về tâm lý của

Kissinger.

[24]Isaacson, Sđd, trang 762. Để giới hạn khuôn khổ của các phụ chú

trong bài viết, người viết chỉ chú dẫn những lời phê bình, chỉ trích quan

trọng về tư cách và đạo đức Kissinger. Ngoài một số thư liệu phụ,

người viết đọc năm tác phẫm viết về Kissinger để soạn chương này:

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

Kissinger, của hai anh em ký giả Marvin Kalb và Bernard Kalb;

Kissinger: A Biography, của Walter Isaacson; Kissinger: The Uses of

Power, của David Landau; The Trial of Henry Kissinger, của

Christopher Hitchens; và The Price of Power: Kissinger in the Nixon

White House, của Seymour M. Hersh. Sách của anh em Kalb viết thiên

vị về Kissinger; Isaacson thì viết trung thực, có khen chê. Sách của

Hersh và Landau hoàn toàn nói về những khiếm khuyết đạo đức và tư

cách lừa dối của Kissinger. Sách của Hitchens như tựa sách đã gợi ý kết

án Kissinger về vụ đảo chánh bên Chí Lợi và những vụ dội bom bí mật

ở nội địa Cam Bốt. Về sự khó chịu của Kenendy đối với Kissinger, đọc

Isaacson, Sđd, trang 111.

[25]Haig nói, "Kissinger thăng cấp để cho tôi văng khỏi toà Bạch ốc",

Seymour, Sđd, trang 621. Alexander Haig được thăng chức từ thiếu

tướng lên đại tướng trong vòng sáu tháng (mang chức Đại tướng, Tư

lệnh phó lục quân, vào tháng 1.1973; tháng 6.1972 vẫn còn mang lon

thiếu tướng).

[26]Isaacson, Sđd, trang 764-765; đối thoại giữa Kissinger và Mao Trạch

Đông, Chu Ân Lai; và Leonid Brezhnev. Anatoly Dobrynin, nằm trong

tài liệu thuộc Nixon Presidential Materials Collection/Presidént's

Office Files/Memoranda for the President, hiện lưu trữ tại National

Archives. Nhật báo Washington Post có sơ lược nội dung trong số báo

ra ngày Chủ Nhật 10.1.1999. Trong khoảng 1969-1974, các chuyên

viên quan sát quốc tế đều biết Hoa Kỳ đang dùng lá bài Trung Cộng để

chèn ép Nga và dùng lá bài Nga để đưa Trung Cộng vào quỹ đạo quốc

gia tư bản Tây phương. Từ những tài liệu giải mật nói trên, nhiều văn

kiện cho thấy Nga đã gián tiếp hỏi Mỹ nghĩ thế nào nếu họ tấn công

những căn cứ chiến lược của Trung Cộng bằng vũ khí nguyên tử. Vào

tháng 4.1972, Kissinger bí mật gặp đại sứ Trung Cộng tại Liên hiệp

quốc là Hoàng Hoa, đề nghị Mỹ sẽ cung cấp thêm những phóng ảnh vệ

tinh về vị trí các đơn vị của Nga dọc theo biên giới Nga-Hoa. Trong

cuộc gặp bí mật đó, không biết hai bên có bàn gì liên hệ đến Việt Nam

hay không (thời gian đó là ngay vào trận "mùa hè đỏ lửa"), nhưng vài

tháng sau, Hoàng Hoa viết thư cho Kissinger hỏi Hoa Kỳ có phản ứng

gì khi Trung Cộng tiến chiếm quần đảo Hoàng Sa hay không. Kissinger

trả lời là hạm đội Mỹ được lệnh tránh xa khỏi những quần đảo đang

tranh chấp đó, và Chính phủ Hoa Kỳ không có ý kiến hay muốn tham

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

sự vào những tranh chấp đang xảy ra. Được đèn xanh, hải quân Trung

Cộng tiến đánh quần đảo Hoàng Sa vào tháng 11.974. Đọc thêm,

Nayan Chanda, Brother Enemy, trang 20-21; Kissinger, White House

Years, trang 1114.

[27]Kissinger viết tất cả (đến năm 2002) 15 quyển sách và 45 tiểu luận.

Trong số đó bốn tác phẩm có nhắc đến Việt Nam là White House Years

(1979); Years of Upheaval (1982); Diplomacy (1994), và Ending the

Vietnam War (2002). Chúng ta sẽ nói đến những chi tiết liên hệ trong

những tác phẩm này ở chương tới.

[28]Larry Berman, No Peace, No Honor: Nixon, Kissinger, and the

Betrayal in Vietnam, trang 9. Đọc, Elmo Zumwalt, On Watch, trang

411-511, để thấy Ban tham mưu liên quân khinh miệt Kissinger như thế

nào. Sau khi giải ngũ, Zumwalt là người công khai chỉ trích tư cách của

Kissinger trong các vụ thương lượng ngoại giao. Đọc Isaacson, Sđd,

trang 696-698.

[29]Đọc RN: The Memoirs of Richard Nixon, trang 443-444.

[30] Hỗn danh "Tricky Dick" được nữ dân biểu Hellen Douglas gọi

Nixon lần đầu tiên khi hai người tranh ghế nghị sĩ vào năm 1950.

"Dick" là tiếng rất thân mật để gọi tên "Richard". Trong tập quán Mỹ,

chỉ cha mẹ, người thân lâu đời, hay được cho phép, thì mới gọi người

có tên Richard là Dick. Nhưng, "dick" lại là tiếng lóng tục để chỉ

dương vật của đàn ông. "Tricky" là mánh khoé, mưu mô. Đây là một

lối chơi chữ khi gọi Richard Nixon là "Tricky Dick".

[31]Phần lớn những chi tiết về cá nhân của Nixon, tác giả trích theo hồi

ký của Richard Nixon, RN: The Memoirs of Richard Nixon.

[32]Richard Nixon, Sđd, trang 78-88. Nhưng liên danh Eisenhower -

Nixon gặp nhiều trở ngại từ lúc được đề cử cho đến ngày bầu cử vì

Nixon bị tố cáo đang sử dụng một quỹ đen do nhiều thương gia cung

cấp, để vận động cho quyền lợi của họ ở quốc hội. Sau này, trong năm

năm rưỡi làm tổng thống (1969-1974), Nixon lại bị báo chí và đối thủ

khui ra chuyện sử dụng quỹ đen thêm lần nữa. Về những nghi vấn của

quỹ đen năm 1952, đọc cùng sách, trang 92-110.

[33]Những năm bầu cử tổng thống cũng là năm bầu lại tất cả dân biểu và

một phần ba thượng nghị sĩ (và một số thống đốc ở các tiểu bang).

Thông thường, uy tín chính trị của ứng cử viên tổng thống giúp thêm

các ứng cử viên quốc hội cùng đảng lấy thêm được cử tri, và như vậy,

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

người tổng thống tương lai có được đa số nghị viên cùng đảng trong

quốc hội một lợi thế cho tổng thống khi cần dự luật nào đó được phê

chuẩn. Ít khi nào một đảng thắng chức Tổng thống nhưng lại thua tỉ lệ

đa số ở hai viện Quốc hội như trường hợp của Eisenhower vào năm

1956. Năm 1972 hiện tượng chính trị này xảy ra một lần nữa: Nixon

thắng cử Tổng thống nhưng Đảng Dân chủ chiếm phần đa số ở Quốc

hội. Chính những nghị viên Đảng Dân chủ đối lập đó đã gây nhiều khó

khăn cho Nixon, từ những dự luật phản đối chiến tranh Việt Nam cho

đến giới hạn quyền hành pháp của Tổng thống, và sau cùng là quyết

nghị hạ bệ Nixon vào tháng 8.1974 qua vụ phạm pháp ở Watergate.

Đọc Nixon, cùng sách, trang 180.

[34]Một trong những chi tiết về tổng thống Nixon ít được sách báo nói

đến, là liên hệ của ông trong cuộc chiến Việt - Pháp vào những ngày

cuối cùng: Nixon đề nghị gởi thêm chuyên viên cơ khí không quân

(trước đó Mỹ đã gởi 200 người rồi) để gia tăng đầu cầu không vận hầu

cứu vãn Điện Biên Phủ; đề nghị dùng không quân oanh tạc mạnh để

đánh tiếng với Trung Cộng và Việt Minh là Hoa Kỳ sẵn sàng can thiệp

nếu người Pháp không giữ nổi. Nixon có mặt trong tất cả các cuộc họp

quan trọng của Hội đồng An ninh Quốc gia về tình hình Điện Biên Phủ

trong tháng cuối cùng trước khi Pháp thất thủ. Về chuyến viếng thăm

Sài Gòn, Hà Nội, của Nixon, đọc Richard Nixon, Sđd, trang 122-125;

về những quyết định liên hệ đến Điện Biên Phủ, trang 150-155.

[35]Nixon, Sđd, trang 224-226. Kết quả số phiếu chính thức là,

Kennedy, 34.221.463; Nixon, 34.108.528. Kennedy được 49,7%;

Nixon 49,6%. Hai bên cách nhau 0,07%. Về chuyện lương lận, phiếu

giả ở Texas, Johnson đã một lần bị tai tiếng về chuyện đó trong cuộc

bầu cử thượng nghị sĩ năm 1949. Về cuộc bầu cử hào hứng Kennedy -

Nixon, đọc Theodore H. White, The Making of the President 1960, phụ

lục số 1.

[36]Nixon, Sđd, 442-447.

[37]Nixon, Sđd, trang 271-272.

[38]Nixon, Sđd, trang 285.

[39]Ở Chương 9, "Những con khỉ của năm Mậu Thân", người viết đã sơ

lược một số chi tiết quan trọng của năm bầu cử 1968 giữa Nixon và

Humphrey. Nếu Johnson đã có vài mưu lược để giúp Humphrey, thì

Nixon cũng đối lại bằng một số xảo thuật chính trị đang có trong tay

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

(dùng Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu để làm đình trệ kế hoạch của

Johnson). Đọc Nixon, Sđd, trang 322-335, để thấy Nixon thú nhận ông

quan tâm về những mánh khoé của Johnson vào những tuần cuối trước

ngày bầu cử; một tác phẩm khác thật hay của William Safire, Before

the Fall, về những mưu lược và kế hoạch chính trị của Nixon từ khi

tuyên bố tranh cử vào tháng Giêng 1967, cho đến khi đắc cử vào tháng

11.1968.

Nguồn: Nguyễn Kỳ Phong, Vũng lầy Bạch ốc - Người Mỹ và chiến

tranh Việt Nam, Tiếng Quê Hương xuất bản, Virginia 2006

Người Mỹ và chiến tranh Việt Nam

Phần 2

Sau hai năm làm dân biểu, bốn năm nghị sĩ, tám năm phó tổng thống,

và hai lần thất cử, Richard Nixon tuyên thệ nhậm chức Tổng thống thứ

37 của Hoa Kỳ vào đầu năm 1969.

Trong năm năm tám tháng giữ chức vụ tổng thống, những thành quả

của Nixon được nhiều người nhắc đến là thoả ước giảm thiểu vũ khí

nguyên tử giữa Mỹ và Nga; thiết lập ban giao với Trung Cộng; và đưa

quân đội và trách nhiệm của Hoa Kỳ ra khỏi chiến trường Việt Nam.

Chúng ta phải phân biệt chuyện Nixon đưa quân đội Mỹ khỏi Việt

Nam, và chấm dứt chiến tranh Việt Nam. Vì mọi người đều thấy:

Nixon đã thành công đưa quân đội Mỹ ra khỏi cuộc chiến, nhưng cuộc

chiến vẫn còn sau khi người Mỹ rút đi. Nixon đã ép buộc VNCH phải

ký vào hiệp định Ba Lê năm 1973, với lời hứa là nếu phía cộng sản

xâm phạm hiệp ước, Nixon sẽ dùng biện pháp mạnh để bảo vệ những

điều khoản đã ghi trong hiệp ước. Nixon hứa riêng với Tổng thống

Nguyễn Văn Thiệu là ông sẽ dùng tất cả khả năng của một vị tổng

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

thống để bảo đảm giá trị của một hiệp ước mà ông xin muốn VNCH

phải ký. Nhưng sự kiện lịch sử cho thấy Nixon không có cơ hội để

chứng tỏ với VNCH - và những đồng minh bị bỏ rơi trên thế giới, như

trong trường hợp Đài Loan - là ông có giữ đúng lời hứa hay không.

Nixon không có dịp để chứng tỏ danh dự của ông vì bị truy tố trước

Quốc hội Hoa Kỳ và phải từ chức để khỏi phải bị truất phế.

Ở phần dưới đây chúng ta sẽ bàn sơ về thái độ và hành động của Nixon

đối với chiến tranh Việt Nam từ lúc ông lên nắm quyền cho đến ngày

từ nhiệm.

Từ năm 1953 cho đến năm 1967 Nixon viếng thăm Việt Nam tất cả bốn

lần. Sau mỗi lần quan sát, ý kiến của Nixon về cuộc chiến Việt Nam

vẫn giống nhau: Nga và Trung Cộng đứng sau lưng cộng sản Bắc Việt

trong cuộc chiến xâm lấn miền Nam. Và chỉ có một cách để làm CSBV

từ bỏ ý định xâm lược là áp dụng áp lực quân sự. Nixon không sợ mang

tiếng là kẻ ỷ mạnh hiếp yếu; ngược lại, Nixon thích cho đối phương

biết ông ta sẵn sàng hiếp đối phương nếu cần. Trong những lần phát

biểu ý kiến về chiến tranh Việt Nam lúc ứng cử tổng thống, Nixon chỉ

trích chánh phủ Johnson là Hoa Kỳ đã không quyết tâm giải quyết cuộc

chiến Việt Nam bằng quân sự. Trong chuyến thăm Sài Gòn vào tháng

4.1967, ông được giới chỉ huy quân sự trình bày cho ông biết sự bực

tức của họ khi không được thẩm quyền quân sự cho phép đánh qua biên

giới, hay đánh thẳng vào bất cứ nơi nào CSBV dùng làm sào huyệt.

Nixon, trong một vài lần phát biểu, đã nhận định rất đúng về tình hình

"trung lập" của Lào. Đối với Nixon, khi để Lào thành một quốc gia

trung lập kiểu đó, Lào đã nằm trong quỹ đạo - nếu không nói thuộc về -

CSBV và cộng sản Tàu. Một mình đơn độc, Nixon nhấn mạnh, Lào

không bao giờ có thể giữ được sự trung lập theo ý nghĩa một quốc gia

được độc lập về ý thức hệ chính trị với một lãnh thổ toàn vẹn. Suy luận

song song theo chiều hướng chiến lược quân sự đó, Cam Bốt cũng nằm

trong hoàn cảnh tương tự như Lào. Nixon chỉ trích chính phủ Johnson

đã không thật lòng khi không đặt vấn đề, hay giải quyết, hai yếu tố

quan trọng Lào và Cam Bốt trong cuộc chiến Việt Nam. Nixon tuyên

bố vào năm 1967, nếu Hoa Kỳ không đối diện với tình hình Cam Bốt

và Lào; nếu Hoa Kỳ không thú nhận sự phức tạp của chiến tranh Việt

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

Nam trong địa hình của Đông Dương ngay bây giờ, thì Hoa Kỳ sẽ phải

thú nhận và đối diện vấn nạn đó về sau. Nixon nhấn mạnh - và chúng ta

thấy điều đó thật đúng vào những năm cuối cùng của cuộc chiến - chiến

tranh Việt Nam không phải chỉ giới hạn vào Việt Nam, mà là toàn cõi

Đông Dương [1] .

Chúng ta nên để ý sự khác biệt về tinh thần của các Tổng thống

Kennedy, Johnson và Nixon trong chiến tranh Việt Nam: Kennedy

thích hào hùng, quân tử, nhưng bên trong thì nhát; Johnson thì hăm hở

cuồng nộ nhưng không có trí thông minh, tài ngoại giao, hay sự kiên

nhẫn để thực hiện ý định; còn Nixon thì có tất cả những tánh tình của

hai tổng thống kia, cộng thêm tánh thích hành động bí mật từ bên trong

hay nhờ tay người khác hành động cho mình, và đôi khi hành động

ngoài vòng pháp luật. Nixon "mánh mung" hơn Kennedy và Johnson

khi muốn hoàn tất một ý định. Từ Truman cho đến Nixon, mỗi vị tổng

thống đều có liên hệ đến cuộc chiến Việt Nam bằng một hay nhiều

quyết định và mỗi quyết định được thực hiện qua cách này hay cách

khác. Truman, vì những quyền lợi của Mỹ ở Âu Châu, phải đành

nhượng bộ và ít niều giúp Pháp để tiếp tục sự đô hộ ở Việt Nam.

Eisenhower và Kennedy, với ý định muốn thiết lập một tiền đồn chống

cộng ở Đông Nam Á gắng bồi đắp và gầy dựng một nền tự do dân chủ

ở một quốc gia mới gọi là Việt Nam Cộng hoà. Sau Kennedy, Tổng

thống Johnson muốn giải quyết cuộc chiến nhanh hơn với quân tác

chiến, với vũ khí cơ hữu, với cấp số vài ba quân đoàn. Bây giờ cuộc

chiến chuyền đến tay Nixon. Đến Nixon thì nhiệm vụ khó khăn hơn:

ông phải đem người Mỹ ra khỏi cuộc chiến trong chiến thắng - hay ít

ra, phải bảo vệ miền Nam với một nền hoà bình trong danh dự.

Khi ra tranh cử tổng thống, cũng không khác hơn những ứng cử viên

trước và cùng lúc với ông, Nixon hứa sẽ chấm dứt cuộc chiến Việt

Nam, sẽ đem lại hoà bình trong danh dự. Nixon không hứa hẹn gì về

một chiến thắng quân sự, hay một thương thuyết ngoại giao nào để kết

thúc chiến tranh. Một tháng sau khi đắc cử, Nixon rất tự tin ông sẽ giải

quyết cuộc chiến Việt Nam trong vòng 12 tháng [2] . Nhưng khi thấy Hà

Nội chỉ lợi dụng cuộc thương thuyết để câu giờ và cuộc chiến đã kéo

dài ngoài dự định, Nixon quyết định cho đối phương thấy ông là người

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

biết dùng vũ lực để thuyết phục, và Nixon đã không ngần ngại dùng vũ

lực. Chúng ta có thể thấy một phần tinh thần của Nixon đối với cuộc

chiến Việt Nam khi ông tuyên bố trước công chúng: "Lỗi lầm quan

trọng nhất lúc tôi còn là tổng thống, là tôi đã không làm vào đầu năm

1969 những gì tôi đã làm vào ngày 3 tháng 5.1972, và 15 tháng

12.1972, nghĩa là dội bom và phong toả Bắc Việt. Tôi có bàn chuyện

này với Kissinger. Nhưng kẹt là chính phủ tiền nhiệm Johnson đã quyết

định ngừng dội bom để đi đến hội đàm Paris... tôi không tin họ [CSBV]

muốn thương thuyết thật sự, và dĩ nhiên sau này chúng ta đã thấy sự giả

tạo của cuộc thương thuyết đó. Nếu chúng ta thực hiện chuyện đó [dội

bom và phong toả Bắc Việt] chúng ta có thể kết thúc cuộc chiến vào

năm 1969 chứ không phải đến năm 1973. Đó là lỗi lầm lớn nhất của tôi

trong thời gian làm tổng thống" [3] .

Nhiều tác giả loại "bồ câu", phản chiến, và chống Nixon, thường luận

bàn là sau năm 1968, sau khi CSBV chịu vào bàn thương nghị, lẽ ra

cuộc chiến Việt Nam đã có cơ hội chấm dứt... Nhưng khi lên kế vị

Johnson, Nixon đã kéo dài thêm cuộc chiến, đưa đến hơn hai mươi

ngàn cái chết của quân nhân Hoa Kỳ, hơn một trăm ngàn quân VNCH

và bốn hay năm lần số thương vong đó bên phía Bắc Việt [4] . Lý luận

này không vững ở điểm những tác giả, sử gia nói trên không nói tại sao

Nixon không thể chấp nhận những "đề nghị thương thuyết" căn bản của

CSBV [5] .

Từ ngày đầu nhậm chức, Nixon đã cho phép giới quân sự dùng mọi kế

hoạch, kể cả những kế hoạch quân sự phạm luật của Quốc hội Mỹ và

công pháp quốc tế, để cho Hà Nội thấy Hoa Kỳ - dưới sự lãnh đạo của

Nixon - biết dùng sức mạnh khi cần. Sau khi Tổng thống Johnson ra

lệnh ngưng dội bom từ vĩ tuyến 20 trở lên, Nixon ra lệnh cho MACV [6]

dùng tất cả không lực dùng vào miền Bắc trước đó để đánh vào chiến

trường Lào và những căn cứ hậu cần của CSBV dọc theo biên giới Cam

Bốt. Tuy nói là ngưng dội bom, nhưng thật sự phi vụ oanh tạc gia tăng

nhiều hơn. Năm 1968 không lực Hoa Kỳ bay 3.377 phi vụ trên hệ

thống đường xâm nhập Hồ Chí Minh; năm 1969 số phi vụ tăng lên

5.567, với khoảng 160 ngàn tấn bom thả xuống Hạ Lào. Chỉ trong năm

tháng đầu năm 1969, bộ tư lệnh Đoàn 559 ở Trường Sơn đã thấy được

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

cường độ oanh tạc dưới nội các mới [7] . Nhưng chưa đủ, Nixon muốn

CSBV thấy rõ ý định của ông hơn. Đầu tháng 3.1969, Nixon nghe theo

đề nghị của ban tham mưu liên quân - một đề nghị bị bỏ quên nhiều

năm vì McNamara và Johnson không cho phép thực hiện - là phải huỷ

diệt cơ sở hậu cần của CSBV bên trong nội địa Cam Bốt. Nhưng đánh

qua Cam Bốt thì không được (ít ra là trong thời điểm đó), dội bom thì

lại vi phạm công pháp quốc tế vì tính chất trung lập của Cam Bốt. Chỉ

còn một cách duy nhất là bí mật dội bom - bí mật ở đây cũng có nghĩa

là phạm luật [8] . Với tất cả thận trọng để đánh lừa báo chí và Quốc hội,

Nixon cho phép Bộ tư lệnh Không quân Chiến lược và MACV hành

động. Từ tháng 3.1969 cho đến tháng 4.1970, không quân chiến lược

bay 3630. phi vụ, bỏ 110 ngàn tấn bom xuống các căn cứ hậu cần và

binh trạm của CSBV nằm trong lãnh thổ Cam Bốt từ vùng tam biên ở

Pleiku cho đến Mỏ Vịt ở Tây Ninh.

Để tránh bom, quân đội CSBV lấn sâu vào nội địa Cam Bốt về hướng

tây, gần các khu dân cư. Với chiến thuật này, CSBV đã vô hiệu hoá các

cuộc oanh tạc chiến lược bằng B-52 của Hoa Kỳ vào mật khu của họ

trên đất Cam Bốt. Khi đại tướng Abrams tư lệnh MACV báo cáo Hoa

Thịnh Đốn vấn đề đó, Nixon không ngần ngại quyết định tiến xa hơn:

dùng bộ binh đánh qua Cam Bốt. "Chúng ta phải chứng tỏ cho đối

phương biết chúng ta cương quyết với những gì đã hứa ở Việt Nam",

Nixon phát biểu khi đồng ý kế hoạch đánh qua Cam Bốt [9] . Để giới

hạn những phản đối đến từ các nghị viên đối lập ở Quốc hội và các

cuộc biểu tình của sinh viên trong và ngoài nước, Nixon chỉ cho phép

quân đội Hoa Kỳ hoạt động trong vòng 30 cây số trong nội địa Cam

Bốt, và quân Mỹ sẽ rút ra khỏi Cam Bốt sau 60 ngày. Thêm vào đó,

quân đội VNCH sẽ khai diễn cuộc tấn công trước và sẽ là thành phần

chủ động. Cuộc hành quân qua Cam Bốt chỉ thâu gặt được một số

thành công giới hạn: ba sư đoàn cơ hữu của Việt Cộng, 5, 7, và 9, được

lệnh phân tán mỏng từ một tháng trước đó. Các đơn vị CSBV được

lệnh tránh giao tranh nếu không cần thiết và rút xa về hướng tây, về

một cứ địa mới ở tỉnh Kratie. Tuy không gài bẫy được các đơn vị cộng

sản như ý muốn, quân đội VNCH và đồng minh khám phá và tịch thu

một số quân trang dụng, vũ khí và lương thực đủ trang bị và tiếp tế cho

tất cả các đơn vị cộng sản ở miền Nam hơn một năm trời [10] .

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

Nixon đã trả một giá rất cao về uy tín chính trị với cuộc tấn công qua

Cam Bốt: sau khi bốn sinh viên bị Vệ binh Quốc gia bắn chết trong một

cuộc biểu phản chiến ở đại học Kent State, tiểu bang Ohio, hơn hai

trăm ngàn người tham dự biểu tình chống Nixon ở thủ đô Hoa Thịnh

Đốn - một thành phố rất nhỏ để chứa hai trăm ngàn công dân bực tức.

Quốc hội Hoa Kỳ chỉ trích Nixon; thẩm vấn lại quyền hạn hiến pháp

của tổng thống có hay không khi đem quân tấn công qua một quốc gia

"trung lập" như Cam Bốt. Nhưng đối với một chính trị gia lão luyện

như Nixon, những cuộc biểu tình hay những ý kiến đối lập từ quốc hội

là chuyện thường: Nixon tiếp tục gia tăng lực quân sự đối với CSBV.

Hai ngày sau khi quân đội Mỹ và VNCH vượt biên giới, Nixon đích

thân đến Ngũ giác đài để được tường trình về biến chuyển của cuộc

hành quân. Khi nhìn bản đồ ghi chú địa điểm các căn cứ hậu cần khác

của CSBV ở bắc Cam Bốt và Hạ Lào, Nixon hỏi những sĩ quan đang có

mặt, là quân đội VNCH và Hoa Kỳ có khả năng tấn công tất cả những

căn cứ đó không. Khi được trả lời là những cuộc tấn công tiếp theo qua

biên giới sẽ gây nhiều phản ứng bất lợi từ dư luận và Quốc hội...,

Nixon trả lời cho các sĩ quan là chuyện lợi hại về chính trị để ông lo,

ông chỉ muốn họ trả lời là đánh được hay không. "Chúng ta đã bị thiệt

hại về chính trị trong cuộc hành quân [qua Cam Bốt] này rồi. Nếu có

thể huỷ diệt được tất cả các mật khu của địch để giảm thiểu thiệt hại

cho quân ta, thì đây là đúng lúc để hành động... Tôi muốn tấn công tất

cả các căn cứ đó. Chuẩn bị các kế hoạch cần thiết và thực hiện ngay",

Nixon tuyên bố với ban tham mưu liên quân [11] . Vài tháng sau khi

VNCH và Mỹ kết thúc cuộc hành quân ở Cam Bốt, Tướng Abrams của

MACV trình lên ban tham mưu liên quân kế hoạch đánh qua Lào.

Tháng 12.1970 ban tham mưu liên quân đồng ý kế hoạch và một tháng

sau, Nixon cho phép tiến hành. Trong khi kế hoạch đánh qua Lào vào

tháng 2.1971 có thành công như tiên liệu hay không là một vấn đề

chúng ta sẽ bàn cãi sau, ở đây, qua những quyết định quân sự, chúng ta

muốn chứng minh tinh thần quyết liệt của Nixon khi thương lượng với

Hà Nội. Trước đó, vào cuối tháng 11.1970, Nixon cho phép thực hiện

một kế hoạch rất táo bạo: dùng đơn vị lực lượng đặc biệt bay từ Thái

Lan qua Sơn Tây, một tỉnh chỉ cách Hà Nội vài chục cây số, để tiếp cứu

vài chục tù binh Mỹ, dù biết biết kế hoạch có xác suất thất bại nhiều

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

hơn thành công, nhưng Nixon muốn làm để cho đối phương thấy ông

sẵn sàng chấp nhận may rủi nếu phải hành động [12] .

Đầu tháng 4.1972, khi nghe tin CSBV đem tất cả lực lượng tinh nhuệ

của họ tấn công ba mặt ở miền Nam, Nixon phản ứng mãnh liệt với

một cường độ làm ngay cả giới quân nhân phải quan tâm: Nixon muốn

di chuyển tất cả B-52 mà bộ tư lệnh quân chiến lược có thể di chuyển

được, đem qua Thái Lan và Guam để trả đũa CSBV. Khi CSBV ồ ạt

xua quân chủ lực tấn công VNCH, Nixon nóng mặt vì thái độ ngoan cố

của Hà Nội đã làm tổn thương danh dự của một vị tổng thống. Cùng

lúc, Nixon thấy mình bị Nga và Trung Cộng lừa vì hai đàn anh quan

trọng của Hà Nội đã thất hứa trong việc kiềm toả đàn em của họ. Tháng

Giêng vừa qua Nixon có viết cho Brezhnev một lá thư, trong đó nhắn

khéo với ông Chủ tịch Đảng Cộng sản Nga là "Hoa Kỳ không có chọn

lựa nào khác hơn là phản ứng mạnh nếu Bắc Việt có những hành động

làm nhục chúng tôi". Rồi đến tháng Hai, Nixon vừa hoàn tất cuộc viếng

thăm lịch sử ở Trung Cộng, nói chuyện với Mao và Chu Ân Lai. Đã

cảnh cáo trước, Nixon không thể để những lời cảnh cáo của Tổng thống

Hoa Kỳ bị coi thường. Hơn nữa, năm 1972 là năm bầu cử tổng thống,

cuộc tấn công của Hà Nội không được để đi quá xa để trở thành một sự

kiện có thể làm hư kế hoạch đắc cử nhiệm kỳ thứ nhì của Nixon. Theo

hồi ký của nhiều nhân chứng và theo những tài liệu được giải mật về

sau, đích thân Nixon chỉ huy cuộc phản công vào những ngày đầu khi

CSBV tấn công toàn diện miền Nam vào năm 1972. Trong giai đoạn

cuối cùng của chiến tranh Việt Nam, chúng ta có thể nói đó là cuộc

chiến của cá nhân Nixon - đó là thái độ của Nixon vis-a-vis VNCH và

Hà Nội. [13]

Để đối phó với cuộc tổng tấn công của CSBV, Nixon ra lệnh hải quân

được quyền xử dụng hai hạm đội cho chiến trường Đông Nam Á, nếu

cần. Ý Nixon muốn nói, nếu hải lực của Hạm đội 7 chưa đủ, bộ tư lệnh

Thái Bình Dương có quyền trưng dụng chiến hạm của Hạm đội 1

(trong thời gian đó ở vùng biển Thái Bình Dương, Hoa Kỳ có hai hạm

đội, đệ Nhất và đệ Thất). Nixon ra lệnh nếu bộ tư lệnh không quân Thái

Bình Dương cần thêm không lực chiến thuật (vì lúc đó Hoa Kỳ đã sử

dụng phân nửa không lực chiến lược, B-52, để phản công) họ có toàn

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

quyền trưng dụng từ những bộ tư lệnh khác trên thế giới. Và đây là

mệnh lệnh do đích thân Nixon phán, chứ không phải đến từ ban tham

mưu liên quân, hay có sự yêu cầu của đại tướng Abrams ở MACV.

Cũng trong những tuần lễ đầu tiên của cuộc tấn công, nhiều tài liệu cho

thấy Nixon có nhắc đến hai kế hoạch để triệt tiêu tài nguyên và nhân sự

của miền Bắc. Hai kế hoạch Nixon nhắc đến - qua hội đàm hay điện

thoại với các cố vấn thân cận - là dội bom những bờ đê quan trọng dọc

trên sông Hồng Hà và sử dụng vũ khí nguyên tử chiến thuật giới hạn để

huỷ diệt quân đội CSBV. Nhưng phải nói, cho đến bây giờ, sau khi

khảo sát những tài liệu và nghe lại điện đàm đã được giải mật, chúng ta

vẫn không có đủ yếu tố để xác định Nixon nói đến việc sử dụng bom

nguyên tử chiến thuật như là một tính toán thận trọng, hay chỉ là những

phát ngôn trong cơn thịnh nộ đối với kẻ thù. Đây không phải là lần đầu

tiên một vị tổng thống Hoa Kỳ nghĩ đến chuyện sử dụng vũ khí nguyên

tử ở chiến trường Á Châu hay Việt Nam. Truman có đặt vấn đề đó ở

chiến tranh Triều Tiên khi quân Mỹ đối diện với chiến thuật biển người

của Trung Cộng; Eisenhower bàn luận về bom nguyên tử chiến thuật

trong lúc thời gian Điện Biên Phủ đang hấp hối; và Johnson yêu cầu

ban tham mưu cho ông biết kế hoạch nguyên tử, nếu cần phải sử dụng,

khi hơn ba sư đoàn CSBV bao vây Khe Sanh. Nixon nghĩ đến vũ khí

nguyên tử trong trường hợp này không phải là một ngoại lệ. Nhưng ở

đây chúng ta không hiểu được được tâm lý và tinh thần của Nixon ra

sao khi ông nói đến chuyện đó. Có thể Nixon đã uống quá nhiều và nói

trong cơn say, trong ý nghĩa rượu nói - và chuyện Nixon uống nhiều

vào cuối tuần, hay khi cần phải quyết định đại sự, là chuyện mọi cố vấn

thân cận đều biết. Trong khi chúng ta không biết rõ Nixon nói thật hay

chơi khi nói đến võ khí nguyên tử, nhưng chúng ta biết rõ Nixon cương

quyết không để cho miền Nam bị tràn ngập trong cuộc tổng tấn công

năm 1972 [14] .

Ngày 2 tháng 51972., khi nhận được tin Quảng Trị thất thủ trước sự tấn

công ồ ạt của hơn ba sư đoàn CSBV, Nixon một mặt ra lệnh gia tăng

phi vụ oanh tạc các cứ điểm quân sự chung quanh Hải Phòng và Hà

Nội, mặt khác, Nixon đích thân đánh một điện văn cho Tổng thống

Thiệu, cho ông biết Hoa Kỳ vẫn đứng sau lưng VNCH trong giờ phút

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

nghiêm trọng như lúc này. Cùng ngày, Nixon ra lệnh cho ban tham

mưu liên quân phát hoạ kế hoạch phong toả các giang cảng, bến tàu ở

Bắc Việt bằng thuỷ lôi [15] .

Liền sau khi ban hành lệnh, khi thấy giới quân sự có vẻ chậm chạp

trong lúc thi hành các phi vụ trên miền Bắc (không lực của hải và

không quân chỉ cung cấp được trên hai trăm phi vụ ở Bắc Việt mỗi

ngày vì thời tiết không cho phép), Nixon viết cho Kissinger một huấn

lệnh, yêu cầu Kissinger tìm cách đốc thúc giới quân sự và các viên

chức trong Hội đồng An ninh Quốc gia phải tìm mọi cách để gia tăng

áp lực quân sự với Bắc Việt. Trong huấn lệnh cho Kissinger, Nixon

đồng thời đặt câu hỏi về sự trung thành của những viên chức cao cấp ở

Bộ Quốc phòng và Ngoại giao. Theo hồi ký của đại tướng Alexander

M. Haig - một trong những phụ tá thân cận của Kissinger và Nixon -

Tổng thống Nixon đã mất tin tưởng vào Đại tướng tư lệnh MACV,

Abrams, và Tổng trưởng Quốc phòng Melvin Lair. Nixon nghĩ hai viên

chức trên không thật sự giúp VNCH hết lòng như ý ông muốn. Nixon

viết: "Tôi không thể nhấn mạnh thêm hơn, là tôi đã quyết định chúng ta

sẽ đánh cạn láng. Và chúng ta phải làm sao cho địch thấy được ấn

tượng đó... Đối phương đã quyết định đánh cạn láng; chúng ta cũng

đánh cạn láng. Chúng ta có trong tay quyền lực huỷ diệt bộ máy chiến

tranh của họ. Nhưng câu hỏi là chúng ta có ý chí để sử dụng quyền lực

đó không. Sự khác biệt giữa tôi và Tổng thống Johnson là, tôi có ý chí

đó [sử dụng quyền lực] rất rõ ràng. Nhưng nếu chúng ta thất bại lần này

thì cũng tại vì những viên chức quan lại ở Bộ Quốc phòng và những

đồng minh của họ ở Bộ Ngoại giao. Họ cố gắng tìm cách phá hoại

những quyết định mạnh bạo và quyết liệt mà tôi muốn chúng ta phải thi

hành" [16] .

Ngày 5 tháng 5.72, khi Kissinger từ Paris trở về báo cáo là Hà Nội đã

từ chối tiếp tục thương thuyết, Nixon không chần chờ: trưa ngày 8 ông

ra lệnh cho Đô đốc Thomas H. Moore, Tham mưu trưởng liên quân,

chuẩn bị phong toả tất cả giang và hải cảng Bắc Việt, và chuẩn bị khởi

diễn cuộc hành quân không lực Linebacker. Chín giờ tối cùng ngày,

Nixon lên đài truyền thông, thông báo cho dân chúng Mỹ ý định của

ông. Trong thông điệp, Nixon nói Hoa Kỳ có ba chọn lựa: lập tức rút

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

tất cả quân đội Hoa Kỳ khỏi Đông Nam Á; tiếp tục thương lượng với

Hà Nội để tìm một giải pháp; và, dùng áp lực quân sự để ép buộc đối

phương. Nhưng, Nixon tuyên bố, kinh nghiệm đã cho thấy hai chọn lựa

đầu chỉ kéo dài cuộc chiến, kéo dài thêm chết chóc. Bây giờ chỉ còn

chọn lựa thứ ba: Hoa Kỳ sẽ oanh tạc cho đến khi nào Bắc Việt chịu

ngồi lại thương thuyết.

Ngày 9 tháng 5, hải quân thả thuỷ lôi phong toả Vịnh Bắc Việt. Tàu bè

ngoại quốc có 48 tiếng đồng hồ để rời bến. Sau thời hạn đó, ngòi nổ tự

động của thuỷ lôi sẽ hoạt động kể từ sáng ngày 11. Ngày 10 tháng 5,

cuộc hành quân không lực Linebacker khởi diễn. Hôm đó, chỉ trong 12

tiếng đồng hồ, phi cơ chiến thuật của không và hải quân bay 414 phi vụ

thả bom chung quanh Hải Phòng và Hà Nội [17] .

Nixon tự nhận mình là một tay đánh phé giỏi, biết coi mặt để đoán bài

đối phương [18] . Nixon biết lúc nào phải tố; và càng tố mạnh khi có bài

trong tay. Đến cuối tháng 9.1972, cuộc tổng tấn công của CSBV đã

hoàn toàn thất bại: An Lộc được giải toả; Kontum vẫn nằm trong tay

quân đội VNCH như từ lúc đầu của cuộc tấn công; và cờ của VNCH đã

tung bay trở lại ở cổ thành Quảng Trị. Đối diện với sự thất bại quân sự,

Bắc Việt chịu trở lại bàn hội nghị. Nhưng Hoa Kỳ - và VNCH - không

thể chấp nhận hai đề nghị của Hà Nội đưa ra vào ngày 26 và 27 tháng

9.1972 ở Paris. Trong khi Kissinger tiếp tục thương lượng với Hà Nội -

và khẩn nài Sài gòn phải nghe theo kế hoạch của Mỹ - Nixon vẫn giữ

yên lặng về thái độ của CSBV cho đến qua ngày bầu cử tổng thống.

Kết quả bầu cử cho thấy Nixon được sự tính nhiệm lớn của cử tri Hoa

Kỳ. Với kết quả đắc cử trong tay, ngày 14 tháng 12.1972 Nixon quyết

định cho Hà Nội thấy họ không có chọn lựa nào khác. Đi ngược lại

những cố vấn quân sự của Tổng trưởng Quốc phòng Laird, Ban tham

mưu liên quân, và Tư lệnh Thái Bình Dương, ngày 17 tháng 12, Nixon

ra lệnh khai diễn cuộc hành quân không lực Linebacker II tiếp theo.

Trong ba ngày đầu dội bom, hỏa tiễn địa không của Bắc Việt bắn rớt 14

B-52. Khi thấy Ban tham mưu liên quân và Bộ tư lệnh Thái Bình

Dương nao núng, Nixon ra lệnh cho Đô đốc Moorer tiếp tục cường độ

oanh tạc và bắt vị tham mưu trưởng liên quân này phải đích thân chịu

trách nhiệm về kết quả của chiến dịch oanh tạc. [19] Sau mười một ngày

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

dội bom, hơn một ngàn phi vụ chiến thuật và 770 phi vụ chiến lược B-

52, Lê Đức Thọ xin trở lại bàn hội nghị lần cuối.

Không ai có thể nói Hiệp định Ba Lê 1973 đã đem lại một nền hoà bình

cho Việt Nam, hay một danh dự cho Hoa Kỳ. Hiệp định Ba Lê 1973 chỉ

là một văn kiện để cho Hoa Kỳ rút chân ra khỏi vũng lầy Việt Nam một

cách danh chánh ngôn thuận. Trong khi một số người chỉ trích hành

động dội bom của Nixon, đa số dân chúng Hoa Kỳ coi đường lối của

Nixon là một phương cách duy nhất để khuất phục CSBV. Từ đầu

tháng 5.1972, bắt đầu chiến dịch Linebacker, khi Nixon tuyên bố ông

sẵn sàng thất cử nhiệm kỳ hai hơn là để mất miền Nam, cho đến đầu

tháng Giêng khi Nixon tái đắc cử, và kết thúc chiến dịch Linebacker II,

những cuộc trưng cầu dân ý cho thấy 67% dân chúng ủng hộ đường lối

của Nixon [20] .

Không ai phủ nhận Nixon là một chính trị gia loại Machiavelli hành

động tốt xấu gì cũng được, miễn sao có lợi cho mục đích tối hậu của

chính trị. Để giữ lời hứa "đưa quân đội Mỹ ra khỏi Việt Nam" với cử

tri Hoa Kỳ, Nixon đã làm những gì một chính trị gia có thể làm vis-avis

kẻ thù; đồng minh; và người dân đã bỏ phiếu cho mình: áp dụng vũ

lực quân sự đối với kẻ thù; bắt buộc người bạn đồng minh phải chấp

nhận một thực tế chính trị; và chấp nhận ý muốn của cử tri là đã đến lúc

Hoa Kỳ phải rời Việt Nam. Sau đó, liên hệ còn lại giữa Hoa Kỳ và Việt

Nam chỉ là những lời hứa đến từ cá nhân của một tổng thống - khi còn

làm tổng thống - của Richard M. Nixon.

Lịch sử sẽ có nhiều bí ẩn nếu một hoàn cảnh lịch sử được giả định bằng

chữ nếu. Nếu Nixon không liên hệ đến vụ Watergate và không phải từ

chức, thì Nixon có giữ lời hứa với Tổng thống Thiệu, với Việt Nam

Cộng Hoà khi Bắc Việt tấn công cưỡng chiếm miền Nam vào năm

1975 hay không? Nếu Nixon không bị mất tín nhiệm ở Quốc hội, và

Quốc hội Hoa Kỳ vẫn tiếp tục chương trình viện trợ quân sự kinh tế

cho VNCH thì vận mệnh của VNCH có đổi khác không? Những câu

hỏi này là những tranh luận không ngừng của sử gia [21] .

Khi Nixon được ghi vào lịch sử những vị tổng thống Hoa Kỳ, ông có

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

thể được liệt kê là xấu hoặc tốt; giỏi, hay dỡ. Nhưng không ai có thể

phủ nhận Nixon có một sự nghiệp chính trị ngoại hạng.

Ngoài những bí ẩn, lịch sử còn có nhiều trớ trêu: sự nghiệp chính trị

ngoại hạng của Nixon bị sụp đổ chỉ vì một sơ hở của những tên ăn trộm

chuyên nghiệp nhưng làm biếng.

Và cũng có nhiều nhận định cho rằng, định mệnh của Việt Nam Cộng

Hoà có một phần nào đó liên luỵ đến hậu quả của những tên ăn trộm

lười biếng này [22] .

[1]Nixon, Sđd, trang 270-271.

[2]Nixon, Sđd, trang 390.

[3]Nixon tuyên bố trên hệ thống truyền hình NBC, ngày 10 tháng

4.1988, hơn 14 năm sau khi từ chức. Trích theo Bruce Oudes, trong

From: The President. Richard Nixons' Secret Files, trang 1.

[4]Trích theo A. J. Langguth, Our Vietnam: The War 1954-1975, trang

622. Về số tử thương hàng năm của quân đội Mỹ từ 1945 đến 1975,

đọc James Olson, ed., Dictionary of the Vietnam War, Appendix E.

[5]Trong hai năm đầu nói chuyện với CSBV, Hà Nội khăng khăng đề

nghị phải thi hành hai điều kiện tiên quyết: thay (nếu cần, ám sát) Tổng

thống Thiệu và rút quân ra khỏi Việt Nam, rồi sau đó Hà Nội sẽ thật sự

thương lượng. Nhưng nếu Mỹ thi hành hai điều kiện đó thì tương

đương với đầu hàng. Henry Kissinger, Diplomacy, trang 695; Jeffrey

Kimball, Nixons' Vietnam War, trang 233, 270, 272. Ở chương sau

chúng ta sẽ đi vào chi tiết hơn về những gặp gỡ bí mật giữa Hoa Kỳ và

CSBV.

[6]MACV: Military Assistance Command-Vietnam, Sở chỉ huy chiến

trường ở các địa phương trong chiến tranh Việt Nam (talawas).

[7]Seymour M. Hersh, The Price of Power: Kissinger in the Nixon

White House, trang 55 (phụ chú). Theo tác giả Trường Sơn, Cuộc hành

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

trình năm ngàn ngày đêm (đường Hồ Chí Minh), (Thành Phố HCM:

NXB Văn Nghệ, 1992), trang 185, trong năm tháng đầu của năm 1969,

bộ tư lệnh Trường Sơn (Đoàn 559) bị chết 2.500, bị thương 2.938, và

có 1.000 xe bị tiêu huỷ. Con số thiệt hại này rất khiêm nhường so với

các tài liệu khác. Cũng theo tác giả, không lực Hoa Kỳ làm đình trệ bốn

mươi lăm phần trăm công tác của hệ thống xâm nhập trong thời gian

trên. Trường Sơn là bút hiệu của đại tá Phạm Tề, một cựu sĩ quan của

Đoàn 559.

[8]Giải thích một cách vắn tắt ở đây, kế hoạch dội bom bí mật và giấu

các thẩm quyền quân sự khác được thực hiện như sau: bộ tư lệnh

MACV ở Sài Gòn yêu cầu những phi vụ B-52 dội bom những nơi tập

trung quân dọc theo biên giới Việt-Căm Bốt như thường lệ. Nhưng vài

giờ trước khi các phi vụ cất cánh, MACV cho người đến trung tâm điều

khiển oanh tạc (tất cả các phi vụ B-52 được điều khiển bằng hệ thống

radar hướng dẫn mục tiêu ở dưới đất) với những tọa độ mới. Trên

đường bay đến mục tiêu, một số phi công nhận những thay đổi vào giờ

chót, và được hướng dẫn đến mục tiêu mới. Sau mỗi phi vụ, quân lệnh

ghi toạ độ được thiêu huỷ; các sĩ quan liên hệ không được bàn luận về

những phi vụ đó với bất cứ ai. Sự việc đổ bể khi một số đơn vị đóng

quân bên này biên giới chứng kiến bom rơi bên kia biên giới, trong nội

địa Cam Bốt, và họ viết thư về kể chuyện này với nghị viên Quốc hội

Hoa Kỳ. Một trong những tác phẩm viết chi tiết nhất về kế hoạch dội

bom B-52 bí mật trong nội địa Cam Bốt là Sideshow: Kissinger, Nixon

and the Destruction of Cambodia của William Shawcross. Nixons'

Vietnam War của Kimball, và The Price of Power của Hersh cũng có

vài chương với nhiều tài liệu phong phú về cuộc dội bom này.

[9]Nixon, Sđd, trang 445.

[10]Về các chi tiết quan trọng của cuộc hành quân đánh qua Cam Bốt,

đọc: Chuẩn tướng Trần Đình Thọ, "The Cambodian Incursion". Theo

Lewis Sorley, trong A Better War: The Unexamined Victories and

Final Tragedies of Americas' Last Years in Vietnam, trang 208-209, tài

liệu tịch thu ở Cam Bốt cho thấy các đơn vị Việt Cộng trong vùng hành

quân đã nhận được chỉ thị trước về cuộc hành quân và cuộc đảo chánh

Sihanouk của tướng Lon Nol từ giữa tháng 3.1970. Trương Như Tảng,

trong A VietCong Memoir: An Inside Account of the Vietnam War and

Its Aftermath, trang 176-178, có nói sơ về cuộc di tản của Mặt trận Giải

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

phóng miền Nam và Chánh phủ Cách mạng Lâm thời về tỉnh Kratie khi

quân VNCH đánh vào sào huyệt họ. Cũng trong những trang đã trích,

Trương Như Tảng nói đầu tháng 3.1970, dựa vào tin tức từ tình báo

Nga, Hà Nội báo cho họ biết Sihanouk sắp bị đảo chánh, và có thể có

một cuộc tấn công trong tương lai của VNCH.

[11]Nixon, Sđd, trang 453-454. Chữ "tất cả" in nghiêng là nguyên thuỷ

của Nixon.

[12]Nixon, Sđd, trang 860. Về chi tiết cuộc hành quân giải cứu tù binh ở

Sơn Tây, đọc Benjamin F. Schemmer, The Raid. Tuy cuộc đột kích giải

cứu tù binh không thành công (tù binh được dời di trại khác vì bị mưa

lụt), cựu Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch thú nhận với nhà báo

Seymour Hersh là, Hoa Kỳ có khả năng tấn công tận hậu cứ của họ, và

họ phải cẩn thận canh chừng khả năng "dám liều" đó. Đọc Hersh, Sđd,

trang 305-306. Hersh nói chuyện với Nguyễn Cơ Thạch khi đến Hà Nội

vào tháng 3.1972.

[13]Về lời cảnh cáo Hà Nội, nhắn qua Nga và Trung Cộng, của Nixon,

đọc Seymour Hersh, Sđd, trang 504-505; Jeffrey Kimball, Nixons'

Vietnam War, trang 294.

[14] Khi một số tài liệu và điện đàm tối mật của Nixon và cố vấn than

cận được giải mật vào tháng 2.2002, công luận mới nghe và đọc được

chuyện Nixon nói về ý định dội bom các bờ đê ở Hà Nội và dùng bom

nguyên tử chiến thuật để chận đứng CSBV, trong lần họp với Kissinger

ở toà Bạch ốc vào ngày 25 tháng 4.1972. Lý do chúng ta không xác

định được thái độ hư thực của Nixon, vì sau khi nghe lại cuốn băng,

một số ký giả cho rằng Nixon nói với một giọng nghiêm trọng; một số

khác thì cho đó chỉ là những phát ngôn trong lúc Nixon nóng giận. Đọc

Jeffrey Kimball, The Vietnam War File: Uncovering the Secret History

of Nixon-Era Strategy, trang 214-218. Nhưng trước đó, vào giữa năm

1971, Nixon cũng có nói về chuyện sử dụng bom nguyên tử đối với

CSBV. Đọc Seymour, Sđd, trang 396 (phụ chú). Rất nhiều sách và

nhân chứng nói về tật uống rượu cuối tuần của Nixon. Vào cuối tuần

Nixon thường về Camp David, một nhà nghỉ mát của tổng thống chỉ

cách Hoa Thịnh Đốn chừng 150 cây số. Nixon cũng thường uống rượu

một mình ở toà Bạch ốc trong lúc phải quyết định chuyện quan trọng

hay lúc viết huấn lệnh cho thuộc cấp. Một trong số những tài liệu giải

mật, có một đoạn nói Thủ tướng Anh McMillian gọi Nixon muốn nói

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

chuyện, nhưng Kissinger ra lệnh cho phụ tá trả lời là Nixon không thể

nói chuyện được vì ông đã quá say rồi. Những thí dụ khác về tật uống

rượu của Nixon, đọc Seymour, Sđd, ở những trang 108-110, 396, 486,

513, và 528.

[15]Nixon, Sđd, Nixon ra lệnh cho Ngũ giác đài, trang 587; viết điện tín

cho Tổng thống Thiệu, trang 600.

[16]Nixon, Sđd, trang 607. Chữ nghiêng nguyên thuỷ của Nixon. Sự bất

tín nhiệm của Nixon đối với Tổng trưởng Laird và Đại tướng Abrams

được Đại tướng Alexander M. Haig viết trong hồi ký Inner Circles:

How Ameica Changed the World, trang 282-283.

[17]Về chi tiết ngày đầu cuộc hành quân không lực Linebacker, 10 tháng

5.1972, đọc One Day in a Long War, của Jefrrey Ethell và Alfred Price.

Đây là quyển sách rất đầy đủ về một ngày dội bom của Hành Quân

Linebacker.

[18]Nixon, Sđd, trang 29, 34. Sau khi rời quân ngũ, trở về đời sống dân

sự và chuẩn bị ra tranh cử, khi Nixon nói về tình trạng tài chánh của gia

đình, ông có kể luôn khoản tiền ăn được từ những canh bài phé.

[19]Nixon, Sđd, trang 734; Haig, Sđd, trang 311. Sự thiệt hại của không

quân Mỹ xảy ra một phần vì hoả lực phòng không của CSBV quá

mạnh, nhưng phần lớn do kế hoạch hành quân quá vội vàng của bộ tư

lệnh không quân chiến lược. Ba ngày oanh tạc đầu tiên, Hoa Kỳ thiếu

phản lực cơ yểm trợ và quấy nhiễu các hệ thống ra đa trước pháo đài

bay B-52 đến mục tiêu. Khuyết điểm thứ hai là các phi vụ bay đúng giờ

và cùng một đường bay, rất dễ cho đối phương đoán biết trước. Sau ba

ngày thiệt hại, bộ tư lệnh các không lực thay đổi chiến thuật tấn công,

và Hoa Kỳ không bị một thiệt hại nào ngoài số thiệt hại đã nói. Đọc

thêm, Carl Berger, chủ biên, The United States Air Force in Southeast

Asia: 1961-1973, trang 97-98.

[20]Haig, Sđd, trang 285, 314.

[21] Pat Buchanan, trưởng phòng báo chí toà Bạch ốc của Nixon, tuyên

bố, những ai đã phá hoại nền tổng thống của Nixon cũng đồng thời

liệng sự hy sinh của 58.000 quân nhân Mỹ ở Việt Nam xuống ống

cống. Ý Buchanan muốn nói, nếu Nixon không từ chức, chưa chắc

miền Nam bị rơi vào hoàn cảnh như đã xảy ra và sự hy sinh của các

quân nhân Mỹ không trở thành vô ích. Pat Buchanan, trả lời phỏng vấn

trên chương trình "Today" của hệ thống truyền hình NBC, thứ Bảy, 4

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

tháng 5.2005.

[22]Đêm 16 tháng 6.1972, năm người có liên hệ với một số viên chức

đang làm việc trong toà Bạch ốc, đột nhập vào một khách sạn/chung cư

sang trọng có tên là The Watergate, toạ lạc cách toà Bạch ốc vài cây số,

với ý định đặt máy thu âm và chụp một số tài liệu. Vì cửa ra vào ở các

khách sạn tự động khoá lại khi ra vào, thay vì dùng chìa khoá để mở

cửa mỗi khi ra vào, những người này dùng băng keo dán chốt khoá lại

để đỡ tốn thì giờ ra vô. Một nhân viên an ninh của khách sạn tuần hành

ngang và để ý thấy chốt khoá bị băng keo dán lại. Tưởng rằng nhân

viên sửa chữa dán lại trong khi làm việc, anh ta không quan tâm, tháo

băng keo ra và đóng cửa lại. Nhưng lần tuần hành thứ nhì trở lại, chốt

khoá lại bị dán kín nữa. Nghi ngờ là có vụ trộm đang xảy ra, anh ta gọi

cảnh sát: Vụ Watergate bắt đầu từ đó, và hơn hai năm sau đưa đến sự từ

nhiệm của Nixon. Năm người "ăn trộm" nói trên không phải là những

tay trộm tài tử, mà là những người đã từng hoạt động nhiều điệp vụ bí

mật. Một tháng trước, họ đã đột nhập vào Watergate, đã đánh cắp được

một số tài liệu mật của Đảng Dân chủ. Họ trở lại lần này vì cần phải

gắn lại một máy thu âm mới. Toán ăn trộm này nằm dưới sự điều động

của vài nhân viên cao cấp đang làm việc cho Nixon. Họ từng phục vụ

trong ngành tình báo quân sự và dân sự của Chính phủ Hoa Kỳ (thí dụ

như Gordon G. Lily, FBI; Howard Hunt, CIA; và Charles Colson, tình

báo quân đội). Rất nhiều tài liệu nói về vụ Watergate và sự sụp đổ của

Chính phủ Nixon bắt nguồn từ vụ Watergate. Vài tài liệu căn bản: Carl

Bernstein and Bob Woodward, All the Presidents' Men (New York:

Simon & Schuster, 1974); và, The Final Days (New York: Simon &

Schuster, 1976). Về những điều tra, tang chứng và kiện tụng trước toà

án, đọc Leon Jaworski, The Right and the Power (New York; Readers'

Digest Press, 1976). Alexander Haig, Inner Circles, cũng có nhiều chi

tiết bên trong toà Bạch ốc trong những ngày cuối của Nixon.

Người Mỹ và chiến tranh Việt Nam

Phần 3

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

Chương 11

Việt Nam hóa và rút quân

Trong cuộc chiến chống cộng, Việt Nam Cộng hòa (VNCH) có một số

lỗi lầm quan trọng về chiến thuật và chiến lược. Một trong những lỗi

lầm nghiêm trọng nhất VNCH vấp phải là sự chậm trễ trong nỗ lực

tổng động viên, dồn tất cả nhân lực của quốc gia vào mục tiêu chống

cộng.

Ở miền Bắc, từ sau quyết nghị "phải dùng vũ lực để thống nhất miền

Nam" của Lê Duẩn vào tháng 5-1959, chính quyền cộng sản đã động

viên nhân lực nhiều lần để thực hiện mục đích xâm lăng của họ. Trong

khi đó, phía VNCH chỉ chính thức ban hành luật động viên một cách

phổ quát sau cuộc tổng công kích Mậu Thân 1968 của Cộng sản Bắc

Việt (CSBV). Những năm trước đó, tháng 8-1957 và tháng 1-1959, các

sắc luật về động viên có tính cách giai đoạn, nằm dưới hình thức Nghĩa

vụ Quân sự. Hai sắc luật trên qui định: Nam công dân tuổi từ 20 đến 21

phải phục vụ trong quân đội một thời gian là 18 tháng rồi được trở về

đời sống dân sự. Hai sắc luật này rất lỏng lẻo, và nhà chức trách cũng

không thực tâm thi hành triệt để. Tháng 4-1964, sau cuộc đảo chánh

thứ nhì trong vòng hai tháng (đảo chánh Ngô Đình Diệm 1-11-1963; và

Nguyễn Khánh "chỉnh lý" Dương Văn Minh, 1-1-1964) một sắc luật

mới được ban hành, qui định về Nghĩa vụ Quốc gia và Phòng vệ Dân

sự. [1]

Luật tổng động viên 1968 do Quốc hội ban hành (thay vì chỉ là sắc luật

tạm thời) là kết quả của sự thúc bách khi VNCH đối diện vấn đề một

sống một còn với cộng sản. Tháng 3 năm 1968, sau khi cuộc tổng công

kích của cộng sản bị bẻ gãy và tình hình an ninh tương đối ổn định,

Quốc hội VNCH ban hành luật tổng động viên, bắt tất cả công dân

nam, tuổi từ 18 đến 35, phải thi hành nghĩa vụ quân sự trong một thời

gian vô hạn định. [2] Chính phủ đồng thời gọi tái ngũ những cựu quân

nhân trong hạn tuổi nói trên nếu chưa có đủ năm năm quân vụ trong

quá khứ.

Nhưng đầu năm 1968, trong khi chính phủ VNCH bắt đầu kế hoạch

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

tổng động viên để có đủ nhân lực đối phó với CSBV, thì Hoa Kỳ đã

muốn thay đổi vai trò của họ ở Việt Nam: Sau hơn ba năm chia sẻ gánh

nặng ngoài mặt trận, Hoa Kỳ bắt đầu nghĩ đến kế hoạch "nhường" cuộc

chiến lại cho quân đội VNCH và chuẩn bị rút quân.

Ở chương này chúng ta sẽ nói về kế hoạch Việt Nam hóa và kế hoạch

rút quân của người Mỹ ra khỏi chiến trường i và chiến tranh Việt Nam.

Đồng thời, chúng ta cũng nói đến những gánh nặng của quân lực

VNCH khi phải nhận thêm những vai trò của người Mỹ bỏ lại; sự thành

công qua chương trình bình định và phát triển Nông thôn; và nhất là

những cơ hội VNCH đã bỏ lỡ trong cuộc chiến chống lại sự xâm lăng

của cộng sản Bắc Việt N những cơ hội mà chúng ta có thể gọi là những

chiến thắng bị bỏ lỡ. [3] Đây là những giai đoạn quan trọng nhất trong

cuộc chiến, và cũng là những cố gắng cuối cùng của người Mỹ và Việt

Nam Cộng hòa trong chiến tranh Việt Nam.

*

Năm 1969.

Vừa nhậm chức, tổng thống Nixon ra lệnh cho Cố vấn An ninh Quốc

gia Kissinger soạn thảo một kế hoạch để giải quyết chiến tranh Việt

Nam nhanh chóng như những gì ông đã hứa với cử tri lúc vận động

tranh cử.

Như đã nói ở chương trước, Nixon N và bây giờ có thêm Kissinger rất

phấn khởi và tự tin về những gì ông có thể thực hiện để kết thúc cuộc

chiến. Nixon tuyên bố với các viên chức cao cấp trong buổi họp đầu

tiên của nội các, ông sẽ kết thúc cuộc chiến trong vòng một năm. Cùng

lúc, tân Cố vấn An ninh Quốc gia Kissinger nói với người ngoài và bạn

bè cũ ở đại học Harvard ông chỉ cần sáu tháng. [4]

Trước đó, ngay sau khi được Nixon bổ nhiệm chức Cố vấn An ninh

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

Quốc gia T 27 tháng 11-1968 cho đến ngày Nixon tuyên thệ nhậm chức

20 tháng 1-1969 Kissinger đã nhờ công ty RAND thực hiện làm một

nghiên cứu tổng quát để thu thập ý kiến của các giới chức cao cấp trong

chính phủ về chiến tranh Việt Nam. Người soạn thảo bản nghiên cứu

đó là Daniel Ellsberg, một nhân vật mà hai năm sau gây ra một chấn

động cho chính quyền Nixon. [5] Bản nghiên cứu của Ellsberg cho thấy

đầu năm 1969, trong nội các mới của Nixon có ba nhóm, với ba ý kiến

và nhận định khác nhau về kế hoạch kết thúc chiến tranh Việt Nam:

Nhóm A, gồm các viên chức cao cấp ở ban tham mưu liên quân,

MACV, bộ ngoại giao và nhân viên tòa đại sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn, lạc

quan về đường lối cuộc chiến đang diễn biến. Ý kiến của Nhóm A là cứ

tiếp tục dùng áp lực quân sự cho đến khi nào phía cộng sản chịu thương

lượng, hay bị đánh bại, thì lúc đó cuộc chiến mới được coi là kết thúc.

Nhóm này đề nghị Hoa Kỳ không nên rút quân ra khỏi Việt Nam nhiều

hay quá nhanh; phải cần ít nhất một năm, hay một năm rưỡi nữa mới

nên nói chuyện rút quân. Nhóm B, gồm có ông tổng trưởng quốc

phòng, các nhân viên cao cấp dưới quyền, một thiểu số ở bộ ngoại giao,

và một số viên chức CIA, có ý kiến bi quan về cuộc chiến. Họ nghĩ

chiến lược truy lùng và triệt tiêu của tướng Westmoreland không có

hiệu quả; và cuộc chiến không thể kéo dài dưới sự tốn kém về tài

nguyên và nhân lực như đang xảy ra. Nhóm B đề nghị Hoa Kỳ nên

thương lượng, nên nhân nhượng với cộng sản N thí dụ như chấp nhận

một chánh phủ liên hiệp ở miền Nam. Chỉ có cách đó, Nhóm B đề nghị,

thì Hoa Kỳ mới có thể rút khỏi Việt Nam trong danh dự. Một nhóm

khác, không có đại diện chính thức và không có tiếng nói quan trọng

trong chánh quyền, gọi là Nhóm C, thì có ý kiến rất thẳng và hoàn toàn

khác hai nhóm trên: Hoa Kỳ có được chiến thắng về quân sự hay

không; cuộc thương lượng chính trị với cộng sản ở Ba Lê có thành

công hay không, Hoa Kỳ phải rút quân ra khỏi Việt Nam trong vòng

một, hay hai năm c dù có hay không có sự tán thành hay đồng ý của

chính phủ VNCH. [6]

Với nhiều ý kiến trái ngược đến từ các cơ quan và nhân viên cao cấp

chính quyền, Kissinger muốn xác định lại một lần nữa trước khi quyết

định tổng kết một đường lối rõ rệt cho Việt Nam. "Đồng ý với nhau

còn chưa xong, thì làm gì có được một lập trường chung," Kissinger

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

phê bình những ý kiến gởi về. Nhận thấy điều đó, Ellsberg đề nghị N

và Kissinger đồng ý một nghiên cứu mới: thay gì hỏi ý kiến tổng quát

và giống nhau ở các cơ quan, lần này bản nghiên cứu nên hỏi riêng biệt

từng cơ quan, với một số câu hỏi dựa vào trách nhiệm cụ thể cơ quan

đó đối với cuộc chiến.

Ngày 21 tháng Giêng, 1969, Kissinger gởi đến bộ ngoại giao, ban tham

mưu liên quân, CIA, đại sứ Bunker ở Sài Gòn, và Bộ quốc phòng, một

huấn lệnh có tên là NSSM 1. Huấn lệnh NSSM 1 có 29 câu hỏi chánh

và 50 câu hỏi phụ, liên quan đến kế hoạch và ý kiến của mỗi cơ quan về

cuộc chiến ở Việt Nam. Mặc dù câu hỏi hơi khác nhau tùy theo nơi

nhận, phần lớn các câu hỏi có nội dung như: tình hình cuộc thương

thuyết ở Ba Lê [7] ; khả năng của quân đội VNCH; tiến triển của

chương trình bình định và Xây dựng Nông thôn; nội tình chính trị của

VNCH; tình hình của địch; và, hiệu quả về các hoạt động quân sự của

quân đội Hoa Kỳ đang diễn ra. [8] Tổng hợp các ý kiến và câu trả lời

trong bản nghiên cứu lần thứ nhì gởi về cho hội đồng an ninh quốc gia

không khác hơn lần trước. Tuy nhiên, lần này bản nghiên cứu có những

nhận định được gọi là tương đối tổng hợp các ý kiến chung của thẩm

quyền Mỹ ở Việt Nam. Ý kiến chung là: trước khi Hoa Kỳ rút đi, chính

phủ VNCH phải chỉnh đốn giai cấp lãnh đạo trong quân đội để nâng

cao tinh thần chiến đấu; quân đội VNCH có khả năng đối đầu với bất

cứ cuộc tấn công nào của CSBV nếu được sự yểm trợ hỏa lực của quân

đội Hoa Kỳ; tuy nhiên trên đường dài, VNCH không thể đương đầu với

một cuộc tổng tấn công qui mô của CSBV nếu không nhận được tiếp tế

đầy đủ về kinh tế và quân sự; và sau cùng ự cũng là vấn đề quan trọng

nhất nếu Hoa Kỳ quyết định rút quân, nhịp độ và số lượng quân rút đi

sẽ là một ảnh hưởng quan trọng trong thời kỳ quân đội VNCH đang cố

gắng bành trướng để thay vào chỗ trống của quân đội Hoa Kỳ.

Cuối tháng 3-1969, hội đồng an ninh quốc gia họp để điều nghiên về

kết quả của NSSM 1. Nhưng theo những gì chúng ta biết được sau này,

Kissinger và Nixon không quan tâm nhiều đến những ý kiến trả lời cho

huấn lệnh NSSM 1. Hoặc họ hỏi để mà hỏi, hoặc họ chỉ muốn nhận

diện ai là "bồ câu," ai "diều hâu" đối với cuộc chiến. "Hỏi để cho biết,"

Kissinger tuyên bố về bản nghiên cứu NSSM 1 sau này. Lý do Nixon

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

và Kissinger không quan tâm đến những câu trả lời, vì đối diện với một

mớ ý kiến lộn xộn và trái ngược của những giới chức đang điều hành

cuộc chiến, Nixon và Kissinger quyết định để ra vài tháng để đi tìm

một kế hoạch khả dĩ phù hợp với quần chúng và đường lối chính trị

đương thời. [9]

Mặc dầu danh từ Việt Nam hóa (Vietnamization) được dùng một cách

phổ thông trên báo chí từ lúc Nixon lên nắm quyền, khái niệm Việt

Nam hóa cuộc chiến Việt Nam được nảy sanh từ tổng trưởng

McNamara vào cuối năm 1967, và được chánh quyền Johnson áp dụng

một cách phôi thai từ giữa năm 1968 năm cuối cùng Lyndon Johnson

làm tổng thống. Trong bản tường trình cuối cùng trước khi từ chức,

tổng trưởng quốc phòng McNamara đặt lại chủ đích của Hoa Kỳ và có

ý hoài nghi về một chiến thắng quân sự chiến trường Việt Nam.

McNamara kết luận trong bản báo cáo cho tổng thống Johnson bằng

với đề nghị: (a) tìm một giải pháp thương lượng chính trị; và (b) lần lần

giao lại trách nhiệm tác chiến và bình định cho quân đội VNCH. [10]

Tháng 3-1968, trong cao điểm của cuộc tổng công kích Mậu Thân

1968, mặc dù thẩm quyền dân sự ở Hoa Thịnh Đốn [11] từ chối không

tăng viện thêm 200 ngàn quân cho đại tướng Westmoreland, nhưng họ

đồng ý tăng thêm quân viện và ngân sách với mục đích giúp VNCH

thành lập ra nhiều đơn vị mới để hoàn toàn gánh vác trách nhiệm chiến

đấu thay quân đội Hoa Kỳ trong những ngày sắp tới. [12] Theo đại sứ

Bùi Diễm, giới chức Hoa Kỳ đã có khái niệm về Việt Nam hóa từ năm

1965, nhưng đã không áp dụng cho đến năm 1968, vì nghĩ họ có thể

đánh bại cộng sản trong một thời gian ngắn mà không cần sự trợ lực

của quân đội VNCH. Nhận định của cựu đại sứ Bùi Diễm không xa sự

thật lắm, vì vào năm 1965, thái độ của Hoa Kỳ giống như thái độ của

một anh chàng khổng lồ cao mười trượng, nai nịch giáp phục, quay qua

nói với người bạn Đồng minh VNCH đại khái như, "Các anh đứng qua

một bên chờ tôi, để tôi giải quyết chuyện này cho ... sẽ không tốn nhiều

thì giờ đâu ..." [13] Thái độ tự tin đó cũng được thể hiện qua lời tuyên bố

của đại tướng Westmoreland vào năm 1966, khi ông nói với tổng thống

Johnson ông tin tưởng cuộc chiến sẽ kết thúc vào mùa Hè năm tới. [14]

Nhưng sau ba năm đổ máu với gần ba mươi ngàn tử sĩ, các tư lệnh

quân đội Mỹ mới thấy được sự giới hạn của vũ khí cơ giới trong chiến

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

trường du kích ở rừng núi Đông Dương; và sự giới hạn về những gì họ

được phép và không được phép thực hiện, ở một chiến trường mà luật

tác chiến bị qui định bởi nhu cầu chính trị ở bên nhà. Cùng lúc, con số

14.491 quân nhân Hoa Kỳ tử thương trong năm 1968 (so với hơn 9.000

của năm 1967), đã làm giới dân sự ở Hoa Thịnh Đốn nghĩ lại chiến

thuật quân sự của MACV ở Việt Nam. [15]

Trong khái niệm nguyên thủy của chương trình Việt Nam hóa chương

trình lúc được phác họa và đề nghị dưới thời tổng thống Johnson bộ tư

lệnh MACV của đại tướng Abrams và đại sứ Ellsworth Bunker có ba

nhiệm vụ:

(1) cấp tốc gia tăng các chương trình huấn luyện và trang bị các đơn vị

VNCH theo tiêu chuẩn của quân đội Hoa Kỳ. Sau khi các đơn vị

VNCH đủ khả năng để thay thế đơn vị Hoa Kỳ ở một vùng trách nhiệm

nào đó, đơn vị Hoa Kỳ sẽ rút đi;

(2) giảm tối đa thiệt hại nhân mạng của quân đội Mỹ, bằng cách chuyển

từ chiến lược truy lùng và triệt tiêu của Westmoreland qua chiến lược

bảo vệ cứ điểm và bình định cứ điểm đang chiếm đóng;

(3) gia tăng các chương trình bình, Xây dựng và phát triển Nông thông

để loại trừ hạ tầng cơ sở của cộng sản.

Nói một cách khác, quân đội và các cơ cấu dân sự của Hoa Kỳ sẽ rút ra

khỏi chiến trường Việt Nam theo nhịp độ và khả năng thay thế của

VNCH. Thêm vào đó, kế hoạch Việt Nam hóa nguyên thủy khác kế

hoạch được áp dụng khi Nixon lên cầm quyền là, quân đội Hoa Kỳ sẽ

không rút đi hết mà họ sẽ giữ lại một số đơn vị căn bản ở Việt Nam để

nâng cao tinh thần quân đội VNCH và canh chừng những cuộc tấn

công qui mô bất ngờ của CSBV. Một mô hình tương tự như mô hình

quân đội Đồng minh đóng lại ở Nam Hàn sau hội nghị đình chiến ở

Bàn Môn Điếm trong chiến tranh Đại Hàn. [16]

Nhưng khi Nixon lên thay Johnson; và Melvin Laird thay Clark

Clifford (Clifford thay McNamara trước đó không đầy một năm) ở Bộ

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

quốc phòng, chương trình Việt Nam hóa được coi là một kế hoạch tiêu

biểu của của chính phủ mới đối với Việt Nam N nhưng với một nội

dung hoàn toàn đổi khác, theo ý muốn của tân tổng trưởng Laird. Vừa

lên nhận chức, tổng trưởng quốc phòng Laird bay sang Việt Nam vào

tháng 3-1969, để quan sát tình hình. Khi về lại Hoa Thịnh Đốn, Laird

gởi bộ tư lệnh MACV ở Sài Gòn một huấn lệnh. Chỉ thị trong huấn

lệnh của Laird làm đại tướng Abrams ngỡ ngàng: Quân đội Hoa Kỳ sẽ

rút đi theo lịch trình và số lượng định sẳn, bất chấp tiến trình hay khả

năng thay thế của quân đội VNCH. [17] Cũng trong huấn lệnh đó, Laird

muốn MACV phải bắt đầu giảm thiểu các cuộc hành quân có tánh cách

tấn công; nhiệm vụ của quân đội Hoa Kỳ từ đây về sau là giúp đỡ và

huấn luyện quân đội VNCH mà thôi. Nội dung huấn lệnh của tổng

trưởng Laird có một hàm ý rất quan trọng: bộ tư lệnh MACV phải tìm

mọi cách để giới hạn số thương vong của quân nhân Hoa Kỳ dù phải

giới hạn những cuộc hành quân truy lùng và triệt tiêu CSBV. Với huấn

lệnh mới, bộ tư lệnh MACV thêm một lần nữa phải thay đổi chiến lược

và chiến thuật ngoài mặt trận theo nhu cầu chính trị ở bên nhà. Đáng

tiếc hơn, quân đội VNCH bây giờ trở thành nạn nhân bất đắc dĩ cho

một Chủ thuyết mới Chủ thuyết Nixon (the Nixon Doctrine).

Trong ba tháng đầu của năm 1969, phía VNCH có ý chờ một đường lối

ngoại giao và quân sự rõ ràng từ tổng thống Nixon, để từ đó VNCH

mới thay đổi đường lối chiến lược chiến thuật song song với người bạn

Đồng minh trong cuộc chiến. Từ cuối năm 1968, phía VNCH đã thỏa

mãn ý muốn của Hoa Kỳ bằng cách gởi một phái đoàn đến tham dự hòa

đàm ở Ba Lê. Cuộc họp đầu tiên giữa VNCH-Hoa Kỳ và CSBVMTGPMN

(Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam) vào

ngày 25 tháng 1-1969 cho thấy VNCH chấp nhận chuyện đối thoại với

MTGPMN như là một chuyện tất yếu. Nhưng từ tháng 3 trở đi, những

tuyên bố từ các nhân viên cao cấp Hoa Kỳ càng lúc càng trở nên "hiếu

hòa" trước những cuộc pháo kích và tấn công của CSBV vào nhiều thị

tứ ở miền Nam trong sáu tháng đầu của năm 1969. Tháng 4, ngoại

trưởng Rogers tuyên bố, "Hoa Kỳ không muốn đi tìm một chiến thắng

quân sự ở Việt Nam..." Cùng lúc, tổng trưởng quốc phòng Laird tuyên

bố, Hoa Kỳ sẽ rút quân nếu một trong ba điều kiện xảy ra... Một trong

ba điều kiện đó là ...khi quân lực VNCH đủ sức gánh vác cuộc chiến

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

một mình. Tuy tuyên bố như vậy, nhưng bên trong Laird đã thuyết

phục Kissinger và Nixon phải rút quân ngay trong năm và từ từ chuyển

giao tất cả trách nhiệm tác chiến lại cho quân đội VNCH. Với sự đồng

ý của Nixon, đầu tháng 4-1969, Kissinger gởi Laird một huấn lệnh, yêu

cầu Bộ quốc phòng sơ thảo một lịch trình rút tất cả quân tác chiến, nhân

viên bán quân sự, nhân viên hành chánh, cố vấn, quân nhu dụng và võ

khí. Theo lịch trình soạn thảo của Bộ quốc phòng, cuộc rút quân sẽ

được chia làm 14 giai đoạn, kéo dài 44 tháng. Bắt đầu từ tháng 7-1969

cho đến tháng 11-1972, Hoa Kỳ sẽ rút tất cả số quân 549.500 người

đang có mặt tại Việt Nam. [18]

Hơn nửa năm trước, từ tháng Giêng, nhiều hãng thông tấn loan tin Hoa

Kỳ sẽ rút đi ít nhất hai mươi ngàn quân trong vài tháng tới. Mặc dầu

giới chức Hoa Kỳ M và ngay cả tổng thống Nixon phủ nhận chính phủ

Mỹ đang có kế hoạch rút quân hay có kế hoạch Việt Nam hóa cuộc

chiến, nhưng những lời phủ nhận xuất hiện tới lui nhiều đến độ dư luận

có ấn tượng giới chức Hoa Kỳ đang thả nổi trái bóng rút quân và

chương trình Việt Nam hóa để thăm dò dư luận của VNCH. Và thật sự,

với tất cả sự ái ngại, Nixon đang cố gắng che đậy ý định lừa dối của

ông bằng nhiều tuyên bố ngược xuôi. Trong bài diễn văn đầu tiên về

Việt Nam, đọc trên hệ thống truyền thanh toàn quốc ngày 14 tháng 5

1969, Nixon tuyên bố Hoa Kỳ sẽ không bao giờ nghĩ đến chuyện rút

quân đơn phương, hay không có ý kiến chung với VNCH. Nhưng sau

này, trong một hồi ký viết về đường lối của ông đối với chiến tranh

Việt Nam, Nixon nói, ngay sau khi lên nhậm chức thì "chuyện rút quân

hay không, không còn là một câu hỏi nữa. Câu hỏi bây giờ là quân đội

Hoa Kỳ rời khỏi Việt Nam như thế nào và họ phải để lại gì khi sau khi

rút đi." [19]

Nhưng Hoa Kỳ không thể che giấu kế hoạch của họ dài lâu được:

Nixon thấy sự thật - dù phũ phàng như thế nào - cần phải được thông

báo cho phía VNCH. Cuối tháng 5, tòa Bạch Ốc loan báo hai tổng

thống Thiệu và Nixon sẽ gặp nhau ở đảo Midway vào thượng tuần

tháng 6, để trao đổi ý kiến và kế hoạch về Việt Nam. Hai bên gặp nhau

ngày 8 tháng 6-1969. Trong cuộc hội thảo, theo những gì chúng ta biết

được sau này, phía VNCH chỉ trao cho Hoa Kỳ một bản kế hoạch,

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

trong đó nói về quân số và khả năng của quân đội VNCH đương thời;

và những nhu cầu về tân trang và yểm trợ cho một khả năng quân sự

tương lai để thay vào chỗ trống của quân đội Mỹ. Chỉ như vậy, và

VNCH không biết gì chi tiết về kế hoạch rút quân của Hoa Kỳ. [20] Sau

cuộc hội thảo, sau khi trở lại Hoa Thịnh Đốn, Nixon tuyên bố: với sự

đồng ý của tổng thống Thiệu và đề nghị của tướng Abrams, quân đội

Mỹ sẽ rút khỏi Việt Nam trong hai tháng tới. Nhưng khi Nixon nói "có

sự đồng ý của tổng thống Thiệu và tướng Abrams," thì Nixon đã phóng

đại sự thật: cả Abrams và ông Thiệu đều phản đối đề nghị của Nixon về

việc rút quân, mặc dù những phản đối đó chưa bao giờ được để lộ ra

ngoài công cộng. Sau này trong hồi ký, chính Nixon cũng công nhận

ông đã "phóng đại" khi tuyên bố có sự đồng ý của tổng thống Thiệu và

đại tướng Abrams. [21]

Sau khi đã "thổ lộ" ý định thật về kế hoạch của Hoa Kỳ đối Việt Nam

trong vài năm tới, hơn một tháng sau, trên đường đi thăm viếng các

quốc gia ở Á châu, Nixon tuyên bố cho tất cả các Đồng minh một chiến

lược mới của Hoa Kỳ ở Thái Bình Dương: Hoa Kỳ vẫn sẳn sàng yểm

trợ các Đồng minh về mọi mặt để chống lại sự xâm lấn của cộng sản -

trừ việc yểm trợ về nhân lực. Hoa Kỳ sẽ không lập lại kinh nghiệm ở

Đại Hàn và Việt Nam, Nixon tuyên bố. Nghĩa là, trong tương lai Hoa

Kỳ chỉ yểm trợ về vật chất, nhưng sẽ không trực tiếp đem quân vào tác

chiến như đã làm ở Đại Hàn và Việt Nam. Nói một cách khác, Hoa Kỳ

sẳn sàng đổ tiền và yểm trợ vật chất, nhưng người Đồng minh bản xứ là

người phải đổ máu trong cuộc chiến bảo vệ tự do cho quê hương của

họ. Khi tuyên bố Chủ thuyết này, không biết Nixon có nhắm vào Việt

Nam như một thí dụ hay không. Nhưng cái gọi là "Chủ thuyết Nixon"

đối với chương trình Việt Nam hóa ở chiến trường Việt Nam. [22] Khi

Nixon ghé thăm Sài Gòn ngày 30 tháng Giêng, 1969, ông nói thêm ý

định của Hoa Kỳ về chuyện rút quân. Lần này Nixon nói rõ hơn: Hoa

Kỳ sẽ rút quân theo lịch trình, và nếu cần, sẽ rút quân dù có sự đồng ý

của VNCH hay không. [23]

Chương trình Việt Nam hóa, dù được nhìn qua góc độ lạc quan nhất,

chỉ là một kế họach tạp nhạp, thiếu hợp nhất ở thượng và hạ tầng cơ sở,

và thiếu thực tế khi được áp dụng. Nếu nhìn ở một góc độ bi quan nhất

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

- theo lời phát biểu của một ứng cử viên tổng thống Mỹ - thì chương

trình Việt Nam hóa chỉ là một kế hoạch thay đổi màu da của tử sĩ. [24]

Ngay cả danh xưng của kế hoạch cũng làm cho nhiều quân nhân

VNCH thấy ái náy: nếu đến bây giờ mới Việt Nam hoá cuộc chiến, thì

từ 1955 đến ngày nay cuộc chiến này do ai gánh vác và đã chết vì nó?

Với hơn 100 ngàn chiến sĩ VNCH đã hy sinh, những hy sinh đó không

phải là hy sinh cho mảnh đất VNCH và lý tưởng tự do của họ hay sao?

[25] Đồng ý là Hoa Kỳ đã cùng chung đứng mũi chịu sào, nhưng nếu

người Mỹ gọi đó là Việt Nam hóa thì quá vô tình. Khi người Mỹ gọi

như vậy thì chẳng khác nào ý nói quân dân VNCH đã đứng ngoài cuộc

chiến từ bao lâu nay, và đồng thời tự thú nhận chiến thuật chiến lược

của họ đã sai lầm trong cuộc chiến. [26] Tuy được gọi là Việt Nam hóa,

nhưng phía VNCH không biết gì, hay có ý kiến gì trong thời gian kế

hoạch được tính toán và soạn thảo. Kế hoạch được Hoa Kỳ trao đổi với

VNCH bằng miệng một cách tổng quát. Cả hai quốc gia không có một

thỏa hiệp nào nói về về yếu tố và điều kiện rút quân viết ra trên giấy tờ

thành văn kiện. Bộ tư lệnh MACV, như đã nói ở trên, không đồng ý về

thời gian và số lượng quân rút đi một cách quá cấp tốc như tổng trưởng

quốc phòng Laird muốn. Nhưng chính đại tướng Abrams cũng không

có một kế hoạch nào cụ thể, vì kinh nghiệm cho ông biết số lượng và

thời gian quân đội Mỹ rút đi không phụ thuộc vào tình hình ở chiến

trường Việt Nam, mà tùy thuộc vào tình hình chính trị ở nội địa Hoa

Kỳ. [27] Ngay cả khi đồng ý trên căn bản là phải rút quân, Abrams và Bộ

quốc phòng cũng không đồng ý về đơn vị nào rút trước, rút sau.

Abrams, với nhiều quan sát đã có trong quân đội, muốn các đơn vị rút

đi được chia đều ra, để các đơn vị còn lại vẫn còn một số hạ sĩ quan và

sĩ quan đã có kinh nghiệm về chiến trường ở Việt Nam để chỉ dẫn

những quân nhân chưa kinh nghiệm. Nhưng Bộ quốc phòng thì muốn

cho các đơn vị rút đi theo tiêu chuẫn thâm niên, bất chấp các đơn vị ở

lại còn đủ sĩ quan kinh nghiệm hay không. Abrams rất bực tức về

chuyện đó, nhưng lệnh là lệnh. Chẳng những như vậy, ngay lần rút

quân đầu tiên, tổng trưởng Laird muốn rút đi hai đơn vị thiện chiến như

một chứng minh cho dư luận Hoa Kỳ thấy chiến trường Việt Nam đã

lắng dịu đủ để cho các đơn vị đó rút đi. [28] Ban đầu, khi nói rút quân đi,

ban tham mưu MACV và Abrams nghĩ số quân rút đi sẽ là số quân tác

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

chiến và yểm trợ đang đóng ở Việt Nam. Nhưng nửa chừng, Bộ quốc

phòng cho biết các đơn vị không và hải lực yểm trở bên ngoài lãnh thổ

và và ngoài khơi duyên hải cũng nằm trong danh sách những đơn vị rút

đi (như những phi đoàn Không quân đóng ở Thái Lan với nhiệm vụ

không kích hệ thống đường xâm nhập Hồ Chí Minh; hay các chiến hạm

cung cấp hải lực để tuần phòng đường xâm nhập miền duyên hải).

Những lực lượng không lực yểm trợ này rất quan trọng để cầm chân

CSBV, và quân lực VNCH không thể nào thay vào khả năng do Hoa

Kỳ đảm nhiệm.

Ban tham mưu MACV tính toán và biết trách nhiệm giao lại cho quân

lực VNCH quá nặng, nặng hơn sức chịu đựng của người lính Việt Nam

vào lúc đương thời. Bộ tư lệnh MACV biết, với tất cả dụng cụ cơ giới

giao lại, với tất cả kỹ thuật chiến tranh quân đội Mỹ đang dùng, các

chuyên viên kỹ thuật của quân đội VNCH phải cần được huấn luyện

một thời gian để có thể am tường, rồi từ đó dạy lại các đơn vị hữu trách

cách sử dụng đúng cách. MACV cũng biết, với hơn 200 ngàn quân gia

tăng trong ba năm, những tân binh của các đơn vị tân lập không thể nào

có được kinh nghiệm chiến đấu qua đêm hay một sớm một chiều.

Trong khi tất cả những khó khăn nói trên cần một thời gian để giải

quyết, thì một yếu tố mà chính quyền Nixon không có nhiều trong lúc

đó lại là thời gian. Trong những năm 1969-1972, tất cả trách nhiệm đổ

lên vai người lính VNCH cùng một lúc nhiều đến độ đô đốc John

McCain, tư lệnh quân đội Hoa Kỳ ở Thái Bình Dương, lên tiếng lưu ý

bộ tư lệnh MACV, nếu tiến nhanh quá chương trình Việt Nam hóa sẽ tự

đánh bại lại mục đích của nó. [29]

Nhưng lệnh từ Hoa Thịnh Đốn là lịch trình rút quân sẽ được áp dụng:

chuẩn bị hay chưa chuẩn bị, quân đội VNCH phải thay vào chổ trống

khi quân đội Hoa Kỳ rút đi.

Ngày 22 tháng 11-1969, ý định và quyết định của tổng trưởng quốc

phòng Laird (chắc chắn phải có sự đồng ý của Nixon) được thông báo

rõ cho bộ tư lệnh MACV ở Sài Gòn. Trong một buổi họp có tất cả các

sĩ quan và viên chức dân sự quan trọng nhất của thẩm quyền Hoa Kỳ

tại Việt Nam, huấn lệnh của Laird được đọc cho đại tướng Abrams và

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

tất cả những người có mặt nghe. Kế hoạch rút quân và Việt Nam hóa

thông báo cho MACV có những điểm quan trọng sau. (1) Chương trình

Việt Nam hóa chấm dứt vai trò tác chiến của quân đội Mỹ tại Việt

Nam. (2) Trong kế hoạch Việt Nam hóa của chính phủ trước (Johnson),

Bộ quốc phòng ước lượng quân đội Bắc Việt sẽ rút khỏi lãnh thổ miền

Nam, và vai trò của quân đội VNCH chỉ giới hạn vào mục tiêu đương

cự với các lực lượng Việt Cộng còn lại ở miền Nam. Trong kế hoạch

mới của chính phủ Nixon và tổng trưởng Laird, vai trò của quân đội

VNCH không chỉ giới hạn vào nhiệm vụ chống lại quân Việt Cộng, mà

họ còn có nhiệm vụ đương đầu với các đơn vị chánh qui từ miền Bắc

đưa vào dù quân đội Bắc Việt có rút khỏi miền Nam hay không.

Buổi họp ngày thứ Bảy có hai ông đại sứ; ba đại tướng; sáu trung

tướng; năm thiếu tướng; chín chuẩn tướng; năm đại tá; và bốn, năm,

nhân viên dân sự cao cấp. Những người đang có mặt là đại diện cho tất

cả sức mạnh của Hoa Kỳ ở Việt Nam - nếu không nói là cho cả sứ

mạnh của Hoa Kỳ ở Thái Bình Dương. Thái độ của tất cả sau khi nghe

huấn lịnh của Laird là ngỡ ngàng, bực tức ... thấy chút xấu hổ đối người

bạn Đồng minh Việt Nam. Theo những gì được ghi lại, khi đại tướng

Abrams nghe người thuyết trình đọc đến đoạn ...quân đội VNCH được

giao phó luôn vai trò bảo vệ nội an (đương đầu với Việt Cộng) và

chống lại quân đội xâm lăng miền Bắc... ông ta cắt ngang lời người

đọc, nói rằng ông chưa hề được thông báo trước về chuyện này, và

trong kế hoạch rút quân/Việt Nam hóa cũng không dự liệu chuyện này.

Nhưng rất tiếc, rất tiếc, bây giờ thì Abrams được thông báo rồi, và ông

cũng không làm gì ngược lại được. Buổi họp kéo dài trong một bầu

không khí ngột ngạt, chua chát. Mỗi tư lệnh khi phát biểu đều không

dấu được sự thất vọng giống như họ bị thua cuộc - bất khả kháng trước

huấn lệnh của thẩm quyền từ bên nhà. Trong buổi họp, Abrams than

phiền là từ đầu năm, vì ngân quỹ thiếu hụt, Bộ quốc phòng đã ra lệnh

cho MACV giảm đi 50% phi vụ B-52; 20% phi vụ oanh tạc chiến thuật;

và 22% các yểm trợ hải pháo. ... Và bây giờ, Bộ quốc phòng còn hối

thúc rút nhanh, rút nhiều quân hơn.

Khi buổi họp kết thúc, đại tướng Abrams phát biểu một câu mà hàm ý

nói lên tất cả ý nghĩa của chương trình Việt Nam hóa: "Tôi vẫn thường

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

nói, ngày vui nhất của tôi là ngày đại tướng Cao Văn Viên gọi điện

thoại và xài xể tôi. Ngày đó là ngày tôi vui nhất. Nhưng tướng Viên sẽ

không làm chuyện đó; ông ta quá lịch sự. Nhưng tôi muốn ông ta làm

như vậy." [30] Tướng Abrams cũng không quên nhắc những người hiện

diện trong trong buổi họp là những gì được bàn luận ngày hôm đó là

những bí mật tuyệt đối, không được tiết lộ ra ngoài, hay cho những

cộng sự viên dưới quyền biết. Abrams không muốn chuyện này đến tai

phía VNCH trong lúc MACV chưa chuẩn bị để giải thích một sự thay

đổi đột ngột như vậy. Cũng có lẽ Abrams muốn đích thân là người báo

tin không vui cho tổng thống Thiệu và đại tướng Viên.

*

Cuối năm 1968 quân đội VNCH có hơn 717 ngàn quân. Trong đó, 365

ngàn thuộc về các đơn vị chủ lực như sư đoàn Nhảy dù; sư đoàn Thủy

quân lục chiến (TQLC); 10 sư đoàn Bộ binh 1, 2, 5, 7, 9, 18, 21, 22, 23,

và 25; 11 Tiểu đoàn (thiết đoàn) Thiết kỵ; 30 Tiểu đoàn Pháo binh; 20

Tiểu đoàn Biệt động quân; một Tiểu đoàn Lực lượng Đặc biệt (Tiểu

đoàn 81 Biệt kích Nhảy dù, và vào năm 1972, trở thành Liên đoàn 81

Biệt kích Nhảy dù). Hải quân và Không quân có khoảng 16, 17 ngàn

người ở mỗi quân chủng. Số còn lại là 185 ngàn Địa phương quân và

167 ngàn Nghĩa quân. [31]

Trong năm năm bành trướng, từ đầu 1969 đến cuối năm 1973, quân lực

VNCH tăng thêm gần 400 ngàn quân, nâng tổng số lên 1.100.000.

Trong số này hơn phân nửa (530 ngàn) thuộc về các đơn vị Địa phương

quân và Nghĩa quân. [32]

Lục quân (kể luôn sư đoàn Nhảy dù và TQLC) từ 358 ngàn tăng lên

thành 450 ngàn quân. Cuối năm 1971, Bộ binh có thêm một sư đoàn

mới (sư đoàn 3), tổng cộng thành 11 sư đoàn. Trong giai đoạn này, mỗi

trung đoàn có cấp số bốn Tiểu đoàn. Hỏa lực một trung đoàn Bộ binh

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

tân trang khá hùng hậu, với một Tiểu đoàn Pháo binh và một thiết đoàn

kỵ binh làm đơn vị cơ hữu cho trung đoàn. Ngoài ra, đóng kèm theo

bản doanh của sư đoàn mẹ là một Tiểu đoàn Pháo binh 155 ly. Tương

tự, ở mỗi quân khu, ngoài các sư đoàn Bộ binh cơ hữu dưới quyền, bộ

tư lệnh quân khu còn có một Tiểu đoàn pháo 175 ly nòng dài; một Tiểu

đoàn chiến xa M-48; và một lữ đoàn Thiết kỵ, như là những đơn vị

nòng cốt cho quân khu. TQLC, vào mùa xuân 1969, được nâng cấp lên

thành sư đoàn, với cơ cấu và cấp số như sư đoàn Nhảy dù. Đây là hai

sư đoàn tổng trừ bị duy nhất của quân đội VNCH. Hai binh chủng Địa

phương quân và Nghĩa quân được hiện đại hóa và trang bị vũ khí tối

tân hơn, để họ có thể tiếp tay và thay thế các đơn vị chủ lực trong

nhiệm vụ bảo vệ an ninh ở vùng trách nhiệm địa phương. Song song

với Địa phương quân và Nghĩa quân, lực lượng Cảnh sát Quốc gia cũng

được gia tăng rất mạnh. Từ nhân số 16.900 vào năm 1962, đến đầu năm

1973 Cảnh sát Quốc gia có một lực lượng khoảng 116.000 nhân viên.

[33]

Hai quân chủng tăng trưởng mạnh nhất và nhiều nhất, nếu tính theo tỉ

lệ, là Hải quân và Không quân. Cuối năm 1972, Hải quân có quân số

khoảng 43 ngàn và được trang bị với 1.680 chiến hạm, giang đĩnh.

Không quân có quân số 64 ngàn, với hơn 1.000 phi cơ đủ loại. [34]

Để huấn luyện và đào tạo sự bành trướng của số quân nói trên, chỉ

trong năm 1970, ba mươi ba trung tâm huấn luyện và trường chuyên

nghiệp của các quân binh chủng trên bốn vùng chiến thuật đã đào tạo

hơn 500 ngàn quân cán chính. [35] Nhưng người lính chỉ là một con số

chứ chưa là chiến sĩ nếu không được huấn luyện thuần thục, và tất cả

vũ khí, quân cụ tối tân sẽ trở thành vô dụng nếu quân nhân không biết

sử dụng một cách hiệu quả. Nhận biết điều đó, bộ tổng tham mưu và

MACV cố gắng tuyển chọn các huấn luyện viên Việt và Mỹ có kinh

nghiệm tác chiến về dạy tại các trung tâm huấn luyện, để học viên, tân

binh học hỏi được hiệu quả hơn từ những kinh nghiệm ở ngoài chiến

trường của huấn luyện viên. Trong năm 1969-1970, 3.700 huấn luyện

viên Hoa Kỳ có mặt tại các trung tâm huấn luyện, và ngoài chiến

trường, 14.332 cố vấn Mỹ có mặt từ Quân đoàn xuống cấp Tiểu đoàn.

[36]

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

Song song với kế hoạch giao lại cuộc chiến cho quân đội VNCH, chính

phủ Hoa Kỳ ra lệnh MACV và đại sứ Bunker tìm mọi cách giúp đỡ

chính phủ VNCH gia tăng các kế hoạch bình định và phát triển có tính

cách dân sự. Từ sau cuộc tổng tấn công năm Mậu Thân 1968, các cố

gắng đem lại an ninh và cơ cấu hành chánh cho làng xã để phát triển

đời sống cho người dân ở nông thôn, được chính phủ coi là những mục

tiêu ưu tiên.

Các kế hoạch chương trình bình định phát triển nông thôn được những

cơ quan như CORDS của Hoa Kỳ yểm trợ. CORDS được thành lập

giữa năm 1968 như một cơ cấu hỗn hợp giữa bộ tư lệnh quân sự

MACV và tòa đại sứ Hoa Kỳ để cung cấp chuyên viên, ngân quỹ và cố

vấn cho các chương trình có tính cách dân sự hay bán quân sự. [37] Về

mặt dân sự, CORDS giúp đỡ các chương trình tái định cư cho hơn hai

triệu người tị nạn từ các thành phố, làng xã bị hủy hoại sau trận Mậu

Thân, hay từ những vùng hoàn toàn bị cộng sản chiếm đóng. CORDS

cung cấp ngân quỹ cho các chương trình phát triển y tế, giáo dục, huấn

luyện cho các cán bộ Xây dựng Nông thôn hay các cán bộ hành chánh

cấp địa phương. Về mặt bán quân sự, CORDS thành lập các cơ quan

khá bí mật để giúp và huấn luyện Cảnh sát; Cảnh sát Dã chiến; các toán

Thám sát Tỉnh; trung tâm Thẩm vấn và Điều tra Tỉnh ... nhằm vào các

mục đích triệt tiêu hạ tầng cơ sở, cắt đứt đường giao liên của Việt Cộng

đang hoạt động tại địa phương. Cố vấn từ CORDS có mặt ở các chương

trình như Chiêu hồi; trung tâm huấn luyện cán bộ Xây dựng Nông thôn;

Nhân dân Tự vệ; Chiến dịch Phượng hoàng; hay các chương trình có

tính cách tâm lý chiến như hai chương trình phát thanh của đài Gươm

thiêng Ái quốc và Mẹ Việt Nam. [38]

Những kế hoạch của CORDS cũng như các chương trình bình định và

phát triển Nông thôn của chính phủ VNCH đã gây nhiều khó khăn,

thiệt hại cho cộng sản trong những năm 1969-1973. Với nhiều cơ sở,

đường giây giao liên bị cắt đứt và phá hủy; với nhiều cán bộ địa

phương bị khám phá và truy lùng, Trung ương Cục miền Nam - nếu

còn được gọi là Trung ương Cục miền Nam sau những thiệt hại nặng

vào hai cuộc tấn công của năm 1968 và 1969 - ra lệnh cho các đơn vị

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

cộng sản "ở đâu nằm đó," và tránh giao tranh với quân đội VNCH để

bảo toàn lực lượng. Chỉ thị trên của cộng sản được xác định thêm lần

nữa vào tháng 7-1969, khi giới lãnh đạo CSBV ban xuống cấp dưới

một huấn lệnh có tên là có tên là Nghị quyết 9. Nghị quyết 9, dài 42

trang, chỉ thị các cấp phải thay đổi chiến lược chiến thuật để phù hợp

với tình hình mới của mặt trận mới. Sau hai lần tấn công qui mô trong

hai năm 1968 và 1969, giới lãnh đạo quân sự và chính trị CSBV thú

nhận họ không thể nào chiến thắng về quân sự nếu quân đội Mỹ còn có

mặt ở Việt Nam. Quyết nghị 9 chỉ thị cấp dưới thi hành kế hoạch mới

là: Cố gắng tạo điều kiện để quân đội Mỹ rút ra khỏi chiến trường Việt

Nam càng sớm càng tốt; phá rối mọi kế hoạch Việt Nam hóa đang được

thực hiện về mặt quân sự và dân sự; ngăn chận mọi nỗ lực trong các

chương trình bình định và phát triển nông thôn; và, xây dựng lại cơ cấu

hạ tầng cơ sở để hoạt động và đấu tranh nếu có một thương lượng

ngưng bắn xảy ra trong tương lai. Sau khi Nghị quyết 9 được thông

báo, CSBV bắt đầu tránh đụng độ ở chiến trường lớn; mọi nỗ lực chỉ

nhắm vào thôn quê, làng xã; các đơn vị lớn phân tán ra từng đơn vị và

lực lượng nhỏ, để dể dàng di chuyển, dể dàng đánh du kích theo lý

thuyết trường kỳ kháng chiến. Một số các đơn vị chủ lực cũng được

lệnh di chuyển qua Lào hay đi trở ngược về miền Bắc để tái trang bị và

bổ sung. CSBV phải quay ngược về chiến tranh du kích vì hạ tầng cơ

sở của họ bị phá hủy hoàn toàn. Theo lời thú nhận của một cấp chi huy

cao cấp cộng sản ở vùng Sài Gòn-Gia Định-Chợ Lớn, sau trận Mậu

Thân, "Ba đồng chí Bí thư, một đồng chí Tư lệnh phân khu (đều là ủy

viên thường vụ Khu ủy Sài Gòn-Gia Định trước đây) và hơn phân nửa

ủy viên Phân khu ủy đã hy sinh sau Mậu Thân. Một đại đội bảo vệ của

Bộ tư lệnh Phân khu 1 trong khi làm nhiệm vụ bảo vệ và tiếp tế lương

thực đã hy sinh gần hết. Một tư lệnh quân sự của B2 cũng cho biết một

tư lệnh sư đoàn và một phó tư lệnh quân khu đã hy sinh trong hai cuộc

tấn công trong trận Mậu Thân." [39]

Nếu VNCH có một cơ hội để chiến thắng trong cuộc chiến chống cộng

thì những năm 1969-1971 là một cơ hội không bao giờ trở lại. Đó là

một giai đoạn mà những người quan sát về chính trị quân sự sau này

gọi là một chiến thắng bỏ lỡ; nột chiến thắng đã nằm trong tay nhưng

để vuột đi. Qua những thú nhận từ các cán bộ cao cấp của cộng sản đã

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

trình bày ở trên, chúng ta thấy các lực lượng địa phương và chủ lực của

cộng sản bị thiệt hại nặng qua những đợt tấn công trong hai năm 68 và

69 vào thị tứ và căn cứ của VNCH. CSBV không còn phương tiện hay

nhân lực để chiến đấu; họ đã đánh cạn láng trong một canh bạc rất sai

lầm. Phía VNCH, sau khi đánh tan những cuộc tấn công và ổn định lại

tình hình an ninh, hai kế hoạch tổng động viên và bình định Xây dựng

nông thôn do chính phủ đưa ra tiếp tục gây thêm nhiều khó khăn cho

cộng sản. Những con số cán binh ra đầu thú hay hồi chánh trong ba

năm 69-71 cho thấy sự tuyệt vọng của các cán binh cộng sản; những

con số về sự an ninh và kiểm soát dân cư ở những xã ấp nông thôn cho

thấy người dân tin và ngả về với chính phủ hơn. Nếu con số 16 ngàn

cán binh hồi chánh trong năm 1968 chưa cho thấy sự chán nản của phía

bên kia, thì con số 45 ngàn cán binh về đầu thú trong năm 1969 sẽ cho

thấy. Trước năm 1968 chính phủ chỉ hy vọng kiểm soát và đem lại an

ninh cho chừng 72-75% làng xã và dân cư, đến đầu năm 1971 chính

phủ VNCH đã kiểm soát và đem lại an ninh cho 85% dân cư trên toàn

lãnh thổ. [40]

Với sự an ninh ở nông thôn được tương đối duy trì và bảo vệ, nền kinh

tế nông nghiệp phát triển thấy rõ. Tổng số lúa gạo thu hoạch trong năm

1969 vượt hơn 5 triệu tấn, và lên đến 5 triệu 700 ngàn tấn trong mùa

lúa năm 70-71. Những con số này cho thấy kế hoạch bình định và phát

triển nông thôn của chính phủ VNCH đã thành công rực rỡ; và cũng

cho thấy các cơ sở địa phương của cộng sản bị bứng đi theo đà phát

triển của kế hoạch an ninh địa phương của chính phủ VNCH. Trong

những năm 1970-71, tình hình an ninh ở các vùng quê được bảo đảm

đến mức một số nhân vật cao cấp Việt-Mỹ lái xe Jeep không hộ tống,

đi thăm viếng ngoại thành Quảng Trị-Huế ban đêm, để thấy sự thay đổi

về an ninh ở một nơi được gọi là tuyến đầu của chiến tuyến. [41]

*

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

Trong hai năm 1970 và 1971 T khoảng thời gian mà báo chí và bộ tư

lệnh MACV gọi là Việt Nam hóa quân đội VNCH đã chứng tỏ khả

năng tác chiến của họ, nếu được yểm trợ và trang bị đúng nhu cầu, qua

hai cuộc hành quân lớn tấn công vào sào huyệt của CSBV ở Cam Bốt

và Lào.

Từ năm 1964, nếu không nói trước đó, đất Cam Bốt là cửa ngõ nhận

hàng quân nhu dụng của Trung Cộng tiếp tế cho CSBV. Hàng được tàu

Trung Cộng hay của các quốc gia trong khối cộng sản Đông Âu được

chuyên chở bằng đường biển đến hải cảng Shihanoukville (bây giờ là

Kompong Som), và từ đó bằng đường bộ chuyển về các trạm hậu cần

của CSBV thiết lập dọc theo biên giới VNCH-Cam Bốt. Tài liệu tịch

thu được của CSBV cũng như tin tức của nhiều cơ quan tình báo Hoa

Kỳ cho thấy số lượng quân nhu dụng cung cấp cho CSBV qua hải cảng

Shihanoukville nhiều hơn số lượng di chuyển bằng đường bộ qua hệ

thống đường xâm nhập Hồ Chí Minh trong thời gian đó. Nhưng từ năm

1964 đến năm 1969, bộ tư lệnh MACV và thẩm quyền dân sự Mỹ

không có quyết định nào rõ ràng để đối phó với các căn cứ hậu cần

CSBV đang hoạt động ở nội địa Cam Bốt. Giới thẩm quyền phân vân

giữa hai tin tức đến từ hai cơ quan tình báo khác nhau: Một mặt, tin

tình báo từ CIA cho biết số lượng quân nhu dụng nhập cảng từ

Shihanoukville rất khiêm nhường so với những gì CSBV có thể vận

chuyển vào nam qua hệ thống đường xâm nhập Hồ Chí Minh; mặt kia,

tin tức tình báo quân sự của MACV thì nói ngược lại: năm 1964 đến

năm 1968, số lượng hàng đi qua cửa khẩu Shihanoukville bằng hoặc

nhiều hơn số lượng hàng đi qua vĩ tuyến 17 đi vào nội địa Lào. Với hai

tin tức trái ngược này, cộng với thái độ ngụy tín đi hàng hai của Hoàng

thân Shihanouk, thẩm quyền Hoa Kỳ ở Hoa Thịnh Đốn rất phân vân và

ái ngại khi muốn giải quyết vấn đề quân CSBV trú đóng ở đất Cam

Bốt.

Về phương diện chính trị và chủ quyền quốc gia, từ năm 1964 đến năm

1970 vương quốc Cam Bốt sống trong một thế giới nửa thật nửa ảo.

Hoàng thân Shihanouk ngấm ngầm cho phép CSVN đóng trong đất

Cam Bốt để thâu tiền và đồng thời cho phép các sĩ quan dưới quyền

nhận hối lộ của các đơn vị CSBV đóng quân ở vùng trách nhiệm của

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

họ. Tài liệu cho thấy năm 1964 Shihanouk đã cho một sĩ quan cao cấp

của ông đích thân đi qua Bắc Kinh để thương lượng giá cả với Chu Ân

Lai của Trung Cộng khi nhận hàng qua Shihanoukville và chuyển đến

tay CSBV. Nhưng cùng lúc, Shihanouk nhắm mắt để cho Không quân

Mỹ dội bom xuống những cứ địa của CSBV vì thật sự Shihanouk

không muốn thấy CSBV có mặt trên đất Cam Bốt, khi ông thấy trò chơi

hai hàng càng ngày càng nguy hiểm. Trong khi ở phiá CSBV, dù các

căn cứ bị tàn phá và thiệt hại nặng về nhân mạng từ những trận bom

B52, nhưng họ không dám lên tiếng vì từ trước đến giờ lúc nào họ cũng

phủ nhận sự hiện diện trái phép trên đất Cam Bốt. Bên phía Hoa Kỳ thì

lại càng vô lý hơn: họ dội bom các căn cứ CSBV ngày đêm bằng hàng

ngàn tấn bom, nhưng cố dấu hành vi đó vì sợ công pháp quốc tế lên án

sự di phạm nền "trung lập" của Cam Bốt. Cả ba chính phủ đều biết

chuyện gì xảy ra trên đất Chùa tháp, nhưng cả ba đều cố gắng giữ kín

chuyện họ làm để chữ "trung lập" của Cam Bốt được toàn vẹn. [42]

Tình hình chính trị của Cam Bốt thay đổi vào thượng tuần tháng 3-

1975, khi thủ tướng Lon Nol đảo chánh Shihanouk và lên nắm quyền.

Lập tức Lon Nol ra lệnh giới hạn hàng nhập cảng Shihanouk và đồng

thời thông báo cho CSBV biết họ phải rời khỏi đất Cam Bốt trong vòng

72 tiếng đồng hồ. CSBV, thấy được chiều hướng bất lợi cho họ khi một

người thân Tây phương như Lon Nol nắm quyền, liên kết với cộng sản

Cam Bốt (Khmer Đỏ sau này) ra mặt tấn công các vị trí của quân đội

hoàng gia Cam Bốt. Với số quân hỗn hợp chừng 40 đến 60 ngàn,

CSBV và Khmer Đỏ đánh về hướng tây, về hướng thủ đô Nam Vang

(Phnom Penh). [43]

Với tình hình chính trị Cam Bốt có chiều hướng thuận lợi cho Hoa Kỳ

và VNCH, giữa tháng 3-1970, tướng Abrams của MACV đến "dọ hỏi"

tướng Cao Văn Viên ở bộ tổng tham mưu về những cuộc hành quân đột

kích vào mật khu của CSBV ở bên kia biên giới. Đây không phải là lần

đầu tiên bộ tư lệnh MACV nghĩ đến chuyện đánh qua Cam Bốt. Từ đầu

Xuân năm 1969, một số viên chức cao cấp Hoa Kỳ như đô đốc John

McCain của bộ tư lệnh Thái Bình Dương, William Colby của chương

trình CORDS (thật sự là đại diện CIA ở CORDS) và tướng Abrams đã

có ý tấn công qua Cam Bốt. Cuối năm 1969, ban tham mưu liên quân

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

từ Hoa Thịnh Đốn yêu cầu MACV sơ thảo một kế hoạch cho quân đội

VNCH đánh qua Cam Bốt (chỉ có quân VNCH, không có quân đội hay

cố vấn Mỹ đi kèm). Abrams lưỡng lự về kế hoạch này, vì theo ông,

ngay cả quân đội Hoa Kỳ cũng có thể gặp khó khăn khi đánh qua Cam

Bốt, nếu để quân đội VNCH đơn độc đánh qua một mình thì ông rất ái

ngại. [44] Nhưng đến tháng 3-1971 thì MACV được phép đột kích giới

hạn vào các căn cứ của CSBV ở bên kia biên giới. Tuy nhiên, không

phải đợi đến lúc Hoa Kỳ đề nghị thì quân lực VNCH mới có kế hoạch

truy kích các đơn vị cộng sản bên đất Cam Bốt. Sau khi thấy Shihanouk

bị lật đổ và một chánh phủ Lon Nol thân thiện với VNCH lên thay, bộ

tổng tham mưu đã ra lệnh cho các đơn vị ở vùng III và IV được quyền

truy kích qua biên giới nếu tình trạng chiến sự cho phép. Ngày 14 tháng

4-1970, quân khu III mở cuộc hành quân Toàn Thắng 41 đánh qua Cam

Bốt ở một vùng đối diện với địa phận ranh giới hai tỉnh Kiến Tường và

Tây Ninh. Trong cuộc đánh qua biên giới này, quân VNCH chỉ có sự

hỗ trợ của Pháo binh Hoa Kỳ. Trận tấn công này làm quân đội VNCH

phấn khởi: chỉ bị tổn thất tám tay súng để đổi lại 378 xác địch, 37 tù

binh, và nhiều cơ sở bị phá hủy. Với sự khả quan đó, hai tuần sau quân

khu III tiếp tục một cuộc hành quân khác đánh qua biên giới. Tuy

nhiên, vì tầm yểm trợ Pháo binh của Hoa Kỳ giới hạn từ bên này biên

giới, quân đội VNCH chỉ tấn công không hơn mười cây số vào nội địa

Cam Bốt trong hai lần đột kích đầu tiên này. [45]

Hạ tuần tháng 4, ban tham mưu liên quân thông báo cho tướng Abrams,

là "thẩm quyền tối cao" đồng ý trên nguyên tắc về một cuộc hành quân

hỗn hợp Việt-Mỹ qua Cam Bốt. Ngày 29 tháng 4-1970 thẩm quyền tối

cao không ai khác hơn là tổng thống Nixon, cho phép cuộc hành quân

tiến hành. Tuy nhiên, để giữ một lễ nghi ngoại giao đối với dư luận

quốc tế, Nixon đề nghị để một lực lượng của VNCH tấn công qua biên

giới trước, rồi lực lượng Mỹ theo chân liền sau đó.

Cuộc hành quân, với tên Toàn Thắng ở phía Việt Nam và Operation

Rockcrusher bên phía Hoa Kỳ, khởi sự ngày đầu của tháng 5-1970,

chia ra làm ba hướng: hai lực lượng không kỵ Hoa Kỳ và Nhảy dù

VNCH đánh ở hướng bắc xuống nam (vùng Lưỡi Câu), tiến vào vào

Krek và Snoul; ở phía nam (Mỏ Vẹt), quân VNCH đánh vào Svay

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

Rieng tiến ngược về hướng bắc, đi vào Kampong Trach. [46] Phía Hoa

Kỳ có chừng 19.300 quân, phía VNCH có 29.000 tay súng. Cuộc tấn

công gặp vài kháng cự đáng kể vào hai ngày đầu, nhưng đến ngày thứ

năm của cuộc hành quân thì mặt trận kể như tàn: CSBV bỏ căn cứ và

rút nhanh về hướng tây, sâu vào nội địa Cam Bốt đối diện với sức tiến

quân của các đơn vị VNCH và Hoa Kỳ. Hơn hai tuần trước đó, bộ tư

lệnh B3 đã ra chỉ thị cho các đơn vị ở Cam Bốt phải, "tránh kháng cự,

rút quân khỏi mặt trận, để bảo toàn lực lượng." [47] Trong cuộc hành

quân này, vì bị giới hạn bởi luật của Quốc hội Hoa Kỳ, các đơn vị Mỹ

(kể luôn cố vấn đi kèm theo các đơn vị VNCH) chỉ được tiến vào đất

Cam Bốt không quá ba mươi cây số, và không được ở lại đó sau ngày

30 tháng 6 (60 ngày từ ngày bắt đầu hành quân). [48]

Vũ khí tịch thu từ những căn cứ của CSBV cho thấy những tiên đoán,

uớc lượng của MACV và tình báo VNCH là đúng ấ và những tin tức từ

CIA là sai, sai một cách đáng xấu hổ. [49] Quân đội VNCH và Hoa Kỳ

tịch thu được 23 ngàn súng cá nhân; 2 ngàn 500 súng cộng đồng; hơn

16 triệu viên đạn súng cá nhân; 143 ngàn đạn súng cối, hỏa tiến, đại

pháo; 200 ngàn đạn phòng không và 7.000 tấn gạo. Đó là chưa kể

những dụng cụ, thuốc y dược, hay những quân nhu dụng linh tinh khác

bị phá hủy. Khoảng 75 phần trăm số quân nhu dụng tịch thu đến từ

Trung Cộng. Số vũ khí tịch thu đủ để trang bị cho 74 Tiểu đoàn, và số

gạo lấy được có thể nuôi tất cả các đơn vị cộng sản ở B2 trong nửa

năm. Về tổn thất nhân sự: VNCH có 638 chết và hơn 3.000 bị thương;

Hoa Kỳ có 338 chết và 1.525 bị thương. Phía CSBV chết hơn 11 ngàn

lính và 2.500 bị bắt làm tù binh. [50] Sau khi tất cả quân đội Mỹ rút khỏi

Cam Bốt theo thời hạn đã định, quân đội VNCH vẫn truy lùng, tảo

thanh những đơn vị còn lại của địch sâu trong biên giới. Một trong

những cuộc đụng độ quan trọng vào những ngày cuối của cuộc hành

quân, là khi quân đội VNCH tiến về Kampong Cham và đồn điền cao

su Chup. Tại đây quân đội VNCH đã đánh tan một đơn vị của sư đoàn

9 Việt Cộng đang gây áp lực vào thủ đô Nam Vang chỉ cách đó 75 cây

số. Tất cả các đơn vị VNCH thuộc Vùng III rút khỏi Cam Bốt vào ngày

22 tháng 7-1970. Tuy nhiên từ đó cho đến cuối năm 1972, bộ tư lệnh

Vùng III vẫn đột kích ra vào trên đất Cam Bốt để truy kích các đơn vị

CSBV theo nhu cầu quân sự.

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

Cuộc hành quân tấn công qua Cam Bốt, không thể chối cãi, là một

chiến thắng quân sự. Nhưng nếu nhìn sâu hơn, phía sau chiến thắng đó

nhiều phản ứng bất lợi xảy đến cho VNCH và Hoa Kỳ - những phản

ứng bất lợi mà không ai có thể tiên đoán trước được. Một trong những

bất lợi về mặt quân sự là, khi VNCH và Đồng minh đánh tan các căn cứ

CSBV, quân đội cộng sản không còn cách nào khác hơn là phải đánh

mở đường máu về hướng tây, đánh sâu vào nội địa Cam Bốt và gây áp

lực về hướng thủ đô Nam Vang. Như vậy, nếu nhìn từ góc độ quân sự

chiến lược, địa bàn cuộc chiến Việt Nam lan rộng hơn: Hoa Kỳ và

VNCH phải canh chừng cả Lào và Cam Bốt. "Cuộc chiến tranh Đông

Dương" có ý nghĩa là trong giai đoạn này: địa bàn của cuộc chiến đã

lan tràn gần như toàn cõi Cam Bốt. Khi CSVN ra mặt tấn công quân

đội Cam Bốt để tìm đường sống, Hoa Kỳ và VNCH không còn chọn

lựa nào khác hơn là phải tiếp cứu người bạn Đồng minh bất ngờ. Phản

ứng bất lợi về chính trị là sự chống đối mạnh mẻ của giới sinh viên và

nhiều nhóm nghị viên của Quốc hội Mỹ. Sự tấn công qua Cam Bốt gây

nhiều náo động trong nội địa Mỹ, nhất là sau vụ lính vệ binh quốc gia

bắn tử thương bốn sinh viên ở đại học Kent, tiểu bang Ohio. Liền sau

đó tất cả các đại học ở các tiểu bang lớn gần như đồng nổi loạn với sinh

viên ở 441 đại học biểu tình và bãi khóa. Về phía Quốc hội Hoa Kỳ, để

trừng phạt Nixon, một số ủy ban ở hạ và thượng viện bắt đầu nhóm họp

để đưa ra một số dự luật nhằm vào việc giới hạn những hoạt động quân

sự của Hoa Kỳ ở Việt Nam, nếu không nói ở toàn Dông Dương. Ngay

trong khi quân đội VNCH và Hoa Kỳ vẫn còn hiện diện trong đất Cam

Bốt, ngày 24 tháng 6-1970, thượng viện Mỹ ra quyết nghị rút lại (hủy

bỏ) Quyết Nghị Vịnh Bắc Bộ 1964 (Tonkin Gulf Resolution). Ngày 30

cùng tháng, thượng viện chấp thuận một dự luật cấm quân đội Mỹ hoạt

động trên lãnh thổ Cam Bốt nếu không có sự ưng thuận của Quốc hội.

Tuy nhiên dự luật bị hạ viện bác bỏ khi được đưa xuống cho hạ viện

phê chuẩn. [51] Một bất lợi khác có ảnh hưởng nhiều đến chương trình

Việt Nam hóa: Sự thành công mỹ mãn của quân đội VNCH ở Cam Bốt

làm cho Ngũ Giác Đài và Tòa Bạch Ốc quá lạc quan về sự thành công

của chương trình Việt Nam hóa. Và từ đó họ suy luận: nếu quân đội

VNCH đã thành công như vậy thì quân đội Hoa Kỳ có thể rút nhanh

hơn và có thể nhường gánh nặng chiến trường lại cho quân đội VNCH

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

nhiều hơn. Đây là một lạc quan rất lầm lẫn, rất ngộ nhận cho chương

trình Việt Nam hóa. Sự lạc quan của Hoa Kỳ đi xa sự thật và quá vội.

Cuộc hành quân đánh qua Cam Bốt không phải không có khuyết điểm.

Qua cuộc hành quân, các sĩ quan tham tham mưu cao cấp của quân lực

VNCH nhận thấy quân đội còn một vài khuyết điểm: Nhiều đơn vị gặp

trở ngại về tiếp vận và bảo trì khi di chuyển trên một mặt trận xa, nhất

là các đơn vị cơ giới; khả năng ngôn ngữ (Anh ngữ) còn yếu khi phải

liên lạc với các sĩ quan cố vấn trong vấn đề yểm trợ hỏa lực hay chấm

tọa độ cho phi cơ bạn đánh bom; Bộ binh không tận dụng hết khả năng

yểm trợ của Pháo binh cơ hữu; phối hợp tác chiến giữa các đôn vị Bộ

binh và thiết giáp. ... Những khuyết điểm này phải cần thêm một thời

gian huấn luyện nữa thì mới thuần thục. [52] Cuộc hành quân đánh qua

Cam Bốt, để tóm gọn lại, là một quyết định chẳng đặng đừng: không

giải quyết một nguy hiểm quân sự thì không được; giải quyết được

nguy hiểm quân sự thì phải chịu đựng những bất lợi về chính trị.

[1]Về những giai đoạn động viên, cơ chế quân dịch, hay các sắc luật về

nghĩa vụ quân sự, đọc, trung tướng Đồng Văn Khuyên, The RVNAF,

trang 33-37; Đoàn Thêm, Việc từng ngày: 1954-1964; Việc từng ngày:

1968, tháng 8-1957; 1-1959, 4-1964; và 6-1968; chuẩn tướng James

Lawton Collins, Jr., The Development and Training of the South

Vietnamese Army, trang 12, 57, và 68. Quyển The RVNAF (nguyên tác

bằng Anh ngữ, RVNAF là chữ tắt của Republic of Vietnam Armed

Forces - Quân đội Việt Nam Cộng hòa) là một tác phẩm rất chi tiết về

cơ sở, quân số và cấu trúc, của quân lực VNCH, từ lúc thành hình cho

đến ngày thất thủ.

[2]Luật Tổng động viên 1969 được tổng thống Thiệu chánh thức ban

hành ngày 19 tháng 6-1969 (ngày Quân lực) tại Phú Văn Lâu, Huế.

[3]William Colby, Lost Victory; và Stephen B. Young, Cuộc chiến thắng

bỏ lỡ (bản dịch Việt ngữ của Nguyễn Vạn Hùng), là hai tác phẩm nói

về những cơ hội có thể đem lại chiến thắng mà VNCH không đạt được

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

trong những năm 1969-1972.

[4]Về chuyện Nixon tin tưởng chiến tranh Việt Nam sẽ kế thúc trong

vòng năm tới, đọc trang 542, Chương 10 trong sách này. Tháng 5-1969,

Kissinger tuyên bố cuộc chiến sẽ được giải quyết trong vòng sáu tháng.

Đọc, Marvin Kalb and Bernard Kalb, Kissinger, trang 120. Sách của

Hersh, The Price of Power, trang 119, nói Kissinger tuyên bố "sẽ có kết

quả trong vòng ba tháng."

[5]Daniel Ellberg, giữa năm 1971, thất vọng về đường lối cuộc chiến

Việt Nam, ăn cắp tài liệu tối mật do Ngũ Giác Đài, do ông và một số

viên chức cao cấp soạn thảo về lịch sử và liên hệ của Hoa Kỳ trong

chiến tranh Việt Nam, đưa cho báo chí đăng tải. Ellsberg đã phục vụ ở

Việt Nam như một quan sát viên quan trọng của Bộ Quốc phòng. Là

một tay khoa bảng từ đại học Harvard (tiến sĩ đại học Harvard, bạn với

Kissinger), Ellsberg gia nhập chính phủ với chức vụ phụ tá cho John

McNaughton, nhân vật đứng hàng thứ ba trong Bộ Quốc phòng dưới

thời của McNamara. Tài liệu Ellsberg đánh cắp từ Ngũ Giác Đài là căn

bản của các ấn bản The Pentagon Papers sau này. Ellsberg xuất bản hai

tác phẩm, Papers on the War, và Secrets: A Memoir of Vietnam and the

Pentagon Papers. Ngoại trừ tính chất tối mật của những Việc Ellsberg

làm được ghi lại trong sách, hai tác phẩm của Ellsberg không có gì hay

nếu không nói là dở.

[6]Jeffrey Kimball, Nixon's Vietnam War, trang 91-93.

[7]Paris. BT

[8]Tất cả các câu hỏi này nằm dưới dạng Huấn lệnh Nghiên cứu An ninh

Quốc gia số 1 (National Security Study Memorandum 1), gởi ra từ Hội

đồng An ninh Quốc gia của Kissinger. Đọc Ellsberg, Secrets, trang

235-241; Kimball, sđd, trang 94. Về chi tiết của các câu hỏi, đọc

Jeffrey Clarke, Advice and Support: The Final Years, 1965-1973, trang

341-342. Về các câu hỏi liên quan đến quân đội Mỹ và VNCH, đọc,

trung tướng Phillip B. Davidson, sđd, trang 588-589.

[9]Sau này, trong hồi ký, Kissinger nói huấn Lệnh NSSM 1 chỉ là một

tham khảo sơ lược về cuộc chiến. Năm 1972, khi MSSM 1 bị lộ ra

ngoài báo chí, đại tướng Alexander Haig, đang làm phụ tá cho

Kissinger, tuyên bố, khi NSSM 1 đến tay các thẩm quyền thì "đã lỗi

thời và quá xa [thẩm quyền trung ương]" để được áp dụng. Đọc, Kalb

and Kalb, sđd, trang 129. Cũng theo hai tác giả Kalb, phúc trình gởi trả

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

lời huấn Lệnh NSSM 1 dầy hơn một ngàn trang.

[10]Bản tường trình cuối cùng của McNamara, viết cho Johnson ngày 1

tháng 11-1967, có những đề nghị hoàn toàn trái ngược với tinh thần

"diều hâu" của ông từ sáu năm qua. McNamara đề nghị không cho

thêm quân; ngưng dội bom vô hạn định, và trao nhiệm vụ tác chiến lại

cho quân đội VNCH để giới hạn thiệt hại về nhân mạng cho quân đội

Hoa Kỳ. Đọc, Deborah Shapley, Promise and Power: The Life and

Times of Robert McNamara, trang 436. Hơn một tuần sau, Johnson bổ

nhiệm McNamara làm giám đốc Ngân Hàng Thế Giới (the World

Bank), một chức vụ McNamara giữ đến tám năm sau.

[11]Oasinhton. BT

[12]Theo đô đốc Elmo R. Zuwalt, Jr., cựu Tư lệnh Hải quân Hoa Kỳ tại

Việt Nam, và sau này là Tư lệnh Hải quân Hoa Kỳ, từ tháng 8-1968

ông đã nhận được chỉ thị của đại tướng Abrams cấp tốc huấn luyện và

chuyển giao vùng trách nhiệm cho Hải quân Việt Nam. Zumwalt nói

Abrams nhận lệnh này từ tổng thống Johnson. Đọc, Zumwalt, On

Watch, trang 36-37. Về những huấn Lệnh liên quan đến chương trình

Việt Nam Hóa của Bộ Quốc phòng, và quân số sự định của VNCH vào

các tháng đầu của năm 1968, đọc, chuẩn tướng James Collins, sđd,

trang 86-90.

[13]Bùi Diễm, trong tuyển tập Vietnam as History, Peter Braestrup, chủ

biên, trang 62. Ở cùng trang, đại sứ Bùi Diễm nói thêm, ông nghĩ kế

hoạch Việt Nam hóa được đề ra để đáp ứng với nhu cầu chính trị một

cách tạm thời, hơn là một kế hoạch có tính toán kỹ càng. Cũng nên

nhắc lại, khi Hoa Kỳ đổ bộ đơn vị TQLC đầu tiên lên Đà Nẵng vào

tháng 3-1965, họ quên thông báo cho VNCH cho đến khi đặc chân

xuống lãnh thổ VNCH. Và trong một ý nghĩa nào đó, Hoa Kỳ muốn

"Mỹ hóa" cuộc chiến hai tháng sau, khi hai Tiểu đoàn tác chiến của lữ

đoàn 173 Nhảy dù đổ bộ ở Vũng Tàu ngày 5 tháng 5. Đọc, Bui Diem

with David Chanoff, In the Jaws of History, trang 131-132; Shelby

Stanton, The Rise and Fall of an American Army, trang 45-46.

[14]Trích theo Sorley, A Better War, trang 5. Tháng 2-1967, Tham mưu

trưởng liên quân Wheeler sau khi sang thăm Việt Nam, trở về báo cáo

với tổng thống Johnson, "[theo chiều hướng này] chúng ta có thể thắng

về quân sự nếu chúng ta tiếp tục áp lực như đang áp dụng ở miền Bắc

và miền Nam." Chữ nếu của Wheeler đã không được Johnson và

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

McNamara theo đuổi tới mức. Op. cit., ibid.

[15]Về tổn thất của Hoa Kỳ, VNCH, CSBV, trong năm 1968, đọc,

Doulas Pike, chủ biên, The Bunker Papers, Vol. 3, trang 647; về con số

thương vong của Mỹ trong các năm trước đó, đọc, James Olson,

Dictionary of the Vietnam War, Appendix E.

[16]Đọc, Đại tướng Bruce Palmer, Jr., The 25-Year War: America's

Military Role in Vietnam, trang 92-93; Lewis Sorley, A Better War,

trang 39-39; cùng tác giả, Vietnam Chronicles: The Abrams Tapes,

1968-1972, trang 308. Theo một tác gỉa khác, đầu năm 1972, khi

Thomas Polgar chuẩn bị lên đường sang Saigon thay Ted Shackley làm

trưởng phòng CIA, Polgar có đến bộ quốc phòng từ giã Melvin Laird.

Trong cuộc nói chuyện, Laird trấn an Polgar, nói rằng, "... đừng lo, Hoa

Kỳ sẽ còn giữ lại một số quân cho đến 30 năm nữa như ở Tây Đức."

Kim Wellenson et al., The Bad War, trang 102. Trích theo Sorley, A

Better War, trang 282.

[17]Lewis Sorley, Thunderbolt: General Creighton Abrams and the

Army of His Times, trang 254-259. Về những thay đổi Huấn lệnh từ

Hoa Thịnh Đốn, và những chiến thuật, chiến lược mới của MACV, đọc

Sorley, A Better War, trang 17-30.

[18]Jeffrey Clarke, sđd, trang 384, và Appendix C. 549.500 người là số

quân cao nhất của quân đội Hoa Kỳ ở Việt Nam. Một tài liệu khác của

Bộ Quốc phòng cho số 543.400 là cao nhất.

[19]Richard Nixon, No More Vietnams, trang 96.

[20] Theo Clarke, sđd, trang 351, phụ chú 22, bản Kế hoạch do Bộ Tổng

Tham mưu VNCH soạn, được trao cho phía Hoa Kỳ tại Đảo Midway

cùng ngày hội họp. Cũng theo Clarke, ông Thiệu nghe về chuyện rút

quân một cách bán chánh thức từ đại tướng Abrams và đại sứ Bunker

vào tháng Giêng, 1969. Trong lần nói chuyện đó tướng Abrams nói với

tổng thống Thiệu là đây chưa phải là thời điểm có thể rút các đơn vị tác

chiến đi được. Từ đầu năm 1968 ông Thiệu có tuyên bố trên báo chí về

chuyện Hoa Kỳ sẽ rút quân nhưng nói rõ chi tiết, hay cho biết đó có

phải là một kế hoạch hỗn hợp giữa hai bên hay không. Xem, Clarke,

sđd, trang 346; Đoàn Thêm, Chuyện từng ngày: 1968, tháng Giêng, và,

1969, tháng Tư.

[21]Nixon, RN: The Memoirs of Richard Nixon, trang 392. Lewis Sorley,

trong A Better War, trang 423, phụ chú 37, có viết, tướng William B.

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

Rosson, đang là Tư lệnh phó MACV, có mặt ở dinh Độc Lập với tổng

thống Thiệu khi cả hai nghe Nixon tuyên bố. Ngay sau đó, Tổng thống

Thiệu nói với tướng Rosson là những gì Nixon nói hoàn toàn sai sự

thật. Ông không có đề nghị chuyện rút quân với Nixon. Ngược lại,

chính Nixon nói với ông là Nixon phải rút quân vì đó là ước muốn của

dân Hoa Kỳ. Đại tướng Abrams chẵng những không đề nghị mà còn

phản đối chuyện rút quân đột ngột như ý định của Nixon và tổng

trưởng Laird. Đọc Jeffrey Clarke, sđd, trang 348.

[22]Chủ thuyết Nixon (The Nixon Doctrine) về liên hệ của Hoa Kỳ và

nền an ninh ở Á châu, còn được được gọi là The Guam Doctrine, vì

Nixon tuyên bố chủ thuyết này tại Đảo Guam vào tháng 7-1969, trên

đường đi đón các phi hành gia Apollo XI (phi thuyền đáp lên mặt

trăng) trở lại địa cầu. Guam là nơi Nixon khởi hành thăm viếng sáu

Quốc gia ở Nam Á và Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam. Về chủ

thuyết này, đọc, Nixon, RN: The Memoirs of Richard Nixon, trang,

394-395.

[23] Henry Kissinger, White House Years, trang 276-277.

[24]"Thay đổi màu da của tử sĩ," lời phát biểu của thượng nghị sĩ Eugene

McCarthy, ứng cử viên tổng thống năm 1968. Trích theo Seymour

Hersh, sđd, trang 310.

[25]Tổng số tử thương của quân lực VNCH từ năm 1962 đến cuối năm

1969, theo hai tài liệu của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ. Một tài liệu soạn

năm 1972 có số tử thương là 117.075; tài liệu kia soạn năm 1975, với

số tử thương là 110.176.

[26]Những ý nghĩ này nằm trong tác phẩm của đại tướng Cao Văn Viên

và trung tướng Đồng Văn Khuyên, Reflections on the Vietnam War,

trang 91-92. Cũng trong tác phẩm, hai tác giả cho biết chính tổng thống

Thiệu cũng không thích tên gọi đó và không ban hành một Huấn lệnh

nào để cho chỉ thị về chương trình Việt Nam hóa. Thiếu tướng Nguyễn

Duy Hinh, trong Vienamization and the Cease-fire, trang 19, cũng có

những quan sát tương tự.

[27]Đọc, Bùi Diễm, sđd, trang 285. Đại sứ Bùi Diễm từ sau hội nghị

Midway 1969, là nhân viên duy nhất đại diện cho phía VNCH trong

các cuộc bàn luận kế hoạch Việt Nam Hóa ở Ngũ Giác Đài. Ông viết về

các buổi thảo luận, "...gặp nhau hai tuần một lần, buổi họp tẻ nhạt...

không có kế hoạch hay tổ chức."

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

[28]Jeffrey Clarke, sđd, trang 351, phụ chú 20. Hai đơn vị rút đi lần đầu

tiên là 2 lữ đoàn của sư đoàn 9 Bộ binh ở vùng IV, và một trung đoàn

TQLC ở vùng I. Đầu năm 1969, quân lực Hoa Kỳ ở Việt Nam gồm có

351.965 Lục quân; 52.034 Không quân; 35.709 Hải quân; và 81.892

TQLC. Đọc, Clarke, sđd, Appendix C.

[29] Clarke, sđd, trang 354.

[30] Lewis Sorley, Vietnam Chronicles: The Abrams Tapes 1968-1972,

trang 302-316. Hiện diện trong buổi họp là các đại tướng Abrams;

George S. Brown (Tư lệnh phó MACV về không lực,) William B.

Rosson (Tư lệnh phó MACV); đại sứ Ellsworth Bunker và William

Colby (Colby lúc đó là Tư lệnh chương trình CORDS, với cấp bậc đại

sứ); các trung tướng, thiếu tướng, còn lại là các Tư lệnh cố vấn quân

đoàn, quân chủng. Các đại tá là Tư lệnh lực lượng đặc biệt; điệp vụ bí

mật (SOG). Dân sự thì có những nhân vật như John Paul Vann (chỉ huy

trưởng CORDS vùng II, sau này là cố vấn trưởng Vùng II), George G.

Jacobson (phụ tá tham mưu trưởng MACV về CORDS, phục vụ ở Việt

Nam liên tục hơn mười năm). Ngày họp hôm đó là ngày 22 tháng 11-

1969, sau khi Hoa Kỳ đã rút đi 65 ngàn quân để bắt đầu chương trình

rút quân từ lúc Nixon lên, nhưng bây giờ tổng trưởng Laird và Ngũ

Giác Đài muốn rút thêm và nhanh hơn kế hoạch đã tính. Câu nói chua

xót và hối tiếc của tướng Abrams về tướng Cao Văn Viên cho thấy

những gì bộ Tư lệnh MACV đã hứa với Bộ Tổng Tham mưu và tướng

Viên sẽ không thực hiện được. Trước khi có huấn Lệnh của Laird,

Abrams thông báo cho Bộ Tổng Tham mưu VNCH là Hoa Kỳ sẽ rút

quân theo khả năng gánh vác của quân đội VNCH; và, quân đội Mỹ

vẫn duy trì một lực lượng tác chiến căn bản để canh chừng những vi

phạm, hoạt động, của CSBV, như họ đã làm ở Nam Hàn. The Abrams

Tapes, do tác giả Lewis Sorley ghi lại từ băng thâu âm hơn hai ngàn

giờ họp quan trọng của MACV, là một tập tài liệu quan trọng và tối

mật, viết lại từng chi tiết bên trong đầu não của bộ Tư lệnh quân sự

Hoa Kỳ ở Việt Nam. Huấn lệnh mà Laird yêu cầu đọc cho ban tham

mưu MACV nghe trong buổi họp nói trên, là những gì Laird đã tường

trình cho Ủy ban Ngoại giao Thượng viện vài ngày trước đó ở Hoa

Thịnh Đốn. Đọc cùng sách, cùng trang đã dẫn.

[31]Sư đoàn TQLC vào năm 1969 chỉ có sáu Tiểu đoàn. Cùng chung với

Tiểu đoàn 81 Biệt kích Nhảy dù là 12 toán thám sát Delta. Về sự thành

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

hình và lịch sử của Biệt cách Nhảy dù, đọc, đại tá Phan Văn Huấn, Đặc

san Biệt cách Dù Lực lượng Đặc bbiệt, Số IV, Tháng 1-2005, trang 9.

Ba mươi Tiểu đoàn pháo binh là kể luôn sáu Tiểu đoàn pháo 155 ly và

hai Tiểu đoàn pháo binh của Nhảy dù và TQLC. Đọc, thiếu tướng

Nguyễn Duy Hinh, Vietnamization and the Cease-fire, trang 32. Tương

tự như tác phẩm The RVNAF của trung tướng Đồng Văn Khuyên, tác

phẩm của Nguyễn Duy Hinh cung cấp nhiều chi tiết về chương trình

Việt Nam hóa trong những năm 1969-1973.

[32]Các con số về số quân của các đơn vị, quân chủng, hơi khác nhau

giữa sách của Nguyễn Duy Hinh, Đồng Văn Khuyên và Jeffrey Clarke.

Vì số chênh lệch không nhiều giữa ba sách (từ bảy đến mười ngàn

người), người viết dùng sách của tác giả Nguyễn Duy Hinh để các chi

tiết được đồng nhất. Đọc Nguyễn Duy Hinh, sđd, trang 32, 40; Clarke,

sđd, trang 349-356; Đồng Văn Khuyên, trang 19-22. Cũng cần nói

thêm: Vì sách của hai tác giả Hinh và Khuyên dựa vào một số hồ sơ

quân sự chưa được giải mật trong lúc viết nên trong sách không có chú

dẫn tài liệu. Sách của sử gia quân đội Jeffrey Clarke viết sau này, khi

một số tài liệu đã được giải mật, và từ sách của Clarke, chúng ta có thể

suy luận những nguồn tài liệu trong sách của hai tác giả Hinh và

Khuyên đến từ đâu. (Hai tác giả được coi một số tài liệu mật liên quan

đến chủ đề trong thời gian soạn sách. Nhưng sau khi hoàn tất, Trung

tâm Quân Sử Lục quân Hoa Kỳ giữ bản thảo lại vài năm và chỉ xuất

bản giới hạn sau khi những tài liệu liên quan đã được chánh thức bạch

hóa)

[33]Chẩn tướng James L. Collins, Jr., sđd, trang 91. Về sơ lược các hoạt

động và cơ cấu Cảnh sát Quốc gia, đọc, đại tá Hoàng Ngọc Lung,

Intelligence, trang 49-54.

[34]Chi tiết về quân số, vũ khí và quân nhu dụng gia tăng trong thời

khoảng 1969-1973, đọc, Nguyễn Duy Hinh, sđd, trang 30-48; Đồng

Văn Khuyên, sđd, trang 18-21.

[35] Collins, sđd, Appendix C.

[36]James H. Willbanks, Abandoning Vietnam: How America Left and

South Vietnam Lost Its War, trang 40-41. Hai con số về huấn luyện

viên và cố vấn Mỹ, Willbanks trích theo tài liệu của MACV, và sách

của Cao Văn Viên và Đồng Văn Khuyên, The U.S. Advisors.

[37]CORDS là chữ tắc của Civil Operations and Rural Development

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

Support (Dân sự Vụ và Phát triển Nông thôn) Trước đó chương trình

còn được gọi là Civil Operations and Revolutionary Development

Support (Dân sự Vụ và Cải cách Nông thôn). Nhiều chương trình có

mục tiêu tương tự như CORDS đã hiện hữu từ trước. Nhưng chương

trình nằm dưới tên CORDS, và qua sự điều khiển của đại sứ Robert

Komer và sau này là William Colby, sát nhập hai chương trình Civil

Operations của tòa đại sứ (dân sự) và Rural Development của MACV

(quân sự) để trở thành một chương trình duy nhất. Về lịch sử của các

chương trình bình định, phát triển hay xây dựng nông thôn, đọc,

William Colby, Lost Victory, Appendix B, trang 384-387.

[38]Một số kế hoạch có tính cách "bán quân sự" của chương trình

CORDS liên hệ đến CIA nếu không nói hoàn toàn nằm dưới thẩm

quyền của CIA. Theo tài liệu và sách vở khả tín, các chương trình như

Chiến dịch Phượng hoàng; Thám sát Tỉnh; hai đài phát thanh dùng vào

kế hoạch "tuyên truyền xám" Gươm thiêng Ái quốc và Mẹ Việt Nam;

và chương trình tâm lý chiến trong Kế hoạch 38 (Operation 38), đều

nằm dưới sự điều khiển của CIA và Đặc ủy Trung ương Tình báo

VNCH. Ba người có liên hệ sâu đậm đến CORDS đều xuất thân từ

CIA: Theodore (Ted) Shackley, Robert Komer, và William Colby.

Shackley chỉ huy CIA ở Lào trước khi đến Saigon; Komer làm cho CIA

trước khi qua làm cho Hội đồng An ninh Quốc gia; và Colby thì như

chúng ta đã rõ, chỉ huy trưởng CIA ở Saigon từ thời tổng thống Diệm.

Có khá nhiều tài liệu sách vở nói về CORDS và các hoạt động tình báo

nằm song song với kế hoạch này. Đọc, David Corn, Blond Ghost: Ted

Shackley and the CIA's Crusades; William Colby, Lost Victory; và,

Ralph McGehee, Deadly Deceit. Sách của Corn có rất nhiều chi tiết vì

tác giả đã phỏng vấn gần một trăm cựu nhân viên CIA hoạt động ở Việt

Nam; trong khi MacGeehee là nhân viên điều tra chánh của CIA trong

vụ khám phá ổ gián điệp Huỳnh Văn Trọng và Vũ Ngọc Nhạ ở Phủ

Tổng thống vào giữa năm 1969. Sách Colby như là một hồi ký nói về

liên hệ mười sáu năm của tác giả với Việt Nam qua các chức vụ như

xếp CIA và xếp chương trình CORDS.

[39]Về Nghị quyết 9, đọc, Sorley, The Abrams Tapes, trang 91, 263-266;

A Better War, trang 154-168; Willbanks, sđd, trang 67; David Corn,

sđd, trang 202-203; Davidson, Vietnam at War, trang 600-601. Về

những khó khăn CSBV phải đương đầu vào những năm 1968-1971,

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

đọc, Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp, Ký ức Tây Nguyên, trang 131-141.

Theo tướng Hiệp, có lúc tất cả gạo tồn kho chỉ còn đủ để nuôi lính của

chiến trường B3 một tuần; và, lính và thương binh CSBV rút về Lào và

miền Bắc đông và nhiều như cuộc "tập kết lần thứ hai" trong hai năm

đó. Ở một đoạn khác trong sách (trang 367), tác giả cho biết Sư Đoàn

10 của ông bị chết 9.900 quân trong thời gian chưa đầy ba năm (9-1972

đến 4-74). Đặng Vũ Hiệp là chính ủy B3, chính ủy Sư Đoàn 10, rồi

chính ủy Quân Đoàn 3 vào năm 1975. Tình hình của CSBV ở những

mặt trận khác như B5 (tương đương với Vùng I), hay Quân Khu 7 và 9

(Vùng II và IV) cũng rơi vào tình trạng nguy khốn tương tự. Đọc,

Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh, Miền Trung những tháng ngày

không quên, trang 415-417. Tướng Khánh là Tư lệnh B5 (Khu 5). Về

tình hình ở Saigon-Gia Định và vùng phụ cận, người viết trích theo hồi

ký Mai Chí Thọ (lúc đó Mai Chí Thọ và Võ Văn Kiệt là Tư lệnh và

chính ủy của "nội đô," hay là Phân Khu 6, bao gồm Saigon, Gia Định,

Bình Dương và các vùng khác ở Quân Đoàn III) viết trong Theo bước

chân lịch sử, trang 168-174. Trần văn Trà, trong Kết thúc cuộc chiến 30

năm, Tập 5, trang 190, cho biết những Tư lệnh tử trận năm 1968 và

1969 là, Trần Đình Xu, Tư lệnh khu Saigon; sư đoàn trưởng Nguyễn

Thế Truyện; và Tư lệnh phó quân khu 8 Nguyễn Văn Nhỏ (Hai Nhỏ).

[40]Những con số về hồi chánh, an ninh địa phương, đọc, The Bunker

Papers, các tờ tường trình vào tuần lễ cuối của những năm 1967, 1968,

1969, 1970, và 1971. Trong những tường trình cuối năm, đại sứ

Bunkers thường báo cáo cho tổng thống tất cả các con số về kinh tế,

tình hình chính trị, an ninh, số thương vong của Hoa Kỳ, VNCH,

CSBV, số cán binh ra hồi chánh, cũng như tiến triển của các chương

trình có tính cách dân sự. Về những thay đổi tình hình an ninh ở xã, ấp

trong những năm 1967-1971, đọc, William Colby, sđd, Appendix D,

trang 420-421.

[41] Đọc, William Colby, Victory Lost, trang 313.

[42]Ngày 5 tháng 2-1970, Hoàng thân kiêm đệ nhất Thủ tướng Cam Bốt,

Sirik Matak, tuyên bố trên đài phát thanh Quốc gia là quân đội Cam

Bốt chuyên chở và bán gạo cho CSBV theo những thỏa thuận từ trước,

nhưng ông không muốn thấy liên hệ đó tiếp tục nữa. Trước đó gần hai

tuần, bộ trưởng Nguyễn Văn Tiến của Chính phủ Lâm lhời Việt Cộng

có đến thương lượng với Matak lần cuối để được tiếp tục mua gạo và

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

đóng quân. ... Khi nghe Matak dọa quân đội Cam Bốt sẽ có biện pháp

với các đơn vị CSVN đang có mặt trên đất Cam Bốt, bộ trưởng Tiến trả

lời các đơn vị cộng sản sẽ chiến đấu tự vệ, vì "họ đã trả một số tiền rất

lớn cho Shihanouk để được phép đóng quân và thiết lập căn cứ trên đất

này." Đọc, Sorley, The Abrams Tapes, trang 360, 383-384. Theo ký giả

Nayan Chanda, Hoàng thân Shihanouk, với sự đồng ý của Chu Ân Lai,

lấy 10% tổng số hàng nhập vào hải cảng Shihanoukville. Từ

Shihanoukville quân đội Cam Bốt dùng quân xa chuyển hàng giao đến

tay CSBV và tính thêm tiền chuyên chở. Shihanouk lấy lại tiền bán gạo

cho CSBV từ Trung Cộng. Đọc, Chanda, Brother Enemy, trang 61, 420

(phụ chú 17); Qiang Zhai, China and the Vietnam War: 1950-1975,

trang 135-137, 248 (phụ chú 33 và 35). Trong hồi ký của Trường Sơn

(bút hiệu của đại tá Phạm Tề thuộc bộ Tư lệnh Đoàn 559) tác giả cũng

có nói về vấn đề chi tiền cho quân đội Cam Bốt để được đóng quân và

tích trữ quân nhu dụng. Đọc, Trường Sơn, cuộc hành trình năm ngàn

ngày đêm, trang 129-139. Về thái độ hai hàng và ngụy tín của

Shihanouk, đọc, Davidson, Vietnam at War, trang 624-625.

[43] Davidson, sđd, cùng trang.

[44]Sorley, A Better War, trang 200, và những phụ chú liên hệ Đô đốc

McCain đề nghị với tham mưu trưởng liên quân Wheeler là phải đánh

qua Cam Bốt; William Colby nói, còn căn cứ của CSBV ở Cam Bốt thì

chúng ta sẽ còn ở lại Việt Nam vĩnh viễn. Một vị tướng khác, quen

thuộc với tình hình quân sự Việt Nam, nhận định là các căn cứ của

CSBV đóng dọc theo biên giới Việt Nam tương tự như một khẩu súng

lên đạn kề vào đầu VNCH. Đọc, Dave Palmer, Summons of the

Trumphet, trang 228.

[45]Sorley, A Better War, trang 200-203; William Hammond, Reporting

Vietnam, 201-218; Jeffrey Kimball, Nixon's Vietnam War, trang 197-

212; Davidson, sđd, trang 623-633; James H. Willbanks, Abandoning

Vietnam, trang 77-86. Tất cả các tác phẩm nói trên đều đề cập chút ít gì

về cuộc tấn công qua Cam Bốt của quân lực VNCH vào tháng 5-1970.

Tuy nhiên, để có chi tiết và lịch sử đầy đủ hơn về cuộc hành quân, xin

đọc, The Cambodian Incursion, của chuẩn tướng Trần Đình Thọ. Cũng

nói thêm, phần lớn vũ khí tịch thu được trong những cuộc hành quân

được quân đội VNCH giao lại cho quân đội Cam Bốt.

[46]Vì tính chất phức tạp với nhiều giai đoạn, nhiều tên gọi, cho các

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

cánh quân (mỗi chiến đoàn phụ trách một giai đọan/ mục tiêu của cuộc

tấn công), người viết dùng tên Toàn Thắng là tên chánh của cuộc hành

quân đánh qua Cam Bốt. Để biết thêm chi tiết về mục đích, hướng

đánh, chiến đoàn tham dự, hay của các tên cuộc hành quân phụ như

Bình Tây I-III; Toàn Thắng 41-46; và Cửu Long 44, xin đọc, chuẩn

tướng Trần Đình Thọ, The Cambodian Incursion, trang 53-133.

[47]Trần Đình Thọ, The Cambodian Incursion, trang 95.

[48] Về chi tiết những hoạt động của phía Hoa Kỳ trong cuộc hành quân

Rockcrusher, đọc, đại tướng Donn A. Starry, Mounted Combat in

Vietnam, trang 166-176. Trong cuộc hành quân đánh qua Cam Bốt,

tướng Starry mang chức đại tá, chỉ huy trưởng Trung đoàn 11 Thiết kỵ

(Black Horse Regiment), trung đoàn mà trước đó một năm được con

trai của đại tướng lừng danh Patton chỉ huy.

[49]Với số lượng vũ khí, quân nhu dụng, tịch thu được từ những căn cứ

và kho dự trữ ở Cam Bốt, tình báo CIA đã mất đi tiếng nói với hầu hết

thẩm quyền của chính phủ Hoa Kỳ, nhất là với tổng thống Nixon.

Những dự đoán sai lạc về số lượng hàng xâm nhập qua hải cảng

Shihanouk của CIA từ năm 1964 làm cho Hội đồng An ninh Quốc gia

và với quân sự nghi ngờ về khả năng của CIA trong những tiên đoán họ

đưa ra. Đọc, Henry Kissinger, White House Years, trang 240-241;

Sorley, A Better War, trang 209-210, trích lại lời phê bình của đại

tướng Bruce Palmer (từng là Tư lệnh phó MACV). Tháng 11-1970,

CIA lại thiếu chính xác thêm lần nữa khi họ không biết chắc chắn tù

binh Hoa Kỳ còn có mặt ở trại tù Sơn Tây hay không, cho đến những

ngày cuối cùng. Nhưng đến giờ phút đó cuộc hành quân giải cứu tù

binh đã trên đường đến Thái Lan, và từ đó bay qua không phận Thượng

Lào để đến Sơn Tây. Đọc, Benjamin F. Schemmer, The Raid, trang

219-220.

[50]Chi tiết về thiệt hại đôi bên, vũ khí và quân nhu dụng tịch thu của

CSBV, đọc, chuẩn tướng Trần Đình Thọ, sđd, trang 193-194.

[51]Hầu kết các sách về chiến tranh Việt Nam đề có viết ít nhiều về phản

ứng của dân cũng như quốc hội khi đồng minh tấn công qua Cam Bốt.

Một tổng kết nói lên đầy đủ các phản ứng từ nội địa, ngoại quốc và giới

chính trị ở quốc hội được Paul M. Kattenburg viết trong The Vietnam

Trauma in American Foreign Policy, 1945-75, trang 241-281.

Kattenburg là chuyên viên về Đông Dương thập niên 1950, và giám

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

đốc Việt Nam Vụ năm 1963-1964. Ngày 30 tháng 6-1970 ngày cuối

cùng của quân đội Mỹ trên đất cam Bốt để nhấn mạnh thái độ của họ

đối với tính chất pháp lý về liên hệ của Hoa Kỳ ở Việt Nam, thượng

viện Mỹ biểu quyết thêm một lần nữa rút lại Quyết nghị Vịnh Bắc Việt,

một quyết nghị căn bản cho phép tổng thống Mỹ can thiệp và đưa quân

vào Việt Nam. Hai tháng trước đó, tiểu bang Massachutsetts chấp thuận

một dự luật rất "phản chiến" và ngược lại đường lối của chính phủ liên

bang: Tiểu bang này cho phép công dân của tiểu bang "được tị nạn

nghĩa vụ quân sự" cho đến khi nào quốc hội Hoa Kỳ chính thức tuyên

chiến với một Quốc gia nào đó (trong trường hợp này là tuyên chiến

với Bắc Việt). Dự luật của tiểu bang Massachutsetts đặt nền hành pháp

vào một thế kẹt, vì theo Hiến pháp Hoa Kỳ, chỉ có Quốc hội mới có

thẩm quyền tuyên chiến (declaration of war clause). Đọc, Chester

Cooper, The Lost Crusade: America in Vietnam, trang 462-463.

[52]Trần Đình Thọ, The Cambodian Incursion, trang 175-180.

Người Mỹ và chiến tranh Việt Nam

Phần 4

Với những chiến thắng ở Cam Bốt được thâu lượm quá dễ dàng, gần

cuối năm 1970, thẩm quyền dân sự từ Hoa Thịnh Đốn "đề nghị"

MACV đề nghị với bộ tổng tham mưu VNCH mở một cuộc hành quân

qua Hạ Lào với mục đích tương tự như cuộc hành quân đánh qua Cam

Bốt. Nhưng cuộc hành quân lần này hơi khác, thẩm quyền dân sự thông

báo cho MACV: Vì luật Quốc hội không cho phép quân đội Hoa Kỳ có

mặt trên đất Lào, cuộc hành quân sẽ hoàn toàn do quân đội VNCH đảm

nhiệm. Hoa Kỳ chỉ có thể yểm trợ quân đội VNCH bằng các phương

tiện như không vận, hỏa lực Pháo binh và không yểm.

Nhưng lần này, mục đích của Hoa Thịnh Đốn khi đánh qua Hạ Lào

năm 1971 không thuần túy chỉ là mục đích quân sự. Theo những tài

liệu giải mật có liên hệ đến chủ đích của kế hoạch đánh qua Hạ Lào đã

được công bố, Cố vấn An ninh Quốc gia Kissinger đề nghị VNCH đánh

qua Lào năm 1971 để làm gián đoạn tiềm năng quân sự của CSBV vào

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

năm 1972, năm bầu cử tổng thống Mỹ. Chính Kissinger là người

khuyên Nixon là đừng nên rút quá quân nhiều, quá vội trong năm 1971:

đợi đến cuối năm 1972 rồi sẽ rút hết. Giữ lại một số quân để bảo đảm

tình hình quân sự ở Việt Nam và đồng thời có được một an toàn cho

cuộc bầu cử năm 1972 (trong ý nghĩa tình hình chiến sự ở Việt Nam

được yên lặng thì giới phản chiến Mỹ không có lý do để biểu tình và

đảng Dân Chủ không có cớ nói đảng Cộng Hòa vẫn chưa giải quyết

được tình hình quân sự ở Việt Nam). Đây là một chiến thuật chính trị

khá độc đáo của Kissinger. Và Nixon nghe theo. [1]

Sử liệu sau này - hay ít ra là sử liệu viết trước khi cuốn hồi ký của

Hademan ra đời, và một số tài liệu giải mật được công bố gần đây -

không xác định chắc chắn ai là cha đẻ của kế hoạch đánh qua Hạ Lào

năm 1971. Và sau khi cuộc hành quân kết thúc với một kết quả không

được hoàn hảo như dự tính, dĩ nhiên không ai muốn nhận làm cha đẻ

của một kế hoạch thiếu mỹ mãn. Mặc dù các sử gia không thể xác định

chắc chắn, nhưng dựa vào nhiều hồi ký và tài liệu, họ có thể suy luận

kế hoạch có thể bắt nguồn từ Nixon; Kissinger; Hội đồng An ninh

Quốc gia; hay cũng có thể là khởi nguồn từ tướng Alexander Haig, một

phụ tá tín cẩn của Kissinger đương thời. [2] Kissinger, trong hồi ký viết

sau này, chẳng những không nói rõ ai là tác giả đề nghị kế hoạch đánh

qua Lào, mà còn chối là mình có khởi sự và tham dự vào kế hoạch đó.

[3]

Kế hoạch tấn công qua Hạ Lào để cắt đứt đường tiếp vận và xâm nhập

vào chiến trường miền Nam của CSBV, không phải là một quyết định

hay đề nghị mới. Năm 1964 Lục quân Hoa Kỳ phát họa một kế hoạch,

trong đó dùng bốn sư đoàn đánh và giữ một phòng tuyến dài từ Đông

Hà qua Savannakhet. Kế hoạch được tư lệnh Lục quân Harold K.

Johnson chấp thuận, nhưng bị đô đốc Sharp của bộ tư lệnh Thái Bình

Dương phủ phản đối trên lý do đóng quân như vậy thì quá thụ động,

không làm được gì. Từ năm 1966 tướng Westmoreland đã yêu cầu ban

tham mưu MAVC phát họa một kế hoạch đánh qua Lào, bắt đầu từ Lao

Bảo, dọc theo quốc lộ 9 đến Sê Pôn, một trung tâm nhận và chuyển

hàng của CSBV. Giữa năm 1969, khi Abrams thừa nhiệm

Westmoreland, tướng Abrams cũng đề nghị đánh qua Lào trước khi có

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

cuộc hành quân đánh qua Cam Bốt. Năm 1972, trong một bài viết về

một chiến lược để cô lập CSBV, đại tướng Cao Văn Viên nói từ năm

1966 ông đã đề nghị hai giải pháp quân sự để cô lập đường tiếp tế của

cộng sản: Hoặc đánh vào Vinh để cắt đứt nút xâm nhập ở các đèo Mụ

Già, đèo Ban Karai; hoặc đánh theo đường số 9 để chiếm giữ Sê Pôn.

Nhưng vì một lý do chính trị nào đó, thẩm quyền dân sự ở Hoa Thịnh

Đốn không ưng thuận hay khuyến khích các kế hoạch do các tư lệnh

quân sự đề nghị. [4]

Nhưng dưới chính phủ của tay đánh phé Nixon và ông cố vấn phù thủy

Kissinger, kế hoạch đánh qua Lào quyền rũ hơn lần đánh qua Cam Bốt.

Năm 1971 là năm bầu cử tổng thống VNCH, và năm 1972 là năm bầu

cử tổng thống Mỹ. Sau khi đánh qua Lào, thắng hay thua, với thiệt hại

đôi bên, tình hình quân sự sẽ tạm lắng dịu, và như vậy tình hình sẽ có

lợi cho hai chính phủ đương nhiệm ở Hoa Kỳ và Việt Nam. Hơn nữa,

theo chương trình rút quân, vào cuối năm 1972 tổng số quân Mỹ còn có

mặt ở Việt Nam sẽ không hơn 50 ngàn người. Nếu phải đánh tan - hay

ít ra giảm thiểu - tiềm năng quân sự của CSBV, thì đây là cơ hội duy

nhất còn lại. Với những suy luận đó, Nixon quyết định ra tay trước khi

CSBV có thể tái bổ sung những thiệt hại ở Cam Bốt. Ban đầu, Nixon

có ý định dùng TQLC và Bộ binh đổ bộ lên Vinh (kế hoạch tương tự

như kế hoạch của tướng Viên), nhưng cố vấn Kissinger đề nghị đánh

trở lại Cam Bốt thêm một lần thứ nhì nữa để dọn sạch những căn cứ

của CSBV. Sau cùng họ để ý đến một đề nghị của đô đốc John

McCain, tổng tư lệnh quân đội Hoa Kỳ ở Thái Bình Dương. McCain,

trong một điện tín gởi cho Abrams vào tháng 10-1970, đề nghị MAVC

nghiên cứu những mục tiêu nhắm vào các căn cứ hậu cần của CSBV

nằm dọc theo biên giới Việt-Lào (Đề nghị của đô đốc McCain chỉ là

một trong những đề nghị hành quân thông thường, không liên quan gì

đến ý định của Nixon và Kissinger. Giữa tháng 6-1970, McCain có

thăm viếng bộ tư lệnh MACV để duyệt xét tình hình của cuộc hành

quân đang diễn tiến bên Cam Bốt.). Nixon và Kissinger chọn kế hoạch

của McCain nhưng thay đổi đi một vài mục tiêu để phù hợp với kế

hoạch chính trị của họ: Thay gì chỉ đánh vào các mục tiêu nằm gần và

dọc theo biên giới Việt-Lào, kế hoạch sẽ đánh 30 cây số sâu vào nội địa

Lào (tới Sê Pôn), rồi sau đó quân đội VNCH sẽ bọc trở lại để tiếp tục

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

phá hủy các căn cứ hậu cần nằm dọc theo biên giới. Chưa hết, cùng lúc

đánh qua Lào, một lực lượng khác của quân đội VNCH sẽ tấn công trở

lại Cam Bốt, đánh sâu vào khu vực đồn điền cao su Chup, nơi cộng sản

đang xây dựng những căn cứ mới. [5]

Đầu tháng 12-1970, ban tham mưu liên quân liên lạc qua đô đốc

McCain, cho phép tướng Abrams bàn thảo với tướng Viên về kế hoạch

hành quân qua Lào. [6] Ngày 7, tướng Abrams và đại sứ Bunker gặp

tổng thống Thiệu gần một tiếng rưỡi để trình bày sơ qua khái niệm

cuộc hành quân. Trở về bộ tư lệnh, Abrams đánh điện tín thông báo cho

đô đốc McCain là, tổng thống Thiệu đồng ý kế hoạch. Abrams cho biết

tổng thống Thiệu chọn vùng Sê Pôn là mục tiêu chính; đường số 9 là

trục lộ di chuyển quân; cấp số căn bản cho cuộc hành quân là hai sư

đoàn, cộng thêm một số quân Thiết kỵ; thời điểm bắt đầu hành quân là

sau Tết; thời gian hành quân kéo dài chừng hai đến ba tháng; sau đó

vẫn giữ lại một số đơn vị nhỏ để đánh phá quấy rối chung quanh các

căn cứ hậu cần cộng sản. [7] Ngày 8, một điện tín từ ban tham mưu liên

quân gởi qua McCain cho tướng Abrams, xác định lại chi tiết rõ ràng

hơn: hành quân qua Lào, dọc theo đường số 9. ... Hoa Kỳ sẽ yểm trợ

hỏa lực và không vận. ... Cùng lúc, cũng phải soạn thảo kế hoạch tấn

công qua Cam Bốt. Hai ngày sau, đích thân đô đốc Thomas Moorer,

tham mưu tưởng ban tham mưu liên quân, chuyển lại cho Abrams một

huấn lệnh của tổng trưởng quốc phòng viết theo lệnh của tổng thống

Nixon. Huấn lệnh thông báo, "tổng thống giao trách nhiệm [cho

Abrams] phối hợp với quân đội VNCH và quân đội Cam Bốt [trong

cuộc hành quân đánh qua Cam Bốt] để tấn công quân địch với tất cả

khả năng ... nhưng nằm trong giới hạn chính trị của quân đội Hoa Kỳ

[nghĩa là quân đội Hoa Kỳ không thể đi kèm theo quân VNCH qua biên

giới]." Bức điện tín đồng thời cho biết Nixon sẽ cho tướng Alexander

Haig đến Sài Gòn và Nam Vang để cùng tham khảo kế hoạch của hai

cuộc hành quân. [8] Tướng Haig đến Sài Gòn trung tuần tháng 12, thảo

luận với tổng thống Thiệu, tướng Abrams và đại sứ Bunker. Sau

chuyến đi tham khảo của Haig, tổng trưởng quốc phòng Laird đến Sài

Gòn thượng tuần tháng 1, năm 1971. Theo những gì được viết lại, Laird

cũng có thảo luận với tổng thống Thiệu về kế hoạch hành quân qua

Lào. [9] Ngày 18 tháng 1-1971, tòa Bạch Ốc nhóm họp để quyết định về

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

cuộc hành quân đánh sang Lào. Buổi họp có mặt của Nixon, tổng

trưởng quốc phòng Laird, ngoại trưởng William Rogers, tham mưu

trưởng liên quân Moorer, xếp CIA Richard Helm, tướng Haig, và

Kissinger. Trên nguyên tắc, tất cả hiện diện đều đồng thuận với kế

hoạch. Chỉ trừ ngoại trưởng Rogers. Rogers phản đối kế hoạch và phản

đối rất có lý: cấp số quân quá ít; cuộc hành quân đi vào địa thế nguy

hiểm. Ông ngoại trưởng nhắc cho mọi người nhớ, kế hoạch của ban

tham mưu Lục quân, và kế hoạch của Westmoreland vài năm trước đây

đòi hỏi một lực lượng không dưới bốn sư đoàn quân Hoa Kỳ, cộng với

không lực yểm trợ của ba quân chủng. Bây giờ, với một lực lượng dưới

ba sư đoàn lính VNCH và một hỏa lực yểm trợ rất giới hạn của Hoa

Kỳ, làm sao chúng ta đặt tin tưởng tuyệt đối vào cuộc hành quân được?

Nhưng Nixon gạt ngang sự phản đối của ngoại trưởng Rogers, chấp

thuận kế hoạch hành quân và ra lệnh soạn thảo để thi hành. [10]

Từ tháng 3-1970, trước khi có cuộc hành quân của VNCH và Hoa Kỳ

vẫn đánh qua Cam Bốt, và trong thời gian cuộc hành quân đang diễn ra,

hệ thống tình báo điện tử của Hoa Kỳ thâu được một số điện tín của bộ

tư lệnh cao cấp CSBV gởi cho các binh trạm đóng dọc trên hệ thống

đường xâm nhập Hồ Chí Minh từ Lào xuống cam Bốt. Bộ tư lệnh

CSBV ra lệnh cho các binh trạm chuẩn bị tác chiến nếu cần, vì địch có

thể tiếp tục tấn công qua Cam Bốt, Lào hay qua khu vùng ba biên giới.

Những tháng kế tiếp, tình báo điện tử tiếp tục ghi nhận lệnh từ cấp trên

lưu ý các đơn vị đóng từ Vinh cho đến Hạ Lào, là địch có thể tấn công

bất thần, kể cả chuyện đổ bộ lên Vinh. Đầu tháng 10, 1970, CSBV thiết

lập một bộ tư lệnh cấp Quân đoàn có tên là 70B, đóng ở khu vực đường

9 bên kia biên giới, để chuẩn bị trả chống trả mọi cuộc tấn công qua

biên giới của quân đội VNCH. Từ tháng 3-1970, các tư lệnh cấp trung

đoàn và sư đoàn được lệnh phải đích thân đi thám thính địa hình dọc

theo, và chung quanh đường số 9. Với những biến chuyển và hoạt động

quân sự đang diễn ra ở Vùng I và Khe Sanh, CSBV biết cuộc tấn công

qua Hạ Lào sắp sửa tiến hành. [11]

Về phía VNCH. Sau khi nghe đề nghị của Hoa Kỳ; sau khi nghe đại

tướng Viên tường trình kế hoạch hành quân mà bộ tư lệnh MACV đã

thảo luận với ông, tổng thống Thiệu cho phép soạn thảo kế hoạch Hành

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

Quân Lam Sơn 719. Kế hoạch hành quân có khái niệm tổng quát như

sau: Cuộc hành quân có bốn giai đoạn. Giai đoạn I: Giai đoạn này bắt

đầu từ đầu tháng 1, phần lớn do Hoa Kỳ phụ trách. Các đơn vị công

binh, Thiết kỵ Mỹ sẽ giải tỏa, tái thiết và thiết lập an ninh trên quốc lộ 9

từ Đông Hà đến Lao Bảo; tái chiếm căn cứ Khe Sanh để làm nơi đổ bộ

quân và làm hậu cứ tiền phương bên này biên giới. [12] Giai Đoạn II:

Với một cấp số quân tương đương ba sư đoàn, gồm sư đoàn Nhảy dù,

sư đoàn 1 Bộ binh, lữ đoàn 1 Thiết kỵ, và Liên đoàn 1 Biệt động quân.

Quân Dù và Thiết kỵ sẽ tiến theo trục lộ đường 9, đáng qua biên giới về

hướng tây. Trong thời gian đó, một Tiểu đoàn Dù được trực thăng vận

nhảy vào một mục tiêu trước mặt, cách biên giới khoảng 12 cây số, có

tên là Bản Đông (trên bản đồ hành quân có tên là A Lưới) để thiết lập

bộ chỉ huy tại mặt trận. Cùng lúc, hai Tiểu đoàn Dù được trực thăng

vận lên chiếm hai đỉnh đồi hướng đông bắc (căn cứ hỏa lực 30) và tây

bắc (căn cứ hỏa lực 31) của Bản Đông để thiết căn cứ hỏa lực và bảo vệ

mặt bắc của trục tiến quân. Đồng thời, về hướng đông bắc của căn cứ

hỏa lực 30, ba Tiểu đoàn Biệt động quân (BĐQ) sẽ thiết lập hai điểm

phòng thủ như một tiền đồn quan sát và canh chừng địch quân có thể

tràn xuống tiếp viện từ hướng đông bắc. Ở phía nam của trục tiến quân,

các Tiểu đoàn của sư đoàn 1 sẽ thiết lập những căn cứ hỏa lực ở cao

điểm Co Roc, từ biên giới chạy dài đến Bản Đông để bảo vệ mặt nam

của hướng tiến quân. Sau khi các đơn vị đã nằm vào vị trí của họ, quân

Thiết kỵ sẽ theo dường số 9, đánh thẳng về Sê Pôn để bắt tay với một

lữ đoàn Dù được trực thăng vận vào đó cùng lúc. Ngoài các lực lượng

tấn công qua bên kia biên giớ, ở bên này căn cứ Khe Sanh, hai lữ đoàn

TQLC sẽ nằm phòng thủ như một lực lượng trừ bị. Giai đoạn III: Với

giả định quân Dù chiếm được Sê Pôn, và quân Thiết kỵ tiến vào bắt tay

quân bạn, quân Dù sẽ lục soát chung quanh Sê Pôn; các đơn vị của sư

đoàn 1 sẽ lục soát các khu vực phía nam Sê Pôn. Giai Đoạn IV: Khi

được lệnh lui quân, các lực lượng tấn công sẽ lui quân theo hai kế

hoạch. Theo kế hoạch 1, Dù và Thiết kỵ sẽ rút về Bản Đông. Từ đó, hai

lực lượng này sẽ bảo vệ sư đoàn 1 vừa lục soát các căn cứ địch, vừa

tiến về hướng đông nam để rút về biên giới. Trong khi đó, quân BĐQ ở

hướng đông bắc sẽ nhập vào quân Thiết kỵ và rút ngược về biên giới

theo quốc lộ 9. Các đơn vị TQLC sẽ hành quân dọc theo biên giới trong

thời gian đó, vừa quấy phá vừa ngăn ngừa những cuộc phục kích có thể

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

xảy ra cho quân bạn. Kế hoạch lui quân 2 chỉ khác 1 ở chỗ quân Dù sẽ

tiếp tục nối đuôi theo sau sư đoàn 1 để lục soát căn cứ địch, nhưng thay

gì đi theo hướng tây nam về biên giới, hai cánh quân này sẽ theo hướng

đông để về đường 9. [13] Tư lệnh của cuộc hành quân là trung tướng

Hoànhg Xuân Lãm, đương nhiệm tư lệnh Vùng I. Trừ sư đoàn Nhảy dù

(và hai lữ đoàn TQLC nằm trừ bị ở Khe Sanh), tất cả các đơn vị tham

gia cuộc hành quân đều là đơn vị cơ hữu của Quân đoàn I. Ngày hành

quân được ấn định là sau Tết Tân Hợi.

Giữa tháng tháng 1, bộ tổng tham mưu và MACV cho sĩ quan hành

quân ra trình bày kế hoạch với tướng Hoàng Xuân Lãm và trung tướng

James W. Sutherland của Quân đoàn XXIV. Ngày 21, cả hai vị tướng

bay về Sài Gòn để tường trình kế hoạch chung cho MACV và bộ tổng

tham mưu. Cùng ngày, đích thân tướng Lãm trình kế hoạch hành quân

cho tổng thống Thiệu duyệt xét. Ngày 25 tháng 1-1970, tin hành quân

đánh qua Lào được chánh thức loan báo xuống tận cấp Tiểu đoàn ở một

vài đơn vị tham dự. [14]

Sau gần bốn ngày bị đình trệ vì thời tiết, qui luật hành quân từ phía Hoa

Kỳ, và tai nạn, hành quân Lam Sơn 719 bắt đầu vào ngày 8 tháng 2-

1971, khi quân Dù và Thiết kỵ băng qua biên giới để tham dự vào một

cuộc hành quân qui mô và tốn kém nhất trong lịch sử cuộc chiến. [15]

Trên giấy tờ, kế hoạch hành quân Lam Sơn 719 nhìn rất đơn giản: tin

tức về các lực lượng địch quân đang có mặt trong vùng không quá

nhiều để gây nhiều lo lắng cho ban tham mưu soạn thảo; không ảnh cho

thấy địa hình phức tạp, nhưng không phức tạp đến độ gây trở ngại cho

quân Thiết kỵ. Và với những hứa hẹn hỏa lực yểm trợ từ Không quân

chiến thuật và chiến lược của Hoa Kỳ, ban tham mưu không thấy cuộc

hành quân sẽ gặp một trở ngại nào. Sự thành công trong lần đánh qua

Cam Bốt đã làm cho ban tham mưu soạn thảo hành quân lạc quan hơn.

Nhưng tin tức tình báo và hình chụp từ trên trời không thể nhìn thấy tất

cả những gì được che đậy dưới những cánh rừng dầy của Hạ Lào. Tình

báo cũng không thể nào cập nhật được sự di động liên tục của các đơn

vị đối phương. Sự ước lượng về quân số của CSBV trong vùng hành

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

quân chỉ chính xác trong thời điểm soạn thảo kế hoạch; và khi không

ảnh cho thấy đường số 9 tuy bị hư nhiều vì bom nhưng còn di chuyển

được thì chỉ là trên ...hình ảnh. Trên thực tế, hai chi tiết quan trọng này

khác xa ước tính. Trong thời gian soạn thảo, kế hoạch ước lượng CSBV

chỉ có khoảng 22 ngàn quân ở chung quanh Sê Pôn. Đến đầu tháng 1,

ước lượng về cấp số quân của đối phương trong vùng hành quân được

tăng lên tương đương ba sư đoàn rưỡi (bằng quân số dưới tay của của

Quân đoàn 70B). Nhưng đến thượng tuần tháng 2, khi quân đội VNCH

chuẩn bị băng qua biên giới, CSBV đã có khả năng quy động một số

quân tương đương với bảy sư đoàn để chuẩn bị ứng chiến trong vùng

hành quân. [16]

Về trục lộ di chuyển và địa hình của mặt trận: Không ảnh không cho

thấy nhiều chỗ hư nát của đường số 9 vì bị cỏ và lá thấp bao phủ.

Đường số 9 là một con đường bị bỏ hoang gần 20 năm (khúc từ biên

giới Việt Nam đi về Sê Pôn), tất cả cầu trên đường đã bị Không quân

Mỹ đánh sập. Những trận oanh kích ngày đêm đã cắt con đường ra từng

đoạn bằng những hố bom sâu năm, bảy thước. [17] Địa hình Hạ Lào

không thuận lợi nếu không nói bất lợi cho chiến xa và quân Thiết kỵ.

Đường số 9, với bên phải là rừng cây dầy dặt, bên trái là sông Sê Pôn

với rừng và chỏm đá cao dọc theo bờ sông, giới hạn tầm quan sát của

Thiết kỵ. Địa hình dọc theo trục lộ lại càng giới hạn chiến thuật sử

dụng chiến xa khi chiến xa không thể rời được lộ chánh để nới rộng địa

bàn hoạt động hay trinh sát, canh chừng vòng đai an ninh xa hơn.

Không như ở mặt trận Cam Bốt, địa hình ở Hạ Lào không phải là địa

hình để có thể dàn một mặt trận dài sáu cây số hàng ngang, với 200 xe

tăng và thiết vận xa, mỗi chiếc cách nhau 25 mét, và cứ thế tác xạ và

tiến quân. [18]

Tuần đầu tiên của cuộc hành quân mọi chuyện xảy ra như dự định.

Nhảy dù và BĐQ chiếm các tọa độ và thiết lập các căn cứ hỏa lực như

được chỉ định; bộ chỉ huy mặt trận đã nằm ở Bản Đông hai ngày trước

khi quân Thiết kỵ tiến 12 cây số từ biên giới đến để gia nhập họ. Ở phía

đông nam Bản Đông, lính Bộ binh của sư đoàn 1 đã an tọa trên những

cao điểm, nhìn về hướng nam canh giữ.

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

Nhưng đến tuần thứ hai, tình hình thay đổi: sau khi xác định được vị trí

của các lực lượng VNCH và sau khi đã viện quân đầy đủ, CSBV chuẩn

bị tấn công vào các cao điểm và căn cứ hỏa lực của VNCH.

Trong khi đó, lực lượng Thiết kỵ từ Bản Đông tiến về mục tiêu Sê Pôn

ở hướng tây được chừng năm cây số thì gặp sức kháng cự. Căn cứ hỏa

lực 30 bắt đầu bị pháo vào ngày 16 tháng 2. Ở hướng tây của căn cứ 30,

quân CSBV phối hợp chiến xa và Bộ binh để tấn công trực diện điểm

phòng thủ của đồi 31, nơi đặt bộ chỉ huy của lữ đoàn 3 Nhảy dù. Ở phía

nam, tất cả cứ điểm của sư đoàn 1 Bộ binh đều bị tấn công lẻ tẻ. Vấn đề

tiếp tế cho các căn cứ hỏa lực bằng trực thăng càng lúc càng khó khăn

hơn vì hỏa lực phòng không của địch quá mạnh. Không ảnh và phi cơ

quan sát cho biết CSBV có một lực lượng tương đương 19 Tiểu đoàn

phòng không, trang bị khoảng 525 đến 575 súng phòng không các loại

12.7, 23, 37, hay đôi khi 57 ly. [19] Cuộc tiến quân về Sê Pôn chậm lại

theo đà kháng cự của đối phương. Ngày 16 tháng 2, tướng Viên và

tướng Abrams bay ra bộ tư lệnh tiền phương ở Đông Hà để họp với

tướng Lãm và Sutherland. Trong cuộc họp này họ thay đổi kế hoạch

hành quân: Các lực lượng Bộ binh của sư đoàn 1 sẽ nhảy chiếm các

ngọn đồi cao ở phía nam sông Sê Pôn để giúp cho quân Dù và Thiết kỵ

tiến nhanh hơn về mục tiêu Sê Pôn. Ba ngày sau, ngày 19, tổng thống

Thiệu cũng bay ra Đông Hà để nghe thuyết trình tình hình chiến sự.

Sau khi nghe tình hình, tổng thống Thiệu ra lệnh cho tướng Lãm tiến

quân chậm lại và bỏ nhiều thì giờ hơn lục soát các kho chứa quân nhu

dụng ở hướng tây nam Bản Đông. Nhưng sự đình trệ này đã giúp cho

đối phương có thêm thì giờ củng cố nhân lực và tập trung hỏa lực để

phản công. [20] Đến thời điểm đó VNCH có hơn 10.600 quân ở Hạ Lào,

đối diện với 35 ngàn quân của năm sư đoàn CSBV. [21]

Ngày 18 tháng 2, địch tấn công mạnh vào hai căn cứ BĐQ ở hướng

đông bắc do Tiểu đoàn 21 và 39 trấn giữ. Ngày hôm sau CSBV pháo

kích để cầm chân Tiểu đoàn 21, trong khi nỗ lực tấn công Tiểu đoàn

39. Ngày 20, chịu không nổi áp lực địch, Tiểu đoàn 39 di tản khỏi cao

điểm và rút về căn cứ của Tiểu đoàn 21 BĐQ ở cách đó vài cây số.

Nhưng hai ngày sau, chính Tiểu đoàn 21 cũng được lệnh di tản về căn

cứ hỏa lực 30 của Nhảy dù. Đến đây, trừ căn cứ hỏa lực 30 và 31,

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

CSBV đã gần như làm chủ các cứ điểm ở hướng bắc của Bản Đông và

đường số 9. [22] Mười một giờ sáng ngày 25, sau một trận pháo kích tàn

khốc, CSBV sử dụng chiến xa và Bộ binh ồ ạt tấn công căn cứ hỏa lực

31 từ bốn hướng. Khoảng năm giờ chiều, căn cứ 31 thất thủ. Ngày 3

tháng 3, Tiểu đoàn 2 Nhảy dù, sau hai ngày không được tiếp tế nước và

lương thực, và với số thương vong khoảng 200 quân, được lệnh di tản

bằng đường bộ ra khỏi căn cứ hỏa lực 30. Hướng bắc của đường 9 bây

giờ hoàn toàn nằm trong tay CSBV. [23]

Thấy sự kháng cự của địch càng lúc càng mạnh, ngày 28 tháng 2 tổng

thống Thiệu bất thần ra lệnh sư đoàn TQLC nhảy vào Hạ Lào để thay

thế sư đoàn Nhảy dù tại mặt trận. Nhận được quân lệnh thay quân rất

khó khăn đó, trưa ngày 28 tuớng Hoàng Xuân Lãm bay về Sài Gòn để

bàn thảo tình hình với tổng thống Thiệu. Thay gì dùng TQLC thay thế

quân Dù, tướng Lãm đề nghị, Quân đoàn I sẽ dùng Bộ binh của sư

đoàn 1 nhảy vào Sê Pôn; dùng quân Dù bảo vệ hướng bắc và đường số

9; hai lữ đoàn TQLC sẽ thay vào chỗ của sư đoàn 1 ở các cao điểm

hướng nam đường 9. Sau khi nghe kế hoạch trình bày, tổng thống

Thiệu chấp nhận đề nghị của tướng Lãm. [24] Với sự tham dự của sư

đoàn TQLC và một vài đơn vị BĐQ và Bộ binh, quân đội VNCH bây

giờ có gần 17 ngàn quân ở mặt trận Hạ Lào.

Từ ngày 3 đến ngày 5 tháng 3, các Tiểu đoàn của hai trung đoàn 1 và 2

của sư đoàn 1 tiếp tục nối đuôi nhau chiếm những cao điểm ở phía nam

đường số 9, dẫn dài về mục tiêu Sê Pôn. Ngày 6 và 7, một đoàn trực

thăng 120 chiếc chở hai Tiểu đoàn 2 và 3 của trung đoàn 2 nhảy vào Sê

Pôn. Chiếm được mục tiêu, các đơn vị chia nhau lục soát chung quanh

căn cứ quan trọng nhất trên con đường chuyển vận, xâm nhập vào nam

của CSBV. Ngày 12 tháng 3 quân đội VNCH bắt đầu chuẩn bị rút quân

khỏi địa phận Hạ Lào. [25] Cuộc rút quân không phải không khó khăn

nhất là rút quân khi mặt trận vẫn còn tiếp diễn. Một vài đơn vị bị thiệt

hại nặng khi họ bị chận đánh trên đường về. [26] Cuộc hành quân Lam

Sơn 719 được coi như kết thúc khi những đơn vị cuối cùng của VNCH

bước về bên này biên giới vào ngày 24 tháng 3-1971.

Số thương vong chết và bị thương của VNCH trong cuộc hành quân là

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

8.300 quân, và 651 mất tích. Số tử thương phía cộng sản ước lượng hơn

16.000 người. [27] Số lượng vũ khí, quân nhu dụng bị tịch thu và phá

hủy trong trận Hạ Lào bằng ba lần số lượng trong cuộc hành quân qua

Cam Bốt năm 1970.

Cuộc hành quân 45 ngày đánh qua Lào, ngoài sự thiệt hại gần 50 phần

trăm số quân tham dự, đã không hoàn tất được mục tiêu hoạch định:

thời gian hành quân không kéo dài 90 ngày như dự định để có thể lục

soát tận tường các kho dự trữ của CSBV ở chung quanh Sê Pôn; và kế

hoạch truy lùng ngược về các căn cứ nằm trong vùng Co Roc, gần sát

biên giới Việt Lào cũng không thực hiện được. Cuộc hành quân có

nhiều khiếm khuyết. Nhưng những khiếm khuyết đó không đến từ sự

chiến đấu của tất cả các đơn vị tham dự, mà đến từ những lỗi lầm của

ban tham mưu lúc soạn thảo kế hoạch hành quân.

Trái với những tin đồn là tình báo Bắc Việt có được trong tay tin tức và

chi tiết cuộc hành quân từ lúc được phác họa. Trên thực tế, cuộc hành

quân được tổ chức quá hấp tấp, quá lộ liễu, để có thể che mắt đối

phương. Căn cứ và phi trường Khe Sanh bị bỏ hoang từ tháng 7-1968,

nhưng đến cuối tháng 1-1971 thì công binh Hoa Kỳ trở lại sửa chữa,

thiết lập phi đạo để cung ứng cho phi cơ vận tải chiến lược (C-130).

Quân Thiết kỵ và Không Kỵ Mỹ bắt đầu thiết lập an ninh trên trục lộ

Đông Hà-Khe Sanh ...các phi trường ở tuyến đầu Vùng I nhộn nhịp với

những chuyến phi cơ vận tải đổ quân từng vùng khác về. ... Với những

họat động quân sự đó, một người mù cũng có thể đoán được ý định của

đối phương. Thêm vào đó, sau cuộc hành quân đánh như chẻ tre qua

Cam Bốt, sau khi lực lượng đặc biệt Mỹ nhảy thẳng vào Sơn Tây như

chổ không người, từ giữa năm 1970 giới lãnh đạo Bắc Việt đã báo động

cho tất cả các mặt trận và bộ tư lệnh phải lo phòng thủ những cuộc tấn

công của quân đội VNCH vào lãnh địa của họ. Sự đề phòng và bảo vệ

con đường chuyển vận sinh tử ở Hạ Lào là chuyện đương nhiên.

Ban tham mưu soạn thảo kế hoạch hành quân coi thường sức kháng cự,

và ước đoán quá thấp cấp số của CSBV đang hay sẽ có mặt ở vùng

hành quân. Trái với những đơn vị cộng sản mà quân lực VNCH đối

diện ở Cam Bốt (ba sư đoàn địa phương 5, 7, và 9 của Việt Cộng), các

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

sư đoàn có mặt ở Hạ Lào là các sư đoàn chính qui, được trang bị nhiều

hơn là đầy đủ, với một nhiệm vụ sống còn là phải bảo cái yết hầu của

con đường xâm nhập vào Nam. Sau khi đã mất những cứ địa bên Cam

Bốt, bây giờ nếu CSBV mất luôn những cứ địa ở Hạ Lào thì cuộc chiến

kể như thua. Vì lý do đó, dù bị thiệt hại nặng, CSBV phải bảo vệ Hạ

Lào cho đến người cán binh cuối cùng.

Địa hình ở Hạ Lào không những bất lợi cho chiến xa và Thiết kỵ, mà

còn bất lợi luôn cho vấn đề chuyên chở và yểm trợ bằng không lực: trời

chỉ quang đãng từ mười giờ sáng đến ba giờ trưa. Trước hay sau giờ đó,

mây mù bao phủ toàn vùng và vấn đề tiếp tế hay yểm trợ bằng trực

thăng không thể nào thực hiện được. Và dù thời được tiết quang đãng,

tìm một chổ đáp ở rừng núi Hạ Lào không dễ: lõm rừng nào trống trải,

thích hợp, để đáp trực thăng thì địch đã ghi tọa độ sẵn hay chĩa thẳng

(súng) phòng không vào đó. Khi thấy trực thăng sà xuống thì họ bắn

hay pháo vào mục tiêu đã định. 82 trực thăng bị hủy diệt hoàn toàn và

618 chiếc khác bị trúng đạn, cho thấy cường độ phòng không của địch

ở mặt trận. Hỏa lực phòng không giới hạn tiếp tế: quân đồn trú trên các

căn cứ hỏa lực bị thiếu tiếp tế đạn, nước và lương thực hai, ba ngày là

chuyện thường. Những ước tính về thời tiết và địa hình thiếu sót đến độ

quân phục của lính hành quân không đủ ấp để chống lại cái lạnh của Hạ

Lào về đêm. [28]

Cuộc hành quân không có một hệ thống chỉ huy và điều khiển suôn sẻ

và trôi chảy ở cấp Quân đoàn trong ba tuần lễ đầu tiên hai mươi mốt

ngày đầu quan trọng của cuộc hành quân. Trong khi bộ tư lệnh tiền

phương của Quân đoàn XXIV nằm ở Quảng Trị, bộ tư lệnh tiền

phương của Quân đoàn I thì ở Đông Hà. Bộ tư lệnh chiến thuật hỗn hợp

Việt Mỹ ở tại Khe Sanh thì thiếu một thẩm quyền cao cấp để quyết

định lập tức cho mặt trận. Quân đoàn XXIV không có sĩ quan đại diện

ở Khe Sanh để điều động hai đơn vị chánh đang hỗ trợ cho quân đội

VNCH là Liên đoàn 101 Không lực và Liên đoàn 108 Pháo binh. Cố

vấn Mỹ của các sư đoàn VNCH không có thẩm quyền xin yểm trợ trực

tiếp và phải chuyển yêu cầu ngược về bộ tư lệnh Quân đoàn XXIV ở

Quảng Trị. Ở một vài trường hợp, cố vấn sư đoàn không trực tiếp yểm

trợ cho sư đoàn của mình, hay không bắt được liên lạc với các cánh

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

quân của sư đoàn trong giây phút sống chết nhất. [29] Sự hợp tác và yểm

trợ của Hoa Kỳ rất rời rạc và thiếu nhiệt tình vì chính hai quân chủng

Lục quân Và Không quân Hoa Kỳ cũng có nhiều dị biệt khi làm việc

chung: tất cả yểm trợ của Không lực 7 đều do Lục quân (Quân đoàn

XXIV) điều khiển và hoạch định, trong khi nhiệm vụ của Không quân

rất quan trọng với hỏa lực của B-52 hay những loại bom 15 ngàn cân

(Anh) dùng để dọn bãi đổ bộ quân. Ngay từ lúc soạn thảo kế hoạch

hành quân, hai quân chủng đã cãi nhau về vai trò của không lực. Không

quân lưu ý Lục quân là trực thăng của họ không đủ để áp đảo hỏa lực

phòng không của CSBV. Lục quân thì cho rằng Không quân đã quan

trọng hóa và phóng đại khả năng phòng không của đối phương. Sau khi

cuộc hành quân khai diễn, Không quân có đại diện ở bộ chỉ huy chiến

thuật, nhưng phải chờ lịnh yêu cầu của Lục quân từ Quân đoàn XXIV.

Hai tuần sau ngày hành quân, Liên đoàn 101 Không vận lâm vào tình

trạng không đủ trực thăng vận chuyển, và hỏa lực từ trực thăng cũng

không đủ mạnh để áp đảo phòng không hay phá hủy xe tăng địch như

Không quân đã tiên đoán. Đến giờ phút đó, khi bộ tổng tham mưu của

VNCH lên tiếng phàn nàn thì MACV mới cho người từ Sài Gòn bay ra

Vùng I để dàn xếp tình trạng chỉ huy và điều khiển ở Khe Sanh. Sự

vắng mặt của một sĩ quan cao cấp của MACV ở bộ tư lệnh tiền phương

Quảng Trị hay bộ chỉ huy chiến thuật Khe Sanh có thể là một yếu tố

thắng thua của cuộc hành quân. Trên cương là tư lệnh MACV, đại

tướng Abrams không nhiều ít phải chịu trách nhiệm về sự thiếu sót

trong lối tổ chức chỉ huy và điều khiển của cuộc hành quân. [30] Khi tin

tức về những lộn xộn của cuộc hành quân được mật báo ngược về Hoa

Thịnh Đốn, trong một phút nổi giận tống thống Nixon lên tiếng đòi

cách chức đại tướng Abrams. [31] Với hệ thống chỉ huy và điều khiển

thiếu trôi chảy và gián đoạn đó, sự yểm trợ của quân đội Hoa Kỳ trong

cuộc hành quân Lam Sơn 719 đã không được đúng mức và đầy đủ như

đã phác họa trong kế hoạch một sự kiện mà tất cả các nhà quan sát

quân sự đều công nhận.

Ước lượng sai lầm quan trọng khác là sự chênh lệch giữa lực lượng tấn

công và quân phòng thủ. Trên lý thuyết quân sự, thông thường quân tấn

công cần một lực lượng đông hơn quân phòng thủ ít nhất là ba lần để

nắm phần thắng. Nên nhớ, vào năm 1966 khi tướng Westmoreland soạn

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

thảo hành quân đánh qua Lào, kế hoạch của ông đòi hỏi ít nhất là bốn

sư đoàn quân tác chiến, cộng với yểm trợ không lực của tất cả bốn

quân binh chủng. [32] Khi tấn công qua Lào, quân đội VNCH không

những không có số quân tương đương mà lại ít hơn quân phòng thủ hai

lần. Ở một vài trận đánh như trận ở căn cứ Ranger North, Tiểu đoàn 39

BĐQ phải đối chọi với một lực lượng đông gấp sáu đến tám lần. [33]

Trong năm 1971, các giai đoạn Việt Nam hóa cuộc chiến gần như là

hoàn tất. Quân đội VNCH nhận lãnh gần như hầu hết nhiệm vụ chiến

đấu từ các đơn vị Mỹ. Họ chiến đấu không thua bất cứ đơn vị nào của

đối thủ ở chiến trận nếu họ có được cơ hội. Và quân đội VNCH có cơ

hội chứng minh khả năng tác chiến vào năm 1972 khi họ đóng vai quân

phòng thủ và đánh bại 14 sư đoàn quân tấn công của CSBV. Nhưng

trong trận đánh qua Hạ Lào vào mùa xuân 1971, quân lực VNCH nói

chung, cùng một thời gian cố gắng nhận lãnh một trách nhiệm vượt xa

khả năng họ có trong lúc đó. Quân lực VNCH rơi vào tình trạng mà đô

đốc John McCain, tư lệnh quân đội Hoa Kỳ Thái Bình Dương, đã lưu ý

hơn một năm trước: "Quá tham vọng; tiến nhanh quá [chương trình

Việt Nam hóa và và bao thầu trách nhiệm] sẽ tự hại mình." [34] Quân

đội VNCH phải đánh hai mặt trận lớn cùng một lúc với tất cả lực lượng

tinh nhuệ có trong tay: 17.000 quân ở Hạ Lào và 21.000 quân ở Cam

Bốt hai miếng ăn quá lớn để có thể nuốt và tiêu hóa cùng một lúc.

Nhưng đối diện với sự nguy hiểm thường trực mà CSBV đặt trước mặt,

quân đội VNCH không có chọn lựa nào khác hơn là đánh. Nguy hiểm,

chết, có thể thất bại, nhưng phải đánh.

Cuối năm 1971 quân đội Hoa Kỳ còn 139 ngàn quân ở Việt Nam. Với

tất cả trách nhiệm tác chiến giao lại cho quân đội VNCH, số thương

vong của Hoa Kỳ trong năm 1971 giảm đi rất nhiều so với những năm

trước: với 1.381 quân nhân tử thương và 4.767 bị thương. Nhưng bên

phía VNCH, tương tự như lời một chính trị gia Mỹ đã nói, dù nhìn ở

khía cạnh nào, chương trình Việt Nam hóa chỉ là một kế hoạch thay đổi

màu da của tử sĩ. Năm 1971 màu da của những tử sĩ ở chiến trường

Việt Nam vàng nhiều hơn trắng: năm đó quân lực VNCH có 22.738 tử

sĩ. Ở phía bên kia, CSVN có hơn 98 ngàn quân thiệt mạng. [35]

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

*

Sau khi cuộc hành quân Lam Sơn 719 đã chấm dứt; sau khi những báo

cáo kết quả hành quân được trình lên bàn giấy ... Abrams vẫn còn bực

tức với ban tham mưu, với Không lực 7, với Quân đoàn XXIV và cả

với chính ông. Trong một lần họp với các tướng lãnh MACV, Abrams

noi bóng gió là ông thấy ái náy khi những gì ông hay những sĩ quan

dưới quyền ông hứa hẹn và không giữ vẹn lời hứa. Có lần, khi nghe

một trung tướng kể lại chuyện ông ta đã bội hứa với trung tướng Đỗ

Cao Trí ra sao, tướng Abrams thông cảm và đồng thời cũng nói cho

viên tướng thuộc hạ sự khó chịu khi ông phải nhận lệnh từ Hoa Thịnh

Đốn để thúc dục và ép buộc phía VNCH thực hiện một số kế hoạch mà

Hoa Thịnh Đốn muốn thực hiện. "Nhưng cũng còn đỡ hơn, so với

những gì tôi thấy đại sứ Bunker bị [Hoa Thịnh Đốn] bắt phải thương

lượng [với VNCH]," ông đại tướng tiết lộ với người sĩ quan phụ tá. [36]

Nói về người Mỹ và chiến tranh Việt Nam mà không nói chút gì về đại

tướng Creighton Williams Abrams là một điều thiếu sót. Abrams cũng

phục vụ ở Việt Nam một khoảng thời gian năm năm như người tiền

nhiệm - và bạn đồng khóa từ trường võ bị West Point - là đại tướng

William Westmoreland. Nhưng nếu chúng ta so sánh hai người về tư

cách và chiến thuật chiến lược áp dụng trong cuộc chiến,

Westmoreland và Abrams hoàn toàn khác nhau.

Sanh năm 1914 tại Springfield, Massachutsettes, trong một gia đình đủ

ăn. Được theo học và ra trường võ bị West Point năm 1936 - khóa của

những vì sao - và chọn binh chủng Thiết giáp. Hai mươi bảy tuổi và

mang đại úy khi Hoa Kỳ gia nhập thế chiến thứ II. Ông chỉ huy một

Tiểu đoàn thiết giáp và phục vụ dưới quyền của tướng Patton khi Đồng

minh đổ bộ lên châu Âu. Abrams được cấp trên chú ý khi Tiểu đoàn

của ông phá vỡ đường giây của Đức để giải cứu sư đoàn 101 Nhảy dù ở

trận Bastogne. Sau thế chiến thứ II, Abrams được mang lon đại tá thực

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

thụ khi còn 30 tuổi. Trong chiến tranh Đại Hàn, Abrams lần lược được

chọn làm tham mưu trưởng cho ba Quân đoàn tham chiến ở đó (Quân

đoàn I, IX, và X). Làm việc ở các Quân đoàn Abrams có dịp phục vụ

dưới quyền của những đại tướng có tiếng như Maxwell Taylor, Bruce

Clarke. Lên chuẩn tướng năm 1958 (một trong ba sĩ quan ra trường

năm 1936 lên tướng đầu tiên) khi đang phục vụ ở trường Thiết giáp

Fort Knox; rồi lên thiếu tướng và được chỉ định qua Đức coi sư đoàn 4

Thiết giáp. Trở về Mỹ phục vụ ở Ngũ Giác Đài; được thăng trung

tướng năm 1963 và trở qua Đức lần thứ hai để làm tư lệnh Quân đoàn

V. Chưa đầy một năm sau, Ngũ Giác Đài gọi Abrams trở lại Mỹ, gắn

thêm một sao nữa và đề cử làm tư lệnh Tư lệnh Phó Lục quân - ông

được chọn trên đầu 45 sĩ quan cấp trung và đại tướng thâm niên hơn

ông cho chức vụ đó. Trong lúc đó, người bạn cùng lớp West Point với

ông, Westmoreland, đã là đại tướng và mới vừa nhận chức tư lệnh

MACV ở Việt Nam. [37] Tháng 5 năm 1967, Abrams được đề cử qua

Việt Nam làm tư lệnh phó cho Westmoreland. Một năm sau, ông thay

Westmoreland làm tư lệnh MACV.

Nhìn ở bên ngoài, Abrams và Westmoreland hoàn toàn khác nhau:

Westmoreland ăn bận chải chuốt, tươm tất; trong khi quân phục của

Abrams thì rất lè phè, nhăn nhíu. Một ký giả khi nhìn thấy ông ăn bận,

đã gọi ông là "một cái giường ngủ chưa dọn đang hút xì gà." Sau lưng

ông, những người lính gọi ông qua hỗn danh là ông "thượng sĩ già." [38]

Đúng, đó là Creighton Williams Abrams. Về tánh tình và lối chỉ huy:

Westmoreland mềm mỏng, ngoại giao và biết dấu ý nghĩ, tình cảm của

mình qua lời nói; trong khi Abrams thì la hét, bùng nổ như một hỏa

diệm sơn khi chuyện xảy ra không vừa ý. Nhưng lính dưới quyền

thương và kính trọng ông, vì sau cơn bùng nổ ông biết hạ giọng - và

nếu cần, nói lời xin lỗi - nếu nhận thấy mình đã đi quá trớn. [39]

Về chiến thuật, chiến lược áp dụng vào cuộc chiến: Abrams và người tư

lệnh tiền nhiệm hoàn toàn khác nhau - khác nhau đến độ Abrams thấy

rất khó khăn và cô đơn trong thời gian hơn một năm làm tư lệnh phó

cho Westmoreland. Tuy không hợp nhau về lối đánh nhưng Abrams

không bao giờ lên tiếng phản đối người tư lệnh của mình. Trong những

lúc tâm sự riêng với bạn bè đồng cấp, Abrams nói ông phải trung thành

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

và ủng hộ Westmoreland trong tư cách là tư lệnh phó. [40] Như đã nói

qua, chiến thuật và chiến lược của Westmoreland là truy lùng và tiêu

diệt; đánh nhanh, đánh mạnh bằng những đơn vị chủ lực quân đội Hoa

Kỳ. Từ giữa năm 1964 đến đầu năm 1968, Westmoreland không chú

tâm đến quân đội VNCH trong ý nghĩa ông không chú trọng về các

phương diện như tân trang và hiện đại hóa vũ khí, hay đặt nặng vấn đề

huấn luyện quân đội VNCH, hay quan trọng các kế họach bình định và

bảo vệ an ninh ở Nông thôn. Những cuộc hành quân hỗn hợp Việt Mỹ

được thực hiện rất ít dưới thời Westmoreland. Đối với Westmoreland,

cuộc chiến được quản trị và tiến hành bởi hai quân đội riêng biệt của

Việt Nam và Mỹ.

Khi Abrams vừa lên thay Westmoreland, theo một sĩ quan cao cấp kể

lại, thì chiến thuật và chiến lược của cuộc chiến thay đổi "trong vòng

15 phút." [41] Chiến thuật của Abrams không chú trọng vào truy lùng và

triệt tiêu, mà là tảo thanh và giữ đất; chiến lược của Abrams không còn

Mỹ đánh theo lối Mỹ, Việt đánh theo lối Việt, mà là một cuộc chiến

chung. [42] Abrams đề nghị nhiều cuộc hành quân phối hợp Việt Mỹ;

cũng như ông muốn những báo cáo hàng tuần về tình hình quân sự phải

nói đến tình hình và thiệt hại của VNCH. Ngay từ những buổi họp đầu

tiên sau khi nhậm chức, Abrams quan tâm đến cơ cấu huấn luyện và vũ

khí của quân đội VNCH. Ông nói nếu chúng ta (người Mỹ) muốn quân

đội VNCH vững mạnh để chống lại cộng sản, thì ít ra phải trang bị cho

họ đúng mức (nghĩa là có hỏa lực tương đương như quân Bộ binh Mỹ).

Trong những buổi họp Abrams thường xuyên nhắc tên đến các đơn vị

và sĩ quan của quân đội VNCH, cho sĩ quan tham mưu nghe. Vì

Abrams thăm viếng các đơn vị Việt Mỹ ngoài mặt trận thường xuyên,

ông có kiến thức rất tường tận về chuyện xảy ra ngoài mặt trận. Đôi khi

ông tranh luận về sự giỏi dở của sĩ quan VNCH với các thuộc tướng,

khi những bình phẩm của họ đi ngược lại sự quan sát của ông. [43] Và

khi nói về người dân miền Nam Việt Nam, về sự hy sinh của họ,

Abrams đã không ngần ngại nói trước mặt các sĩ quan cao cấp là chính

phủ Hoa Kỳ không bao giờ hiểu được những hy sinh và đau khổ người

dân và chiến sĩ miền Nam đang chịu đựng trong cuộc chiến đang xảy

ra. [44]

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

Nhưng cuộc chiến mà Abrams nhận lãnh trong năm năm còn lại là một

cuộc chiến khó khăn. Khó khăn trong ý nghĩa ông không còn được

đánh trận theo như ý ông muốn. Khó khăn trong ý nghĩa ông phải nhận

lãnh nhiệm dụ thu dọn chiến trường của người Mỹ và bàn giao chiến

trường lại cho quân dân miền Nam. Trong những năm còn lại của cuộc

chiến, Abrams nhìn những gượng ép mà chính phủ Hoa Kỳ đang cố

gắng dàn xếp để rút ra khỏi cuộc chiến; những bó buộc chính trị, tài

chánh, mà cấp trên bắt ông phải thi hành... riết rồi ông cũng buông tay

đầu hàng, thi hành theo chỉ thị. Trong hai năm 1970-71, thẩm quyền

dân sự ở Hoa Thịnh Đốn viếng thăm bộ tư lệnh MACV ở Sài Gòn

thường xuyên hơn. Viếng thăm là tiếng lịch sự, thật ra thẩm quyền dân

sự đến bộ tư lệnh để thông báo ngân quỹ bị cắt giảm; chi phí cho cuộc

chiến phải được giới hạn. Những chi phí được giới hạn đến từ đạn Pháo

binh, phi vụ oanh tạc chiến thuật và chiến lược, hay đến từ những đợt

rút quân chi phí cho một quân nhân Mỹ ở Việt Nam tốn kém hơn ở tại

lục địa Mỹ. Năm 1970, khi ngân sách cho chiến trường Việt Nam đã bị

giảm xuống còn 11 tỉ (so với khoảng 30 tỉ của năm 1967-68), nhưng

giới chức dân sự ở bộ Lục quân vẫn muốn MACV phải cắt giảm hơn

nữa để phù hợp với chỉ thị của Bộ quốc phòng. Khi Abrams và MACV

phản đối là, ở chiến trường họ không thể nào đánh giặc theo sự giới hạn

của tiền bạc; hơn nữa, họ đã cắt giảm tối đa rồi... Nhưng phản đối chỉ

để phản đối, lệnh là lệnh. Abrams phải tìm mọi cách để thi hành. [45]

Nếu Westmoreland có những khó khăn của ông ta trong thời điểm

1964-1968 (bị bó tay với ban tham mưu liên quân và Hoa Thịnh Đốn

về chiến thuật chiến lược cho cuộc chiến Việt Nam; phải đối đầu với

tình hình quân sự và những cuộc đảo chánh liên tục trong giai cấp

tướng lãnh VNCH; cố gắng giàn xếp những xáo trộn chính trị dân

sự/tôn giáo ở Vùng I), thì Abrams cũng có những "vấn nạn" trong

những năm 1968-1972 khi ông nắm quyền tư lệnh. Một trong những

khó khăn mà Abrams phải đối đầu ở Việt Nam không nhất thiết thuộc

về phạm vi quân sự, mà là tinh thần chiến đấu của những người lính

dưới quyền ông. Từ sau năm 1969, tinh thần chiến đấu của quân đội

Hoa Kỳ ở Việt Nam thật ra trên toàn thế giới không còn nữa. Tệ nạn về

quân phong quân kỷ lan tràn ở nhiều đơn vị: lính tìm các ám hại sĩ quan

và hạ sĩ quan chuyên nghiệp; sĩ quan quay mặt làm ngơ với những quân

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

nhân ba gai vì chỉ muốn làm cho xong nhiệm vụ để được thuyên

chuyển về hậu cứ hay về nước (sĩ quan Mỹ được thuyên chuyển ra khỏi

các đơn vị tác chiến, về làm việc ở văn phòng sau sáu tháng ngoài mặt

trận). Những năm kế tiếp, 1970-1971, tình trạng bất tuân quân lệnh, bất

tuân thượng cấp xảy ra hàng ngày; nạn hút sách nghiện ngập, và nạn ẩu

đả giửa các toán lính khác màu da xảy ra như cơm bữa. Tinh thần tác

chiến và ý thức hệ về cuộc chiến của các binh sĩ (ở đây chúng ta nhấn

mạnh chữ binh sĩ là những tân binh hay lính ở cấp bực thấp nhất) ở

Việt Nam càng tồi tệ hơn, khi đa số đến từ giai cấp lao động, thất học,

và thất nghiệp. Ở Mỹ, trong thời gian chiến tranh Việt Nam đang xảy

ra, Nha Động viên Hoa Kỳ cũng cho phép nhiều hình thức hoãn dịch:

hoãn dịch vì lý do gia cảnh, học vấn, sức khoẻ, hay tài nguyên quốc gia

(nhân viên quan trọng trọng trong cơ sở nào đó). Và với một lý do này

hay lý do nọ, giới trung lưu và giới có tài sản đều "chạy" được một lý

do để xin hoãn dịch. Cuối cùng, đa số tầng lớp bị bắt lính, bị đưa qua

Việt Nam tham chiến, là tầng lớp thuộc giai cấp thấp nhất, không còn

lối thoát, hay cơ hội lối tiến thân trong xã hội Hoa Kỳ. Cái nhìn này

không những đến từ những nhà xã hội học, mà còn đến từ chính người

tư lệnh của quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam. Một lần, khi nói chuyện với

tổng trưởng quốc phòng Melvin Laird về vấn đề tổng động viên, về vấn

đề quân dịch, Abrams nói thẳng là, "Chỉ có những công dân Mỹ dốt,

nghèo, và da đen, là những người có được hân hạnh hy sinh cho tổ

quốc của họ ở Việt Nam." [46] Ý của Abrams không phải khinh miệt; ý

của ông chỉ muốn nói vì không có lệnh tổng động viên cho cuộc chiến,

nên phần lớn tân binh là tình nguyện hoặc bị bắt quân dịch. Tân binh

tình nguyện thì đến từ giai nằm trong hoàn cảnh khó khăn về kinh tế;

tân binh bị bắt quân dịch thì chỉ vì họ không có cơ hội đi học lên tiếp

để được hoản dịch về lý do học vấn. Ý của Abrams là vậy.

Mới nhận được bộ tư lệnh chưa đầy một năm, và trong khi chương

trình Việt Nam hóa còn trong thời kỳ phôi thai, Abrams đã thấy Hoa

Thịnh Đốn muốn ông phải làm gì trong thời gian ông cầm cây baton

chỉ huy: phải tìm mọi cách để giảm thiểu tối đa thương vong của quân

đội Mỹ. Vào hai tuần đầu tiên của tháng 5-1969, một lữ đoàn Nhảy dù

Mỹ bao vây một trung đoàn CSBV ở vùng thung lũng A Shau, ở một

cao điểm có tên là Núi Ap Bia, gần biên giới Lào. Các đơn vị CSBV

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

thường vùng cứ địa này để chuẩn bị tập kích Huế và Đà Nẵng. Trong

mười một ngày, Nhảy dù Mỹ bao vây chung quanh,chờ cho Pháo binh

và phi cơ oanh tạc nát mục tiêu trước khi tấn công đánh chiếm đỉnh đồi.

CSBV để lại gần 600 xác trong khi phía Hoa Kỳ chỉ có 70 tử thương.

Thông thường, với kết quả như vậy, trận đánh là một chiến thắng, nếu

không nói là chiến thắng lớn. Nhưng vào mùa xuân 1969 Nixon vừa lên

làm tổng thống với nhiều hứa hẹn về cuộc chiến; và những phong trào

phản chiến đang tìm mọi nổ lực để mê hoặc người dân Mỹ chống lại

chiến tranh Việt Nam tổn thất như vậy không chấp nhận được. Thế là

Báo chí và các phong trào phản chiến đặt tên cho trận đó là trận "Đồi

Thịt Bằm" (Hamburger Hill) và phóng đại tổn thất của quân đội Mỹ.

Với áp lực của các tổ chức phản chiến, báo chí, và thẩm quyền dân sự

từ nội địa, bộ tư lệnh các cấp ở chiến trường Việt Nam hiểu ngầm là họ

phải tìm mọi cách giảm thiểu tổn thất về nhân mạng. Nhưng chừng một

tháng, sau trận đánh Núi Ap Bia, để bộ tư MACV hiểu rõ ràng hơn,

Nixon trực tiếp ra lệnh cho Abrams bằng mọi giá, "giảm thiểu tối đa

thương vong của Hoa Kỳ" trong cuộc chiến. [47]

Trong những năm còn lại của chiến tranh Việt Nam, Abrams bị bó tay

nhiều hơn người tư lệnh tiền nhiệm. Quân đội Mỹ bị rút đi nhanh hơn ý

muốn của ông. Vì phần lớn quân rút đi là Lục quân, chiến trường Việt

Nam bấy giờ sống nhờ vào sự yểm trợ hỏa lực của Không và Hải quân.

Nhưng hai quân chủng này cũng bị giới hạn bởi chính ngân quỹ riêng

của họ: họ đáp ứng nhu cầu đòi hỏi của Abrams nhưng theo giới hạn đã

được ấn định sẳn từ ngân quỹ của mỗi quân chủng. Mùa xuân năm

1972 khi CSBV mở cuộc tổng tấn công vào bốn vùng chiến thuật

VNCH, dưới tay của Abrams không còn hơn 39 ngàn quân, là một đại

tướng Lục quân, Abrams bực tức nhìn cuộc phản công được đảm

nhiệm bởi hai quân chủng Hải quân và Không quân. Có hiểu được sự

cạnh tranh và hiềm tị giữa các quân chủng trong quân đội Hoa Kỳ thì

mới thấy được sự tức giận của Abrams. [48] Cũng trong năm 1972,

Abrams không được quyền tác chiến theo kinh nghiệm quân sự của

ông, mà phải đánh giặc theo chiều hướng của những kế hoạch chính trị

rất ngây thơ đến từ tòa Bạch Ốc. Trong chiến dịch dội bom Linebacker

đợt đầu (Linebacker I) từ tháng 5 đến cuối tháng 6-1972, Nixon muốn

dùng tất cả B-52 vừa để huy hiếp miền Bắc, vừa trừng phạt CSBV về

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

cuộc tổng tấn công ở Miền Nam, vừa uy hiếp họ trở lại bàn hội nghị.

Cũng trong thời gian đó, vào trung tuần tháng 5 ở Kontum, sau khi các

căn cứ hỏa lực phía nam và bắc Tân Cảnh, Võ Định, bị thất thủ, CSBV

dồn tất cả lực đánh bức Dakto, rồi tiến thẳng về Kontum. Thấy tình thế

nguy ngập, Abrams ra lệnh triệu hồi một số phi cơ B-52 đang được chỉ

định cho các mục tiêu ở miền Bắc, thay đổi phi vụ để bảo vệ Kontum.

Nhờ những phi vụ B-52 này, những đơn vị của sư đoàn 320 CSBV bị

chận đứng trước khi họ có thể tập trung quân để tràn ngập Kontum. Khi

nghe tin, Nixon rất nóng giận, nói rằng ông cần tất cả B-52 dội bom ở

Bắc Việt để tạo một áp lực cho CSBV sợ và trở lại thương lượng thành

thật hơn. Abrams trả lời, nếu để mất Kontum thì tất cả những hội đàm

chính trị sẽ không còn ý nghĩa nữa. Sau này, có tin đồn nói Nixon ghét

Abrams từ đó. [49]

Những buổi chiều sau giờ làm việc, Abrams trở về căn nhà tiền chế là

một cái trailer, đặt bên cạnh bộ tư lệnh MACV, bên trong phi trường

Tân Sơn Nhất. Ở đó ông nghe nhạc hòa tấu thật lớn và uống rượu tới

khuya. Ông giải thích cho một người bạn thân đến thăm là, ông giải trí

như vậy để làm dịu cơn nhức đầu vì hàng ngày phải đọc những chỉ thị

và quân lệnh ngược ngạo ông nhận từ Hoa Thịnh Đốn về cuộc chiến

ông đang chỉ huy. [50]

Rời Việt Nam vào cuối tháng 6-1972, Abrams được đề cử vào chức Tư

lệnh Lục quân. Ông chết trẻ; chết vì bệnh ung thư vào năm 60 tuổi

trong khi đang tại chức. Abrams có ba người con là sĩ quan; hai người

đã phục vụ ở chiến trường Việt Nam. Người con cả giải ngũ với cấp

bực chuẩn tướng; người kế là đại tướng; người còn lại là một đại tá

hiện dịch. Một lần, có người hỏi người con cả là ông nghĩ sao nếu có

người nói lẽ ra đại tướng Abrams xứng đáng hơn cho một cuộc chiến

khác, tốt và khá hơn. "Ba tôi không nghĩ như vậy," Người con trả lời

ngay, "ba tôi nghĩ chính người dân miền Nam Việt Nam mới xứng

đáng [nhận sự giúp đỡ của Hoa Kỳ và của thân phụ ông]." [51]

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

[1]H.R. Haldeman, The Haldeman Diaries, trang 225-226, 239.

Haldeman viết trong nhật ký, ngày 21 tháng 12-1970, Henry Kissinger

muốn gặp riêng Nixon để bàn về kế hoạch đánh qua Lào. Cũng theo

Haldeman, Kissinger nói ông ta có hẹn với tổng trưởng quốc phòng

Laird và tham mưu trưởng liên quân Thomas Moorer vào ngày kế tiếp

để bàn luận về kế hoạch đó. Sáu ngày trước (ngày 15), Kissinger đã nói

cho Haldeman nghe sơ qua những gì ông ta lập lại vào ngày 21.

[2]Theo Seymour Hersh trong The Price of Power, trang 308, kế hoạch

do Alexander Haig đề nghị và hoạch thảo. Ai đề nghị thì không chắc

chắn, nhưng có một điều chắc chắn là kế hoạch đến từ phía dân sự ở tòa

Bạch Ốc chứ không xuất phát từ giới quân sự. Trong nhật ký của

Haldeman, tác giả nói rõ Kissinger muốn nói chuyện (về kế hoạch đánh

qua Hạ Lào) với Tổng trưởng Quốc phòng Melvin Laird và tham mưu

trưởng liên quân Thomas Moorer trước mặt Tổng thống Nixon, vì

Kissinger "muốn Tổng thống trực tiếp ra lệnh, vì họ [phía quân sự] sẽ

không thi hành vì không có lệnh trực tiếp từ tổng thống." Haldeman

Diaries, trang 224. Riêng tướng Haig thì nói trong hồi ký là, Ngũ Giác

Đài soạn thảo kế hoạch hành quân qua sự thúc dục của Nixon và

Kissinger. Đọc, Alexander Haig, Inner Circles, trang 273.

[3]Coi tất cả nhận xét của Kissinger về cuộc hành quân qua Lào trong,

Kissinger, White House Years, trang 987-1010. Với nhân cách luôn

luôn phủ nhận khi cần chạy tội, Kissinger không nghĩ là qua hai lần nói

chuyện (bằng miệng, khác với văn thư, và dễ chối hơn) với Haldeman,

những gì Kissinger nói về kế hoạch đánh qua Lào đã được Haldeman

ghi lại trong nhật ký. Và Kissinger cũng không ngờ người phụ tá quan

trọng là Alexander Haig cũng sẽ viết lại chuyện đó trong cuốn hồi ký

của ông ta. Những tài liệu giải mật sau này (mà chúng ta sẽ lần lượt đưa

ra) cho thấy Kissinger là người tham dự, nếu không nói hoạch định kế

hoạch từ đầu.

[4]Về các đề nghị đánh qua Lào để cắt đứt đường tiếp tế và xâm nhập

vào nam, đọc, William Westmoreland, A Sodier Reports, trang 431;

Lewis Sorley, A Better War, trang 229; và, Cao Văn Viên, Những Ngày

Cuối của Việt Nam Cộng Hòa, trang 288. Kế hoạch thiết lập phòng

tuyến từ Đông Hà sang Savannakhet của Lục Quân được Robert

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

Buzzanco chú trong Masters of War, trang 171.là người tham dự, nếu

không nói hoạch định kế hoạch từ đầu.

[5]James H. Willbanks, sđd, trang 96-97.

[6]Căn cứ theo và suy luận từ một số ít tài liệu được giải mật liên hệ đến

kế hoạch hành quân đánh qua Lào, chúng ta biết bộ Tư lệnh MACV đã

nhận được lệnh soạn thảo cuộc hành quân ít nhất là từ ngày 28 tháng

11-1970. Trong buổi họp "Cập nhật Tin tức Tình báo hàng tuần"

(Weekly Intelligence Updates) ở MACV ngày thứ Bảy, 28 tháng 11,

trung tướng Fred Weyand ngồi chủ tọa thay cho đại tướng Abrams

vắng mặt, có nói một cách úp mở về kế hoạch hành quân qua Lào khi

ông nói với các sĩ quan có mặt là tướng Abrams sắp gặp tướng Viên để

nói chuyện, và, "bằng cách này hay cách nọ, chúng ta phải nói chuyện

với ông ta [đại tướng Viên] về chiến lược này. Hoa Thịnh Đốn giao

trách nhiệm này cho chúng ta và kế hoạch phải được bàn thảo với chính

phủ VNCH." (chiến lược viết chữ nghiêng là nguyên tác của tác giả

Lewis Sorley). Đọc, Sorley, A Better War, trang 230. Tuy nhiên trong

The Abrams Tapes (những cuộn băng thâu lại các buổi họp hàng tuần

của MACV do Abrams chủ tọa, từ năm 1968 đến năm 1972) của cùng

tác giả, Sorley chỉ ghi lại nội dung của tuần lễ 7 và 21, không nói đến

(hay không được nói đến) hai tuần lễ 14 và 28. Điều này cho thấy nội

dung buổi họp của hai tuần 17 và 28 vẫn chưa được giải mật (tất cả các

buổi họp Cập nhật Tin tức Tình báo hàng tuần xảy ra các ngày thứ Bảy

trong tháng). Nhưng ba ngày sau, ngày 1 tháng 12-1970, trong buổi họp

của các sĩ quan cao cấp MACV, với sự có mặt của đại tướng Abrams,

chúng ta đọc được lời mở đầu của thuyết trình viên (chuẩn tướng

William E. Potts) nhắc Đại tướng Abrams là, "để chuẩn bị cho cuộc

gặp mặt vào buổi trưa này giữa Đại tướng và Đại tướng Viên, chúng ta

sẽ bắt đầu buổi họp nói về các cuộc oanh kích và lưu lượng xâm nhập

của những đoàn xe chuyển vận [của CSBV ở Hạ Lào]." Đọc Sorley,

The Abrams Tapes, trang 502-507. Về tính cách tối mật của những buổi

họp, trong phần giới thiệu về quyển The Abrams Tapes, tác giả Sorley

nói rõ là một số lớn nội dung của các buổi họp vẫn chưa được giải mật

(trang XXII, sđd). Như vậy chúng ta có thể suy luận, nội dung các thảo

luận có liên hệ đến kế hoạch cuộc hành quân qua Lào vẫn chưa được

các cơ quan thẩm quyền giải mật.

[7]Sorley, A Better War, trang 234.

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

[8]Willbanks, sđd, trang 97; Sorley, A Better War, trang 234. Đến đây

thì chúng ta thấy rõ ràng những gì Kissinger nói với Haldeman ở tòa

Bạch Ốc ngày 15 và 21 tháng 12-1970, chỉ là những lời nói xã giao để

giữ bí mật kế hoạch hành quân qua Lào.

[9]Seymour, sđd, trang 309.

[10]Davidson, sđd, trang 641; Willbanks, sđd, trang 98-99.

[11]Nội dung những điện tín gởi cho các binh trạm được thông báo trong

các buổi họp Cập nhật Tin tức Tình báo hàng tuần ở Bộ Tư lệnh

MACV. Đọc, Sorley, The Abrams Tapes, trang 428, 433, 525, 599.

Thượng tướng Nguyễn Hữu An, trong Chiến Trường Mới, trang 103-

105, có nói về những dự bị để phòng hờ cuộc tấn công qua biên giới

của quân lực VNCH. Tướng An nói ông đích thân đi quan sát địa hình

ở vùng Lao Bảo, Lang Vei, nằm sát biên giới Lào. Bộ Tư lệnh cấp quân

đoàn 70B (còn được gọi là bộ Tư lệnh mặt trận đường 9-Nam Lào) do

Lê Trọng Tấn làm Tư lệnh, Cao Văn Khánh và Đồng Sỹ Nguyên, Tư

lệnh phó. Dưới quyền điều động của 70B là các sư đoàn 304, 308 và

320, cùng với tất cả binh trạm và lực lượng phòng không ở Nam Lào.

Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh trong Lam Son 719 (xuất bản năm

1979), trang 25, có liệt kê một số đơn vị CSBV ở chung quanh khu vực

hành quân vựa vào tin tức tình báo của VNCH và những gì Hoa Kỳ

cung cấp. Những tin tức đó khá chính xác so với tài liệu giải mật sau

này. Đọc, Sorley, trích ở trên. Một trong nhiều binh trạm có điện tín bị

tình báo Mỹ đọc được là binh trạm 9, 27, 33, và 44. Về vị trí các binh

trạm, đọc, Võ Bẩm, Đồng Sĩ Nguyên, Nguyễn Viết Phương, Đường về

thành phố mang tên Bác, Hà Nội: Quân Đội Nhân Dân, 2005, trang

566-576.

[12]Bộ Tư lệnh Quân Đoàn XXIV của Hoa Kỳ là lực lượng chánh hỗ trợ

cuộc hành quân, gồm có các đơn vị trực thăng vận tải và võ trang; thiết

kỵ; công binh; pháo binh; và cơ giới. Không quân từ Không lực 7 (7th

Air Force) sẽ yểm trợ oanh tạc chiến thuật và chiến lược. Về cấp số các

đơn vị Hoa Kỳ hỗ trợ cuộc hành quân, đọc, thiếu tướng Nguyễn Duy

Hinh, Lam Son 719, Appendix B, trang 175.

[13]Căn bản kế hoạch hành quân nằm trong, thiếu tướng Nguyễn Duy

Hinh, Lam Son 719, trang 32-39. Cấp số hành quân trong thời gian

soạn thảo là các đơn vị, sư đoàn Nhảy dù; hai trung đoàn 1 và 3 của sư

đoàn 1 Bộ binh; ba Tiểu đoàn 21, 37 và 39 của liên đoàn 1 BĐQ; hai

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

thiết đoàn 11 và 17 của lữ đoàn 1 thiết kỵ; Tiểu đoàn 44 pháo binh; và

Tiểu đoàn 101 công binh. Hai lữ đoàn TQLC nằm trừ bị ở Khe sanh là

lữ đoàn 147 và 258.

[14]Trương Duy Hy, Tử thủ căn cứ hỏa lực 30 Hạ Lào, trang 15-16. Một

vài chi tiết rất khôi hài về vấn đề bảo mật trong cuộc hành quân Lam

Sơn 719: Cho đến ngày 30 tháng 1, đại tướng Abrams ở MACV vẫn

cương quyết không tiết lộ cho báo chí biết có hay không một cuộc tấn

công qua Lào, khi ông nhận được điện tín từ Hoa Thịnh Đốn hỏi nên

cho báo chí và cơ quan truyền thông biết được chưa. Đọc, The Abrams

Tapes, trang 252; The Haldeman Diaries, trang 241. Nhưng theo đại úy

Trương Duy Hy, một sĩ quan pháo binh tham dự cuộc hành quân, ngày

25 tháng 1 ông đã được gọi về tham dự buổi thuyết trình hành quân ở

bộ chỉ huy Tiểu đoàn. Như vậy, phần lớn các đơn vị ở Vùng I đã biết

trước (và thân nhân họ cũng nghe nói) là họ sẽ đi hành quân qua Lào

sau Tết Tân Hợi (1971). Năm 1971, mùng 1 Tết là ngày 27-1-1971.

Trong khi đó ở một vài đơn vị khác, tin tức hành quân lại được giữ rất

kỹ: khi bộ Tư lệnh Tiếp vận vùng I nhận được lệnh hành quân thì họ

không có đủ thì giờ để sửa soạn cho đơn vị họ. Nguyễn Duy Hinh, sđd,

trang 47.

[15]Hai ngày 4 và 5 trời mưa và mây thấp, không quân Hoa Kỳ không

thể dọn bãi và yểm trợ. Ngày 5 và 6 thời tiết khá hơn và tướng Lãm ra

lệnh tiến quân. Nhưng khi phía VNCH yêu cầu trực thăng võ trang bay

yểm trợ trước khi họ băng qua biên giới, quân đoàn XXIV trả lời là luật

hành quân của MAVC cấm không cho bất cứ đơn vị nào của Hoa Kỳ

băng qua biên giới trước các đơn vị VNCH. Cũng trong ngày 6, phản

lực cơ của Hải quân đánh lầm vào một điểm tập trung quân của lính Dù

và Thiết kỵ gần biên giới, làm sáu quân nhân tử thương và 51 bị

thương. Ngày 8, hai Bộ Tư lệnh đồng ý là Nhảy dù sẽ gởi một toán

quân qua biên giới trước, và liền sau đó Không kỵ Hoa Kỳ sẽ lập tức

theo sau. Đọc Nguyễn Duy Hinh, sđd, trang 63-64.

[16]Theo Lịch sử Quân đội Nhân dân, quyển 2, trang 374, lực lượng

đang có mặt là năm Sư đoàn bộ binh 308, 304, 320, 324, và 2; hai

Trung đoàn biệt lập 27 và, 278; tám Trung đoàn pháo binh; ba Trung

đoàn công binh; ba Tiểu đoàn chiến xa; sáu Trung đoàn phòng không;

tám Tiểu đoàn đặc công; và một số số lính hậu cần của các binh trạm

trong vùng. Số quân 22 ngàn trong thời gian đầu là kể luôn năm ngàn

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

quân Lào Cộng có mặt gần đó. Đọc, Davidson, sđd, trang 644. Ngày 19

tháng 2 (ngày thứ 11 của cuộc hành quân), MACV loan báo CSBV có

12 Trung đoàn bộ binh (tương đương bốn Sư đoàn) đang tụ lại vùng

hành quân. Đó là chưa kể các đơn vị chiến xa, phòng không, hậu cần,

hay đặc công, đi kèm với 12 Trung đoàn bộ binh. Sorley, The Abrams

Tapes, trang 537.

[17]Sorley, The Abrams Tapes, trang 533; Donn A. Starry, Mounted

Combat in Vietnam, trang 191.

[18]Đại tướng Donn A. Starry, sđd, trang 172, cước chú 4.

[19]Bộ Tư lệnh Không quân Thái Bình Dương, Lam Son 719: January

30-March 24, 1971 (Project CHECO), trang 18, 34. Tài liệu do Bộ Tư

lệnh Không quân Thái Bình Dương (Headquarters Pacific Air Forces)

soạn, dựa vào tài liệu hành quân và báo cáo chiến trường nhận được từ

MACV và Không Lực 7).

[20]Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh, sđd, trang 74, 79.

[21] Sorley, sđd, trang 535-536.

[22]Nguyễn Duy Hinh, sđd, trang 79-80; James H. Willbanks, sđd, trang

107. CSBV áp đảo được hai căn cứ Ranger North (Tiểu đoàn 39) và

Ranger South (Tiểu đoàn 21) là chuyện phải xảy ra. Vì trước mặt

Ranger South vài cây số là bộ Tư lệnh của sư đoàn 308, với ba Trung

đoàn 102, 36, và 88. Đọc, Nguyễn Hữu An, sđd, trang 109.

[23]Tác phẩm của đại úy Trương Duy Hy, trang 96-236, tả trận chiến từ

khi căn cứ hỏa lực 31 bị tràn ngập cho đến khi căn cứ 30 được Lệnh di

tản bằng đường bộ.

[24]Nguyễn Duy Hinh, sđd, trang 89-90.

[25]Đọc, Nguyễn Duy Hinh, sđd, trang 96-104, về lý do, quyết định, và

kế hoạch rút quân.

[26]Tiểu đoàn 4, trung đoàn 1/sư đoàn 1, với nhiệm vụ bảo vệ cho những

Tiểu đoàn bạn đi trước, đã đánh một trận thư hùng để mở đường máu

rút quân. Hai sĩ quan Tiểu đoàn trưởng và phó đều tử trận. Tiểu đoàn

chỉ còn 82 người khi về được nơi an toàn. Nhưng trong trận đánh ở

phía đông nam Tchepone này, CSBV đã để lại hơn 1.000 xác chết,

phần lớn bị phi cơ oanh kích. Về những chiến đấu hào hùng, dũng cảm,

của các quân nhân thuộc Sư đoàn 1 Bộ binh, đọc, Nguyễn Duy Hinh,

sđd, trang 104-108; Phạm Huấn, Trận Hạ Lào 1971, trang 98-105. Tại

bộ Tư lệnh MACV, ngày 25 tháng 3, đại tướng Abrams cũng nhắc lại

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

sự anh dũng của các Tiểu đoàn bộ binh và BĐQ trong buổi họp ban

tham mưu. Đọc, Sorley, sđd, trang 569-570.

[27]Chi tiết về thiệt hại nhân sự và quân nhu dụng đôi bên được liệt kê

trong, Nguyễn Duy Hinh, sđd, trang 128-133. VNCH công bố CSBV

có khoảng 13 ngàn quân tử thương; trong khi bản tường trình của Quân

Đoàn XXIV ghi 19 ngàn, kể luôn số tử thương vì bom của B-52. Con

số 16 ngàn quân CSBV tử thương người viết dùng, đến từ tin tình báo

của MAVC. Ngày 5 tháng 6-71, MACV cho biết một cố vấn quân sự

Ba Lan ở Vạn Tượng cho biết Bắc Việt bị thiệt hại rất nặng trong trận

Hạ Lào; tin từ Nga và Đông Âu cũng cho biết tương tự. Một nguồn tin

tình báo khác nói, vài viên chức của Bắc Việt cho biết chính xác số tử

thương của quân đội CSBV ở Hạ Lào là 16.224 người. Đọc, Sorley,

sđd, trang 635. Phía Hoa Kỳ có 215 tử thương, 1149 bị thương và 38

mất tích (số thương vong tính luôn các đơn vị hỗ trợ ở bên này biên

giới).

[28]Trương Duy Hy, sđd, trang 53; Nguyễn Duy Hinh, sđd, trang 88.

[29]Trường hợp mất liên lạc hoặc liên lạc chậm đã xảy ra cho Sư đoàn

Nhảy dù, và từ đó có thể đưa đến sự thất thủ của bộ chỉ huy Lữ đoàn 3

Dù ở căn cứ hỏa lực (đồi) 31. Trong khi đó, bộ chỉ huy Tiểu đoàn 2 Dù

đóng ở căn cứ hỏa lực 30, sau hai ngày không được tiếp tế nước và đạn,

không liên lạc được với cố vấn, hay bộ Tư lệnh sư đoàn mẹ và trong

tay đang có gần 200 thương vong, đánh một điện văn trên hệ thống

truyền tin chung, xin các phi cơ nhắn lại với "thẩm quyền" là họ phải di

tản vì không còn lương thực, đạn dược để chiến đấu. Hai ngày sau, đại

tướng Abrams giải nhiệm vị đại tá cố vấn sư đoàn Dù (đại tá William

Pence) và đưa một đại tá khác về thay (đại tá James Vaught). Abrams

tỏ ý mất tín nhiệm trung tướng Sutherland khi ông hỏi Sutherland có

thấy "phiền phức" khi đại tá Vaught chỉ thi hành trực tiếp chỉ thị đến từ

ông mà thôi. Abrams cũng bất mãn và chỉ trích trung tướng William

McCaffrey, Tư lệnh phó MACV, và đang thay Abrams đại diện ở bộ

Tư lệnh tiền phương chỉ huy trưởng sư đoàn 101 Nhảy dù. Sorley, The

Abrams Tapes, trang 544-546; A Better War, trang 243-260. Về bản

truyền tin của Tiểu đoàn 2 Nhảy dù, đọc Project CHECO, Lam Son

719, trang 128.

[30]Phạm Huấn, trong, Trận Hạ Lào 1971, trang 136, có thuật lại cuộc

đối thoại của tác giả với tướng Dư Quốc Đống ở Khe Sanh. Sau đó tác

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

giả trình bài sự khó khăn hay lủng củng của Nhảy dù vis a vis kế hoạch

hành quân và yểm trợ đến từ phía Hoa Kỳ cho phó tổng thống (lúc đó

còn là thượng nghị sĩ) Trần Văn Hương nghe. Ngày 28, 2-1971, phó

tổng thống Hương họp báo và công khai trình bày những thiếu sót đến

từ phía Hoa Kỳ. Cuộc họp báo của phó tổng thống Hương đã đánh thức

Bộ Tư lệnh MACV về những sai lầm của họ.

[31]Với báo cáo của cuộc hành quân gởi về cho Kissinger hàng ngày, khi

thấy cuộc hành quân có những biến chuyển bất lợi, thêm vào đó là sự

vắng mặt của Abrams ở Saigon, trong một buổi họp với Nixon ở tòa

Bạch Ốc ngày 23 tháng 3, Kissinger nói với Nixon: "Tôi nghĩ cuộc

thành quân này là một thành quả quan trọng, dù với nhiều hư hỏng

[trong vấn đề chỉ huy và điều khiển cuộc hành quân]." "Tôi muốn nói

thẳng với tổng thống là ... chính nguời của chúng ta đã làm cho chúng

ta thất vọng chứ không phải [quân đội] VNCH. Họ [các thẩm quyền

quân sự Mỹ] đã làm chúng ta thất vọng ngay trong ba tuần lễ đầu tiên

[của cuộc hành quân], rồi họ còn báo các với tổng thống là tôi xen vào

kế hoạch của họ quá nhiều." Tiếp theo, Kissinger nói về tướng Abrams:

"Trời ơi, Abrams đi thăm gia đình bên Thái Lan hàng tuần, trong khi

chúng ta đặt tất cả vào chuyện này [cuộc hành quân đánh qua Lào]. ...

Rồi bây giờ Abrams bắt đầu uống rượu từ giữa trưa. Tôi nghĩ rất kỹ,

chúng ta phải quyết định coi có nên thay ông ta hay không." Trích theo

Deb Riechmann, AP Press, 10-6-1999, bài báo viết về nội dung những

tài liệu và băng thâu âm từ tòa Bạch Ốc do, National Archives giải mật

và công bố vào năm 1999. Trong hồi ký Inner Circles, trang 275-276,

đại tướng Haig (lúc đó mang lon chuẩn tướng, làm phụ tá cho

Kissinger) nói Nixon gọi ông vào phòng, không giải thích gì, ra lệnh

cho ông, "Về nhà chuẩn bị hành lý, rồi lên chuyến bay sớm nhất qua

Saigon," để thay thế Abrams làm Tư lệnh MACV. Nhưng Haig dùng

lời lẽ hợp lý để làm dịu cơn giận của Nixon. Ngày hôm sau Nixon ra

lệnh cho Haig bay qua Saigon để duyệt xét tình hình cuộc hành quân ở

Hạ Lào. Trong những trang đã trích dẫn trên, Haig cũng viết ý kiến của

ông về những khuyết điểm của cuộc hành quân đó.

[32]Cấp số một sư đoàn Hoa Kỳ (12-14 ngàn quân) đông hơn cấp số của

sư đoàn VNCH (10-12 ngàn). Bốn quân binh chủng, Hải, Lục, Không

quân và TQLC Hoa Kỳ đều có không lực cơ hữu riêng của họ.

[33]James Willbanks, sđd, trang 107. Phạm Huấn, Trận Hạ Lào 1971,

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

trang 98-105.

[34]Jeffrey Clarke, Advice and Support: The Final Years, 1965-1973,

trang 354. Nhưng lời lưu ý của vị đô đốc bị Tổng trưởng quốc phòng

Melvin Laird phủ quyết.

[35] Số thương vong hai bên, người viết lấy trong tài liệu giải mật năm

1980, được công bố từ Phòng Giám đốc Tình báo Quốc Ngoại/ Phụ tá

Tư lệnh Lục quân/Tình báo. Tài liệu này được trích đăng lại trong,

Jeffrey Clarke, sđd, trang 275.

[36]Sorley, A Better War, trang 237; The Abrams Tapes, trang 565. Đại

tướng Abrams thổ lộ với trung tướng Michael Davison, Tư lệnh Quân

đoàn II Dã chiến, khi nghe ông trung tướng nói, "Mình đã đưa họ vào

chỗ đó, rồi mình lại kéo tấm thảm dưới chân họ [để họ hụt chân]. Tôi

có nói với tướng [Đỗ Cao] Trí là, 'tôi thấy kỳ quá, trung tướng.'" Chúng

ta không hiểu chuyện "đưa họ vào chỗ đó" là chuyện gì, nhưng có thể ở

đây ám chỉ cuộc hành quân đánh qua Cam Bốt hay Lào. Davison là Tư

lệnh Quân đoàn II Dã chiến (quân đoàn Hoa Kỳ nằm kèm theo Quân

đoàn III của VNCH) năm 1971-1972.

[37]Sorley, Thunderbolt: General Creighton Abrams and the Army of

His Times, trang 179. Về truyện đời của Abrams, người viết dựa theo

tác phẩm nói trên của Sorley. Trong tổ chức quân đội Hoa Kỳ, được

chọn làm Tư lệnh hay Tư lệnh phó quân chủng (Lục quân, Hải quân,

hay Không quân...) là một hãnh diện tuyệt đối trong binh nghiệp của

một quân nhân, nhưng không hẳn phải là một nhiệm sở các cấp tướng

lãnh mong muốn. Nhiệm sở mà các tướng lãnh mong muốn là các bộ

Tư lệnh Hỗn hợp như Thái Bình Dương, NATO, MACV, Lộ quân Thứ

8 ở Đại Hàn, Bộ Tư lệnh Trung Á. ... Rất nhiều vị Tư lệnh Lục quân,

sau khi hết nhiệm sở, vẫn xin được tái bổ nhiệm ở những bộ Tư lệnh

nói trên. Khi trở thành Tư lệnh một quân chủng, trách nhiệm của vị

tướng phần lớn chỉ là hành chánh, và những hoạt động hàng ngày rất gò

bó ở Ngũ Giác Đài.

[38]Davidson, Vietnam at War, trang 583.

[39]Bruce Palmer, The 25-Year War: America's Military Role in

Vietnam, trang 69, 133, 134. Đại tướng Palmer là bạn cùng khóa với

Westmoreland và Abrams; cũng từng giữ chức Tư lệnh phó MACV

dưới quyền Westmoreland và Abrams; Tư lệnh phó Lục quân, và trong

một thời gian ngắn, nhiệm chức Tư lệnh Lục quân. Trung tướng Phillip

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

B. Davidson, trong, Vietnam at War, trang 579-580, cũng có nhiều

nhận xét sâu đậm về tánh tình của Abrams. Davidson là sĩ quan tình

báo của MACV, làm việc dưới quyền Abrams gần một năm. Một thí dụ

khác về tánh tình của Abrams trong, Sorley, Thunderbolt, trang, 145-

146.

[40]Sorley, Thunderbolt, trang 199; A Better War, trang 10-11.

[41]Sorley, Thunderbolt, trang 232. Người nói câu đó là đại tướng

Frederick Weyand, Tư lệnh phó MACV, và sau cũng trở thành Tư lệnh

Lục quân.

[42]"Tảo thanh và giữ đất," và "Một cuộc chiến chung" là "Clear and

hold," và "One war" trong chiến thuật, chiến lược của Abrams. Shelby

Stanton, The Rise and Fall of an American Army, trang 283-284;

Sorley, Thunderbolt, 237-241.

[43]Khi bàn về cuộc hành quân đánh qua Cam Bốt 1970, Abrams tuyên

bố với ban tham mưu là tướng Nguyễn Viết Thanh soạn thảo và hành

quân nhanh đến độ ông làm cho các đơn vị Hoa Kỳ đang tham dự

chung có cảm tưởng cánh quân của họ di chuyển chậm như những con

voi. Một lần khác, Abrams chỉnh một sĩ quan cấp tướng khi người đó

có ý kiến sai lạc về kinh nghiệm quân sự và lối làm Việc của đại tá

Nguyễn Bá Liên. Thiếu tướng Thanh (Tư lệnh quân đoàn III) và cố

chuẩn tướng Liên (sau khi rời binh chủng TQLC, làm Tư lệnh Biệt khu

24, Vùng II) đều bị tử nạn trực thăng trong năm 1970 và 1969. Đọc,

Sorley, The Abrams Tapes, trang 83-84; 418-419.

[44]Sorley, The Abrams Tapes, trang 565.

[45]Bộ trưởng Lục Quân Stanley Resor bàn về vấn đề giảm thiểu chi phí

với MACV tại Saigon ngày 29 tháng 6-1971, trong, Sorley, The

Abrams Tapes, trang 445. Lính ở Việt Nam tốn kém hơn ở nội địa Mỹ

vì họ trang bị nhiều hơn và được hưởng nhiều phụ cấp khác như phụ

cấp tác chiến. Trong năm 1970-71, phi vụ và phi pháo của Hải quân

(các lực lượng đóng ngoài khơi Việt Nam) bị giảm thiểu từ 20 đến 30%

hàng tháng. Không quân thông thường bay từ 28 đến 30 ngàn phi vụ

oanh kích hàng tháng, nay bị giảm lại còn chừng 14 ngàn. Đọc, Sorley,

sđd, trang 495.

[46]Sorley, Thunderbolt, trang 183. Ở chương 12, Tinh thần người Mỹ

trong cuộc chiến, chúng ta sẽ nói sâu hơn về vấn đề bất bình đẳng trong

chế độ quân dịch của Hoa Kỳ trong chiến tranh Việt Nam.

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

[47]Ray L. Bowers, The United States Air Force in Southeast Asia:

Tactical Airlift, trang 467. Cũng theo Bowers, sau đó, ngày 28 tháng 7-

1969, Tổng trưởng Quốc phòng Laird cũng gởi cho Ban tham mưu liên

quân một huấn lệnh có nội dung tương tự như huấn Lệnh của Nixon.

Op. cit., ibid., trang 777, phụ chú số 1. Về chi tiết của trận Ap Bia

Mountian/Hamburger Hill, đọc, trung tướng E.M. Flanagan, The

Rakkasans: The Combat History of the 187th Airborne Infantry, trang

283-302. Một trong những sự phóng đại của giới báo chí phản chiến là,

tuần báo Life, số ra ngày 27 tháng -1969, có đăng hình 241 quân nhân

tử thương trên toàn cõi chiến trường Việt Nam trong một tuần trước,

nhưng chú đó là tổn thất của trận Ap Bia Mountain. Con số tổn thất

chính thức của trận đánh là 70 chết và 372 bị thương. Trung đoàn 187

Nhảy dù Tác chiến có nguồn gốc từ "Glider Infrantry," của sư đoàn 11

Nhảy dù vào đệ nhị thế chiến, chuyên phụ trách mặt trận Á châu. Tiểu

đoàn 3, trung đoàn 187 là đơn vị đánh chiếm ngọn đồi Ap Bia. Lý do

báo chí nói nhiều về trung đoàn 187 vì đây là một trung đoàn thiện

chiến do Westmoreland chỉ huy trong chiến tranh Đại Hàn. Trung

tướng Flanagan, lúc ở chiến trường Việt Nam, là trưởng phòng Huấn

luyện của MACV. Người chỉ trích kịch liệt về tổn thất trận Ap Bia là

thượng nghị sĩ Edward Kennedy, một lãnh tụ phản chiến ở quốc hội

Mỹ cho đến ngày sau cùng của cuộc chiến.

[48]Một vài thí dụ về những bó buộc làm Abrams bực tức: Không quân

chỉ có thẩm quyền cung cấp một số phi vụ hàng tháng, khi MACV

"xài" hết số phi vụ ấn định, không quân không thể cung cấp thêm được.

Đồng thời, có một số mục tiêu dù Abrams muốn nhưng không quân

không được quyền oanh tạc. Mỗi bốn tháng MACV phải xin Hoa Thịnh

Đốn gia hạn thẩm quyền dội bom vào các mục tiêu ngoài lãnh thổ Nam

Việt Nam và khoảng giữa vĩ tuyến 17-20. Không lực 7 tuy nằm dưới

quyền và có nhiệm vụ hỗ trợ MACV nhưng vẫn phải xin thẩm quyền từ

bộ Tư lệnh gốc, nhất là những phi vụ đến từ bộ Tư lệnh Không quân

Chiến lược (B-52). Đọc Sorley, Abrams Tapes, trang 385, 591, 654; A

Better War, trang 331-316. Trong cao điểm của trận "Mùa hè đỏ lửa"

1972, không còn quân tác chiến bộ binh trong tay, Abrams phải tùy

thuộc vào hỏa lực của không quân và hải quân. Abrams đã nổi trận lôi

đình khi một số chiến đỉnh rời vị trí yểm trợ của họ ở ngoài duyên hải

Việt Nam mà không cho ông biết lý do. Hỏi ra thì mới biết họ được

^=^ §Æng Hoμng H¶i ^=^

[email protected] - [email protected]

----------------------------------------------------------------------------------------------------------

---------------------------------------------------------------------------------------------------------

Allrights reserved by Rosea

HD300606056 http://danghoanghai.999.org

Lệnh từ Ngũ Giác Đài rời vị trí để đi yểm trợ cho các chiến đỉnh khác

đang hành quân thả ngư lội phong tỏa các cửa khẩu dẫn vào Hải Phòng

và Hà Nội. Bộ Tư lệnh Hải quân và Bộ Tư lệnh Thái Bình Dương...

quên thông báo cho MACV về kế hoạch của họ. Trước khi tổng trưởng

quốc phòng Laird gọi Abrams để xin lỗi về sự sơ hở đó, Abrams đã

chửi tan nát quân chủng Hải quân trước mặt nhiều sĩ quan và nhân viên

cao cấp của Hải quân và Bộ Quốc phòng. Đọc, Sorley, Thunderbolt,

trang, 323-325.

[49]Willbanks, sđd, trang,141,147; Sorley, Thunderbolt, 326.

[50]Đại tướng Bruce Palmer, The 25-Year War, trang, 133-135.

[51]Sorley, The Abrams Tapes, trang XV. Câu nói nguyên tác đến từ ký

giả Robert Shaplen, "General Abrams deserves a better war." Ký giả

Kelvin P. Buckley, trong tạp chí phụ bản The New York Times

Magazine, ngày 5 tháng 10-1969, có viết một bài về Abrams với tựa đề

tương tự. Ý của Buckley và Shaplen, khi nói về một cuộc chiến tốt hơn,

khá hơn, là một cuộc chiến không bị giới hạn vì chính trị, một chiến

tranh với chủ đích duy nhất là đánh để hủy diệt dối phương mà không

cần quan tâm về những áp lực khác. Dĩ nhiên chiến tranh Việt Nam

không nằm trong phạm trù đó. Buckey và Shaplen, nhất là Shaplen, là

hai ký giả có ảnh hưởng nhiều với đọc giả Mỹ. Thân phụ của Buckley,

William F. Buckley, là một trong những tiếng nói quan trọng của khối

bảo thủ đảng Cộng Hòa trong thập niên 1960-70.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: #gautruckaka