Phần 1: Tứ Bình

Ngày cây cầu vượt sập cũng là ngày tôi được cứu rỗi.

Cây cầu dài đúng hai mươi lăm cây số chia đôi thành phố Anemoi ra làm hai nửa hoàn hảo, với một đầu đặt giữa Cổng Boreas và Cổng Eurus (theo cách gọi của dân thấp tầng là Cổng Bắc và Cổng Đông), còn đầu còn lại đặt giữa Cổng Zephyr và Cổng Notus (hoặc Cổng Tây và Cổng Nam). Cây cầu rộng đến nỗi không chỉ chia thành phố ra làm Khu Dân cư về phía bên trái và Khu Hành chính bên phải, mà còn ngấm ngầm tạo thành hai loại lối sống riêng biệt cho người dân. Từ cây cầu trở lên là dân cao tầng giàu có và đầy học thức như các chính khách, doanh nhân, nhà phát minh hay thần tượng, còn bên dưới là dân thấp tầng với đủ các thể loại người.

Rồi tận thế diễn ra khiến bao nhiêu ranh giới đổ vỡ chẳng sót lại mảy may. Tai nạn bất ngờ ập đến đã làm tê liệt loài người sống yên ổn bấy lâu - đến nỗi những thứ như thiên tai, nguy hiểm hay sự cố đã trở thành từ hiếm trên tự điển. Tôi vẫn nhớ như in khung cảnh hỗn độn trước khi lẩn trốn dưới tầng hầm của cặp vợ chồng già đã cưu mang tôi, kẻ thì sốc đến nỗi đứng như trời trồng mặc cho "nó" xé xác, từng dòng người đổ dồn về phía những ngôi nhà cao tầng với hy vọng càng lên cao sẽ càng dễ sống sót, các con đường cả trên không, dưới đất và trong lòng đất quá tải với số lượng người khổng lồ đổ dồn về hướng bốn cánh cổng. "Nó" chính là vũ khí sinh học được thả ra từ Khu Hành chính. tôi nghe người ta truyền tai nhau thế chứ chẳng biết thực hư ra sao, vì người trong Bộ phận Thử nghiệm dường như đã bỏ mạng hết trong biến cố.

Hai tháng đầu tôi cố sinh tồn với nhóm người ít ỏi còn sót lại dưới một căn hầm chật chội ẩm ướt đầy những gián và phân chuột, mấy kẻ vốn quen ăn sung mặc sướng như chúng tôi chưa từng trải qua gian khổ như thế. Vậy là mâu thuẫn nổ ra, tôi vốn là người trầm tính nên chỉ ngồi một bên quan sát. Sau hôm đó một nhóm tám người rời đi, dẫn đầu là một gã tên Butterock tính tình nóng nảy, ưa nói những chuyện kỳ quặc mà không ai đủ trình độ để hiểu. Bọn tôi ra vẻ cản hắn nhưng trong thâm tâm lại âm thầm thở phào nhẹ nhõm, thế là bớt được một tên phiền nhiễu và tám miệng ăn.

Một tháng sau là tháng của nỗi sợ khi hằng đêm, từng người trong chúng tôi biến mất dần khiến cho phần lớn không chịu nổi phải cuốn gói mà đi. Mọi nỗ lực tìm hiểu nguyên nhân rơi vào bế tắc cho đến khi có người tìm được bằng chứng chỉ tội cặp vợ chồng lén cho vũ khí sinh học vào khử bớt bọn tôi.

Một người trong số chúng tôi chất vấn: "Bà nghĩ bà sẽ sống mà không cần chúng tôi à?"

Bà ta không có vẻ gì là hoảng sợ còn ông chồng đã biến đâu mất từ sáng sớm, tôi để ý đến sự bất thường đó trước tiên.

"Chồng bà đâu? Gọi chồng bà ra đây."

"Anh ấy đã hiến dâng linh hồn mình." Bà ta quái gở đáp.

Khi tôi tông cửa xông vào phòng bọn họ, xác lão chồng không biến mất như những người khác mà bê bết trên tấm drap giường, đầu mình mỗi thứ một nơi. Hóa ra cả hai vợ chồng đều là người theo dị giáo. Ngay từ bé bọn tôi đã được dạy tín ngưỡng là thứ đáng sợ có thể nuốt chửng nền văn minh và là xiềng xích giam hãm sự phát triển của nhân loại. Người của Anemoi phải tự do như ngọn gió, họ nói thế. Thế nên tôi chưa từng hiểu vì sao lại có những người cố chấp đến mức, nguyện ý vứt bỏ mọi sự tiện nghi đủ đầy của thành phố chỉ để theo đuổi những niềm tin mờ ảo và hoàn toàn không thực.

Những gì còn sót lại của ông chồng được dọn đi, còn bà vợ bị đuổi ra khỏi căn hầm mặc kệ sống chết.

Một tháng sau nữa mọi chuyện dần trở nên ảm đạm. Phần lớn nhóm người ít ỏi còn sót lại bắt đầu buông xuôi dần, tôi cũng không ngoại lệ. Vùng vẫy thế nào nữa, sống sót thế nào nữa khi cuộc đời của bọn tôi gần như đã sụp đổ, thực ra không phải bọn tôi muốn sống đến ngày hôm nay, mà do trong thâm tâm vẫn ôm hy vọng rằng đây chỉ là một sự cố, rồi thành phố sẽ cử người đến đón tôi đi, rồi mọi thứ sẽ quay trở lại như xưa. Nhưng khi thức ăn vơi cạn dần (toàn bộ máy chế biến tự động đã hỏng hết, buộc phải cầm hơi bằng thứ đồ hộp của bọn dị giáo trong căn hầm) và mọi người cứ liên tục biến mất, chúng tôi đang dần bị đẩy đến giới hạn.

Hai mươi, mười sáu, mười, tám, sáu, bốn, ba, hai...

Cho đến khi chỉ còn mình tôi ở lại. Một mình. Giữa một nửa thành phố. Một nửa thành phố còn lại nằm phía bên kia bị ngăn cách bởi cây cầu, lũ vũ khí sinh học sợ sáng nhưng ưa tối, bọn chúng tập hợp lại bên dưới gầm cầu ngăn cho bất kỳ ai trong chúng tôi đi qua. Nhiều khi tôi tự hỏi liệu bên kia còn ai chăng?

Lần đầu tiên trong đời trải nghiệm sự cô độc, tôi tê liệt đến gần như không thở nổi. Lối sống làm việc không ngừng nghỉ khi trước ngoài việc giúp xã hội vận hành trơn tru ra còn đồng thời đánh lạc hướng tôi khỏi những suy ngẫm về sự vô nghĩa thường trực của cuộc đời. Nhưng nay khi mọi thứ dần đi đến hồi kết, tôi cứ hay ngẩn người chất vấn bản thân rằng mình đã làm gì, mình sống vì cái gì, vì sao là mình mà chẳng phải là ai khác. Những trăn trở đó tôi chỉ có thể tự nói cho riêng mình rồi tự gặm nhấm, vì làm gì còn ai ở đó nghe tôi nói nữa đâu.

Mọi thứ cứ tiếp diễn một cách tẻ nhạt, cho đến một ngày tôi để ý thấy một hiện tượng lạ. Một công trình vốn từng là khách sạn cao cấp vận hành nhờ vào viên đá Vĩnh Cửu đã chạy hết năng lượng rồi trôi dạt suốt quãng thời gian qua phía bên trên thành phố, chẳng ai biết nó sẽ tự kết liễu bản thân ở đâu. Nhưng có lẽ giống như thứ mà bọn dị giáo gọi là ân huệ của thần linh, từ ba hôm trước tôi đã nghe tiếng "lách cách" do hư hỏng phát ra từ cái khách sạn khi nó trôi đến bên trên cây cầu, và không phụ sự mong đợi, cuối cùng hôm nay cũng rơi xuống.

Tiếng động khổng lồ đó đã đánh thức tôi khỏi mộng mị. Thẳng vào giữa cầu, ngay trung tâm thành phố. Vốn dĩ Anemoi được xây dựng theo kiểu lấy cây cầu làm trung tâm, vậy nên bán kính ba cây số xung quanh điểm rơi cứ lần lượt đổ sập, tiếng ầm ầm vang lên dồn dập liên hồi tựa như từng đợt sóng vỗ vào bờ cát, bụi tung mù mắt tôi, bay vào phổi dẫn đến vài cơn ho dữ dội. Cái bảng hiệu chào mừng thiên niên kỷ thứ ba vỡ vụn dưới đống đổ nát, ánh đèn chớp tắt như hấp hối làm lòng tôi bỗng có cảm giác tang thương không thực. Tôi đang buồn ư? Buồn cho một thời đại huy hoàng đã mất ư? Tôi đã quên mất lần cuối mình có cảm giác này là khi nào. Chờ nửa tiếng cho mọi thứ tạm lắng xuống, tôi bắt đầu leo qua đống đổ nát để qua bên kia thành phố. Lũ vũ khí sinh học khi trước ẩn nấp dưới gầm cầu đã chạy biến gần hết sau khi ánh mặt trời dần chiếu đến từng tấc đất. Bọn chúng ré lên khi làn da mỏng như nhựa ni-lông kéo căng, xanh xao và nhợt nhạt đến lộ cả mạch máu bị ánh sáng làm bỏng đến bốc cháy. Tôi vui lắm. Nỗi buồn, niềm vui và bàng hoàng trong tôi hòa trộn lẫn nhau thành một thứ cảm xúc hỗn tạp làm cồn cào ổ bụng.

"A!"

Tôi vô thức đưa tay lên sờ miệng, không phải tiếng tôi, không phải âm thanh của tôi! Có một người khác, có người ở bên kia thành phố. Mặc cho sỏi đá đâm xuyên đôi giày rách nát do những tháng ngày chạy trốn lũ quái vật, tôi lao như bay về phía bên kia mà đầu óc rỗng tuếch như bị ai tẩy xóa. Chưa bao giờ vài chục mét lại dài đến như thế, chưa bao giờ vài chục giây lại thót tim đến như thế!

Và tôi thấy em, cô gái của đời tôi.

Em ngồi sõng soài dưới đất giữa đá vụn và bụi cái, dường như em bị sốc trước biến cố đột ngột ập tới, có lẽ em không ngờ sẽ có một cái khách sạn khổng lồ đổ sập xuống từ trên trời và suýt lấy đi mạng em. Càng nghĩ tôi lại càng run rẩy, lỡ như em lại gần hơn xíu nữa, hoặc lỡ như vụ tai nạn xảy ra ở một chỗ khác, thì có lẽ thứ bị vùi dưới đống đổ nát này không phải là biển hiệu mà là cơ thể của em - người rất có thể là người cuối cùng trong thành phố này ngoài tôi.

"Tên gì?"

Đáp lại tôi là sự im lặng, em cứ giương mắt nhìn tôi trân trân, cả cơ thể cứng đờ như bị sốc.

"Tôi là Ý An, em tên gì?"

"Bình." Em thều thào, âm tiết vỡ vụn như thể đã lâu không trò chuyện.

"Chỉ chữ Bình thôi à?"

"Tứ Bình."

Tôi ngượng ngùng tiếp tục: "Bao nhiêu tuổi rồi?"

"Một trăm bốn mươi lăm."

"Tôi hai trăm."

Em ngơ ngác gọi: "Chị."

"Ừ."

Tôi vươn tay lau bụi bẩn trên mặt em, phải lại gần mới thấy được đôi mắt hazel xinh đẹp của em lấp lánh màu lục dưới nắng, mái tóc hạt dẻ phủ một lớp cát bụi dày mà tôi chắc rằng phải mất rất lâu mới gội sạch được. Nhưng dẫu tôi có chạm vào em thế nào đi nữa, cái cảm giác có một ai đó khác ngoài tôi trong suốt thời gian qua vẫn khá là... không nói nên lời.

"Rất vui được gặp em." Tôi bỗng thấy sống mũi mình cay cay.

Bình cứ ngơ ngác nhìn tôi, tay em ôm một thứ gì đó như giấy và bút, bên trên là những dòng kẻ xiêu vẹo và ký hiệu lạ lẫm có hình dáng từa tựa như đồ trang trí ở trước nhà hát Anemoi.

"Em lấy giấy ở đâu vậy?" Mấy thứ này giờ chỉ có ở chỗ bọn dị giáo thôi.

Em vẫn im lặng nhìn chằm chằm tôi.

"Thôi, đưa em về trước vậy."

Tôi dìu em lên lưng mình, Bình không giãy giụa cũng không phản kháng, em cứ ngoan ngoãn vòng tay quanh cổ tôi, tay cứ nắm chặt xấp giấy.

"Đi thôi."

Tôi tưởng em là người ít nói, nhưng mà...

"An ơi!"

"Hả?"

"Chị tắm rửa như thế nào? Ở bên kia có sông nên hôm nào em cũng ra đó tắm. Hóa ra con sông đó là thật chị à. Khi trước em thường ngồi bên bờ lấy cảm hứng nhưng tưởng nó chỉ là hoạt ảnh của thành phố thôi, không ngờ lại là sông thật. Ban đầu em ngại tắm lắm vì nước ấy chưa được xử lý như nước trong thành phố, nhưng cự nự được vài ba hôm rồi cóc thèm quan tâm đến chuyện bẩn sạch nữa. Còn gì tệ hơn tình trạng của thế giới này nữa đâu? Dinh dưỡng em lấy từ máy chế biến tự động, chẳng biết có phải trong cái rủi có cái may hay không mà đó là thiết bị duy nhất còn hoạt động trơn tru. Lôi cái máy ấy về nhà là cả một thử thách kinh hoàng, em vừa phải khuân vác vừa chạy trốn lũ quái vật lên đến mấy chục con. Bọn chúng bám theo em suốt ba tiếng đồng hồ! Từ nhà hát trung tâm Anemoi đến tận Cổng Zephyr ở cực Tây thành phố. Có con còn cào vào lưng em một đường dài thật dài mà khi ấy adrenaline làm cho em không cảm thấy gì, lúc chuẩn bị cởi áo ra mới biết sau lưng đã đầm đìa máu. Nhưng mà em vẫn sống, hay thật."

Bình vén áo cho tôi xem vết sẹo to từ bả vai trái xuống tận phần hông bên phải, "Ghê không? Trước tận thế làm âm nhạc nên khi thiết bị không còn thành ra em vô dụng, chẳng hiểu sao mọi người xung quanh lại ra đi hết, cuối cùng chỉ còn mình em. Này chị có bao giờ tự hỏi vì sao mình vẫn còn sống chưa? Em từng dằn vặt chuyện đó lắm như bây giờ thì hết rồi ha ha, em chỉ thấy mình kiên trì được đến bây giờ đúng là quá đỉnh!"

Em cứ luyên thuyên mãi khiến tôi bối rối không biết phải đáp lại như thế nào. Đã hai ngày kể từ khi tôi đưa em về từ bên kia cây cầu, tối hôm đó tôi dành bốn tiếng đồng hồ để gội đầu và lau tóc cho em, rồi dành cả đêm để trò chuyện linh tinh với em. Bình cứ lẳng lặng nghe rồi lẳng lặng đi ngủ, nhưng đến sáng hôm sau, em như thể biến thành một con người khác. Qua lời em, tôi biết Bình khi trước làm trong ngành âm nhạc và phụ trách sáng tác nhạc cho rất nhiều thần tượng nổi tiếng, ví dụ như Cecilia.

"Chị từng làm công việc như thế nào?"

"Gõ lời xin chào."

"Sao cơ?"

"Chị được thuê để gõ lời xin chào trong mọi văn bản của Tập Đoàn. Họ nói rằng việc phân chia công việc nhỏ đến thế để đảm bảo ai cũng có công việc của riêng mình, giảm tỷ lệ thất nghiệp."

"Chán thế..."

Bình cứ không ngừng nói chuyện với tôi, nhiều khi em lỡ hăng quá quên cả thở, hoặc em tự sặc nước bọt của chính mình, hoặc em vấp phải cái này cái kia. Tôi dặn em đừng cố quá nhưng Bình dường như không nghe tôi nói, em cứ tự chìm đắm trong thế giới của riêng mình suốt từ nãy đến giờ.

"Em xin lỗi!"

"Không sao đâu, em cứ nói tiếp đi. Lâu rồi tôi không nghe ai nói chuyện."

"Còn em thì lâu rồi không nói chuyện với ai. Em cứ sợ nếu mình nói chậm lại thì An sẽ đi mất."

Tôi hiểu chứ, tôi hiểu nỗi bất an của em chứ.

***

Một buổi sáng tinh mơ giữa tháng mười hai, chúng tôi tông thẳng vào Cổng Bắc và trốn đi. Tôi và em cứ suy nghĩ mãi về việc đi hay ở, thành phố này không còn gì giữ chân chúng tôi nữa, nhưng bên ngoài, không ai trong chúng tôi biết gì về bên ngoài.

"Sao chưa ai từng tò mò bên ngoài có gì nhỉ?" Một hôm Bình hỏi thế, sau đó chúng tôi bắt đầu nghiêm túc cân nhắc chuyện rời đi. Tôi thở hắt ra một hơi sau khi dùng hết sức bình sinh đóng lại cánh cổng để ngăn bọn vũ khí sinh học trốn ra ngoài, Bình chạy xe chở tôi. Loại xe cổ có bánh chạy bằng năng lượng mặt trời em tìm thấy trong kho nhà hát thành phố là lựa chọn tuyệt vời cho những chuyến đi dài ngày. Hai cục pin cung cấp năng lượng 24/24, một cho ban ngày và một cho ban đêm giúp chúng tôi có thể sẵn sàng di chuyển bất cứ lúc nào, đặc biệt trong trường hợp đi đến những nơi hẻo lánh hoặc gặp phải nguy hiểm. Lúc tôi quay đầu để ngắm nhìn gương mặt vui vẻ của em sau khi cả hai đã thành công ra bên ngoài cũng là lúc tôi thấy đôi mắt em ngập tràn nỗi thất vọng.

Bên ngoài cánh cổng là một vùng hoang mạc rộng tít tắp không có điểm dừng, mặt đất chẳng có bất kỳ một bóng cây nào và gió cũng lặng im không thổi, tiếng bánh xe nghiền lên sỏi đá là âm thanh duy nhất tôi và em nghe thấy. Nhưng nắng gắt, tôi thấy làn da em ửng đỏ lên do chưa quen với cường độ ánh sáng mạnh như thế.

Em nói vừa nói vừa khoác chiếc áo choàng tôi đưa: "Em tưởng nó sẽ khác..."

"Hai tháng sau biến cố, bên chị có một nhóm khá đông nói là sẽ vượt cổng. Khi ấy chị không tin hắn ta lắm, nhưng giờ thì chị nghĩ có lẽ hắn cũng như chúng ta, đã thành công thoát khỏi thành phố." Tôi kể cho em nghe về gã Butterock.

"Vậy thì tuyệt quá, có lẽ chúng ta sẽ sớm gặp hắn thôi. Biết được có người ngoài kia làm em nhẹ nhõm hơn nhiều."

"Ừ, đi nhanh qua chỗ này thôi."

Bình hào hứng nói, giọng em không còn vô lực như lúc nãy nữa: "Em không tin quanh đây không còn ai khác ngoài chúng ta! Tiến lên!"

"Bình là dân cao tầng à?"

Em ngập ngừng, "Thật ra cũng không hẳn, lúc mua nhà em mua được căn ở tầng 27, vừa trên cây cầu một chút xíu, nhưng có người quen kia xin em nhường lại căn hộ vì người ấy cần phải lấy lòng gia đình... Thế là em đồng ý luôn."

"Bình kỳ lạ thật," Như thể sợ em hiểu lầm, tôi nói thêm, "Những người xung quanh cũng kỳ lạ nữa."

"Lạ?"

"Ý chị là... Có nhiều vấn đề hơn bình thường." Thực ra tôi không biết nói làm sao cho chính xác.

Vậy mà em vẫn hiểu: "À, Bình cũng từng sống ở dưới thấp nên em hiểu mà. An thấy lạ cũng hợp lý thôi vì vốn dĩ cuộc sống ở dưới quá đỗi nhàm chán. Xin lỗi nếu em khiến chị cảm thấy bị xúc phạm!"

Chán ư? Tôi thầm nghĩ. Trước giờ tôi chưa từng so sánh cuộc đời mình với ai, nhưng khi cân nhắc cẩn thận thì quả là nhàm chán thật. Sáng sớm đi làm, đến chiều lại về, gần như không giao thiệp sâu với ai, sở thích duy nhất là xem đố vui mỗi cuối tuần. Chỉ bằng bấy nhiêu chữ thôi đã thâu tóm gần như cả quãng đời dài đằng đẵng của con người tên Ý An.

Khác hoàn toàn với những sắc màu trong mỗi câu chuyện em kể.

"Thực ra trăm năm trở lại đây xuất hiện một khái niệm mới chưa được công nhận: dân trung tầng. Là những người làm việc chủ yếu với cao tầng và có xu hướng đi lên cao tầng, ví dụ như Bình, và người quen em nhắc đến lúc nãy. Dân trung tầng thú vị dữ lắm, những người xung quanh em ai ai cũng có bản sắc và tính cách riêng. Họ là người thay đổi vẻ ngoài liên tục, nhưng chỉ cần nhìn thấy cử chỉ hoặc thông qua cách nói chuyện thì Bình lại biết ngay đó là ai."

Còn tôi thì sao? Nếu không vì tận thế biến tôi trở thành người cuối cùng còn sót lại trên thế giới này ngoài Bình, thì chắc em cũng sẽ không bao giờ để ý đến sự tồn tại của tôi. Cuộc đời Bình, vốn không bao giờ có tôi trong đó.

Hai tháng, chúng tôi lang thang hơn hai tháng trên hoang mạc rộng lớn không một bóng người cũng là hai tháng chịu đựng những tiếng rít xé trời và bom nổ thủng cả màng nhĩ. Không biết bắt đầu từ lúc nào, những âm thanh đó xuất hiện rồi khủng bố chúng tôi cả ngày lẫn đêm. Bình nói đó là âm thanh của chiến tranh, nhưng cả cuộc đời tôi chưa từng nghe đến khái niệm "chiến tranh" bao giờ. Em giải thích:

"Chiến tranh nghĩa là hai quốc gia xung đột lẫn nhau, quốc gia của chúng ta là thành phố Anemoi đấy. Em đọc được định nghĩa này khi tìm hiểu để viết nhạc cho lễ chào mừng thiên niên kỷ mới."

"Như vậy nghĩa là vẫn còn nhiều nơi khác giống như thành phố chúng ta?"

"Đúng vậy! Chỉ là em không biết còn bao xa. Có khi nào chúng ta mãi mãi cũng không tìm được ai khác..."

Quả đúng như Bình nói, chúng tôi vẫn chỉ có một mình. Tôi chưa từng nghĩ bên ngoài sẽ rộng lớn như thế này, thứ bản đồ duy nhất tôi và em nhìn thấy là bản đồ thành phố và con đường thẳng xa nhất chúng tôi từng đi là từ đầu này đến đầu kia cây cầu. Cái máy chế biến tự động của em đã xuất hiện dấu hiệu hư hỏng do tiếp xúc với tia cực tím trong thời gian dài, cũng như phải chịu nhiều va đập khi chúng tôi lên đường gấp trong đếm nhằm trốn chạy cơn oanh tạc của chiến tranh.

Chẳng còn nhiều thời gian nữa, tôi nghĩ.

"Có lẽ đã đến lúc chấp nhận chúng ta là hai người duy nhất còn sót lại thôi." Bình nói với tôi trong một tối im lặng hiếm hoi.

"Vậy còn quốc gia mà em nhắc đến thì sao?"

"Nhưng chúng ta chẳng gặp ai cả, càng đi, em càng nghĩ mình nên bỏ cuộc. Em không muốn ta dừng tìm kiếm, nhưng cũng đến lúc buông bỏ hy vọng và vạch ra tương lai khả dĩ hơn cho hai đứa mình."

Dưới bầu trời sao mờ bị che lấp bởi khói lửa và cát bụi, chẳng hề rực rỡ như trời sao trong những lời em từng vu vơ hát, Bình nằm cạnh bên và ngả đầu lên vai tôi. Nhiệt độ ấm áp từ cơ thể em, mùi hương và cả tiếng thở nhè nhẹ khi em say ngủ tựa như một giấc mơ dài ngọt ngào, chậm rãi chữa lành những tổn thương mà nếu cứ mãi vùi chôn cuộc đời mình ở Anemoi, tôi sẽ chẳng bao giờ phải trải qua. Nhưng dù biết trước rằng thế giới khắc nghiệt đến nhường này, tôi vẫn sẽ không ngần ngại giẫm chân ga tông xuyên qua cánh cổng thành phố để cùng em đi tìm một chân trời mới. Và dẫu cho chân trời mới chúng tôi luôn kiếm tìm có khả năng cao là không tồn tại đi chăng nữa, tôi vẫn sẽ ổn, chỉ cần có Bình ở bên.

Liệu em cũng nghĩ như vậy về tôi chăng? Dù chẳng còn ai ngoài hai chúng tôi đi nữa, trong thâm tâm tôi vẫn lo lắng vô cớ rằng em sẽ bỏ tôi mà đi. Hoặc em sẽ phản bội, giết tôi để tăng cơ hội sống sót khi cả hai đã đi đến bước đường cùng. Tôi không sợ chết, tôi chỉ sợ ánh mắt lạnh lẽo em dành cho tôi khi ngày đó đến. Tôi không dám tưởng tượng khi chưa gặp được Bình, rốt cuộc suốt hai trăm năm qua tôi đã sống thế nào? Tôi thật sự không dám nhớ về. Có lẽ tôi cũng chỉ là một bánh răng được sản xuất hàng loạt, lao động không ngơi nghỉ chỉ để phục vụ thành phố mà thôi. Ai cũng có chức năng của riêng mình, còn chức năng của những bánh răng như tôi, mà rộng ra hơn là của toàn bộ "cư dân thấp tầng", chẳng là gì ngoài phục vụ đến chết, làm việc đến chết cho thứ hệ thống dối trá này. Tôi đã sống như nhiên liệu, nhưng giờ thì lò đốt đã không còn nữa, cuối cùng thì tự do đã đến. Người của Anemoi phải tự do như ngọn gió, họ nói thế, giờ tôi đã hiểu.

Tôi khẽ xoay người rồi vòng tay ôm lấy bờ vai em, làn da lạnh ngắt khiến tôi giật mình nhận ra tấm chăn mỏng te đã bị em đá xuống chân từ khi nào.

"Em ngủ xấu quá." Tôi lẩm nhẩm lời phàn nàn. Bình của tôi cái gì cũng tốt, ngoại trừ nết ngủ và thói hậu đậu, "Chẳng trách đến sáng cứ mãi hắt xì."

"Chị đang lo gì à?" Bình hỏi, tay em luồn ra sau che cho đầu tôi khỏi đụng vào thùng xe lạnh cứng.

"Đừng bỏ chị."

"An cứ lo thừa, chị là người duy nhất còn lại trên thế gian mà."

Tôi thấy trong mắt em lấp lánh biết bao nhiêu là tình yêu.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top