người đàn bà đích thực 2 (hết)
Sau ba mươi phút rảo bước, không ngừng nghỉ, cô thở dài nhẹ người. Đó, trước mặt cô là cái phố nơi có nhà của bà Daniel. Sự chỉ dẫn của Rosie là rõ ràng. Lúc này, lần đầu tiên Emma dừng lại, đặt valy xuống và rút tờ giấy ra khỏi túi... nhà bà Daniel số năm. Phố này cũng tăm tối, có vẻ nghèo khổ, nhưng Emma vui lên nhiều khi cô tới số năm. Đó là một ngôi nhà cao hơn cô nghĩ, hẹp, ép giữa hai ngôi nhà khác, những bức tường Victoria của nó đen lại vì khói nhà máy và những năm ám bụi than công nghiệp, những tấm rèm đăng ten ở những cửa sổ lóng lánh sáng khô và trắng. Quả đấm cửa sáng lên trong ánh mặt trời nhạt buổi chiều. Bậc tam cấp trước nhà được lau cọ, sáng lên màu bạc qua năm tháng, những mép cạnh vàng ánh vì hòn đá kỳ được dùng hàng ngày.
Emma chạy lên bậc thềm và đập quả đấm cửa mấy lần. Một lát sau, cánh cửa mở. Một người đàn bà gầy gò, tóc bạc, một vẻ chua chát trên nét mặt võ vàng, nhiều nếp nhăn nhìn xuống Emma.
- "Ồ, cô muốn gì?". Bà hỏi một cách dứt khoát.
- "Làm ơn cho tôi nói chuyện với bà Daniel".
- "Tôi đây", người đàn bà nói ngắn gọn.
Emma kiên nhẫn không hề nao núng hay sợ hãi vì giọng nói khó chịu và thái độ thiếu tính mến khách của người đàn bà này. Cô phải kiếm một phòng ở đây bằng mọi giá hôm nay. Cô không có thì giờ đi lang thang ở Leeds tìm kiếm nhiều hơn nữa. Và thế là cô mỉm cười rạng rỡ nhất, cô làm dáng điệu thật tươi, hấp dẫn mà cho đến chính phút này cô cũng không hề biết là mình lại có được. "Cháu rất hân hạnh được gặp bà, thưa bà Daniel. Tên cháu là Emma Harte. Rosie ở quán "Con vịt nhốp nhúa" nói cháu đến gặp bà. Chị ấy nghĩ là bà sẽ vui lòng cho cháu thuê một phòng".
- "Tôi chỉ cho các quý ông thuê thôi", bà Daniel giọng đỡ phức tạp. "Vả lại, nhà tôi đầy khách rồi".
- "Ôi trời ơi", Emma nói nhẹ nhàng, đôi mắt to của cô nhìn xoáy người đàn bà. "Thế mà Rosie lại chắc chắn là bà còn một phòng. Một phòng nhỏ cũng được". Emma ngước nhìn lên. "Nhà ta rộng lắm mà".
- "Đúng là rộng, nhưng hai phòng ngủ tốt nhất của tôi đã cho thuê rồi. Chỉ còn lại phòng gác xếp mà tôi không bao giờ cho thuê phòng đó cả".
Emma xỉu người, nhưng nụ cười vẫn không nao núng. "Có lẽ bà nên cho cháu thuê cái gác xép ấy, thưa bà Daniel. Và cháu chắc chắn sẽ không gây phiền hà gì. Rosie sẽ cho cháu một giây giới thiệu nếu..."
- "Không phải vậy". Bà chủ nhà ngắt lời ngay bằng một giọng sỗ sàng. "Tôi đã bảo đầy chật rồi mà". Bà trợn mắt nhìn Emma. "Tôi chỉ có thể chứa được hai người và tôi đã có đủ số rồi". Bà định đóng cửa lại..
Emma vội mỉm cười chinh phục. "Bà Daniel, xin bà đừng vội vàng. Nếu bà cho cháu thuê cái gác xép một vài tuần thì thật là tốt quá. Cháu sẽ thuê chừng nào bà thấy tiện cho bà. Nó sẽ cho cháu đủ thời gian để đi tìm một chỗ khác. Rosie nói, chắc chắn thế nào bà cũng vui lòng. Chị ấy ca ngợi bà hết nước. Chị ấy bảo bà có một ngôi nhà sạch sẽ, đàng hoàng, và ở đây cháu sẽ được an toàn. Rosie nói bà là một phụ nữ tốt và lương thiện".
Bà Daniel không nói gì, nhưng bà lắng nghe chăm chú - "Thưa bà, cháu không phải là người ở Leeds", Emma vội nói tiếp, cô quyết định làm cho người đàn bà này phải nhập cuộc. Cô muốn thuyết phục bà là cô sẽ không làm một mối phiền hà và đánh tan sự hằn thù rõ rệt của bà đối với người thuê nhà là phụ nữ. "Cháu sống ở gần Ripon với bà của chồng cháu nhưng bà cháu vừa mới chết". Emma để ý thấy vẻ ngạc nhiên trên nét mặt bà Daniel khi nghe nhắc tới một người chồng, nhưng trước khi bà kịp nói một điều gì, Emma đã giải thích tiếp, "Chồng cháu ở hải quân Hoàng gia. Ở ngoài khơi sáu tháng. Cháu sẽ rất biết ơn nếu như cháu có thể ở với bà chỉ một vài tuần thôi. Nó sẽ cho cháu thời gian để tìm chỗ cho chúng cháu, bởi vì chồng cháu sẽ được về nghỉ phép".
Người đàn bà yên lặng, rõ ràng là suy ngẫm câu chuyện của Emma. Đầu óc Emma suy nghĩ rất nhanh. Thuyết phục, tâng bốc, duyên dáng đều không có tác dụng gì. Có lẽ cô khêu gợi lòng tham của bà chăng. "Cháu có thể trả trước cho bà một tháng tiền nhà, thưa bà Daniel. Xét cho cùng, một chút tiền thêm cũng có ích phải không ạ? Bởi vì cái phòng gác xép ấy bà chưa bao giờ cho thuê." Emma nói một cách chắc chắn và bắt đầu mở túi tiền.
Gertrude Daniel, người đàn bà góa không con thực ra không phải là con người khó tính khó nết như bề ngoài. Sự thật, thái độ khăng khăng khó lay chuyển của bà, bộ mặt nhẫn tâm của bà ngược với tấm lòng khá nhân hậu và óc hài hước mạnh mẽ. Tuy nhiên, bà có một ao ước mạnh mẽ là đóng xầm cửa trước mặt cô bé. Bà không quan tâm tới tiền. Và bà không thích những người thuê nhà là phụ nữ. Họ là những kẻ gây rối. Tuy nhiên có một cái gì đó ở người con gái đặc biệt này làm bà chú ý, và cô ta nói là cô ta đã có chồng. Ngược với ý định của mình và với sự ngạc nhiên lớn, bà nói: "Tốt nhất là nên vào trong. Tôi không muốn bàn chuyện ở bậc thềm này, trong khi tất cả hàng xóm láng giềng dòm ngó sau rèm của họ. Không phải là tôi đã cho cô thuê căn gác xép rồi nhé. Nhưng có lẽ tôi sẽ mách cho cô một nơi khác để cô thử đến xem".
Nói như vậy, bà mở cánh cửa rộng hơn và để cho Emma vào căn phòng nhỏ xíu dẫn tới phòng khách phía trước. Bà Daniel lúc này rõ ràng là bối rối. Bà không bao giờ có thể biết được tại sao bà lại cho cô gái vào nhà. Bà đã phá vỡ luật của chính mình. Ông chồng Bert của bà đã bỏ đi cùng với người phụ nữ thuê nhà nhiều năm trước đây. Tuy nhiên, Bert bây giờ cũng đang ngủ với giun rồi. Tuy vậy, từ đó đến giờ ba chưa bao giờ cho một người phụ nữ thuê phòng và bây giờ bà cũng vẫn không có ý định ấy.
Phòng khách phía trước sắp xếp ngỗn ngang. Nó chất đầy sopha đen bằng vải lông ngựa, ghế và những đồ bằng gỗ hoa tâm. Vải dày viền màu tím phủ một chiếc bàn, một cái piano và một cái giá ô lớn. Trên tường có những phiên bản của những sơn dầu nổi tiếng được phủ bằng giấy hồng điều làm nhức mắt.
- "Cô ngồi xuống đi", bà Daniel nói, giọng vẫn còn khắc nghiệt. Emma đặt chiếc vali trên tấm thảm Thổ Nhĩ Kỳ, đỏ tím rực rỡ và ngồi chênh vênh trên một chiếc ghế cao bằng vải lông ngựa, tay nắm chặt lấy túi xách. Cô mong muốn đến tuyệt vọng là nghĩ ra được một điều gì có sức thuyết phục và vui vẻ để nói th2i bà Daniel cắt ngang dòng suy nghĩ của cô.
- "Đây là phòng khách sang trọng nhất". Bà chủ nhà nói, làm duyên làm dáng: "Đẹp chứ nhỉ?"
- "Ồ vâng, đẹp lắm". Emma vội đáp, cố lấy giọng nói chân thành nhất, trong khi cô lại nghĩ nó thật là khủng khiếp.
- "Cô có thực sự thích nó không?" Bà Daniel hỏi, giọng bà đột ngột dịu dàng hơn rất nhiều.
- "Cháu thích, thích lắm". Emma liếc nhìn chung quanh. "Đúng, đây là một trong những phòng thanh lịch nhất cháu được thấy. Thật là tuyệt diệu. Bà Daniel, bà có một khiếu thẫm mỹ tuyệt vời". Emma nói một thôi một hồi, cô nhớ lại những lời cô đã nghe được của Olivia Wainwright, thường dùng trước đây. Cô mỉm một nụ cười ngưỡng mộ với bà Daniel.
- "Ồ, cám ơn cô lắm". Bà Daniel rất tự hào về phòng khách trước này và lần đầu tiên mặt bà dịu đi.
Emma nhận thấy ngay, cô nắm lấy cơ hội. Cô cố ý mở túi xách: "Bà Daniel, bà làm ơn cho cháu thuê cái phòng gác xép ấy. Cháu đã nói, cháu sẽ trả tiền trước. Nếu bà ngại chuyện tiền, cháu..."
- "KHông, không phải thế", bà Daniel ngắt lời. Nếu Rosie đã giới thiệu cô, thì tôi biết không ngại, chuyện tiền... Daniel lúc này đang do dự, đôi mắt bà nhìn Emma có thiện cảm. Bà đã nhìn kỹ cô ngay từ phút bà mở cửa. Giống như Rosie trước đó, bà đã để ý đến quần áo của cô gái ngay lập tức. Chiếc áo choàng hơi cũ một chút, nhưng tốt. Bà cũng ngày càng chú ý tới cung cách của cô gái, vẻ đàng hoàng, chững chạc, thanh lịch và giọng nói học thức của cô. Đó là chất, bà nghĩ, và trước khi bà kịp ngăn mình, bà nói: "À, tôi cũng không biết gác xép có thích hợp cho cô không vì cô là một thiếu nữ sang trọng như vậy. Nhưng vì lúc này cô không còn chỗ nào khác nữa để đi, tôi sẽ dẫn cô lên. Cô nhớ cho là, chỉ trong một vài tuần thôi đấy".
Emma muốn ôm choàng lấy cổ bà ta vì đã trút đi được một gánh nặng, nhưng cô vẫn giữ ngay người: "Thưa bà Daniel, bà thật là tốt bụng. Cháu cảm ơn bà". Cô nói một giọng đĩnh đạc, lại bắt chước Olivia.
- "Vậy chúng ta lên gác". Bà chủ nhà vừa nói vừa đứng lên. Bà quay nhìn Emma dò hỏi, lông mày rướn lên! "Tại sao một thiếu nữ lịch sự như cô lại biết Rosie ở quán "Con vịt nhốp nhúa". Bà hỏi và đột nhiên thấy bối rối vì sự quen biết kỳ lạ này.
Hãy bám vào sự thật, một giọng nho nhỏ báo cho Emma. Cô nói, không một chút do dự: "Một người thợ, trước đây thường đến nhà bà cháu để sữa chữa nhà cửa, anh ấy biết bà cháu không thể sống lâu trên đời này. Cháu đã nói với anh ấy cháu hy vọng tới Leeds một ngày nào đó để làm một ngôi nhà cho Winston, đó là tên người chồng thân yêu của cháu, và cháu có lẽ sẽ tìm công việc ở một trong những cửa hàng. Anh ấy là con người thân mật và anh ấy bảo cháu đến gặp Rosie khi nào cháu đến Leeds. Anh ấy cảm thấy chị Rosie sẽ giúp đỡ được".
Bà Daniel đã chăm chú lắng nghe, nhận định câu chuyện kể của cô gái. Cô ta nói rất thành thật, thẳng thắn, rõ ràng là lời nói thật. Và nó có ý nghĩa. Bà gật đầu, hài lòng với cô gái. "Vâng, tôi hiểu. Và Rosie là một cô gái tốt. Cô ấy giúp đỡ tất cả mọi người. Miễn là họ đáng". Bà lại gật đầu và ra hiệu cho Emma đi theo mình.
Gác xép quả là bé, nhưng đồ đạc của nó gọn ghẽ, gồm một giường đơn, một tủ áo, một chậu rửa dưới cửa sổ nhỏ xíu, một cái tủ commốt, một cái ghế, và một bàn nhỏ. Nó cũng sạch như lau như li, Emma thoáng cái đã nhìn thấy ngay.
- "Cháu thuê nó", cô nói.
- "Ba shilling một tuần", bà Daniel nói để bảo vệ. "Có vẻ là nhiều, nhưng đó là cái giá tốt nhất tôi có thể cho cô".
- "Vâng, giá tốt". Emma đồng ý, và mở túi xách. Cô đếm tiền thuê nhà một tháng. Cô muốn chắc chắn là cô có một mái nhà trên đầu cho đến khi Blackie trở lại Leeds.
Bà Daniel nhìn số tiền Emma để trên bàn. Bà thấy ngay là cô gái đã trả trước cả một tháng. Bà không biết là bà có muốn cô ở đây lâu như thế không. Hầu như là ngược lại ý muốn của mình, bà cầm mười hai shilling lên và đút nó vào túi. "Cám ơn cô. Tôi sẽ mang vali của cô lên".
- "Ồ, không, xin bà đừng phiền. Để cháu mang...". Emma nói - "Không có gì là phiền cả". Bà Daniel nói trong khi đã bước thình thịch xuống gác. Bà quay trở lại hầu như ngay lập tức cùng với chiếc vali và để nó bên trong gác. Bà nhận ra nó được làm bằng da thật, và thực ra thì bà đã xem xét nó kỹ lưỡng và một ý nghĩ nữa đến với bà trong khi bà leo lên những bậc cầu thang. Bà nhìn Emma dữ tợn và nói. "Còn một điều tôi quên chưa nói với cô. Vì tôi chỉ có thể trông nom được hai phòng của hai quí ông thôi, nên cô sẽ phải dọn giường lấy và lau gác". Đôi mắt bà lướt nhìn Emma đang đứng trước mặt, cao đẹp và thanh lịch quá. Mắt bà nheo lại. "Tôi trông như là cô đã từng sống cuộc đời của một thiếu nữ quí tộc, một cuộc sống thoải mái từ khi cô sanh ra đời, nếu cô không phiền tôi nói điều đó. Cô có biết làm công việc nhà không?".
Emma mặt nhìn thẳng: "Cháu có thể học được dễ dàng." Cô nói, không dám nói thêm gì nữa vì sợ sẽ bật cười lên mất.
- "Tôi mừng khi nghe cô nói thế". Bà chủ nhà nói buột. "Và nữa, tôi không cung cấp thức ăn đâu. Khi chỉ có ba shilling một tuần, với giá cả như hiện nay". Bà Daniel tiếp tục quan sát cô gái yên lặng, một vầng hào quang bình tĩnh và tự trọng bao quanh con người cô, và vì một lý do gì đó bà không thể biết được, bà nói thêm, "nhưng cô có thể dùng bếp của tôi nếu cô muốn, miễn là dùng xong thì lau chùi nó. Và tôi sẽ tìm một chỗ trong một chiếc chạn cô có thể để thức ăn vào đó".
- "Cám ơn bà", Emma nói, xuýt nữa thì nghẹn lại vì cười - "Vâng, xin phép bà, bà Harte, để bà nghĩ". Bà Daniel gật đầu thân mật hơn và khép cửa.
Emma lấy tay bưng miệng, tai lắng nghe tiếng bước chân thình thịch của bà Daniel bước xuống cho đến khi nó tắt hẳn. Cô chạy băng qua gian gác xép, úp mặt vào gối, bây giờ cho phép mình cười không thể nín nổi cho đến khi nước mắt tràn xuống hai má. Tôi có biết làm công việc nhà không! Cô cứ suy nghĩ mãi và một chuỗi cười mới lại bắt đầu nổi lên. Nhưng cuối cùng cơn vui của cô lắng xuống, cô ngồi dậy lau mắt. Cô tháo đôi găng tay ra. Cô nhìn xuống đôi tay mình và cười thích thú. Chúng không đỏ ửng lên vì làm việc như nó vốn có, nhưng chúng chẳng thể là bàn tay của một tiểu thư. Chưa, có lẽ cứ đeo găng cả ngày, cô nghĩ, chứ không tay mình có thể làm lộ tung tích của mình mất.
Emma lúc này đứng lên và đi về phía chậu rửa tay. Cô nhìn hình bóng mình trong chiếc gương treo. Chiếc áo dài đen và cái mũ màu kem là của thải từ tủ quần áo của Olivia và chất lượng của nó thì không còn chê vào đâu được nữa. Việc bắt chước tỉ mỉ giọng nói của Olivia không phải là việc khó làm một khi cô đã bắt đầu giọng nói như thế. Sự thật thì nói kiểu quý tộc đã trở thành hết sức tự nhiên đối với cô, bởi vì cô có cái tai tốt và đã thực tập với Edwin. Anh thợ hàn cùng với bà vợ digan của anh, Rosie, bà Daniel, tất cả đều tin rằng cô là một thiếu nữ con nhà gia thế, nhưng bị sa sút. Và điều ấy chẳng phải là tình cờ. Đó chính là cảm giác mà cô cố gắng tạo ra và hy vọng thiết lập được ngay điều ấy.
Trước khi dời Fairley, Emma quyết tâm ở Leeds và cô có ý định tiếp tục trở thành một bà lớn. Và là một người giàu có. Cô lại mỉm cười, nhưng bây giờ nụ cười cay độc và đôi mắt cô đen lại vì tính toán, trong một giây lát, nó rắn lại như kim cương, quá giống kim cương. Cô sẽ cho nhà Feli biết, nhưng, cô không thể triền miên vào chuyện đó lúc này. Thời giờ của cô là quý giá, nó phải hoạch định một cách thật chính xác và sử dụng một cách triệt để. Phải tính từng phút một. Cô sẽ làm việc mười tám tiếng một ngày, bảy ngày một tuần nếu cần thiết, để đạt được mục đích của mình... Để trở thành người đàn bà đích thực.
Cô đột ngột quay đi khỏi gương, tháo mũ ra, đặt nó lên tủ và vội vã tới giường. Emma kinh sợ bẫn thỉu điều đó như một nổi ám ảnh, và trong khi căn phòng tỏ ra sạch sẽ như lau như li, cô buộc phải xem chiếc khăn trải giường. Mảnh chăn cũ nhưng chưa sờn rách. Cô lột nó ra nhìn vào tấm chăn trải với đôi mắt tinh tường của mình. Chúng không mới, sự thật, nó được mạng gọn gàng ở nhiều chỗ, nhưng nó không có một vết bẩn nào và mới được giặt là. Để chiều lòng mình hoàn toàn, cô lột mọi thứ ra, xem xét tỉ mỉ, lật qua lật lại và với một tiếng thở dài mãn nguyện, cô làm lại giường nhanh với tài khéo léo thường nhật của cô.
Mặc dù rất mệt, cô vẫn mở vali, xếp đặt quần áo của cô gọn gàng vào trong tủ áo và commết. Trong ngăn kéo cuối, cô tìm thấy hai chiếc khăn mặt sạch. Khi cô lấy khăn ra, mắt cô nhìn thấy mấy quyển sách nằm trong ngăn kéo. Trí tò mò của cô được khơi dậy, cô cầm một cuốn lớn. Đó là tập thơ William Blake bọc bằng da đen thẳm và những bản in khác minh hoạ rất đẹp. Cô mở sách ra và nhìn vào tờ để trắng ở đầu sách. Cô chầm chậm đọc to: "Albert H. Daniel. Sách của ông ấy". Cô để cuốn sách lại và nhìn những cuốn sách khác cũng được đóng rất đắt tiền. Miệng cô nhẩm đọc những tên không quen: Spinoza, Plato, Aréstotle. Cô xếp cả lại một cách cẩn thận trong ngăn kéo, tự hỏi không hiểu Albert H.Daniel là ai, cô nghĩ Frank mà đọc được những cuốn sách này chắc nó thích lắm.
Frank, bé Frankie. Cô nín thở và ngồi nặng nề, tim cô đập rộn ràng. Cô nghĩ đến cha, lòng tràn đầy một nỗi buồn nhuốm một điều mong mỏi da diết và rồi một cảm giác tội lỗi ào ạt tới làm cho cô yếu và bạc nhược hẳn đi. Cô rũ người xuống trong ghế. Buổi sáng hôm ấy, cô đã để lại cho ông một mãnh giấy nói là cô đã đi Bradford tìm một chỗ làm tốt hơn tại một gia đình lớn. Cô đã giải thích là cô để dành được một số tiền đủ cho cô trong vài tuần. Cô đã bảo ông đừng lo và hứa sẽ quay lại ngay, nếu cô không tìm được chỗ thích hợp, cô còn viết thêm là nếu cô may mắn tìm được một chỗ làm tốt cô sẽ viết cho ông địa chỉ của cô.
"Và mình sẽ viết gì đây? " Cô tự hỏi một cách lo âu. Cô không biết. VÀ còn nhiều thứ quan trọng hơn để nghĩ trong mấy ngày tới "sống". Điều đó là trên hết.
Emma ở Leeds gần một tuần rồi mà vẫn chưa tìm được việc làm. Bốn ngày qua cô đã đến từng cửa hiệu ở Bridggate và những phố lân cận, tìm bất cứ công việc gì dù là ti tiện nhất. Nhưng cô ngày một buồn bã và hốt hoảng vì không có một cánh cửa nào mở ra cả. Kiên trì, từ sáng sớm cho đến tối mịt, cô lê bước trên các vỉa hè, những vỉa hè mà Blackie đã nói là lát vàng, nhưng cô thấy nó dường như mỗi phút một rắn hơn và bụi bặm hơn.
Trong bốn ngày ấy, Emma đã biết được rất rõ những khu trung tâm của thành phố, nhờ cô có một trí nhớ rất tốt và xác định được phương hướng. Mặc dù thỉnh thoảng cô bị một nỗi lo ngại ghê gớm sập tới. Cô thấy Leeds thật hấp dẫn, sôi nổi. Cô cũng phát hiện ra, trước sự ngạc nhiên vô cùng to lớn của mình, cô không hề sợ cái thành phố khổng lồ này, năm trước Blackie mô tả tỉ mỉ. Những tòa nhà đồ sộ, với kích thước không thể tin được cứ sừng sũng cao vút. Vào sáng thứ hai, không nao núng cô dũng cảm đi ra từ ngôi nhà trọ của bà Daniel cô quyết tâm đi tìm việc. Cô mau chóng thích nghi với chung quanh vì khung cảnh rất dễ gieo kinh hoàng cho một người tính cách thiếu mạnh mẽ. Emma nhìn thấy ở những kiến trúc khổng lồ này tính chất thực sự của nó: những cơ sở của công nghiệp, và tiến bộ, biểu tượng của tiền và của quyền lực không thể tránh được. VÀ trái tim khiên cường bao giờ cũng đập nhanh hơn trước những cơ hội mà cô thấy. Trong đầu óc giàu trí tưởng tượng và đầy lạc quan của cô, lòng tham vọng bừng bừng như lửa đốt lại được củng cố. Emma thực lòng tin, bất cứ điều gì cũng có thể thực hiện được.
Cửa hàng, nhà máy, nhà kho, xưởng đúc sắc, nhà máy in, dinh thự cao vút trên đầu: những cấu trúc xám xịt lỗ chỗ và đen ám vì bụi bẩn của thàn phố, kỳ lạ thay nó lại nhắc cô nhớ tới vùng đồng hoang. Những đá nguyên khối để làm thương mại là không thể thay thế được, không thể chế ngự được và trường tồn. Vì cô đã hấp thụ được nguồn sức mạnh phi thường không thể giải thích được từ những cánh đồng hoang dại ấy thì bây giờ cô cũng hấp thục được sự cổ vũ và niềm hy vọng từ những tòa nhà cao vút in bóng nhìn lên chân trời thành Leeds, thành phố lớn thứ năm của Anh. Theo bản năng, cô nhận thấy rằng tương lai của cô nằm ở nơi này. Trong tuổi thanh xuân của mình, cô quyết định rằng nơi đây là một kho tài sản chưa được nói đến, cộng với một sức mạnh không gì có thể cưỡng lại mà cô hết sức mong mỏi nắm lấy, giữ lấy mãi trong đôi bàn tay nhỏ bé, nhưng ngoan cường của mình.
Sáng hôm nay, trong khi cô lê bước trên đường, Emma bất ngờ thấy mình đứng trước tòa thị chính Leeds và ngừng lại để ngắm nó, ngây người vì vẻ tráng lệ trang nghiêm của nó. Nhiều bậc rộng thênh thang dẫn lên mặt tiền phía Nam sừng sững nơi có bốn con sư tử bằng đá trắng, kích thước khổng lồ đứng gác ở cửa trước. Những cột kiến trúc Hy Lạp Corinthian cao vút lên đến chóng mặt. Đó là một tòa nhà vuông, phía trên là tháp kỳ lạ nhất được đỡ bằng những chiếc cột khác giống như những chiếc cột ở mặt tiền phía Nam, có đồng hồ ở bốn phía và ở chính tháp có vòm bát úp kỳ lạ. Đây là một tòa dinh thự đồ sộ màu đen theo kiểu thời Victoria, lấy kiến trúc Gothic làm nguồn cảm hứng, nhưng nó không hề xấu. Emma cho rằng bề ngoài của nó rất đẹp mà còn duyên dáng uyển chuyển nữa và không còn nghi ngờ gì, đây là nơi đáng ngạc nhiên nhất cô nhìn thấy ở Leeds cho đến nay. Cô há hốc miệng nhìn, đôi mắt cô loé lên kinh ngạc. Emma không thể nào biết được rằng kiến trúc sư của nó, Cuthbert Broderick cũng đã từng đắm say với tiền và quyền lực. Tòa thị chính của ông do Nữ hoàng Victoria khánh thành năm 1858 chính là sự thể hiện tối hậu của lòng say đắm ấy. Tuy nhiên, với sự mẫn cảm hiếm có của mình, Emma hiểu được trực giác rằng đây là sự nhân cách hóa của toàn thành phố. Khi cô tiếp tục ngắm nhìn tòa thị chính, một ý tưởng rõ rệt và thôi thúc nhất đến với cô. Thành phố này hoặc có thể chinh phục mình, hoặc mình có thể chinh phục nó. Với lòng tự tin thường lệ của mình, cô quyết dịnh ngay tức thời, không hề do dự chút nào, rằng cô sẽ phải chinh phục nó.
Emma bước đi khỏi tòa thị chính, cô ngước nhìn lên những kiến trúc khác và suy nghĩ. Rốt cuộc, chúng chỉ là những tòa nhà, đầy những con người giống như người. Cô lập tức tự chữa lại. Không, không phải như người Emma Harte. Người khác. Và người sẽ rất khác. Rồi một ngày nào đó, người sẽ trở thành một người quan trọng. Cô tin tưởng vào một cách mê cuồng, và điều này đã nâng đỡ cô, củng cố lòng dũng cảm và thúc đẩy cô tiến lên.
Cô vào thêm một vài cửa hàng nữa, nhưng vẫn được người ta trả lời cùng một câu nhiều lần - không có chỗ trống. Thở dài một mình, cô bước dọc theo đường Bear, thỉnh thoảng dừng lại nhìn vào một vài cửa sổ, cô bị mê hoặc vì những hàng lụa là trưng bày, áo và mũ, giày, túi, đồ trang sức, đồ gỗ, vật trang trí, cũng như nhiều vật dụng khác và các xa xí phẩm. Và trong khi cô ngắm nhìn những cơ sở kinh doanh đó, kế hoạch lập nghiệp với chữ K hoa của cô bắt đầu vận hành. Tuy luôn luôn là một ý nghĩ mạnh mẽ, nhưng cho đến lúc này nó vẫn còn mơ hồ, bàng bạc, không xác định. Giờ đây đột nhiên, cô biết một cách chắc chắn cuối cùng cô sẽ thực hiện. - Kế hoạch với chữ K hoa. Cô sẽ có một cửa hàng. Cửa hàng của chính cô. Một cửa hàng bán những đồ thiết dụng mà mọi người cần trong đời sống hàng ngày của mình. Thế đó. Thương mại! Cô sẽ làm thương mại. Hiển nhiên, trước hết sẽ phải là một cửa hiệu nhỏ đã. Nhưng nó sẽ lớn lên. Cô chắc chắn như vậy. Cô trở nên hăng hái. Cô sẽ có một cửa hiệu, hai, có lẽ là ba, và cô sẽ giàu. Bị thôi thúc bởi ý nghĩ này, cô rảo bước, nung nấu quyết tâm. Đầu óc minh mẫn, sáng tạo và phong phú của cô hoạch định, sắp đặt phương án cho tương lai không hề biết mệt mỏi.
Leeds lúc ấy, và hiện vẫn còn là một thành phố mạnh mẽ, đầy sức sống. Đường phố trong ngày thứ sáu bận rộng này, như thường lệ, đầy người hối hả trong công việc của họ. Xe điện lọc cọc từ Corn Exchange đi tới mọi miền của thành phố và các ngoại ô lân cận. Những chiếc xe ngựa thanh lịch chở các quý bà lịch sự và các quý ông tới những nơi họ đến. Sự giàu có, tinh thần tự lập và độc lập, không theo lề thói, cái khôn khéo, sự cần cù của dân Yorkshire đặc hữu nó truyền một cách mạnh mẽ nhất cho Emma và cô bị nhiễm ngay lập tức. Nhịp điệu và sức mạnh của thành phố chỉ củng cố thêm những đặc tính vốn đã cố hữu trong cô, bởi vì nghị lực, với sự ngoan cường và nhiệt tình, ý chí kiên cường và lòng ham muốn mãnh liệt của cô, tuy không hay biết, nhưng cô chính là hiện thân của Leeds. Không còn nghi ngờ gì nữa, đây chính là chỗ cho cô. Cô luôn cảm thấy điều ấy và đúng là bây giờ thì cô tuyệt đối tin tưởng.
Cô kiên quyết đi tới chợ Leeds ở Kirkgate, một chợ khổng lồ có mái gồm nhiều quầy hàng đến không thể tưởng tượng nổi, bán đủ các loại hàng hóa - nồi niêu, xoong chảo, dụng cụ làm bếp, đồ sứ, vải vóc, quần áo, thức ăn mang đi, mua về nhà, hoặc ăn ngay ở đó, gồm cả lươn nấu đông, bánh patê, con trai, con sò, những xe đầy hoa quả, bánh ngọt, bánh táo. Cô dừng lại ở chỗ Mark và Spencer Penny, sự chú ý của cô hướng vào tấm biển: Đừng hỏi giá. Chỉ một penny thôi! Mắt cô lướt trên hàng hóa trưng bày rất dễ thấy, được sắp xếp theo từng loại và giá rất rẻ. Cô ghi nhớ những thông tin cần thiết ấy trong đầu, đôi mắt cô suy tư. Ý nghĩa về cái chợ penny ấy đơn giản, nhưng lại cực kỳ thông minh, cô tự nhủ như vậy. Emma đứng nấn ná lại một lúc, ngắm nghía hàng hóa gồm đủ tất cả mọi thứ, từ nến trắng và dụng cụ lau rửa đến đồ chơi, văn phòng phẩm, đồ kim chỉ vá may, rồi trong đầu vẫn còn lẩn quẩn với ý nghĩ về cái chợ đó, cô đi tiếp. Đã hai giờ trưa, cô thấy cái đói ngày một tăng đang gặm nhấm cô. Cô mua một đĩa ốc hương và trai ở quầy của người bán cá, rưới dấm và hạt tiêu rồi ăn bốc, lấy khăn mù xoa lau tay rồi đi về phố của Bắc, nơi có những cửa hàng cắt may. Sáng hôm ấy, một cô bán hàng ở cửa hàng áo dài ở Thorton Arcade đã gợi ý với cô là thử đến đấy xem sao. "Nhưng phải đi khi trời còn sáng. Chỗ ấy hơi nghịch đấy" cô gái đã căn dặn.
Đó là một ngày nóng bức oi ả. Bầu trời xám xịt, hình như không có chút không khí nào trong những đường phố nồm ẩm và đông đúc. Emma quạt quạt và mở cổ áo, chiếc áo vải bông màu xanh của cô. Cô cảm thấy nóng bức và ngột ngạt vì hơi nóng hầm hập bốc lên từng đợt ở vỉa hè. Cô tựa vào một tòa nhà trong bóng râm, và khi đã man mát một chút, cô lại tiếp tục di. "Cô phải tìm một công việc để sống cho đến khi sinh đứa bé. Sau đó, cô sẽ làm việc cả ngày lẫn đêm, nếu cần kiếm tiền cho cửa hiệu thứ nhất. Cô mỉm cười với một nỗi hân hoan phần nào xa lạ với cô. Đôi chân rã rời của cô bị lãng quên, sự mệt mỏi tan biến, cô bước đi vững vàng và tự tin, biết rằng mình sẽ thành công. Cô không còn con đường nào khác. Cô không thể thất bại được.
Chẳng bao lâu, theo lời chỉ dẫn của cô bán hàng, cô đang đi vào phố Cửa Bắc. Những cửa hàng thợ may thực tế là những xưởng nhỏ không quá khó tìm, tên của chúng được chỉ ra một cách rõ ràng ở bên ngoài. "Thử hỏi hiệu Cohen xem", một người ở xưởng thợ cuối gọi với theo: "Nó ở ngõ phụ, cuối phố Cửa Bắc ấy". Emma cảm ơn ông ta và đi. Cô tìm thấy cửa hiệu Cohen trong vòng một vài phút nhưng vẫn được người ta nói: "Xin lỗi, không còn chỗ đâu". Cô dừng lại ở cuối đường này, quay nhìn trở lại phố Cửa Bắc. Cô quyết định cứ đi thẳng cho tới khi tới đường York. Lúc này đã muộn, cô cảm thấy nên quay lại nhà bà Daniel càng sớm càng tốt. Tối nay cô sẽ nghĩ, sáng mai lại bắt đầu lại, tìm cái công việc quá khẩn thiết.
Vừa thở, Emma vừa tiếp tục đi lên phố. Đường phố được xây dựng khá dốc. Cô đã gần tới đỉnh thì bỗng cảm thấy một cái gì sắc đập vào bả vai mình và một hòn đá rơi xuống chân cô. Cô quay ngoắt lại, giật mình. Dưới phố hai thằng choai choai đầu bù tóc rối đang nhăn nhó với cô một cách ngây ngô. Cô giơ nắm đấm lên với chúng: "Đồ độc ác". Cô hét lên. Chúng cười ngặt nghẽo và nhặt một nắm đá. Sợ cứng người, cô lao chạy nhưng cô nhận thấy ngay rằng những hòn đá ấy không phải cho cô, không nhằm vào cô. Trước sự kinh hoàng của Emma, cô thấy hai đứa đang tấn công một ông trung niên bị trượt chân té ngã. Ông ta định đứng lên, nhưng lại lảo đảo rồi bị ném tới tấp, ông nép vào tường một toà nhà, cố gắng che đỡ khuôn mặt một cách vô vọng. Hai tên du đãng vừa ném vừa hò hét điên dại. Cái gói của người đàn ông đã lăn đi, kính ông ta rơi xuống đất. Emma nhìn thấy má ông bị một hòn đá ném trúng ướt đẫm máu.
Emma nổi giận và bất bình bởi sự độc ác bỉ ổi này, cô nhảy lên chạy xuống phố, cơn giận là một sức mạnh khủng khiếp trong người cô, mặt cô xám lại, không khoan nhượng.
- "Đi đi, không tao gọi cảnh sát bây giờ", cô hét lên, giơ nắm đấm. Trong cơn cuồng nộ, cô không còn biết sợ là gì nữa. - "Lũ tiểu yêu lưu manh" cô nói tiếp, giọng vang vang. "Nào có xéo ngay không, hay để tao gọi cảnh sát. Luật pháp biết cách đối xử với những loại như chúng mày, mà nó cũng không tử tế lắm đâu".
Hai đứa nhìn cô một cách xấc láo và thè lưỡi ra mặt làm trò khỉ, buông ra những lời đểu cáng, nhưng ít nhất chúng cũng không chú ý tới người đàn ông này nữa. Emma lúc nào cũng bất khuất, lúc này tức giận đến độ không gì có thể chiến thắng nổi cô. Cô nhặt một hòn đá lớn, đe doạ. "Phải dùng một liều thuốc của chính chúng mày chứ?". Cô vung cánh tay lên, chuẩn bị liệng hòn đá thì cô rất ngạc nhiên và nhẹ hẳn người, hai tên vẫy mũ và đi giật lùi những tiếng chửi thề của chúng vang lên. Emma chạy lại chỗ người đàn ông, người này đang chật vật đứng lên. Cô nắm lấy cánh tay, giúp ông đứng dậy. Ông là một người nhỏ bé, lanh lợi, gầy nhưng gân guốc. Tóc ông đen xoắn, đã bạc ở hai bên thái dương, đỉnh đầu hói, đường nét rõ rệt, đôi mắt đen sáng.
Emma thương cảm, cô săn sóc hỏi: "Thưa ngài, ngài có sao không?".
Ông lắc đầu, rút chiếc khăn mù xoa khỏi túi, lau máu ở mặt: "Không, tôi không sao cả", ông trả lời và chớp mắt. "Xin cảm ơn tiểu thư, Tiểu thư tốt quá". Ông lại chớp mắt, nhìn chăm chăm xuống đất. "Cô có thấy kính của tôi đâu không? Nó bị rơi trong cuộc đụng độ nho nhỏ bất hạnh vừa qua".
Emma tìm được kính của ông xem xét nó một cách cẩn thận rồi đưa cho ông, "Vâng, ít nhất nó cũng không bị vỡ", cô thông báo với nụ cười khích lệ.
Người đàn ông cảm ơn cô và đeo kính vào "Thế, tốt hơn nhiều rồi. Bây giờ tôi có thể nhìn được", ông nói.
Enmma cúi xuống, nhặt cái gói của ông lên, đó là một gói giấy lớn. Một ổ bánh mì đã rơi ra và lăn vào đất. Emma cầm lấy, thổi bụi và cố gắng lấy tay phủi cho sạch. "Không bẩn lắm", cô giải thích và đút ổ bánh mì vào túi giấy, trong túi còn có nhiều thứ khác và đưa cho ông.
Người đàn ông lấy một chiếc mũ chỏm đội lên đầu lúc này ông nhìn Emma một cách tư lự và ngày tỏ ra quan tâm. Giọng ông đầy lòng biết ơn khi ông nói: "Xin cảm ơn tiểu thư một lần nữa. Cô thật là dũng cảm đã bảo vệ tôi. Giải cứu tôi". Ông mỉm cười, ánh mắt đầy ân huệ. "Nhiều thanh niên cũng sẽ không can thiệp gì ở những vùng này đâu, nói gì tới một thiếu nữ như cô. VÂng, đúng thế, cô thật tốt bụng và đầy lòng dũng cảm. Cô đã làm một hành động tuyệt vời. Rất đáng khâm phục!" . Ông nhìn cô với nỗi thán phục không che giấu.
Mặc dù người đàn ông nói một thứ tiếng Anh chính xác nhất và phát âm các từ rõ ràng, nhưng Emma vẫn nhận ra giọng khác. Chắc hẳn ông ở vùng khác, chắc chắn như vậy, cô cau mặt nói: "Tại sao những thằng ghê tởm ấy lại ném ông?".
- "Bởi vì tôi là người Do Thái".
Emma thực sự không hiểu người Do Thái nghĩa là gì nhưng luôn luôn không muốn phơi bày sự dốt nát đối với bất cứ vấn đề gì, cô không để ý đến lời giải thích của ông, và nhắc lại: "Nhưng tại sao điều ấy lại làm chúng muốn ném đá ông".
Người đàn ông nhìn lại cô chăm chú: " Bởi vì người ta luôn luôn sợ cái người ta không biết, cái người ta k hông hiểu, cái không quen, cái khác với thường nhật và cái sợ ấy bao giờ cũng trở thành cái ghét. Sự căm ghét vô căn cứ không có ý nghĩa gì. Ở những miền này, người Do Thái bị căm ghét và làm nhục". Ông lắc đầu: " À, con người thật là lạ, phải thế không? Có một số người căm ghét mà không vì lý do gì cả. Họ chỉ ghét để mà ghét thôi. Họ không nhận ra rằng lòng căm ghét không có lý do chính đáng tất nhiên sẽ quay trở lại trong lòng họ và tiêu diệt họ. Vâng, cuối cùng tự nó sẽ phá hủy nó".
Những lời của ông, được nói lên hết sức buồn bã và không một chút oán thù, đâm vào óc của Emma quá sâu đậm đến nỗi cô cảm thấy đau nhói gần nơi tim. Lòng căm thù Edwin của cô là sai chăng? Không, một giọng nói nhỏ day dứt. Đây không phải là sự hằn thù không lý do, cái mà người đàn ông này có. Người có đầy đủ lý do để mà cảm thấy điều mình đang thấy. Edwin Fairley, phản phúc và hắn đã phản bội cô. Cô hắng giọng rồi khẽ nắm lấy cánh tay người đàn ông. "Cháu lấy làm buồn cười người ta ghét ông và cố làm tổn thương ông. Thật là khủng khiếp, ông phải sống với một... một..." cô ngừng lại để đi tìm một chữ thích hợp.
- "Sự ngược đãi", người đàn ông nói hộ. Đôi mắt đen cảu ông thoáng một nỗi buồn day dứt xưa cũ. Thế rồi một nụ cười hé và rầu rĩ thoáng trên khoé miệng đại lượng của ông. "À, nhưng một chút xôn xao nhẹ nhỏ không có lý gì so với những ran rã xảy ra. Khi những tên lưu manh côn đồ hoành hành, chúng trở nên hết sức hung tợn, nhẫn tâm. Tấn công chúng tôi và nhà của chúng tôi. Chúng tôi không chỉ chịu đựng sự nhạo báng mà còn cả sự đánh đập, cửa sổ bị phá vỡ và rất nhiều sự tàn ác". Ông lắc đầu một cách mệt mỏi rồi bỗng mặt ông rạng rỡ lên. "Nhưng đây không phải là vấn đề chính của cô, thưa tiểu thơ. Tôi không được làm phiền cô với những chuyện đó".
Emma kinh sợ và bối rối những điều ông nói, cô cũng hết sức ngạc nhiên vì sự chấp nhận bình tĩnh lạ lùng một tình huống khủng khiếp đến như vậy. "Nhưng cớm cảnh sát... không làm gì để ngăn chặn họ sao?". Cô kêu lên, giọng cô đanh lại một cách không bình thường vì giận dữ.
Người đàn ông cười gượng: "Thực sự là không. Thỉnh thoảng họ cũng cố gắng ngăn chặn, nhưng nói chung họ ngoảnh mặt làm ngơ. Ngày nay, thời buổi này, Leeds không phải là một thành phố tôn trọng pháp luật cho lắm. Tự bảo vệ lấy mình là cách tốt nhất chúng tôi có thể làm được. Giữ cho riêng mình. Tiếp tục công việc làm ăn một cách lặng lẽ. Tránh đối đầu có thể dễ dàng gây ra những sự kiện nguy hiểm". Ông ngày càng nhận thấy vẻ hốt hoảng trong con mắt của cô gái và cả nỗi bàng hoàng hằn trên mặt cô, một ý nghĩ đột ngột đến với ông và ông nói: "Cô không biết một người Do Thái là thế nào, có phải không, thưa tiểu thu?".
- "Không rõ ràng lắm". Emma nói cô ngập ngừng, rõ ràng là xấu hổ vì sự không hay biết của mình.
Quan sát sự bối rối của cô, người đàn ông nói nhẹ nhàng.
- "Cô có muốn biết không?".
- "Có, thưa ông. Cháu muốn biết nhiều thứ".
- "Vậy tôi sẽ nói cho cô biết". Ông tuyên bố với nụ cười dịu dàng. Do Thái là một dân tộc gốc từ người Hoebrew và người Israel từ những bộ lạc của Israel. Tôn giáo của chúng tôi gọi là Do Thái giáo. Nó được thành lập dựa trên Cựu ước và Torah". Emma lắng nghe chăm chú và người đàn ông thấy sự quan tâm ngày càng gia tăng trên mặt cô gái, sự thông minh trong con mắt đẹp của cô. Ông cũng thấy được thái độ thiện cảm của cô vì vậy ông tiếp tục một cách kiên nhẫn. "Cô có thuộc kinh thánh của cô không tiểu thư?".
- "Một ít", Emma nói.
- "Vậy thì có lẽ, cô đã đọc cuốn sách của Sư Dicu. Cô chắc phải biết Thập giới?". Cô gật đầu, ông nói tiếp: "Thập giới được Meses ( Theo cựu ước, nhà tiên tri Hebrew dẫn người Israel ra khỏi Ai Cập tới miền đất húa và trao cho họ các luật) trao cho dân tộc chúng tôi, khi Người dẫn chúng tôi khỏi Ai Cập và tạo nên dân tộc Do Thái. Chính Thiên chúa giáo cũng dựa trên Do Thái giáo. Cô có biết điều ấy không?".
Mặc dù không thích tỏ ra ngu dốt, Emma phải nói sự thật: "Không, cháu không biết".
Đôi mắt đen và sáng của người đàn ông tìm đôi mắt cô một cách suy tư. "Jesus Christ là một người Do Thái và cả Jesus cũng bị hành quyết". Ông thở dài, đó là một tiếng thở dài và mệt mỏi. "Tôi nghĩ rằng người Do Thái chúng tôi hình như lại đối với một số người, bởi vì phong tục và luật ăn kiêng cả hình thức tôn thờ cuả chúng tôi không giống cách của những người không phải là Do Thái". Ông mỉm cười một mình và nhận xét khẽ hầu như là một tiếng thì thào: "Nhưng cuối cùng có lẽ chúng tôi cũng không khác lắm, nếu chịu khó suy nghĩ một chút".
- Tất nhiên các ông không khác! Nhưng con người có thể ngu muội và dốt nát". Emma thốt lên như hăm hở, nhận ra ý nghĩa những điều ông nói và ngay lập tức so sánh sự khác biệt giai cấp ghê tởm ở nước Anh cùng đem tới sự tàn ác, sự bất công khủng khiếp. Cô liếc nhìn thật nhanh: - "Vậy là ông từ đất nước của những người Do Thái đến, phải không thưa ông?". Cô hỏi, nghĩ tới giọng nói tiếng Anh cuả ông. - "Không, không phải, thưa cô, những người Do Thái rải rác khắp thế giới từ nhiều thế kỷ. Tới Tây BAn Nha, Đức, Nga, BA Lan, và nhiều nước khác nữa. Bản thân tôi từ Kiev, Nga tới. Hầu hết người Do Thái ở Leeds là từ Nga hoặc từ Ba Lan tới. Chúng tôi tới đây để tránh sự khủng bố của những cuộc tàn sát. Tôi đã trải qua lễ rửa tội trong lửa ở chính quê hương tôi và như vậy ở đây dù cho sự việc đôi lúc có khó khăn, nhưng nó cũng không khủng khiếp như ở Nga. Ở nước Anh tốt. Lạy Chúa, chúng tôi có tự do ở đây".
Ông già để ý thấy những lời nói của ông nói một cách nghiêm chỉnh, với tất cả sự kiên nhẫn và một ý nghĩ nữa chợt đến với ông: "Chắc cô không phải là người ở Leeds, nếu không hẳn cô sẽ biết rằng ở đây có nhiều người Do Thái lưu vong như tôi và chúng tôi bị hầu hết mọi người ghét bỏ".
- "Cháu không biết", Emma nói, cô nói thêm: "Cháu từ Ripon tới".
- "À, vùng nông thôn. Điều ấy cắt nghĩa vì sao!". Ông cười một mình và đôi mắt buồn của ông bất chợt ánh lên. "Vâng, thưa tiểu thư, tôi sẽ không giữ tiểu thư lâu hơn với bài diễn thuyết của tôi về người Do Thái. Xin hết sức cám ơn cô một lần nữa. Cầu Chúa, lòng lành ban phúc và che chở cho cô suốt đời".
Người đàn ông nghiêng đầu một cách lễ độ và bước đi. Tuy nhiên, chỉ được một vài bước ông loạng choạng và lảo đảo tựa vào tường, tay ôm ngực. Emma chạy ngay lại: "Ông có làm sao không?". Cô để ý thấy mặt ông lúc này trắng bệch, môi ông tím lại, mồ hôi vã ra trên trán.
- "Vâng, tôi vẫn hoàn toàn khoẻ". Ông trả lời, giọng nghẹn lại để thở. Một lát sau, ông thì thào: "Chỉ một thoáng thôi. Có thể, bị khó tiêu".
Emma thấy ông có vẻ mệt lắm và không thoải mái một chút nào: "Ông sống cách đây có xa không ạ?". Cô hỏi gấp: "Cháu sẽ đưa ông về nhà".
- "Không! Không! Cô đã làm cho tôi đủ rồi. xin cô, xin cô. Tôi không sao đâu. Cô đừng lo".
- "Ông sống ở đâu?". Emma khăng khăng.
- "Ở phố Hoàng gia". Ông không thể nén nụ cười trong nỗi đau. "Một cái tên bất hạnh nhất cho cái phố nhỏ nghèo khổ đó, xét tới việc nó chẳng Hoàng gia một tí nào hiểu theo mọi khía cạnh của chữ đó. Nó ở Leylands, cách đây chỉ mười phút."
Emma thót tim, khi nghe tới khu này, vì cô đã nghe nói nó nguy hiểm, cái khu người nghèo, tuy nhiên cô vẫn giữ nét mặt bình tĩnh và cố gắng tỏ ra không xao xuyến. "Nào, cháu sẽ đưa ông về. Cháu nghĩ ông không được khoẻ chút nào, vả lại ông cũng cần cháu che chở bảo vệ ông chống lại cuộc tấn công nữa". Cô nói. Người đàn ông hoàn toàn kinh ngạc trước sự lo toan và sẵn sàng giúp đỡ ông một lần nữa và vì không muốn phiền hà, ông cố gắng tạ từ, nhưng mặc dù sự phản đối của ông, Emma vẫn làm chủ tình thế. Nắm chặt lấy chiếc túi, cô đỡ lấy cái nón của ông, nắm lấy cánh tay ông và hai người chầm chậm đi lên phố.
Cơn đau ngực dữ dội của người đàn ông giảm đi, hơi thở của ông đã khá, ông bắt đầu cảm thấy dễ chịu hơn. Ông nhìn kỹ cô gái đã quá tốt với ông, giúp đỡ ông một cách hào phóng. Ông chưa bao giờ nhận được một sự tử tế như vậy của một người lạ. Ông ho, cố dằn nỗi xúc động, nói nhẹ nhàng: "Cô thật chu đáo và tử tế quá. Tôi thật hết sức cám ơn". Ông dừng lại, đưa tay ra: "Tên tôi là Abraham Kallinski. Tôi có vinh dự được biết tên cô không?".
Emma kẹp gói đồ dưới cánh tay và nắm lấy bàn tay ông: "Cháu là Emma Harte". Ông nhận thấy chiếc nhẫn bạc ở bàn tay trái của cô. "Bà Harte?", Emma gật đầu nhưng không làm sáng tỏ thêm. Vốn là người lịch sự, văn minh, Abraham tôn trọng chuyện riêng tư của người khác và vì thế ông kìm không hỏi thêm gì nữa.
Họ bước những bước vững vàng và đều đặn, Emma đỡ khuỷu tay Abraham, trong khi đi, ông kể cho cô nghe thêm về mình, bởi vì ông là một người sống theo bầy, cởi mở và thẳng thắn. Emma với đầy óc ham học hỏi, lắng nghe ông hết sức chăm chú. Chẳng bao lâu cô biết được rằng ông đã rời Kiev năm 1880, tìm đường tới Rotterdam rồi sau đó tới Hull, hải cảng lớn nhất ở Yorkshire. - "Giống như nhiều người Do Thái khác từ Nga và Ba Lan, tôi tới Leeds, định bụng đi Liverpool và từ đó sang Mỹ". Ông giải thích. "Tuy nhiên, tô phải ở lại đây một thời gian, đẻ kiếm tiền mua vé đi Mỹ. Nơi nào có người Do Thái, những người Do Thái khác sẽ tới và tôi đến Leylands liền, nơi hầu hết những người nhập cư sống, đi tìm một Landsman, nghĩa là một người của quê hương tôi, nói ngôn ngữ của tôi. Tôi dễ dàng tìm được công việc vì có tình đồng hương và lòng từ thiện giữa người Do Thái. Chúng tôi cố gắng giúp đỡ nhau". Ông cười khi nhớ lại: "À, nhưng lúc ấy tôi còn trẻ. Hai mươi tuổi. Khi tôi hai mươi mốt, tôi có may mắn gặp một thiếu nữ trẻ, người đã trở thành vợ tôi. Cô ấy sinh ở Leeds. Cha mẹ cô ấy đã chạy khỏi nước Nga nhiều năm trước đó. Và thưa bà Harte, như vậy là tôi ở Leeds. Cuối cùng tôi chẳng bao giờ đi Mỹ nữa. À, chúng ta tới nơi rồi". Ông khoát tay chỉ vùng chung quanh: "Đây là nơi tôi đã sống hai mươi lăm năm qua, mặc dù không phải lúc nào cũng ở một ngôi nhà".
Emma nhìn xung quanh, mắt cô đảo từ phía này sang phía khác với sự tò mò không che giấu khi họ đi vào Laylands. Đó là những phố chen chúc nhau, những sân tối tăm và những ngỏ xảo trá, nhà cửa túm tụm lại với nhau, y như thể chúng dựa vào nhau để tìm sự che chở. Emma trong lòng run sợ vì những dấu hiệu hiển nhiên của sự nghèo khổ và khôn cùng khi họ lần mò qua phố Byron vào trung tâm của khu Ghetto. Một nhóm trẻ con đi chân đất, quần áo vá đang chơi đùa giữa phố Hoàng gia, một vài người đàn ông vội vã về nhà, bước chân của họ có mục đích, đầu cúi, mắt nhìn lén lút. Họ là những con người trông lạ lùng, Emma nghĩ, với những bộ râu, những chiếc mũ tròn lớn và áo dài. Bề ngoài họ nhìn rất khác với ông Kallinski, ông này rất giống người Anh. Emma mỉm cười với ý nghĩ này khi vừa được biết ông sinh ở Nga.
Abraham Kallinski dừng trước một ngôi nhà ở cuối phố Hoàng gia. Trước sự ngạc nhiên của Emma, nó rộng hơn va lớn hơn những nhà khác một chút và được giữ gìn hết sức cẩn thận với những tấm rèm màu trắng hồ cứng ở cửa sổ, viền bằng khung gỗ. "Đây là nhà tôi". Ông nói, mặt ông đột nhiên sáng lên với một niềm vui khiến Emma cảm động. Hai vai ông ưỡn ra và một niềm tự hào trong giọng nói của ông.
- "Thế thì bây giờ ông an toàn rồi", Emma nói. Cháu thí nghe ông nói - thưa ông Kallinski. Nó hay lắm. Cháu mong ông cảm thấy khỏe hơn. Tạm biệt ông Kallinski. Cô đưa cho ông gói giấy của ông, nụ cười vẫn còn đọng trên môi.
Abraham Kallinski nhìn chằm chằm vào cô gái đáng yêu này, cái cô gái không phải Do Thái, con người đã giúp đỡ ông, đã dành quá nhiều thời gian và tình thương mến thật là hiếm hoi, ông giơ tay, nắm lấy cánh tay giữ cô lại. "Mời cô, mời cô vào chơi một chút. Tôi mong vợ tôi gặp lại bà Harte. Bà nhà tôi muốn cám ơn cô. Bà ấy sẽ rất biết ơn vì sự giúp đỡ cô đã dành cho tôi hôm nay thật là vô tư. Mời cô".
- "Ồ, thưa ông Kallinski, không cần phải như vậy đâu ạ. Và cháu phải đi thôi".
- "Xin mời cô, tí chút thôi", ông nài, đôi mắt ông dịu dàng và cầu khẩn. "Trời nóng. Cô mệt. Cho phép chúng tôi thể hiện một chút lòng hiếu khác. Một ly nước trà có lẽ một chút nghỉ ngơi".
Emma quả là thấy mệt và khát, nhưng cô không muốn vào. Hơn nữa, cô không thích cái ý nghĩ phải đi lang thang ở Leylands một mình, nhất là buổi chiều muộn. "Vâng, quả thực là cháu không nên". Emma nói do dự. Cô đang thèm một cốc nước.
Nhận thấy sự do dự của cô, Abraham Kallinski lúc này là người chủ động. Ông dẫn Emma đi về phía cửa và mở ra. "nào, chúng ta vào đi". Ông nài: "một chút giải khát sẽ làm cô khỏe mạnh".
Abraham Kallinski dẫn cô vào trong nhà mở thẳng sang một cái bếp lớn, Emma thấy hình như đây là một căn phòng để dùng trong mọi trường hợp. Người phụ nữ đứng ở bếp quay lại khi cửa mở. Mắt bà mở to: "Abraham! Abraham! Ông làm sao thế này", bà ta kêu lên và chạy qua phòng, cái muỗng đang du'ng vẫn nắm chặt trong tay. "Quần áo ông bẩn cả, mặt nữa kìa. Ôi Abraham, ông bị thương rồi!". Bà ta nắm lấy cánh tay ông, vẻ mặt bà đau khổ chen lẫn sợ hãi.
- "Kìa! Janessa, đừng cuống quít như thế", ông nói, giọng nhẹ nhàng nhất, ánh mắt ông âu yếm, bởi Abraham rất yêu vợ. "Anh không bị thương đâu. Quần áo hơi lôi thôi một chút. Một sự kiện nhỏ, thế thôi. Anh bị vấp ngã ở phố cửa Bắc và hai tên lưu manh ném đá vào anh. Em biết chúng rồi đó". Ông đưa Emma lên trước, tay ông đỡ khuỷu tay cô, "Janessa, đây là bà Harte, Emma Harte. Bà ấy đã giải cứu cho anh. Bà ấy đã làm chúng chạy cúp đuôi và đã đưa anh về nhà. Bà ấy tận tình với anh như vậy".
Jenassa Kallinski buông chiếc muỗng xuống, nắm lấy cả hai tay của Emma trong tay mình. "Tôi rất hân hạnh được gặp bà, bà Harte. Cám ơn bà! Cám ơn bà đã giúp chồng tôi! Bà thật đầy lòng từ thiện và dũng cảm. Chính bà cũng rất có thể bị thương lắm chứ". Bà mỉm cười với Emma, một nụ cười biết ơn chân thành và nó tiếp một giọng ấm áp nhiệt tình: "Mời bà vào đi. Bà ngồi xuống đây. Để tôi đi lấy giải khát cho bà. Trông bà có vẻ mệt và nóng".
- "Cháu cũng rất hân hạnh được gặp bà". Emma nói một cách lịch sự. "Và xin cảm ơn bà, bà Kallinski cháu xin một ly nước". Janessa dẫn Emma tới một chiếc ghế và ấn cô ngồi xuống. "Bà sẽ có ngay. Nhưng bà cũng phải dùng một cốc trà chanh với chúng tôi. Nào, mời bà hãy nghỉ ngơi".
Bà Kallinski mang nước trở lại một giây sau, Emma đón lấy, đột nhiên cô thấy nhẹ nhõm khi được ngồi sau một ngày dài lang thang các phố. Cô không nhận thức được một cách đầy đủ và cô bắt đầu cảm thấy mệt mỏi rả rời đến thế nào.
Abraham theo vợ tới phía bên kia bếp, nơi bà đang chuẩn bị bữa ăn chiều. Ông đưa cho vợ cái gói. "Đây là bánh mì chala, Janessa ạ. Anh sợ là nó rơi ở ngoài phố khi anh bị ngã, nhưng anh nghĩ là nó không bị gì". Đôi mắt ông long lanh. "Không bị bẹp nữa". Ông nhìn Emma. "Tôi xin lỗi một phút. Ông cưới đầu hết sức lịch sự và đi lên gác".
Đôi mắt Emma nhìn khắp gian bếp. Nó rộng vui mắt được kê đồ đạc quá đủ, một chiếc sôpha và nhiều ghế thoải mái, một tủ commốt, một chiếc bàn lớn chung quanh là sáu ghế. Bàn phủ khăn trải bàn trắng mới giặt óng ánh trong áng chiều tà được sắp xếp cho bốn người. Giấy dán tường hấp dẫn và cổ điển, tấm thảm trên bàn loại tốt cũng như các đồ đạc khác. Emma quan sát Janessa trong khi bà pha trà và rót đầy các cốc. Bà cao hơn chồng và thon gọn hơn, hình dáng hấp dẫn. Bộ mặt nước da mịn màng của bà trông ưa nhìn hơn là đẹp với những đường nét xlavơ, miệng bà đầy và mềm mại. Mái tóc đen thẳng, mượt chải hất về sau, búi lại, đôi mắt xanh to dưới đôi lông mày đen rõ nét. Bà mặc chiếc áo dài vải một vẻ chững chạc và vương giả. Emma đoán chắc là phải gần bốn mươi.
Ông Kallinski quay lại trong vòng vài phút. Ông đã phủi bụi khỏi quần, thay áo vét, chải tóc và nịt bên má bị bầm tím. Ông rửa tay ở chậu rửa rồi khẽ nói với vợ trước khi đi đến chỗ Emma. Janessa bê theo cái khay trà nhỏ. Bà đưa một ly cho Emma. "Tôi biết cái này sẽ làm bà khoẻ hơn là nước, bà Harte". Bà thì thầm và ngồi xuống đối diện với Emma.
Emma cám ơn bà và uống trà. Thật là ngon. Vị chanh và một lát chanh nổi ở trên, nó ngọt và nóng. Trước đây, chưa bao giờ Emma uống trà chanh, nhưng cô kìm mình không nói tới chuyện này, cô luôn muốn tỏ ra là có kinh nghiệm và là một thiếu nữ quý phái.
Bà Kallinski cũng chăm sóc chồng như thế. "Abraham, anh chắc là không sao chứ? Không bị nhức nhối chứ? Không bị đau ở ngực nữa chứ? Bà không thể che giấu nỗi lo lắng của mình.
Ông Kallinski liếc mắt nhìn ngăn chặn Emma, rồi nói nhanh:
- "Không, không! Không có chuyện đó, Janessa. Em đừng lo gì. Anh đã hoàn toàn khỏi rồi".
Janessa có vẻ ngờ vực, bà cau mày, nhưng làm ra vẻ chấp nhận lời nói của ông. Abraham nhấp nước trà rồi nhìn Emma.
- "Bà ở xa Leylands không, bà Harte".
- "Một đoạn đường thôi ạ. Ông có biết quán "Con vịt nhốp nhúa" ở đường York không? Emma hỏi, ông Kallinski gật đầu. "Vâng, cháu sống cách đó khoảng nửa tiếng đi bộ, cuối đường York, phía đối diện Leylands".
- "À, tôi hiểu". Ông Kallinski trả lời. Ông nhìn sát vào đồng hồ, "không ngờ lại muộn như thế. Khi các con trai của tôi về, chúng nó sắp về đến nơi rồi, tôi sẽ bảo chúng nó dẫn bà về. Cái khu này không an toàn khi để một thiếu nữ đi một mình".
Emma đã định khước từ lời đề nghị ấy, nhưng lập tức thấy điều đó có ý nghĩa. Cô không muốn bị nguy hiểm trong khu Ghêto và những khu lân cận, vì thế cô nói "Cám ơn ông. CHáu nghĩ đó là một ý kiến hay".
- "Đó là điều tối thiểu chúng tôi có thể làm". Bà Kallinski nói chen vào. "Chúng tôi không muốn chồng bà lo ngại về bà, có phải không ạ?". Rồi bà nói tiếp một cách phúc hậu. "Và chắc chắn bà nóng lòng muốn về để chuẩn bị buổi tối!".
Emma hắng giọng, không trả lời, luôn thận trọng không muốn thố lộ với người lạ, nhưng dưới cái nhà thân mến của bà Kallinski, cô nói: "Không, cháu không phải chuẩn bị bữa tối cho chồng cháu đâu. Anh ấy đang ở Hải quân Hoàng Gia. Khi anh ấy ấy ra biển như hiện nay, cháu sống một mình".
- "Một mình!". Bà Kallinski kêu lên, nỗi buồn làm mờ ánh sáng đục hiền trong mắt bà. "Bà không có gia đình gì sao?". Nghĩ tới cô gái trẻ này, bà vốn xuất thân từ một gia đình lớn, gắn bó và yêu thương nhau, một người luôn có mặt mà che chở và giúp đỡ lẫn nhau.
Emma lắc đầu: "Không, bà của chồng cháu vừa mới chết. Vợ chồng cháu không có họ hàng thân thích gì hết". Cô nhìn thấy nét buồn thương trên mặt bà Kallinski, cô vội nói thêm: "Tất nhiên ngoài hai người chúng cháu, nhưng cháu không sao đâu. Thật đó. Cháu sống trong một ngôi nhà trọ tốt ở một khu tử tế với một người đàn bà tốt đã cho cháu thuê phòng".
Hai vợ chồng ông bà Kallinski liếc nhìn nhau vẻ am hiểu, Abraham gật đầu trả lời câu hỏi không nói ra của vợ, bà vẫn thường trò chuyện với chồng bằng ánh mắt diễn cảm của mình. Bà Kallinski lúc này chắp hai tay vào nhau, nghiêng người về phía trước, khuông mặt rộng của bà ánh lên trong từ thiện. "nếu như bà không phải về nhà ngay, nếu như bà không có lý do gì khẩn cấp để về, mời bà ở lại ăn bữa tối Sabbath với chúng tôi. Được đón tiếp bà là niềm hân hạnh hết sức to lớn của chúng tôi".
- "Ồ, không, cháu không ở được thật ạ, cháu không ở được". Emma phản kháng. "Ông bà thật là tốt quá, nhưng cháu không ở được". Cô đỏ bừng mặt, tự hỏi không biết có phải ông bà Kallinski nghĩ cô đang cố gắng vờ khước từ lời mời ở lại.
- "Cám ơn ông bà. Ông bà tốt quá. Nhưng cháu không thể xâm phạm".
- "Vô lý", Abraham thốt lên: "Cô không xâm phạm. Trời ơi, sau tất cả những cái cô đã làm cho tôi hôm nay!". Ông đưa cả hai bàn tay lên, bàn tay ngửa ra, nâng lên nhiều lần và nói tiếp:
- "Làm sao chúng tôi có thể cám ơn cô cho đủ". Xin mời cô, ở lại dự bữa Sabbath với chúng tôi. Đuọc cô dự là một niềm vinh hạnh". Nhìn thấy vẻ bối rối trên mặt Emma, ông giải thích: "Ngày Sabbath của chúng tôi vào thứ bảy. Nó bắt đầu từ lúc mặt trời lặn thứ sáu lúc chúng tôi luôn luôn mừng sự mở đầu một ngày linh thiêng với bữa ăn ngày thứ sáu".
- "Thế ạ", Emma nói. Một ánh lo lắng thoáng hiện trong mắt cô, họ đi về phía chiếc đồng hồ trên mặt lò sưởi, Abraham nhìn theo ánh mắt cô và gật đầu. Ông hiểu ngay cô đang nghĩ gì. "Đừng lo! Đừng lo! Các con trai tôi sẽ đưa cô về sau bữa ăn". Giọng ông chắc chắn: "Đi với chúng, cô sẽ an toàn mặc dù trời tối".
- "Nhưng cháu..." Emma nói.
- "Thôi thế là xong, bà Harte". Janessa ngắt lời một cách duyên dáng, nhưng vẻ quyết định. "Trông bà có dáng mệt, rõ ràng vì chuyện rắc rối với lũ lưu manh. Thức ăn sẽ làm bà khỏe lại. Cho bà sức mạnh. Bà sẽ thấy ngon miệng". Bà nghiêng người và vỗ vỗ vào cánh tay Emma. "Chúng tôi có nhiều. Quá đủ cho một người thân, một vị khách danh dự. Xin bà cứ thoải mái và khi nào David và Victor về, cả hai con tôi sẽ đón tiếp bà. Và sẽ cám ơn bà vì đã giúp cha chúng ngày hôm nay. Vâng, chúng sẽ rất sung sướng vì có bà đến dự bữa ăn Sabbath".
Emma nhượng bộ trước những lời lẽ thuyết phục và tha thiết của bà Kallinski. Vả lại, cô cũng thấy đói và ở nhà bà Daniel chẳng có cái gì ngon miệng để ăn, những chiếc nồi sôi lục bục ở trên bếp lò toả mùi thơm đầy quyến rũ: "Cám ơn. Cháu sung sướng được dự, chừng nào nó không gây phiền phức".
- Ông bà Kallinski mừng rỡ, Janessa nhẩy lên, đi lướt về phía bếp lò để xem những chiếc chảo đang sôi. Bà vừa nhìn trong chảo vừa nói với Emma. "Tôi chắc, trước đây bà không bao giờ ăn đồ ăn Do Thái, nhưng rồi bà sẽ thích". Bà quay lại, tay cầm cái vung, gật đầu. "VÂng, tôi biết thế nào bà cũng thích. Trước hết chúng ta sẽ ăn xúp gà với những viên Matzo... nó giống như viên bột mằn thắn Yorkshire nhưng nhỏ hơn... sau đó là gà rán giòn vàng óng mỡ có cà rốt và các loại rau khác. Để kết thúc bữa ăn chúng ta sẽ ăn bánh mật ong và uống trà chanh. Vâng, rất ngon, bà sẽ thấy... " Jenessa ngừng lại giữa chừng và quay ngoắt lại. Cửa mở, nét mặt bà rạng lên niềm sung sướng và hãnh diện khi thấy hai con trai của bà vào nhà. Thấy Emma ngồi gần lò sưởi, cả hai đều dừng lại và nhìn cô với sự quan tâm và ngạc nhiên đáng kể.
- "David! Victor! Nào, hãy gặp vị khách của chúng ta đi. Một vị khách danh dự, bởi vì hôm nay bà ấy đã giúp cha các con ra khỏi khó khăn một cách đáng kính trọng nhất. MỘt cô gái tốt". Janessa nói và đặt lại vung lên chảo, bà lau tay vào khăn uống trà và vội vã đến gần hai con trai, kéo họ vào phòng. "Nào các con, đây là Emma Harte, bà Harte". Bà dẫn họ tới Emma, mặt bà rạng rỡ. "Đây là David", bà giới thiệu cậu cao hơn: "Còn đây là Victor". Hai cậu con nhà Kallinski bắt tay Emma, chúc mừng cô và cám ơn cô đã giúp đỡ cha họ. Họ đi qua phòng tới ghế sopha và cùng ngồi xuống.
David nói với Abraham trước, mắt cậu nheo lại khi cậu để ý thấy vết bầm tím trông rất rõ trên má cha, lúc này đã xưng lên: "Có chuyện gì vậy ba?". Cậu hỏi khẽ, thái độ cung kính nhưng ánh mắt dữ dội loé lên trong mắt cậu con trai, cậu cố gắng kiềm chế cơn giận bừng bừng. Cậu biết đó là việc làm của bọn quấy nhiễu người Do Thái.
Abraham chầm chậm giải thích sự việc, không bỏ sót một chi tiết nhỏ nhặt nhất và ca ngợi bằng những lời lẽ đẹp đẽ nhất về lòng dũng cảm của Emma đã lao vào. Trong khi ông nói, Emma nhìn hai cậu thanh niên một cách chăm chú, cố gắng đánh giá hai người.
David và Victor Kallinski khác nhau về mọi mặt như hai anh em có thể khác nhau. David, người anh, mười chín tuổi giống mẹ, thân hình chắc chắn. Cậu thừa hưởng đôi mắt xanh dễ thương của mẹ, mặc dù mắt cậu màu thẫm hơn, đẹp trai và cởi mở, xương to, vóc người lớn. Cậu cũng có mái tóc quăn đen và cũng thừa hưởng được tính tình cởi mở của cha, nhưng về thực chất, David Kallinski mạnh mẽ, sống động hơn Abraham. David là một người năng động, một người hoạt động, nhiều tham vọng, khôn ngoan và tháo vát. Nếu như có một chút cay độc nào trong đôi mắt xanh linh lợi của cậu thì nó lại thân mật của cậu. David thông minh, theo trực giác, hoàn toàn hướng vào một mục tiêu thành công. Và cậu biết quá rõ bản chất của con người vì thế cậu chỉ sống bằng một qui tắc, và chỉ một mà thôi... Sự tồn tại của những người có khả năng nhất. Cậu không chỉ có ý định tồn tại mà tồn tại trong sang trọng và giàu có.
Victor, mười sáu tuổi, giống như Gim, và trong chừng mực nào đó, cậu giống cha ở điểm này. Cậu có mái tóc đen thẳng, óng mượt của mẹ, ngoài ra về thể chất không thừa hưởng đựợc gì của cả hai người. Đôi mắt to của cậu dịu và màu hạt dẻ, mặt cậu nhẵn nhụi, dịu dàng, không có nét nào nổi bật, nhưng trông cậu ưa nhìn. Khuông mặt điềm đạm của cậu phản ứng tính cách của cậu, bởi vì Victor Kallinski là một cậu bé dịu dàng, suy tư, và đứng về một phương diện, tính nết cuả cậu giống cha cậu. Cũng như Abraham, Victor có sự nhẫn nại hết sức to lớn và nỗi thông cảm sâu sắc đối với sự yếu đuối của con người, một sự cảm thông qúa rõ rệt trong một con người còn ít tuổi như vậy. Cậu là một nhà tư tưởng và một người mơ mộng, cậu có tâm hồn của một nhà thơ. Victor sung sướng nhất khi cậu đọc sách một mình hoặc ngắm nhìn những bức hoạ lớn trong viện bảo tàng hay nghe âm nhạc của Mahler và Beethoven. Cậu bản tính e thẹn, nhút nhát, không dễ dàng bắt chuyện với mọi người, nhất là người lạ. Victor lén nhìn Emma dưới hàng lông đen, dài, một nụ cười lặng lẽ nơi khoé miệng, cậu nghĩ Emma phải là một cô gái đầy lòng trắc ẩn, và hành động của cô hôm nay càng tăng thêm niềm tin cố hữu của cậu, về bản chất con người là tốt. Giống như cha, Victor hoàn toàn không mang một chút hằn học nào.
David, người mạnh dạn hơn và tự tin hơn trong hai anh em nói với Emma trước: "Chị thật là gan dạ đã dám đứng lên chống lại lũ thanh niên ấy và giúp đỡ cha tôi. Mà chị thậm chí cũng không phải là người Do Thái nữa, phải không? ". Cậu nói với sự thẳng thắn thường lệ của mình. Đôi mắt xanh sắc sảo của cậu lướt qua cô, cậu có cảm tưởng tốt đẹp với hình ảnh của người ngồi đó, hai bàn tay bình tỉnh để trong lòng.
- "Không, tôi không phải là người Do THái", Emma nói.
- "Nhưng tôi không thấy sự khác biệt gì hết trong chuyện này. Tôi sẽ giúp đỡ bất cứ ai trong hoạn nạn, như cha anh bị người khác tấn công".
David gật đầu. "Tuy nhiên không phải nhiều người sẽ làm vậy đâu". Cậu định nhấn mạnh và tự hỏi không hiểu cô gái thanh lịch này làm gì ở vùng đó. Cậu mở miệng định hỏi thì Janessa nói: "Bà Harte, mời bà ra rửa tay, các cháu nó dọn dẹp rồi chúng ta sẽ ăn. Gần tối rồi đấy". Janessa đi lướt qua sân và xếp một chỗ nửa cho Emma ở bàn, bà loanh quanh ở đó cho đến khi Emma và hai cậu con đã rửa ráy xong.
Tất cả đều đứng quanh chiếc bàn lớn được sắp xếp gọn gàng sạch sẽ, bốn người nhà Kallinski và Emma. "Má thắp nến trước đi". David thì thầm. Emma đứng yên nhìn và chăm chú nghe lắng, ghi nhận tất cả mọi điều. Janessa thắp hai ngọn bạch lạp và lẩm nhẩm cầu nguyện bằng một ngôn ngữ lạ mà Emma không hiểu, rồi tất cả đều ngồi. David lịch sự kéo ghế cho Emma, còn Victor thì cho mẹ. Để ý thấy tất cả gia đình Kallinski đều cúi đầu, Emma cũng làm theo. Liếc mắt nhìn, cô thấy Abraham đang rót vang đỏ vào một chiếc tách nhỏ rồi cầu nguyện bằng một ngôn ngữ kỳ lạ mà cô không biết đó là tiếng Hebrew. Ông nhấp một ngụm rượu và đọc một bài kinh nữa trên ở bánh mì vặn thừng mà chính cô đã nhặt ở phố lên.
- "Ba tôi vừa đọc kinh kiddush ( lời cầu nguyện đặc biệt đọc trước bữa ăn ngày Sabbath và những ngày lẽ cầu phúc lành cho rượu vang và bánh mì) và bây giờ chúng ta có thể ăn, sau khi bẻ bánh". David thông báo cho cô biết. Bánh do Abraham bẻ và đưa vòng cho mọi người, Janessa mang những bát súp nóng nghi ngút, mùi thơm ngọt ngào tới bàn ăn và bữa ăn bắt đầu. Trong khi ăn, Emma thấy được sự hoà thuận và tình yêu thương vô bờ của mọi người torng gia đình. Cô bắt đầu thấy thoải mái. Bỏi vì cái không khí ấm cúng và tương đắc mà cô được tạo mọi sự thoải mái, được đón tiếp niềm nở, lòng cô tràn ngập sự biết ơn, cổ họng nghẹn lại vì nỗi xúc động. Và cô cứ suy nghĩ mãi: "Tại sao những người Do Thái lại bị ghét bỏ? Họ là những người dễ thương và dịu hiền, tốt bụng và chu đáo. Cái cách họ bị đối xử như vậy thật đáng ghê tởm. Và đây chính là điều Emma Harte cảm thấy suốt cuộc đời cô, kiên cường bảo vệ những người bạn Do Thái của mình, bao giờ cũng xúc động và đau đớn vì chủ nghĩa phân biệt chủng tộc trắng trợn ở Leeds trong nhiều năm như vậy, thứ bệnh tàn lụi cỏ cây.
Con gà rán cũng giống như món súp trước đó đuọc làm một cách hoàn hảo và ngon lành, lần đầu tiên từ khi cô rời Fairley, Emma cảm thấy vừa no vừa bổ béo. Cô nhận ra rằng cô đã ăn uống rất ít cả tuần lễ cô ở Leeds. Cô quyết định phải sữa chửa điều này, bởi vì cô cũng đủ khôn ngoan để hiểu rằng cô phải bồi bổ sức khỏe.
Câu chuyện rất rôm rả bên bàn ăn về nhiều vấn đề khác nhau làm hấp dẫn Emma, hầu hết câu chuyện do David lắm lời và người cha hơi ít lời hơn một chút tiến hành. Thỉnh thoảng Janessa đưa ra một vài lời bình luận trầm tĩnh, gật đầu đồng ý hoặc lắc đầu với Emma, luôn mỉm cười độ lượng, hài lòng được ở nhà với những người bà yêu, tắm trong tình thương tràn ngập chung quanh bà và không khí hội hè của bữa ăn. Victor hầu như không nói lời nào, nhưng thỉnh thoảng cậu mỉm cười với Emma, đôi mắt màu hạt dẻ dịu dàng và bẽn lẻn một cách thân thiện. Một lát sau khi đã mang bánh mật ong và trà, Janessa nhìn xuống Emma, đôi mắt bà xanh lấp lánh: "Tôi nghĩ bà thích món ăn Do Thái của chúng tôi, bà Harte".
Đôi mắt của Emma cùng nhày nhót: "Ồ, vâng, cháu thích lắm, thưa bà Kallinski. Thật là ngon. Và xin bà hãy gọi cháu là Emma". Đôi mắt cô lướt qua khắp bàn: "cháu thích mọi người gọi cháu là Emma". Gia đình Kallinski đều gật đầu và mỉm cười lại. "Chúng tôi rất lấy làm vinh dự". Abraham nói một cách hết sức lịch sự.
Họ đang uống trà thì mắt của David quay sang Emma đang ngồi bên cạnh cậu. Như những người khác, David đã nhận thấy vẻ có giáo dục, cách sử xự lễ độ, chất lượng của chiếc áo Emma đang mặc, vì mặc dù nó bằng vải bông nhưng nó được cắt rất đẹp. Cậu thấy tò mò về cô. Cậu nói: "Tôi không muốn thọc mạch hay thô lỗ, nhưng chị định làm cái gì ở phố Cửa bắc chiều nay?".
- "Cám ơn Chúa là chỉ đã ở đó, xin chị nhớ cho như vậy. Nhưng đó không phải là một chỗ tốt để cho người ta có thể đi dạo".
Emma nhìn đáp lại cái nhìn xoi mói đó một cách trong sáng "Tôi đang đi tìm việc". Cô nói một cách bình tĩnh.
Yên lặng hoàn toàn buông xuống, bốn cặp mắt nhà Kallinski chằm chằm nhìn cả vào Emma. Chính Janessa đã phá vỡ sự yên lặng ấy. "Một cô gái như cô. Đi tìm việc ở cái khu khủng khiếp đó!". Bà há hốc miệng, hoàn toàn choáng váng.
- "Vâng", Emma nói khẽ. Vì tất cả mọi người đều nhìn cô ngạc nhiên, cô cảm thấy cần phải giải thích, cô dựa vào câu chuyện cô đã bịa để kể cho Rosie và nhắc lại với bà Daniel và kết luận: "Tuần vừa qua cháu đã tới tất cả các cửa hàng trang sức ở Leeds để tìm một công việc bán hàng mà không có kết quả gì. Vì thế hôm nay cháu thử tìm vận may ở phố Cửa bắc tại những cửa hàng thợ may xem sao. Nhưng ở đó cháu cũng không tìm thấy gì cả. Cháu vừa ở cửa hàng Cohen ra và trên đường về nhà thì hai thằng nhỏ tấn công ông Kallinski:.
Ba cặp mắt gia đình Kallinski lập tức quay từ Emma sang phía Abraham và Jenessa lại nói: "Abraham! Abraham! Anh phải làm một điều gì đó cho Emma".
- "Tất nhiên anh phải làm và anh sẽ làm". Ông trả lời, mặt ngời sáng nhìn Emma ngồi bên cạnh ông. Ông vỗ cánh tay cô: "Cô không cần phải bận tâm về tìm việc nữa. Sáng thứ hai, đúng tám giờ, cô hãy tới xưởng thợ may của tôi và tôi sẽ cho cô một việc làm, Emma. Tôi chắc rằng tôi có thể tìm được một công việc thích hợp". Ông liếc nhìn David. "Con đồng ý không?".
- "Vâng", thưa ba. Chúng ta có thể để Emma thùa khuyết. Việc ấy không quá nặng". David trả lời.
Emma ngạc nhiên không nói nổi lên lời, nhưng cô nhanh chóng phục hồi. "Trời, cám ơn ông, ông Kallinski. Thật là tuyệt vời". Cô nhìn ông chăm chú. "Cháu học rất nhanh và cháu sẽ làm việc chăm chỉ". Cô ngừng và lắc đầu. "Cháu không biết là ông có xưởng thợ may".
Abraham cười: "Làm sao biết được? Nó ở phố Rockingham gần đường Camp. David sẽ ghi địa chỉ chính xác cho cô. Nó không phải là một cửa hiệu lớn lắm. Chúng tôi có khoảng hai mươi người. Nhưng công việc của chúng tôi làm gia công khá tốt". "Gia công là cái gì ạ?". Emma hỏi, lúng túng vì cái thành ngữ này, nhưng không bao giờ muốn tỏ ra là mình không hiểu.
Abraham mỉm một nụ cười kiểu cha chú. "À, tất nhiên cô không quen với thuật ngữ này, bởi vì cô không biết nghề thợ may. Nó nghĩa là chúng tôi làm cho những cửa hiệu bán quần áo may sẵn lớn hơn như cửa hiệu Barran và những cửa hiệu khác cũng như tất cả những cửa hiệu thợ may người Do Thái khác ở Leeds". Emma nói: "Vậy là bác may quần áo cho những cửa hiệu quần áo may sẵn lớn hơn và họ bán chúng. Có phải thế không ạ?".
- "Không hoàn toàn như vậy, nhưng để cho David giải thích. Nó là người sống, thở hít và ăn ngủ với nghề thợ may trong gia đình này".
David cười: "Không hoàn toàn như vậy, ba". Cậu ngả người trong ghế, hơi nghiêng về phía Emma. "Chúng tôi không hoàn toàn bộ comple. Chúng tôi gia công một bộ phận nào đó của bộ comple, có thể là cánh tay, hoặc vạt trước hoặc ve áo hoặc lưng áo, có khi là quần. Chúng tôi gia công bất cứ gì những nhà máy lớn quyết định cho chúng tôi từng tuần nhất định".
Emma, vẫn lanh lẹ tỉnh táo như bao giờ, cô nói: "Nhưng tại sao? Làm như vậy nghe có vẻ buồn cười. Như vậy nghe phải chăng phức tạp hơn là làm toàn một bộ comple ở một chỗ?".
David cười: "Không phải như vậy, lạ một điều là nó được tổ chức rất tốt. Nó cũng rẻ hơn và nhanh hơn. Những nhà chế tạo lớn có thể sản xuất được nhiều bộ comple hơn bằng cách sử dụng phương pháp này. Họ chỉ việc ghép tất cả những bộ phận khác nhau lại trong các nhà máy của họ. Ý kiến này là của một người thợ may người Do Thái tên là Herman Friend nghĩ ra. Nó đã cách mệnh hoá kỹ nghệ quần áo may sẵn và đã giúp đưa thành phố Leeds có tên trên bản đồ là một trung tâm quần áo may sẵn lớn nhất thế giới. Và kỹ nghệ này mỗi năm lại phát triển thêm vô cùng to lớn". Một ánh mắt hăm hở loé lên trong mắt cậu. "Xin nói để chị biết. Emma này, nghề may một ngày nào đó sẽ làm cho Leeds nổi tiếng hơn và giàu có không thể tưởng tượng nổi. ĐÚng như thế và tôi có ý định trở thành một bộ phận của nó".
- "Ý tưởng ngông cuồng của thằng con tôi", Abraham lẩm bẩm và lắc đầu, một ánh thiếu tin tưởng trong mắt ông.
Emma hết sức quan tâm như cô luôn luôn quan tâm khi nghe nhắc tới tiền à những ý kiến mới. Cái con người này, cái ông Herman Friend này có một xưởng thợ nhỏ và đang gia công cho nhà máy John Barran, những cửa hàng quần áo may sẵn đầu tiên ở Leeds sau Singer phát minh ra máy khâu. Đó là những cửa hàng lớn nhất và không phải là của người Do Thái. Friend phát minh ra phương pháp phân công lao động khi ông ta làm người bao thầu cho Barran, phân chia công việc may một bộ comple thành năm hoặc sáu công đoạn khác nhau. Điều này cũng có nghĩa là, Barran và những cửa hiệu quần áo may sẵn khác chấp nhận hệ thống này, có thể bán comple với những giá rẻ hơn. Nó đã làm cho giá của một bộ comple ở trong tầm với của một người công nhân. Friend bắt đầu giao việc cho những cửa hàng nhỏ người Do Thái và tất cả ý kiến đó nở rộ.
Emma nói: "Một ý kiến đơn giản, nhưng cũng giống như nhiều ý kiến đơn giản, nhưng rất thông minh".
David gật đầu đồng ý, hơi giật mình vì nhận xét này. Cậu càng ngạc nhiên hơn khi Emma nói tiếp: "giống như chợ Mark và Spencer Penny ở chợ Leeds. Nó cũng là một ý kiến hay. Để tất cả mọi hàng hoá ở những khu khác nhau, bày ra để mọi người đều có thể nhìn thấy một cách dễ dàng, xem xét chúng và tự phục vụ lấy. Và giá rất rẻ. David, anh có cho rằng như vậy là khôn ngoan không?".
- "Tất nhiên rồi". Cậu mỉm cười. "Chị có biết Michael Mark cũng là dân nhập cư Do Thái từ Ba Lan tới Leeds không? Ông bắt đầu bằng một quầy nhỏ ở chợ Leeds mười năm về trước. Vừa đây ông hùn vốn với Tom Spencer và bây giờ họ có các chợ penny ở khắp Leeds và đang phát triển sang những thành phố khác. Rồi nó sẽ phát triển ra cả nước. Rồi chị sẽ thấy".
Emma chằm chằm nhìn David, miệng cô hé mở vì ngạc nhiên phấn khích làm cho bộ mặt xanh xao của cô ửng hồng lên. Cô đã đúng, Leeds chính là nơi để người ta sinh cơ lập nghiệp. Lúc này cô mới nói: "Tôi tin rằng mọi thứ đều có thể thực hiện được nếu như mình có ý kiến tốt và chuẩn bị làm việc chăm chỉ".
- "Chị hoàn toàn đúng Emma". David trả lời. Cậu lao vào một câu chuyện làm ăn thành đạt khác, Emma nuốt lấy từng lời.
David và Emma có thể nói chuyện cả đêm được, và hai người đều đầy tham vọng, nghị lực và thật là lạ, cả hai đều có tầm nhìn rộng lớn đáng ngạc nhiên ở lứa tuổi của họ, họ đều nhận thấy như thế về trực giác và cả hai đều cuốn hút lại với nhau. Nhưng Abraham liếc nhìn đồng hồ chính vào lúc ấy ông nói: "Tôi nghĩ bây giờ đã đến giờ để hai cậu thanh niên đưa Emma về. Tôi cũng thích nói chuyện với Emma lắm, nhưng đã muộn rồi, và tôi không thích khi nghĩ là chúng ta đi ở ngoài phố lúc các cửa hàng đã đóng cửa. Nguy hiểm lắm".
- "Vâng, cháu phải về thôi", Emma nói và đẩy lùi ghế lại.
- "Nhưng trước hết là cháu phải giúp bà Kallinski dọn bàn và rửa bát dĩa".
- "Không, không cần đâu. Emma. Chồng tôi, ông nói đúng đấy. Các thanh niên phải đưa cô về ngay. David, con đừng quên viết địa chỉ xưởng thợ cho Emma, rồi con phải đi thôi". Janessa nói.
Emma cảm ơn lòng mến khách của ông bà Kallinski về bữa cơm ngon và hết sức cảm ơn về việc làm, nó quá cần thiết để cô có thể sống được. Cô hứa sẽ có mặt ở xưởng thợ đúng tám giờ sáng thứ hai và cẩn thận để tờ giấy vào túi xách.
Con đường trở về nhà bà Daniel tương đối dài, nhưng Emma cảm thấy an toàn với một bên là Victor yên lặng và một bên là David nói liên hồi. Họ không gặp bọn du côn nào ở phố và Emma thấy thời gian qua đi nhanh vì David nói đủ thứ chuyện, nhưng hầu hết là chuyện về may. Họ khăng khăng đòi đưa cô về tận cửa trước nhà bà Daniel. Trong ánh sáng đèn đường, David và Victor được chiếu lên rõ ràng, Emma nhìn từ Victor trang nghiêm đến David tươi vui và nghĩ: Họ khác nhau quá nhưng cả hai đều rất chân thật. Cô đưa tay ra cho Victor. Cảm ơn Victor đã đưa mình về. "Tạm biệt", cô nói.
Victor nắm chặt tay cô. "Chúc Emma ngủ ngon. Cám ơn chị đã giúp ba. Chị thật tốt bụng".
- "Phải, đúng thế". David thốt lên, cậu cầm tay Emma. "Hẹn gặp Emma sáng sớm thứ hai nhé. Chúc Emma ngủ ngon".
Hai anh em quay đi, khi cô đang tra khoá vào ổ thì David đứng sững rồi chạy lại: "Chúng ta nghĩ giống nhau, Emma". Cậu nói, giọng cậu tin tưởng vang lên trong yên tĩnh. - "Tôi biết chúng mình sẽ trở thành bạn của nhau. Bạn thân".
Nét mặt của Emma nghiêm trang, cô tin cậu. Cô gật đầu: "Tôi cũng nghỉ như vậy, David". Cậu mở cửa cho cô vào và khi cô đã vào nhà an toàn, cậu nhẹ nhàng chạy xuống những bậc thềm, đuổi theo Victor đang đứng đợi anh ở cuối phố.
Lúc ấy cậu chưa biết, nhưng David Kallinski đã nói lên lời tiên tri. Quả là họ giống nhau, vì cả hai đều quyết một ý chí đạt thành công. Và vào cái đêm nóng nực tháng tám năm 1905, một tình bạn đã bắt đầu và kéo dài trên nửa thế kỷ. Theo những cách riêng của mình, họ cùng leo lên, vật lộn thoát ra khỏi sự khốn cùng, chống lại mọi thành kiến, vươn tới những thứ lớn lao hơn và tốt đẹp hơn. Trong khi vươn lên, họ đem theo cả thành phố. Họ sẽ để lại dấu ấn trên thành Leeds, không chỉ bởi những thành tựu nổi bật của họ trong thương trường mà còn cả trong nhân đức của họ. Chính Emma Harte và David Kallinski cộng với nhóm người Do Thái và không Do Thái tận tuỵ, hăng hái, viễn kiến đã tạo nên sự vĩ đại của một thành phố.
Ngày qua, tuần qua, tháng tám đã bước sang tháng chín và rồi bỗng nhiên tháng chín cũng tan đi. Bây giờ đã là giữa tháng mười. Blackie vẫn chưa trở lại Leeds.
Emma luôn luôn tự hỏi không hiểu cái gì đã giữ anh lại Ailen lâu như thế. Lòng lo lắng khi cô một mình trong cô đơn ở căn xép nhỏ, cô hy vọng là anh không bị lôi thôi gì. Cô mong mỏi Blackie trở về bởi vì anh là người thân nhất với mình, anh có liên quan tới quá khứ của cô. Blackie O’Neill là sợi dây tình cảm duy nhất tới lai lịch của cô, tới gia đình người cô yêu thương và nhớ da diết. Nhưng chủ yếu nỗi lo lắng, thỉnh thoảng cô cảm thấy là sự quan tâm chân thành tới Blackie, chứ không phải cho bản thân cô, bởi vì cô không than thân trách phận. Và tự cô cũng có thể xoay xở tương đối ổn rồi. Cô có công ăn việc làm ở cửa hàng may của Kallinski và một căn phòng ở nhà bà Daniel, tuy những cái đó còn bấp bênh, chưa có gì là chắc chắn, nó cũng đã cho cô một mức độ an toàn nào đó để yên tâm.
Bà chủ nhà đã đỡ quàu quạu và ngày một thân mật hơn đã bất ngờ thông báo cho Emma rằng cô có thể tiếp tục ở căn phòng vô kỳ hạn. Con mắt sắc sảo của bà Daniel chỉ cần một thoáng đã nhận ra Emma là con người cẩn thận, thật thà, tự kiềm chế. Cô không giao du, chỉ gật đầu lễ phép với hai người đàn ông cùng trọ mỗi khi cô tình cờ gặp họ ở hành lang rồi vội vã lên phòng mình với tư thế đàng hoàng. Cô không phải là người gây rắc rối, bà Daniel thấy thế và đã nói với Emma: “Cô muốn ở đến bao lâu thì ở. Cô không gây phiền nhiễu gì hết, không một chút nào”, vừa nói, bộ mặt đau đớn của bà nở thành một nụ cười vui vẻ, bà đã vỗ vỗ vào tay Emma gần như trìu mến.
Emma kiếm được tiền tại cửa hiệu Kallinski đủ để sinh sống và điều quan trọng hơn cả là không phải ăn lẹm vào tiền để dành trước đây. Cô cẩn thận với tiền nong đến độ thanh đạm, chỉ tiêu khi cần thiết, đi bộ đến khắp mọi nơi mặc dù người mệt mỏi vì kiệt sức và chỉ cần đi xe điện. Nhưng dù tằn tiện, cô cũng vẫn mua những thức ăn bồi dưỡng. Cô cũng đủ lý trí để mà nhận ra là cô phải bồi bổ sức khỏe và bảo vệ năng lực của mình. Nếu cô lơ là về bản thân mình, cô rất có thể dễ dàng bị ốm và không thể làm việc được. Ý nghĩ ấy làm cô kinh sợ. Cuối cùng còn phải nghĩ tới đứa bé nữa.
Công việc ở xưởng thợ khiến cô bận từ tám giờ sáng đến sáu giờ, đôi khi là bảy giờ tối. Emma thực sự thích làm ở đó và đã làm như vậy từ ngày đầu. Abraham Kallinski điều hành cửa hàng thợ may ở phố Rockingham của ông một cách có hiệu quả, nhưng ông không phải là một kẻ bạo ngược và bởi vì ông công bằng cho nên không ai nghĩ đến việc lạm dụng lòng tốt của ông. Các công nhân không cần phải ghi giờ đến làm và không có những luật lệ khắc nghiệt về thời gian nói chuyện phiếm hoặc kéo dài thời gian để uống trà hoặc ăn trưa. Những người làm công được trả theo sản phẩm và tùy họ muốn kiếm bao nhiêu cũng được, miễn là Abraham có thể thực hiện quần áo may sẵn kịp thời hạn là ông hài lòng và ông không tin ở chuyện cưỡng ép bắt buộc.
Các nữ công nhân hầu hết không phải là người Do Thái, còn công nhân nam đều là người Do Thái. Tất cả đều ở trong một không khí thân hữu tuyệt vời, những câu chuyện vui vẻ át tiếng máy khâu lách cách. Emma ngồi ở chiếc bàn làm việc dài, chung quanh đầy vải vóc, mụn giẻ, cô làm việc nhanh nhẹn, ở một mức độ làm cho các cô lành nghề nhất cũng phải kinh ngạc. Họ là những con người có tính hợp quần, tất cả đều sinh trưởng ở Leeds, thẳng thắn, hài hước nhưng tốt bụng. Họ nói một thứ thổ ngữ lạ đặc biệt của Leeds, rút ngắn các từ luyến chúng lại với nhau, bỏ h’s và thêm chúng vào những chỗ không đáng thêm. Emma hiểu các cô gái khá dễ dàng, bởi vì thổ ngữ của Leeds về cơ bản là con tự sinh của phương ngữ Yorkshire được nói ở các vùng nông thôn. Bản thân cô vẫn tiếp tục nói một cách đúng đắn, luôn luôn nghĩ tới giọng du dương của Olivia Wainwright và bắt chước nó, không bao giờ cho phép mình rơi vào lối nói thô kệch của các bạn thợ. Emma biết những thói quen xấu rất dễ mắc và khó từ bỏ. Lúc đầu các cô gái trêu chọc về cái giọng nói học thức của cô. “Nói như cắt kính”, họ gọi như thế. Emma chỉ cười và chấp nhận sự trêu ghẹo của họ một cách vui vẻ, chẳng bao lâu họ thôi và coi cô như một người của họ. Nhưng không một cô gái nào trong xưởng của Kallinski có thể hoàn toàn quen được với sắc đẹp và vẻ học thức của cô. Họ luôn luôn nhìn trộm và đứng nhìn cô ngỡ ngàng mặc dù cô không hay biết điều đó.
Abraham để mắt trông nom Emma, bởi vì ông không bao giờ quên tình cảm và lòng dũng cảm hiếm có của cô, nhưng ông không để lộ sự thiên vị nào mặc dù ông đặc biệt yêu quí cô. Emma luôn luôn cảm thấy sự có mặt của Victor, nhất là mỗi khi cô gặp phải một vấn đề nho nhỏ về công việc của cô. Công việc bận rộn khiến cô không để ý thấy sự thán phục ánh lên trong đôi mắt dịu dàng, mỗi khi cậu nhìn cô. David là người bảo vệ cô. Cậu đã để cô dưới đôi cánh tay của mình ngay từ buổi sáng thứ hai đầu tiên khi cậu xếp cô vào làm việc thùa khuyết. Cậu không ngạc nhiên khi thấy cô làm chủ được kỹ thuật này trong vòng vài ngày và trở thành một người thợ lành nghề nhất và nhanh nhất. Nhận thấy sự thông minh tuyệt vời và khả năng tiếp thu nhanh kỳ lạ của cô, cậu đã để cô may vạt áo khi người may vạt áo chuyên môn vắng mặt. David đã tháo một tấm áo Yorkshire dài, rất đẹp trải lên chiếc bàn gỗ, lấy phấn vẽ lên giấy và dùng kéo cắt với một sự khéo léo làm người ta phát thềm, vừa làm anh vừa giải thích cặn kẽ cho Emma.
Dưới sự huấn luyện của David, chẳng bao lâu Emma đã học được cách cắt vạt áo, ve áo, rồi vạt trước, rồi lưng áo và cuối cùng là quàn, cô lúc nào cũng sẵn sàng tham gia giúp đỡ khi họ làm không kịp đơn đặt hàng. Đến giữa tháng chín, cô đã có thể dễ dàng tự mình cắt may toàn bộ một bộ comlê, không cần phải có sự giúp đỡ của David, Abraham bàng hoàng vì khả năng làm việc tuyệt vời của cô, và có ấn tượng rất tốt đẹp vì sự am hiểu mau lẹ tất cả các mặt của nghề thợ may. Sự thật, ông không thốt nổi nên lời trước tài khéo léo, sự chuyên tâm và nghị lực phi thường của cô. Victor yên lặng thán phục, David thì chỉ cười như một chú mèo Chestshire. Cậu đã nhận biết được bản chất của cô ngay từ lần gặp gỡ đầu tiên, một dịp cậu luôn coi là điều may mắn và hoàn toàn là ngẫu nhiên. Emma Harte là cô gái sẽ có những bước tiến lớn trong đường đời. Cậu bằng lòng cược đồng shilling cuối cùng như thế. Cậu đã có những kế hoạch của mình và cô là một bộ phận của những kế hoạch đó.
Janessa Kallinski luôn luôn gửi lời mời Emma tới dự bữa ăn Sabbath tối thứ sáu, bởi vì bà rấy yêu mến Emma, bị cuốn hút đối với cô như tất cả những người trong gia đình, Emma đến viếng thăm thường xuyên. Cô rất thích những buổi tối trong gia đình ấm cũng đầy yêu thương của người Do Thái. Nhưng cô không muốn lợi dụng lòng mến khách của họ và tỏ ra sốt sắng hay cơ hội. Và mỗi khi nhận lời mời, bao giờ cô cũng đến với một món quà nhỏ. Một bó hoa mua ở chợ Leeds, một lọ mứt cô làm lấy trong bếp nhà bà Daniel, có lần là món kem chocolate, cô đã cất công làm rất cẩn thận theo công thức của bà Olivia Wainwright được đặt trong những chiếc bát đẹp nhất của bà Daniel. Kem thật là ngon và đã làm cho cả gia đình Kallinski tấm tắc khen, họ hết lời ca ngợi tài bếp núc của cô mà cả bà Daniel nữa cũng rất thán phục.
Tuy nhiên, hầu hết thời gian rỗi, Emma ở một mình, không phải lúc nào cô cũng mệt vào cuối ngày làm việc nhưng vì cô không có bạn bè gì ở Leeds ngoài gia đình Kallinski nên cô làm bữa ăn tối ở bếp sau rồi lui về gác xép. Thỉnh thoảng cô khâu vá vào ban đêm để những giờ liên tục sửa chữa lại những quần áo bỏ đi của Olivia Wainwright. Những quần áo này là Wainwright đã cho cô trước khi bà đi London sau đám tang của Adele Fairley. Những quần áo này chưa quá cũ, chúng đã được sự khéo léo và kiên nhẫn của Emma sửa sang lại với một chiếc kim. Chất lượng và vẻ thanh lịch của chúng không thể lầm lẫn vào đâu được, cô cắt những chỗ sờn rách, vá víu và mạng lại những chỗ thủng. Cô sửa lại bộ đồ len màu xám, một chiếc áo dài lụa đỏ, một chiếc áo khoác len đen, cũng như chiếc áo dài đen của mẹ cô trước đay, cô luôn cố gắng để cho tủ quần áo của mình trong một tình trạng gọn ghẽ, ngăn nắp nhất có thể được. Cô không có ý định mua bất cứ một thứ gì mới trong vài năm tới. Thỉnh thoảng cô đọc những cuốn sách cô tìm được ở ngăn kéo cuối của tủ. Cô không dễ dàng hiểu được những tác phẩm triết học, nhưng nó hấp dẫn cô và cô đọc đi đọc lại từng câu một, hấp thụ những từ một cách đầy suy nghĩ, cô thấy một sự hài lòng to lớn khi ý nghĩa chân thực của những cuốn sách trở nên rõ ràng đối với cô. Cô khao khát học hỏi và thu lượm kiến thức và một trong những thứ ít ỏi cô mua là một cuốn từ điển. Nhưng cuốn sách cô yêu thích hơn hết là tập thơ của William Blake(1), cô xem đều đặn, ngâm ngợi từng đoạn phát âm những từ khó một cách chính xác, cố gắng phi thường để phát triển và hoàn thiện giọng nói của mình. Thực tế, Emma Harte không hề hao phí một giây một phút, cố gắng liên tục để hoàn thiện mình.
Mấy tuần lễ đầu ở Leeds, cô nằm thao thức mỗi đêm, phiền muộn vì đứa bé. Một hôm cô chợt nhận ra một cách hết sức mạnh mẽ rằng lo lắng một việc mà mãi đến tận tháng ba tới mới xảy ra thì hoàn toàn là điều buồn cười. Vả lại nó cũng làm mất thời gian, một tài sản quí báu nhất đối với Emma. Cô sẽ nghĩ tới đứa bé hôm nó đẻ, không sớm hơn. Lúc đó, và chỉ lúc đó cô sẽ quyết định bước tiếp theo, Emma hy vọng đứa bé sẽ là đứa con gái. Cô sợ rằng nếu nó là con trai, trông nó sẽ giống Edwin Fairley và cô sẽ ghét nó vì lý do ấy. Đứa bé tội nghiệp không đáng trách, cô nghĩ thế, và mỗi ngày cô lại nói với mình. Ta biết nó sẽ là con gái, và điều này luôn luôn làm cô vui.
Emma đã đến thăm Rosie ở quán Con vịt nhớp nhúa hai lần và lần cuối cùng cô đã viết mấy chữ để vào phong bì dán lại gửi cho Blackie báo cho anh biết chỗ ở, sống và làm việc. Cô cũng viết cho cha cô. Cô đã viết cho ông là cô không tìm được chỗ làm thích hợp ở Bradford. Mặc dù Emma tiếc tiền đi xe lửa, cô vẫn không dám ỏ thư ở Leeds, vì sợ bị phát hiện. Vì vậy là, để bảo vệ bí mật đến tối đa, cô đã lê lên tận Bradford bỏ thư ở bưu điện chính, rồi lại đi tàu về Leeds.
Vào một sáng thứ bảy tháng mười, Emma ngồi ở bàn trên gác xép, viết một bức thư khác bằng nét bút nắn nót. Vì những lý do rõ ràng, bức thư này đầy những lời nói dối, những lời nói dối lúc đầu làm cô hết sức băn khoăn, cho mãi đến khi cô tự nhủ đó là những lời nói dối vô hại, và bởi vì chúng nằm để tránh cho ba cô khỏi biết sự thật khủng khiếp làm cho ông phải xấu hổ và để ông bớt nỗi lo âu.
Emma viết một cách cẩn thận. Ba thân yêu. Con xin lỗi từ tháng chín con chưa viết một lá thư nào. Con đang ra sức tìm việc làm. Con sung sướng báo cho ba biết con đã tìm được một chỗ. Emma dừng lại, cô bịa ra môt tên rất thông thường vì vậy khó mà biết được đích xác nó ở đâu, cô viết tiếp, bà tên gọi là John Smith. Con là người làm riêng của bà ấy. Hôm nay bà ấy và con đi London, một tháng nữa sẽ trở vê. Khi nào con trở về Bradford, con sẽ về thăm ba. Xin ba đừng lo lắng về con. Con vẫn khỏe mạnh. Con yêu ba, Frank và Winston. Bao giờ cũng là con gái của ba, Emma. Cô viết thêm tái bút. TB. Con gửi một pound để đỡ ba. Emma để tờ một pound vào trong thư, để trong phong bì, dán cẩn thận đề địa chỉ và dán.
Cô vội vã mặc quần áo, chọn chiếc áo đen là chiếc áo buổi tối của cô ở Fairley Hall bây giờ được viền thêm cổ và cổ tay bằng đăng ten trắng. Cô đã tự hỏi không biết có nên mang đi bộ đồng phục này khi bỏ Fairley Hall mà đi không. Như vậy có phải là ăn cắp không? Cô đã tự hỏi mình. Nhưng cuối cùng cô không thấy một sự ân hận nào khi gói nó vào trong vali của Edwin. Gia đình Fairley chẳng thiếu gì và bộ đồ chắc không vừa cô Annie đần độn.
Khi Emma ra khỏi nhà, tinh thần cô phấn chấn lên. Đó là một ngày thu muộn, bầu trời xanh mượt mà, với những áng mây trắng xốp và mặt trời chói lọi. Đó là một ngày lung linh, Emma hít đầy không khí trong mát đầy hương thơm của tháng mười. Cô bước đi duyên dáng tới quảng trường thành phố, đi qua để tới nhà ga thành phố, cô mua một cái vé ở đó đi Bradford. May mắn, tàu đang đỗ ở sân ga và cô lên ngay.
Cuối cùng khi con tàu xình xịch tiến vào Bradford, Emma nhảy ngay ra khỏi toa, chạy băng tới bưu điện rồi lại quay trở lại ga nhanh đến độ kịp chuyến tàu trở lại đi Leeds.
Emma bây giờ cảm thấy nhẹ nhõm trong người, là thư gửi cho cha cô đã được bỏ, cô ngả người thoải mái trong ghế khi con tàu chạy lọc cọc trên đường ray. Cô không phải viết cho cha trong một tháng nữa. Điều đó cho cô đủ thời gian để bịa ra một câu chuyện khác. Mặc dù bản chất con người cô không phải là lừa lọc, Emma biết rằng cô phải dựa vào mưu kế thoái thác để làm cha cô khuây khỏa cho đến khi nào đứa bé ra đời. Ông có thể vẫn còn lo lắng về cô, nhưng sẽ không lo nhiều như khi về phía cô hoàn toàn là yên lặng. Cô phải liên hệ với ông đều đặn thì rồi, có lẽ ông không tìm cách đi tìm cô nữa. Ông sẽ không biết tìm vào đâu. Ông tin là cô ở Bradford và hẳn có hàng trăm bà John Smith ở thành phố đó. Như mọi khi, cô cảm thấy một tội lỗi nhói lên khi nghĩ tới cha.
Chuyến đi Bradford và trở lại Leeds đã mất mấy tiếng đồng hồ, khi Emma bước xuống tàu ở ga thành phố, cô đói như cào. Sự thật, cơn đói mãnh liệt quả làm cô chóng mặt. Cô đi thẳng đến chợ Leeds, ở đó cô mua một đĩa trai to chấm hạt tiêu và dấm, gần đây cô thích ăn cay. Khi tất cả đã được ăn ngấu nghiến môt cách ngon lành, cô đến quầy bánh patê và mua một bánh nhân thịt, nóng, mềm, thơm ngào ngạt. Cô đi loanh quanh trong chợ một lát vừa ăn bánh vừa nhìn vào các quầy, rồi cô đi tới Brighette. Những chiều thứ bảy, Emma có thói quen đi lang thang ở những phố chính của Leeds, nhìn những cửa hàng, cố ghi nhớ cách trưng bày và các loại hàng hóa bán. Cô tới nhiều cửa hàng sang trọng nhìn những đồ trưng bày bên trong, quan sát xem người ta mua gì, một cảm giác rạo rực bừng dậy trong lòng cô, và bao giờ cũng như thế khi cô bước vào một cửa hàng. Cô thích sự nhộn nhịp, màu sắc rực rỡ, dãy hàng hóa, sự trưng bày khéo léo, tiếng lách cách của bàn tín, những khuôn mặt thú vị của những người mua hàng, những phụ nữ thanh lịch trong những bộ quần áo sang trọng. Cô không thể đợi đến khi cô có một cửa hiệu riêng cho mình. Những cửa hiệu, cô tự chữa lại khi cô ngó trân trân vào một bộ trưng bày những chiếc mũ mùa đông, không có cái nào hợp với sở thích của cô, mà cô cũng không ưa cách họ trưng bày.
Sau nhiều tiếng đồng hồ đi lướt qua, Emma quyết định cô phải về nhà thôi. Cô có nhiều việc khác phải làm và chân cô đã đau. Cô vừa bước vào qua cổng trước thì bà Daniel đã hiện ra. Mắt bà sáng ánh lên trong ánh sáng mờ mờ, bà ném cho Emma một cái nhìn dò hỏi và thốt lên. “Có một quí ông đến gặp cô”.
Emma đứng ngây người, tim cô đập thình thịch. Cha cô chăng? Winston? Họ có cách để tìm ra sao? Thôi đừng ngu ngốc nữa, cô kiên quyết tự nhủ. Có thể là David Kallinski. Trước đây cậu đã đến một lần do mẹ cậu nhắn tin, nhưng lần ấy bà Daniel đi vắng vì vậy mà bà chưa nhìn thấy cậu. Phải, chắc chắn là David, Emma cả quyết như vậy. Cô giữ giọng mình được bình tĩnh: “À, thế ạ. Ông ấy có để lại tên không, thưa bà Daniel?”.
- “Không, nhưng ông ấy gửi cho cô cái này”. Bà Daniel lôi phong bì ra khỏi túi tạp dề.
- “Cám ơn bà Daniel”. Emma nói, cô cố tình đặt một chân lên cầu thang.
- “Cô có định mở thư ra không?”. Bà Daniel hỏi, sự thất vọng của bà quá rõ ràng khiến Emma thấy vui vui.
- “Vâng tất nhiên là có chứ ạ”, Emma trả lời với một nụ cười lãnh đạm. Cô nghiêng đầu về phía bà chủ nhà một cách duyên dáng. “Xin phép bà, thưa bà Daniel”.
Không nhìn bà một lần nào nữa, Emma trèo lên gác, lòng nhẹ nhõm. Cô đã nhận ra nét chữ. Đó là chữ của Blackie, chắc chắn cô sẽ không cho bà Daniel cái khoan khoái chứng kiến niềm sung sướng khi nhận được thư của một người đàn ông, mà rõ ràng không phải là “chồng” cô ở Hải quân Hoàng Gia, cái ông Winston được nói tới luôn luôn đó.
Khi đã vào phòng, Emma xé phong bì, ngón tay cô run run, mắt cô tìm ngay chữ ký. Đúng là của Blackie. Anh sẽ đợi cô ở quán Con vịt nhớp nhúa lúc năm giờ hôm nay. Emma ngả người xuống giường, gối đầu lên gối, nhắm mắt lại, trong lògn đầy một cảm giác khoan khoái và sung sướng.
Đúng bốn giờ, khi đồng hồ ở phòng trước điểm giờ, Emma lướt xuống thang ra khỏi nhà trước khi bà Daniel bắt gặp được cô để hỏi những câu hỏi tọc mạch hoặc để lộ sự tò mò không che giấu. Bề ngoài, cô vẫn kiềm chế như bao giờ hết, nhưng trong lòng cô, cô hầu như không thở được với sự mong mỏi khi nghĩ là sẽ gặp lại Blackie O'Neill. Ôi sao mà cô nhớ anh! Mãi đến bây giờ Emma mới nhận ra rằng cô đã tự chủ và tuân thủ một kỷ luật mới to lớn làm sao để mà không buồn và không thấy hoàn toàn cô đơn ở Leeds này, cô cũng ngạc nhiên là lại có thể kiềm chế được những tình cảm của mình một cách thành công đến như vậy.
Emma hồi hộp trên đường tới nơi gặp, xôn xao với những ý nghĩ sâu kín, cô hoàn toàn không hay biết tới những cái đầu cả nam lẫn nữ quay lại nhìn cô khi cô lướt đi trên vỉa hè, hướng về đường York và quán Con vịt nhớp nhúa. Cô là một hình ảnh nổi bật trong bộ đồ len màu xám cô đã sửa lại một cách khéo léo vì vậy những chỉ cũ không lộ ra, nó được cắt rất tài tình và thanh lịch trong cái đơn giản. Chiếc váy thẳng đến bắp chân và từ đó buông loe xuống mắt cá chân. Trên chiếc váy là một cái áo vét khít vào người, vai tròn và ống tay áo hẹp. Ve áo cắt sâu và viền đăng ten từ thắt lưng xuống tạo cho nó một vẻ sang trọng không thể phủ nhận mà người ta không thấy ở vùng này; nó đã cũ đến năm năm và đã lỗi thời ở London, nhưng ở Leeds thì không và nó được Worth (2) may cùng với nó. Emma mặc chiếc áo sơ mi lụa màu xanh, mà Olivia Wainwright đã thải từ lâu, để lộ cổ thêu đăng ten và cổ tay áo màu trắng. Cô đã cài cái trâm bằng thủy tinh màu xanh trên một ve áo, và đây là đồ trang sức duy nhất của cô ngoài chiếc nhẫn bạc của mẹ, cô đeo ở ngón tay thứ ba của bàn tay trái. Đôi găng tay móc màu trắng và túi xách bằng da đen có khung mai rùa đã hoàn thiện trang sức bên ngoài của cô. Emma lúc này đã có mang được năm tháng. Chính cô cũng nhận thấy vòng bụng và hông của cô nở ra, nhưng tình trạng của cô người ngoài chưa ai thấy rõ. Bộ quần áo càng làm tôn thêm hình dáng tha thướt và vẻ duyên dáng tự nhiên của cô. Mái tóc óng ả đầy nắng vàng của buổi chiều trải về phía sau càng làm nổi bật phía trước lên. Chiều nay cô đã để mái tóc cao lên, không những chỉ làm cô cao thêm mà còn khiến cô có vẻ quí phái nữa. Một vẻ cả quyết trong dáng đi nhẹ nhàng của cô. Cô cảm thấy như được tiếp sức và sự sảng khoái của cô rõ rệt đối với tất cả những người đi trên đường.
Emma biết là quá sớm. Cô chậm bước lại, không muốn đến quán trước Blackie. Tháng tám khi tới Leeds, cô đã nghĩ ra một chuyện để nói với anh lúc này, trong cuộc đời của cô đã có một chút của tình trạng hai mặt. Tuy nhiên, bây giờ cô có mang cho nên cô cẩn thận hơn bao giờ hết và sự mệt mỏi tăng lên từng ngày. Cô không bao giờ muốn cha cô hay Adam Fairley xộc tới, một tình trạng có thể xảy ra nếu Blackie biết sự thật và hào hiệp nhảy lên bảo vệ cô. Và vì vậy cô đã phải dựng nên một câu chuyện gần sát với sự thật nhưng vẫn đủ để lừa Blackie trong khi vẫn rõ ràng là có lý. Cô vừa đi vừa điểm lại câu chuyện, mặc dù cô đã nhớ nhập tâm nó hàng tuần trước.
Một tốp nhỏ những đội quân Nữ cứu tế từ thiện trong bộ quân phục đen dài lộng lẫy, mũ bập bềnh nhô lên nhô xuống, hành quân xuống đường York, từ phía bên kia, hát một cách mạnh mẽ theo nhịp trống. Không quanh quẩn ở bên ngoài, tránh những kẻ say rượu chiều thứ bảy, Emma lập tức đi thẳng vào quán. Cô có thể chuyện vãn với Rosi nếu Blackie chưa tới. Cô đẩy những cánh cửa trước nặng nề, đi dọc hành lang hẹp sực mùi bia chua và khói. Cô dừng lại một chút trước khi đi qua những cánh cửa quay bên trong. Blackie đã thắng cô. Tiếng nói của anh phân biệt được rõ nổi lên giữa tiếng ồn ào bên trong. Emma bước qua cửa và đứng sang một bên.
Anh ở trong dáng vẻ lồng lộng Ái Nhĩ Lan, những lọn tóc đen quăn của anh lượn sóng xõa về phía sau bộ mặt rám nắng, đôi mắt đen nhảy múa, hàm răng trắng lóa giữa đôi môi hồng, vẻ đẹp trai của anh bừng lên trong ánh sáng của những ngọn đèn. Người chơi piano đang gõ bài "Darning Boy", Blackie đứng cạnh anh ta, thẳng và kiêu hãnh, một tay đặt trên nắp piano, giọng nam trung tuyệt vời của anh vang lên giữa tiếng lanh canh của cốc tách và tiếng rì rầm nói chuyện. Emma đi ra một tay đeo găng đưa lên miệng để che nụ cười tự nhiên đến với cô. Trước đây cô chưa bao giờ thấy cái anh chàng Blackie O'Neill như thế này. Mà cô cũng chưa bao giờ nhìn thấy anh trong một quán rượu. Anh đang biểu diễn gì vậy, cô nghĩ một cách kinh ngạc, như bị thôi miên bởi dáng kịch của anh.
Thực sự thì lý ra Blackie O'Neill đã có thể thành một diễn viên xuất sắc. Anh có đầy đủ những điểm cần thiết cho cái nghệ thuật kịch đó - vẻ ngoài đáng chú ý, cái duyên dáng tự nhiên, sự lựa chọn đúng lúc theo bản năng, chiều sâu của cảm xúc, sự cuốn hút đến ngây ngất khi ánh sáng chiếu thẳng vào như chính lúc này đây. Không có một chút nghiệp dư nào trong con người Blackie, lúc này anh đang biểu diễn cho đám đông như bị điện hút. Anh đã tới đoạn cuối của bài hát, anh bước ra khỏi piano, nghiêng người lên ưỡn bộ ngực rộng. Cánh tay to lớn đưa ra, anh kết thúc bài hát một cách đắc thắng.
"Và anh sẽ nghe bước chân em, dù em có lẹ bước trên anh,
Và nấm mồ của anh sẽ ấm áp hơn, ngọt ngào hơn,
Và em sẽ cúi xuống nói với anh: em yêu anh,
Và anh sẽ ngủ bình yên chờ đến khi em lại tới!"
Tiếng hát của anh vang trong trái tim Emma, như bao giờ cũng thế và tiếng ngâm của nó ào ạt lướt trên ngời cô như những đợt sóng trùm lấp, cổ họng cô nghẹn lại một nỗi buồn cay đắng và ngọt ngào mỗi khi anh hát.
Cô chớp mắt và nhìn quanh. Không có một con mắt nào còn khô trong phòng, cô thấy những chiếc khăn tay đưa ra lau mắt. Đám đông vỗ tay nhiệt liệt, cô nghe thấy những giọng nói cất lên yêu cầu: - "Blackie, hát cho chúng tôi nghe một bài nữa đi!", "Bài cậu bé hát dạo", ... "Hát bài con sò con trai!". Blackie cúi chào, và cười rồi lại cúi chào rõ ràng thích thú với mỗi phút. Anh ta định đáp lại lời thỉnh cầu thì nhìn thấy Emma.
- "Các bạn cho khoan đã", anh kêu to át tiếng ồn ào và bước nhanh qua phòng, lách qua đám đông vây quanh piano. Blackie đứng cao ngất bên cô, mắt anh nhìn lướt cô nhanh nhưng là một cái nhìn đầy tán thưởng. Sự ngạc nhiên của anh trước cái thay đổi của cô là rõ rệt, mặc dù anh cố che giấu nó. Anh trấn tĩnh lại được ngay và nói với nhiệt tâm thường lệ của anh, "Emma. Gặp lại em thật là tuyệt vời, thật thế, cô gái ạ".
Blackie kéo cô lại và ôm lấy cô. Rồi anh đẩy cô ra xa, như thói quen của anh, anh vẫn giữ lấy cánh tay cô, nhìn vào bộ mặt kiêu hãnh của cô: "Sao, em trông đẹp hơn trước, Emma hoàn toàn là một thiếu nữ rồi. Trời, đúng đấy!"
Emma cười: "Cảm ơn Blackie, gặp anh, em cũng mừng lắm".
Anh cười với cô, sự sung sướng của anh cũng hiển nhiên như của cô: "Nào cô gái. Chúng ta vào Salon Bar. Ở trong ấy yên tĩnh hơn, anh nghĩ vậy, và chúng ta có thể nói chuyện được tốt hơn. Nó cũng là một nơi tốt hơn cho một thiếu nữ như em". Anh nháy mắt khi nói và hỏi: "Em thích uống nước gì?"
- "Cho em nước chanh", cô trả lời.
- "Đợi ở đây", Blackie ra lệnh và đi về phía quầy rượu. Đôi mắt Emma nhìn theo anh. Cô không gặp anh từ mùa xuân, gần chín tháng rồi, và cả anh nữa cũng đã thay đổi. Anh hình như chín chắn hơn, mặc dầu sự hồ hởi tự nhiên vẫn biểu lộ ra ngoài, nhưng ở con người anh có một sự kiềm chế nào đó, và cô nghĩ là cô đã tìm thấy một nỗi buồn nào đó. Rosi, thân hình to lớn của chị đóng khung trong bộ xa tanh màu da cam, rạng rỡ vẫy Emma, cô cũng vẫy đáp lại. Một vài giây sau, Blackie quay lại, mang theo đồ uống. "Theo anh", anh nói và đưa vai lách qua đám đông đứng chật cả phòng.
Salon Bar, tương đối vắng người và yên tĩnh hơn. Ở đây Emma cảm thấy thoải mái hơn là ở quầy công cộng. Cô nhìn quanh một cách tò mò. Nó trầm lặng, và đối với một quán rượu thì nó khá là tao nhã. Blackie tìm được một chiếc bàn ở trong góc, đặt đồ uống xuống, kéo ghế cho cô vẻ lịch thiệp hào hoa và ngồi đối diện. Anh uống một ngụm bia sủi bọt và nhìn cô trên mép cốc một cách chăm chú. Anh để cốc xuống bàn, nghiêng người về phía trước và nói bằng một giọng trầm tĩnh: "Tất cả những chuyện này là thế nào? Em làm gì ở Leeds? Một cô gái bé bỏng như em. Anh nghĩ anh đã nói với em từ lâu, đây không phải là chỗ cho em, chờ đến khi nào em lớn hơn đã. Chắc chắn là anh đã nói với em điều ấy mà, Emma Harte!"
Emma nhìn nhanh anh: "Em không sao mà".
- "Ờ trông em anh cũng biết được. Nhưng anh đang nghĩ là có thể em không được may mắn. Nào, em nói đi! Cái gì làm em rời Fairley".
Emma còn chưa muốn thố lộ với anh nên cô tảng lờ câu hỏi. "Cô em may mắn", cô nói và thây đổi đề tài. "Em không ngờ là anh lại đi vắng. Em nhớ anh, Blackie. Tại sao anh ở Ireland lâu thế? Em cứ nghĩ anh không bao giờ trở về nữa".
Bộ mặt anh trở nên buồn rầu. "Trời ơi, em gái, em gái", anh nói qua một tiếng thở dài. "Tại ông bạn tốt của anh. Cha O'Donovan đang hấp hối. Một ông thầy tu già mà anh thực lòng yêu mến, ông dạy anh tất cả những điều anh biết được ngày nay. Nghĩa là một chút học thức mà anh có. Anh ở lại với ông cho đến cuối cùng. Buồn quá, ôi thật là buồn quá". Anh lắc đầu và tâm hồn Centic hình như đau thương trở lại, bởi vì mắt anh mờ đi khi hồi tưởng.
Emma giơ bàn tay nhỏ bé nắm vào cánh tay anh. "Em xin chia buồn, Blackie. Hết sức buồn. Em biết chắc là anh đau khổ nhiều lắm". Cô yên lặng một lát, ái ngại cho anh, rồi cô nói khe khẽ: "Vì thế mà anh ở lại Ailen suốt mấy tháng ấy".
- "Không, em gái. Cha O'Donovan, cầu Chúa cho linh hồn cha yên nghỉ, mất trong vòng vài tuần. Nhưng anh ở lại nghỉ ít lâu với mấy người anh em họ của anh, Michel và Siobhan, mà nhiều năm nay anh chưa gặp. Sau đó cậu Pat viết thư cho anh và bảo anh phải về Anh ngay. Anh trở lại Leeds hôm qua. Tất nhiên, đó là tối thứ sáu, anh tới uống chút bia. Và thật là ngạc nhiên khi Rosie đưa cho anh thư của em. Anh thật bàng hoàng". Anh nhìn cô dò hỏi và kết thúc: "Nói thẳng ra đi, em gái. Tại sao em quyết định rời Fairley".
Emma đưa mắt nhìn anh một chút rồi nói một cách lặng lẽ: "Trước khi em nói lý do, anh Blackie, anh phải hứa với em một điều".
Blackie trố mắt nhìn cô, ngạc nhiên bởi sự nghiêm trang của cô. "Có thể là cái gì vậy?"
Emma đáp lại cái nhìn chăm chú của anh một cách bình tĩnh - "Anh phải hứa với em là anh sẽ không bao giờ nói với ba em, hoặc bất cứ ai nơi em ở".
- "Tại sao lại bí mật như vậy?" Blackie căn vặn: "Ba em không biết em ở đây sao?"
- "Ông nghĩ em đang làm việc ở Bradford", Emma giải thích.
- "A, Emma, như vậy là không được. Thế tại sao em lại không nói với ba em là em ở đâu?"
- "Blackie, anh còn chưa hứa với em mà". Cô khăng khăng bằng một giọng lạnh lùng nhất.
Anh thở dài: "Thôi được rồi, nếu em đã muốn như thế. Anh thề có các thánh thần là anh sẽ không nói cho bất cứ một linh hồn sống nào chỗ em ở".
- "Cám ơn anh, Blackie". Một vẻ chững chạc trên khuôn mặt cô; cô không hề hốt hoảng hoặc lo ngại khi cô nói: "Em phải rời Fairley vì em sắp có con!"
- "Lạy Chúa tôi!" Blackie hét lên bàng hoàng, không tin - "Có con!" anh nhắc lại, phát âm từ đó như nó là một từ ngoại ngữ.
- "Vâng, đến tháng ba", Emma thông báo một cách bình tĩnh, "Và em phải đi vì gã thanh niên đó, ba thằng bé, vâng, đã phản bội em".
- "Nó làm gì!", Blackie rống lên, mặt anh đỏ tía. "Thề có Chúa, tôi sẽ đập vỡ mặt nó ra. Nhất định thế. Sáng mai tôi sẽ đi Fairley gặp ba em, gặp bố nó. Và lạy Chúa, nó sẽ phải lấy em nếu như tối có phải đánh nó nhừ tử để lôi nó đến nhà thờ!" "Khẽ chứ, Blackie", Emma nói. Cô có thể thấy anh trong một cơn giận dữ điên cuồng. "Không có ích gì, Blackie. Khi em nói với hắn ta rồi sẽ bị như vậy, hắn nói hắn sẽ lấy em. Và em không cần phải lo lắng gì. Thế rồi anh có biết nó đã làm gì cái đêm ấy không?"
- "Không, em gái, anh không thể hình dung nổi", Blackie lẩm bẩm giữa hai hàm răng nghiến chặt. Lần đầu tiên trong đời, anh có nkềm khao khát giết người. Ý nghĩ là có kẻ xúc phạm Emma làm cho anh giận dữ đến độ phát điên lên.
Emma theo dõi Blackie rất cẩn thận, cô nói dịu dàng: "Hắn đã làm một chuyện kinh khủng. Hắn bỏ chạy rồi. Vào Hải quân Hoàng Gia, anh thử nghĩ coi!" Đôi mắt cô to, giọng cô khẽ: "Hắn lấy một tờ giấy trong cuốn sổ của anh trai em". Cô nói tiếp: "Hắn bắt chước chữ của Winston và chuồn thẳng. Như thế đó. Khi hắn không tới Hall để gặp em, như hắn đã hứa, em xuống làng để gặp hắn. Lúc ấy cha hắn mới nói với em là hắn đã bỏ đi rồi. Thậm chí ông ta còn đưa cho em tờ giấy chứng tỏ là hắn đã đi".
Cô lắc đầu:
- "Em biết làm thế nào, Blackie? Em không thể nói với cha hắn. Và chắc chắn là em không thể nói với ba em. Vì thế em trốn đi Leeds".
- "Nhưng có lẽ ba em sẽ hiểu...", Blackie bắt đầu nói, anh cố gắng giữ cho giọng nói của mình khỏi run.
- "Không, ông không hiểu đâu!" Emma hốt hoảng kêu lên, mặt cô tái đi. Cô đã biết thế nào anh cũng có thái độ như thế này và cô phải thuyết phục anh là cô bắt buộc phải ở Leeds. "Ba em sẽ tức giận và đau khổ! Nó sẽ làm ông chết mất, sau cái chết của mẹ em. Em không muốn mang thêm buồn phiền vào ngưỡng cửa của ba em nữa, như thế này tốt hơn". Emma lúc này đã dịu giọng: "Thành thật mà nói, đúng là như thế đó, Blackie ạ. Em biết ba em. Tính nết của ông ghê gớm và ở trong làng người ta sẽ bêu diếu khủng khiếp. Nó sẽ làm hỏng cuộc đời em và đời đứa bé. Và cả đời ba em nữa. Tốt hơn hết là ông không biết. Ông không thể chịu nổi sự hổ nhục này".
- " Ừ, em gái, anh hiểu ý nghĩ của em". Anh chằm chằm nhìn cô, vẻ mặt anh tư lự. Vì cô đã ước định một cách chính xác như vậy, anh không hề choáng váng vì sự bộc lộ của cô. Ngạc nhiên, tất nhiên. Và tức giận vì sự hèn nhát của cái gã thanh niên đã làm cô lâm vào tình cảnh như vậy rồi chuồn. Nhưng Blackie đã quen thuộc với sự yếu đuối của con người đặc biệt là sự yếu đuối của xác thịt và anh cũng chẳng phải là người để mà phán xử. Thế nhưng, trong khi ngắm nhìn cô, anh hết sức bối rối. Anh thấy câu chuyện của cô không có vẻ hợp lý cho lắm. Trực giác của anh bảo với anh có một cái gì đó hết sức lôi thôi, mặc dù anh không biết đích xác là cái gì. Anh nhìn cô một cái nhìn sâu xa nhất. Hình như không có sự đánh lừa trên khuôn mặt cô. Cô nhìn anh thẳng thắn, đôi mắt ngây thơ, và khuôn mặt đáng yêu của cô tràn ngập sự dịu dàng. Blackie đẩy lùi cảm giác không bình ổn anh đang cảm thấy trong lòng, anh nói, giọng kiềm chế: "Thế em sẽ làm gì khi đứa bé ra đời? Em sẽ làm gì với đứa bé đól Emma?"
- "Em cũng chưa biết nữa, Blackie. Em sẽ nghĩ ra một điều gì đó. Lúc này, em phải bảo vệ ba em - cứ để ông tin là em bỏ nhà ra đi để có một cuộc sống tốt đẹp hơn, và em đang làm việc ở Bradford. Sau khi sinh đứa bé, tất nhiên, em sẽ về tìm ba em, để ông biết là em vẫn thực sự bình yên. Trong khi đó, em vẫn tiếp tục viết thư cho ba em để ông khỏi lo nhiều". Trước khi Blackie kịp đưa ra một nhận định, Emma lại vội vã giải thích về những lá thư cô đã gửi từ Bradford và cũng kể cho anh nghe tất cả những chuyện đã xảy ra ở Leeds. Cô vẽ nên một bức tranh màu hồng hơn là thực tế.
Anh hết sức chăm chú nghe, trong khi lắng nghe, Blackie O'Neill bắt đầu nhận ra rằng sự thay đổi trong cô đậm nét hơn là ngó bề ngoài. Mặc dù sự khác lạ này không định nghĩa nổi và rất tinh tế, nhưng quả là có, nó không che đi được chỉ bởi cách để đầu cầu kỳ, quần áo lịch sự, vốn là những đồ thải của Hall. Có một sự thay đổi sâu sắc trong chính bản thân của Emma. Nhưng còn phải đợi xem đã, anh quyết định như vậy. Cô sắp trở thành mẹ và những chuyện cô trải qua trong mấy tháng vừa rồi rõ ràng đã ảnh hưởng đến cô. Rồi anh bỗng nhận ra, Emma không còn là một đứa bé thiếu ăn trên đồng hoang nữa. Cô là một thiếu phụ trẻ và đẹp, và bằng cách nào đó, cô đã biến mình thành một thiếu phụ một sớm một chiều. Không, không phải một sớm một chiều. Nó đã diễn biến từ từ trong một năm rưỡi qua. Bây giờ anh nhận ra điều ấy. Chính anh đã nhận thấy chiều hướng ấy từ ngày họ gặp nhau và bây giờ thì rõ rệt khiến mọi người đều thấy. Anh mỉm cười méo mó. Điều ấy đã giải thích lời miêu tả khoa trương của Rosie về cô.
Tiếng nói bổng trầm của cô đi vào trong những ý nghĩ của anh. "Gia đình nhà Kallinskin rất tốt, rất tử tế, Blackie ạ. Em hy vọng anh sẽ gặp họ. Và em thích làm nghề thợ may. Em làm khá lắm, anh ạ". Emma vẫn nói: "Ở Leeds này, em sẽ tốt thôi. Em biết thế mà".
- "Ừ, anh cũng nghĩ như thế, Emma. Nhưng em không nhìn về phía trước". Anh chỉ ra: "Làm sao em vừa trông con vừa làm việc được?" Anh vặn hỏi một cách dữ dội.
Emma nhìn xoáy vào anh. "Em đã bảo với anh rồi mà, em sẽ nghĩ về vấn đề đó sau! Ngay lúc này em phải kiếm tiền đã. Để nuôi sống em và để dành cho đứa bé sau này". Cô nghiêng người về phía trước, cầm lấy tay anh, bóp chặt lấy, mong an ủi anh: "Anh đừng lo. Bao giờ cũng có cách giải quyết cho mọi vấn đề". Cô nói một giọng cả quyết.
Cô mỉm cười, mặt cô, gần sát mặt anh làm anh mê đắm, và một lần nữa, anh cảm nhận cô là một phụ nữ, tim anh đập rộn ràng hơn. Anh nhìn cô trong một ánh sáng khác hơn là anh vẫn thấy cô trước đây.
Không một giây suy nghĩ, Blackie nói khẩn thiết: "Anh có một giải pháp, Emma! Hãy lấy anh! Như vậy em sẽ được an toàn, yên ổn. Anh cũng sẽ trông nom đứa bé nữa. Hãy lấy anh, em gái".
Emma hoàn toàn kinh ngạc. Cô chằm chằm nhìn Blackie. Không thốt nổi nên lời và lần đầu tiên từ khi rời Fairley cô quá cảm động vì cử chỉ cao cả và đẹp đẽ của anh.
Cô cúi đầu, nước mắt chảy xuống hai má, rơi xuống bàn tay đang run rẩy lục tìm mùi soa trong túi. Cô lau mắt, và qua những dòng lệ, cô run run nói: "Ôi, Blackie, anh thật là kỳ diệu đã hỏi em làm vợ! Thật là đáng yêu quá!". Cô dừng lại, nhìn vào mắt bốc lửa của anh. "Nhưnh em không thể làm thế được. Trói buộc anh vào một người vợ và một đứa con của một người khác, điều ấy không công bằng. Anh có kế hoạch riêng của anh. Anh sẽ trở thành một người thượng lưu, một nhà triệu phú. Anh không cần trách nhiệm của một gia đình. Em không thể làm điều đó với anh, Blackie".
Blackie đã nói theo sự thôi thúc của bản năng, anh thậm chí cũng không chắc những xúc động thật sự của anh hoặc tình cảm thật của anh đối với Emma nỡa, thế nhưng, mặc dầu anh nhận ra tính xác thực của những điều cô nói, anh vẫn cảm thấy cái đau nhói của thất vọng khi nghe cô từ chối: "Nhưng em không thể ở một mình được", anh nài, anh nắm lấy bàn tay nhỏ của cô: "Em sẽ được thư thái hơn với anh, em gái. Chắc chắn là như thế".
- "Thế còn anh thì sao, Blackie O'Neill? Anh có được thư thái hơn với em không?". Cô mỉm cười một nụ cười nhút nhát, nước mắt hãy còn long lanh trong mắt: "Không, em nghĩ là không. Em sẽ không mang lại điều ấy cho anh đâu, Blackie ạ. Câu trả lời là không. Em sẽ không lấy anh đâu. Nhưng em xin cám ơn anh. Em có vinh dự và được đề cao vì anh đã nghĩ đến em. Thật như thế, anh Blackie".
Anh có thể thấy được là cô kiên quyết và anh cũng không biết rõ là mình có nhẹ nhõm hay không nữa. Lòng anh đầy những cảm xúc lẫn lộn. Tuy nhiên, anh thấy buộc phải nói. "Thôi được rồi, em gái, chúng ta không bàn chuyện ấy nữa. Ít nhất là lúc này. Anh chỉ nói là lời đề nghị của anh để ngỏ ... vĩnh viễn".
Emma không thể nén cười qua những dòng nước mắt. Cô lắc đầu: "Ôi, Blackie, em sẽ làm gì với anh!"
Cơn giận của anh dần dần tan đi, sự nghi ngờ của anh đối với câu chuyện của cô tạm quên lãng, anh cùng cười với cô. Một vài giây sau, anh nói: "Anh sẽ nói cho em biết, em sẽ làm gì với anh, em gái của anh. Em sẽ đi ăn tối với anh ở một trong những quán sang trọng mà anh đã từng kể cho em nghe rồi anh sẽ dẫn em xem biểu diễn tạp kỹ của thành phố. Vesta Tilley sẽ biểu diễn đêm nay, anh chắc em sẽ thích buổi diễn. Em có thích như thế không, Emma? Vui vẻ tí chút để thay đổi không khí cũng là điều hay. Em nói sao? Em có chấp nhận lời mời của anh không nào?"
- "Vâng, em rất thích đi với anh. Cám ơn anh. Blackie... em... ", Emma do dự rồi thú nhận gần như thẹn thùng: "Em rất mừng anh đã trở lại Leeds. Em cảm thấy yên ổn tốt đẹp hơn nhiều khi biết có anh ở đâu đó, khi biết anh là bạn em".
Bờ môi dài Ireland của Blackie nở một nụ cười ấm áp, hàm răng trắng của anh lóe lên: "Ừ, anh là bạn của em, Emma". Anh khẳng định: "Và anh sung sướng vì em tin cậy ở anh. Bây giờ anh đã biết vấn đề em gặp phải trong vài tháng tới, anh có thể vạch đôi chút kế hoạch, chắc chắn là có mặt anh khi em cần đến anh. Nhưng tối nay chúng ta sẽ không nói tới những vấn đề của em nữa. Chắc chắn như vậy và chúng ta sẽ giải quyết từng vấn đề một khi chúng tới. Bây giờ chúng ta đi phố! Anh sẽ dẫn em đi thăm thú, Emma, em thân yêu".
Emma, ngước lên cười với anh, nét mặt linh hoạt. May mắn những vấn đề của cô đã lùi xa một cách thần diệu lúc này khi cô ở bên Blackie. Cô cảm thấy an toàn cùng với anh ngay từ ngày đầu họ gặp nhau trên đồng hoang, cô hiểu một cách bản năng là anh luôn luôn che chở cho mình.
Blackie theo cô ra khỏi Salon Bar vào phòng chính đầy ắp người. Anh không thể không nhận thấy những cái đầu đàn ông quay lại nhìn chằm chằm, những cái nhìn đầy ngưỡng vọng hướng về cô. Anh ưỡn thẳng người và ngẩng cao đầu hơn lên. Anh nghĩ, đúng thật, cô rất ưa nhìn. Không có một người đàn ông nào còn sống mà không tự hào và sung sướng có cô ở bên cạnh mình. Đúng vậy, đó là sự thật, Blackie cả quyết như thế.
Rồi Blackie O'Neill dừng sững lại, anh trân trân nhìn vào cái lưng thẳng, cái đầu ngả về phía sau của cô, với sự thông cảm đột nhiên, anh nhận biết được vì sao câu chuyện của cô trước đây lại làm anh phiền muộn đến như vậy. Cô Emma Harte biết mình này, người đang lướt đi trước mặt anh một cách duyên dáng thế không bao giờ lại dính dấp với một trong những thanh niên thô lỗ cục mịch trong làng. Không bao giờ. Ý nghĩ như vậy không những là không bao giờ có thể có được, mà còn cực kỳ phi lý nữa. Vậy thì ai là bố đứa bé, anh tự hỏi, hoàn toàn ngỡ ngàng. Anh thấy tối nay mà hỏi cô chuyện ấy là không khôn ngoan. Đẩy cái ý nghĩ mới và bối rối ra khỏi đầu, Blackie tạo một nụ cười vui trên mặt và bước kịp Emma. Anh cầm cánh tay cô, đưa cô ra ngoài đường, trò chuyện với cô một cách vui vẻ, cố làm vẻ bình thường. Nhưng mắt anh có một ánh suy tư.
Blackie và Emma ngồi trên xe điện đi Armley. Đó là một buổi chiều thứ bảy giá rét đầu tháng giêng năm 1906. Emma ngồi co ro ở một góc, khuôn mặt nhìn nghiêng của cô quay sang anh trong yên lặng giá buốt.
Chúa ơi, Đức Mẹ ơi! Blackie suy nghĩ một cách bực bội. Thỉnh thoảng cô ương bướng, cứng nhắc. Anh liếc nhìn cô rồi quay đi, buồn vì vẻ cứng rắn trên nét mặt cô. Anh biết tốt hơn hết là không nên nói một lời nào. Cô đã khăng khăng từ chối chuyến đi này từ khi anh đề cập tới nó, lần đầu tiên hai tuần trước đây. Anh đã phải dùng tất cả khả năng thuyết phục và miệng lưỡi Ireland ngọt ngào của anh để làm cô đồng ý, và ngay cả lúc ấy sự chấp thuận của cô cũng gượng gạo. Đôi khi anh không hiểu Emma một chút nào và từ lâu anh đã nhận ra cô là một thiếu nữ cực kỳ phức tạp, cứng đầu cúng cổ nhất từ xưa đến nay. Mặt khác, anh phải thừa nhận cô thông minh đến ngạc nhiên thậm chí tài giỏi và có năng khiếu về nhiều mặt. Và trong hầu hết mọi trường hợp, cô mềm dẻo và nghe ý kiến của người khác, cám ơn Đức Chúa toàn năng.
Blackie lại nhìn cô. Thật đáng ngạc nhiên, vẻ nghiêm khắc không hề làm hư hại đến sắc đẹp của cô. Sự thật, nó hình như tạo cho cô một vẻ hách dịch kỳ lạ khiến mọi người chú ý. Hôm nay tóc cô chải về phía sau và tết lại buông lơi sau gáy, một chiếc nơ vải mỏng màu đen giữ mái tóc ấy. Cô đội một chiếc mũ bêrê xanh đen và cái khăn quàng anh đã cho cô nhân ngày Giáng sinh, chiếc mũ bêrê đội nghiêng, khăn quàng dài vắt lên vai chiếc áo len đen. Đôi tay luôn luôn nắm chặt cái xắc màu đen trong đôi găng xanh mà Rosie tận tụy đã đan cho cô. Màu khăn quàng xanh sẫm rất hợp với cô làm nổi bật màu xanh của đôi mắt và nước da màu thạch cao hoa tuyệt vời của cô. Không còn nghi ngờ gì nữa: trong những tháng có mang cuốn cùng này Emma trông mạnh khỏe, đẹp đẽ quá, và vẫn chỉnh tề như bao giờ hết.
Con tàu rầm rầm chạy ra ngoài trung tâm thành phố, hướng về ga đầu mối Whingate ở Armley một làng ngoạn mục ngất nghểu trên một quả đồi, cách chừng nửa tiếng đồng hồ tàu chạy. Blackie ngồi đắm chìm trong suy nghĩ, kiên nhẫn đợi cho Emma thay đổi tâm trạng, thầm cầu cho điều đó sẽ xảy ra trước khi họ tới nơi. Anh sẽ sung sướng khi đứa bé ra đời và cô có thể về thăm Fairley. Mặc dù cô chấp nhận sự có mang của mình một cách bình thản, điềm tĩnh, ít để lộ biểu hiện lo lắng, nhưng Blackie hiểu rằng cô hết sức lo ngại về cha cô và Frank. Thậm chí, cô đã thúc ép anh gửi những lá thư quan trọng cho ba cô, buộc anh phải tìm cho ra những người bạn của anh có thể đi London. Cô quyết định giữ sự giả vờ là đi cùng với một bà John Smith không hề tồn tại nào đó và để giải thích cho sự vắng mặt của cô ở Bradford. May mắn, anh đã có thể làm được cho cô vào tháng mười một và mười hai khi một số bạn của anh ở quán rượu đi về phía nam để tìm việc ở bến tầu East End của London. Họ bằng lòng bỏ những lá thư của Emma cho cha cô mà không hề hỏi những câu hỏi lằng nhằng gì hết. Tuy nhiên, Blackie cũng đưa ra những lời bình luận. "Ba em sẽ ngạc nhiên tự hỏi tại sao em không cho ông địa chỉ để ông có thể biên thư cho em", anh đã chỉ ra điều ấy. "Không, ba em sẽ không thể viết", Emma đã đồng ý như vậy một cách gay gắt: "Trong lá thư tháng mười một, em đã báo cho ba em biết là em sẽ đi Paris cùng bà chỉ và trong lá thư tháng mười hai em đã nói với ông là em sẽ theo bà chủ đi Ý. Chừng nào ông còn nhận được tin của em thì không sao hết".
Blackie đưa mắt nhìn cô, anh hoàn toàn kinh ngạc vì những mưu tính trong đầu cô. "Hình như em đã nghĩ tới mọi chuyện" anh nói một cách khô khan. Cô không trả lời nhận xét này và câu chuyện chấm dứt.
Blackie liếc nhìn cô một lần nữa, xích lại gần hơn, quàng tay lên vai cô nghiêng người về phía cô. "Anh hy vọng em hãy xét tới chuyện về anh", anh nói một cách thận trọng, cứng người chờ đợi phản ứng mạnh mẽ của cô, thật đáng ngạc nhiên, nó lại không xảy ra. Cô hoàn toàn im phăng phắc, mặt nhìn thẳng phía trước.
Có thêm dũng cảm, Blackie nói tiếp: "Ở với Laura Spencer em sẽ sung sướng hơn. Chắc chắn là như thế, em gái ạ. Bây giờ bà mẹ góa của chị ấy đã chết, chị ấy đang đi tìm một người khác trả tiền, một người nào đó để chịu chung phí tổn của ngôi nhà với chị ấy. Mà nhà cũng đẹp lắm. Tất nhiên là nhỏ, nhưng ấm cúng và ngăn nắp. Ông bố đã mất của chị ấy trước đây là đốc công ở một nhà máy in, mẹ chị ấy là thợ dệt. Họ có một chút tiền và tư cách rất tử tế. Điều ấy được chứng tỏ trong ngôi nhà, đồ đạc tất cả mọi thứ Laura giữ rất cẩn thận". Anh dừng lại, tìm mặt cô, nói tiếp bằng giọng vui vẻ: "Em sẽ thực sự thoải mái ở đó. Như anh đã nói với em trước đây, Laura có thể kiếm cho em một việc ở nhà máy Thompson ở Anh, nơi chị ấy làm việc. Anh không hiểu tại sao em lại ương ngạnh về chuyện đó như vậy, Emma".
Cô đột ngột quay đầu lại, nhìn anh chằm chằm, đôi mắt xanh của cô lóe lên. "Bởi vì em không muốn bật khỏi rễ. Em đã học được nghề thợ may thế mà bây giờ anh lại muốn em rời bỏ gia đình Kallinski và bắt đầu làm việc trong nhà máy, học nghề dệt. Điều ấy không có ý nghĩa gì hết, Blackie. Vả lại em thích ở nhà bà Daniel. Dạo này bà ấy rất tử tế và em dùng cái bếp của bà ấy".
Blackie rên lên: "Nhưng, Emma, em sẽ có cả một ngôi nhà chung với Laura. Không những thế, chị ấy sống cách nhà máy của Thompson chỉ mười phút. Hiện nay em phải đi bốn mươi lăm phút để về nhà Kallinskin và cũng một thời gian như vậy để về nhà buổi tối. Thời tiết như thế này mà đi bộ như vậy. Ngay gia đình Kallinski cũng thấy những điều anh nói là có lý. Hôm nọ David cũng bảo với anh là họ sẽ rất sung sướng nhận em trở lại sau khi em sinh con. Như vậy thì em có mất gì không? Không mất gì hết, anh nghĩ như vậy?". Anh thở dài mệt mỏi: "Emma, em thật là một cô gái ương bướng, mà anh thì chỉ muốn những điều tốt đẹp nhất cho em thôi".
Emma nhận ra tính thực tiễn của điều anh đang đề nghị, và một lần nữa trong đời, cô không dứt khoát: "Em quả là không biết..."
Lúc này Blackie thấy sự nao núng ấy, anh nắm lấy cơ hội và nói bằng một giọng cả quyết: "Em coi, anh chỉ yêu cầu là em nên cân nhắc nó một cách cẩn thận, xem xét mọi điều, chớ làm một quyết định vội vàng là không đến ở với Laura". Anh cầm lấy bàn tay cứng cáp của cô bóp chặt lấy: "Và xin em hãy tử tế với Laura. Chị ấy là một người bạn tốt và anh không muốn em hành động mất lòng chị ấy".
Emma đỏ mặt, nhìn trừng trừng: "Thô bạo! Em không bao giờ thô bạo với ai cả! Chính anh biết điều ấy. Mà em cũng không lên mặt, Blackie O'Neill".
Blackie nhận ra sai lầm của mình quá muộn và hy vọng sửa sai, anh nói một giọng dịu ngọt nhất: "Anh biết là em không bao giờ kiêu kỳ cả, Emma, em thân yêu. Nhưng đôi khi... à, đôi khi em làm cho người ta có cảm giác là... ờ là, kiêu sa".
- "Thế à?". Cô nói một cách ngạc nhiên, cau mày và cắn môi. Emma kinh ngạc trước nhận định này, bởi vì quả thực cô không biết có những lúc cô lại ghê gớm như vậy. Thường thường thì thái độ xa cách của cô là bởi cô quá miệt mài bận rộn với những vấn đề và những kế hoạch của cô chứ không phải là gì khác. Cô yên lặng, ngẫm nghĩ những điều anh nói và cảm thấy xấu hổ.
Cảm thấy có thể cô bị xúc phạm, Blackie nói nhẹ nhàng:
- "Rồi em sẽ thích Laura. Chị ấy là một cô gái dịu dàng, thật đấy. Và anh biết chị ấy cũng sẽ thích em, Emma ạ. Nhất định như thế, em gái của anh".
- "Em không chắc lắm, căn cứ vào điều anh vừa nói", Emma phản ứng lại. Blackie cười hơi thẹn thùng: "Thôi chúng ta quên chuyện ấy đi. Chỉ cần em vận dụng một chút duyên dáng mà em vốn có nhiều thì mọi chuyện sẽ đâu vào đấy hết". Anh lại nắm lấy tay cô và nói tiếp: "Amli là một địa điểm nhỏ rất tuyệt và rất an toàn. Nó thật đẹp về mùa hè khi cây, hoa nở. Có công viên Armley, có ban nhạc chơi vào tất cả các ngày chủ nhật và những con đường nhỏ thú vị cùng những con đường lớn nơi em có thể dạo chơi. Vả lại, bệnh viện St. Mary gần đấy, em có thể sinh cháu ở đó khi tới lúc. Và có rất nhiều cửa hiệu, vì thế em không cần phải tới Leeds nếu đã có công việc gì. Sao, em có đủ mọi thứ em cần ở Armley".
Emma hốt hoảng nhìn anh: "Cửa hàng". Cô nói một cách đầy suy nghĩ: "Em cứ nghĩ, Armley là một làng nhỏ xíu. Không thể có nhiều cửa hàng được, anh Blackie".
- "Ồ, có đấy, em gái ạ. Em biết không. Armley đang mở rộng, người ta nói vậy. Nó sẽ trở nên rất lớn. Có rất nhiều nhà đẹp. Sự thật là có những dinh thự nơi những người giàu có sống. Các nhà triệu phú, đại loại là như vậy. Có một số cửa hàng tốt ở phố Town bán những thứ sang trọng. Anh đã thấy chúng khi anh đến thăm Laura lần trước. Em sẽ có dịp xem chúng khi chúng ta đi xuống phố chính để tới nhà Laura".
- Những loại cửa hiệu gì?", Emma thôi thúc, đôi mắt cô hướng về anh hết sức thích thú.
Biết là mình đã làm được cô hoàn toàn chú ý, quan sát được sự thay đổi trong thái độ của cô, Blackie nói một cách đầy kích thích, hy vọng đẩy cô xa hơn nữa. "À, để anh nhớ xem nào. Có cửa hàng tạp phẩm, cửa hàng thịt, tất cả đều ở phố Town, cùng với cửa hàng thịt lợn, cửa hàng bán rượu chai, một cửa hàng cá, cửa hàng bơ sữa Keene, một cửa hiệu thuốc, và một đại lý báo. Anh cũng nhận thấy có một cửa hàng bán vải, cửa hiệu bán đồ kim chỉ, một cửa hàng giày, một cửa hàng lớn bán quần áo phụ nữ nữa, em gái ạ. Đó là một đường rất lớn hoạt động, cũng nhộn nhịp gần như Briggate, thật thế. Ô, anh nghĩ có cửa hàng bán đủ tất cả mọi thứ, Emma ạ".
Emma đã chăm chú nghe. Cô nhanh chóng đổi ý kiến về việc ở chung nhà với Laura Spencer. "Kể cho em nghe thêm về làng đó", cô nói, "chẳng hạn như nó lớn như thế nào? Bao nhiêu người sống trong đó?"
- "A, Emma, em thân yêu, bây giờ em chịu nghe anh rồi nhé. Anh phải thú thực rằng anh cũng không biết kích thước chính xác của nó hoặc bao nhiêu người sống ở Armley. Nhưng chắc là đông, bởi vì các cửa hàng làm ăn phát đạt. Rồi lại có những nhà thờ lớn, nhỏ và nhiều trường học vì vậy mà phải có đông người. Ừ, đúng là một nơi hấp dẫn, đúng thế. Laura nói với anh là có một thư viện công cộng và những câu lạc bộ của đảng Tự do, Bảo thủ và Công nhân. Ồ, mà có cả một nhà tù ở Amli nữa. Thật là "ghê gớm". Blackie nháy mắt với cô: "Cũng có rất nhiều quán rượu. Riêng anh biết có đến chín cái".
Từ lúc đi đến giờ, lần đầu tiên Emma cười: "Anh thì phải biết chứ".
- "Một thanh niên thỉnh thoảng uống một chút bia thì có gì là hại?", Blackie hỏi đùa, anh làm ra vẻ bị xúc phạm. Rồi anh khẩn thiết kéo cánh tay Emma: "Nào, em gái! Đây rồi, em có thể tự mắt nhìn xem Armley".
Con tàu đã dừng lại chỗ bến cuối nửa đoạn đường lên đồi. Blackie nhảy xuống nhẹ nhàng và giúp Emma xuống. "Cẩn thận nào, cưng. Bước cẩn thận đấy. Anh không muốn em trượt làm ảnh hưởng đến Tinker Bell", anh nói, nắm chặt hai bàn tay cô trong tay anh.
- "Tinker Bell?"
- "Ờ, Tinkel Bell. Anh gọi đứa bé như vậy, tất nhiên là mình anh biết thôi. Em ạ, gọi theo Tinker Bell ở Peter Pan. Em có đồng ý anh gọi cô bé con như thế không?"
Cô cười: "Có, em đồng ý, Blackie. Nhưng làm sao anh biết nó là con gái".
- "Bởi vì em luôn luôn nói với anh nó là con gái mà". Blackie để cánh tay cô trong cánh tay anh, hai tay anh đút vào túi chiếc áo khoác màu xanh lính thủy mới của anh và nói:
- "Trên kia là những tháp nơi những người giàu ở". Anh hướng đầu về phía con đường lái xe sang trọng có những hàng cây ở hai bên. "Và phố Town ở ngay phía trước chúng ta. Em đi cẩn thận. Hôm nay trơn đấy".
- "Vâng, em sẽ cẩn thận, Blackie". Cô nép người vào anh run rẩy, cơn gió Bắc từ đồi thổi xuống thật giá buốt. Emma ngước nhìn lên. Bầu trời cao vun vút, lạnh băng, mặt trời mùa đông nhợt nhạt hầu như không thấy rõ, chỉ là một đồng tiền bạc nhỏ xíu trên bầu trời bao la sâu thăm thẳm. Khi con tàu đã dừng, lúc này không gian yên lặng một cách kỳ lạ, vì không có xe cộ và người nào ra đường trong ngày Chủ nhật lạnh lẽo và buồn tẻ này.
- "Công viên Charley Cake đây", Blackie báo cho cô biết, đầu anh hướng về mảnh đất hình tam giác ở phía bên kia đường. "Mùa hè em cùng Tinker Bell ngồi ở đây ngắm người qua lại thì thật là thú vị".
- "Em làm gì có thì giờ để mà ngồi bất cứ ở đâu với Tinker Bell". Emma nói lại, mặc dầu điều đó được nói lên bằng một giọng nhẹ nhàng. Cô ngước nhìn anh hoài nghi. "Công viên Charley Cake. Tên gì nghe lạ vậy? Em chắc anh lại bịa ra rồi".
- "Tại sao lúc nào em cũng gây chuyện với tất cả những điều anh nói? Anh sẽ phải gọi em là Emma đa nghi nếu em không cẩn thận, cô gái của anh ạ. Nói đúng đắn, tên nó là như thế đó. Mấy năm trước đây, Laura kể với anh có một người tên là Charley bán bánh ngọt ở đó, vì thế mà..."
- "Nó có tên ấy chứ gì", Emma kết thúc hộ cho anh, ánh mắt cô đầy vui vẻ. "Em tin anh mà, Blackie. Không ai có thể bịa ra một cái tên như thế".
Anh cười nhưng không nói gì hết và họ bước tiếp trong yên lặng. Emma liếc nhìn chung quanh khá là thích thú. Họ đang đi qua một dãy nhà gọn ghẽ dẫn tới phố Town. Nó làm cô nhớ lại một cảnh tượng trong truyện thần tiên. Những khói tuyết khổng lồ trườn qua mái nhà đỏ treo lơ lửng ở những rìa và muôn ngàn đũa băng óng ánh trong không gian trong suốt. Một cách thần kỳ, tuyết và băng đã biến những chốn ở nhỏ bé, trần tục thành những ngôi nhà kỳ lạ và hào nhoáng. Những hàng rào, những cánh cổng, những thân cây đen trần trụi, cũng phủ đầy những hoa tuyết băng giá, Emma thấy nó giống như những trang trí bằng bạc trên chiếc bánh Noel lộng lẫy. Những ngọn đèn parafin và ánh lửa bừng lên qua những khung cửa sổ, những lượn khói bồng bềnh tuôn ra từ những ống khói, nhưng đó là dấu hiệu duy nhất của cuộc sống ở phố Town. Những ngôi nhà trông ấm cúng, như mời đón, Emma hình dung ra một gia đình sung sướng trong mỗi căn nhà ấy, những ông bố bà mẹ đang sưởi ấm một cách lười nhác, những đứa trẻ đôi má hồng hào ở dưới chân họ, ăn táo, cam và hạt dẻ nướng, tất cả đều cười đùa, hưởng một buổi tối êm đềm bên nhau, đùm bọc trong tình thương. Cô khắc khoải nghĩ tới cha và Frank, cô mong muốn làm sao đang được ngồi cùng họ trước lò sưởi trong ngôi nhà bé nhỏ ở Fairley.
- "Emma này, đây là những cửa hiệu đầu tiên", Blackie thông báo, tiếng anh vang lên trong yên tĩnh. "Tất cả các cửa hiệu dọc từ phố Town đến đường Branch. Nhìn xem, em gái, có phải anh nói với em sự thật không nào?".
Emma nhìn theo hướng mắt anh, đôi mắt cô mở to thích thú, nỗi buồn của cô được đẩy sang bên. "Đúng, anh nói thật", cô thừa nhận. Họ đi qua cửa hàng cá, cửa hàng bán đồ kim chỉ, cửa hiệu thuốc, và một cửa hàng lớn bán đồ xa xỉ phẩm của phụ nữ, Emma nhận thấy đây đúng là một khu mua sắm sang trọng. Cô hết sức bị cuốn hút và một ý tưởng nảy ra. Kiếm được một cửa hàng ở đây dễ hơn. Tiền thuê sẽ rẻ hơn ở Leeds, cô ý luận một cách hợp lý. Có lẽ mình sẽ mở cửa hàng đầu tiên ở Armley, sau khi đứa trẻ ra đời. Đó sẽ là sự mở đầu. Cô quá sôi nổi với ý nghĩ này đến nỗi lúc họ tới phố nơi Laura Spencer ở thì cô đã có được một cửa hiệu với những mặt hàng khác nhau, Blackie có thể gọi cô là Emma đa nghim bưbg chắc chắn cô không nghi ngờ gì về một điều... đó là thắng lợi cuối cùng của cô. Cửa hiệu đầu tiên của cô sẽ ở Armley và cô sẽ buôn bán xe ngựa. Tiền ở đấy. Chính Blackie cũng nói như vậy.
Họ đi dọc theo phố những ngôi nhà có sân thượng, tất cả đều gọn ghẽ, ngăn nắp với những cánh cửa sơn xanh, cửa sổ bóng lộn, những khu vườn được cắt tỉa và những cánh cửa sắt đen. Ngay trước khi họ tới nhà của Laura Spencer, một ý nghĩ đến với Emma. Cô dừng lại và nắm lấy cánh tay Blackie: "Anh đã nói với Laura như thế nào về em rồi", cô hỏi.
Blackie nhìn xuống, một thoáng ngạc nhiêu trên mặt anh. "Sao, thì đúng những điều em dặn anh nói với cô ấy mà". Anh trả lời lặng lẽ. "Cùng một chuyện anh kể cho mọi người, đúng từng chi tiết một, bà Harte, vợ một thủy thủ, một bà mẹ sắp sinh, bạn thân của Black O'Neill".
Emma mỉm cười nhẹ nhõm và gật đầu, họ cùng bước trên con đườn đi ngoài vườn. CÔ tự hỏi không hiểu Laura ra sao, nhưng cũng chẳng có gì là quan trọng. Điều quan trọng là cô gây được một ấn tượng tốt đẹp với Laura.
Emma lúc này nhận ra rằng, Blackie đã trò chuyện rất ít về bạn mình và cô không biết mình sẽ chờ đợi gì khi hai người đứng ở bậc cửa trước. Chắc chắn cô không chờ đợi cô gái này ra mở cửa, đón họ một cách duyên dáng và sự thích thú không che đậy. Laura Spencer có khuôn mặt bóng, bình thản như Đức Mẹ, một vẻ tin tưởng như vậy trong đôi mắt chị và nụ cười của chị đầy âu yếm, ngọt ngào. Emma lập tức thấy mình đang đứng trước một người rõ ràng là khác tất cả những người cô đã gặp.
Laura dẫn họ vào trong nhà, than thở thời tiết khắc nghiệt, thông cảm với cuộc hành trình dài lạnh lẽo mà họ vừa phải chịu đựng, nỗi quan tâm thực sự của chị là điều hiển nhiên. Chị đỡ áo khoác của họ và mũ nồi của Emma treo chúng lên giá mắc gần cửa rồi kéo họ vào phòng khách, chuyển động với một sự duyên dáng khôn cùng khi chị dẫn họ tới bên những chiếc ghế xếp chung quanh ngọn lửa đang reo.
Laura cầm lấy tay Emma và nói: "Tôi rất mừng được gặp chị Emma, Blackie đã kể cho tôi nhiều điều rất dễ thương về chị. Trời ơi, bàn tay chị lạnh quá. Chị ngồi xuống đây, đuổi cái rét đi, cưng".
Emma nói: "Em cũng rất mừng được gặp chị, Laura". Không tỏ ra thô lỗ, Emma đã quan sát căn phòng thật nhanh, cô nhìn thấy giấy bồi tường màu xanh bọc trắng, một vài bộ đồ gỗ đào hoa tâm, đơn sơ nhưng bóng lộn, tất cả rất hấp dẫn. Căn phòng nhỏ nhưng gọn gàng, không chật ních đồ như phòng khách phía trước của bà Daniel. Một không khí chắc chắn và thoải mái bao trùm.
Laura nói như cáo lỗi với cả hai người: "Tôi xin lỗi không chuẩn bị đầy đủ cho cả hai người, tôi phải đi thăm một người bạn ốm và tôi về chậm hơn dự định. Tôi vừa mới về đến nhà xong thì hai người tới. Nhưng trà cũng sắp được rồi ạ, ấm nước đang sôi".
Blackie nói: "Không sao, Laura. Đừng quá bận tâm. Chúng tôi không vội, vì vậy cứ thong thả cưng ạ". Điều này được nói lên một cách nhẹ nhàng ý nhị đến nỗi Emma liếc nhanh về phía Blackie với nỗi thích thú ngày một tăng nhanh. Cô thấy một sự khác nhau rõ rệt trong cử chỉ của anh, nó dè dặt, và một vẻ dịu dàng vừa kính trọng trên mặt anh. Điều này không làm cho Emma ngạc nhiêu. Cô đã nhận ra cử chỉ thanh nhã của Laura nhất định làm cho người khác phải tốt đẹp lên.
- "Cho tôi xin lỗi chút xíu", Laura tiếp tục nói bằng giọng dịu dàng của cô và đặt những đồ sứ lên bàn. "Tôi còn một vài việc cuối cùng phải làm trong bếp".
Blackie và Emma lầm bầm đồng ý và Blackie nói: "Cho tôi hút ống điếu của tôi được không?" Chị đã đi quá nửa đường qua sàn, chị quay lại, lắc đầu, mắt chị long lanh cười. "Tất nhiên là được chứ, xin cứ tự nhiên, cả Emma nữa".
Từ thế có lợi gần lò sưởi, Emma có thể nhìn thấy Laura trong bếp nhỏ nối với phòng khách. Chị mặc chiếc áo len xanh nhạt, váy dài, ống tay áo dài, mặc dù chiếc áo hơi cũ và mạng một số chỗ, nhưng sự giản dị và màu sắc cổ xưa của nó thêm vào vẻ trong trắng và đức hanh của chị. "Chị ấy đẹp", Emma nghĩ, cô bị cuốn hút bởi cô gái cao, mảnh dẻ toát lên sự thuần khiết.
Những đường nét của Laura Spencer mang tính chất cổ điển, mảnh nai, xương nhỏ, khuôn mặt chị dường như có những lúc mong manh. Có những người không biết phân biệt sẽ coi cô là bình thường, mờ nhạt và họ sẽ không đồng ý với Emma chút nào. Nhưng Emma nhìn thấy những đường nét thanh tú như trong bộ đồ sứ, nhìn thấy ánh sáng màu vàng trong mái tóc màu mật ong của chị làm nó tỏa ra một màu ngũ sắc, nhìn thấy sự dịu dàng và khôn ngoan trong đôi mắt to màu hạt dẻ sáng ngời. Và cô nhận thấy cái đáng yêu của Laura... sự phản ánh chân thật của cái trong trắng.
Emma không lầm trong những nhận xét ấy. Quả là có một cái gì đặc biệt về Laura Spencer. Rất đơn giản, chị không bao giờ chấp nhận điều ác, điều xấu. Laura là người theo Cơ Đốc giáo và không hề nao núng trong đức tin của mình. Tôn giáo của chị mà chị không bao giờ bàn luận hoặc gây ảnh hưởng với bạn bè là động cơ chính của đời chị. Đối với Laura, Chúa không bao giờ mơ hồ hoặc xa vời. Sự hiện hữu của người là thường trực, bền lâu và vĩnh hằng.
Ngồi trong căn phòng ấm cúng, nghe giọng nói nhẹ nhàng của Laura vang trong bếp, Emma còn chưa hoàn toàn nhận thức được điều này. Nhưng dù sao, bằng một phương thức kỳ lạ, cái duyên bên trong của Laura đã tự nó truyền tới cô một cách huyền bí, cô thấy một cảm giác bình yên sâu lắng khiến cô giật mình. Emma tiếp tục ngắm nhìn Laura và nghĩ: Tôi muốn nàng là bạn tôi. Tôi muốn nàng thích tôi. Tôi muốn ở chung ngôi nhà này với nàng.
- "Em yên lặng quá, em gái", Blackie nói, "điều này hơi lạ đối với em, anh nghĩ thế. Thường ngày, em vẫn nói như khướu cơ mà".
Emma nhổm lên. Anh đã làm cô giật mình. "Em đang suy nghĩ", cô trả lời. Blackie mỉm cười và hút chiếc tẩu của mình. Emma bị Laura cuốn hút đúng như anh đã tính trước và anh thấy thích thú.
- "Blackie, anh làm ơn mang hộ cái ấm đun nước vào bếp một tí", Laura gọi, "để em pha trà".
- "Có, anh mang đây, em gái", anh nói to. Anh nhấc chiếc ấm đồng đang bốc hơi ra khỏi ngăn lên lò sưởi và rảo bước qua phòng, một thân hình cao lớn trong khoảng không gian chật hẹp.
- "Em có thể làm được gì không?" Emma cũng đứng lên hỏi một cách hăng hái.
Laura nhìn ra cửa bếp. "Không, cám ơn Emma. Xong tất cả rồi". Trong vòng một vài giây, chị bước vào phòng khách bê một chiếc khay lớn đựng những đĩa thức ăn, Blackie mang ấm trà theo sau.
Khi ngồi xuống, Emma nghĩ Laura đã sắp xếp bàn thật là đẹp. "Chị nghệ sĩ quá, Laura. Trông chiếc bàn thật là dễ thương". Emma đưa ra nhận xét. Cô mỉm cười với Laura, chị dường như thích thú với lời khen dường như thẹn thùng đó.
- "Chà, đây là một bữa đại tiệc cho các vị vua chúa, đúng là như thế", Blackie nói, anh cũng ngắm nhìn chiếc bàn.
- "Nhưng em không nên vất vả chuẩn bị ghê gớm như thế này chứ, Laura. Em cũng đã có đủ công việc của nhà thờ và công việc từ thiện rồi mà".
- "Không, có chuyện gì phức tạp đâu, Blackie. Anh biết em thích nấu nướng mà. Và em cũng rất thích có khách. Nào, xin mời. Xin tự nhiên cho. Chắc sau chuyến đi lạnh lẽo từ Leeds tới, cả hai người hẳn phải đói lắm. Em chắc là anh ăn phải ngon miệng lắm, Blackie".
- "Ồ, đúng thế", anh trả lời và cầm chiếc bánh sandwhich. Một sự mơ hồ hơi tự nhiên của Blackie toát ra ngoài trong buổi uống trà và anh liên tục làm cho hai cô gái cười khúc khích về những câu chuyện và cách thức đầy nghệ thuật của anh khi anh muốn mua vui. Người diễn viên trong anh không bao giờ ngừng lâu, và chẳng bao lâu anh trở nên hoạt bát, không ai chen nổi một lời. Tuy nhiên Laura cũng đáp lại một cách mau lẹ một vài điều quá đáng của anh, Emma nhận thấy cô gái dịu dàng này có óc hài hước mặc dầu tính nết nghiêm trang vốn có và cử chỉ hiền hậu không đúng với trí óc sắc sảo của cô.
Về phần mình, Laura Spencer cũng có một ấn tượng tốt đối với Emma. Ngay từ đầu, cô đã phải giật mình bởi sắc đẹp lộng lẫy của cô, nhưng trong khi pha trà, Laura đã lén quan sát cô và chị nhanh chóng nhận thấy thái độ vui vẻ đàng hoàng của cô gái, chị cũng thấy sự thông minh, trong đôi mắt xanh biếc kia và vẻ thanh tú trong khuôn mặt trái xoan. Blackie đã nói với chị là Emma sống ở một gác xép nhỏ và phải mất nhiều tiếng đồng hồ đi làm và về nhà. Anh lo ngại về sức khỏe của cô. Mà đúng thôi, Laura nghĩ. Cô cần một sự chăm sóc và một thời gian như thế này bởi cô có mang bảy tháng và hoàn toàn đơn độc một mình. Chị bỗng thấy rào rạt một tình cảm chị em đối với Emma.
Khi bữa trà tiếp tục, Blackie suy nghĩ về hai cô gái ngồi ở hai bên bàn trà. Anh yêu cả hai người mặc dù theo những cách hoàn toàn khác nhau, anh sung sướng thấy họ ưa nhau. Anh biết là thế nào họ cũng như vậy, mặc dù về thể chất họ hoàn toàn khác nhau kể cả tính tình. Anh liếc Laura đang lau miệng bằng khăn ăn. Chị mong manh, dễ vỡ như pha lê, Laura con người tinh khiết hoàn toàn vị tha về nhiều phương diện. Anh cũng liếc mắt nhìn Emma. Bên cạnh cái yêu kiều dịu dàng của Laura, nhan sắc của Emma dường như dữ dội và man dại; có một cái gì đó dễ sợ ở con người cô, và từ lâu anh đã ngờ cô có thể tàn nhẫn và thủ đoạn khi cần thiết. Tuy nhiên, mặc dù sự khác nhau về thực chất, họ lại có nhiều nét giống nhau ở sự chính trực, lòng dũng cảm, lòng từ tâm. Có lẽ những điều ấy sẽ kết chặt tình bạn của họ, anh nghĩ thế.
Mặc dù Laura ở tuổi hai mươi mốt, chỉ hơn Emma vài tuổi. Blackie vẫn tin rằng chị sẽ chăm sóc cô một cách trìu mến, của một người mẹ. Mặt khác, anh cũng có cảm giác là sự có mặt đầy vui tươi và hăng hái của Emma trong nhà sẽ giúp giảm bớt nỗi cô đơn mà Laura luôn cảm thấy từ khi mẹ cô mất cách đây bốn tháng. Anh hy vọng là như thế.
Emma đang say sưa kể cho Laura nghe về nghề thợ may, về xưởng thợ của Kalinskin và tiếng nói sôi nổi của cô làm cho anh chú ý. Blackie quay sang nhìn Emma. Trong ánh sáng hồng của phòng khách, khuôn mặt linh hoạt của cô bừng sự sống. Ánh mắt của cô có thẻ làm cho bất cứ một người đàn ông nào cũng phải chớp mắt, anh tự nhủ. Thế rồi anh tự hỏi như anh hằng tự hỏi không hiểu cô đã có mang với ai bảy tám tháng trước đây. Anh vẫn chưa dám hỏi cô cha của đứa bé là ai. Anh cố kìm mình trước cái ý nghĩ bối rối đó và hướng sự chú ý của mình vào công việc trước mắt... làm thế nào đề cập tới vấn đề Emma dọn tới Laura và sẽ làm việc ở nhà máy Thompson.
Hình như Laura đã đọc được ý nghĩ của anh. Anh nghe thấy Laura nói: “Nghe chị nói thì hình như quả thực chị yêu nghề thợ may, Emma. Và như tôi nghe được thì chị đã nắm được nghề một cách nhanh chóng. Tôi chắc không có khó khăn gì khi học dệt”. Laura ngừng lại, vốn tính chị không bao giờ muốn tỏ ra quá tự tin hoặc đi trước.
- “Học dệt có khó lắm không?”, Emma hỏi một cách thận trọng. – “Không, không khó lắm đâu. Khi mình đã nắm được và hiểu được quá trinh. Tôi không nghĩ là chị sẽ thấy nó khó, Emma. Thành thật mà nói là như thế”.
Emma liếc nhanh Blackie rồi quay lại Laura và nói: “Chị có thể kiếm cho em một việc ở nhà máy của Thompson không? Chị có chắc không?”
- “Có, hoàn toàn chắc!” Laurau thốt lên. “Hôm nọ tôi đã nói chuyện với người đốc công và chị có thể bắt đầu làm bất cứ lúc nào chị muốn. Họ đang tìm để huấn luyện thợ mới. Chị có thể vào phân xưởng dệt ngay, tất nhiêu làm người học nghề”.
Emma suy nghĩ một giây rồi quyết định. Cô đi thẳng vào vấn đề: “Chị có bằng lòng cho em ở chung nhà không, Laura? Em không làm phiền gì hết và em sẽ trả “tiền nhà”. Cô không rời mắt khỏi Laura.
Bộ mặt thiên thần của Laura nở thành một nụ cười sung sướng và đôi mắt màu hạt dẻ của cô sáng lên: “Tất nhiên, Emma. Tôi rất thích có chị ở cùng. Dù sao thì tôi cũng không thể có khả năng một mình giữ ngôi nhà này, nhưng tôi không muốn bỏ nó. Tôi đã sống ở đây hầu hết cuộc đời tôi. Ngoài ra, chị sẽ là người bạn tuyệt vời của tôi. Tôi vẫn đi tìm một người hợp nhau và dễ chịu như chị”. Chị nghiêng ngời về phía trước, bóp lấy cánh tay Emma một cách trìu mến, làm yên lòng. “Vả lại, tôi nghĩ ở đây với tôi chị sẽ dễ chịu hơn, chỉ còn hai tháng nữa, cháu bé sẽ ra đời. Tôi có thể chăm nom chị, Emma ạ. Và tôi biết Blackie đồng ý…”
- “Vâng, đúng như thế!” Blackie nói xen vào, anh sung sướng sự thể biến chuyển như vậy.
- “Để tôi đưa chị xem phần còn lại của ngôi nhà và căn phòng chị sẽ có, Emma”. Laura gợi ý. Chị dẫn đường lên cầu thang hẹp và dốc. Laura mở cánh cửa ở đầu cầu thang.
- “Phòng của chị đây, Emma”, chị nói với một nụ cười tươi. Chị bước lên trước và thắp một ngọn nến để trên tủ commốt.
- “Ồ, rất ấm cúng!” Blackie nói và đẩy Emma tiến lên.
Emma quay lại nhìn anh: “Vâng, đúng thế”. Choán gần hết là chiếc giường bằng đồng lớn trên đó phủ một tấm chăn. Tường màu trắng, có cả một tấm thảm trên sàn bên cạnh giường.
- “Đây là phòng của bố mẹ tôi”, Laura nói. Sau đó cô nói thêm hơi e thẹn: “Tôi nghĩ chị sẽ thích nó, Emma. Phòng rộng, lại có giường đôi, chồng chị có thể ở đấy khi anh ấy về nghỉ phép”. Emma há miệng nhưng lập tức ngậm ngay lại khi cô nhìn thấy mặt của Blackie.
Blackie nói: “À, ờ - phải còn lâu anh ấy mới về. Còn rất lâu. Anh ấy ở biển. Vì vậy, chúng ta không cần phải lo chuyện ấy vội!” Anh nhình quanh, cuống quýt tự hỏi làm thế nào để thay đổi chủ đề. Anh nói nhanh rối rít: “Này, Emma em không nhìn thấy khoảng rộng ở bên cửa sổ kia sao? Giữa tủ quần áo và giá rửa mặt kia kìa. Em có thể để một cái bàn may ở đấy và may những chiếc áo dài cho các quí bà, như em vẫn từng nói đấy. Laura không phiền chuyện ấy đâu. Có phải thế không, Laura?” Anh hy vọng có thể tránh được câu chuyện cực kỳ lúng túng về cái người chồng tưởng tượng chết tiệt của Emma.
- “Không. Không đâu. Không hề phiền tôi một chút nào hết.” Laura liếc nhìn Emma đang quan sát căn phòng, một nét nhăn vẫn còn vương trên vầng trán phẳng phiu của cô. Laura suy nghĩ một cách buồn nản: “Trời, cô ấy không thích ngôi nhà rồi.” Nhưng không muốn gây ảnh hưởng gì đối với Emma trong bất cứ phương diện nào, chị nhanh nhảu nói: “Ở trên này hơi lạnh một chút. Chúng ta xuống gác đi. Chị có thể cho tôi biết ý kiến sau cũng được. Emma bây giờ chị không cầ phải quyết định”.
Emma nhìn thấy thoáng sửng sốt trên mặt Laura, cô nắm lấy tay chị: “Em thích phòng này! Thực đấy! Em muốn ở chung nhà với chị. Nghĩa là, nếu em có đủ khả năng, chị Laura ạ”.
Ba người đi trở lại phòng khách. Blackie ném thêm củi vào lửa và Laura mang cuốn sổ chi tiêu gia đình ra. Chị đến ngồi cùng Blackie và Emma trước lò sưởi: “Tiền thuê nhà mỗi tuần là bốn shilling, một nửa của chị sẽ là hai shilling, Emma ạ. Rồi chi tiêu củi, tiền than mùa đông và paraffin để thắp đèm. Nếu chị có thể chia số tiền đó với tôi, tôi sẽ cám ơn lắm. Tổng cộng tất cả, số tiền sẽ lên tới năm shilling vào mùa đông. Nhưng mùa hè thì tiền sẽ ít hơn”.
- “Năm shilling!”, Emma kêu lên.
Laura nhìn cô đăm đăm, vẻ lo lắng lại tràn trong ánh mắt: “Ô, như vậy nhiều quá sao! Có lẽ tôi có thể…”
- “Không, không nhiều lắm đâu”, Emma ngắt lời. “Em cứ nghĩ là phải hơn thế. Như vậy rất là phải chăng. Ồ, em trả ba shilling một tuần cho cái gác xép nhà bà Daniel mà”.
Laura liếc xéo Emma, Blackie gầm lên: Anh vẫn bảo em là cái mụ đàn bà khốn khiếp đó ăn cướp của em mà, và em có chịu nghe anh đâu. Trời, Emma! Đáng lý em phải dọn đến ở với Laura từ mấy tuần trước rồi, anh đã van em như thế”.
- “Yên nào, Blackie. Đừng kích động thế”, Laura nói nhẹ nhàng nhưng kiên quyết. Cô đưa cuốn sổ nội trợ cho Emma. “Chị có thể xem tất cả những con số. Tôi muốn chị biết giá cả mọi thứ”.
Emma không muốn cầm cuốn sổ, nhưng Laura buộc cô. Cô chỉ nhìn thoáng vì cô biết người con gái này không có ý định kiến tiền của cô. Một lát sau, cô trao lại cuốn sổ.
- “Chị Laura. Em không cần phải xem tất cả những con số này. Em biết chị quá thận trọng. Thực tế, có lẽ chị lấy của em chưa đủ đâu. Em không muốn chị bị nhẵn túi”.
Laura nói: “Không, đủ đấy. Quả thật là đủ rồi”. Chị để lại cuốn sổ tính toán vào ngăn kéo tủ buffet và nói tiếp: “Không biết Blackie đã nói với chị là chị không phải trả tháng thứ nhất trong khi chị đang học dệt chưa?” Emma gật đầu. Laura hắng giọng nhìn Emma chăm chú rồi nói: “Ừ, tháng thứ nhất chị không phải trả gì tôi hết”.
- “Không, em không thể làm như thế. Như vậy không phải một chút nào”, Emma kêu lên.
Laura khăng khăng một mực: “Tôi không lấy tiền của cô trong khi cô chưa kiếm ra nó, Emma”. Cô gái lớn tuổi hơn nhìn thấy niềm tự hào to lớn trên mặt Emma và hiểu rằng cô không muốn nhận từ thiện, và cũng không muốn làm cô phải bối rối thêm nữa. Laura nhận xét một cách bình tĩnh: “Cứ đưa cho tôi hai shilling tiền thuê nhà. Đó là giải pháp thỏa đáng”. Emma miễn cưỡng đồng ý để khỏi làm phật ý Laura mặc dù cô đã quyết tâm trả chị cả năm shilling cô sẽ lấy ở tiền để dành.
- “Thôi thế là ổn định nhé. Thứ bảy tới Emma sẽ dọn đến. Chính tôi sẽ đưa cô ấy đến, nhất định như vậy!” Blackie tuyên bố, anh vui mừng ra mặt. “Các em thấy không, anh đã đúng mà. Anh biết rồi thế nào mọi sự cũng tốt đẹp và hai người sẽ thích nhau”.
Emma mỉm cười, nhưng không kết luận gì hết. Cô sung sướng vì đã quyết định chuyển tới Armley, ở chung nhà với Laura Spencer. Một cảm giác yên ổn kỳ lạ đến với cô, cô buông mình trong ghế, đột nhiên cảm thấy thoải mái và vững tin ở tương lai hơn. Mọi chuyện rồi sẽ ổn. Bây giờ cô biết như vậy. Lúc ấy Emma không nhận biết, nhưng cô sẽ không bao giờ quên buổi gặp gỡ đầu tiên với Laura Spencer chừng nào cô còn sống. Qua năm tháng, cô đã nhận ra rằng Laura là con người thành thật duy nhất cô biết và cô yêu chị sâu sắc.
Thứ sáu đó, Emma chia tay buồn bã với các bạn nghề của cô ở cửa hiệu thọ may, họ rất buồn tiễn đưa cô, cô chia tay với tất cả gia đình Kallinski và theo lời mời tha thiết của Janessa, cô đã ăn bữa cơm Sabbath với họ. “Bác muốn cháu hứa với bác là sẽ đến gặp bác ngay nếu một vài tháng tới cháu cần cái gì”, bà nói: “Armley cũng không xa lắm và bác sẽ tới đó”.
- “Ôi, bà Kallinski, bà thật tốt bụng quá. Cám ơn bà. Cháu xin hứa với bà”.
Đó là một cuộc chia tay đầy nước mắt, chỉ có David dường như không nao núng. Anh biết con đường của họ rồi sẽ gặp nhau. Anh có ý định làm rõ điều đó. Emma đưa anh địa chỉ của cô ở Armley và anh đã được cô hứa sẽ viết thư cho anh ngay khi cô ổn định. Ngay cả bà Daniel mắt cũng ngấn lệ khi Emma đi và cả bà cũng yêu cầu cô tới thăm luôn.
Sáng thứ hai, Laura đưa cô đến nhà máy của Thompson. Ngay từ giây phút cô bước vào đó, Emma đã căm ghét cái nơi này cũng ghê gớm như cô đã yêu mến cái nhà máy nhỏ bé của Abraham Kallinski. Không có tình đồng chí ở đây. Không có những câu chuyện đùa và tiếng cười. Kỷ luật cứng nhắc ngự trị, trưởng kíp khắc nghiệt và đòi hỏi trong khi họ đi đi lại lại giữa những hàng máy dệt. Emma lập tức ghê tởm mùi len sống, có tẩm dầu và điếc tai bởi tiếng thoi đưa lách cách không bao giờ dứt. Đến ngày thứ ba, cô hoàn toàn mất hết nhuệ khí khi cô chứng kiến một con thoi bay ra và đập vào mặt cô gái làm cô mang sẹo suốt đời, một tai nạn không phải là hiếm thấy.
Laura là người thầy tốt, kiên nhẫn và dễ hiểu trong những lời giải thích của mình. Tuy nhiên, Emma vẫn thấy quá trình dệt là khó khăn, cô kinh hoàng khi nó xảy ra hàmg trăm sợi chỉ đứt giữa khung cửi. Một cái “bẫy” như vậy phải mất đi hàng tiếng đồng hồ quí giá. Nhưng Emma rất cẩn thận, cô không bao giờ bị “bẫy” trong suốt thời gian cô làm việc ở nhà máy.
Trong cách thức cẩn thận của mình, cô kiên trì bền gan bền chí, vì cô đã quyết tâm không để cho bất cứ cái gì chiến thắng nổi mình. Cô cũng biết rằng cô không có một con đường nào khác ngoài việc chứng minh mình là một người thợ dệt có năng lực để kiếm sống. Chỉ với một ý nghĩ trong đầu, với trí óc nhanh nhẹn và những ngón tay khéo léo, dẻo dang cô đã học được thành thạo nghề dệt trong vòng một tháng, đúng như Laura đã đoán trước. Lòng tự tin của cô tăng lên khi nghề của cô khá hơn, tuy nhiên cô vẫn cứ ghét phải làm việc trong cái môi trường buồn tẻ và cứng nhắc này.
Cô và Laura bắt đầu làm việc lúc sáu giờ sáng và kết thúc lúc sáu giờ tối, đó là những ngày lê thê và u buồn đối với Emma. Những tuần lễ lướt thướt trôi, càng ngày bụng cô càng to hơn, một ngày một mệt mỏi và kiệt sức. Cô lo buồn nhận thấy đôi chân cô cứ tiếp tục sưng lên vì đứng những giờ dài dằng dặc ở khung cửi và cô cứ thường nghĩ rằng đứa bé sẽ sinh ra ngay dưới chân cô trên sàn của nhà máy. Tuy nhiên, Laura là một niềm an ủi to lớn đối với cô, và Emma luôn luôn ngạc nhiên trước óc hài hước tuyệt vời của chị, cô tự hỏi không hiểu mình sẽ thế nào nếu không có sự giúp đỡ không hề biết mệt mỏi và tận tụy của Laura.
Một buổi chiều thứ ba, vào cuối tháng ba, Emma biết đứa bé sắp ra đời. Laura đưa cô vào bệnh viện St. Mary ở Hill Top. Sau mười tiếng đồng hồ đau đẻ cô sinh được một đứa con đúng một tháng trước ngày sinh nhật lần thứ mười bảy của cô. Emma rất sung sướng đó là một bé gái.
Emma ngồi trước ngọn lửa trong phòng khách nhà Laura, nhìn một cách rầu rĩ vào khoảng không, đầu óc cô trĩu nặng với một vấn đề: một vấn đề đẩy tất cả mọi vấn đề khác sang bên. Cô đã sống với nó mấy ngày vừa qua từ khi đứa bé ra đời. Giờ đây cô biết nó phải được giải quyết và giải quyết ngay trước mắt. Emma có nhiều việc cần phải làm, nhưng quan trọng hơn cả vẫn là mối quan tâm đối với đứa bé. Cô cần phải quyết định về tương lai trước mắt của đứa bé. Cô không thể chần chừ.
Emma rùng mình, đột nhiên thấy lạnh ở đôi chân, cái đau tê dại ở trong xương. Cô cử động nặng nề, động tác không nhanh nhẹn như thường lệ, cô nhặt que cời đẩy nó vào những khúc gỗ trong lò sưởi một cách giận dữ như khai thông cái cảm giác vô vọng của mình. Những khúc gỗ rời ra, phùn phụt lửa làm cho căn phòng tràn ngập một ánh sáng rực rỡ nhất làm ngời lên cái rực rỡ ấm cúng của nó.
Ánh sáng chiếu qua đứa bé trong chiếc giường nhỏ (Laura đã lấy một chiếc ngăn kéo để đóng thành) chị đã trải bằng chăn dầy và những chiếc gối bằng bông tơ. Đứa bé nằm bên cô, mớ tóc to màu bạch kim của nó ánh lên trong ánh lửa, cặp má hồng hào tròn trĩnh của nó quay về phía cô, bàn tay nhỏ xíu của nó nắm lại bên chiếc miệng xinh xinh. Nó ngủ hết sức yên bình. Đứa bé này là của cô. Một phần của cô. Làm sao cô có thể bỏ nó? Hoàn toàn bất ngờ, một ý thức bảo vệ dữ dội tràn ngập lòng Emma, và một mục đích duy nhất đó đã thành công, đã nâng cô lên trên mọi tình huống, mục đích ấy được củng cố vững chắc. "Mẹ không để bất cứ điều gì xảy đến với con!" Cô thì thầm khe khẽ nhưng mãnh liệt với đứa bé đang ngủ. "Mẹ sẽ! Và con sẽ có những cái tốt đẹp nhất mà tiền có thể mua được. Mẹ hứa với con như thế!" Emma tiếp tục ngắm con gái, hôm nay đã bốn ngày tuổi, một lúc nữa rồi cô quay sang ngọn lửa. Không một hy sinh nào là quá lớn nếu như nó đảm bảo sự an toàn và tốt đẹp cho đứa bé. Cuối cùng cô cầm chiếc áo ngủ bằng flanen lên và quyết tâm không nghĩ tới tương lai nữa. Cô bắt đầu khâu. Bước từng bước một thôi. Chầm chậm. Chầm chậm. Vừa tiến lên vừa xây dựng. Đó là con đường duy nhất.
Trong khi tiếp tục những mũi khâu hoàn hảo của mình, một vầng thất vọng hoàn toàn, không bình thường đối với Emma, bao phủ lấy cô. Cô biết cô không thể giữ đứa bé lại với mình, mặc dù cô ao ước được làm như thế. Cô phải làm ở nhà máy để kiếm sống và không còn ai có thể trông nom đứa bé vào ban ngày. Emma không thể chấp nhận ý nghĩ cho làm con nuôi hoặc gửi vào trại trẻ mồ côi. Chỉ có một trong hai giải pháp đó. Emma không thú gì giải pháp này; tuy nhiên, cô đã nhận ra sau nhiều đêm không ngủ, rằng quả thực cô không còn sự lựa chọn nào khác nữa. Cô lại đưa vấn đề đứa bé trở lại trong đầu dằn vặt vật lộn với cái lợi và cái bất lợi của kế hoạch cô đã đặt ra, những ý nghĩ trái ngược nhau chen lấn trong đầu cô cũng nhanh như đường kim cô lướt trên gấu áo.
- "Có ai ở nhà không?"
Emma giật mình nhìn vội lên. Cửa mở và đó là Blackie O'Neill. Đó là một ngày tháng ba, gió quất vào bộ mặt xạm nắng của anh, làm mớ tóc anh xù lên bồng bềnh. Anh có dáng vẻ vui tươi hoạt bát, Emma thấy hình như anh hết sức tự hài lòng với mình. Anh mang theo nhiều gói.
- "Blackie! Em không ngờ anh đến sớm như vậy!" Emma kêu lên ngạc nhiên. Cô để đồ khâu xuống và đứng lên, tay bất giác vuốt lại mái tóc.
Blackie cười và để những chiếc gói xuống bàn. Anh kéo Emma lại, vòng đôi cánh tay to lớn quanh cô ôm chặt lấy cô, hết sức trìu mến: "Trời, trông em như một bức tranh của sắc đẹp và của sự khỏe mạnh sau khi em ở cữ". Anh nhận xét và nhìn cô một cách thán phục. Emma cố gượng cười, cố gắng che giấu sự lo âu của mình, nhưng cô không nói gì hết. Hình như không hay biết tới tâm trạng thất vọng của cô, Blackie vẫn tiếp tục nói hăng say: "Anh mang một ít quà cho bé đây. Nhỏ thôi!". Anh chỉ những thức để trên bàn.
- "Ôi, Blackie, anh hào phóng quá! Anh không được tiêu hết tiền cho đứa bé. Mới tuần trước anh vừa mua một chiếc khăn san xong mà".
- "Tiền là để làm như thế. Để mà tiêu chứ". Anh cởi bỏ chiếc áo khoác, treo nó ở trên mắc cửa: "Anh và cậu Pat làm ăn khấm khá hơn bao giờ hết. Tuần này anh và cậu kiếm được ba công việc quan trọng và phải mượn thêm người. Đấy, thành công đang chờ nhà O'Neill đấy". Anh quay lại và nháy mắt với Emma. "Mà, hôm qua anh vừa được chút của trời cho, em gái ạ. Thắng trong cuộc đua ngựa. Vì thế mà sáng nay, anh mới tự nhủ: tuần này mình may mắn như vậy, có chút tiền thừa trong túi Blackie O'Neill ngươi phải nên chia sẻ vận may của mình với Emma. Và anh lập tức lên đường tới Briggate mua vài ba thứ cho cháu nhỏ thân yêu của anh".
- "Em rất mừng anh đã thắng cuộc, anh Blackie. Nhưng sao anh không để dành tiền để xây ngôi nhà vĩ đại mà anh luôn nói tới?", Emma gợi ý. "Và một vài đồng shilling anh tiêu hôm nay cũng không làm thay đổi gì hết". Cái thân hình vạm vỡ của anh cúi xuống và quì trên sàn: "Xinh quá đi thôi!". Anh vuốt lại tấm chăn một cách hết sức cẩn thận. "Con bé bụ bẫm quá". Đứa bé cựa quậy và mở mắt, chớp chớp hàng mị dài màu bạc. Nó ọ ọe và đập chân dưới lớp chăn mỏng. Đôi mắt Blackie sáng lên: "Này, em gái này! Nó nhận ra bác Blackie của nó rồi đây này. Rõ ràng quá này".
- "Có vẻ như vậy. Con bé hiền lành lắm Blackie ạ, mà ngoan lắm. Nó không khóc tí gì từ khi ở bệnh viện St. Maria về”. Lúc này Emma mới nhìn lên bàn: “Cám ơn anh vì những món quà anh cho cháu”.
- “Yên lặng!”, Blackie kêu lên, anh đứng thẳng người. “Nào, Emma. Trước tiên gói này”. Anh đưa cho cô chiếc gói to nhất. Emma ngồi xuống ghế và mở chiếc gói: “Trời, Blackie, tuyệt quá”. Cô thốt lên và nhấc ra chiếc áo đan màu hồng có ruy băng màu hồng.
Blackie tươi cười: “Đây là chiếc mũ trẻ em và đôi giầy để đi cùng với áo đó”. Anh nói và đưa cho cô một cái gói nữa. Anh hy vọng tất cả đều vừa. Anh phải đoán cỡ, vì anh không quen mua những thứ nhỏ xíu như thế này! Anh nhìn Emma một cách lo ngại. “Em có cho như thế là ổn không?”
- “Tuyệt vời. Quả là tuyệt vời. Cám ơn anh, Blackie”.
- “Em mở cái này ra. Đây là gói cuối, - anh nói – không thực tế như cái áo, cái mũ đâu, anh nghĩ thế. Nhưng đứng về một phương diện nào đó, nó cần thiết. Đứa nhỏ phải có một ít đồ chơi, có phải thế không nào, em gái”.
Emma kéo tờ giấy ra đầy kích thích, giơ lên một con cừu lông trắng toát, cổ buộc chiếc nơ lớn mầu hồng và một cái nhạc. “Ôi, thật là tuyệt vời. Anh lại còn mua cả một cái lúc lắc nữa này”. Cô lắc lắc chiếc vòng bằng xương nhẵn bóng cũng có gắn cả chuông, rồi cô đặt cả con cừu và cái lúc lắc vào trong chiếc giường con bên cạnh đứa bé. Cô đứng lên và hôn Blackie. “Cám ơn anh Blackie. Anh tử tế với mẹ con em quá”. Emma cảm động vì sự chu đáo của anh và sự chăm sóc ân cần của anh đã dành cho hai mẹ con.
- “Ấy, có gì đâu, cưng của anh”, anh nói và nhìn quanh.
- “Laura ở đâu nhỉ?”
- “Chiều nay tại nhà thờ Cơ Đốc có cuộc bán những thứ lặt vặt, chị ấy trông nom một quầy ở đó. Chị ấy sẽ về vào giờ uống trà. Anh ở lại chứ anh? Chúng em mong anh”.
- “Nhất định rồi”. Anh ngồi ghế đối diện với Emma, lục túi tìm thuốc lá. Sau khi đã châm thuốc, anh nói: “Bao giờ em phải trở lại nhà máy làm việc, em gái?”
Emma không trả lời trong một giây, rồi cô ngẩng đầu lên chầm chậm. “Tùy theo ý em. Đốc công nói với Laura, em có thể nghỉ cả tuần sau khi ở viện ra. Lúc này nhà máy không bận lắm, và cũng không ảnh hưởng gì cho nhà máy hết vì em được trả theo sản phẩm. Họ không phải trả lương em khi em không làm việc”.
- “Tuần tới em có nghỉ không? Theo ý anh, em nên nghỉ”, Blackie nói, anh nhìn cô chăm chú.
- “Laura cũng nghĩ thế. Chị ấy lo lắng cho sức khỏe của em. Nhưng em thấy rất khỏe. Thật đấy, Blackie ạ. Em có thể trở lại thứ hai nhưng…”. Giọng cô dài ra, cô xem xét chỗ khâu rồi nói tiếp giọng tư lự: “Tuy nhiên em không nghĩ là em sẽ đi. Tuần sau em còn có việc phải làm”. Emma cúi nhìn xuống, không giải thích nữa. Blackie không muốn gặng hỏi anh biết như vậy sẽ làm cô bực tức. Không phải lúc nào cô cũng tâm sự và anh hiểu không nên hỏi han không đúng lúc.
Một lúc sau, Emma nói: “Thế công việc làm ăn của anh tốt chứ?”
- “Ừ, tốt em ạ! Và em biết không, anh đang vạch ra những kế hoạch đầu tiên cho ngôi nhà mới của anh, một trong những thiết kế của riêng anh”. Anh cười gượng gạo. “Ồ, nó không phải là toàn bộ ngôi nhà, chỉ là một cái bọn anh xây trên ngôi nhà đã có sẵn cho một khách hàng ở Headingley. Quí ông có ngôi nhà ấy đúng là một nhà quí tộc, anh phải nói thêm như vậy theo ý của anh, ông ấy bảo anh cứ tiến hành kế hoạch của mình. Anh theo học những lớp thiết kế ban đêm. Rồi em sẽ thấy, em gái”.
- “Tuyệt vời quá, Blackie”.
Điều đó được nói lên một cách lơ đãng. Blackie lập tức nhận thấy bộ mặt khép kín của cô, sự thiếu hăng hái của cô. Anh ngắm cô kỹ càng và nhìn thấy ánh u tối trong đôi mắt xanh của cô, vẻ quyết liệt trên đôi môi cô. Không, không phải là quyết liệt. Đau khổ, anh chắc chắn như vậy. Anh tự hỏi không hiểu điều gì xảy ra, nhưng rồi kìm lại không hỏi thêm nữa. Trong khi tiếp tục nói về cái nhà anh thiết kế và xây dựng, Blackie vẫn liếc mắt nhìn cô. Cuối cùng anh không thể giữ yên lặng được nữa. “Tại sao trông em buồn thế, em gái? Không giống tính cách của em chút nào”. Cô không trả lời. “Này, Emma, em có bộ mặt như một tuần lễ mưa. Có chuyện gì thế em?”
- “Ồ, không có gì hết, thực…”. Cô do dự một lúc rồi mới buột ra ngược lại với ý muốn của mình. “Em hơi lo ngại về chuyện đứa bé không được rửa tội”.
Blackie kinh ngạc. Anh chăm chú nhìn cô không hiểu rồi ngửa đầu về sau cười phá lên. Emma có vẻ phật ý nhưng anh không kìm được. “Lo ngại về chuyện đứa bé không được rửa tội ấy à?”. Anh nhắc lại, cố gắng kìm sự vui thích của mình. “Emma, anh không còn tin ở tai mình nữa. Tại sao điều ấy lại làm em phiền? Thì em đã chẳng bảo với anh hàng tháng nay, em là kẻ vô thần sao?”
- “Đúng thế! Và em không thay đổi ý kiến về vấn đề đó”. Emma kêu lên. “Nhưng em cảm thấy thế nào ấy. Nếu không để cho cháu được rửa tội. Đứa bé khi lớn lên có thể sẽ không tin ở Chúa, nó sẽ chống lại em nếu như nó thấy được là nó không được rửa tội”.
Anh có thể thấy là cô hoàn toàn nghiêm chỉnh vì vậy anh nói. “Tại sao em không đến gặp cha xứ của nhà thờ Cơ Đốc và thu xếp…”
- “Ồ, em không thể làm như thế được”, Emma cắt ngang một cách gay gắt, nhìn anh trừng trừng lạnh lùng. “Ông cha xứ sẽ cần giấy chứng minh của nó, đó là theo tục lệ và ông ấy sẽ thấy ngay rằng đứa bé là… là.. con tư sinh, và như vậy ông ấy sẽ không làm phép rửa tội cho. Vả lại, em không muốn ông ấy hoặc bất cứ ai biết công việc của em”.
- “Emma, nếu em không đến nhà thờ thì anh cũng không biết là em sẽ phải làm gì. Anh không nghĩ ra được một giải pháp nào hết. Em không thể rửa tội cho cháu được, chỉ có thế thôi?”
- “Em biết thế. Nếu như anh không hỏi vì sao em buồn thì em đã chẳng nói với anh làm gì. Và anh nói đúng, chẳng có thể làm được gì hết. Em sẽ chỉ còn biết hy vọng sau này đứa bé sẽ không giận em”.
Nếu đứa bé có giận thì giận vì là con tư sinh, chứ không phải là lễ rửa tội của nó, hoặc là thiếu lễ rửa tội, Blackie nghĩ vậy: “Em đầy mâu thuẫn, em gái. Nhưng emma này, nếu như nó quan trọng như vậy đối với em, tại sao em không đưa cháu bé tới một nhà thờ ở một miền khác ở Leeds? Một nhà thờ nơi em không biết một ai hết và làm lễ rửa tội cho cháu ở đó. Như vậy thì có ai nhìn thấy giấy chứng sinh của cháu cũng chẳng làm sao hết”.
- “Không, không! Em không muốn bất cứ ai biết được nó là con tự sinh”. Emma sẵng giọng.
Đột nhiên một ý nghĩ chợt đến với Blackie. Một ý nghĩ tuyệt vời: “Anh nghĩ ra rồi! Chúng ta sẽ làm lễ rửa tội lấy! Ngay ở đây, ngay bây giờ”. Anh nhẩy chồm lên, sải bước về phía chậu rửa trong bếp. “Nước của công ty Leeds cũng tốt như tất cả mọi thứ nước để làm lễ rửa tội, anh nghĩ thế”. Anh hét lên vui vẻ: “Đưa cho anh một cái bát”.
- “Anh tự làm lễ rửa tội lấy, là nghĩa làm sao? Em không hiểu”. Đôi mày cô cau lại.
- “Vì em cứ lo nghĩ chuyện đứa bé không được rửa tội, thì chính anh sẽ làm việc đó cho. Ngay bây giờ. Bế cháu ra chậu. Nào nhanh lên”, anh đứng ở cửa giục.
Sự ngỡ ngàng hoàn toàn trên mặt Emma. “Anh làm! Nhưng như vậy có hợp lệ không? Em muốn nói, như vậy có phải là lễ rửa tội thực sự không?”
- “Chắc chắn là thực. Cứ làm như lời anh nói”. Blackie nói như ra lệnh: “Anh có thể làm công việc này cũng tốt y như một cha xứ, hoặc một linh mục vậy. Mặc dù anh là người không theo đạo, nhưng anh vẫn tin ở Chúa, em biết không. Có thể là anh không đi nhà thờ, Emma, nhưng anh chưa bao giờ mất niềm tin. Không bao giờ. Em hãy tin điều ấy. Và Chúa sống trong mỗi chúng ta. Đó là niềm tin chân chính của anh. Anh cảm thấy Người trong tim anh, và đấy là điều quan trọng nhất. Cảm thấy tình yêu thương và sự hiện hữu của Người đời đời với chúng ta”.
Mặc dù Emma ngạc nhiên, cô biết anh chân thật ở mỗi lời nói của anh.
Blackie nói tiếp bằng một giọng dịu dàng: “Anh không nghĩ là Người sẽ giận anh, khi anh làm công việc này trong lúc khẩn cấp. Và Người sẽ đón nhận cháu bé làm một trong những đứa con được ban phước của Người, Emma ạ. Chắc chắn là như thế. Con trai của người, Chúa Jesus đã nói: “Những đứa trẻ đau khổ hãy đến cùng ta, đừng ngăn cấm chúng vì đó là giang sơn của Chúa”. Xin em hãy tin anh, chính lễ rửa tội và tinh thần của tình thương mới là cái đáng kể chứ không phải người thực hiện nó hoặc nó được thực hiện ở đâu. Chúng ta không cần một nhà thờ, hoặc bình đựng nước rửa tội, Emma ạ”.
- “Em tin anh, Blackie. Em muốn anh rửa tội cho cháu”.
- “Đúng là Emma của anh”, Blackie nói. “Nào em bế cháu lên và mang nó lại đây”. Blackie đang bận bịu với chậu rửa, chuẩn bị một bát nước âm ấm rồi anh vội vã tới tủ buffet rút ngăn kéo tìm một chiếc khăn tắm.
Emma lúc này đã nhắc đứa bé ra khỏi chiếc giường con, nựng nó trên tay, vuốt ve khuôn mặt nhỏ bé của nó.
- “Ôi, con gái nhỏ ngọt ngào của mẹ”, Emma thốt lên mê say. Đột nhiên khuôn mặt của Edwin Fairley thoáng hiện trong mắt cô. Nếu như Edwin không tàn nhẫn như vậy. Nếu như Edwin nhìn thấy đứa bé lúc này, anh ta sẽ yêu nó như chính mình.
Trước sự kinh hoàng của mình, Emma thấy cô không thể xóa bỏ khuôn mặt anh, hoặc tên anh. Cô đã không nghĩ tới anh ta trong nhiều tuần và có nghĩ thì cũng với lòng căm ghét ghê gớm nhất. Anh ta chỉ thoáng hiện trong đầu cô lúc đứa bé sinh.
Emma đang mải miết với những ý nghĩ về Edwin Fairley đến độ cô trở nên lơ đãng và buông mình cảnh giác.
Blackie đang gọi từ bên kia phòng: “Này, thế em gọi cháu bé là gì nào? Em đã nghĩ được một cái tên chưa?”
Emma quá mê mải, cô không kịp suy nghĩ. Tên của Edwin ở đầu lưỡi cô, cô nói một cách máy móc. “Edwin…”. Khi cái tên đó buột ra khỏi miệng, Emma lặng đi bên chậu rửa, quá kinh hoàng vì sự thiếu thận trọng của mình. Cái gì đã khiến mình nói ra cái tên ấy nhỉ? Cô tự hỏi, lòng căm giận chính mình. Cô không bao giờ có ý định đặt tên cho đứa bé theo tên Edwin. Cô đã quyết định đặt tên cho đứa bé là Laura từ nhiều tuần lễ trước. Emma cảm thấy hình như máu đã trào hết ra khỏi thân thể cô.
Quai hàm Blackie trễ xuống, miệng anh há ra, anh trân trân nhìn lại cô. Anh có thể thấy được cô hết sức căng thẳng, hai bả vai cô nhô lên qua làn lụa mỏng của chiếc áo trắng cô đang mặc. Anh nhắc lại cái tên Edwina một mình và rồi không cần phải suy nghĩ đến một lần thứ hai, anh biết cha của đứa bé là ai – Edwin Fairley. Anh không còn nghi ngờ gì nữa. Mọi thứ đã đâu vào chỗ đấy. Tại sao anh lại không nghĩ đến Edwin trước đây nhỉ?
Nó hiển nhiên quá. Và anh đã nghi những chuyện cô kể từ nhiều tháng nay, vẫn chắc chắn rằng cô Emma khó tính không bao giờ lại dan díu mới một anh trai làng. Trái tim Blackie đau đớn cho Emma, anh mong ước an ủi cô. Nhưng anh kìm lại được. Mặc dù cô quay đi chỗ khác, Blackie cũng thấy được một cách hết sức rõ ràng sự bối rối của cô, anh đoán cô đã trót buột miệng một cách ghê gớm. Anh chắc chắn cô không bao giờ có ý định gọi đứa bé là Edwina. Tại sao cô lại gọi tên ấy ra rành rọt thế? Không, Emma khôn ngoan từng trải không bao giờ làm như vậy. Đó là một sai lầm cô không bao giờ sửa nổi.
Và thế là Blackie lấy một giọng hoàn toàn không quan tâm và nói vui vẻ: “Em tìm đâu ra cái tên thanh lịch làm vậy, em gái? Chắc là ở một trong những tạp chí có hình ảnh chứ gì. Chắc chắn đó là do trí tưởng tượng nhưng rất thích hợp cho cháu bé của anh. Anh thích cái tên ấy. Thật sự”.
Emma gật đầu, không tin là mình đã nói. Blackie bận rộn rối rít với chiếc khăn tắm, khoác vào cánh tay rồi thử nước, kéo dài thồi gian để cô có thể trấn tĩnh lại. “Nào, anh xong rồi đấy” anh nói với một nụ cười rạng rỡ. Nâng cháu lên Emma. Thế, được rồi. Tốt, em gái”.
Đã hơi trấn tĩnh lại, Emma nói: “Tên của cháu là Ed…Edwina”. Cô ngập ngừng, nuốt mạnh rồi nói tiếp vững vàng hơn “Laura Shane…”
- “Shane”, Blackie ngắt lời, sự ngạc nhiên của anh hiện rõ. “Vâng, theo tên anh. Em không thể gọi cháu là Dermon, Patrick, còn Blackie thì hơi kỳ, có phải không?”
Blackie cười một mình. “Đúng! Đúng! Ồ, và anh vui lắm, em biết không, Emma. Thôi chúng ta bắt đầu đi”. Anh nhúng ngón tay vào một bát nước một cách long trọng và làm dấu thánh giá trên trán đứa bé.
- “Khoan đã”, Emma thốt lên, mắt mở to. “Em không phải là một người Cơ Đốc Giáo, cháu bé cũng thế. Trong nhà thờ của Anh, cha xứ chỉ vẩy nước thành từng giọt. Ông không làm dấu thánh. Chúng ta phải làm cho đúng cách. Anh bắt đầu lại đi”.
Blackie cố nén cười. Đối với một người gọi là vô thần, cô thật là khó tính. “Anh hiểu, Emma”. Anh lau dấu thánh trên trán đứa bé bằng chiếc khăn tắm và bắt đầu lại một lần nữa, anh nhúng những ngón tay to lớn mầu nâu của anh vào nước và theo đúng nghi thức, vẩy một vài giọt lên đứa bé lúc này đang nhìn anh không chớp mắt.
- “Cha rửa tội cho con Edwina Laura Shane Harte! Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”. Blackie làm dấu thánh rồi anh cúi xuống hôn đứa bé. Anh mỉm cười với Emma rồi cũng hôn cô. “Đó, em gái. Cháu nhỏ đã được làm lễ thánh. Điều ấy có làm em sung sướng hơn không?”
- “Có, Blackie ạ. Cám ơn anh. Thật là đẹp. Và anh hãy nhìn đứa bé xem này. Nó lại đang cười và nó thậm chí không khóc khi anh vẩy nước lên người nó. Em chắc nó sẽ có một cuộc sống tốt đẹp nhất. Tốt đẹp nhất, anh Blackie”. Cô quay nhìn anh, ánh mắt cô long trọng. “Nó sẽ có quần áo đẹp nhất, đi học ở những trường tốt nhất và nó sẽ trở thành một phu nhân thực sự. Em sẽ thực hiện những điều ấy. Không có gì có thể ngăn được em”. Vẻ trang nghiêm dịu lại thành một nụ cười âu yếm. “Không hiểu khi nó lớn lên, nó sẽ như thế nào, Blackie. Anh nghĩ sao?”
Một Fairley, đó là một điều chắc chắn, Blackie suy nghĩ trong khi ngắm nhìn đứa bé một cách khách quan. Những dấu vết đã có rồi, tuy đứa bé còn rất nhỏ. Anh nói: “Cháu sẽ xinh đẹp, Emma. Đúng thế. Nhưng hãy đặt cháu vào giường và lấy chai rượu của Laura ra. Anh nghĩ điều ít nhất chúng ta có thể làm được là uống mừng cháu bé”.
- “Ồ, Blackie, anh có nghĩ như vậy là đúng không? Laura có thể bực mình chúng ta nhúng vào…”
- “Đừng vớ vẩn, Emma”, Blackie nói qua tiếng cười “Cô ấy không để ý đâu. Và dù sao thì chúng ta cũng phải đến cửa hàng rượu mua một chai khác mà. Chúng ta phải mừng Edwina, em biết không. Đấy là tục lệ”.
Emma gật đầu và làm như lời anh bảo. Họ uống rượu port mừng đứa bé mà Emma đã rót vào hai chiếc ly nhỏ. “Cầu cho cháu khỏe mạnh, giàu có và khôn ngoan”, Blackie nói và uống một ngụm, “và anh không cần phải thêm chữ đẹp vào nữa bởi vì chúng ta đã biết rằng cháu sẽ giống mẹ nó”.
Emma cười với anh một cách hết sức trìu mến, hai người ngồi trước ngọn lửa, uống rượu, đắm chìm trong suy tư. Một lát sau, Emma nói: “Mình đừng nói với Laura về chuyện làm lễ rửa tội. Chị ấy sẽ không tán thành đâu. Chị ấy không nghĩ như vậy là đúng đắn. Chị ấy sẽ tự hỏi tại sao em không đến nhà thờ”.
Blackie gật đầu và cau mặt: “Ồ, em nói đúng đấy. Nhưng chúng ta sẽ nói với cô ấy thế nào, Emma? Xét cho cùng, cô ấy không biết sự thật. Cô ấy sẽ nghĩ thật là lạ nếu không rửa tội cho đứa bé”.
- “Em sẽ bảo với chị ấy em sẽ làm lễ rửa tội cho cháu ở Ripon”, Emma nói, trong khi cô nhận ra rằng cuối cùng cô đã quyết định tương lai trước mắt của đứa bé.
- “Ripon! Tại sao lại ở đó?”, Blackie nhìn cô tò mò.
Emma đăm đăm nhìn anh, hắng giọng và nói nhẹ nhàng:
- “Bởi vì em sẽ đi với cháu đến đó tuần tới. Em sẽ đưa cháu tới ở Freda, người chị họ của em”. Blackie hình như kinh hoàng, Emma vội vàng giải thích: “Cháu sẽ ở đó với người chị em họ của em. Anh biết là em không thể giữ cháu cùng với em trong khi em phải làm việc. Chính anh đã nói như vậy nhiều tháng trước”.
Đôi mắt Blackie nheo lại: “Em đã liên hệ với người chị em họ của em rồi sao? Chị ấy có đồng ý nhận Edwina không?”. “Không, em sợ không dám viết, ngộ nhỡ chị ấy từ chối. Nhưng nếu em đến cùng với cháu, em biết chị ấy sẽ không làm như thế”. Emma nói, cô nói bằng một giọng chắc chắn nhất. “Freda là một phụ nữ tốt, anh Blackie ạ, và chị ấy rất gần gũi với mẹ em, mặc dù chị ấy trẻ hơn mẹ em nhiều. Chị ấy có dáng của bà mẹ và rất yêu trẻ. Chị ấy cũng có hai con còn nhỏ. Em biết chị ấy sẽ không từ chối em khi chị ấy thấy cháu bé. Và em sẽ trả tiền chị ấy trông nom Edwina”.
Blackie thở dài: “Ừ. Anh cũng nhìn thấy mặt thực tế của ý kiến này, nhưng em không nhớ cháu sao, Emma?”
- “Ồ, có chứ, anh Blackie. Em sẽ nhớ nó lắm! Nhưng chừng nào em ổn định, em sẽ mang Edwina trở lại sống với em. Trong khi đó, em sẽ đi thăm cháu một hoặc hai lần trong một tháng”.
Blackie lắc đầu, trông anh đau buồn và tâm hồn Celtic của anh đau đớn vì phải chia ly với con của cô. Nhưng mà anh nói vui vẻ. “Thế bao giờ em định đi Ripon?”
Emma cắn môi: “Tuần tới em sẽ mang cháu đến đó, trước khi em trở lại làm việc. Thứ năm. Em sẽ ở với Freda đêm ấy và cả ngày thứ sáu, ở với cháu lâu hơn một chút nữa”. Nhìn thấy vẻ thất vọng trên nét mặt anh, cô kêu lên. “Em phải làm như vậy. Em không còn cách nào khác nữa!”. Nước mắt dâng lên, giọng cô run rẩy.
- “Anh biết, Emma, anh biết. Em đừng bối rối”. Blackie đáp lại đầy thông cảm. Anh nghiêng người về phía trước, nắm lấy tay cô: “Trong hoàn cảnh này, đó là cách khôn ngoan nhất”.
- “Ít nhất thì cháu bé cũng ở cùng với một người trong gia đình em, và cháu được sống trong bầu không khí nông thôn trong lành. Emma nói một cách kiên quyết như để thuyết phục mình cũng như thuyết phục Blackie về sự khôn ngoan trong quyết định của cô.
Blackie nói: “Nhưng còn ba em thì sao? Người chị em họ của em không nói cho ba em biết về cháu bé sao?”
- “Không, nếu em yêu cầu, chị ấy sẽ không nói đâu”. Emma nói giọng tự tin, hy vọng là mình đúng. “Chị ấy biết ba em là người như thế nào và vì mẹ em chị ấy sẽ che cở cho em. Hai người như chị em với nhau”. Emma nhìn thẳng vào mắt anh và nói tiếp: “Em sẽ nói với chị ấy toàn bộ sự thật, anh Blackie ạ, về anh trai làng phụ bạc kia rồi bỏ vào Hải quân. Em sẽ phải làm như thế”.
- “Ồ, anh cũng nghĩ thế”, Blackie nhận xét, lúc này anh đã thấy là sự thật được bẻ cong đi chút ít. Rồi một ý nghĩ nữa đến với anh, anh suy nghĩ một phút trước khi nói.
- “Emma, trước đây em có nhắc tới giấy chứng sinh. Em sẽ phải đi đăng ký ngày sinh. Em sẽ phải đi đăng ký ngày sinh của cháu bé với hộ tịch viên ở Leeds để lấy giấy khai sinh. Và em cũng phải khai tên bố của cháu vé. Đó là luật”. Mặt Emma sầm tối vì sầu khổ. Chính cô đã nghĩ tới điều này và nó làm cô đau đớn không ít. Cô thẳng người không nói gì hết.
- “Anh có thể đoán được em đang nghĩ gì em gái. Khi hộ tịch viên hỏi em tên bố, em sẽ nói không rõ bố có phải thế không?”
- “Vâng”, cô khẽ thú nhận.
- “Ừ, anh biết. À, anh nghĩ, em nên để tên anh làm cha của đứa bé”, anh nhấn mạnh.
Emma bàng hoàng: “Ôi, Blackie, em không thể làm điều đó! Em sẽ không làm thế! Tại sao anh lại chịu phần trách nhiệm ấy?”
Cái nhìn thăm thẳm của anh không hề nao núng. “Thế em muốn nói tên thật của cha đứa bé à, Emma?”. Anh hỏi xoáy.
- “Không!”, cô thốt lên, đôi mắt lóe sáng.
- “Ồ, vậy thì đề tên anh vào giấy khai sinh không hơn ư? Giấy khai sinh vẫn chỉ ra rằng cháu là con tự sinh, anh nhận thấy như thế. Nhưng nhất thì, một cái tên dù cho là như vậy, trông vẫn tốt hơn là không rõ bố, em hãy nghĩ đến điều ấy, em gái”.
- “Nhưng, anh Blackie…”
Anh giơ tay lên cho cô yên lặng, và trên mặt anh có nét oán trách: “Em có biết rằng em hay nói câu “Nhưng, anh Blackie” đến thế nào không? Em luôn luôn không đồng ý với anh. Thôi như vậy là xong?”. Anh tuyên bố bằng một giọng không cho phép người ta tranh luận nữa. “Và anh sẽ đi cùng em đến phòng hộ tịch, để biết chắc là em có làm như lời anh nói hay không”. Anh giơ tay và vỗ vỗ vào cánh tay cô. “Rồi em sẽ thấy, mọi sự sẽ tốt đẹp cả thôi, Emma. Và anh sẽ sung sướng được có trách nhiệm với Tinker Bell như lời em nói đó”. Anh cười ranh mãnh. “Anh muốn nói tới Edwina Laura Shane. Con gái đỡ đầu của anh, gọi như vậy”. Đôi mắt Emma ngập đầy nước mắt. Cô lần tìm chiếc khăn tay và hỉ mũi, cố gắng chế ngự sự xúc động của mình.
- “Anh tốt quá, anh Blackie. Em không hiểu tại sao anh lại làm nhiều như thế cho em”.
- “Bởi vì anh lo cho em và cho đứa bé. Phải có một người nào đó chăm nom cho cả hai mẹ con em trong cái thế giới khó khăn này, anh nghĩ thế”, anh nói một cách nhẹ nhàng, lòng trìu mến của anh ánh lên trong đôi mắt đen sáng.
- “Sau này anh sẽ thấy hối tiếc. Em muốn nói là anh sẽ hối tiếc, để tên anh vào giấy khai sinh”.
Blackie cười xoà: “Anh không bao giờ hối tiếc những cái anh đã làm, em gái của anh. Anh thấy hối tiếc chỉ là một sự hao phí thời gian một cách có tội”.
Một nụ cười thoáng trên môi Emma. Cô biết cố gắng thuyết phục để anh đừng làm một điều gì là vô ích một khi anh đã quyết. Cả anh nữa cũng có thể rất ương bướng. Cô nhìn ngọn lửa trầm tư. “Em phải để giấy khai sinh ở một chỗ an toàn. Khóa lại, Laura sẽ không bao giờ thấy được”. Cô nói giọng lặng lẽ hầu như không nghe thấy được.
Blackie không chắc chắn là anh có nghe đúng không. Anh nghiêng người về phía trước và hỏi. “Em nói gì?”
Cô nhìn anh vẻ đầy hiểu biết. Emma nói: “Laura không bao giờ nhìn thấy giấy khai sinh. Bởi vì có tên anh ở đó”.
- “Anh chẳng cần chuyện ấy”, Blackie kêu lên. “Nhưng cô ấy chẳng nên nhìn thấy, chỉ với một lý do đơn giản là cô ấy sẽ biết em chưa có chồng và đứa bé là con tự sinh”. “Có phải anh đã nói với Laura là em lấy một thủy thủ tên là Winston Harte không?”. “Em đã quên rồi sao, Emma”. Anh thở dài nặng nề: “Nói dối là rắc rối như vậy đấy”.
Emma đỏ bừng mặt: “Đó chỉ là những lời nói dối vô hại. Đó là vì cháu bé, và anh cũng đồng ý là em đúng cơ mà”, cô đáp lại một cách dữ tợn. “Và em cũng không quên gì hết. Em chỉ nghĩ rằng em phải bảo vệ anh. Và em không muốn Laura phật ý. Chị ấy sẽ phật ý nếu chị ấy thấy tên anh ở giấy khai sinh. Chị ấy có thể tin rằng anh thực sự là cha của đứa bé”.
- “Vậy thì sao”, Blackie hỏi, anh càng ngạc nhiên hơn.
- “Laura yêu anh, Blackie ạ”.
- “Yêu anh! Laura! Thật là chuyện nhảm nhí, em gái ơi”.
Anh bật cười và lắc đầu không tin: “Laura có bao giờ nhìn anh đến lần thứ hai đâu. Anh cũng không cần nói với em chị ấy là người Cơ đốc giáo, một người ngoan đạo và chị ấy biết là anh không phải người như thế. Thôi nào, Emma, thật là một ý nghĩ kỳ quặc. Yêu anh! Thề có các vị thần linh thiêng, em đã lẫn lộn mất rồi”.
Emma nhìn anh một cách trìu mến, nhưng hơi sốt ruột.
- “Anh là một thằng ngốc, Blackie O’Neill. Anh không nhìn được cái đã rành rành. Tất nhiên chị ấy yêu anh. Yêu anh lắm”.
- “Chị ấy có nói với em như thế không?”, anh hỏi, đôi mắt anh bối rối.
- “Không, chị ấy không nói với em. Nhưng em biết chị ấy yêu anh”. Nhìn vẻ hoài nghi của anh, Emma nói thêm một cách hăng hái: “Em biết, tự sâu kín trong lòng mình, là chị ấy yêu anh”.
Blackie lại không thể nhịn cười: “Em giàu óc tưởng tượng quá, Emma. Đúng như thế. Anh không tin một chút nào hết”.
Emma nhún vai đành chịu: “Tùy anh, nhưng đó là sự thật. Cô khẳng định một cách mạnh mẽ. Anh có thể biết được qua cách chị ấy nhìn anh và thỉnh thoảng nói với anh. Em nghĩ nếu anh hỏi, chị ấy sẽ lấy anh”.
Blackie choáng váng. Một vẻ lạ lùng trên nét mặt anh, một vẻ mà Emma không thể đọc nổi. Emma nói vội vàng:
- “Dù sao anh cũng không được nói với chị ấy là em đã nói gì. Chị ấy sẽ bối rối nếu như chị ấy nghĩ là chúng ta nói chuyện về chị ấy sau lưng chị. Vả lại, chị ấy cũng chưa hề bảo em là chị ấy yêu anh. Đó chỉ là ý kiến của em thôi”.
Blackie vẫn không trả lời gì. Emma đứng lên và đi về chỗ anh. Cô khẽ chạm vào bờ vai to lớn của anh, anh ngước nhìn lên, đôi mắt anh đột ngột lấp lánh.
- “Anh hứa với em là anh sẽ không nhắc chuyện đó với Laura nhé, anh Blackie. Em xin anh”.
- “Anh hứa sẽ không nhắc chuyện đó đối với bất cứ một sinh linh nào”, anh nói và khẽ vỗ vào bàn tay nhỏ bé để trên vai anh: “Yên trí là anh sẽ giữ lời hữa”, Emma gật đầu và lướt vào bếp. “Em phải chuẩn bị các thứ để uống trà”, cô ngoái lại nói.
- “Ồ, em gái”, anh nói và ném một khúc gỗ nữa vào ngọn lửa. Blackie ngồi một cách thoải mái trong ghế, châm một điếu thuốc, thỉnh thoảng lại cười một mình, hết sức thú vị với câu chuyện của Emma và không hề bị thuyết phục. “Đó chỉ là những nhân vật có tính lãng mạn của cô gái”, anh nghĩ thế và rít điếu thuốc. Tuy thế, cô cũng để cho anh một điều bối rối, phải suy nghĩ. Anh ngồi nghĩ tới khả năng Laura có thể yêu anh, một ý nghĩ trước đây không bao giờ đến với anh, một ý nghĩ quá mạnh khiến anh lảo đảo. Dần dần, rất nhiều những điều Laura đã nói và đã làm trong mấy năm gần đây trở lại với anh thật sinh động và rõ nét, những điều coi là vớ vẩn nhưng bây giờ lại thành có ý nghĩa theo những lời bình luận của Emma. Không biết những lời phỏng đoán của Emma về Laura với anh có đúng không? Quả là anh không tài nào biết được. Mà Emma đâu phải là ngốc. Cô là người nhạy cảm, thực tế mà nói, anh vẫn thường giật mình vì tài nhìn người của cô. Sửng sốt anh nghĩ tới Laura Spencer và anh thấy khó có thể đánh giá được chiều sâu của tình cảm anh đối với Laura. Ồ, anh ta yêu cô ta. Không còn nghi ngờ gì điều ấy nữa. Không thể nào không yêu một cô gái dịu hiền như thế. Nhưng anh yêu cô như thế nào? Có phải anh yêu cô không? Anh có muốn cô làm vợ anh làm mẹ của các con anh không? Anh có muốn chia sẻ cuộc đời, chiếc giường của anh với cô không? Có phải cô là đối tượng của lòng ham muốn đàn ông, dục vọng của anh? Anh lắc đầu, bối rối không sao hiểu được tình cảm thực của anh với Laura. Còn Emma thì sao? Anh cũng yêu cô! Anh luôn luôn tin rằng đó chỉ là một tình cảm anh em: giờ đây anh tự hỏi có phải anh đã vô thức tự mê hoặc mình không, anh nhớ lại cái đêm anh ở trong quán Con vịt nhớp nhúa khi anh đề nghị cô lấy anh cốt chỉ để bảo vệ, che chở cho cô; và đêm ấy anh đã thấy cô là một thiếu nữ đầy sức lôi cuốn. Blackie thấy rằng anh đã bị dồn tới chỗ bực bội với chính mình. Không biết có phải anh thực sự yêu Emma theo cách một người đàn ông khỏe mạnh cường tráng yêu một người đàn bà với tất cả trái tim và linh hồn mình. Anh cố gắng xem xét một cách khách quan mối quan hệ tình cảm của anh với cả hai cô gái nhưng rốt cuộc chỉ thêm hoang mang, bối rối hơn bao giờ hết, hầu như ở trong một tình trạng tiến thoái lưỡng nan. Làm sao một người có thể yêu hai người đàn bà trong cùng một lúc? Anh tự hỏi với nỗi bực dọc ngày một tăng. Anh đưa tay lên vuốt tóc một cách lơ đãng. Thật là một mớ hỗn độn, Blackie O’Neill, anh tự nhủ. Cái nhìn trong đôi mắt đen và sáng của anh đầy suy tư trong khi anh cố gắng trả lời những câu hỏi trăn trở mà cuộc nói chuyện của Emma đã đặt ra. Nhưng những câu trả lời vẫn lẩn tránh anh một cách đáng căm giận và chúng sẽ còn tiếp tục như vậy trong một thời gian khá dài nữa.
Vào lúc hai giờ chiều, phố chính của làng Fairley trông hoang vu. Đó là một ngày tháng tư mát mẻ và bình thường đối với một ngày như thế này trong năm, bầu trời nặng những đám mây màu xám tro đang cuồn cuộn trôi dọc theo vùng đồng hoang đen muôn đời không thay đổi, trường trong cái yên lặng kỳ dị tiến về phía chân trời nhạt nhòa. Mặt trời đầy hơi nước đã lui về từ nhiều tiếng trước và khu làng trông không có vẻ gì là mến khách, những bức tường đá xám và những mái nhà đá đen hòa trong một phong cảnh bán công nghiệp. Gió thổi về từ miền thung lũng đá vôi nhuốm mưa ở biển bắc và một trận mưa rào là hiển nhiên. Trước đó mưa đã đổ xuống, mái nhà và những tảng đá tròn có màu bạc mờ mờ trong một vùng u ám.
Đối với Emma, leo lên ngọn đồi dốc, ngôi làng hiện ra bé hơn là trong hồi tưởng của cô, nhớ lại một cách kỳ lạ, nhưng bây giờ cô đã có một sự so sánh lớn lao hơn, cô nhận ra mắt cô đã quen với những tòa cao ốc ở Leeds, những cơ sở kinh doanh đẹp đẽ ở Armley. Những cảnh tượng buồn chán của mọi vật chung quanh mờ đi, trở nên phi lý, bởi cô đang chứa chan hạnh phúc. Cô mỉm cười một mình. Cô đang mong gặp lại cha và Frank và sự đoàn viên này, điều mà cô ao ước da diết trên hết mọi ý nghĩ của cô trong bao nhiêu ngày này. Họ không biết hôm nay cô sẽ trở về; cô không viết báo tin trước vì muốn dành cho họ một sự ngạc nhiên sung sướng. Nỗi ngóng chờ của cô. Mười tháng qua, Frank chắc đã lớn lắm, cô nghĩ. Cô không hiểu bây giờ họ như thế nào, bé Frank đã mười ba tuổi và cha cô. Cô cũng đã bỏ rất nhiều công chăm sóc bề ngoài của mình trước khi lên đường sáng hôm nay, quyết định làm cho mình xinh đẹp nhất. Điều này một phần do tính tự hào của cô thúc đẩy, nhưng cũng là để chứng minh cho cha cô biết cô đã thành công như thế nào khi tự lập trong đời. Cô mặc chiếc áo lụa đỏ và áo khoác len đen trước đây của Olivia Wainright, một đôi ủng màu đen vừa mới mua tuần trước. Túi mua hàng cô mang có những quà tặng được lựa chọn một cách đầy suy nghĩ: tất, một chiếc áo sơ mi, một cái ca vát cho cha cô, và một cái píp hút thuốc ông thường ưa thích, bít tất, một sơ mi và giấy viết thư cho Frank cùng với cuốn David Copperfield(1). Và cẩn thận để trên tất cả những thứ đó là một bó hoa mùa xuân để đặt trên mộ mẹ. Cô đã lấy trong số tiền dành dụm quí báu của cô để mua mọi thứ, một cách vui vẻ và đầy lòng yêu thương; ở trong túi xách đen của cô còn có ba tờ ba pounds mới cứng cho cha để giúp vòa việc chi tiêu trong gia đình.
Ngọn đồi dốc, nhưng Emma leo lên một cách dễ dàng. Dáng đi của cô cả quyết và cảm thấy bừng sức sống. Bản chất lạc quan, Emma lúc này hết sức tin tưởng vào tương lai.
Đứa bé đã được thu xếp một cách ổn định ở với Freda chị em họ của cô ở Ripon. Đúng như Emma đã tiên đoán trước với Blackie, Freda hết sức vui lòng nhận Edwina chừng nào Emma muốn. Tuy chị ngạc nhiên trước sự xuất hiện đột ngột của Emma ở ngoài cửa sổ hoặc choáng váng vì câu chuyện của cô, chị Freda vẫn đầy âu yếm và thông cảm đã không hề phản bội tình thương yêu ấy. Chị đã hứng lấy mọi chuyện. Sự tiếp đón của chị thành thật, chị rối rít với Emma và không ngớt lời khen Edwina xinh đẹp và dễ dạy. Chị đã hứa chăm nom đứa bé như con mình và đã cam kết giữ bí mật chuyện của Emma không cho Jack Harte biết, chị không thân mật với ông và chị nói là từ khi Elizabeth mất năm 1904, chị không biết tin tức gì hết. Emma rời Ripon để trở lại Armley, cô đã bình tĩnh hơn và mặc dù cô buồn vì phải xa con, lòng tin tưởng ở Freda, giống như một người mẹ, đã giúp cô nguôi nỗi buồn phiền. Cô biết Edwina ở trong tay một người có khả năng, nó sẽ được chăm nom cẩn thận và được yêu thương.
Lúc này khi đi qua Bạch Mã trên đường lên đồi, Emma rảo bước cô không muốn gặp bất cứ một người đàn ông hoặc thanh niên nào trong làng, những người uống bia và không rời khỏi quán trước hai giờ chiều. Họ có thể xuất hiện bất cứ lúc nào để về nhà ăn bữa cơm trưa muộn ngày Chủ nhật. Cô mới đi qua quán rượu một vài bước thì nghe thấy tiếng cửa mở, những giọng nói khàn khàn vang lên trong không gian khá lạnh, vài ba người đàn ông lảo đảo bước ra phố, vui vẻ một cách om sòm vì số lượng bia khổng lồ họ đã tiêu thụ, Emma bước nhanh hơn.
- “Emma!”
Tim cô như ngừng thở cô có một sự thôi thúc muốn chạy, không muốn bị lôi kéo vào một cuộc nói chuyện hoặc phải trả lời những câu hỏi tò mò của người địa phương. Cô rảo bước không quay nhìn lại. Đồ say rượu, cô nghĩ một cách khinh thị.
- “Emma! Trời ơi, đợi chút nào. Anh đây mà, Winston đây!”
Cô đứng sững và quay ngoắt lại, mặt bừng lên. Anh trai cô, rực rỡ trong bộ quân phục hải quân đang chạy đuổi theo cô, vừa vẫy chiếc mũ hải quân trắng, bỏ rơi tất cả các bạn. Họ đang nhìn theo Winston, miệng há hốc liếc mắt đưa tình với Emma đang đứng sững trên đồi. Winston nhào lên. Anh choàng hai tay ôm lấy cô, hôn tới tấp vào mặt và tóc cô. Một niềm hạnh phúc trào dâng khắp người cô, cô bám chặt lấy anh, tình thương yêu của cô đối với anh dữ dội và chân thật như bao giờ. Với một nỗi đau khổ, cô nhận ra rằng cô đã nhớ anh đến thế nào.
Sau một vài giây ôm hôn nhau, họ lùi xa và tự động nhìn chằm chằm vào mặt nhau, đôi mắt dò hỏi, Emma nín thở khi cô ngước nhìn lên Winston. Nét mặt anh trước đây vẫn luôn luôn đẹp nhưng gần như vẻ đẹp con gái. Bây giờ nó đẹp trai lồng lộng. Lần cuối khi cô gặp anh, anh đã trưởng thành lên nhiều, gò má cao, lông mày rậm, mũi thẳng, miệng rộng chiếc cằm gọn ghẽ, thanh tú như bao giờ nhưng bây giờ trông đã mảnh mai hơn. Một sức mạnh trong khuôn mặt anh nói lên tính chất đàn ông to lớn của anh, và đôi mắt màu xanh to dưới đôi lông mày đen, rậm, sáng hơn là đôi mắt có thể nhớ lại, được lóa lên trong ánh sáng lạnh của phương Bắc. Mái tóc đen của anh bay trong gió, và hàm răng trắng lóa trong khuôn mặt rạng ngời khi anh mỉm cười với cô. Anh đã lớn và nở nang. Anh cao như cha họ, vai rộng và gân guốc. Anh ấy quá đẹp trai, Emma nghĩ. Phụ nữ hẳn phải mê anh ấy nhưng đàn ông hẳn phải căm ghét anh. Cô chắc chắn thế, và rồi tự hỏi không biết bao nhiêu cô gái đã gục dưới chân anh, bao nhiêu trái tim tan nát đã nằm rải rác theo tiếng gọi của anh, phái nữ không thể cưỡng nổi anh, cô nhìn thấy điều ấy quá rõ ràng. Cô kinh ngạc tự hỏi cái mẫu đàn ông này lại là anh trai cô, cái cậu bé mảnh khảnh, tính tình cáu bẳn hay chòng ghẹo cô một cách độc ác, giật tóc cô, cãi nhau với cô và đánh cô, nhưng luôn luôn là một đồng minh kiên cường khi cần thiết, người mà cô thầm kính phục.
Winston nhìn lại Emma và nghĩ: nó đã thay đổi nhiều quá. Có một cái gì rất khác về cô. Cô tự tin hơn, thậm chí trần tục hơn. Trời ơi, cô đúng là một cô gái mê hồn. Anh tự chữa lại. Không, Emma bây giờ là một phụ nữ và đã chín để hái. Một sự ghen tuông nổi dậy trong người anh, mạnh mẽ sôi sục đến nỗi làm anh run cả người vì những ý nghĩ của mình. Một người đàn ông xuất sắc nhất cũng không xứng đáng với em gái ta. Lúc này anh mới nhận ra rằng anh ngưỡng mộ cô. Sự thật thì đây là vấn đề khúc mắc chính trong cả cuộc đời anh. Trong con mắt anh, không một người phụ nữ nào có thể sánh nổi với em gái anh.
- “Trông anh tuyệt vời”, cuối cùng Emma nói được. Cô phá vỡ sự yên lặng, mắt cô tràn đầy một ánh sáng dịu dàng.
- “Cả em cũng thế, em gái nhỏ của anh”, Winston nói, “mà lớn hẳn lên rồi”. Anh mỉm cười với cô âu yếm và tự hào, thế rồi nụ cười ấy giá lại. Niềm vui của anh bị tắc khi anh nhớ lại bé Frank tội nghiệp đã nhớ mong Emma như thế nào, và vẫn còn đang nhớ mong chị, một ánh giận dữ lóe lên trong đôi mắt sửng sốt ấy. Anh nắm lấy cánh tay cô. “Này, Emma em biến đi đâu bao nhiêu tháng rồi? Cả nhà lo lắng muốn chết! Tại sao em lại có thể bỏ đi được như vậy?”
Một nụ cười giấu trên nét mặt Emma, “Ồ, chân mình lấm đất bê bết, có phải không?”
Winston trừng mắt: “Anh là đàn ông. Nó khác. Em không có việc gì phải lẻn nhà ra đi như thế. Ở nhà mọi người cần em”.
- “Đừng hét lên như thế, Winston”, Emma nói, “Ba biết em ở đâu. Em vẫn viết thư thường xuyên cho ba và gửi tiền cho ba”.
Winston nhìn em chăm chú và cau mặt lại. “Phải rồi, nhưng em không bao giờ đề địa chỉ trên mặt lá thư ấy – làm sao gia đình có thể viết thư lại được. Như vậy là sai lầm đó, Emma”.
- “Ba biết là em đi cùng với bà chủ của em, bà John Smith ở Bradford. Anh Winston, xin anh đừng giận dữ như thế và buông tay em ra. Anh làm em đau”.
- “Xin lỗi”, Winston lẩm bẩm và buông bàn tay mạnh mẽ của mình. Anh nắm lấy tay cô. “Thôi nào, đừng đứng đây làm cho mọi người phải chú ý nữa. Anh đã thấy hàng chục tấm rèm cửa hé ra rồi đấy”. Anh gần như lôi cô lên đỉnh Top Fold.
- “Em chắc bây giờ anh đã có tàu rồi phải không anh- Winston?”. Emma hỏi một cách sôi nổi, hy vọng xua đuổi được thái độ hung hăng, hiếu chiến của anh trai.
- “Ừ”. Winston nói gọn lỏn.
Không nao núng vì sự ít lời này, Emma hỏi tiếp: “Anh Winston, anh đóng ở đâu?”
- “Scapa Flow”.
- “Ồ, anh phải cho em địa chỉ của anh để em viết thư cho anh hàng tuần. Anh có
thích em viết thư cho anh không?”
- “Nếu em muốn”.
- “Có chứ, em muốn. Và em cũng sẽ cho anh địa chỉ của em. Anh sẽ viết thư trả lời cho em chứ, anh Winston?”
- “Ừ”.
Emma thở dài trong lòng. Tuy nhiên, cô biết rõ anh trai mình để mà không nản lòng bởi những câu trả lời cục cằn của anh. Sự lảng tránh trong những lá thư của cô về địa chỉ của cô trong những tháng qua rõ ràng là vẫn còn làm anh day dứt. Cô hy vọng cha cô sẽ không có một thái độ như vậy, cha cô sẽ không oán giận gì. Lúc này cô nói một cách vui vẻ: “Ở tong hải quân chắc phải vui lắm. Được thấy nhiều nơi. Em rất mừng là anh đã vào hải quân, anh Winston ạ, thực thế. Sao nữa, anh có thể nhìn đời đúng như anh vẫn hằng mơ ước ngày anh còn bé”. Anh không trả lời, nhưng Emma thấy mặt anh dịu lại, cô thúc thêm: “Thật là hấp dẫn, có phải không?”
Winston không thể giận dữ với Emma thân yêu của mình lâu được. Vả lại, anh hiểu sự lỗ mãng của anh, anh không được làm cô rối loạn lên một cách không cần thiết. Nhất là lúc này khi mà một vài phút nữa thôi, cô sẽ phải chịu một cơn chấn động khủng khiếp, và thế nên làm ra vẻ vui vẻ mà trong lòng anh thực sự không cảm thấy, anh nói: “Đúng, em nói đúng. Rất là hấp dẫn. Anh yêu hải quân, Emma ạ. Anh học tập được rất nhiều, không phải chỉ là cuộc sống trên biển cả mà còn nhiều cái khác nữa. Thật là tuyệt vời. Trong hải quân, anh rất khá, Emma ạ”.
Lời nói cuối làm cô hết sức sung sướng. Cô há to miệng, nhưng trước khi cô kịp bình luận, anh đã nói tiếp: “Để anh nói cho em một điều anh chưa hề nói với ai, Emma ạ. Lúc đầu anh cũng hơi sợ”.
Đôi mắt Emma mở to. “Anh sợ? Em không tin!”
Winston nhẹ người, anh đã đánh lạc hướng không để Emma hỏi bất cứ một câu hỏi cam go nào về gia đình. Anh hắng giọng: “Ồ, đúng thế”, anh tâm sự, một nụ cười méo mó trên khóe miệng. “Đó là đêm anh bước lên con tàu lần đầu tiên. Đó là một đêm trời lạnh, tối và mưa, họ chuyển bọn anh từ trại Shotley, đối diện Harwich, sang Sheerness. Chiếc thuyền xuất kích được kéo tới bên chiếc thuyền anh trèo lên thang tới tay lái và nhìn thấy những chữ bằng đồng khổng lồ ở phòng trên tàu ánh lên trong ánh sáng mờ. “Kính Chúa, tôn xưng Vua” dòng chữ đề. Anh có cảm giác kỳ quặc nôn nao trong ruột, Emma, anh bàng hoàng và khiếp sợ. Những chữ đó rất… rất – có ý nghĩa và trang nghiêm. Quả là mạnh mẽ. Đột nhiên anh hiểu những truyền thống vĩ đại của Hải quân Anh và nó có ý nghĩa như thế nào. Danh dự lòng dũng cảm, vinh quan thừa kế của những người như Drake và Raleigh và Nelson. Anh nhận ra rằng mình đang phục vụ Vua và đất nước. Anh cảm thấy tự hào và trách nhiệm. Đêm hôm ấy, anh nghĩ, anh bắt đầu coi hải quân là một vấn đề nghiêm chỉnh. Nó không đơn giản chỉ là một con đường thoát khỏi Fairley hoặc một sự bông đùa.
Emma vừa có ấn tượng tốt đẹp, vừa xúc động trước những lời ấy. “Em tự hào về anh, Winston. Em chắc ba cũng thế”.
Cái nhận định này đã xóa hẳn nụ cười trên mặt anh. “Nhanh lên”, anh nói và rảo bước.
Emma phải chạy mới theo kịp anh, “có phải ba cũng thế không?”, cô hỏi một cách vui vẻ, mặc kệ vẻ lầm lì của anh và cười rạng rỡ.
- “Anh không biết”. Winston lẩm bẩm, anh tránh đầu sang một bên.
- “Anh có nói với ba tất cả những chuyện ấy không? Tất cả những truyền thống của hải quân và những điều anh cảm nhận. Điều ấy sẽ làm ba vui, anh Winston. Nhất định thế. Ba cũng từng là một người lính trong cuộc chiến Boer(2), và ba là một người yêu nước”.
Để ngăn mọi cuộc nói chuyện về cha của họ, Winston nói: “Còn em thế nào, Emma? Em có khỏe không? Anh để ý thấy em nói chuyện rất hoa mỹ”.
Thích thú, cô liếc mắt nhìn anh và nói một giọng đùa cợt. “Cả anh cũng thế, Winston Harte. Anh nghĩ là em điếc chắc?”
- “Không, anh không nghĩ thế. Anh phải chú ý đến mình, Emma ạ. Trong mọi phương diện. Mà không phải chỉ là cách ăn nói thôi. Anh sắp được thăng cấp”. Anh tuyên bố.
- “Em không nghĩ rằng anh muốn làm một anh lính trơn mãi chứ. Anh đang leo những mức thang. Anh sẽ là một thủy thủ có khả năng rồi làm một thủy thủ hàng đầu. Sau đó, anh có ý định làm một hạ sĩ quan, có thể làm sĩ quan một ngày nào đó”.
- “Không phải là Hải quân đô đốc sao?”. Emma trêu.
- “Anh biết những hạn chế của mình”, anh cãi lại, nhưng giọng anh tử tế. Anh quàng tay lên vai cô bao dung, theo cách anh làm khi hai người còn bé. Cô lập tức nhận biết được tình yêu không nói. Emma mỉm cười trong lòng, cô nghĩ được gặp lại Winston thật là tuyệt vời, và chỉ trong một vài giây nữa thôi, cô sẽ ôm hôn cha cô, bé Frank, và lại như ngày xưa.
Họ vội vã xuống Top Fold trong yên lặng và khi hai người tới cổng vườn dẫn vào ngôi nhà, tim Emma dựng lên vì sung sướng, cô lách khỏi vòng tay của Winston, chạy bay lên lối đi lát đá. Cô không nhìn thấy vẻ đau đớn bao phủ khuôn mặt Winston.
Frank quay lưng về phía cửa, cậu đang nhìn đăm đăm vào trong bếp lò đặt ở cạnh lò sưởi thì Emma bước vào: “Anh lại về muộn rồi, anh Winston. Dì Lily mà biết được thì dì sẽ ca cho. Em đã cố gắng để bữa ăn của anh được nóng, nhưng bây giờ nó thế nào rồi ấy. Dù sao, cơm đây, anh Winston”. Cậu bé đứng quay ngoắt lại. Chút nữa thì đánh rơi chiếc đĩa cậu đang cầm khi nhìn thấy Emma. Miệng cậu trễ xuống, đôi mắt mở to đầy cả khuôn mặt nhỏ bé, trông như hai vũng nước có màu sáng xám.
Cậu bàng hoàng. Cậu đập mạnh chiếc dĩa xuống bàn một cách cẩu thả rồi chạy bay qua phòng. Cậu nhào vào đôi cánh tay dang rộng của Emma với một tốc độ nhanh xuýt nữa thì làm cô ngã nhào. Cô ôm chặt lấy em, vuốt ve mái tóc cậu. Cậu bắt đầu nức nở khóc, thảm thiết như thể trái tim muốn vỡ tung. Cô vừa giật mình, vừa khinh hoàng và cô cố gắng dỗ dành an ủi cậu.
- “Frank, em yêu, đừng khóc như thế. Chị đây vẫn khỏe mạnh, an toàn và còn có quà cho em nữa. Quà em sẽ thích đây Frank”.
Cậu ngước khuôn mặt tàn nhang và đầy nước mắt lên nhìn chị và khịt mũi nói: “Em nhớ chị, Emma. Nhớ chị lắm! Em cứ nghĩ chị không bao giờ trở về. Không bao giờ trở về nữa”.
- “Đừng ngốc. Chị bao giờ cũng sẽ trở về gặp em. Chị cũng nhớ em, Frank. Nào, thôi, đừng khóc nữa, để chị cởi áo đã”.
Winston ném cái mũ cát lên ghế, không thể nhìn Emma vì quá lo âu, anh chán ngán nhìn thức ăn trên đĩa. Từ lâu nó đã đông lại thành một cục, thịt bò rán, khoai tây nghiền, măng Brussels tất cả đều bết lại với nhau.
- “Anh không thấy đói lắm”, anh lẩm bẩm khe khẽ. Winston thất vọng thấy mình đã mất nhuệ khí, làm sao anh có thể nói với cô? Tất cả những lời lẽ phải trái đã bay đi hết, đầu óc anh chỉ còn là trống rỗng.
- “Dì Lily sẽ tức giận nếu anh không ăn”, Frank báo trước.
Emma treo áo khoác sau cửa, cô quay lại bên lò sưởi với túi mua hàng. Cô đặt những bông hoa vào chậu, lôi quà ra cho Frank, hy vọng sẽ đưa được một nụ cười lên khuôn mặt nhỏ bé, ủ ê của Frank. “Những cái này của em đây, cưng”, cô nói và nở một nụ cười rạng rỡ rồi quay sang nói với anh trai: “Em xin lỗi anh Winston, em không mang gì về cho anh. Em không biết anh được nghỉ phép về. Nhưng không sao cái này có lẽ có ích, em chắc vậy”. Vừa nói, cô vừa mở túi xách lấy ra những tờ một “pound” mới tinh. “Anh cầm lấy, anh Winston. Anh có thể mua một ít thuốc là và bia”.
Cô mang quà cho Frank, cậu yên lặng nhận quà. Rồi mắt cậu sáng lên: “Cám ơn Emma. Đúng cái em cần”. Nỗi sung sướng của cậu không che giấu được.
Lúc này Emma bận bịu lấy những thứ khác ra.
- “Những cái này cho ba”, cô nói, giọng nhẹ nhàng. “Ba đâu?”, cô liếc nhìn từ Winston sang Frank, một vẻ mong chờ sung sướng trên nét mặt cô.
Winston để dao và nĩa xuống đĩa, tiếng kêu lẻng xẻng. Frank đứng ngó nhìn chị trống rỗng, tay vẫn nắm chặt lấy gói quà. Cả hai không ai nói gì.
- “Ba của chúng ta đâu?”, Emma hỏi. Họ vẫn không trả lời. Winston cúi mặt xuống nhưng lại ngẩnh nhanh lên, loáng mắt nhìn Frank cảnh cáo, cậu bé mặt trắng bệch.
- “Có chuyện gì thế? Tại sao cả hai lại yên lặng?”. Đó là một lời yêu cầu dữ dội và sự sợ hãi bắt đầu ngấm qua những mạch máu của cô. Cô nắm lấy cánh tay Winston giục giã, ghé sát mặt vào mặt anh và nhìn thẳng vào mắt anh: “Ba đâu, Winston?”
Winston hắng giọng lo lắng: “Ba ở cùng với má, Emma ạ”. Emma thở dài nhẹ nhõm: “Ồ, anh muốn nói là ba đi thăm mộ mẹ chứ gì. Giá em về sớm hơn một chút có phải la em đã đi cùng với ba không. Em nghĩ có lẽ em sẽ chạy đến đó, đuổi kịp ba trước khi…”
- “Không, Emma, em không thể làm như thế”, Winston kêu và nhảy lên, anh vòng cánh tay quanh cô và đưa cô ngồi vào một chiếc ghế. “Em ngồi xuống đây một chút, Emma”.
Winston cũng ngồi xuống ghế đối diện với cô. Anh cầm ấy một bàn tay cô và nắm chặt. “Em không hiểu anh, cưng”, Winston bắt đầu nói giọng lí nhí quá khẽ cô hầu như không nghe được. “Anh không muốn nói là ba của chúng ta đi thăm mộ mẹ đâu. Anh muốn nói là ba đã ở đó với mẹ. Nằm bên cạnh mẹ trong nghĩa trang”.
Winston nhìn em chăm chú, sẵn sàng tiến lại nếu cần, để làm giảm cơn đau của cô. Nhưng hình như cô không hiểu.
- “Ba của chúng ta chết rồi”, Frank nói tuột ra một cách trẻ con. Giọng cậu nặng trĩu u buồn.
- “Chết”, Emma thì thào, không tin là thật. “Ba không thể chết được. Không thể được. Nếu ba mà chết thì tôi đã biết rồi. Tự trong lòng tôi, tôi phải đã biết rồi chứ. Tự trong tim tôi. Tôi biết là tôi phải biết”. Trong khi thốt ra những lời này, cô nhận ra vẻ mặt sầu thảm của hai người, rằng đó là sự thật. Mặt Emma khô héo. Nước mắt dâng lên, trào ra khóe mắt, lăn lặng lẽ xuống hai gò má, rơi xuống vạt áo lụa đỏ thành những vệt nhỏ.
Đôi mắt Winston mờ đi và anh khóc như đã khóc khi cha anh chết. Bây giờ nước mắt của anh là cho Emma. Cô đối với cha họ gần gũi hơn là anh hoặc Frank. Anh đưa tay lên chùi mắt một cách kiên quyết, nhất định cứng rắn. Anh phải cố an ủi cô, làm nhẹ bớt nỗi đau khổ của cô. Anh quì dưới chân Emma, vòng tay ôm lấy cô, cô gục xuống người anh, tiếng nức nở làm rung chuyển toàn thân cô. “Ôi, anh Winston. Ôi, anh Winston. Em không bao giờ thấy ba nữa! Em không bao giờ thấy ba nữa!”. Cô khóc lóc thảm thiết.
- “Thôi, thôi em!”, Winston nói và vuốt tóc cô, anh nói nhẹ nhàng với cô, ôm cô vào ngực mình, an ủi và âu yếm một lúc lâu sau, tiếng nức nở của cô giảm đi rồi dần dần tắt hẳn.
Frank đang pha trà ở chậu rửa, cố nuốt nước mắt. Cậu phải dũng cảm, cậu đã lớn rồi. Winston đã nói với cậu như thế. Nhưng nỗi đau khổ khủng khiếp của Emma đã lây sang cậu, đôi vai cậu rung lên trong sự đau đớn câm lặng. Winston nhận thấy sự khốn khổ của cậu bé, anh vẫy gọi Frank và dang một cánh tay ra. Frank bước qua sàn, vùi đầu vào Winston, anh ôm cả em gái và em trai trong đôi cánh tay của mình, âu yếm với lòng tận tụy to lớn. Bây giờ anh là chủ gia đình và có trách nhiệm đối với cả hai người. Ba anh em nép bên nhau trong nỗi xót thương câm lặng, tìm được nguồn an ủi trong sự gần gũi, cho đến lúc cuối cùng, nước mắt của họ đã cạn.
Gian bếp đầy những chiếc bóng nhẹ nhàng lắc lư, ánh sáng màu xám ở bên ngoài lọt vào một cách lạnh lẽo qua ô cửa kính, ngọn lửa trong lò mờ nhạt vì những khúc củi đã cháy gần hết. Không có một tiếng động nào hết ngoại trừ tiếng rin rít của chiếc ấm đặt trên bếp, tiếng tích tắc thì thầm của chiếc đồng hồ cổ, tiếng lộp bộp của mưa xuân gõ vào cửa sổ. Giọng nói của Winston nghe sâu lắng trong cái yên lặng thê lương này.
- “Bây giờ chỉ còn lại ba anh em mình. Chúng ta phải bám lấy nhau. Chúng ta phải là một gia đình. Đó là điều ba và má muốn. Chúng ta phải trông nom nhau, Emma, Frank, hai em có nghe anh nói không?”
- “Có, anh Winston”, Frank thì thầm.
Mê hoảng và rầu rĩ, Emma ngồi thẳng lên, lấy tay lau mặt. Cô trắng nhợt đi. Mắt sưng và đỏ mọng, môi cô run rẩy, nhưng cố kìm chế một cách sắt đá, mỉm cười yếu ớt với Winston. Cô gật đầu hiểu những lời anh nói. Cô không thể nói được.
- “Frank, em mang hộ trà ra bàn”, Winston vừa nói vừa đứng lên một cách mệt mỏi. Anh ngồi xuống chiếc ghế đối diện với Emma, lấy một điếu thuốc lá ra. Anh nhìn vào gói thuốc Woodbines và nhớ lại, một thoáng buồn nhớ, cha anh vẫn thường kêu ca về đầu thuốc lá vứt bừa bãi.
Emma ngồi thẳng hẳn lên, cô đối diện với Winston. “Tại sao anh không nói cho em ngay khi em gặp anh ở quán White Horses?”, cô lẩm bẩm.
- “Sao anh có thể nói được, Emma, ở giữa phố làng. Gặp em anh mừng quá, anh chỉ có thể nghĩ được là anh sung sướng biết chừng nào khi thấy em vẫn bình yên mạnh khỏe. Anh sung sướng một giây. Thế rồi anh bắt đầu sợ. Vì thế mà anh cứ trò chuyện huyên thuyên về hải quân và giục giã em về nhà cho nhanh. Anh biết em sẽ quỵ. Anh muốn em ở đây, trong ngôi nhà này khi nghe tin xấu đó”.
- “Vâng, anh đúng. Anh đã làm điều tốt nhất. Nhưng ba… từ.. từ bao giờ…”. Cô áp chiếc khăn tay vào mặt và cố gắng kìm những tiếng nấc. Cô đã quá đau buồn khi mẹ chết, nhưng đó là điều cô đã tiên lượng hàng tháng trước. Còn tin cha cô chết quá đột ngột khiến cô bị hủy hoại trong trạng thái choáng váng khủng khiếp.
- “Ba chết được năm ngày sau khi em đi, tháng tư vừa rồi”, Winston nói giọng buồn bã, vừa rít thuốc lá, vẻ mặt anh đầy đau khổ.
Emma biến sắc mặt, cô nhợt nhạt ngay đơ như được tạc bằng đá. Mình không hề biết, cô nghĩ. Suốt những tháng ấy mình đã viết cho ba. Viết những điều dối trá kinh khủng. Và trong suốt thời gian ấy, ba đã mất vùi trong lòng đất lạnh. Cô đưa tay bưng miệng, nén một tiếng nức nở, hổn hển trong yên lặng.
Cuối cùng Winston trấn tĩnh được, em Frank đã mang trà. Cô cầm lấy một tách nước. Tay cô run quá, cô phải để tách xuống lại. Cô nhìn đăm đăm vào khoảng không, cuối cùng mới hỏi được: “Ba chết như thế nào?”, giọng cô kiệt đi. Cô nhìn Frank rồi nhìn Winston.
- “Có một tai nạn, Winston nói, lúc ấy anh ở Scapa Flow. Dì Lily gửi điện cho anh và họ cho phép anh về chịu tang. Cả nhà không biết tìm em ở đâu, Emma, bọn anh cứ nghĩ chỉ vài hôm nữa là em sẽ về. Hy vọng rồi lại hy vọng. Nhưng…”
Emma yên lặng. Cô không đưa ra nổi lý do gì. Một cảm giác khôn cùng trong dạ dày, tội lỗi chen với đau khổ, thật khôn cùng. Một vài giây sau cô run run hỏi: “Tai nạn gì?”, Bây giờ cô muốn biết hết mọi chuyện dù cho có đau lòng đến mấy. Cô quay sang Frank đang ngồi bên cạnh cô. “Em có mặt ở đấy trước khi Winston về. Em có thể nói cho chị biết không? Nó có quá khó khăn cho em không Frankie? Quá đau lòng không, cưng?”
- “Không, chị Emma. Em có thể kể cho chị nghe”. Cậu nuốt mạnh.
- “Anh Winston nói em phải dũng cảm và mạnh dạn chấp nhận những đòn đánh khốc liệt của cuộc đời”. Cậu nói bằng một giọng trang nghiêm thỉnh thoảng cậu vẫn dùng. Cô thương cảm cho em. Cậu bé còn quá nhỏ mà đã phải cố gắng dũng cảm.
- “Frank, em là một chú bé ngoan ngoãn và dũng cảm. Em kể tất cả cho chị nghe đi, nhưng cứ thong thả”. Cô nắm lấy tay em.
- “Chị Emma ạ, cái buổi thứ bảy chị ra đi, em và ba đang làm việc ở nhà máy. Lúc đó có một đám cháy và ba bị bỏng ở lưng, vai và đùi. Bỏng cấp ba, bác sĩ Mac nói như vậy. Và ba hít phải nhiều khói quá”.
Máu của Emma đông lại khi nghe em nói. Cô rùng mình, tim cô thắt lại khi cô hình dung ra cơn đau đớn của cha, sự khổ sở mà chắc chắn ông đã phải chịu đựng từ những vết bỏng hành hạ đó. Cô cố tự trấn tĩnh, không muốn làm Frank bối rối, cậu đã rưng rưng nước mắt rồi.
- “Chị không sao chứ, chị Emma?”. Cậu hỏi lo ngại.
- “Không sao, Frank ạ. Cứ kể nốt cho chị nghe đi”.
Bằng một giọng trang trọng, cậu kể lại những chi tiết cụ thể của những vết thương cha họ phải chịu đựng, sự chăm sóc người ta dành cho ông, mối quan tâm của Adam Fairley, sự tận tụy hết lòng của bác sĩ Mac, vợ ông và của các bác sĩ ở bệnh viện thung lũng.
Khi cậu bé kể xong, Emma nói bằng một giọng ngọt ngào.
- “Thật là khủng khiếp cho ba phải chết trong đau đớn như vậy. Tôi không thể chịu đựng được khi nghĩ tới điều đó. Thật là khủng khiếp cho ba”.
Frank nhìn chị chăm chăm. “Dì Lily nói ba không muốn sống nữa”. Giọng cậu nghẹn lại, mặt cậu chỉ toàn xương và tàn nhang. Emma thấy em như một ông già.
Cô nhìn em ngây dại, lông mày cau lại: “Tại sao dì nói một điều kỳ lạ và kinh khủng như vậy về ba chúng ta. Dì định nói gì, hả em?”
Frank nhìn Winston, anh gật đầu đồng ý: “Ngày nào bọn em cũng đi thăm ba”, Frank giải thích, “Tom Hardy đưa chúng em đi trong xe của ông chủ. Ba hình như không khá hơn, chị Emma ạ. Chiều thứ tư sau tai nạn, khi chúng em có mặt ở đó, dì Lily nói với ba: “Nào, Jack, anh biết anh không thể cứ tiếp tục mãi như thế này. Anh phải nhúc nhắc, cố gắng lên chứ. Nếu không thì anh sẽ phải ở cùng Elizabeth tội nghiệp của chúng ta, trong nghĩa trang ấy”. Và ba, nhìn dì một cách thật là lạ lùng, một cái nhìn xa vắng trong đôi mắt ba. Rồi ba nói: “Tôi mong được ở cùng Elizabeth, Lily ạ”.
Và khi bọn em về, em hôn ba và ba nói: “Tạm biệt, con, Frankie. Con luôn luôn ngoan nhé”. Như thế đó. Kết cục như thế. Và khi ba hôn Winston…”. Mắt Frank lướt sang anh. “Anh Winston, anh nói cho Emma biết ba bảo gì anh đi”.
Winston vuốt tóc: “Ba nói với anh: “Hãy trông nom các em, Winston. Hãy bám vào nhau. Và khi nào Emma từ Bradford trở về, bảo với em bẻ một cành thạch nam cho ba và cho mẹ con ở trên đỉnh của Thế Giới và luôn giữ nó để nhớ đến ba và mẹ! Và rồi…”, giọng Winston vỡ ra, khi nhớ lại chuyện cũ. Anh hít một hơi thật sâu và nói tiếo, giọng nhẹ nhàng: “Ba cố nắm lấy tay anh, Emma ạ. Nhưng tay ba bỏng và băng đầy vì thế anh ghé mặt anh xuống mặt ba, ba lại hôn anh và nói: “Ba yêu tất cả các con, Winston ạ. Nhưng ba yêu Elizabeth nhất và ba không thể sống không có mẹ con được”. Anh bắt đầu khóc, nhưng ba thì mỉm cười và trong mắt ba một tia sáng bùng lên. Nó sinh động như đôi mắt em vậy, Emma ạ, trông ba hạnh phúc. Thực sự hạnh phúc. Ba nói với anh không nên buồn, bởi vì ba đến với mẹ. Anh nghĩ ba hơi mê sảng, nói thật với em. Lúc đó bác sĩ đến và yêu cầu bọn anh đi ra. Chính trên đường trở lại Fairley, dì Lily nói là ba đã chết vì vỡ tim, chứ không phải vì những vết bỏng. Ba không bao giờ nguôi thương nhớ mẹ. Ba chết ngay đêm hôm ấy,
Emma. Yên ả, trong giấc ngủ. Hình như ba muốn chết, như lời dì Lily nói”.
Emma nói với tiếng nức nở nghẹn ngào: “Ba có hiểu là em không từ Bradford trở về, và vì thế mà em không có mặt không, anh Winston?”
Anh cố gật đầu: “Có, và ba không lo lắng đâu, Emma ạ. Ba nói ba không cần phải gặp em, bởi vì em đã được khóa lại ở trong tim người mãi mãi!”.
Emma nhắm đôi mắt bốc lửa của mình, ngã người tựa vào ghế. Ba mình cần mình mà mình lại không có mặt ở đó. Nếu như mình nán lại lâu hơn chút nữa. Cô kinh hoàng không dám nghe thêm nữa, nhưng cô không thể ngăn mình không dò hỏi thêm những chi tiết khác: “Hẳn phải là một đám cháy khủng khiếp. Chắc em không bị sao, nhờ trời. Có nhiều người bị thương không? Có người nào khác chết nữa không?”
- “Không, em không bị sao hết”, Frank làm cho chị yên lòng. “Một số người bị bỏng nhẹ, không có gì là trầm trọng. Chỉ có ba là chết thôi, Emma ạ”.
Emma nhìn em không hiểu: “Nhưng nếu có hỏa hoạn ở nhà máy thì hẳn là…”
- “Hỏa hoạn không ở tòa nhà của nhà máy. Nó ở nhà kho lớn”, Frank ngắt lời. “Ba đi ngang qua sân và thấy ngọn lửa đang hoành hành. Nếu ba không đi vào trong nhà kho thì ba chẳng việc gì hết. Chị ạ, cậu Edwin ở trong sân nhà máy hôm ấy, cậu đang cố gắng để mở cánh cửa của nhà kho. Cậu đi vào trong đó. Ba đuổi theo cậu ấy, báo cho cậu ấy biết điều cực kỳ nguy hiểm. Một kiện hàng rơi từ gác xuống gần cậu chủ Edwin. Ba nằm đè lên cậu để che chở cho cậu. Kiện bông rơi trúng ba và ba đã cứu được tính mạng cậu chủ Edwin, với một lòng dũng cảm đầy vị tha. Ông chủ lớn đã nói như thế”.
Emma lạnh toát khắp người: “Ba cứu tính mạng của Edwin Fairley”. Cô hét một cách hung dữ đến nỗi Winston cũng phải giật nẩy mình, kinh hoàng trước giọng nói của cô. “Ba chết để cứu mạng cho một tên nhà Fairley! Ba tôi hy sinh thân mình cho một thằng trong chúng nó!” Cô khạc ra những lời đó một cách cay độc. “Tôi không thể nào tin được!”. Cô hét lên. Cô bắt đầu cười lên một cách điên dại, nỗi cay đắng dâng lên trong lòng cô.
Cả anh và em cô há miệng nhìn cô không dám tin là thật. Frank rúm người lại và lùi ra xa. Winston nói:
- “Nhưng mà Emma, ai cũng sẽ làm như thế…”
- “Thật thế à!”. Cô quát và nhảy ra khỏi ghế. Cô đứng ở giữa bếp, cơn giận dữ như núi lửa phun của cô là một sức mạnh khủng khiếp trong thân hình mảnh dẻ của cô. “Ngài Fairley có làm như thế không? Hoặc cậu Gerald? Hoặc cậu Edwin?”. Cô lại khạc ra những cái tên đó với một nỗi căm ghét thâm gan tím ruột. “Liệu chúng nó có hy sinh tính mạng của chúng để cứu ba chúng ta không? Không bao giờ. Không bao giờ, tôi nói cho mọi người biết. Một triệu năm nữa cũng không bao giờ. Ôi trời đất ơi! Tôi không thể nào chịu được!”, cô gào lên, toàn thân cô run lên trong một cơn giận điên cuồng.
- “Bình tĩnh. Bình tĩnh nào, Emma. Em làm thế thì đến phát ốm mất. Sự thể đã xảy ra rồi và không có gì có thể làm thay đổi được”, Winston nói, anh run rẩy vì phản ứng mạnh mẽ của cô và sợ thay cho cô.
- “Ngài chủ bao giờ cũng tử tế”, Frank nói xen vào, cậu cũng cố gắng xoa dịu cô. “Ông ấy trả tiền lương cho ba. Mỗi tuần bọn em được một pound. Và ông sẽ tiếp tục trả cho đến khi em mười lăm…”
- “Ghê quá nhỉ!”, Emma gầm lên, mắt cô hăm dọa và dữ tợn. “Như vậy là bốn mươi tám pound một năm”. Cô cười một cách mỉa mai. “Chắc ông ấy đã trả được mười tháng rồi chứ gì. Và ông sẽ trả thêm cho hai năm nữa. Tử tế tệ!”. Giọng cô trở nên cay độc. “Phải chăng tính mạng của cha tôi chỉ đáng giá như vậy đối với nhà Fairley? Áng chừng một trăm năm mươi pound thêm bớt một vài shilling. Thật là trò hề. Một trò hề bỉ ổi. Phải chăng ba chỉ đáng có như thế?”. Cô chất vấn một lần nữa.
Winston hắng giọng và nói một giọng nhẹ nhàng nhất: “À, ông ấy cũng còn làm hơn thế một chút. Ông chủ, anh muốn nói như thế. Ông ấy chuyển Frank vào văn phòng của nhà máy, và em đang được đào tạo để làm nhân viên. Cứ chủ nhật dì Lily lên Hall và bà bếp cho dì một giỏ thức ăn. Đủ để ăn cả tuần, cho dì và cho Frank. Em biết không, dì Lily dọn về nhà mình, để trông nom Frank, Emma ạ. Khi ba mất, dì bỏ ngôi nhà của dì. Emma, bây giờ dì đang lên Hall để lấy thức ăn. Như vậy cũng đỡ lắm.”
- “Một giỏ thức ăn”, cô nhắc lại một cách cay độc và cười gằn: “Ờ, ờ, ờ. Ngài chủ rộng lượng gớm”. Cô quay ngoắt đầu lại trợn mắt nhìn Frank: “Chị ngạc nhiên tại sao em không bị nghẹn họng, Frank. Chị thì chị sẽ bị như vậy đấy!”
Cô quay ngoắt đi và bước qua phòng đầu ngẩng cao. Frank và Winston nhìn chiếc lưng cứng đơ của cô và trao đổi những cái nhìn lo ngại. Cô mặc áo khoác, cầm bó hoa trong chậu lên. Cô dừng lại ở lối đi và nhìn quanh.
- “Tôi đi ra nghĩa trang đây”. Cô nói, giọng cô như thép.
- “Rồi tôi sẽ lên đỉnh của Thế Giới, không biết mùa này còn hoa thạch nam hay không, nhưng để tôi tìm xem. Dù sao, tôi cũng muốn ở một mình đôi chút. Tôi sẽ trở lại sau, và chúng ta có thể nói chuyện thêm chút nữa. làm một chút kế hoạch cho tương lai của Frank. Tôi cũng muốn gặp dì Lily nữa”.
- “Anh sẽ đi với em”. Winston nói. “Cả hai anh em mình cùng đi, có phải không, Frank”. Cậu em gật đầu đồng ý.
- “Không!”, Emma nói. “Em đã nói là em muốn ở một mình mà. Suy nghĩ một lát”.
Cô khép cửa nhẹ nhàng lại, trước khi họ kịp phản đối. Cô bước chậm chạp lên Top Fold, chân kéo lê, một cảm giác mệt mỏi rã rời tràn ngập. Cô nhằm hướng phía nghĩa trang nhỏ gần nhà thờ, không hay biết gì hết ngoài nỗi đau khổ khôn cùng. Mặt cô sắt lại và tối sầm, mắt cô chứa đầy một ánh sáng lạnh lẽo khi cô nhìn đăm đăm về phía trước. Thế rồi nỗi căm thù đối với gia đình nhà Fairley lại bừng lên, xâm chiếm tâm hồn cô lấn át cả nỗi buồn trong tâm hồn. Cái gia đình này đã gây cho cô những đâu khổ khôn cùng chăng? Cô bị bọn chúng đày khổ suốt đời chăng? Bọn Fairley khốn kiếp. Tất cả lũ khốn kiếp chúng nó. Khốn kiếp! Khốn kiếp! Cầu cho chúng thối rữa đời đời trong địa ngục!.
Và thế là mọi sự bắt đầu, một cuộc săn đuổi không khoan nhượng để kiếm tiền, một kế hoạch làm việc không ngừng, không nghỉ, không tiếc đời được ấp ủ và tiến hành bởi một cô gái mười bảy tuổi.
Ban ngày, Emma làm việc ở nhà máy; ban đêm sau bữa ăn nhẹ vội vàng, cô trở về phòng ngủ ở nhà Laura để cắt, khâu quần áo cho các khách hàng. Laura quảng cáo về tài vá may và giá cả phải chăng của Emma nên các bà ở xung quanh càng tín nhiệm.
Vào những ngày chủ nhật, Emma nướng bánh hoa quả, bánh thịt trứng, bánh nhân thịt và đủ các loại bánh, bánh ga tô. Cô làm món kem mứt, nước quả nấu đông và bánh xốp kem, dùng những công thức của Olivia Wainwright, cung cấp cho các cuộc liên hoan, những dịp đặc biệt cho những người ở vùng lân cận và cho những nhà sang trọng giàu có. Khi không làm những công việc bếp núc cho những khách hàng, cô đóng chai hoa quả và rau tươi, hành muối, cải bắp đỏ và quả hồ đào; làm tương ớt xoài, đồ gia vị và mứt được dán nhãn (do tay cô viết thật nắn nót) chất đầy trong hầm chứa để sẽ được đem bán sau này trong cửa hàng của cô. Emma sống rất tằn tiện bằng đồng lương hằng tuần ở nhà máy. Mỗi đồng penny cô kiếm được do may vá và đưa hàng thì đổ cả về “công việc kinh doanh”, cô gọi nó như thế để mua sắm vật dụng may và thực phẩm.
Điều này làm Laura lo ngại, nhưng Emma đã chỉ ra rằng “mình phải tiêu tiền thì mới kiếm được ra tiền”, và cô bỏ ngoài tai lời nói nữa: “khéo lại quá tay”. Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau, Emma đã có chút lãi nhỏ, làm cô hết sức hài lòng, và Laura thì nhẹ nhõm cả người.
Emma bền bỉ, không sợ vất vả cho bản thân mình, dành dụm, tiết kiệm và làm việc bảy ngày một tuần và cả bảy đêm nữa. Bây giờ cô không còn thì giờ để lãng phí nữa. Mục đích đầu tiên của cô… cửa hiệu đầu tiên. Và sau đó, nhiều cửa hiệu nữa cho đến khi cô có một dãy cửa hiệu đúng như Michael Marks có một dãy ở chợ Penny.
Nhưng cửa hiệu của cô sẽ là những cửa hiệu thanh lịch. Đó là nơi có tiền thực sự, với những số tiền lớn có thể thu lượm được. Để có được cửa hàng thứ nhất đó Emma phải cần có tiền. Tiền để thuê. Tiền để sửa sang, bày biện. Tiền để mua hàng dự trữ. Bằng cách nào đó và cô đã quyết định không gì và không ai có thể ngăn được mình. Emma không chút nghi ngờ nào về thắng lợi cuối cùng của cô. “Thất bại” và “Chiến bại” là những từ hoàn toàn bị xóa bỏ khỏi vốn từ ngữ của cô, bởi vì sự tin tưởng ở bản thân mình là tuyệt đối, và cô cũng biết rằng cô có một đặc tính chủ yếu và quan trọng nhất – đó là khả năng làm việc vô cùng to lớn của mình.
Trong cả một năm tròn, sau khi cô hay tin cha cô mất, Emma không ngừng làm việc chỉ trừ đi thăm Edwina một ngày mỗi tháng. Cô tiếc không có thì giờ đi Ripon thường xuyên hơn, như cô đã hứa với Freda, nhưng cô đã làm nguôi cảm giác tội lỗi và lo lắng khủng khiếp bằng cách luôn nhắc nhở mình rằng cô đang làm việc cho tương lai của Edwina.
Trong thời gian này Emma chỉ đi Fairley có một tuần và đó cũng là khi Winston về nhà nghỉ phép nữa.
Vào cái ngày chủ nhật tháng tư tàn hại ấy, cô và anh trai đã quyết định là Frank sẽ ở lại Fairley cùng với dì Lily của họ. Hình như cả hai đều thấy rằng đó là giải pháp tốt nhất. Cậu có thể tiếp tục làm việc ở nhà máy cho đến khi cậu mười lăm tuổi: hai người đồng ý với nhau đến lúc đó Frank có thể tự quyết định xem cậu có còn muốn tiếp tục sự nghiệp hay không. Nếu như vẫn còn thì Emma và Winston sẽ tìm ra cách để em họ thực hiện được điều đó, có lẽ làm việc ở Leeds, làm thư ký chép lại trong một tòa báo chẳng hạn, học nghề báo và học lớp ban đêm; hoặc sẽ có đủ tiền để cho em đi học hẳn.
- “Frank có đầu óc lắm, anh Winston ạ. Một đầu óc tuyệt vời. Và em nó có tài dùng từ. Đó là trời phú, thật đó. Không nên để hao phí đi”. Emma tuyên bố. “Chúng ta phải tạo cho em mọi điều kiện, dù có thế nào”, Winston gật đầu đồng ý. Chiều hôm ấy Emma cũng làm một quyết định nữa. Cô thông báo cho Winston, với những điều khoản dứt khoát là anh phải gửi cho Frank giấy bút liên tục. “Thậm chí ngay cả khi anh phải cho qua một vài vại bia và thuốc lá”. Cô đã ra lệnh như vậy. Còn cô sẽ chịu cung cấp cho Frank một cuốn tự điển tốt và những sách khác theo sự lựa chọn của cô. Cậu phải được làm quen với văn học như kịch của Shakespeare, tiểu thuyết của Dickens, Trollope, và Thackeray, những tác phẩm triết học và lịch sử. Victor Kallinski biết nhiều về sách vở, cậu có thể giúp cô chọn những cuốn thích hợp. Frank cũng nhận được lênh. Cậu phải học hành chăm chỉ, đọc sách hằng đêm và vào tất cả những lúc rỗi để tự bản thân trau dồi thêm kiến thức.
Dì Lily được giao trách nhiệm đôn đốc chương trình này.
- “Không thể trù trừ lẩn tránh, Frank ạ, bởi vì anh Winston và chị đã làm một cố gắng đặc biệt cho em”, Emma đã báo trước bằng một giọng nghiêm khắc nhất. Tất nhiên là Frank quá sung sướng để chấp nhận lời đề nghị ấy, cậu không hề sợ cái thời gian biểu rất căng mà chị cậu đã vạch ra cho cậu. Cậu nóng lòng chờ những cuốn sách đầu tiên tới và cậu cũng biết là cậu sẽ không thay đổi ý kiến về chuyện viết lách của mình.
Emma đã kể với Winston, Frank và dì Lily một phần của sự thật khi cô đưa cho họ địa chỉ của cô ở Amrley. Cô đã giải thích rằng cô tự gọi mình là Harte và đã bị góa chồng ở Hải quân; cốt chỉ để ngăn chặn những người đàn ông không cần thiết có thể đến ve vãn tán tỉnh cô. Winston đã mỉm cười trước cái mưu kế này. Anh thực sự đã khen ngợi cô vì đã biết tự bảo vệ mình và nói với em mình là cô rất thực tế. Emma không hở ra một lời nào về Edwina cả.
Sự nghiệp của Winston trong hải quân tiến triển tốt, tương lai Frank tạm thời được ổn định, Edwina được an toàn ở Ripon, Emma thấy cô được rảnh rang để tiến hành kế hoạch với chữ K hoa và chỉ chuyên tâm nhất trí về những hoài bão của mình. Cô dốc toàn trí lực vào công việc của mình một công việc có thể làm bất cứ một người nào khác phải gục đổ. Cô lãng quên cả thời gian, cả mọi sự chung quanh, cả mọi thứ có thể len lỏi vào ý nghĩ của một cô gái bình thường.
Đôi khi Emma lãng quên cả bạn bè. Lúc đầu Blackie không tin rằng Emma có thể chịu đựng được sự căng thẳng, và vì thế anh đã căn dặn Laura không can thiệp. Nhưng hết tháng này qua tháng khác, Emma vẫn kiên trì trong lao động khôn cùng vì thế mà cả hai bắt đầu quan tâm. Đặc biệt là David Kallinskin lo lắng, đến mức một đêm anh tìm Blackie ở quán Con vịt nhớp nhúa.
David rất căng thẳng, không kịp mào đầu gì hết, anh đi thẳng ngay vào lý do việc viếng thăm của anh, - "Emma sẽ không nghe tôi, anh Blackie ạ. Lần trước khi nói chuyện với cô ấy, tôi có nói là cô ấy nên nhân từ với bản thân mình thêm một chút, chỉ nên làm việc vào những ngày trong tuần như mọi người có lý trí thôi, và hãy nghỉ ngơi những ngày cuối tuần. Tôi có nói là làm việc cũng phải nên điều độ, anh có biết cô ấy trả lời thế nào không?”
Blackie lắc đầu, nỗi lo lắng của anh cũng giống như của David. “Tôi chẳng biết gì hết. Dạo này cô ấy có đủ mọi nhận định kỳ quái”.
- “Cô ấy nói với tôi, “Theo ý tôi, điều độ là một đức tính mà người ta quá sức thổi phồng, nhất là khi đem dụng vào công việc, David ạ”. Anh có thể tin được điều đó không?”
- “Ồ, tin được chứ. Emma, cô ấy ương bướng lắm. Những điều anh kể cho tôi nghe không làm tôi ngạc nhiên chút nào. Gần đây chính tôi cũng nói chuyện với cô ấy mà không thành công. Cô ấy không nghe bất cứ ai”. Balckie làu bàu.
- “Anh Blackie, xin anh cố nói với cô ấy một lần nữa”. David van
nài. “Nói với cô ấy hãy nghỉ chủ nhật này. Tôi sẽ lên Amrley, chúng ta sẽ đi bộ trong công viên nghe nhạc. Anh Blackie, xin anh hứa với tôi ít nhất anh sẽ thử một lần nữa.”
- “Xin thề là tôi sẽ làm điều ấy, David! Tôi sẽ phải ép cô ấy. Bây giờ tôi phải nói với cô ấy là cô làm cho tất cả chúng tôi lo ngại. Tôi nghĩ mẹo ấy sẽ được. Tôi sẽ đưa Emma ra công viên cùng với Laura, thậm chí tôi có phải túm gáy cô ấy mà lôi ra đó”.
Một ngày chủ nhật đã định buổi chiều tháng bảy nắng ấm, David Kallinski đi dọc theo đường Stanningley tới lối vào công viên Amrley. Anh mặc quần áo đẹp nhất, một chiếc sơ mi trắng tinh thắt chiếc cavát màu rượu vang có đính một cái trâm ngọc. Quần áo của anh được là cẩn thận và đôi ủng đen đánh bóng lên, trông anh như chú rể. Mái tóc dầy đen như mun và khuôn mặt đẹp trai của anh vừa cạo xong hãy còn thoang thoảng mùi rhum, nó ngời ngời hạnh phúc khi nghĩ tới được gặp Emma.
Anh đi vào công viên qua cánh cổng sắt lớn, đi tản bộ xuống lối đi chính dẫn tới vòi nước. Anh đứng thoải mái, hai tay đút túi, nhìn những dòng nước phun cao vút rồi lại rơi trong bồn nước, lóng lánh như hàng trăm viên kim cương nhỏ xíu khi chúng bắt gặp tia sáng mặt trời. Bộ say mê, hấp dẫn bởi bồn nước kiến trúc tinh xảo, anh tiến lại gần hơn và đọc dòng chữ.
Do William Gott của nhà Amrley dựng
Để kỷ niệm năm thứ sáu mươi
triều Nữ hoàng Victoria
1837 đến 1897
Gia đình nhà Gott là gia đình của những chủ nhà máy cực kỳ giàu có và đã quyên trợ tiền để dựng nhiều tượng cho thành phố Leeds. David quyết định khi nào có điều kiện, anh sẽ góp tiền để giúp đỡ mọi người hơn là dựng tượng và các bồn nước, tuy rằng có đẹp nhưng vô ích.
Anh quay đi và đi qua khu vườn phong cảnh trang trí tuyệt xảo theo kiểu Ý hai bên có những cành cây đu, cây phong non tất cả đều tỏa bóng mát vào ngày nóng nực này. Những khu vườn bừng lên với những màu sắc rực rỡ. Những luống hoa cắt tỉa cách điệu với màu đỏ và hồng của phong lữ, màu tím màu vàng thẫm của hoa pansy cánh nhung, màu trắng, màu hồng, màu hoa cà của cây mao địa hoàng duyên dáng. Những lùm cây sặc sỡ như mời đón trải dài thật xa điểm thêm màu hồng màu trắng, những cây sen cạn nhỏ bé vươn lên như những đốm lửa, dọc theo đám cây bướm tím bao quanh khu vườn là đủ loại bụi cây, bởi vì công viên Amrley có nhiều loại cây, hoa hơn bất cứ một công viên nào ở Leeds, nhiều loại cây trải dài về phía hàng cây cỏ hoa như hoa táo, những cây sồi lá màu hồng thau run rẩy trong làn gió ấm vươn cao đường bệ trên những cây cam nở hoa điểm một màu hồng nhạt. Những lối đi gọn ghẽ và những thảm cỏ mượt như sa tanh màu lục bảo, chung quanh có viền những bụi cây và cây lớn, những cây cúc zinnia hai bên lối đi trải sỏi.
Dọc các lối đi, những nhũ mẫu quần áo hồ cứng đẩy những xe nôi; những đôi trai gái tán tỉnh nhau; những thiếu phụ quần áo lịch sự đi bên những người chồng quần áo cứng đơ. David đi hòa vào họ, anh nghĩ cảnh tượng nầy thật là thôn dã trong một ngày đẹp trời như hôm nay. Anh sung sướng được sống với tương lai ở phía trước và với biết bao nhiêu điều dễ thấy để làm và cần phải hoàn thành nữa. Thành công đang vẫy gọi và anh cũng tin chắc như Emma rằng công việc kinh doanh của anh sẽ phát đạt.
Mà tại sao không? Đây là năm 1907 khi sự trị vì của vua Stuart đã ở đỉnh cao của nó và được dân chúng yêu thích điều ấy, không còn nghi ngờ gì nữa; một năm khi mà giai cấp quí tộc thờ kính Chúa và không chú ý gì tới những thực trạng ác liệt của cuộc sống hoặc của chiến tranh, bởi vì sự sụp đổ của châu Phi đã được quên lãng và hòa bình ở Châu Âu được bảo đảm. Tóm lại, năm 1907 là một năm khi mà các giai cấp thống trị sống cuộc sống vô tư của họ, không để ý tới cái thế giới cay nghiệt bên kia bờ biển nước Anh huy hoàng và bất khả chiến bại của họ. David Kallinski kết luận mỗi một người Anh, đều bị ru ngủ vì một sự an toàn giả tạo. Những năm tháng phía trước đầy hứa hẹn. Sự thay đổi đã rõ. Sự việc chỉ có nên tốt đẹp hơn. Tương lai đối với tất cả mọi người, rực rỡ hy vọng.
Bước chân David rộn ràng khi anh bước về phía bục dàn nhạc kiến trúc kiểu đền chùa này vừa như nhắc tới thời đế chế Anh trải rộng bao la thêm vào hương vị xa xôi của phương Đông cho công viên đặc biệt Amrley này, khiến nó có vẻ lạc lõng trong một khung cảnh yên tĩnh và dịu dàng. Buổi chiều hôm nay lại càng thấy rõ, bởi vì nó có cả một đội quân nhạc làm lóa mắt vì những bộ quân phục của họ từ đầu đến chân đều bóng lộn, điển hình của quân đội Anh.
Anh đưa mắt nhìn những hàng ghế phía trước ban nhạc, khi không thấy một người bạn nào, anh mới ngồi xuống một chiếc ghế sắt nhỏ. Ban nhạc chuẩn bị đôi chút, họ bắt đầu chương trình bằng bài quốc ca. Khi buổi hòa nhạc tiếp tục, những ý nghĩ về Emma lại lởn vởn trong đầu óc David và hoàn toàn làm anh choáng ngợp. Dạo này cô ít khi ra khỏi ý nghĩ của anh và anh nhận thấy mối quan tâm của anh đối với cô không phải chỉ như một đồng sự làm ăn mà còn như một người đàn bà. Những tình cảm dịu dàng mà đầy say đắm anh dành cho nàng đã thầm lén len vào trong anh làm anh ngạc nhiên. Mà không hiểu nàng nghĩ gì về anh, anh tự hỏi. Không biết có gì khác ngoài lòng trìu mến và tình bạn? Phải chăng nàng quá bận với công việc để mà nghĩ tới anh? Và nàng đã có chồng, đó là một tình huống mà anh phải đương đầu. Tương lai thật ảm đạm cho bất cứ một người đàn ông nào bất hạnh đi yêu một người phụ nữ đã có chồng. Nhưng anh đã yêu nàng. Cái tay chồng khốn kiếp của nàng ở đâu không biết? David tự hỏi. Cái người chồng mất tích đó không hề xuất hiện một chút nào ngay cả khi đứa bé sinh. Thủy thủ vẫn được phép về nhà, có phải vậy không? Đây là một điều bí ẩn, nhưng David chưa hề hỏi Emma về chồng nàng hoặc nàng còn yêu anh ta không? David ngờ rằng nàng không còn yêu nữa.
Emma không bao giờ nhắc đến anh ta hoặc không tỏ ra nhớ nhung gì anh ta hết. David thở dài: anh phải thừa nhận rằng anh bị trói tay. Anh không thể, với tất cả lương tâm của mình, nhận là mình thuộc về nàng do tình trạng hôn nhân của nàng.
David đắm chìm trong mơ mộng, anh giật mình vì tiếng nói của Blackie ở vai anh. “A, đây rồi, anh bạn!”. David nhìn nhanh lên và thất vọng khi chỉ thấy Laura Spencer đi cùng. David đứng và nắm lấy bàn tay đưa ra của Blackie. Anh cúi xuống và hôn Laura một cách trìu mến vào má và cười vui với cô để che giấu tình cảm thật của anh. Tuy nhiên, anh không thể kìm được chán nản trong giọng nói khi anh hỏi: “Emma làm sao? Cô ấy đâu?”
- “A, David, tôi phải làm tiếc nói với anh là Emma từ chối lời mời. Tôi đã cố gắng hết sức thuyết phục để cô ấy cùng đi. Nhưng cô ấy vẫn ương bướng như bao giờ. Cô ấy phải hoàn thành chiếc áo cho một bà ở Towers, cô ấy không chịu nhúc nhích một ly”. Blackie giải thích, mặt hơi nhăn nhó. “Tuy nhiên cô ấy nói là sẽ rất sung sướng được gặp anh trong bữa ăn tối ở nhà Laura sau đó”. Blackie nói tiếp một giọng vui vẻ: “Nào, thôi cậu cả, đừng ỉu xìu như thế? Vài tiếng nữa chúng ta sẽ trở về nhà. Lúc đó cô ấy sẽ xong công việc mà!”. Anh quay đầu về phía Laura: “Em thấy thế nào, cưng? Em muốn làm gì bây giờ?”
- “Chúng ta đi dạo một chút, nếu David đồng ý”. Laura nói khe khẽ.
- “Vâng, chúng ta làm như thế”, David nói.
Ba người đi khỏi chỗ ban nhạc và sự ồn ào căng thẳng càng ngày càng tăng của “Mảnh đất của Hy Vọng và Vinh Quang”. David liếc nhìn Laura. Trông chị rạng rỡ. Chi mặc một chiếc áo giản dị bằng hàng muxơlin không đắt tiền màu vàng nhạt, điểm hoa cúc và một cành cây xanh, chiếc áo tha thướt quanh chị như áng mây pha màu mặt trời, làm tăng thêm dáng liễu và vẻ duyên dáng của chị. Một chiếc mũ rơm rộng vành điểm những bông hồng vàng và hồng che mặt chị, hôm nay ở con người chị tóat ra một vẻ thiên tiến. Dưới vành mũ, mặt chị trông sáng rực, trong mớ tóc vàng và sáng lên bởi đôi mắt long lanh.
- “Trông chị đẹp quá, Laura”, David nói một cách hào hiệp.
- “Tôi rất thích cái áo của chị. Nó rất hợp với chị”.
- “Cám ơn David”, chị nói. “Emma may cho tôi đấy. Cô ấy cũng sửa lại cả chiếc mũ cũ này và biến nó thành một chiếc mũ mới tinh. Cô ấy tài lắm cơ”.
David gật đầu, còn Blackie thì càu nhàu: “Ừ, nhưng mà tài năng của cô ấy không có ích gì trong nghĩa trang, tôi nghĩ vậy”.
- “Blackie! Anh nói gì mà ghê thế!”. Laura kêu lên. Cô liếc mắt nhìn David. Anh yên lặng nhưng cô để ý thấy anh cắn môi và trông lo lắng. Laura khôn khéo không đả động gì thêm nữa và nhìn Blackie một cách lạnh lùng, anh ta làm vẻ ăn năn hối hận.
Họ chầm chậm đi quanh công viên. Blackie và Laura trò chuyện một cách thân mật những chuyện chung chung. David yên lặng và suy tư. Cuối cùng họ thấy mình đã lên tới đỉnh của bờ dốc dẫn tới sông Aire. Laura kêu nóng, vì thế họ ngồi xuống chiếc ghế dài dưới bóng cây thúy liễu. David buồn bã nhìn sang bên kia sông, đôi mắt anh đọng lại trên đống hoang tàn của tu viện Christerian ở phía bờ đối diện. Rồi lướt qua cảnh trí yên bình trải dài đến tận chân trời, tới rừng Horsforth bên kia đống hoang tàn. Anh thở dài và lấy gói thuốc là ra. Anh mời Blackie một điếu. Blackie đón điếu thuốc và lẩm bẩm cám ơn. Cuối cùng, David không thể nhịn được nữa. Anh quay sang Blackie nói:
- “Anh Blackie, thật tôi không hiểu nổi. Cái gì đã khiến Emma làm việc đến như vậy?”
- “Lòng căm thù, chỉ đơn giản là như vậy”, Blackie trả lời một cách máy móc, nói xong anh muốn cắn lưỡi mình. Tự giận mình, anh quay đi.
Laura há hốc, lấy tay bưng miệng. Chị nói: “Ồ, Blackie, chắc chắn không phải như vậy”.
David cũng bối rối không kém gì lời nói đó: “Lòng căm thù!”, anh nói gay gắt. “Không phải Emma thế! Cô ấy đáng yêu và hiền dịu. Mà căm thù ai?”
Blackie không trả lời trong một lúc. Anh tự nguyền rủa mình. Anh thật là một thằng trống miệng. Một thằng ngu. Đúng là một thằng ngu. Theo quan niệm của Blackie, lòng căm thù của Emma là đối với gia đình nhà Fairley. Nhưng anh sẽ không tiết lộ điều ấy với David hoặc Laura.
- “Nào, Blackie. Anh trả lời tôi đi”, David thúc. “Đừng ngồi đó vẻ huyền bí như thế”.
Blackie bừng tỉnh: “Tôi thực không biết, David ạ. Đáng lẽ tôi không nên nói năng bộp chộp như thế. Nhưng anh biết một người Ireland là như thế nào rồi đó, luôn luôn nói lung tung. Nói cung, tôi không có ý định nói ai cả”. Blackie dừng lời, mặt anh là cả một bức tranh ngây thơ cố đóng kịch. “Tôi nghĩ đó là lòng căm thù cái hoàn cảnh của đời cô”, anh nói, cố lấp liếm sự sai lầm của mình. “Và căm thù cái nghèo khổ. Điều đó đã thúc đẩy Emma làm công việc để thỏa mãn cái cần tiền khủng khiếp của cô”.
David có vẻ hơi hoài nghi, anh cau mặt: “Tôi biết Emma cần tiền. Nhưng mà, cả anh cũng thế. Tôi cũng thế. Mặt khác chúng ta đâu thể dành cả cuộc đời chúng ta để tích lũy nó đến độ loại trừ tất cả những cái khác”.
Blackie nghiêng người về phía trước, đôi mắt đen của anh chăm chú. “Đúng, nhưng chúng ta cần tiền với những lý do khác hơn là Emma. Tôi cần tiền để mua cho mình một cuộc sống tốt đẹp hơn. Đúng thế có phải không? David, mình cần một ngôi nhà tốt, một chiếc xe sang trọng và quần áo lịch sự. Một ít thứ đẹp, tôi nghĩ như thế, giống như tôi. Và một chút an toàn cho tương lai, phải thế không?”
David gật đầu, bởi vì đúng là Blackie nói lên sự thật. Nhưng anh nói Emma cần tiền vì một lý do khác.
- “Nàng cần tiền để làm gì?”
Blackie khẽ mỉm một nụ cười lạ lạ. “Như một vũ khí” – “Một vũ khí! Chống lại ai?”, Laura vặn hỏi.
Blackie nhẹ cầm lấy tay chị: “Em đừng tự giày khổ mình, Laura em hiểu lầm anh rồi, cưng. Anh tiếc là đã đề cập đến vấn đề này và anh không muốn tiếp tục một chút nào, nhưng họ đã dồn anh”. Hai cặp mắt dò hỏi đã ghìm anh xuống. Anh phải giải thích lời nói của mình một cách mà anh có thể làm được. Blackie hắng giọng: “Ý tôi muốn nói là bản thân Emma tin rằng tiền là một vũ khí!...”
- “Chống lại ai?”, David kêu lên và ngắt lời anh. “Anh vẫn chưa trả lời Laura”.
- “Không chống lại ai một cách đặc biệt hết, David”. Anh nhún vai: “Có lẽ chống lại cuộc đời. Phải, tôi nghĩ cô ấy sẽ dùng tiền, khi cô ấy có, để chống lại cuộc đời. Hoặc những người trong đó, những người đã làm cô khốn khổ. Các bạn thấy không, Emma cần tiền để che chở cho mình và cho Edwina. Cô ấy muốn xây dựng một pháo đài chung quanh mình và đứa bé đó, để không gì có thể làm tổn thương đến họ. Không bao giờ. Tôi chỉ có ý muốn nói như thế thôi, anh bạn ạ”.
David không chỉ không tin, mà còn choáng váng: “Blackie anh đang vẽ một bức tranh rất lạ lùng. Đó không phải là Emma mà tôi biết”.
- “Ồ, nhưng tôi biết cô ấy rõ hơn và lâu hơn anh nhiều. Và tôi hiểu cái gì thúc đẩy cô ấy”. Blackie lẩm bẩm và nhớ lại cái nhìn khẩn thiết trong con mắt Emma ngày đầu họ gặp nhau trên đồng hoang. “Tôi biết chắc rằng cô ấy không chịu nghỉ ngơi chừng nào cô ấy có được cái cửa hiệu ấy. Rồi thì sẽ là một cửa hiệu nữa, một cửa hiệu nữa, và lại một cửa hiệu nữa, Emma sẽ trở thành một phụ nữ giàu có một ngày nào đó, anh có biết không, David? Cô ấy sẽ thành công. Dứt khoát là như thế”.
- “Nhưng với một gia đình như thế nào?”, David hỏi. “Hãy nhìn nàng xem. Trông nàng gầy guộc xanh xao. Mắt quầng thâm ghê gớm”. Mắt anh nhìn Laura: “Chị phải thừa nhận là tôi nói đúng”.
Laura thú nhận: “Vâng, ở một chừng mực nào đó, anh nói đúng, nhưng phải nói thật, cô chịu khó ăn uống và giữ gìn sức khỏe lắm”.
- “Chỉ có điều nàng không bao giờ ngủ”.
- “Ồ, có đấy, David”, Laura bảo vệ bạn. “Ít nhất là năm tiếng. Cô hình như không cần nghỉ ngơi như những người khác. Nhưng tất nhiên, thật tình, tôi cũng lo ngại cho cô”. Laura chạm nhẹ vào cánh tay Blackie: “Có lẽ anh nên nói chuyện lại với cô. Em muốn nói là, để cô làm việc bớt đi”.
- “Laura, em biết cô ấy còn ít quá, anh nói chẳng ăn thua gì. Cô ấy không nghe đâu”. Blackie nói một cách buồn bã.
- “Anh định nói là chúng ta cứ đứng trơ ra đó để nhìn nàng tự giết mình bằng công việc sao!”, David kêu lên sôi nổi. Blackie không thể không mỉm cười. “Đừng để cho Emma nghe thấy anh nói điều đó”. Anh nói qua tiếng cười: “Cô ấy không tin là công việc vất vả. Có lẽ chính sự lười nhác. Và chính anh cũng biết cô ấy nói như thế nào về sự điều độ rồi, David”. Blackie lắc đầu, đôi mắt anh vẫn vui vẻ.
- “Ấy, Emma thật là độc đáo”.
David nhìn anh một lúc quay đi và hút thuốc, cố gắng lượng định những lời nói của Blackie.
- “Anh ạ, em nghĩ ý tưởng của Emma về một cửa hàng lúc đầu là ngớ ngẩn, Blackie”, Laura đánh bạo nói: “Nhưng bây giờ thì em cho là điều tốt nhất. Nó sẽ đưa cô ấy ra khỏi nhà máy. Cô ấy ghét chỗ ấy”.
David nói: “Tôi hy vọng cô ấy cùng kết hợp làm ăn với tôi. Giờ này sang năm tôi sẽ để dành được đủ tiền để bắt đầu một nhà máy riêng của tôi. Tôi có ý định làm một nhà máy dây chuyền may quần áo phụ nữ cũng như là nhận hợp đồng bên ngoài, giống như cha tôi. Emma đã thiết kế một đường dây cho tôi”. Mắt anh sáng lên.
- “Chị đã thấy chưa, chị Laura?”
- “Có, Emma đã cho tôi xem bảng vẽ. Những ý kiến của cô thật là tuyệt vời. Tôi nghĩ thế. Nào là áo khoác với mũ có thể tháo rời, áo vét mặt hai mặt và quần áo cho các bà mẹ, vâng – thật là cách mạng, nói như thế được không? Tôi chưa thấy ai làm chiếc váy cuốn quanh những chiếc áo cánh, áo dài để có thể lớn ra hợp với thân thể khi mập hơn. Phải không, David?”
- “Đúng thế. Nàng đi trước thời gian trong kiểu quần áo. Tôi không thể tranh luận với các bạn về vấn đề đó”. Blackie chen vào: “Này các bạn ơi, đừng nhìn vào khía cạnh đen tối. Cuối cùng rồi Emma sẽ tốt thôi. Cô ấy là người tồn tại thực sự. Nhưng nếu điều ấy làm cho hai bạn cảm thấy dễ chịu hơn, tại sao tối nay chúng ta không cùng nói với cô ấy một cách thận trọng để khỏi làm cô ấy bực bội. Có lẽ chúng ta có thể khiến cô ấy thư thư lại một chút. Cả ba chúng ta cùng hiệp lực thì có thể tiến triển được”. Blackie không thấy là Emma sẽ chú ý tới điều đó, nhưng anh muốn làm họ bớt lo lắng, đặc biệt là Laura.
- “Vâng, chúng ta hãy làm như vậy”, David đồng ý. Bây giờ anh nhìn Blackie một cách cảnh giác trước khi bắt đầu bằng một giọng thận trọng: “Anh Blackie này, tôi biết đây không phải là việc của tôi, nhưng tôi không hiểu chồng của Emma đi đằng quái nào ấy nhỉ? Tôi thấy hơi lạ một chút là anh ta không về nghỉ phép. Emma đến làm việc cho ba tôi tháng tám năm 1905. Như vậy đã gần hai năm và chồng nàng rõ ràng là vắng mặt trong suốt thời gian đó”.
Blackie đã chờ đợi câu hỏi đó, sự thật là sợ nó đã hàng tháng nay rồi. Anh đã nhiều lần báo cho Emma chuẩn bị một câu chuyện hợp lý. Tuần trứơc, cô đã nói với anh là cô sắp sửa thông báo rằng người chông thủy thủ của cô đã bỏ cô. Hít một hơi dài, Blackie lúc này mới quyết định gỡ cho cô khỏi sự bối rối này. “À, David, tôi mừng là anh đã hỏi tôi, thật thế”. Anh quay nhanh sang Laura cầm lấy tay nàng trong tay anh. “Và cả em nữa cũng có thể biết, cưng. Emma có hơi bối rối đôi chút. Không biết nói với hai người như thế nào. Em thấy không, cái thằng chồng đốn mạt…”, anh dừng lại, nắm lấy bàn tay Laura xin lỗi. “Xin lỗi em, anh biết em không thích anh văng tục. Ừ, cái thằng chồng đểu cáng của cô ấy đã cuốn xéo, có thể gọi như thế. Nó đã bỏ Emma một thời gian trước đây”. Blackie cầu thầm lời nói của anh có sức thuyết phục, anh nói tiếp: “Hình như thằng cha này muốn sự nghiệp lớn lao trong Hải quân, rõ ràng là như vậy. Nó nói với Emma là không muốn bị ràng buộc bởi một người vợ, tôi không nghĩ là chúng ta có thể thấy bóng dáng, tung tích của nó. Không, nó sẽ không bao giờ trở lại đâu. Tôi đoán như thế”.
- “Trời ơi, Blackie, như thế thì khổ cho Emma và đứa bé quá”, Laura kêu lên, anh thấy bàn tay cô run lên trong tay anh.
Blackie vòng tay ôm lấy nàng: “Thôi nào, em gái, không có lý do gì để em hốt hoảng như thế. Emma không quan tâm đến chuyện đó đâu, không quan tâm một chút nào hết”. “Tôi lại nghĩ cô ấy lấy làm thích. Đúng thế, chính cô ấy đã nói với tôi”. Thật là thoát nợ sau khi kể mọi chi tiết cho tôi nghe”, anh nói dối một cách trơn tru.
David lặng câm, nhưng tim anh đập rộn ràng, và nỗi kích động lan khắp cơ thể anh. “Tôi lấy làm buồn khi nghe chuyện đó”. Anh nhận xét bằng một giọng bình thản, để không làm lộ nỗi sung sướng anh đang cảm thấy.
- “Nhưng dù sao, nếu Emma không cảm thấy khổ thì có lẽ đó là điều tốt hơn cả”. Vừa nói anh vừa tự hỏi: “Không hiểu ly dị phải tốn kém bao nhiêu”.
Blackie gật đầu. “Ồ, anh nói đúng”.
David nhảy lên. Nỗi buồn bã của anh đã tan biến.
- “Chúng ta có nên quay lại nghe âm nhạc một lúc trước khi về nhà không?”
- “Sao lại không”, Blackie đồng ý. Anh giúp Laura đứng lên và họ chầm chậm đi về phía ban nhạc. Blackie nghĩ: mình phải báo với Emma là mình đã tống khứ được thằng chồng thủy thủ của nàng đi rồi.
Trong khi những câu chuyện này đang xảy ra ở công viên Armley thì Emma không ở nhà khâu vá như các bạn của cô tin như vậy. Cô đang trên đường đi gặp Joe Lowther sống tại một vùng khác ở Armley.
Ngay khi Laura và Blackie vừa đi, Emma đã nhanh chóng thay quần áo, nàng mặc chiếc áo lụa đen, sửa lại chiếc mũ, lấy sáu mươi pound trong chiếc hộp thiếc đen đựng tiền để dành. Nàng lao ra khỏi nhà theo sát gót hai người vẻ kiên quyết trên nét mặt.
Hoàn toàn tình cờ, hôm qua khi cô đi mua thực phẩm, cô đã nhìn thấy nó. Cửa hàng. Cửa hàng của cô. Đó là một trong ba cửa hàng nối nhau ở một dãy phố nhỏ trước Town và cửa hàng trống… Emma đã đứng lại đột ngột, nàng như bị thôi miên.
Đứng về mọi mặt, đúng là một cửa hàng dành cho nàng. Thời điểm là hoàn hảo. Bây giờ nàng đã có đủ tiền cần thiết để thuê cửa hàng và các thứ hàng hóa. Chiếc cửa sổ lớn được quét sơn trắng nhưng có một khoảng trống ở giữa, ở đó một tấm biển được treo một cách gọn ghẽ bên trong. Cho thuê, biển viết như vậy ở bên dưới là tên của người chủ Joe Lowther và địa chỉ của ông ta. Emma đã nhớ những chi tiết và vội vã trở về muộn một buổi chiều, quyết định ngày mai phải là người đầu tiên. Nàng không cần để ý đó là Chủ nhật một ngày mà công việc thường không được tiến hành, nhưng nàng chuẩn bị để làm việc bất cứ ngày nào trong tuần.
Lúc này nàng đang bước một cách mạnh mẽ qua những đường phố ngoằn ngoèo, hầu như nghẹn thở với nỗi kích thích ngày một tăng, nàng tiếc là đã chọn áo đen. Đối với một ngày nóng nực như hôm nay, áo này quá ấm. Nhưng mặc kệ cái nóng ấm của chiếc áo, Emma không chậm bước chân và trong vòng mười lăm phút, nàng đã tới phố nơi Joe Lowther sống. Nàng tìm thấy ngôi nhà và bước lên những bậc đá một cách kiên quyết. Nàng gõ mạnh ba tiếng mạnh mẽ và đứng đợi. Vài ba phút trôi qua trước khi cánh cửa mở bởi một người đàn ông trẻ cao lớn, cường tráng. Người anh ta cân đối, đôi mắt to màu xanh, tóc màu nâu nhạt, vẻ mặt vui vẻ của anh cởi mở và thành thật. Anh mặc sơ mi, tóc bù xù.
Anh nhìn Emma, rõ ràng là ngạc nhiên khi nhìn thấy người khác. “Vâng, thưu cô, tôi có thể giúp cô được gì?”, anh ta hỏi một cách thô bạo.
- “Dạ, thưa tôi muốn gặp cha của ông”, Emma nói một cách lịch sự, và mỉm một nụ cười duyên dáng.
- “Cha tôi ấy à? Chắc là cô lầm nhà rồi, cô ạ. Cha tôi đã chết sáu năm nay rồi”.
- “Trời, có lẽ tôi lầm. Tôi đi tìm nhà của một cái ông tên gọi Joe Lowther”.
- “Vậy thì cô đã tìm thấy rồi, cô ạ. Tôi là Joe Lowther đây”.
Emma ngạc nhiên: “Ồ. Dạ, xin ông thứ lỗi, nhưng tôi nghĩ hình như ông còn hơi trẻ để làm chủ cửa hiệu ở phố Town”. “Cái cửa hiệu cho thuê”, Emma nói với vẻ thẳng thắn hàng ngày của nàng. Nàng thấy ngay rằng cái người đàn ông trẻ tuổi này là con người mạnh mẽ và nàng tiếp luôn. “Ông là ông Lowther đó sao?”
- “Phải, tôi đây”, người trẻ tuổi nói. Mắt anh ta nheo lại: “Vậy cô thích cái cửa hiệu đó! Cho mẹ cô?”.
- “Không”, Emma nói, cô thấy vui vui. Rõ ràng anh ta còn cay cú vì cô đã nhận định về vẻ ngoài trẻ tuổi của nah và thế là cô mỉm một nụ cười rạng rỡ và cặp mắt xanh không hề nao núng của cô, cái nhìn ấm áp và đầy tự chủ của cô không hề rời khuôn mặt anh. “Thật ra là tôi muốn thuê cửa hiệu ấy cho tôi”.
Joe Lowther nói: “Ồ, thế à! Cô có hơi trẻ một chút không? Cô đã có kinh nghiệm bán lẻ gì rồi, cô?”
Emma cho rằng điều đó hoàn toàn không phải việc của anh ta, nhưng cố kìm để không nói với anh ta điều đó, cô đủ sáng suốt để không sa đà vào chuyện đó. Thay vào đó, cô nói: “Tôi có một chút kinh nghiệm; tôi có may nhiều quần áo và giao hàng ở Armley này. Tôi có công việc làm ăn phát đạt và bây giờ tôi muốn một cửa hàng để có thể tiến hành công việc từ đó”. Giọng nàng run lên hết sức tự tin khi nàng nói thêm: “Và chắc chắn là tôi không quá trễ đâu, thưa ông Lowther”.
Joe lắc đầu: “Không, không. Không được đâu. Tôi không thể nói tôi sẵn lòng cho cô thuê cái cửa hiệu đó, cô ạ”, anh ta nói một cách sống sượng.
Emma phớt lờ câu trả lời lỗ mãng của anh ta. “Nhưng tôi lại sẵn lòng lấy cửa hiệu đó từ bàn tay của ông ngay bây giờ, thưa ông Lowther. Ngay lập tức. Hôm nay”.
Emma bước lên hai bậc nữa cho đến khi cô đứng ngang tầm với Joe Lowther. Nàng nhìn anh chằm chằm, dùng tất cả sức hấp dẫn của mình, nàng mỉm cười một cách mê hoặc. “Chúng ta có thể vào và bàn vấn đề này không, ông Lowther”. Cô nói giọng mượt như nhung.
- “Tôi không thấy điều đó có ý nghĩa gì bởi vì tôi không thay đổi ý kiến”, anh ta tuyên bố một cách ương bướng. Sự gần gũi của nàng làm anh ta đãng trí và khi anh nhìn vào mặt nàng, chỉ cách mặt anh có vài phân, Joe thấy nóng chung quanh cổ.
Emma mở túi xắc, giở cái mẹo duy nhất mà nàng tin tưởng tuyệt đối. “Tôi có thể trả tiền trước thưa ông Lowther”.
Joe miễn cưỡng ngước mắt lên để nhìn cặp mắt Emma, và phát hiện ra rằng anh đã bị thôi miên bởi cặp mắt sáng đang quan sát anh với một sự tập trung lạnh lùng đến như vậy. Hàng xóm láng giềng sẽ nghĩ sao nếu mình mời nàng vào? Anh tự hỏi mình. Nhưng nói chung anh không phải là một người bất lịch sự, lúc này Joe thấy xấu hổ và anh thấy mình nói bằng một giọng tử tế hơn. “Vâng, cô nói một điều đúng, chúng ta nên vào trong nhà”. Điều này thực sự là vì anh sợ những lời xì xào bàn tán ở ngoài phố, vì thế nàng không nên nghĩ là anh đã thay đổi ý kiến, Joe cảm thấy buộc phải nói thêm: “Bàn công việc ở ngoài ngưỡng cửa không tiện lắm nhất là vào ngày Chủ nhật. Tôi không thường làm việc vào ngày Chủ nhật cô ạ”.
- “Vâng thì bao giờ chẳng phải có một lần bắt đầu, thưa ông Lowther”, Emma nói, cô đưa mắt nhìn anh dưới cặp lông mày rậm của mình. CÔ nhận biết Joe không thoải mái và cô có ý định sử dụng điều này.
Sao cô ta táo tợn ghê, Joe nghĩ trong lòng sôi sục vừa bực tức vừa bất lực. Tuy nhiên, anh mở to hơn cánh cửa và để nàng vào. Anh dẫn nàng vào phòng khách: “Xin lỗi. Tôi sẽ quay lại ngay… Xin mời ngồi”, Joe nói. Anh khép cửa lại và lui ra.
Emma đứng ở giữa phòng, mắt chớp chớp trong ánh sáng mờ mờ. Nàng nhăn mặt khi mắt làm quen với bóng tối. Căn phòng này làm nàng nhớ đến phòng khách phía trước của bà Daniel, đồ đạc thời Victoria và chất ngập cả phòng. Nhưng đồ là đồ tốt, nàng nghĩ. Chỉ có điều là quá nhiều. Nàng ngồi xuống chiếc ghế bện bằng lông ngựa không mấy thoải mái để đợi.
Emma đã phát hiện ra ba điều quan trọng từ khi cô ở Leeds. Tiền nói lên một tiếng nói có sức thuyết phục nhất. Đặt đồng tiền cứng lạnh lên bàn, ít người có thể cưỡng nổi mà không cầm nó lên; trả trước là một điều cám dỗ khác không thể cưỡng lại, mình càng trả sớm bao nhiêu thì mình càng mạnh bấy nhiêu, và cuối cùng phải nắm lấy ngay cơ hội khi nó vừa tới, bởi vì nó không gõ vào cùng một cánh cửa hai lần trong một tuần đâu. Emma cân nhắc những thứ đó, nhưng chủ yếu là cô tự hỏi xem Joe Lowther có bị nao núng vì đồng tiền không. Vì một lý do nào đó, nàng không hoàn toàn chắc. Nàng cau mày, suy nghĩ về Joe, cố gắng đánh giá anh ta. Chắc chắn là anh ta bẽn lẽn. Nàng cũng biết là nàng đã làm nhụt nhuệ khí anh ta lúc ở ngoài ngưỡng cửa và theo ý kiến của mình, điều này đã tạo điều kiện thuận lợi cho nàng. Tuy nhiên, điều ấy không có nghĩa là anh ta tin tưởng nàng còn quá trẻ, thế nhưng anh ta có thể cũng không nhiều tuổi hơn nàng là bao. Có lẽ anh ta độ hai mươi hai mốt gì đó. Dù sao thì nhất thiết nàng phải thuyết phục anh ta là nàng đã có khả năng, có kinh nghiệm trong việc bán lẻ và vì thế nàng sẽ là một người đáng tin cậy. Có lẽ tiền thuê nhà ba tháng sẽ là món tiền thích hợp. Nó sẽ không những làm anh ta tin tưởng ở ý định nghiêm chỉnh của nàng mà còn chứng minh cái nhạy bén trong việc làm ăn, kinh doanh của nàng trong năm qua. Emma chợt có ý nghĩ là nàng phải hết sức duyên dáng. Joe Lowther sẽ phải khuất phục trước sự dịu ngọt. Sự dịu ngọt và tiền. Một sự kết hợp bất khả chiến bại. Emma vuốt áo, cảm thấy bình tĩnh khi cánh cửa mở.
Joe đã thắt cà vạt, mặc áo vét, tóc anh đã chải gọn gàng. Emma có thể nhìn thấy nước lóng lánh trên đó. Nàng vội cúi nhanh xuống để anh không thấy nụ cười trên mặt mình. Cô thấy Joe Lowther hoàn toàn trong trẻo. Vẫn còn một chút mắc mớ giữa họ, nhưng cửa hiệu sẽ là của nàng khi nàng bước ra khỏi nhà này.
Joe ngồi đối diện với Emma, lấy giọng sống sượng nhất, anh ta bắt đầu: “Nào thưa cô, ta nói chuyện cửa hàng. Tôi đã suy nghĩ kỹ và tôi đã dứt khoát quyết định không cho cô thuê”.
- “Tại sao lại không?”, Emma hỏi bằng một giọng êm dịu nhất.
- “Bởi vì hai người đã thất bại trong năm nay đều có kinh nghiệm hơn cô. Tôi không muốn tỏ ra là khó dễ đâu cô ạ, nhưng xin cô hiểu cho tôi không thể liều lĩnh cho một người mới vào nghề thuê. Tôi đang tìm một người quả là quá hiểu nghề bán lẻ, người biết làm ăn để tôi khỏi phải lo cửa hàng rỗng không. Tôi còn việc khác phải làm hơn là làm vú già”.
Emma nở một nụ cười có thể làm cho một nửa khối băng Bắc cực tan ra nó làm mắt nàng to hơn nhưng lại nghiêm chỉnh: “Ồ, tôi cũng nhận thấy như thế, thưa ông Lowther”, nàng trả lời, “và, đứng về một vài phương diện tôi hiểu sự do dự của ông là do tôi còn trẻ. Tuy thế, điều đó quả thực không đáng lo ngại khi ông xét tới việc tôi bắt đầu làm ăn kinh doanh từ trước. Tôi đã giao dịch với mọi người, bán hàng cho họ. Công việc của tôi rất có lời. Tôi đã kiếm được rất nhiều tiền với công việc may vá và bánh trái do tôi làm ở nhà. Tôi có những khách hàng thường xuyên, chủ yếu là làm xe ngựa, họ chắn chắn sẽ ủng hộ tôi nếu như tôi có một cửa hàng”. Emma dừng lại và mỉm một nụ cười mê hồn.
- “Vâng, họ đã bảo đảm với tôi điều đó”, cô đưa chuyện một cách khéo léo. “Đấy ông xem, tôi đâu có phải là một người khôg có kinh nghiệm như ông nghĩ và tôi có cơ sở chắc chắn hẳn hoi”.
- “Cô nói là nghề xe ngựa?”. Joe hỏi, không phải không bị gây ấn tượng. “Thế cô bắt đầu công việc làm ăn từ ở nhà bao lâu rồi?”.
- “Khoảng một năm”, Emma nói, nghiêng người về phía trước, hăm hở bừng lên trên khuôn mặt nàng. “Như vậy cũng không ít đâu”.
Joe nhìn nàng chăm chú. Nàng rất trực diện, nghe có vẻ thạo việc và rõ ràng là tự tin. Thực tế anh chưa bao giờ gặp một cô gái tự chủ đến như vậy. Sự nhiệt tình của cô tươi mát, gần như có sức lan truyền và sự ngờ vực về tuổi tác và khả năng của nàng đã nhanh chóng giảm đi. Tuy thế, nàng làm anh lúng túng, nhưng mà bao giờ anh chẳng lúng túng đối với các cô gái và một cô gái đẹp nhường này như nàng làm anh cảm thấy không an toàn. Dù sao thì nàng cũng chỉ muốn thuê một cửa hàng của anh và thế thôi. “Vâng, quả là tôi cũng không biết nói thế nào”. Anh bắt đầu nói một cách do dự.
Nhận thức được anh dao động, Emma giơ tay lên.
- “Hãy khoan đã, thưa ông Lowther”, nàng nói một cách oai vệ. “Tôi đã nói trước là tôi sẽ trả trước ông”. Cô mở chiếc ví đen, ấy ra một cuộn giấy bạc. “Thưa ông Lowther, như ông có thể thấy, tôi không nói suông, tôi là một phụ nữ có một chút đích thực nào đó, dù tôi còn trẻ, và tôi có thể trả trước ông. Tôi có thể làm ăn phát đạt với cửa hàng, thưa ông Lowther. Tôi nghĩ có thể thành công trong vòng sáu tháng”.
Joe nhìn nàng một cách hoài nghi: “Ồ, thôi xin cô. Cô đi quá xa đấy. Cô nghĩ tôi đang đi một chiếc thuyền chuối chăng? Tôi không ngờ nghệch đâu, thưa cô”. Emma quyết định không cần trả lời cho câu nói đó. Thay vì, cô giơ bàn tay ra. “Tôi thật thô lỗ quá, thưa ông Lowther. Tôi còn chưa giới thiệu mình. Tên tôi là Emma Harte”.
Anh cầm lấy bàn tay nàng. Anh cảm thấy cái mát khô của nó qua găng tay móc và cái nắm của bàn tay cô chắc mạnh như tay một người đàn ông.
- “Rất hân hạnh được gặp cô, cô Harte”, anh nói.
- “Bà Harte”. Emma nói.
- “Ồ, xin lỗi”, Joe nói, thất vọng bất ngờ.
Emma nắm lấy thời điểm này để đạt mục đích. “Tôi cũng không biết tiền thuê là bao nhiêu, thưa ông Lowther, nhưng tôi dự định trả ông máy tháng trước”. Nàng phải làm cho lời đề nghị của mình thật cám dỗ để anh không từ chối. “Có thể sáu tháng trước được không? Chắc chắn điều ấy để ông thấy thiện ý của tôi và niềm tin của tôi đối với bản thân mình”.
Joe nao núng, sự quyết tâm của anh vụn nát, dưới sức mạnh của một nhân cách mạnh mẽ đầy tính khuất phục của nàng. Anh thấy mình bị cuốn hút lại với nàng. Bị lôi cuốn với nàng một cách nguy hiểm. Cái anh chàng Joe siêu tục này kinh hoàng. Một phụ nữ có chồng! Rồi đột nhiên ý nghĩ xô tới. Đó là lý do thật sự vì sao anh không muốn nàng thuê cửa hàng của anh. Anh sợ bị nàng mê hoặc.
Emma hiểu là mình đã nắm được mọi quân bài và nàng đi một bước quyết định nữa. Nàng nghiêng người về phía trước nhè nhẹ chạm vào cánh tay anh. Joe nhảy dựng lên như bị rắn cắn: “Này, thưa ông Lowther”, Emma nói môt cách nghiêm nghị. “Tôi còn có môt ý nữa. Ngoài việc trả ông trước tiền thuê tôi còn sẵn lòng viết cho ông một lá thư thỏa thuận rằng nếu công việc làm ăn của tôi thất bại tôi vẫn chịu mọi phí tổn cho đến khi nào ông tìm được một người thuê mới. Nói cách khác, tôi bảo đảm sẽ báo ông biết trước một thời gian đầy đủ trước khi tôi dọn đi. Có lẽ là ba tháng trước?”. Nàng gợi ý bằng một giọng ngay thật.
Joe thấy không thể tranh cãi với người con gái này. Không những các điều khoản của cô là hợp lý mà tất cả đều là có lợi cho anh hết. Nếu anh từ chối lời đề nghị đó thì anh khác chi một thằng khờ khạo. Cuối cùng anh nói: “Vâng, bà thật tự tin về thành công của mình trong cửa hàng, thưa bà Harte. Nếu không thì bà đã chẳng đề nghị một sự thu xếp như vậy. Tôi cho rằng như thế là được. Bà có muốn xem cửa hàng trước khi làm những công việc tiếp theo không?”.
- “Thưa ông Lowther, tôi đã biết cửa hàng”, Emma nói và vẫy tay. “Tôi đã tới đó nhiều lần. Người thuê trước của ông sắp xếp công việc rất tồi, hàng hóa tồi xấu và quá đát so với chất lượng của nó, rõ ràng bà ta không biết mua. Mà không phải chỉ có thế, bà ta không biết các khách hàng của mình!”.
- “Ồ”, Joe nói, hết sức ngạc nhiên.
- “Tôi cho rằng như vậy là xong, thưa ông Lowther”, Emma nói một cách nhanh nhảu.
- “À, vâng, tất nhiên. Tôi sẽ cho bà thuê cửa hàng đó”. Anh nói: “Mỗi tuần một guinea. Như vậy là bốn guinea một tháng. Bên cửa hàng có khu để ở. Một phòng khách rộng, bếp, một phòng ngủ, một tầng hầm rất rộng để chứa đồ. Bà có thể sống ở đó, sau cửa hàng, rất thoải mái nếu bà thích”.
Emma gật đầu: “Vâng, chắc là tôi sẽ sống ở đó. Nó có lý do. Vâng, bốn guinea một tháng là khoảng bốn mươi tám guinea một năm, thêm bớt một vài shilling, phải không ạ?”. Nàng bắt đầu lấy tập tiền ra, làm rất nhanh vài con tính nhẩm. “Ông có thể cho một cái biên nhận không ạ?”, nàng hỏi một cách lễ phép và đưa tiền.
- “Tất nhiên”, Joe nói: “Để tôi lấy cho cô chìa khóa và cuốn sổ thuê nhà. Tôi sẽ đánh dấu là cửa hàng đã được trả tiền trước sáu tháng. Tôi ghi tên bà hay tên chồng bà ạ?”
- “Xin ghi tên tôi. Chồng tôi ở trong hải quân, thưa ông Lowther. Ở nước ngoài”.
Emma gật đầu và nói tiếp: “Tôi sẽ viết cho ông một lá thư thoả thuận báo trước ba tháng. Chiều mai tôi sẽ mang tới. Như vậy có tiện không? Ông có thể trao nó cho luật sư của gia đình, nếu ông cần”.
- “Không. Không. Không cần. Và tối mai sẽ hoàn toàn thuận tiện”, Joe nói. Anh đứng lên: “Tôi sẽ đi lấy chìa khóa và cuốn sổ cho thuê. Chỉ một thoáng tôi sẽ quay lại ngay”.
- “Tôi tin bà”, Joe nói. “Xin lỗi bà, thưa bà Harte”, Emma nghe tiếng anh huýt sáo khi anh đi vào trong bếp. Một nụ cười mãn nguyện và sung sướng lướt qua mặt nàng. Nàng không thể tự chủ được mình.
Giờ đây nàng có cửa hàng thứ nhất của mình.
Joe Lowther mặc chiếc áo khoác đen và thọc sâu hai tay vào túi, vừa bước nhanh vừa run lên. Một cơn gió dữ dội gầm rú xuống đường, gió thổi tung mưa tuyết và tuyết vào người anh tơi tả, cuồn cuộn. Anh lại ướt sũng, như tất cả mọi đêm trong tuần này. Tháng mười hai là một tháng thời tiết ghê gớm nhất bây giờ là cuối tuần đầu của cuộc bao vây dài dặc này. Đêm nay anh chậm hơn bao đêm khác. Một lần nữa anh bị dụ dỗ ở lại xưởng đúc để hoàn thành những cuốn sách coi như một đặc ân của ông Ramsbotham, ông này, gần đây có cái thói quen đáng bực mình là cứ chồng chất công việc lên đầu anh. Sự chậm trễ của ông ta còn làm anh bực mình vì một lý do chính yếu khác. Thường thường vào tối thứ sáu, sau bữa ăn chiều, anh tới nhà Emma Harte để xem sổ sách cho nàng. Tối nay anh sẽ không thể đến đó mãi đến tận gần mười giờ, và Joe, sản phẩm của một nền giáo dục giai cấp trung lưu lớp dưới là môt con người rất cứng rắn trong nguyên tắc. Đến thăm một phụ nữ trẻ tuổi sống một mình vào giờ khuya khoắt như thế này là không đúng. Dù sao, anh đã hứa rồi, và anh cảm thấy phải giữ danh dự với lời hứa ấy.
Joe đã dạy Emma kế toán, và bây giờ anh thấy không cần phải xem sổ cái của nàng nữa. Tuy nhiên anh sẵn lòng làm điều đó và nếu như anh thành thật với bản thân mình thì đúng là anh mong làm điều đó. Emma có khả năng kỳ lạ đối với những con số và giữ sổ sách rất kỹ lưỡng, cẩn thận. Gần đây anh mới nhận thấy là nàng thực sự mê thích những cột số dài vô cùng tận, cái mà anh không làm được. Nói thật ra, anh không thích làm sổ sách kế toán một chút nào. Đó không phải là nghề của anh. Tuy nhiên anh đã được học nghề trong phòng kế toán của xưởng đúc khi anh mười lăm tuổi và sau chín năm thì nó đã trở thành cuộc sống đối với anh. Joe thấy không tìm nổi một người chủ thích hợp hơn thế nữa. Anh là con người quá khuôn khổ, theo kiểu của mình và vì anh không có tham vọng và thiếu sáng tạo trong việc đi tìm những phương hướng mới nên anh vẫn đóng khuôn trong những cuốn sách buồn tẻ của Ramsbotham. Joe cũng không hề nghĩ là anh chẳng cần phải làm việc gì nếu như anh muốn. Anh ghét sự nhàn rỗi và quan trọng hơn là anh sợ sự buồn chán. Công việc của anh ở xưởng đúc đã lấp hết cả ngày và những buổi tối trống rỗng cô đơn vô tận hết tháng này qua tháng khác, hết năm này qua năm khác.
Nhưng Joe Lowther đáng lẽ đã có thể ngừng làm việc khi mẹ anh chết bốn năm trước đây. Lúc ấy Frederick Ainsley, cố vấn pháp luật của gia đình đã mời anh đến để nghe đọc di chúc và Joe vô cùng ngạc nhiên khi thấy mẹ anh không những để cho anh sống trong một hoàn cảnh thoải mái mà còn cực kỳ giàu có nữa. “Đây là cả một di sản con ạ”, ông Ainsley nói: “Một cố gắng hết sức to lớn qua bao năm tháng của bà mẹ tội nghiệp quá cố và của bà ngoại con”, vị luật sư đã nói như vậy. Frederich Ainsley đã kể ra những gia sản mà Joe làm chủ lúc này, nhờ sự cần mẫn không ngừng của hai người đàn bà đằng họ ngoại. Di sản mà Joe bắt buộc phải nghĩ tới bao gồm tám cửa hàng ở phố Town, một dãy nhà ở Armley, nhiều ngôi nhà tầng ở gần Wortley, và trước sự ngạc nhiên của Joe, hai khu đất lớn gần phố St. Paul ở ngay Leeds. “Giữ lấy những cái đó, Joe ạ”, Ainsley khuyên: “Giá trị của chúng sẽ tăng lên. Nhiều tòa nhà lớn được xây dựng ở Leeds. Khi nào bán sẽ được nhiều tiền lắm đấy!”. Cuối cùng, anh chàng Joe ngạc nhiên đến sững sờ khi biết rằng mẹ anh còn để lại cho anh năm mươi lăm nghìn pound tiền mặt ở ngân hàng Midland. Joe đã lảo đảo ra khỏi phòng luật sư, choáng váng trong cái ngày kinh hoàng đó. Sau đó, lúc ngồi tàu trên đường về Armley, một cơn giận tê tái đã tới với anh. Mẹ anh sinh thời đã không ngừng báo về những thảm họa tài chính đang lù lù nơi chân trời. Người cha hiền lành, sợ vợ của anh đã bị xô đẩy xuống mồ sớm một cách tàn bạo vì làm việc quá sức, ăn uống thiếu chất, thuốc men không đầy đủ. Tại sao mẹ anh lại tàn nhẫn như vậy trong khi họ có nhiều đến thế? Anh đã tự hỏi, và nỗi bực tức của anh không giảm đi với thời gian.
Joe đã không động tới tài sản ấy mấy năm qua. Anh chỉ thêm vào và đóng thu nhập hàng tháng vào ngân hàng. Không giống bà mẹ keo kiệt của anh, ở Joe có ít máu tham, chừng nào giải quyết được những nhu cầu hàng ngày của anh thế là đủ. Hầu như, tiền không hề vấn vương đầu óc của anh chút nào.
Tuy nhiên đêm nay khi đi qua những phố tối và ẩm ướt, anh lại nghĩ đến nó. Hai tuần trước, Emma đã nói là nàng sẽ đầu tư vào nhà máy quần áo đầu tiên của David Kallinski ở đường York. Nàng đã thiết kế một loạt quần áo phụ nữ cho David và sự hăng hái của nàng đã lây sang mọi người. Khi Emma gợi ý là David cũng có thể để cả anh đầu tư nữa, Joe đã ngạc nhiên. “Phải để cho đồng tiền làm việc, Joe ạ”, Emma đã nói vậy và nàng đã báo cho anh biết nàng hy vọng tăng gấp đôi tiền trong một thời gian không xa.
Mặc dù bản tính Joe thận trọng, nhưng đã có nhiều phương hại bởi sự thẹn thò nhút nhát, chứ không phải do lọc lõi đặc biệt nào. Cái thái độ được đến đâu hay đến đó của anh về tài chính đã khiến anh nhún vai và đồng ý đầu tư nếu David muốn anh làm vậy. Emma nói nàng sẽ thu xếp chuyện này. “Tôi nghĩ hai nghìn pound sẽ là số tiền cần thiết”, nàng nói tiếp. “Nếu như anh có đủ. Là một con người tài chính hẳn anh dư biết, không cần phải để đến tôi nói, tiền là một công cụ phải được sử dụng để làm ra thêm tiền, Joe ạ! Để nó ở ngân hàng thì có ích gì?”.
Mình quả thực không cần kiếm thêm tiền nữa. Joe tự nói với mình. Anh đã ổn định cả đời rồi. Mặt khác, anh không muốn mất hai nghìn pound. Anh vội gạt bỏ cái ý nghĩ tiêu cực này, Joe hết sức tin tưởng ở sự khôn ngoan bẩm sinh của Emma, anh đã được chứng kiến điều đó và từ lâu đã thừa nhận sự sắc sảo trong công việc làm ăn buôn bán đối với một cô gái hai mươi tuổ. Anh tin tưởng ở sự xét đoán của nàng. Hơn nữa, Joe cũng đủ thông minh để thấy rằng anh đầu tư vào nhà máy quần áo cho vui thôi. Anh thích David và Emma, bởi anh ít bạn và cô đơn một cách dễ sợ nên anh ao ước dính dấp vào cuộc đời của họ, làm một bộ phận của cuộc phiêu lưu kỳ thú này.
Đắm chìm trong muôn ngàn ý nghĩ, Joe đã ở ngưỡng cửa nhà mình lúc nào không hay. Anh rũ tuyết ra khỏi đôi ủng khi bước lên bậc; mùi thức ăn thơm ngào ngạt đón chào anh, hơi ấm của lửa bếp xua tan những cảm giác cô đơn của anh.
Bà Hewitt đang dọn bữa ăn tối cho anh. “Của cậu đây, Joe”, bà kêu lên, mặt rạng rỡ. “Trời ơi, cậu ướt sũng xĩnh cả rồi. Đến bên ngọn lửa mà sưởi cho ấm đi”.
- “Chào bà Hewitt”, Joe vừa nói vừa bỏ mũ và rũ ra khỏi áo. Anh vội đến bên chậu nước, hai tay chà sát vào nhau để xua tan cái giá rét. Anh lau khô tóc và mặt, rửa tay rồi ngồi xuống bên ngọn lửa. “Thật là một đêm ào ào gió thổi, bà Hewitt ạ, lạnh quá đi. Tôi nghĩ chắc có sương muối dày đặc”.
Bà Hewitt gật đầu. “Ừ, chắc cậu nói đúng”. Bà liếc nhìn anh và cau mặt” “Này, Joe, đừng ngồi đó với đôi ủng đẫm nước nữa, cưng. Cởi ngay ra. Vì thế mà bị đau răng đó, cưng ạ, đi ủng sũng nước ấy”.
Joe mỉm cười vì câu nói của người đàn bà này, nhưng anh vẫn cởi ủng ra và đặt ở bệ lò sưởi để vừa ý bà. Bà là một bà già tốt bụng, trông nom anh hơn cả mẹ đẻ của anh và cứ ba tối một lần, bà cải biên cái ngôi nhà phiền muộn này thành một mái ấm. “Nhìn cái bánh Flan sữa trứng này kìa” bà Hewitt thốt lên, vừa chỉ vào đồ ăn tráng miệng trên bàn. “Cậu đã thấy cái gì đẹp như thế chưa. Tôi mua cho cậu ở cửa hiệu nhà bà Harte đấy. Trời, Joe ạ, thảo nào mà công việc làm ăn của bà ấy chẳng phát đạt. Cái cách bà ấy huấn luyện hai cô gái nhà bà Long để giúp việc, nó thật làm cho tôi cứ ngây người”.
Joe mỉm cười với bà. “Tôi không thể ngờ cô ấy lại làm ăn được như thế khi cô ấy thuê cái cửa hàng đầu tiên đó. Nhưng cô ấy đã chứng tỏ cho tôi thấy là tôi lầm và cả nhiều người khác nữa”.
- “Ấy, cậu ạ, bà ấy là người thuê nhà tốt đấy”, bà Hewitt thừa nhận.
- “Ăn tối với gì thế bà”, Joe vừa hỏi vừa sưởi ấm đôi tay.
- “Mùi thơm quá”.
- “Tối nay tôi không làm gì đâu, Joe ạ”, người đàn bà già trả lời. “Tôi mua cho cậu beef steak và bầu dục ở đằng nhà bà Harte, chẳng là cậu thích thứ đó mà”.
- “Thật tuyệt, bà Hewitt”.
- “Hôm nay tôi nói chuyện với Laura Spencer ở cửa hàng kim chỉ, mà cậu có biết không, cái áo cưới cô ấy may cho con gái của bà em tôi là một trong những kiểu của chính bà Harte đấy. Cô Spencer nói với tôi là bà Harte sẽ vẽ kiểu cho một trong những cửa hàng lớn ở Leeds”.
- “Tôi hiểu”, Joe nói.
- “Thế mà cậu không bao giờ nói cho tôi biết”.
- “Tôi không nghĩ ra, bà Hewitt. Có quan trọng không?”.
- “Tất nhiên là có chứ, Joe. Tất cả những gì liên quan tới Emma Harte đều quan trọng. Ai cũng nghĩ bà ấy là một phụ nữ đáng yêu. Rất lịch sự và tư thế. Đó là đầu đề câu chuyện của phố Town với những cửa hàng quần áo của bà. Một cô gái thật có duyên”, bà mang bát củ cải ra bếp lò và nói tiếp: “Joe, cậu có thích bia không? Tôi có bia lạnh ở đầu hầm rượu đó”.
- “Tôi không từ chối, bà Hewitt. Cảm ơn bà”, Joe châm tẩu thuốc và ngả người trong ghế, sưởi đôi chân ướt của mình.
- “Vâng, tất cả đã xong rồi đây Joe”, bà Hewitt tuyên bố.
- “Các nồi thức ăn đã chuẩn bị, bữa tối của cậu sẽ nóng trên bếp lò, cưng ạ. Uống bia trước đi rồi ăn sau. Bây giờ tôi phải về. Tạm biệt”.
Lát sau, khi đã đọc xong báo, Joe lấy bánh kẹp thịt, rau và ngồi ăn bữa tối. Anh vừa ăn xong thì có tiếng đập cửa ầm ầm làm anh giật mình nhỏm dậy. Cửa bật mở mang theo những bông tuyết tơi tả cùng với bà Minton, một trong những người thuê nhà của anh. Mặt bà ta đỏ lựng và qua ánh mắt dữ dội của bà, Joe biết đây không phải do gió lạnh mà vì sự tức giận.
- “Trời, bà Minton…”, anh bắt đầu.
- “Đừng bà Minton Mintiếc gì với tôi nữa, Joe Lowther”, bà ta rống lên: “Đây là một tội ác! Một tội ác đốn mạt. Tôi biết hết! Kể từ khi cô ta dọn đến tôi đã biết ngay cô ta nhòm ngó cửa hàng của tôi mà. Và khi anh cho cô ta thuê cái cửa hàng khác ở góc phố, tôi đã nói với ông nhà tôi là chẳng bao lâu nữa cô ta sẽ hất mình ra thôi. Thế là bây giờ tôi bị kẹp giữa cửa hàng thực phẩm và cửa hàng kim chỉ của cô ta, cô ta cứ ép cứ ép mãi cho đến khi cô ta hất tôi ra giữa phố Town. Anh cũng phải thừa nhận là tôi nói đúng chứ!”. Bà Minton nổi khùng ngừng lại để lấy hơi, hai tay chống nạnh, dáng điệu thách thức.
- “Bà Minton, xin bà bình tĩnh nào. Tôi không hiểu bà đang nói cái chuyện khỉ gì”.
- “Tôi đang nói về Emma Harte, cái chuyện ấy đấy! Cô ta muốn cửa hàng của tôi! Tôi không cần phải xem tướng xem số cũng biết được điều đó. Cô ấy muốn bành trướng sang cửa hàng của tôi. Cái cửa hàng mà tôi có trong mười năm nay. Những người làm ăn buôn bán cho là cô ta không ra gì, cái bà Harte dương dương tự đắc đó. Nhớp nhúa phu nhân, họ gọi cô ta như thế. Chặt đứt đường làm ăn của người ta, tự mình trực tiếp tới các xưởng sản xuất và các nhà kho để mua bán, không thông qua khâu trung gian. Rồi cô ta phá giá để không một người nào ở phố Town có thể bán chen được một tí gì. Ấy cái con bé Emma Harte ấy thật là đồ giảo quyệt”.
- “Bà Minton!”, Joe thét lên. “Emma Harte là một cô gái tốt và cô ấy làm việc chăm chỉ. Cô ấy không có ý định hất bà ra đâu. Cô ấy chỉ điều hành các cửa hàng của cô ấy một cách có hiệu quả thế thôi”. Joe khó chịu nhìn người đàn bà lôi thôi lốc thốc trong chiếc áo bẩn thỉu và chiếc khăn quàng cáu ghét. “Bà ta là một phản ánh sinh động của các cửa hàng bẩn thỉu của bà, một sự bừa bộn và hỗn tập không thể tưởng tượng nổi”.
- “Ồ, tôi đã nghĩ là thế nào anh cũng bênh vực cô ta mà”. Bà Minton hét lên: “Tôi đã nói với ông nhà tôi là nói với anh thì chẳng đi đến cái thế giới nào đâu. Anh cũng thích con bé ấy rồi! Này, đừng có vẻ như thế. Tất cả chúng tôi đều biết giữa hai người có chuyện gì với nhau rồi!”. Bà bước thêm một bước tới gần Joe, nhìn vào mắt anh và rít lên. “Con phò của anh, con khốn nạn Emma Harte là thế đó, thế mà là gái đã có chồng chứ! Tôi ngạc nhiên là anh vẫn chưa tọng cái của anh vào cái bếp lò của con bé đó. Nhưng cứ chờ đấy rồi xem!”.
Joe mặt trắng bệch. “Sao, đồ thối mồm, con mụ già đê tiện. Không có chuyện gì giữa bà Harte và tôi ngoài chuyện làm ăn buôn bán. Mà bà phải giữ mồm giữ miệng đấy, bà Minton, nếu không bà sẽ mang tội vu khống. Tôi không cho phép những lời nói bỉ ổi này!”.
Bà Minton nghiêng người về phía trước, vẫy vẫy cuốn sổ thuê nhà bà ta đang nắm chặt trước mặt anh, Joe nghĩ bà ta sẽ đánh anh bằng cuốn sổ đó. “Tôi nghĩ bà nên đi, bà Minton”, anh nói lạnh như băng. “Trước khi tôi hết kiên nhẫn. Như thế là đủ lắm rồi”.
Bà ta hất đầu rồi quay đi, tiến bước ra cửa. Bà ta nhìn lại, ánh mắt đầy thù hận và thét lên. “Ồ, cô ta sẽ không có nổi sự sung sức bật tôi ra đâu, bởi vì chính tôi sẽ bỏ đi trước! Và anh có thể cầm lấy cái cuốn sổ thuê nhà khốn khiếp của anh mà cho thuê lại!”. Bà ta quăng quyển sổ qua phòng vào người Joe và nó rơi trên chiếc bánh Flan sữa trứng.
Cánh cửa đóng sầm lại sau bà ta, Joe nhìn cuốn sổ đè lên sữa trứng, anh nhấc nó ra, mang tới chậu nước, lấy khăn lau đĩa gột sạch. Anh nhìn vào trong. Cái mụ già hung hăng này, anh nghĩ, còn nợ mình một tháng tiền nhà. Anh biết đáng lẽ anh phải gọi lại để đòi. Nhưng anh không cần.
Joe kinh hoàng vì những điều bà Minton đã nói về Emma và anh. Chắc chắn những điều ấy được thốt lên để mà trả mối thù nung nấu. Hay có ai hàng xóm láng giềng thực sự tin là có chuyện gì đó giữa hai người. “Con phò” chẳng phải là một cái tên hay ho gì. Đó là cái cách để nói một người phụ nữ đĩ thỏa, anh có thể đoán là một số người nói như vậy, những loại người như bà Minton. Nhưng anh không bao giờ đụng chạm tới Emma, anh bỗng thấy nóng bừng mặt. Anh cảm thấy tội lỗi khi anh nhớ lại những đêm anh nằm thừ trên chiếc giường trinh trắng của mình, hầu như nghẹt cả thở, lòng ham muốn của anh đối với Emma bừng bừng khiến anh không sao có thể chịu nổi. Bởi vì quả là anh ham muốn nàng. Vào những đêm khủng khiếp ấy, anh hình dung mình đang lướt hai bàn tay trên thân thể đẹp đẽ của Emma, miết đôi môi mình lên đôi môi nàng, sờ nắn đôi vú rắn chắc của nàng và cuối cùng là yêu nàng say đắm. Anh rùng mình, nhắm mắt lại, cố gắng xóa những hình ảnh gợi tình ấy, những viễn tưởng mê đắm, đầy nhục dục ám ảnh anh.
Một lát sau, Joe cảm thấy bình tĩnh hơn. Muốn một người đàn bà và ao ước chiếm đoạt người ta là một chuyện, nhưng đó không phải là một hiện thực, và anh thấy tức giận những lời lẽ ám chỉ khủng khiếp của bà Minton. Joe thở dài mệt mỏi, anh nhận ra rằng Emma quả đã làm hại công việc buôn bán của cái bà già lắm điều đó, mặc dù là không cố ý. Nàng đã làm những sản phẩm của mình và những cửa hiệu đẹp đẽ, hấp dẫn hơn những cửa hiệu khác ở vòng xung quanh. Nhưng đặc sản của nàng, như những thức ăn làm thật nổi tiếng, còn quần áo thì nàng đã kiếm được khách ở cách đó hàng nhiều dặm. Với sự mạnh dạn và tài buôn bán, hai cửa hàng của nàng đã trở nên sầm uất nhất ở phố Town trong thời gian không đầy ba năm và lợi nhuận của nàng rất cao; Joe biết điều này qua những cuốn sổ cái của nàng. Nó cao đến nỗi bây giờ nàng có thể đầu tư hai nghìn pound vào công việc kinh doanh của David cũng như chính anh có ý định làm. Một thành công như vậy rõ ràng là gây ra sự ghen ghét và tiếng xấu rồi.
Joe đứng lên, quyết định không nghĩ tới những lời buộc tội của bà Minton nữa. Anh sẽ đi gặp Emma ngay và nói với nàng là bà Minton sẽ trả lại cửa hàng. Emma bây giờ có thể có cửa hàng thứ ba. Mặc dù nàng không bao giờ nói một lời nào với Joe, anh biết nàng có ý định đối với cửa hàng này từ lâu. Điều đó có ý nghĩa, anh phải thừa nhận điều đó. Khi bà Minton đã dọn đi, Emma có thể bành trướng và ba cửa hàng liền nhau sẽ giống như một cửa hàng bách hóa mà nàng ấp ủ một ngày nào đó sẽ có. Anh nhìn đồng hồ. Kim chỉ chín giờ. Anh nhún vai. Mặc kệ hàng xóm láng giềng. Ta chẳng cần họ nghĩ gì. Anh lên gác mặc một chiếc sơ mi sạch.
Emma đứng giữa cửa hàng thực phẩm và xem xét công việc của mình một cách hài lòng. Mọi thứ trông rất đẹp, cô quyết định như vậy, đúng là cũng bỏ công dậy từ bốn rưỡi sáng để sắp xếp bày biện cho ngày Noel. Đôi mắt tinh tường của nàng vừa nhác thấy một hạt bụi ở một chiếc ly, nàng vội chạy ngay đi lấy khăn. Nàng phủi bụi, rồi đứng lùi lại ngắm nghía chiếc tủ đựng đồ quý lóng lánh trong ánh sáng của những ngọn đèn gas gắn trên tường. Bây giờ chúng thật là hoàn hảo, không một vết gợn. Thức ăn bên trong trông ngon lành. Có những chiếc bánh Noel điểm hạnh nhân, những chiếc bánh pudding mận tròn phủ vải muxơlin, mỗi chiếc có buộc nơ đỏ, một loạt bánh nhân quả băm đủ kích thước, những khúc củi đốt ngày lễ Noel làm bằng bánh xốp, bên ngoài bọc bằng chocolate thẫm màu và điểm trang bằng những cành tầm gửi, bằng bánh hạnh nhân. Emma, được các cô gái nhà Long giúp việc đã dành nhiều tiếng đồng hồ nướng các loại bánh thời trang này, nhưng nàng biết sự cần mẫn này sẽ được đền bù. Mỗi loại hàng sẽ được bán cùng với những nguồn cung cấp khác chứa trong những hộp thiếc lớn để trong hầm lạnh.
Emma vuốt phẳng tấm vải trắng trên bàn trước tủ kính đựng thức ăn và ngắm nhìn những hàng nhập khẩu của nước ngoài, những của ngon vật lạ nàng đã mua cho mùa giáng sinh mà không một cửa hiệu nào ở Anh có. Nàng để hoa quả của Pháp trong những chiếc lọ thủy tinh trong suốt, sắp xếp một cách khéo léo những hộp chà là Ai Cập và từ Hy Lạp. Rồi nàng vội vã đến sau quầy và trở lại với một khay đựng bánh hạnh nhân, trái cây từ Đức đến hôm qua. Đêm hôm trước, Emma đã bọc những chiếc giỏ đó với giấy quăn màu xanh và nơ đỏ ở chỗ tay cầm. Hàng rất nhiều nhưng nàng dự đoán trong một vài ngày tới sẽ phát đạt. Đây là lễ Noel thứ ba trong cửa hiệu, và bây giờ thì nàng đã quá ổn định, không còn lo sợ gì về chuyện bán hàng nữa. Nàng tin chắc sẽ không hết khách hàng, cả những khách quen và khách mới.
Emma nhìn cửa hiệu lần cuối, đôi mắt soi mói của nàng cố tìm ra chỗ không hoàn hảo nhỏ nhất. Không thấy một chỗ nào hết. Những giá nhiều không sao kể hết chạy quanh tường, vút lên tận trần chất đầy những hộp jambon, thịt lợn và những hộp trà các loại màu đen màu vàng, đủ loại nguyên vật liệu, hoa quả đóng chai do nàng làm, rau và mứt. Phía dưới là những vò mứt vỏ chanh, anh đào, nhân quả băm, quất, sốt táo để cho vào gà tây ngày Noel và ngỗng. Ba thùng khổng lồ ở phía bên quầy phụ đầy đến tận ngọn những quả hạnh táo, cam để cho vào vớ ngày Noel truyền thống của trẻ em, mùi thơm nhè nhẹ của trái cây bay ngọt ngào trong không gian lẫn với hương vị cay hăng của những món ăn Ấn Độ, mùi bánh mới nướng, mùi phó mát và thịt làm chảy nước miếng. Ôi, sao mà nàng yêu cửa hiệu của mình! Ở đây, nàng được yên ổn được che chở lánh xa gia đình nhà Fairley. Nàng cũng vô cùng sung sướng nghĩ đến việc bán hàng sắp tới, lợi nhuận tăng lên vùn vụt, và nàng nở một nụ cười.
Emma bước tới cửa kép rèm, tháo gióng chuẩn bị đón những khách hàng đầu tiên. Những khách hàng này hẳn sẽ là những đầu bếp và quản gia của những tòa nhà lớn thường ùa vào rất sớm để đặt hàng. Emma hy vọng danh sách mua sắm của họ tuần này sẽ dài hơn bao giờ hết.
Khi đồng hồ điểm tám tiếng, Emma ra chỗ thường lệ sau quầy ngồi trên một chiếc ghế cao gần bếp lò paraffin. Nàng cúi xuống mở tủ buffet, lấy cuốn sổ cái của cửa hàng sơ mi ca vát. Trong một năm nàng đã thuê cửa hàng thứ hai của Joe Lowther, công việc làm ăn đã vượt xa cả những giấc mơ cuồng nhiệt nhất của nàng. Laura, người mà nàng đã thuyết phục trông coi cửa hàng cho nàng đã tỏ ra vừa có khả năng vừa có hiệu quả, số hàng bán đã tăng gấp đôi trong sáu tháng đầu. Emma đọc kỹ những cột số đẹp đẽ này, nàng thở dài mãn nguyện và sung sướng. Tương lai của Edwina và nàng giờ đây được bảo đảm.
Tiếng chuông leng keng làm Emma ngẩng ngay đầu lên, nàng để cuốn sổ cái sang bên và khóa tủ lại. Nàng đứng lên mỉm cười với người phụ nữ đang bước vào. Đó là người quản gia của một trong những dinh thự sang trọng của khu nổi tiếng Towers. “Chào bà Jackson”, Emma nói : “Bà đi mua sắm sớm”.
- “Xin chào bà Harte. Trời, hôm nay giá quá, tôi rất sung sướng được vào trong cửa hàng ấm áp dễ chịu của bà. Tôi không hiểu sao những người có cửa hiệu khác lại không theo gương của bà mà sưởi ấm cửa hàng của họ”. Bà Jackson rùng mình khi bà tiến tới bên quầy với hai chiếc giỏ lớn: “Tôi nghĩ là tôi sẽ đặt hàng trước mặc dù đến cuối tuần tôi mới sai con ông làm vườn đến lấy”. Bà đưa hai cái giỏ và ngồi trên chiếc ghế cao phía bên kia quầy.
Emma cất cái giỏ đi và nói: “Bà Jackson, để tôi pha cho bà một tách trà nóng nhé?”
Mặt người đàn bà, trắng nhợt và dúm lại vì thời tiết rét cóng, bừng lên: “Thế thì tốt quá, bạn thân mến, nếu điều đó không làm phiền hà. Đi xuống phố Town quả thực là giá buốt, xin cam đoan với bà như thế”.
Emma luôn luôn có một ấm trà nóng khổng lồ chuẩn bị cho thời tiết lạnh và nàng luôn mời khách hàng một cách rộng rãi. Nàng đã phát hiện ra rằng, một chút hiếu khách chẳng tốn kém gì và lợi thì rất nhiều. Nàng nhấc chiếc ấm ra khỏi bàn bên cạnh bếp lò, xoay lại ấm giỏ và rót rà. “Sữa và đường chứ, bà Jackson? Cháu bé Freddy ra sao rồi? Cháu đã khỏi sởi chưa?”, Emma hỏi. Nàng có thói quen hỏi thăm con và chồng của những khách hàng, nàng luôn luôn lắng nghe đồng cảm.
Bà Jackson nhận chén trà, mặt bà bừng lên sung sướng: “À, bà nhớ đến cháu Freddy thật là tử tế quá. Đến Noel này thì cháu sẽ đi lại được”. Bà mở túi xắc và lấy ra một mảnh giấy. “Đây là danh sách của tôi, bà Harte ạ. Tôi nghĩ là nó đầy đủ rồi, nhưng tôi sẽ xem lại, nếu bà không phiền và…”. Bà Jackson ngừng lại giữa câu. Chuông lại leng keng và cửa mở.
Emma nở một nụ cười ngạc nhiên nhưng sung sướng. “Blackie”, nàng thốt lên, “em tưởng tối nay mới gặp anh”.
- “Chào em, Emma, và xin chào bà”, Blackie trả lời vui vẻ, nghiêng đầu về phía bà Jackson: “Anh hy vọng là không làm phiền em, Emma”.
- “Không, không phiền một chút nào hết. Anh lại quầy uống một chút nước chè để em tiếp bà Jackson một chút”, Emma nói, nàng quay sang phía bà khách hàng.
Nàng liếc nhanh danh sách. “Vâng, thưa bà Jackson, mọi thứ hình như là rõ cả. Tuy nhiên, có lẽ bà nên…”, Emma dừng lại và nhìn bà Jackson một cái nhìn suy nghĩ, “không biết bà có nên lấy thêm một ít bánh patê và bánh hình khúc củi Noel không? Bà biết trẻ con thích loại bánh ấy lắm và mùa nghỉ năm nay dài. Nói thật với bà tôi có rất nhiều nơi đặt hàng. Tôi không thể hứa là còn nhiều vào cuối tuần nếu bà quyết định mua thêm nữa”.
- “Ôi, tôi quên không nghĩ tới điều đó. Vâng, thế thì có lẽ bà tăng số lượng lên. Tôi không muốn bà chủ của tôi bực mình với tôi. Bà hãy thêm ba chiếc nữa mỗi loại và thêm cả bánh Noel nữa”, bà Jackson nói. Mắt bà nhìn những hàng nhập khẩu, bà bước tới bên bàn mang theo cốc nước. “Trời, những cái này trông đẹp quá nhỉ”. Bà xem xét một hộp kẹo bánh Thổ Nhĩ Kỳ và đọc tấm card của Emma được viết một cách cẩn thận. “Đặc biệt của nhà Harte. Cung cấp hạn chế”.
Emma làm ra vẻ kiểm tra lại danh sách mua sắm vừa liếc nhìn bà Jackson dưới hàng mi. Đêm qua nàng đã cố tình chọn những từ này, biết rằng chúng sẽ khơi dậy thói đua đòi của những khách hàng.
Bà Jackson tiếp tục nhìn những mứt kẹo của nước ngoài rồi nói. “Những cái này tôi không biết chắc nữa. Trông nó hay hay, nhưng có thể nó hơi quá lạ lùng đối với bà chủ của tôi”.
- “Ồ, bà nghĩ như vậy sao, thưa bà Jackson? Tôi luôn luôn thấy giới thượng lưu thích những loại của ngon này”, Emma nhấn mạnh: “Thực tế mà nói, tôi lấy làm tiếc đã không đặt nhiều hơn. Những thứ này lan đi nhanh như đám cháy. Vâng, mới hôm qua đây thôi, một bà bếp ở Tower yêu cầu tôi để cho bà ấy mỗi thứ hai cái”, nàng bịa thật nhanh: “Dù sao tôi cũng thấy nó hơi đắt một chút”.
Bà Jackson nhìn xoáy vào Emma. “Bà chủ của tôi không quan tâm đến chuyện giá cả, bà Harte ạ”, bà nói một cách chống chế. “Mỗi thứ tôi lấy ba cái”.
Emma mỉm cười, nàng đã học được cách kích động tính ganh đua giữa các bà bếp và các bà quản gia, các bà này luôn luôn cố tỏ ra là mình hơn người kia. “Tốt lắm, bà Jackson. Tôi sẽ ghi lại và để riêng ra ngay”.
Đôi mắt bà Jackson đảo trên những giá phía sau Emma. “Nhân tiện, xin bà thêm vào một hộp jambon nhập khẩu và bốn chai tương ớt xoài vào danh sách cho. Bà chủ của tôi đợi những vị khác sang trọng đến nghỉ. Phải chuẩn bị trước mới là khôn ngoan”.
- “Vâng, đúng thế đấy ạ. Và bà vẫn có thể sai cậu bé con người làm vườn đến nhà cuối tuần nếu như bà còn quên một cái gì đó. Bà Jackson bà biết là bao giờ tôi cũng làm hết sức mình cho bà”.
Bà quản gia làm điệu bộ: “Bà Harte, bà biết tôi là một khách hàng tốt. Tôi biết tôi có thể trông cậy ở bà. Nào, bà có nhiều kinh nghiệm, bà thử xem hộ xem tôi còn bỏ sót cái gì không ghi trong danh sách. Tôi muốn bà chủ hài lòng, với mớ mứt của tôi trong những ngày lễ”.
Emma làm bộ suy nghĩ: “Nếu là bà tôi sẽ thêm hai hộp thịt hộp và ba lọ nước xốt táo. Để phòng những lúc cần kíp. Và có lẽ là cheese để ăn kèm với bánh ngọt ngày Noel. Bà cứ để đấy cho tôi. Tôi sẽ chọn ra loại cheese hạng nhất và có lẽ đôi ba thứ khác nữa”.
Bà Jackson để chiếc cốc lên bàn, trông có vẻ hình như Emma vừa làm cho bà một đặc ân lớn lao. “Cám ơn bà Harte. Bà mất thì giờ quá nhiều vì tôi, thật là chu đáo. Tôi phải nói là bà đã làm cho cuộc sống của tôi dễ thở hơn, kể từ khi bà tới phố Town. Dạo này tôi không phải nấu nướng nhiều hơn nữa. Thôi, tôi phải đi thôi. Chúc bà ngày Noel vui vẻ, bà bạn thân mến”. Bà ta đứng lại ở cửa và vẫy tay. “Chúc bà ngày Noel vui vẻ, bà Jackson. Và xin bà nhớ cho là bà không phải lo lắng một điều gì hết. Đơn đặt hàng của bà sẽ được giải quyết đầy đủ, chu tất”. Emma nói với theo.
- “Anh chắc là như thế”, Blackie vừa cười vừa nói, anh bước vòng quanh quầy và buông mình xuống chiếc ghế đẩu cao bà Jackson vừa bỏ trống. “Em có thể bánh được cả than cho người bản xứ ở vùng tồi nhất ở châu Phi. Anh chưa từng được chứng kiến như thế bao giờ, Emma. Sao em đã tăng được gấp đôi số lượng mua của người đàn bà ấy”. “Gấp ba”, Emma nói và khẽ nở một nụ cười.
Blackie lắc đầu và làm vẻ nghiêm trang. “Emma ạ, anh tạt qua để chia buồn với em”.
- “Chia buồn?”
- “Ừ, anh được biết là người chồng thủy thủ của em vừa đột ngột qua đời vài tuần trước đây. Chết vì sốt thương hàn ở Ấn Độ Dương, anh nghe nói như thế. Thật là buồn quá”. Anh ngửa đầu ra sau và cười phá lên, Emma cũng cười theo với anh. “Trời đất quỷ thần ơi, em thật là giàu óc tưởng tượng. Chính em nên làm văn chứ không phải là Frank. Sốt thương hàn ở Ấn Độ Dương!”
- “Vâng, em phải giết chết hắn”, Emma nói: “Có một người chồng mới thật là nhiễu sự. Ngay cả cái tên đã ruồng bỏ em. Em nghĩ tốt nhất là để cho hắn ta chết ở xa, vùi sâu ngoài biển cả”.
Blackie cười: “Đúng. Đúng”. Anh nhìn chiếc áo len đỏ của nàng: “Anh thấy là em không để tang”.
- “Các bạn bè của em không mong em mặc đồ đen để tang một người đã ruồng rẫy em, có phải không nào? Em chắc Laura nói với anh”.
- “Có. Cô ấy nói là em nhận được một lá thư của Bộ Hải Quân sáng hôm nọ. Chắc là em cường điệu hóa”.
- “Em phải làm nó y như thật chứ, Blackie. Đó chỉ là những lời nói dối vô hại mà. Từ nay em có thể nói thật được rồi”.
- “Ồ, đúng thế, nhỉ?”
- “Vâng, tất nhiên”. Emma nói một cách kiên quyết.
- “Nhưng không phải về Edwina. Chúng ta phải che chở nó bằng
mọi giá. Không một ai được biết nó là con không hợp pháp, Blackie ạ”.
- “Anh không bao giờ phản bội em đâu, em gái của anh. Chính em biết điều ấy. À này, hôm qua anh gặp David Kallinski đấy. Anh đến xem nhà máy, để anh có thể làm những kế hoạch cho sự thay đổi. Anh mong em không phiền lòng, nhưng anh có nói với anh ấy là chồng em đã qua đời”.
- “Ồ. Thế anh ấy nói sao?”, nàng hỏi một cách thận trọng.
- “Anh ta nói anh ta chia buồn. Nhưng anh thì anh thấy trông cu cậu như người vừa được thừa kế một triệu pound vậy”. Blackie nhìn
nàng soi mói. “Có chuyện gì giữa hai người, Emma?”
- “Sao, có gì đâu”, nàng nói đều đều. “Em cũng làm ăn buôn bán với anh ấy, có thế thôi”.
- “Ồ, à”, Blackie nói một cách tư lự. “Ồ, anh lại nghĩ là cu cậu nghĩ khác cơ”.
- “Vớ vẩn! Do cái óc tưởng tượng Centic của anh thôi. Anh còn có óc tưởng tượng hơn cả Frank nữa”.
Blackie không trả lời. Anh thọc tay vào áo khoác, lấy ra một thiếp giấy và trao cho Emma. “Đây là kế hoạch để cải tiến cửa hàng cỡ trung bình, rồi kết hợp cả ba lại với nhau giống như em muốn, em gái. Anh sẽ vào cửa hàng của bà Minton cả hai phía. Nghĩa là từ cửa hàng sơ mi ca vát và qua tường phía kia. Anh sẽ làm một lối đi nối ba cửa hiệu. Em thấy thế nào?”. “Tuyệt với, Blackie. Anh biết em tin tưởng ở sự phán đoán của anh. Tối nay em sẽ xem bản kế hoạch. Bao giờ anh bắt đầu?”, nàng hỏi một cách hăm hở.
- “Anh biết tính em, anh chắc là em muốn anh bắt đầu ngay chứ gì, nhưng cũng sau ngày Noel, Emma ạ. Chúng ta sẽ làm nhanh thôi, và đến giữa tháng giêng em sẽ có mặt trong cửa hiệu”.
David Kallinski ngã người trong ghế sô pha ở bếp phía sau cửa hàng thực phẩm của Emma và ngắm nhìn bản phác họa cuối cùng của nàng một cách trầm tư. Anh giơ nó ra xa, đôi mắt anh nheo lại quan sát.
Trong khi tiếp tục nhìn bản phác họa, David bỗng thấy một sự thích thú dâng lên, anh nắm chặt bức vẽ. Những bức vẽ của nàng cho quần áo mùa đông, thậm chí lại hay hơn cả quần áo mùa hè nữa. Thực tế là tuyệt vời. Đường nét trang nhã và thanh lịch, những chi tiết hài hòa, nàng đã khéo léo kết hợp màu sắc để tạo nên nhiều tác động khác nhau khiến màu sắc của nàng thật là kỳ lạ, thậm chí hơi bạo một chút. Chỉ Emma mới có thể nghĩ được những kết hợp không bình thường như vậy: màu rượu vang đỏ điểm màu hồng tươi, màu xiclamen (mlt không đoán ra được màu này là màu gì nữa) thoáng màu hoa cà và phía bên kia là sự pha trộn màu mùa thu được làm sinh động lên bằng màu trắng thanh khiết, màu xám núi sương, màu xanh da trời kết hợp với màu tím, màu xanh của cây linh sam kết hợp với màu hồng. Và tất cả đều hài hòa với nhau một cách thật đẹp. Không phải chỉ có như vậy, vì sự đơn giản của cấu trúc cơ bản nên những sáng tạo của nàng là lý tưởng cho kỹ thuật sản xuất hàng loạt anh có thể sử dụng ở nhà máy.
David mỉm cười sung sướng và kiêu hãnh vì Emma. Anh không hiểu tài năng nghệ của nàng ở đâu ra, nhưng đúng là không thể phủ nhận và khiếu thẩm mỹ của nàng có một không hai, tài nhận biết của nàng không ai bì kịp. Anh đã nhận ra, không một chút hồ nghi, rằng Emma có một tài năng bẩm sinh. Không còn một từ ngữ nào khác thích hợp để miêu tả tài ba của nàng cùng với nghị lực phi thường khiến nàng trở thành ghê gớm. Không những là một người vẽ kiểu xuất sắc, nàng còn là một người hiểu biết bẩm sinh thị hiếu hay thay đổi của công chúng, đoán trước được ý thích của mọi người và quan trọng hơn cả là họ sẽ mua gì. Hình như có một con quỷ nói cho nàng hay mọi điều và tất cả những công việc liều lĩnh của nàng đều thành công. David ngờ là Emma Harte có thể kiếm được tiền bất cứ cái gì nàng quyết định nhúng tay vào, tay nàng sờ vào cái gì, cái đó thành vàng. Cả anh và cha anh đều kinh hoàng vì nàng đã nắm được toàn bộ vấn đề tài chính và khả năng nắm được những vấn đề tiền tệ phức tạp. Nàng đọc bản quyết toán chi thu như kiểu người ta đọc một tờ báo và có thể chỉ ra được những điểm thiếu sót và những điểm hay chỉ trong vòng vài ba phút. Nàng mới hai mươi mốt tuổi mà đã leo lên được những nấc thang với những bước đi nhanh nhất, chắc chắn nhất. David thấy hình như không có gì có thể giữ chân nàng, y như không thể ngăn được tia chớp, từ lâu anh đã thấy như thế. Nàng không ngừng làm anh kinh hoàng và anh không dám ước đoán trong mười năm nữa nàng sẽ đi đến đâu. Lên tới mức thang cuối của danh vọng, anh phỏng đoán, và những viễn cảnh làm cho người ta đến chóng mặt.
David đặt bản vẽ cùng với những bản vẽ khác và châm thuốc. Mọi việc đều tiến triển theo kế hoạch và đúng như anh đã dự tính. Anh đã đi vào công việc làm ăn được bốn tháng cùng với Emma và Joe Lowther làm người công ty. Emma cũng làm người vẽ kiểu và đo kiểu áo, em trai của anh, Victor, làm quản lý nhà máy. Một tháng nữa David sẽ hai mươi lăm tuổi, anh không hề có một chút ngờ vực nào về tương lai của Công ty quần áo Kallinski hoặc về vận mệnh của mình. Anh có ý định làm một người giàu có và quan trọng trong cộng đồng, và tất cả Leeds nếu không phải là cả Yorkshire một ngày nào đó phải chú ý đến anh. Đó là một lời hứa anh đã hứa với mình nhiều năm về trước và anh hoàn toàn có ý định giữ lời hứa đó.
David lao vào công việc của mình một cách nhạy bén, chắc chắn, hăm hở và đây là một sự bắt đầu bất ngờ. Lúc trưng bày bộ sưu tập mùa hè, những mẫu đầu tiên được chấp nhận một cách nồng hậu của những cửa hàng lớn ở Leeds, Bradford, Sheffield, và Manchester. Nghị lực phi thường mà Emma, Victor, và anh đã dùng, cùng những giờ dài dằng dặc họ đã bỏ vào công việc, nay đã được chứng minh.
David không thể ngăn nổi lần giở qua những bản vẽ một lần nữa. Anh trải trên bàn và thấy trong lòng hết sức rung động. Phải, lạy Chúa, nàng đã làm như vậy! Đường nét nơi này thì bất cứ một nhà kinh doanh nào ở Leeds hoặc ngay cả ở London nữa cũng không thể hơn được.
Anh tuyệt đối tin tưởng là sau khi trưng bày mùa đông, đơn đặt hàng chắc phải là khổng lồ. Anh có những dự định làm say lòng là tăng gấp ba số lượng lên trong vài ba tháng tới, bởi vì, cũng giống như Emma, David Kallinski là một con người kinh doanh bẩm sinh... lịch thiệp, sôi nổi và toàn tâm toàn ý với công việc.
Emma làm gián đoạn luồng suy nghĩ của anh khi nàng bước vào phòng mang theo bánh bít tết bầu dục. David ngước nhìn và nín thở. Nàng đã thay y phục mặc mẫu của họ và nó hợp với nàng một cách kỳ lạ. Dù kiểu áo không đặc biệt lộ liễu, nó được cắt may rất đúng mực nhưng hàng vải len thanh tú bó sát lấy thân hình kiều diễm của nàng làm nổi lên hai cồn vú, cặp đùi tròn trịa và đôi chân dài duyên dáng. Chiếc áo màu xanh thẫm làm tôn ánh mắt và làn da trong suốt của nàng. Anh để ý thấy nàng đã làm một kiểu khác cho mái tóc dầy óng của mình. Vẫn được chải lại phía sau như thường lệ để cho đỉnh phía trước càng nổi lên rõ hơn nhưng lần này nàng để nó buông lơi và buộc một chiếc nơ nhỏ bằng nhung xanh. Mái tóc màu hung đỏ buông xuống đôi bờ vai đóng khung lấy khuôn mặt kỳ diệu cho nó một vẻ thơ ngây. Nàng là một sinh vật kỳ diệu, quyến rũ nhất trần ai, David ngẩn ngơ nghĩ.
Thấy David quan sát mình lâu và chăm chú như vậy, Emma ngập ngừng cau mặt:
- Anh có thích kiểu này không, David? - nàng hỏi vì hiểu lầm vẻ biểu hiện trên mặt anh.
- Trời, có chứ! - Anh kêu lên. - Tuyệt vời, Emma ạ. Không, nói như thế vẫn còn là đánh giá thấp. Chúng thật là kiệt xuất. Cô làm một công việc kỳ diệu. Thật thế.
Emma mỉm cười:
- Đừng quá cường điệu, - nàng phản đối nhưng thở dài nhẹ nhõm. Sau khi để bánh vào bếp lò, nàng lướt tới, ngồi xuống sàn dưới chân anh, lưng quay về phía ngọn lửa. Nàng lướt qua tất cả những bản vẽ, dẫn giải nhanh từng bước một, nét mặt đầy nhiệt tình, sôi nổi. Nàng gợi ý thay đổi một số bản, giải thích ý kiến của mình về quá trình cắt may sao cho thuận lợi nhất và tình nguyện làm. Khi mới bắt đầu tiến hành công việc, Emma đã tính toán cẩn thận từng khâu vì thế mà họ đã có thể ít nhiều sản xuất được nhiều hơn những đối thủ khác. Nàng nhắc lại những điểm đó, David nghiêng người về phía trước hăm hở. Anh lắng nghe chăm chú, ghi nhớ từng điểm nàng nói. Những lời khuyên của nàng chứng tỏ rất sáng suốt và anh luôn nghe theo.
Khi Emma nói xong, David nói:
- Còn một điều chúng ta chưa nghĩ đến: tên gọi của kiểu áo. Chúng ta phải có một cái tên ngay, bởi vì tôi đã đưa quần áo mùa hè vào sản xuất và tôi phải đặt nhãn. Tôi không cho rằng quần áo Kallinski là một cái tên hay ho gì cho lắm, ý cô thế nào?
Emma nhìn nhanh, không muốn làm anh phật ý, nàng đã do dự một lúc trước khi nói:
- Cũng không hẳn như thế. Nó không, à... nó không mang tính chất phụ nữ cho lắm, David ạ. Nhưng tôi cũng không có ý gì. Tại sao anh không hỏi Victor xem? Về những chuyện này cậu ấy rất giỏi.
David nở một nụ cười:
- Tôi đóan thế nào cô cũng gợi ý như thế nên tôi đã hỏi rồi và Victor đã đề nghị một cái tên. Tôi xem chừng thích cái tên đó, mặc dù tôi không dám chắc là cô có đồng ý không. Chú ấy gợi ý chúng ta dùng tên của người trùng tên nổi tiếng với chị.
- Người trùng tên nổi tiếng với tôi? Cậu ấy định nói ai trên đời này nhỉ? Tôi không biết là tôi lại có một người trùng tên với tôi.
- Tôi phải xấu hổ thú nhận rằng tôi cũng không biết. Điều đó chứng tỏ là chúng mình còn dốt quá. Chú ấy muốn nói Emma Hart thứ nhất. Đó là Hart, không có "e".
Một sự tò mò không che giấu thoáng trên nét mặt Emma:
- Emma Hart thứ nhất? - Cô nhắc lại. - Ai vậy?
- Emma thứ nhất là một phụ nữ khá lừng danh, hay ô danh tùy ở cách mình nhìn sự việc. Để tôi giải thích: Người cùng tên với cô lấy ngày William Hamilton và trở thành Hamilton phu nhân Nelson, tình yêu lớn của ông, người tình của ông, di sản của ông cho dân tộc trong di chúc nổi tiếng của mình. Victor nói với tôi như vậy. Cô có nhớ những cuốn sách lịch sử của chú ấy không? - anh đùa.
- Ồ, cái bà Hamilton phu nhân ấy. Hừm, thực ra thì không phải là một cái tên tồi. Không tồi một chút nào hết, - nàng thích thú. - Nó còn khá là độc đáo nữa, nghĩ mà xem. Áo dài của Hamilton phu nhân. Không, vì chúng ta may cả com-lê và áo khoác nữa nên có lẽ nên đề là quần áo của Hamilton phu nhân, có phải không nhỉ?
- Ừ, đúng thế. Cô có thích cái tên ấy không, Emma? Nói thật tôi thích cái tên ấy ngay, nhưng tôi còn muốn bàn với cô trước đã trước khi cho làm nhãn. Cô nói sao?
Emma suy nghĩ, nhắc lại cái tên đó trong đầu. Cũng khá quyến rũ và sang trọng. Nàng nhớ lại Nelson là người hùng hải quân của Winston. Có lẽ đây là một điểm tốt. Có lẽ cái tên đó sẽ may mắn.
- Vâng, tôi thích lắm! Chúng ta hãy dùng nó, David.
- Còn Joe thì sao? Chúng ta có nên hỏi ý kiến anh ấy không?
- Trời, David, chắc anh đã biết Joe sẽ đồng ý với tất cả những ý kiến của chúng ta mà. Anh không cần phải lo ngại về anh ấy, - nàng cười. - Nếu không có Victor thì chúng ta biết làm ăn thế nào. Chúng ta là hai người mù chữ có phải không?
- Có lẽ như thế, nhưng chúng ta biết kiếm tiền. Nào, ta có nên làm một ly anh đào để kỷ niệm chọn được tên không? - David đứng lên, cúi xuống Emma. Anh giơ hai tay ra và giúp cô đứng lên khỏi sàn.
Khi Emma đứng lên, nàng ngẩng đầu và mỉm cười với David. Đôi mắt họ gặp nhau. Họ nhìn nhau một giây, không thể quay đi. Emma thấy trong lòng mình rung động. Gần đây, mỗi lần David chạm đến người nàng, bao giờ nàng cũng thấy như thế. Mặt nàng ửng đỏ, tim đập thình thình. Nàng cứ nhìn mãi vào khuôn mặt tôn sùng của anh, bị thôi miên bởi ngọn lửa xanh đầy ham muốn ấy. Nhận thấy sự do dự và dè dặt của nàng, David bước nhanh. Anh kéo nàng trong tay mình, miệng tìm miệng nàng. Môi anh chạm môi nàng và anh tách chúng nhẹ nhàng nhưng kiên quyết. Emma cảm thấy chất ngọt ấm áp của lưỡi anh, nàng ngây ngất. Những ngón tay nàng lướt ra sau gáy của anh, lồng vào trong mái tóc đen dầy của anh như một ngọn lửa đang cháy. David ôm chặt nàng, hai bàn tay mạnh khỏe của anh lướt qua vai nàng xuống lưng. Bàn tay anh miết mạnh thân hình mảnh mai của nàng áp chặt vào tấm thân lực lưỡng của anh, và khi vòng ôm xiết lại, Emma cảm thấy sự ham muốn của anh dồn ép vào bắp đùi nàng. Chuyện như vậy đã hàng tuần nay, những chiếc hôn, sự mân mó, những cái nhìn nóng bỏng. Mỗi lần, chỉ có hai người, họ đều bị nhấn chìm trong cảm giác hai cơ thể khao khát hoà nhập vào nhau.
David lao vào xúc cảm của Emma khiến nàng như ngạt thở và quay cuồng . Sự sôi nổi âm ỉ của nàng chỉ được đánh thức một cách mong manh và thoảng qua mấy năm trước đây rồi chìm đi, bây giờ nổi lên một cách da diết khi David hôn nàng và ôm nàng trong tay . Emma run lên với cảm giác lo ngại và hốt hoảng, những chuyện xưa cũ không ngừng nổi dậy đè lấy nàng . Nó cố chống lại những cảm giác đang kêu rên, nhưng trí óc nàng hoang mang, loáng choáng và nàng phó mặc cho những chiếc hôn đầy ham muốn của anh .
Họ buông mình xuống ghế sofa mà vẫn ghì chặt lấy nhau . David cúi xuống Emma, mắt anh như khóa vào mắt nàng và chứa chan ao ước . Hình ảnh của anh làm rung động tâm trí nàng cho đến lúc nàng lạc trong đó và nhắm mắt lại . David vuốt ve mắt nàng, hôn lên mi mắt, lên trán, lên môi nàng . Anh hết sức cẩn thận tháo chiếc nơ nhung xanh, gỡ mạng tóc để tóc nàng xõa xuống như suối trùm lên bờ vai . Anh lồng tay vào trong đó, kinh ngạc vì nhan sắc và niềm say mê khao khát nàng đã dâng lên trong lòng anh . Anh như ngọn lửa cháy bùng muốn chiếm lĩnh nàng hoàn toàn .
Đôi mắt David lướt trên thân thể nàng đang nằm uể oải trên sofa và anh không còn có thể kìm lòng thêm được nữa . Anh bắt đầu sờ nắn mặt nàng, cổ nàng, vai nàng, và đôi vú nàng . Một cảm giác nghẹt chặn lấy cổ họng anh khi đầu vú nàng cứng lại dưới lớp áo mỏng trong bàn tay anh . Lòng ham muốn của anh ngùn ngụt như một cơn đau hầu như không chịu nổi .
Emma mở mắt, nàng cảm thấy thoáng lo âu dưới ánh mắt màu xanh của đôi mắt anh, bây giờ ánh mắt đó đen lại và chăm chú . David nhích lại gần nàng hơn, anh nắm lấy hai vai nàng, miệng anh miết chặt lấy miệng nàng đòi hỏi . Anh đè cả người lên nàng, miết xuống . Emma sung sướng dưới sức nặng của thân thể anh .
Giọng anh khàn lại bên cổ nàng:
- Ồ, Emma! Emma yêu dấu! Anh không thể chịu được nữa!
- Em biết, David, em biết, - nàng lẩm bẩm . Nàng ve vuốt mái tóc quăn của anh, giữ chặt đầu anh vào ngực mình, ôm anh trong đôi tay . Tay nàng vuốt ve đôi vai rộng của anh, một tiếng kêu ao ước run run trên đôi môi nàng . Nàng cúi đầu, để đầu mình sát vào đầu anh, tóc nàng phủ lên như một tấm mạng bằng lụa . Một tiếng thở dài bật ra, nàng thừa nhận rằng nàng yêu David Kallinski và muốn anh cho riêng mình, cho quãng đời còn lại của nàng . Nhưng bản tính dè dặt tự nhiên của nàng cộng với sự khủng khiếp về những hậu quả của cuộc chung đụng tình ái không phải vợ chồng, không cho phép nàng chịu thua những xúc cảm đang tràn lấn . Không phải vì nàng không tin David . Nàng tin . Nàng biết anh không bao giờ phản bội nàng . Anh không phải là Edwin Fairley . Tuy nhiên nàng đã dìm được lòng ham muốn mãnh liệt, bóp nghẹt chúng và cuối cùng nàng đã từ chối trong trí óc nếu không phải là trong tim .
Rất lặng lẽ, Emma thì thào trong mái tóc anh:
- Chúng ta phải ngừng lại thôi, David . Mỗi lúc một tệ hơn, như thế không đúng . Chúng ta không được để nó buột khỏi tầm tay, - nàng đẩy anh ra nhẹ nhàng và ngồi lên, choáng váng và run rẩy .
David tựa vào sofa . Anh nhặt một sợi tóc của nàng lên . Anh hôn nó rồi để nó buông rơi . Anh nửa mỉm cười:
- Emma, anh yêu em lắm . Đừng sợ anh . Anh không làm em đau khổ đâu . Không bao giờ .
Emma co rúm người lại về tiếng vang ghê gớm này của quá khứ .
- Em không sợ anh đâu, David, - nàng trả lời se sẽ . - Em chỉ sợ chính em thôi khi em ở bên anh như thế này và những điều có thể xảy ra khi chúng ta quá ... quá ...
- Xin em đừng, - anh đặt một ngón tay lên môi nàng . - Anh đồng ý với em . Chúng ta không thể tiếp tục như thế này . Như vậy là điên rồ . Nhưng chúng ta phải sống cùng nhau, Emma . Anh không thể chịu đựng được sự giày vò này lâu hơn nữa! - Anh nắm lấy bàn tay nàng, nét mặt trang nghiêm. - Lấy anh, Emma . Càng sớm càng tốt, - anh cầu xin . - Chúng mình phải lấy nhau, em biết điều đó .
- Lấy nhau ? - nàng kêu lên .
David mỉm cười:
- Ừ, lấy nhau . Em đừng có vẻ choáng váng như thế . Từ mấy năm nay anh đã muốn lấy em . Anh chỉ cố kìm vì hoàn cảnh của em, - anh cười . - Em có nghĩ rằng anh có những ý định đáng hổ thẹn không, Emma ? Anh không bao giờ có ý thoả hiệp . Anh yêu em đến độ ... - David sững lại, nhìn nàng chằm chằm . Mắt anh mở to ngạc nhiên . - Emma, làm sao thế ? Mặt em trắng bệch ra!
- Em không thể lấy anh được, David ạ, - Emma nói, giọng tắc nghẹn .
- Tại sao không ? Em đừng buồn cười nữa! - Anh thực sự cười lớn, không tin những lời nói của nàng . - Anh nói với em là anh yêu em và anh biết em cũng yêu anh . Đó là kết quả tự nhiên nhất, cho chúng ta lấy nhau . Đó là điều mọi người làm khi người ta yêu nhau, Emma .
Emma lảo đảo đứng lên, bước ngang qua phòng . Nàng nhìn ra ngoài cửa sổ, đôi mắt đầy lệ . Nàng thấy rằng không thể trả lời anh .
David há miệng nhìn chiếc lưng thẳng đứng, đôi vai căng thẳng của nàng, anh kinh hoàng vì thái độ đó .
- Có chuyện gì thế, Emma ? Vì Chúa, hãy trả lời anh đi, - anh yêu cầu .
- Em không thể lấy anh, David . Xin anh cứ để cho như thế, - Emma vừa nói vừa cố nuốt nước mắt .
- Tất nhiên là có thể, - David khẳng định một cách dữ tợn . - Bây giờ không gì có thể ngăn nổi em . Chồng em đã chết . Em tự do . - David ngừng lại, và khi anh tiếp tục nói, giọng nói căng thẳng lặng lẽ . - Emma, anh yêu em hơn bất cứ ai, hơn bất cứ cái gì trên đời này . Anh muốn ấp ủ, che chở cho em, với cuộc đời còn lại của anh . Chúng ta thuộc về nhau, Emma . Anh biết điều đó tự sâu thẳm trái tim anh . Và cả em cũng thế . Có một cái gì rất đặc biệt giữa hai chúng ta ... một sợi giây không thể đứt, - nàng vẫn không trả lời và một ý nghĩ nữa đến với David. - Có phải vì Edwina không? - anh vội hỏi . - Em không cần phải lo lắng vì cháu . Anh không sợ trách nhiệm đâu . Anh sẽ nhận cháu, Emma, và cả ba chúng ta sẽ cùng sống với nhau . Chúng ta sẽ hạnh phúc và anh ...
- Không phải vì Edwina .
- Vậy thì cho anh biết lý do chính đáng tại sao em không lấy anh! - anh ra lệnh, mặt anh tái xanh và nặng trĩu ưu tư .
- David, em không thể lấy anh bởi vì mẹ anh không bao giờ chấp nhận em . Bà sẽ không bao giờ tán thành để cho anh lấy một người ngoại đạo . Chắc chắn em không cần chỉ ra điều đó cho anh . Bà muốn anh lấy một cô gái Do Thái, người sẽ cho bà những đứa cháu Do Thái ...
- Bỏ tất cả những cái vớ vẩn ấy! - David ngắt lời, giọng anh vang lên giận dữ . - Anh không cần cái mẹ anh muốn, Emma . Anh muốn em làm vợ anh, và đó là tất cả những điều đáng kể .
- Em không thể làm mẹ anh đau lòng, - Emma thì thầm . - Bà đối với em thật là tuyệt vời, gần như một người mẹ thứ hai . Em yêu bà và sẽ không phản bội bà . Anh là con cả, David. Nếu chúng ta lấy nhau, bà sẽ đau lòng mất . Em thừa nhận là bà rất thích em, nhưng nó lại không giống nhau ... đón tiếp em như một nàng dâu . Em không phải là người Do Thái mà bà là chính thống . Xin anh hãy nghe những điều em nói, David . Đó là sự thật mà anh phải nhìn nhận .
David nghiêng người về phía trước ghế sofa, hai bàn tay anh nắm chặt:
- Anh muốn em nhìn thẳng vào mắt anh và nói với anh là em không yêu anh đi, Emma . Quay lại và nói với anh điều ấy đi .
- Em không thể nói, - Emma nói lặng lẽ .
- Tại sao không ? - anh hét lên, giọng vỡ ra .
- Bởi vì em yêu anh, David! Cũng nhiều như anh yêu em, - Emma quay lại chầm chậm và bước qua sàn . Nàng quỳ xuống chân anh, ngước lên mặt anh, sờ nhè nhẹ lên người anh .
Anh ôm chặt lấy nàng, vuốt lại mái tóc cho nàng, hôn lên đôi má ngấn lệ:
- Vậy ra tất cả là như thế, em yêu . Tất cả là như thế .
- Không, David, - nàng lùi lại và đứng lên . Nàng ngồi ngay ngắn bên anh . - Những điều khác quan trọng trong đời . Em sẽ không chịu trách nhiệm trong việc gây nên nỗi đau đớn cho cha mẹ anh . Em sẽ không chịu chia rẻ gia đình anh . Họ đối với em quá tốt . Vả lại em không thể sống chỉ có một mình được .
Nàng tìm khuôn mặt ương ngạnh của anh:
- David, anh không hiểu là không thể xây dựng hạnh phúc trên sự đau khổ của người khác hay sao ? Lúc đầu có thể là ổn thỏa nếu chúng ta lấy nhau nhưng cuối cùng nỗi lo ngại, sự thất vọng của họ sẽ len vào giữa chúng ta . Nó sẽ đẽo lần đẽo mòn những cái chúng ta có và cuối cùng sẽ phá nát hết .
David nhìn chằm chằm vào bàn tay nhỏ bé đầy nghị lực của nàng đang nắm chặt tay anh . Nó thật nhỏ và bơ vơ . Cuối cùng anh ngẩng lên và thấy sự bộc trực trong ánh mắt xanh của nàng và anh hiểu nàng thành thực . Nhưng anh vẫn không ngăn được mình kêu lên:
- Có phải em định nói với anh là em sẵn sàng hy sinh hạnh phúc của chúng ta, của anh và của em chỉ bởi một vài niềm tin tôn giáo nào đó không những đã lỗi thời mà còn hoàn toàn nực cười nữa! Anh không thể tin được . Nhất là em, Emma của anh . Emma cứng rắn, người chống lại cả thế giới để giành lấy bất cứ cái gì mình muốn .
- Vâng, em cho rằng em là người như thế . Nhưng không phải thực sự là như thế, David . Xin anh hãy cố hiểu ... - nàng rũ rượi . Cô đã làm anh tổn thương ghê gớm và cô không sao chịu nổi .
David rút tay ra khỏi tay cô, đưa lên mặt cô . Anh cảm thấy yếu đi một cách khủng khiếp đến độ buồn nôn và một cơn đau dữ dội lan qua ngực anh . Hình như cuộc đời anh đang khô kiệt . Hình như có người đột nhiên giật đi hy vọng, ước mơ, lời hứa hẹn cho tương lai của anh . Nhưng anh biết điều Emma nói quả thực là đúng . Anh cũng biết là nàng không thay đổi ý kiến .
David chồm lên, đi đi lại lại trước ngọn lửa . Cuối cùng, sau một vài phút, anh dừng lại quay sang Emma, nhìn nàng chằm chằm .
- Đây có phải là lời nói cuối cùng của em không ? - anh hỏi khẽ đến nỗi nàng hầu như không nghe thấy .
- Vâng, David! Em xin lỗi, nhưng em không thể tàn phá mẹ của anh .
- Anh hiểu, Emma . Xin em tha lỗi . Anh phải đi . Xin lỗi về bữa cơm chiều, nhưng hình như anh không còn thấy ngon miệng nữa . - Anh bước nhanh ra trước khi nàng có thể nhìn thấy những giọt nước mắt lóng lánh trong mắt .
Emma vội đứng lên .
- David! Khoan đã! Đợi em với .
Cánh cửa đóng sầm lại phía sau anh và nàng còn lại một mình . Nàng nhìn cánh cửa một lúc lâu rồi cầm những bản vẽ lên, đặt chúng lên nóc tủ . Mơ hồ nghĩ tới bữa ăn tối đang bị bỏng trên bếp, nhưng một cảm giác đau buồn, khổ sở xâm chiếm lấy nàng, nàng không còn đủ sức lấy ra đồ ăn ra nữa . Những ý nghĩ của nàng tập trung vào David mà không hướng vào nàng, bởi vì trong vô thức nàng biết rằng mối quan hệ của họ đã sụp đổ . Họ có thể là bạn, là bạn buôn bánh kinh doanh, chỉ có thế thôi . Nàng đã có nhiều thời gian với Janessa Kallinski để mà hiểu rằng mẹ của David không tha thứ bất cứ điều gì khác . Emma ngồi mãi nhìn vào căn phòng rỗng, khuôn mặt của David cứ lượn lờ trước mặt nàng . Nàng sẽ không bao giờ quên cái nhìn bị thương tổn trên nét mặt anh chừng nào nàng còn sống .
Khoảng một tiếng đồng hồ sau, Emma trỗi ra khỏi trạng thái sững sờ vì tiếng gõ ầm ầm ở cửa . David đã quay lại! Nàng chạy bay ngay ra phòng trước, tim đập thình thình, tên anh trên môi nàng . Nàng hăm hở mở tung cánh cửa và thấy mình đang nhìn vào bộ mặt phì nộn của Gerald Fairley.
Emma kinh ngạc đến nỗi trong phút chốc không nói nổi nên lời . Nhưng lập tức tay nàng nắm chặt quả đấm cửa, nàng cứng người lại, đề phòng chuyện rắc rối . Nàng định đóng cửa lại nhưng hắn đã ngăn được . Hắn lách người vào trong và đóng cửa lại một cách chắn chắn
Emma mãi mới nói được:
- Ông muốn gì ? - nàng hỏi lạnh lùng . Làm thế nào mà hắn lại tìm được nàng nhỉ ?
Gerald nhăn nhó:
- Cô có định mời tôi vào không thế, Emma ?
- Không . Tôi không có chuyện gì nói với ông cả . Xin mời ông đi ngay lập tức, - nàng nói, thu hết can đảm và lấy giọng lạnh lùng nhất .
Gerald, sau nhiều năm tọng cho đầy ruột đã béo một cách không thể tưởng tượng nổi, một núi thịt và rất khỏe . Một vẻ nhạo báng trên khuôn mặt phì nộn của hắn .
- Không đâu! Tôi có vài lời muốn nói cùng bà, thưa bà Harte, - hắn nói có vẻ khinh miệt .
- Tôi nhắc lại, tôi không có gì để nói với ông cả . Mời đi cho .
- Đứa bé đâu ? - Gerald hỏi, con mắt ma mãnh của hắn đầy dự định độc ác .
- Đứa bé nào ? - Emma lạnh lùng nói nhưng chân nàng run, nàng cần có sự trợ giúp, thầm mong David trở lại .
Gerald cười vào mặt nàng:
- Thôi đừng có vờ vịt thế . Tôi biết cô có con với Edwin . Cuối cùng không ích gì . Cuối tuần này, chú ấy vừa tự thú với tôi xong . Cô biết không, tôi nói với chú ấy là tôi đã tìm thấy cô . Tất nhiên là hoàn toàn tình cờ thôi, bởi vì tôi có đi tìm cô đâu . Cái thằng ngốc ấy muốn thăm cô, muốn giúp đỡ cô và đứa con của nó . Nhưng tôi không cho phép điều ấy, - Gerald vác cái mặt húp híp lại gần hơn . Emma lùi lại sát tường, hầu như cô không thở được . Gerald mỉm cười . - Thế giới này nhỏ lắm, Emma . Chúng tôi đã mua xưởng máy của Thompson tuần trước . Cô thử tưởng tượng xem tôi ngạc nhiên đến thế nào khi tôi thấy tên cô trên những cuốn sách cũ . Bước vào kinh doanh thế đấy, - hắn nói một cách khinh thị . - Nào, đứa bé đâu ?
- Tôi không có đứa bé nào hết, - Emma khăng khăng, hai tay cô nắm chặt .
- Đừng có mà nói dối tôi . Đối với tôi kiểm tra điều đó thật dễ dàng . Bà Harte, xin bà nhớ cho một điều: tôi có tiền và quyền lực . Tôi có thể tới bệnh viện địa phương St. Mary có phải không ? Và một vài đồng bảng, tôi có thể biết được hết . Tôi có thể xem bệnh án lúc nào tôi muốn .
Emma thót tim . Nàng biết hắn nói sự thật . Mặc dù vậy, nàng quyết định không thừa nhận một điều gì hết .
- Tôi không có con nào cả, - nàng nhắc lại, mắt không chớp .
- Ô, nào, Emma, buộc người ta ở một cái chân khác rồi kéo chớ gì . Edwin không bao giờ thú nhận một chuyện như vậy nếu nó không phải, một chuyện đặc biệt là chú ấy lại sắp đính hôn với tiểu thư Jane Stanbey, - Gerald nắm lấy cánh tay nàng . - Tôi có cảm giác là cô có thể dùng đứa bé để tống tiền Edwin sau này . Đó là thói thường của những kẻ du đãng thuộc giai cấp thợ . Nhưng tôi phải dùng mẹo để thắng . Gia đình Fairley không thể chấp nhận một vụ bê bối . Nào thôi, nói ra đi . Cái đứa con hoang nhỏ ấy ở đâu ? Và nó là gái hay trai ?
Emma trợn mắt:
- Tôi đã nói với ông tôi không có con với Edwin, - nàng nói nghiêm khắc, mắt nàng lóe lên ngọn lửa căm thù . Nàng giật tay ra. - Và nếu như ông còn để một ngón tay chạm vào người tôi, tôi sẽ giết ông!
Hắn cười rồi mắt nhìn ra cầu thang có ngọn đèn ngủ chiếu mờ mờ . Hắn đột ngột xô nàng sang một bên và nhảy lên bậc thang . Emma lấy lại thăng bằng và chạy đuổi theo hắn .
- Tại sao ông dám hoành hành ở nhà tôi ? Tôi sẽ đi gọi cảnh sát! - cô hét lên .
Gerald đã biến vào trong phòng ngủ và khi Emma vội vã vào theo, nàng đã thấy hắn lục trong ngăn kéo và lôi tất cả mọi thứ bừa bãi khắp phòng .
- Ông làm cái trò gì thế ? - nàng thét và giận sôi lên .
- Tao đi tìm chứng cứ của đứa bé mà mày nói là chưa hề có . Tao muốn biết nó ở đâu và ai đang giữ nó . Tao muốn đi tới cội nguồn của sự việc trước khi mày có thể gây chuyện rắc rối .
Emma đứng lặng giữa phòng, mắt nàng ánh lên tia sáng nguy hiểm . Gerald Fairley là một thằng ngu . Nó sẽ không tìm được gì ở đây có thể dẫn hắn lần ra Edwina .
Gerald quay lại, trợn trừng, tấm thân to lớn của hắn lắc lư một cách bỉ ổi khi hắn lừng lững bước qua phòng . Hắn nắm lấy hai vai nàng và bắt đầu lắc mạnh đến nổi đầu nàng hất lên hất xuống .
- Đồ đĩ! Mày chỉ là một con đĩ! Nói ra đi! Đứa bé đâu ?
Những điểm sáng hoen ố đôi má nhợt nhạt của cô, nhưng những lời bỉ ổi đó lướt qua cô không để lại ấn tượng thực sự nào, vì Gerald Fairley ở dưới tầm của sự khinh bỉ .
- Không có đứa bé nào hết! - Emma nói qua hai hàm răng nghiến chặt . - Buông tay ra, đồ quỷ thối tha .
Gerald tiếp tục lắc lắc nàng mạnh hơn bao giờ hết, đôi bàn tay khổng lồ của hắn cắm phập vào vai nàng cho đến khi nàng nhăn mặt vì đau đớn . Đột nhiên hắn buông nàng ra và hất mạnh khiến Emma lảo đảo ngã xuống giường .
Gerald nhìn mái tóc nàng xổ tung, nét mặt nàng tuyệt vời, thân hình nàng gợi cảm, một cái gì đó làm hắn rung động . Hắn bắt đầu cười và nhìn nàng một cách dâm đãng .
- Cho tôi tí chút cái mà cô em tự nguyện cho thằng em nhóc con của tôi được không, Emma Harte? Đàn bà như cô em là sẵn sàng đối với việc này bất kể ngày đêm . Làm một tí tình, bà Emma Harte? Edwin nhìn gái tinh lắm . Tôi không ngại cái thằng em miệng còn hơi sữa đâu .
Emma há hốc nhìn hắn . Cô kinh hoàng đến độ tê liệt . Hắn tiến lại phía nàng và nàng nhìn thấy, trước sự kinh tởm của mình, hắn vừa đi vừa cởi khuy quần . Nàng rúm người lại, tựa vào gối rồi cố lách ra khỏi giường . Nhưng đã quá muộn . Hắn đã đè lên nàng, cái sức nặng ghê gớm của hắn ghì nàng vào giường . Hắn loay hoay vật lộn với cái váy của nàng, cố hất nó lên . Emma bắt đầu đạp loạn xạ . Gerald cười nhăn nhở, một tay ghì nàng xuống . Mặt hắn ghé xuống gần hơn, hắn để môi vào mặt nàng . Emma nghiêng đầu từ bên nọ sang bên kia, vật lộn với hắn đẩy hắn ra, mặc dù nàng rất khỏe nhưng không sao đương nổi với hắn . Hắn bắt đầu lăn lên người nàng, gầm gừ, rên rỉ, ép cái thân hình khủng khiếp vào thân thể nàng, cố gắng kéo cái váy của nàng lên nhưng không thành công vì tấm thân cồng kềnh của hắn làm hắn vướng . Tiếng gầm gừ, rên rỉ, sự lăn lộn ngày càng mãnh liệt, rồi rùng mình một cái hắn nằm rũ ra bên nàng rồi vật ngửa người ra, xẹp lép . Emma nhỏm dậy, nhảy xuống sàn, hơi thở nàng hổn hển như hụt hơi . Khi nàng lách ra khỏi người hắn, tay nàng chạm phải phía bên của áo . Nó ướt sũng . (trời, type tới khúc này mlt muốn ói quá trời đi mí sis) Cảm giác ghê tởm dâng lên cổ họng nàng, nàng nghĩ nàng sẽ nôn mất . Nàng chạy bay ra đống quần áo vắt ngổn ngang bừa bãi trên sàn và nắm lấy một chiếc khăn tắm . Nàng chùi sạch áo rồi nhảy tới bàn khâu . Ngón tay nàng chộp lấy cái kéo, nàng cầm lên, lao và Gerald, mắt nàng đầy những tia sáng sát nhân .
- Đứng lên, cút ra trước khi tao giết mày! - nàng thét lên khủng khiếp đến nỗi hắn nhìn nàng hoàng toàn bất ngờ . Nàng tiến bước qua sàn, chiếc kéo giơ cao như một lưỡi dao găm . Mặt Gerald trắng nhợt . Nàng vờn trên người hắn . - Tao nói với mày tao sẽ giết mày, Gerald Fairley, nếu mày không nhắc cái thân thể dâm ô của mày ra khỏi đây ngay!
Gerald cười chế nhạo:
- Tao không nghĩ mày có thể ngu ngốc để làm như thế, - hắn nói . Hắn ngồi lên và cài khuy quần, lừng chừng một cách láo xược . Gerald nhấc mình ra khỏi giường . - Tao phải nói là tao thích hổ cái, Emma . Nó làm thêm kích thích . Tao sẽ quay lại, cô em . Và lần sau cô sẽ có tinh thần hợp tác hơn, - hắn hờ hững hất cái cổ áo của nàng . - Cái này lần sau cũng phải cởi ra, và tất cả mọi thứ khác nữa . Cô em cứ chuẩn bị sẵn sàng đợi ta . Ta muốn hưởng cái thân hình đẹp đẽ của cô mình, hưởng đôi chút hương vị của giai cấp công nhân . Ta nghe nói các cô như những con thỏ tất cả, - hắn nhăn nhở . - Cái gì tốt cho thằng Edwin đẹp trai thì cũng tốt cho ta .
Emma có một sự thôi thúc ghê gớm là nhổ vào mặt nó, nhưng cô kìm mình, không muốn hạ thấp tới ngang mức với nó .
- Rời khỏi nhà tao ngay, Gerald Fairley, và đừng có bao giờ vác mặt đến đây, trừ phi mày muốn gặp nạn thật sự .
Hắn quay đi, bước thình thịch xuống cầu thang, cười hô hố . Emma đi theo hắn, cơn giận của nàng điên cuồng . Nàng đứng trên đỉnh cầu thang nhìn xuống hắn kéo lê cái sức nặng khổng lồ của hắn . Cô quẳng cái kéo sau hắn một cách tức giận . Nó kêu lách cách trên những bậc đá, và rơi cạnh chân hắn . Hắn nhìn lên liếc mắt .
- Như vậy không lịch sự, - hắn nói .
- Mày không đáng ăn kéo, Gerald Fairley! - cô hét lên . Emma chạy bay xuống cầu thang . Cơn điên cuồng thôi thúc . Khi nàng xuống tới bậc thang cuối cùng, nàng trừng trừng mắt nhìn hắn, hoàn toàn không một chút sợ hãi và tuyệt đối làm chủ bản thân mình . Căm thù bốc cháy trên mặt nàng . Nàng tiến lên một bước và nói với một giọng lạnh lùng khủng khiếp . - Nhưng tao sẽ làm cho chúng mày lụn bại! Tất cả chúng mày! nhà Fairley sẽ ăn năn hối tiếc cái ngày chúng nó nghe thấy tên Emma Harte! Mày có nghe thấy tao nói không ? Tao sẽ làm cho chúng mày lụn bại! Tao thề là như thế!
- Mày làm chúng tao lụn bại ? Mày ? Một con bé nhà thổ lang thang ? Chúc may mắn! - Gerald hất nhẹ cằm nàng . Emma tức giận đánh lại . Móng tay nàng cào vào mặt hắn làm tóe máu .
- À, đồ đĩ điếm! - Gerald hét lên rồi hắn ngửa đầu lại phía sau cười . - Ta thích hổ cái, bà Harte, như ta đã nói hồi nãy . Đừng quên, ta sẽ trở lại . Ta luôn ở quanh đây thôi . Ta sẽ tạt vào một buổi chiều nào đó cho vui .
- Cút ra! Cút ra!
Cánh cửa vừa đóng sầm sau lưng hắn, Emma vặn khóa, cài then cẩn thận . Nàng đi vào phòng khách, kéo rèm cửa và gột hết cái vết nhơ nhuốc ra khỏi áo, lấy khăn gột cho đến khi nó sạch tinh tươm . Rồi nàng ngồi xuống trước ngọn lửa, cả người nàng co quắp vì những tiếng nức nở nghẹn ngào . Nàng thấy như ốm, run rẩy và lo âu . Lần đầu tiên trong nhiều năm, một lần nữa nàng lại thấy sợ nhà Fairley . Cám ơn Chúa, Edwina ở Ripon lúc này . Gerald sẽ không bao giờ tìm thấy nó ở đây . Nhưng nếu hắn trở lại đây thì thật là ngu ngốc và ý nghĩ ấy làm nàng như hóa đá .
- Thế giới này là một khu rừng rậm, - nàng nói và run lên trước ngọn lửa đang tàn . - Ta vẫn có thể bị tổn thương đối với loài thú trong đó . Ta còn chưa đủ tiền để mà xây dựng một bức tường che chắn xung quanh Edwina và bản thân ta . Mẹ con ta còn trống trải quá . Ta cần sự che chở, - nàng nghĩ tới David với lòng khắc khoải và thất vọng . Cái nàng cần là một người chồng . Điều ấy bây giờ đối với nàng quá rõ ràng . Nhưng David, David thân yêu của nàng là nghiêm cấm đối với nàng . Họ càng yêu nhau thì sự ngăn cản của gia đình anh sẽ là một cái chêm đóng giữa hai người . Trí óc nàng lao nhanh . Nàng có thể tìm một người chồng nào để có thể che chở cho nàng và cho Edwina ? Nàng có thể lấy ai ? Nó đến với nàng trong một thoáng thật nhanh . Joe Lowther! Nàng biết anh yêu nàng . Vấn đề là nàng không yêu Joe . Nàng thích anh thôi, làm sao không thích cho được ? Anh là người tử tế, tốt bụng và có thể tin cậy được . Nếu như nàng lấy Joe thì nàng sẽ đánh lừa anh một điều quan trọng nhất trong hôn nhân: đó là tình yêu . Nàng cũng còn phải đương đầu với một sự thật nữa là sẽ phải chung giường với anh, chịu quan hệ tình ái với anh và sinh con cho anh . Nàng lạnh người khi nghĩ tới điều này . Sao nàng có thể đành lòng dâng hiến cho một người đàn ông khác khi David đã chứa đầy tim nàng, linh hồn nàng ? Thế nhưng nàng không còn một con đường nào khác . Emma bắt đầu khóc, tiếng nức nở vang lên trong cái yên lặng của căn phòng khách nhỏ .
- Tha thứ cho em, David, - nàng khóc . - Tha lỗi cho em vì điều em sắp làm, anh yêu!
Phòng giám đốc của tờ Yorkshire Morning Gazrtte tường ốp bằng gỗ sồi và treo những bức khắc chạm cúa các tác giả Anh nổi tiếng, những bộ đồ gỗ bằng hoa tâm được đánh lên bóng lộn, um khói thuốc lá và rung lên vì căng thẳng. Adams Fairley và bá tước Jocelyn Sidney ngồi đối diện với nhau ở hai bên cửa một chiếc bàn rộng thênh thang, vẻ mặt họ rầu rĩ, đôi mắt trang nghiêm. Họ hút thuốc liên tục hết điếu nọ đến điếu kia trong yên lặng tư lự. Chiếc gạt tàn bằng pha lê trước mặt đầy những mẩu thuốc đã dụi tắt nói lên nhiều giờ chờ đợi căng thẳng.
Adams ăn vận bộ complet xanh sẫm cắt tuyệt khéo, luôn vặn vẹo người trong chiếc ghế bọc da đen, luôn tay vuốt mái tóc hoa râm. Miệng ông hằn lên nét mệt mỏi đột nhiên mím lại và đôi mắt màu xanh xám nhìn chằm chằm chiếc đồng hồ tích tắc một cách chính xác tàn nhẫn trong cái yên lặng như chì.
- Mẹ kiếp tất cả! - Ông thốt lên không còn tự chủ được mình nữa. Ông quay ngoắt lại đối diện với Jocelyn. - Gần một giờ rồi. Nếu Parker không lẹ lên chúng ta sẽ lỡ mất lần in thứ nhất. Hắn cứ cò cưa mãi cái chuyện ấy hai mươi phút rồi. Không hiểu cái thằng ngu ấy làm trò gì?
Jocelyn ngó nhìn Adams qua làn khói thuốc cân nhắc suy nghĩ từng từ, chắc hẳn thế.
- Bây giờ thì chắc anh phải biết là như thế rồi chứ ạ, anh bạn.
- Tôi sẽ đợi Parker năm phút nữa rồi tôi sẽ lên gặp hắn... - Adams ngừng lại khi một chú bé ở nhà in ào vào. Cánh cửa gỗ sồi nặng nề bật lại, tiếng tờ báo mới in lào xào trong phòng giám đốc yên tĩnh.
- Đây là bản vẽ của trang nhất, thưa ngài. Ông chủ bút nói ông sẽ bắt đầu in trong năm phút nữa. - Cậu bé đặt bản in mới tinh hãy còn ướt mực lên bàn trước mặt Adams và biết mất. Cánh cửa đóng sầm phía sau và yên lặng hoàn toàn lặp lại. Jocelyn vội vã bước qua phòng, đặt tay lên vai rộng lớn của Adams, ông cúi xuống nhìn bản in. Dòng tít sắp chữ lớn màu đen và chạy dài cả trang.
"Anh quốc tuyên bố chiến tranh với Đức"
Hai cặp mắt lướt sang những dòng chữ nhỏ hơn:
"Cuộc xung đột lớn bắt đầu. Tàu thả thủy lôi của Anh chìm. Bỉ bị xâm lăng. Hai chiến thuyền của hải quân chúng ta. Chính phủ kiểm soát đường sắt."
Jocelyn lấy ngón tay chỉ vào tờ báo:
- Parker làm thế nào mà tìm được tất cả những cái này, Adams? Trong lúc vội vã tới đây đêm nay, tôi đã quên mất kính và không đọc được chữ nhỏ.
Adams đọc nhanh bản vẽ và nói:
- Tôi nghĩ Parker đã viết tất cả những cái quan trọng, - ông nhìn lên Jocelyn. - Tôi đã ghê sợ cuộc chiến tranh này từ nhiều năm nay. Nhưng bây giờ chúng ta đã bước vào cuộc xung đột và không còn có thể quay lại được nữa rồi.
Jocelyn giương mắt nhìn Adams:
- Có phải những điều anh nói tối nay là nghiêm chỉnh không... rằng cuộc chiến này sẽ kéo dài?
- Đúng thế, - Adams nói ngắn gọn. - Trái lại với một số chuyên gia ở London nói, tôi tin nó sẽ kéo dài vài ba năm. Ít nhất là hai.
Quai hàm Jocelyn trễ xuống:
- Lâu đến thế cơ à?
Adams gật đầu, mặt ông cau có:
- Đúng. Và nó sẽ là một cuộc chiến tranh tiêu hao. Núi thây, sông máu, thảm cảnh mà thế giới chưa từng được chứng kiến. Anh cứ nhớ lấy lời tôi, Jocelyn.
- Ối trời, Adams, tôi cầu cho những lời nói của anh là sai. Tôi chân thành cầu như vậy.
Adams không trả lời. Ông châm một điếu thuốc và trầm tư nhìn vào khỏang không gian, hình dung những hậu quả khủng khiếp khi Anh quốc bước vào chiến tranh.
- Cả hai chúng ta đều phải dùng rượu mạnh, - Jocelyn tuyên bố sau một vài phút. Ông vội vã ra tủ, tay ông run run khi ông phai hai ly brandy và soda và mang chúng tới bên bàn. Ông đưa cho Adam và ngồi nặng nề xuống chiếc ghế bên cạnh. Cả hai không ai buồng cụng ly trong cái giây phút buồn bã này. Họ uống yên lặng, mỗi người theo đuổi một ý nghĩ.
Adams Fairley vừa được chỉ định làm chủ tịch của tờ báo Yorkshire Morning Gazette, đã chú ý không hề biết mệt mỏi tới tờ báo trong bốn ngày qua, phân tích những bài từ văn phòng London và hãng Reuters đổ về, nghiên cứu những tin nghiêm trọng, nhìn nước Anh bị cuốn hút vào cuộc khủng hoảng châu Âu. Ông bạn cũ Joycelin Sidney vốn là khách thường xuyên, đi đi lại lại trong phòng giám đốc vẫn cứ khăng khăng là chừng nào hòa bình vẫn còn thì sự ngu xuẩn của chiến tranh có thể tránh được. Adams tiếp nhận tính lạc quan cố hữu của Jocelyn với sự bi quan tuyệt đối, phản ánh một sự thấu hiểu và can trường các sự kiện nói lên việc đã quá muộn không thể tránh được tai họa đang xô tới.
Sự bi quan đó thể hiện rõ trong giọng nói của Adams khi ông đột ngột thức tỉnh và nói:
- Chúng ta cũng chưa chuẩn bị gì cho cuộc chiến tranh này như chính phủ làm cho chúng ta tin là đã có đâu, Jocelyn.
Ngạc nhiên lẫn với hốt hoảng trên mặt Jocelyn. Ông há miệng nhưng trước khi ông kịp nói thì Adams đã vội làm Jocelyn bớt nỗi hốt hoảng:
- Tất nhiên là trừ lực lượng Hải quân. May mà Winston Churchill là bộ trưởng hải quân từ ba năm nay. Chỉ có ông và một số ít người khôn ngoan khác là nhìn thấy sự đe dọa của một cuộc chiến tranh đang tới gần và sẵn sàng đối phó với nó, - giọng nói của Adams trở nên thận trọng khi ông tiếp tục. - Jocelyn, tôi biết Churchill chưa bao giờ là người anh thích, nhưng anh phải thừa nhận là ông ấy có viễn kiến để nhận ra mối đe dọa ngày càng tăng của lực lượng hải quân Đức ngay từ năm 1911, khi tổ chức lại hạm đội. Và làm có hiệu quả bằng cách rút chiến thuyền của ta ra khỏi Trung quốc và Địa Trung Hải, tập trung hạm thuyền và chiến thuyền ở biển Bắc, ông đã tăng cường lực lượng của chúng ta một cách đáng kể.
- Ừ, điều ấy hoàn toàn đúng, - Jocelyn nhượng bộ. - Và Churchill chỉ có một mục đích mà tôi thấy rất xứng đáng, đó là củng cố tính bất khả chiến bại của Hải quân Hoàng gia.
- Đúng, hải quân mạnh, nhưng đó mới chỉ là một mặt thôi, Jocelyn. Quân đội chưa được tổ chức tốt chút nào hết và lực lượng không quân của chúng ta còn ít ỏi, mặc dù gần đây Churchill đã cố gắng nâng nó lên. - Adams dừng lại hút thuốc và kết luận. - Bộ chiến tranh trên không hề hữu hiệu. Sự thật, cái mà chúng ta cần lúc này là một ngoại trưởng mới cho chiến tranh!
- Anh có nghĩ Asquith sẽ chỉ định một người không? - Jocelyn hỏi.
- Mình chắc là ông ấy phải làm như thế, - Adams trả lời một cách chắc chắn. - Ông ấy không thể vừa làm thủ tướng điều hành Bộ chiến tranh được, không phải trong một thời kỳ khủng hoảng như thế này. Theo chỗ mình được biết về Asquith thì mình chắc rằng ông ấy đủ trí óc để mà nhận ra điều đó. Và mình hy vọng rằng ông ấy cũng đủ khôn ngoan để lựa chọn bá tước Kitchener vào công việc này. Đó là con người mà chúng ta cần trong giờ phút nguy khốn. Không phải chỉ vì khả năng to lớn của ông ấy mà còn vì cái tác dụng cổ vũ được tinh thần của dân chúng nếu ông ấy được chỉ định.
- Đúng thế, tôi hiểu ý anh, - Jocelyn đồng ý. - Xét cho tới cùng, Kitchener là một anh hùng dân tộc.
- Ông ấy còn hơn thế nữa, Jocelyn. Ông ấy là cơ chế của dân tộc. Đối với công chúng, ông ấy tượng trưng cho sự thành công. Mọi hoạt động quân sự ông ấy đảm đương đều thành công tốt đẹp. - Adams xoay xoay ly rượu, trầm ngâm. - Tất nhiên ông ấy phải tuyển quân đội mới. Bộ binh không lớn lắm. Sự thật, ai được chỉ định là ngoại trưởng phụ trách chiến tranh đều lập tức phải mở một chiến dịch tuyển những người chưa vợ con ra mặt trận.
Bộ mặt xanh xao của Jocelyn xám lại:
- Một chiến dịch tuyển mộ những người chưa vợ con, - ông run rẩy nhắc lại. - Tôi chưa nghĩ ra điều ấy.
- Vì chúng ta không có hệ thống tuyển quân cưỡng bức nên đất nước phải dựa vào những người tình nguyện, thường là những người chưa vợ con tuổi từ mười tám đến ba mươi, - Adams dừng lại, ông nhìn vẻ mặt ốm yếu choáng váng trên mặt Jocelyn. - Anh có làm sao không, anh bạn? Trông anh nhợt nhạt quá.
- Bọn con trai, - Jocelyn thì thào. - Tôi sẽ không thể nào ngăn được chúng, Adams ạ. Cả hai đứa sẽ tình nguyện ngay. Anh may mắn, anh Adams. Gerald đứng về mặt thể lực sẽ không bao giờ trúng tuyển, còn Edwin thì đã có vợ rồi. Vả lại, cậu ấy có ý thức trách nhiệm với anh và với Jane.
- Nói thật với anh, đối với Edwin thì tôi không dám chắc. Có những lúc nó hành động rất bản năng. Đừng bao giờ nghĩ rằng đã có vợ rồi sẽ ngăn được nó không quyết định ra mặt trận. Edwin sẽ cân nhắc trách nhiệm của nó đối với nhà vua và đất nước, chứ không phải với gia đình, và thậm chí với Jane nữa. Tôi ngỡ là những cái đó sẽ vượt lên trên mọi cái khác.
Jocelyn cắn môi bồn chồn:
- Thật là lộn xộn quá sức, phải thế không? Mấy năm trước đây, ai có thể ngờ được rằng chúng ta lại lao vào một tình trạng tai ương như thế này, Adams.
- Bruce Margin đã báo cho tôi biết từ mười năm trước là sẽ có một cuộc chiến tranh lớn, - Adams nói lặng lẽ, đôi mắt ông trầm tư. - Anh ấy đúng. Đó là năm 1904...
- Trời ơi, thế a? - Jocelyn chen vào. - Tôi không ngờ ông bạn già Bruce lại là một người có nhãn quan chính trị đến như thế.
- Tôi không chắc có phải như thế không, - Adams nhận xét. - Nhưng anh ấy quả là một người có thế lực và giàu một cách khủng khiếp, và anh ấy có bạn giữ những chức vụ cao. Năm ngoái khi Bruce ở London cùng Paul, con trai anh ấy, anh ấy mang nhiều điều báo trước, nhưng tôi phớt lờ đi. Tôi bắt đầu nghĩ rằng tôi là một con đà điểu như mọi người khác, - Adams đứng lên. - Tôi chắc là anh đã hủy bỏ cuộc đi săn, Jocelyn.
- Tất nhiên. Không ai còn thiết đến gà gô vào một lúc như thế này, - Jocelyn đáp lại với một nụ cười nhợt nhạt. - Cảm ơn anh đã mời tôi đến xem báo. Tôi cám ơn, anh bạn già.
- Tôi rất sung sướng có anh tới, Jocelyn. Thôi, bây giờ chúng ta đi, căn phòng này bắt đầu làm tôi ngạt thở.
Một tiếng rưỡi sau, chiếc ô tô mới Daimler của Adams đi vào con đường sát nhà ở Fairley Hall. Adams chúc người tài xế ngủ ngon rồi nhảy lên bậc tam cấp.
Murgatroyd quanh quẩn trong phòng ngoài mờ mờ tối. Lão vội vã tiến ra khi nhìn thấy Adams, vẫn lễ phép khúm núm như bao giờ.
- Bà Fairley đã xuống bếp nói với tôi và bà bếp là chúng ta đã có chiến tranh. Ôi, thật là một tin khủng khiếp.
Adams hắng giọng:
- Ồ, đúng đấy, Murgatroyd ạ. Những ngày phía trước sẽ là những ngày gian khổ cho tất cả chúng ta. Nhưng chúng ta phải bình tĩnh và vững vàng trong giờ phút khó khăn của Tổ quốc. - Ông để ý thấy ánh sáng hắt ra từ phòng đọc của thư viện. - Bà Fairley chưa đi nghỉ sao, Murgatroyd?
- Thưa ngài, chưa. Bà còn đợi ngài. Tôi vừa nhóm thêm lửa và pha chocolate nóng để bà dùng. Trời hôm nay lạnh khủng khiếp.
- Ừ, - Adams bước nhanh qua phòng.
Olivia đã nghe tiếng Adams và nàng đi được tới nửa căn phòng thì ông vào.
- Ôi, Adams. Thật là quá ư khủng khiếp, - nàng kêu lên và chạy vào trong vòng tay chồng. Ông ôm nàng một lát và vuốt tóc nàng.
- Ừ, đúng thế, em yêu. Dù sao thì chúng ta đã đợi chờ nó và chúng ta phải dũng cảm, - ông nhích ra và nhìn xuống mặt nàng. - Đáng lẽ em không nên thức đợi anh. Khuya quá rồi, em yêu.
Nàng mỉm cười đáp lại:
- Em nóng lòng muốn gặp anh.
- Anh thấy trong người hơi mệt.
- Có lẽ uống một chút gì cho đỡ chăng? - nàng gợi ý.
- Có thể. Anh sẽ uống chén rượu trước khi chúng mình đi ngủ. Cho anh brandy.
Oliva thoáng nhìn ông âu yếm. Adams nhìn nàng nhẹ lướt qua phòng, tâm hồn ông sảng khoái như mỗi lần ông ở bên nàng. Chiến tranh bị lãng quên trong chốc lát. Nàng mặc chiếc áo dài màu xanh thẫm làm tôn thêm dáng vóc thon thả và màu mắt nàng. Mặt nàng vẫn không nếp nhăn và những sợi trắng điểm qua mái tóc đen dày của nàng trông thật dễ thương. Ở tuổi năm mươi tư, nàng là một phụ nữ đẹp hơn với tuổi tác. Họ đã lấy nhau được sáu năm. Năm 1907 luật hôn nhân một người có thể lấy chị vợ hoặc em vợ đã được chính phủ thông qua. Adams đã thuyết phục Oliva làm vợ ông năm 1908 và hai người hoàn toàn hạnh phúc, hợp nhau đến độ trên đời này họ không còn biết đến ai nữa.
- À, này, Edwin gọi điện đấy. Em nói với con về tình hình phát triển đen tối, - Olivia vừa nói vừa mang rượu trở lại lò sưởi.
Adams cứng người lại:
- Nó phản ứng thế nào?
- Một cách hiền lành đáng ngạc nhiên, em nghĩ vậy. Con và Jane sẽ từ Kirkbymoorside lái xe về ngày mai ở với chúng ta, một tuần như chúng ta đã dự định.
- Ồ, đó là tin tốt, - Adams nói. - Anh biết Edwin, anh nghĩ nó đã quay về thành phố lao vào công việc. Anh mừng nó sẽ tới, ít nhất em cũng có người bầu bạn ban ngày khi anh đi vắng.
- Anh có nghĩ là chúng nó hạnh phúc không, Adams?
- Anh làm sao mà biết được. Tại sao em hỏi vậy? - Ông chợt nảy ra ý nghĩ có lẽ Olivia cũng nhận thấy thiếu sự nồng nàn giữa con trai ông và con dâu.
- Em cũng khó có thể biết, - Olivia nói một cách suy tư. - Có một sự ngăn cách giữa hai đứa. Ồ, bên ngoài Edwin rất duyên dáng và ý tứ, nhưng không trìu mến lắm. Em thấy hai người không có vẻ gì là đôi vợ chồng. Đôi khi em để ý thấy vẻ trống trải dễ sợ trong đôi mắt Edwin, - Olivia dừng lại, đăm đăm nhìn Adams. Khi ông không trả lời, nàng thúc. - Anh có nhận thấy điều ấy không, anh yêu?
Mặc dù rất mệt mỏi khi thảo luận vấn đề này, Adams cũng phải thừa nhận:
- Ồ, nói thật là có. Nếu có chuyện gì trục trặc, thì hoàn toàn là đứng về phía Edwin. Mấy năm qua nó đã thay đổi ghê quá. Anh thấy hình như nó để cả 24 tiếng đồng hồ một ngày vào luật. Nó không có một thú vui nào khác và hình như quyết tâm trở thành một luật sư nổi tiếng ở nước Anh trước khi nó ba mươi tuổi. Và anh cảm thấy nó lơ là Jane một cách dễ sợ.
- Vâng, đúng thế, - Olivia đồng ý.
- Và nó có đầy đủ mọi lý do để mà hạnh phúc với vợ. Jane đẹp và duyên dáng, xử sự chững chạc đàng hoàng. Tội nghiệp chúng chưa có con. Anh phải thú thật là anh mong có một đứa cháu nội. Lúc này anh chờ đợi lắm. Nói cho cùng, chúng đã lấy nhau được ba năm rồi.
Olivia nhìn đăm đăm ngọn lửa và một lát sau, nàng quay lại nhìn Adams:
- Anh có tin câu chuyện lếu láo Gerald kể với anh mấy năm trước đây không? Câu chuyện về Edwin và Emma Harte ấy mà?
- Tất nhiên là không! - Adams thốt lên, ao ước mình nói như mình nghĩ. Hết sức muốn che chở cho Olivia, ông không muốn làm nàng lo nghĩ đêm nay bằng cách lôi ra những bộ xương ngày xưa. Vì thế, một lần trong đời, ông nói dối nàng. - Gerald không bao giờ chú ý tới sự thật. Câu chuyện của nó không những là ngớ ngẩn lố bịch mà còn hoàn toàn vô căn cứ nữa. Rõ ràng là nảy sinh từ ý muốn của nó bôi nhọ Edwin trong mắt anh. Em biết là Gerald luôn luôn ghen ghét với em nó.
Olivia không hoàn toàn an tâm:
- Em nhớ lúc ấy anh có bí mật điều tra về Emma và đứa bé, nhưng anh có chắc thông tin của anh là đúng đắn không, Adams?
- Tất nhiên là đúng! - Ông để bình rượu xuống và cầm lấy tay Olivia. - Kìa, vì sao bỗng nhiên em lại lo lắng về chuyện ngày xưa? Nó đã quên lãng từ lâu rồi mà?
- Em quả thực không biết nữa, anh yêu. Em cho rằng bởi vì chúng ta bắt đầu nói chuyện ấy là không thật thì Edwin không có vết gợn tì trong lương tâm của con nó, - mắt nàng lướt trên mặt Adams dò hỏi. - Thế nhưng thỉnh thoảng em chợt nảy ra ý là có điều gì đấy. Có lẽ cái nhìn lạ lùng trong mắt nó làm em buồn lòng, Adams.
Adams cau mày:
- Thôi nào, em yêu, - anh nói dịu dàng. - Em giàu óc tưởng tượng quá. Gerald chỉ chuyên môn nói dối. Anh tuyệt đối tin tưởng như thế. Còn như ánh mắt của Edwin, ừ thì, có thể chỉ là nảy sinh từ cái thất vọng trong cuộc hôn nhân của nó. Em nên biết như anh là không phải tất cả những cuộc hôn nhân đều hạnh phúc như chúng mình.
- Vâng, đúng thế, - nàng lẩm bẩm và thở dài. - Tội nghiệp Edwin. Thật là khủng khiếp cho nó nếu nó không yêu Jane. Cũng thật đau lòng cho cô ấy.
Adams muốn chấm dứt cuộc nói chuyện này, vì thế ông nói kiên quyết: - Khuya quá rồi, em yêu. Chúng ta đi ngủ thôi.
Khi họ rời thư viện, Adams thừa nhận với mình là tình trạng hôn nhân của Edwin không đặc biệt làm ông quan tâm lúc này. Nỗi lo âu nung nấu của ông là Edwin có thể tình nguyện vào quân đội, bởi vì Adams biết rằng cậu bé không thiết quan tâm gì đến an toàn của chính mình nữa. Bi thảm thay tính bản năng của con người đã chết trong lòng Edwin từ ngày Jack Harte chết. Adams tin rằng cậu con thứ của ông chẳng còn cần là mình sống hay không, và thái độ này cộng với tinh thần ái quốc của anh sẽ xô đẩy Edwin vào quân ngũ.
Emma nắm lấy ống điện thoại chặt hơn và tim nàng bắt đầu đập nhanh hơn thường lệ.
- Chị không muốn em làm như vậy, Frank! Em tự đặt mình vào nguy hiểm không cần thiết. Thật ngu xuẩn và...
- Không, không phải thế đâu, - Frank ngắt lời, giọng cậu vang lên trên đường dây xa. - Chị Emma này, em đã ấp ủ ý nghĩ tòng quân, nhưng em biết quân đội sẽ không nhận em với đôi mắt cận thị và phổi yếu. Nhưng phải có người viết về chiến tranh ở đó. Em phải đi, chị Emma.
- Nhưng không phải là em chứ, Frank. Em chỉ là một chú bé, - Emma kêu lên vời vợi.
- Không, em không phải là chú bé. Sang tháng là em hai mươi ba tuổi, - giọng của cậu trở nên căng thẳng. - Em muốn đi. Xin chị hãy cố gắng hiểu cho, Emma. Vả lại, ông chủ bút muốn em đi. Đứng về một phương diện, đó là điều vinh dự.
- Một điều vinh dự! - nàng há miệng không tin là thật. - Ờ, theo ý chị thì đó là một điều vinh dự không cần thiết! Em sẽ ở trong chiến hào, giữa chiến trận. Tình trạng sẽ là khủng khiếp, và chính em cũng nói là thể chất em không khỏe. Frank ơi, em nghĩ lại đi. Nghĩ thật cẩn thận trước khi em làm một quyết định cuối cùng, - Emma van nài.
- Em đã quyết định rồi, - Frank nói kiên quyết. - Dù sao thì cũng quá muộn rồi. Vì thế mà bây giờ em mới gọi điện cho chị lúc này. Năm giờ sáng mai em sẽ ra mặt trận.
- Ôi, Frank! Giá mà em nói với chị trước, - nàng trách.
- Em sẽ không sao đâu, chị Emma. Thật đấy, không sao mà. Đừng làm khó khăn thêm cho em nữa, - cậu van nài. - Chị hãy giữ gìn sức khỏe và chuyển lời em hỏi thăm tất cả mọi người. Bao giờ em có dịp, em sẽ báo tin ngay. Chị sẽ biết được em ở đâu trong bài của em ở mục thời sự. Chị giữ những bài ấy cho em, Emma. Hãy cố gắng đừng lo lắng cho em. Tạm biệt, chị thân yêu.
- Ôi, Frank! Frank! - giọng nàng vỡ ra, nàng phải nuốt mạnh để trấn tĩnh. - Tạm biệt, Frank. Nhớ mang theo áo mưa, giày ủng tốt nhé... - nàng dừng lại, không thể nói tiếp được nữa.
- Em nhớ. Tạm biệt.
Điện thoại lặng câm. Trí óc nàng giá lạnh trước ý nghĩ Frank băng mình qua những chiến trường Flander. Sự phát triển này là điều cuối cùng cô dự liệu và cô choáng váng trước tin của em trai và sợ thay cho cậu. Mấy tuần qua, nàng đã luôn tự an ủi mình rằng nếu nước Anh có bước vào chiến tranh thì ít nhất em trai của nàng cũng không có nguy hiểm gì vì thể trạng yếu ớt của cậu. Và ở sự thể chắc là như vậy nếu như cậu không tạo cho mình một tên tuổi nhà báo. Frank, một ngôi sao đang nổi trong giới báo chí, và loại phóng viên trẻ tuổi mà các chủ bút đi tìm. Cậu nắm rất vững ngôn ngữ Anh, mạnh mẽ, sâu sắc, bậc thầy về miêu tả không ai bì kịp trong việc thể hiện tâm trạng và không khí. Không phải chỉ có thế, bản chất cậu cũng là người lãng mạn, phiêu lưu và không để ý gì đến nguy hiểm. Đáng lẽ nàng phải đoán được em mình muốn làm phóng viên mặt trận từ lâu, và bây giờ, nàng mới nhận ra rằng thực sự cậu rất hăm hở muốn đi.
Đột nhiên và hoàn toàn phi lý, Emma mong ước giá như Frank không tài giỏi đến thế thì cậu sẽ thất bại và an toàn. Có lẽ gián tiếp đó là lỗi của nàng. Nếu như Frank có bị giết, nàng sẽ không bao giờ tha thứ cho nàng.
"Đáng lẽ mình cứ để cho nó như thế, làm việc ở một tờ báo hàng tuần vớ vẩn ở Shipley và nó sẽ cứ ở đó thôi, - nàng tự nhủ một cách giận dữ. - Nhưng mình đã can thiệp, bởi vì mình thấy khả năng của nó và đã có tham vọng cho nó. Quá tham vọng, - nàng quả quyết như vậy. " - Nàng tự trách mình, nhưng chỉ một lát sau, bản chất thực tế tự nhiên của nàng lại nổi lên như nó luôn luôn là vậy, bởi vì ở tuổi hai mươi lăm, Emma còn là cái gì không thực tế, một đặc điểm choán lấy con người nàng từ nhiều năm nay. "Mày thật vớ vẩn, - nàng tự nhủ một cách kiên quyết. Nàng nhận ra rằng không có sự giúp đỡ của nàng, Frank cũng vẫn thành công như vậy. Loại tài năng sáng rực của nó không thể nào kìm hãm được lâu hơn nữa, nó hoàn toàn tin chắc ở số mệnh của mình. Có lé nàng chỉ đẩy nó lên đến tột đinh nhanh hơn được một chút, thể thôi. Vai trò của nàng chỉ có một tầm trọng nhỏ bé. Nàng chỉ thiết kết cho cậu em làm phóng viên của tờ Mercury ở Leeds qua sự quen biết của nàng với trợ lý chủ bút Archie Clegg. Sau đó không gì có thể giữ cậu lại. Cậu đã vươn lên nhanh như một vì sao băng làm cho cả nàng, Archie và đồng nghiệp của cậu kinh ngạc. Tất nhiên là còn vấn đề sách vở nữa. Nếu như nàng thành thật với chính mình, thì nàng phải thừa nhận là mình có công đưa sách tới cho đúng người. Nhưng nếu như nàng không làm như thế thì cuối cùng Frank cũng sẽ làm. Khi cậu hai mươi tuổi, cậu đã đưa cho nàng xem một cuốn tiểu thuyết cậu viết trong 2 năm, thẹn thùng đề nghị nàng đọc nó và lẩm bẩm nói là “ nó quả thực là không được tốt lắm”.
Mặc dù rất bận, Emma đã thức suốt đêm để đọc nó và sáng hôm sau, nàng đã cúi xuống bên tai Frank đang đọc báo: “Taị sao em lại nói là không tốt?”, nàng đã kêu lên, không thể giấu được sự kích động của mình. “Thật là tuyệt vời! Và nó sẽ được in. Cứ để đâý cho chị”. Nàng đã dồn ép Archie Clegg tới một bữa ăn đắt tiền tại nhà hang Metropole ở Leeds và sau đó đã quấy rầy ông ta hết ngày này sang ngày khác cho đến khi ông ta phải đồng ý gửi cuốn sách tới một nhà xuất bản ở London. Nó được Hollis và Black chấp nhận ngay và chính nàng đã thương lượng một hợp đồng thuận lợi cho Frank. Vài tháng sau khi cuốn sách ra mắt công chúng, nó được tiếp nhận với sự hoan nghênh có phê phán. Điều quan trọng hơn, ít nhất là đối với Emma, là cuốn sách thành công về mặt thương mại. Frank đã trở thành người nổi tiếng một sớm một chiều và vài ba tháng sau khi cuốn sách được ấn hành, cậu đã được một chỗ làm ở tờ Daily Chronicle và đã tới phố Fleet. Ngày nay cậu được coi là một trong những nhà văn trẻ tuổi xuất sắc trong báo giới Anh, tương lai của cậu được bảo đảm. Hay nói cho đúng, nó được bảo đảm từ tối nay.
- “Cái cuộc chiến tranh bẩn thỉu khốn kiếp này!” Emma kêu la, đầy một nỗi tức giận bất lực. Nàng quan niệm đó là một điều bất hạnh khủng khiếp, bởi vì nó đã làm ngang trở những trở những kế hoạch đã được vạch ra hết sức chi tiết của nàng, thế nhưng mặc dù nàng chỉ chú tâm vào công việc làm ăn của mình, nàng vẫn đủ khôn ngoan để nhận ra những hậu quả trầm trọng hơn của nó. Cuộc chiến sẽ ném thế giới này vào sự hỗn độn và làm tan tác hàng nghìn cuộc sống, một viễn cảnh làm nàng ghê sợ.
Đột nhiên nàng đứng lên. Suy nghĩ về quá khứ và lo lắng chờ đợi tương lai chỉ là hao phí thời gian, một tội ác đáng ân hận nhất đối với Emma. Nàng cũng không thể làm được gì để thay đổi những cái đã xảy ra hoặc khống chế những sự kiện rõ ràng vượt quá sức nàng. Nàng kéo chiếc áo khoác ngoài bằng lụa màu xanh quanh mình, khẽ rung mình, mặc dù đêm ấm, nàng bước qua phòng đôi dép lách tách trên sàn đá hoa, âm thanh nhạt dần khi nàng bước lên những bậc thang trải thảm. Đồng hồ của ông nội để ở chỗ rẽ của cầu thang điểm hai tiếng, âm thanh ngân nga của nó vang lên mồn một trong yên tĩnh của nhà ngủ. Emma rón rén vào phòng ngủ rũ chiếc áo khoác ra, chui vào chiếc giường lớn
Joe cựa mình
- Xin lỗi Joe. Em có làm anh thức không?, nàng thì thào và kéo chăn lên đắp.
- Không. Nhưng ai điện thoại đánh thức em dậy đấy?. Anh hỏi giọng đầy ngái ngủ.
- Frank. Em nó lên đường ra mặt trận làm phóng viên chiến tranh. Vài tiếng nữa nó sẽ đi. Em không thể thuyết phục được nó đừng đi. Joe. Em sợ cho nó quá. Emma nói khẽ.
- Còn hơi sớm một chút, phải không? Chúng ta mới bước vào chiến tranh một vài ngày. Cậu ấy không đợi được sao?
- Em đã van xin nó thay đổi ý kiến nhưng nó không nghe em. Bây giờ em có hai người để lo nghĩ…..Nàng rùng mình và nắm chặt lấy gối, cố nuốt những giọt nước mắt mới chớm.
Joe nhận thấy cái rùng mình của nàng. Anh xích lại gần nàng hơn. “Đừng lo, Emma” anh lẩm bẩm: “Họ sẽ không sao đâu. Dù sao thì sự lộn xộn này sẽ qua đi trong vài tháng nữa”
Emma rên lên, nàng cố nén cơn giận đang bốc lửa trong người nàng. Joe không có một ý niệm gì về thực tế cả. Nàng đã tiên đoán chiến tranh từ hàng tháng nay. Những lời nói của nàng rơi trên sân đá và nàng ko còn thiết tranh luận với anh nữa. Joe sờ vai nàng ướm thử. Sự thôi thúc của anh ngày một tăng lên và anh lật nàng nằm ngửa. Anh chống một khuỷu tay lên, ngó đăm đăm vào mặt nàng trong ánh sáng mờ mờ. Emma cảm thấy hơi thở ấm của anh phả vào má nàng, nàng lập tức cứng người lại. Anh ta phảng phất có mùi hành, bia, thuốc lá, nàng nghiêng đầu sang một bên để tránh, lòng đầy ghê sợ, Joe bắt đầu hôn mặt nàng, một tay để không luồn dưới bộ đồ để túm lấy vú nàng.
- Joe. Đừng. Đừng bây giờ!
- Đừng lạnh lùng với anh như thế, Emma, anh lầm bầm.
- Em có lạnh lùng đâu, em chỉ cảm thấy…
- Emma chẳng bao giờ cảm thấy gì hết, anh xẳng giọng
- Nói thế là không đúng và anh biết điều đấy, nàng nói chống chế. Ngày hôm nay mệt nhoc quá và em đang lo cho Frank. Sao anh có thể thiếu suy nghĩ như vậy? mà dạo này anh chẳng cẩn thận gì hết. Em không muốn có mang một lần nữa.
- Anh sẽ cẩn thận Emma….Anh hứa mà, anh ta nói bằng một giọng dỗ dành. Nào, em. Đã hàng tuần nay rồi.
- Mười ngày, Emma nói thẳng băng, bực mình vì sụ thiếu tế nhị và ích kỷ của anh.
- Nhưng, anh muốn em. Anh ta rên rỉ và phớt lờ sự phản kháng của nàng, anh kéo nàng vào lòng. Emma, xin em, đừng xua đuổi anh
Emma không trả lời. Hiểu lầm sự yên lặng của nàng là đồng ý. Joe loạng quoạng lần áo ngủ của nàng, hơi thở của anh lúc này dồn dập và nặng nề. Anh sờ khắp người nàng, hai tay lần đi mọi chỗ, trên đùi, dưới háng, và trên đôi vú nàng. Emma nghiêng đầu đi, tránh những cái hôn của anh. Nàng nhắm mắt lại, cố đẩy lùi bản năng hất anh đi. Trong bốn năm lấy nhau, Emma đã phải cố gắng khủng khiếp để chiều những đòi hỏi về thể xác của Joe Lowther, và nàng biết nàng sẽ phải nhượng bộ. Như vậy dễ hơn là khước tù và ngăn chặn được những trận cãi nhau dữ dội sau này. Nàng tự mặc cả với mình là sẽ làm một người vợ tốt đối với Joe và không bao giờ đi ngược lại sự mặc cả ấy. Nàng không ngờ sự đòi hỏi dục tình và sự ăn uống ghê gớm của anh ta ngày một tăng lên, chứ không hề giảm đi với thời gian.
Bây giờ mà đẩy anh ta ra thì quá muộn nếu không phải là sẽ gây nên một sự giận dữ ghê góm, vì thế Emma thừ người ra. Rồi nàng để cho trí óc mình nghĩ đến những chuyện khác, bay vào thế giới của nàng. Nàng bắt đầu làm những con tính phức tạp về những cuộc phiêu lưu tài chính mới đây nhất, tìm nơi ẩn náu trong công việc kinh doanh để ngăn chặn cái thực trạng đang diễn ra.
Joe đè lên người nàng, thở hồng hộc, dập xuống một cách tàn bạo (nghe ghê quá!!!!!!!!!! +_+) . Thân thể nàng là một cái máy đe của anh ta. Đà dập của anh ta tăng lên và làm nàng mất tập trung vào ý nghĩ của mình và đúng như nàng đã từng biết, anh ta không còn tự chủ được nữa, hoàn toàn không biết đên sự tồn tại của nàng trong cơn buông thả man dại. Anh ta nắm lấy hai chân nàng hất ngược lên để nó ép chặt vào ngực nàng và lúc này Emma thấy sự kiềm chế của nàng không nổi nữa. Nàng cố nuốt lấy tiếng thét của cơn đau bất ngờ, nỗi căm giân, sự ghê tởm của anh ta liên tục nhào lên nhào xuống người nàng như một con bò mộng chăm chú vào mục đích của nó.
Anh ta yên lặng. Cám ơn chúa, cuối cùng anh ta đã yên lặng. Sau khi đã xẹp, Joe nằm lử trên người nàng, hơi thở của anh ta nặng nhọc nhưng dần dần đã trở lại bình thường. Emma ruỗi đôi chân bị làm co quắp của nàng, đầu nàng đung đưa mệt mỏi trên gối, những giọt nước mắt tủi nhục ứa ra hai bên mắt, mùi máu đăng đắng trong miệng nàng khi nàng cắn môi. Sự đi lại dục tình khi người ta không muốn thật là lộn mửa, trở thành không sao chịu nổi vì Joe không hề hấp dẫn nàng về thể xác, anh ta không khơi dậy ham muốn hoặc say mê nào trong nàng. Hơn nữa, thậm chí anh ta không bao giờ cố gắng làm như thế. Mặc dù sự say mê làm tình, hoặc có lẽ chính vì như thế mà anh ta không hề chú ý đến sự đáp ứng của nàng. Có lẽ nếu như anh ta tỏ ra ý tứ, ân cần hơn, nhạy cảm và hiểu biết hơn đối với những nhu cầu phụ nữ của nàng thì tình hình có thể khá hơn. Sự thể là Emma tin rằng nó đang tan rã. Nàng thực sự không biết nàng còn có thể tiếp tục tha thứ cho sự làm tình tàn bạo vào cơ thể của nàng được bao lâu nữa. Joe hình như luôn luôn ở trong tình trạng ham muốn cao độ và điều này làm nàng kinh sợ.
Joe vòng hai tay ôm lấy nàng, vùi đầu vào ngực nàng “Tuyệt vời quá, em yêu”, anh ta nói lặng lẽ bằng một giọng thẹn thò kỳ cục: “Em thật quá sức đối với bất cứ một người đàn ông nào. Với em thật là kiệt sức”.
Nàng không nói gì hết. Joe nhích ra khỏi người nàng, quay lưng lại và trong vài ba phút đã ngủ say. Sao, hắn ta thậm chí cũng không nói đến câu chúc ngủ ngon nữa, Emma nghĩ, lòng loé lên bực bội và nàng cảm thấy nhục nhã, nàng cẩn thận tuồn ra khỏi giường, lướt qua phòng tới nhà tắm, đôi chân trần của nàng lún sâu trong tấm thảm dày. Nàng khoá cửa lại cẩn thận, quẳng chiếc áo ngủ nhàu nát, buộc hất tóc lên rồi bước vào phòng tắm. Cúi lom khom trước những vòi nước cho đến khi nó nóng bốc hơi lên, gần như là quá nóng không chịu nổi, sát xà phòng đầy khắp người, cào cọ làn da trắng muốt cho đến khi nó đỏ hồng lên. Rồi nàng nằm ngửa trong nước hy vọng làm dịu than thể đau nhức và trấn tĩnh lại thần kinh căng thẳng của mình. Một lát sau, nàng cảm thấy dễ chiu và trèo ra khỏi bồn tắm, lau khô người. Đi qua phòng tắm sang trọng, nàng nhìn thấy mình trong gương. Nàng dừng lại, và nhìn mặt mình, không một dấu vết khổ não hoặc thất vọng nào trong khuôn mặt trãi xoan tai tái ấy; vả lại xưa nay nàng chưa hề có. Blackie luôn luôn nói với nàng là nàng có một bộ mặt đông phương bí hiểm và nàng bắt đầu tin anh. Nhưng sự bí hiểm của mình phục vụ cho mục đích của mình một cách hoàn hảo nhất, nàng tự nói với mình. Nàn lấy một chiếc áo ngủ sạch trong ngăn kéo tủ, chui đầu qua, nhặt đôi dép lê và vội vã xuống gác.
Emma đi ngay vào phòng làm việc nhỏ cạnh phòng khách, định bụng làm việc một tiếng đồng hồ. Nàng tỉnh táo và bồn chồn, nàng luôn luôn lui vào công việc khi nàng muốn tránh suy nghĩ tới nàng chuyện không vui. Ánh trăng chiếu vào khung cửa, nàng đứng nhìn ra vườn, ngây ngất vì vẻ đẹp của nó.
Theo bản năng, Emma đẩy cánh cửa và bước ra sân hiên lát đá chạy dài theo ngôi nhà. Đó là một đêm tháng tám đẹp, yên tĩnh và ngát hương, không gian hình như ôm lấy nàng. Emma thở sâu, bỗng nhiên cảm thấy nhẹ nhõm, vợi nổi phiền muộn. Nàng ngước nhìn lên. Bầu trời cao vút và sâu thẳm, xanh như sắc của con công, trong sáng, ko một gợn mây và mảnh trăng non là một thiên thể hoàn hảo, toả một ánh sáng bạc lên cây lá, lên thảm cỏ và những luống hoa huy hoàng của khu vườn trong ánh sáng mơ hồ của những bức tường đá cổ có trường xuân leo.
Emma lướt trên sân hiên và đứng lặng trên đỉnh của dãy bậc đá dẫn xuống vườn, tay nàng vịn vào một trong những chiếc lư lớn đặt ở một phía. Đôi mắt nàng nhìn lướt khu vườn, đặc biệt Anh, đầy vẻ dịu dàng và tràn đầy thư thái. Thật khó mà tin được có một cuộc chiến tranh đang bung nổ ở bên kia eo biển và hàng ngàn thanh niên Anh đang chuẩn bị bước vào cuộc chiến tranh đẫm máu ấy.
Emma bước chầm chậm tới cuối vườn hướng về nơi đặc biệt yêu thích. Ở đây gần đồng hồ mặt trời là những khóm đỗ quyên lộng lẫy và những chum hoa mẫu đơn đâm thẳng ra những màu hồng, màu môvơ và màu trắng. Joe muốn trồng hồng ở khu này, nhưng Emma đã cực lực phản đối, không cho phép một bụi hồng nào được trồng ở bất cứ nơi nào trong vườn. Nàng chưa bao giờ nói với Joe là nàng ko chịu được cái loài hoa đó hoặc cái hương của nó làm nàng nôn nao đến buồn nôn.
Một cây sồi đại thụ cành lá rủ xuống tận đất trùm lên một chiếc ghế cũ trong vườn “Ghế của mẹ”, bọn trẻ gọi như vậy, bởi vì đây là nơi nàng luôn luôn tới khi muốn thoát khỏi công việc nhà cửa bận rộn hang ngày để suy nghĩ và nghĩ ngơi, các con nàng đã biết là ko bao giờ được xâm phạm vào sự cô đơn ở nơi riêng tư này. Những ý nghĩ về Joe len vào tâm trí nàng, làm nàng tan đi sự bình tĩnh mà nàng vừa lấy lại được. Nàng cứng người khi nhớ lại cách làm tình hung bạo của anh ta. Và rồi nàng lại thấy mình suy nghĩ: tội nghiệp Joe. Anh ta quả thực ko dằn long cho được. Cơn giận của nàng tan biến đột ngột khiến Emma phải ngạc nhiên trước sự thay đổi này trong tình cảm của nàng.
Trước đây khi bị Joe đè dí xuống và điên cuồng vì bực bội, Emma đã tính đến chuyện bỏ anh. Bây giờ nàng cân nhắc lại ý nghĩ này và do dự. Một sự chia ly và ko thể nghĩ tới, ko phải chỉ bởi vì lũ con va tình thương của chúng đối với Joe cũng như Joe đối với chúng ma còn vì cính nàng cũng cần Joe vì một số lý do chính đáng. Vả lại Joe sẽ ko bao giờ chịu rời nàng. Anh yêu nàng đến mê dại. Đôi khi nàng chỉ mong Joe là một kẻ mê gái và khi mà hắt hủi anh vào những dịp hãn hữu như thế này thì anh sẽ đi tìm an ủi trong những đôi cánh tay nồng nhiệt hơn. Nàng đã đi đến chỗ nhận ra rằng như vậy là hoàn toàn phi lí. Joe chỉ muốn có nàng thôi. Không một người phụ nữ nào khác có thể thoả mãn được những nhu cầu cấp bách của anh bởi vì nàng là vật ham muốn duy nhất.
Emma ngồi ngả người, suy nghĩ tới cuộc hôn nhân của nàng một cách khách quan, cuối cùng nàng đã thừa nhận là không có ý định thay đổi hoàn cảnh của đời nàng. Những lối thoát khác không hề hấp dẫn nàng và Joe có là một cái gì khác đi nữa thì anh ta cũng chỉ là một bước đệm giữa nàng và những kẻ có thể mong muốn hại nàng hoặc Edwina. Và nữa, nàng cũng phải thừa nhận rằng mặc dù nỗi bất hạnh cơ bản trong hôn nhân, nàng vẫn thích Joe. Hầu hết thời gian anh là người biết điều và khong bao giờ can thiệp vào công việc kinh doanh của nàng. Tất nhiên, anh ta phớt lờ và khăng khăng giữ ý kiến của mình, thường nổi đoá nếu nàng ngăn trở anh hoặc cau có hàng ngày về những điều vụn vặt tầm thường. Nhưng dù những điểm ấy, những điểm luôn luôn làm nàng bực bội, anh cũng kông phải là một người xấu.
Emma là một người độ lượng, nàng không hờn oán và nàng lại thừa nhận một lần nữa rằng Joe Lowther là một người chồng tốt hiểu theo nhiều nghĩa khác. Lúc này nàng nhớ lại một vài cử chỉ hào hiệp của anh. Anh đã mua cho nàng ngôi nhà này vào tháng mười hai năm 1910. Đó là bốn tháng sau ngày cưới của họ, khi nàng mang thai đứa con hai người, tháng sau, ngay trước ngày cưới, Joe được một thừa kế bất ngờ nữa, to hơn gia tài của mẹ anh rất nhiều. Một bà trẻ thuộc họ mẹ của anh đã chết năm chín mươi mốt tuổi. Bởi vì bà không có con và không có họ hàng nào khác. Joe là ngưòi thừa kế duy nhất trong di chúc của bà. Ngoài số tiền mắt một trăm năm mươi ngàn pound và ngôi nhà lớn của bà ở Old Farnley, anh còn trở thành ông chủ mới của bốn tài sản thương nghiệp ở trung tâm Leeds. Đó là những xưởng máy thường xuyên cho một người thuộc da thuê, một xưởng đóng giày, một nhà in và một cửa hàng bán buôn đồ khô. Số thu nhập hàng năm của những gia tài đó vượt quá cả những mong ước của Joe. Anh đã cân nhắc tình hình tài chính của mình và quyết định là anh có thể dễ dàng mua một ngôi nhà ở Tower.
Ngôi nhà này ở trong một công viên nhỏ, tách biệt vùng thượng Armley có trường bao quanh và phía trước là những cánh cổng sắt lớn. Một con đường hình vòng cung dẫn tới tám lâu đài đẹp đẽ ở trong khu công viên, mỗi cái đều tách biệt, có tường thấp bao quanh và một khu vườn. Ngay giây phút Emma bước vào trong ngôi nhà ấy, vào một ngày tháng mười hai lạnh lẽo, nàng đã thích nó, bàng hoàng trước cái vĩ đại, sung sướng vì vẻ ngoài hấp dẫn. Ở tầng chính có rất nhiều phòng tiếp đón thoáng đãng và cân đói gồm cả phòng lịch sự và một phòng làm việc nhỏ. Ở phía sau nhà có một cái bếp khổng lồ, phòng để thức ăn của quản gia, khu gia nhân, và một nhà giặt. Trên gác có tám phòng ngủ kích thước khác nhau, ba phòng tắm rộng thênh thang cho gia dình Joe, chẳng bao lâu nữa sẽ phải mở rộng thêm với sự ra đời của đứa bé. Tầng thứ ba dưới mái hiên của ngôi nhà đá xám cổ gần hai mái gác và phòng chứa đồ.
Vì tầm cỡ của nó, Emma nhất quyết sẽ tiếp tục công việc kinh doanh sau khi đứa bé ra đời nên Joe đã đồng ý thuê một số ít người làm. Bà Fenton, một bà già goá sống ở gần đó được thuê để làm bếp giữ nhà và bà Hewitt người giúp việc cũ của Joe, tới hàng ngày để quét dọn. Cô cháu của bà Hewitt, Clara, trước đây đã được thuê đẻ làm chị bảo mẫu cho Edwina, đã ở lại với họ để trông nom Christopher, sinh tháng 6 năm 1911.
Ngày Emma, Edwina và Joe dọn về nhà mới, nàng có một cảm giác hết sức an toàn, yên ổn lần đầu tiên sau nhiều năm. Trong toà lâu đài sang trọng và tách biệt này, cuối cùng Emma đã cảm thấy chắc chắn nàng được che chở tuyệt đối khỏi gia đình nhà Fairley và đặc biệt là Gerald Fairley. Emma rùng mình khi nhớ lại sự thâm nhập thô bạo hoàn toàn không tính trước của hắn ta bốn năm trước. Cái buổi chiều tháng tư ghê tởm ấy vẫn còn sống động trong tâm trí nàng và Emma biết rằng nàng sẽ không bao giờ quên được nó. Hàng tháng sau đó, nàng vẫn sống trong tình trạng thấp thỏm lo âu.
Emma cũng phải mất nhiều tuần để thuyết phục David Kalinskin rằng nàng không đảo ngược lại quyết định của mình. Cuối cùng anh ta đã chấp nhận một cách buồn rầu và mặt dù họ vẫn là bạn, là người chung việc kinh doanh, David đã khôn khéo hạn chế sự giao thiệp của họ trong công việc. Hiểu thấu động cơ của anh, nên tuy vẫn mong nhớ, ao ước, Emma đã nguỵ trang tình cảm của mình, nàng không biểu hiện xúc động, hy vọng như vậy sẽ làm giảm bớt nỗi đau của anh.
Với sự tính toán và mưu chước của phụ nữ, nàng đã tiến hành dụ Joe Lowther vào cuộc hôn nhân với nàng. Đã phản lòng nàng, bị choáng ngợp trước nhan sắc của nàng, vì sự cần cù và nhạy bén về phương thức làm ăn của nàng, Joe là 1 mục tiêu dễ dàng và tự nguyện. Khi tình bạn của họ phát triển, anh ta trở nên mạnh dạn hơn. Không bị quở trách gì, anh đã lo sợ, hồi hộp cầu hôn với nàng và đã hết sức sung sướng khi nàng chấp nhận mà không thấy rằng chính anh là người bị ve vãn và lôi cuốn.
Đêm hôm anh cầu hôn, và sau khi nàng đã chấp nhận anh, Emma nói với Joe, Edwina là con bất hợp pháp. Nàng đã nói điều đó một cách bộc trực nhất, đồng thời cũng hết sức khôn ngoan bỏ qua tung tích của người bố. Nàng chỉ đơn giản nhắc lại câu chuyện nàng đã bịa cho Blackie O’Neil nhiều năm trước đây. Joe xúc động vì sự thành thực của nàng, anh đã thán phục triết lý chiu đựng của nàng, một mình mang gánh nặng cuộc đời. Anh đã nói với nàng là anh không quan tâm đến quá khứ của nàng và sự thật là như thế. Anh quá mê muội Emma, điều duy nhất quan trọng là sự chấp nhận anh ta làm chồng của nàng.
Emma không muốn bắt đầu cuộc hôn nhân của nàng bằng trò lừa dối về hoàn cảnh hoặc đứa con của nàng, nàng đã nhận ra rằng là phải kể cho Joe nghe sự thật. Joe tin rằng nàng là vợ goá của một phù thuỷ tên là Winston Harte. Làm thế nào nàng có thể giải thích anh trai của nàng với Joe – cũng là một thủy thủ, cùng tên với người chồng không hề tồn tại đã qua đời của nàng? Vì lí do này, nàng đã phải tâm sự về những câu chuyện một nửa là sự thật ấy với Laura và cuối cùng với David một vài tuần sau ngày cưới. Không một ai tỏ ra ngạc nhiên và họ đã chấp nhận lời giải thích của nàng với sự thông cảm.
Giây phút khó khăn nhất là sự chạm trán của nàng với Winston và Frank, bởi nàng cần phải giải thích với họ sự tồn tại của đứa con gái ba tuổi rõ rang không phải là con của Joe. Frank vẫn còn khiếp sợ và thán phục Emma không dám thốt ra lời phê phán nào hết. Winston, trái lại tôn sùng Emma nên anh đã nổi giân, đã thất vọng và buộc tội nàng. Sau khi đã lắng xuống, anh đã thuyết phục được mình là em gái mình bị lừa, bị bắt buộc và anh giải hết mọi tội lỗi cho Emma, giữ cho hình ảnh của nàng nguyên vẹn. Anh đã nguyền rủa thằng khốn nạn đã súc phạm đứa em gái ngây thơ của anh bằng ngôn ngữ lính thuỷ đầy màu sắc đến nỗi Emma và Joe đều bàng hoàng cả người.
Biết được sự thông minh và mẫn cảm của anh và em trai mình, nàng đã tỏ vẻ câu chuyện của nàng chứa đầy màu sắc, bịa ra một con người mơ hồ có xuất xứ không rõ ràng mà nàng nói nàng đã gặp ở Leeds. Nàng đã nói trước với Joe nàng không dám nói với anh em mình là một tên trong gia đình nhà Fairley đã lợi dụng nàng. Nếu nàng làm vậy thì sẽ có những cuộc trả thù ngầm. Joe đã đồng ý như vậy là có lý và thành đồng minh của nàng. Về phần mình, Emma thấy nhẹ nhõm trong người, nàng không còn phải bịa chuyện về quá khứ của nàng nữa, vì bản chất nàng không phải là một người nói dối.
Phải, Joe là con người tử tế, Emma tự nhủ với mình như thế. Anh đã nhắc đi nhắc lại và đòi nhận Edwina sau ngày cưới và anh đã đặt con bé tên của anh. Anh đã yêu quý Edwina nhiều như anh yêu con đẻ của mình, nếu không phải là hơn. Emma nhiều khi ngờ ngợ điều ấy.
Trong khi tư tưởng miên man ấy len lỏi trong đầu Emma, nàng bỗng cảm thấy nhói lên một niềm tội lỗi về cơn giận của nàng với Joe. Anh đã cư xử như một người quân tử và đã tỏ ra độ lượng với nàng, Emma tự trách mình. Món quà của thân thể nàng và lòng tận tuỵ của người vợ chỉ là cái giá rất nhỏ để phải trả khi nàng cân nhắc xem xét tất cẩ mọi điều một cách bình tĩnh, không xúc động.
Emma biết rằng điều đó thật không dễ dàng gì khi nàng nghĩ tới cơn dục vọng không hề chán của anh trong phòng ngủ hai người. Nhưng nàng tự trấn tĩnh với một quyết tâm lạnh lùng và quyết định sẽ thông cảm hơn và chú ý tới chồng mình trong tương lai.
Sáng hôm sau, Emma ngồi ở bàn trong cửa hàng bách hoá của mình sớm hơn thường lệ. ăn mặc lich thiệp trong chiếc áo lụa đen cắt đứng đắn. Y phục của Harte– Joe gọi như vậy. Nàng ngồi nghiên cứu hai cuốn sổ cái dày cộp. Nàng chăm chú vào những con số nho nhỏ màu đen chạy tong hàng dài trên những trang giấy lớn đến độ nàng chỉ còn lờ mờ nhận thấy cửa hàng đã bắt đầu sống động và âm thanh của xe cộ bên ngoài.
Sự chú ý của Emma gắn vào những cuốn sách cho cửa hàng mà nàng đã mua vào cuối năm 1912, và với sự trợ giúp của Blackie nó đã được canh tân hiện đại hoá và mở ra rầm rộ vào tháng giêng năm 1913.
Cửa hàng là một sự thành công tức thời. Những quảng cáo rộn rã do chính Emma tiến hành đã cuốn hút được công chúng đến tận cửa. Họ đến từng đám đông để xem xét và phê phán nơi buôn bán sầm uất và kỳ lạ đã nở rộ ở Leeds, nơi trước đây chỉ có những cửa hàng hết sức bảo thủ, bây giờ đã được một người mới đến chiếm giữ, một phụ nữ trẻ tuổi với những tư tưởng mới lạ. Họ không thể tin được, nhưng tất cả đều bị hấp dẫn vì vẻ lộng lẫy, sang trọng toát ra từ mỗi tầng. Mọi người như bị cuốn hút bởi những trần thiết bên trong, những tấm gương lóng lánh, những tấm thảm sang trọng và đặc biệt là không gian ngát hương thơm, họ đã ở lại say sưa mà ngắm mà thán phục và tất nhiên không thể cưỡng được không mua, họ không hề biết là đã bị dụ hoặc vì ngoại cảnh yên tĩnh và hấp dẫn để mà tiêu tiền qua một thủ phép tâm lý vượt trước thời gian.
Tài năng trưng bày của Emma đối với tất cả những sản phẩm của nàng đã thu hút mọi nguời vì chất lượng vì kiểu của nó và giá cả hợp lý. Hàng hoá là dernier cri quá lịch thiệp, sang trọng đến độ các quí bà ở Leeds và ở những thành phố lân cận họ ko thể cưỡng lại sự cám dỗ, ấn tay vào túi tiền của họ một cách hăm hở dưới sự cổ vũ dịu dàng của những cô bán hàng duyên dáng và vui tươi đã được Emma dày công huấn luyện cái mà nàng gọi là “nghệ thuật bán hàng nói bớt đi” và những năm sau này nàng gọi là “bán hàng mềm”.
Một nhân tố thêm vào cho sự nổi tiếng của cửa hàng là quán cà phê Emma mở ở tầng hai. Nàg đã trang trí nó theo kiểu hoa viên nông thôn Anh, dung giấy dán tường bằng tranh đồng quê, lưới mắt cáo sơn trắng, tạo hình cây cảnh, những lồng chim có những loại chim đầy màu sắc, lạ và hiếm. Nàng đặt tên cho nó là Vọng lâu Elizabeth và để cho những cô phục vụ ăn vận đồng phục đơn giản màu xanh nhạt, tạp dề và mũ bằng vải phin nõn organdy. Khung cảnh hấp dẫn, sự thay đổi từ các pho tượng rực rỡ của trang trí thời Victoria sang không khí trầm lặng, thanh bình, sự phục vụ tuyệt hảo, những món ăn đơn giản nhưng ngon lành làm cho nhà hàng Vọng lâu Elizabeth cực kì phát đạt. Nó trở thành một tụ điểm sang trọng để uống cà phê sáng ăn nhẹ và trà buổi trưa. Các quí bà lịch sự hẹn nhau ở đó và ít người rời cửa hàng mà không mua sắm chút ít gì đó đúng như Emma đã khôn ngoan tính trước. Sự canh tân này, một bước phát triển độc đáo đối với cửa hàng bách hoá, lập tức tạo nên một chiều hướng mới ở Leeds. Nó thúc đẩy những người cạnh tranh với nàng nối bứơc nàng, nhưng sự bắt chước lố lăng của họ nếu đem so sánh thì thật là vô vị, và tiệm cà phê sang trọng của nàng được tổ chức quá chu đáo, không gì có thể làm ảnh hưởng tới nó được.
Những quà tặng được gói lại là một ý kiến nữa nảy sinh trong đầu Emma, nàng nhớ lại sự sung sướng của mình khi nhận quà tặng được gói sáng bong của Blackie ngày sinh mười lăm tuổi của nàng. Cái dịch vụ nhỏ bé này không được các cửa hàng khác ở địa phương làm và vì thế nàng lại có một thuận lợi để bán nữa. Với vốn hiểu biết về công chúng không hề lầm lẫn của mình, Emma tin chắc rằng cử chỉ tốt đẹp này tương đối tốn ít thời gian, nỗ lực và tiền bạc đã làm cho khách hàng sung sướng đặc biệt là khi nàng không đòi thêm phí tổn và nàng đã chứng minh là đúng. Một quà tặng được bọc trong giấy bạc, buộc giải nơ lụa và được trang trí bằng những dây hoa tím lụa nhỏ xíu đã trở thành dấu hiệu riêng của nhà Harte. Cũng như cung cách lịch sự, sự giúp đỡ của người gác cửa mang giúp các gói hàng mở cửa xe ngựa, ôtô và làm những cử chỉ lịch thiệp nho nhỏ khác và trong bộ đồng phục màu xanh thêm vương giả, nẹp vàng lộng lẫy, người gác cửa đã thêm một vẻ ưu tú khác biệt vào lối cửa ra vào. Cuối cùng, để cố gắng thuyết phục khách hàng mua mọi thứ họ cần ở cửa hàng Harte và với số lượng lớn hơn, Emma đã mở dich vụ trao hàng đẽn tận nhà ba lần một tuần. Các khách hàng của nàng rất tin cậy ở dịch vụ này và nó tăng số lượng hàng bán tới mức độ choáng váng đến độ nàng phải sửa lại thời gian biểu của mình và cho những xe hàng màu xanh vương giả của hàng năm thêm chí sáu ngày một tuần để thực hiện những đơn đặt hàng.
Buổi sáng thứ bảy hôm nay, hai mươi tháng sau ngày cửa hàng mở cửa. Emma Harte làm ăn phát đạt và lợi tức tăng lên vùn vụt. Nàng có đủ tiền mặt trong tay để có thể sinh sống trong nhiều năm, nàng thấy như vậy khi nàng điểm lại những con số. Tuy vậy nàng vẫn không thích phải rút ra năm mươi nghìn pounds ở ngân hàng của cửa hàng lúc này, mặc dù nó còn đầy tiền gửi. Đất nước, mới bước vào chiến tranh bốn ngày, nhưng với sự nhìn thấy trước của mình Emma biết nó sẽ lâu dài, và nàng sẽ chịu nhiều thiệt hại nếu như việc buôn bán trở nên rời rạc vì tâm trạng buồn chán của công chúng và không thích mua sắm gì trong những ngày sầu thảm trước mặt. Nàng nhận thức được rằng nàng không được làm phương hại đến sự ổn định của cửa hàng khi làm những bước vội vã.
Emma quay sang cuốn sổ cái của kho hàng Gregson, một công ty cung cấp bán buôn của nàng. Mắt nàng lướt trên những con số và làm mấy con tính nhẩm. Số tiền dự trữ cho công ty này cao hơn của cửa hàng, chủ yếu là bởi vì nàng có nó từ lâu hơn và bán buôn sản phẩm cho thị trường của quảng đại quần chúng và thực tế là không có tổn phí. Vả lại, nàng có đầy kho hàng hoá mới của các chủ xí nghiệp trong vòng một năm, vì thế nàng không phải tiêu thêm tiền mặt nữa.
Nàng giở sang trang. Mắt nàng liếc tới những cột chương mục nhận được. Nhìn quanh những con số. Emma thấy được rằng nàng có gần một trăm tám mươi nghìn pounds do tất cả những cửa hàng ở London, Manchester và Scotland đã mua đều đặn của nàng. Nàng không lo ngại. Trong vòng ba mươi ngày nữa, tiền sẽ dồn về. Tuy nhiên, nàng đã để ý thấy trong vài tuần nay là một số cửa hàng đã nhận trả. Nàng ghi lại tên của những khách hàng đó, những người đã quá hạn trả và đã bước sang giai đoạn chín mươi ngày, nàng quyết định dùng áp lực đối với những công ty chậm trả ngay lập tức. Thời hạn của nàng là từ 30 đến 60 ngày, mặc dù nàng thường cho chịu một thời gian lâu hơn cho những khách hàng cũ và có giá trị, giờ đây phải chấm dứt chuyện này, nàng kết luận một cách vô tư. Emma con người có thể và hiểu biết đối với những vấn đề trên bình diện cá nhân, là con người có đầu óc thực tế, tỉnh táo và không có tình cảm khi dính tới công chuyện làm ăn. Joe đã có lần buộc tội nàng là có băng giá trong mạch máu, nàng đã trả lời, “Vâng, đúng thế!”. Y như một chủ băng.
Emma ngồi lại trong ghế lấy bút chì gõ gõ vào răng, chìm trong suy nghĩ rồi nàng nghiêng người về phía trước và cầm mảnh báo cắt của tờ Thời báo kinh tế đã nằm trên bàn nàng cả tuần qua. Câu chuỵên tường thuật chi tiết việc đóng cửa sở giao dịch chứng khoán London và việc nâng hối suất ngân hàng từ 4% lên 8% vào thứ sáu ngày 31 tháng 7. Cả hai biện pháp này đều gây xúc động và đối với Emma thì nó là dấu hiệu của sự khủng hoảng trong giới tàI chính. Emma đã nhận ra rằng hành động thứ nhất cốt chỉ để tránh sự hốt hoảng trong thành phố bằng cách tạo cho các nhà buôn có đủ thì giờ để trấn tĩnh trước khi được gọi tới để giải quyết tài khoản chứng khoán lộn xộn của họ. Nhưng nàng nhận thức được rằng việc nâng hối suất ngân hàng là để nhằm ngăn cản sự rút vàng ra khỏi đất nước. Đối với Emma, cảnh giác và cân nhắc mọi điều, điều này mới là dấu hiệu nguy khốn hơn hết. Dù cho các nhà chính trị có nói điều gì thì chiến tranh cũng là rõ ràng rồi.
Những sự phát triển này đả thúc đẩy nàng hành động đối với một việc làm mạo hiểm trong thương trường mà nàng đã suy nghĩ từ lâu. Không những nó không làm nàng khiếp sợ, để phải từ bỏ cuộc phiêu lưu mới này mà thực tế nó đã khuyến khích nàng xông lên phía trước. Đồng thời việc tăng hối suất ngân hàng để tài trợ cho dự án của nàng như lúc đầu nàng dự tính mặc dù trước đây nàng không bao giờ do dự dùng tiền của ngân hàng.
Thực tế khi Emma bắt đầu mở rộng công việc kinh doanh năm 1910, nàng đã bước vào vũ đài với nhiều thuận lợi to lớn về tâm lý. Về bản chất, nàn là một người lác quan và hoàn toàn không một chút sợ sệt khi phải liều, nàng tin là mình cốt hể tạo nên sự may mắn trong công việc kinh doanh. Sự liều lĩnh của nàng là những liều lĩnh có tính toán mang ý nghĩa nàng là một con bạc có hướng dẫn như suôt cuộc đời nàng là như vây. David Kalinskin hiểu nàng, bởi vì anh cũng được nặn cùng một cái khuôn như thế.
Emma cũng có thần kinh thép và những đặc tính này làm nàng khác với nhiều nhà buôn cũng như cách nhà cạnh tranh nam giới, những con người không có óc tưởng tượng và sợ mất mát cái họ đã nhẫn nại tích luỹ được. Emma không hề bị những sự sợ hãi đó ám ảnh, bởi vì nàng không biết khuất phục là gì và biết đáp ứng với tất cả mọi cơ hội để làm ăn, nàng nắm lấy những cơ hội này trong bàn tay vững chắc của mình. Nàng cũng không quản ngại những công việc giao dịch giấy tờ, hoặc vay dài hạn. Nàng đã sử dụng tất cả những thứ đó cho lợi ích của mình trong bốn năm qua và sẽ tiếp tục làm như thế nữa nếu cần thiết. Nhưng không phải lúc này, nàng tự nhủ khi nghĩ tới 8% hối suất ngân hàng. Trả như vậy thì thật là tàn bạo. Nàng còn nhiều tiền ở Gregson và các cửa hàng khác còn nợ rất nhiều. Nàng có thể lấy năm mươi ngàn pounds nàng cần một cách dễ dàng mà không làm phương hại đến công việc của kho hàng. Lấy quyển séc của kho hàng Gregson từ trong ngăn kéo, nàng viết một séc để vào trong phong bì, bửi cho Frederich Ainsley rồi để lại cuốn séc vào ngăn kép. Nàng nhìn đồng hồ, nhấc ống nghe và quay số kho hàng.
Người quản lý của nàng, Vince Hartley trả lời, như nàn đã biết trước. “Chào Vince. TôI đã xem cuốn sổ cái và nhận thấy rằng một số khách hàng của chúng ta đang chậm trả” nàng nói.
- Xin chào bà Harte. Vâng, tôi biết. Tôi cũng định nói chuyện với bà về họ…”
- Tôi muốn anh bắt đầu thu tiền về, Vince. Điều đầu tiền sáng thứ hai. Emma ngắt lời. Và đừng viết những bức thư đòi nợ bình thường. Gọi điện và gửi điện tiếp theo đó. Tô cần kết quả ngay tức thì. Nếu như họ không trả được đầy đủ thì hãy đòi trả từng phần. Và anh hãy chỉ ra những cửa hàng mà số chương mục kéo dài sáu mươi ngày hoặc lâu hơn nữa để tôi bắt đầu tính lãi. Ngay tức thì. Hối suất ngân hàng 8%.
- Vince Hartley hít hơi. Bà Harte như vậy là hơi cứng một chút, có phải không ạ? Tôi không nghĩ là họ sẽ thích. Họ có thể mua của chúng ta nữa.
- TôI cóc cần họ thích hay không thích. Và nếu như họ không mua của chúng ta nữa thì tôi lại càng ít cần hơn.
- Nhưng chúng ta đang đầy phè hàng hoá. Chúng ta có thể ứ đọng nếu không cẩn thận.
- Ồ, không đâu. Emma nói một cách kiên quyết. Hiện nay chúng ta đang có chiến tranh. Hàng hoá sẽ khan hiếm và khó đến. Nếu cần, tôi có thể dừng hết tất cả hàng hoá trong kho. Sự thực thì tôi sẽ còn cần đến chúng nứa cơ, nhiều xưởng chế tạo chúng ta mua sẽ biến những nhà máy của họ để sản xuất hàng cung cấp cho nhà nước. Quần áo, quân phục, đại loại là như thế, vì thế mà tôi không mảy may quan tâm đền hàng hoá của tôi trong kho. Đứng về một mặt nào đó, chúng là của trời cho.
- Vâng, tôi hiểu ý bà. Hartley nhượng bộ, anh ao ước giá anh cũng nghĩ được như thế. Nhưng Emma bao giờ cũng nhảy trước người khác đến ba bước. Anh nói: Còn một vấn đề nữa, tôi muốn đề cập tới hai người đi chào hàng của chúng ta, những người ở Scotland đã báo nghỉ. Như vậy là chúng ta thiếu người. Tôi có thể lấy thêm người đẻ thế vào đó ko?
- Thôi, không cần. Hai người làm việc ở Manchester và London là đủ rồi. Như tôi đã nói, tôi có thể cần hàng hoá đó cho cửa hàng và tôi không muốn kho hàng hoàn toàn xẹp lép. Anh hãy giải quyết những tài khoản đã quá hạn vào thứ hai và cho tôi biết kết quả vào cuối ngày. Vince, tôi yêu cầu anh kiên quyết đối với vấn đề này. Tôi không có chút thì giờ tự mình giải quyết, nhưng nếu cần tôi sẽ làm.
- Bà Harte, xin bà đừng lo, bà cót hể tin ở tôi. Hartley nói một cách hồi hộp, anh biết là nàng nói thật.
- Hẹn gặp lại thứ hai, Vince, tạm biệt.
Emma ngồi lại trong ghế tự hỏi không biết có nên để cho hai người chào hàng còn lại đi hay không và ngừng bán cho tất cả những người bán lẻ khác để dành cho các kho hàng cho mình trong trường hợp khan hiếm. Một tiếng gõ cửa đã cắt đứt dòng suy nghĩ của nàng. Emma ngước nhìn lên khi Gladys Barner, cô thư ký trẻ của nàng thò đầu vào cửa.
- Thưa bà Harte, ông Ainsley đã tới.
- Gladys, làm ơn mời ông ấy vào.
- Vâng thưa bà.
Emma đứng lên, vuốt thẳng chiếc váy, tự động vỗ mái tóc (bản dịch này có nhiều câu nghe kì quá!), bước qua phòng để đón chào người cố vấn pháp luật của mình, người nàng đang chờ đợi. Vì thế nàng giật mình và cũng hơi bực tức nữa khi con trai của Ainsley, Arthur xuất hiện ở ngưỡng cửa.
Arthur Ainsley cao, thon mảnh, tóc vàng hoe, đẹp trai, anh ta nhận thấy điều đó và tác dụng của nó đối với hầu hết phụ nữ. ăn vận lich sự, hơi chút đỏm dáng điệu bộ của một anh chàng công tử, anh ta nhởn nhơ đi tới.
Anh chàng quên mất cái vợt đánh tennis của mình rồi, Emma nghĩ một cách dè bỉu, nhưng nàng vẫn nở một nụ cười.
- Chào ông Ainsley.
- Chào bà Harte, trông bà vẫn lộng lẫy như bao giờ hết. Ainsley loé bộ răng hoàn hảo của mình và cầm lấy bàn tay giơ ra của nàng, nắm tay của anh ta nán lại hơi lâu lâu nàng cảm thấy không thoải mái.
- Dạ vâng, cám ơn ôngAinsley. Xin mời ông ngồi. Nàng lướt tới bàn giấy và ngồi xuống phía sau, vẫn mỉm cười, cố che đậy sự bực bội của mình. Theo ý kiến nàng, ainsley là một gã công tử bột và nàng coi anh chàng như một thằng bé chạy việc mặc dù chàng ta là hội viên của công ty luật sư. Cha của ông có đến cùng với chúng ta không?
- Không, tôi e là ông không đến được. Đêm qua ông ấy bị cảm lạnh nặng. Vì thế tôi có mặt thay cho ông. Arthur trả lời để xin lỗi.
- Tôi xin lỗi, Emma lẩm bẩm.
- Tuy nhiên, Arthur nói nhanh, ba tôi nói là có thể gọi điện cho ông ở nhà nếu hiết sau cuộc họp của chúng ta. Nghĩa là, nếu như bà cảm thấy tôi ko thể giúp bà với vấn đề của bà.
- Tôi có vấn đề gì cả, ông AinsleyEmma nói lạnh lùg. Tôi chỉ muốn đưa lại kết luận một việc mà tôi đã bàn với cha ông. Tôi nghĩ ông sẽ có thể giảI quyết được một cách hoàn hảo thoả đáng, bởi vì tất cả những công việc chủ yếu đã được làm cả rồi.
- Arthur phớt lờ giọng chiếu cố của nàng, mặc dù anh ta nhăn mặt. Cả một năm trời anh đã khéo léo đẻ được sự tin yêu của Emma Harte mà ko thành công và điều này làm anh tức giận. Tuy nhiên anh vẫn đáp lại với một sự duyên dáng được đào luyện. Tôi thành thực hy vong là tôi có thể, thưa bà Harte. Tôi bao giờ cũng cố gắng chiều lòng mọi người bà biết đấy.
- Đúng thế, Emma nói gạt đi. Sáng hôm qua khi tôi nói chuyện với cha ông tôi đã o giải thích vì sao tôi muốn gặp ông ấy hôm nay vì vậy rõ ràng là cụ nhà đã ko thể thông báo cho ông rõ. để tôi nói ông rõ. Mấy tuần trước đây, tôi có điều đình với ông William Layton ở nhà máy len Layton ở Armley. ông Layton đã muốn bán nó. Ông đã quá già không điều hành được nhà máy một cách có hiệu quả nữa, và công việc làm ăn của ông ấy đã suy sụp một cách thảm hại. Chủ yếu là do chất lượng vải kém ông ấy làm, cách bán hàng thờ ơ. Sự thật, theo ý tôi, ông ấy chỉ còn một vài bước nữa là đi đến chỗ phá sản. ông Layton đồng ý bán nhà máy cho tôi với giá năm mươi ngàn pounds. Tôi cho rằng đây là một con số khá hợp lí mặc dù nhà máy nhỏ và cũng chẳng có gì hay ho để nói đến mà khách hàng thì ít ỏi. Ông ấy cũng đầy những vải tồi và xấu mà thực tế tôi phải cho đi, phẩi thải đi.
- TôI thấy không phải là một việc làm hay,
Arthur hen ngang, hy vọng gây ấn tượng với nàng.
- Emma cau mặt và giơ tay lên. Xin ông Ainsley
hãy để tôi nói hết đã! Giọng nàng lạnh lùng. Máy móc còn tốt cả toà nhà cũng vậy nếu như cần sửa sang tí chút. Vả nữa, Layton đang có trữ lượng len sống rất lớn, điều đó rất quan trọng đốivới tôi. Vâng, đi thẳng vào vấn đề, ông Layton đã đồng ý với những điều khoản của tôió là trả mười lăm ngàn khi ký bản thoả thuận mua, mười ngàn sau ba tháng và hạn trả cuối cùng hai mươi lăm ngàn pounds cuối sáu tháng. đó là khoảng thời gian tôi cần để đưa nhà máy lên. Chúng tôi sắp sửa ký hợp đồng thì ông Layton chùng lại. Lý do ông ấy đưa ra là ông ấy không muốn bán nữa. Tôi thấy điều này thật là khó trôi nhưng tất nhiên là tôi phải tôn trọng quyết định của ông ấy.
- Bà hẳn đã có thể buộc ông ấy phảI giữ sự thoả thuận đó, mặc dù đó chỉ là thoả thuận miệng,
Arthurlên tiếng. Tôi chắc ba tôi đã nói với bà điều đó, có phải không a’.
- Đúng thế, Emma nói. Tuy nhiên, lúc này tôi đã quyết định ko làm như vậy. Ông Layton là một ông già và tôi không muốn dồn ông ấy vào một góc. Xét cho cùng thay đổi ý kiến là quyền của ông ấy. Tôi đã nói với ba của ông là tôi sẽ tìm một nhà máy khác thích hợp, bởi vì tôi rất muốn có một cái. Thế rồi một vài hôm trước đây, tôi phát hiện ra, qua một nguồn tin đáng tin cậy của tôi là ông Layton vừa có một người trả một giá mới. Emma giải thích: Giá này không cao hơn giá của tôi, nhưng hình như những điều khoản của nó hình như hấp dẫn hơn đối với ong Layton. Đối thủ của tôi chuẩn bị để trả là, hai kỳ thay vì cho ba, mỗi lần hai mưới lăm ngàn pounds. Lần đầu tiên trao vào lúc ký, lần thứ hai sau sáu tháng. Tôi không phải là người không biêt điều đâu, ông Ainsley, nhưng cái trò hai mặt của ông Layton làm tôi ghê tởm. Xét cho cùng thì chúng tôi đã bắt tay thoả thuận thế rồi ông ta lại quay ngoắt đi và không giữ lời hứa. Hơn nữa ông ấy lại không đủ thành thật để thông báo cho tôi biết điều đó để cho tôi có cơ hội đáp ứng yêu cầu của ông ấy.
- TôI đánh giá cao tình cảm của bà, bà Harte
, Arthur nói với nụ cười bợ đỡ. Tôi nghĩ là bà muốn đáp ứng sự đặt điều khoản mới này.
- Không, đứng về một phương diện nào đó thì còn hơn thế nữa. Tôi đã quyết định trả trọn vẹn giá mua vào thứ hai.
- Arthur ngồi thẳng ngay người lên, đưa tay lên xoa cằm một cách hồi hộp kích động. Nhưng như vậy không phải là làm cho nó tốt hơn, có phải không ạ? Như vậy là bà chỉ thay đổi lịch trả, chỉ có thế thôi. Tại sao bà lại nghĩ là phía bên sẽ không làm đúng như thế? Vào lúc đó thì bà sẽ đưa mình vào ngõ cụt và Layton vẫn có thể không bán cho bà. Vả lại, làm sao bà biết là họ vẫn chưa kết thúc công việc mua bán này?
- Emma mỉm cười tự tin: Họ chưa đâu, và tôi tình cờ biết được là phía bên kia chưa có tiền mặt để trả đầy đủ lúc này. ông ấy vừa hiện đại hoá xong nhà máy của mình và lắp đặt những máy móc đắt tiền. Tất nhiên tôi cũng thấy được ông ấy có thể mượn tiền của ngân hàng để mua của Layton. Một tuần trước đây khi đó là một việc làm rất tốt nhưng hôm nay với tỉ số ngân hàng lên tới 8% như vậy thì tôi nghĩ người mua tranh với tôi sẽ phải suy nghĩ lại việc làm đó. Tôi được thông báo là ông ta đã lấy quá nhiều ở ngân hàng rồi. Có lẽ là họ ko muốn cho ông ấy nợ nữa. Tôi tin rằng, nếu tôi lẹ bước tôi có thể hất ông ấy ra khỏi cuộc đua tranh một cách hoàn toàn.
- Vần có lẽ thế, Arthurr đồng ý một cách thận trọng.
- Tôi cũng biết được là, ông Layton không muốn những cuộc thương lượng kéo dài. Các con nợ của ông ta ở trên lưng và ông ấy muốn bán cho nhanh. Và như vậy là tôi làm trên một thế mạnh, ông nghĩ thế nào?
- Arthur gật đầu, rõ ràng là bị gây ấn tượng mạnh. Nàng không ngừng làm cả hai cha con anh ngạc nghiên. Rồi một ý nghĩ nữa chợt nảy đến với anh ta: Thưa bà, chúng ta hãy suy nghĩ điều đó thêm một lát đã. Bà có chắc là bà muốn đầu tư 50,000 pounds vào một việc làm mới mẻ ở thời điểm như thế này không? Vì chúng ta đang có chiến tranh. Tôi ko dám chắc đây có phải lúc tính chuyện mạo hiểm không?
- Tôi không tính chuyện mạo hiểm một chút nào, hơn nữa đây mới chính là thời gian thích hợp để mua Layton, bởi vì tôi có ý định ký hợp đồng với nhà nước sản xuất vải vóc cho quân đôi. Vải để may quân phục, ông Ainsley
ạ. Với những hợp đồng này, tôi có thể khởi động nhà máy đó và kiếm lời trong chốc lát.
- Vâng, tôi phải nói là rõ ràng bà đã nghĩ tới mọi chuyện! Anh không nghi ngờ chuyện bà sẽ ký được hợp đồng đó. Tuy nhiên anh cũng buộc phải nói: Bà có chắc không? Có thật bà sẽ ký được hợp đồng với nhà nước ko? Tôi thấy là những nhà sản xuất vải vóc đã có sẵn ở Yorkshire cũng sẽ dòm ngó những hợp đông như thế. Họ có thể thắng bà trong vấn đề này.
- Tôi không nghĩ như vậy, ông Ainsley. Emma nói nhẹ nhàng với một nụ cười tự tin. Tất nhiên, họ dòm ngó những hợp đồng như vây, nhưng tôi có những đường dây ở London. Và dù sao đi chăng nữa, nhà nước cũng sẽ cần nhiều vải để may quân phục, hãy tin tôi đi. Có đủ công việc để làm.
- Bị bàng hoàng, Arthur nói: Cha tôi luôn coi bà là người có tầm nhìn rộng và rõ ràng là hình như bà tự tin. Bà muốn tôi làm gì đối với nhà máy Layton?
- Hãy gọi điện cho ông Layton và chuyển đề nghị của tôi ngay sau khi ông tới cơ quan vào thứ hai. Hãy thu xép cuộc hẹn gặp ông ấy vào chiều thứ hai, tôi sẽ đi với ông và chúng ta có thể ký ngay. Và nhớ dặn ông ấy mang theo luật sư của gia đình. Tôi không muốn có một sự sơ xuất nào hết.
- Vâng, tôi hiểu, Arthur nói, giọng cũng sự vụ như giọng nàng.
- Emma câm lấy tờ trên bàn đưa cho anh ta. Đây là những hợp đồng gốc. Tôi đã thay đổi đi một số, những cái tôi coi là cần thiết. Tuy nhiên tôi chắc chúng không có vấn đề gì. Sự thật thì, những thay đổi ấy rất nhỏ, ông có thể viết lại cho đến trưa thì xong.
- Đúng là bà ta biết cách ra lệnh, Arthur nghĩ, trong lòng nhói lên sự bực bội, nhưng anh ta gật đầu. Không có vấn đề gì, anh ta khẳng định.
- Và đây là séc của tôi trả giá toàn bộ. Emma đưa cho anh chiếc phong bì và nói tiếp: Tôi muốn ông nhận nó ngày hôm nay để ông có thể nói với ông Layton một cách hết sức thành thực là ông đã có nó trong tay khi ông nói chuyện với ông ấy. Cặp mắt xanh của Emma lúc này sáng lấp lánh nhìn vào Arthur
. Trước sự thích thú của mình, anh ta tỏ ra như người bị thu mất hồn. Tôi nghĩ là ông không có vấn đề gì với ông Layton đâu. Tôi đưa ra cho ông ấy một đề nghị mà ông ấy sẽ thấy rằng trong mọi tình huống đều cực kì khó khăn để từ chối, nàng nói. TôI biết đich thủ của tôi không thể hành động mau lẹ như tôi được.
- ồ, tôi hoàng toàn ủng hộ phương án này! Arthur nói với nụ cười cực kì duyên dáng: TôI có thể được phép mời bà dự bữa trưa ngày thứ hai trước khi chúng ta tới nhà Layton? Tôi rất hân hạnh.
- Emma giả vờ đau khổ: Ôi trời, không thể được rồi. Ông mời tôi thật là tốt bụng quá nhưng hôm ấy tôi đã có hẹn ăn trưa rồi. Tôi sẽ gặp ông ở văn phòng của ông lúc hai giờ trưa nếu tiện, và chúng ta có thể thông qua những bản hợp đồng trước khi ông đến Layton.
- Arthur cố giấu nỗi thất vọng, anh ta nhân thức được rằng vẻ duyên dáng của anh không mảy may có tác dụng gì đối với nàng. Vâng, rất tốt, bà có muốn bàn gì về vấn đề này nữa không? Anh hỏi, rất muốn kéo dài cuộc viếng thăm.
Luôn luôn eo hẹp thời gian và không muốn trò chuyện dông dài, Emma nói: không, chỉ có vậy thôi. Nàng đứng lên nhanh. Arthur
chồm dậy với lấy chiếc cặp, Emma tiễn anh ta ra cửa. Cám ơn ông đã đến ông Ainsley
. Và chuyển lời thăm hỏi của tôi tới cụ nhà. Tôi hy vọng ba ông chóng khoẻ. Nàng đưa tay ra bắt vội vàng tay Arthur và mở cửa. Anh thấy mình bị đưa vun vút ra khỏi văn phòng của nàng nhanh đến nỗi anh ko có dịp từ biệt nàng một cách lịch sự nữa.
Emma mỉm cười khi còn lại một mình. Nàng nghĩ chắc phải bàng hoàng, thế rồi quên hẳn anh ta, nàng hướng sự chú ý của mình vào công việc của cửa hàng. Một vài phút sau khi Ainsley rời văn phòng, Joe đột ngột bước vào. Đêm hôm trước nàng quyết định cố gắng hết sức dịu dàng với chồng, Emma đã niềm nở chào anh nhưng lại bị đáp lại một cách bực dọc. Mặc dù tức tối vì sự thâm nhập của anh vào buổi sáng bận rộn nhất của mình, và sự ngạc nhiên vì cử chỉ thô lỗ của anh ta, nụ cười trên nét mặt Emma không hề thay đổi. Nàng định hỏi vì sao anh lại bồn chồn như vậy thì anh ta đã lên tiếng trước
- Cái thằng Arthur Ainsley làm cái khỉ gì ở đây vậy? Anh gầm gừ, buông mình xuống chiếc ghế mà anh chàng thanh niên vừa ngồi.
- Bởi vì anh ấy là cố vấn pháp luật của chúng ta. đừng nói là anh quên mất điều ấy đi Joe.
- Bố hắn mới là cố vấn pháp luật của chúng ta. Joe xẵng giọng.
- Frederich Ainsley ốm. Em có việc khẩn phải giải quyết và ông ấy cử Arthur đến thay.
- Anh không thích cái thằng cha ấy, Joe tuyên bố. Giọng Joe nặng nề khiến Emma giật mình.
- Trời ơi, đừng có xẵng giọng như thế, anh. Arthur Ainsley dễ chịu và cũng có khả năng nữa, em nghĩ thế.
- Hắn hấp dẫn đối với em, Emma. Em mặc váy mà. Cái thằng cha ấy là thằng đi tán gái. Nó là một thằng đểu!
- Emma cười lớn: ồ, Joe! đừng có ngốc nghếch thế. Vả lại em nghĩ đời riêng của anh ta là việc của anh ta.
- À, anh không thích cái lối nó lăng xăng xung quanh em, Emma. Anh để ý thấy cái thằng cha Ainsley luẩn quẩn với em và hắn nhìn em thèm muốn. Hắn quá tự tin cái vẻ quyến rũ của mình nếu em muốn anh nói ra điều đó.
Emma cố nhịn cười, Joe ghen, một tình cảm mà trước đến nay anh không lộ ra. Nhưng nàng không để một lý do nào cho sự ghen tuông và nàng cũng không có ý nghĩ làm như vậy. Đàn ông là cái ý nghĩ cuối cùng trong đầu nàng.
- Anh Joe này, anh kích động vì một chuyện ko đâu. Em không khuyến khích sự chú ý của Arthur Ainsley. Nói thật em ko bao giờ để ý tới chúng. Ông có cử con trai đến đây vì công chuyện thì đâu có phải là lỗi của em. Thôi nào, cưng, đừng trẻ con thế nữa, nàng nói một cách dỗ dành.
- Joe bỗng cảm thấy ngớ ngẩn, anh nhăn răng cười có vẻ ngượng ngùng: ừ đúng đấy, nhưng có chuyện gì khẩn cấp để em phải giải quyết vào thứ bảy?
Emma nói với anh về quyết định của nàng mua nhà máy của Layton, giải thích điều ích lợi và sự cần thiết phải tiến hành mau lẹ. Bất ngờ thường là vũ khí tốt nhất! Nàng kêu lên: Percy Lomax nghĩ là ông ta đã mua được nhà máy của Layton rồi. Ông ta nghĩ ông ta trên tài em, nhưng ông ta nhầm, không ai có thể trên tài em. Không bao giờ.
- Joe nhìn nghiêng nàng: em có nghĩ rằng em đang làm một việc quá sức không?, anh kêu lên
- Anh muốn nói gì? nàng ngạc nhiên hỏi
- Với cửa hàng, rồi là nhà kho Gregson, rồi hiệu quần áo phụ nữ Hamilton, anh thấy hình như nó đủ để làm em bận rộn hai mươi bốn tiếng một ngày chẳng cần phẩi đến cái nhà máy khốn khổ ấy nữa.
- Nàng cười. Em sẽ không điều hành nhà mấy ấy đâu, Joe.
- Anh biết em chớ, Emma, em sẽ muốn giữ một vai trò tích cực trong việc điều hành. Em không bao giờ phó mặc cho may rủi hết mà, và em sẽ làm quá mức cần thiết nữa. Anh nghe nói nhà máy Layton cần phẩi tổ chức lại, đúng không?
- Vâng, đúng thế. Nhưng em đã tính trước tất cả mọi chuyện rồi. Em sẽ kiếm một người quản lí tốt.
- Ai? Em biết là rất khó kiếm.
- Ben Andrew. Em đã…
- Ben Andrew! Trời ơi, Emma, anh ta đã ở nhà máy của Thomson đến hàng thế kỷ năm rồi. Em không thể làm anh ấy rời khỏi nhà máy đó được đâu!
- Chính anh đã lầm ở chỗ này đấy, Joe. Em đã gặp Ben nhiều lần, anh ấy muốn rời Thomson. Chỉ cần em ngỏ lời là xong. Anh ấy không thích ở đó từ khi những người chủ mới đến bốn năm trước. Anh ấy hết sức muốn đi khỏi đó, nếu anh cần biết điều đó.
Joe cười. Anh phải ngả mũ kính chào em, Emma. Đúng là em biết chọn người. Ben là một người tốt. Một người tốt nhất trong công việc hàng len. Anh ấy đã tạo nên nhà máy Thomson, đó là điều chắc chắn.
Emma gật đầu: Em biết. Và đó là bí mật sự thành công của em. Tìm ra cho đúng người và sẵn lòng trao quyền đại diện cho những người có khả năng đảm nhiệm nó. Em cũng rất đại lượng. Em đã đề nghị trả Ben một món mà nhà máy của Thomson không bao giờ có khả năng cho dù anh ấy có muốn ở lại với họ chăng nữa!
Nhìn nàng với vẻ tán thưởng dè dặt, Joe thấy nụ cười sảng khoái của vợ chuyển thành một nụ cười đắc thắng. Anh không thể nhịn được cười, vừa lắc đầu anh vừa nói: Anh nghĩ thật buồn cười đến chết giờ đây em lại ở vào địa vị thuê được Ben Andrew, nghĩ tới việc anh ta là chủ của em khi em làm việc cho Thomson. Anh không thể nói anh trách em.
- Đúng thế, Emma nói dịu dàng và chân thật. Cái ý nghĩ dụ được Ben Andrew, ba người đốc công hạng nhất và hai mươi thợ dệt giỏi nhất ra khỏi nhà máy của Thomson làm cho nàng ngây ngất. Không có sự điều hành tài giỏi của Ben và những người thợ có kinh nghiệm này thì sản xuất của Thomson sẽ bị què cụt và nhà máy sẽ lâm vào tình trạng thảm hại. Một cảm giác khoan khoái chạy lan khắp người nàng. Nàng đã tiến một bbước đầu tiên chống lại nhà Fairley, những người chủ của J.P. Thomson và con.
- Chúc mừng em, Emma. Cuối cùng em đã là chủ của một nhà máy.
- Đừng chúc mừng em vội, Joe. Emma kêu lên. Em rất hay mê tín về việc ăn mừng trước khi hợp đồng được ký xong.
- ồ, rồi em sẽ ký xong nó thôi, Emma. Anh ko nghi ngờ điều ấy một chút nào, anh nói với một nụ cười là lạ. Bao giờ em cũng đạt được điều em muốn, có phải thế ko? Mọt khi em đã quyết định thì không gì ngăn được em, em nhào vô, gạt tất cả mọi người sang bên, hăm hở với mục đíchh của mình, em không cần đẻ ý ai bị dẫm lên nữa.
- Emma nhìn lên, ngạc nhiên vì những lời nặng nề và sự mai mỉa trong giọng nói của Joe. Bình thường nàng mặc kệ sự căng thẳng của anh, nhưng lúc này nàng ko nói một cách tức giận: Anh làm như em tàn bạo và cay độc. Em không thế đâu. Em chỉ là một người kinh doanh giỏi. Hơn nữa, không ai đặt một cái gì lên đĩa mời em. Em phải làm quần quật như một con chó mới được những cái em có, Joe.
- Anh không phủ nhận điều đó. Công việc là niềm say mê thôi thúc em mà, phải không? Đôi mắt anh rắn như đá và buộc tội.
Emma thở dài. Nàng bắt đấu lật giở những trang giấy, nóng lòng muốn anh đi và không còn tâm trạng nào tranh cãi. Tao sao sáng hôm nay anh lên tỉnh sớm thế? Nàng hỏi nhẹ nhàng, thay đổi chủ đề.
Anh đến cơ quan. Anh bị chậm (để quên? làm mất?) một cuốn sổ cáI của một vài tài sản. Anh nói buông trôi và đứng lên. Rồi anh sẽ gặp Blackie để ăn trưa tại nhà hàng Metropole. Anh muốn nói chuyện với anh ấy về việc lợp mái mới cho xưởng thuộc da và làm cho chắc lại tầng trên cùng. Anh ấy quá bận rộn với những hop đồng xây dung để làm những công việc trước, nhưng cả hai việc đều quá hạn lâu rồi.
- Chuyển lời thăm hỏi của em và nói với anh ấy chủ nhật này em sẽ tới thăm Laura. Nét mặt của Emma thay đổi, dịu lại khi nói tới bạn. Em lo cho Laura quá, Joe. Từ lần sẩy thai vừa rồi, chị ấy hình như ko được khoẻ chút nào. Chị ấy cần bồi bổ sức khoẻ. Em mong có thể làm được một cái gì để….
- Em chẳng thể làm được gì, Joe thốt lên. Đó là vấn đề của Blackie. Anh ấy nên biết tự kìm mình lại một chút và đừng để cho chị ấy..Anh dừng lại, đỏ cả mặt.
- Có mang. Emma nói nốt hộ anh bằng giọng khinh bỉ lạ lùng. Kìa, xem ai đáng nói nào!
- Joe vẩy tay, lảng sang chuyên khác, mặc dù mặt anh đỏ hơn. Vả lại, em làm cho Laura như thế là đủ rồi, Emma ạ. Sao cái cách em chăm lo cho người đàn bà ấy mọi người đều nghĩ rằng chị ấy là một người trong gia dình.
- Thì đúng vậy, Emma buông xõng. Chị ấy như một người chị của em, người bạn thân nhất của em. Em sẽ làm bất cứ cái gì cho Laura. Bất cứ cái gì trên đời này.
- Điều ấy anh biết, anh sải bước ra cửa. Hẹn gặp em ở nhà, Emma. Tạm biệt!
- Tạm biệt, Joe.
Sau khi anh đi rồi, Emma nhìn trân trân vào cánh cửa mà anh đã đóng sầm và lắc đầu. Anh ta có con ong trong mũ sáng nay, nàng nghĩ một cách mệt mỏi. Nàng không có thì giờ để nghĩ đến Joe và cáI trò giận dỗi trẻ con của anh ta. Nàng cầm những cuốn sổ cái lên, mang ra từ nơi nàng luôn để chúng và khoá lại an toàn. Nàng đi trở lại bàn làm việc, dáng điệu nhún nhẩy, đầu ngẩng cao. Nàng sắp trở thành chủ nhà máy đồng thời cấm một lưỡi dao vào lưng Gerald Fairley. Nàng cười lớn. Cá ý nghĩ có thể mở mang thêm các xí nghiệp kinh doanh trong khi làm phương hại cho nhà Fairley thôi thúc óc hài hước của nàng. Nàng nhìn tấm ảnh của đứa congái tám tưổi lồng trong khung bạc trên bàn. Cái đó gọi là công lý mang tính thơ, Edwina, và nàng nói với tấm ảnh, Công lý cho cả hai chúng ta, đây mới chỉ là sự bắt đầu.
Emma tì đầu vào thành ghế. Một lần nữa nàng suy ngẫm về chiến tranh, cố gắng do cái ảnh hưởng của nó đối với thương nghiệp và công nghiệp. Sự suy xét của nàng thúc đẩy nàng làm một quyết định đột ngột. Rõ ràng là sẽ thôi không bán một số mặt hàng cho những người bán buôn khác. Rõ ràng nàng phảI cần hầu hết các kho dự trữ cho công ty Harte kịp thời và nàng cũng không còn phương cách nào khác là cắt giảm hoạt động của hai người đi chào hàng còn lại tới một mức nào đó và hạn chế đối với sự cung cấp của họ. Nàng bắt đầu một cách có chọn lọc đánh dấu những hàng hoá nàng có thể sẵn lòng cho đi trong kho của mình. Ôi Gregson tốt đẹp, nàng lẩm bẩm. Đó là sự đầu tư tốt nhất mà mình có được.
Và quả như vậy. Năm 1910, một vài tháng sau ngày cưới Joe, Emma đã biết được rằng nhà Gregson, một công ty buôn bán môi giới giữa người sản xuất và những người bán buôn, đang lâm vào tình thế khó khăn và muốn bán phá giá.
Emma cần công ty đó. Nói một cách chính xác hơn, nàng tha thiết muốn có nó. Và nàng quyết định phải có nó vì nhận ra ở nó một tiềm năng khổng lồ để kiếm ra không ít tiền. Nó cũng là chiếc xe mà nàng hằng tìm kiếm, chiếc xe có thể khiến nàng đạt được 2 trong những kế hoạch lớn lao của mình – với một số đầu tư nhỏ, bành trướng nhanh chóng và mua thật nhiều từ các nhà sản xuất để có được hàng hoá tốt với giá rẻ. Nàng mua công ty Gregson với giá 2,000 pounds, với óc sáng tạo và kinh nghiệm của mình đã tiêu thụ được hàng hoá cũ và loại hai của nó với tốc độ phi thường. Kỹ thuật của nàng đơn giản nhưng hiệu nghiệm. Nàng hạ hẳn giá xuống và bán tất cả mọi thứ cho những cửa hàng địa phương luôn luôn cần những hàng giá rẻ để bán trong nửa năm sau.
Đúng như nàng đã tiên liệu một cách khôn ngoan, quả thực nàng đã kiếm được tiền từ những kho hàng đó. Với tiền này và bằng cách thuyết phục những nhà sản xuất cho chịu dài hạn, nàng đã mua vào rất nhiều. Một số những nhà sản xuất quần áo nhỏ thậm chí bắt đầu sản xuất riêng cho nàng, do đó mà hầu hết hàng hoá của nàng vừa đặc biệt giá cả lại phải chăng. Sử dụng dich vụ của bốn người đi chào hàng, những người làm trên cơ sở tiền lương theo công việc, sau đó nàng trở thành người trao hàng cho những ngưòi bán buôn ở London, Scotland và Lancasơ. Lúc này Emma ở một địa vị khiến mọi người thèm muốn, nàng có khả năng chứa hàng cho ba cửa hiệu của mình và không mất vốn liếng gì và bằng cách cung cấp cho những cửa hiệu ở những miền xa, nàng đã giữ cho các mặt hàng của mình có giá và không bị cạnh tranh gì hết.
Đầu năm 1911 khi Gregson đã được tiến hành một cách trôi trảy, Emma đã đề nghị Joe bán cho nàng ba cửa hiệu đã thuê của anh, và năm của hiệu khác anh có. Anh không muốn bán cho nàng mặc dù nàng đã anh năm ngàn pound. Vì anh chỉ nhận được khoản thu nhập nhỏ mọn năm mươi pound hang năm của mỗi cửa hiệu nên nàng đã chỉ ra để anh thấy là anh đang có một món lời ngay trước mắt của chính vợ anh.
- “Anh không thích kiếm lời chút nào,” Joe chống chế, anh cứ bám lấy cái ý không muốn bán và vẫn thích thu nhập đó hơn.
- “Nhưng em sẵn lòng trả anh số tiền tương đương với tiền thuê mỗi cửa hàng trong vòng mười năm, cộng thêm một ngàn pound nữa.” Emma kêu to, sắp sửa mất hết bình tĩnh.
Joe vẫn khăng khăng không lay chuyển, anh không muốn giảm bớt tài sản của mình. Nhưng, như một giải pháp thoả hiệp và để lập lại sự ổn định trong cuộc sống gia đình của họ và để xoa dịu nàng, anh đã gợi ý là nàng có thể thuê thêm năm cửa hàng kia và cứ để quyền làm chủ cho anh. Đây là một giải pháp không mấy hay ho cho Emma, nàng đã có ý định riêng muốn có những cửa hàng ấy và nàng thẳng thừng từ chối đề nghị này.
Tình trạng bế tắc này được Frederick Ainsley khai thông, trước sự ngạc nhiên của Emma, ông đã bênh vực nàng, và ủng hộ nàng hết mình. Tài thuyết phục tuyệt vời của ông và miệng lưỡi trơn tru của ông đã không hề lạc lối trong anh chàng Joe chai cứng. “Chính nhờ sự làm việc không hề mệt mỏi nao núng của Emma mà ba cửa hàng đó đã thành công đến như vậy. Trước khi bà ấy thuê cửa hàng của anh, Joe ạ, thì nó đã thất bại và trống rỗng đến nửa thời gian”, Ainsley khéo léo nêu lên. “Trong những hoàn cảnh như vậy thì anh có nghĩ là bà ấy đã đáng làm chủ cái mà bà ấy đã kiên trì xây dựng lên không? Đó là sự đầu tư của bà nhà cho tương lai. Mà anh thì mất cái gì nào, Joe, cậu cả? Bà ấy sẵn sàng trả một cái giá rất tốt, một giá quá đủ để đền bù cho anh nguồn thu nhập mà anh sẽ nhận được trong khi đỡ cho anh cái gánh nặng bảo quản và sửa chữa. Hãy biết điều và ít nhất thì hãy cân nhắc và bán cho bà ấy tám cửa hiệu đó, Joe. Như vậy là có lợi cho anh. Năm nghìn pound đó có thể dễ dàng đầu tư vào cái gì đó có lợi hơn.
Nó một cách riêng tư thân mật, Frederick Ainsley đã biểu lộ sự ngạc nhiên là Joe đã không đề nghị trao cho vợ những cửa hàng đó. “Như một món quà cưới chẳng hạn”, ông cố vẫn pháp luật đã lẩm bẩm như vậy bằng một giọng rất “galăng”. Ông rất ngạc nhiên vì Emma, ông đã biết bộ óc hơn người và sự mẫn cảm trong buôn bán của nàng. Khôn ngoan trong tại chính và táo tợn để liều là hai kết hợp có giá trị theo như quan niệm của ông. Chúng thêm vào cho thiên tài kinh doanh.
Emma lắc đầu quầy quậy. “Không! tôi muốn mua chúng. Như vậy tôi biết được chúng thực sự là của tôi và không ai có thể bàn bạc nghi ngờ điều đó nữa”. Nàng kêu lên.
Frederick Ainsley đánh giá cao sự khôn ngoan trong lời tuyên bố của nàng và đoán được một cách chính xác mục tiêu tối hậu của nàng. Vị cố vấn pháp luật đã dùng tới một chiến thuật khác để giúp Emma đạt được ý nguyện. Ông đã đưa ra cho Joe nhiều công cuộc đầu tư to lớn đảm bảo lợi suất cao. “Anh hãy nghĩ tới chuyện bán cho Emma đi. Đó không phải là cơ hội ngày nào cũng có được”. Ainsley bình thản nhận định. “Và anh sẽ có năm nghìn pound làm việc cho mình một cách thuận lợi nhất.”
Joe suy nghĩ và cuối cùng thì bán, cho dù có hơi miễn cưỡng, anh cảm thấy không thoải mái một cách mơ hồ về câu chuyện này.
Emma biết nàng sẽ phải cầm công ty Gregson để lấy tiền mua những cửa hiệu đó, nhưng điều này không làm nàng chùn bước. Và nàng muốn trả cho Joe tổng số tiền ngay lập tức. Sáu tháng sau nàng đã chuộc được công ty và trong vòng mười hai tháng nữa nàng đã có khả năng đưa cái phần thứ hai, và là phần có tham vọng lớn lao nhất trong kế hoạch đã được nung nấu của nàng, vào thực hiện việc có được một cửa hàng tổng hợp ở Leeds.
Để tài trợ cho cuộc mạo hiểm này, Emma đã bán đi tám cửa hàng của nàng ở Armley với một giá tổng cộng là hai mươi ngàn pound. Joe kinh hoàng, anh nói nàng phạm tội lũng đoạn kinh doanh, lạm phát giá các cửa hàng trên giá thì trường thực sự của nó để cốt đạt cho được mục đích của mình. Anh báo trước hậu quả không hay.
- “Vớ vẩn!” Emma nói một cách lạnh lùng, giận dữ vì cách buộc tội của anh. “Em không chỉ bán những ngôi nhà như anh, Joe. Em còn bán cả những kho hàng hoá tốt và rất nhiều thiện chí nữa. Còn tất cả những đổi mới em đã làm thì sao? Những cái em đã trả giá”.
Joe nhún vai, nguỵ trang sự không tán thành sau một sự dửng dưng cố ý, anh tuyên bố phủi tay, không dính dáng gì tới tất cả những câu chuyện làm ăn buôn bán này.
Với lòng dũng cảm và sự tự tin không bờ bến của một chủ thầu có hạng, Emma đã cầm ngôi nhà kho với giá cao hơn nhiều, vay tiền của ngân hàng để mua công ty Lister. Tiền cầm ngôi nhà kho đã được thanh toán trong một năm.
Một tiếng gõ mạnh ở cửa làm ngắt quãng việc nghiên cứu tỉ mỉ kho hàng hiện có của Gregson. Nàng nhìn lên.
Gladys bước vào. “Tôi mang trà nóng cho bà. Tôi nghĩ bà thích một tách trà trước khi bà xuống nhà, thưa bà Harte.
-“Gladys, chị thật chu đáo quá. Cám ơn. Emma đẩy lùi ghế lại, gác chân lên bàn, uống trà, nhẩm tính kho hàng Gregson trong đầu. Nàng có thể dễ dàng giữ cho công ty Harte được cung cấp đầy đủ trong suốt thời gian chiến tranh, nàng kết luận như vậy, và với chút may mắn của một con bạc, nàng sẽ tồn tại mà không bị mất mát quá nhiều.
Nàng bắt đầu xem lại trang cuối cùng của cuốn sổ muốn hoàn thành việc đánh giá trước khi xuống cửa hàng. Nhưng ý nghĩ về nhà máy lại ập đến. Nàng không thể đợi bắt tay vào nhà máy của Layton. Đó là một mỏ vàng có trữ lượng lớn. Rồi nàng hình dung ra bộ mặt của Gerald Fairley khi người quản đốc, ba người đốc công và những thợ dệt giỏi nhất của hắn ta bỏ đi.
Hắn ta sẽ phải ngạc nhiên, nàng nghĩ, và không phải không có chút hả hê.
Edwin Fairley đi tha thẩn bên ngoài cửa hàng tổng hợp của Harte, nhìn vào cửa sổ, cố thu hết can đảm để đi vào. Bao giờ khi đi đến ngưỡng cửa, anh cũng có tâm trạng như thế. Thần kinh của anh luôn luôn không chịu nổi chừng mười phút và đôi khi là tất cả.
Anh giả vờ xem xét những chiếc áo dạ hội sang trọng bày trong kính, nghĩ đến lần đầu tiên anh đã bước qua cửa hiệu trên đường phố Thương Nghiệp. Đó là một năm trước, anh đã đứng lặng người giữa lối, ngay lập tức bị cái tên đập vào mắt, anh ngó đăm đăm kinh ngạc vào những chữ cái bằng bạc E.HARTE trên biển gỗ màu xanh. Cho rằng đây chỉ là một sự tình cờ ngẫu nhiên, anh tiếp bước xuống phố, thế rồi anh quay lại, trí tò mò của anh bị thôi thúc.
Edwin đã đến gần người gác cửa và hỏi thăm người chủ của cửa hàng mới và sang trọng này. Người gác cửa đã lễ phép trả lời anh bà Harte là chủ của cửa hàng. Một vài câu hỏi thăm dò thêm đã đưa lại những câu trả lời làm anh giật mình, anh vội vã bước đi, toàn thân run rẩy. Không còn nghi ngờ gì trong đầu nữa, từ cái miêu tả rõ nét về bà Harte mà anh đã thu lượm được của người gác cửa, thì đây chính là cửa hàng của Emma một vài tiếng đồng hồ sau đó, anh đã nhận được sự xác nhận của Geral, gã không kìm được phải nói một lời cảnh cáo thô tục khuyên anh cài khuy quần cho chặt. Edwin ghê tởm quay đi, cố giấu cơn giận và nén một sự thôi thúc ghê gớm để khỏi đấm một quả vào mũi của anh mình.
Edwin Fairley là một chàng thanh niên cao lớn, đẹp trai, cường tráng, anh có một vẻ hoạt bát linh lợi và thừa hưởng được cách chọn quần áo sang trọng của bố, anh luôn luôn ăn mặc hết sức lịch sự đúng mốt. Nhưng chính khuôn mặt của anh làm cho nhiều phụ nữ phải nhìn đến lần thứ hai và suy ngẫm. Một con người đàng hoàng đứng đắn, tuy nhiên khoé miệng anh đam mê, và ánh mắt của anh có một vẻ khó tả toát lên sự say đắm.
Tới gian đồ trang sức, Edwin hỏi xem mấy cavat lụa, trong lúc xem chúng, mắt anh liếc nhìn qua vai, hồi hộp tìm một người phụ nữ có một trên đời này. Cuối cùng thì anh cũng chọn được một chiếc cavat lụa màu xám mà anh không cần, bởi anh bối rối không đành bước đi sau khi cô bán hàng đã niềm nở và lịch sự đến như vậy. Không muốn để cố bán gói làm quà, anh trả tiền, cầm gói và đi tiếp.
Sau khi mua món hàng đầu tiên, Edwin phát hiện ra rằng mình bắt đầu thấy thoải mái, anh bắt đầu dạo bước qua những gian hàng, lòng có đôi chút tự tin hơn, nhìn ngắm đây đó để tiêu thời gian. Anh dừng lại ở quầy nước hoa và mua hai lọ nước hoa Pháp đắt tiền cho vợ và dì anh, cốt để nấn ná ở cửa hàng nhà Harte, anh yêu cầu gói thành hai gói riêng làm tặng phẩm. Người phụ nữ trẻ gật đầu, mỉm cười và mải miết làm. ÉEdwin dựa người một cách nhàn tản vào quầy, cặp mắt màu xám nhạt của anh dõi nhìn toàn quầy nhà. Anh quay ngoắt lại và nhìn lên cầu thang chính.
Và chính lúc ấy anh trông thấy nàng.
Emma đang bước xuống cầu thang. Edwin hít hơi. Nàng đẹp hơn bao giờ hết trong chiếc áo lụa màu đen hợp thời trang buông quanh thân hình nở nang thon thả của nàng. Anh nhận thấy ngay tức khắc nàng có vẻ đàng hoàng sang trọng, và vẻ kiều diễm của nàng đang ở độ nở rộ. Nàng dừng ở chỗ ngoặt cầu thang để nói chuyện với một khách hàng, vẻ mặt nàng rạng rỡ đầy linh hoạt. Edwin nhìn nàng chăm chú như bị thôi miên bởi khuôn mặt trái xoan tuyệt vời đó, không thể nào rời khỏi nàng, trái tim anh thắt lại trong lồng ngực.
Chín năm qua anh không nhìn thấy Emma, nhưng giờ đây, đối với Edwin, đâu mới như ngày hôm qua thôi anh còn ôm nàng trong tay ở trong hang ngoài đồng hoang ấy. Anh ao ước chạy lại bên nàng, van xin nàng tha thứ, hỏi thăm đứa con của hai người. Anh không dám. Anh biết, với một niềm thất vọng làm nôn nao nàng sẽ khước từ anh chắc chắn đúng y như anh đã khước từ nàng nhiều năm trước đây vào cái buổi sáng đau thương ấy trong vườn hồng.
Emma tiếp tục bước xuống cầu thang, lướt đi trên sàn trong vẻ duyên dáng và đĩnh đạc vô cùng, rõ ràng là làm chủ được bản thân và cửa hiệu của mình. Và rồi, trong sự kinh hoàng khôn tả xiết, anh nhận thấy nàng đang đi thẳng về phía anh. Anh bị chôn chân tại chỗ, không thể nhúc nhíc hoặc thậm chí quay đầu, trống ngực đập thình thịch. Anh nhẹ hẳn người khi nàng dừng lại ở một quầy khác và mải nói chuyện với người bán hàng. Có một lúc, nàng nhìn qua vai và ngó thẳng vào anh, hay là hình như thế. Anh cứng người. Mặt nàng có một vẻ đăm chiêu, đôi mắt nàng nhìn quanh tới gian hàng bán nữ trang. Nàng lắc đầu, nghiêng người về phía trước và tiếp tục trao đổi. Nàng có nhìn thấy anh hay không? Hay đơn giản là nàng không nhận ra anh? Anh loại trừ ý nghĩ ấy ngay lập tức. Điều ấy không thể nào tưởng tượng nổi. Anh không thay đổi nhiều lằm và dù sao chăng nữa, giờ đây anh giống cha anh một cách rõ rệt, khó có ai lầm nhận dạng của anh.
Cô bán hàng nói với anh. Giật mình anh trấn tĩnh lại và chú ý nghe cô nói. Cô trao cho anh gói hàng và hoá đơn, miệng trò chuyện với anh một cách vui vẻ. Anh nghe giọng nói của cô một cách mơ hồ qua các âm thanh ầm ĩ vang vọng trong đầu anh. Anh phải dùng tất cả sự trấn tĩnh để tay anh khỏi run lên khi anh với chiếc ví. Liếc nhìn, anh thấy Emma đang tiến lại gần, anh cúi đầu xuống, tim thót lại.
Emma đến sát bên anh, anh có thể chạm được vào người nàng. Anh nghe thấy tiếng lụa nhè nhẹ của áo nàng và mùi hương của nước hoa nàng dùng, một cái gì nhẹ và tươi mát như hoa huệ nơi thung lũng. Nỗi buồn khổ của anh thật mạnh mẽ, anh đã phải đè nén sự khẩn thiết đưa người ra nắm lấy cánh tay nàng.
Thế rồi nàng đi mất. Anh nhìn theo nàng khuất theo một gian hàng khác, gật đầu và mỉm cười duyên dáng với các khách hàng.
Anh làm xong việc và lảo đảo ra khỏi cửa hiệu không nhìn lại, anh thấy như ốm và trần trụi. Anh đứng ngoài phố, cảm nhận một sự mất mát khủng khiếp một lần nữa, cái trống vắng gặm nhấm trong tim anh, chưa bao giờ lìa bỏ anh giờ đây nó giá lạnh hơn bao giờ hết.
Edwin đi về phía quảng trường thành phố, bước đi như một người mù đi qua đám đông, không hay biết tới xe cộ hay sự huyên náo, không nhìn thấy gì hết ngoài khuôn mặt của nàng, khuôn mặt mà chừng nào còn sống anh sẽ không bao giờ quên. Nó nung nấu trong đầu anh như một cái nhãn đóng trên thép. Thở những hơi dài, cuối cùng Edwin cũng trẫn tĩnh lại được, anh kiên quyết đi về phía bưu điện chính, đột nhiên hăm hở một mục đích. Anh vừa làm một quyết định và không gì có thể làm anh đảo ngược lại quyết định ấy.
Trong một thời gian ngắn, công việc của anh ở bưu điện đã hoàn thành. Anh dừng lại một lát, làm xong công việc một cách mau lẹ rồi đi. Anh thấy chiếc daimler đỗ ở gần nhà ga, anh nói người lái xe đưa anh về nhà, anh ngồi ở ghế sau, khổ sở và xẹp lép.
Trên đường xe đưa về Fairley, Edwin nghĩ về Emma. Cái ảnh hưởng của cuộc gặp mặt nàng thật quá lớn lao, cuối cùng anh mới hiểu vì sao anh lại khiếp sợ nó như vậy trong khi anh cố gắng tiến đến mục đích ấy. Nàng đã làm sống dậy những ham muốn mãnh liệt ngày xưa và cũng làm anh nhận thức được một cách đau đớn cái trống rỗng của đời anh. Nàng đã nhóm lại tội lỗi và sự hổ thẹn của anh, mà sự thực nó luôn luôn mấp mé ở đâu đó.
Ký ức về nàng giày vò anh. Tại sao anh không thấy mãn nguyện một chút nào trong tay những người phụ nữ khác? Mà trong năm năm vừa qua anh đã có biết bao nhiêu người? Tại sao, ôi giời, tại sao anh cứ miệt mài tìm kiếm những người giống như nàng dù chỉ là mơ hồ? Tìm kiếm, luôn luôn tìm kiếm một Emma khác. Như không thể cưỡng được, anh tìm tới những người có mắt xanh tóc mầu nâu đỏ, làn da trắng mềm như lụa nhưng chỉ là để thất vọng chán chường. Ngủ hay thức, Emma cũng ám ảnh anh.
Anh nghĩ tới đứa con của hai người. Anh có niềm ao ước thôi thúc được nhìn thấy nó. Nếu còn sống, chắc bây giờ nó phải tám tuổi. Tất nhiên là nó còn sống, anh tự nhủ một cách kiên quyết, anh muốn tin là một phần của Emma và của bản thân anh tồn tại trong một con người khác. Nó là gái hay trai? Nó giống anh hay giống Emma? Hay cả hai người.
Một nụ cười cay đắng thoáng hiện trên khuôn mặt xanh xao của anh, nó hốc hác trong anh sáng mờ mờ của xe ô tô. Thật trớ trêu thay, Emma đã sinh cho anh một đứa con ngoài giá thú, một đứa bé bị ngăn cấm đối với anh trong khi Jane không bao giờ có mang cho anh một đứa con trai hay con gái mà anh mong ước. Phải chi vợ anh tặng cho anh một đứa con thì cuộc hôn phối của họ còn có thể chịu đựng được hơn. Anh hình dung Emma rồi Jane. Đáng lẽ anh không bao giờ nên lấy Jane. Đáng lẽ anh nên cưỡng lại sức ép của gia đình. Người vợ không sinh con, buồn tẻ, chán ngắt của anh. Nàng là cây thập ác anh phải mang trong đời. Không, đó là một ý nghĩ không tự trọng và không công bằng. Anh không thể lên án Jane tội nghiệp. Nàng dễ thương, đáng yêu và khi mà anh không có gì để mà cho nàng thì đâu phải lỗi của nàng. Anh thuộc về Emma Harte và điều ấy không thể khác được và sẽ không bao giờ thay đổi chỉ trừ trong cái chết.
Trạng thái u buồn của Edwin nhận chìm anh suốt cả buổi chiều và sang cả buổi tối. Anh chật vật qua bữa ăn gia đình mà với anh dường như là bất tận hơn bao giờ hết, trò chuyện lịch sự nhưng căng thẳng. Anh sung sướng thấy hết sức nhẹ nhõm khi thấy Geral không có mặt vì anh ta luôn tìm cơ hội để nói riêng với cha anh từ khi anh ở Leeds về.
Adam rót rượu, họ ngồi trước lò sưởi. Cha anh trò chuyện vui vẻ những chuyện không quan trọng cho tới khi cuối cùng Edwin không còn kìm được nữa. “Ba ạ, con có chuyện muốn nói với ba”. Anh đột ngột công bố.
Adam nhìn con chăm chú và cau mặt. “Con có vẻ nghiêm trang, Edwin. Sự thực là suốt cả buổi tối con rất âu sầu. Ba hy vọng là không có gì lôi thôi chứ?”.
- “Không ba ạ, mọi chuyện đều tốt đẹp”. Edwin do dự rồi hắng giọng. “Con muốn cho ba biết là hôm nay con đã làm một quyết định. Một quyết định về gia nhập quân đội. Ngay lập tức.”
Nét mặt Adam thay đổi hẳn, ông đặt ly rượu và sofa lên bàn một cách hết sức cẩn thận. “Edwin, ba nghĩ là con hơi vội vã. Đây là những ngày đầu. Ba không muốn con lao vào chiến tranh cho đến chừng nào chúng ta có thêm tin tức, xem xem chiều hướng phát triển thế nào. Ba xin con cân nhắc lại, con trai ba.”
- “Không thể được, thưa ba. Con không muốn làm ba phiền lòng hay lo lắng, nhưng con phải xin đi. Xin ba cố hiểu cho quan điểm của con”.
-“Edwin, con không cần tình nguyện. Chỉ có những người chưa có gia đình người ta mới đề nghị ra mặt trận thôi”.
- “Vâng, con biết điều ấy mà ba. Tuy nhiên con đã quyết định rồi.” Edwin đứng lên với tờ Yorkshire buổi sáng trên bàn thư viện và nói. “Thưa ba, con chẳng cần phải đọc cái thông báo của chính phủ này cho ba. Chắc ba đã đọc nó rồi. Tờ báo này đã có mấy ngày hôm nay. Nhưng con sẽ đọc nó cho ba nghe”.
-“Edwin này … “, Adam lên tiếng.
Edwin giơ tay và nhìn vào tờ báo, anh đọc nó một cách cẩn thận và chậm chạp.
“Đức vua và đất nước của các bạn cần các bạn. Các bạn có trả lời tiếng gọi của quê hương không? Mỗi ngày đều đầy những khả năng trầm trọng nhất và ngay trong phút này đây, đế chế đang đứng bên bờ một cuộc chiến tranh lớn nhất trong lịch sử của thế giới. Trong giây phút cam go này, đất nước của các bạn kêu gọi tất cả các thanh niên của mình tập hợp quanh ngọn cờ và đăng ký tòng quân đứng trong hàng ngũ. Nếu mỗi thanh niên yêu nước đáp lại tiếng gọi của đất nước thì nước Anh và đế chế sẽ mạnh hơn và đoàn kết hơn bao giờ hết. Nếu bạn chưa lập gia đình, hoặc ở giữa tuổi mười tám và ba mươi, bạn hãy đáp lại tiếng gọi của sông núi, bạn hãy tới văn phòng tuyển quân gần nhất địa chỉ của nó bạn có thể có được ở bất cứ nhà bưu điện nào. Hãy gia nhập quân đội ngày hôm nay”.
Edwin buông tờ báo xuống bàn, ngồi xuống. Mắt anh nhìn vào bố. Adam lắc đầu một cách mệt mỏi. “Ôi, Edwin, Edwin, con đừng cố gắng kêu gọi lòng yêu nước của ba nữa. Ba biết đất nước đang ở trong hiểm hoạ, nhưng ba lo lắng cho con. Cái thông báo đó của chính phủ yêu cầu những người chưa có vợ. Ba xin con, Edwin…”,
- “Muộn quá rồi, ba ạ. Chiều qua khi ở Leeds, con đã gia nhập rồi. Con phải trình diện ngày thứ hai.”
- “Ôi trời ơi! Edwin!”
- “Con xin lỗi ba. Xin ba đừng giận và xin ba hãy ban phước cho con. Con không muốn rời đây ra đi mà không được ba đồng ý…”
- “Trời ơi! Edwin, ba không đời nào để cho điều ấy xảy ra…” Adam nhảy lên và ra ngồi cạnh con trên sôpha. Ông vòng tay qua vai Edwin và trong một giây phút ông nghĩ ông sắp sửa khóc. “Thôi nào, con trai ba, vớ vẩn như thế là đủ rồi. Tất nhiên là ba chỉ mong con hãy đợi đã. Nhưng lẽ dĩ nhiên, ba ban phước cho con”. “Con cám ơn ba”.
Adam đứng lên rót cho mình một ly rượu nữa. Ông tựa người vào bệ lò sưởi, cúi nhìn xuống Edwin, lòng đầy buồn thương. Từ bao ngày nay mình đã biết thế nào nó cũng sẽ làm như thế, ấy thế mà vẫn không thấy đỡ khổ hơn chút nào. “Ba chắc ba cũng làm như thế nếu ba ở tuổi con, và ba cũng hoàn toàn chắc rằng con của ba đang cảm thấy lúc này”, Adam lắc đầu. “Nhưng con còn quá trẻ, Edwin. Trẻ quá”.
- Tất cả những người Anh khác ra đi cũng thế, ba”.
Adam liếc nhìn Edwin: “Con đã nói cho Jane biết, chưa con?” Edwin gật đầu. “Con nói với nhà con khi chúng con mặc quần áo xuống ăn chiều. Nhà con đau khổ nhưng cô ấy hiểu. Ba biết không, trong gia đình cô ấy cũng có nhiều người đi lính. Anh cô ấy nói với chúng con là anh ấy sẽ tình nguyện tuần này”.
“Ồ!” Adam nói, dáng suy tư. “Không biết Jane có tới sống với gia đình ta ở phố Nam Audley không? Ba thích như thế, con biết đấy, ba không nghĩ rằng nhà con sẽ sống một mình ở quảng trường Eaton. Nó sẽ lẻ loi ghê gớm khi sống một mình trong ngôi nhà lớn ấy, với chỉ các gia nhân”.
- “Cám ơn ba. Ba thật tốt quá. Tuy nhiên Jane nói với con cô ấy muốn đi London tuần tới, đóng cửa nhà và trở lại Yorkshire. Nhà con muốn ở với ba cô ấy vì anh cô ấy sắp đi. Cô ấy thích nông thôn và con nghĩ đó là điều không ngoan nhất trong hoàn cảnh này. Có phải thế không ạ?”
- “Ờ, tất nhiên, Edwin. Ờ hình như mọi chuyện đã được sắp đặt đâu vào đấy”. Adam kết thúc, ông ngó đăm đăm một cách u buồn vào ngọn lửa.
Sau một lát im lặng, Edwin nói: “Ba ạ, con muốn cho ba cái này. Nó có từ nhiều năm nay”. Anh thò tay vào túi áo trong và lấy ra một chiếc khăn tay lụa. Anh đưa cho Adam, ông cầm lấy một cách lơ đãng.
Trong khi ba anh giở vật đó ra, Edwin nói tiếp: “Con đã tìm thấy bao nhiêu năm trước đây. Giờ đây con biết ba có nó. Con biết ba đã vẽ nó và con cũng biết nó giống dì Olivia ghê gớm”.
Adam ngó nhìn viên đá cuội tròn trong chiếc khăn tay lụa, đôi mắt ông dừng trên khuôn mặt dịu hiền đó. Những vết dầu vẫn được bảo quản tốt. Ông đưa một ngón tay xoa lên. “Con đánh vecni lại đấy à, Edwin?”
- “Vâng, thưa ba, quả có thế ạ. Để bảo vệ sơn”.
Adam tiếp tục nhìn viên đá cuội đó, những kỷ niệm mờ phai trở về. Ông đã vẽ lên hòn đá này năm ông mười bảy tuổi gì đó. Từng thập niên trôi qua. Ông thấy nàng đứng dưới vách đã chân Đỉnh Thế giới, mái tóc đen của nàng bay trong gió, đôi mắt nàng xanh màu xanh hoa dại và sáng long lanh, ông nghe thấy giọng nàng vang lên nhẹ nhàng qua năm tháng. “Adam, em sắp có con”.
Edwin ngước mắt nhìn cha, anh bối rối vì dáng vẻ của ông. “Dì Olivia phải không ba?” Anh hỏi nhấn mạnh làm tan vỡ những kỷ niệm của Adam.
Adam không trả lời. Ông mỉm cười nhớ lại. Sự thực ông không bao giờ quên. Ông gói viên đá vào trong khăn tay, hầu như dịu dàng trìu mến. Ông đưa trả lại cho Edwin. “Con giữ lấy, con ạ. Con đã tìm thấy nó mà. Ba muốn con giữ nó. Rồi có ngày ba sẽ kể cho con nghe câu chuyện sau viên đá đó, nhưng không phải lúc này. Bây giờ không phải lúc”. Ông nhìn qua Edwin cái nhìn tò mò. “Ba chắc con thấy nó trong cái hang cũ trên đồng hoang ở vách Ramsdan.
Edwin nhìn cha chăm chú. “Vâng”. Anh nuốt nước bọt và nói: “Còn một chuyện nữa ba ạ. Một điều mà từ nhiều năm nay con muốn kể cho ba nghe. Không may là con không bao giờ có đủ can đảm. Nó canh cánh trong lương tâm con từ lâu. Con phải bày tỏ cùng ba trước khi con đi ra mặt trận.
Adam ngồi xuống ghế, tay cầm chiếc ly. “Vậy con hãy bày tỏ đi Edwin”, ông nói nhẹ nhàng, “có lẽ con sẽ cảm thấy dễ chịu hơn sau khi nói với ba. Chắc chắn ba sẽ nói cho con tất cả những điều hiểu biết của ba”.
- “Vâng, chẳng là như thế này, Edwin bắt đầu một cách rụt rè, “Ôi giời, con cần một ly rượu nữa”, anh kêu to, nhảy lên vội vã bước qua phòng.
Nó không chỉ giống mình ở dáng vẻ mà còn cả ở mọi mặt. Adam tự nhủ và nhìn theo con trai. Ông châm một điếu thuốc, ngả người trong ghế, chờ đợi. Nó sắp sửa kể cho mình nghe về Emma Harte và đứa bé đây. Adam nghĩ, và trái tim ông đồng cảm với con.
Barbara Taylor Bradford
NGƯỜI ĐÀN BÀ ĐÍCH THỰC
Phần Ba: Cao nguyên 1914 - 1917
Chương 40
Bá tước Kitchener được chỉ định làm Bộ trưởng chiến tranh và đã chiêu mộ được đội quân một trăm người tình nguyện với lời kêu gọi đầu tiên của ông. Wilson Churchill đã cho hạm thuyền chuẩn bị sẵn sàng và trong khoảng từ 6 đến 12 tháng, bốn sư đoàn đầu tiên của lực lượng viễn chinh Anh đã vượt qua eo biển, hai sư đoàn tiếp theo thứ năm và thứ sáu tiếp theo vào đầu tháng chin. Không một chiếc tàu nào bị đắm, không một ai bị thiệt mạng, đó là một chiến thắng đối với Churchill một người được gửi gấm về quân sự của Hải quân Hoàng gia Anh. Số còn lại của Anh quốc được động viên ra mặt trận với tốc độ nhanh chóng khủng khiếp và không một công dân nào nao núng khi những ngày đen tối trôi qua.
Tiếng súng tháng tám gầm lên qua tháng chín, tháng mười, tháng mười một và tháng mười hai năm 1914 và sang đến năm 1915. Nó đem lại tàn sát, hoang tàn và nghèo khổ. Hàng trăm ngàn thanh niên, niềm hy vọng của một thế hệ mới đã ngã xuống trên những chiến trường đẫm máu của Pháp và Bỉ.
Sự thiệt hại thật là khủng khiếp đối với người Anh và đồng minh của họ, huỷ diệt hay tồn tại. Họ hiểu đây không phải là một cuộc chiến tranh để giành một pháo đài hay một đất nước mà là để giành quyền bất khả xâm phạm của bất cứ một dân tộc nào được sống và được phát triển như nó mong muốn.
Như bất cứ một người thong minh nào, Emma Harte Lowther thường suy xét tình trạng sau chiến tranh, tình huống họ sẽ gặp phải và tương lại của công việc làm ăn buôn bán, như nàng không dừng lại một cách thái quá ở những năm tháng trải dài phía trước. Ưu tiên của nàng dành cho những cái phải giải quyết ngay. Nàng không làm ngơ với những cơ hội thương mại đang tự nó đến, nàng cũng không bỏ việc tích luỹ tiền, và mỗi khi nàng thấy áy náy một chút trong lương tâm về việc kiếm lợi trong chiến tranh, thì nàng vội xua tan nỗi buồn bực của mình với cái lập luận logic sau: Phải có ai đó sản xuất ra quân phục cho những người lính chiến đấu, và nếu như nàng không làm thì người khác cũng sẽ làm. Sự thực thì họ cũng đang làm rồi. Đại đa số các nhà sản xuất vải của miền nam Riding đang làm vải kaki cho lực lượng hải quân và không quân của Anh quốc, các nước đồng minh và hang triệu mét vải đang được chế tạo từ những máy dệt ở Yorkshire để may quần áo cho lực lượng quân đội.
Gần đây, Emma chợt nhận ra rằng những ngày gần đây nàng hoàn toàn mải mê công việc và xao lãng gia đình. Nhưng những cảm giác tội lỗi được gạt sang một bên vì sự thúc ép của công việc và sự nhận thức được rằng nàng không còn sự lựa chọn nào khác mà phải đi theo một hướng đó. Nàng lao đi từ công ty Harte, nhà kho Gregson, nhà máy Layton và nhà máy sản xuất vải với một tốc độ đến chóng mặt, tự tay làm hết mọi việc một cách hữu hiệu vừa êm đẹp mà lại kiên quyết. Thế nhưng, ngày lại không bao giờ đủ dài cho nàng. Nàng thấy nhẹ nhõm vì công ty Harte vững vàng. Mặc dù việc kinh doanh hơi lùi lại ở một chừng mực nào đó, nhưng nàng không thấy có một sự thoái trào nào nghiêm trọng. Kho hang chứa ở kho Gregson còn đang kéo dài vì nàng vì nàng đã để dành nó một cách dè sẻn và nàng cũng tìm ra nhiều cung cấp mới. Nhà máy Layton dưới sự điều hành đầy tài năng của Ben Andrew được tiến hành trôi chảy và nhà máy đã có được những hợp đồng khổng lồ với Nhà nước một cách dễ dàng, nhanh chóng hơn nhiều địch thủ của nàng. David và nàng tạm thời cắt đường dây sản xuất cửa hang quần áo phụ nữ khi chiến tranh bắt đầu và toàn bộ sản xuất của nhà máy chuyển sang sản xuất quân phục. Tóm lại, mọi thứ đều ổn định, các cơ sở kinh doanh của nàng vững vàng và đặc biệt xưởng sản xuất và nhà máy tiến hành một cách hết sức hiệu quả và kiếm ra tiền nở rộ như hoa.
Nhưng giờ đây, trong buổi chiều tháng chạp lạnh lẽo năm 1915, đầu óc Emma không bận rộn vì công việc. Ngồi bên cạnh người lái xe trong chiếc xe riêng của công ty Harte trên đường đi gặp David, trí óc nàng bận rộn với những ngày nghỉ Giáng sinh. Nàng quyết định biến nó thành một ngày hội thực sự mặc dầu sự khan hiếm và tâm trạng ủ ê bao trùm lên tất cả mọi người.
Frank sẽ đến ở một vài tuần và nàng mong chờ điều đó với nỗi hồi hộp của một đứa trẻ, thích thú sẽ lại được gặp em trai. Tháng mười một cậu đã bị thương, nhưng may vết thương không nặng. Cậu bị trúng đạn ở vai phải và được đưa về Anh để điều dưỡng. Nếu như Wilston được nghỉ phép về nữa thì gia đình thật là đầy đủ, nhưng nàng cũng biết một cách thực tế điều đó khó lòng có thể thực hiện. Hải quân đang chiến đấu dữ dội và tin tức trên tất cả các mặt trận đều đen tối. Tuy nhiên, vẫn có cây Noel, một bữa cơm gà tây với chiếc bánh pudding mận và tất những thứ truyền thống, rượu vang hâm nóng và quà cho mọi người. Điều quan trọng hơn cả, Frank cần tình thương yêu, sự nghỉ ngơi và tất cả những tiện nghi của gia đình mà nàng có thể có được.
Xe đến nhà máy quần áo ở đường Ióoc trong vòng ba phút. Emma bảo người lái xe đợi, nàng vội vã vào trong. Khi bước vào căn phòng David, nàng ngạc nhiên Abraham Kallinski đang ngồi thoải mái với David.
Người bạn cũ của nàng đứng lên ôm hôn nàng nồng nhiệt, đôi mắt đen và sáng của ông lấp Lánh sau cặp kính. Ông ngắm nàng một cách thán phục và nói: “Ồ, Emma, trông cô thật tuyệt vời. Gặp lại cô thật mừng quá. Bao lâu rồi.”
Emma mỉm cười. “Bác có khoẻ không? Bác gái thế nào?”
- “Bà ấy khoẻ. Tôi khoẻ. Nhà tôi luôn luôn nhắc đến cô. Bà ấy nhớ cô. Emma ạ. Tôi nhớ cô.”
- “Cháu xin lỗI dạo này xao lãng cả hai bác”. Emma nói. Một nụ cườI ân hận thoáng trên môi nàng. “Nhưng công ăn việc làm đã choán mất tất cả thì giờ của cháu những ngày gần đây.”
- “A đúng rồI, cô Emma bé nhỏ của tôi đã trở thành một nữ tycoon(!) “, Abraham kêu to vừa nhìn nàng với lòng trìu mến và tự hào. Nàng tiếp tục làm ông kinh ngạc với những thàng công của mình, những thàng công mà ông cho là xuất sắc nhất nàng lại là một phụ nữ.
- David đang đứng sững sau bàn giấy, rõ ràng là vật lộn với một núi công việc, giấy tờ. Anh cười: “Ba đừng nói nghe có vẻ ngạc nhiên thế ba. Con vẫn luôn tiên đoán Emma sẽ tiến xa mà”. Anh bứơc qua bàn nắm lấy hai vai nàng, hôn lên má nàng. Hai cánh tay nàng tự động vòng qua người anh. Nàng cảm thấy sức mạnh của bàn tay nắm chặt nàng khi mà sức ép của những ngón tay nàng dần tăng. Họ lùi lại, vẫn không thôi giữ lấy nhau, để cùng nhìn nhau thật lâu.
- Abraham Kallinski nhìn hai người, cái nhìn của ông bố, ông bỗng thấy buồn lòng: con trai tôi. Con trai tôi. Con trai tôi. Nó ôm hôn cô ấy quá lâu. À mà ta biết cái nhìn ấy trong con mắt một ngườI đàn ông! Mình cầu Chúa để vợ nó Rebecca và Joe không bao giờ để ý thấy. Hắn giọng Abraham nói: “Nào, Emma. Cháu đến đây ngồi bên bác”. Ông chỉ chiếc ghế trước bàn làm việc của David.
Nàng ngồi xuống và nói: “Không có chuyện gì chứ phải không? TạI sao anh lại cần gặp em khẩn cấp như vậy,David?”
David ngả người trong chiếc ghế, đôi mắt xanh lanh lợi của anh chăm chú nhìn vào mắt nàng. “Tôi có một đề nghị và tôi hy vọng là em sẽ bằng lòng. Và tiến hành với nó”.
- Emma khe khẽ cười. “Anh biết là em tin ở sự suy xét của anh một cách tuyệt đối mà. Cái gì vậy?”
- “Gần đây ba mệt mỏi căng thẳng quá đi. Ba muốn thư thái chút ít. Không làm việc quá căng nữa”. David châm một điếu thuốc. “Chúng tôi đã thảo luận vấn đề của ba và tôi nghĩ tôi có một giải pháp có lợi cho cả hai bên. Tôi thấy chúng ta có thể nhập công ty của ba với công ty của chúng ta, việc chuyển nhà máy và quản lý của ba sang tương đối không có vấn đề gì. Điều đó sẽ giúp ba để khỏi phải hoàn toàn điều hành một mình. Tất nhiên ba vẫn ở đó, nhưng ba sẽ không phải làm việc nhiều tiếng đồng hồ dài nữa”. Davidnhìn nàng chờ đợi:
- “Thế em nói thế nào?”
Ngay lập tức nhận ra cái tiềm năng khổng lồ trong đề nghị này và thấy trứơc phương cách bành trướng đơn giản nhưng nhanh chóng. Emma không cần phải nghĩ đến lần thứ hai. “Đó là một gợi ý tuyệt vờI”. Nàng quay lại Abraham: “Bác Kallinski, nều cháu làm như vậy bác có vui lòng không?”
“Có, Emma ạ. Cả bà Janessa cũng thế. Bà ấy lo lắng về bác. Lo lắng đến độ bác cũng lo lắng về sự lo lắng của bà ấy”, ông đáp lại bằng một tiếng cười giễu cợt.
- “Vậy thì chúng ta hãy kết hợp hai công ty,David”, Emma nói. “Em hoàn toàn tán thành. Và bây giờ đúng là thời gian thích hợp để làm điều đó”.
- “Có rất nhiều chi tiết cần phảI làm. Emma. Nhưng trước khi chúng ta đi vào những chi tiết đó, tôi muốn để em biết tình cảm của riêng tôi về ý kiến trên”, David nói. “Nếu em đồng ý, tôi nghĩ chúng ta nên mua ngay công ty của ba bằng một giá thích đáng có thể để cho ba một khoản lợi khá. Dù sao thì ba tôi đã dành nhiều năm để xây dựng nên nó. Chúng ta có thể để ông làm giám đốc công ty mẹ và trả ông tiền lương giám đốc. Tôi cũng nghĩ ông nên được chia lợi nhuận như chúng ta. Thêm vào đó, ông nên nhận một khoản tiền lương điều hành nhà máy. Em thấy những điều khoản này như thế nào Emma?”
- “Em đồng ý với anh, David. Ba nên có một cái gì đó được ưu đãi cho bao nhiêu năm trời làm việc. Anh và ba nên nghĩ tới và đặt một cái giá khá. Bất cứ anh quyết định thế nào, em đều có thể chấp nhận hết, em chắc chắn như vậy”. Nàng lắc đầu cười và nhìn David một cách trìu mến. “Em không tưởng tượng được sao anh lại nghĩ rằng em có thể từ chối. Cơ bản việc này là việc của anh, David. Anh điều hành nó và anh là người có cổ phần chính”.
- “Em là người quan trọng và là người cùng chung với tôi”. Anh mỉm cười, trong lòng nhẹ nhõm. “Tốt, ba và anh sẽ làm dự thảo. Sau đó em và anh sẽ thông qua những chi tiết cuốI cùng. Rồi sẽ nói chuyện với Frederisk Aimsley và nhờ ông ấy lập thoả ước trong vòng một tuần chi đó”.
- “Tuyệt”, Emma nói. Nàng xoay người trong ghế và hướng sự chú ý sang Abraham, hỏI ông về những hợp đồng của ông với nhà nước, việc cung cấp vải, nhân lực của ông và tổng sản lựơng của ông. Trong khi họ bứơc vào một cuộc nói chuyện kéo dài, David ngồi ngả người, nhìn Emma chăm chú.
Mặt trời mùa đông đang ùa vào qua của sổ, tắm nàng trong ánh sáng rực rỡ của nó. Nàng quả thực có sắc đẹp đặc biệt của người Anh trong tuyệt vời vào lúc ban ngày, David nghĩ. Cái vẻ đẹp không thể bắt chước đựơc đó mà Gainsborough và Romney (!)đã làm cho bất tử. Và kể cũng lạ thay, Emma lại không biết rằng nàng là một hoa khôi. Rõ ràng nàng không có thói hư danh và đó cũng là một phần của cái duyên dáng của nàng. Nàng quá tươi trẻ rực rỡ, đầy sức sống mãnh liệt gần như là đam mê. Chẳng phải là điều ngạc nhiên, nàng có sức lôi cuốn không thể cưỡng đối với đàn ông mọi lứa tuổi, Davidnghĩ. Lạ thay, nàng cũng không biết tới điều đó nữa.
- “Anh có đồng ý thế không,david?”
Giật mình, David nhỏm dậy. “Xin lỗi, tôi đang mải đãng trí.” “Em nói, em nghĩ chúng ta nên kiểm soát ngay. Bằng cách củng cố lại lực lựơng lao động, chúng ta có thể tăng sản xuất và cho cả hai nơi hoạt động một cách có hiệu quả hơn. Ba anh cũng đồng ý như thế”. “Một ý nghĩ tuỵêt vời! Tôi sẽ cho Victor chuyển tới đó ngày mai”. Anh nhìn cha: “Như vậy đựơc không ba?”
- “Ba rất sung sướng em nó trở lại”, Abraham nói. “Như vậy là ba yên lòng, mẹ con cũng yên lòng”.
Emma đứng lên. Hai ngườI đàn ông cũng đứng lên. “Nếu các vị tha lỗi, tôi xin phép đựơc đi”, nàng nói. “Tôi đã hứa với Edwina hôm nay tôi sẽ về nhà sớm để giúp cháu trang trí cây Noel. Nó mong lắm. Tôi không muốn làm cháu nó thất vọng”.
- “Đúng, cháu không đựơc làm như vậy”, Abraham nói. “Thất hứa với đứa trẻ là điều sai lầm”. Ông nhìn xoáy vào David. “Điều mà con thường xuyên làm với các cháu nội của ba”, ông nói và thở dài nặng nề.
- “Nhưng chỉ vì công việc mà ba”, David chống chế.
- “À, phải rồi. Công việc. Lúc nào cũng công việc. Ờ Emma, thôi cháu đi nhé. Cho bác gởi lời thăm Joe”.
- “Và cho cháu gởi lời thăm bà Kallinsli bác nói hộ là cháu sẽ đến thăm”.
- “Tôi sẽ tiễn em ra”, David nói, giúp Emma mặc áo khoác, anh nắm lấy cánh tay nàng.
Cây Noel đúng tầm cỡ đây, Emma nghĩ vậy. Nàng cố ý chọn cái cây đặc biệt này mặc dù có thể kiếm được loại to hơn cốt để tránh bày biện phô trương, điều nàng cảm thấy không thích hợp trong thời chiến. Người trong nhà đã cấm nó vào chậu tối hôm trước, bây giờ nó ở trên chiếc bàn tròn ở góc phòng khách gần lò sưởi. Emma lùi lại, nghiêng đầu sang một bên, ngắm nhìn nó với cặp mắt phê phán. Đó là một cây thông non màu xanh thẫm, cành lá xum xuê.
- “Chào Emma. Về sớm thế em”.
Emma quay ngoắt lạI khi Joe vào phòng khách, anh sải bước đến bên lò sưởi, hai tay xoa vào nhau.
- Chào Joe. Vâng, em đã hứa với Edwina giúp nó trang trí cây Noel”.
- “Ồ nhỉ. Anh quên khuấy đi mất”.
Tiếp tục mở những gói trang trí. Emma vừa kể cho anh nghe về cuộc gặp gỡ của nàng với gia đình nhà Kallinski. “Em nghĩ kết hợp lực lượng là một ý kiến rất hay, có phải không anh?”, nàng kể xong, liếc nhìn ah qua vai.
Joe cau mặt. “Anh cũng không chắc. Như vậy có nghĩa là thêm nhiều công việc và sự lo lắng cho em?”
- “Tại sao lại cho em? David chịu phần vất vả đối với công việc đó”. “Anh thấy là cả hai người ngay bây giờ thôi cũng đã có đủ trên đĩa của mình rồi đấy. Nhất là em”.
Giọng Joe có vẻ cay nghiệt, anh luôn luôn chống lại sự đổi mới.
- “Đừng tiêu cực như thế, Joe. Đôi khi em không hiểu anh”, Emma nói lặng lẽ. “Vả lại còn có cả ông Kallimski nữa. Gần đây ông không được khoẻ. Xáp nhập lại là giải pháp tốt nhất cho ông”.
- Ông già đó có thể bán sản nghiệp của mình cho một người nào khác”. Joe gợI ý.
- “Đúng, ông có thể làm như thế. Nhưng tại sao lại làm như thế? Tự nhiên là ông đến với David”, Emma giải thích. “Vả lại, Abraham Kallinski bao giờ cũng tốt với em. Em sung sướng đựơc làm cho cuộc đời ông bớt đi một chút gánh nặng”.
- “Anh chỉ nghĩ tới em thôi, Emma. Tuy nhiên, nếu em tin đó là một ý kiến tuyệt vời rồi, thì anh còn phê bình ai? Em và David dù sao thì cũng luôn luôn làm những cái mà hai người muốn đối với nhà máy”.
- “Chúng tôi luôn luôn nói với anh những kế hoạch của chúng tôi”, nàng đáp lại mau lẹ, nhận ra vẻ không hài lòng trong giọng nói của anh.
- “Ừ, anh biết. Chỉ sau sự việc thôi”.
- “Ồ, Joe, xin anh đừng chua chát thế, sắp đến Noel rồi. Chúng ta đừng cãi vã nữa!”
- “Cãi vã! Ai đang cãi vã!” Joe phản ứng. “Thật vậy, Emma , anh không thể mở miệng ra mà không bị em kết tội là …” – Anh ngừng ngay lại và giọng anh thay đổI trở nên dịu dàng hơn khi anh nói. “Kìa, cưng. Vào đi. Đừng đứng ở đấy”.
Emma quay lại. Edwina đang chần chừ ở lối đi. Nó nhảy chân sáo qua phòng. “Ba! Ba!”. Cô bé gọi, chạy lao vào Joe. Anh nhắc bổng nó lên quay vòng tròn. Chiếc áo màu nhung xanh của nó phồng lên và mái tóc dài chấm lưng của nó màu vàng nhạt đến nỗi gần như bạc bay ở phía sau, lóng lánh trong ánh đèn. Nó cười vang sung sướng, sau khi quay một vòng nữa, Joe đặt nó xuống sàn, giữ hai cánh tay cho nó đứng vững.
- “Con không chóng mặt chứ, thiên thần của ba?”
- “Không, ba ạ”. Nó ngước lên cười với anh, khuôn mặt nhỏ với đôi má lún đồng tiền xinh xắn.
- “Đây con này”, Emma nói. “Mẹ đang đợi con. Mẹ đã mở những gói đồ trang trí ra và chúng ta có thể bắt đầu”.
- “Chào mẹ”. Edwina nói mà không nhìn Emma. Nó nắm lấy bàn tay Joe. “Ba, ba giúp con trang trí cây nhá. Nhá ba nhá. Ờ, ba nói ừ đi ba”. Nó đưa đôi mắt sáng màu bạc nhìn anh một cách khẩn.
Joe cườI vỗ lên đầu con bé. “Tất nhiên ba sẽ giúp con, cưng” Edwina lôi anh tới bên cây. Nó trèo lên chiếc ghế đầu Emma đã để bên cạnh, vẫn nắm lấy cánh tay Joe.
Emma tay cầm quả chuông bạc. “Mẹ để cái này ở đâu nào, con yêu?” nàng hỏi, mỉm cười với đứa con gái chín tuổi của mình.
Edwina không trả lời, nó ngứơc nhìn Joe và nở một nụ cười tươi rói: “Ba nghĩ nên để nó ở đâu bả?”
- “Ố, ba cũng không giỏi những chuyện này. Để đây chăng”. Anh chỉ một cành.
- “Mẹ làm ơn cho con quả chuông:.
Emma lặng lẽ đưa cho nó. Edwina lập tức đưa cái chuông cho Joe. “Ba để chuông lên cây, ba. Ba muốn để chỗ nào thì để. Con nghĩ ba phải là ngườI đầu tiên.”
Cái thủ tục nho nhỏ này kéo dài vài ba phút. Mỗi khi Emma nhặt một thứ lên và đề nghị một chỗ cho nó thì lập tức Edwina cầm lấy; phớt lờ sự gợi ý của mẹ và luôn hỏi ý Joe. Choáng váng, Emma loạng choạng bước xa khỏi cây, cảm nhận được một cách sâu sắc sự ngạo ngược này. Nàng là một kẻ thâm nhập, một người thừa: Nàng quay về lò sưởi, nhìn hai ngườI cười sung sướng với nhau. Nàng cảm thấy một nỗi buồn chán nhói lên nhưng vội xua đi ngay. Nàng không nên ghen tị với mối quan hệ của hai người. Nàng nên lấy làm sung sướng khi hai ngườI đó yêu nhau như vậy.
Joe và Edwina mải mê với nhau và với cây Noel họ không để ý thấy Emma lặng lẽ ra khỏi phòng. Nàng khe khẽ khép của lại và tựa vào cánh cửa. Nàng cố nuốt nước bọt, biết có nước mắt ở đằng sau mắt và thấy đau nơi cổ họng. Một lát sau nàng tự chủ đựơc, bước đi của nàng vững vàng khi nàng bước qua phòng lớn lát đá hoa. Nàng lấy áo khoát trong tủ, cầm hai chiếc giỏ trên sàn và vộ vã lướt khỏi nhà.
Đó là một đêm lạnh, tối không trăng, tuyết bay phấp phới. May những ngọn đèn trên những cổng sắt của mỗi nhà vẫn còn đang cháy, ánh sáng lờ mờ của chúng soi đường cho nàng rẽ lối đi phủ đá trước những ngôi nhà lớn ở Tower. Tuyết bắt đầu động lại. Chắc sẽ là một đêm Giáng sinh trắng, đúng như Edwina vẫn cứ tha thiết ước ao. Emma cắn chặt nôi. Giáng sinh đột nhiên mất sức hấp dẫn đối với nàng. Nàng nhớ lại thói xấc xược của Edwina, lòng đầy đau buồn, trí óc nàng vẫn còn mờ mịt vì sự xúc phạm nàng vẫn còn đang cảm thấy.
Một vài giây sau, Emma đẩy cánh cửa của toà nhà cuối cùng trong dãy nơi gia đình O’neillsống. Blackie đã mua nó năm 1913, hai năm sau ngày cướI Laura. Nếu như không phải là toà dinh thự kiểu Georgian mà anh đã nói sẽ xây những năm trước đây thì nó cũng khá đồ sộ và anh đã cải tiến nó rất nhiều.
Cô hầu người Ireland nhỏ bé chào đón nàng một cách vui vẻ. Cô ta đỡ lấy áo khoác và khăn quàng của nàng cùng với những chiếc giỏ, lễ phép hỏi thăm sức khoẻ của nàng. Emma đang định hỏi cô bà O’neill đâu thì Blackie đã xuất hiện trên đầu cầu thang có trải thảm đỏ.
Ở tuổI hai mươi chín, Blackie O’neill làmột người chững chạc đàng hoàng và năm tháng đã đối xử với anh một cách đại độ. Anh và ông cậu Pat của anh làm ăn khá và công ty xây dựng đã lớn lên phát triển thành một trong những công ty lớn nhất ở Leeds. Thành công đến với anh chắc chắn sẽ không phải là một nhà triệu phú như có lần anh đã khoa trương, tuy vậy, anh là một người giàu có và chắc chắn anh sẽ làm mình trở thành một người cực kỳ như anh luôn luôn mong mỏi. Anh ăn mặc lịch sự và đắt tiền. Sau khi lấy Laura, nàng đã khéo léo thuyết phục anh đừng thắt những chiếc cà vạt rợ, những chíêc áo chẽn thêu đầy màu sắc và những đồ trang sức loè loẹt. Hầu hết những nét thô kệch của anh đã được gọt rửa và tới một chừng mực nào đó, anh là một con người hợp thời trang. Cách phát âm Ireland nặng của anh đã biến mất, có chăng chỉ còn là một chút rung nhè nhẹ hầu như không nhận thấy đựơc. Lora có một ảnh hưởng tế nhị và nhẹ nhàng đối với anh, nhưng không làm phương hại đến bản tính tự nhiên của anh. Trong anh vẫn còn rất nhiều con người nghệ sĩ, một đặc điểm mà anh phát hiện là một điều có ích trong công việc.
Anh vẫy tay chào Emma và chạy nhẹ nhàng xuống cầu thang, vẻ mặt vui: “Emma cưng của tôi. Em thật là đẹp đến nhức mắt” anh kêu to, bế bổng cô lên trong tay. Anh quay cô vòng tròn rồi đặt cô một cách chắc chắn trước mặt và theo cách của anh, nâng cằm cô lên và nhìn xuống mặt cô. “Cái bộ mặt gì mà lạ như thế này? Trông em như vừa mất một pound và tìm thấy đồng sáu penny vậy”.
- Emma bật cười không nhịn được, như nàng luôn luôn bị lây cái tính vui vẻ của Blackie. “Em không sao, Blackie. Chỉ hơi khó ở một chút, có thế thôi”
- “Em mà hơi khó ở à? Anh khó mà tin được điều đó”. Anh nhìn nàng thật kỹ. “Em có chắc không có gì làm em buồn phiền không?” Anh vừa hỏi đôi mắt anh vừa quan sát nàng một cách hiểu biết.
- “Không, thật mà. Laura đâu?”
- “Trong phòng khách, đang đợi em đó”. Anh dẫn nàng bước nhanh qua phòng lớn: “Chị ấy nghĩ thế nào em cũng ghé tới”.
Lora đang ngồI bên lò sưởi đan khăn quàng, nàng ném nó xuống, chạy bay lại vớI Emma, ôm nàng âu yếm. “Emma cưng. Chị vẫn hy vọng là em có thời gian đến thăm anh chị tối nay. Em có nhận ra rằng đã gần cả một tuần rồi không?”
Vẻ u buồn trên nét mặt Emma biến đi khi nhìn thấy người bạn thân thiết nhất của nàng. “Em biết. Quả thực em bận lút đầu lút cổ”. Nàng mỉm cười: “Em mang cho chị những thứ chị cần ở cửa hiệu đây. Cho bữa tiệc Noel lớp học chủ nhật. Cô giúp việc đã cầm rồi. Nhân tiện em cũng để thêm một ít thức ăn nữa mà em chắc chị có thể dùng cho trẻ em nghèo”. “Ôi, Emma, em thật tốt quá. Cám ơn em.” Lora khoác tay Emma, hai người bước trở lại lò sưởi, vừa đi vừa trò chuyện.
- “Tôi có thể thấy khi người ta không cần đến một người”, Blackie nói trêu. “Thôi tôi xin để cho hai bà đàn bà nói chuyện với nhau. Nhưng mà nói gòn gọn thôi. Tôi sẽ quay lại ngay để uống mừng ngày Noel với các vị”.
Ngồi trong phòng khách trang trí trang nhã, nghe giọng nói lảnh lót nhè nhẹ của Lora, Emma biết những tình cảm ấm áp và thoải mái đang bao trùm lấy nàng không phải là do sự hiện diện làm cho lòng được an ủi của Laura. NgườI đàn bà dịu hiền này, quá thân thương đối với nàng luôn luôn an ủi được nàng. Laura đang nói tớ buổi liên hoan nàng đã thu xếp cho các trẻ em theo học những lớp ngày chủ nhật của nàng, Emma nghe và nhìn bạn của mình ngày một thêm thích thú. Đêm nay Laura trông hết sức đễ thương. Từ lần xảy ra hai năm về trước, nàng đã hoàn toàn phục hồi sức khoẻ, đang rực rỡ và đầy sức sống. Trong chiếc áo màu xanh thẫm; với mái tóc màu vàng mật búi lại để lộ một khuôn mặt bình tĩnh và dịu hiền, Emma nghĩ trông nàng giống Đức bà hơn bao giờ hết. Laura hạnh phúc với Blackie, điều duy nhất làm hỏng mất niềm vui của nàng là nỗi thất vọng nàng đã không cho anh một đứa con.
- “Buổi liên hoan hình như đã lấy mất của mình hầu hết thời gian mấy tuần vừa qua”, Laura giải thích “Blackie đã tìm cho mình một cây rất đẹp cho phòng lớn của nhà thờ. Ngày mai mình sẽ trang trí nó”.
Emma cứng người lại, nàng biết mặt nàng đang rúm ró.
Laura nhìn lên. Nàng dừng lại, nhìn Emma chằm chằm. “Trời ơi, trông em dễ sợ có chuyện gì vậy?”
Emma lắc đầu. “Không có gì cả. Thật mà”, nàng cố gượng và liếc nhìn nhanh xuống bàn tay mình.
- “Có, có chuyện đấy. Mình biết rõ Emma mà. Nào em, nếu em buồn phiền chuyện gì cứ thố lộ cho chị biết. Nó có thể cũng đỡ đi “.
Emma hắng giọng: “Vâng, tối nay Edwina nó hư với em quá. Điều đó quả thực làm em buồn phiền”. Hít một hơi dài, Emma kể lạI sự việc cây Noel.
Laura cau mày rồi nói: “Con gái bao giờ cũng bám bố, Emma ạ. Em biết điều đó mà. Điều ấy chẳn có gì lạ. Lớn lên rồi nó sẽ hết. Chị chắc đấy chỉ là một giai đoạn sẽ trải qua”.
- “Nó hình như luôn luôn thích chọc hơn em”, Emma đáp lại nhẹ nhàng. “Em không để ý chuyện đó. Em sung sướng thấy hai người thương mến nhau như vậy. Thỉnh thoảng những sự đối sử lạnh lùng như vậy làm em bận lòng. Em đã cố gắng rất nhiều để chiếm được tình cảm của nó”. “Mình biết lắm”. Lora thở dài, nàng đưa người ra nắm lấy cánh tay Emma. “Trẻ con có thể không tử tế như vậy. Chúng không có ý muốn độc ác đâu. Chúng thiếu suy nghĩ, thế thôi”.
- “Vâng, có lẽ chị nói đúng”.
- “Chắc nó là một đứa bé rất khá, có phảI không?”.
- “Vâng, hiểu theo một nghĩa nào đó thì là quá khá. Em vẫn thường nghĩ Edwina đẻ ra đã là ngườI lớn rồI”. Emma suy nghĩ đoạn nói tiếp. “Đôi khi em có cảm giác Edwina sống trong nội tâm, Laura ạ. Nó có thể rất xa xăm. Và nó luôn luôn có một cái nhìn xa xôi trong mắt”.
Lora cười, nàng cố xua nỗi lo lắng của Emma. “Ôi cưng, điều ấy là tự nhiên thôi. Con gái bao giờ chẳng mơ mộng”.
- “Em cũng cho là như thế”, Emma nói, cũng muốn tin như thế.
- “Còn cái xa xăm, mình nghĩ là cháu nó bản tính dè dặt. Ồ hôm nọ, Blackie nói…”
- “Anh nói gì?”, Blackie oang oang từ phía lối đi bước vào phòng. Anh sừng sững trước Laura và Emma, miệng hút xì gà.
- Em định nói với Emma là anh nghĩ Edwina rất thanh lịch với những cử chỉ duyên dáng như một thiếu nữ”, Lora nói với chồng.
- “Đúng thế. Và rất đẹp!”. Anh quay đi và tiến về phía tủ búp phê: “Thưa các quí bà dùng gì ạ?”, anh hỏi một cách vui vẻ, rót cho mình một ly Whiskey.
- “Cậu uống gì, Emma? Hãy uống tí chút lấy một lần”, Laura thúc nhẹ nhàng.
- “Em cũng nghĩ thế!”, Emma cười: “Em nghĩ tối nay em cần phải uống. Cho em xin một cherry. Blackie. Cám ơn”.
- “Laura cưng, em cũng uống thế chứ?”.
- “Vâng. Nhưng ly nhỏ thôi, anh Blackie”.
- “Xin chúc một Giáng sinh vui vẻ cho những quí bà tôi yêu quí nhất”, Blackie nâng cốc và nói vớI điệu bộ lịch thiệp quá cường điệu cố hữu của anh.
- “Chúc một Giáng sinh vui vẻ”, hai ngườI phụ nữ đồng thanh, Emma nói thêm chanh chua nhưng giọng trêu đùa: “Tôi hy vọng tôi là những quí bà yêu qúi nhất của của anh. Chúng tôi sẽ rất tức giận nếu còn những bà nào khác”.
Blackie cười: “Laura nói với anh là vợ chồng anh sẽ đến ăn Giáng sinh ở đằng em. Anh mong ngày đó. Vậy chúng ta phải tận dụng cái buổi tối này để vui vẻ đình đám một chút”.
Cả hai đều chằm chằm nhìn anh: “Anh định nói sao, Blackie?, Laura hỏi.
- “Ồ, có gì đâu em”, anh trả lời trơn tuột, tiếc là mình vừa đưa ra nhận định trên.
- “Blackie, thôi đừng có quanh co nữa. Trả lời em đi nào. Anh có biết gì về cuộc chiến tranh mà chúng em không biết không? Laura hỏi. “Không biết gì hết, không gì hết”, anh nói, lại quay về giọng địa phương nặng nề của mình. “Thôi nào, cưng, đêm nay chúng ta không nói tới chiến tranh”. Anh lại ngồi bên Laura trên sofa và cầm lấy tay vợ. Liếc nhìn Emma một cách cẩn thận, anh nói. “Anh nghe đâu nhà máy của Thompson làm ăn dở lắm. Sản xuất vải vóc tồi và không được Nhà nước đặt hàng nữa”.
- “Em cũng nghĩ thế”, Emma nói không lấy gì làm nhiệt tình. Mặt nàng không thể đoán biết được và nàng khéo léo thay đổi đề tài.
Năm mới đưa đến thêm nhiều tin thất thiệt cho nước Anh và đồng minh. Binh lính chết hàng ngàn trong các chiến hào và tổng số thiệt hại lên đến con số khủng khiếp khiến cả thế giới kinh hoàng. Ngày 4 tháng giêng năm 1916, thủ tướng Henry Asquith đứng trên bục của Hạ viện giới thiệu luật nghĩa vụ quân sự cưỡng bức tất cả những thanh niên chưa vợ đều coi như phải ghi tên nhập quân đội. Luật này gặp phải sức phản đối mạnh mẽ, đặc biệt là những người bảo thủ và những ngườI bảo vệ hệ thống nghĩa vụ quân sự tình nguyện. Nhưng ngày thứ hai, 24 tháng giêng, đạo luật được thông qua lần thứ ba với một đa số phiếu là 347 phiếu, phái phản đối tụt xuống chỉ còn 36. Và vì vậy luật nghĩa vụ bắt buộc có hiệu lực ngày 2 tháng ba.
Mặc dầu biện pháp này chỉ áp dụng cho những ngườI không có gia đình nhưng Emma bắt đầu cảm thấy nỗi hoảng hốt cứ tăng lên từng ngày. Nàng đọc báo cẩn thận, phân tích sự phát triển trong chiến tranh, nhận thức được rằng phải cần đến nhiều binh lính trên cơ sở tiếp tục từng ngày vì những tổn thất, những người có gia đình được gọi tới cũng chỉ là vấn đề hàng tuần nữa thôi. Thế và nàng đúng.
Đọc tờ Tin tức một buổI sáng đầu tháng năm, nàng thấy nỗi sợ hãi của mình đang trở thành sự thực. Nàng nhanh chống đọc bài nói rằng Thủ tướng đã xin phép để đưa vào Hạ viện một đạo luật quân sự mới.
- “Joe, em nghĩ cả những người có vợ rồi cũng buộc phải đăng ký”, nàng lặng lẽ.
Anh nhìn nàng qua chiếc bàn ăn sáng, đôi mắt anh trang nghiêm. “Điều ấy buộc phải đến, Emma. Đã hàng tuần nay Kitchener hò hét thêm người rồi!”.
Emma gật đầu. “Đạo luật mới đề ra là tất cả thanh niên Anh tuổi từ mười tám đến bốn mươi phải có nghĩa vụ đăng ký vào lực lượng quân đội trừ phi được miễn vì lý do nào đó”, nàng mỉm cười nhợt nhạt. “Anh có được miễn vì một lý do nào đó không anh”.
- “Không, em ạ, không”.
Vài ngày sau, nàng buồn bã đọc tin là mặc dầu Quốc hội không thống nhất luật này, nhưng đại bộ phận tán thành. Cuối cùng, ngày 27 tháng năm, đạo luật nghĩa vụ quân sự mới đã được hoàng gia tán thành.
Buổi tối hôm đó Emma ngồi trong phòng khách với Frank, cậu lại đến chơi với họ, bàn chuyện thời sự. “Hoàng gia tán thành – chính xác là cái gì?”, nàng hỏi.
- “Nó có nghĩa là trong thờI kỳ nguy khốn nhất, nước Anh phải quay trở về thời kỳ Norman và Saxon, khi mà nhà vua có quyền lấy lính, lấy tàu hoặc bất cứ động sản nào trong nước của mình vì mục đích bảo vệ Tổ quốc”, Frank nói với chị một cách nghiêm trang. Nàng hiểu. Nhưng hiểu không nhất thiết là làm nhẹ bớt những ý nghĩ phiền muộn của nàng.
Emma trước đây luôn luôn than phiền bằng một giọng ồn ào nhất về sự trì trệ, về thủ tục giấy tờ quan liêu thì nay lại nguyền rủa tính hữu hiệu ghê gớm của nó. Ba người đàn ông nổi bật nhất trong đời nàng đã cùng mọi người ra đi. Trước tiên là David nhập bộ binh, rồi đến Joe và Blackie cùng đi một ngày. Cuối tháng năm họ cùng gia nhập binh đoàn Cao nguyên Seaforth, binh đoàn cũ của cha nàng, binh đoàn mà người Yorkshire đặc biệt thích.
- “Trừ phi tôi không phảI là ngườISeaforth. Blackie đã tuyên bố. “Một người Irelandsống ở Anh, lấy một người Sassenach tách khỏi nhà thờ, phục vụ trong binh đoàn Scottish lại mặc cả váy nữa. Độc đáo, hả?”, Lora và Emma cùng cười với anh, nhưng lòng họ nặng trĩu. Joe và Blackie lập tức được điều đi Ripon để tập luyện. Cả thành phố cổ và ngoạn mục này là một nơi đầy kỷ niệm cũ đối với Emma. Hai tuần lễ sau họ được về nhà nghĩ phép hai mươi bốn tiếng đồng hồ trên đường đi Tilbury lên tàu sang Pháp. Một buổI sáng tháng sáu ẩm ướt, Emma đưa hai người ra ga. Laura đang có mang vẫn đi theo, nhưng khăng khăng không nghe.
- “Trong tình trạng em như thế này, không được, em yêu”, anh nói nhẹ nhàng và vuốt tóc nàng. “Anh không muốn em lo sợ hốt hoảng ảnh hưởng tới em và đứa bé”.
Phút cuối cùng Blackie hầu như phải dùng sức giữ Lora lại, nàng bám bíu lấy cánh tay anh một cách dữ dội, cố kìm nước mắt nhưng không nổi. Nhưng khuôn mặt trắng nhợt căng thẳng của nàng chứa đầy lòng dũng cảm vô bờ khi họ từ biệt nàng. Nàng đứng bên của sổ, một hình ảnh xanh xao ép vào kính, vẫy tay chào ba người khi họ bước xuống lối đi trong vườn và khuất bóng.
Cuộc hành trình tới Leeds là một cuộc hành trình lặng lẽ. Emma lảo đảo khi họ tới nhà ga thành phố. Từng đám lính của nhiều binh đoàn khác nhau cũng như là binh đoàn Cao nguyên Seaforth đứng chật các cửa. Sân ga tối tăm phủ đầy mồ hóng, chật ních hàng trăm người, thiếu phụ và các cô gái mọi lứa tuổi, mọi tầng lớp, những người vợ, những người mẹ và những người yêu tiễn biệt những người đàn ông của họ. Blackie mang ba lô của hai người lên tàu, Emma và Joe đứng trên sân ga, tay nắm tay nhau.”
- “Anh sẽ không sao đâu, em yêu”. Joe nói nắm chặt thêm những ngón tay nàng. “Đừng lo cho anh. Em hãy cẩn thận sức khoẻ và trông nom các con”.
Emma cắn môi, cố giữ bình tĩnh. Joe dịu dàng và chu đáo thật đáng ngạc nhiên trong mấy tháng qua, rõ ràng anh nhận thấy thời gian chia ly đang nhích lại gần và về nhiều khía cạnh, họ đã gần gũi nhau nhiều. “Chính anh mới phải cẩn thận, Joe”, nàng nói dịu dàng.
Vài giây sau Blackie quay lại với họ. Emma với lấy tay anh, kéo lại bên nàng. “Cả anh nữa, Blackie nhé”.
Nàng cố cười:"Cả hai đừng có lâm vào tâm trạng gi.."Nàng dừng lại môi run lên .
Joe nhẹ nhàng nâng mặt nàng lên:"Nào, nụ cười nổi tiếng của em đâu em yêu ?'
_ Em xin lỗi
Còi bắt đầu rúc , từng đám khói trùm lên họ khi những con tầu tăng tốc đi tiếp con đuờng về nam . Blackie quàng tay lên người nàng ."Tạm biệt ,em gái nhỏ . Ở lại cho mạnh khoẻ và trông nom Laura của anh hộ anh . Coi để cho chị ấy bình thường và đừng để chị ấy buuồn giận".Anh hôn má nàng và mắt anh uớt .
Emma nuốt mạnh , ngước nhìn Blackie ."Nhất định . Em hứa . Em không để cho bất cứ cái gì xảy ra với chị hoặc với đứa bé ".
Blackie nhảy lên bục tàu đứng bám vào song cửa quay đi để cho họ một phút riêng tư .
Joe ôm Emma trong tay ."Em là người vợ tốt nhất , em yêu ."Nhìn thấy nét sợ hãi thoáng qua mặt nàng, anh vội nói thêm ."Và vì thế em có thể chắc chắn rằng anh sẽ về với em ".
- Em biết anh sẽ về, anh yêu .Và anh là một người chồng tốt .Joe .Ở đó cẩn thận anh nhá".
Anh gật đầu, nghẹn ngào không trả lời được .Anh hôn nàng một lần nữa, àng thấy nước mắt anh hoà với nước mắt nàng trên đồi má nàng .Joe đột ngột buông nàng ra, nhaỷ lên bậc tàu đứng cùng Blackie .Bánh xe bắt đầu nghiến chói tai trên đường ray và con tàu bắt đầu đi ra .Nó đi chậm đến nỗi Emma có thể bước đi bên cạnh nó , tay vẫn nắm tay Joe .
Đột nhiên ,giọng ca đơn côi của một nguời lính cất lên, dịu ngọt mà buồn ."Hãy giữ cho ngọn lửa gia đình cháy mãi .Dù trái tim của bạn đang mong chờ ..."Một giọng nữa hoà vào, một giọng nữa và lại một giọng nữa cho đến khi cả nhà ga mênh mông rung lên tiếng hát khi những điàn quân trong những chuyến tàu khác và nhiều phụ nữ cất lên điệp khúc và giọng trầm buồn của Blackie cao vút lên trên cả , giọng đẹp và giàu âm sắc như bao giờ .
Con tàu tăng tốc độ . Joe buông bàn tay Emma , nàg đứng tại chỗ giơ tay vẫy chào họ .Và nụ cười chia tay rạng rỡ của nàng vẫn cam đảm mặc dù đôi mắt uớt .Nàng nhìn con tàu cho đến khi nó khuất bóng rồi nàng quay gót ra về, ngả nghiêng vì đám đông chen lấn, mờ vì nước mắt và tự hỏi một cách tuyệt vọng không hiểu nàng có bao giờ nhìn thấy họ nữa không?
Emma ngồi trên mép giường Chirstopher, cuốn sách truyện trong tay,ngọn đèn phản chiếu khuôn mặt màu hồng và toả sáng một vòng hào quang quanh đầu nàng .Nàng gấp cuốn sách và mỉm cười với con trai:"Nào Kit .Đến giờ đi ngủ rồi đấy"
Đôi mắt màu hạt dẻ mở tỏ của Kit nhìn àng chằm chằm, khuôn mặt của nó có những vệt tàn nhang nho nhỏ ( chẳng biết vệt này có ý nghĩa gì khó hiểu ?) quá chăm chú đối với một đứa trẻ lên năm. "Nào mẹ, thêm một chuyện nữa thôi "- nó van nài . "Con xin mẹ .Tối nay mẹ đã hứa đọc cho con lâu hơn một chút và mẹ không bao giờ thất hứa mà , phải không mẹ ? Ít nhất thì cũng là điều mẹ luôn nói".
Vui vui vì lối thuyết phục không mấy khéo léo nhưng không bị lay chuyển bởi nó, nàng cười và xoa đầu con đùa nghịch ."Mẹ đã đọc lâu hơn cho con rồi, Kit .Bây giờ con phải đi ngủ thôi. Quá giờ đi ngủ của con nhiều rồi". Nàng đặt cuốn sách lên bàn và nghiêng người về phía trước, hôn lên má con .
Đôi cánh tay nhỏ khoẻ của nó vòng quanh cổ nàng , nó ép sát người nàng hơn ."Người mẹ thơm quá, mẹ à .Như một bông hoa ấy . Như cả một bó hoa". Cậu bé thì thào vào tai mẹ .
Mỉm cười, Emma lùi ra và vuốt tóc con ."Nằm xuống đi Kit . Chúc con ngủ ngon và có những giấc mơ đẹp ".
-Chúc mẹ ngủ ngon
Emma tắt đèn và đóng cửa lặng lẽ .Nàng dừng lại trước cửa Edwina , do dự một chút trước khi gõ nhè nhẹ và vào . Edwina đang ngồi trên giuòng đọc sách ,mái tóc vàng của nó buông xuống như sóng quanh đôi vai gầy qua làn áo ngủ mỏng . Nó ngẩng đầu , đưa con mắt màu xám bạc lạnh lùng chăm chú nhìn nàng như thể bực bội sự thâm nhập vào thời khắc riêng tư của nó .
- "Mẹ chỉ vào hôn con trước khi đi ngủ". Emma nói một cách cẩn thận và đi qua sàn ."Và đừng có thắp ngọn đèn quá khuya con nhé ".
-"Không , mẹ à ."Edwina nói .Con bé để quyển sách sang bên và tiếp tục nhìn Emma , vẻ kiên nhẫn trên mặt nó .
Emma lại gẫn giường:"Bữa cơm nhỏ của chúng ta tối nay vui quá nhỉ ?"Nàng vui vẻ nhận xét, cố gắng củng cố sự hoà hợp, dù là bước đầu , mới đây đã nảy sinh giữa hai mẹ con.
Edwina gật đầu ."vâng", đứa bé nhìn nàng một lúc rồi nói "Bao giờ bác Winston đến ở với chúng ta , mẹ ?"
- "Mẹ cũng không biết chắc con à . Mẹ hy vọng là sắp đây thôi .Bác nói trong thư là cuối là đang đợi được nghỉ phép sớm ".
_ "Con thích bác đến lắm .Con thích bác Winston " nói .
Ngạc nhiên vì sự tin cẩn bất ngờ đó và đuọc khuyến khích Emma ngồi xuống giường một cách thận trọng, nàng luôn luôn biết Edwina không thích sự động chạm :"Mẹ sung sướng vì con thích bác ,Edwina .Bác yêu con lắm , cả cậu Frank nữa '.
- "Cả cậu Frank cũng đến à . Con muốn nói là thời gian bác Winston được nghỉ phép ấy ?".
- "Ừ kế hoạch là thế Edwina. Chúng ta sẽ có những buổi tối vui cùng nhau .chúng ta sẽ chơi đoán chữ và ca hát .Con có thích cái đó không ?
-"Ồ , có , vui lắm ."Edwina mỉm một nụ cuòi hiếm hoi với Emma , một nụ cuòi nhẹ nhõm làm dịu khuôn mặt trẻ lạnh lùng của cô bé và đem một chút ấm áp tới đôi mắt to xám bạc ấy .
Emma chăm chú quan sát Edwina, bỗng cảm thấy tim mình lỡ một nhịp đập .Lại đây rồi .Cái nụ cuòi ấy . Cái nụ cuòi làm mềm lòng nàng nhớ quá rõ .Nàng cúi mắt , nhận thấy một thoáng sợ hãi đập vào nàng run run kéo chăn lại tấm chăn "Ngày mài chúng ta sẽ lập kế hoạch cho bác Winston đến , nàng nói khẽ và đột ngột đứng lên .Nàng cúi xuống hôn lướt edwina , sợ bị đẩy ra,và nói tiếp:'Tạm biệt con .Ngủ ngon ". - "chúc mẹ ngủ ngon ". Edwina trả lời theo bổn phận bằng một giọng cứng nhắc và quay lại với cuốn sách của nó, không nhìn Emma một lần thứ hai hoặc nghĩ đi nghĩ lại gì .Mẹ nó , cái người phụ nữ , mọi người đều coi là đẹp , duyên dáng và giỏi giang không hề tồn tại trong lòng đứa bé lên mười này . Edwina sống trong thế giới hoàn toàn của riêng nó và nó không cho phép bất cứ cái gì hoặc bất cứ ai xâm phạm vào chỉ có hai người nó yêu là Joe và người chị họ Freda của nó ở Ripon.
Đứ bé là một ẩn số đối với Emma .Nàng chạy nhẹ nhàng xuống cầu thang ,nụ cười của Edwina vẫn còn đọng lại trong đầu nàng khi nàng bước vào phòng làm việc .Con bé mỗi lúc trông lại giống nàng hơn .Emma nghĩ lòng nhói lên không thoải mái .Nhưng đó chỉ là một sự giống nhau về hình thức thôi, nàng tự an ủi mình, vội vã gạt bỏ nhũng đặc tính trở nên quá rõ rệt trong con gái nàng, thỉnh thoảng làm nàng xao động .Bàn giấy chất đầy một đống giấy cần Emma phải chú ý ngay lập tức , nàg ngồi xuống quyết định phải giải quyết hết tối nay .Sau nửa tiếng nàng nhận ra rằng khả năng tập trung đã bay đi đâu mất , nàng bực bội đặt bút xuống , ngả người vào ghế , ghế tự hỏi không hiểu cái gì làm nàng bối rối .Căng thẳng ử ?Mệt mỏi ư ? Sáng hôm nay nàng cảm thấy lơ đãng ,bồn chồn những cảm giác trước đây nàng không hề có .Nhưng chúng cứ dai dẳng suốt cả ngày , nàng phải tách rời cửa hiệu sớm hơn thường lệ , biết là cần phải tách khỏi những thư từ buôn bán và hết sức ao ước ở nhà cùng các con .
Hôm nay là ngày nghỉ của người trông nhà,Emma bảo Clara chị giữ trẻ rất tận tuỵ ra khỏi bếp để chính tay mình chuẩn bị bữa tối . Emma thích cái hạnh phúc đơn giản làm thức ăn và dùng bàn tay thay vì cho trí óc lấy một lần và cái thời gian bếp núc ngắn ngủi này đã làm nàng tươi tắn trở lai. Sau đó nàng cùng Clara và lũ trẻ ăn bữa cơm chiều trong phòng của trẻ con và nàng đã có cảm giác thanh thản sâu xa, trong thế giới không buồn phiền của chúng, nhwũng nỗi canh cánh của nàng đã tan đi .
Đó là một gian đoạn ngưng nghỉ thật dễ thương . Emma tự nói với mình ,nàng nguyện sẽ không tách khỏi lũ trẻ như nàng thường làm trước đây nưã .Nàng sẽ không để cho công việc xâm nhập vào những giờ phút của nàng .Giờ phút naỳ trong cuộc sống của chúng là quý giá và nàng muốn chia sẻ nó . Ngay cả Edwina tính tình cũng bớt lạnh lùng, và thân mật hơn bình thường trong bữa ăn tối, Emma suy nghĩ với nỗi sugn sướng thực sự và đứa bé đột ngột tuyên bố thích Winston thật là điều đáng kể khi xét tưởng sự thiếu tình cảm của cô bé đối với hầu hết mọi người . Đó là một phát hiện đối với Emma, và nàng hy vọng báo hiệu một sự thay đổi tiến tới sự tốt đẹp hơn .
Những ý nghĩa nổi trôi của Emma động lại ở đứa con gái của nàng .Nó là dòng nhà Fairley trăm phần trăm, điều ấy không thể lẫn vào đâu được .Từ lâu Emma đã nhận ra sự giống nhau rõ rệt của Edwina với bà nội của nó . Con bé là một bản sao trung thành - một tấm guơng phản chiếu Adele . Không biết Winston và Frank có phát hiện ra điều ấy không ? Nàng tự hỏi như vậy . Họ không hề nhận xét gì hết .Trái lại, Blaclie thì lại hoàn toàn là một chuyện khác . Emma ngờ anh đã đi tới sự thật mặt dù cả anh nữa cũng kín đáo giữ yên lặng vầ vấn đề này và không bao giờ để lộ ra chút đá động gì về những sự ngờ vực của anh, hoặc bằng cái nhìn hiểu biết hay một câu nói bất cần .
Emma nghĩ tới Edwin Fairley . Lòng căm ghét anh ta vẫn còn nguyên , nhưng nó đã thay đổi về bản chất và giờ đây phát sinh từ trí óc nàng chứ không phải con tim của nàng nữa . Do đó mà nó khốc liệt hơn trước , bởi vì nó là mục tiêu và vì vậy , có phương hướng .
Dù cho nàng có muốn quên cái gia đình nhà Fairley đi .Emma cũng thấy rằng điều đó là không thể được , bởi vì tờ Yorkshire buổi sáng thường xuyên đăng những hoạt động của họ, hay nói cách khác, xã hội của họ .Nàng biết rất nhiều về Edwin .Anh ta là đại uý trong quân đội và được tặng huân chương chữ thập Victoira vì lòng dũng cảm vượt lên trên cả tiếng gọi của nghĩa vụ . Đúng là dũng cảm , nàng nghĩ, môi cong lên khinh bỉ . Mới ngày hôm qua đây thôi, nàng cũng thấy cái thông báo ngày sinh con trai của anh ta trên báo . Vợ anh ta phu nhân Jane Fairley, con gái của ngài công tước Carlesmoor đã sinh được một cậu con trai nặng bảy pao ( 1pao= 0,454 kg) , được đặt tên là Roderick Adam theo tên hai người ông của nó .
Nhưng cuộc đời của Edwin không liên quan gì tới nàng lúc này .Adam và Gerald Fairley là những mục tiêu đầu tiên của nàng vì một lý do đơn giản : họ kiểm soát những nhà máy Fairley và gia sản Fairley .Vận mệnh của gia đình ở trong tay họ .Qua nhiều năm , Emma đã đi đến chỗ hiểu được rằng cách mạnh mẽ nhất để giáng trả lại họ là qua công việc .Nàng đã gây ra những vấn đề không nhỏ cho họ ở nhà máy Thompson, bởi vì họ đã thấy thực tế là không thể naò thay thể nổi lực lượng lao động nàng đã cướp mất .Không điều gì nàng không biết về tài sản và tình hình thương mại nói chung của họ .Thông tin nàng thu luợm được vơi sự kiên nhẫn không giới hạn ,Sự cẩn mẫn vô bờ, và sự cẩn mật tối đa, nàng đã lập ra những kế hoạch cho tương lai .
Đối với nàng, họ lộ liễu và dễ tấn công thậm chí họ lại không biết điều đó ! Adam Fairley vốn luôn chểnh mảng đối với công việc, gần đây lại càng như vậy . Olivia Wainwright Fairley mới rồi lại bị một chứng bệnh lạ nên ông ta hiếm khi , nếu như là không bao giờ về Yorkshire .Việc điều hành ở cả trong tay Gerald Fairley, và hắn ta là một thằng ngốc . Hắn là cái khâu yếu trong sợi dây chuyền bằng sắt mà nàng có ý định tháo rời ra và vất sang một bên giống y như cha nàng, con gái nàng và chính nàng nữa đã bị chúng hất sang một bên .Đôi mắt xanh sáng của nàng đọng lại chủ yếu trên Gerald Fairley một lòng căm ghét mãnh liệt . Không một người phụ nữ nào lại có thể tẩy xoá đuọc ký ức khủng khiếp về một gã đàn ông toan hiếp mình và Emma cũng không ngoại lệ .Phải ,Gerald là cái chìa khoá dẫn đến sự sụp đổ của bọn chúng .Tất cả điều nàng cần phải làm là đưa chân ra ngáng hắn và tất cả những người khác sẽ nhào phía sau .Trong đầu nàng không còn một chút nghi ngờ nào hết về cái chung cuộc đó .Một khi nàng đã đặt cho mình một mục đích thì không gì có thể ngăn được nàng đạt tới nó .
Có tiếng chuông cửa vang lên khắp ngôi nhà yên tĩnh .Nó làm Emma giật mình,đưa nàng ra khỏi những suy nghĩ về gia đình Fairley .Nàng đứng lên đi vào phòng lớn,chiếc áo lụa của nàng sột soạt khi nàng đi những bước nhanh nhẹn thuờng ngày .Nàng mở cửa trước,tự hỏi không hiểu ai có thể đến vào giờ này, và nàng thấy trước mặt mình là cậu bé đưa bức điện tín .
- "Chào bà".Cậu ta nói, kính cẩn đưa tay lên mũ .Cậu ta đưa cho nàng bức điện , lại đưa tay lên mũ và chạy xuống bậc . Emma liếc nhìn phong bì vàng . Chắc chắn là của Winston báo ngày đến của anh .
Emma luớt vào giữa phòng ,đứng dưới chùm đèn pha lê nơi sáng hơn và xé phong bì .Mắt nàng luớt nhanh dòng đầu ,nó mở to mãi ra và nụ cười trên mặt nàng tàn đi khi nàng đọc:
"Vô cùng thương tiếc và đồng cảm sâu sắc .Văn phòng chiến tranh phải báo để bà biết ,chồng bà binh nhì Joshep Daniel Lowther đã hy sinh trong chiến đấu ngày 14 tháng 7 ở Pháp ..."
Những chữ còn lại mờ đi ,chạy xô vào nhau, Emma buông mình xuống ghế, hcoáng váng ,trong một giây lát nàng không tin là thật .Nàng ngó đăm đăm một cách trống rỗng vào bức tường phía trước , ánh sáng trong mắt mờ đi , miệng nàng run lên .Cuối cùng nàng đưa con mắt miễn cưỡng trở về với bức điện nhàu nát thành một cục giữa những ngón tay nắm chặt của nàng . Nàng vuốt thẳng tờ giấy và đọc lại .Những chữ tàn ác từ từ thấm vào ,tim nàng rụng xuống .
Không thể là sự thực ! Chắc là lẫm lẫn gì đây ! Một sự nhầm lẫn khủng khiếp ! Emma kêu thầm trong lòng mình , lắc đầu không chấp nhận những lời đó . Joe không thể chết .Cổ họng nàng đặc lại khi sự thật đập vào và nàng ngồi như đóng băng trong ghế , cứng như một phiến đá xẹp trong một cơn "sốc "làm tê liệt .
Sau một thời gian tưởng dài đến thiên thu đối với Emma, nàng đẩy mình ra khỏi ghế, buộc đôi chân run rẩy chuyển động , bước ra cầu thang như một người mù . Nàng vịn tay vào cầu thang cho vững, một cảm giác yếu ớt như muốn ngất lan khắo cơ thể nàng . Nàng chật vật bước lên cầu thang, kéo từng bước nặng nề , lê chân một cách khó khăn như một bà già bị tàn tật vì đau khớp .Nàng lảo đảo trong phòng ngủ của mình , đổ ập xuống giường, nằm bất động , nhìn lên trần nhà trong một trạng thát hôn mê , mắt nàng tối sầu thảm .
Tội nghiệp Joe, Tội nghiệp Joe .Gục ngã chỉ mới sau vài tuần lễ ngắn ngủi ngoài mặt trận .Anh chết như vậy còn quá trẻ .Điều ấy không công bằng .Không công bằng .Emma khóc, những dòng nước mắt chảy dài trên má nàng không kìm được .Nàng sẽ không bao giờ nhìn thấy anh nữa .Nàng đau dắn nghĩ Kit và Edwina đang thanh thản ngủ trong giường chúng .Nàng không thể nói cho chúng biết tin này .Bây giờ thì không .Ngày mai cũng là đủ sớm .
Đầu óc phiền muộn của nàng bắt đầu hoạt động dữ dội . Joe đã chết như thế nào ?Và thi hài của anh ở đâu ? Nàng cần thi hài Joe . Cái ý nghĩ , trong tình hình như thế này dù cho nó có phi lý đến đâu, Emma vẫn cứ muốn làm tang cho anh tử tế .Ý nghĩ thân thể của Joe nằm tan nát, cô quạnh ở một miền nào đó tại nước Pháp ám ảnh nàng .
Emma nằm trong phòng ngủ , không để ý đến thời gian , nhìn đêm xuống, lẻ loi và cô độc trong nỗi đau khổ của mình .Và nàng thương Joe không bờ bến .anh là người có danh dự , tử tế trong rất nhiều mặt ,giờ đây nàng gạt bỏ tất cả những điểm làm nàng bực mình , quên cái khó chịu nàng trải qua trên giường yêu đuơng của họ .Nàng cẩn thận xoá hết những cái gì không hay , chỉ nhớ những cái tốt , những điều tốt đẹp nhất .
Nàng khóc suốt đêm cho sự mất đi một con người tử tế , cho tất cả những cái anh đã đại diện , và cho cuộc đời mà họ cùng chia sẻ với nhau .Đó là một buổi chiều chủ nhật đẹp trời vào cuối tháng mười , một ngày ấm lại bất ngờ ,rực rỡ ánh sáng trong như pha lê tràn ngập một bầu trời xanh ngắt .Khu vuờn tẳm trong màn sương vàng ,cây cỏ đã ngả màu , cành lá mùa thu lẫn một màu vàng và màu da cam chuyển sang đỏ rực và vàng nâu như cháy .
Laura O'Neill ngồi trong vuờn , lạc trong suy tưởng .Ý nghĩ của nàng luôn luôn với Blackie ở Pháp . Từ nhiều tuần nay , nàng không nhận được một lá thư nào .Mặt khác , bức điện khủng khiếp ấy cũng không đến .Mặc dù không có bất cứ một tin tức loại nào , Laura tin tưởng chắc chắn rằng Blackie bình yên , và sẽ tiếp tục bình yên và anh sẽ trở về nhà với nàng khi chiến tranh chấm dứt .Niềm tin không lay chuyển của nàng ở Đức chúa toàn năng là nền tảng , trên đó cuộc đời nàng được xây dựng lên và với một lòng tin tuyệt đối Blackie đang được che chở .Laura, vốn là người mộ đạo , bây giờ ngày nào nàng cũng đi lễ nhà thờ mặc những lời khuyên của Emma là nàng nên nằm ở nhà nghỉ ngơi . Nàng đã thắp không biết bao nhiêu ngọn nến cho Blackie và Winston và tất cả những người đang chiến đấu khác .Và trái tim yêu thương của nàng tràn ngập đau buồn cho những người đã mất con, mất chồng ,mất người tình và đặc biệt cho Emma đã là người goá bụa bốn tháng trước .
Emma đang làm việc ở cuối vuờn, nàng đang hái những bông cúc vàng xếp đầy giỏ .Đôi mắt màu hạt dẻ của Laura ngừng trên người bạn thân yêu nhất, tim nàng thắt lại vì yêu mến và xót thuơng .Cô ấy gầy quá ,Laura nghĩ .Và cô ấy kiệt lực .Cô ấy làm việc như một người thành Troy , mà trách nhiệm của cô ta đủ để đè bẹp bất cứ một ai .Ngay cả một người đàn ông khoẻ mạnh nhất và kiên quyết nhất cũng sẽ phải lảo đảo dưới cái gánh nặng này .
Laura thấy từ sau khi Joe chết .Emma hình như đã thúc đẩy bởi một sức mạnh phi phàm .Nàng không những chỉ lo công việc kinh doanh của chính mình và điều hành những nhà máy ,cửa hàng Joe mà còn giữ vai trò quản lý chính tại các nhà máy của Kallinski .Tuy vậy nàng vẫn tìm được thời gian để dành cho lũ trẻ , cố đem lại cho chúng tình yêu thương và sự đảm bảo .Đó là cái riêng của Emma để giải quyết nỗi buồn của mình, Laura chắc thế . Cái cách duy nhất nàng biết để tiếp tục đi lên .Công việc và con cái đã trở thành pháo đài của nàng .
Laura thở dài chết không bao giờ là kết thúc . Người mình yêu quí ra đi nhưng bao giờ cũng còn những người khác, những người còn ở lại để than khóc .Cái buồn của đời bao giờ cũng còn, Laura nghĩ, nhưng cũng có cả niềm vui nữa . Niềm vui vì đứa bé nàng đang mang .Đứa bé nàng ao ước trao tặng cho Blackie . Nàng để tay lên bụng một cách che chở yêu thương . Nàng cám ơn Chúa lần này nàng không bị sẩy . Phải, có chết ,nhưng cũng có sự ra đời .Cái mới liên tục ...cái vòng quay khôn cùng, thiên thu bất diệt , đó là số phận lạnh lùng của con người .
Emma đã làm xong việc , tháo găng tay làm vuờn ra ngồi cùng Laura trên ghế ."Chị không thấy lạnh sao ?", nàng hỏi .
- "Em nghĩ chút nữa chúng ta nên vào thôi .Em không muốn chị bị cảm lạnh .Nhất là bây giờ chị đang khoẻ mạnh ", Emma đưa mắt nhìn Laura âu yếm . "Chị còn phải đợi hơn hai tháng nữa thôi và rồi chị sẽ có thể trình diện với Blackie đứa con trai thừa tự của anh ".
Laura gật đầu niềm vui của nàng trào lên đôi mắt :"Chúa lần này dễ dàng quá ,Emma ạ .Một điều huyền diệu .Mình ngày nào cũng cầu cúng để tạ ơn ".
- Cả em cũng thế , cưng
Laura cầm lấy tay Emma trong tay mình và nói nhẹ nhàng .Mình không muốn làm Emma buồn lòng đem chuyện ra hỏi trước , như Edwina có khá hơn chút nào không ?"
- Một chút - Giọng Emma khẽ .- Nếu như nó có thể khóc lên được thì nỗi thương nhớ Joe của nó có thể vơi đi .Nhưng tất cả đều nén lại và sự kìm chế của nó làm em kinh sợ .Điều đó không tự nhiên .
Một cái nhìn thông cảm luớt qua nét mặt Laura :"Đúng cố nén sự đau thương ấy lại là không lành mạnh .Tội nghiệp Edwina .Cháu nó yêu Joe quá ".Em đã nói chuyện với nó hàng giờ , cố gắng đem lại an ủi và sự hiểu biết nhưng không thấy thành công .Hình như nó muốn chịu đựng một mình .Một cách khắc kỷ .Em không biết phải làm gì thêm nữa ...", Emma dừng lại .Một lát sau, nàng nói thêm , giọng xa vắng ,"Đôi khi em nghĩ em đã đánh giá lầm Joe ".
- Cậu định nói sao ?- Laura hỏi bối rối
--Ồ bây giờ khi em nhìn lại mới thấy là anh ấy thật tốt, rất đại lượng đứng về nhiều mặt .Ví dụ như di chúc của anh ấy .Em bàng hoàng khi ông Ainsley đọc cho em nghe và được biết là Joe đã để lại toàn gia sản cho em .Em cứ nghĩ anh ấy để lại mọi thứ cho Kit , di chúc cho nó việc kinh doanh và mọi thứ khác .Em vẫn không thể quên được với cái cử chỉ ấy .Xét cho cùng , Kit là con trai duy nhất . ( Thấy tiền mới thấy tốt ??)
- Joe để lại tất cả tiền của mình cho Kit , cưng - Laura nói chen - Ngoại trừ tiền hàng năm cho Edwina .Emma ạ Joe luôn luôn đánh giá cao sự mẫn cảm kinh doanh của em .Anh ấy không lừa Kit đâu .Anh ấu chỉ khôn ngoan thôi , anh ấy biết em sẽ điều hành mọi việc một cách có hiệu quả và làm như vậy sẽ đảm bảo tương lai cho lũ trẻ .Anh ấy tin em , Emma .Anh ấy biết em sẽ làm điều phải .
- Em cũng cho là như thế .Nhưng em vẫn cảm thấy em đã làm nhiều điều không phải với Joe khi anh ấy còn sống .
Laura nắm tay Emma một cách trìu mến .-"Em là một người vợ tốt .Đừng tự giày vò mình lúc này về những đièu đã xảy ra trong quá khứ .Chớ quên những mối quan hệ của con người không bao giờ tĩnh tại . Nó thay đổi từng ngày , bởi vì nó phức tạp , cũng bởi vì con người là thay đổi . Và cuộc sống thâm nhập, những vấn đề xâm nhập và gây răng thẳng . Em đã cho Joe nhiều mặc dù thỉnh thoảng em cũng có những bất đồng .Mình biết em đã làm cho anh ấy sung sướng .Emma , xin em, em phải tin điều đó ".
- "Em hy vọng điều đó". Emma lẩm bẩm .
Nhận thấy tiêng vọng buồn bã trong giọng nói của Emma và muốn lái nàng sang chuyện khác .Laura nói nhanh nhảu :"Chúng mình vào đi cưng .Mình bắt đầu thấy lạnh và muốn uống chút trà". Vừa nói nàng vừa đứng lên , kéo chiếc khăn san màu vàng quanh vai .
Emma cầm lấy tay Laura , hai nguời buớc qua thảm cỏ ."Chị Laura dịu dàng của em, em không hiểu nếu không có chị thì em biết làm gì ? Chị thật khôn ngoan và chị luôn làm em thấy dễ chịu hơn".
- Mình cũng có thể nói như vậy với cậu , Emma ạ .Cậu là nguời bạn tốt nhất của mình .
- "Ôi, Laura, em cũng yêu chị". Emma không còn có thể nén được nước mắt nó chan hoà xuống má nàng, rơi trên tay Lora.
-"Đừng khóc, cưng, có gì phải khóc đâu".
- "Öi Laura...Laura..."
- Nín đi, cưng. Đừng khóc
Emma hít một hơi dài, cố gắng trấn tinh. "Laura, bây giờ chị phải nghe em. Chị phải chiến đấu. Cố gắng hơn nữa đi, cưng. Xin chị hãy chiến đấu để sống ", nàng van nài khẩn thiết. Nàng ôm lấy tấm thân mong manh của Laura trong đôi cánh tay mạnh khoẻ của mình, vòng lấy người Laura và ép chặt vào người mình, y như thể cố gắng truyền sức mạnh to lớn nghị lực kiên cường của mình cho ngươì bạn đang hấp hối như nàng đã làm nhiều năm trước đây với mẹ nàng.
Một tiếng thở dài nhỏ thoát ra từ môi Laura, một tiếng thở dài nhẹ mong manh hầu như khó nghe thấy. "Muộn quá rồi", nàng nói một giọng nhạt dần.
Emma tựa lưng vào chồng gối, môi nàng run, mặt nàng trắng bệch và căng thẳng. "Xin hãy cố, cưng ơi. Hãy cố cho Blackie Cho đứa nhỏ. Cho em".
Có tiếng sột soạt kho ông thầy tu bước vào đem theo một cái túi đen. Ông chạm nhẹ vào vai Emma. "Bà ấy cần phải làm lễ rửa tội cuối cùng, bà Lowther", Ông ta nói.
Emma đứng lên, lui ra một bên, cố kiềm chế, mặc dù đầu gối chùng xuống. Nước mắt lăn xuống hai bên má nàng cũng không ngăn nổi, rồi tất cả tối sầm lại khi nàng nhìn ông. Cha cúi xuống Laura. Nàng muốn ông ta đi đi. Ông ta là sứ giả của tử thần. Nếu ông ta đi, Laura sẽ sống. Không có Chúa! Không Chúa, ông có nghe thấy tiếng tôi không! Emma hét lên, nhưng những tiếng thét đó ngân vang trong đầu nàng không thoát ra đươc.
Emma nghĩ tim nàng chắc sắp vỡ. Căn phòng yên tĩnh quá, âm thanh duy nhất là tiếng sột soạt của chiếc áo ông thầy tu khi ông ta tiến lên gần giường, tiếng lầm bầm nho nhỏ của ông và của Laura khi nàng thú tội và ông rửa tội cho nàng. Tội, Emma nghĩ một cách cay đắng. Nàng không bao giờ có tội gì . Laura chưa bao giờ làm một điều gì xúc phạm đến ai. Nàng chỉ đem đến tình yêu cho bất cứ ai nàng biết. Nàng không bao giờ phạm tội với cuộc đời. Không bao giờ. Không khi nào.
Ông thầy tu đọc kinh lễ ban Thánh thể, làm dấu thánh và để bánh vào miệng Laura . Ông đang làm lễ sức dầu cho nàng, Emma quay đi nhìn ra ngoài cửa sổ . Thật là phí phạm. Phải, mà còn có tội nữa. Nếu làm phẫu thuật thì đứa bé có thể chết, nhưng Laura sẽ sống. Giáo lý của nhà thờ Cơ Đốc thật là man rợ. Không lành mạnh. Ai cần gì đến đứa bé? Mọi người biết và yêu thương Laura.
Khi ông thầy tu đã làm xong nghi thức cuối cùng, ông đến bên Emma.
- "Bà O'neill muốn nói chuyện với bà", ông khẽ nói giọng buồn bã. Emma gạt ông ta sang bên một cách thô bạo và chạy tới bên giường. nàng kề sát mặt vào Laura.
- "Em đây, cưng. Có chuyện gì thế chị?"
Mi mắt Laura nâng lên khe khẽ. "Chị xin lỗi, cứ yêu cầu em hứa với chị mãi. Xin chi chị một ân huệ nữa. Hãy dũng cảm cho cậu Pat. Bây giờ cậu quá già và cậu cần lònh dũng cảm của em, Emma".
- "Ôi, Laura, Laura, chị đừng tuột khỏi tay em".
Laura mỉm cười, nét mặt nàng huy hoàng, trong suốt; đôi mắt nàng to đến độ choán lấy cả khuôn mặt, đăm đăm và đầy yên bình. "Không có một cái gì gọi là chết trong từ ngữ của chị, Emma. Chừng nào em còn sống Blackie còn sống thì chị cũng còn sống bởi vì cả hai người đều mang kỷ niệm của chị ở trong lòng, mãi mãi. Lại còn có Brian cho Blackie nữa".
Emma không nói được lên lời. Nàng áp chặt tay vào miệng, vai nhô lên.
Laura nói: "Nói với Blackie chị yêu anh ấy".
- "Vâng, cưng", Emma cắn môi cố chớp những dòng nước mắt xối xả.
- "Trời ơi, Laura, không có chị em biết làm gì?", nàng há miệng, nghẹn lại vì đau buồn.
- Em sẽ không sao đâu, Emma. Chi rất tin ở em. Em rất giỏi, rất dũng cảm. Và hãy nhớ, Chúa không bao giờ cho chúng ta một gánh nặng không thể mang được đâu.
- ÔI Laura, em không thể ...
- Và đừng quên quà ngày Noel của chị cho lũ trẻ, em nhớ. Con chó trong cũi cho Kit và nước hoa nhài cho Edwina tất cả được gói lại. Ở trong phòng ngủ của chị. Em sẽ tìm thấy. Cũng có quà cho em nữa, Emma thân yêu nhất của tôi ... Laura nhắm mắt lại và nụ cười mới một giây trước còn rạng rỡ, giờ đây chỉ còn là một cái bóng lướt trên mắt nàng.
- Không, em không quên cưng.
Emma cảm thấy bàn tay của Laura mềm oặt đi trong tay nàng. Laura!Laura, nàng gọi, ép bàn tay giá lạnh ấy lên môi mình.
Bác sĩ Stalkley phải cố gỡ những ngón tay của Emma khỏi bàn tay Laura, nàng nắm quá chặt. Ông cha đưa nàng ra khỏi phòng, lẩm bẩm những lời chia buồn. Emma bịt tai lại kiệt quệ và tê dại trong nỗi buồn khủng khiếp của mình.
Một vài phút sau, bác sĩ tới: "Tôi nghĩ vài ngày tới, chúng ta có thể cho đứa bé ra viện, bà Lowther. Chúng tôi sẽ báo để bà biết đến đón cháu. Đó là ý nguyện của bà O'neill"
Emma hầu như không nghe thấy ông nói gì: "Vâng, tôi hiểu", nàng đáp khẽ, máy móc. "Ông có địa chỉ và số điện của tôi". Nàng đột ngột từ biệt họ không chào.
Emma đẩy cánh cửa bệnh viện St Mary, đi dọc lối đi, qua cánh cổng sắt như một người mộng du. Nàng sẽ và đi ngược lên đỉnh đồi , bước chân mạnh mẽ, mắt nhìn thẳng phía trước mà không thấy gì hết. Đó là một buổi chiều tháng mười hai lạnh lẽo, bầu trời mênh mông trĩu những tuyết và không có nắng, gió mạnh thổi qua đồi làm khô những dòng nước mắt đang chảy xuống má nàng.
Emma bước lên con đường đau khổ của mình bằng những bước đi chập chững, những bước đi đôi khi loạng choạng và thường chững lại nhưng không bao giờ thất bại hoàn toàn. Nàng vùi sâu cơn đau của mình và cuộc đời chỉ nhìn thấy cái bộ mặt không thể dò nổi, từng tuần từng tháng trôi qua, nàng học cách sống với trái tim tan nát và nỗi cô quạnh khủng khiếp của đời nàng.
Đứa bé Brian, sống với nàng và bon trẻ. Blackie được về cử tang ngắn ngày đó là phương cách hợp lý nhất trong tình hình này; anh thừa nhận là con trai anh được sống trong một không khí bình thường với nàng hơn là một nhũ mẫu ở nhà cậu Pat. Blackie, không thể an ủi nổi, trĩu nặng vì đau khổ hầu như đã trở lại ngay mặt trận, và Emma lại trơ trọi một mình.
Lúc đầu Emma bực bội với đứa bé, coi nó như một công cụ gây ra cái chết của Laura, nhưng một hôm nàng chợt thấy được, một cách hết sức mạnh mẽ rằng nàng đã bất công cay độc. Lúc đó nàng hiểu là mình đang phản bội tình yêu của Laura và sự tin cậy ở nàng, đồng thời cũng phủ nhận tình yêu của nàng với Laura bằng thái độ như vậy. Đây là con trai của Laura, đứa con mà Laura đã ao ước và đã chết để nó sống. Emma thấy vô cùng ân hận, nàng thấy xấu hổ với chính mình, nàng đã nhận đứa bé vào trái tim thương yêu của mình như chính con đẻ của nàng. Brian có nước da ngăm ngăm và mái tóc đen như mun của Blackie, nhưng mắt nó là mắt của Laura, to và trong sáng và cũng mầu hạt dẻ dịu dàng. Nó là đứa bé ngoan, tính tình hiền dịu như Laura và khi nó cười, đó là nụ cười của Laura mà Emma nhìn thấy, nàg bế bổng nó lên khỏi xe nôi, ôm chặt nó vào lòng mình, tràn ngập yêu thương và nàng quyết tâm thưưong yêu nó mãi mãi.
Thỉnh thoảng Emma quên mất rằng Lqaura đã chết, tay nàng máy móc nhấc ống nói mỗi khi nàng có một điều tâm sự gì muốn thổ lộ, nàng buông rơi máy, ngồi thừ ra một lúc, lạc trong kỷ niệm của mười năm qua, mắt nàng ướt và tim nhói đau. Nhưng luôn luôn có những đứa trẻ giúp xua đi cái buồn và nỗi đau của nàng. Emma dành tất cả thì giờ rỗi của nàng cho chúng, nàng biết lúc này chúng cần nàng hơn bao giờ hết, khi mà Joe đã đi rồi và chúng đang ở những năm phát triển nhất, nàng đã dành cho chúng không tiếc. Winston được nghỉ phép về và Frank đến thăm nàng thường xuyên, nàng tìm thấy nguồn an ủi trong gia đình.
Đứa bé Brian, sống với nàng và bon trẻ. Blackie được về cử tang ngắn ngày đó là phương cách hợp lý nhất trong tình hình này; anh thừa nhận là con trai anh được sống trong một không khí bình thường với nàng hơn là một nhũ mẫu ở nhà cậu Pat. Blackie, không thể an ủi nổi, trĩu nặng vì đau khổ hầu như đã trở lại ngay mặt trận, và Emma lại trơ trọi một mình.
Lúc đầu Emma bực bội với đứa bé, coi nó như một công cụ gây ra cái chết của Laura, nhưng một hôm nàng chợt thấy được, một cách hết sức mạnh mẽ rằng nàng đã bất công cay độc. Lúc đó nàng hiểu là mình đang phản bội tình yêu của Laura và sự tin cậy ở nàng, đồng thời cũng phủ nhận tình yêu của nàng với Laura bằng thái độ như vậy. Đây là con trai của Laura, đứa con mà Laura đã ao ước và đã chết để nó sống. Emma thấy vô cùng ân hận, nàng thấy xấu hổ với chính mình, nàng đã nhận đứa bé vào trái tim thương yêu của mình như chính con đẻ của nàng. Brian có nước da ngăm ngăm và mái tóc đen như mun của Blackie, nhưng mắt nó là mắt của Laura, to và trong sáng và cũng mầu hạt dẻ dịu dàng. Nó là đứa bé ngoan, tính tình hiền dịu như Laura và khi nó cười, đó là nụ cười của Laura mà Emma nhìn thấy, nàg bế bổng nó lên khỏi xe nôi, ôm chặt nó vào lòng mình, tràn ngập yêu thương và nàng quyết tâm thưưong yêu nó mãi mãi.
Thỉnh thoảng Emma quên mất rằng Lqaura đã chết, tay nàng máy móc nhấc ống nói mỗi khi nàng có một điều tâm sự gì muốn thổ lộ, nàng buông rơi máy, ngồi thừ ra một lúc, lạc trong kỷ niệm của mười năm qua, mắt nàng ướt và tim nhói đau. Nhưng luôn luôn có những đứa trẻ giúp xua đi cái buồn và nỗi đau của nàng. Emma dành tất cả thì giờ rỗi của nàng cho chúng, nàng biết lúc này chúng cần nàng hơn bao giờ hết, khi mà Joe đã đi rồi và chúng đang ở những năm phát triển nhất, nàng đã dành cho chúng không tiếc. Winston được nghỉ phép về và Frank đến thăm nàng thường xuyên, nàng tìm thấy nguồn an ủi trong gia đình.
Phần bốn
Đỉnh Điểm 1918 - 1950
Kẻ nào đã trèo lên đến đỉnh núi sẽ thấy
Mỏm cao nhất hầu hết đều tuyết phủ, mây che.
Kẻ nào đã vượt qua hoặc chế ngự được nhân loại
Phải nhìn xuống lòng căm ghét của những người phí dưới
Lord Byron
Cuộc hành hương của Chin Haron
Bốn mươi ba
"Tại sao em lại tức giận, Frank?", Emma hỏi, nàng đăm đăm nhìn em ngồi đối diện ở bàn ăn trong khách sạn Ritz.
Vẻ hốt hoảng lướt qua khuôn mặt nhạy cảm của Frank, cậu nghiêng người, nắm lấy cánh tay nàng. "Em không tức giận gì đâu, cưng. Em chỉ lo lắng cho chị thôi".
- "Nhưng chị thấy khá hơn nhiều rồi mà, Frank. Thực thế mà, chị đã hoàn toàn khỏi sưng phổi rồi", nàng làm cho em yên lòng bằng một nụ cười tươi.
- Em biết và trông chị thật là tuyệt vời, Emma. Nhưng em lo lắng cho chị. Hay nói cho đúng, cho cuộc đời của chị, cậu trả lời lặng lẽ.
- Cuộc đời chị! Em định nói sao? Cuộc đời chị làm sao, nàng thốt lên.
Frank lắc đầu một cách tiếc rẻ. "Cuộc đời chị làm sao ư? Chị hỏi thế. Ồ, Emma, chị không bao giờ chịu suy nghĩ sao? Chị đang ở trên một con đường mòn đó, cưng. Thực tế thì lúc này chị cũng vẫn là một kẻ nô lệ chẳng khác gì khi chị ở Fairley Hall... "
- Nực cười!. Emma ngắt lời, mặt sa sầm.
- Chị không phải cọ sàn, đúng là như thế, Frank phản ứng nhanh. Nhưng chị vẫn là một kẻ nô lệ, mặc dù trong giàu sang. Chị tự đặt mình làm nô lệ cho công việc của chị, Emma. Cậu thở dài: Chị không bao giờ thoát ra được.
- Chị không muốn thoát ra, Emma nói, bỗng nhiên bật cười. Em không bao giờ nghĩ rằng chị có thể thích công việc của mình ư?
- Công việc! Chị chỉ có như thế, và đấy chính là điều em đang định nói tới. Phải chăng đã đến lúc chị nên có một chút vui vẻ trong đời ? Bây giờ, trong khi chị còn trẻ. cậu liếc nhìn chị dò xét, giọng cậu thận trọng khi cậu nói thêm. Vả lại, vài tháng nữa là chị đã 29 rồi đấy. Em nghĩ chị nên cân nhắc chuyên tái giá.
Emma phì cười. tái giá! Frank, em thật điên mất rồi. Chi lấy ai? Chung quanh làm gì còn đàn ông. Vẫn còn đang chiến tranh mà em?
- Vâng, nhưng năm nay thể nào nó cũng kết thúc khi Mỹ nhảy vào, tình thế bắt đầu thay đổi, đồng minh đang tiến mạnh. Em chắc chắn trong khoảng chín tháng nữa gì đó sẽ có tuyên bố ngừng chiến, đàn ông sẽ trở về.
- Nhưng bây giờ mới là tháng giêng, Emma há miệng nàng vẫn còn cười, mắt mở to. Tất cả các thanh niên rõ ràng là đang đi vắng. Em hơi ông cụ non đấy, cưng ạ.
- Ví dụ như Blackie O'neill chẳng hạn?, Frank vừa gợi ý vừa nhìn phản ứng của chị. Anh ấy luôn luôn ngưỡng mộ chị. Và bây giờ cả hai đều tự do. Mà không phải chỉ có thế, cả một năm vừa qua, chị trông nom chăm sóc Brian như con đẻ của mình. Nhận thấy chị mình không hề lay chuyển, cậu cười và nói nốt: Hai người đâu có phải xa lạ.
Ô, Frank, đừng ngớ ngẩn nưa, Emma vẫy tay, gạt bỏ câu chuyện đó. Chị coi Blackie như một người anh. Vả lại, chị không chắc là chị có muốn lấy chồng nữa hay không. Ngoài tất cả những chuyện đó ra, chị không muốn có một người đàn ông can thiệp vào công việc buôn bán của chị.
- Cái công việc buôn ban chết tiệt đó, Emma! đôi khi em không hiểu chị. Đôi mắt cậu suy tư khi cậu liếc lên nhìn chị. Đúng là chị cảm thấy an toàn trong những ngày này. Chị là một người phụ nữ giàu có, và Joe cũng để lại nhiều. Không biết bao nhiêu nữa chị mới coi là đủ?.
Một nụ cười lướt qua miệng nàng khi nghe tên gọi rút gọn như vậy của tuổi thơ, nàng nhún vai. Thực tế không phải là vấn đề tiền. Chị thích công việc, Frank. Thành thực mà nói, chị tìm thấy lạc thú trong đó và chị cũng còn con cái để phải nghĩ tới nữa. Tương lai của chúng nó. Và chị có thể điều hành cuộc đời mình không có sự giúp đỡ của ai, hoặc lời khuyên dù cho nó có thiện ý đến mấy.
Frank giơ tay lên. Em chỉ nghĩ là chị nên thư thả lại và nghỉ ngơi lấy một lần trong đời.
Emma nghiêng người về phía trước: "Frank này, em đừng có lo lắng nữa, chị sẽ nổi cáu và đi ngay chuyến tàu tới về Leeds nếu...", nàng ngừng lại giữa chừng và cúi đầu xuống.
- Có chuyện gì thế?
- Không có gì hết. Ồ, hai người đàn ông ngồi ở bàn đối diện. Họ cứ nhìn chằm chằm chúng ta. Không biết em có biết họ không. Nhưng bây giờ đừng nhìn, họ sẽ thấy em mất.
- Em đã để ý thấy họ khi họ vào. Họ đi khắp nơi khắp chốn. Tuy nhiên em không biết họ, nhưng em biết là cái anh chàng trẻ hơn, anh chàng thiếu tá đẹp trai là người Úc, nhìn cái uy hiệu trên quân phục của anh ta thì biết anh ta thuộc binh đoàn thứ Tư của quân đội Úc.
- Một tên thuộc địa khốn khiếp! thảo nào.
Vui vui vì sự giận dữ loé lên trong mắt nàng, Frank nói: "Điều này có nghĩa là thế nào?".
- Từ lúc hắn ngồi xuống thật không sao chịu nổi. Mỗi lần chị nhìn lên chị lại bắt gặp cặp mắt hắn nhìn chị. Mà mới trâng tráo chứ, nàng giận dữ nói.
- Thôi nào, chị Emma. Còn sao nữa? Em không nghĩ là chị biết được chị đẹp nhường nào, cưng. Frank ngắm nhìn chiếc áo nhung xanh, chuỗi ngọc màu kem đeo ở cổ, vòng đeo tai, mái tóc óng ả chải về phía sau thành búi. Trông chị chỉ khoảng mười tám, Emma. Và em rất vui vì chị không trát phấn son lên mặt như hầu hết phụ nữ gần đây. Cậu mỉm cười. "Phải, chị đúng là người phụ nữ đẹp nhất trong phòng này"
- Thì cũng có nhiều đâu để mà lựa chọn, Emma trả lời ngắn gọn, nhưng nàng mỉm cười và hỏi giọng ngượng ngùng, tò mò. "Chị như thế thật à, Frank ?"
- Thật đúng!
Người hầu đến bên bàn nói giọng cung kính: "Xin lỗi ngài, thưa ngài, ngài có điện"
Frank gật đầu và quay sang Emma: "Em quay lại ngay. Xin lỗi chị". Cậu đẩy lùi ghế lại và đứng lên. "Chị xem thực đơn và quyết định gọi tráng miệng đi".
- Ờ, được rồi, cưng. Emma nhìn Frank bước qua sàn phòng ăn khách sạn Ritz. Trông cậu thật sang trọng, học thức trong bộ dạ phục. Nàng hết sức tự hào về những thành tựu và công việc em nàng đã làm. Cậu là một người thân yêu, và luôn luôn quan tâm lo lắng đến hạnh phúc của nàng. Emma mỉm cười, tự hỏi không biết Frank sẽ nói gì nếu cậu biết về Công ty Emeremm. Chắc nó lại lên lớp cho mình một bài nữa và nói mình ôm đồm quá nhiều, nàng ngẫm nghĩ. Nhưng chính công ty ấy sẽ là cơ ngơi thực sự của mình. Công việc mới này là một ý niệm sâu sắc, ngay chính nàng cũng phải nói như vậy. Đó là một công ty bao quát nàng đã đầu tư vào bằng cách bán nhà máy giầy của Joe và nhaf máy thuộc da với giá rất cao. Và trong vòng mười một tháng tồn tại nó đã rất phát đạt. Cái tên Emeremm là do nàng phát minh ra, rút gọn của từ emmerals (ngọc bích) và Emma. Một hôm nàng đã định gọi nó là Nhà máy liên hợp Harte, nhưng lúc này nàng không muốn nói, mọi người biết nàng có liên quan tới nó.
Vì những lý do riêng, nàng muốn giấu tên người chủ. Mặc dù nàng là người có cổ phần duy nhất, nàng không xuất hiện tên trên bảng, cũng không có mặt trong công ty. Bề ngoài nó được điều hành bởi một giám đốc quản lý và hai giám đốc khác nàng chỉ định. Những người do nàng mua và vì thế cũng do nàng làm chủ. Những người nộm làm theo chỉ dẫn của nàng.
Emma nhìn quanh phòng ăn lịch sự một cách lơ đãng trí óc nàng còn mãi nghĩ tới Công ty Emeremm và những khả năng tài chính vô cùng tận của nó. Khi mắt nàng lướt qua những chiếc bàn khác, vô tình gặp mắt viên thiếu tá Úc và, trước sự kinh ngạc của mình, trong một lúc nàng thấy mình không thể nhìn đi. Anh ta đẹp trai quá, tự tin quá, Emma nghĩ, trong lòng thấy bực bội. Mái tóc mượt, lông mày rậm, hàng ria trên cái miệng đầy ham muốn được tỉa cẩn thận, đen nhánh trên khuôn mặt ngăm đen dầu dãi và đầy sức cuốn hút. Và đôi mắt màu xanh thẫm đến thành tím. Ngay cả vết nứt ở cằm anh ta cũng sâu hơn bình thường . Chiếc miệng rộng của anh ta đưa lên trong một nụ cười như trêu ghẹo đưa hai lúm đồng tiền lên má anh ta, và cái nhìn của anh ta lúc này táo tợn, khiêu khích làm nàng hơi chùn lại . Đỏ mặt, nàng quay đi. Sao, hắn ta thật là bất nhã, nàng nghĩ hai má nóng bừng . Nàng có một cảm giác kỳ quái hắn ta biết thân thể nàng thế nào khi nàng trân truồng . Bối rối, Emma với lấy ly rượu, và trong lúc bối rối nàng gạt đổ nó . Càng nhục nhã hơn, nàng lấy khăn ăn thấm vào chỗ đổ trên khăn trải bàn .
Người hầu bàn lập tức đến giải cứu cho nàng, lẩm bẩm nói anh ta có thể dễ dàng gột được và nhanh chóng đặt một tấm khăn sạch lên vết bẩn . Anh dọn đĩa đã ăn rồi đi, Emma cám ơn anh khi anh đi. Viên thiếu tá lại ở trong tầm mắt nàng, và nàng bực bội thấy cái nhìn ngạo xược của anh ta vẫn đặt trên nguời nàng . Một nụ cười thích thú đùa rỡn trên môi và sự thách thức không che giấu trong mắt anh ta, Emma cầm tờ thực đơn một cách tức giận và vùi bộ mặt nóng bừng của mình sau đó . Nàng rủa cái thằng điên không thể nào tha thứ được ở bên kia phòng ăn đang trắng trợn đùa rỡn nàng, nàng rủa gấp hai lần Frank với cuộc nói chuyện dài đến bất tận của nó .
Khuôn mặt sạm đen và dầm dãi nắng gió của Bruce McGill có vẻ vui vui và cặp mắt xanh sáng của ông lấp lánh khi ông nói: Nếu con có thể dời mắt khỏi cái con ngưởi hấp dẫn ấy một giây phút, thì có lẽ chúng ta có thể trò chuyện được với nhau một cách lý thú trong bữa ăn, con trai.
- Ôi, xin lỗi ba, Paul McGill nói . Anh đổi thế ngồi trong ghế và chú ý nghe cha mình . Nhưng cô ấy rõ ràng là người phụ nữ cuốn hút nhất con chưa bao giờ được thấy . Ba đồng ý không .
Ông Bruce gật đầu: Ba đồng ý, con trai ba . Ba sợ là con thừa hưởng được của ba cái khiếu đánh giá phụ nữ . Không bao giờ có thể cầm lòng được trước cái đẹp .
Tuy nhiên, Paul này, ba muốn nói chuyện với con. Dạo này ba không gặp con nhiều .
- Rồi ba sẽ phải chán nhìn thấy con trong vài tuần lễ tới . Cái vết thương khốn khiếp này còn lâu mới khỏi được .
Ông Bruce có vẻ lo lắng . "Không đau chứ con"
- "Không, nó chỉ khó chịu đặc biệt là ở cái thời tiết Anh khốn khổ này". Paul mỉm cười hài hước . "Con không nên phàn nàn, có phải không? Thay vì, con nên cám ơn số phận may mắn của con. Con đã vượt qua chiến dịch Gallipoli không một vết xước thật là một điều kỳ diệu . Thế rồi cái này lại xảy ra ở Pháp".
- "Ừ, con may lắm". Một vẻ nghiêm trang lướt qua nét mặt ông Bruce. "Ba những mong sau đó con sẽ ra khỏi để có thể trở về Coonamble với ba. Nhưng ba nghĩ là khó có thể được . Con có trở lại Pháp tham gia đội quân của đại tá Monash không?".
- Con nghĩ thế . Nhưng đến nay chúng ta đừng lo chuyện đó nữa . Con muốn có một thời gian đầy vui vẻ trong khi con thấy trong người vui tươi.
- Ba mừng khi nghe con nói thế . Con đáng được như vậy sau khi đã trải qua biết bao nhiêu cám dỗ . Nhưng cứ ung dung thoải mái, con trai ba. Ông Bruce cười, đôi mắt lại vui tươi. "Lần này đừng mắc chuyện bê bối nho nhỏ nữa. Dolly vẫn không để ba quên cái lần gặp gỡ lãng mạn vừa qua của con với bạn cô ta".
- Ôi, chúa ơi, ba đừng nhắc chuyện ấy nữa, ba. Con thề không dính dấp đến phụ nữ mỗi khi con nghĩ đến cái chuyện rắc rối ấy . Bao giờ chúng ta tới nhà Dolly, ba?
- Bất cứ lúc nào sau bữa ăn tối, con ạ. Con biết Dollyvà các bạn nhà hát của cô ấy . Những cuộc tiệc tùng của cô ta thường kéo dài cho đến sáng . Nhân tiện, ba mong con không phiền, nhưng ba đã quyết định không đi. Con có thể đến một mình . Con sẽ thích . Chuyện tới cô ấy lời cáo của ba. Ba sợ tối nay ba không có lòng dạ nào . Hơn nữa, ba cũng thích tạt đến phố Nam Audley để thăm Adam Fairley.
Chiếc đầu tóc đen của Paul ngẩng phắt lên: "Hồi này ông ấy thế nào ?".
- Không được khoẻ chút nào, tội nghiệp . Thực sự là rất buồn ...tất cả những chuyện đó . Ông ấy không bao giờ được như cũ từ sau khi Olivia mất và bây giờ lại bị như vây . Ba thật là đau khổ khi nhìn thấy ông ấy phải ngồi ở ghế đẩu . Một con người vốn hoạt động như ông ấy . Cái chết của Olivia là một bi kịch và ông ấy rất đau khổ . Bạch huyết mà con. Một phụ nữ hoạt bát và dễ thương như vậy . Ba nhớ buổi tối đầu tiên ba gặp nàng, khoảng 14 năm về trước . Nói thật, ba cũng có đem lòng mơ ước . Ba vẫn còn nhớ dáng điệu của nàng . Mê hồn . Nàng mặc chiếc áo màu cánh trà và đeo chuỗi ngọc biếc xanh.
Vừa lúc này Emma và Frank đứng lên, rời phòng ăn. Đôi mắt của Paul McGill xoáy vào Emma mỗi bước nàng đi. Anh quát sát đầu nàng ngẩng cao kiêu hãnh, lưng thẳng, sự tự tin hoàn toàn của nàng, dáng vương giả khi nàng lướt đi, anh càng thêm thôi thúc .
Paul nhìn người phụ trách hầu bàn và ra hiệu cho anh ta. Quay sang cha, anh nói: "Con sẽ tìm ra nàng là ai ngay bây giờ ... Charles, quý ông vừa rồi đi cùng với tiểu thư mặc áo nhung xanh là ai vậy ?".
- Dạ thưa ngài, đó là Frank Harte . Frank Harte của tờ tin tức hàng ngày . Một quí ông lịch sự . Phóng viên mặt trận nổi tiếng .
- Thế còn tiểu thư ?
- Xin lỗi thiếu tá, tôi không được biết ạ. Như vậy, ông Harte nổi tiếng, phải không?. Ông Bruce hỏi chen. Dạ vâng, thưa ngài đúng thế . Hiện nay ông ấy viết về chính trị . Tôi hiểu là ông ấy vốn vẫn là người được sủng ái của Ông Loyd George .
- Cám ơn Charles, ông Bruce nói . Anh giúp đỡ chúng tôi nhiều quá . Ông nghiêng người về phía trước, nhìn con trai một cách tu lự . Paul này, ba không muốn con làm một điều gì ngớ ngẩn . Phải coi chừng đó . Ba có quan hệ dính dáng rất nhiều với một số chính trị gia của nước này . Ba không thích có vấn đề này nọ vì những câu chuyện trăng gió lãng mạn của con. Thiếu nữ đó có thể là vợ của anh chàng đó, con; và vì anh ta có quan hệ nhiều nên có thể là con đang chơi một trò nguy hiểm đó .
- Ba đừng lo. Con không làm ba phải rầy rà đâu. Tuy nhiên, con sẽ tìm hiểu cô ấy là ai dù có phải chết . Paul ngồi lại trong ghế, lấy hộp thuốc lá ra. Anh châm một điếu thuốc, trí óc làm việc rất nhanh. Tài sản khổng lồ của cha anh đã mở ra cho anh một cửa, toàn những cửa thuận lợi, anh bắt đầu tính tới các bạn của anh, tự hỏi không hiểu ai là người thích hợp nhất có thể thu xếp giới thiệu với Frank Harte.
Có khoảng hơn chục người chi đó trong phòng khách của Dolly Mosten khi Emma và Frank bước vào buổi tối hôm ấy . Emma mới đi được ba bước nhỏ vào trong phòng, nàng bỗng dừng ngay lại, nắm lấy cánh tay Frank. Giật mình, cậu quay lại phía chị .
- Frank chúng ta phải về thôi!. Nàng rít lên.
Cậu ngạc nhiên: Về! Nhưng mà chúng ta vừa mới đến xong.
Ngón tay nàng nắm chặt tay cậu và đôi mắt khẩn nài "Nào, Frank! Chúng ta phải về . Ngay lập tức!".
- Chị đừng ngớ ngẩn, Emma. Như vậy kỳ quá sức và em cũng không muốn làm phật ý Dolly. Như vậy còn tệ hơn cả cái chết nữa . Vả lại, không những cô ấy là nữ diễn viên hàng đầu của Luân Đôn và không thể coi thường được, cô ấy còn giúp đỡ em rất nhiều trước đây. Cô ấy sẽ không bao giờ tha thứ cho em. Tại sao lại có chuyện quay ngoắt đi như vậy? Chính chị muốn đến sớm mà.
- Chị thấy ...ốm quá!, Emma bịa chuyện, "muốn xỉu".
- Xin lỗi, nhưng em sợ là muộn mất rồi, bà chị ơi.
Frank lẩm bẩm . Dolly Mosten đang đi về phía họ, một áng mây hàng lụa mỏng màu vàng và kim vương, mái tóc đỏ rực như lửa bao lấy khuôn mặt tuyệt vời nhưng trống rỗng của nàng . Và, đi theo sau là viên thiếu tá Úc mà họ đã gặp ở Ritz. Thì ra là như thế! Frank nghĩ . Mắt cậu trêu chọc khi cậu nhìn chị và nói nhấn: "Anh ta không cắn đâu".
Emma không có dịp để trả lời . Dolly chào đón họ nồng nhiệt và giới thiệu, giọng nói mượt mà nổi tiếng của nàng vang lên tiếng cười, sự vui vẻ như kịch của nàng bao trùm lấy họ trong sự thân mật mà Emma cảm thấy khó chịu một cách lạ . Nàng nghiêng đầu để tránh viên thiếu tá đang đứng lù lù trước mặt nàng như muốn vồ lấy . Emma thấy như bị dồn vào một góc, sau đó nàng thấy bàn tay mình bị một bàn tay khoẻ hơn, to hơn nhiều lần nắm chặt lấy . Emma ở trong một tình thế bối rối, nàng nhìn xuống lớp lông đên phủ lên bàn tay đó, sợ quá không dám ngẩng đầu lên nữa .
- Thưa bà Lowther, tôi rất sung sướng được gặp bà . Đây thật là một niềm vui không ngờ đến sớm như vậy, mặc dù, phải thành thực nói, tôi đã quyết định làm quen với bà . Thật là tình cờ cho cả hai chúng ta, tối hôm nay tôi lại tạt đến nhà Dolly, giọng vang vang của anh ta kéo dài, giọng mũi Úc hầu như không nhận thấy .
Sao, cái thằng quỉ hỗn láo và tự cao tự đại này, Emma nghĩ, sự bối rối và ngượng ngùng nàng cảm thấy ở Ritz lại loé lên trong lòng nàng . Nàng có một ao ước hết sức to lớn là tát vào mặt anh ta, nhưng sự lịch sự bẩm sinh đã ngăn nàng . Thay vào đó, nàng ngẩng đầu và cuối cùng đã nhìn được vào cái bộ mặt đang chằm chằm nhìn vào mặt nàng . Miệng nàng hé mở . Không một lời nào thốt ra. Nàng chớp mắt, nhận thấy vẻ ngạo xược trong con mắt bàng hoàng đó, cái nụ cười diễu cợt trong khi anh đợi nàng trả lời .
Emma cảm thấy sự thôi thúc của bàn tay Frank ở phía sau lưng nàng và rồi trước sự kinh hoàng của mình, và trước khi nàng có thể ngăn được mình, nàng nói lạnh lùng: "Tôi hiểu ông là một người Úc, thiếu tá McGill. Tôi hy vọng hành vi khiếm nhã, ông thể hiện một cách lộ liễu buổi chiều hôm nay không phải là tiêu biểu của đặc tính dân tộc ông mà đơn giản chỉ là ông thiếu một nền giáo dục . Nếu không, đồng bào của ông sẽ nhận được một sự tiếp đón lanh lùng ở nước này, nơi phụ nữ được tôn trọng . đây không phải là miền hoang dã, thưa thiếu tá".
Dolly há hóc miệng. Frank kêu lên: "Emma, chị cư xử gì lạ lùng thế".
Nhưng thiếu tá McGill rõ ràng là rất thích thú . Anh ngửa đầu về phía sau và cười phá lên, và anh giữ tay nàng chặt hơn khiến nàng nhăn mặt lại .
Emma quay sang Dolly . "Tha lỗi cho tôi, Dolly. Tôi không muốn bất lịch sự với chị. Xin tha lỗi. Tôi phải về."
"Tôi thấy khó chịu quá . Tôi phải ăn cái gì , không chịu nổi !" . Nàng cố gắng rút tay ra nhưng viên thiếu tá bóp chặt như một gọng kìm .
Thiếu tá nói : " Bà đã đánh trúng bà Lowther . Tôi tin là tôi xứng đáng như vậy " . Paul nghiêng đầu về phía trước , cúi đầu chìa má phải cho Emma " Bà muốn tát cho nguôi giận !".
Đỏ mặt , Emma bước lùi lại một bước . Thiếu tá lập tức kéo nàng lại nhập bọn . Anh ta nói :" Tôi nghĩ có lẽ tôi đi lấy một cốc sâm banh mời bà Lowther . Và tôi hy vọng tôi sẽ có thể thuyết phục bà rằng ngay cả dân thuộc địa cũng văn minh " . Anh khoác tay Emma như thân hữu .Emma cố gỡ cánh tay ra , nhưng anh ta lập tức lấy tay kia đặt lên và chầm chậm lắc đầu . " Nào bà Lowther ", anh ta nói một cách mệnh lệnh . Nàng thấy mắt anh ta xấc xược , căng thẳng và nàng càng căm ghét anh ta thậm tệ .
- " Chúng tôi xin lỗi ", Paul nói với Dolly và Frank, rõ ràng là hài lòng với mình khi đưa lướt nàng đi .
- " Một chút sâm banh sẽ làm bà dịu lại " , Pôn vừa cúi chào lịch sự ,một đôi lần anh ta biết , nhưng vẫn không chậm bước . - " Ông có thể đưa một con ngựa tới máng nước nhưng không thể bắt nó uống " . Emma rít lên , máu nàng sôi sục .
- " Ngay cả nhưng con ngựa cái bướng bỉnh nhất và cáu bẩn nhất ( ối ....đồ cà chớn . tháo guốc chọi cha bây giờ )cũng có lúc phải khát , thưa bà Lowther , anh ta nói khẽ , đôi mắt lướt trên người nàng một cách thô bạo . " Tất nhiên còn tuỳ lần giải khát cuối cùng là bao giờ . Tôi thấy bà khô nẻ rồi đấy " .( móc mắt hắn ta đi Emma )
Lời nói của anh ta , nhìn phía ngoài có vẻ là vô tư thôi , nhưng nó đầy ẩn ý và lòng ham muốn không che giấu , lấp lánh trong con mắt anh ta bộc lộ ý nghĩ và ý định của anh ta . Đôi má Emma nóng bừng , khi họ bước qua sàn và nàng bực tức thấy sự gần gũi về cơ thể của Paul Mcgill - những ngón tay của anh ta vẫn níu chặt lấy ngón tay nàng , cánh tay anh ta chạm một cách thân mật vào bờ vai để trần của nàng . Anh ta cao hơn và to hơn nàng nghĩ khi ở Ritz , và anh ta dường như chế ngự nàng . Anh ta toát ra sức mạnh che giấu và chất đàn ông trần tục làm nàng muốn ngất xỉu . Một cảm giác xôn xao kỳ lạ tràn ngập cơ thể nàng , tim nàng đập nhanh , đập quá nhanh dưới lớp nhung xanh đến độ nàng nghĩ nó muốn vỡ tung , nàng hồi hộp và nhụt ý chí . Đó chỉ là tức giận , nàng tự chủ và nàng thực sự tin đó là nguyên nhân chính của sự mệt mỏi đột ngột của nàng .
Emma thấy phòng khách của Dolly to lên gấp 3 lần và nàng thấy tấm thảm dài ra bất tận . " Làm ơn , tôi mệt người " , nàng nói hết hơi . " Đằng kia . Ông có thể đi tìm một người hầu bàn ....".
- " Ồ không , không đời nào ! Bà không thoát được một cách dễ dàng như thế đâu " , Paul kêu . Anh ta đưa nàng vào góc đó một cách hết sức khéo léo . Emma mỗi lúc một thêm buồn bực nhận ra là bây giờ không có cơ hội nào để có thể thoát được ngay , nàng cũng nên ở lại nhà Dolly một chút vì Frank . Nàng ngồi xuống ghế sofa khoan khoái vì đã thoát nắm tay của viên thiếu tá và miễn cưỡng cầm lấy ly sâm banh anh ta giật lấy người hầu bàn lướt qua . ( Thiệt ...cứ như ăn cướp )
Nhưng nàng không có ý định lùi bước trước cái gã đàn ông kiêu căng này , cũng không thông cảm gì với tình cảm của anh ta , và vì thế nàng lạnh như băng : " Tôi chắc cái kỹ thuật thô bạo và thành thạo ông áp dụng thành công với hầu hết phụ nữ , ông thiếu tá . "
Paul gật đầu và vắt chân một cách thờ ơ . " Nói chung , tôi có thể nói như vậy " , anh ta nói một cách lười nhác . Anh ta nhìn nàng một cách xấc láo làm cho ngực nàng và cổ nàng đỏ ửng lên.
- Tôi xin nói để ông biết ,với tôi không được - Emma nói mặt kiêu căng - Tôi khác hầu hết các phụ nữ khác .
- Tôi nhận thấy điều ấy - anh ta thừa nhận , cái đểu cáng vẫn còn đọng trong mắt anh ta - Sự thật thì , tôi tin là tôi đã phát hiện được đặc tính ấy ở bà ngay ngập tức . Tôi nghĩ , chính điều ấy đã cuốn hút tôi đến với bà , ngoài vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng thành của bà - Anh ta cười rộng miệng " Bà Lowther , mà hình như bà cũng thẳng thừng làm cho người ta đến nghiêng ngửa . Đầu óc mạnh mẽ , thêm vào đó là đáo để nữa . Vâng , rất khác , tôi phải nói như vậy . Bà dùng rượu mạnh và đá , có lẽ ? " .
- Toàn đá thôi , thiếu tá , Emma trả lời .
- Đá có thể tan , bà biết đấy .
- Nó cũng có thể rất nguy hiểm . Nhiều người gặp những tai nạn chết người với đá - Emma bật lại .( Dài dòng làm gì , cứ chọi một cục vô đầu hắn là hắn hiểu ngay ...sự nguy hiểm từ đá liền )
- Nguy hiểm luôn luôn hấp dẫn tôi , thưa bà Lowther . Tôi thấy nó rất hay . Đầy thách thức . Nó kêu gọi tất cả bản năng của đàn ông của tôi. ( Còn chần chừ gì nữa Emma . Đối phương có nhời rồi , chọi thôi )
Emma hằn học nhìn anh ta , quay đi một cách khinh bỉ , liếc nhìn quanh phòng , đôi mắt nàng tìm Frank . Cái con người đàn ông này khơi dậy trong lòng nàng phản ứng tức thời và trực tiếp , một phản ứng vừa làm nàng bực tức vừa làm nàng bối rối . Với cái tính tự cao tự đại , cái vẻ ngoài làm ngạc nhiên của anh ta , cái tự tin và miệng lưỡi ngạo đời , anh ta không giống bất cứ người đàn ông nào nàng đã gặp . Và không một người đàn ông có can đảm dám ngạo xược với nàng hoặc nói năng phóng túng như vậy với nàng . Nàng ghét cái anh chàng thiếu ta này và bực bội với cái lối anh ta làm nàng sắp ngất xỉu dưới chân anh ta . Ở con người anh ta cũng có một vẻ tàn bạo mà lạ lùng thay nó không làm nàng bối rối và nàng ngạc nhiên, trong một phút chốc , nàng không hiểu sự tàn bạo ấy là một nét nàng quen thuộc và dễ xử lý .
Paul ngả người trong ghế , đôi mắt anh ta tư lự trong khi anh ta ngắm nhìn khuôn mặt nhìn nghiêng tuyệt vời của Emma , anh ta sung sướng vì cái may mắn khôn cùng là được tình cờ gặp nàng đêm nay . Anh ta nghĩ . Nàng thật là khác . Độc đáo . Nàng phải thuộc về ta . Ta sẽ không được nghỉ ngơi cho đến khi ta chiếm được nàng . Toàn bộ nàng . Không phải chỉ thân thể mà cả trái tim , khối óc của nàng nữa . Anh bị rung động cho đến cội rễ , bởi vì đã không một phụ nữ nào đã từng khơi dậy trong anh một phản ứng mãnh liệt như vậy . Paul McGill 36 tuổi ,đầy ham muốn phiêu lưu , trần tục và say đắm , đam mê xác thịt vượt qua mọi giai cấp , đánh thức dục vọng của tất cả phụ nữ . Cả những cô gái bán hàng cũng như các phụ nữ quí tộc đều thấy anh ta không thể cưỡng lại được và do đó , những cuộc chinh phục của anh ta quá dễ dàng, quá nhiều , đã từ lâu anh ta không đếm những chuyện dan díu của anh ta nũa .( Kinh khủng !)
Phương pháp của anh ta , cho đến giờ phút này của của đời anh ta là dựa trên thái độ " theo tôi thì theo , không theo tôi thì thôi " , phụ nữ tranh nhau anh ta , hăm hở đến thành ra khiếm nhã trước khi anh ta nhởn nhơ bước ra khỏi cuộc đời họ , nụ cười ngạo nghễ vẫn còn nguyên và trái tim không hề rung động.
Mặc dù tất cả , mặc dù cung cách ăn chơi và hưởng lạc của anh ta , Paul McGill là người thông minh , anh ta khôn ngoan và có tầm nhìn tâm lý sâu rộng . Sắc sảo hơn vẻ ngoài anh ta giả vờ , lúc này anh ta nhận ra , đột nhiên hết sức rõ ràng rằng Emma có phẩm chất hoàn toàn khác . Nàng sẽ không bị choáng vì cái phong độ ngang tàng hoặc vẻ cường tráng nam nhi của anh . Đấy là một phụ nữ chỉ có thể chinh phục bằng sự hiểu biết , lương thiện và chiến thuật tế nhị . Thừa nhận một cách đau buồn là đã khơi lòng thù hận của nàng một cách không cần thiết với các trò nhạo cợt của mình , anh quyết định thay đổi chiến thuật và không tìm cách chiếm đoạt nàng ngay lập tức nữa .
Anh nghiêng người về phía trước và nói : " Chúng ta đừng nói những điều ngớ ngẩn như thế này nữa . Chúng ta đừng làm hỏng nó " .
- " Hỏng cái gì ? " Emma bật lại ngay .
- " Cuộc gặp gỡ lần đầu của chúng ta . Buổi chiều đầu tiên của chúng ta với nhau ".
- " Và cũng là buổi cuối cùng ! "
Pôn đưa mặt mình lại gần mặt nàng hơn ." Tôi thích một người phụ nữ có cá tính thưa bà Lowther . Tôi chắc ông Lowther cũng cùng chung một ý thích ấy ".
Ngạc nhiên , Emma há miệng . Thật là một tên khốn nạn lắm lắm ( đúng ...đúng ), nàng bực tức nghĩ . Cái nhìn của nàng lạnh lùng . " Tôi là một goá phụ , thiếu tá McGill . Chồng tôi chết trận mười tám tháng trước . Trong cuộc tấn công Somme " .
" Ôi , trời "Paul nghĩ .Anh vội nói : " Xin bà tha lỗi cho tôi , tôi hết sức xin lỗi bà . Tôi không hề biết . Tôi là một thàng ngu vô thức " ( chính xác ). Anh lẩm bẩm tự rủa mình và ngồi ngây người . Emmma yên lặng , không đáp lại .
Lúc này , Paul nói : " Tôi thật là thiếu tế nhị . Trong thời chiến , người ta nên cẩn thận hơn . Tôi thành thực xin lỗi . Tôi cũng hy vọng bà chấp nhận lời xin lỗi vì hành động bỉ ổi của tôi ở Ritz . Thật là không thể tha thứ được . "
Emma nghe được sự thành thật trong giọng nói của anh ta , thấy được cái thiện cảm trong con mắt anh , vẻ giễu cợt đã mắt hẳn trên đôi khuôn mặt anh , nàng ngạc nhiên vì sự thay đổi cơ bản này trong thái độ của anh . " Bà có chấp nhận lời xin lỗi của tôi không ? "
- Có - Emma lẩm bẩm .
Frank đến chỗ họ , cậu đưa cho Paul chiếc gậy chống của anh ta . " Dolly nói tôi đưa cái này cho ông " . Câu quay sang Emma . " Chị thấy trong người thế nào ? Em hy vọng là khá hơn " .
- " Ồ , cám ơn em " , Emma nói " Chị xin lỗi Frank , chị không định làm phiền em " .
- " Frank này , tất cả là lỗi ở tôi " . Paul nói chen vào " chúng ta hãy quên chuyện ấy đi , được không ? "
- " Tất nhiên rồi , Pôn " . Cậu cười với hai người rồi đi ra gặp một chính khách nổi tiếng đang trò chuyện ở tận cuối phòng .
Emma liếc nhìn chiếc gậy . Paul nói " Tôi bị thương . Nhưng có lẽ bà không để ý tới chân tôi bị khập khiễng ". Ánh mắt anh ta có một vẻ thẹn thùng , khi anh ta nói : " Tôi phải thú nhận là tôi đã hết sức cố gắng để che giấu nó khi chúng ta bước qua phòng " .
- "Và ông đã rất thành công " . Emma thấy mình mỉm cười với anh ta và nàng phát hiện chút tự hào nho nhỏ của anh ta đã làm nàng xét lại ý kiến của nàng đới với anh . Nàng biết những điều như vậy và dịu đi đôi chút . Nàng ngả người vào ghế sôpha cảm thấy thoải mái hơn . Với nụ cười ấy ,trông anh ta giống một đứa trẻ muôn đời . " Tôi hy vọng vết thương của ông không đau quá , hoặc quá nặng " , nàng nói nhẹ nhàng .
- " Không , không đau chút nào hết , sự thật , tôi sắp sửa trở lại Pháp " .
Paul nhìn nàng trầm ngâm , vẻ mặt anh nghiêm trang . Anh nhận thấy anh đã có được thuận lợi đối với nàng , nhưng anh do dự trước khi nói . " Tôi còn được nghỉ một vài tuần nữa . Không biết chúng ta có thể gặp lại nhau nữa không ? Tôi biết bà cho tôi là một tên xỏ lá gì đó , nhưng thực tế tôi không phải như vậy đâu . ( không phải đâuuuu ......xí )Tôi không có lời nào bào chữa cho cái hành động gớm guốc của tôi ở Ritz hơn là thú nhận rằng tôi bị choáng váng vì sắc đẹp của bà . Tuy thế ,đáng lẽ tôi vẫn không nên gây cho bà điều bất tiện như vậy . Chúng ta có thể ăn trưa ngày mai để cho tôi chuộc tội lỗi của mình không ? " . Đôi mắt anh lấp lánh . " Tôi hứa , tôi sẽ cư xử như một sĩ quan và một người lịch sự , chứ không phải như một tên du đãng từ một miền hoang dã " .
- " Tôi đã có hẹn ăn trưa rồi " , Emma nói .
- " Nó có hết sức quan trọng không ? Bà có thể bỏ được không ? "
- " Tôi không nghĩ như vậy . Đó là hẹn với Frank mà tôi thì không có cơ hội gặp cậu ấy luôn . Cậu ấy sẽ thất vọng " .
" Vâng , tôi hiểu " . Mặt Paul bừng sáng lên . " Tôi không muốn tỏ ra láo xược , nhưng tôi có thể cùng dự được không ? Tôi có thể mời cả 2 vị làm khách của tôi được không ? ".Anh mỉm cười thật tươi tắn . " Vả lại , với sự có mặt của em bà , bà sẽ được trông nom ".
Emma mỉm cười . Anh ta thật là sòng phẳng ." Tôi sẽ phải hỏi ý kiến của Frank . Tôi không biết ý cậu ấy như thế nào ? ".
Trước sự khó chịu của Paul , Dolly đã lướt tới chỗ họ , anh đứng lên nhường ghế của mình . Cô ta từ chối và nói : " Tôi thấy là hai người đã vượt qua được cái sự lúng túng nho nhỏ của mình " . Đôi mắt cô lướt qua Emma rồi dừng lại ở Paul . " Người chiến binh bị thương thế nào ? Em mong là anh vui vẻ chứ , cưng . Chúng ta phải làm cho những người chiến sĩ dũng cảm của chúng ta được hạnh phúc , có phải thế không nào ? " . Cô ta vỗ vỗ vào cánh tay Paul một cách đùa nghịch . " Em thấy là anh có người trông nom tốt . Có lẽ em sẽ gặp anh tại bữa tiệc trưa của cụ nhà ngày mai ".
- " Ồ , tôi sợ là không . Tôi đã có một cuộc hẹn rất dài . Với định mệnh . Định mệnh " . Dolly dướn đôi lông mày lên bối rối ." Em không nghĩ là em biết nàng " .
Paul giữ cho khuôn mặt mình thẳng băng ." Tôi không tin là cô biết , Dolly ạ ". Dolly nhún vai ." Người ta không thể quen được với tất cả mọi người ở Luân Đôn , em nghĩ thế . Xin lỗi . Em phải đi đây , cưng " .
Paul nghiêng người về phía Emma , vẻ mặt anh nghiêm trang . " Có phải như thế không ? "
-Phải gì cơ ?
- À , bữa ăn trưa với định mệnh .
Nàng ngước nhìn anh và mỉm cười , nụ cười duy nhất làm mặt nàng sáng bừng lên ." Tôi nghĩ ông ăn trưa với tôi và Frank " , nàng nói
***********
Frank nói : " Tại sao chị lại làm như vậy , Emma ? " .
- Làm gì , cưng ?
- Chị biết rõ em muốn nói gì rồi mà . Rời Luân Đôn đột ngột như vậy .
- Chị chỉ có ý định ở lại thành phố một vài ngày thôi . Chị đã ở đây 2 tuần rồi . Chị phải trở lại Yorkshire " .
-Em không bao giờ nghĩ bà chị của mình lại bỏ chạy .
- “Chị không bỏ chạy”.
- “Có, chị có bỏ chạy. Có phải vì Paul McGill không?”
Emma nhìn em, nàng cắn môi. Nàng thở dài, “Ừ, đúng thế”.
- “Em cũng đoán như thế. Nhưng em vẫn không hiểu vì sao chị vội vã bỏ đi”.
- “Bởi vì anh ta trở nên khó chịu và, hơn nữa, chị không đặc biệt thích anh ấy”.
- “Emma! Tại sao chị có thể nói như thế! Nếu chị không thích anh ấy, tại sao chị lại để nhiều thì giờ với anh ấy như vậy? Hàng đêm, như em có thể nhớ được. Đi nhà hát, đi ăn, hội hè, cả tiệc trưa nữa. Em hầu như không thấy chị một mình bao giờ và em phải nói với chị làm cho người ta có cảm giác chị bị anh ấy mê hoặc”.
- “Không đúng, Frank Harte”
Frank lắc đầu và nhìn ra ngoài cửa xe tắc xi. Cậu quay lại nhìn Emma. Sau một phút suy nghĩ, cậu nói “Anh ấy mê chị chết mê chết mệt!”
- “Ồ, vớ vẩn”
- “Đúng thế rồi. Em chắc điều đó. Bất cứ ai nhìn thấy hai người cũng có thể hiểu được. Anh ta nuốt chị bằng đôi mắt. Và em biết chị cũng thích anh ấy, Emma”.
- “Frank xin em hãy để cho chị yên”.
- “Chị cho em biết lý do chính xác vì sao chị không muốn gặp anh ấy nữa”. “Bởi vì anh ấy duyên dáng quá, đẹp trai quá, hấp dẫn quá. Và quá nhiều, chị không thể điều khiển nổi. Vả lại ...”.Nàng không nói hết, giọng run run. “Vả lại sao?”
- “Chị sợ chị sẽ vướng mắc nếu chị ở lại”.
- “Em biết điều ấy”. Chắc chị định nói: “Chị yêu anh ấy, phải không?”.
- “Ừ”. Giọng nàng thì thào.
Frank cầm lấy bàn tay chị. “Anh ấy có biết chị đi không?”.
- “Không. Có mấy chữ cho anh ấy ở nhà hàng Ritz. Tối nay khi anh ấy đến đón chị, anh ấy sẽ thấy”.
- “Làm điều đó đối với anh chàng tội nghiệp ấy thật là không phải”.
- “Đó là điều duy nhất để làm. Thôi nào, cưng, đừng nói chuyện Paul McGill nữa. Em nói người lái tắc xi nhanh lên. Chị lỡ tàu mất”.
Mặc dù đầu óc biết tính toán, nhưng Emma có trái tim theo bản năng, đặc biệt là khi có những xúc động sâu sắc nhất, nàng đã hành động theo sự thôi thúc của bản năng cái ngày nàng đột ngột trở lại Yorkshire. Nhận ra rằng mình đã bị mê hoặc bởi Paul McGill như có sức hút của nam châm, nàng đã bỏ chạy, hốt hoảng và sợ hãi.
Từ lâu, Emma đã đi tới kết luận là nàng không có hạnh phúc đối với đàn ông. Hoặc là họ làm tổn thương nàng, hoặc nàng làm tổn thương họ. Những mối quan hệ của nàng không bao giờ là cân bằng. Nàng không biết nàng có thể đem lại đau khổ cho Paul McGill đầy tự tin không, nhưng anh là một mối đe doạ lớn cho nàng. Hài lòng với cuộc đời nàng như nó có lúc này, là điều nguy hiểm. Nàng không thể liều lĩnh với sự trỗi dậy của tình cảm. Chỉ trong công việc làm ăn buôn bán nàng mới sẵn sàng đánh bạc với nó.
Nhưng lúc này, sau hai ngày, nàng bắt đầu cảm thấy bối rối vì sự yên lặng hoàn toàn của anh. Phải chăng người cũng hơi thất vọng chút ít? Một giọng nói nhỏ khơi len từ đâu đó phía sau đầu nàng, nàng mỉm cười cay đắng, mắt nhìn về phía điện thoại. Có lẽ người có thất vọng đấy, nhưng như thế cũng xong, nàng thầm nói và nhìn xuống tờ báo cáo mới nhất của công ty Emeremm. Gần như ngay lập tức, sự chú ý của nàng lại phân tán, ý nghĩ của nàng lại quay về với Paul.
Hai tuần lễ rồi, ngày nào anh cũng quấn quít với nàng. Anh thật duyên dáng, ga lăng vui vẻ và ít nhiều rất là lịch sự. Anh đã ôm nàng trong tay, đã hôn nàng nóng bỏng và lòng ham muốn của anh bốc lửa. Nàng biết rằng anh biết anh đã khơi dậy được dục tình trong lòng nàng, nhưng cuối cùng anh đã kìm được mình. Anh đã không đưa ra một đề nghị nào không xứng đáng hoặc có ý dụ nàng và sự kiềm chế của anh làm nàng ngạc nhiên tuy cũng rất nhẹ người vì cử chỉ hào hiệp này.
Nàng rùng mình khi nhớ lại vòng tây ôm đầy âu yếm của anh, và lập tức gạt bỏ ngay kỷ niệm về anh. Rõ ràng anh đã quên nàng ngay rồi. Hay có lẽ lòng tự hào của anh bị tổn thương. Bởi vì anh ta là một kẻ cao ngạo và lòng tự trọng hẳn là bị thương tổn nặng nề. Nàng chắc chắn không một người đàn bà nào từng chạy khỏi cuộc đời của anh. Thật là quá đối với thiếu tá McGill, nàng nghĩ. Anh ta nguy hiểm và hay gây rối. tuy nhiên, thất vọng lại loé lên, nàng lắc đầu nghĩ tới sự không kiên định của mình, rồi lại đưa mắt trở lại với giấy tờ. công việc của nàng cần sự tập trung hoàn toàn.
Gladys gõ cửa và bước vào lặng lẽ, mặt đỏ hồng và xúc động: “Bà có khách thưa bà Harte”, chị ta vừa nói vừa lượn lờ trước bàn giấy.
- “Sáng hôm nay tôi không có hẹn gì hết”. Emma cau mặt. “Có chuyện gì vậy, Gladys? Trông chị có vẻ xúc động thế...”, Emma dừng lại, nàng nín thở. Nàng đoán được là Gladys sẽ nói gì. chỉ có một người duy nhất trên đời này mới có thể đem lại một vẻ đặc biệt như vậy đối với người phụ nữ này.
- “Đó là thiếu tá McGill thưa bà Harte. Ông ấy nói bà không đợi ông ấy nhưng bà cũng sẽ tiếp ông ấy”.
Emma gật đầu, vẻ mặt không thể đoán biết được, “Vâng, tất nhiên tôi sẽ tiếp ông ấy”.
Anh ta bước vào, đóng chặt cửa phía sau và đứng tựa vào đó. Anh mặc chiếc áo mưa ngoài bộ quân phục, chiếc mũ lưỡi trai đội lệch sang một bên. Anh mang một giỏ đi “picnic”ở một tay nhưng anh dùng gậy nữa.
Paul nhìn Emma nghiêm khắc. “Hèn nhát”, anh nói
- “Anh làm gì ở Yorkshire vậy?”. Emma cố gắng đứng cho vững. Tim nàng đập thình thịch, chân bủn rủn.
- “Anh tới để ăn bữa trưa với em”, anh giơ tay, vẫy vẫy ngón tay trỏ về phía nàng. “Anh biết, em đừng nói. Em luôn luôn ăn trưa ở văn phòng”. anh nhìn xuống chiếc giỏ. “Anh đã tiên liệu và đã đem giỏ thức ăn. Như vậy em không có lý do gì thoái thác. Anh không chịu trách nhiệm đối với thức ăn của nhà hàng Metropole, nhưng sâm banh là Dom Pévignon”.
- “Anh được việc quá”, nàng nói lặng lẽ, đã trấn tĩnh được đôi chút.
- “Ồ đúng như vậy”. Anh để giỏ thức ăn lên ghế, quẳng chiếc mũ lưỡi trai tiép theo đó, và khập khiễng qua sàn. Anh để cả hai tay lên bàn, nghiêng người về phía trước, cái nhìn của anh chăm chú vào khuôn mặt xanh xao của nàng. “Em bỏ chạy. Em khiếp sợ”, anh nói.
“Không thể phủ nhận được”, nàng không trả lời.
- “Em sợ ai? Anh. Hay chính em?”. anh chất vấn, giọng anh đột ngột đanh lại.
- “Em không biết”. Nàng nhìn xuống bàn. “Sợ anh, em nghĩ thế”
- “Em ngốc nghếch! Em không biết rằng tôi yêu em sao?”.
Anh bước vòng quanh bàn, kéo nàng vào trong tay anh, nắm lấy tay anh mạnh mẽ bóp chặt lấy nàng, miệng anh miết chặt lấy miệng nàng. Emma không thể chống lại. Tay nàng ôm lấy anh, nàng hôn lại anh, sự kích thích anh dâng lên trong lòng nàng lại trỗi dậy, sôi lên cuồn cuộn như lửa đốt. Đầu nàng quay cuồng, nàng thấy hai bắp đùi yếu hẳn đi. Anh đột ngột lùi ra, như anh thường làm như vậy trước đấy và nhìn chăm chăm xuống nàng. Anh nâng mặt nàng lên phía anh. Đôi mắt anh, mầu tím thẫm đến thành đen trông hết sức nghiêm trang.
Paul lắc đầu. “Em tưởng rằng vài trăm dặm có thể làm anh nản chí sao?”. Anh cười, anh là người Úc. Khoảng cách không có ý nghĩa gì với anh. Mà em không biết gì nhiều về anh sao? Emma? em phải biết rằng tính anh rất ương bướng”. Anh choàng lấy nàng, ôm nàng về phía anh, và lại cười. “Anh sẽ làm gì với em, Emma? Emma bướng bỉnh, ương ngạnh và mến thương của tôi. Thuần hoá em? Nhưng anh tự hỏi, giây cương có đặt được vào em không?”
Emma bám chặt lấy chiếc áo mưa của anh. Nàng không nói được nenn lời và đầu óc hỗn loạn. Anh ấy đã nói gì? Rằng anh yêu nàng. Tim nàng thắt lại, chân run lên, nàng không dám mở miệng. Nếu nàng mở miệng nàng sẽ nói với anh rằng nàng cũng yêu anh.
Paul hình như không quan tâm đến sự yên lặng của nàng. Anh nói “Trước hết, chúng ta hãy ăn trưa đã. Rồi em dẫn anh đi thăm cửa hàng của em. Sau đó anh muốn đi thăm nhà máy Layton”. Anh nói, cái nụ cười nhếch mép đầy hấp dẫn của anh và nói. “Sau đó anh sẽ gặp các con em, và anh hy vọng em sẽ mời anh ở lại ăn chiều. Chắc em không nỡ lòng bỏ một người lính cô đơn vào buổi tối một mình ở cái thành phố hoang vụ bị Chúa bỏ quên này chứ?”.
Emma lắc đầu.
- “Vậy thì chúng ta đồng ý rồi”.
- “Vâng, Paul”, nàng thì thầm, giọng nàng hiền lành một cách ngạc nhiên.
Paul McGill ở lại Yorkshire ba ngày, và trong thời gian đó, Emma còn biết được một khía cạnh khác của anh. Ở Luân Đôn, nàng đã cảm thấy anh có một cái gì đó hết sức thành thật và mặc dù anh thường cho người ta một cái cảm giác là khong thể nghiêm chỉnh được lâu, nàng đã ngờ rằng anh không phải như thế. Nàng đã không lầm. Cái khía cạnh đầy quan tâm ấy bây giờ đã bộc lộ với nàng. Anh cũng là một con người dịu dàng, một đặc tính được biểu lộ rõ rệt nhất đối với các con của nàng. Anh chăm chú lắng nghe Edwina, trả lời rất ân cần những câu hỏi của nó về nước Úc, anh đối xử với Kit như người ngang hàng. Kit như nuốt lấy từng lời của anh, nó sung sướng khi Paul dẫn nó trượt xuống lối lái xe và cùng chơi với những con tàu của nó trong phòng dành cho trẻ con.
Emma thấy Paul đã được cảm tình tốt đẹp của các con nàng, ngay cả Edwina luôn luôn xa lánh cũng thoát ra khỏi cái vỏ của nó dưới cái ảnh hưởng đầy vui tươi của anh. Emma theo dõi Paul từng li từng tí, nàng vui sướng vì mối quan tâm thực sự của anh đối với gia đình nàng, nhưng nàng thường nhận thấy một niềm mong mỏi kỳ lạ lung linh trong đôi mắt tím của anh khi anh tin rằng không có ai để ý đến mình. Nàng suy nghĩ tới lý do vì sao ngạc nhiên về cái con người lạ thường đầy rẫy những mâu thuẫn đó.
Ngày ra đi, anh nói “Emma, anh không còn lại nhiều thì giờ. Anh sắp sửa quay trở lại Pháp. Em có tới thăm anh ở Luân Đôn không? Tới sớm không?”
Emma không cần suy nghĩ: “Có’, nàng nói và mỉm cười với anh. Anh khẽ chạm vào má nàng. “Bao giờ”.
- “Sáng mai em có cuộc họp. Nhưng hôm sau em có thể đến. Thứ sáu”.
- “Em có thể đi chiều mai được không? Thời gian gấp lắm rồi”.
- “Vâng, được”.
Anh nâng mặt nàng lên: “Em có chắc thế không, Emma?”.
_ “Vâng, em chắc”. Nói như vậy nàng biết là nàng đã làm một điều cam kết đối với anh.
Đó là một buổi chiều tháng hai rét buốt và mưa phùn khi Emma bước xuống tàu ở đường King’s Cress. Nàng nhìn thấy anh trước. Anh đang đứng ở chỗ chắn mua vé, chiếc mũ vẫn đội nghiêng và cổ áo mưa kéo cao. Tim nàng rộn ràng, nàng bắt đầu chạy. Như vậy không đoàng hoàng, nhưng nàng không sao kìm được. Nàng không dừng lại cho đến khi ở trong vòng tau anh, thở không ra hơi và cười, mặt nàng ngời ngời hạnh phúc.
Anh ôm chặt nàng, nói với nàng trông nàng thật đẹp, tìm người mang hành lý cho nàng, đưa nàng vào trong xe của bố anh, chủ động như thường lệ. Và trong khi họ lái xe qua dòng thác xe cộ buổi chiều, Emma nhận thấy một sự khác biệt trong Paul và mặc dù anh nắm tay nàng và trò chuyện bình thường, nhưng giọng anh nhẹ, nàng cảm thấy có một nỗi lo lắng nào bên trong. Đó là một sự căng thẳng cố nén, nhưng vẫn quá rõ ràng đối với nàng.
Chiếc Daimler đỗ lại trước khi họ tới khách sạn Ritz, nơi Emma ở. Paul nói” Anh sẽ xuống đây và đi bộ đoạn đường còn lại”.
Nàng nhìn anh. “Sao vậy?”.
Anh cười. “Anh biết em rất thận trọng. anh không muốn làm em ngờ vực ngay phút em mới đến. Em hãy ghi tên vào khách sạn một mình. Một tiếng nữa anh sẽ đến uống với em. đằng nào thì em cũng cần một chút riêng tư. Thời gian để thay quần áo và tắm”.
- “Vâng tốt. Một giờ nữa vậy”.
Anh gật đầu, nhảy ra và đóng cửa xe lại. Emma tựa người trong ghế, nàng cảm động vì sự chu đáo của anh. Bỗng nhiên nàng cảm thấy một sự mất mát ghê gớm, một nỗi trống vắng dễ sợ, nàng giật mình. Sao mình lại ngớ ngẩn như thế nhỉ. Chút nữa thôi nàng sẽ lại gặp mà.
Phòng khách của khách sạn nhìn ra công viên Green. Một ngọn lửa cháy trong lò sưởi, đèn đã được bật sáng và từng đống hoa ở khắp mọi nơi, tất cả là của Paul, Emma nhận ra khi nàng đọc những lời vui vui trên những tấm thiếp trắng đặt trên mỗi đoá hoa. Nàng mỉm cười vui thích nhưng không dừng lại lâu để ngắm. Nàng vội vã mở vali, mắc quần áo của nàng lên và tắm trong chiếc chậu khổng lồ bằng đá hoa.
Tắm làm tan cái giá lạnh trong xương nàng, và làm nàng khoẻ khoắn trở lại, Emma tuồn vào trong chiếc áo lụa trắng, ngồi ở bàn trang điểm, miệng ngân nga, nàng cảm thấy sung sướng hơn bao giờ hết trong nhiều năm nay. Nàng chải mái tóc dài cho đến khi nó ánh lên trong ánh đèn và chầm chậm cuộn nó lại trên đỉnh đầu. Nàng đang cài chiếc trâm cuối cùng thì bỗng người căng thẳng và ngồi im phăng phắc, nàng đang có cảm giác lạ là không chỉ có một mình. Nàng từ từ quay đầu lại và nhảy chồm lên. Paul đang đứng tựa vào cửa phòng ngủ, hai chân bắt chéo, chiếc ly trong tay, quan sát nàng một cách hết sức chăm chú
- “Anh xin lỗi. Anh không định làm em hoảng sợ. Đáng lẽ anh phải gõ cửa”, anh nói. “Em yêu, em tạo nên một bức tranh đẹp quá”.
- “Anh làm thế nào mà vào được?”. Emma há miệng ngạc nhiên.
- “Sao, tất nhiên là qua cửa”. Anh bước lại phía bàn trang điểm và đặt một hộp đồ nữ trang nhỏ trước mặt nàng. “Cái này tặng em”, anh nói. “Em đeo đi”
Emma nhìn anh một thoáng nhanh, cái nhìn bối rối và mở hộp. Những chiếc vòng đeo tai bằng đá quý màu ngọc bích lóng lánh như lửa xanh trên nền nhung đen, nàng hít hơi: “Ôi Paul! đẹp quá!”. Nàng cau mặt “Nhưng em không thể nhận được. Chúng giá trị quá”.
- “Đeo vào”, anh ra lệnh.
Bàn tay Emma run lên khi nàng đeo chiếc bông tai. Nàng nhìn Paul qua gương: “Không thể tưởng tượng nổi. Sao anh biết màu ngọc bích là ngọc em thích nhất”.
Anh mỉm cười: “Anh có biết đâu. Nhưng với màu mắt của em, em chỉ nên đeo màu ngọc bích. Em xem, nó phản chiếu ánh sáng trong mắt em kìa”. Anh đặt ly rượu xuống, để hai tay dưới cằm nàng, đưa đầu nàng ngửa về phía sau, anh cúi xuống hôn lên trán nàng. “Nếu em không nhận thì anh phật ý lắm đấy. Anh sẽ không bao giờ nói với em nữa đâu”.
- “Như vậy thì em nghĩ là em phải nhận. Nhưng anh hoang phí quá”. Nàng mỉm cười với anh dịu dàng: “Cám ơn Paul”.
Anh lùi ra một chút. “Chúng ta vào phòng khác uống một chút đi”, anh nói và dừng lại ở cửa.
- “Để em mặc áo dài đã”.
- “Thôi, khỏi. Anh muốn nói chuyện với em. Em mặc thế lịch sự rồi”.
Emma kéo chiếc áo lụa quanh người và đi theo anh, nàng cảm thấy như vậy chưa được, nhưng quan tâm vì giọng nói của anh và không thể phản đối. Giọng anh có vẻ nghiêm trọng và tim nàng thót lại. Phải chăng anh phải đi Pháp sớm hơn dự định? Phải chăng đó là lý do sự căng thẳng của anh? Khi nàng vào phòng khách nàng hiểu ngay làm thế nào anh có thể vào phòng một cách lặng lẽ như vậy. Cánh cửa ở phía xa mở và tiếp theo nàng có hể nhìn thấy một phòng nữa y hệt như vậy. Nàng do dự, không ngờ lại có sự sắp xếp thân mật như vậy.
- “Thì ra anh đã vào phòng như vậy đó”, nàng nhận xét, giọng có pha chút tức giận
Anh không chú ý tới câu nói: “Anh uống whiskey, nhưng anh biết em thích vang hơn. Để anh kiếm cho em sâm banh”.
Mắt nàng nhìn theo khi anh rảo bước đi, sự tức tối của nàng chuyển thành nỗi căm giận lặng lẽ. Paul đã tự tiện quá nhiều. Tự tiện nghĩ rằng nàng sẽ là người tham gia hăm hở, tự nguyện vào ... vào cái trò chơi nhỏ này của anh. nàng cắn môi. nàng lại không kiên định. Chẳng lẽ nàng không thể lùi được. chuyện này lẽ ra không làm nàng sốc mới phải. Đó đúng là điều anh đã dự định ngay từ đầu và đã tiên liệu khi nàng đồng ý trở lại Luân đôn. Và có lẽ nàng đã đưa anh đến chỗ tin như thế.
Paul trở lại với sâm banh làm ngắt quãng dòng suy nghĩ của nàng. Anh đưa cho nàng ly rượu và ngồi đối diện, như thể đã đọc được những ý nghĩ ấy, anh nói: “Emma, anh không trách em vì đã tức giận. Anh biết em còn lo ngại và không thoả mái nữa, phải thế không?”.
Nàng không trả lời mà nhìn xuống ly rượu và uống nhanh để che giấu sự hồi hộp của mình.
- “Anh là một thằng ngu khốn kiếp. Anh thật láo xược và bây giờ anh xin lỗi vì sự láo xược ấy. Anh cảm thấy hoàn toàn rõ ràng em hiểu ý định của anh khi em nhìn thấy cửa mở và căn phòng kia. Sự dụ dõ, tất nhiên. Anh đã thu xếp rất cẩn thận hàng tuần nay” Miệng anh nhếch lên một nụ cười đáng trách. “Anh không tinh tế lắm phải không? Tuy nhiên, anh đã nhận thấy ở trong xe anh đã bày để đưa em vào một tình thế rất khó rút ra khỏi. Vì vậy, anh sẽ làm điều đó cho em”, Paul nói tiếp. “Anh sẽ uống nốt ly rượu này rồi anh sẽ đi qua cửa kia. Em sẽ khoá nó lại. Khi em mặc quần áo xong, anh sẽ vào đón em. chúng ta sẽ đi ăn tối. Không có gì bắt buộc cả. Bây giờ, hoặc sau đó. Được không?”.
Emma nhìn anh. “Vâng tất nhiên. Nhưng tại sao anh lại thay đỏi ý kiến”.
Anh cười một cách hài hước. “Ồ, không phải bản chất của anh, phải không? Một kẻ phóng túng hoàn lương làm một điều đáng kính”. Anh nhún vai.
- “Anh cũng ngạc nhiên về mình”.
- “Tại sao anh lại muốn làm một điều đáng kính như vậy?”
- “Bởi vì anh yêu em, và yêu quá nhiều để không đưa một tình thế cho thích hợp với mục đích của anh, lợi ích của anh mà không nghĩ tới em và những tình cảm của em”.
- “Em không hoàn toàn hiểu anh”.
- “Em phải yêu anh và cần anh nhiều như anh yêu em và cần em, Emma ạ. Nếu không thì tất cả những cái này chẳng có ý nghiã gì. Thôi em nhanh lên, mặc quần áo. Anh sẽ đợi em và chúng ta đi ra ngoài ăn”.
Anh dừng lại ở cửa. “Em khoá cửa lại”, anh nói mà không nhìn lại.
Emma làm như lời anh, nàng quay chìa khoá, vẻ mặt cũng trang nghiêm như mặt anh. Nàng ngồi xuống sôpha. Nàng không biết làm gì. Anh yêu nàng. Nàng yêu anh, nàng đã tới Luân Đôn, trong lòng vẫn biết đã có một sự cam kết không nói ra giữa hai người thế mà bây giờ nàng lại bực bội, tức giận. Phải, đạo đứa giả, nàng tự trách mình. Hành vi của nàng không có ỹ nghía gì hết. Nàng nhắm mắt lại và hình dung anh đằng sau cánh cửa đóng, đợi nàng đi ăn cơm. Nhưng cũng đợi quyết định của nàng, nó sẽ định đoạt kết quả của mối quan hệ giữa hai người. Phải chăng anh đã chuyển quyết định sang cho nàng để tránh trách nhiệm? Không, như thế không hay. Con người anh không có sự lừa lọc. Tại sao mình lại sợ phải quyết định bước đi này? Nàng tự hỏi. Và câu trả lời đập vào nàng với một sức mạnh làm đầu nàng choáng váng. Nàng tự hỏi Và câu trả lời đập vào nàng với một sức mạnh làm đầu nàng choáng váng. Nàng không sợ Paul hoặc những xúc động của chính nàng. Nàng sợ hành động cuối cùng của tình yêu, sợ chuyện chăn gối vì những kinh nghiệm đi lại ghê tởm của nàng và Joe. Và nàng lại sợ làm Paul tổn thương vì lánh anh, làm nhiệm vụ phụ nữ đối với anh. Có lẽ nếu nàng giải thích...
Emma chạy qua phòng mở cửa, đứng ở ngưỡng cửa. Paul đang khom người bên lò sưởi, đầu anh cúi xuống. Hình như anh đang trong cơn đau buồn thống thiết
Chiếc đầu mái tóc đen của anh quay lại, anh nhìn nàng đăm đăm. Nàng chầm chầm bước tới bên anh: “Em..em...muốn nói chuyện với anh”.
Anh gật đầu, nhìn xuống nàng một cách nghiêm trang. “Em biết em đã để cái khó khăn của việc quyết định cho anh. Nhưng đó chỉ là bởi vì em muốn hoàn toàn tin ở anh. Em cũng muốn anh tin ở anh nữa”.
Emma giơ tay chạm vào ve áo của anh, miệng nàng run rẩy, đôi mắt nàng xanh sẫm lại. Nàng không còn khả năng nói được gì nữa và nàng đã mất hết dũng cảm để nói tới tình cảm của mình.
Paul cầm lấy tay nàng, hôn lên những đầu ngón: “Bàn tay nhỏ bé thân yêu”, anh nói.
- “Ôi! Paul”.
Mặt nàng bừng lên tình yêu, đã nói với anh tất cả những gì anh muốn biết. Anh kéo nàng lại, hôn thắm thiết rồi nhấc bổng nàng trong đôi tay, mang nàng vào phòng ngủ. Anh đặt nàng nằm xuống và ngồi ở mép giường. “Nói đi, em yêu”. anh ra lệnh, giọng khàn đi: “Nói đi!”. Mắt anh cháy trong mắt nàng.
- “Em yêu anh, Paul”.
- “Và?”
- “Em muốn anh”
- “Ôi, Emma, Emma em luôn luôn có, em yêu. Em không hiểu sao? Nó đã được số mệnh định đoạt ngay từ phút đầu chúng ta nhìn thấy nhau. Anh vẽ một đường xuống má nàng. anh biết. Nhưng em phải nhận ra điều ấy và vì thế mà anh không muốn buộc vấn đề đó đêm nay. Anh muốn và cần em đến với anh tự nguyện”.
Anh đứng lên tháo chiếc thắt lưng to bản, ném nó sang một bên. Chiếc áo ngoài, cà vạt và sơ mi tiếp theo đó. Trong khi anh cởi quần áo, mắt nàng không dời khuôn mặt anh, nỗi sợ hãi tan biến, nàng nghĩ: Mình trước đây chưa bao giờ nhìn thấy một người đàn ông hoàn toàn trần truồng. Sao, anh ấy có một thân hình đẹp. Ngăm đen với những bắp thịt rắn chắc. Vai rộng, eo nhỏ, đùi dài, bụng thon.
- “Cởi áo choàng ra, em”, anh nói dịu dàng và tiến về phía nàng. Anh đè lên người nàng, ôm nàng trong tay mỉm cười với khuôn mặt đợi chờ. “Làm hỏng mái tóc đẹp này thật là đáng tiếc”, anh lẩm bẩm và tháo những chiếc trâm cài đầu của nàng. Mớ tóc dài xoã tung trên vai nàng, tỏ màu hồng trong ánh sáng ấm áp của ngọn đèn, anh kinh ngạc vì vẻ yêu kiều của nàng lúc này đã bộc lộ một cách hoàn hảo đối với anh. Anh vuốt ve dọc tấm thân nàng, tay để sau gáy nàng, nâng mặt nàng lên mặt anh. Môi anh gặp môi nàng, nuốt lấy hơi thở ấm và cái thơm ngát của đôi môi, cả hai cùng đắm chìm trong nỗi khát khao và xúc động dã bị dồn nén hàng tuần nay. Anh hôn lên cổ nàng, vai nàng, vú nàng, đường ngăn ở giữa hai cồn vú, hai bàn tay khoẻ mạnh của anh miết trên làn da rắn chắc của nàng, sờ nắn từng bộ phận cơ thể nàng cho đến khi anh biết nàng cũng cuồng nhiệt như anh
Emma bị ngạt vì hơi ấm lạ, sức nóng bốc lửa tràn khắp người nàng, nàng cong lên dán vào người anh.
Nàng ao ước nhập vào anh, trở thành một với anh, nàng ngạc nhiên vì cái sướng khoái trong thân thể anh và thân thể nàng, lạ lùng vì cái do dự của mình đã tan biến đi như nó không bao giờ tồn tại. Nàng tự nguyện hiến thân cho anh, đón nhận những chiếc hôn và đáp lại nó một cách cuồng dại.
Anh ngạc nhiên khi thấy nàng không biết cách làm tình, điều này làm anh cảm động và kích thích anh thêm. Hình như anh là người đầu tiên yêu nàng. Nhưng anh cũng nhận thấy sự đam mê tiềm tàng trong con người nàng và anh đem cái phần khao khát ấy ra, đưa nàng đến miền cực lạc của ham muốn cho đến khi nàng run lên, gọi tên anh, hứa yêu anh.
Cuối cùng Paul đã làm tình với nàng mê cuồng, sức hừng hừng của anh không hề giảm suy vẫn dịu dàng. Đôi cánh tay, đôi chân mượt như lau của nàng đan bên lấy người anh, bồng bềnh, nhẹ bỗng nhưng nó vẫn kéo anh xuống... xuống .. xuống nữa. Anh đang nhào trong vùng biển xanh ấm áp đầy ánh nắng chiếu ngang, mang nàng cùng với mnhf xuống nhanh hơn, lạc vào một chiều sâu sẩm hơn, xanh hơn, xanh màu xanh của đôi mắt nàng. Xuống một vùng đại dương không đáy. Những đợt sóng vỡ tung chung quanh anh. tim anh đập hoà theo. Anh nghĩ mình đang ngất đi trong khi lăn vòng lăn vòng mãi cùng nàng. Anh cảm thấy hơi ấm bao quanh, làn da mềm mại của nàng, đôi bắp đùi và đôi vú của nàng dướn lên dập mạnh vào người anh, mớ tóc nàng bên trong những ngón tay anh. Thân thể anh khoá vào thân thể nàng co quắp, ngập xuống người nàng. Trời ơi! Trời ơi! Chưa bao giờ lại như thế nàu! Một người đàn ông và một người đàn bà kết hợp lại với nhau, một sự hoà hợp hoàn toàn của hai tấm thân, hai linh hồn. Sự tìm kiếm vô cùng tận của anh đã qua. Niềm vui tối hậu từ lâu từ lâu vẫn lảng tránh anh đang ngập tràn trong anh và anh tái sinh trong nàng. Đó là điều bí mật của cuộc sống, phút xuất thần trong đời, ngắn ngủi trong chân lý cuối cùng nhưng mãnh liệt trong cái ngắn ngủi ấy. anh lại noỏi lên trên mặt nước và đem nàng theo lên. vào trong ánh sáng rực rỡ. Nàng là ánh sáng ấy. Ánh sáng vàng thuần chất.
Anh mở mắt, nhìn xuống nàng, anh thấy nét hạnh phúc chưa từng thấy trên mặt nàng, mạch đập ở cổ nàng, đôi mắt mở to và xanh đầy yêu thương tôn thờ. Khuôn mặt có nét thơ dại hoàn toàn, mắt anh đột nhiên đầy nước mắt. Anh hôn nàng dụi dàng, kéo nàng lại bên anh và thề không bao giừo để cho nàng đi nữa.
Emma nằm dựa đầu vào vai anh, mê hoàng, thờ thẫn trong khoan khoái, tắm trong yêu đương. Nàng thấy yên ổn, mãn nguyện, mắt nàng lộ vẻ ngạc nhiên khi nghĩ tới sự thay đổi huyền bí và niềm vui anh đã đem lại cho nàng, tim nàng rộn ràng yêu an. bàn tay nàng đặt lên ngực anh, những ngón tay vùi sâu vào đám lông đen phủ ngực anh, nàng nghĩ: anh ấy là một người đàn ông giống như mọi đàn ông khác, nhưng với anh sao mình khác hẳn.
Paul đưa tay lên đầu nàng, hôn mái tóc nàng. Trước nàng có biết bao nhiêu là phụ nữ, nhưng cũng như anh đã tin anh là người đàn ông đầu tiên làm tình với nàng thì bây giờ anh cũng cảm thấy nàng là người phụ nữ duy nhất chiếm được anh. Nàng đã ở trong máu anh và anh sẽ không còn bao giờ được tự do nữa. Ánh sáng trong mắt anh thay đổi, tối lại, trở nên lo âu khi anh nhìn vào khoảng không.
- “Emma yêu”.
- “Gì thế Paul”.
- “Anh đã có vợ rồi”.
Bàn tay trên ngực anh không nhúc chích, nàng nằm hoàn toàn bất động trong tay anh, nhưng nàng cảm thấy như bị đánh vào mặt và dạ dày cồn lên. Cuối cùng nàng nói, giọng nhỏ. “Rõ ràng là anh chọn một thời gian không thích hợp tuyên bố một chuyện giật gân như vậy”.
Anh ôm chặt hơn, để đầu sát vào đầu nàng.
- “Không phải không thích hợp. Anh có ý chọn lúc này”.
- “Tại sao?”.
“Bởi vì anh muốn em ở trong tay anh khi anh nói với em điều đó. Thân mật như thế này. Để cho anh có thể ôm em chặt hơn và làm cho em hiểu cuộc hôn nhân của anh không có gì quan trọng. Để cho anh lại có thể yêu em nữa và có thể nói với em rằng chính em mới là một thực thể”.
Emma không trả lời, anh nói tiếp lo lắng. “Anh không có ý định che giấu sự thật đâu, Emma. Đó không phải là một điều bí mật và nó có thể dễ dàng được một trong những người bạn của anh đề cập tới trước mặt em. Tất nhiên anh cầu mong điều ấy đừng xảy ra, bởi vì anh muốn em nghe chính anh nói lên điều đó. Anh chỉ chậm nói với em vì anh sợ mất em. Anh biết nếu như anh nói với em sớm hơn thì hẳn là em đã biến mất rồi. Em sẽ không bao giừo cho phép quan hệ của chúng ta diễn ra như...”
- “Đồ quỷ lừa lọc!”.
Nàng vùng vẫy ra khỏi giường. Anh kéo nàng lại, dằn mạnh nàng xuống, nhìn vào khuôn mặt trắng lạnh băng của nàng Emma nghĩ nàng đang nhận chìm vì cái màu xanh làm cho người ta phải giật mình của đôi mắt đang lượn lờ trên đôi mắt nàng.
- “Không phải như vậy, Emma!, Paul kêu lên gịân dữ, mặt anh bừng bừng. “Xin em hãy tin anh. Anh biết em đang nghĩ gì... em nghĩ là anh muốn đạt được mục đích trước khi nói với em. Nhưng anh chỉ muốn làm em yêu anh để em sẽ bị ràng buộc với anh. Khi đã yêu anh rồi, anh biết em sẽ không để cho các tình huống chen vào, đứng giữa chúng ta . Anh yêu em, Emma . Em là cái duy nhất có giá trị trong đời anh
_Và vợ anh ! - nàng thì thầm
_Chúng tôi không sống với nhau đã 6 năm nay . Và chúng tôi không đi lại với nhau 1 năm trước đó
_Anh lấy vợ được bao lâu rồi ? - giọng nàng hầu như không nghe rõ
_9 năm, Emma ạ , đó là cuộc hôn nhân không có ý nghĩa . Thậm chí nó cũng không fải là 1 cuộc hôn nhân nữa . Nhưng ngay bây giờ anh bị trói buộc với bà ấy bởi vì . Trói buộc với bà ấy về mặt luật fáp . Sau khi chiến tranh kết thúc, anh sẽ giải quyết . Anh muốn sống nốt fần đời còn lại với em, nếu em bằng lòng với anh . Giờ đây em là cuộc sống của anh . Em yêu , xin em tin anh - giọng anh run
Emma nhìn anh chăm chăm , những ý nghĩ xáo trộn của nàng che mờ sự suy xét trong chốc lát, rồi đầu óc nàng sáng dần . Nàng có thể cảm thấy sự căng thẳng dồn lên trong con người anh . Vẻ mặt bị ám ảnh sự anh trần trụi trong cơn đau của nó và sự chân thành toát ra từ con mắt làm nàng choáng váng
_Em tin anh - nàng nói chầm chậm bằng 1 giọng mạnh mẽ hơn, và đưa 1 ngón tay lên môi nàng - Vâng, Paul thật là em tin anh
Những tuần lễ tiếp theo thật là kỳ thú, nhưng giờ fút bất tận đắm trong mê si, trong mơ, thời gian hình như ngưng lại . Ngày hoà vào đêm, đêm trôi tới bình minh, và mỗi fút đều được tẩm, được đan bện bằng lòng ham muốn và niềm vui buộc cả Emma & Paul lại với nhau, không thể nào tách rời
Họ chỉ tồn tại cho nhau, chỉ cần có nhau, vui với nhau . Họ vẫn ở trong hai dãy fòng nối nhau ở khách sạn Ritz ít khi đi ra ngoài chỉ trừ những cuộc đi dạo trong công viên Xanh và những bữa ăn tối lặng lẽ hạn hữu ở những nhà hàng khuất nẻo, lánh xa các xã hội fồn hoa . Họ yêu nhau cuồng dại, say đắm đến độ khó giấu được tình cảm đối với nhau, họ thậm chí không muốn chia sẻ 1 fút nào với bạn bè và muốn bo bo giữ lấy fần riêng tư . Các kế họach đều bị huỷ bỏ, những lời mời đều từ chối . Bruce McGill và Frank để sang 1 bên, thế giới bị lãng quên đối với cả hai
Họ bị cuốn hút vào nhau bởi xác thịt và tình yêu ngày 1 tăng đến độ thờ thẫn, nhìn nhau kinh ngạc tự hỏi sao 1 điều kỳ diệu như vậy lại có thể xảy ra . Một cái nhìn thôi cũng ngốn ngấu như 1 cái hôn, một cử chỉ đơn giản cũng có ý nghĩa như 1 vòng tay ôm & mỗi lời họ thốt ra với nhau đều có ngụ ý riêng của nó
Emma thấy đầy những điều không thể tin được và ngập tràn cảm xúc . Và nàng không dừng lại để mà fân tích . Nàng mê cuồng vì hạnh fúc . Niềm vui trọn vẹn và bay bổng lúc này đã xua đi nỗi đau buồn, tổn thương và nhục nhã của nhiều năm . Tình yêu đã xé rách cái màn bí hiểm che fủ khuôn mặt nàng . Tình yêu đã bộc lộ mọi điểm có thể làm tổn thương trong trái tim nàng; nàng đuợc đem lại với cuộc sống bằng cái cớ của tình yêu . Sự si mê của Paul, sự hiểu biết về nàng 1 cách sâu sắc của anh làm cho nàng hết nghi ngờ và không tự bảo vệ mình vốn là bản tính cố hữu của nàng . Đối với anh nàng trở lại con người thực của mình đứng về 1 khía cạnh nào đó hơn bất cứ ai khác . Tất cả những sự cảnh giác cuối cùng đã buông lơi vì 1 người duy nhất nàng đã thực sự yêu và nàng đã trao cho người ấy không chút dè dặt
Paul là 1 fát hiện đối với nàng . Thái độ kiêu căng và nhạo báng của anh đã không còn nữa, lúc này nàng được phép biết về anh những điều mà không 1 người đàn nào khác trước đây biết . Cái khía cạnh suy nghĩ và trầm tư của anh đã được fát hiện, nàng đã thấy 1 trí óc tốt đẹp đằng sau cái khuôn mặt đẹp trai, và chải chuốt đó . Nàng kính fục đầu óc và tri thức hết sức rộng lớn của anh về thế giới . Nàng mê tài trí của anh, sự lịch lãm của những con người xuất thân dòng dõi giàu sang và được đào tạo ở Wellington và Oxford .
Nàng không ngừng thích thú vì tài ứng đối mau lẹ của anh. Nói tóm lại, nàng bị anh mê hoặc.
Paul cũng kinh ngạc và bàng hoàng không kém, anh bị thít vào vòng đai yêu đương chân chính duy nhất anh đã từng mơ ước trong những năm trẻ trung lãng mạn. Anh tin nàng là người phụ nữ đẹp nhất mà anh được nhìn thấy trong những năm lang thang khắp thế giới; anh cũng tin nàng là người thông minh nhất, anh biết trí óc linh lợi của nàng làm anh giật mình. Nhưng điều duy nhất làm anh sửng sốt là nhân cách của nàng, nó làm nàng tách biệt hẳn và độc đáo. Hình như có một đốm sáng tỏa ra từ một cốt lõi sâu kín của nàng. Anh chỉ có thể so sánh nó với cái duyên không thể định nghĩa nổi làm cho một nữ diễn viên hấp dẫn trở thành một minh tinh lớn. Đối với cả hai, đây thật là sấm sét như chớp giật, họ đã yêu nhau mù quáng ngay từ đầu.
Ngày lại qua ngày trong màn sương đam mê bàng bạc bùng lên rồi lại giảm xuống, rồi lại bùng lên trong một ngọn lửa sáng hơn, mạnh hơn những cuộc nói chuyện sôi nổi kéo dài tận khuya. Họ tìm thấy ở nhau tất cả những điều họ ao ước ở một người tình, một người bạn, sự giao lưu của họ là sự hòa hợp của trí óc, của tâm hồn cũng như là thân thể.
Một buổi chiều khi họ đang nằm trong tay nhau, kiệt sức sau cơn hoan lạc, Paul nói: "Anh đi ra ngoài một chút, em không phiền chứ, cưng? Anh có một vài việc cần phải làm".
"Anh phải hứa trở về sớm cơ", Emma trả lời, đưa môi hôn lên ngực anh.
"Không có gì có thể làm anh xa em lâu hơn một tiếng. Bốn giờ anh sẽ về", anh nói và hôn lên tóc nàng. Anh buông nàng ra và biến vào nhà tắm. Một lát sau anh xuất hiện, râu cạo nhẵn, mái tóc đen chải lại, chiếc khăn tắm cuốn quanh lưng. Từ chỗ của mình trên giường, Emma lén quan sát anh như một con mèo, ánh mắt màu xanh chăm chú xoáy vào người anh, nàng phát hiện ra mình có một cái thú hết sức to lớn ngắm nhìn anh làm một công việc đơn giản bình thường là mặc quần áo. Anh nhặt chiếc sơ mi ở ghế, bắp thịt ở tấm lưng to lớn của anh nổi hẳn lên, nàng phải kìm một thôi thúc theo bản năng là chạy lại ôm lấy anh. Nàng nghĩ. Anh ấy đã trở thành tất cả thế giới của mình.
Anh gài chiếc thắt lưng to bản trên chiếc áo quân nhân và sải bước tới bên giường. Anh cúi xuống, hôn nàng, đôi tay nàng choàng lấy cổ anh. Một lát sau, anh nhẹ nhàng gỡ tay nàng. "Anh phải đi, em yêu".
"Em đang tự hỏi không hiểu anh đi đâu", Emma nói mắt chớp chớp ra vẻ ngây thơ. "Cạo râu, chải chuốt, sức nước hoa, ngất trời. Sao, thưa thiếu tá Mcgill, nếu ngài có một cuộc hẹn hò với một người phụ nữ nào khác, tôi sẽ móc mắt ngài ra. Tôi thề như thế! Và cả cô ta nữa!".
Anh cười, chạm vào đầu mũi nàng một cách nghịch ngợm. "Ôi, trái tim hổ trong da một người đàn bà!".
"Thơ phú quá vậy? Thiếu Tá?" nàng trêu.
"Ăn cắp của Shakespeare, anh phải thừa nhận điều đó. Henry VI".
Paul hôn lên những đầu ngón tay nàng, bàn tay anh nắm chặt, đôi mắt anh xanh thăm thẳm. "Và nếu em chỉ cần nhìn người đàn ông khác thôi, anh sẽ giết em". Anh đứng lên. "Ngoan nào, anh đi nhanh thôi".
Sau khi anh đi, Emma bận rộn gọi điện cho thư ký của nàng ở cửa hàng và cho người giữ nhà, nàng sốt ruột muốn biết xem là mọi sự ở Yorkshire vẫn tốt đẹp trong khi nàng đi vắng không. Nàng nhẹ người vì mọi việc vẫn bình thường như sau những lần gọi điện hôm qua, sau đó nàng nói chuyện với Frank tại tòa soạn Chronicle.
"Trời ơi! Thảo nào mà đang có tuyết!". Frank kêu lên khi nghe giọng nàng. "Vậy ra anh ấy để chị khỏi vòng kìm kẹp của mình lâu đủ để chị gọi điện cho em cơ đấy". Cậu cười. "Em nói đùa đấy. Em mừng cho chị, Emma".
"Ô, Frank chị cũng mừng. Chị hạnh phúc đến độ không thể tin được. Và lần này thì em lầm. Chính chị mới là người để Paul thoát khỏi vòng kìm kẹp của chị một tiếng đồng hồ".
"Munm! Ra thế! Ồ, em phải nói rõ ràng là anh ấy rất tốt cho chị. Chưa bao giờ em thấy chị vui hơn thế. Nhưng này, sao chị không nói cho em biết thực sự anh ấy là ai?".
"Em định nói sao?".
"Rằng anh ấy là con trai duy nhất, con duy nhất của ông Bruce McGill. Một triệu phú và một trong những người mạnh nhất ở Úc, em chắc là chị biết Paul là người thừa hưởng cả một gia sàn. Một trại cừu mênh mông. Mỏ khoáng sản. Những cánh đồng than và có cả trời mà hiểu được còn gì gì thêm nữa".
"Anh ấy có nhắc tới tài sản nhiều mặt của gia đình, tất nhiên. Nhưng làm sao mà đột nhiên em lại biết nhiều đến như vậy?".
"Hôm nọ em có gặp Dolly Mosten. Cô ấy có kể cho em nghe một vài điều về Paul...".
"Cô ấy còn nói với em điều gì khác nữa?", Emma hỏi một cách ngờ vực, tim thắt lại.
"Không có gì nữa. Chỉ có vậy thôi. Cô ấy chỉ nhận xét là gia đình McGill cực kỳ giàu có và quyền thế. Có chuyện gì vậy? Nghe chị có vẻ nôn nóng".
"Không, chị có nôn nóng gì đâu". Nàng cười: "Em thế nào, Frank? Em có khỏe không, cưng?" nàng hỏi, nhanh chóng thay đổi chủ đề. "Có, mọi sự tốt đẹp. Nhưng em sợ là chị gọi cho em vào lúc này là không đúng lúc. Lúc này thực sự em không thể nói chuyện được. Em phải tới hội nghị tòa soạn. Chị có thể gọi cho em ngày mai để chúng mình có thể nói chuyện lâu hơn một chút được không, cưng?".
"Có, tất nhiên".
"Thôi, tạm biệt nhé. Cho em gởi lời thăm Paul. Tạm biệt".
"Tạm biệt Frank".
Emma đặt ống nghe xuống, nàng ngó nó chăm chú, và mặt trầm ngâm, ý nghĩ đan bện vào nhau như mạng nhện trong đầu nàng khi nàng nghĩ về gia đình McGill hoặc chính xác hơn, về bà Paul McGill bí hiểm. Người vợ mà anh không bao giờ nhắc lại và nàng cũng không bao giờ dám hỏi anh ta về bà ta, mà cũng không muốn biết về chuyện đó. Nhưng lúc này, Emma hết sức tò mò. Trông cô ta ra sao? Cô ấy có đẹp không? Cô ấy bao nhiêu tuổi? Tại sao cuộc hôn nhân không đến nơi đến chốn? Họ có con không? Phải chăng đó là lý do Paul không bao giờ ly dị, mặc dù ly thân từ lâu? Emma nhắm mắt lại, gạt những câu hỏi đang loé lên trong đầu nàng. Nàng sẽ không mở chiếc hộp của Pandora(1). Cuối cùng rồi anh sẽ kể cho nàng nghe tất cả, nàng chắc như thế, nàng không muốn có một cái gì làm gợn quãng thời gian còn lại họ bên nhau. Cài thời gian vô cùng quí báu này.
Nàng nhìn chiếc đồng hồ treo trên bệ lò sưởi, nàng ngạc nhiên thấy Paul đã vắng trên hai tiếng đồng hồ. Đã năm rưỡi. Nàng thấy hốt hoảng. Tình cảm này phi lý, tuy nhiên sự lo ngại của nàng tăng lên, nàng bỗng có một linh cảm Paul sắp sửa rời nàng. Anh đã cẩn thận không đả động gì đến ngày anh lên đường, nhưng nàng đã nhận ra rằng hai tuần trôi qua. Ở Yorkshire anh đã nói với nàng thời gian đang rút lại gần. Phải chăng bây giờ đã đến lúc? Nàng tự hỏi, người buồn thiu.
Để trấn tĩnh những ý nghĩ hỗn độn, Emma vội vã vào phòng tắm và mải mê tắm rửa. Nàng tắm nước nóng, lau khô người, bơm nước hoa và đi vào phòng ngủ. Nàng mặc chiếc áo nhung xanh trong nhà do chính nàng vẽ kiểu và Paul rất thích. Đó là kiểu áo Pháp, eo cao, phần trên thít, tay dài làm cho nàng có vẻ là một cô gái ngây thơ chân thật. Nàng chải mái tóc dài, buông xõa kia mà anh thích và sau khi đã thoa chút son, đeo hoa tai ngọc bích, nàng bước ra phòng khách ngồi đợi. Đến bảy giờ, nàng thấy nôn nao, và nỗi hốt hoảng trở thành một sự sợ hãi thật sự. Anh ấy ở đâu nhỉ? Anh ấy bị tai nạn gì chăng? Nàng nắm đôi bàn tay đặt trong lòng, từng cơ bắp căng lên. Và rồi theo bản năng, nàng biết. Paul ở Văn phòng chiến tranh nhận lệnh. Anh ấy sắp đi. Nàng chắc là như vậy. Chiến tranh! Nó đã bị quên lãng trong nhiều ngày trong khi họ sống quá say đắm mù quáng bên nhau... anh ấy có thể bị chết... anh ấy có thể không bao giờ trở lại... Nàng lấy tay ép lên đôi mắt đau nhói.
"Anh về đây rồi, em yêu", anh vừa nói vừa bước qua cửa nối dãy phòng anh với phòng nàng.
Emma buông tay, nhảy lên, chạy lại phía anh, mắt nàng căng thẳng. "Em cứ nghĩ có chuyện gì xảy đến với anh". Nàng nói, tay nắm lấy ve áo khoác của anh.
"Sẽ không có chuyện gì xảy đến với anh cả", anh an ủi nàng. "Anh có thần hộ mệnh. Và, thời gian của anh chưa hết. Anh còn bao nhiêu năm dành cho anh. Những năm tháng chung sống cùng em. Em không quên rằng em là số mệnh của anh chứ? Số mệnh ấy được hoàn thành đâu, em yêu".
Tim nàng bắt đầu đập bình thường hơn. Nàng ngước lên anh, mỉm cười rồi lùi lại. "Áo anh ướt hết", nàng nói. "Anh đi thay quần áo đi không có ốm mất".
Anh cười, mắt nheo lại. "Thưa bà, bốn tiếng đồng hồ qua, tôi chỉ mong ước như vậy đó". Anh nháy mắt ngụ ý.
"Ô, khỉ ở đâu ấy, anh biết em định nói gì mà!".
"Anh hy vọng là anh biết", anh nói. "Cho anh mười phút. Anh đã gọi bữa tối lúc chín giờ, và có một chai sâm banh ướp lạnh trong phòng anh. Xin lỗi, thiên thần của anh, anh quay lại ngay", anh ngoái qua vai nói.
Khi Paul trở lại, anh đã thay quần áo thường phục. Anh mặc chiếc áo sơ mi lụa trắng, quần len đan, chiếc gilê lụa kẻ. Trông anh thật lịch thiệp một cách tự nhiên khi anh mang xô ướp sâm banh tới. "Anh nghĩ nó đủ lạnh rồi đây", anh nói và mở chai Dom Pérignon.
Một lần nữa Emma lại ngắm nhìn anh một cách ngạc nhiên. Cũng như thường, cặp mắt anh theo từng cử động của nàng, bây giờ nàng lại tập trung vào anh, nàng lại thấy anh mới lạ. Mỗi khi anh đi vắng một lúc, dù là ngắn ngủi, nàng luôn luôn giật mình vì vẻ nhìn của anh đối với nàng khi anh quay lại. Không phải một điểm riêng biệt nào mà toàn bộ một người đàn ông. Nàng cảm phục cái dáng vẻ điều khiển của anh cách thức sang trọng anh làm mọi thứ.
Anh bắt gặp nàng đang ngó mình đăm đăm, anh mỉm môi và cười thích thú. Anh bước nhanh lại, đưa cho nàng ly sâm banh. "Anh hổng có đi với bà khác, anh thề anh hổng mà", anh nói, bắt chước giọng Cockney.
"Em cũng hy dọng anh hổng", nàng nói cũng một giọng như vậy. Nhưng ánh mắt nàng nghiêm trang nhìn mặt anh, nàng sợ không dám hỏi anh đi đâu. "Anh đi lâu quá, anh yêu", nàng thì thầm khe khẽ.
"Anh phải đi gặp ba anh về một số việc. Bàn chuyện công việc", Paul vừa nói vừa chạm ly với nàng, "chúc mừng em, Emma yêu kiều của tôi".
"Chúc mừng chúng ta".
Paul ngả người trong ghế. Anh sợ anh lãng quên mất ông già trong mấy tuần qua..."
"Tất cả là lỗi tại em".
"Không, không phải lỗi tại ai", anh nói nhanh. Và mỉm một nụ cười trẻ thơ với nàng. "Ông già có một trái tim thông cảm... khi nói đến vấn đề con tim". "Tuy nhiên em đã lấy mất anh của ông cụ vào một thời gian quan trọng và làm anh xa lánh tất cả các bạn bè khác của anh".
"A, thế nhưng em chỉ được nghĩ đến hạnh phúc em đã cho anh và đừng quan tâm đến họ. Anh không! Đó là sự lựa chọn của anh. Anh tin rằng anh làm ra qui luật, có phải thế không? Dù sao thì, chúng ta vẫn có thể gặp người này người khác nên anh không coi đó là quan trọng. Anh không coi là quan trọng. Không có một người nào trên đời anh muốn ở bên ngoài em. Những người khác sẽ làm dung tục hóa thế giới riêng tư của chúng ta. Cái thế giới đặc biệt này mà chúng ta đã tạo cho riêng mình, ở đây trong cái tổ kén nhỏ này của chúng ta. Anh không muốn một cái gì thâm nhập vào để làm tan vỡ ảo ảnh. Anh làm như cái mà chúng ta tồn tại chỉ ở đây thôi!".
Anh nhìn nàng, một bên lông mày nheo lên. "Không phải thế! Trời ơi, Emma em hẳn biết rằng hiện nay hoặc trong tương lai chúng ta ở đâu, thì đó là thực. Đây không phải là ảo ảnh. Đây là thực tại. Anh đã nói với em điều này trước đây".
Trái tim nàng rưng rưng. "Em sung sướng vì không phải chúng ta đang sống trong một thế giới mộng ảo. Em không thích khi thức dậy và thấy tất cả chỉ là một giấc mơ..."
Paul thấy nụ cười tan, một đám mây lướt qua mặt nàng. Hiểu tâm trạng của Emma, anh nghiêng người về phía trước, chạm vào đầu gối nàng, hỏi: "Có chuyện gì vậy. Em? Có điều gì làm em buồn phiền?". "Anh tới Văn phòng chiến tranh. Rồi anh đi gặp ba anh để từ biệt, phải thế không? Anh sắp đi phải không, Paul? Và sắp đi đến nơi rồi".
"Ừ", anh thú nhận lặng lẽ.
"Bao giờ".
"Mai".
"Ôi, trời ơi!".
Anh bước tới sofa và cầm lấy ly sâm banh trong bàn tay run rẩy của nàng và đặt nó lên bàn. Anh kéo nàng lại sát anh, nhìn vào khuôn mặt lo lắng của nàng. "Hồi còn ở đại học Oxford nhiều năm trước, anh đọc được chuyện về những người yêu sắp sửa xa cách. Câu chuyện luôn đọng lại trong đầu anh, đại khái như thế này: "Cuộc chia ly này không thể lâu; vì những người yêu nhau không thể xa cách. Chúng ta luôn luôn bên nhau trong ý nghĩ, và ý nghĩ là một tảng nam châm lớn. Anh thường nói với em về lý lẽ, giờ đây anh nói với em về lòng tin". Anh thấy đôi mắt nàng chằm chằm nhìn anh, đầy nước mắt. Anh đưa những ngón tay âu yếm gạt chúng khỏi hàng mi dài của nàng.
"Đừng, em ơi. Em đừng".
"Em xin lỗi, Paul. Chính vì những lời ấy. Nó làm em cảm động quá, anh nói ai vậy", nàng hỏi, giọng run run.
"Abelaed với Heloise(1). Những lời đó được nói ra từ nhiều thế kỷ trước, nhưng lúc này nó đúng hơn bao giờ hết. Emma, em đừng quên nó, và xin em hãy có lòng tin. Và em tin rằng chúng ta bao giờ cũng sẽ ở bên nhau trong ý nghĩ và vì thế mà là một. Và em cũng nên biết rằng anh luôn luôn mang hình ảnh em trong tim anh cho đến mãn đời".
"Ôi, Paul, sao mà em yêu anh! Em không thể chịu được sống không có anh".
Anh đưa bàn tay lên xoa nhẹ cằm nàng. "Thôi nào, em yêu. Em phải dũng cảm lên. Và chúng ta đừng nói đến chuyện anh đi nữa. Chúng ta sẽ chỉ nghĩ đến bây giờ thôi. Chỉ có bây giờ thôi. Ít nhất cho đến khi cái mớ hỗn độn này qua đi". Nụ cười bỡn cợt của anh nở trên chiếc miệng rộng, mắt anh nhìn nàng đầy tán thưởng như bao giờ. Và chúng ta cũng còn những giờ sung sướng ở phía trước nữa mà, sự thật là cả một đêm", anh nói. Anh ngó nhìn nàng như trên sâu khấu, cố gắng làm nàng quên để nàng cười: "Và em thân yêu, anh phải thành thật thú nhận là một đêm với em đáng giá..."
"Thôi đi, anh chỉ được cái thế! Đồ... Đồ... đồi trụy", nàng mỉm cười âu yếm qua làn nước mắt.
"Em tả anh thật là hết sức đúng nhất là khi với em". Anh ôm nàng trong tay, hôn lên má nàng và từ từ xuống đến cổ nàng. Anh bắt đầu nói khe khẽ, dùng những từ âu yếm, ái ân làm hồng đôi má nàng. Nàng bám lấy anh, móng tay ngập vào cánh tay anh, tim nàng đập thình thịch khi anh đẩy nàng nằm ngửa trên sôpha và nằm đè lên, anh bắt đầu mở khuy áo nàng. Đôi mắt anh sáng rực làm nàng lóa. Nàng nhắm mắt lại, anh ép môi mình vào môi nàng.
"Cưa à", Emma kêu lên, mặt trắng bệch. "Nhưng mấy hôm vừa rồi anh tôi còn khoẻ lắm cơ mà".
"Không, ông ấy không khỏe đâu. Ông ấy giấu bà đó, thưa bà Lowther. Ông ấy cũng từ chối không chịu mổ. Mặc dù chúng tôi đã báo trước, ông vấy vẫn chống lại chúng tôi. Nhưng không thể chống lại bệnh hoại huyết. Nó rất ác tính, chết người".
Emma ngồi xuống đột ngột, đôi mắt nàng dán vào ông bác sĩ. "Còn cách nào không".
Bác sĩ lắc đầu. "Không, không còn cách nào cả. Trừ phi bà muốn gọi chết là một cách". Trông thật sự hoảng sợ hằn trên nét mặt nàng, bác sĩ ngồi xuống bên cạnh và cầm lấy tay nàng. "Tôi xin lỗi. Tôi không có ý tàn nhẫn. Nhưng hoàn cảnh bắt buộc phải nói thật, ngay cả phải nói trắng ra, tôi sợ là như vậy. Thời gian lúc này là chủ yếu".
"Có chuyện gì xảy ra, thưa bác sĩ. Tôi nghĩ bác sĩ có thể lấy tất cả những mảnh đạn ra khỏi bàn chân và bắp chân anh ấy".
"Chúng tôi đã làm rồi, nhưng bệnh hoại huyết đã bắt đầu từ mấy hôm trước và nó đi rất nhanh. Nó đã ở trên đầu gối của ông ấy. Bà phải ký giấy cho phép chúng tôi mổ. Nếu không thì... ông giơ tay lên vô vọng mặt ông trang nghiêm".
Emma nuốt mạnh. "Nhưng... nhưng... Winston phải làm quyết định ấy...". "Bà Lowther, bà không hiểu sao? Với tâm trạng hiện nay, anh bà không thể làm quyết định được. Bà phải chịu trách nhiệm. Bây giờ. Hôm nay. Ngày mai là quá muộn".
Emma cắn môi và gật đầu. Lòng nặng trĩu, nàng nói: "Làm ơn đưa tờ giấy cho tôi".
Bác sĩ bước tới bàn giấy, trở lại đem theo giấy tờ, trao cho nàng cùng với cả cây bút. "Bà làm một việc đúng, bà Lowther. Điều duy nhất bà có thể làm. Anh bà sẽ cám ơn bà cho đến hết lời. Xin bà hãy tin điều ấy".
Emma nhìn ông rầu rĩ nhưng không nói gì. Nàng ký, mặc dầu trong lòng run rẩy, tay nàng vững chãi. "Tôi có được gặp anh tôi bây giờ không", nàng buồn bã hỏi.
"Vâng, tất nhiên. Tôi sẽ dẫn bà tới chỗ ông ấy ngay", bác sĩ nói. Vẻ mặt ông thiện cảm khi ông đưa nàng ra khỏi văn phòng.
Winston ở trong một phòng bệnh cùng những người khác trong hải quân bị thương. Những tấm kính đã được đặt chung quanh anh, khi Emm bước qua và tiến đến bên giường, nàng thấy mắt anh mờ đi vì đau đớn, những giọt mồ hôi đọng trên trán anh. Nàng cúi xuống hôn anh, anh buông ra một tiếng kêu nghẹt lại, đôi mắt sốt hừng hực. Emma hốt hoảng lùi lại: "Làm sao thế, Winston anh thân yêu?".
"Emm đừng chạm vào giường", anh rên lên! "Anh không thể chịu được một cử động nhỏ nhất. Đau không thể chịu được". Anh hít hơi và nhắm mắt lại.
Emma chăm chú nhìn anh, một lát sau, nàng nói bĩnh tĩnh một cách tuyệt đối: "Winston, tại sao anh không nói với em là anh bị hoại huyết, Wionston?".
Anh mở mắt và liếc nhìn nàng, thời anh hùng của tuổi thơ trong thoáng lát lại ngập tràn khuôn mặt anh. "Anh không cưa đi đâu, Emma", Anh hăm hở kêu lên, "Anh sẽ không làm thằng què trên đời mãn kiếp!".
Emm ngồi xuống ghế gần giường và gật đầu, lòng đau nhói thương anh. "Em hiểu tâm trạng của anh. Thật là một điều khủng khiếp phải đương đầu. Nhưng nếu họ không cắt đi thì anh sẽ... anh sẽ chết".
"Vậy thì anh sẽ chết!", anh hét lên sự thách thức thay cho cơn sốt trong con mắt xanh của anh. "Chỉ còn một chân thôi thì cũng như chết. Anh là một đàn ông còn trẻ, Emm và cuộc đời anh sẽ chấm dứt. Hết".
"Không, không hết anh ơi. Anh sẽ chỉ bị mất đi chút ít, em nhận là như thế. Bây giờ cái viễn cảnh có thể là kinh khủng đối với anh. Nhưng phải chăng cắt đi không hơn là không tồn tại ở đây một chút nào nữa".
"Tôi không cắt chân tôi đâu! Anh thì thầm một giọng mệt mỏi. Giọng nói của Emma khẩn nài khi nàng nói tiếp: "Winston, hãy nghe em này. Anh phải mổ. Anh phải, anh ạ. Và ngay lập tức. Nếu anh để lâu hơn nữa, toàn bộ hệ thống của anh sẽ bị ngấm độc". Giọng nàng vỡ ra khi nghĩ tới điều này. "Nếu anh không làm vì anh, thì anh làm vì em vậy. Xin anh! Em xin anh, Winston!". Nàng van xin: "Em yêu anh lắm. Ngoài lũ con em, anh và Frank là gia đình duy nhất mà em có...", nàng lục tục tìm chiếc khăn tay trong túi xắc, lôi ra, hỉ mũi, cố gắng giữ bình tĩnh. "Mấy năm vừa rồi, em bị mất mát quá nhiều anh Winston. Má, ba, Joe và Laura. Rồi lại dì Lily chỉ mới tuần trước. Em nghĩ em không thể nào chịu đựng nổi lại mất một người thân yêu nữa. Em không thể chịu nổi. Em chết mất". Nước mắt đầy, nàng nói run rẩy: "Nếu anh chết thì em không sao chịu nổi đâu, anh ơi".
"Đừng khóc, Emma. Thôi em đừng khóc, cưng của anh". Một cơn đau như xé nổi lên, anh dúm người lại, mắt xám như tro, mồ hôi càng tuôn ra xối xả. Anh thở dài: "Thôi được, để cho họ cắt đi vậy. Nói thật với em, anh không nghĩ là anh có thể chịu đựng được cơn đau này lâu hơn nữa". Một nụ cười thoáng trên đôi môi trắng bệch của anh. "Thôi, nửa khoanh bánh cũng còn tốt hơn không có chút bánh nào, anh nghĩ vậy. Em ký vào giấy đi cho xong chuyện, Emma".
"Em đã ký rồi".
Anh gượng cười: "Đáng lẽ anh phải biết rồi mới phải. Bà chủ".
Emma mỉm cười yếu ớt: "Sẽ không sao đâu, Winston. Em biết. Bác sĩ đang chuẩn bị phòng mổ. Một vài phút nữa, các y tá sẽ vào chuẩn bị cho anh". Nàng đứng lên: "Em phải đi. Bác sĩ nói với em là phải ngắn gọn. Bây giờ mỗi phút là một quan trọng".
"Emma.."
"Cái gì thế, anh!".
"Em... em có thể đợi được không?".
"Tất nhiên em sẽ đợi, anh. Chưa xong thì không bao giờ em đi". Nàng hôn gió, không dám lại gần giường nữa.
Emma nhìn ra ngoài cửa sổ phòng đợi của bệnh viện hải quân, ý nghĩ của nàng dồn về Winston lúc này đang mổ. Mất một chân thật là khủng khiếp đối với anh. Một người vẫn tự hào về thân hình, về sự cường tráng của mình, một người ham mê thể thao và khiêu vũ, một người bản chất mạnh mẽ. Nàng thừa nhận anh có một số vấn đề lớn cần phải nghĩ tới và đứng về nhiều mặt anh phải bắt đầu cuộc sống mới. Nhưng mặc dù sự hạn chế khi chân phải của anh bị cưa, nàng vẫn cảm ơn số mệnh là anh còn sống. Trước đây anh đã bị thương trong một trận thủy chiến ở biển Bắc. Tàu của anh đã bị đâm, nhưng như một điều kỳ diệu, tàu về tới cảng Hămbơ, may mắn gần Leeds và bệnh viện hải quân. Nếu không thì bây giờ anh đã chết rồi.
Emma tựa đầu vào cửa sổ, nhắm mắt lại. Vài tuần nữa là nàng hai mươi chín tuổi. Mới hai mươi chín tuổi mà nàng đã cảm thấy như một bà già, mệt mỏi hao mòn vì những trách nhiệm trong những ngày gần đây.Một y tá chu đáo mang cho nàng một tách trà, Emma ngồi xuống, uống... và đợi. Hình như nó đã trở thành một trong những công việc chính của nàng gần đây: đợi chờ. Hầu hết là nàng đợi thư Paul, cảm thấy đau khổ, lo âu khi không nhận được lá thư nào, nàng cảm thấy nhẹ nhàng lâng lâng mỗi khi nhận được mấy dòng, dù là ngắn ngủi và viết vội vàng.
Nàng lấy lá thư gần nhất của Paul ra khỏi túi xắc và đọc lại. Nó đã nhầu nhát vì cầm nhiều, một vài từ đã nhòa đi vì nước mắt của nàng. Anh đã trở lại Pháp để nhập binh đoàn của đại tá Monash và quân đội Úc vào giữa tháng hai. Bây giờ đã là đầu tháng tư. Anh vẫn bình yên, khoẻ mạnh. Khi Paul ra đi, anh đã mang theo mất phần chủ yếu của nàng, nàng cảm thấy không trọn vẹn, chỉ có một nửa của nàng còn sống khi thiếu anh.
Những giây phút trôi đi chậm chạp. Gần hai tiếng đồng hồ đã qua từ lúc người ta đẩy giường của Winston xuống phòng mổ. Không biết có chuyện gì không? Sao lại lâu vậy? Hoàn toàn bất ngờ, vừa đúng lúc khi nàng nghĩ nàng có thể kêu lên vì thất vọng thì bác sĩ bước vào. Ông gật đầu và mỉm cười. "Ông ấy tốt, bà Lôowther".
Emma nhắm mắt lại và thở phào nhẹ nhõm: "Ông có chắc không?". "Hoàn toàn! Ông ấy có vẻ hơi bị bông bênh vì thuốc mê, nhưng ông ấy trẻ, khoẻ và cường tráng. Ông ấy sẽ chóng lành". Đôi mắt bác sĩ thẫm lại: "Chỉ có một điều..."
"Điều gì vậy?".
- "Chúng tôi phải cưa rất cao. Bệnh hoại huyết lên đến trên đầu gối và chúng tôi đã phải cắt mất bốn inh để cho bảo đảm".
- "Điều đó chính xác nghĩa là thế nào?".
- "Nghĩa là có khả năng ông ấy không dùng chân giả được".
- "Anh tôi sẽ không chống nạn suốt đời", Emma kêu lên. "hay là ở trong xe đẩy. Anh ấy sẽ dùng chân giả nếu như... , nếu như chính tôi đây phải thiết kế một cái đặc biệt! Anh tôi sẽ đi, bác sĩ ạ".
Và anh ấy đi thật. Nhưng thật là một thời kỳ cực kỳ vất vả cho Emma. Tâm trạng của Winston thất thường và rất hay xúc động, điều đó cho là bình thường. Anh nhảy từ tâm trạng khoan khoái được sống đến sự buồn bã, thất vọng, thương thân, thế rồi đột nhiên lại thư thái trở lại, nhưng chẳng bao lâu lại quay về trạng thái u tối. Emma dỗ dành, đe doạ, la hét, cầu xin, thách thức, dùng mọi thủ thuật nàng biết để xua tan cái buồn đang nhận chìm anh và nâng anh ra, công cụ duy nhất của nàng là niềm tin, ngoan cường, ở tính không gì có thể khuất phục được của tinh thần con người và điều khẳng định của nàng là tất cả mọi thứ đều có thể làm được trong đời nếu đủ ý chí. Dần dần nàng cũng có tiến bộ với Winston, nàng đã không ngừng làm phiền anh, và sau vài ba tuần nàng đã tạo được cho anh quyết tâm sống một cuộc sống bình thường. Nàng đã cho anh sức mạnh, tính lạc quan của nàng đã nâng đỡ lòng dũng cảm vốn có của anh.
Trung tâm lắp chân tay giả ở bệnh viện Chapel Allerton ở Leeds nổi tiếng khắp nước Anh vì đã lập được những kỳ công từ khi bắt đầu cuộc chiến tranh vĩ đại. Các bác sĩ đã làm việc một cách tỉ mỉ với những người, đặc biệt là những người đã mất chân, cố gắng kiếm cho họ phương tiện trong thời gian ngắn nhất có thể được. Winston không phải là một ngoại lệ. Thịt anh lành nhanh trong vòng hai tháng, các bác sĩ đã cho anh đi lại bằng nạn. Anh đụợc lắp một chân, ra viện và đến sống với Emma trong thời gian phục hồi sức khỏe, Emma thấy nhẹ người, khi chiếc chân giả tới anh đã lắp được, mặc dù đoạn còn ngắn. Chỉ cần thêm hai đoạn để đệm vào bằng kim loại. Ba lần một tuần, anh được đưa đến bệnh viện Chapel Allerton trong xe của công ty Harte, ở đó anh điều trị bằng lý liệu pháp và lắp chân nửa tiếng liền. Và như vậy, anh bắt đầu công việc dài và khó khăn và làm quen với cái chân và học để đi lại một cách thích hợp với nhau.
Một ngày tháng mười, tám tháng sau khi cưa chân Winston đi vào trong văn phòng của Emma, tự tin tươi cười, vững trãi trên đôi chân và hoàn toàn điều khiển được đôi chân của mình, thì đây là một trong những giây phút mãn nguyện nhất trong đời nàng. Dáng đi khập khiễng của anh không thấy rõ lắm và anh đã nghe theo lời khuyên của nàng từ nhiều tháng trước, biến cái chân đó thành một bộ phận tổng thể của anh.
- "Anh không nhảy được, nhưng hầu như không có gì khác là anh không làm được", anh thông báo với nàng một cách tự hào. Anh để chiếc gậy trên một chiếc ghế, bước qua phòng không cần gậy và ngồi xuống. "Anh có thể đi rất nhanh nếu cần, anh có thể lên xuống thang gác một cách dễ dàng. Em tin hay không thì tuỳ, nhưng anh cũng có thể bơi. Và bây giờ anh đã được ra viện hẳn, anh sẽ đi tìm việc làm".
- "Nhưng anh Winston, em đã nói với anh nhiều từ hồi mấy tháng trước, anh có thể đến làm lại cho em. Tại sao anh không?".
Winston cau mặt. "Ở cửa hàng ấy à? Nhưng mà anh làm gì?".
- "Anh vẫn luôn luôn thích những con số. Anh có thể làm công việc sổ sách cho đến khi anh quen công việc. Lúc đó em muốn anh làm trợ lý cho em. Em cần một người mà em có thể hoàn toàn tin cậy. Anh đừng quên anh Uyntxon, em còn những công việc buôn bán khác, cũng như là cửa hàng. Emma ngừng lại, cẩn thận liếc nhìn anh và nói tiếp: "chẳng hạn như có công ty Emeremm".
- "Cái gì vậy? Trước đây em không hề nhắc tới nó". Uyntxơn nhìn nàng ngạc nhiên.
"Đó là một công ty tài sản em thành lập năm 1917". Emma nghiêng người về phía trước. "Chính em tài trợ và em được trăm phần trăm cổ phần, nhưng một người tên là Ted Jon điều hành cho em. Ngoài Ted và những giám đốc khác, không một ai biết em đứng ở phía sau. Bây giờ thêm anh nữa. Em muốn để nó như vậy, Uyntxon. Ngay cả Frank cũng không biết, vì vậy anh đừng bao giờ bàn với cậu ấy cả".
- "Anh không bao giờ nói chuyện làm ăn của em với ai hết", anh nói nhanh.
- "Nhưng tại sao lại phải bí mật như vậy?".
- "Chủ yếu là nam giới không thích làm việc với phụ nữ, đặc biệt là trong những địa hạt tài chính lớn. Còn những lý do khác nữa, lý do cá nhân, nhưng lúc này điều đó không quan trọng".
Uyntxon cười: "Em là một con ngựa đen!". Anh thốt lên. "Và thậm chí còn thành công hơn cả anh nghĩ nữa. Ừ, anh nghĩ anh sẽ làm việc cho em, Emma. Nghe có vẻ ra công việc đấy".
- "Em rất mừng. Anh có thể bắt đầu vào thứ hai nếu anh thích. Tuỳ anh. Tuy nhiên, có một số điều anh cần biết về em, anh Uyntxon ạ, nếu anh làm việc ở đây. Trước hết, em không thích những điều ngạc nhiên, nhất là những điều ngạc nhiên không hay. Vì thế anh phải luôn luôn nói cho em biết mọi thứ. Và nếu như anh mắc một sai lầm nào, anh đừng giấu nó. Chừng nào em được thông báo thì sai lầm ấy có thể chữa được. Hai nữa, em muốn anh hiểu một điều khác, và đây hết sức là quan trọng. Em không bao giờ giải quyết công việc đứng trên thế yếu. Chỉ trên thế mạnh, và nếu em không có sức mạnh đó, thì em phải làm mọi người nghĩ rằng em có. Anh sẽ phải học để làm như vậy nếu anh sẽ hành động cho em. Anh có nghĩ rằng anh làm được không?".
- "Có, Emma".
- "Tốt". Nàng nhìn anh chăm chút. "Em tin là chìa khoá dẫn tới thành công trong công việc là kỹ luật, tận tuỵ, tập trung và kiên nhẫn. Và em không nhân nhượng tính khí nóng nảy bốc đồng trong công việc. Đó là sự non dại. Em không định nói anh nóng nẩy đâu, nhưng em muốn anh hiểu rằng phải luôn giữ cái đầu cho lạnh và không bao giờ để những xúc động chen vào". Nàng cười. "Anh có hỏi gì không, anh Uyntxon?".
- "Có nhiều lắm". Anh cười quan tâm. "Nhưng thôi để sau. Đến thứ hai khi anh bắt đầu làm công việc cho em đã. Bây giờ anh có hẹn".
- "Với ai vậy?". Nàng ngạc nhiên hỏi.
- "Với một trong những cô y tá ở bệnh viện. Cái cô gái tóc đen xinh đẹp Saclot ấy mà. Anh dẫn cô ấy đi uống trà".
Emma cười vui vẻ. "Anh không mất nhiều thời giờ, phải không? Nhưng em mừng được nghe thấy điều đó. Bây giờ thì em biết anh thực sự là anh rồi".
Emma mới chỉ nói với Uyntxon một nửa sự thật về thái độ của nàng đối với công việc thôi. Qua nhiều năm tháng, nàng vẫn duy trì được triết lý không nhân nhượng - không bao giờ tỏ ra yếu đuối, không bao giờ để mất mặt, không bao giờ tâm sự. Nàng cũng không nắm được nghệ thuật hoà hoãn và cái bản năng dẫn tới sự hài hoà đã có lợi cho nàng, cho phép nàng thương lượng và điều hành một cách mềm dẻo hơn nhiều đối thủ của nàng, họ rất cứng nhắc. Bởi vì nàng phải đương đầu và chạm trán nhiều, nên nàng bao giờ cũng thích di chuyển theo đường vòng và nếu cần thì thầm lén, và nàng đã đạt được nhiều quyền năng bằng cách thầm lén.
Buổi chiều hôm đó, khi Uyntxon đã đi rồi, nàng đi một cách kín đáo về phía nhà Feli và giáng một đòn chí tử vào những xí nghiệp kinh doanh của họ. Chiến thuật của nàng đơn giản, nàng điều hành một cách khéo léo một con người yếu đuối và xuẩn ngốc, người này rất xung xướng nếu không phải là cố ý đặt Gieron Feli đúng cái nơi Emma muốn hắn ta... trong vòng đai của nàng.
Sự phát triển này kông phải xảy ra một cách ngẫu nhiên. Một trong những thứ công ty Emeremm mua đầu tiên vào năm 1917 là cửa hàng Proeto va Procto, một cửa hàng buôn bán vải vóc ở Bradford. Emma mua nó vì nhiều lý do. Đó là nơi đầu tư tốt, mặc dù người ta đã quản lý nó rất tồi trong nhiều năm. Hơn nữa, cái cửa hàng được sắp xếp rất dở này nằm ở một vùng đất rất tốt ở trung tâm Bradford và Emma biết mảnh đất này càng ngày càng có giá trị. Nhưng ngoài tiềm năng to lớn của công ty ra, Alan Procto, người chủ là bạn thân của Gieron, Emma đã nhận ra rằng đây là con đường dẫn tới kẻ tử thù của nàng, một nguồn tin quan trọng về hoạt động của hắn ta.
Lúc đầu Alan Procto trù trừ không muốn bán, mặc dù anh ta đã đưa công ty đến chỗ lụn bại, có không biết cơ man nào là khách nợ và những khoảng nợ cá nhân, nhiều khoản nợ do thói cờ bạc cố hữu của anh ta. Thế nhưng, những điều khoản của công ty Emeremm rất hấp dẫn cuối cùng họ đã thắng được Procto. Emma đã làm cho những điều khoản ấy trở thành không thể cưỡng được. Giá mua cao nhưng không thái quá để có thể gây nên nghi ngờ. Điều quan trọng hơn nữa đối với Procto là anh ta được đề nghị một hợp đồng ở lại làm chủ tịch hội đồng với một khoản lương không thể bỏ qua. Chỉ có một điều khoản... Procto không được tiết lộ sự thay đổi chủ công ty của anh ta. Nếu không, hợp đồng của anh ta sẽ bị chấm dứt ngay tức thì.
Thấy những vấn đề mắc mớ của mình biến đi một cách kỳ diệu cái anh chàng Procto hư hỏng và đang cơn nguy nan không để tâm tới tại sao lại phải có chuyện bí mật làm như vậy. Sự thực, anh ta lại thích như vậy, vì đây là một cách để anh ta vẫn tiếp tục điều hành công ty của mình, đồng thời giải quyết những món nợ cá nhân và công ty, và để gỡ thể diện ở Bradford. Anh ta đã bán, đã ký hợp đồng làm việc với điều khoản phải giữ bí mật của nó, và như vậy nó đã trở thành tài sản của Emma Harto. Emma đã chỉ thị cho Ted Jon, đặt một người của Emeremm vào trong công ty Procto và Procto,. "Procto chỉ là cái bề mặt. Tôi muốn tay anh ta bị trói lại để anh ta không thể làm điều gì phương hại đến công việc. Và bất kể người nào anh đặt vào cũng phải được lòng Procto, trở thành người tín cẩn của anh ta."
Kế hoạch của nàng có kết quả. Procto rất trống miệng nhất là sau khi nó đã được lau dầu mỡ và bằng những bữa tiệc thịnh soạn với giám đốc điều hành mới... người của Emma. Nhiều tin tức có ích về các bạn bè cộng sự của Procto ở Lead và Bradford đã được thu nhận, nổi bật nhất là gia đình Feli.
Qua Procto, Emma biết rằng từ năm 1918, Gieron Feli đã gặp rất nhiều khó khăn với nhà máy Tomxon và đã muốn bán nó. "Hãy mua nó càng ít tiền càng tốt", nàng đã lạnh lùng nói với Ted Jon. Dùng công ty Procto và Procto làm người mua. Công ty Emeremm đã lấy được nhà máy Tomxon. Tin rằng mình đã bán cho Alan Procto, một người bạn cũ và tin cẩn và vì tình hình tài chính quá túng quẩn, Gieron Feli đành phải chấp nhận số tiền chỉ bằng một phần tư giá trị thực sự của nó, và Emma hết sức hài lòng.
Và giờ đây, một tin mới đã tới bàn làm việc của Emma ngay buổi sáng hôm ấy và nó đã làm nàng ngẩng phắt đầu lên. Gieron đã thua bạc sạch và đã chạy trốn Alan Procto. Hăn ta muốn vay hai trăm nghìn pao. Procto đã bép xép với người của Emeremm và đã hỏi về khả năng có thể làm đại diện cho Gieron Feli vay không.
Đôi mắt linh lợi của Emma nhìn vào tờ giao ước và một ánh lạ len vào. Nàng nhận ra đây là cơ hội mà nàng vẫn hằng chờ đợi, nàng nắm lấy nó, hành động một cách mau lẹ vốn có của mình. Nàng cầm phone và nói với Ted Jon, công ty Emeremm ở London: "Anh có thể thông báo cho Alan Procto là anh ấy có thể cho Feli vay".
- "Điều khoản thế nào ạ, thưa bà Harte".
- "Tôi muốn có giấy cam đoan trả trong hạn một năm tám mươi ngày. Nhưng tờ cam đoan phải đem cái gì để cầm".
- "cầm tài sản gì, thưa bà Harte?".
- "Những nhà máy Feli ở Amli và Stanningli Bottom".
Ted Jon hít hơi. "Điều khoản khá căng, bà có nghĩ thế không ạ?".
- "Đó là điều khoản của tôi", Emma nói lạnh băng. "Gieron Feli có thể chấp nhận hay không thì tuỳ. Đằng nào thì tôi cũng chẳng mất gì. Ông ta không thể kiếm ra tiền ở bất cứ đâu. Ông ấy đã mắc nợ nhiều ở ngân hàng quá rồi. Tôi cũng tình cờ biết được ông ấy đã vay nhiều qua các cộng sự cha ông ấy. Ông ấy cũng còn nợ cả Procto tiền riêng nữa." Nàng cười khô khốc. "Ted, thử hỏi ông Gieron còn biết đi đâu?".
- "Bà nói đúng. Tôi sẽ chuyển những điều khoản đó cho người của chúng ta ở Procto và Procto, ông ấy có thể chuyển cho Alan. Tôi sẽ trao lại cho bà chiều nay".
- "Tôi không vội, Ted. Tôi không gặp khó khăn gì hết. Chính Feli đang chìm".
- "Vâng, đúng thế. Thằng điên. Thật là quá đoảng mới phải thua thiệt trong thời chiến khi mà tất cả những xưởng quần áo khác đều làm giàu vì những hợp đồng của Nhà nước".
- "Đúng quá. Tạm biệt, Ted", nàng đặt ống nghe xuống.
Emma ngả người trong ghế, một nụ cười mãn nguyện ở trên khuôn mặt đẹp của nàng. Tất cả đều xảy ra sớm hơn mình mong đợi, nàng nghỉ. Lúc đó nàng mới chợt thấy rằng nàng không cần phải làm một cố gắng nghiêm chỉnh nào để phá hoại gia đình Feli. Gieron đã làm việc ấy hộ nàng. Từ khi Adam Feli bị quỵ vì trọng bệnh, Gieron đã hoàn toàn kiểm soát các nhà máy và không có sự hướng dẫn của bố, hắn ta sa lầy. Bây giờ mình chỉ cần ngồi nhìn hắn ta đào một cái hố sâu đến độ hắn ta sẽ không bao giờ leo lên được, Emma tự nói với mình.
Sau đó nàng thừa nhận rằng chắc hẳn Gieron phải chống lại những điều khoản của Procto và Procto, nhưng cuối cùng hắn ta sẽ phải chấp nhận vì tình thế bắt buộc. Và hắn ta sẽ không bao giờ xoay được đủ tiền để trả nợ theo đúng thời hạn. Nhưng nàng có thể rộng rãi hơn. Nàng có thể gia hạn thêm một vài tháng và như vậy có thể ru Gieron vào cái cảm giác an toàn giả hiệu. Khi nàng đã sẵn sàng, nàng sẽ đóng hạn kỳ và lấy những nhà máy của Feli. Emma cười lớn. Nàng đã dồn Gieron vào một góc thế mà hắn ta hoàn toàn mù tịt về điều ấy.
Đúng như nàng ngờ trước, lúc đầu Gieron Feli chùn lại trước những điều khoản đó và trù trừ một thời gian lâu hơn nàng dự đoán. Nàng khá thú vị khi nghe nói hắn chạy quanh cố gắng xoay số tiền hắn cần. Hắn ta đã không thành công một cách khốn khổ. Sau bốn ngày, quá hốt hoảng, và trong tâm trạng ngày một thất vọng, cuối cùng hắn ta đã len lén trở lại với Alan Procto và ký vào giấy cam kết trong đó hắn bị cược hai nhà máy Feli. Hắn ta đã làm như vậy bởi vì, một lần nữa, hắn nghĩ hắn đang giải quyết công việc với một người bạn mà hắn tin rằng sẽ không làm gì phương hại đến quyền sở hữu những nhà máy của hắn.
Một tuần lể sau khi Emma để tờ cam kết và hợp đồng vào trong két, chiến thắng của nàng là toàn vẹn.
Đavid K. đổ xe ngoài nhà của Emma, anh quay sang nàng, " Cám ơn em đả làm việc sáng nay. Emma. Em đả dành một phần ngày chủ nhật của em cho lủ trẻ thật là tốt quá"
Emma mỉm cười, "không sao thật đấy , không sao đâu Davit. Thực tế em củng thích để bà Hamilton phác một ít bản vẻ kiểu đầu của em và em biết anh củng nóng lòng để thực hiện ngay" Nàng mở cửa xuống xe " anh có chắc là anh không muốn uống chút gì không"
Không, cám ơn em, tôi phải đi. Tôi đả hứa với ba tôi, tôi sẻ đến thăm ông" Anh đột ngột nắm cánh tay nàng " Emma, tôi có điều muốn nói với em"
Giọng anh căng thẳng khiến Emma giật mình " có chuyện gì vậy, Davit"
Anh đang định ly dị
Bàng hoàng, Emma há miệng nhìn anh, không tin " ly dị, trời ơi Davit" Nàng do dự một lúc rồi nói " có chuyện gì không ổn giửa anh và Robeca vậy"
" Củng không khá hơn trước chiến tranh" Anh hắng giọng. "Tôi thấy cuộc sống không sao có thể chịu nổi từ khi tôi về nhà. Tôi phải thành thực với em..." Anh ngừng lời nhìn nàng chăm chút " Tôi vẩn yêu em, Emma. Tôi nghỉ nếu tôi được tự do...Ồ, tôi vẩn hy vọng em sẻ lấy tôi"
Emma cứng người, không ngờ, và rung động vì đề nghị của anh " Ôi Davit, Davit" Nàng chạm vào bàn tay anh đang nắm tay lái và nói " anh ạ, anh biết điều ấy không thể được. Như vậy thì em đả chẳng hy sinh chín năm trước đây khi anh còn tự do để gây nên một tai hoạ , giờ đây khi anh đả có vợ. Điều ấy sẻ làm mẹ anh chết mất. Hơn nửa nah có hai con trai và em có hai con. Lại còn phải nghỉ đến nhửng người khác, củng như Rebeca và chính anh nửa. Nhiều năm về trước em đả nói với anh không thể xây dựng hạnh phúc trên đau khổ của người khác và em biết là em đúng.
" Nhưng còn em và tôi thì sao Emma?" Anh hỏi , đôi mắt đầy đau khổ
"Không còn em và anh, Davi6" Nhận thấy sự thất vọng của anh, nàng nói dịu dàng " Em hy vọng em không làm điều gì để khuyến khích anh tới chổ đó, Davit. Chắc em không xây nên hy vọng của anh chứ, phải không anh?
Anh cười đau khổ, " không, tất nhiên là không. Và từ trước tới gờ, tôi không hề nói lên điều ấy bởi vì tôi còn phải tìm hiểu tâm hồn. Cuối cùng tuần trước tôi biết tôi phải nói với em điều tôi cảm thấy. Yên lặng và không đạt được gì hết. Em biết không tôi luôn nghỉ là em yêu tôi, ngay cả sau khi em lấy Joe. Trong suốt chiến tranh tôi đả tin điều đó. Nó làm cho tôi vửng mạnh, làm tôi sống hiểu theo nghỉa nào đó. Tình cảm của tôi vẩn y như trước đâu và tôi nghỉ rằng tình cảm của em củng thế. nhưng em không còn yêu tôi nửa, có phải không?
"Ôi, Davit anh thân yêu, tất nhiên là em có. Như một người bạn thân. Nói thật, em vẩn còn yêu anh khi lấy Joe. Bây giờ em có một tình yêu khác đối với anh và bây giờ em khác. Sự thăng trầm của cuộc đời quả có xen vào, và cuối cùng tình cảm củng thay đổi. Em đả đi đến chổ hiểu được rằng cái vỉnh hằng duy nhất là sự thay đổi"
"Em đang yêu một người khác phải không." Anh thốt lên theo trực giác.
Emma không trả lời. Nàng nhìn xuống tay, nắm chặt túi xắc, miệng mím lại. Davit nói " tôi biết câu trả lời của em rồi, mặc dù em yên lặng. Em không cần phải thương hại đến tình cảm của tôi làm gì" anh nói ngắn gọn, cả quyết nhưng không cay độc. " Đáng lẻ tôi phải đóan ra. Chín năm là thời gian dài. Em có định lấy anh ấy không?
"Không, anh ấy đi rồi. Anh ấy không sống ở nước này. Em nghỉ anh ấy không còn quay trở lại nửa" Giọng nàng nghẹn lại.
Davit nhận ra cái buồn, cái thất bại trong nàng và mặc dù trong lòng mình đau khổ, anh thấy rộn lên tình thương, bởi vì anh thật sự yêu nàng và chỉ nghỉ đến điều tốt đẹp cho nàng. Anh để tay lên tay nàng và nắm lấy " Emma, tôi hết sức xin lổi"
Emma nhìn nah qua đôi mắt nhòa " Em không sao, vết thương của em hầu như đả lành...em hy vọng thế"
" Tôi vẩn không còn dịp nào, Emma ? Ngay cả khi hình ảnh ấy đả nhòa?"
" Đúng vậy, Davit. Và em luôn luôn nói với anh sự thất mặc dù nghe nó không vui. Em không bao giờ có ý làm tổn thương tình cảm của anh, nhưng em chẳng có thể nói được gì nhiều để an ủi anh. Tha lổi cho em, Davit"
" Chẳng có gì để tha lổi, Emma. Tôi không thể trách em là không còn yêu tôi nửa" Đôi mắt anh dịu dàng, " Tôi hy vọng em tìm t hấy sự bình yên, Emma thân yêu"
" Em củng hy vọng như thế" Nàng mở cửa, " Không anh đừng ra" Nàng hôn lên má anh. " Anh hảy suy nghỉ cẩn thận trước khi làm một điều gì vội vàng đối với Rebeca và cuộc hôn nhân của anh. Chị ấy là một người tốt và chị ấy yêu anh. Và anh hảy nhớ rằng anh rất đặt biệt đối với em, Davit. Em làm bạn anh, và lúc nào em củng có mặt nếu anh cần em."
" Cám ơn em, và anh củng là người bạn tận tụy của em, Emma ạ. và nếu như có một cái gì đó có thể làm đở được em, bây giờ hoặc sau này, em biết là anh sẻ làm" Anh mỉm cười " hình như cả hai chúng ta đều bất hạnh trong tình yêu. Nếu em cần một đôi vai mạnh khoẻ thì.....ờ, nó đây"
" Cảm ơn anh, anh thật tử tế và thông cảm." Nàng cố gắng cười " em sẻ gặp lại anh ở nhà máy như thường lệ tuần tới. Tạm biệt"
"Tạm biệt, Emma thân yêu"
Emma bước lên lối đi trong vườn và không quay nhìn lại, chân này dẩm trên tuyết cứng nghe lạo xạo, đầu nàng cúi. Nàng đầy lòng thương mến Davit, biết cái thất vọng của anh, và nổi đau của nàng. Mặt nàng chơi vơi trong cái ánh sáng mùa đông lạnh lể, ý nghỉ của nàng chợt quay về Pôn. Nàng đứng ở cửa trước, hít một hơi dàn trước khi vào. Nàng cởi áo khoác, bỏ mủ ở phòng ngoài, nhìn bà Fenton đang chuẩn bị bửa trưa chủ nhật trong bếp rồi mệt mỏi leo lên cầu thang tới phòng của bọn trẻ.
Đó là tuần trước ngày Noen 1919, vừa đúng mười hai tháng trước, Pôn Mác Gin đả ở ngôi nhà này với nàng và lủ trẻ, với anh em của ngày. Cuộc chiến tranh vỉ đại cuối cùng đả chấm dứt tháng mười một, Pôn đả đến ở với họ trước khi trở về Úc để giải ngủ. Đó là một Noen vui, đầy tiếng cười và tình thương. Emma đả chóng mặt vì hạnh phúc, và càng yên Pôn hơn là nàng nghỉ có thể yêu. Nàng cảm thấy tất cả nhửng điều nàng hằng ao ước, hằng mong chờ, cuốn cùng đả tới với nàng. Tới với nàng mải mải. Nhưng giờ đây nàng không có gì hết....một trái tim tan nát, nổi cô đơn và thất vọng. Sao nàng lại có thể điên rồ để tin rằng sự việc có thể khác đi. Hạnh phúc cá nhân luôn lảnh tránh nàng. Noeh năm nay khác quá.
Tay nàng để trên quả đấm cửa phòng của bõn trẻ. Nàng nghỉ mình phải cố gắng vui vẻ vì lủ trẻ.
Kit đang ngồi vẻ ở bàn. Mắt nó sáng lên, nó nhảy xuống , nhảy chân sáo qua phòng. Nó choàng lấy Emma, " Mẹ, mẹ. Mẹ về con mừng quá, nó hét lên và ôm lấy chân Emma.
Nàng hôn lên đầu con " Trời , Kit, con làm cái gì thế này? Con hình như vẻ lên người mình nhiều hơn là vẻ lên giấy. Mà con vẻ cái gì thế này, cưng?
- Mẹ chưa thấy được đâu, chưa được. Đây là một cái tranh. Cho mẹ đấy ạ. Một món quà Noeh" Kít bây giờ đả tám tuổi, nhìn lên Emma, nheo mủi lại cười: Nếu mẹ, mẹ có thể liếc một cái.
Nếu con muốn sẻ là một điều ngạc nhiên thì thôi
Mẹ có thể không thích nó. Nếu mẹ không thích thì con vẻ một cái khác. Tốt nhất, nhất là mẹ nên nhìn một cái xem sao, ngộ nhở....Nào đi mẹ.
Kít nắm bàn tay Emma và kéo nàng vào căn phòng.
Tốt nhất, chứ không phải nhất nhất, con. Emma chửa lại và nhìn xuống bức tranh. Nó trẻ con, vẻ vụng về, mầu sắc loè loẹt. Bức tranh vẻ một người đàn ông mặc quân phục. Emma nín thở. Trong đầu này, người đó là người nào, điều ấy không còn nghi ngờ gì nửa. Với cái vệt đên dây ở trên môi và đôi mắt sáng. " Đẹp lắm con ạ" Emma nói , mặt nàng tư lự
" Bác Pôn đấy. Mẹ có biết được không?. Trông có giống bác ấy không? Mẹ có thích thực không, mẹ?
" Mẹ thích thật đấy, Chị con đâu?, Emma hỏi , nàng muốn nói sang chuyện khác.
"Ô, bà già Edwina cớm nắng ở trong phòng, đang đọc điếc gì đó. Sáng hôm nay chị ấy không chơi với con. Ồ, ai cần gì. Con muốn vẻ cho xong bức tranh này, mẹ" Kit leo lên ghế, cầm bút vẻ lên bức tranh một cách hung hăng và hăm hở. Vẻ tập trung trên khuôn mặt tàn nhang của nó " Con phải vẻ thật đẹp cho mẹ. Con nghỉ con sẻ để một con Kanguru vào đó. Và một con gấu bắc cực nửa"
" Có phải con định nói gấu Koala không Kít?"
" À, một con gấu, mẹ. Bác Paul kể với con là ở Úc có gấu" " Đúng, con ạ" Emm nói một cách lơ đảng " Nửa tiếng nửa thì có cơm, Kit. Con đừng quên phải cho gọn gàng trước khi xuống". Nàng xoa đầu con và vội vả về phòng mình, nàng cảm thấy cần phải ở một mình để tập trung nhửng ý nghỉ tản mác.
Mặt trời mùa đông đang ùa vào qua nhửng cách cửa sổ cao và căn phòng tràn đầy ánh sáng tinh khôi. Nhung bức tường màu vỏ đào thẩm và tấm thảm chuyển vào vàng, nhưng tấm lụa màu xanh nhạt phủ giường , sopha, và nhiều chiếc ghế nhỏ khe khẻ rung rinh như có ánh bạc bắn vào. Nhửng đồ cổ Georgian, mặt gổ của chúng bóng lên điểm cho màu thẩm của căn phòng, nhửng ngọn đèn pha lê với nhửng chao đèn lụa màu kem bắt ánh sáng ấp áp lên nhửng bức tường màu hồng. Một ngọn lửa cháy trong lò sưởi đá cẩm thạch trắng và không khí vui tươi. Emma hầu như không để ý đến chung quanh. Nàng đứng trước ngọn lửa sưởi đôi tay, cái băng giá ngày xưa của tuổi thơ thấm qua thân thể nàng. Đầu nàng giần giật, nàng cảm thấy buồn chán hơn thường lệ.
Lời tỏ tình và sự khước từ của nàng làm tăng thêm nổi giày vò nung nấy của Paul McGill đả gây ra cho nàng. Luôn luôn biểu hiện trong đầu, tình cảm lúc này mảnh liệt hơn bao giờ hết, nàng cảm thấy bị thất bại hoàn toàn. Một lát sau nàng bước tới ngăn tủ đứng và mở ngăn cuối cùng. Nàng đưa tay vào dước nhưng bộ quần áo ngủ bằng lụa và lấy ra tấm ảnh của Paul. Nàng đả để nó ở đó nhiều tuần trước, không chịu được khi nhìn thấy nó để trên bàn trang điểm của nàng. Nàng nhìn vào khuôn mặt thân thương, ngắm đôi mắt nhìn thẳng dưới cặp lông mày rậm, nụ cười trên chiếc miệng rộng và trái tim tan nát của nàng nhói đau. Đột nhiên một cơn giận điên cuồng ập đến, nàng liệng chiếc ảnh qua phòng hết sức mạnh, mắt nàng bốc lửa.
Ngay phút nó rơi khỏi bàn tay nàng, nàng ân hận vì hành động thiếu chín chắn của mình và chạy ra cầm nó lên. Cái khung bạc dúm dó, kính nát ra, nhưng nàng nhẹ nhỏm vì tấm ảnh không việc gì. Nàng quỳ trên sàn, nhặt nhửng mảnh kính vở, để nó vào sọt rác. Nàng ngồi xuống ghế bên lò sưởi, ôm lấy tấm ảnh và nghỉ đến Paul. Ảnh chụp vào tháng giêng, trước khi anh rời Anh, khi họ củng ở khách sạn Ritz với nhau. Anh mặc quân phục thiếu tá trông cực kỳ đẹp trai. Nàng còn hình dung thấy anh đứng trên sân ga Eusten trước khi anh bước lên tàu. Anh đả nâng mặt nàng lên gần mặt anh và nhìn sâu trong mắt nàng, mắt anh đắm đuối: "Anh sẻ trở lại, em thân yêu nhất. Anh hứa anh sẻ trở lại rất nhanh để em không biết là anh đả từng ra đi", anh đả nói như vậy. Và nàng thật là ngu ngốc đả tin anh.
Nàng nhìn xuống tấm hình. “ Tại sao anh không trở lại, Paul? Anh đã hứa mà! Anh đã thề là không có gì có thể làm anh xa em!”. Câu hỏi của nàng vang lên khắp phòng, và nàng không có câu trả lời cho mình, nàng lại thêm bối rối và điên đảo vì thất vọng. Paul đã viết cho nàng hai lần và nàng đã trả lời ngay. Nàng ngạc nhiên, anh không bao giờ trả lời lá thư thứ hai của nàng. Lúc đó nàng tự hỏi hay là lá thư bị thất lạc và đã viết lại. Bức thư này cũng không có trả lời. Cuối cùng, phải cố nuốt long tự hào ghê gớm của mình, nàng đã gởi đi mấy lời thận trọng và đợi anh trả lời. Tuần đã chuyển thành tháng, sự yên lặng là tuyệt đối. Trong tâm trạng bàng hoàng choáng váng, nàg đã không làm gì hết. Nàng đã mất nhuệ khí. Cho đến tháng mừơi, Emma đã đau khổ cam chịu chấp nhận sự kiện là Paul sẽ không đủ chí khí đàn ông để viết và nói cho nàng biết là anh không còn yêu nàng nữa. Rằng thế là hết rồi. Đó là cái kết luận duy nhất nàng có thể rút ra được trong tâm trạng đau khổ của mình. Anh ta không cần gì tới mình nữa, nàng nghĩ. Mình chỉ giúp anh ta thực hiện một mục đích khi anh ta một mình ở nứơc Anh, anh ta lại đi theo con đường cũ ở Úc. Anh là một người đã có vợ.
Emma ngã người về phía sau, nhìn lơ đãng vào khoảng không, mặt nàng lạnh và nghiêm nghị, đôi mắt mỡ to, không nước mắt. Nàng đã khóc tất cả những dòng nước mắt có thể khóc được vì Paul McGill, hằng đêm trong những tháng vừa rồi. Paul McGill không cần nàng và chỉ có thế thôi. Nàng không thể làm gì được.
-“Mẹ ơi, con vào được không”. Edwina thò đầu vào trong hỏi.
-“Ồ, con vào đi”. Emma nói và để chiếc ảnh vào dưới ghế, cố gắng mĩn cười. “Buổi sang có vui không con? Mẹ xin lỗi phải đi đến nhà máy vào ngày của con. Có chuyện cần”.
-“Mẹ làm việc quá nhiều, mẹ ạ”, Edwina trách. Con bé ngồi xuống chiếc ghế đối diện và vuốt chiếc váy len.
Emma không để ý tới lời nhận định và giọng nói phật ý đó, nàng nói một cách vui vẻ. “Con vẫn chưa cho mẹ biết, con muốn quà gì cho Noel. Có lẽ tuần tới con muốn đến cửa hang với mẹ nhìn xem sao”.
-“Con cũng chẳn biết con muốn gì ngày Noel nữa” Edwina nói, con mắt màu bạc của nó quan sát Emma. “Nhưng con muốn giấy chứng sinh của con, mẹ ạ”.
Emma cứng người lại trên ghế. Nàng cố làm cho nét mặt tự nhiên. “Tại sao con lại cần giấy chứng sinh, Edwina?”, nàng hỏi với giọng nhẹ nhàng.
-“ Bởi vì con cần nó để lấy giấy thông hành”.
-“ Trời, con cần giấy thong hành làm gì?”
-“ Cô Mathews, mùa xuân tới đưa lớp đi Thụy Sĩ và con cũng đi”.
Đôi lông mày của Emma nhíu lại. “Mẹ nhận thấy là con chỉ đơn giản cho là con sẽ đi. Con chưa xin phép mẹ. Edwina, mẹ thấy như vậy là không được chút nào”.
- “Con có đi được không, mẹ”.
- “Không, Edwina, con không được đi”, Emma nói một cách nghiêm khắc.
- “Con mới có mười ba. Theo ý mẹ, con hãy còn quá nhỏ để đi lục địa không có mẹ đi cùng”.
- “Nhưng chúng con đã có người trông nôm. Hầu hết bọn con gái đều đi cả. Tại sao con lại không đi được”.
- “Mẹ đã nói với con vì sao rồi, con ạ. Con còn nhỏ quá. Hơn nữa, mẹ khó mà có thể tin được hầu hết bọn con gái đều đi. Chính xác là có bao nhiêu người trong nhóm đi?”.
- “Tám”.
- “Ồ, thì ra thế”. Tám trong số hai mươi bốn người, như vậy chỉ là một phần ba. Edtwina, thỉnh thoảng con hay cường điệu quá”.
- “Như vậy là con không thể đi?”.
- “Năm tới thì không. Có lẽ vài năm nữa. Mẹ còn phải suy nghĩ cẩn thận đã. Mẹ xin lỗIicon đã làm con thất vọng nhưng lẽ ra con phải bàn với mẹ trước đã. Và quyết định của mẹ là quyết định cuốI cùng, Edwina”.
Biết rằng không thể tranh luận với bà mẹ sắt đá, Edwina thở dài theo kiểu đống kịch và đứng lên. Cô ta ghét mẹ. Phải chi ba cô còn sống thì ông đã để cô ra nước ngoài rồi. Cô bé mỉm cười với Emma, khôn khéo che giấu ác cảm của mình. “Không quan trọng lắm”, con bé nói và lướt qua phòng, về phía bàn trang điểm của Emma. Cầm cái lược lên, nó bắt đầu chải tóc màu bàng bạc dài chấm lưng, ngắm nghiá mình trong gương. Emma nhìn nó, sự bực bội tăng lên, mặt nàng nheo lại khi nhìn thấy nụ cườI thoả mãn trên nét mặt con gái nàng trong gương.
- “Edwina ạ, hãy còn bé như con mà đã làm đỏm làm dáng quá. Mẹ chưa thấy có ai lại soi gương luôn như con”.
- “Mẹ lại cường điệu rồI”, Edwina cãi lại một cách ngạo xược.
- “Đừng hỗn”, Emma nói cáu kỉnh. Sáng hôm nay nàng không còn kiên nhẫn được và thần kinh căng thẳng. Nhưng tiếc là mình đã tỏ ra quá nóng nảy, nàng nói giọng nhẹ nhàng hơn. “Bác Winston của con đến uống trà hôm nay đấy. Con thích như thế, phải không con”.
- “Không đặc biệt như vậy. Từ khi cái người đàn bà ấy nắm được bác, bác ấy không còn như trước nữa”.
Emma cố nén cười. “Bác Charlotte không phải là nắm được bác con, Edwina, như con đã nói một cách lạ lùng như vậy. Bác ấy lấy bác con. Và bác ấy rất tốt. Con cũng biết là bác ấy rất mến con”.
- “Nhưng bác Winston vẫn không như trước”. Étwina nói một cách ương bướng. Nó đứng lên “Con phải làm cho xong bài tập ở nhà, mẹ. Con xin lỗi”.
- “Ừ, cưng”.
Khi Emma còn lại một mình, nàng để tấm hình của Paul vào ngăn kéo, đầu óc nàng bận rộn vvì cái đề nghị của Edwina đòi giấy chứng sinh của nó, một tình thế tai hại nàng chưa hề lường trước. Nàng chạy xuống gác, vào phòng làm việc, đóng cửa thật chăt lại và gọi điện cho Blackie ở Harrogate.
- “Chào cưng”, Blackie nói.
- “Blackie, có chuyện khủng khiếp đã xảy ra!”.
Anh nghe thấy sự sợ hãi trong giọng nói của nàng. “Có chuyện gì vậy, Emma?”.
- “Edwina vừa đòi em giấy chứng sinh của nó”.
- “Jaysus!” Anh trấn tĩnh lại ngay. “TạI sao đột nhiên cháu nó lại cần giấy chứng sinh?”.
- “Để lấy giấy thông hành cho một chuyến đi lục địa của nhà trường vào năm tới”.
- “Chắc là em từ chối”.
- “Tất nhiên. Nhưng rồi sẽ có ngày em không thể lảng tránh được nữa, Blackie. Em sẽ làm như thế nào?”.
- “Em sẽ phiI trao cho nó. Nhưng không phải trước khi nó đủ lớn để nắm hiểu được tình thế, Emma”. Anh thở dài. “Điều ấy rồi một ngày nào đó thể nào cũng phải xảy ra”.
- “Nhưng em biết giải thích thế nào tên anh trên giấy chứng sinh? Nó cứ nghĩ Joe là bố nó”.
- “Em có thể để cho nó nghĩ rằng anh chính là bố nó”.
- “Nhưng như vậy là một trách nhiệm quá nặng nề cho anh, Blackie”.
Anh cười: “Lưng anh rộng, em ạ. Đến bây giờ em phải hiểu như thế mới phải”. Giọng anh thay đổi có thể nhận thấy được, anh nói tiếp. “Tất nhiên, Em có thể nói viI nó, cha đẻ của nó là ai. Nhưng anh không nghĩ là em muốn làm như thế, phải không Emma?”.
- “Không, dứt khoát là không!”, Emma quyết định, hít một hơi, nàng nhào vô. “Anh biết người đó là ai phải không?”
Blackiei thở dài nhè nhẹ trên ống nói: “Anh có thể phỏng đoán. Anh thấy nó rất giống Adele Fairley nên không còn nghi ngờ gì nữa. Là Edwin không?”
- Đúng, Blackie ạ”, Emma trả lời lặng lẽ, và bỗng cảm thấy nhẹ nhõm hẳn người vì cuối cùng nàng đã nói với anh sự thật. “Nhưng Edwina sẽ không bao giờ biết. Không bao giờ được biết. Em phải bảo vệ nó khỏi gia đình nhà Fairley suốt đời nó”.
- “Vậy thì em cũng phải để nó tin rằng anh là cha thực của nó. Anh không phản đối, Emma”. Anh cười lặng lẽ. “Thôi nào, cưng, cứ thoải mái đi. Anh có thể thấy sự căng thẳng của em qua đường dây. Thôi hãy quên cái vấn đề nhỏ nhặt ấy đi đã. Cứ trì hoãn chừng nào có thể được. Em là một phụ nữ khôn ngoan. Em có thể lảng tránh vấn đề trong một vài năm. Ít nhất cho tới khi nó mười bảy hay mười tám tuổI”.
- “Em nghĩ là em có thể làm được”, Emma nói chầm chậm. “Chúng ta không bao giờ thoát được quá khứ, phải không anh?”.
- “Đúng vậy, em gái ạ, và anh nghĩ đó là sự thật đáng buồn. Nhưng chúng ta đừng sống trong quá khứ. Không ích gì. Nào em không quên bữa tiệc của anh vào ngày Boxing (!) chứ”. Blackie nói tiếp, cố gắng lái nàng sang chuyện khác. “Bữa tiệc mừng nhà mới của anh. Nhà đẹp lắm, Emma ạ, anh vẫn phải nói như thế”.
- “Tất nhiên là em không quên. Nhất định em không bỏ lở nó. Frank sẽ về Yorkshire để ăn Noel và cậu ấy đã hứa đem em đi. Và em rất muốn xem ngôi nhà. Anh kín đáo về chuyện ấy gớm”.
- “À, nhưng mà phảI đợi đến lúc xem mới rõ, Emma. Đúng như anh miêu tả với em nhiều năm về trước trên đồng hoang đó. Toà biệt thự Georgian tuyệt đẹp của anh”.
- “Em hồi hộp mừng cho anh quá, Blackie. Giấc mơ tốt đẹp nhất của anh bao giờ cũng là như vậy mà”.
- “Ừ, đúng thế. Emma, thôi anh ngừng ở đây nhé. Anh đã thấy chú bé Bryan kháu khỉnh của anh đi cùng chị vú ở lối xe vào kia rồi. Thôi nhé, em đừng lo cái chuyện giấy chứng sinh nữa. Hãy quên nó đi cho đến năm sau gì đó. Chúng ta sẽ giải quyết nó chỉ khi nào tuyệt đối cần thiết”.
- “Em sẽ cố gắng. Và cám ơn anh, Blackie. Anh bao giờ cũng là một nguồn an ủi đối với em”.
- “Đúng rồi có gì đâu, em gái”.
Emma đặt ống nghe xuống, nàng ngồi đắm trong suy tư, trí óc nàng quay về với đứa con gái nàng. Có một cái gì đó không thể gần được, một sự lạnh lùng cố hữu trong bản chất nó. Emma nhận thấy sự không tán thành trong cái cung cách của nó và nàng thường lúng túng không biết giải quyết ra sao! Làm thế nào mình có đủ can đảm để mà nói sự thật với đứa bé này? Nàng tự hỏi. Làm thế nào mình có thể kể cho nó nghe mà không mất đi sự trìu mến nhỏ bé ít ỏi của nó đối với mình? Nàng ngại ngùng khi nghĩ tới một cuộc chạm trán, mặc dù nó còn xa đến mấy, và lần đầu tiên trong nhiều tháng, Emma trong chốc lát đã quên Paul Mcgill và nỗi khổ riêng của mình.
Blackie O’neill đi thanh thản qua phòng ngoài lộng lẫy của biệt thự Georgian của anh ở Harrogate, tay anh ôm lấy vaiWinston. Anh đưa Winstonvào thư viện và khoá cánh cửa đôi lớn lại.
- “Tại sao anh lại làm thế?”, Winston bối rối hỏi. “Mình nghĩ chúng ta vào đây để uống một chút gì cho yên ả”.
- “Đúng, đúng. Nhưng mình muốn nói chuyện riêng với anh mà không bị ai làm phiền”.
- “Ai sẽ làm phiền chúng ta? Mọi người ai cũng phải vui trong bữa tiệc”.
- Ví dụ như Emma chẳng hạn”.
- “A ha! Anh muốn nói về em gái mình. Phải không?”
- “Đúng thế”, Blackie bận rộn ở phía tủ, rót hai cốc Courvoisier lớn.
Winston đứng bên lò sưởi, nhìn Blackie, không hiểu anh ta có ý gì. Anh lắc đầu bối rối và liếc nhìn quanh một cách ngưỡng mộ vẻ lịch thiệp của đồ đạc và cách bài trí sang trọng. Những bức tường bằng gỗ thông trắng xếp những giá sách hài hoà bằng những tấm thảm nhung màu rừng xanh và một tấm thảm lớn cùng màu trải trên sàn gỗ vàng tâm. Những chiếc ghế sôpha và ghế bành dày được bọc nhung xanh nhạt hơn và lụa màu hồng; cái màu sắc ấm cúng này làm tôn màu xanh mát mẻ. Những chiếc bàn, tủ búp phê và một bàn giấy vẽ kiểu Sheraton và Hepperwhite làm căn phòng thêm duyên dáng, một chùm đèn pha lê Waterford rủ xuống từ trần cao vút. Thư viện, cũng như tất cả những thứ khác của toà nhà là do cái khiếu và cái tài của Blackie về thiết kế và màu sắc, cũng như cách trang trí thờI trang Georgian của anh.
Trông rất đẹp trai trong bộ comple, Bláchki đưa cho Winston ly cô nhắc lớn: “Chúc mừng, Winston ”, anh nói.
- “Chúc mừng Blackie”.
Blackie chọn một điếu xì gà, cắt đầu thuốc, từ từ châm. Anh bập bập hút một vài giây rồi cuối cùng đôi mắt đen và sáng nhìn Winston. “Bao giờ thì cô ấy ngừng tất cả những cái trò xuẩn ngốc này?”.
- “Trò xuẩn ngốc gì cơ?”. Winston cau mày hỏi lại.
- “Ném tiền đi ấy. Sáu tháng vừa rồi, cô ấy thật điên. Hay ít nhất thì mình cũng thấy như thế”.
- “Emma không ném tiền đi đâu. Sự thật cô ấy không hoang phí cho mình chút nào”.
Blackie dướn đôi lông mày đen lên hài hước và một nụ cười nhẹ thoáng qua miệng anh. “Thôi nào, đừng giở trò ngây thơ với mình nữa. Anh biết rõ mình muốn nói gì rồi mà. Một cách liều lĩnh, mình có thể nói thêm như thế”.
Winston cười: “Không liều lĩnh một chút nào đâu. Cô ấy kiếm được lớn đó. Blackie ạ”.
- “Ừ, thế nhưng cũng rất dễ dàng mất! Trong một đêm. Buôn bán hàng hoá là một trò chơi nguy hiểm nhất, anh biết đấy”.
- “Ừ, mình biết. Và vì thế mà cả Emma cũng biết. Cô ấy tựa như một người đánh bạc trong công việc kinh doanh. Cả hai chúng tôi đều biết điều ấy. Tuy nhiên, cô ấy khôn ngoan và biết mình đang làm gì…”
- “Nguy hiểm quá mình không thích chút nào. Cô ấy có thể dễ dàng bị phá sản…”. Winston cười. “Em mình thì không đâu. Anh thừa nhận phải là một thiên tài mới khởi nghiệp từ tay trắng và xây dựng nên một cách rực rỡ như ngày nay. Chỉ có một kẻ ngu mới liều lĩnh ném tất cả đi. Emma không phải là đồ ngu và hơn nữa cô ấy đã ngừng mua, bán hàng hoá mấy tuần trước đây rồi!”.
- “Cám ơn Chúa”. Blackie nhẹ người, nhưng giọng anh vẫn lo ngạI khi anh nói tiếp: “Dù sao thì mình vẫn e ngại vì tất cả sự phát triển nhanh chống của cô ấy. Những của hàng mới ở Bradford và Harrogate phải thừa nhận là mua tốt, nhưng những của hàng mới cô ấy khăng khắng bảo mình giải quyết sẽ rất đắt. Và mình không thể tin được ở tai mình tối nay cô ấy nói với mình cô ấy đang nghĩ tới việc xây dựng một của hàng ở London. Như thường lệ, những ý kiến của cô ấy rất táo tợn. Phải thành thực mà nói. Winston ạ, mình choáng váng cả người. Làm thế quái nào mà cô ấycó thể trả nổi tất cả những cái đó? Đó là điều mình muốn nói. Theo ý kiến mình, cô ấy quá căng trải bản thân mình”.
Winston lắc đầu một cách kiên quyết. “Không, không phải thế đâu! Em mình rất tài giỏi và không bao giờ làm điều gì một cách hấp tấp. Làm sao mà cô ấy lại phảI trả. Mình đã nói với anh cô ấy kiếm được rất nhiều tiền trong hàng hoá đó. Và cô ấy bán những đồ còn lại vớI thời giá rất cao. Sự thật, dần dần cô ấy đã đẩy đựơc tất cả bất động sản Joe để lại cho cô ấy, trừ mảnh đất ở trung tâm Leeds. Cô ấy còn giữ lại vì cô ấy nghĩ nó sẽ tăng giá trị và anh cũng biết cô ấy đúng. Cửa hàng ở Leeds phát đạt và sự nở rộ này về kinh doanh vải vóc kể từ khi kết thúc chiến tranh đã biến Layton thành một nơi kiếm tiền lớn hơn bao giờ hết. Những đơn đặt hàng ùn tới từ khắp nơi trên thế giới và Ben Andrew đã phải để hầu hết công nhân làm thêm giờ để đáp ứng những nhu cầu đó. Và nhà kho Gregson đã hoạt động lại đầy đủ và đừng quên Emma là người chung cổ phần với David Kallinski”.
Ngừng lại một lúc, Winston nhìn Blackie một cách thích thú. “Cái đó có thể trả lời được những câu hỏi của anh là làm thế nào cô ấy có thể trả được tất cả không?”.
Blackie phải bật cười: “Ấy, cậu cả ơi, trả lời được”.
Anh lắc đầu ngạc nhiên. “Rõ ràng là cô ấy đã trở thành một phụ nữ rất giàu… giàu hơn mình đã hình dung, theo như anh nói với mình”.
Winston gật đầu, một vẻ kiêu hãnh trên mặt anh: “Anh nghĩ cô ấy có bao nhiêu?”, anh nói một cách bột phát và anh ân hận liền, bởi vì anh không thể nói thật.
- “Mình không thể đoán liều”.
Winston uống một ngụm rượu để che đậy sự do dự của mình. Anh không thể nói số tài sản thật của Emma, bởi vì anh không thể tiết lộ sự tồn tại của công ty Emeremn và việc nàng là chủ của nó. Vì thế anh lựa một con số tương đốI thấp. “Một triệu pao. Tất nhiên đó là trên giấy tờ”.
- “Jaysus!” Blackie kêu lên. Anh biết Winston không nói dối hoặc cường điệu, và anh hết sức kính phục. Blackie nâng ly: “Điều đó đáng chúc mừng. Chúc mừng Emma. Mình tin là cô ấy đã vượt tất cả chúng mình!”.
- “Chúc mừng Emma”, Winston nhìn một cách suy tư. “Ừ đúng thế. Anh có biết tại sao không? Anh có biết bí mật của sự thành công lớn của em gái mình không?”
- “Chắc chắn biết. Mình nghĩ đó là một số đặc tính, lanh lợi, dũng cảm, tham vọng, khả năng làm việc, kể sơ sơ một số như thế”. “Tham vọng không bình thường. Khả năng làm việc không bình thường. Đó là sự khác nhau giữa Emma và hầu hết mọi người. Cô ấy không cho phép bất cứ cái gì ngăn cản cô ấy và cô ấy sẽ chống đến cùng địch thủ làm ăn của cô ấy, nhất là khi cô ấy bị dồn vào chân tường. Nhưng đó không phải là những lý do duy nhất cho sự thành công của cô ấy. Emma có một bản năng tàn sát để leo lên tột đỉnh”.
- “Bản năng tàn sát! Nói như thế năng quá. Anh nói nghe cô ấy có vẻ tàn nhẫn”.
- “Đứng về một số mặt, cô ấy như vậy đó”. Winston không thể nhịn cười vì vẻ hốt hoảng của Blackie, anh nói: “Anh đừng nói với mình là anh không hề nhận ra nét đó trong cô ấy!”.
Blackie suy nghĩ, nhớ lại những sự kiện trước đây “Cũng có đôi lúc mình nghĩ cô ấy có khả năng tàn nhẫn:, anh lẩm bẩm chậm rãi nói. “Thảo nào, Blackie, đủ rồi. Mình hy vọng mình đã làm vơi được nỗi lo lắng của anh về cô ấy”.
- “Ừ đúng thế. Mình sung sướng, chúng ta có cuốc nói chuyện hôm nay. Winston mình đúng là hết sức băn khoăn về cái vụ hàng hóa đó từ lúc cô ấy đề cặp với nình. Thật là sợ hết hồn hết vía, nói thật với anh. Thôi chúng ta hãy gạt chuyện ấy đi, mình quay lạI buổi tiệc, anh?”.
- “Bất cứ lúc nào anh thích. Nhân tiện nói đến chữ tàn sát, mình để ý thấy cái tay tàn sát phụ nữ đang rình mình tối nay. Anh ta không rời mắt được khỏi Emma và chắc chắn là anh ta chết mê chết mệt cô ấy rồi”.
Blackie chăm chú. “Anh đang nói về ai vậy?”.
- “Sao, tất nhiên là về Arthur Ainsley . Vị anh hùng vĩ đại của chiến tranh … theo lời anh ta. Một thằng khốn tự cao tự đại”.
- “Mình luôn luôn nghĩ rằng Emma không thích anh ta”.
- “Mình cũng không biết nữa. Mình không có mặt ở đó, anh nhớ không? Nhưng cô ấy nói là anh ta đã thay đổi và hình như cô ấy không phiền lòng về sự quan tâm của anh ta tối nay”.
- “Mình thực sự không chú ý”, Blackie nói cộc lốc và đột ngột đứng lên. Anh có vẻ bận tâm điều gì khi họ trở lại phòng khách. Ngay khi họ vào, Winston nhập bọn với Charlotte và Frank còn Blackie nhẹ nhàng tới bên piano. Anh tựa vào đàn một cách thảnh thơi, nhưng tất cả sự chú ý của anh dồn hết vào Emma, nàng đang trò chuyện vớI Frederick Ainsley và Arthur, con trai ông.
Blackie thấy đêm nay Emma thật là đẹp, hơi xanh hơn và buồn suy tư. Tóc nàng chải hất lên như một vương miện, kiểu tóc đó làm mặt nàng thanh tao hơn bao giờ hết. Nàng mặc chiếc áo nhung trắng, cắt thấp, hở vai và cài ở một bên ống tay áo chiếc trâm có đính đá quý mà xanh anh đã tặng nàng nhân ngày sinh thứ ba mươi của nàng. Nó là bản sao của chiếc trâm nhỏ bằng thuỷ tinh màu xanh anh đã mua cho nàng khi nàng mười lăm tuổi, nhưng nó to hơn, tinh xảo hơn. Anh rất vui trước sự ngạc nhiên rõ rệt của nàng vì anh đã nhớ lời hứa của anh cách đây đã lâu và rung động vì thấy nàng sung sướng trước món quà đắt tiền. Bây giờ anh trong thấy nó như một cái đồ trang sức loè loẹt ít giá trị so với đôi hoa tai ngọc thạch lộng lẫy nàng đang đeo.
Tự động, tay anh đút vào túi, ngón tay anh bao quanh chiếc hộp trang sức đang nằm ở đó. Nó đựng chiếc nhẫn kim cương anh đã mua tuần trước. Tối nay anh định hỏi Emma làm vợ. Sau một cuộc nói chuyện vừa rồi của họ về giấy chứng sinh của Emma và tình thế tiến thoái lưỡng nan nó đặt ra, cuối cùng anh đã đi tới quyết định anh đã mang trong lòng từ nhiều tháng. Gần đây anh đã đi tới chỗ hiểu rằng anh không yêu Emma một cách tôn thờ và thượng giới như anh đã yêu Laura của anh, nhưng quả là anh yêu Emma. Anh vẫn luôn luôn yêu nàng, từ ngày nàng còn là đứa bé ngây thơ, một con bé gầy còm của những vùng đồng hoang đơn lạnh và mù sương ấy. Anh thấy nàng về vật chất là hấp dẫn, nàng làm cho anh vui và anh đánh giá cao tình bạn của nàng. Bryan rất mến nàng và cậu nhỏ Bryan thân yêu của anh cần một bà mẹ. Vả lại Blackie kết luận, nếu anh lấy Emma thì có lẽ Edwina sẽ đỡ choáng váng khi nó phát hiện ra sự bất hợp pháp của nó. Đối với đứa bé anh sẽ như một người cha, sẽ cố gắng thay thế Joe trong tình cảm của nó. Nếu để đáp lại nó cũng đi tới chỗ yêu anh thì nó có thể không bực bội lắm khi nó thấy tên anh trên tờ khai sinh và anh sẽ vui lòng cho nó tên anh một cáchhợp pháp.
Tóm lại, anh đã nghĩ ý định của anh là không thể thất bại được, cho đến khi những bộc lộ mấy phút trước đây của Winston . Đột nhiên Blackie nhìn thấy Emma trong một ánh sáng hoàn toàn khác, thấy nàng lúc này là một phụ nữ có quyền lực khôn cùng và của cải hết sức to lớn. Anh chưa bao giờ đánh giá thấp nàng, bởi vì anh là người thông minh, sự thực anh chỉ không nhận ra nàng đã thực sự trở thành thế nào, anh quá chủ quan không thấy nàng là một phụ nữ của thế giới và một tycoon đầy thành công. Bản thân anh làm ăn cũng khá, nhưng nàng vượt xa anh và David Kallinski , vượt xa một cách đáng kinh hoàng nhất. Hơn nữa, bây giờ anh thừa nhận rằng nàng không bao giờ giống một phụ nữ bình thường, tận tuỵ với một người chồng, một gia đình, một mái nhà. Nàng không thể bị giằng ra khỏi công việc. Đúng về nhiều mặt, đó là nàng.
Blackie không còn chắc rằng nàng có chấp nhận anh là chồng không, và có lẽ, điều này chắc hơn, anh không chắc ở khả năng của anh có thể điều khiển được nàng. Và như vậy là Blackie O’neill, ba mươi ba tuổi, duyên dáng, giàu có, và cho đến nay vẫn là một con người tự tin của mình vì những thành tựu không thể nào tin nổi của Emma! Và anh nao núng trong quyết tâm cầu hôn.
Emma đã nhìn thấy anh, nàng xin lỗI bố con nhà Ainsley và lướt đi tới chỗ anh. “Bữa tiệc tuyệt vời, Blackie và ngôi nhà mới thật ghê. Kỳ diệu”. Nàng ngước nhìn anh, mắt nàng long lanh trong khuôn mặt trái xoan tai tái. “Và nó đúng như anh đã từng nói trước đây, màu xanh lá cây nhạt và màu xanh nước biển với những đồ đạc thời Georgian”. Nàng cười. “Anh có còn nhớ là em đã hỏi anh Hepplenwhite, Chippendate và Sheraton là ai không?”
- “Có, lúc ấy anh cũng nói với em, em sẽ trở thành một mệnh phụ lớn. Lời tiên đoán của anh đã trở thành sự thật”.
Nàng mỉm cười.
Blackie để ý thấy con mắt của Arthur Ainsley đang nhìn họ, anh cau mày nói: “Anh cứ nghĩ rằng em không thể nào chịu nổi cái gã thanh niên Ainsley ấy, nhưng tối nay anh lạI thấy em có vẻ nghiêng về hắn”.
- “Ồ, anh ta cũng không đế nỗi tệ lắm. anh ta thông minh hơn là em nghĩ và cũng hay hay. Sự thật em thấy anh ta cũng duyên dáng nữa”.
Đôi mắt Blackie loé lên: “Ồ đúng thế. Nếu hắn không phải là một Sasenach (!) thì anh thề hắn đã hơn hòn đá Blarney rồi”, anh tuyên bố.
Emma cười vì nhận xét mỉa mai của Blackie và thừa nhận: “Vâng, đôi khi em thấy anh ấy mượt mà quá. Nhưng ít nhất thì anh ta cũng vui vui và dễ gần”.
- “Em có gần anh ta nhiều không?”, Blackie hỏi bình thản thôi, mặc dù anh thấy một thoáng ghen tuông.
- “Không, không chút nào hết. Em chỉ gặp Authur trong công việc thôi. Sao?”, nàng nhìn anh bối rối.
- “Không có lý do gì đặc biệt cả. Anh chỉ hỏi thế thôi. À này, nhân nói đến công việc, em định xây ở London một cửa hàng ở chỗ nào?”.
- “Em đã làm được một khu đất rộng ở Knightsbridge và em có thể mua được với một giá rẻ. Em muốn anh xem mảnh đất đó”. Nàng chạm vào cánh tay anh. “Tuần tới anh có thể đi với em đến London không, cưng?”. “Có và anh sẽ rất vui. Nếu em mua mảnh đất đó, anh có thể bắt đầu thiết kế ngay. Anh sẽ xây cho em một của hàng lộng lẫy, Emma. Đẹp nhất London”.
Họ nói chuyện một lúc về cửa hàng bách hoá trong dự định. Emma giải thích ý kiến của mình, hết sức bề thế, nhiệt tình của nàng lây sang Blackie, anh bỗng thấy mình kích động về sự thách thức nàng bày ra cho anh và tài năng của anh. Sau một lúc trò chuyện, Blackie ngồi ở piano và bắt đầu chơi. Anh hát một vài bài hát vui Ireland, Emma ngồi lại, nàng bao giờ cũng thích nghe giọng hát tuyệt vời của anh. Nhiều vị khách xúm quanh piano, y như những người ở quán Con Vịt Nhớp Nhúa. Emma nhớ lại những ngày xưa, nàng mỉm cười một mình. Rồi bỗng nàng lạnh người khi giọng nam trung đầm ấm của Blackie lại ngân lên, trong sáng và rõ ràng, đoạn mở đầu của bài “Danny Boy”. Những lời quen thuộc gợi lên trong lòng nàng nỗi khát khao da diết và một nỗI buồn mênh mang.
“Nhưng khi anh tới, những bông hoa ấy đang tàn phai…”
Emma không thể nghe tiếp được nữa. Nàng nhẹ bước ra khỏi phòng, trái tim tan nát, cổ họng nghẹn tắc khi nàng nghĩ đến Paul, và chỉ nghĩ đến anh thôi: đã bước ra khỏi đời nàng mãi mãi.
Frank và Winston nhìn nhau, hoảng hốt. Frank lắc đầu khi Winston đứng lên. “Để em đi. Anh ở đây với Charlotte”, Frank đi theo ngay Emma và bắt kịp nàng trong phòng lớn. Cậu nắm lấy tay chị, đưa nàng vào trong thư viện không nói một lời. Cậu khép cửa, vòng tay qua vai chị, rồi nói: “Anh ấy không quay lại đâu, Emma ạ. Chị phải nhìn vào sự thực chứ”.
- “Chị có nhìn vào sự thực, Frank à”, nàng trả lời, giọng cam chịu.
- “Chị biết em không bao giờ can thiệp vào cuộc sống của chị, nhưng em không thể nhìn chị đau khổ mãi được, Emma. Có một số điều em cần phải nói với chị. Chị cần phải biết. Em không thể giữ được”.
Emma nhìn em cảnh giác. “Em định nói sao?”.
- “Paul McGill đã có vợ rồi”.
- “Chị biết, Frank ạ. Chị vẫn biết từ trước”.
- “Em hiểu”. Miệng cậu mím lại.
- “Chắc là Dolly Mosten kể cho em”, Emma nói.
- “Vâng, cô ấy kể”.
- “Dolly là một con người bép xép! Cô ấy không có quyền gì…”
- “Em hỏi cô ấy, Emma. Buộc cô ấy phải kể cho em, sự thật là như vậy. Chỉ vì quan tâm đến chị thôi”.
- “Ôi”, Emma nói, nàng nhìn xuống bàn tay mình một cách khổ sở.
- “Vậy Paul nói với chị anh ấy đã có vợ. Em nghĩ chắc anh ấy cũng hứa sẽ ly hôn”.
- “Anh ấy nói sẽ giải quyết”. Emma thì thầm, nàng nhận thấy sự cay độc trong giọng nói của Frank.
Nàng yên lặng, Frank nói tiếp một cách giận dữ, “Anh ấy có nói vớI chị là anh ấy lấy con gái của một trong những nhân vật chính trị nổi tiếng nhất của Úc và mẹ của cô ta là một trong những gia đình thứ nhất ở Sydney không?”
- “Không, anh ấy không bao giờ nói về vợ”.
- “Em cũng chắc thế! Em cũng chắc là anh ta không nói với chị là anh ta đã có một đứa con”.
Emma há miệng nhìn Frank môi nàng run run: “Một đứa con”. “Vâng, một đứa con trai. Em chắc anh ta không nói ra một cái tin quan trọng như thế”.
- “Đúng thế”, Emma thú nhận, tim nàng thót lại. Một người vợ anh ấy đã trở nên xa lạ thì nàng có thể cạnh tranh được, nhưng nàng không thể chống lại được một đứa con trai. Những người giàu có như McGill đặt tất cả hy vọng của họ vào thế hệ mới, vào đứa con thừa tự của dòng họ. Anh sẽ không bao giờ bỏ con trai mình vì nàng.
- “Em phải uống chút gì”, Frank nói và đứng lên. “Trông chị cũng có vẻ cũng muốn uống đấy”. Cậu rót một ly sâm banh cho Emma và ly rượu cho mình, quan sát chị kỹ lưỡng. Trời ơi, chị ấy là một phụ nữ cứng rắn, cậu nghĩ một cách thán phục. Cậu biết chị mình choáng váng và đau khổ, nhưng chị hoàn toàn làm chủ được mình. Cậu nói: “Em xin lỗi đã làm chị bị tổn thương, cưng, nhưng chị cần phải biết”.
- “Chị mừng là em đã kể cho chị biết, Frank”. Nàng cười cay đắng. “Chắc em phải hỏi Dolly kỹ lắm, phải không?”.
- “Chị sẽ ngạc nhiên một người phụ nữ có thể tâm sự với người yêu của mình như thế nào, nhất là trong không khí thân mật của phòng ngủ”.
- “Em và dolly ! Frank, chị không tin!”, nàng kêu lên không tin.
- “Vâng, lúc này”.
- “Nhưng cô ấy nhiều tuổi hơn em nhiều”.
- “Chính xác là mười tuổi. Tuy nhiên em không nghĩ quan hệ của em với Dolly lúc này là vấn đề quan trọng, phải không?”
- “Đúng tất nhiên là không”, Emma nghiên người về phía trước một cách chăm chú. “Làm sao cô ấy biết nhiều về McGill như vậy?”.
- “Mấy năm trước đây, cô ấy là tình nhân của Bruce McGill”.
- “Trai gái hình như là đặc tính của gia đình nhà đó!” Emma thốt lên một cách khinh bỉ. “Cô ấy còn nói gì với em nữa? Chị cần phải biết mọi chi tiết”.
- “Thực tế cũng không nhiều. Hầu hết Dolly kể vể của cải và thế lực của họ. Sự thật cô ấy không biết nhiều về vợ Paul và anh trai anh ta. Quả là em có cảm giác có một chút bí mật về người vợ. Dolly nói đại khái là Paul luôn luôn xuất hiện một mình trước công chúng, ngay ở Sydney trước chiến tranh, cô ấy nói rằng anh ấy là một …”.Frank dừng ngay lại và nhìn xuống ly rượu.
- “Một gì?”.
Frank hắng giọng. “À, nếu chị muốn biết. Dolly có ám chỉ là anh ta là một con người trai gái”.
- “Chị không ngạc nhiên, Frank. Em cứ nói đừng ngại gì”.
Frank nốc cạn ly rượu: “Em không ngại. Em chỉ giận là chị bị tổn thương”. cậu đứng lên bước ra bàn rượu, mang lại một chai sâm banh và cô nhắc. Cậu rốt đầy vào ly đã cạn của Emma và nói: “Em vẫn thích Paul. Không ngờ nó lại là một thằng khốn như thế. Điều ấy chứng tỏ trong cuộc đời, người ta có thể lầm lẫn như thế nào. Tại sao chị không nói cho em chuyện đó, Emma? Đôi khi nó cũng làm chị vơi đi…”
Emma buồn cười. “Chị cũng không chắc là như thế. Nhưng chị sẽ kể cho em tất cả những điều em muốn biết.
Frank. Có lẽ em có thể giải thích được cho chị hành vi của anh ấy".
Khi Emma tâm sự với Frank, nàng dần dần uống hết cả chai sâm banh và lần đầu tiên trong đời, nàng cố tình say. Khi Winston xuất hiện ở lối đi một tiếng sau, anh nhìn nàng ngạc nhiên: "Em say đấy à ?". Anh vừa kêu vừa đi nhanh nhẹn một cách đặc biệt qua sàn.
Emma nâng cốc lên, vẫy vẫy làm đổ cả nước cốc sâm banh. "Sưa say, à tôi định nói say sưa", nàng líu lưỡi, và nốc.
- "Tại sao em lại để cho chị ấy say như thế Frank ?". Winston lớn tiếng giọng trách móc. Anh nhìn Emma tựa mình mệt mỏi trên sofa, mắt nhăm nhắm, miệng nàng méo đi trong một nụ cười câm lặng. "Ngày mai thế nào cô ấy cũng nhức đầu thôi", anh lẩm bẩm cáu kỉnh.
- "Thì đã sao? Anh đừng khe khắt, Winston". Frank nói lặng lẽ: "Một lần trong đời chị, em nghĩ chị ấy cần say".
Nét mặt Edwin Fairley sạm lại, một cơn giận bầm tím lặng lẽ trong mắt anh khi anh nói. "Anh tự đặt thòng lọng vào cổ mình, Gerald. Tôi hoàn toàn không thể làm được gì để giúp anh".
Gerald há miệng nhìn em ngây dại. Đôi mắt đen quỷ quyệt của gã bỏ lại trong khuôn mặt phì nộn, trông nhỏ hơn và thâm hiểm hơn bao giờ hết. "Có phải chú định nói với tôi là Công ty Procter và Procter là thực sự có quyền ? Và chúng nó có thể lấy đi các nhà máy như vậy không ?". Gã hỏi một cách khiếp sợ.
- "Vâng, tôi sợ là tôi định nói như vậy đó. Một tờ cam kết không bàn cãi là như vậy đó - tờ cam kết không bàn cãi. Và vì anh đã lấy tài sản để gán thì anh không còn chỗ đứng nữa nếu anh không trả được nợ. Thật là điên rồ hết chỗ nói. Tại sao anh lại làm như thế?"
- "Tôi cần tiền", Gerald lẩm bẩm, không dám nhìn thẳng vào mắt Edwin.
- "Để trả những món nợ cờ bạc tàn hại của anh chứ gì? Tôi biết điều đó. Tôi muốn nói, tại sao anh lại lấy nhà máy để bảo đảm mà không hỏi ý kiến của luật sư trước đã? Nếu không hỏi tôi, thì ít nhất cũng phải hỏi luật sư của gia đình chứ!".
- "Như vậy không giải quyết vấn đề gì. Tôi cần tiền không thể tưởng tượng được. Tôi không còn chỗ nào khác cả, và đó là những điều khoản duy nhất Công ty Procter và Procter chấp nhận. Việc nói chuyện của tôi với luật sư của gia đình cũng không thể làm họ thay đổi ý kiến được. Tôi không còn một giải pháp nào khác dù sao tôi cứ nghĩ Alan sẽ biết điều. Cho tôi thời gian để trả món nợ". Một dáng vẻ cay đắng hiện trên khuôn mặt Gerald: "Sự thật là Alan Procter lừa tôi . Nó là một tên ăn trộm khốn kiếp. Nó đã ăn cắp nhà máy của tôi!".
- "Anh đừng lố bịch như vậy, Gerald", Edwin sốt ruột ngắt lời, anh choáng váng vì anh mình không nhạy cảm về công việc. "Alan không ăn cắp nhà máy đâu. Anh đã đặt nó lên dĩa trao cho họ. Tôi bàng hoàng vì sự thiếu nhìn xa trông rộng của anh. Hơn nữa, theo những điều anh vừa kể với tôi thì Alan rất thông cảm. Tờ cam kết là sáu tháng. Nó đã được kéo dài ba lần, thêm một thời hạn là tám tháng cả thảy. Tôi phải nói anh ta đặc biệt thể tất trong những hoàn cảnh như vậy. Nói cho cùng, đó là một công ty. Alan còn phải trả lời trước toàn ban giám đốc".
Gerald hai tay ôm mặt, thương thân theo như lệ thường. Một vài phút sau, gã ngẩng lên và nói một giọng mệnh lệnh: "Edwin, chú phải cho tôi vay tiền".
Edwin ngồi thẳng dậy trên chiếc ghế Chesterfield, nhìn Gerald kinh ngạc. "Anh nói đùa! Tôi lấy đâu ra 200 nghìn pound, cộng thêm cả lãi nữa! Anh phải điên mới nghĩ là tôi có".
- "Ba để cho chú một trust, Edwin. Chú phải có số tiền đó. Chú không muốn giúp tôi ra khỏi cơn bĩ cực". Gerald rên rỉ. "Thu nhập trust của tôi rất nhỏ bé và anh cũng biết điều ấy!". Edwin kêu lên, bực bội. "Ba sống xa hoa suốt đời, tiêu xài hoang phí, đặc biệt là sau khi lấy dì Olivia. Những cái ba để lại cho tôi không có nghĩa gì so với cái anh nhận và anh đã ném gần hết chúng xuống cống rồi". Edwin trợn mắt nhìn Gerald khinh bỉ. Sau đó anh nói: "Vả lại, tuy nó ít ỏi như vậy, tôi cũng phải cần nguồn thu nhập của trust. Tôi có vợ và con trai phải nuôi và một gia đình phải duy trì".
- "Nhưng nghề luật sư của chú cũng kiếm được ..."
- "Vâng, nhưng nó không đủ giúp đỡ những thói quen xấu của anh!".
Edwin đập lại một cách quả quyết .
- "Ba để cho chú phần lớn cổ phần của ông ở tờ Yorkshire Morning Gazette. Chú có thể vay lại họ", Gerald cau mặt nói .
- "Tôi có thể làm được, nhưng tôi không có ý định làm như vậy. Tôi đã hứa với ba là tôi sẽ giữ gìn nó và thu lãi tích cực trong tờ báo". Edwin trả lời kiên quyết. "Tôi không thể hiểu được tại sao anh lại xô đẩy mình vào một tình thế khó khăn như vậy ...".
- "Thôi chú đừng có bắt đầu lại lên lớp tôi nữa!". Gerald hét lên, giận dữ đứng lên khỏi ghế. Gã đi đi lại lại trong thư viện, nỗi lo sợ của gã thể hiện rõ rệt.
Anh ta là một thằng hèn và một thằng điên, Edwin vừa quan sát anh vừa nghĩ. Tính phàm ăn của gã theo năm tháng ngày một tăng lên, bây giờ trông gã như con voi, to béo, xấu xí, và sự trụy lạc của đời gã lộ trên bộ mặt bị tàn phá. Edwin thấy Gerald thật là thô tục, anh quay đi ghê tởm .
Gerald lạch bạch đi về phía tủ gỗ mun đen, tự rót 1 cốc wishkey lớn không pha. "Tôi không nghĩ là chú cần uống, phải không?", gã lẩm bẩm không nhìn lại .
- "Không, cám ơn", Edwin xẵng giọng . "Tôi phải đi".
Ngồi đối diện với Edwin, Gerald đưa cặp mắt xảo quyệt nhìn dán vào em . "Chú tin rằng chú là bộ óc của gia đình, vậy chú hãy nói cho tôi biết tôi phải làm gì, chú em", gã nói khinh miệt.
- "Anh Gerald này. Sự việc có thể tồi tệ hơn đối với anh. Cuối cùng anh vẫn còn một nhà máy ở Fairley này và một lò gạch. Ý kiến của tôi là anh nên thắt lưng buộc bụng, cắt giảm chi tiêu hoang phí, ngừng cờ bạc, cắt giảm mọi thứ. Chú tâm vào nhà máy duy nhất anh vẫn còn. Tôi cũng chẳng hiểu gì nhiều công việc len dạ, nhưng chỉ có 1 thằng ngu mới không nhận ra là nghề vải vóc đang phát triển nở rộ. Sự thực, tôi cũng không hiểu tại sao nhà máy Fairley lại không phát đạt hơn. Chắc chắn anh có thể xoay chuyển nó".
Lúc nào cũng đầy tính chống chế, tự bào chữa cho mình, Gerald phản công lại, giọng tự vệ. "Sự việc bây giờ nó khác cái thời của ba. Chú không biết những gánh nặng tôi phải mang . Bây giờ chúng nó cạnh tranh như điên, Edwin. Thomspon nó cũng làm cùng một loại vải như chúng ta và gần đây chúng đã lấy mất rất nhiều khách hàng của chúng ta. Cả cái con Emma Harte khốn kiếp của chú cũng thế. Nếu chú không biết, để tôi nói cho chú biết, nó có nhà máy Layton và nó cũng làm cho tôi thất điên bát đảo. Nếu sự thật cần phải được biết, nó cũng góp vào việc phá hoại tôi . Những vấn đề khó khăn của tôi nảy sinh từ khi nó ăn cắp Ben Andrew và những công nhân giỏi nhất khỏi nhà máy Thompson năm 1914". Giọng Gerald lăng mạ khi tuyên bố: "Phải, cái con nhà thổ khốn kiếp của chú là một cái gai đâm vào hông từ lâu rồi. Cái con nhà thổ bé con khốn nạn đó. Nó ...".
- "Đừng để cho tôi nghe thấy anh gọi Emma là con nhà thổ một lần nữa! Anh có nghe thấy tôi nói không đấy, đồ khốn nạn bẩn thỉu!". Edwin kêu lên, hai tay anh nắm chặt, xô người về phía trước hăm dọa. Mặt anh trắng bệch ra, đôi mắt nẩy lửa.
Gerald cười khinh thị. "Vẫn còn cầm đuốc cho cái con đầy tớ ấy à, Edwin ? Jane sẽ nói như thế nào nếu cô ấy biết cửa quần cậu vẫn ngứa ngáy thèm cái con nhà ..."
- "Đủ rồi, đồ lợn bẩn thỉu!". Edwin chồm dậy, thét lên. Anh phải lấy hết nghị lực mới ngăn mình khỏi đấm vào mặt Gerald. "Tôi đã lái xe tới Fairley này với ý tốt đẹp nhất, hy vọng có thể giúp anh về mặt luật pháp . Tôi không đến để nghe những lời tục tĩu của anh về Emma". Anh giận dữ nói. Anh điên cuồng với Gerald, và sự khinh miệt của anh quá rõ rệt trên nét mặt khiến Gerald dúm lại trong ghế. Edwin nói tiếp: "Tôi rất tự hào về Emma. Cô ấy đã tạo dựng được cơ đồ cho mình và cô ấy khá hơn anh nhiều. Anh là ... anh là ... đồ rác rưởi!". Edwin đột ngột bước tránh sang bên, anh nhận thấy mình sẽ động chạm tới thân thể của Gerald nếu tiếp tục bị khiêu khích. "Chào anh. Còn lâu chúng ta mới lại gặp nhau".
Gerald khiêu khích. "Chú trong trắng quá, Edwin. Vậy là Emma Harte ở trong máu chú, phải không? Trời ơi là trời! Nó phải có một cái gì đó ngọt ngạt giữa đôi chân của nó mới làm chú say mê trong bao nhiêu năm trời. Tôi cũng đã có lần cố thử với nó khi tôi thấy nó ở Armley ..."
- "Anh làm cái gì!". Edwin đã bước ra cửa đến một nửa, quay ngoắt lại, lao vào trong thư viện. Anh chồm lên Gerald, nắm lấy hai ve áo gã, lắc gã một cách dữ dội, cơn giận bừng bừng: "Chỉ cần anh nhìn Emma thôi, tôi sẽ giết anh! Giết anh! Thề có Chúa. Tôi sẽ giết anh!". Mặt Edwin kề sát mặt của anh trai, pha trộn vừa căm ghét, vừa căng thẳng khủng khiếp đã gây tác động đối với Gerald, gã lùi lại, đột nhiên thấy sợ.
Edwin buông ve áo Gerald, chùi tay vào ống quần, hết sức ghê tởm. Môi anh cong lên: "Tôi không muốn sờ vào anh cho bẩn tay", anh rít lên. "Anh là một cái mấu bẩn thỉu của nhân loại! Anh đáng khinh bỉ!". Anh quay đi và bước ra, chân tay anh run lên, đầu anh choáng váng vì khinh và ghét.
Emma tháo giày, cởi bỏ chiếc áo dài rất đẹp nàng vẫn mặc ở cửa hàng, tháo các đồ nữ trang, đặt chúng trên bàn trang điểm. Cởi đồ lót, nàng chui vào chiếc áo lụa dài người hầu gái đã để sẵn cho nàng và vội vã vào phòng tắm.
Khi đứng trước chiếc gương bầu dục mạ vàng, buộc mái tóc mới làm bằng chiếc khăn voan, nàng mỉm cười như nàng vẫn luôn luôn mỉm cười mỗi khi bước vào căn phòng đặc biệt này của tòa biệt thự mới. Nó thật quá lộng lẫy, khi Blackie đưa nàng coi những bản thiết kế đầu tiên để sửa lại, nàng đã bảo với anh trông nó giống như đường nối giữa tòa đại sảnh bằng gương ở Versailles và phòng ngủ của một cung nữ. Chưa nói đến cái đã sửa sau này, mới nói đến cái trước thôi nàng cũng chưa bao giờ từng thấy - khi nàng cùng Arthur Ainsley đi Paris để hưởng tuần trăng mật ba năm trước. Nàng có nhẹ nhàng phản đối vì cái đồ sộ ghê gớm của nó nhưng Blackie khăng khăng giữ ý kiến của mình, khuyên nàng nên nghe theo phán đoán của anh. Nàng rất ngạc nhiên thấy mình thực sự thích phòng tắm khi anh hoàn thành trang trí bên trong, nàng thấy rất hài lòng vì sự lộng lẫy của nó.
Tường lát đá hoa màu hồng, được ngăn bằng những tấm gương lớn chạy suốt từ sàn lên trần, phản chiếu từ khắp phía. Trần vòng cung màu xanh nhạt với hình những con cá heo màu hồng, trong biển xanh và những chùm đá hồng, hai con cá heo ánh bạc đang quẩy ở đầu và cuối bồn tắm. Trên một chiếc bàn gương nhỏ, có rất nhiều nước hoa Pháp và dầu thơm để tắm và những bình pha lê bịt bạc đựng các loại kem và nước để xoa người. Blackie cũng để cả một chiếc ghế dài bọc lụa hồng cùng với một bàn để uống cà phê. Ở phía bên kia một giỏ khổng lồ để những tạp chí thời trang và kinh tế. Không khí của phòng tắm rất phụ nữ và cái phòng duy nhất này trong ngôi nhà đã trở thành bến bờ bình yên của Emma, một nơi nghỉ ngơi nàng có thể lui về sau những ngày bận rộn ở cửa hàng.
Emma đổ dầu tắm Floris vào nước mà người hầu gái đã chuẩn bị và cởi áo khoác, nàng bước vào chậu tắm. Nàng duỗi đôi chân dài, ngâm mình trong làn nước xúc hương thơm ngát, ý nghĩ của nàng hướng về buổi vũ hội nàng sẽ tổ chức tối nay. Từ ngày nàng lấy Arthur, họ đã tổ chức tiệc tùng liên tục, nhưng bữa tiệc tối nay là sự kiện lớn nhất nàng có từ trước tới nay. Vũ hội là để mừng lễ đính hôn của Frank với Natalie Stewart, con gái của mộtt chính trị gia nổi tiếng ở London, một cuộc hôn nhân mà Emma đã đồng ý ngay từ đầu và nàng đã nhiệt tình giúp đỡ cho thành. Không những Natalie là một cô gái dễ thương, Emma còn nhẹ nhõm trong lòng khi thấy em nàng thoát khỏi móng vuốt của Dolly Mosten. Natalie là dòng dõi quí tộc và nếu như vẻ đẹp thanh cao của nàng dường như phần nào mong manh, Emma biết nó chứa đựng một trái tim mạnh mẽ và một nghị lực thép. Càng ngày Emma càng thấy Natalie nhắc nàng nhớ tới Laura thân yêu của mình.
Emma không tiếc một chút gì cho bữa tiệc này, nàng quyết định đối xử thật đẹp đối với cuộc hôn nhân của Frank. Ngôi nhà trông thật lộng lẫy, mỗi phòng tiếp tân rộng thênh thang đều rực sáng với những đồ cổ và những bức họa đủ màu sắc và vô vàn lá hoa xuân. Vì ngôi nhà sang trọng này to gấp ba lần ngôi nhà trước đây của nàng ở Anh, nên nó phải được trang hoàng một cách hấp dẫn hơn và Emma đã trở thành bà chủ duyên dáng và sự tế nhị của nàng đã làm tất cả các vị khách thoải mái.
Gian hàng cung cấp của nhà Harte đã soạn một bữa ăn tối tuyệt vời, mọi món ăn đã được bày trên một chiếc bàn dài trong phòng ăn với đầy đủ nghi thức, Emma nghĩ tới thực đơn nàng chọn. Đó là hai món soup, soup nấu đông và soup cải xoong, cá hồi hun khói. Tôm hùm, thịt bò Wellington, thịt gà, chim trĩ băm viên, thịt cừu quay, đậu Pháp, quả ép, bánh xốp kem, bánh hạnh nhân, đủ các loại đồ uống, gồm champagne, rượu vang trắng và đỏ, rượu táo, nước quả ép, cà phê và trà. Nó nhiều đến nỗi có thể làm hài lòng những người khó tính nhất, Emma chắc chắn như vậy, nàng ghi nhận công của những người đầu bếp nhà Harte, những người đã làm quá cả sức mình để tổ chức bữa tiệc hôm nay.
Một trăm vị khách sẽ ăn bên những chiếc bàn nhỏ phủ khăn hồng và những chiếc ghế mạ vàng đã được sắp ở phòng ăn, ở thư viện và phòng buổi sáng. Sau bữa tiệc tối, sẽ có nhảy bên ngoài hành lang dài trông ra những mảnh vườn, những người không thích nhảy có thể trò chuyện trong hai phòng khách xa hoa - Ban nhạc thuê cho buổi tối đã tới và khi nàng rời hành lang các nhạc sĩ đang bày nhạc cụ của họ. Văng vẳng nhẹ nhàng trong không khí đêm đưa lại giai điệu của những bài dân ca mà ban nhạc dạo thử. Mọi thứ đã sẵn sàng đâu vào đấy. Nàng không bỏ qua cái gì và có cả một đội quân nhỏ những người hầu bàn và các cô hầu cùng với các nhân viên của nàng giúp trông nom các vị khách. Arthur trước đó đã bảo với nàng là đã tổ chức mọi thứ có hiệu quả như một vị tướng lập kế hoạch cho một chiến dịch. Emma nhắm mắt lại, thấy người tê mê khi những căng thẳng của một ngày trôi đi.
Trong khi, ở dãy phòng bên cạnh. Arthur Ainsley đang mặc quần áo cho buổi tiệc tối, anh ta cũng bận rộn với những chi tiết bề ngoài của mình như Emma với kế hoạch cho buổi dạ hội vậy. Anh ta bước lùi khỏi chiếc gương lớn nhìn ngắm hình mình hết sức cẩn thận, tập trung, hài lòng trước cái anh ta thấy.
Ở tuổi ba mươi hai, Arthur vẫn còn mang dáng vẻ của một chú chàng đang tuổi thiếu niên, dáng vẻ này càng rõ rệt vì lối ăn mặc đỏm dáng và điệu bộ lịch sự kiểu đàn bà của anh ta. Anh ta kéo tay áo dưới tay áo vét ra một chút, sửa lại cái khuy đính trên áo và với tay lấy cái lượt trên tủ com mốt. Lần thứ tư anh ta chải mái tóc sáng mềm của mình, uốn từng làn sóng đưa một ngón tay đã cắt sửa hàng ria mép mà anh ta ưa thích. Sau đó anh ta để chiếc lượt xuống, đứng thẳng người, say mê với hình ảnh của mình.
Thật đáng tiếc, Arthur Ainsley chẳng có gì đáng chú ý trong tính cách của anh ta. Suốt đời, anh quá bận tâm đến cái vẻ đẹp bề ngoài của mình đến độ không làm một chút cố gắng nào để đạt được cái khả năng bên trong. Do đó, anh ta là cái vẻ của một người đàn ông và sự nông cạn hời hợt của anh ta làm cho anh ta chỉ để ý thấy cái gì sờ sờ trước mắt. Không phải không thông minh, được học hành ở những trường tốt nhất, tuy thế Arthur quá lười nhác, tự thị, anh ta hoàn toàn không thể suy nghĩ lâu được một cái gì nghiêm chỉnh. Anh ta chỉ chăm chăm tìm vui thú và nhu cầu liên tục phải thỏa mãn ngay tức thì của anh ta về bản chất thật ấu trĩ. Vì vậy, mặc dù anh ta thích những biểu hiện, những phô bày của bên ngoài của sự giàu có và thành công, nhưng anh ta lại không có khả năng đạt được chúng cho bản thân mình, vì không thích làm việc vất vả, thiếu cần mẫn và không có sức mạnh để tập trung.
Arthur lùi ra khỏi gương, liếc nhìn đồng hồ bỏ túi bằng bạch kim và kim cương của mình. Anh đã đóng bộ quá sớm và bây giờ phải tiêu phí một tiếng nữa trước khi quan khách tới vào lúc mười giờ. Anh ta thò tay vào một trong những ngăn cửa tủ commode và lấy ra một chai rượu. Anh ta bắt đầu rót ra một ly rồi lại do dự, nhăn mặt khi nghĩ là Emma không tán thành.
Arthur Ainsley đã tìm nơi nương náu trong be rượu mười tám tháng qua, kể từ khi anh nhận thấy mình không có khả năng đi lại với Emma. Anh ta tin rằng anh ta uống vì sự bất lực của mình, nhưng thực tế, anh ta uống để tìm mọi cố gắng. Đổ là tại rượu bao giờ cũng dễ hơn là với những lý do thực sự thiếu sót của mình, nó đầy phức tạp, tự xem xét bản thân mình là điều xa lạ với bản chất khoác lác của Arthur và vì vậy anh ta không hiểu nguyên nhân. Sự thật, anh ta đã trở nên bất lực với Emma vì anh ta đồng tính luyến ái mà chưa phát hiện ra và vì sợ anh ta là tất cả những cái mà anh ta không phải.
Emma không hề làm gì để anh ta mất sức mạnh đàn ông. Nàng chỉ đơn giản mình là chính mình cũng đã gây cho anh ta những tổn hại đến sự tự tin và hài lòng về bản thân rồi. Vì vậy bây giờ anh ta đi tìm những người phụ nữ đề cao được lòng tự kiêu đàn ông của mình. Chủ yếu mục tiêu của anh ta là những cô bán hàng, những cô hầu bàn và các cô gái bán bar, những người lấy làm hãnh diện vì sự chú ý của anh đã quị lụy anh.
Tình cảm của Arthur đối với Emma luôn luôn dao động. Anh ta thường xuyên ham muốn nàng, thế nhưng nỗi lo sợ ám ảnh là không thành công trong việc làm tình đã làm anh xa lánh nàng, anh cần sức mạnh và sự khôn ngoan của nàng nhưng đồng thời lại bực tức với nó, anh ta khoe khoang về những thành tựu của nàng nhưng lại ghen tị và thấy không an toàn bởi vì trong sự nghiệp của mình, anh ta không thể đọ nổi. Theo cách của mình, Arthur yêu Emma. Điều bất hạnh là anh ta cũng có nhiều cái bực với nàng mà cội rễ là cái bất lực ghê gớm của anh ta. Điều ấy biển hiện ở cơn giận cố nén và đôi khi anh ta thấy thực sự ghét nàng.
Luôn luôn bị cuốn hút bởi Emma ngay từ khi nàng lấy Joe Lowther, anh ta đã theo đuổi nàng một cách vô vọng sau khi chiến tranh kết thúc. Thế rồi đột nhiên, vào đêm hội của Blackie O’Neill, Arthur, nhân cơ hội quyết tâm năm mới, đã tỏ tình với nàng. Sau khi ve vãn liên tục 3 tháng trời, họ đã cưới nhau vào mùa xuân 1920.
Arthur vẫn tin rằng Emma cũng say mê anh như anh say mê nàng, tính tự phụ tự đắc của anh ta không cho phép anh ta nghĩ khác. Sự thật, Emma lấy anh vì những lý do hoàn toàn khác. Cái hàm ý khủng khiếp của sự yên lặng của Paul McGill và việc anh không hề đến nước Anh đã tàn phá nàng và nỗi buồn của nàng trở nên đau đớn không sao chịu nổi. Nỗi cô đơn ngày một tăng của nàng đã khiến nàng đánh giá lại cuộc đời mình. Suy xét thông thường đã dẫn nàng tới kết luận là không có tương lai gì cho nàng với Paul, nàng thừa nhận rằng mong mỏi anh không những chỉ là ngu ngốc và còn tự hủy diệt mình không sao tránh nổi. Nàng cố gắng gạt bỏ Paul hoàn toàn ra khỏi tâm trí nàng, quyết định sẽ phải sống một cuộc sống bình thường hơn vì các con nàng cũng như chính nàng. Tin chắc rằng mình sẽ không bao giờ có thể có được một tình yêu cao đẹp như nàng đã có với Pên, nàng đi tìm một người bạn đồng hành, một người đàn ông có thể sống dễ chịu. Nàng cũng muốn một người bố cho các con nàng và một người đàn ông thích hợp cho mái nhà nàng. Tóm lại, nàng sẵn sàng thỏa hiệp, sẵn sàng chấp nhận cái ít hơn vì sự cần thiết và tin rằng tình yêu lớn chưa hẳn đã là điều tiên quyết cho một cuộc hôn nhân hạnh phúc.
Lúc đầu, vui vui vì những lời tỏ tình hết sức sốt sắng của Arthur, Emma đã đi đến chỗ coi anh ta là một giải pháp hoàn hảo cho những vấn đề khúc mắc của nàng. Anh ta là một người lịch sự, xuất thân từ một gia đình tốt. Anh ta cũng có duyên và xử sự một cách thanh nhã trong hầu hết mọi trường hợp. Anh ta vui vẻ, chú ý tới những nhu cầu của nàng và thích nàng. Hơn nữa, Emma yêu cái đẹp, nàng có bản năng thẩm mỹ mạnh mẽ và nàng thấy Arthur hấp dẫn. Nếu anh không khơi dậy sự đam mê lớn trong nàng thì anh cũng không làm nàng khó chịu, nàng đã khẳng định là có thể dễ dàng tha thứ những mặt về thể xác trong tình yêu vợ chồng, và kết luận những yếu tố khác trong quan hệ của họ còn quan trọng hơn đối với nàng. Emma biết là Arthur yếu thế nhưng lạ thay, nàng nhắm mắt làm ngơ những khuyết điểm trong tính cách của anh vì nhiều lý do cơ bản. Arthur không đe dọa nàng; nàng nhận ra là anh không bao giờ can thiệp vào công việc làm ăn của nàng hoặc cách sống của nàng; theo bản năng, nàng biết nàng sẽ luôn luôn ở thế mạnh. Ngoài những lý do này, anh có một cách thức chinh phục các con nàng và đối xử với chúng một cách tự nhiên khiến nàng cảm kích.
Emma muốn xóa bỏ Paul McGill bằng cách gắn bó trong một mối quan hệ mới. Nàng quyết định cưới nhanh chóng và Arthur tỏ ra là một ứng viên thích hợp nhất ở chân trời. Vốn là người giải quyết công việc nhanh chóng, nàng lao lên phía trước, hành động hơn là chờ đợi. Hành động thiếu thận trọng xưa nay chưa từng có cúa nàng làm cả anh em nàng cũng như Blackie choáng váng, nhưng tất cả đều vấp phải sự kiên quyết lạnh lùng của nàng khi họ định can thiệp, nên tất cả đều lập tức rút lui vì họ đều nhận ra khuyên can nàng là điều vô ích khi cái đầu ương ngạnh của nàng đã quyết.
Emma đã nhận ra sự sai lầm của mình một cách đau đớn chỉ sau khi cưới một vài tuần, nhưng lúc ấy đã quá muộn. Nàng đã có mang trong tuần trăng mật. Chẳng phải lâu la gì để phát hiện được ra rằng cái duyên của Arthur chỉ là giả, sự sắc sảo của anh ta thường là độc ác cũng ngang với nó làm người ta vui. Anh ta hay cáu kỉnh, cái nông cạn và sự lười nhác của anh ta làm ngàng ghê sợ. Hơn nữa, thứ tình dục của anh ta không biết chán, giống như của Joe Lowther trước đây nhưng có điều Arthur tinh tế hơn và không làm nàng kinh tởm vì thể xác. Tuy thế, chẳng bao lâu Emma thấy việc làm tình của họ nặng nề, bởi vì nàng chỉ yêu và muốn có Paul.
Nhưng nàng phải thành thật thừa nhận là đã phạm sai lầm, và bởi vì nàng coi trọng nghĩa vụ của mình, Emma đã cố gắng giữ nền nếp văn minh và kích thích lòng ham muốn khi cần thiết. Lúc đầu, sự kết hợp tương đối bình ổn, hầu hết là do sự giả vờ tài tình của Emma. Arthur, không biết những tình cảm của nàng, anh ta như mở cờ trong bụng vì số may đã có được một người đàn bà đẹp và thành đạt, anh đắm mình trong uy tín của Emma và hưởng sự sung sướng do tiền bạc của nàng đem lại. Nói chung, anh biết điều và an phận. Không may, sau khi sinh đôi, Robin và Elizabeth, đẻ năm 1921, anh ta trở nên lơ là và tùy tiện đối với Emma, anh ta tin rằng hôn nhân của mình là vững chắc vì bây giờ đã là cha của hai đứa con với nàng và vững tâm ở sự trung thành của nàng.
Trong thời gian Emma sinh, Arthur đã đi lăng nhăng và khi đã tìm được sự kích thích trong những quan hệ bất chính, anh ngày càng thấy là khó từ bỏ nó. Thế rồi khi anh và Emma lại tiếp nối quan hệ vợ chồng, anh không thể nhóm được ngọn lửa đầy đủ cho cuộc yêu đương. Sau nhiều lần tai hại như vậy, Arthur đã lui vào phòng riêng. Anh nhẹ người vì Emma không bao giờ hỏi sự vắng mặt của anh ở giường này. Anh ta vẫn cho rằng như vậy là vì nàng quá bận rộn với công việc, với con cái, với nhà cửa quá lớn, và nỗi lo là lại có mang quá sớm sau lần sinh đôi. Anh không bao giờ nghĩ nàng yêu một người đàn ông khác và càng ngày sự tự mãn của anh ta càng tăng cả cái kiêu căng của anh ta nữa.
Trong khi Arthur chiêm ngưỡng cái dung nhan của mình thì Emma bước ra khỏi bồn tắm, và chà cho khô người. Nàng đứng một lúc trước một tấm gương lát tường, ngắm nhìn thân thể mình một cách thích thú. Đôi vú nàng đầy, cao và rắn chắc, bắp đùi tròn, bụng tHall thả. Nàng đã giữ được dáng vóc của mình mà chỉ tháng tới nàng đã 34 và đã sinh bốn con, thì thật là trẻ trung một cách lạ thường. Hình dáng nàng không có chút gì là béo xệ nhờ ở kế hoạch bận rộn của nàng và nàng không thích những thức ăn quá bổ do sự thiếu thốn lúc thiếu thời. Nàng quay đi, mặc chiếc áo lụa và đi vào phòng ngủ.
Ngồi ở bàn trang điểm, Emma cầm chiếc lược bạc có khắc tên, đầu nàng nghiêng về một bên. Nàng sung sướng là đã quyết định cắt mái tóc tuần trước. Nàng thích kiểu tóc mới đang hết sức thịnh hành này. Kiểu tóc này thích hợp với nàng và với kiểu áo mới đặc biệt nàng may ở cửa hàng Vionnet và Chanel. Có tiếng gõ cửa mạnh, thình lình, Emma quay người lại thì Arthur bước vào. Emma chằm chằm nhìn chồng, ngạc nhiên vì sự xuất hiện bất ngờ của anh. Nàng khép hai vạt áo lại, cố nén khó chịu vì sự đột nhập của anh. Dạo này nàng thấy khó lòng giữ được cái vẻ thân mật với anh.
- "Ồ, Arthur anh làm em giật mình".
- "Thế à!".
Mắt Emma nhìn vào cốc rượu trong tay anh. "Anh bắt đầu hơi sớm đó, có phải không nhỉ?", nàng nói, cố giấu sự bực bội.
- "Trời ơi, em đừng có bắt đầu như thế nữa!". Anh ta kêu lên và bước lại bên chiếc sofa bọc nhung vàng. Anh buông mình xuống và nhìn nàng với một cái nhìn căm ghét. "Em thật là khó chịu quá, em thân yêu. Nói thật, em là một người làm mất thú của người khác".
Emma thở dài, nàng nhận ra tâm trạng của anh. "Chúng ta còn có cả một buổi chiều dài. Em không muốn anh. . . ".
- "Say và làm xấu mặt em chứ gì, cưng", Arthur ngắt lời. "Emma không bao giờ nên lo ngại. Chúa ngăn không cho điều đó xảy ra", anh ta nói đốp lại vẻ cao ngạo. "Vậy anh phải làm gì suốt buổi tối ? Đi trong bóng của nữ hoàng sao ??".
Phớt lờ lời châm chọc, Emma quay sang bàn trang điểm, cầm lọ nước hoa Geurlain L’Heure Bleu, nàng chấm chấm phía sau tai và không muốn gây chuyện, nàng lái sang chuyện khác. "Em nhận được một lá thư rất dễ thương của Kit hôm nay. Nó gửi lời thăm. Nó thích trường lớp lắm. Em rất mừng là đã gửi nó tới Rugby. Nó rất phấn khởi".
- "Đấy là ý kiến sáng suốt của anh, có phải không ?". Arthur nhếch một nụ cười đắc ý. "Anh có rất nhiều ý kiến hay, chỉ cần em tạo cho anh lấy một nửa dịp thôi. Ngược lại em coi anh như một thằng ngu".
Sau một lát yên lặng, Emma nói: "Em phải mặc cho xong quần áo. Anh vào có chuyện gì đặc biệt không đấy, Arthur ?".
- "Ồ, có, lạy Chúa!", Arthur vừa trả lời vừa ngước mắt nhìn lên. "Anh nghĩ anh nên xem danh sách khách mời một chút. Để làm cho trí nhớ tươi lại".
- "Ồ trên bàn của em đấy". Emma nghiêng người trên ghế, lấy đôi hoa tai kim cương tuyệt đẹp trong hộp nữ trang ra và đeo vào tai một cách lơ đãng.
- "Một đám đông khá là nổi danh", Arthur nhận xét, dõi tên trong danh sách và chú ý tên một số các bà đẹp có thể tán tỉnh được. Đột nhiên muốn chuồn, anh ta quẳng danh sách lên bàn rồi lách ra cửa. "Anh nghĩ anh phải xuống nhà xem một cái". Anh ta rút đồng hồ ra: "9 giờ 30 rồi. Thôi anh đi để em mặc áo".
- "Cám ơn anh. Thế thì tốt quá". Emma nhìn anh thủng thỉnh đi ra. Nàng lắc đầu, suy nghĩ về Arthur. Nếu anh ta là thằng ngốc thì nàng phải là đứa đại ngốc. Tất cả những sự lăng nhăng này đều do lỗi ở nàng. Kể cũng lạ, trong công việc làm ăn buôn bán, nàng không bao giờ mắc cùng một khuyến điểm lần thứ hai, thế mà lại liên tục phạm sai lầm trong cuộc đời riêng của nàng. Yêu David Kallinski nàng đã cố tình lấy Joe. Yêu Paul McGill, nàng lại lao vào cuộc hôn nhân với Arthur. Nhưng tình huống mỗi lúc một khác, nàng tự nhủ. David là điều ngăn cấm đối với nàng bởi vì đạo giáo của mẹ anh. Paul đã bỏ nàng vì anh không cần nàng. Dù sao, hình như nàng có khuynh hướng chọn lầm chồng. Tuy thế, Joe là một người tử tế, nàng trầm ngâm, trong khi Arthur là đồ vô giá trị. "Lấy vội vã, ăn năn lâu dài", nàng nói và nhớ lại lời báo trước của em mình. Khốn khổ cho cái tính ương bướng của mình, nàng lẩm bẩm.
Emma đứng lên một cách vững vàng. Nàng không thể nghĩ tới cuộc hôn nhân bất hạnh tối nay. Nàng sẽ nghĩ tới nó sau ngày mai. Nàng vội vã mặc áo và đứng nhìn mình trong gương của tủ đứng. Chiếc áo dài của nàng bằng lụa màu xanh nước biển. Mỗi lần nàng chuyển động, dù nhẹ đến mấy, thì chiếc áo dài lại lượn lên thay đổi màu y như những gợn sóng biển chuyển từ xanh sang sẫm rồi tím. Chiếc áo làm tăng hình vóc thon thả, làm rõ màu mắt không có gì có thể so sánh nổi với nàng. Với kim cương và ngọc, nàng là hiện thân của trang nhã. Nếu hình dáng bề ngoài là cái đáng kể, thì rõ ràng là nàng có tất cả mọi thứ. Một người chồng đẹp trai, lũ con dễ thương, của cải và quyền thế. Thế giới thèm khát địa vị nàng.
Chiếc đồng hồ để trên bệ lò sưởi điểm mười tiếng làm Emma bừng tỉnh khỏi những suy tư. Nàng rời phòng ngủ, đứng sững ở đầu cầu thang cuốn một lát. Rồi nàng nâng một bên váy, lướt xuống thang để chào đón những vị khách đầu tiên vừa mới đến. Nụ cười tuyệt vời của nàng vẫn nguyên vẹn, nhưng trái tim nàng đầy sầu muộn.
Người quản gia mở cửa phòng lớn của nhà Fairley là một người đàn ông trung niên mà họ không hề biết.
Blackie nói: "Xin chào. Tên tôi là O’Neill. Tôi có hẹn với ông Gerald Fairley".
- "Ngài chủ đang đợi ông, thưa ông", người quản gia trả lời và mở cửa rộng hơn. "Xin mời đi lối này". Ông ta dẫ họ qua phòng lớn tối, rộng thênh thang và mời họ vào thư viện. "Ngài chủ sẽ tới với các vị một phút nữa. Xin mời quí vị cứ tự nhiên". Ông ta cúi chào và lùi ra.
Khi cửa đã khép, Blackie nói: "Murgatroyd chắc là đã nghỉ rồi". "Ông ta chết", Emma nói, "ông ta chết cách đây hai năm".
- "Còn bà bếp ?", Blackie hỏi, anh nhớ lại Elsie Turner với lòng yêu mến. "Bà vẫn còn sống. Nhưng bà không làm ở đây nữa, bà già quá rồi. Bà sống ở làng".
Blackie bước về phía lò sưởi, quay lưng lại ngọn lửa sưởi ấm. "Ồ, sau bao nhiêu năm trời, lại quay trở về cái nhà này, em thấy thế nào ?".
Emma nhìn nhanh anh. "Khá lạ, em phải thừa nhận điều đó". Ánh mắt xanh lạnh lùng của nàng lướt khắp căn phòng, nàng cười không vui. "Anh có biết đã bao nhiêu lần em phải lau bụi lớp tường gỗ này, đập những tấm thảm này và đánh bóng đồ đạc này không?". Nàng lắc đầu bàng hoàng, miệng thốt nhiên mím lại thành một đường khắc khổ.
- "Nhiều lần anh mong chắc đến bây giờ em hẳn đã quên được", Blackie nói.
- "Em không bao giờ quên một điều gì hết", Emma trả lời khô khan.
Nàng đi chầm chậm chung quanh thư viện, ngắm nhìn đồ đạc một cách thích thú. Đã có một lần nàng nghĩ rằng căn phòng này thật là choáng lộn, nhưng so với thư viện của nhà nàng ở Roundhay thì trông nó buồn tẻ, hình như không có người chăm lo. Ánh mặt trời tháng tư ùa vào qua những cánh cửa sổ cao và như soi tỏ tình trạng hoang tàn của nó. Những tấm thảm Ba Tư xơ cả chỉ, cái màu đỏ và xanh đã có thời lộng lẫy mờ đi theo thời gian, những tấm nhung ở cửa sổ cũng nhạt màu, vải bọc ghế cũ kỹ. Ngay cả chiếc sofa xưa màu hồng ngọc cũng đen xỉn và lấm bùn, da bọc nứt rạn. Emma nhận ra những đồ cổ trước đây đẹp và rõ ràng là có giá trị cũng như nhiều cuốn sách bọc gáy da chữ in đẹp, nay để chỏng trơ.
Emma nhún vai, nàng nhẹ nhàng lướt tới bên cửa sổ nhìn ra ngoài. Phía xa vùng đồng hoang man dại cao vút tầm mắt nàng, một đường đen tăm tối lượn dưới một bầu trời xuân, một bầu trời giống màu mắt mẹ nàng. Nàng bỗng thấy một nỗi thôi thúc đi lên vùng đồng hoang, trèo lên lối đi quen thuộc qua cánh đồng Baptist dẫn tới vách Ramsden Crags và đỉnh của Thế Giới. Nơi mẹ nàng đã từng yêu thích nhất: ở trên đó, nơi không khí mát mẻ, khỏe người, đầy những cây cải hương màu nhạt, hồng và xám quyện trong hơi sương. Hôm nay không thể được rồi, biết bao nhiêu là kỷ niệm chen lấn xô đẩy nàng, kéo nàng trở về dĩ vãng. Nàng nhắm mắt và nghe tiếng tiếng hót ríu rít của chim sơn ca, như ngửi được mùi hương cây trường xuân sau cơn mưa, cảm được cây bông lau chạm vào đôi chân trần của nàng và làn gió mát ve vuốt mặt nàng.
Từ chỗ đứng của mình bên lò sưởi, Blackie quan sát Emma, anh cũng đang nghẹt trong kỷ niệm của riêng mình. Anh nghĩ tới cái ngày anh gặp nàng lần đầu, bây giờ lâu quá rồi. Cái người phụ nữ oai vệ, đàng hoàng đứng trước mặt anh đây không có một nét gì giống cô bé nghèo của anh ở vùng đồng hoang. Anh lắc đầu, kinh ngạc vì nàng, vì con người mà nàng đã thành đạt. Ở tuổi 34, Emma Harte Ainsley đang ở đỉnh cao của nhan sắc, một nhan sắc làm bất cứ ai cũng phải giật mình và mê đắm. Hôm nay nàng mặc bộ đồ len màu xám bạc đắt tiền và hợp thời trang viền lông thẫm và chiếc mũ thẫm màu rất đẹp. Chiếc trâm ngọc của anh lóng lánh trên cổ áo sơ mi lụa xám của nàng, chuỗi ngọc quí buông lơi từ chiếc cổ thon thả của nàng, đôi hoa tai lộng lẫy dưới mái tóc bồng đúng mốt. Nàng không những chỉ thanh nhã mà còn học thức và tự tin, nàng tỏa ra một vòng hào quang nói lên uy quyền không thể chối cãi được.
Emma đột ngột quay người lại và lập tức nhận thấy đôi mắt của Blackie đang nhìn nàng thật chăm chú. Nàng cười khe khẽ: "Tại sao anh lại nhìn em như vậy ? Em có sơ suất điều gì không ?".
Blackie cười. "Không, anh chỉ ngắm em đó thôi, cưng. Chỉ ngắm em thôi. Và cũng nhớ lại… bao nhiêu là chuyện ?".
- "Vâng", Emma nói thong thả, vẻ trầm ngâm trên khuôn mặt nàng.
- "Nơi này quả là gợi lại tất cả những kỷ niệm, có phải thế không ?", nàng mỉm cười khe khẽ và bước lại bên bàn kê ở một góc, đặt chiếc túi da hoẵng lên đó.
- "Ừ, đúng", Blackie châm một điếu thuốc, hít một hơi và đổi thế đứng. "Fairley lâu gớm nhỉ. Không hiểu anh ta định giở cái trò gì". "Ơ, cần gì". Emma nhún vai: "Vả lại, chúng ta cũng không vội gì!". Nàng ngồi xuống bên bàn, chiếc bàn đã có lần là của Adam Fairley và ngả người trong ghế. Nàng từ từ rút đôi găng da hoẵng mỉm cười một mình. Nàng ngắm đôi bàn tay mình. Đôi bàn tay nhỏ nhắn khỏe mạnh và chắc chắn không phải là đôi tay đẹp nhất. Nhưng nó trắng và mềm, móng tay nhẵn bóng. Chúng không còn đỏ tấy lên và nứt nẻ vì lau, cọ… không còn là đôi tay của một con đầy tớ làm nô lệ trong ngôi nhà âm u này.
Cánh cửa bật mở, Gerald Fairley vào, lê cái khối thân thể vĩ đại của gã, bước chân nặng nề. Gã không nhìn thấy Emma, nàng đứng trong bóng tối, gã bước vội về phía Blackie, tay dang ra. "Chào ông Blackie O’Neill".
Gã nhìn Blackie với vẻ thích thú không che giấu. "Tôi nghĩ tên ông rất quen thuộc khi ông hẹn gặp. Bây giờ thì tôi nhớ ra ông. Chắc chắn là ông sửa chữa nhà cửa ở đây khi tôi còn nhỏ".
- "Đúng rồi", Blackie nói, anh bước lên và bắt tay Gerald. "Rất hân hạnh được gặp lại ông, ông Fairley". Nhiều năm nay không nhìn thấy Gerald, Blackie kinh ngạc vì thân hình khổng lồ của cái con người này, khuôn mặt nhầu nhĩ, sự phóng đãng rõ rệt của anh ta. Hình hài của Gerald thật đáng ghét khiến Blackie ghê tởm.
- "Không bao giờ tôi quên được một bộ mặt", Gerald nói tiếp. "Nào, tôi có thể mời ông uống chút gì trước khi bắt tay vào công việc không ?".
- "Không, cám ơn", Blackie từ chối một cách lịch sự.
- "Chính tôi cũng cần uống chút rượu. Sau bữa trưa, tôi luôn luôn uống". Gerald lạch bạch tới bên tủ gỗ hồ đào đen và rót cho mình một cốc to cognac. Khi gã quay lại, cốc trong tay gã và thấy Emma đang ngồi ở bàn. Đôi mắt híp của gã mở to, một vẻ nhìn không thể tin được tỏa trên khuôn mặt phù phì của gã. "Mày làm cái con khỉ gì ở đây ?", gã rống lên.
- "Tôi đi cùng ông O’Neill", Emma trả lời nhẹ nhàng. Nét mặt nàng không thay đổi.
- "Mày biết làm cách thoải mái gớm nhỉ!". Gerald bừng bừng, gã vẫn không tin. "Mày dám tự tiện như vậy! Ngồi ở bàn của tao!".
- "Tôi tin rằng bây giờ nó là của tôi", Emma nói bằng một giọng dịu dàng nhất, mắt nhìn chằm chằm vào Gerald.
- "Bàn của cô! Cô nói cái con mẹ gì vậy ?", Gerald lạch bạch bước ra giữa phòng, quay ngoắt nhìn Blackie, thái độ hung hăng. "Cô ta nói cái gì vậy, O’Neill ? Giải thích tất cả những chuyện này là thế nào! Tôi bán Fairley Hall cho Công ty nhà đất Deerfield. Chính ông nói với tôi qua điện thoại là ông đại diện công ty đó. Vậy thì vì sao cái người đàn bà đó lại ở trong nhà tôi ? Ông không có quyền gì mang bà ta tới đây". Gã không đợi Blackie trả lời mà vươn cái thân thể khổng lồ đối với Emma: "Cút! Cút!" Gã rống lên: "Cút, có nghe thấy tao nói không ? Tao không cho phép sự có mặt của mày tại cuộc gặp gỡ riêng tư này".
Emma vẫn hoàn toàn im phăng phắc. Mí mắt thậm chí không nhúc nhích. Nàng cười gằn: "Tôi không có ý định đi. Và tôi có đầy đủ mọi quyền để ở đây, ông Fairley", nàng tuyên bố với một vẻ khinh khỉnh lạnh lùng. "Ông biết không, tôi là công ty Deerfield".
Trong một giây lát, những lời nói của Emma không đi vào trong cái đầu hỗn loạn của gã. Gã tiếp tục trợn mắt nhìn nàng không hiểu và rồi, dường như một tấm màn đã được vén lên một cách thần diệu, gã lắp bắp "B-b-b bà là Công ty Deerfield. . . "
- "Vâng, đúng thế", Emma mở túi lấy ra một mảnh giấy. Nàng liếc nhanh tờ giấy rồi nhìn sang Gerald. "Vâng, chiếc bàn này cũng trong bản kê hàng tồn kho, đúng như tôi nghĩ. Tôi mua nó cùng với một số nội dung khác. Và, vì ông đã đổi séc thành tiền mặt ở công ty Deerfield, đây là bàn của tôi, cũng như không còn nghi ngờ gì nữa là nhà của tôi. Tôi đã trả tiền mua chúng".
Gerald ngã lăn vào một trong những chiếc ghế mây. Cô ta đã nói gì ? Cô ta là chủ nhân của Fairley Hall ? Emma Harte, cái con bé đầy tớ mà họ đã mướn! Không bao giờ, một ngàn năm nữa cũng không! Ý nghĩ này không thể nào nghĩ tới được, con mắt điên cuồng của Gerald nhìn sang Blackie đang đứng một cách bình tĩnh bên lò sưởi, hai tay đút túi, một nụ cười thoáng vẻ thích thú trên khóe miệng.
- "Thật thế sao ?", Gerald hỏi, giọng gã không chắc chắn. "Nó nói có đúng không đấy ?".
- "Vâng, bà ấy nói đúng!", Blackie trả lời, cố gắng giữ cho mặt mình thẳng. Trời, không gì có thể làm anh bỏ lỡ cái cảnh này. "Tại sao ông không nói cho tôi biết nó sẽ cùng đến với ông trong cuộc hẹn này ?", Gerald hỏi giọng buộc tội.
- "Tôi không có quyền làm điều đó", Blackie vừa nói vừa lấy hộp thuốc lá ra.
Gerald nhìn ly rượu trong tay gã, tất cả những ý nghĩ thù oán lướt qua cái đầu đã quẫn của gã. Lạy Chúa tôi, nếu như gã biết cái con bé cầu bơ cầu bất này có dính dáng tới Công ty Deerfield thì gã chẳng bán ngôi nhà cho chúng. Gã phải hủy bỏ việc bán ngay tức khắc. Phải, đó là cách đúng đắn nhất phải làm. Thế rồi, trong người nôn nao, gã nhớ lại những lời của nàng một phút trước đây. Gã đã chuyển cả check sang tiền mặt và đã tiêu sạch nhẵn rồi. Gã đã dùng nó để trang trải những món nợ cờ bạc của gã. Gã đã bị mắc bẫy. Gã giơ bàn tay run run lên và nốc một hơi cạn ly rượu.
Emma nhìn Blackie, đôi mắt xanh của nàng dưới đôi lông mày màu vàng long lanh. Nàng đứng lên, bước một cách oai vệ tới bên chiếc sofa lớn. Nàng ngồi xuống, duyên dáng vắt chân lên và quan sát Gerald. "Theo điều khoản của hợp đồng bán thì lúc này ông phải rời bỏ ngôi nhà này", nàng nói một giọng trong sáng. "Tôi sẽ cho ông thêm một tuần nữa để làm việc này". Gerald chớp mắt lắc đầu mạnh đến nỗi những ngấn cằm của gã rung lên: "Như vậy chưa đủ", gã rên rỉ: "Cô phải cho tôi thêm thì giờ". "Một tuần", Emma nhắc lại, nàng ngừng lại, ánh mắt lóe sáng hẹp lại. "Thêm nữa, tôi buộc ông phải chuyển tất cả đồ đạc cá nhân khỏi văn phòng của ông ở nhà máy Fairley ngay tức khắc. Hôm nay, lúc năm giờ. Nếu không, chúng sẽ bị đóng vào những hộp giấy để ra ngoài sân để ông muốn lấy đi lúc nào tùy ý. Năm giờ hôm nay".
Gerald nảy người lên trong ghế, gã chằm chằm nhìn Emma choáng váng. Gã há miệng nói, nhưng không một lời nào thoát ra được, người rã rời. Gã ngồi há miệng ra một cách ngốc nghếch, tê liệt vì nỗi sợ tăng lên dần dần.
Emma nói tiếp lạnh như băng. "Tôi không lầm khi nghĩ là ông đã bán nhà máy Fairley hai tuần trước đây, phải thế không ? Cho Tổng công ty bán lẻ".
- "Điều ấy thì có quan hệ gì tới bà ?", Gerald lắp bắp, nhúc nhích được tí chút. Rõ ràng đã bối rối khi nói thêm. "Tổng công ty bán lẻ là một phân nhánh của Procter và Procter, do ông bạn Alan Procter của tôi làm chủ".
- "Tôi dư biết Tổng công ty bán lẻ có liên quan tới Procter và Procter", Emma nói. "Tuy nhiên, ông được thông báo hơi sai lệch, Procter và Procter lại là công ty phụ của Công ty Emeremn. Nó không thuộc về Alan Procter. Nó không thuộc về ông ta từ vài năm nay rồi. Ông ta chỉ là một người làm công cho công ty mẹ", nàng ngồi ngả người, ngắm nhìn gã.
- "Alan Procter không hề nói điều đó với tôi", Gerald lẩm bẩm. một ý nghĩ khủng khiếp nhất và không thể chấp nhận được đến với đầu óc hỗn độn của gã. Gã hỏi ấp úng: "Ai là chủ Công ty Emeremn ?".
- "Tôi", Emma nói, nàng khẽ mỉm cười, thích thú với cái vẻ mặt của Gerald. "Do đó, tôi cũng điều khiển cả Procter và Procter và Tổng công ty bán lẻ, cũng như là Công ty Deerfield". Nàng nghiêng người về phía trước, chắp hai tay lại với nhau. "Bởi vậy, bây giờ tôi làm chủ tất cả các nhà máy của ông, cũng như là Fairley Hall".
- "Mày!" Gerald thét lên, nhỏm dậy nửa người. "Chính là mày!" Gã ngã trở lại xuống ghế, khắp người run lên không sao kiềm chế nổi, sau đó gã thấy đau nhói ở ngực, đau đến nỗi gã không thở nổi. Gã ôm lấy ngực và cơn rung tăng lên. Gã nghĩ có thể gã bị lên cơn. Đột nhiên cái thực tế trong những lời nàng nói choán lấy gã và với nỗi kinh hoàng chợt đến, gã nhận ra sự thật rùng rợn. Giờ đây Emma Harte là chủ nhân của tất cả những cái gì trước đây là của gã. Hầu hết những cơ sở kinh doanh nhà Fairley đã nằm trong tay nàng. Cả ngôi nhà của gia đình gã. Ngôi nhà tổ tiên. Con mẹ đàn bà này đã đập tan nát đời gã. Gã chỉ còn lại một vài cổ phần ít ỏi ở tờ báo Yorkshire Morning Gazette và xưởng gạch mà cả hai gã đều chẳng tha thiết một chút nào. Gã rùng mình, buông đầu xuống hai bàn tay.
Blackie nhìn Gerald một cách bình thản. Anh nhìn thấy một con người bị tàn phá, bị tơi tả, nhưng Blackie không thông cảm gì với gã. Anh quay lại nhìn Emma, nàng ngồi thẳng và bình tĩnh trên sofa, làm chủ mình và làm chủ tình thế, thế rồi anh hít mạnh. Nét mặt đẹp của nàng là một tấm mặt nạ bằng đồng, đôi mắt nàng như thép. Có sức mạnh và sự lén lút trong căn phòng này, một sự tàn nhẫn hiển hiện khiến không gian dường như rung lên. Và nó toát ra chỉ từ con người Emma. Blackie nuốt mạnh và nhìn đi chỗ khác, cuối cùng anh đã hiểu được nàng đã phải tính tới một sức mạnh như thế nào ?
Gerald chầm chậm ngẩng đầu lên, trợn mắt nhìn Emma một cách độc ác. "Con chó cái âm mưu này!". Gã rít lên giữa hai hàm răng nghiến chặt. "Mày đứng sau tất cả những chuyện kinh khủng đã xảy đến với tao. Hừm, mày cố tình bày mưu tính kế để ăn cắp những nhà máy của tao. Mày đã làm tao phá sản!".
Emma cười lớn mỉa mai và lần đầu tiên hôm ấy sự căm ghét độc địa của nàng đối với Gerald được bộc lộ một cách đầy đủ. "Mày tưởng tao chỉ đe dọa vu vơ hôm ấy, mười ba năm trước đây, khi mày định cưỡng hiếp tao ? Tao sẽ không bao giờ quên được ngày hôm ấy. Và giờ đây, mày cũng sẽ không bao giờ quên được. Nó sẽ ám ảnh mày, chừng nào mày còn sống, Gerald Fairley". Nàng nhìn gã, cái nhìn băng giá, lạnh lùng. "Phải, tao cố tình tàn phá mày, tao đã thề tao sẽ làm như vậy khi mày đột nhập vào nhà tao và tấn công tao. Nhưng mày đã là đồng minh của tao. Mày đã làm cho tao được dễ dàng. Nếu như cần biết sự thật thì chính mày đã tàn phá đời mày, tao chỉ giúp đỡ mày trong quá trình đó thôi".
Cơn giận ngút ngàn và sự nhục mạ của Gerald đã gạt sang bên mọi lý lẽ. Gã đứng lên loạng choạng. Gã muốn đưa hai tay ra nắm lấy cổ nàng mà bóp, bóp mãi cho đến khi nàng kiệt lực, tắt hơi. Gã phải tiêu diệt nàng. Gã bước về phía Emma, nỗi hận thù bừng lên, đôi mắt gã lồi lên trong khuôn mặt méo mó. Gã giơ tay như định đánh nàng.
Blackie ngạc nhiên và tức giận vì điều vừa nghe thấy, anh nhanh nhẹn tiến lên, nắm lấy cánh tay Gerald khi nó giáng xuống, làm cú đánh mất hết hiệu lực. Mặc dù Gerald là con người khổng lồ, gã yếu và hình thù gã cồng kềnh vì vậy gã không phải là đối thủ của sức mạnh và sự nhanh nhẹn đối với Blackie. Blackie xoay Gerald lại một cách thô bạo, nắm lấy gã bằng cả hai tay, ghìm đôi cánh tay gã thõng xuống. Anh xiết chặt như gọng kìm và buộc Gerald ngồi xuống ghế.
- "Đừng giở trò đó ra nữa, Fairley!". Blackie hết lên, cơn giận làm mặt anh thâm lại. "Nếu anh còn động đến bà ấy, dù chỉ là một hơi thở thôi, tôi sẽ cho anh nếm đòn nhớ đời!".
Một cách ngu dại, bất chấp những lời cảnh cáo của Blackie, Gerald vật lộn đứng lên, miệng vẫn lải nhải những lời chửi rủa tục tĩu. Gã vươn lên, mồ hôi tuôn ra xối xả, trợn mắt nhìn Emma. Hình như gã sắp sửa tấn công Emma, thế rồi đột nhiên thay đổi ý kiến và lao vào Blackie. Blackie đã chuẩn bị, anh bước tạt sang bên một cách khéo léo, vung quả đấm phải như chớp giáng vào quai hàm Gerald. Một vẻ ngạc nhiên ngây dại lướt trên nét mặt màu tím của Gerald trước khi gã rúm lại, đổ sụp thành một đống dưới chân họ, làm đổ sập một chiếc bàn nhỏ gỗ đào hoa tâm khi gã ngã xuống.
- "Ôi, trời ơi!". Emma kêu lên và đứng dậy.
- "Cái thằng con hoang này tự nó chuốc lấy vạ!". Blackie lẩm bẩm, và nhìn nàng bối rối. "Tại sao em không nói cho anh biết là nó đã từng định cưỡng hiếp em khi chuyện ấy xảy ra ? Thì có phải là anh đánh cho nó tóe khói ra không! Nó đã tàn tật suốt đời rồi!". "Em biết”.
Chính vì thế mà em không bao giờ nhắc đến , anh Blackie” , Emma nói 1 cách lặng lẽ . “ Em nghĩ nên 1 mình mình biết thôi. Những ngày ấy em không muốn đời em lúc ấy cũng có đủ khó khăn rồi”. Emma dựng lại chiếc bàn và mỉm cười nhợt nhạt . “ Nhưng em cám ơn anh đã can thiệp vừa rồi . Em nghĩ đúng là hắn muốn đánh em.”
Blackie nhìn nghiêng nàng , anh luôn luôn ngạc nhiên vì nàng không hề sợ hãi . “Em nói sao , em nghĩ thế à ? Anh biết là hắn định xúc phạm đến thân thể em . Một việc khốn kiếp”.
Emma khoát tay về phía Gerald : “ Chúng ta sẽ làm gì với hắn. Chúng ta không thể để hắn nằm đây”.
Một cách ranh mãnh loé lên trong con mắt Blackie “ Anh có thể nghĩ ra rất nhiều điều anh có thể làm với hắn . Nhưng hắn không đáng để mình phải vào tù , anh có thể khẳng định với em điều đó”, Blackie nhìn thấy bình nước trên chiếc tủ commốt gỗ hồ đào. Anh mang tới bên Gerald và đổ bừa bãi lên gã . “Đó, như vậy là ổn !” . Anh nói và đứng nhìn Gerald một cách lạnh lùng .
Một lát sau , Gerald lổm ngổm ngồi dậy miệng thở phì phì và lau nước trên mặt . Blackie kéo gã đứng lên. “ Không giở trò bạo động nữa , Fairley. Anh có hiểu tôi nói không ? Nếu không , tôi không chịu trách nhiệm vì những hành động của tôi”. Blackie nói 1 cách nghiêm khắc, vẻ đe doạ . Anh dẫn Gerald ngồi xuống 1 chiếc ghế hơi có vẻ thô bạo và đứng trước mặt gã . “ Nào , bây giờ chúng ta hãy bắt tay vào công việc trước mắt . Anh biết vì sao tôi đến . Có lẽ anh sẽ cho phép chúng tôi đi xem xét 1 vòng. Tôi nghĩ anh không còn cách nào khác trong hoàn cảnh này , phải thế không ?”.
Giêron phớt lờ Blackie, gã gầm gừ Emma 1 cách hung hãn , nỗi hận thù của gã đối với nàng mạnh mẽ hơn bao giờ hết . “ Tao sẽ xử mày vì chuyện này !”. Gã hét lên giơ nắm đấm doạ nàng . “ Mày không thoát khỏi trót lọt đâu”, gã quát tháo . “Hoặc dễ dàng như mày nghĩ đâu, Emma ạ”. “ Gọi là bà Aisnley”, Blackie nói trong khi Emma tiến tới bên bàn.
Emma cầm đôi găng và túi xắc lên, nàng nói: “Xin ông đi đi cho. Tôi nghĩ ông cũng còn có việc phải làm lấy các đồ đạc cá nhân đi khỏi văn phòng của ông ở nhà máy”.
Gerald đứng lên chao đảo. Gã nắm lấy lưng ghế, giọng gã độc địa: “Tao báo trước để mày rõ”. Giọng gã vỡ ra , nước mắt gã ầng ậc. “Tao sẽ…”.
- Ông không thể làm gì được hết. Emma nói, nàng ghê tởm quay đi.
Blackie nói 1 cách kiên quyết: “ Anh đã nghe bà đây nói rồi đó, Fairley. Anh nên làm như bà ấy nói và nhanh nhanh lên . Tôi nghĩ nếu đồ đạc của anh bị đóng gói lại để ở ngoài sân không phải là điều hay ho gì đâu”.
Gerald loạng choạng ra khỏi thư viện, vai gã buông thõng thất bại . Gã đóng sầm cửa lại phía sau, tường rung lên.
Emma vốn rất ghét sự bạo động , nàng hoảng hốt vì vụ cãi cọ tuy ngắn ngủi , nhưng nàng không để mất tư thế. Nàng nhìn sang phía Blackie và nói để xua câu chuyện: “Đồ điên rồ, chúng ta đi xem nhà đi”.
- Tại sao không ? Chúng ta tới đây là vì thế, đúng không ?.
- Đó là 1 trong những lý do. Emma nói.
Đôi mắt Blackie nhìn Emma 1 cách tư lự. Sự trả thù thường thường tới 1 giá cao và, trong khi hiểu được , sự thôi thúc của nàng , anh tự hỏi , 1 cách mơ hồ không biết cái giá ấy có bõ với nàng không . Vốn là 1 người mê tín, Blackie bất giác run lên . Lòng ham muốn trả thù không phải là không tự nhiên , nhưng nó có thể làm cho tâm hồn đông lại và cay đắng , nó thường thường tàn phá người báo thù . Có lẽ , phải chăng là khôn ngoan hơn nhiều là bỏ mặc kẻ ác và phó chúng cho số mệnh và tin tưởng nơi Chúa để Người trừng phạt vào đúng lúc? Anh nghe thấy mình nói, hầu như không nghe thấy được . Sự báo thù là của ta , ta sẽ trả lại. Chúa đã nói .
Emma nhìn anh 1 cái nhìn lạ lùng , rồi nàng cười to . Có nét hài hước trong giọng nói của nàng khi nàng nói: “Anh đừng có bắt đầu huyền bí với em. Anh biết là em không tin ở Chúa. Vả lại, nếu như em có tin, em vẫn phải nắm mọi việc trong tay em . Blackie , anh thấy đấy, em không có thì giờ để đợi Chúa !”
- Và như vậy là em cũng muốn tìm được khoái cảm nhìn mặt Gerald Fairley khi hắn ta phát hiện ra rằng em chính là đối thủ của hắn trong suốt bao nhiêu năm tháng đó. Blackie khẳng định.
- Anh trách em sao ?, Emma hỏi , lông mày nàng dướn lên.
- Anh không cho rằng anh trách em, Blackie nói, và nhìn nàng thật lâu . “Emma , bây giờ em hãy nói cho anh biết em cảm thấy thế nào khi em đã hoàn thành cái mà em đã đề ra cho mình”.
- Sao, em cảm thất thật tuyệt vời. Tại sao lại không như vậy? Em đã chờ đợi 20 năm trời để chứng kiến sự đổi đời của nhà Fairley. Hai muơi năm trời, Blackie ! Để em nói cho anh nghe 1 điều . Sự trả thù là ngọt ngào. Quả là rất ngọt ngào.
Blackie không trả lời . Anh quàng tay lên vai nàng, nhìn xuống. Anh nhẹ nhõm trong lòng khi thấy cái mặt nạ lạnh lẽo và căng thẳng đã được bỏ đi và ánh sắt đá trong đôi mắt màu ngọc bích của nàng đã biến đi . Một ý nghĩ chợt đến với anh . “Thế còn Edwin Fairley thì sao ?”, Blackie hỏi 1 cách tò mò . “Em có cái gì đặc biệt dành cho anh ta không ?”. “Anh phải đợi coi”, Emma nói 1 cách khó hiểu , và mỉm cười “Dù sao , anh cũng đừng nghĩ là Edwin không bị xáo trộn vì tất cả những chuyện này, bởi vì chắc chắn anh ta sẽ bị. Trước hết là anh ta sẽ bị sỉ nhục vì vụ bê bối, sự nhục nhã khủng khiếp này . Gerald rõ ràng là bị phá sản và tất cả giới kinh doanh ở Yorkshire đều biết điều đó. Hơn nữa , nguồn thu nhập của Edwin sẽ bị phương hại nghiêm trọng. Anh ta quan tâm tới những nhà máy Fairley, theo di chúc của cha anh ta. Giờ đây điều ấy đã tan ra mây khói”, nàng kết thúc giọng đắc thắng , tay vung lên hùng hồn.
Blackie nói nhẹ nhàng . “Còn có điều gì em không biết về công việc của họ không?”.
- Không còn điều gì.
Blackie lắc đầu. “Em là 1 phụ nữ tuyệt vời, Emma”.
- Thật thế ư . Đôi khi chính em cũng làm anh kinh ngạc. Emma cười.
- Nào, chúng ta hãy làm điều chúng ta đến đây để làm, đi kinh lý Fairley Hall 1 vòng.
Họ vào phòng lớn bên ngoài và từ từ bưóc lên những bậc cầu thang lớn tắm trong 1 ánh sáng kỳ dị dọc qua cửa sổ khổng lồ lắp kính cao vút đầu cầu thang . Họ bước xuống những hàng lang nhá nhem tối , thoang thoảng mùi sáp và khí , bụi và mùi mốc đặc biệt toát ra từ những bức tường , gỗ kêu cọt kẹt , gió rên rỉ ở những đầu hồi , ánh sáng lờ mờ , Emma thấy hình như ngôi nhà cổ xưa đang thở hắt ra chung quanh họ. Họ nhìn vào nhiều phòng nơi những lớp bụi xám phủ lên đồ đạc rồi tiến ra hành lang chính của các phòng ngủ .
Emma dừng lại ở cửa của dãy nhà Xanh , liếc nhìn lại Blackie đang đứng phía sau. “Đây là phòng của Adele Fairley”, nàng nói và do dự, bàn tay để trên quả đấm cửa. Rồi nàng dốc hết nghị lực , mở tung cánh cửa, bước vào. Từng lớp bụi tung lên từ tấm thảm thành những cuộn khói tròn và rỡn múa trong không gian chan hoà nắng khi họ bước vào phòng mà rõ ràng nhiều năm nay không được dùng tới và có dáng vẻ bi bỏ rơi rõ rệt hơn trong thư viện . Mặc dù lúc còn bé . Emma chưa hề bao giờ yêu thích căn phòng này, nàng đã từng bị choáng ngợp bởi những đồ cổ và 1 vài đồ đạc khác. Giờ đây , nàng nhìn nó bằng con mắt của người sành sỏi , và nàng nhăn mặt. Nơi đây, Adele Fairley đã sống hết đời mình trong cái thế giới của riêng mình, tách biệt với gia đình và trốn thực tại trong cổ chai rượu . Từ lâu Emma đã biết Adele là người nghiện rượu , nhưng bà cũng còn điên nữa sao ? Nàng gạt sang bên cái ý nghĩ lẩn quẩn về căn bệnh điên di truyền và đi sang phòng ngủ tiếp theo, dừng lại bên chiếc giường có 4 cọc khổng lồ được trải khăn lụa xanh đã nhạt màu. Sự yên lặng , thật mênh mông khiến cho trí tưởng tượng có thể dẫn tới những trò kỳ quái, Emma nghe thấy tiếng cười lanh lảnh của Adele, tiếng loạt xoạt của tà áo bà , thoảng 1 mùi hương hoa nhài. Nàng tự cười rồi quay ngoắt đi và, vội vã trở về phòng khách.
Blackie đi theo, định giá tất cả mọi thứ . “ Những phòng này đẹp đây , Emma”, anh vừa nói vừa nhìn quanh . “Rất cân đối hài hoà , họ có nhiều tiềm năng . Tất nhiên em sẽ phải thải hầu hết những đồ tầm tầm Adele Fairley sưu tầm”. “Vâng, em sẽ làm như vậy”, Emma nói và nghĩ: Thật là 1 kỷ niệm gợi thương nhớ tới Adele Fairley. Bà đẹp biết bao.
Emma quan sát những căn phòng ngủ khác 1 cách chiếu lệ nhưng với 1 vẻ tò mò . Nàng quanh quẩn trước bàn trang điểm của căn phòng xám xưa kia là của Olivia Waiwright Fairley, và suy ngẫm về bà . Bất giác, 1 nỗi trìu mến dâng lên trong lòng nàng . Olivia tốt bụng , bà đã làm giảm nhẹ bớt gánh nặng trong cái ngôi nhà khủng khiếp này. Nàng tự hỏi không biết có phải sự thương mến của nàng đối với Olivia nảy sinh là có sự giống nhau rõ rệt giữa người đàn bà đó với mẹ nàng. Có lẽ. Mặt Emma dịu lại , nàng quay đi và rời căn phòng xám. Nhưng nét mặt nàng thay đổi hẳn khi nàng đẩy cánh cửa phòng ông chủ . Đôi mắt nàng như đá khi quan sát cách trần thiết trang nghiêm và nghĩ tới Adam Fairley. Và Emma lại nhớ tất cả những điều đã đến với nàng ở Fairley Hall, nàng không cảm thấy ăn năn hối hận gì về những điều nàng đã làm . Sự trả thù của nàng đã qua 1 thời kỳ thai nghén lâu dài , nhưng chắc chắn rằng nó cũng bõ công.
Mười lăm phút sau, Emma và Blackie bước xuống thang gác chính và nhanh chóng đi qua những căn phòng tiếp đón ở tầng trệt . Trong suốt thời gian đó, Blackie trò chuyện sôi nổi về những sự thay đổi mới mẻ anh đã tiến hành và vạch ra những kế hoạch để biến Fairley Hall thành 1 ngôi nhà thanh lịch cho nàng.
Emma lắng nghe và gật đầu nhưng nàng nói ít. Có 1 lúc khi họ xem phòng khách , nàng chạm cánh tay Blackie và nói: “ Tại sao khi còn bé em lại sợ cái ngôi nhà này đến thế?”.
Blackie nắm bàn tay nàng âu yếm : “ Không phải em sợ ngôi nhà đâu. Em sợ những người ở trong đó”.
- Chắc là anh nói đúng, nàng trả lời khe khẽ. “Và giờ đây những người ấy chỉ là những bóng ma”.
- Đúng , em yêu, chỉ là những bóng ma ! Và xét cho đến cùng , nó chỉ là 1 ngôi nhà. Đã có 1 lần anh nói với em , nó không bao giờ có thể làm hại em”.
- Vâng, Emma cầm cánh tay Blackie . “ Chúng ta ra ngoài xem đất đi. Ở trong này hơi lạnh, và khá buồn”.
Emma chớp mắt khi họ bước ra ngoài ánh sáng mặt trời chan hoà . “Anh nhỉ, ở ngoài này ấm hơn ở trong đó”, nàng nhận định , ngước nhìn lên toà nhà cao vút ở trước mắt . Nét mặt Emma trở nên khó hiểu khi nàng bước dọc theo sân thượng lát đá thỉnh thoảng lại để ý tới Fairley Hall. Cái ngôi nhà đầy hăm doạ này bền vững và không thể phủ nhận được ; 1 pháo đài của sự giàu có và đặc quyền , 1 tượng đài của 1 xã hội đã lỗi thời từ lâu, của 1 hệ thống giai cấp nàng căm ghét , nó làm nàng bị xúc phạm .
Nghiêng đầu về phía ngôi nhà , nàng lẩm bẩm : “Ba em thường gọi nó là Sự điên rồ của nhà Fairley”.
- Và đúng là như thế.
- Hãy giật nó xuống, Emma nói 1 cách khoan thai lạnh lùng.
- Giật nó xuống, Blackie nói vọng lại, anh nhìn nàng 1 cách hoài nghi . “Em định nói sao?”.
- Đúng như là em nói. Em muốn anh giật nó xuống . Từng viên gạch một, cho đến khi nó không còn 1 cái gì sót lại .
- Nhưng anh nghĩ là em sẽ sống ở trong đó. Blackie thốt lên , vẫn chưa hết bàng hoàng.
- Nói thật với anh, em không hề nghĩ rằng em định làm như thế. Có 1 lần anh nói đó là 1 vật quái dị và điều ấy là 1 hàm ngụ. Trên đời này không có chỗ cho những sự quái dị. Em muốn xoá nó khỏi mặt đất này như nó chưa bao giờ tồn tại .
- Thế còn đồ đạc ?
- Bán nó đi . Cho nó đi . Anh muốn làm gì thì làm. Em biết là em không cần 1 vật gì hết. Anh có thể lấy bất cứ cái gì anh thích , Blackie . Nàng mỉm cười: “anh có thể giữ cái bàn của Adam Fairley . Anh biết đấy, nó rất giá trị …”.
- Cám ơn, Emma . Để anh suy nghĩ chuyện đó . Blackie xoa cằm . “Em có chắc chắn đối với quyết định này không ? Em đã trả rất nhiều cho ngôi nhà này”.
- Em rất chắc chắn . Emma quay người và bước nhẹ nhàng xuống sân thượng cho đến khi nàng đứng ở lối vào vườn hồng . Nàng hình dung thấy mình là 1 cô gái trẻ và tuyệt vọng nàng nhớ lại cái ngày nàng nói với Edwin là mình có mang và sự khước từ của anh ta rõ mồn một như mới đâu ngày hôm qua .
- Và phá cái vườn này, nàng nói lạnh lùng . “Phá huỷ nó hoàn toàn . Em không muốn để 1 nụ hồng , 1 chiếc lá còn mọc được ở đây”.
Những người trong làng rất sửng sốt trước cái tin Emma Harte , con gái của Jack lớn , giờ đây là chủ của Fairley Hall và nhà máy. Tình thế đảo lộn khó tin được làm cho trí tưởng tượng của người ta choáng váng. Họ bàng hoàng , ngạc nhiên và cuối cùng là thú vị cái trớ trêu của công lý đến hoàn toàn bất ngờ . Bị trói buộc bởi truyền thống thành kiến và kẹt trong 1 hệ thống đẳng cấp cứng nhắc, nó giữ người công nhân ở nguyên vị trí của họ, họ kinh ngạc trước sự táo tợn của nàng đã dám thách thức hệ thống đó và phá vỡ tất cả mọi luật lệ đã được 1 thể chế đặt ra trong nhiều thế kỷ .
Buổi sáng hôm sau , những phụ nữ đứng trên bậc cửa tựa bên cổng vườn , tay chống nạnh, lắc đầu và kể lại 1 câu chuyện đặc biệt thành công của chính họ . Đêm hôm đó ở quán Bạch Mã , đàn ông ở quán , hầu hết làm việc ở nhà máy , túm tụm lại , tiên đoán về tương lai của nhà máy và cười thầm trước sự tan rã của quyền lợi nhà Fairley. Mặc dù Adam Fairley không được đặc biệt ưa thích, bởi vì ông giống như ông cụ thân sinh bịp bợm và khoẻ mạnh của mình , với tính nết “tài tử” của ông, ông không thích hợp với khẩu vị của miền nông thôn phía Bắc , nhưng ông vẫn được kính trọng bởi vì người ta nhận thấy cái liêm khiết và tốt đẹp cơ bản của ông . Tuy nhiên , Gerald , 1 kẻ tàn bạo và 1 thằng điên , bị căm ghét , không ai cảm thấy đau khổ vì sự sụp đổ của gã cũng chẳng ai thương hại gì gã hết . “Tống khứ cái đồ rác rưởi” là câu nói hầu hết mọi người đều nghe thấy những ngày tiếp sau đó khi dân làng nóng lòng chờ đợi chủ mới của họ và bà chủ tương lai của Fairly Hall.
Nhưng Emma không về làng … ít nhất cho đến khi Gerald mang hết đồ đạc đi khỏi Fairley Hall. Hai ngày sau khi gã đi khỏi , chiếc Rolls Royce màu xám bạc của nàng đỗ ở nhà máy, nàng vào nhà máy để dự 1 buổi họp với công nhân . Người quản đốc Josh Wilson, con trai của Ernest, người đã phục vụ rất tốt cho Adam tập hợp các nam nữ công nhân trong khu dệt . Emma mặc chiếc áo màu xanh nước biển rất đẹp, chiếc mũ xanh , đeo ngọc trai, thân mật chào hỏi 1 số người nàng nhận ra từ hồi còn nhỏ , sau đó nói chuyện với anh chị em.
Nàng đi ngay vào vấn đề : “ Như các anh chị em đã thấy quá rõ , có 1 sự trì trệ trong công việc làm vải vóc đã gần 18 tháng nay kể từ khi giá len hạ nhất, sau đó là đến giá vải . Do quản lý kém cỏi của người chủ trước , nhà máy Fairley bị lao đao và tôi biết trong mấy tháng qua nhiều người bị sa thải” . Emma dừng lại và hắng giọng . “ Tôi sợ là tôi không thể phục hồi những người đó”. Nàng giơ tay lên khi những tiếng rền rĩ và lầm bầm lao xao qua các thính giả . “Tuy nhiên, tôi sẽ cho 1 khoản tiền trợ cấp cho những người bị sa thải và những người không tìm được việc làm ở những tỉnh lân cận . Tôi cũng muốn nói lúc này , và nói 1 cách kiên quyết nhất là tôi không có ý định đóng cửa nhà máy như tôi tin rằng nhiều người trong anh chị em chúng ta nghĩ là tôi sẽ làm . Nhưng trong hoàn cảnh hiện nay , tôi phải cắt giảm , tiết kiệm , tổ chức lại , giảm biên chế. Vì thế , tất cả những người đến tuổi về hưu hoặc gần tuổi đó sẽ về ngay lập tức. Mỗi người đều sẽ nhận được tiền hưu trí . Những nguời trẻ hơn , nhất là những người chưa vợ , chưa chồng sẽ được nhận việc ở những công ty khác của tôi nếu như họ bằng lòng rời Fairley và kiếm được chỗ cho mình ở Leeds và Bradfoc . Những người không thích đi, có thể ở lại . Tất nhiên, tôi hy vọng 1 số người sẽ suy nghĩ , cân nhắc điều đó để tôi có thể giảm được lực lượng lao động ở đây để có thể hoạt động được 1 cách kinh tế hơn. Như đã nói với Josh, tôi sẽ bán những vải vóc chất lượng tốt chúng ta sản xuất cho 3 nhà máy Kallinski ở Leeds , nhưng ngay cả những đơn đặt hàng của họ cũng không đủ để nhà máy sản xuất được đầy đủ . Tôi có 1 giải pháp cho vấn đề này . Tôi sẽ bắt đầu làm loại vải chất lượng thấp hơn ngay lập tức bán với 1 giá rẻ hơn ở nước ngoài và tôi hy vọng ở đây cũng có yêu cầu”.
Emma mỉm cười 1 cách tự tin. “ Tôi mừng ở chỗ tôi có thể vượt ra khỏi tình trạng trì trệ này , và với 1 chút may mắn cùng sự hợp tác của các bạn , tôi biết chúng ta có thể biến đổi nhà máy này nhanh chóng sinh lợi . Tôi xin nhắc lại , tôi sẽ không đóng cửa nhà máy vì vậy tôi không muốn anh em nào ở đây lo lắng về công việc của mình. Tôi không có ý định để cho làng này đói”.
Họ hoan hô nàng nồng nhiệt và lần lượt từng người 1 mũ vải cầm tay , lên bắt tay nàng , cám ơn nàng, và chào mừng nàng trở lại Fairley. “ Tôi biết ba cô , cưng”, 1 người nói với nàng, 1 người nói thêm. “ Trời đất, Jack lớn mà còn sống chắc hẳn sẽ tự hào về cô đó, cháu gái”.
Sau khi gặp Josh Wilson, Emma bước lên xe Rlls Royce nói với tài xế đưa nàng về Fairley Hall. Những người thợ của Blackie đã đến đầy nhà và đang trèo lên thang qua mái cửa sổ được tháo đi , lò sưởi gỡ ra , Emma mỉm cười 1 mình và trở về Leeds .
Lúc đầu dân làng tưởng rằng Hall đang được sửa chữa lại , họ rất hào hứng về sự phát triển này và chờ đón Emma trở về làm chủ của lãnh địa này. Nhưng trong vòng 1 tuần , họ choáng váng nhận ra rằng ngôi nhà đang bị phá huỷ dần dần , và họ hoàn toàn bối rối khó hiểu .
Đến giữa tháng 5 . Emma đến Fairley Hall lần thứ 2. Nàng bước dọc sân thượng vẫn còn nguyên vẹn , nhìn xuống khu đất nơi trước đây là ngôi nhà và dãy chuồng ngựa. Không còn lại 1 viên gạch và cả vườn hồng nữa cũng đã biến mất . Emma thấy nhẹ nhõm hẳn người và 1 cảm giác được giải phóng đột ngột chợt đến . Fairley Hall, toà nhà nơi nàng đã chịu bao nhiêu nhục nhã và đau lòng không bao giờ còn tồn tại. Nó không bao giờ còn làm nàng khổ sở với những kỷ niệm đau đớn. Nàng đã xua tan những hồn ma của thời thơ ấu . Cuối cùng nàng đã thoát khỏi cái gia đình nhà Fairley .
Một vài phút sau , Blackie tới, anh quàng tay lên vai nàng: “ Anh đã làm theo từng chi tiết chỉ thị của em và đã gạt bỏ đi sự quái dị , em gái. Nhưng cũng giống như toàn thể dân chúng , anh hết sức tò mò , Emma ạ. Em thân yêu, hãy nói cho anh biết, em sẽ làm gì với khu đất này?”.
Em ngước lên nhìn anh và mỉm cười: “Em sẽ biến nó thành 1 công viên . Một công viên đẹp cho dân làng Fairley, và em sẽ lấy tên mẹ em đặt cho nó”.
Một tuần lễ sau, vào 1 buổi chiều đẹp trời cuối tháng 5, Emma bước ra khỏi taxi ở khách sạn Savoy, Luân Đôn và vội vã đi qua hành lang tới Tiểu Quán Mỹ . Nàng thấy Frank trước. Cậu đang ngồi ở bàn nhìn ra hành lang và khi nàng bước lên những bậc thang ngắn vào trong tiểu quán nàng để ý thấy cậu xem ra có chiều tư lự , tay mân mê ly rựơu.
- Em suy nghĩ gì thế ? Nàng nói và dừng lại trước mặt cậu. Hơi giật mình , Frank vội ngẩng lên , mắt cậu sáng lên. “ Chị đấy à !”. Cậu đứng lên , kéo ghế mời chị . “ Chị Emma trông chị xinh đẹp quá đi”.
- Cảm ơn em , cưng. Nàng vuốt chiếc áo lụa màu xanh vội vã tháo đôi găng tay trắng da hoẵng . “Trời nóng quá nhỉ ? Chị nghĩ có lẽ chị phải uống 1 cốc gì đã Frank ạ. Nó sẽ làm chị đuợc dễ chịu. Ở cửa hàng đúng là 1 một ngày vất vả “.
Frank gọi thức uống và châm 1 điếu thuốc .
- Em xin lỗi đã làm chị phải đi 1 quãng đường dài tới Strand, nhưng nó gần chỗ Fleet hơn và 1 lát nữa em phải quay về toà báo.
- Đến đây chị không ngại đâu. Chị thấy thích cái tửu quán này. À mà tại sao em cần gặp chị. Khi em gọi điện cho chị ở cửa hàng , giọng em nghe có vẻ khẩn cấp. Nói thật với em , chị hơi lo ngại 1 chút.
- Em xin lỗi, Emma. Em không định như vậy . Thực ra thì không có gì là khẩn cấp, nhưng em muốn nói chuyện với chị.
- Về vấn đề gì ?
- Aurthur Ainsley.
Emma dướn cao lông mày . “Authur. Trời , tại sao em lại muốn nói chuyện về anh ấy ?
- Winston và em gần đây hết sức lo lắng về chị. Chị đã sa vào 1 đám cưới vô vọng làm cho cả Winston và em đều bối rối . Sự thật , em nghĩ chị nên li dị Authur. Em đã hứa với Winston em sẽ đề cập vấn đề đó với chị .
- Li dị . Emma cười vui vẻ . “Để làm gì ? Authur không hề làm phiền chị .
- Anh ta không thích hợp cho chị, Emma và chị cũng biết điều đó . Trước hết là anh ta uống rượu kinh khủng và cái lối anh ta đi lại với …, Frank nuốt nước bọt và hút thuốc.
- Những người đàn bà khác , Emma nói nốt hộ cậu em. Trông nàng có vẻ vui. “ Chị cho là người vợ là người biết sau cùng. Tuy nhiên , chị đã biết những hoạt động của Authur từ lâu. Em không cần phải nương nhẹ tình cảm của chị làm gì .
- Nó không hề làm chị buồn bực ư ? , Frank hỏi .
- Chị không hề quan tâm tới Authur Ainsley và cung cách anh ta hành động . Thực tế , chị không hề có 1 chút tình cảm nào đối với Authur.
- Thế tại sao chị không li dị , Emma ?
- Chủ yếu là vì lũ trẻ.
- Vớ vẩn. Chị dùng chúng làm 1 cái cớ . Edwina và Kit ở nội trú . Chúng sẽ không bị ảnh hưởng …
- Chị nghĩ tới 2 đứa bé sanh đôi, Frank. Chúng là con của Authur và chúng cần 1 người cha.
- Authur mà là cha à , Frank giận dữ .
Emma cầm cốc rượu người hầu bàn để trước mặt nàng lên . “ Chúc sức khoẻ”.
- Chúc sức khoẻ. Nào, trả lời em đi .
- Ừ thì , anh ta là 1 sự hiện hữu trong cuộc đời chúng. Anh ấy rất yêu chúng và thực sự là hoàn toàn tốt đối với chúng .
- Khi anh ta tỉnh, Frank nói 1 cách chua chát .
Emma thở dài: “ Tất nhiên điều em nói có điểm có lý . Nhưng Frank ạ, chị thành thực không muốn li dị Authur, mặc dù chị có bằng chứng . Ít nhất không phải là lúc này . Em biết chị ghét sự biến động đột ngột và quả thực chị nghĩ bây giờ không phải lúc. Có lẽ đợi đến khi lũ trẻ lớn lên , chị sẽ cân nhắc chuyện đó”. Giọng nàng kéo dài , trông nàng tư lự . Nàng vui lên : “ Chị thấy hài lòng 1 cách hợp lý. Authur không can thiệp vào chị, hoặc công việc của chị và em biết chị rất yêu thích điều ấy”.
- Chị không thể đem cuốn sổ cái vào giường cùng với chị, Emma. Nó không làm chị ấm vào 1 đêm lạnh và chắc chắn nó không ấp ủ và yêu thương chị như chị dáng được ấp ủ và yêu thương .
Emma cười : “ Tại sao đàn ông các người luôn luôn nghĩ đến sinh lý ?
- Em nói tới ấp ủ và yêu thương . Chị là 1 phụ nữ trẻ . Chị nên có bầu bạn , có quan hệ với 1 người đàn ông tử tế . Trời chắc chị hẳn là cô độc lắm !.
Một áng mây lướt qua mặt Emma, đôi mắt nàng thoáng buồn . Nàng chầm chậm , lắc đầu. “ Chị không có thì giờ để mà cô đơn . Những ngày này chị rất bận , như em thấy đó . Liên tục từ đây đến Leeds . Và chị đã quyết định về chuyện li dị, Frank. Nào thôi , chúng ta đừng mất thì giờ nói về Authur. Em hãy nói cho chị nghe về ngôi nhà ở Hampstead đi. Natalie có thích nó không ?
Frank rên lên 1 tiếng , cậu thừa nhận rằng nói tiếp câu chuyện này là vô ích, cậu nói: “ Vâng, cô ấy thích. Cả em nữa. Đối với chúng em nó là lý tưởng. Nhưng em muốn chị nhìn xem và cho em biết ý kiến . Nó đắt lắm, chị biết đó” .
- Chị sẽ rất sung sướng . Mà em đừng có lo về giá cả, Frank. Nếu như đắt quá ngoài khả năng của em , chị sẽ cho em chỗ chênh lệch đó .
- Ồ, Emma, em không thể nhận cái đó. Frank phản đối.
- Em đừng buồn cười . Nhiều năm trước đây , Blackie đã nói với chị tiền kiếm ra là để tiêu đi và anh ấy nói đúng. Chị muốn em có 1 ngôi nhà đẹp để bắt đầu cuộc hôn nhân này 1 cách đàng hoàng. Chị muốn em đưọc hạnh phúc, Frank. Nàng cười : “Người nào nói tiền không mua được hạnh phúc , nguời ấy lầm, theo ý chị. Nó mua được nhiều hạnh phúc cho nhiều người . Và phải thành thực mà nói chị thà là khổ vì tiền hơn là khổ vì không có tiền”. Nàng nắm lấy cánh tay Frank: “Em biết tất cả những cái chị có là của em và của Winston. Nó sẽ là 1 phần món quà của chị cho em và Natalie”.
- Chị rộng lượng quá, Emma . Em thực sự cảm động . Và em còn biết nói gì hơn là cám ơn chị thật nhiều “. Frank uống 1 ngụm nhỏ và nói tiếp, “ Chị có thể dành 1 tiếng để xem nó có ngày mai không ?”
- Được chứ . Natalie có khoẻ không em ?
Frank tươi tỉnh . “ Cô ấy rất khoẻ. Thật là 1 kho báu. Em yêu cô ấy, Emma . Thực sự như vậy”.
- Chị biết. Em may mắn , Frank. Em sẽ có 1 hôn nhân tuyệt vời . Cô ấy…
Emma dừng lại nín thở. Từ chỗ nàng ngồi ở bàn , từ thế lợi trong quán , Emma có thể nhìn thấy phần lớn hành lang , mặt nàng gián vào 2 nguời đàn ông đang nói chuyện với nhau gần bàn tiếp đón.
Frank theo dõi Emma chặt chẽ, cậu nói. “ Có chuyện gì vậy ?”.
Emma liếc nhìn Frank mặt trắng bợt vì sốc: “Paul McGill !”. Nàng lại nhìn xuống bậc thang . “Ôi Trời đất ! Anh ta đi vào lối này . Chị nghĩ anh ấy sẽ vào quán. Chị phải đi ngay trước khi anh ấy nhìn thấy chị !”.
Frank đặt tay lên cánh tay chị. : “ Không sao đâu, Emma . Đừng xúc động ! Và chị đừng đi”, cậu nhè nhẹ khẩn nài .
Đôi mắt Emma rực lên : “Frank ! Em đã biết anh ấy ở Luân Đôn rồi phải không ?”.
- Vâng .
- Em không – em không thể lại mời anh ấy nhập hội với chúng ta chứ ?
Frank không trả lời . Cậu nhìn xuống ly rượu .
Emma rít lên : “ Trời ơi, em làm như vậy sao !”.
- Em có lỗi, Frank lẩm bẩm .
- Ồ, Frank . Tại sao em lại có thể như vậy ? . Emma dứng lên , Frank khẽ ấn chị lại trong ghế.
- Emma , xin chị. Chị phải ở lại .
Nàng nhìn em 1 cách tức giận . “ Cái câu chuyện bất chợt về Authur và về nhà cửa, thì ra là 1 mưu kế , phải không ?” , nàng to tiếng buộc tội .
- Không phải thế ! Frank nói – Không phải như vậy ! Đúng là em muốn bàn về câu chuyện hôn nhân của chị . Từ lâu em đã có ý định đó rồi. Em đã nói với chị, Winston và em rất buồn phiền . Và em cũng cần lời khuyên của chị đối với ngôi nhà . Tuy nhiên , em đồng ý là em thu xếp cuộc gặp gỡ này.
- Trời ơi ! Tôi biết làm gì bây giờ ? , Emma thì thào khàn giọng.
- Chị sẽ trở thành con người lịch sự của chị và uống 1 chút với Paul .
- Chị không thể làm điều đó , nàng rền rĩ . “Em không hiểu. Chị phải đi!”. Trong khi nói Emma biết là đã quá muộn để rút đi 1 cách lịch sự . Paul đang nhẹ nhõm bước lên bậc thang và anh ta đã đứng bên bàn , bóng anh trùm lên . Emma ngước mắt lên chầm chậm , nàng nhìn anh lúc anh nhìn xuống nàng . May mà nàng đang ngồi. Đôi chân nàng bủn rủn và trống ngực đập thình thình .
- Chào Emma . Paul vừa nói vừa chìa tay ra .
Nàng đưa tay ra như 1 cái máy . “ Chào Paul”, nàng đáp lại, giọng nghẹt đi và trong lòng run rẩy . Nàng cảm thấy những ngón tay mạnh mẽ của anh xiết chặt lấy những ngón tay nàng , nàng cảm thấy máu dồn lên mặt . Nàng vội rút tay ra, nhìn xuống bàn 1 cách mù loà . Paul chào hỏi Frank như 1 người bạn cũ và ngồi xuống . Anh gọi Whiskey và soda , ngả người ra sau , vắt chân lên 1 cách hờ hững và châm 1 điếu thuốc. Anh quay sang Emma . “ Rất mừng được gặp chị, Emma. Trông chị thật xinh đẹp. Chị không thay đổi chút nào hết . Và tôi xin chúc mừng chị . Cửa hàng của chị ở Knighsbridge làm tôi ngạc nhiên . Tuyệt vời. Sự kiện khổng lồ . Chị rất đáng tự hào về mình”.
- Cám ơn , nàng lẩm bẩm không dám nhìn anh .
- Tôi cũng phải chúc mừng anh nữa, Frank. Cuốn sách mới của anh rất hay. Cám ơn anh đã cho tôi một cuốn. Tôi thức đến tận nửa đêm để đọc. Thật không thể đặt nó xuống được.
Frank cười sung sướng:
- Tôi mừng là anh thích nó. Tôi cũng sung sướng nói để anh biết là nó bán rất chạy.
- Đúng là nên như thế. Đây là một trong những cuốn tiểu thuyết hay nhất tôi được đọc trong nhiều năm nay. - Đồ uống của Paul đã được đem tới. Anh nâng ly và nói. - Xin mừng những người bạn cũ thân thiết và hôn lễ sắp tới của anh, Frank.
Emma yên lặng. Nàng không bao giờ nghĩ là em trai nàng lại có thể làm trò hai mặt, nhưng chắc chắn cậu thiếu thành thật lần này và hiển nhiên là thân mật với Paul.
Frank nói:
- Tôi rất sung sướng anh sẽ có mặt ở đây vào tháng bảy. Natalie và tôi hy vọng anh có thể tới dự đám cưới của chúng tôi.
Emma không thể tin ở tai mình. Nàng trừng trừng nhìn Frank. Cậu phớt lờ cái nhìn như xoáy của chị và tiếp tục:
- Và xin cám ơn đã mời dự bữa với anh vào cuối tuần này. Natalie gợi ý ngày thứ sáu nếu anh rỗi.
- Tôi rỗi, và dứt khoát tôi sẽ đến dự đám cưới. - Đôi mắt của Paul dừng lại ở Emma. - Cô có thể đến ăn cơm với chúng tôi thứ sáu không, Emma ?
- Chắc chắn là không thể được, - nàng trả lời, tránh mắt anh.
- Tại sao chị không kiểm tra lại sổ hẹn của chị sau đó ? - Frank gợi ý.
- Không cần phải như vậy. Chị chắc là chị đã có hẹn dự bữa ăn rồi, - nàng nói một cách rõ ràng bằng một giọng vững vàng hơn, mắt nàng tỏ ra không hài lòng với Frank.
Nhận ra vẻ ương ngạnh trên mặt nàng, Paul không thôi thúc vấn đề đó nữa. Anh quay sang Frank nói:
- Anh chị định đi đâu trong tuần trăng mật ?
- Chúng tôi đang nghĩ tới miền Nam nước Pháp, mặc dù chúng tôi vẫn chưa quyết định dứt khóat.
Emma ngồi ngả trong ghế, không nghe họ nữa. Câu chuyện của họ cứ thế trôi đi, nàng lui vào con người mình. Nàng bị hoàn toàn choáng váng vì cái đến bất ngờ, không chờ đợi của Paul và lúc này nàng có thể giết chết Frank một cách vui vẻ vì cậu đã tham gia vào cái mưu mô này. Nàng cảm thấy bàng hoàng và biết bao xúc động lẫn lộn đã được kiềm chế trong nhiều năm đột nhiên bừng lên. Tác động của việc gặp gỡ này thật là tai hại. Paul McGill đang ngồi đây, trò chuyện với Frank một cách vô tư lự, mỉm cười, gật đầu, xử sự như không có chuyện gì xảy ra giữa hai người. Nàng cảm thấy một sức mạnh to lớn trong con người anh. Sức mạnh, sự cường tráng tiềm tàng và nàng nhớ lại từng chi tiết những ngày họ đã sống cùng nhau ở khách sạn Ritz. Rồi nàng sực nhớ, lòng nhói buồn. Nàng đã từng mong nhớ đến anh thế nào, mòn mỏi vì anh, cần anh ngày xưa. Giờ đây anh chỉ cách có gang tấc, nàng cố nén sự thôi thúc muốn xô ra, chạm vào người anh, tự đoan với mình là thực. Nhưng thay vào đó, nàng lại nhìn anh một cách thầm lén. Anh vẫn tươm tất như bao giờ, mặc bộ com lê màu xám có đường kẻ trắng, chiếc áo sơ mi lụa trắng ánh lên, chiếc cà vạt màu xanh thẫm và một chiếc mùi xoa trắng nổi lên phía túi ngực. Nàng biết anh đã bốn mươi hai tuổi vào đầu tháng hai, nhưng trông anh vẫn y như năm 1919, ngoại trừ mặt anh xạm đen hơn và quanh mắt có hằn thêm đôi ba nét. Sắc thái của anh vẫn hoạt bát như bao giờ, tiếng cười của anh mạnh mẽ, vang vang. Nàng mới quen thuộc với tiếng cười vui và khinh thị. Một nỗi căm giận đột ngột đến với nàng. Thật là láo lếu. Thật là ngạo ngược. Sực bực bội đẩy lùi mọi tình cảm khác, nàng cứng rắn trước sức cuốn hút của anh.
Lờ mờ, nàng nghe thấy Frank chào từ biệt. Nó để nàng ở lại một mình với Paul. Ý nghĩ này làm nàng hốt hoảng.
- Tôi phải đi, - nàng nói, cầm găng tay và túi lên. - Xin thứ lỗi, Paul, tôi phải đi với Frank.
- Đừng đi, Emma. Tôi xin cô. Tôi muốn nói chuyện với cô, - Paul nói bằng một giọng nhẹ nhàng nhất. Anh phải giữ nàng bằng mọi giá. Đó là điều bức thiết, nhưng anh lại không dám dùng áp lực đối với nàng.
Frank đưa mắt nhìn Paul, cái nhìn đầy âm mưu, rồi nói với Emma:
- Em phải quay trở lại phố Fleet. Em đã bị muộn mất rồi. - Cậu cúi xuống hôn chị một cách chiếu lệ và rời đi trước khi nàng kịp phản đối và nàng biết mình đã bị mắc bẫy.
Paul gọi người hầu bàn, lấy thêm đồ uống, rồi anh nghiêng người về phía trước một cách chăm chú. Đôi mắt anh nghiêm trang, nét mặt anh long trọng.
- Xin em đừng tức giận Frank. Tôi đã thuyết phục anh ấy thu xếp cuộc gặp này.
- Tại sao ? - Emma hỏi, và lần đầu tiên nàng nhìn thẳng vào Paul, hết sức lạnh lùng.
Paul rúm người lại. Anh biết trước mắt sự việc rất gay go, nhưng anh quyết định chứng minh lòng thành thực của mình.
- Như tôi đã nói, tôi muốn gặp em và nói chuyện với em. Hết sức khẩn thiết.
- Khẩn thiết! - nàng lặp lại và cười chua chát. - Một từ dùng nghe lạ quá. Anh không thể nào khẩn thiết như thế, nếu không anh đã chẳng để cho bao nhiêu năm tháng trôi đi như vậy.
- Tôi hiểu rõ tình cảm của em, Emma. Nhưng đó lại là sự thật. Tôi thực sự khẩn thiết. Cả trong bốn năm rưỡi đó, - anh nhấn mạnh.
- Vậy tại sao anh không viết thư cho tôi ? - Nàng căn vặn, giọng bất ngờ run lên. Nàng hết sức chế ngự mình, quyết tâm không để lộ một tình cảm nào hết.
- Tôi đã viết cho em rất nhiều lần và tôi cũng gửi cho em ba điện tín xuyên đại dương.
Emma nhìn Paul trừng trừng, vẻ mặt nàng không tin.
- Anh đừng nói với tôi là tất cả đều bị thất lạc ở bưu điện! Và những bức điện tín tan vào hư không! Tôi thấy điều đó khó trôi.
- Không, chúng không bị thất lạc. Chúng bị đánh cắp. Cũng như những lá thư của em gửi đến cho tôi đã bị đánh cắp, - Paul nói, mắt không rời khuôn mặt nàng.
- Bị ai đánh cắp ? - Emma hỏi, đáp lại cái nhìn chăm chú của anh.
- Người thư ký riêng của tôi.
- Nhưng tại sao cô ấy lại làm một điều như vậy ?
- Đây là một câu chuyện khá dài, - Paul nói lặng lẽ. - Tôi muốn kể em nghe. Đó là lý do tôi muốn gặp em. Không biết em có vui lòng nghe tôi không, Emma ? Xin em.
- Được, - nàng lẩm bẩm. Nghe anh ấy nói cũng chẳng có hại gì và tò mò của nàng cũng nổi dậy.
- Năm 1919 khi tôi trở về Úc, điều duy nhất trong đầu tôi là gặp ba tôi rồi quay lại với em càng sớm càng tốt, - Paul ngừng lại khi người hầu bàn đem đồ uống ra. Khi anh ta đã đi xa, Paul nói tiếp. - Khi tôi tới Sydney thì thật là cả một mớ hỗn độn, nhưng tôi không đi vào chuyện đó bây giờ. Trước tiên hãy để tôi nói về những lá thư. Nhiều năm trước đây, ba tôi kết bạn với một cô gái trẻ làm việc ở văn phòng Sydney của chúng tôi. Ông cho cô ta giữ chức thư ký riêng trong thời gian tôi đi vắng. Sau khi tôi xuất ngũ, tôi phải nắm lấy công việc điều khiển ngay, bởi vì ba tôi không khỏe một chút nào và tôi phải tiếp nhận cô thư ký đó. Marion Ridge là của trời cho quý giá trong những tuần đầu. Vâng, trong vài ba tháng, tôi làm việc nhiều tiếng đồng hồ với Marion bên cạnh, hướng dẫn tôi, giúp đỡ tôi, làm cho tôi hầu như tất cả mọi việc. Ba tôi bệnh tình ngày một nặng thêm, ông phải nằm liệt giường. Thành thực mà nói, Emma ạ, tôi đã dựa vào Marion rất nhiều. Tôi có những trách nhiệm nặng nề giáng xuống và hoàn toàn mất liên hệ, - Paul châm một điếu thuốc, rít một hơi và nói tiếp. - Trước chiến tranh, Marion giống như một người trong gia đình. Ba tôi rất thích cô ấy, tôi coi cô ấy như một người bạn cũng như là một người gíup việc đáng quý. Đứng về một phương diện, cô ấy như một người chị của tôi, bởi vì cô ấy hơn tôi bốn tuổi. Một đêm, sau khi chúng tôi làm việc quá khuya, tôi dẫn cô ấy đi ăn tối, và đã tâm sự với cô ấy. Tôi kể cho cô ấy nghe về em và những kế hoạch của tôi cho tương lai, ý định của tôi lấy em. Bao giờ tôi giải quyết xong những khúc mắc trong hôn nhân của tôi.
Một nụ cười ân hận thoáng trên khóe miệng Paul, anh lắc đầu:
- Tâm sự với Marion là một sai lầm nghiêm trọng, cuối cùng là như vậy. Một sự sai lầm tôi đã phạm phải khi tôi quá chén. Tất nhiên lúc ấy tôi không nhận ra đó là sai lầm. Marion hết sức thông cảm. Cô ấy hức giúp đỡ tôi giải quyết ổn thỏa mọi vấn đề trong một thời gian sớm nhất để tôi có thể đến London một vài tháng và...
- Tại sao lại là một sai lầm ? - Emma ngắt lời, cau mặt.
- Lúc ấy tôi không biết, nhưng Marion Ridge đã yêu tôi từ nhiều năm. Không bao giờ có chuyện gì giữa hai người chúng tôi cả và tôi không hề làm gì để khuyến khích cô ấy. Tất nhiên, cô ấy không bao giờ muốn tôi rời nước Úc và đi với một người đàn bà khác, mặc dù lúc ấy tôi không nhận ra điều đó. Tôi đã làm việc như điên dại, để tổ chức lại công việc và biên thư cho em. Không ngờ người thư ký tận tụy của tôi đã tịch biên tất cả thư từ của tôi gửi cho em thay vì gửi chúng đi. Tôi hết sức bối rối và nản lòng khi em không trả lời thư tôi. Tôi gửi thêm hai bức điện nữa, van xin em ít nhất thì cũng cho tôi biết là em mạnh khỏe. Tất nhiên những bức điện ấy không bao giờ được chuyển đi. Marion đã hủy chúng. Tuy nhiên, mặc dù sự yên lặng của em, mà tôi không sao hiểu nổi, tôi quyết định gặp em sớm chừng nào mà tôi có thể ở nước Anh.
Emma chăm chú nghe từng lời của anh, nàng biết một cách tuyệt đối chắc chắn rằng anh nói thật. Nàng nhìn anh thảng thốt:
- Bao giờ ?
- Khoảng một năm sau. Mùa xuân năm 1920. Tôi viết một bức điện, trao cho Marion trước khi tôi lên đường, thông báo ngày đến cho em và tôi cầu nguyện em sẽ đến đón thuyền tôi. Em không hồi âm vì emk hông bao giờ nhận được điện cả. Người đầu tiên tôi nói chuyện điện thoại là Frank. Cậu ấy nói với tôi là em đang đi tuần trăng mật. Em lấy Arthur Ainsley vừa một tuần trước.
- Ôi, trời ơi! - Emma kêu lên, mắt mở to, buồn thương u ám.
Nụ cười của Paul đau khổ và anh gật đầu:
- Phải, tôi đã chậm mất một tuần lễ ngăn chặn điều đó. Bất hạnh thay.
- Nhưng tại sao anh không đến từ trước ? Tại sao anh lại phải đợi cả một năm trời ? - Emma cao giọng hỏi.
- Tôi không thể đi khỏi, Emma. Em biết không, ba tôi đang hấp hối vì ung thư. Ông mất khoảng tám tháng sau khi tôi trở về Úc.
- Em xin chia buồn, Paul, - Emma lẩm bẩm, một nỗi thông cảm chân thành trong ánh mắt nàng.
- Vâng, thật là buồn. Và trong mấy tháng cuối, ba tôi hoàn toàn phụ thuộc và tôi. Vâng, tôi xin nói tiếp. Tôi những hy vọng đi ngay sau đám tang ba tôi, nhưng rồi vợ tôi... - Paul chần chừ một lúc, mặt anh hơi nhăn lại. - Vợ tôi, Constant, trở nên ốm nặng, tôi lại bị chậm trễ. Vừa khi cuối cùng tôi nghĩ tôi có thể đi được thì con trai tôi ốm, - Paul nhìn Emma một cách thận trọng. - Tôi có một đứa con trai, Emma ạ.
- Vâng, em có nghe nói. Paul, đáng lý anh có thể nói cho em biết. Em mong giá như anh nói, - nàng trách.
- Ừ, đáng lẽ nên như thế, Emma. Nhưng mà Howard, ờ, nó có vấn đề, và tôi luôn luôn cảm thấy khó nói về nó, - Paul thở dài nặng nề, mắt anh thoáng mờ đi. Anh ngồi thẳng trên ghế. - Khi Howard bình phục, tôi mới có thể lên đường tới Anh.
- Và anh đã gặp Frank.
- Lúc đầu thì không. Frank hơi do dự gặp tôi. Tôi không cho rằng anh ấy đánh giá tôi cao. Tuy nhiên, anh ấy biết tôi buồn khổ đến thế nào khi tôi biết cuộc hôn nhân của em và tôi chắc anh ấy thương hại tôi, nhất là khi tôi nói với anh ấy tôi thường xuyên viết cho em cả một năm trước. Khi anh ấy nói với tôi là em không hề nhận được thư tôi, và em cũng viết cho tôi thì tôi thực sự kinh hoàng và choáng váng.
- Làm sao anh phát hiện ra thư bị đánh cắp ? - Emma hỏi, nét mặt nàng cũng u tối như Paul.
- Tôi chợt nảy ra ý nghĩ là có kẻ đã can thiệp vào thư tín của tôi. Vài ba lá thư bị thất lạc, nhưng không thể nào lại hàng chục lá được. Không cần phải mất nhiều thì giờ suy luận cũng biết ngay được đó là Marion. Cô ta rõ ràng là thủ phạm, bởi vì cô ấy trông nom thư tín của tôi cả ở Sydney lẫn trại cừu ở Coonamble. Và cô ấy cũng gửi đi tất cả thư cá nhân của tôi.
- Thật đáng tiếc là anh không tự bỏ, phải không ? - Emma nói lặng lẽ, rủa thầm Marion. Đôi mắt soi mói của nàng nhìn xoáy vào Paul.
- Phải, đúng thế. Tôi nhận là tôi bất cẩn. Mặt khác, tôi không có lý do gì để không tin cô ấy. Vả lại, tôi cũng gặp phải những vấn đề vô cùng lớn lao. Tôi làm việc quá nhiều và quá bận.
- Em chắc anh gặp cô ấy khi anh trở lại Sydney, - Emma đánh bạo.
- Tôi đã gặp. Lúc đầu cô ấy chối. Nhưng cuối cùng cô ấy khóc òa lên và thú nhận. Khi tôi hỏi cô ấy vì sao lại làm như vậy, cô ấy nói cô ấy hy vọng phá cuộc tình của chúng ta để tôi không đi.
- Cô ấy đã thành công, - Emma nói khô khan, nàng nghĩ tới những năm bị hao phí.
- Vâng, - Paul tìm khuôn mặt Emma, khuôn mặt không thể đọc biết được gì hết. Anh đưa tay vào túi áo ngực phía trong và rút ra một phong bì. - Đây là một lá thư của các cố vấn pháp luật của cô ấy. Trong thư, họ thừa nhận tội của cô ấy, hiểu rằng tôi sẽ không khởi tố cô, điều mà tôi dọa dẫm. Ăn trộm thư tín là một trọng tội, như em đã rõ. Tôi đòi hỏi điều này, - anh giải thích, đập đập chiếc phong bì. - Bởi vì tôi hy vọng một ngày nào đó có cơ hội đưa cho em xem để chứng minh rằng tôi không phải là một tên vô lại, như chắc chắn em nghĩ về tôi. - Anh đưa cho nàng chiếc phong bì và kết thúc. - Họ cũng trả lại tôi những lá thư tôi gửi cho em, và em gửi cho tôi.
Emma liếc nhìn anh:
- Anh muốn nói là cô ấy giữ chúng ? Lạ thật! - nàng thốt lên.
- Tôi cũng nghĩ như thế. Emma, em hãy đọc thư của các cố vấn pháp luật của cô ấy. Câu chuyện thật không thể tin được đến độ tôi thấy rằng em có thể nghĩ là tôi bịa ra mọi chuyện.
Emma nghĩ ngợi một lúc rồi nàng lấy bức thư ra khỏi phong bì và liếc nhìn nhanh. Nàng trao trả cho Paul, mỉm cười yếu ớt.
- Không có lá thư này em cũng tin anh rồi. Không ai có thể bịa ra một chuyện như vậy. Dù sao cũng cảm ơn anh. Thế còn Marion Ridge thì sao ?
- Tất nhiên tôi đuổi cô ấy ngay. Tôi không biết hiện nay cô ấy ở đâu.
Emma gật đầu. Nàng suy nghĩ, mắt nhìn xuống đôi bàn tay rồi ngẩng lên nhìn thẳng vào Paul:
- Tại sao anh không đợi em đi tuần trăng mật về bốn năm trước đây để anh có thể nói cho em biết anh đã viết thư cho em, Paul?
Paul nhìn nhanh nàng.
- Làm như vậy có ích gì ? Muộn quá rồi, Emma. Tôi không muốn can thiệp vào cuộc hôn nhân của em. Vả lại, có thể là em không tin tôi. Em nên nhớ là tôi mới chỉ ngờ ngợ những điều xảy đến với những lá thư. Tôi không có bằng chứng gì cho mãi đến tận khi tôi trở về Sydney.
- Vâng, em hiểu. Tuy nhiên, em ngạc nhiên tại sao Frank không bao giờ nói cho em biết.
- Sự thực, anh ấy không muốn tôi ở lại và gặp em. Và anh ấy muốn tự nói với em. Tôi yêu cầu anh ấy đừng làm như vậy. Tôi nghĩ không có ích gì. Tôi cảm thấy đối với em, tôi đã lạc mất rồi. - Paul nhún vai. - Lúc ấy, tôi thấy hình như tôi biến đi nhanh và lặng lẽ là khôn ngoan hơn cả.
- Thế tại sao qua bao nhiêu năm tháng bây giờ anh lại nói với em ?
- Tôi vẫn luôn luôn muốn giải thích, Emma ạ. Để giải tội lỗi của tôi với em. Biết rằng tôi gây ra cho em đau khổ, điều này luôn luôn ám ảnh tôi. Tôi đã gặp Frank trong những chuyến đi trước tới London, anh ấy kể cho tôi nghe cuộc đời em. Nhưng tôi nghĩ, trong những hoàn cảnh đó mà đến với em là không thích hợp, mặc dù tôi mong nhớ. Tuần trước, khi mới đến đây, tôi đã ăn trưa với Frank. Hầu như ngay lập tức, anh ấy nói cuộc hôn nhân của em bất như ý. Khi tôi nghe nói em bất hạnh với Arthur và ở một mình hầu hết ở London, tôi quyết định là nếu tôi gặp em, tôi cũng sẽ không làm đảo lộn gì nhiều. Tôi nài Frank thu xếp cuộc gặp này. Tôi cần có được một cơ hội để thanh minh , - anh nói để kết thúc, trong lòng cầu mong tha thiết nếu như anh có được.
Paul ngã người qua bàn. Nét mặt nàng căng thẳng.
- Tôi biết em rất sửng sốt khi thấy tôi, và có lẽ tôi đột nhiên bật tới trước mặt em, không hề báo trước, điều ấy là không đúng. Nhưng thành thật mà nói, quả là tôi cũng không biết làm thế nào khác. Tôi mong em đừng giận tôi, hoặc giận Frank.
- Không, em không giận. Em mừng là chúng ta lại gặp nhau, - Emma nhìn xuống bàn một cách đăm chiêu. Và khi nàng ngẩng đầu lên bắt gặp đôi mắt đăm đăm của Paul, nét mặt nàng nghiêm trang, đôi mắt ướt. - Em cũng bị mất dũng khí và bối rối như anh, khi em không nghe thấy tin tức gì của anh cả, Paul. Và bị tổn thương ghê gớm, thực tế là tan nát cõi lòng, - nàng nghe mình thú nhận. - Nó giúp để biết sự thật, mặc dù là rất lâu về sau. - Emma mỉm cười méo mó. - Em cho rằng cả hai chúng ta đều là nạn nhân của hòan cảnh... và của tính sở hữu của Marion. Cuộc đời của chúng ta đã khác như thế nào rồi, nếu như cô ấy không can thiệp. - Nàng lắc đầu. - Vì sao một số người lại cứ thích can thiệp vào đời người khác ? - nàng hỏi, mặt chìm trong đau khổ.
Paul thở dài:
- Tôi cũng không biết nữa. Trong trường hợp của cô ấy, tôi nghĩ đây là một đầu óc bệnh hoạn. Em biết câu ngạn ngữ "Địa ngục cũng không hung dữ bằng một người đàn bà tức giận". Nhưng tôi sẽ không bao giờ hiểu nổi cô ấy hy vọng đạt được cái gì . Tôi không biểu lộ một chút quan tâm nào đối với cô ấy với tư cách là một người đàn bà.
- Con người có thể luôn luôn hy vọng, - Emma lẩm bẩm. - Và ảo tưởng.
- Thế đó, - Paul thừa nhận. Anh ngắm nhìn Emma chăm chú một vài giây rồi lặng lẽ. - Em vẫn còn ghét tôi phải không, Emma ?
Một vẻ ngạc nhiên lướt qua mặt nàng.
- Em không bao giờ ghét anh, Paul! - Nàng khẽ mỉm cười. - Ồ, ít nhất thì cũng chỉ là thoáng qua thôi, khi những xúc cảm của em tràn ngập. Anh không thể trách em điều đó.
- Tôi không trách em chút nào, - Paul cựa mình trên ghế và châm một điếu thuốc để giấu sự xúc động của mình. - Tôi tự hỏi... không biết chúng ta có thể là bạn của nhau được không, Emma ? Bây giờ không khí đã làm quang giữa em và tôi. Hay yêu cầu như thế là quá nhiều ? - Anh nín thở.
Emma nhìn xuống. Đột nhiên cảm thấy thận trọng. Nàng có dám phơi bày ra với anh nữa không, dù chỉ là tình bạn. Nàng đã có ý thức về người đàn ông trong anh ngay từ phút anh tới. Đối với nàng, anh vẫn nguy hiểm như ngày xưa. Mặc dù đã thận trọng, cuối cùng nàng nói chầm chậm:
- Vâng, Paul, nếu anh muốn như thế.
- Có, - Paul trả lời dứt khóat. Anh lại nhìn nàng cái nhìn đánh giá, đôi mắt anh thán phục. Nàng chững chạc và vẫn đẹp như bao giờ. Thời gian không ghi lại dấu vết gì trên khuôn mặt tuyệt vời của nàng, mặc dù anh nhận ra một chút buồn trong đôi mắt khi nàng yên lặng. Anh đã phải kìm nỗi uớc ao ôm nàng trong đôi tay và hôn nàng. Anh thậm chí không dám chạm bàn tay nàng. Anh phải thận trọng nếu anh muốn chiếm lại nàng và hoàn toàn làm chủ được nàng. Anh thấy nàng liếc nhìn đồng hồ và tim anh thắt lại. Anh nói theo bản năng - Ăn bữa tối với tôi đi, Emma.
- Ồ, Paul, không thể được, - nàng nói, bối rối.
- Tại sao không ? Em đã có một hẹn khác ?
- Không, nhưng em...
- Tôi xin em, Emma. Vì tình nghĩa ngày xưa. - Anh mỉm cười hấp dẫn, đôi mắt xanh của anh long lanh. - Tôi không sợ. Còn em ?
- Tại sao em phải sợ ? - Emma phản ứng lại và chăm chăm nhìn anh. Tim nàng như ngừng lại. Thật là khó cưỡng lại anh.
- Em không có một lý do nào, tôi có thể đoan với em như vậy, - Paul cười. Lần đầu tiên anh cảm thấy thoải mái khi sự căng thẳng mất đi, anh lại trở về tài ăn nói của mình. - Vậy thế là được rồi. Em muốn đi đâu nào ?
- Em không biết, - Emma nói. Nàng bỗng thấy người yếu hẳn đi và bị khuất phục, không còn khả năng để từ chối lời mời một lần nữa.
- Chúng ta tới nhà hàng Ruler ở bên kia đường Coven Garden. Em có biết hiệu ấy không ?
Nàng lắc đầu:
- Em có nghe nói nhưng chưa bao giờ ăn ở đó cả.
- Đó là một nơi cổ rất đẹp. Tôi biết thế nào em cũng thích nó, - anh nói và ra hiệu cho người hầu tính tiền.
Họ ăn được nửa chừng thì Paul hỏi, hơi đột ngột:
- Tại sao hôn nhân của em lại bất như ý, Emma ?
Emma giật mình vì câu hỏi không ngờ, một hồi lâu sau nàng không trả lời. Bởi vì em vẫn còn yêu anh, nàng muốn nói như vậy. Nhưng nàng chỉ lẩm bẩm:
- Bởi vì Arthur và em xung khắc nhau.
- Tôi hiểu. Anh ấy như thế nào ? - Paul hỏi, lòng đầy tò mò và không phải không có chút ghen tuông.
Emma nói một cách cẩn thận:
- Anh ấy đẹp trai, quyến rũ và xuất thân từ một gia đình tốt. Nhưng anh ấy cũng hơi yếu. Và khá là đỏm dáng, - nàng quay nhìn Paul và nói một cách lặng lẽ. - Anh ấy không phải là loại người giống với anh.
"Cũng không phải là loại người giống với em, em yêu", Paul nghĩ vậy nhưng anh lại nói:
- Em có ý định ly dị không ?
- Lúc này thì không. Còn anh ? - nàng hỏi lại và nín thở, tiếc là đã hỏi câu đó.
Nét mặt Paul thay đổi, sắt lại thành những đường hằn khắc khổ.
- Vâng, tôi yêu cầu điều đó, tôi nghĩ vậy, - anh trả lời lặng lẽ. - Tôi cần ly dị, Emma. Từ nhiều năm nay rồi. Tuy nhiên tôi có một số khó khăn nghiêm trọng vớn Constant. - Anh ngừng lại, ngẫm nghĩ một lát rồi nói tiếp. - Vợ tôi là một người nghiện rượu. Cô ấy nghiện nặng trước chiến tranh. Đó là một trong những lý do cuộc hôn nhân tan vỡ. Đến khi tôi trở lại Sydney thì cô ấy hỏng hẳn. Tôi lập tức đưa cô ấy vào nhà an dưỡng. Cô ấy bỏ đi sau khi tôi chôn cất xong cho ba tôi. Tôi phải mất năm tuần mới tìm được cô ấy trong một tình trạng thật là khủng khiếp. Thân xác hao mòn và tinh thần bạc nhược. Vì thế mà tôi không thể tới Anh trong khi tôi rất muốn. Tôi phải để cô ấy ổn định đã. Em hãy tin cho, tôi tức phát điên lên. Tôi không muốn nói ra điều nhẫn tâm, quả thực tôi đã cố gắng giúp đỡ Constant trong nhiều năm mà chẳng ích gì. Cô ấy không tự giúp đỡ mình. Tôi đã mất kiên nhẫn từ lâu.
- Vâng, em hiểu ý anh, - Emma nói một cách buồn rầu. - Em xin chia buồn. Thành thực chia buồn. Đây là một tình huống khủng khiếp cho bất cứ ai gặp phải. Chị ấy còn ở trong nhà an dưỡng không ?
- Còn. Họ đã làm cô ấy khô cạn. Cô ấy quá yếu về mọi mặt, không còn khả năng chăm sóc lấy mình hoặc hành động một cách bình thường. Cô ấy sẽ phải vĩnh viễn ở viện, tôi hình dung như vậy. Constant là tín đồ Công giáo, Emma ạ, vì vậy đó lại là một cản trở khác cho việc ly hôn. Dù thế, tôi cũng hết hy vọng một ngày nào đó sẽ được tự do, - Paul nhấp ngụm rượu. Một lát sau, anh nói tiếp. - Còn một điều nữa tôi cần phải nói với em, Emma. Đó là về con trai tôi, - anh ngập ngừng. - Howard nó, phải, nó trì độn, tôi sợ như vậy. Điều đó trước đây tôi đã đề cập đến khi tôi nói có vấn đề.
Emma choáng váng. Cái đau trên mặt anh còn tươi nguyên.
- Ôi, Paul! Paul! Sao mà bi thảm. Một gánh nặng quá lớn để anh phải gánh chịu một mình. - Thương cảm ngập tràn mặt nàng và đôi mắt nàng dịu lại. - Tại sao những năm trước anh không hề nói với em ? Chắc chắn anh biết em sẽ thương cảm và nói về con trai anh để có thể giúp anh nguôi ngoai.
Paul lắc đầu.
- Có lẽ đáng lý tôi nên kể cho em nghe, Emma. Tôi nghĩ tôi hơi xấu hổ, nói thật. Nhất là sau khi tôi gặp các con của em. Hơn nữa, lúc nào tôi cũng thấy khó khi nói về Howard. Tất nhiên, tôi yêu nó. Tuy nhiên, những xúc cảm của tôi lẫn lộn. Tim tôi đau đớn cho nó. Tôi cũng mang một tội lỗi lớn lao và đôi khi tôi..., - Paul chau mày. - Tôi ngần ngại thừa nhận điều này và tôi không bao giờ phải thừa nhận với một linh hồn nào khác, nhưng thỉnh thoảng có lúc tôi hầu như ghét nó. Tôi biết tôi không nên như vậy. Thế mà tôi lại không sao kìm được. Tôi hy vọng em không khinh bỉ tôi vì điều đó.
Tim Emma rung cảm thương anh.
- Em không khinh bỉ anh, Paul. Em biết cha mẹ của những đứa trẻ trì độn thường có những tình cảm như vậy. Nó sinh ra từ sự nản lòng và thất vọng. Thực tế, tình cảm của anh không có gì là bất thường. - Theo bản năng, nàng đưa tay chạm vào cánh tay anh. - Anh hẳn phải cảm thấy bơ vơ. Howard bao nhiêu tuổi ?
- Nó mười hai, Emma ạ. Và đúng thế, hầu như lúc nào tôi cũng cảm thấy hoàn toàn tuyệt vọng, - anh lắc đầu. - Tạo hóa thật trớ trêu, Emma ạ. Nó là một đứa trẻ rất dễ thương. Nó có một khuôn mặt dịu dàng, thần tiên và đôi mắt hết sức dịu dàng. Và cái đầu của một đứa trẻ lên năm. - Paul đưa tay lên vuốt mặt một cách mệt mỏi. - Và nó sẽ chẳng bao giờ khác thế được.
Emma yên lặng, đầy đau buồn. Nàng không biết an ủi anh thế nào. Cuối cùng nàng hỏi:
- Cháu nó sống ở đâu ?
- Ở trại cừu của Coonamble. Nó có một người trông nom chăm sóc hết sức tận tụy với nó. Ở đó có rất đông gia nhân. Khi tôi ở Danoon, tôi dành nhiều thời giờ với nó, mặc dù tôi hoàn toàn chắc chắn rằng nó không thực sự biết tôi ở bên. Nó sống trong một thế giới hết sức đặc biệt của nó, - Paul châm một điếu thuốc. - Tôi xin lỗi, Emma. Tôi không có ý định chồng chất tất cả mọi vấn đề rắc rối của tôi lên em tối nay. Tôi không bao giờ bàn bạc với một ai. - Anh nhăn mặt. - Tuy nhiên, tôi phải thừa nhận là tôi cảm thấy đời riêng của tôi thất bại trong mấy năm vừa rồi. Nó thật là vô vị và khkông chút gì đền đáp. Cám ơn em đã nghe, đã thông cảm như vậy.
- Em cũng đã từng bị quá nhiều chìm nổi để có thể hiểu được sự thật của cuộc sống, Paul, - Emma nói. - Cuộc đời em không dễ dàng. Dù anh nghĩ thế nào đi nữa.
Anh nhìn nàng chăm chú, đôi mắt nhỏ lại:
- Anh cũng chắc vậy, Emma.
- Nhưng đời là gian khổ, Paul. Điều quan trọng là người ta giải quyết và vượt qua những khó khăn ấy như thế nào, - nàng mỉm cười bất khuất. - Chúng ta hãy đương đầu với nó, Paul, cả hai chúng ta chưa ai bị kiệt quệ. Nhất là khi nhìn quanh chúng ta và thấy những vấn đề khó khăn của người khác. Cả hai chúng ta đều thành công, giàu có, khỏe mạnh. Chúng ta cũng còn may mắn là chúng ta có công việc của mình.
Paul nhìn nàng.
- Đúng, mấy năm vừa rồi anh đã vùi đầu vào công việc và anh chắc em cũng thế. Và em nói đúng, Emma. Cuộc đời của chúng ta cũng không đến nỗi tồi lắm. Chúng ta phải biết ơn tất cả những cái tốt đẹp mà chúng ta có, - anh mỉm cười âu yếm. - Cám ơn em một lần nữa. Anh sung sướng đã kể cho em về Constant và Howard. Anh cảmt hấy hết sức nhẹ nhõm.
- Em cũng sung sướng.
Paul nâng cốc.
- Xin chúc mừng em, Emma. Em là một phụ nữ khôn ngoan và hiểu biết. Anh sung sướng chúng ta lại là bạn, có phải không em ?
Emma chạm cốc với anh.
- Vâng, em cũng nghĩ như thế.
- Thôi, những nỗi khổ the6' là đủ rồi. Chúng ta hãy nói một cái gì vui hơn đi.
Emma mỉm cười với anh:
- Kể cho em nghe về mỏ dầu của anh ở Texas và Công ty dầu lửa Sydney - Texas đi. Em rất tò mò khi nghe anh nhắc tới công việc làm ăn mới của anh.
Sau bữa ăn, Paul đưa Emma về ngôi nhà nhỏ của nàng ở Winston Mill, ở quảng trường Bengraver. Anh đỡ nàng xuống xe, bảo người lái đợi và đưa nàng vào trong. Anh hôn ướm lên má nàng.
- Cám ơn em vì một buổi tối tuyệt vời, Emma. Anh có thể gọi điện cho em được không ?
- Vâng, cám ơn anh. Chúc ngủ ngon.
- Chúc em ngủ ngon, Emma.
Sau đó, khi đã nằm trên giường, Emma thức rất lâu nhớ lại buổi tối. Sự tái xuất hiện gây xúc động mạnh của Paul McGill trong đời nàng là điều nàng không hề tính đến. Cuộc đời đầy những ngạc nhiên choáng váng. Nàng thóang nghĩ đến Marion Ridge. Nếu Paul không phải là một người như chính anh, thì có lẽ cái người đàn bà đó đã chẳng bao giờ yêu anh... đã chẳng bao giờ đánh cắp những lá thư. Nếu Paul viết cho Frank, nếu như nàng không lao vào cuộc hôn nhân với Arthur. Nếu... nếu... nếu. Nàng thở dài trong lòng. Nghĩ tới những cái giá như chỉ mất thì giờ vô ích. Và rõ ràng tính cách của họ đã làm nên số phận. Lòng nặng trĩu u buồn khi những ý nghĩ vơ vẩn của nàng dừng lại trên hoàn cảnh bi thảm của đời Paul. Cái con người khỏe mạnh, cường tráng và giỏi giang ấy hẳn phải bị xây xát dưới những gánh nặng anh phải mang. Đời anh cũng khó khăn và cằn cỗi như chính đời nàng. Lúc ấy nàng mới ngạc nhiên nhận ra là nàng đã thích thú buổi tối đó, sau khi đã hết sốc và giận. Nàng tự hỏi không hiểu anh chỉ muốn xem nàng có bình yên không hay còn vì những lý do khác nữa. Anh có còn yêu nàng ? Nàng không biết câu trả lời là thế nào. Nàng run lên. Có một điều nàng biết nàng kinh sợ sự quyến rũ không cưỡng nổi của anh và nguy cơ bị nhận chìm trong đó một lần nữa. Nàng cố gắng đẩy anh ra khỏi tâm trí, nhưng cuối cùng khi nàng ngủ thiếp đi, nàng vẫn còn nghĩ tới Paul McGill.
- “Trông anh như sắp sửa đi giết người vậy”, Winston nói lặng lẽ và dừng lại bên cạnh Paul McGill. Anh dõi theo cái nhìn của Paul đang nhìn Arthur Ainsley đầy căm ghét. “Anh ta là một thằng thộn”, Winston nói tiếp: “Đừng chú ý đến hắn. Frank và tôi không chú ý đến hắn đâu”.
Paul quay ngoắt sang Winston, vẻ mặt anh lẫn lộn vừa tức giận vừa ghê tởm. “Nó làm máu tôi sôi lên! Cái thằng điên lố bịch đã làm Emma bối rối suốt cả bữa trưa và bây giờ nó lại còn phơi bày cái hành vi khả ố của nó ra nữa. Thằng khốn nạn. Ngoài cái việc không ngớt uống rượu, bàn tay nó còn không ngớt sờ soạng các bà các cô có mặt tại đây. Emma chắc phải mất thể diện lắm”.
Winston mỉm cười gượng gạo, sự hằn thù của anh đối với Arthur không thể che giấu nổi. “Tôi biết. Anh không cần phải nói với tôi. Nó là một thằng chó đẻ trăm phần trăm. Hơn nữa, tôi hoàn toàn chắc nó cố ý làm như thế. Còn đối với Emma, cô ấy làm ra vẻ không để ý thấy. Tất nhiên đó chỉ là một sự chống đỡ. Anh biết em gái tôi. Cô ấy không bỏ qua một mẹo nhỏ nào đâu”. Winston lắc đầu. “Tôi sẽ rất sung sướng tuần sau Frank và Natalie làm đám cưới, và những bữa ăn trưa, ăn tối bất tận này chấm dứt đi. Lúc đó chúng tôi không còn phải chịu đựng sự có mặt liên tục của Ainsley nữa. Hắn ta có một nhân cách ghê tởm, phải thế không?”. Paul hỏi ướm. Winston yên lặng, Paul nói tiếp: “Tôi biết nhiều người Anh do một nền giáo dục và nuôi dạy đặc biệt có những cử chỉ điệu bộ có vẻ đàn bà, điều ấy cũng không có nghĩa là họ thiếu chất đàn ông, nhưng tôi thề trước Chúa, hắn ta là một gã đồng tính luyến ái. Anh có đồng ý thế không, Winston?”.
- “Gần đây, có nảy ra trong đầu tôi, mà không phải chỉ là một lần. Tôi đã để ý thấy một sự thay đổi ở Arthur mấy tháng nay. Một vài khuynh hướng dường như đang phát sinh. Lấy Emma và làm cha hai đứa bé sinh đôi không có nghĩa là loại trừ được sự sai lạc về tình dục mặc dù tôi không có bằng cứng gì để chứng minh điều đó. Mà hắn cứ liên tục chạy theo phụ nữ”.
Paual cau mặt. “Có lẽ nó thích cả hai giới. Điều này không phải chưa hề nghe thấy – Đồng tính lưỡng giới mà”. “Tôi cầu nguyện Chúa Trời giá như em gái tôi không bao giờ lấy hắng. Chúng tôi tất cả đã cố gắng ngăn chận cô ấy, nhưng cô ấy rất ương ngạnh, tất nhiên cô ấy làm ngược lại”.
- “Tôi biết quá rõ điều ấy”, Paul lẩm bẩm, mắt nhìn xuống ly rượu trong tay. “Anh chẳng cần nhắc tới điều ấy nữa”.
Winston kéo Paul vào một góc kín đáo của phòng khách Lionel Stewart, nơi các vị khách đã tụ tập sau bữa ăn trước lễ cưới.
Winston xưa nay vẫn thích Paul, nay anh đã khám phá ra rằng lòng kính phục và thiện cảm của anh đối với người Úc này đã tăng lên rất nhiều sau mười ngày ở gần nhau và đã cuốn hút lại với nhau. Lúc này anh nói một giọng tâm tình: “Frank nói với tôi, anh đã gặp gỡ Emma rất nhiều tháng qua. Tôi mừng vì điều ấy”. Thấy vẻ ngạc nhiên lướt trên nét mặt đẹp trai của Paul, Winston cười: “Tôi biết anh coi tôi như một người anh che chở, vì thế tôi muốn anh biết là tôi tán thành mặc dù những phức tạp trong cuộc đời rất là phức tạp cho hai người. Emma cần một người đàn ông như anh. Anh là người đàn ông duy nhất tôi biết là rất mạnh để hợp với cô em tôi. Cô ấy rất cương cường. Hầu hết đàn ông đều không thể đương đầu với một người phụ nữ độc lập và xuất sắc- mặc dù là một con người rất hấp dẫn!”.
Paul mỉm cười, hơi giật mình một chút nhưng sung sướng vì sự tán đồng này. “Cám ơn Winston. Tôi sung sướng được nghe điều đó. Và tôi đồng ý với anh?”. Đôi mắt anh cười nheo lại. “Anh hãy cho tôi một ân huệ và nói điều đó với người phụ nữ ấy. Tôi cần mọi sự giúp đỡ có thể có được”.
- “Tôi đã nói với cô ấy rồi, cả Frank nữa. Nhưng anh biết Emma rồi đó. Cô ấy phải tự mình quyết định lấy”. Winston nhìn Paul soi mói. “Có lẽ cô ấy nghĩ anh sẽ trở về Úc bất cứ lúc nào. Anh chẳng có công việc kinh doanh lớn lao ở đó sao?”.
- “Đúng. Tuy nhiên tôi đã nói với nàng tôi có ý định ở lại đây một thời gian dài. Hình như nó không bị một vết mẻ nào hết. Thực tế tôi đã tổ chức lại công việc đâu vào đấy trong mấy năm vừa qua, từ nay tôi chỉ thỉnh thoảng mới cần đi Úc một chuyến… có lẽ một năm một lần, nhiều nhất là hai lần. Emma cũng thấy là tôi đã mở rộng những văn phòng của tôi ở London năm ngoái và tôi sẽ điều hành từ đây trong tương lai”. Anh lắc đầu, “tôi sẽ không nói thêm nữa bởi vì nàng luôn luôn có vẻ hoài nghi. Tôi cũng không thể trách được nàng”.
- “Có lẽ anh quá tinh tế”, Winston nhận định: “Anh biết phụ nữ như thế nào. Đôi khi mình phải đánh vần mọi thứ cho họ”.
- “Emma không giống hầu hết các phụ nữ khác”.
- “Đó là một lối nói thôi”. Winston cười to. “Hãy tạo cho cô ấy một dịp để làm quen với ý nghĩlà anh sẽ ở đây thường xuyên. Cuối cùng rồi cô ấy sẽ chấp nhận điều ấy”.
Paul gật đầu rồi liếc nhìn quan căn phòng khác thênh thang, trang hoàng thanh nhã tìm Emma. Anh thấy nàng đang nói chuyện với Frank và Natalie cùng với bố mẹ cô dâu. Đó là một ngày tháng bảy nóng như rang mọi người đều ngột ngạt vì cái nóng. Các vị khách trông có vẻ không được thoải mái và hơi héo mòn – chỉ trừ Emma. Nàng mặc một chiếc áo lụa mùa hè kiểu đơn giản, mới mẻ và tươi tắn. Nó tạo cho nàng một dáng vẻ con gái vô tư lự cũng như mái tóc hung đỏ bồng bềnh của nàng. Trông nàng hết sức là phụ nữ và làm mờ nhạt tất cả những người đàn bà khác. Không phải chỉ nhan sắc của nàng làm nàng khác biệt mà cả ánh hào quang trong suốt phát ra, từ con người nàng. Phải là một phụ nữ như thế nào mới cư xử được một cách lịch lãm đàng hoàng trước những trò hề của Ainsley, anh thừa nhận. Rồi anh thấy, trước sự ngạc nhiên của mình, Emma bỏ đi. Anh vội vã đưa ly rượu của mình cho Winston. “Anh cầm lấy cái này. Tôi sẽ trở lại ngay. Xin lỗi”.
Paul bắt kịp Emma ở phòng lớn: “Em đi đâu mà vội vàng thế?”, anh hỏi, nắm lấy cánh tay nàng, quay nàng lại phía anh. “Chạy đi sao? Anh cứ nghĩ anh là người duy nhất làm điều ấy”. Anh cười.
Emma không thể nhịn được cười. “Nếu em muốn em cũng rất nhanh chân, thưa ông McGill”, nàng nói. “Em cảm thấy lặng lẽ rút là đơn giản hơn. Em không muốn làm tan buổi tiệc và thật là không may, em phải quay về cửa hàng”. Chạy như ma đuổi, Paul bình luận với mình một cách khô khan, anh đoán nàng muốn chạy trốn người chồng lố lăng của mình. “Anh sẽ lái xe cho em”, Paul nói nhanh, tay đưa nàng ra cửa. Lúc đầu Emma nói chuyện rời rạc khi Paul lách chiếc Roll Royce qua dãy xe cộ đông nghịt ở Mayfair. Nhưng một lát sau, nàng yên lặng, nghĩ lại bữa tiệc. Nàng sôi sục. Những cái trò khả ố của Arthur làm nàng ghê tởm. Anh ta không chỉ hạ thấp con người mình mà còn hạ thấp nàng nữa. Vốn dửng dưng với chồng, nàng cảm thấy lúng túng thật sự trong bữa ăn và sau đó. Nàng đã cư xử khéo léo, giấu sự tức giận của mình sau cái vẻ trang trọng nhưng thái độ của Arthur thật không thể chịu nổi. Nàng không còn có thể nhắm mắt làm ngơ. Sau đám cưới của Frank nàng sẽ không chường mặt ra nữa. Một phần, sự bối rối của nàng nảy sinh vì Paul đã chứng kiến tất cả. Thế nhưng thật là lạ, sự hiện diện của anh cũng an ủi được nhiều.
Emma liếc nhìn Paul, tự hỏi anh đang nghĩ gì. Nét mặt anh không biểu lộ gì hết. Trong những chuyến đi đến London gần đây của mình, nàng đã ăn thường xuyên với Paul. Anh đã đưa nàng đi xem hát, nhạc kịch và các buổi tiệc tùng. Anh đã tỏ ra duyên dáng, lịch thiệp và vô tư. Nàng cứ ngờ ngợ là anh sẽ làm những khúc mở màn sau mấy buổi tối đầu tiên bên nhau, nhưng anh không, và nàng thấy nhẹ nhõm trong người. Thành thực mà nói, nàng muốn gặp anh, ở bên anh, và nàng không phủ nhận là anh có một sức hấp dẫn đối với nàng. Mặt khác, cái tính tự bảo vệ mình cố kìm của nàng vẫn làm nàng đề phòng anh. Cuộc hôn nhân của nàng chẳng phải là một cuộc hôn nhân gì hết. Thế nhưng cuộc đời nàng là cuộc đời ngăn nắp. Nàng không thể cho phép bất cứ một cái gì làm phương hại đến tâm hồn thanh thản của nàng mà Paul thì có thể dễ dàng làm điều đó bởi vì anh có khả năng gây tổn thương cho nàng. Nàng quyết tâm không bao giờ bị đau khổ vì tình nữa. Một cảm giác buồn nản chưa từng có ập tới. Nàng nhìn đồng hộ. “Paul, có lẽ anh nên đưa em về nhà”, nàng nói. “Đến cửa hàng bây giờ hơi muộn. Gần năm giờ rôồ”.
- “Tất nhiên”, Paul nói, “bất cứ cái gì em muốn, Emma”. Anh để ý thấy nét mặt nàng suy tư và một tình cảm dịu dàng bỗng tràn ngập lòng anh. Khi anh dừng xe trước hàng đèn giao thông, anh suy nghĩ về nàng, cố gắng đo tình cảm của nàng đối với anh. Mỗi lần hai người gặp nhau nàng đều dịu dàng, vui vẻ, nhưng rất đúng mực, và mấy hôm trước đây, anh đã thú nhận là nàng trơ trơ trước sức quyến rũ của anh. Anh biết nàng cảm thấy không an toàn và anh hành động thận trọng, cố gắng xua tan cảm giác đó, nhưng không thành công. Anh tự hỏi không hiểu chiến lược của anh có phải là lầm lạc không. Khi anh lái xe về phía quảng trường Belgrave anh đã làm một quyết định đột ngột, anh lái vòng quanh quảng trường, qua Wilton Mews, và quay trở lại Mayfair.
- “Anh đi đâu đấy”, Emma hỏi giọng bối rối. “Em nghĩ anh đưa em về nhà”.
- “Thì đúng là nơi anh đang đưa em về … nhà, với anh”. Emma há miệng. “Nhưng…”.
- “Không nhưng gì cả, Emma”, anh nói một cách mạnh mẽ và dứt khoát, không cho tranh luận.
Emma ngồi cứng người trên ghế, tay nắm chặt túi xách. Một lời phản kháng dâng lên đôi môi, nhưng không nói ra được khi miệng nàng khô lại. Ngạc nhiên vì sự táo tợn của anh, nàng thấy mình ở trong một tình trạng bối rối khó xử. Nàng chưa bao giờ đến nhà anh và sợ đến hóa đá phải ở một mình với anh. Một nụ cười tự bảo vệ thoáng trên mặt nàng. Nàng, một con người không sợ gì hết, không sợ ai, thực sự đã sợ Paul McGill! Ấy thế mà anh chỉ là một con người. Xét cho cùng, nàng là một phụ nữ đã trưởng thành và hoàn toàn có đủ khả năng để tự chăm lo lấy mình. Mà dù sao đi nữa thì cuộc đời này, phải chăng là đầy những rủi ro nguy hiểm?
Mặt anh sắt lại quyết tâm. Sự căng thẳng trên đôi vai rộng của anh truyền sang cho nàng, nàng bất giác rùng mình. Đôi mắt nàng chăm chú vào đôi bàn tay khỏe mạnh của anh đang nắm lấy tay lái một cách hung dữ đến nỗi những đốt ngón tay nổi hằn lên, và trước sự ngạc nhiên của mình, tim nàng bắt đầu đập gấp.
Paul dừng xe lại quảng trường Berkeley. Yên lặng anh đỡ nàng ra khỏi xe và nắm lấy cánh tay nàng một cách kiên quyết, đưa nàng qua hành lang vào thang máy. Móng tay anh bấm vào da thịt nàng, nhưng nàng hoan nghênh sự giúp đỡ này. Nàng nghĩ đôi chân nàng muốn khuỵu đến nơi.
Anh không buông tay nàng ngay cả khi họ đã vào nhà anh. Anh đập cửa một cách hung bạo, quay nàng lại đối diện với anh. Anh đẩy tay kia nâng tấm mạng choàng mặt, tìm mặt nàng, rồi kéo mạnh nàng về phía anh. Đôi môi anh miết chặt lấy môi nàng, mạnh và tha thiết. Nàng cố đẩy anh ra, nhưng anh quá khỏe đối với nàng. Anh xiết chặt vòng ôm, sự chấn động gợn lên dọc đôi cánh tay anh, nàng nghe thấy tim anh đập như trống làng trong lồng ngực to lồng lộng của anh. Miệng anh đột nhiên mềm lại trong miệng nàng. Emma ngừng dẫy dụa, một sự mệt mỏi rã rời bao trùm lấy nàng. Nàng thấy mình nhượng bộ anh, bám lấy anh và hôn lại anh. Chiếc túi xách rơi xuống sàn lúc nào không hay. Hai bàn tay anh vuốt từ lưng xuống hai mông nàng, anh ép người nàng vào người anh đến độ hai người là một. Anh chuyển thế đứng khe khẽ, nàng cảm thấy cái cứng của tình dục tăng lên trong anh qua làn lụa mỏng của chiếc áo nàng mặc, đôi chân nàng muốn khuỵu xuống, người nàng lại tràn ngập với một hơi ấm quen thuộc xưa cũ tỏa lan như lửa trong thân thể nàng. Anh đặt đầu nàng tựa vào đôi vai rộng của anh, một tay ôm lấy vú nàng, ngón tay anh chà sát lên đó, mân mê đầu vú nàng ngày một nhanh, một mạnh thêm. Nàng bị choáng ngợp đầy một thứ cảm giác từ lâu đã quên lãng. Nàng hoàn toàn bất lực trong cánh tay anh.
Những chiếc hôn nồng cháy của Paul dừng lại đột ngột, anh nhìn xuống mặt nàng. Nàng nhìn lại anh trong cơn choáng váng, thấy sự ham muốn man rợ nhảy ra khỏi đôi mắt màu xanh sáng của anh, nhận ra những áp lực thân xác và xúc cảm đang dồn đẩy anh đến chỗ không chịu nổi, những chấn động mới lướt qua người nàng. Môi nàng mở ra, một tiếng kêu nghẹt trong cổ họng. Mặt anh sát mặt nàng, ngấu nghiến miệng nàng một cách hung bạo và nàng cũng không muốn anh ngừng lại. Cầu cho anh đừng dừng lại. Ham muốn nhận chìm nàng, tất cả những tình cảm thật nổi lên, xóa đi mọi sự sợ hãi cả hữu lý và phi lý. Sự bảo vệ của nàng sụp đổ như một lâu đài cát trước ngọn thủy triều dâng và nàng sẵn lòng đầu hàng anh, lòng ham muốn nhục thể của nàng, làm nàng mê cuồng.
Anh để nàng cách xa anh một chút, nhưng hai tay vẫn không dời khỏi vai nàng. Miệng anh cong lên trong một nụ cười thách thức. Anh đưa người về phía trước, ép nàng vào cửa. “Nào bây giờ em hãy nói với anh là em không yêu anh đi!” Anh thì thào vào tai nàng, giọng khàn đi. Hơi thở của anh ấm nóng như thiêu ở cổ họng nàng. Trước khi nàng kịp trả lời, anh đã nói khẽ, giọng đặc lại vì ham muốn: “Em không chối được điều ấy, Emma, bởi vì anh biết em có!”. Anh nhìn sâu vào khuôn mặt bốc lửa của nàng, nhận thấy sự khát khao trong đôi mắt nàng phản chiếu cái khát khao của chính anh, cuối cùng anh buông nàng ra. Anh nhẹ nhàng cầm lấy tay nàng đưa nàng vào phòng ngủ.
Ánh mặt trời chiều muộn vào qua cửa sổ, Paul kéo rèm. Căn phòng đột nhiên mát và mờ tối. Như bị thôi miên, nàng đứng giữa phòng nhìn anh. Anh quay lại đi về phía nàng, dáng đi uyển chuyển như một con báo lớn, trông anh cao hơn, to hơn, lực lưỡng hơn bao giờ hết. Anh cởi mũ nàng và ném nó lên một chiếc ghế. Anh từ từ tháo găng tay của nàng. Anh cởi áo nàng luồn xuống vai. Nó tụt xuống sàn thành một vùng sóng vàng nhỏ dưới chân nàng. Anh hướng dẫn nàng bước ra khỏi áo, đặt nàng ngồi ở cuối giường, luôn mỉm cười khe khẽ với nàng, mắt không rời khỏi khuôn mặt nàng. Anh cởi bỏ áo vét, cà vạt và sơ mi của anh, nàng ngạt thở, ngạc nhiên vì thân hình tuyệt đẹp của anh.
Anh quì trước nàng. Anh tháo giày của nàng, hôn bàn chân nàng và vùi đầu trong lòng nàng. Nàng đưa bàn tay lồng vào mớ tóc đen dầy của anh và hôn lên đó. Nàng đưa những ngón tay ve vuốt đôi vai rộng và chiếc lưng cháy nắng của anh, và nàng cảm thấy những thớ thịt của anh rung lên dưới sự ve vuốt ấy.
- “Không một ngày nào anh không nghĩ tới em, Emma. Không một ngày anh không muốn em, mong mỏi em, cần em, em yêu. Trong suốt những năm tháng ấy”, anh kêu một giọng nghẹn ngào. Anh nắm lấy trái bắp đùi nàng, vùi mặt sâu hơn vào lòng nàng. Cuối cùng anh ngẩng đầu nhìn lên, đôi mắt sáng: “Anh chưa bao giờ ngừng yêu em, Emma”.
- “Em cũng chưa bao giờ ngừng yêu anh, Paul”, nàng nói nhẹ nhàng, đôi mắt nàng to hơn, đen hơn và đẫm nước mắt. Anh đứng lên, ép đôi vai nàng xuống giường. Anh nằm đè lên nàng ôm chặt và hôn lên mặt, cổ và vai nàng. Paul thấy hình như những mảnh vải quần áo còn lại của hai người tự rơi ra. Họ trần truồng và lại cuộn trong vòng tay nhau, anh mở mắt vì lòng ham muốn sôi sục của mình cơn bừng bừng như sốt của tình dục không kiềm chế nổi. Anh không thể nán đợi để chiếm lấy thân thể nàng, trở thành một tấm thân với nàng, nưng anh tự kiềm chế một cách phi thường, dẫn dắt nàng dần dần như anh luôn luôn làm ngày xưa, kích thích nàng đết tột cùng. Anh hôn lên khắp người nàng, sờ nắn tất cả những chỗ thầm kín nhất trong cơ thể nàng cho đến khi nàng há miệng ra vì sướng khoái và cơn kích thích của nàng chỉ làm anh thêm bốc lửa.
Nàng nghĩ: chỉ có anh ấy. Anh ấy là cái duy nhất quan trọng trong đời nàng. Anh ấy là người đàn ông duy nhất mà tôi thật sự yêu và thèm muốn. Nếu như anh ấy ra đi, và tôi không còn bao giờ được nhìn lại anh ấy nữa, chừng nào tôi còn sống thì giây phút này là đáng giá. Nó sẽ kéo dài vĩnh viễn đối với tôi.
Anh cảm thấy những ngón tay nàng bóp lấy vai anh. Nàng cứng người và co thắt lại rồi toàn thân rung lên từng đợt, nàng rên rỉ, gọi tên anh, anh hiểu một cách hết sức chắc chắn là chỉ có với anh nàng mới được hưởng cơn khoái lạc và sự toàn vẹn. Anh nâng đầu lên, kéo lê đôi môi mình trên chiếc bụng phẳng, mịn màng của nàng cho đến khi tới đôi vú. Miệng anh nán lại ở đó một lúc và đi tiếp tới chỗ trũng của cổ nàng. Nàng thở dài, run lên dưới tấm thân anh, đôi tay đan bện người anh, bàn tay nàng xoa miết xuống lưng anh. Anh nghĩ anh sẽ nổ tung ra mất. Anh cong người trên người nàng, đôi tay vòng hai bên nhìn xuống cặp mắt đầy lạc thú của nàng.
Những xúc động sâu sắc nhất lộ trên mặt nàng, cái khuôn mặt yêu thương nhất vẫn luôn ám ảnh anh, anh xúc động vì sự kỳ diệu của tất cả những điều ấy, sự kỳ diệu của nàng và tim anh đau quặn lại.
Và lúc ấy anh đã làm tình với nàng, chất đàn ông của anh hừng hực, nhào vào tận cội rễ của nàng, chạm tới con tim nàng và nàng đáp lại ngọt ngào và điên dại, không một chút giữ gìn. Nàng cần anh cũng hệt như anh cần nàng.
Những kỷ niệm trở thành sự thật. Nỗi đau trở thành niềm vui. Sự giận dỗi đã tiêu tan vì lòng cuồng si. Tất cả đã tan vào nhau trong ham muốn và hạnh phúc. Và cũng hoàn hảo như những cuộc làm tình của họ ngày xưa, lần này nó còn ngây ngất hơn bao giờ hết họ bị tàn phá vì cuộc gặp gỡ này.
Rất lâu sau đó, khi họ đã nằm ôm nhau, không thể chia rời, tơi tả và kiệt lực, Paul nói: “Anh sẽ không bao giờ rời em nữa, Emma. Không bao giờ, chừng nào anh còn sống. Anh biết em sợ anh làm em đau khổ. Nhưng không đâu. Em phải tin anh, em yêu”.
- “Em không sợ, Paul”, nàng nói trong ngực anh. “Và em tin anh. Bây giờ thì em biết anh sẽ mãi mãi ở bên em”.
Anh cảm thấy nụ cười của nàng. “Cái gì vậy?”. “Nhiều năm trước đây có người gọi em là Emma hoài nghi. Có lẽ em như thế thật. Anh có còn nhớ khi anh dùng danh ngôn của Abélard và bảo em phải có lòng tin trước khi anh lên đường ra mặt trận không?”.
- “Có, anh nhớ, em yêu”.
- “Ừ, nếu như em có lòng tin ấy, khi anh ở Úc vắng năm 1919 thì có lẽ tất cả những nỗi lo buồn và giày vò của chúng ta đã trải qua hẳn đã tránh được. Em sẽ không bao giờ còn ngờ vực anh nữa”.
Anh mỉm cười, kéo nàng sát anh hơn và hôn lên mái tóc của nàng: “Chúng ta có thể đền bù lại những năm tháng đã mất”, anh nói.
Emma bước vào ngôi nhà của nàng ở Roundhay, hơi run rẩy trong gió lạnh tháng mười hai. Nàng cởi chiếc áo khoác da lông chồn mà Paul đã mua cho nàng mùa đông trước khi họ ở New York cùng nhau, nàng quẳng nó trên một chiếc ghế. Nàng nhanh nhẹn bước qua phòng, lòng nghĩ tới Paul đầy dịu dàng âu yếm. Nàng phải gọi điện ngay để cho anh biết ngày mai nàng sẽ đến London.
Nàng đi vào thư viện và đứng sững người ở ngưỡng cửa, ngạc nhiên hiện trên nét mặt: “Trời ơi, Edwina! Con làm gì ở nhà thế này? Mẹ tưởng cuối tuần sau mới hết học kỳ mùa đông”.
- Không”, Edwina buông xõng, trân trân nhìn mẹ một cách lạnh lùng. Nét mặt con gái nàng tái xanh một cách không bình thường, nỗi buồn khốn khổ của cô bé lập tức lan lây sang nàng. Tới bên sofa nàng định cúi xuống hôn con, nhưng con bé vội nghiêng đầu tránh loạng choạng. Emma ngồi đối diện. Emma nhìn kỹ, cô bé hình như rõ ràng bị ốm. Hay là bộ đồng phục nhà trường màu xám đã lấy hết màu hồng khỏi khuôn mặt cô. Edwina trông gần như hốc hác trong ánh mặt trời chiều mùa đông.
- “Có chuyện gì thế, con?”. Emma hỏi với một nỗi quan tâm thực sự. “Con đang làm gì ở nhà? Có chuyện gì xảy ra làm con bồn chồn vậy?”.
- “Không, không có gì cả. Con về nhà vì con muốn gặp mẹ”. Edwina đáp: ‘Nói chuyện với mẹ về một điều”. Cô rút ở túi ra một phong bì và liệng nó về phía Emma.
- "Những cái mà họ dạy con ở nhà trường ký túc xá đắt tiền đó, chắc không phải là cách cư xử”, Emma nhận xét nhẹ nhàng và cúi xuống nhặt tờ giấy ở dưới chân.
Edwina kêu the thé. "Mẹ không cần phải bận lòng nhìn vào bên trong. Đó là giấy khai sinh của con. Mẹ đã không đưa cho con bản gốc vì thế con viết cho Somerset House để xin một bản, mẹ thừa biết có cái gì trong đó. Và bây giờ con biết là mẹ đã giấu con trong bao nhiêu năm tháng đó”.
Chiếc phong bì lật phật trong bàn tay run run của Emma, nàng nhìn nó một cách trống rỗng, mặt cắt không còn hột máu. Nàng nhìn Edwina, một cảm giác buồn nôn choáng lấy nàng, miệng nàng cứng lại, môi trắng bợt. Nàng không nói được lên lời.
Edwina nhìn Emma chằm chằm, vẻ trách móc trên mặt cô bé. “Tại sao trông mẹ lại choáng váng như vậy mẹ?” Cô bé khạc ra: “Con mới chính là người phải choáng váng chứ. Xét cho cùng, con là một đứa con tự sinh”. Cô phát âm từ đó một cách chói tai, sự khinh bỉ của cô rõ rệt khiến Emma dúm người.
Edwina lúc này nhổm người lên, đôi mắt xám bạc của cô ta bừng bừng căm ghét. “Tại sao mẹ lại có thể tiếp tục để con tin Joe Lowther là cha trong suốt những năm ấy, trong khi chính Blackie O’Neill?”, cô ta cười nhạo báng. “Blackie O’Neill! Bạn thân nhất của mẹ. Con cũng đoán ông ta như vậy. Lúc nào cũng lẽo đẽo như một con chó si tình như con có thể nhớ lại được, mà qua hai cuộc hôn nhân cơ chứ?”. Mắt con bé nheo lại: “Mẹ làm con ghê tởm, mẹ ạ, con nhớ thương Joe bao nhiêu năm trời sau khi ông ta bị giết, mà mẹ cứ để nguyên như thế. Sao mẹ tàn ác như thế!”.
Emma cố trấn tĩnh, nhưng giọng nàng run lên khi nàng nói. “Những điều mẹ nói với con, nó sẽ giúp đỡ được gì hay không, Edwina? Nó có làm con với nỗi buồn khổ chăng? Joe đã là cha của con, theo nghĩa tốt đẹp nhất của từ đó. Joe đã yêu con như vậy nếu không phải là hơn cả con đẻ của mình. Con cũng yêu ông ấy, và nếu như con biết sự thật, chắc con vẫn cứ còn thương yêu ông ấy như thường. Bất cứ một người đàn ông nào cũng có thể làm cha của một đứa trẻ, Edwina ạ. Chính điều mà một người đàn ông làm sau khi một đứa trẻ ra đời khiến người đó thành một người cha thực sự, một người cha tốt. Và mặc dù con không phải là máu thịt của Joe nhưng ông ấy đã đối xử với con y như thể con là con đẻ. Và đó là cái đáng kể”.
- “Mẹ chỉ tự bào chữa! Mẹ - mẹ - đồ dối trá!”.
Emma há miệng nhìn cô bé mười tám tuổi đang ngồi trước mặt mình và không biết làm thế nào, nói gì, để trấn an nó, để làm nó bớt đau khổ.
- “Và con phải gọi con là thế nào đây, cho phép con hỏi mẹ thân yêu? Con không có một cái tên, có phải thế không? Có phải là O’Neill không? Hay là Harte, có lẽ?”, Edwina hít hơi, cặp mắt nó băng giá: “Mẹ là con mẹ dối trá, đồi bại!”.
Emma co người lại như bị giáng một cái tát, nhưng nàng phớt lờ cái nhận định ấy và trấn tĩnh. “Tên con là Lowther, Edwina. Joe nhận con và cho con tên của ông”.
- “Cám ơn. Đó là tất cả những điều tôi cần biết”. Edwina đứng lên và giơ tay ra. “Con sẽ lấy lại giấy khai sinh vì con phải vất vả lắm mới kiếm được”. Cô ta giật lại từ tay Emma một cách thô bạo. “Con đi đây”.
Emma cũng đứng lên. Nàng nắm cánh tay Edwina nhưng cô gái giật ra một cách giận dữ. “Đừng chạm vào tôi”, cô ta thét lên và lao qua thư viện.
- “Edwina, xin con hãy ngồi xuống”, Emma nói một cách trầm tĩnh. “Con cũng đủ lớn khôn để bàn bạc chuyện đó với mẹ một cách bình tĩnh và thông minh. Một cách biết điều”. Giọng nàng có vẻ cầu khẩn. “Xin con. Mẹ biết con bị tổn thương và đau đớn ghê gớm, nhưng hãy để mẹ giải thích, hãy cho mẹ một cơ hội để nói…”. “Nhưng điều mẹ nói chẳng có gì làm con thú vị hết. Con đi đây”, Edwina cãi lại.
- “Con đi đâu?”, Emma hỏi một cách khích động và bước lên tay giơ về phía con gái một cách cầu khẩn: “Edwina, xin con đừng đi. Chúng ta hãy nói cho rõ chuyện. Mẹ muốn làm con hiểu rồi lúc đó có lẽ con sẽ tha thứ cho mẹ vì đã giấu giếm con sự thật. Mẹ có những lý do chính đáng. Mẹ muốn bảo vệ cho con, mẹ chỉ vì lợi ích của con thôi, con yêu quí. Mẹ yêu con”.
Edwina nhìn Emma, cái nhìn cay độc và giọng nói của cô bé chua chát. “Con đã nói với mẹ là con không quan tâm thích thú gì tới những lời giải thích của mẹ hết”. Cô ta ưỡn người một cách kiêu căng. “Con sẽ rời bỏ ngôi nhà này và sẽ không bao giờ đặt chân tới đây nữa”. “Nhưng con ơi, con không thể đi được! Con đi đâu?”.
Cổ họng Emma đau thắt vì những giọt nước mắt cố nén. “Con sẽ đến ở với Freda ở Ripon ngày Noel. Sau đó con định đến Thụy Sĩ để học xong phổ thông. Nơi con đã nói với mẹ cho con tới và mẹ đã từ chối. Nào bây giờ mẹ hãy làm những việc cần thiết”. Edwina mỉm cười một cách khinh bỉ: “Mẹ đủ giàu có để kéo tất cả các sợi dây đúng chỗ của nó để thu xếp cho con trong cái thời hạn muộn màng nầy. Con nghĩ là mẹ tiếp tục trả học phí cho con chứ mẹ. Và sẽ không ngừng tiền trợ cấp cho con”.
- “Tại sao con có thể nghĩ được một điều như vậy?”. Emma kêu lên: “Mẹ không bao giờ tước đi của con cái gì và sẽ không bao giờ làm như vậy. Con hãy ở lại. Đừng bỏ đi như thế, chúng ta hãy nói chuyện…”.
- “Con đã nói tất cả những điều con muốn nói với mẹ rồi”, Edwina phăm phăm về phía cửa. Bàn tay cô đặt trên nắm đấm. Cô ta quay lại, nhìn Emma, mặt méo đi: ‘”Tôi ghét mẹ! Tôi không bao giờ muốn gặp lại mẹ nữa chừng nào tôi còn sống!”.
Cánh cửa đóng sầm phía sau Edwina, Emma chằm chằm nhìn cánh cửa, mặt nàng dúm dó, và lảo đảo ngã vào chiếc ghế gần nhất. Nàng gục đầu trong đôi tay, nước mắt lặng lẽ rơi trên đôi má. Nàng đã lo sợ giờ phút này từ bao nhiêu năm nay, đã cố tránh sự đối đầu bất hạnh này. Và giờ đây khi cuối cùng nó đã xảy ra, nàng cảm thấy không có khả năng đương đầu với Edwina, một con người ương ngạnh không sao uốn nổi. Nàng vẫn luôn luôn biết rằng con gái nàng sẽ phản ứng lại một cách mãnh liệt cũng như nàng vẫn luôn luôn biết rằng nàng sẽ mất lòng thương yêu của Edwina, dù lòng thương yêu ấy có đạm bạc, mỏng manh đến mấy một khi sự thật đã được bộc lộ. Edwina chưa bao giờ có một tình cảm sâu đậm gì đối với nàng. Edwina chỉ yêu có Joe và Freda. Tất cả tấm lòng tận tụy và tình cảm dịu dàng mà nàng đã giành cho đứa con đầu lòng đã rơi bên thềm đá. Edwina đã gạt bỏ nàng ngay từ khi nó còn là một đứa bé. Đột nhiên nàng tự hỏi không biết nàng có nên nói với Edwina cha thật của nó là ai không. Nhưng điều đó cũng không làm giảm được nỗi đau và sự nhục nhã của Edwina mà cô đã trải qua. Cô vẫn cứ là đứa con tự sinh. Thôi tốt hơn hết có lẽ cứ để cho sự việc ngủ yên một thời gian đã. Một mớ những ký ức đau buồn và những hình ảnh rõ mồn một rỡn múa quanh đầu nàng.
Nàng nghĩ tới những cuộc vật lộn của mình, những hy sinh nàng đã làm, những nỗi sợ hãi và nhục nhã nàng đã trải qua. Và nàng cũng nghĩ tới tất cả những điều nàng đã làm để che chở cho Edwina. Phải chăng tất cả những điều ấy chẳng đi đến đâu? Chắc hẳn là không rồi. Vả lại, nàng cũng chẳng còn biết làm thế nào khác được và nàng đã làm những điều tốt nhất.
Emma gạt những giọt nước mắt khỏi mặt, và tính lạc quan cố hữu của nàng trở lại. “Có lẽ một vài tuần nữa, khi Edwina bình tĩnh lại hơn, sẽ có môt cơ hội để hòa giải”. Cái ý nghĩ mới mẻ này làm nàng vui lên, nàng vội vã lên gác. Nàng sẽ thuyết phục Edwina gặp mình sau lễ Giáng sinh, cầu xin nó như vậy nếu cần thiết và chắc chắn bằng cách nào đó họ sẽ đi đến chỗ hiểu nhau. Nhưng trước sự đau buồn của Emma, không tìm thấy con bé ở đâu hết. Emma đứng ở giữa phòng của Edwina nhìn vào chiếc tủ những chiếc mắc áo trống không đã nói lên câu chuyện của nó. Nàng bước tới bên cửa sổ, nhìn xuống lối xe đi vào sát nhà. Chiếc Roll Royce đã biến mất, Edwina rõ ràng đã nói với người lái xe đưa nó ra ga rồi. Emma tì trán vào khung cửa và nàng biết, với một cảm giác nôn nao khủng khiếp là sẽ chẳng bao giờ có được sự hòa giải. Đối với nàng, đứa con gái này của nàng đã hết hy vọng.
Nàng quay đi, mặt xám ngoét, bối rối và bước những bước nặng nề vào phòng ngủ. Nàng phải nói với Blackie. Nàng với máy điện thoại, rồi tay nàng buông thõng. Anh đang ở Ireland tuần sau mới về. Emma ngồi xuống một cách mệt mỏi, lòng tràn đầy một cảm giác lạc lỏng. Và tim nàng đau đớn vì Edwina lúc này đang quằn quại, nàng mong muốn an ủi nó.
Cuối cùng Emma đứng lên, cố gắng trấn tĩnh và đi vào phòng tắm. Nàng vã nước lạnh vào mặt đôi mắt sưng đau nhức nhối, và trang điểm lại. Khi đã đủ trấn tĩnh, Emma gọi điện cho Arthur ở cơ quan. “Tối nay anh có về ăn cơm không?”, nàng hỏi một cách bình tĩnh khi anh ta trả lời ở máy.
Arthur giật mình: “Không, sao cơ?”, anh ta hỏi giọng dứt khoát thường lệ của mình.
- “Em phải gặp anh, Arthur ạ. Thực tế, khá là khẩn cấp bởi vì ngày mai em sẽ rời đi London. Em không lấy mất nhiều thì giờ của anh đâu. Nhiều nhất là nửa tiếng thôi”.
- “Ồ… được”, anh nhận lời một cách miễn cưỡng, mặc dù là tò mò nhiều hơn là ý muốn chiều nàng. “Anh sẽ có mặt trong vòng hai mươi phút nữa”.
- “Cám ơn, Arthur”, Emma đặt máy, bước xuống gác đợi chồng.
Một lát sau khi Arthur vào thư viện, anh nhìn vợ một cách cảnh giác, và nói: “Cái gì làm cho bộ lông của em xù cả lên thế. Trông em ghê quá”. Anh tự rót cho mình một cốc rượu, đem nó đến bên lò sưởi. Anh ngồi đối diện với Emma, xem xét nàng một cách thích thú. “Có chuyện gì vậy?”.
Emma nói: “Arthur, em có điều quan trọng muốn nói với anh”. “Xin mời, cưng. Anh đang giỏng tai lên đây”.
- “Em có mang”, Emma nói đều đều.
Arthur cầm cốc rượu trong tay đưa lên miệng nửa chừng và lần đầu tiên trong đời nó không tới chỗ đến của nó. Anh đặt phịch cốc xuống loạng choạng, miệng há hốc ngây ngô, trong một giây lát không nói lên lời. Rồi anh ngửa cổ ra sau, cười lớn. “Ôi, trời đất! Khá thật! Cô tiểu thư bé nhỏ cuối cùng đã có một tình nhân. Anh ta hẳn phải là một người dũng cảm mới muốn nhảy bản tango với em!”, anh ta kêu lên, “cái gã may mắn đó là ai vậy?”.
- “Em không có ý định nói với anh điều đó, Arthur. Em chỉ muốn anh biết em đã có mang được gần bốn tháng. Em sẽ sinh đứa con đó và anh sẽ nhận nó là con anh”.
- “Chắc em không nghĩ tôi không đem tên tôi ra cho một đứa con hoang chứ? Như vậy là phi lý. Tôi sẽ ly dị em ngay lập tức, Emma”.
- “Tôi nghĩ là anh không đâu, Arthur”, Emma nhìn anh bằng con mắt lạnh lùng và mỉm cười khe khẽ. “Tôi không cần ly hôn, ít nhất không phải lúc này. Và cả anh nữa cũng thế”.
- “Tôi nhất định sẽ làm. Cô định đem gán đứa con tự sinh của cô cho tôi”.
Emma đứng lên, bước về phía tủ sách. Nàng ấn một cái nút, một ván ô bật ra để lộ một chiếc két giấu bên trong. Nàng mở ra, lấy một đống tài liệu và trở lại lò sưởi. Nàng nhình Arthur một cách tư lự và nói: “Cha anh là một ông già bảo thủ, Arthur. Và dù tôi quí ông đến như thế nào, tôi cũng vẫn phải thừa nhận ông là một người đầu óc thiển cận và rõ ràng là cổ lỗ nếu tôi đưa cho ông những tài liệu này thì ông sẽ tước bỏ anh khỏi quyền thừa kế ngay lập tức và không cho anh một đồng xu. Và tôi hoàn toàn có ý định trao chúng lại cho ông nếu anh gây phiền hà cho tôi hoặc toan tính ly hôn tôi. Những cái này đọc hay đáo để”. Nàng mỉm cười nụ cười băng giá của mình. “Cha anh có thể không ngạc nhiên khi biết những tội ngoại tình thô bỉ của anh đối với tôi trong nhiều năm, hoặc về chuyện cờ bạc rượu chè vô điều độ của anh. Tuy nhiên, Arthur, tôi hoàn toàn chắc chắc ông sẽ hoàn toàn choáng váng, khi biết con trai của ông, người thừa kế có những mối quan hệ đáng đặt dấu hỏi với những thành tích bất hảo, những kẻ sinh lý bệnh hoạn”.
Arthur trông như một người bị kết án tử hình. “Đó là một sự dối trá bỉ ổi!”. Anh ta hét lên: “Cô bịp bợm”. “Không, tôi không bịp bợm đâu, Arthur ạ. Anh biết không, tôi đã thuê thám tử theo dõi anh. Không còn một điều gì tôi không biết về đời tư của anh nữa. Không may là anh lại không được kín đáo cho lắm”.
- “Tôi nói là cô bịp bợm!”. Arthur rống lên.
Emma đưa cho anh tập tài liệu: “Anh xem đi”.
Anh ta bồn chồn giật lấy tập giấy, lật giở, đôi mắt mở to. Anh ta tái mặt, rồi một nét ửng đỏ bối rối dâng lên cổ và mặt. Anh ta nhìn nàng, và hết sức cố ý xé tờ giấy ra thành từng mảnh nhỏ, ném vào lò sưởi.
Emma cứ mặc anh ta làm không nói một lời, và khi anh ta đã thiêu hủy chúng hoàn toàn rồi nàng cười: “Ồ, Arthur, quả là anh đánh giá tôi thấp quá. Đó chỉ là những bản sao thôi. Còn bản chính cất kỹ đi rồi. Và tôi sẽ không ngần ngại dùng nó nếu anh buộc tôi. Tôi hứa với anh tôi sẽ đến gặp cha anh”.
- “Đồ tồi tệ! Đó là sự hăm dọa tống tiền!”
- “Arthur, anh muốn gọi nó là gì tùy anh”, Emma ngồi lại, hai tay để trong lòng.
Anh ta lảo đảo đứng lên: “Cô cả gan thật! Mong đợi tôi sống ở ngôi nhà này với cô, trong khi mang hoang thai trong bụng”. Anh ta cười nhạt. “Tôi sẽ không tha thứ cho tội thông dâm của cô”.
Emma nhìn anh một cách lạnh lùng. “Đừng có đạo đức giả. Đó chính là điều tôi đã tha thứ trong nhiều năm nay”.
Anh ta đột ngột bước đi, trợn mắt nhìn nàng với lòng hận thù không giấu giếm. Lúc này anh ta run rẩy, vẻ mặt căng thẳng và xám tro. Anh ta nhìn xuống nàng: “Đồ chó cái”, anh ta rít lên. “Cô có thể thắng trận này nhưng hãy chờ đến trận sau”.
Emma đứng im phăng phắc, và nàng yên lặng. Arthur vẫn cứ trân trối nhìn nàng một lúc lâu, rồi anh bước những bước nhanh nhẹn môt cách cố ý qua phòng. Khi đã ra tới cửa, anh quay ngoắt lại nhìn nàng. Anh ta xanh mét và sôi sục giận dữ. Anh hít một hơi. “Trời, sao mà tôi căm ghét cô!”. Anh kêu lên, rồi anh rời thư viện, đóng cửa lại đánh sầm.
Paul McGill đi đi lại lại trong căn phòng khách của Emma ở Wilton Mews, lòng bồn chồn, đôi tay anh đút sâu trong túi, hai vai gồ lên. Anh dừng lại bên cửa sổ, nhìn ra ngoài, và cuối cùng khi anh quay đầu lại, đôi mắt anh chăm chú nhìn Emma. Anh quan sát nàng vẻ ngẫm nghĩ nét mặt bối rối.
Cuối cùng anh nói. “Anh không hiểu tại sao em không đề nghị với Arthur ly hôn, Emma. Quả thực anh không hiểu nổi. Anh nhgĩ chúng ta đã đồng ý với nhau là em sẽ tìm tự do của em ngay lập tức. Tại sao em còn trùng trình? Có phải bởi vì Constance không ly dị với anh không? Em không tin anh sao? Em không biết rằng anh có ý định ở với em mãi mãi sao? Anh muốn một lời giải thích, Emma?”.
- “Anh hãy đến ngồi bên cạnh em, anh yêu”, Emma nói dịu dàng.
Paul ngồi bên cạnh nàng trên sofa, anh cầm tay nàng trong tay anh. “Tất nhiên em tin anh, Paul. Quyết định của em không liên quan gì tới trường hợp của anh. Em biết anh đang làm tất cả mọi điều để sửa chữa lại. Và em sẽ ly hôn Arthur. Nhưng sau khi đứa bé sinh, đăng ký và làm lễ rửa tội đã. Em muốn đứa bé có một tên, Paul. Em không muốn giấy chứng sinh ghi là con tự sinh”.
- “Có phải em thực sự muốn nói là em muốn con anh được nuôi dưỡng dưới danh Ainsley không? Anh không thích điều ấy, Emma. Không chắc anh có chịu điều đó không!”.
Emma nhìn anh ngạc nhiên. Đây là lần đầu tiên anh nói nặng với nàng. Nàng phải làm cho anh hiểu lý do của mình. “Em biết anh cảm thấy như thế nào”, nàng xoa dịu. “Nhưng chúng ta phải nghĩ đến đứa bé, anh Paul. Anh thấy không…”.
- “Chính anh đang nghĩ đến đứa bé. Anh muốn nó có tình yêu và sự che chở của anh và tất cả những thứ khác anh có thể cho nó và anh không muốn nó lớn lên mà không biết anh. Hơn nữa anh muốn con anh được nuôi dạy dưới ảnh hưởng của anh chứ không phải của một đàn ông khác. Anh sẽ không để nó sống dưới mái nhà của Ainsley trong bất cứ hoàn cảnh nào. Em biết ý kiến của anh về hắn ta rồi đó. Anh nghĩ anh đã nói rõ ý anh về chuyện này, Emma”.
- “Vâng, đúng thế, anh yêu. Em đã nói với anh là đứa bé sẽ ở London. Nhưng em phải che chở đứa bé. Không được để cho nó mang điều ô nhục làm đứa con tự sinh suốt đời”.
Paul thở dài thiếu kiên nhẫn: “Tiền của anh sẽ cho chở cho đứa bé, Emma. Làm nó miễn dịch khỏi sự bêu diếu. Hơn nữa, anh đã nói với em là anh sẽ công nhận nó ngay tức thì Emma, xin em, em phải nghĩ tới việc lấy tên anh làm cha của đứa bé trong giấy chứng sinh. Anh mong muốn nhận quyền làm cha”.
- “Không! Chúng ta không thể làm thế được!”, Emma thét lên dữ dội, mắt nàng bốc lửa. Nhận thấy nét đau đớn thoáng hiện trên mặt anh, nàng nâng tay anh lên môi hôn. Nàng nhìn Paul thật lâu và chăm chú. Nàng hít một hơi dài và rất thong thả, bằng một giọng chắc chắn, nàng đã kể anh nghe.
Trước tiên nàng kể cho anh cuộc đụng độ với Edwina ngày hôm trước và cách nàng giải quyết với Arthur. Nàng kể anh nghe cuộc đời làm đứa ở tại Fairley Hall. Nàng kể về Edwin Fairley, nàng có mang, việc anh ta cự tuyệt nàng, và chuyến đi đầu đau đớn của nàng tới Leeds lúc còn là một cô bé khiếp đảm. Nàng kể cho anh sự vật lộn và cảnh đói nghèo sự thiếu thốn, những ngày lao động cực nhọc nàng đã trải qua. Nàng kể cho anh nghe Gerald Fairley đã toan cưỡng hiếp nàng như thế nào. Nàng kể cho anh nghe mọi chuyện, nàng nói một cách bộc trực và hùng biện, không tỏ vẻ hoặc bi thảm hóa. Rất đơn giản, nàng chỉ đưa ra những sự kiện không biểu lộ xúc cảm.
Paul lắng nghe chăm chú, mắt anh nhìn chằm chằm vào mặt nàng, anh cảm động như chưa bao giờ trong đời anh. Khi nàng nói xong, anh ôm lấy nàng, vuốt mái tóc nàng, kéo nàng lại gần anh hơn, tràn ngập một tình cảm che chở và thương yêu.
- “Kẻ nào lại có thể đưa ra một câu chuyện khôi hài, là thế giới chúng ta đang sống đây là một thế giới văn minh?”. Anh thì thầm trong tóc nàng và hôn lên trán nàng. Anh yên lặng rồi nói một cách nhẹ nhàng. “Ồ, Emma, Emma. Anh phải đền bù thật nhiều… tất cả những nỗi đau khổ em đã chịu đựng bao nhiêu năm trời. Và anh sẽ làm điều ấy. Anh hứa với em như vậy”.
Paul giơ nàng ra xa và nhìn sâu vào mắt nàng. “Tại sao trước đây em không kể cho anh tất cả những điều đó?”. Khi nàng cúi mặt không trả lời, anh nhẹ nhàng nói tiếp. “Em cho rằng anh sẽ nghĩ khác đi ư?”. Anh cúi xuống hôn lên đôi môi nàng. Em không hiểu rõ anh nếu em nghĩ rằng quá khứ của em là điều hệ trọng đối với anh. Anh càng yêu em hơn vì những điều em đã làm, những cái em vượt qua để trở thành như bây giờ. Và vì tính cách bất khuất và sức mạnh to lớn của em. Em là một người phụ nữ rất đặc biệt, Emma!”.
- “Không phải em cố tình tránh không nói với anh”, Emma lặng lẽ nói. “Hình như không bao giờ em có dịp thuận lợi”.
Paul nhìn nàng, trái tim đầy yêu thương. Anh nghĩ: “Ôi, em yêu, biết bao nhiêu sự tàn nhẫn và nhục nhã mà em hẳn đã phải chịu đựng và biết bao dũng cảm em đã đương đầu với cuộc đời”.
Emma nói: “Bây giờ anh hẳn đã hiểu rồi, phải không Paul? Em định nói về chuyện em chưa ly dị Arthur. Em không muốn con của chúng ta một ngày nào đó sẽ chống lại chúng ta. Em không thể chịu nổi sự lặp lại của cảnh hôm qua với Edwina”.
- “Điều đó sẽ không bao giờ xảy ra. Không phải với con chúng ta”. Nhưng đúng, bây giờ anh hiểu, anh nói: “Anh sẽ làm bất cứ cái gì em muốn, Emma”.
Đứa con của họ, một đứa bé gái, sinh vào đầu tháng năm, năm 1925 tại một nhà hộ sinh tư ở London. Chính Paul là người đi đi lại lại ở ngoài phòng đợi. Chính Paul là người đã ôm Emma trong tay sau khi nàng ở cữ. Chính Paul là người đã chọn tên cho đứa bé. Nó được đặt tên là Daisy theo tên của mẹ anh.
Ngày hôm sau, Paul đến thăm Emma, vẻ mặt anh rạng rỡ, hai tay ôm đầy hoa và quà tặng: “Con gái của tôi đâu?”, anh hỏi.
- “Cô ý tá sẽ mang nó vào ngay bây giờ”, Emma nói và mỉm cười tươi.
Anh ngồi xuống mép giường, ôm lấy Emma: “Còn em yêu của anh thế nào?”.
- “Em khỏe mạnh lắm, Paul. Nhưng anh không được làm hư em”.
- “Rồi em sẽ quen với những việc như thế này. Từ nay về sau sẽ luôn luôn là như thế”. Anh cầm tay nàng trong tay anh và trước sự ngạc nhiên của nàng, anh tháo chiếc nhẫn cưới của nàng trước khi nàng kịp phản kháng, mở cửa sổ và ném nó ra ngoài.
- “Trời ơi, Paul, anh làm gì vậy?”
Anh không trả lời. Anh thò tay vào túi lấy ra một chiếc nhẫn bạch kim. Anh lồng nó vào ngón tay nàng và thêm viên ngọc lục bảo McGill vuông lớn vốn của mẹ anh và bà anh trước đó.
- “Chúng ta có thể không có đạo, nhưng em là vợ của anh”. Anh nói: “Từ ngày hôm nay cho đến khi chết chúng ta mới lìa nhau”.
Từ khi trở lại Anh quốc năm 1923, Paul McGill đã để lộ tình cảm của mình với Emma rõ rệt. Anh yêu nàng say đắm. Anh còn thán phục nàng, và rất tự hào vì những thành tựu của nàng. Sau khi đứa con gái của họ ra đời, tình cảm của họ càng sâu đậm thêm. Nàng và đứa con của họ trở thành cốt lõi của đời anh, lý do của sự sống của anh. Nó tạo nên hình thù và ý nghĩa cho tất cả những cái anh làm, cho phương thức anh sống, cho công việc kinh doanh khổng lồ của anh. Tất cả những nỗi thất vọng và thất bại ngày xưa, những vết thương chồng chất qua bao năm tháng đã bị cuốn đi, và lòng anh tràn đầy những niềm hy vọng nở hoa. Daisy có thể không mang tên anh, nhưng nó là con anh, máu anh và trong nó anh nhìn thấy sự tiếp nối của giòng họ nhà McGill và triều đại do ông anh thành lập, người đại úy hải quân Tô Cách Lan đã định cư ở Coonumble năm 1852.
Sự thật mà nói, anh tôn thờ Emma và Daisy, anh không có ý định để cho bất cứ ai trong hai người xa anh, hoặc anh xa họ lâu mặc dù sự phức tạp của cuộc đời họ và những trở ngại gây ra bởi những mối ràng buộc về hôn nhân. Anh nắm chắc công việc trong tay vào cuối mùa hè năm 1925 khi anh mua một dinh thự cực kỳ lộng lẫy ở quảng trường Belgrave và lập tức trao quyền sở hữu cho Emma.
Sau đó anh tu sửa lại thành hai ngôi nhà, không hề tiếc tiền. Khu nhỏ hơn ở tầng trệt anh dành cho mình. Ba tầng trên trở thành một căn nhà xinh cho Emma, Daisy, người trông trẻ, người giữ nhà, người hầu gái. Đối với một người quan sát bình thường, hai căn hộ này hoàn toàn tách biệt, riêng tư, mỗi căn hộ có lối đi riêng. Nhưng thực sự nó được nối bằng cầu thang riêng bên trong.
Họ cùng chung sống nhưng kín đáo thận trọng, đúng với mọi khuôn phép bởi vì Emma không muốn phô trương những mối quan hệ của họ trước những đứa con khác của nàng, và trách nhiệm làm mẹ của nàng. Paul luôn luôn ngạc nhiên trước tính chất hai mặt trong bản chất của nàng. Anh trêu nàng, gọi nàng là một mớ mâu thuẫn và nói rằng nàng, một con người không biết sợ là gì trong công việc và coi khinh những gì cuộc đời nghĩ về nàng thì lại nhạy cảm đến kỳ lạ đối với dư luận về đức hạnh cá nhân của nàng. “Khi nào ly dị rồi thì em chẳng cần quái gì hết”, nàng trì hoãn, Paul chỉ mỉm cười , anh nhận ra rằng sự cẩn tắc về cuộc sống của họ, nảy sinh từ những kinh nghiệm của cuộc sống thiếu thời của nàng.
Sự thể là, việc ly hôn đến sớm hơn người ta mong đợi. Vào tháng sáu, nhận thức được lòng ao ước của Emma muốn che chở đứa con của họ, Paul đã đồng ý để Emma đưa Daisy đi Yorkshire với Frank và Natalie. Với tư cách là người bạn lâu năm của gia đình, sự có mặt của anh không có điều gì là bất tiện và, bởi vì sự kiện thay đổi bất ngời cho nên nó diễn ra không ai chú ý tới. Vài ba hôm trước ngày làm lễ đặt tên thánh, bà mẹ của Arthur Ainsley bị quị và chết vì một cơn đau tim. Lễ đặt tên thánh tiếp diễn với đám tang là một niềm đau. Frederich Ainsley và Arthur đau buồn cũng chẳng thiết tha gì đến chuyện này. Daisy đã được rửa tội một cách đầy đủ không có sự cố gì và ngày hôm sau, nàng đưa con trở lại London. Ba tháng sau, Frederich Ainsley, già nua, gầy gò và ốm yếu từ lâu đã đi theo vợ ông xuống mồ. Arthur được quyền thừa kế và với vẻ hào hiệp xưa nay chưa hề có, anh ta đã cho phép nàng ly dị mình vì có thông dâm. Emma không ngạc nhiên. Nàng đã mua cái hào hiệp của Arthur mười nghìn pound.
Khi quyết định ly hôn được đưa ra, cuộc đời của Emma thay đổi về căn bản. Nàng đem hai đứa sinh đôi, Robin và Elizabeth sống cùng với nàng ở quảng trường Bengrave và đúng như nàng đã đoán trước, Arthur không phản đối gì. Không những sung sướng vì cuối cùng đã thoát nổi anh ta, nàng cũng rất thích khi hai đứa bé này lớn lên không có ảnh hưởng của anh ta.
Kit, sống ở ký túc đã về nghỉ hè với Emma, nó không hề giấu giếm ý nghĩ tán thành Paul và yêu mến anh, nó cũng chẳng nhỏ một giọt nước mắt nào về sự mất dạng thình lình của Arthur Ainsley ra khỏi cuộc đời thơ dại của nó. Emma cũng tổ chức lại công việc làm ăn của nàng về cơ bản, để có thể sống hầu hết thời gian ở London. Winston được chỉ định làm giám đốc điều hàng của những cửa hàng Yorkshire và các nhà máy, còn Emma giám sát những công nghiệp miền Bắc từ trụ sở của nàng ở cửa hàng Knightsbridge, mỗi tháng đi Leeds một lần, ở đó nàng sống năm ngày hoạt động sôi nổi, làm việc nhiều tiếng với Winston.
Nàng và Paul thận trọng đến mức, đặc biệt là trước mặt lũ trẻ, nhưng thời gian qua đi, và hình như không ai để ý tới sự sắp xếp cánh sống không bình thường của họ và ngôi nhà đầy những đứa con khác bố của nàng. Rất nhanh, Paul đã trở thành người chủ hộ danh nghĩa, và với sức mạnh của mình cộng với sự hòa nhã vốn có, anh vừa được lũ trẻ kính trọng vừa được yêu mến và chẳng mấy chốc anh đã là người cha tinh thần của tất cả bọn trẻ. Dần dần Emma thấy thư thái. Paul đã kiên nhẫn giải thích với nàng là của cải kết hợp của hai người làm cho họ vượt lên những qui ước thông thường, làm cho họ được an toàn với xã hội và nàng đã thừa nhận điều anh nói. Sự tự tin và lòng dũng cảm của nàng đã thắng được những điều nghi ngại trước đây.
Paul và Emma không rời nhau một bước. Anh mua cho nàng những đồ trang sức lộng lẫy, áo lông và áo ngủ xa hoa. Anh tiêu cho nàng không tiếc. Họ đi xem hát, nhạc kịch, hòa nhạc, đi ăn, hội hè. Họ giao thiệp với những người giàu có và thế lực nhất ở London và ở những thành phố khác trên khắp thế giới – các nhà chính trị, các tài phiệt, những người giao thiệp rộng, các nhà văn học nghệ thuật của ba lục địa. Anh đưa nàng tới những thủ đô của châu Âu, những nơi anh đi hoặc đi công chuyện hoặc đi chơi. Nàng đi với anh tới New York và Texas nơi anh có những mỏ dầu, và hai lần nàng đi cùng anh trong những chuyến đi hàng năm của anh tới Úc. Paul vẫn cố gắng để tìm tự do, nhưng anh liên tục gặp sự phản đối khăng khăng một mực của Constance, chị không đồng ý ly dị. Đó là điều duy nhất làm phương hại đến hạnh phúc của anh. Mặc dù anh đã nhận Daisy theo đúng pháp luật, đã cung cấp cho cả hai mẹ con nàng nhưng anh vô cùng muốn lấy Emma và sắp xếp cuộc đời họ ổn định. Tuy nhiên, Emma thấy rất an toàn trong quan hệ hiện nay của hai người, hàng không thấy tình hình này có gì phải bận tâm và cố gắng làm giảm bới nỗi lo ngại của Paul. Giờ đây lại chính nàng là người bảo anh cứ bình tâm, đừng bực dọc như vậy, nàng nhận định một cách lạc quan rồi cuối cùng mọi việc sẽ đâu vào đấy, nàng nhắc lại tình yêu của mình đối với anh và cam đoan với anh là nàng hạnh phúc.
Chỉ có một điều duy nhất day dứt Emma là thái độ tiếp tục xa lánh của Edwina, bởi vì nàng vẫn chưa lấp được hố ngăn cách giữa hai mẹ con. Sự giao lưu hãn hữu của nàng với đứa con cả là thông qua Winston người thay mặt Emma lo việc tài chính của Edwina. Sau hai năm để kết thúc trung học ở Thụy Sĩ, Edwina đã sống trong một căn hộ ở Mayfair và đã sống một cuộc sống xã hội hối hả đến chóng mặt với các bạn bè thân thuộc tầng lớp trên của cô ta, hưởng cái mức sống của một cô con gái nhà giàu. Emma không cắt bỏ chi tiêu của Edwina và đã lập một quĩ tín dụng cho cô với nguồn thu nhập hàng năm không nhỏ. Emma mong muốn được nhìn thấy Edwina để lôi nó trở về trong lòng gia đình, nhưng nàng cũng đủ khôn ngoan để kìm mình không làm bước dạo đầu, nàng hiểu rằng bước thứ nhất nhất thiết phải do con gái nàng bắt đầu.
Và như vậy, nói chung Emma hài lòng, hơn bao giờ hết. Tình yêu tận tụy của Paul, và tình yêu của nàng đối với anh đã nâng đỡ nàng trong mọi lúc, Emma cũng tìm được sự an ủi lớn lao trong Daisy, nó là niền tự hào đặc biệt của nàng, và mặc dù nàng không muốn thừa nhận điều đó với chính mình, nàng yêu Daisy hơn bất cứ đứa con nào khác của nàng. Đây là một đứa con của tình yêu, đứa con duy nhất nàng vui mừng mang ở trong lòng. Có một sự gần gũi giữa hai mẹ con mà nàng không cảm thấy đối với những đứa con trước, với thời gian nó chỉ càng mạnh mẽ thêm. Có lúc khi nàng nhìn vào đứa bé đang lớn, trái tim Emma thắt lại với những tình cảm dịu dàng, thấy Paul phản chiếu trong đứa bé. Bởi vì Daisy đúng là con gái của bố nó, giống cha đủ đường. Luôn luôn bên cạnh bố, vô thức nó đã sao chép nhiều điệu bộ cử chỉ của bố, khi cười, mặt nó trở nên nghịch ngợm và thân thương. Về bản chất, Daisy dịu dàng dễ thương và vì sự trìu mến và chăm sóc của bố mẹ nên nó là một cô bé tự tin và cởi mở, nhưng nó hoàn toàn không phải là một đứa trẻ hư hỏng, và rất tự nhiên đối với mọi người. Nó có tính cách vui vẻ, hoạt bát của mẹ, tính lạc quan và ý chí kiên cường của nàng.
Khi Daisy lên năm, Paul đã khăng khăng đòi nó và Emma đi cùng anh về Úc. Sau một tuần ở Sidney, anh đưa họ tới Coonumble và họ ở Dunoon bốn tuần. Một sự thông cảm lẫn nhau kỳ lạ đã nảy sinh giữa cô bé thông minh lanh lợi và cậu anh trai cùng bố khác mẹ, Howard khiến cả Emma và Paul đều cảm động vì mối quan hệ của hai anh em. Daisy hình như đến với anh của mình một cách khác hẳn những người khác trước đây, sự tận tụy của cô bé đối với anh và sự phụ thuộc của cậu anh đối với cô em làm ấm lòng họ. Từ đó về sau, hàng năm hai mẹ con trở về cùng với Paul, anh không muốn tước đi niềm vui của Howard mà cô em cùng bố khác mẹ đã đem đến cho cuộc đời bị thu hẹp của cậu.
Năm tháng trôi đi quá nhanh khiến Emma thường tự hỏi cái gì đã xảy ra với thời gian. Các con nàng đều lớn lên và rời ngôi nhà ở quảng trường Bengrave. Kit, chàng thanh niên đẹp trai rất giống Joe Lowther đi học tại trường Đại học Leeds còn hai người con sinh đôi thì đi học tại trường nội trú riêng của từng người, lần đầu tiên phàn nàn vì phải sống xa nhau. Nếu như Daisy là đứa con được yêu thương nhất của Emma thì Robin rõ ràng là đứa con trai được yêu thích nhất của nàng và nàng nhớ nó hơn là nàng tưởng trong các học kỳ, Robin không hề có một thói quen hoặc một tính cách khó chịu nào của Arthur Ainsley và lại hết sức giống Winston. Đó là một cậu bé gầy đầy sức sống, trí tuệ, thông minh, duyên dáng bẩm sinh. Cậu là một học sinh xuất sắc và Emma đặt nhiều hy vọng nơi cậu.
Cô em gái sinh đôi, Elizabeth cũng giống phía nhà họ Harte. Thỉnh thoảng Emma nhìn con gái và nín thở, nàng thấy tiếng vang vọng của mẹ nàng trong đứa con gái này, và thỉnh thoảng nàng bắt gặp một thoáng của Olivia Wainwright trong khuôn mặt yêu kiều của Elizabeth. Lúc ấy nàng lại trầm ngâm nhớ về quá khứ, gợi một sự giống nhau huyền bí giữa hai người đàn bà từ hai thế giới biết bao là khác nhau làm nàng giật mình. Trong số tất cả các con của Emma, Elizabeth thật là một trang nhan sắc, dáng liễu, yêu kiều, khuôn mặt thanh tú trong như ngọc với mớ tóc mây màu đen. Cô cũng được tạo hóa phú cho sự quyến rũ. Không may, Emma còn phát hiện ra những nét khác ở cô mà nàng cảm thấy nản lòng. Elizabeth tính tình nóng nảy, đồng bóng và thường là khó kiềm chế, Paul đồng ý với Emma là cô bé cần một bàn tay kiên quyết, và họ hy vọng kỷ luật ở nhà trường ký túc sẽ làm cho cô ta dịu lại mà vẫn không làm mất tinh thần của cô.
Công việc kinh doanh của Emma vẫn tiếp tục phát triển. Cửa hàng Knightsbridge trở nên nổi tiếng thế giới, những cửa hàng Yorkshire trở thành tên cửa miệng của các gia đình, ở miền Bắc: các nhà máy mở mang; cả các nhà máy quần áo Kallinski cũng vậy; công ty Emeremm bây giờ là cơ sở kinh doanh Harte phát triển nở rộ thành một tổ chức có nhiều chi nhánh trên khắp thế giới. Theo bản năng khôn ngoan của mình và nghe theo lời khuyên của Paul, Emma đã đầu tư tiền một cách khôn ngoan và tăng vốn của mình lên nhiều lần, cũng như tiền của Winston, Frank, nàng cũng trông nom công việc tài chính của cả hai người này. Đến năm nàng bốn mươi sáu tuổi Emma đã là một triệu phú của nhiều triệu phú và là một thế lực phải tính đến, không phải chỉ ở London và miền Bắc nước Anh mà còn ở phạm vi thế giới nữa.
Mặc dù hạnh phúc của nàng và Paul và gia đình nàng, bận rộn như vậy với những công việc kinh doanh khổng lồ những mối quan tâm của Emma đối với gia đình nhà Fairley vẫn không giảm đi một mảy may. Công việc của họ vẫn tiếp tục ám ảnh nàng như bao giờ. Gerald Fairley, sau khi nàng đã làm cho phá sản năm 1923, đã sống một vài năm khốn khổ của cuộc đời anh ta nhờ ở sự hào phóng của Edwin, vì lò gạch của anh ta không còn kiếm được lời lãi gì nữa. Anh ta chết năm 1926, rõ ràng vì bản chất thái quá của anh ta, Emma đã nhận xét với Blackie như vậy khi nghe tin, và những năm tiếp theo đó, cái nhìn lạnh lùng của nàng chỉ nhằm vào Edwin. Nàng theo dõi công việc của anh ta một cách chăm chú. Nàng mong cho anh ta thất bại! Nhưng anh ta đã làm cho tên tuổi của mình được nổi vì là một luật sư xuất sắc bảo vệ cho những kẻ phạm tội, và tin đồn luôn loan là anh sẽ được chọn là làm luật sư cho nhà vua, mặc dù điều này vẫn chưa xảy ra. Anh sống và tập nghề ở London, nhưng anh vẫn không hoàn toàn cắt đứt liên hệ của anh với Yorkshire. Anh thường ở Leeds nơi anh đã dành cố gắng và nghị lực cho tờ Yorkshire Morning Gazette, đúng như Adam Fairley đã làm trước đó. Anh là chủ tịch hội đồng là người góp cổ phần lớn và như vậy anh nắm quyền hàng ở tòa báo.
Emma muốn tờ báo ấy, và nàng không từ một điều gì để chiếm đoạt nó. Cả Winston và Blackie đã chỉ ra rằng nàng đã làm đủ để phá ảnh hưởng của nhà Fairley ở Yorkshire rồi, và khuyên can nàng hãy thôi chuyện phục thù và quên chuyện tờ báo đi. Nhưng Emma, bao giờ cũng khăng khăng làm theo ý mình và luôn mang chí phục thù với nhà Fairley. Nàng quyết tâm đoạt tài sản duy nhất còn lại của họ. Dần dần nàng bắt đầu các cổ phần chung làm theo cách nhẹ nhàng thầm lặng của nàng và kiên nhẫn chờ đợi cho đến khi tìm được cơ hội thuận tiện để tấn công Edwin. Mặc dù tờ báo hụt tiền, bằng cách nào đó Edwin vẫn làm nó hoạt động, anh bám lấy các cổ phần của mình, trước sự bực bội của Emma. Trừ phi cho đến khi nào nàng giật được những cổ phần ấy từ nơi anh, nàng không tài nào có thể tiến vào và chiếm lĩnh được nó. Nàng mơ ước tới cái ngày nàng sẽ hẩy được Edwin ra. Chỉ khi đó sự trả thù của nàng mới hoàn hảo.
- “Và em thì có đủ sự kiên nhẫn của Job(1)” nàng nói với Winston một ngày mùa hè năm 1935. “Em vẫn không được nghỉ ngơi chừng nào em chưa làm chủ được tờ Yorkshire Morning Gazette, và thế nào cũng có ngày em làm chủ nó”.
- “Anh biết em sẽ làm như vậy”, Winston nói và cựa mình trên ghế. Anh châm một điếu thuốc và nói tiếp: “Hôm qua Joe Fulton gọi điện cho anh. Ông ta sẵn sàng bán cho em những cổ phần còn lại trong tờ Ngôi sao Sheffield. Nếu em mua, em sẽ kiểm soát được. Em có muốn những cổ phần ấy không?”. “Có chứ”, Emma tuyên bố, mặt nàng sáng lên. “Em cũng nghĩ rằng anh nên hỏi chuyện lại với Harry Metcalfe. Ông ta thèm bán tờ Quan sát Yorkshire buổi sáng từ lâu. Em nghĩ em muốn làm chủ nó. Chắc chắn em có thể dùng nó làm phương tiện chống lại Edwin Fairley. Nếu chúng ta mua các cổ phần ở cả hai tờ báo thì em thực sự có chỗ đứng trong công việc in ở miền Bắc”. Mắt nàng sáng lên. “Chúng ta hãy bắt đầu một công việc nữa, Winston. Chúng ta sẽ gọi nó là gì nhỉ? Chẳng hạn như Công ty Báo chí hợp nhất Yorkshire chăng?”, nàng gợi ý và nói tiếp trước khi Winston có thể trả lời, “phải đó, nghe cái tên được lắm. Chúng ta hãy làm như vậy!”.
- “Anh không hiểu lý do nào em không chiếm lĩnh cả hai tờ báo, Emma”, Winston nói, đột nhiên bị lan lây cái nhiệt tình của nàng. Chúng ta có thể chuyển qua một cách dễ dàng. Chỉ cần quản lý tốt, có tiền và một vài nhà báo thượng hạng để thổi một nguồn sinh khí mới. Có lẽ Frank có thể tiến cử được đúng người. Ngày mai anh sẽ tiến hành ngay việc này”.
- “Giá như chúng mình nghĩ đến điều này từ trước”, Emma thốt lên, nàng không kìm được sự thích thú trước cái viễn cảnh trở thành giám đốc nhà xuất bản bước vào cạnh tranh với Edwin Fairley.
- “Những ý nghĩ thực sự rõ rệt lại là những điều mà chúng ta nghĩ đến sau cùng, em ạ”, Winston nhận xét một cách ngẫu nhiên và đứng lên.
Anh chầm chậm bước đi qua phòng khách tráng lệ ở Pennistone Royal, ngôi nhà lớn gần Ripon, mà Emma đã mua ba năm trước và đứng ở cửa sổ nhìn xuống mảnh đát phía dưới. Đó là một ngày chủ nhật tháng tám đẹp trời, bầu trời xanh trong ngăn ngắt, trên thảm cỏ cắt tỉa gọn gàng, những hàng rào tạo hình cây cảnh, những bui cây sum suê, tươi tốt óng ánh trong trời hè. Những mảnh vườn thật ngoạn mục, sắp xếp theo thời Elizabeth và hết sức Anh với màu xanh bát ngát và những luống hoa tươi rực rỡ.
Xa xa, anh nghe thấy tiếng bồm bộp của những quả bóng tennis và ngạc nhiên không hiểu sao Paul có thể chơi ba séc trong một ngày mệt mỏi như thế này. Những ý nghĩ của anh hướng về cái tin mà anh phải báo cáo cho Emma biết, tìm một cách đơn giản nhất nói với nàng. Anh nhìn Emma đang ngồi trên ghế sofa đẹp thanh thoát trong chiếc áo trắng lụa và mái tóc màu hung đỏ rũ xuống hai vai. Ồ, anh có thể phải nói với nàng. Anh nói, “Hôm qua anh đã nói chuyện với Edwina. Nó sắp lấy chồng”.
- “Lấy chồng!” Emma nhắc lại và ngồi thẳng dậy trên sofa. Nàng đặt sổ chi thu nàng đang đọc xuống, và chú ý nghe. “Lấy ai thế?”.
Winston hắng giọng. “Lấy Jeremy Standish”. Emma há hốc miệng nhìn. ‘Jeremy Standish? Bá tước Dunvale?”.
- “Đúng rồi. Hai tuần nữa sẽ tổ chức đám cưới. Tất nhiên ở Ireland, tại điền trang của ông ta, Clonloughlin.”
- “Nhưng ông ta hơn nó rất nhiều tuổi, Winston”, Emma nói. “Em không dám chắc về đám cưới này”. Nàng cau mặt. “Theo ý em, nó không phải là hôn nhân thích hợp cho lắm”. “Hoàn toàn không thể làm được gì về chuyện này đâu, Emma”. Winston nói, anh nhẹ người vì phản ứng hiền lành như vậy của em gái. “Xét cho cùng, nó cũng hai mươi chín tuổi rồi. Hơn nữa có lẽ nó cũng cần có được một ảnh hưởng vững vàng. Và ông ta quả là có nhiều tiền”.
- “Có lẽ anh nói đúng”, Emma trầm ngâm. Nàng nhìn Winston.
- “Có lẽ nó không mời ai trong gia đình?”.
Winston lắc đầu. “Đúng. Anh sợ là nó không mời ai. Nhưng nó có nói với anh đưa nó về nhà chồng. Em thấy thế nào? Em có phiền lòng không, cưng?”.
Emma nghiêng người nắm lấy tay anh. “Ồ, anh thân mến, tất nhiên là không. Em nghĩ để nó đề nghị anh như vậy thật là tuyệt vời. Em hết sức vui. Nếu anh có mặt ở đó thì nó sẽ không cảm thấy cô đơn”. Emma dừng lại rồi hỏi một cách ngập ngừng. “Nó có nhắc gì đến em không?”.
- “Không, Emma ạ, không. Anh xin lỗi”.
- “Tất nhiên em sẽ gửi một quà tặng thật đẹp”. Emma lái câu chuyện sang hướng khác, nàng nhận ra rằng không cần phải nói thêm điều gì nữa, nhưng đôi mắt nàng tư lự trong khi nàng vẫn bàn tiếp công việc kinh doanh với anh trai.
Khi Winston từ Ireland trở về, Emma đầy những câu hỏi về Edwina, bá tước Dunvale và về đám cưới. Winston làm thỏa tính tò mò của em và làm dịu bớt nỗi lo ngại của nàng về đám cưới của Edwina với con người hơn nó hai mươi tuổi. Anh thấy Edwina sung sướng mê cuồng, mặc dù anh không biết chắc có phải vì cô đã trở thành bá tước Dunvale và trở thành thành viên của một gia đình Anh-Ireland cổ và nổi tiếng hay là bởi vì cô thực sự yêu chồng. Dunvale về phần mình choáng váng vì Edwina và Winston không có hoài nghi nào về tình cảm của cô dâu và chú rể.
Một năm sau, Emma trở thành bà ngoại khi Edwina sinh con trai, đặt tên là Anthony George Michael. Vì là con đầu lòng, đứa bé có tước hiệu Lord Standish và là người thừa hưởng tước hiệu. Emma viết thư cho con gái chúc mừng cô, và gửi cho con một món quà như nàng đã gửi nhân dịp cưới. Emma nhận được một lời cảm ơn lịch sự nhưng lạnh lùng của Edwina, nàng hy vọng nó sẽ dẫn tới một sự hòa giải hoàn toàn một ngày nào đó. Và nàng quyết định cần tới sự giúp đỡ của Winston. Kit không có tinh thần xây dựng cho lắm. Cảm thấy bị coi thường vì không được mời tới dự tiệc cưới chị, cậu đưa ra những nhận đinh chê bai là chị coi thường gia đình, sĩ diện mỗi khi có một dịp nào đó. Paul luôn luôn khuyên răn cậu, và cuối cùng anh bực tức cấm cậu không được nói về Edwina với mẹ nữa. Bản thân anh vẫn khuyến khích niềm tin của Emma là rồi đây nàng sẽ lại hòa thuận trở lại với đứa con gái lớn, anh hiểu đó là cái khả năng duy nhất có thể được nàng chấp nhận, và anh không dám phá niềm hy vọng ấy.
Một trong những khả năng lớn lao nhất của Emma là bỏ xó những vấn đề không thể giải quyết được, và cuối cùng nàng đã để Edwina ra khỏi trí óc mình. Hiện tại là ưu tiên hàng đầu của nàng, là mối quan tâm cấp bách của nàng. Cuộc sống của chính nàng luôn luôn là điều thôi thúc. Còn công việc của nàng, mối quan hệ của nàng với Paul và những đứa con khác. Nàng không còn điều gì phàn nàn về chúng và nói chung yên ổn, hòa thuận. Kit làm việc ở nhà máy và học việc kinh doanh len. Robin trong những năm cuối cùng ở trường nội trú, đang chuẩn bị lên Cambridge để học luật. Elizabeth bày tỏ ý muốn theo bước chân Edwina và đang ở trong một trường sang trọng ở Thụy Sĩ. Cuối cùng đến ngày Daisy rời nhà lên đường vào nội trú, Emma và Paul lần đầu tiên còn lại một mình trong ngôi nhả ở quảng trường Belgrave.
- “Anh sợ là bây giờ em phải gắn với anh, và chỉ với anh thôi”, anh trêu nàng một buổi tối khi họ uống champage trong thư viện.
- "Em nhớ tất cả chúng nó, đặc biệt là Daisy, nhưng em cũng sung sướng vì cuối cùng chúng ta đã có những thời gian bên nhau, Paul. Chỉ hai ta”.
- "Và chúng ta có nhiều thời gian, Emma. Biết bao là năm tháng trải dài trước mắt”. Anh cười. “Anh không biết em cảm thấy như thế nào, em yêu, nhưng anh thích nghĩ tới cái viễn cảnh già cùng với em”.
Đó là tuần đầu tháng chín năm 1938. Họ ngồi trong thư viện đẹp đẽ và êm dịu, trò chuyện nhẹ nhàng trong hoàng hôn buông xuống làm đầy căn phòng với những chiếc bóng nhẹ nhàng trôi, Emma và Paul không bao giờ nghĩ rằng có một cái gì có thể xảy ra phá tan sự yên ấm của họ. Họ thanh thản với chính mình và với nhau, vẫn yêu đương say đắm, trò chuyện hồi lâu về tương lai bên nhau, lập những kế hoạch cho những ngày nghỉ Giáng Sinh ở Pennistone Royal và chuyện đi Mỹ năm mới. Sau đó họ đi ăn tối ở Quaglino, cười và nắm tay nhau như một đôi tình nhân trẻ, và đó là một trong những buổi tối vô tư lự nhất bên nhau từ bao tháng nay.
Nhưng bóng đêm của bọn phát xít đang trải dài qua Trung Âu. Hitler giành được quyền lực ở Đức sau khi đốt Reichstag năm 1933, đang tiến quân. Chiến tranh là không thể tránh được. Chỉ còn là vấn đề thời gian.
- “Sẽ có chiến tranh ở Thái Bình Dương cũng chắc chắn như sẽ có chiến tranh ở châu Âu”, Paul McGill nói một cách bình tĩnh. “Sự thật là không thể tranh cãi được. Nhật Bản công nghiệp hóa chậm như Đức, và thành công của hai nước này đã làm cho họ trở thành những dân tộc kiêu căng, hiếu chiến với những kế hoạch thống trị thế giớ”. Anh ngừng lại, hút thuốc: “Tôi biết là tôi không lầm Dan ạ. Mỹ đã chuẩn bị. Châu Âu không may là chưa”. Daniel P. Nelson, một trong những người có thế lực nhất thế giới và là cháu nội của một nam tước lừng danh nhất gật đầu tư lự. Anh mỉm cười nhưng đôi mắt thì lo lắng khi anh nói: “Tôi không nghi ngờ anh, Paul. Tôi cũng nói như vậy nhiều tháng nay. Nói với tổng thống mới tuần trước ở công viên Hyde Park là Nhật Bản có những mục đích thực sự của họ ở Thái Bình Dương. Nói cho chính xác là từ những năm hai mươi. Roosevelt không mù. Ông đã nhận ra tình thế. Mặt khác, đất nước này vẫn còn đang phục hồi sau thời gian đình trệ. Không phải là công nghiệp trong nước, vẫn còn mười triệu người thất nghiệp ở đây, Paul”.
- “Có, tôi biết. Điều làm tôi lo ngại là Quốc hội thông qua ba đạo luật trung lập mấy năm trước, thái độ nói chung là vẫn theo chủ nghĩa biệt lập. Tôi sợ là bây giờ tình hình vẫn là như vậy. Tuy nhiên, nước Mỹ không thể giữ trung lập nếu nước Anh bước vào cuộc chiến tranh với Đức”.
Dan nói: ‘Nhưng Roosevelt thì tôi biết, ông ấy không phải là người theo chủ nghĩa biệt lập. Tôi cảm thấy ông ấy sẽ tới giúp nước Anh nếu cần thiết. Chúng tôi là những đồng minh tự nhiên đã hơn một thế kỷ nay, và ông ấy cũng nhận ra được rằng không thể để cho phương Tây bị sụp. Nhưng- thôi, nói đến câu chuyện chiến tranh đáng buồn ấy thế là đủ rồi, Emma có vẻ nghiêm trọng quá”.
- “Tôi rất quan tâm”, Emma nói, “như bất cứ một người được biết tin tức ngày nay. Em tôi là một người viết bài bình luận chính trị ở London, cậu ấy tin rằng Hitler đang muốn làm bá chủ toàn cầu và sẽ không trừ một việc gì để đạt được điều đó. Không may, giống như người bạn thân của cậu, Winston Churchill, Frank bị phớt lờ. Không biết đến ban giờ thế giới mới mở mắt ra để mà nhìn vào cái đang diễn biến”.
Dan mỉm cười yếu ớt: “Cái viễn cảnh của cuộc chiến tranh thế giới mới thật là đáng kinh sợ. Có một khuynh hướng là làm ngơ trước cái tai họa sắp xảy ra. Công chúng có một cái tật xấu là rúc cái đầu tập thể của nó vào cát, cũng như một số lớn chính khách”.
- “Tôi nghĩ đó cũng là bản tính của con người – lòng ao ước không gặp phải một sự thật khủng khiếp như chiến tranh. Nhưng chúng ta phải chuẩn bị…” Nàng ngừng lời khi bắt gặp ánh mắt của Paul. Nhận thấy anh muốn bàn công chuyện với Dan P. Nelson, nàng lẩm bẩm: ‘Vâng, thôi tôi tạm biệt các anh. Xin thứ lỗi, tôi phải tiếp các vị khách khác của tôi”.
Hai người đàn ông nhìn nàng lướt qua phòng khách, chiếc áo lụa trắng bồng bềnh, những viên đá quí ánh lên ở cổ và tai, cánh tay và bàn tay nàng. Dan nói: "Tôi tin rằng Emma là người đàn bà đáng chú ý nhất chưa bao giờ tôi được gặp. Anh là một người may mắn”.
- “Tôi biết”, Paul trả lời. Anh hướng sự chú ý vào Dan P. Nelson và nói tiếp: “Tôi muốn nói chuyện với anh về những tàu chở dầu của tôi và một số công việc cấp bách khác. Tôi nghĩ chúng ta vẫn còn đủ thì giờ trước khi đi xem nhạc kịch. Chúng ta hãy vào thư viện đã”. Họ tuồn ra lặng lẽ.
Trong khi Emma đi lại giữa những người khách khác, tụ tập trong tòa nhà sang trọng ở đại lộ số Năm, ý nghĩ về một cuộc chiến tranh luôn luôn lẩn quẩn trong đầu nàng. Mới sáng hôm nay thôi, nàng đã nhận được một lá thư đáng bận tâm của Frank, vừa từ Berlin về. Anh có đầy những tiên đoán kinh khủng, và tin tưởng ở phán đoán của anh, nàng biết là anh không cường điệu. Anh nói nước Anh sẽ bước vào chiến tranh cuối năm nay, và nàng tin em. Nàng liếc nhìn ba người đàn ông khác trong phòng. Họ cũng có những ảnh hưởng quốc tế to lớn và của cải kết hợp của họ lên tới hàng trăm tỉ dollar. Nàng thấy ánh mắt của họ để lộ sự sợ hãi, mặc dù họ cố vui vẻ đình đám thích hợp với hoàn cảnh này. Phải, họ biết rằng thế giới đang ở trên bờ của sự hủy diệt khác. Nàng nghĩ tới hai người con trai mà lòng nhói lên lo âu. Cả hai đứa đều có khả năng để bị gọi ra nhập ngũ. Lại một thế hệ trai trẻ nữa trong tuổi hoa niên bị hy sinh cho bộ máy chiến tranh. Mặc dù hơi ấm của căn phòng, nàng vẫn run lên và nghĩ tới Joe Lowther, và nhớ tới cuộc đại chiến sự tàn phá ghê gớm nó đã mang lại. Phải chăng hai mươi mốt năm qua chỉ là hưu chiến?
Sau khi hai người đã ngồi trong lô của rạp Metropolitan, Emma tạm thoát ra khỏi nỗi âu lo tràn ngập không khí, mắt nàng lướt qua cái trang trí lộng lẫy đỏ và bắt gặp cái đẹp lóng lánh của những người phụ nữ đeo trang sức lộng lẫy và cái thanh lịch của những người đàn ông. Nàng nghĩ, họ hình như có vẻ bình thường biết bao, thậm chí còn vô tư lự y như thể quên lãng cơn bão đang tích tụ.
Emma cúi nhìn tờ chương trình, quyết định xem nhạc kịch. Chính nhờ Blackie O’Neill mà nàng đã học được về âm nhạc, và khi cảnh nhà hát làm người ta ngạt thở mở ra trên sân khấu, nàng đột nhiên ao ước được Blackie ở cạnh họ để cùng chia sẻ. Nàng bắt đầu thư thái, lôi cuốn bởi vở “Mignon”, Rise Stevens, giọng ca nữ trung trẻ mới lên sân khấu được hai tháng và có một lúc, giọng hát tuyệt vời của cô làm Emma xúc động muốn khóc. Thật là giọng hát thiên phú, nàng để mình cuốn đi bởi khúc arias mê đắm bởi màn biểu diễn của Rise Stevens và Ezio Pinza, trong những bộ trang phục đắt tiền và trong mấy tiếng đồng hồ nỗi sầu muộn của nàng hoàn toàn bị quên lãng.
Paul đã mời tám người khách của họ tới Delmonico để ăn chiều, và khi họ đã ngồi vào bàn, Emma nhìn sang Paul, cố gắng tìm hiểu tâm trạng của anh. Mặc dù cuộc nói chuyện nghiêm chỉnh với Dan P. Nelson trước đó, lúc này anh tỏ ra không quan tâm và lúc nào cũng tỏ ra là một chủ nhà cởi mở, gọi rượu Dom và Pérignon cùng trứng cá caviar, khiến tất cả mọi người khuây khỏa. Anh là một con người rực rỡ và đẹp trai nhất ở đây, Emma nghĩ và thấy một chút sở hữu của mình. Đó là ngày 3 tháng 2 năm 1939. Ngày sinh của anh. Anh năm mươi chín tuổi, nhưng anh còn rất phong độ, chút đốm bạc trên mái tóc đen của anh chỉ làm tăng thêm vẻ phong sương. Đôi mắt vẫn không mất màu xanh linh hoạt và đôi lông mày ở trên vẫn mang màu đen hạt huyền cũng như hàng ria mép của anh. Có những đường hằn quanh đôi mắt ấy, nhưng khuôn mặt rám nắng của anh hoàn toàn không có vết nhăn, thân thể anh rắn chắc, nổi bắp như hai mươi năm trước đây. Emma lúc nào cũng hơi bàng hoàng vì hình dáng của anh, đôi vai rộng và bộ ngực nở nang. Đêm nay, trong chiếc cà vạt trắng và áo đuôi tôm, trông anh có dáng vẻ quyến rũ, hấp dẫn hơn bao giờ hết.
Mắt anh bắt gặp ánh mắt nàng, anh nháy mắt rồi nhìn nàng, cái nhìn tán thưởng ngày xưa mà nàng từng quen thuộc. Sao, cái anh chàng quỉ sứ này lại đang ve vãn nàng. Và, sau bao năm tháng, nàng nghĩ, bản thân nàng đến tháng tư này sẽ là năm mươi tuổi. Hình như không thể nào tin được. Mười sáu năm khó tin. Không phải lúc nào cũng là những năm dễ dàng. Paul có thể có thẩm quyền và bướng bỉnh như chính nàng, và anh thường cảm thấy sự cần thiết phai khẳng định mình một cách ép buộc. Anh hách dịch thường có vẻ ông chủ và anh thường làm rõ ai là người có quyền trong ngôi nhà này. Nàng đã làm theo ý mình trong hầu hết mọi việc thuộc về cuộc sống riêng tư của họ và đến lượt mình anh cũng đủ khôn ngoan để không can thiệp vào công việc kinh doanh của nàng. Paul cũng là một người thích tán tỉnh ve vãn và không che giấu gì việc anh thích phụ nữ. Emma ngờ anh có thể có những phụ nữ khác khi anh đi ra nước ngoài một mình, nhưng anh không bao giờ tạo cho nàng những lý do để đau lòng, hoặc bối rối và nàng không bao giờ nghi ngờ lòng tận tụy của anh. Và, bởi vì nàng coi sự ghen tuông về xác thịt là một xúc động vô ích, nên nàng ít khi xét đến chuyện thiếu chung thủy của anh, nếu như quả là có. Sự say mê của anh đối với nàng không giảm theo thời gian và nàng biết mình là một phụ nữ may mắn.
Emma ngả người trong ghế và giữa những ly champagne, đồ ăn ngon, trò chuyện sôi nổi, không khí vui vẻ ngự trị lên khách khứa, bạn bè của họ, nàng đã đẩy được những ý nghĩ bận lòng về chiến tranh đã choán tâm hồn nàng chiều nay.
Tuần lễ tiếp theo, Paul không nhắc tới chiến tranh nữa và thích nàng cũng cẩn thận cái đề tài ấy. Họ tới Đông Texas nơi Paul đã mua những giao kèo cho thuê dầu lửa ở Odessa và Midland trước sự bực tức của Harry Marriott. Emma không đặc biệt thích người canh ty của Paul và không ngần ngại nói lên điều đó khi nàng gặp anh vài năm trước. Trên đường trở về New York, nàng đã nhắc lại ý kiến của mình và hỏi Paul tại sao Marriott lại không vui về chuyện mua mới này.
Paul cười và nói: “Bởi vì anh ấy luôn luôn muốn đứng về phía an toàn. Anh ấy không bao giờ đánh bạc. Anh ấy sợ mất hoặc làm giảm bới những cái chúng ta đã tích tụ được qua năm tháng. Thằng điên. Chúng ta là một trong những công ty dầu lửa lớn nhất ở Mỹ ngày nay, nhưng bành trướng vẫn là cần thiết. Không, là sống còn. Hary có ý định tốt nhưng anh ấy thiếu trí tưởng tượng. Em nhớ anh ấy càu nhàu anh như thế nào khi anh mua những tàu chở dầu? Anh đã chứng minh là anh ấy sai. Chúng là những tài sản khổng lồ của công ty và đem lại nhiều tiền hơn nhiều. Anh có tài đánh hơi dầu lửa và anh bảo đảm với em nó sẽ được phát hiện ở Odessa và Midland trong vòng vài ba năm nữa. Anh có ý định bắt dầu khoan ở đó, không, cuối năm nay”.
- “Cũng may mà anh có đại cổ phần trong công ty đó, nếu không anh hẳn sẽ có những vấn đề không thể vượt qua nổi với Marriott”, Emma nói.
- “Em nói đúng”, Paul cười. “Chắc em không nghĩ là anh ngu đến nỗi tiêu hàng triệu để đầu tư ban đầu mà lại không kiểm soát được công việc, phải không”.
- “Vâng, nàng thừa nhận và cười. “Anh đủ cứng cáp và thông minh để làm điều đó”. Nàng ngập ngừng: “Anh có buồn vì Daisy không phải là con trai không?”. “Trời, không! Cái gì đã khiến em hỏi như vậy, em yêu?”.
- “Chẳng là Howard không thể theo bước chân anh. Em thường có ý nghĩ anh có thể thất vọng vì không có một người con trai để nối nghiệp anh, dòng họ nhà McGill”. “Cái gì đã khiến em cho rằng anh gạt bỏ ý nghĩ Daisy sẽ làm điều ấy? Xét cho cùng, nếu nó giống bà mẹ đẹp của nó thì nó sẽ trở thành một phụ nữ kinh doanh tuyệt vời. Và một ngày nào, nó sẽ lấy chồng, có con, em hãy nghĩ đến điều ấy, Emma”.
Nàng có nghĩ đến và không bao giờ quên lời nói của anh.
Một hôm vào cuối tháng hai, Paul từ văn phòng Sitex New York trở về sớm và Emma hiểu ngay rằng có chuyện ghê gớm đã xảy ra. Anh có vẻ bận tâm khác thường hôn nàng lơ đãng, tự rót một ly rượu, điều ấy hơi lạ vì lúc ấy mới chỉ bốn giờ.
Không phải là người rào đón, nàng hỏi ngay. “Anh có chuyện gì lo ngại, Paul. Cái gì vậy?”.
- “Anh không bao giờ có thể giấu nổi em điều gì, em yêu”. Anh nhấm nháp ly rượu, châm điếu thuốc rồi nói: “Anh đã đặt một chuyến tàu về Anh cho em trên tàu Nữ Hoàng Elizabeth. Anh may mắn kiếm được phòng riêng cho em dù vào một thời gian muộn như thế này, như vậy em sẽ được thoải mái, em yêu. Em sẽ đi thứ năm”.
- “Anh có đi cùng em không?”. Nàng hỏi cố gắng hết sức bình thản, nhưng cổ họng nghẹn lại.
- “Không, em yêu. Anh không thể đi được”.
- “Tại sao lại không, Paul? Anh đã có kế hoạch trở về với em cơ mà?”.
- “Anh muốn trở lại Texas vài ba ngày để lo một vài chuyện và để làm cho mình yên tâm là Harry hoàn toàn hiểu anh muốn bắt đầu khoan dầu ở Odessa càng sớm càng tốt. Rồi anh sẽ về Úc”.
- “Nhưng hình như cuối năm anh mới phải về đó cơ mà!”.
- “Cuối năm có thể là quá muộn, Emma ạ. Bây giờ anh phải đi càng sớm càng tốt, Emma, để mà lo liệu những khoản lợi tức của anh ở đó và bàn bạc với những người điều hàng các công ty của anh. Em biết tâm trạng của anh về mối đe dọa của Nhật Bản đối với vùng Thái Bình Dương. Anh không thể phó mặc cho may rủi được”.
Mặt Emma tái đi. “Em không muốn anh đi!”, nàng kêu lên. “Em sợ… sợ anh sẽ bị kẹt lại ở Úc nếu như chiến tranh xảy ra trước khi anh có thể trở lại Anh. Chúng ta có thể xa nhau hàng năm trời”. Nàng đứng lên quì dưới chân anh. Nàng ngước lên nhìn anh. “Anh đừng đi, em xin anh”. Nàng chạm nhẹ vào mặt anh, khuôn mặt thân yêu nhất trên đời này đối với nàng, đôi mắt nàng mờ đi.
- “Em biết là anh phải đi, Emma thân yêu”, anh nói dịu dàng nhất. Anh vuốt mái tóc nàng và nhìn nàng âu yếm. “Nhưng anh sẽ không ở lâu. Nhiều nhất là hai tháng. Ở đó mọi việc cũng tương đối ổn. Nó đã tồn tại nhiều năm nay rồi. Tuy nhiên anh muốn biết chắc là mọi chuyện vẫn trôi chảy dù anh vắng mặt lâu hơn bình thường hàng năm. Và anh phải như vậy. Chúng ta không biết cuộc chiến này sẽ kéo dài bao nhiêu lâu một khi nó nổ ra, có phải không?”. Anh mỉm cười với nàng một cách tin cẩn. “Anh sẽ trở lại nhanh, anh muốn ở bên em ở nước Anh khi sự biến xảy ra. Chắc chắn là anh không muốn phải ở lại một mình. Thôi nào, vui lên, em yêu. Anh chỉ đi có tám tuần thôi mà. Có gì đâu”.
Emma không tranh luận với Paul, hoặc định thuyết phục anh bỏ ý định vì nàng biết làm như vậy là vô ích. Tài sản của anh lớn đến choáng váng và anh không thể rũ bỏ trách nhiệm. Quyền lực có những đặc quyền không thể phủ nhận nhưng nó cũng đem lại những gánh nặng sụn lưng. Rõ ràng là Paul không thể làm ngơ với tình hình chính trị thế giới và ảnh hưởng của nó đối với công việc của anh. Emma là một người ở công việc và vị trí có thể hiểu được những động cơ của anh và thừa nhận kế hoạch cần thiết của anh, mặc dù nàng không thích nó.
Và như vậy, nàng làm vẻ tươi vui một vài ngày tiếp theo trước khi đi. Nhưng ý nghĩ chia ly với Paul làm nàng buồn hơn bao giờ hết và nỗi buồn chán quanh quất bên nàng trong suốt cuộc hành trình về Anh. Ngay khi nàng đã về tới ngôi nhà ở quảng trường Belgrave nó cứ còn dai dẳng, gậm nhấm nỗi thanh thản của tâm hồn.
Cơn mưa như thác trút xuống khi Paul rời viện an dưỡng ở ngoại ô Sydney. Anh kéo cao cổ áo mưa và lao về phía chiếc Daimler. Anh ướt sũng khi vào tới bên trong xe, anh cởi chiếc áo vét ướ, quẳng nó một cách cẩu thả lên ghế sau. Anh lấy một chiếc khăn tay lau bộ mặt ướt đẫm nước trước khi châm điếu thuốc. Anh để ý thấy bàn tay mình run. Anh đã nổi một trận lôi đình với Constance, vì vậy điều này không lạ. Xuýt nữa thì anh đã đánh cô ta một vài phút trước đây, anh đã phải vận dụng toàn bộ lý trí để tự kìm mình, để từ biệt cô ta với một chút lịch sự. Những cơn xúc động mãnh liệt của anh làm anh ngạc nhiên. Trong đời anh chưa bao giờ đánh một người phụ nữ, từ nhiều năm nay chưa hề giận dữ điên cuồng như vậy.
Paul đút khóa vào công tắc, đánh xe ra khỏi bãi đỗ và lái ra dường chính quay trở về thành phố. Sự kiên nhẫn của anh với Constance đã hết từ lâu cùng với lòng thương hại và bây giờ anh căm ghét cô ta. Căm ghét cô ta. Mẹ kiếp, anh sẽ không bị trói buộc với cô ta lâu hơn nữa. Anh sẽ tìm cách để ly dị. Anh sẽ nói chuyện với cố vấn pháp luật của anh. Phải có một khe hở pháp luật để gỡ ra khỏi cuộc hôn nhân lố bịch này, sự thật chẳng phải là hôn nhân gì hết trong hai mươi bảy năm trường. Thật là phi lý khi một người có một quyền lực không ai có thể chối cãi được lại ở trong một tình trạng chông chênh như thế này, bị trói buộc bởi một kẻ loạn trí cứ bám nhằng nhằng lấy anh chỉ vì sự ngang ngạnh. Anh tự hỏi không biết anh đã làm gì Constance để cô ta trừng phạt anh đến như thế.
Anh đã từng là một người chồng tốt trong những năm đầu. Chính do sự nghiện ngập và lang chạ của cô đã len vào cuộc tình của hai người và đã giết chết tình yêu của anh với cô. Anh phải có được sự tự do của mình. Cho Emma và Daisy. Và dứt khoát anh phải đạt được nó, dù trời long đất lở. Anh nắm chặt tay lái và lao đi một cách cuồng nộ trên đường.
Bầu trời trắng, nhợt đi vì ánh chớp, chao đảo vì tiếng sấm bên tai, một cơn mưa to bất thần tới, nước mưa trút xuống hối hả, dòng dòng nhỏ xuống cửa xe thoáng làm mắt anh mờ đi. Anh lái quặt quá nhanh, nhìn thấy chiếc xe tải tiến lại quá chậm. Theo bản năng anh quẹo và phanh, nhưng chiếc xe đi với một tốc độ quá nhanh và hình như nó cứ tiến theo vận tốc của nó. Nó trượt đi không sao điều khiển nổi và lao vùn vụt trên con đường đẫm nước. Anh cố gắng lấy lại tay lái, nhưng mặc dù sức mạnh ghê gớm của anh, anh vẫn không thể làm nổi. Chiếc xe chồm lên lề đường, tung lên không, lộn vòng tròn rơi trong rãnh va vào tảng đá lớn. Anh cảm thấy mình bị đè bẹp trong tay lái, rồi sau đó anh ngất đi.
Chính người lái xe tải đã lôi anh ra khỏi đống đổ nát chỉ một giây trước khi chiếc xe kia bốc lửa. Paul vẫn bất tỉnh nhân sự khi xe cấp cứu tới bệnh viện Sydney vài tiếng đồng hồ sau đó. Và anh vẫn bất tỉnh nhiều ngày liền. Anh còn sống được là nhờ một điều thần diệu, các bác sĩ nói.
Paul tự đẩy chiếc xe lăn của mình qua phòng làm việc cho đến khi anh đến ngay trước bàn giấy của anh. Anh châm một điếu thuốc rồi bắt đầu nghiên cứu kỹ lưỡng đống tài liệu về luật pháp mà Mel Harrison, cố vấn pháp luật của anh đã đưa cho anh một tuần trước, ngay trước khi anh xuất viện. Anh liên tục lần qua những trang giấy, đi tìm bất cứ một chỗ thiếu sót nho nhỏ nào, hoặc một câu thiếu rõ ràng mà cho đến nay, anh vẫn chưa tìm ra. Nhưng để cho tuyệt đối chắc chắn trước khi ký, anh đọc lại một lần cuối cùng, đọc từng trang chậm chạp, cân nhắc từng chữ một cách tỉ mỉ. Sau ba tiếng đồng hồ, anh hài lòng thấy không một chỗ nào có thể thuyết minh sai lạc. Như thường lệ Mel đã thảo tập tài liệu một cách tài tình, tất cả đều kín kẽ, có thể chịu được thử thách ở bất cứ một tòa án nào, bất cứ một nước nào trên thế giới nếu như nó bị thách thức. Anh không chờ đợi điều đó xảy ra. Anh chỉ quan tâm tới việc những ý định chính xác của anh là trong sáng, và quả thực chúng là như vậy. Lần đầu tiên sau nhiều ngày, Paul mỉm cười. Câu chuyện xem chừng ổn.
Đã gần sáu giờ, Mel sắp sửa đến. Thật là một người bạn kiên cường, tận tụy trong ba tháng nay từ khi xảy ra tai nạn, luôn luôn có mặt mỗi khi anh cần tới và không có mặt mỗi khi anh không cần. Chuẩn bị những giấy tờ pháp lý; chăm nom những công việc quá cẩn mật không thể trao cho bất cứ ai; hàng ngày đến thăm ở bệnh viện; thậm chí còn lơ là cả vợ và gia đình vào những ngày cuối tuần, ngồi với anh nâng đỡ lòng dũng cảm của anh, lôi anh ra khỏi tâm trạng đen tối khi nhận chìm anh. Từ khi băng được tháo, Paul không muốn tiếp một người khác nào trừ Mel và những người làm việc ở các Công ty McGill. Rõ ràng anh không muốn những người bạn khác nhìn thấy bộ mặt vỡ nát của anh. Anh không thể chịu được sự thông cảm, hoặc lòng thương hại của họ.
Nỗi thất vọng ngấm ngầm qua người anh, anh nhắm mắt lại, tự hỏi không hiểu anh còn có thể tiếp tục được bao nhiêu lâu nữa. Đôi khi anh nghĩ anh không thể tha thứ được một ngày nào nữa của cuộc sống trong tình trạng khốn khổ này. Số phận thật cay nghiệt.
Tai nạn đã chẳng bao giờ xảy ra nếu như anh nghe lời Emma ở lại New York, đừng trở về Sydney. Giờ đây, anh như thế này, bị buộc vào xe lăn và phụ thuộc vào người khác trong hầu hết mọi việc anh cần. Đó là một tình trạng không mấy dễ dàng đối với anh. Anh vốn là người thích uốn cuộc sống theo ý thích của mình, đảo lộn tình thế cho hợp ý mình. Nhưng từ khi xảy ra vụ tai nạn anh cảm thấy một nỗi bất lực quá lớn, quá tai hại. Nỗi buồn bực trở thành một cơn giận bốc lửa. Ngay cả tiền và ảnh hưởng của anh, ngày xưa vốn là một vũ khí mạnh mẽ thì bây giờ cũng hoàn toàn vô hiệu lực.
Smithers, người quản gia đã làm việc với anh trong nhiều năm, gõ cửa đi vào phòng làm việc cắt đứt dòng suy nghĩ của Paul, gõ cửa đi vào phòng làm việc cắt đứt dòng suy nghĩ của Paul: “Thưa ngài, ông Harrison đã tới. Tôi đưa ông ấy vào đây, hay ngài muốn gặp ông ấy trong phòng khác ạ?”.
- “Làm ơn đưa ông ấy vào đây, Smithers”.
Một lát sau, Mel đã nắm tay anh: “Paul anh có khỏe không?”.
- “Tôi cảm thấy khá hơn nhiều, dù tin hay không?”, Paul nói và chỉ tay về phía người quản gia: “Làm ơn chuẩn bị cho chúng tôi như thường lệ, Smithers”.
- “Có ngay, thưa ngài”.
Paul quay chiếc xe lăn ra khỏi bàn giấy: “Chúng ta hãy ngồi bên ngọn lửa. Dạo này tôi luôn luôn thấy lạnh thấu xương”.
Khi người quản gia đã đi khỏi. Paul nói: “Đáng lẽ mấy tuần trước tôi phải buộc các bác sĩ cho tôi xuất viện lúc đó. Tôi nghĩ ở trong môi trường quen thuộc là có lợi cho tôi rất nhiều”. “Đúng như vậy”, Mel nói vui vẻ, “Chúc mừng, anh bạn”.
- “Chúc mừng”, Paul trả lời. Họ chạm ly và Paul nói tiếp: “Tôi đã để nhiều thời gian nghiên cứu giấy tờ, Mel. Bây giờ chúng đã đâu vào đấy. Chúng ta có thể ký chúng sau đó”.
- “Tốt, Paul. Nhân tiện, tôi đã nói với Audrey tôi không về nhà ăn cơm chiều. Nếu anh có thể chịu nổi sự có mặt của tôi hai đêm liền, tôi nghĩ tôi sẽ ở bên anh. Có được không?”.
- “Tất nhiên. Tôi sẽ rất sung sướng có anh ăn tối với tôi”. Anh lăn xe qua bên quầy rượu, rót một ly Scotch nữa. “Ly của anh thế nào, Mel. Tôi rót thêm nhé?”. “Cám ơn, hãy khoan chút. Này, Paul này, bây giờ anh đã về nhà rồi mấy hôm nay tôi lại cứ luôn luôn nghĩ tới Emma. Tôi nghĩ chúng ta nên nói chị ấy đến. Tôi đã bàn chuyện này với Audrey và cô ấy đồng ý với tôi”.
- “Không!”, Paul quay ngoắt chiếc xe lăn lại. Anh nhìn vào mặt Mel, đôi mắt anh bốc lửa. “Tôi tuyệt đối cấm điều ấy!”. Giọng anh đanh lại: “Tôi không muốn nàng nhìn thấy tôi trong tình trạng như thế này. Hơn nữa, tin tức mỗi ngày một xấu đi. Chúng ta có thể có chiến tranh với Đức nay mai. Tôi không muốn nàng đi nửa thế giới vào môt thời điểm nguy hiểm như bây giờ”.
Mel nhìn Paul một cách thận trọng. “Tôi hiểu những tình cảm của anh. Nhưng tôi lo sợ điều nàng sẽ làm đối với những bức thư của tôi, cũng như anh trong những lá thư của anh. Anh cũng dùng những ảnh hưởng đáng kể của anh để những chi tiết của tai nạn không đưa lên mặt báo vì thế nàng không hay biết về tình trạng trầm trọng của anh. Nhưng phải chăng đã đến lúc anh viết cho nàng biết sự thật? Nàng nên biết”.
Paul lắc đầu: “Nàng không được biết. Trong bất cứ tình huống nào”. Anh dịu giọng lại: “Chưa nên. Tôi sẽ quyết định lúc nào là lúc nên nói với nàng”. Mặt anh trở nên rầu rĩ. “Làm sao một người đàn ông có thể kể cho một người đàn bà sôi nổi, say đắm như Emma là nàng đã gắn bó đời mình với một kẻ tàn tật từ thắt lưng trở xuống, mất một nửa mặt và…”. Anh dừng lại nhìn Mel chăm chú. “Và liệt dương. Sẽ mãi mãi liệt dương. Điều ấy không dễ dàng đâu, bạn ơi, không dễ dàng một chút nào”.
Mel không biết trả lời thế nào, một niềm thông cảm mãnh liệt tràn ngập, anh vội đứng lên khi Paul kịp nhìn thấy nỗi thương hại đầy mắt anh. Anh bước ra quầy rượu, nhấc chai Scotch. Anh nói: “Tôi nghĩ là anh đánh giá thấp Emma. Đúng vậy, tôi chắc chắn là như thế. Nàng muốn ở bên anh. Cho anh tất cả sự ủng hộ và tình yêu. Chúng ta hãy điện cho nàng, Paul. Ngay bây giờ”.
- “Không”, Paul nói, giọng anh đột nhiên thấm đầy mệt mỏi. “Tôi không muốn nàng phải nặng gánh với tôi. Tôi không có ích lợi gì với nàng. Nếu cần phải biết sự thật, thì tôi cũng chẳng có ích gì với bản thân tôi”.
Mel đi trở lại lò sưởi, moi óc, tìm một cách thuyết phục Paul gọi Emma. “Lúc này anh cần nàng hơn lúc nào hết trong đời, nhưng anh là một con quỷ ngang ngạnh và tự kiêu. Emma không nhìn sự việc như vậy. Nàng yêu anh. Sau nữa, nàng tôn thờ mảnh đất…”. Mel vội vàng chữa và hắng giọng. Thế rồi nét mặt anh rạng rỡ khi một ý nghĩ khác chợt đến. Anh nói nhanh. “Này, nếu anh không muốn Emma phải đi lại, tại sao chính anh không mua vé tới Anh? Một tháng là anh có thể tới nơi”.
- “Điều ấy không thể thực hiện được. Tôi phải đi bệnh viện điều trị hầu như hàng ngày, trên tàu không có phương tiện y học, cái loại tôi cần”. Paul nuốt ngụm rượu và đặt ly xuống bàn. Anh lại nhìn Mel, đôi mắt hết sức trang nghiêm, giọng nói lạnh lẽo. “Còn một điều tôi chưa nói với anh, Mel. Sự tiên lượng về bệnh là xấu. Thực tế là rất xấu. Các bác sĩ không biết là có thể tránh được nhiễm trùng vào thận bao nhiêu lâu. Nó thường giết chết những người bị chứng liệt hai chi - suy thận”.
Mel nhìn Paul, vẻ mặt hồng hào của anh tái mét. “B…ao… lâu?” – anh nói lắp, không thể hỏi hết câu.
- “Chín tháng… là nhiều nhất”, Paul trả lời một giọng sự vụ. Anh đã điều chỉnh bản án tử hình của mình. Anh không còn một lối thoát.
Mel nói một giọng thôi thúc đến tuyệt vọng. “Tôi nghĩ chúng ta phải mời thêm các chuyên gia, Paul. Chắc chắn phải có một phương án để…”. “Không, không còn một phương cách nào hết”. Paul nói. “Nếu như tôi bị gãy xương sống, các bác sĩ có thể nối lại được. Nhưng đoạn cuối giây thần kinh xương sống đã bị dập nát. Hiện nay chưa có cách nào để làm việc đó”.
Mel nhìn vào ngọn lửa. Anh không có lời nào để an ủi Paul. Tai nạn này là một thảm họa, nhưng anh cứ tin là Paul có nhiều năm ở trước mặt, mặc dù phải gắn mình trong xe lăn. Nhưng bây giờ… Ôi, Trời ơi, thật là phí hoài quá, một con người quí giá và xuất sắc đến như vậy. Cuối cùng, sau một hồi dài yên lặng, anh nói: “Tôi có thể làm được gì không, Paul? Một chút gì không? Chỉ cần anh báo tôi thôi”.
Paul mỉm cười hiền hậu: “Không, bồ ơi. Cám ơn bồ. Đừng xem nó quá đau đớn như vậy. Và lạy Chúa, đừng bắt đầu trở nên yếu đuối về tôi như thế. Tôi cần cái tính vui vẻ của anh, cái lạc quan của anh. Vả nữa, anh đã trở thành cánh tay phải của tôi, anh đã ở bên tôi rất nhiều. Tôi không muốn một bộ mặt sầu thảm ngó nhìn tôi. Thôi nào, chúng ta hãy uống một chầu nữa rồi sẽ ăn. Tôi có loại rượu Chambertin tuyệt hảo mà cha tôi đã để dành từ nhiều năm. Chúng ta sẽ làm vài chai cùng với bữa ăn. Có thể uống ngay bây giờ, trong khi vẫn còn…”. Paul im bặt. Anh nhặt những chiếc ly đã uống hết, thả chúng vào lòng rồi lăn xe ra quầy.
Mel lại không thể nào nói năng được cho mạch lạc. Anh tìm chiếc khăn tay và hỉ mũi ầm ĩ. Anh nhìn qua đôi vai rộng và tấm lưng lớn của Paul nổi lên trên chiếc ghế, mắt anh mờ đi với nỗi buồn vô tận. Thật là đau lòng khi cái thân thể đẹp đẽ ấy bị vỡ nát một cách khủng khiếp như vậy, bộ mặt hết sức đẹp trai ấy bị biến dạng một cách ghê sợ. Và con người này chịu đựng tất cả những nỗi đau khổ ấy một cách khắc kỷ làm sao. Sự thán phục Mel luôn luôn dành cho người bạn thân nhất và xưa nhất của mình lại tăng thêm. Can đảm và sức mạnh phi thường của anh trước sự thất bại thật vô bờ. Anh tự hỏi không biết ở địa vị mình, mình có đủ dũng cảm và bất khuất như thế hay không. Anh không dám chắc. Có một điều anh biết, Paul cần tấy cả sự ủng hộ và anh sẽ làm bất cứ điều gì không một chút dè dặt.
Cũng buổi tối hôm ấy, rất lâu sau khi Mel đã về, Paul ngồi trong phòng làm việc mờ mờ sáng, ấp ủ một vò rượu và hút thuốc không ngừng. Mặt anh bình tĩnh, đôi mắt tư lự khi nhớ cuộc nói chuyện trước đó. Có lẽ Mel đúng. Có lẽ anh nên viết thư cho Emma, kể cho nàng sự thật. Trong những lá thư trước, anh đã giảm nhẹ tai nạn và dùng công việc làm một cái cớ để giải thích sự chậm trễ quay trở lại Anh của anh. Phải, anh đã mắc nợ nàng điều đó. Sự thật. Vì tất cả những năm tháng bên nhau và vì họ vẫn còn có ý nghĩa đối với nhau. Và, phải là sự thật tuyệt đối. Không gì khác đứng nổi với Emma. Anh lăn xe đến bàn, kéo một tờ giấy đến bên và bắt đầu bức thư.
Sydney, 24, tháng bảy, 1939
Emma thân yêu nhất đời anh
Em là cuộc sống của anh…
Đôi mắt anh ngước lên nhìn vào tấm ảnh nàng lồng khung ở góc bàn làm việc. Anh cầm nó lên, nhìn chăm chú. Ảnh chụp sau khi sinh Daisy, trông Emma rạng rỡ, nàng mỉm một nụ cười tươi chỉ riêng mình nàng có. Anh nghĩ tim mình muốn vỡ tung vì yêu thương, những giọt nước mắt bất chợt dâng lên mắt anh, nhỏ xuống má không sao ngăn được. Paul ấp ủ tấm ảnh vào ngực hồi lâu, ghì lấy nó như thể chính nó là Emma anh đang ôm trong vòng tay mình, nhớ tới quá khứ, nghĩ về tương lai. Và anh không viết lá thư đó.
Frank Harte rời quán El Vino, đi xuống phố Fleet về phía tòa soạn của tờ Daily Express, suy nghĩ về bài anh đã viết buổi chiều nay. NÓ vẫn Ở trên bàn của anh bời vì anh muốn đi khỏi văn phòng một tiếng đồng hồ để suy nghĩ về giọng điệu của bài đó.
Một giờ Ở El Vino không được thư thái chút nào. Quán rượu chật ních phóng viên của tất cả các tờ báo, nét mặt họ u ám, giọng nói của họ rầu rĩ, khi họ nói về tình hình chính trị ngày một xấu đi, và điểm lại tin tức đáng buồn ập đến từ mọi miền của châu âu. Giờ đây anh tự hỏi không biết mình có quá mức khi anh nghĩ tới bài viết cho trang Ý kiến tòa soạn. Nhưng cái tên Neville Cham- berlain ngu ngốc cần phải đá ra khỏi cương vị. Winston Churchill, không còn nghi ngờ gì nữa, là người cần giữ chức vụ thủ tướng khi chiến tranh là điều không thể tránh khỏi. Anh hiểu ông già cũng đồng ý với anh vấn đề này. Brawbrook ( 1) và Churchill là bạn từ lâu.
Frank đi qua phố Fleet, nhìn lên tòa nhà của tờ Daily Express, một khối kính và thép đen lóng lánh, một kiến trúc hiện đại không thích hợp kế sát những tòa nhà cổ kính bao quanh tứ phía.
Hình như ông già đã cố tình biểu lộ sự khinh bỉ đối với truyền thống. Và không ai có thể hơn Lord Brawbrook, người bảo vệ không mệt mỏi cho đế chế Anh và tất cả những cái nó đưa đến. Những người cạnh tranh ghen ghét coi tòa nhà là điều gai mắt, một sự xúc phạm đối với Phố Mực lịch sử, nhưng Frank thì lại thích. Anh thấy nó như một tang vật cho nghề báo chí hiện đại về thời thế đổi thay. ông già đã đúng khi xây dựng nó, vì chắc chắn nó là một cái mốc rõ rệt trên phố Fleet.
Len qua những cánh cửa bật ra bật vào của tòa báo Express, Frank đi qua hành lang và lên thang máy đến phòng làm việc của mình. Anh quăng mũ lên ghế, ngồi xuống, nhặt bài báo lên, gác hai chân lên bàn. Anh đọc những lời mình viết ra với con mắt hết sức phê phán. NÓ tốt hết sức tốt, chính anh cũng phải thốt ra như vậy. Anh sẽ đăng nó. Anh nhảy lên, và đưa nó vào cho Arthur Christiansen.
Chris, chủ bút trẻ của tờ Daily Express người được ưa chuộng của phố Fleet là người được bảo hộ của Brawbrook, anh là người có trách nhiệm làm thay đổi diện mạo và khuynh hướng chung của báo chí Anh. Mặc sơ mi trần, mặt anh ửng đỏ, tóc rối bù, trông anh hốc hác nhưng vẫn hoàn toàn làm chủ được mình đẳng sau chiếc bàn giấy má ngổn ngang. Anh chào Frank bằng nụ cười vui vẻ "Tôi đang không hiểu chuyện gì xảy ra với anh. Tôi vừa định sai cậu sửa bài tới Elvino kiếm anh".
Frank đưa cho anh bài báo. "Tôi muốn có thời gian để suy nghĩ kỹ. Tôi nghĩ có thể là tôi viết hơi quá mạnh".
con mắt sáng của Chris chăm chú vào những trang giấy. Anh đọc nhanh: "Tốt quá. Hết sức thông minh, Frank. Chúng tôi sẽ giữ nguyên để in. Không cần thay đổi gì hết. Nếu anh viết dịu đi thì nó sẽ mất tác dụng. ông già sẽ thích lắm đấy. Như thường lệ, anh đã đánh trúng.
- "Anh có chắc là không quá không?".
Chris lại cười: "Tôi chắc. Sự thật tôi là một người rất thăng bằng. Nhưng tất cả những điều anh viết về tình hình thế giới gần đây đều nặng suy tư. Và mẹ kiếp, chúng ta hãy nhìn thẳng vào nó, anh đang đương đầu với sự thật. Không ai có thể phủ nhận điều đó".
Chris viết lên trang đầu: "In đúng như thế. Không thay đổi". "Chú nhỏ!". Anh gọi một cậu bé sửa bài đang đi vớ vẩn gần cửa văn phòng: "Mang cái này cho thư ký tòa soạn".
Frank nói: "Nếu anh không cần đến tôi, tôi đi. Chị tôi đang đợi tôi. Nếu có chuyện gì, anh gọi điện tới nhé".
Chris gật đầu: "Tốt, Frank". Anh nhấc một trong những chiếc điện thoại đang reo to. "Christian- sen đây. Xin chào ngài". Anh lấy tay che miệng ống nghe và nói với Frank "Lord Brawbrook gọi từ Cherkley. Xin lỗi Frank".
Frank lấy mũ trong phòng làm việc của mình, đi qua phòng tin tức, như lệ thường anh nấn ná Ở đó một lúc. Sự hối hả rộn ràng và hoạt động đã lên tới đỉnh điểm khi hạn chót in đầu tiên của báo tới và tiếng ồn ào thật điếc tai. Một vẻ rộn rã trong không gian, không khí hắc mùi mực in còn ẩm luôn luôn làm cho mạch máu Frank run lên. Mặc dù là một nhà viết tiểu thuyết nổi tiếng và thành công, anh vẫn không thể bỏ nghề báo cũng như không thể ngừng thở.
NÓ Ở trong máu của anh. Và không một nơi khác hoàn toàn giống như văn phòng của một tờ báo hàng ngày vào giờ này, ngay trước khi những chiếc máy in khổng lồ quay: đó là mạch máu, nhịp tim của thế giới.
Frank dừng lại bên chiếc máy liếc nhìn một cách thích thú những bài báo tuôn ra. Tin tức rất đáng ngại, báo trước chiến tranh. Một cậu bé đưa báo đi ngang qua, lấy những bản tin mới nhất của Reuters và lao đi. Mắt Frank bất chợt gặp một bài. Sự chú ý của anh dồn vào đó. Anh đứng bất động một hồi lâu, choáng váng không tin là thật. Một lát sau, anh tới nhìn Ở máy điện báo của báo chí Liên bang. Rất cả đều cùng một chuyện như vậy, anh rên lên một tiếng. RÕ ràng là không còn nghi ngờ gì nữa. Không một chút nghi ngờ nào hết. Anh xé bản tin của Báo chí Liên Bang, nói một lời với thư ký tòa soạn, người này đồng ý khi Frank đề nghị mang tờ giấy đi. Nhét giấy vào túi, anh bước ra khỏi phòng tin tức người ngây dại và nôn nao.
Trong vòng vài ba phút anh đã ra đến phố và vẫy taxi. Mặc dù thời tiết tháng tám ấm, anh vẫn run lên tay anh không vững khi châm thuốc lá. Anh tự hỏi, không hiểu làm thế nào để anh tìm được sức mạnh để làm cái anh phải làm.
winston đi công việc Ở Lon don và anh đang Ở với Emma, theo lệ thường. HỌ đang ngồi Ở phòng khách, uống cà phê sau bữa ăn tối khi người giúp việc đưa Frank vào mấy phút sau đó.
Mặt Emma rạng rỡ khi nhìn thấy em, nàng đứng lên ôm Frank. "Chị và Winston đã định không đợi em nữa!", nàng vừa ôm lấy em vừa nói.
- "Em xin lỗi đến muộn", Frank lẩm bẩm. Emma nói: "Ðể chị kiếm cho em cái uống. Em thích uống gì Frank?".
- "Rượu mạnh, chị Emma". Anh quay sang Winston: "Anh Ở lại được bao lâu?".
- "Vài ba ngày. Em có muốn ăn bữa trưa ngày mai không?".
Emma đưa cho Frank ly rượu và ngồi xuống ghế đối diện. Nàng nhìn anh chăm chú rồi cau mặt.
"Trông em xanh tái ghê gớm. Frank yêu. Em không có chuyện gì chứ, em?".
- "Không, e m chỉ mệt thôi". Anh nốc ly rượu và đứng lên .
- "Em muốn một ly nữa được không. Ðêm nay em cần".
- "Tất nhiên rồi". Mắt Emma hướng về Winston, nàng dướn mi dò hỏi.
Winston để ý thấy dáng vẻ mệt mỏi của em trai. "Frank em có chắc là em không ốm không?
Emma nói đúng, trông em không bình thường".
Frank quay ngoắt lại, anh cố gắng mỉm cười. "Em nghĩ đó là do tình hình quá căng thẳng", anh lẩm bẩm, và quay lại ghế. "Bọn đức sắp sửa tiến vào Ba Lan. Tất cả bọn chúng tôi đều tin chắc điều ấy"
Winston và Emma hỏi liên tục, Frank trả lời như cái máy, cố gắng để khỏi rời rạc. Emma nghe một cách suy tư, nàng quay lại nhìn Winston, anh đang pha cho mình scotch và soda, nàng nói:
"Em nghĩ chúng ta nên bắt đầu nghĩ tới những người làm cho chúng ta. NÓ sẽ bị xẹp đi nhiều khi thanh niên bị gọi đi nhập ngữ'. Nàng nín thở, đưa nhanh tay lên cổ. "Trời ơi! Còn lũ trẻ thì sao đây! Kit và Ro bin phải ra đi. Cả Randolph nữa, Winston. NÓ cũng đến tuổi rồi".
- "Ðúng rồi. Sự thật, nó muốn gia nhập hải quân. Ngay tức thì", miệng Winston mím lại. "Nó quyết định làm như vậy. Anh không ngăn nổi nó".
Emma nhìn anh lo âu. Ðứa con trai duy nhất của anh là con ngươi của mắt anh. "Randolph rất ương ngạnh, em thấy thế và cả hai đứa con trai nhà em cũng thế. Chúng nó sẽ không nghe chúng ta đâu. Em nghĩ chúng ta không thể làm được gì. Cuối cùng chúng nó sẽ có được giấy tờ".
Bây giờ nàng quay sang nói với Frank: "ồ, ít nhất thì Simon nhà em cũng chưa đủ tuổi để bị gọi đi"
- "Hiện nay thì đúng thế", Frank nói và đứng lên. Anh róc một ly rượu lớn và đem lại cho Emma:
"Chị nên uống cái này. Em nghĩ chị sẽ phải cần đến nó".
Emma nhìn em trai bối rối. "Tại sao em lại nói thế?". Nàng cau mặt: "Và em biết là chị không thích rượu. NÓ làm tim chị xốn xang".
- "Xin chị cứ uống đi", Frank nói nhỏ nhẹ.
Emma đưa cốc rượu lên miệng, uống một ngụm, chun mũi khó chịu. Nàng để cái cốc xuống khay của người quản gia trước mặt và chú ý tới Frank. Một lần nữa, nàng lại chú ý tới sự xanh tái của anh. Và khi nhìn thấy nỗi lo âu lúc này hằn trên khuôn mặt nhạy cảm của em, nàng hốt hoảng.
Một cảm giác kinh hoàng của thảm họa sắp xuống. Emma chắp hai tay thật chặt để trong lòng.
"Có chuyện gì khủng khiếp xảy ra, có phải không, Frank?".
Frank thấy miệng mình khô đắng, giọng anh khàn đi, cuối cùng anh nói: "Em nhận được tin rất xấu Ngay vừa rồi, trước khi em rời sở". Mặc dù anh đã hết sức kiềm chế, giọng anh vẫn run lên bần bật.
- "Frank yêu, có chuyện gì thế", Emma hỏi, bản năng của nàng nhận thấy chuyện chằng lành.
Winston nói vội vã : "Trên báo không có chuyện gì rắc rối chứ?".
- "Không", Frank trả lời khẽ. "Ðó là... đó là về Paul". "Paul! Em có tin chẳng lành về Paul? Anh ấy làm sao?" Emma vặn hỏi .
"Em không biết nói với chị như thế nào, Emma..." Frank ngừng lại. Sau một giây lát yên lặng khủng khiếp, anh nói tiếp, một giọng đứt quãng: "Anh ấy... anh ấy... anh ấy qua đời rồi".
Emma nhìn em ngây dại không tin, nàng bàng hoàng lắc đầu: "Em nói gì thế?", nàng hỏi, không thể hiểu nổi lời em. "Chị không hiểu em nói gì. Chị vừa nhận được thư của anh ấy mà. Hôm qua.
Em nói gì với chị vậy?" Mặt nàng cắt không còn hột máu, trông như sắp chết và khắp người run lên bần bật.
Frank quì dưới chân chị. Anh ngước nhìn chị trang nghiêm và nắm lấy tay Emma. Anh nói hết sức dịu dàng. "Paul chết rồi, Emma ạ. Tin đưa tới theo đường điện báo trên đường em tới đây".
- "paul", Emma thì thầm hoài nghi, dáng vẻ vừa ngây dại vừa khiếp hãi. Nàng kêu lên giọng run rẩy. "Em có chắc là không lầm không? Chắc là lầm ".
Frank lắc đầu buồn thảm. "Tất cả đường điện báo đều đưa cùng một tin. Em đã kiểm tra tất cả".
- "ôi trời ơi", Em ma rên rỉ, máu nàng đông lại. Winston xám ngắt như xác chết, gượng nói : "Làm thế nào mà Paul chết, Frank?
Frank ngó nhìn Emma, vẻ thê lương trên khuôn mặt anh khi anh tìm những từ thích hợp. Nhưng không có gì làm dịu nổi cơn đau này. Frank thấy mình nói không nên lời.
Emma nắm chặt, những ngón tay nàng cắm vào bàn tay em trai: "Có phải Paul... CÓ phải những vết thương của anh ấy? CÓ phải nó trầm trọng hơn là anh ấy kể với chị không?", giọng nàng nghe yếu ớt.
- "à, vâng, em tin là có trầm trọng hơn là anh ấy làm cho chị hiểu..."
Tiếng chuông cửa làm mọi người giật mình, đôi mắt Emma mở to lo âu, nàng cầu cứu Winston.
Anh gật đầu và cố nhấc mình ra khỏi ghế . Khi rời phòng khách, anh cầu nguyện là không phải báo chí đang muốn tường trình. Winston nhẹ người khi ông quản gia mở cửa cho Henry Rossiter, người chung vốn Ở ngân hàng thương nghiệp tư doanh, người điều khiển tất cả những công việc kinh doanh của Paul Ở Anh và cả của Emma nữa. Nét mặt Henry cũng đau đớn như Winston. Anh bắt tay Winston và hỏi: "Chị ấy có biết không?". Winston cúi đầu. "Chị ấy chịu đựng như thế nào? ", Henry lầm bầm .
Winston nói : "Cô ấy choáng váng. Cái tin đó vẫn còn chưa ngấm. Tất nhiên sẽ có một phản ứng đến chậm, Henry. Tôi run sợ khi nghĩ tới điều đó".
Henry gật đầu thông cảm : "Ðúng. HỌ rất gần gũi nhau. Thật là bi thảm. Làm sao mà Emma biết chuyện?".
Winston giải thích nhanh và chỉ vào phòng khách. "Chúng ta nên vào trong, Henry, cô ấy cần chúng ta".
Henry vào phòng khách và ngồi cạnh Emma. "Tôi đau buồn, hết sức đau buồn. Tôi đến đây thật nhanh. Ngay khi tôi biết tin".
Cổ họng Emma thắt nghẹn, nàng đưa tay để lên đầu đau giần giật. Nàng nói : "Có người nào Ở Sydney liên hệ với anh không, Henry?"
- Có, Mel Harrison. Anh ấy gọi điện cho tôi suốt ngày. Không may, lúc ấy tôi Ở lại nông thôn".
- "Tại sao anh ấy lại không gọi cho tôi nhỉ?". Nàng hỏi một giọng đau buồn.
- "Anh ấy muốn tôi đích thân báo tin cho chị, Em mạ. Anh ấy không muốn chị chỉ có một mình khi nghe..." "Paul chết lúc nào?". Nàng ngắt lời, tim thắt lại. "Thân thể anh ấy được tìm thấy tối chủ nhật. Bây giờ Ở đó là sáng thứ hai. Mel gọi điện cho tôi khi anh ấy đến nhà. Anh ấy thấy là không thể hoàn toàn ngăn được giới báo chí, bởi vì cảnh sát phải...". "Cảnh sát!", Emma thốtlên: "Anh nói sao? Tại sao cảnh sát lại Ở đó?".
Henry nhìn Frank buồn thảm . HỌ nhìn nhau một cách lo ngại và cả hai đều yên lặng. Lúc này Frank nghĩ đến chuyện nói dối Emma, nhưng che đậy chẳng ích gì. Tốt hơn hết là nói thật. Anh nói nhẹ nhàng. "Paul tự sát, Emma ạ".
- "ôi, trời ơi! Không! Không! Không đúng! Tôi không tin! Paul không làm như thế. Không đời nào".
Emma kêu lên.
- "Em sợ dó là sự thật, chị ạ", Frank nói và quàng tay ôm chị.
Emma lắc đầu một cách điên dại, phủ nhận lời Frank. Nàng nhìn như chìm sâu: "anh ấy làm thế nào...". Nàng không thể tiếp tục.
Mcgill được coi là một người giàu có nhất thế giới, là chủ tịch Hội đồng của một số công ty úc gồm Công ty Mcgill điều hành trại cừu, Công ty bất động sản Mcgill và Smythson, Công ty mỏ Mcgill và Công ty than Mcgill. ông cũng là chủ tịch Hội đồng Công ty U Sitex Của Mỹ đóng trụ sở tại Texas, chủ tịch và quản trị trưởng của ngành hàng hải Mcg'll-marnott' làm chủ và điều hành một trong những hạm tàu chở dầu lớn nhất thế giới".
Frank dừng lại. "Còn rất nhiều về công việc, về gia đình, về những chiến tích và học vấn của anh.
Chị có muốn đọc tiếp không, Emma?".
- "Không", nàng thì thầm. Nàng quay về phía Henry một cách khổ sở. "Tại sao anh ấy không kể cho tôi biết về chuyện liệt Mặt của anh ấy? Ðáng lý tôi phải tới chỗ anh ấy ngay. Ðáng lẽ anh ấy nên nói cho tôi biết, Henry". Nước mắt ứa ra hai bên khóe mắt nàng, lặng lẽ chảy xuống má, "anh ấy nghĩ tình trạng của anh ấy sẽ làm tôi khác đi đối với anh ấy sao? Ðáng lẽ tôi phải Ở bên anh ấy". Nàng bắt đầu khóc tức tưởi. "Tôi yêu anh ấy".
Giọng Henry thương cảm : "Mel muốn anh ấy gọi chị đến nhưng chị biết Paul ương bướng và tự hào như thế nào rồi đó. Hình như anh ấy khăng khăng không chịu theo Mel, anh ấy không muốn chị nhìn thấy anh ấy như vậy hoặc biết sự trầm trọng của vết thương hoặc phải nặng gánh với anh ấy".
Emma không nói nên lời. Không nặng gánh với anh ấy, nàng nghĩ, nhưng tôi yêu anh ấy hơn cả chính cuộc sống. ôi, Paul, tại sao anh lại xa lánh em trong lúc anh cần em nhất? Nàng hình dung cơn đau đớn của Paul và nỗi thất vọng khủng khiếp đã đẩy anh tới hành động đó và một nỗi buồn mênh mông nhận chìm nàng.
Emma thấy hình như cả thế giới này đột nhiên ngừng lại. Trong phòng không một tiếng động, ngoại trừ tiếng tích tắc của cái đồng hồ trên bệ lò sưởi. Nàng nhìn xuống chiếc nhẫn ngọc lục bảo Mcgill lấp lánh Ở ngón tay và chiếc nhẫn cưới Paul tặng nàng lúc Daisy mới sinh, nước mắt không kìm được của nàng rơi trên đôi tay bắn lên trên hai chiếc nhẫn. Và nàng nhớ những lời anh nói ngày ấy. Chỉ có cái chết mới chia ly được chúng ta. Nàng đau nhói Ở trong tim.
Nàng ngẩng đầu liếc nhìn chung quanh, người nàng tê dại đi một cách khủng khiếp. Nàng cảm thấy chính mình bị liệt và hoàn toàn không thể nhúc nhích nổi. Cơn đau đã bắt đầu và nàng hiểu với một thoáng rõ ràng sẽ không bao giờ thoát khỏi nó. Nàng nghĩ, mình không thể sống không có anh ấy. Anh ấy là cuộc đời mình. Bây giờ không còn lại gì nữa. Chỉ còn là những năm trống rỗng Ở phía trước để mà chịu đựng cho đến khi cả chính mình cũng chết.
Winston và Frank đều bất lực trong cơn tuyệt vọng của nàng. Winston không thể chịu đựng được trong thấy em đau khổ và gọi điện cho bác sĩ gia đình, mười lăm phút sau, ông này tới. Emma uống một viên an thần, người giúp việc giúp nàng vào giường. Nhưng những tiếng nức nở tiếp tục làm người nàng co quắp và trên hai tiếng đồng hồ, cuối cùng thuốc an thần đã ru nàng trong một trạng thái yên tĩnh hơn.
Anh và em trai nàng, Henry Rossiter và bác sĩ đều Ở lại với Em ma cho đến khi cuối cùng nàng chìm trong giấc ngủ. Khi họ rời phòng ngủ, Winston nói: "Nỗi buồn của cô ấy chỉ là bắt đầu.
Bi kịch đã giáng xuống Emma nhiều lần trong đời nàng. NÓ đã làm nàng loạng choạng, nhưng chưa bao giờ làm cho nàng quị ngã. Cái chết của Paul đã quật ngã nàng chỉ bằng một cú đánh mau lẹ.
Tất cả các con của nàng, trừ Edwina, về nhà với mẹ. Chúng đã từng yêu mến và kính phục Paul, chúng kinh hoàng, và đau đớn nhất là Daisy, người gần gũi với anh nhất. Mỗi đứa, theo cách riêng của mình, đều cố gắng an ủi mẹ, nhưng những cố gắng của chúng đều vô ích.
Vợ của Frank, Natalie, đến ngay lập tức, Charlotte vợ của Winston và con trai của họ, Randolph từ Leeds lên Lon don với Blackie và con trai, Bryan,cả bốn người họ đi cùng với David Kallinski và hai người con trai, Ronnie và Mark. Không ai có thể tới bên Emma và sau cuộc viếng thăm ngắn ngủi trong phòng ngủ của nàng, họ tụ tập trong thư viện, nét mặt ai nấy đều lo âu.
Blackie cố gắng làm nhẹ nỗi lo ngại của họ. Anh nói : "Ngay cả một trái tim mạnh mẽ nhất cũng có thể bị tan vỡ, các cháu ạ. Nhưng một trái tim mạnh mẽ luôn lành lại. Bác có thể đánh cuộc.
Emma là một người sống tốt bẩm sinh và mẹ các cháu sẽ sống qua sự tổn thất này. Và nữa, bác nghĩ tốt hơn là cứ để mẹ các cháu bộc lộ nỗi sầu thương. Bác biết bà sẽ vượt qua được". Anh nói thế và anh nghĩ thế, bởi vì anh biết nàng đã được tạo thành bằng một chất liệu như thế nào.
Nhưng nhiều ngày liền, Emma nằm phủ phục, nửa mất trí, và thiếu mạch lạc vì đau khổ. Nàng trở nên suy nhược đến nỗi Winston đã suy tính một cách nghiêm chỉnh đưa nàng vào nằm viện. Vào những giờ lúc tảng sáng là những lúc tồi tệ nhất đối với Emma. Nàng nằm bất động trên giường, trơ trọi và không còn hy vọng, ngắm nhìn tia sáng màu xám lạnh lẽo bò vào, đợi sự mở đầu của một ngày mới trống rỗng và dài vô tận, chăm chăm ngó như một người lòa vào khoảng không.
Nhưng trí óc hoạt động và nhạy bén của nàng luôn luôn xôn xao và đầy ắp những ý nghĩ rắc rối và trái ngược nhau. Nàng tự hỏi không biết mình có thiếu sót điều gì với Paul. Qua bao năm tháng ấy đã không chuyển đến được cho anh chiều sâu và sự chân thành về tình yêu của nàng.
Nàng tự trừng phạt mình vì đã không đi úc ngay khi anh gặp tai nạn, vì nàng tin mình có thể ngăn anh khỏi nâng khẩu súng tàn hại ấy. Nếu như nàng không nghe lời anh thì có phải nàng đã cứu được anh không, điều này nàng hoàn toàn chắc. Gánh nặng của tội ác nàng quá lớn, sự thất vọng và nỗi khổ của nàng chỉ càng tăng thêm.
Henry Rossiter đã kể cho nàng nghe về những chẩn đoán tối tân của các bác sĩ và dần dần, khi cơn choáng đã lùi lại, nàng lờ mờ hiểu rằng một người như Paul, khỏe mạnh, cường tráng lại coi tự tử là giải pháp duy nhất, có thể thực hiện đối với thế kẹt khủng khiếp của anh, thế nhưng đôi khi nàng cảm thấy hoàn toàn bị bỏ rơi, và bị anh phản bội. Tuy nhiên, nói chung nàng có thể loại trừ cảm giác này coi như những biểu hiện của lòng thương thân, của cơn giận kỳ cục và cảm giác bất lực của chính mình.
Nàng thấy hầu như là không thể hiểu nổi tại sao Paul lại không viết thư, bởi vì nàng không thể chấp nhận là anh có thể tự tử mà không để lại một lời cho nàng, và ngày ngày nàng đều ngóng chờ một lá thư không đến .
Winston trông nom nhà cửa và cửa hàng Knightsbridge. Anh quyết định giữ Daisy Ở nhà, không Ở nội trú, sau khi tất cả mọi người khác trong gia đình đã đi hết. Chính cô cuối cùng đã tới được với Emma, đem đến cho nàng một chút yên ổn. Ðứa con nhỏ nhất của Emma đã chín chắn một cách đáng ngạc nhiên và sự hiểu biết vượt tuổi mười bốn của cô. Nỗi buồn của chính cô bé thật mãnh liệt, nhưng cô đã cẩn thận giấu kín nó trong hầu hết mọi lúc, cuối cùng cô đã đạt được một sự thông cảm thực sự với mẹ.
CÔ thuyết phục Emma mỗi ngày ăn một chút ít và dần dần giúp đẩy lùi những dòng nước mắt với sự hiện diện đầy yêu thương của cô. Thỉnh thoảng Em ma lại nhìn chăm chú vào Daisy và nàng thấy Paul phản chiếu một cách rõ ràng trong khuôn mặt của đứa bé, nước mắt nàng lại rưng rưng, nàng ôm lấy đứa con gái của hai người, gọi tên Paul. Daisy lại lau nước mắt của mẹ và dùng những lời âu yếm an ủi dỗ dành mẹ, ru nàng trong đôi tay y như thể cô là mẹ và Emma là con gái .
Một đêm, sau khi Emma lại suy sụp, Daisy dịu dàng dỗ dành nàng vào một tâm trạng thanh thản, và lần đầu tiên Em ma chìm vào trong giấc ngủ tự nhiên, nặng và sâu. Mấy tiếng đồng hồ sau đó khi nàng thức dậy, nàng cảm thấy được nghỉ ngơi và thậm chí còn đạt được một đôi chút bình tĩnh. Nàng lập tức để ý thấy Daisy đang cuộn tròn trên ghế ngủ gật. Với một tia sáng lóe lên trong đầu, Emma nhận ra rằng nàng đang chồng chất gánh nặng lên Daisy với nỗi buồn của riêng mình trong khi chính đứa bé cần tình yêu và sự chăm sóc. Với một cố gắng phi phàm của nàng, nàng rũ mình khỏi trạng thái hôn mê thờ thẫn, mà một chút sức mạnh đó, luôn luôn mạnh mẽ khủng khiếp bắt đầu nhỏ lại trong thân thể mệt mỏi của nàng.
Emma đứng lên khỏi giường không cần phải giúp đỡ, đi chầm chậm tới gần chiếc ghế dài, hai chân nàng run rẩy, không vững. Daisy lập tức tỉnh dậy và khi cô thấy mẹ đang cúi xuống cô, cô vội nắm lấy tay mẹ, đôi mắt lo âu. "Mẹ có chuyện gì thế? Mẹ lại thấy ốm à?".
- "Không con ạ. Sự thật, mẹ nghĩ là mẹ có khá hơn một chút". Emma ôm lấy Daisy vuốt ve mái tóc óng mượt của con: "Daisy ạ, mẹ rất sai trái, đã đặt gánh nặng buồn phiền lên con. Sai trái quá, con hãy tha lỗi cho mẹ, con yêu. Bây giờ mẹ muốn con chuẩn bị đi ngủ và ngủ một giấc thật ngon. Mẹ không muốn con lo lắng về mẹ nữa. Mẹ sẽ khỏe. Và ngày mai mẹ sẽ gửi con vào nội trú.
Daisy co người lại, nhìn Emma ngạc nhiên, đôi mắt xanh lóng lánh của cô đầy nước mắt. "Nhưng con muốn Ở lại với mẹ. Ðể trông nom mẹ. Ba Paul chắc là muốn thế. Ðúng là thế. Ba không muốn mẹ Ở một mình mà".
Emma mỉm cười dịu dàng: "Con đã trông nom chăm sóc mẹ rất cẩn thận, bây giờ đến lượt mẹ trông nom con. Mẹ sẽ không sao đâu con ạ. Thật đấy".
Daisy khóc và vùi đầu vào ngực Emma, nức nở như muốn vỡ tung con tim. "Nín đi con, cưng. Nín đi con". Emma thì thầm : "Chúng ta phải mạnh và can đảm, và giúp đỡ lẫn nhau trong những năm tháng tới".
- "Con sợ quá, mẹ ơi". Daisy nức nở, nước mắt của cô ướt đẫm chiếc áo ngủ nhàu nát của Emma. "Con cứ nghĩ là mẹ chết mất".
***.
Ðó là một buổi chiều đẹp trời tháng chín, có nắng, ấm áp với một bầu trời không mây rực rỡ sáng, nhưng Emma run người khi nàng bước đi mệt mỏi qua phòng khách, nàng co ro ngồi trong chiếc ghế trước ngọn lửa, sưởi ấm, ý nghĩ của nàng hướng tới những đứa con trai . Chiến tranh đã tuyên bố ngày 3 tháng 9, và mặc dù nàng quá bạc nhược để mà chú ý, nhưng tình hình cũng không thể làm ngơ. Nước Anh đang động viên với cùng một tốc độ và tính hiệu quả y như hồi nàng còn trẻ và nàng hiểu là họ sẽ còn bị bao vây một thời gian dài.
Cảm thấy đã ấm hơn, nàng cựa mình trong ghế. Khi làm như vậy một vài ánh sáng chiếu lên sự tàn phá mà nỗi đau buồn của nàng đã đưa lại. Nàng đã sụt cân nhiều và trông gầy guộc một cách đau lòng trong chiếc áo dài len đen đơn giản, sự khắc khổ của nó không hề được các đồ trang sức làm giảm đi. Ðồ trang sức duy nhất của nàng đeo là những chiếc nhẫn của Paul và một cái đồng hồ. Nhưng tóc nàng sáng và ánh lên chất sống.
- "Anh đây em", Blackie gọi to từ ngưỡng cửa, làm nàng giật mình. Nàng đứng lên đón anh, cố mỉm cười. "Anh Blackie, rất mừng được gặp anh", Emma nói và ôm lấy anh.
Anh ôm nàng trong đôi tay, giữ chặt lấy nàng trong bộ ngực to lớn của mình, anh nghẹn ngào khi thấy thân thể mỏng manh của nàng. Nàng chỉ còn xương và da. Anh đưa nàng lùi ra, nhìn xuống mặt nàng và để tay dưới cằm nàng. "Em thật là xinh đẹp, em gái. Thấy em khỏe khoắn và đi lại được thật là sung sướng".
HỌ ngồi trước ngọn lửa, trò chuyện một lúc về chiến tranh và khả năng lũ con trai phải đăng ký vào quân đội. "Bryan đang Ở Lon don với anh", Blackie nói với nàng. "Cháu nó muốn đến cùng với anh hôm nay, nhưng không dám chắc là em đã khỏe hay chưa?"
- "ôi, Blackie, em thất vọng quá. Em rất muốn gặp cháu, nàng kêu lên, nét mặt rạng rỡ.
"Ngày mai cháu có đến được không? Anh biết Bryan thân thiết đối với em như thế nào".
- "Tất nhiên là nó có thể đến. Anh sẽ đích thân mang cháu đến", Blackie nhìn nàng một cách cảnh giác : "Em nghĩ là bao giờ em hồi phục hằn để có thể quay lại cửa hàng?".
- "Tuần sau. Thực ra, bác sĩ phản đối điều này. ông ấy muốn em đi Yorkshire nghỉ ngơi. Nhưng quả thực em không thể sao lãng công việc lâu hơn nữa, và như vậy không công bằng với Winston. Anh ấy phải gánh chịu mọi trách nhiệm. Vả lại, anh ấy cũng phải trởlại Leeds. Chúng tôi phải tổ chức lại nhiều.
- "Anh ấy hiểu em. Chính anh cũng phải gặp những vấn đề như thế. Dù sao, anh nghĩ quay trở lại với công việc cũng là một điều hay đối với em, để em khỏi nghĩ vẩn vơ".
Mặt nàng thoáng u ám, "phải, đúng thế". Người hầu gái gõ cửa và mang khay trà vào. Emma đưa mắt nhìn bình trà Georgian một cách mệt mỏi, tự hỏi không hiểu mình có đủ sức để nâng nó lên không. Nhiều ngày nay, nàng như một người bị bệnh tê liệt, luôn đánh rơi, đánh đổ các thứ.
Nàng nâng bình nước lên một cách cẩn thận và róc ra hai tách nàng thấy nhẹ nhõm trong người, lần đầu tiên tay nàng không run.
Nàng nói: "Hôm qua em đã nói với David. Anh ấy có vẻ rất chán nản. Ronnie và Mark đã gia nhập quân đội. Anh ấy nhớ chúng kinh khủng. Chúng là tất cả cuộc đời anh từ khi Rebecca chết".
Anh quan sát thấy mù sương trong mắt nàng và nói nhanh. "Anh ấy sẽ không sao đâu, Emma.
Anh sẽ chú ý đến anh ấy khi anh trở lại Leeds. Ðưa anh ấy ra khỏi cái lăng tẩm vĩ đại nơi anh ấy sống trong sự lộng lẫy cô đơn. Lại bắt đầu sống với xã hội sẽ có lợi cho anh ấy".
- "Em mong anh làm như thế, anh thân yêu. Em quả là lo lắng cho anh ấy". Em ma nhìn vào ngọn lửa một cách trầm tư và khi nàng quay về Blackie, vẻ mặt nàng buồn thảm : "Làm sao người ta có thể đi tiếp đường đời, Blackie? NÓ nặng nề quá, phải thế không?", - "Ðúng thế, nhưng không phải là không thể được, Em ma. Không phải đối với một người có lòng dũng cảm như em".
- "Mấy tuần lễ vừa rồi e m không được khỏe lắm", nàng nói một cách buồn bã.
- "Em không thể quá vội vã được đâu, Emma. Em còn phải làm cho quen dần. Em phải cho mình có thời gian, em thân yêu.
- "Không biết sau khi Lau ra mất đi thì anh làm thế nào?", nàng hỏi.
- "Lúc ấy anh cũng thỉnh thoảng hỏi mình như vậy", anh mỉm cười yếu ớt. "Sau khi anh trở lại mặt trận, anh đã cố gắng làm sao để nhận một viên đạn, để được chết đi. Nhưng Chúa lòng lành đã che chở cho anh khỏi sự rồ dại của mình. Sau chiến tranh, phải mãi anh mới tha thứ được cho anh sao vẫn cứ còn sống, nhưng khi anh đã tha thứ cho mình anh lại bắt đầu sống lại. Anh nhìn chung quanh và nhận thức được trách nhiệm của mình, trách nhiệm của anh với Bryan. NÓ nâng đỡ anh nhiều, Emma. Nguồn cổ vũ lớn lao, cũng như Daisy sẽ là như vậy đối với em, tính cách giống em nhất. NÓ hiểu em và tôn sùng em, em gái".
- "Vâng, em biết", Emma trả lời lặng lẽ và lại nhìn đi... "Em quả là... quả là không biết em có thể tiếp tục sống như thế nào, không có Paul..."
Blackie cầm lấy bàn tay nàng và nắm chặt lấy. "E m có thể, em thân yêu. Em sẽ sống . Linh hồn của con người có sự chịu đựng ngoan cường". Anh ngừng lại, đôi mắt đen của anh lướt qua khuôn mặt thảm thương của nàng. Anh nói dịu dàng: "Em có nhớ Laura đã nói gì với em khi chị ấy hấp hối không? Anh không bao giờ quên những lời ấy từ khi em nhắc lại cho anh nghe và nó đã giúp anh nhiều lần. Em có nhớ chị ấy đã nói như thế nào về cái chết không, Emma?"
Emma gật đầu. "Có, em nhớ những lời của chị ấy như thể mới hôm qua. Laura nói trong vốn từ vựng của mình không có chữ gì gọi là chết và chừng nào em sống và anh sống tức là chị ấy vẫn còn, bởi vì chúng ta sẽ mang kỷ niệm của chị ấy trong tim mãi mãi".
Blackie nói : "Ư, em gái ạ, và chị ấy là một người đàn bà từng trải, Laura của anh. Chị ấy thành thực tin điều ấy, cũng như anh đã đi tới chỗ tin điều ấy, cũng như em phải tin nó. NÓ sẽ giúp em, anh biết. Và cũng như anh có Bryan thì em có con gái của Paul. NÓ là một phần máu thịt của anh ấy, một phần của anh ấy, và em phải trung thành với ý nghĩ đó, tìm thấy sức mạnh Ở đó".
Những lời của anh hình như đã cho nàng niềm an ủi, anh nói tiếp. "Em cũng nói với anh là Laura nói Chúa không bao giờ cho ta một gánh quá nặng không thể mang nổi. Chị ấy nói đúng, Emma.
Em hãy nghĩ tới điều đó". Anh thở dài khe khẽ. "Anh biết em đau lòng lắm, và em cảm thấy lạc lõng, cô đơn. Nhưng chúng ta không ai cô đơn cả, Emma. Tất cả chúng ta đều có Chúa, và Chúa đã cứu giúp anh qua năm tháng. Tại sao em không thử hướng tới Người?"
Ðôi mắt Emma mở to : "Anh biết là em không tin Ở Chúa". Quan sát vẻ mặt của nàng, Blackie kìm lại không bình luận gì thêm và khôn khéo nói sang chuyện khác.
Nhưng sau đó, sau khi rời nhà Emma, Blackie đi tới nhà thờ Brompton Oratory. Anh làm dấu thánh giá khi bước vào tòa nhà thờ cổ và đẹp đó, ngồi xuống chiếc ghế dài có tựa ngước nhìn lên bệ thờ. Anh cầu nguyện Chúa đem đến cho Emma niềm an ủi và lòng dũng cảm trong sự mất mát khủng khiếp này, và anh cầu nguyện cho linh hồn nàng.
Ðêm hôm đó trước khi đi ngủ, Em ma ngồi bên cửa sổ phòng ngủ của nàng hàng giờ nghĩ tới những lời nói của Lau ra. bầu trời xanh thẳm, trong sáng lấp lánh muôn nghìn vì sao, mặt trăng màu bạc nhạt ngự trên bầu trời. Vẻ đẹp của nó lộ ra thật hoàn hảo khiến nàng muốn ngạt thở, và nàng đột nhiên bị choáng ngợp bởi một cảm giác của cõi vô cùng. Ðây là một cảm giác mà trước đây nàng chưa hề có, nàng cảm động một cách kỳ lạ khi ngồi nhìn vào bầu trời đem, không thể nào tưởng tượng được nổi ấy. Thế rồi nàng thấy hình như Paul đang Ở trong phòng này cùng với nàng. Và nàng nghĩ, mà tất nhiên là như thế, bởi vì anh ấy mãi mãi trong trái tim mình.
Và nàng lấy được sức mạnh từ nguồn hiểu biết ấy, đêm ấy nàng ngủ một giấc sâu và ngon lành.
Hai ngày sau, Em ma nhận được một lá thư của Paul. Thư được gửi đi ngày trước hôm anh chết và phải mất ba tuần nó mới đến nơi. Nàng nhìn nó một hồi lâu trước khi có đủ can đảm mở phong bì và lấy lá thư ra đọc.
"Em thân yêu nhất của anh. Em là cuộc sống của anh. anh không thể sống không có cuộc sống của anh. Nhưng anh lại không thể sống với em. và vì thế anh phải kết thúc sự tồn tại khốn khổ của anh, bởi vì bây giờ thì không còn tương lai gì cho chúng ta Ờ bên nhau nữa rồi. Sợ rằng em nghĩ sự tự tử của anh là một hành động yếu đuối, thì hãy để cho anh bảo đảm với em rằng nó không phải như thế đâu. đÓ chính là một hành ng của sức mạnh và ý chí bởi vì làm việc này nghiã là anh đã lấy lại được sự tự chủ đối với bản thân mà anh đã mất trong mấy tháng vừa qua. ÐÓ là một hành động cuối cùng của sức mạnh với ch'nh số mệnh của anh.
Ðó là con đường thoát duy nhất cho anh, em yêu. và anh sẽ chết với tên em Ờ trên môi anh, với hình ảnh của em trước mắt anh, với tình yêu anh dành cho em mãi mãi Ờ trong tim mình. Chúng ta đã may mắn, Emma. Chúng ta đã có bao nhiêu năm tháng tốt đẹp bên nhau, chia sẻ cho nhau thật nhiều, và những kỷ niệm hạnh phúc trong lòng anh cũng như anh biết nó sống trong lòng em và sẽ còn chừng nào em còn sống. anh cảm ơn em đã cho anh những năm tháng tốt đẹp nhất của anh.
Anh không gọi em đến bởi vì anh không muốn em bị bó buộc vào một mẻ tàn phế vô phương cứu chữa, dù chỉ nhiều nhất là vài ba tháng. CÓ lẽ anh lầm chăng. mặt khác, anh muốn em nhớ tới anh như ngày trước, chứ không phải là anh sau ngày gặp tai nạn. hư danh chăng? CÓ lẽ. Nhưng em hãy gắng hiểu những lý do của anh, và, hãy gắng, em yêu, tìm trong lòng em niềm tha thứ.
Anh hết sức tin tưởng Ờ em, Emma thân yêu nhất. Em không phải là con người yếu đuối . Em khỏe mạnh và bất khuất em sẽ tiếp tục một Cách dũng cảm. Em phả sống vì còn con chúng ta. đó là hiện thân về tình yêu chúng ta và anh biết em sẽ yêu thương, chăm sóc nó, nuôi dạy nó lớn lên cũng dũng cảm, kiên cường, yêu kiều như chính em. Anh ký thác nó cho em, em yêu.
khi em nhận được thư này thì anh đã chết rồi. Nhưng anh sẽ tiếp tục sống trong Dasy . Bây giờ nó là tương lai của em, Emma của anh. Tương lai của anh nữa.
Anh yêu em với tất cả lòng anh, cả hồn anh, tình anh, và anh cầu nguyện Chúa một ngày nào chúng ta được đoàn tụ trong cõi vô cùng.
Anh hôn em, em thân yêu.
Paut.
Emma ngồi bất động trên ghế, tay nắm chặt lá thư, nước mắt ứa ra và lặng lẽ lăn trên đôi gò má xanh xao. Nàng nhìn thấy anh trong tâm tưởng, cao lớn, đẹp trai, đôi mắt màu tím của anh tươi cười và nàng nhớ lại anh như anh muốn nàng nhớ. Nàng nghĩ những năm tháng, niềm vui và tình yêu anh đã cho nàng. Và nàng đã tha thứ cho anh, đã thương anh giờ đây khi đã hiểu cả tình thế tiến thoái lưỡng nan và những động cơ của anh. ***.
Ðầu tháng mười, Mel Harrison đi một chuyến máy bay Qantas từ sydney đến Karachi và từ đó đáp máy bay Anh đi Anh. Mấy hôm sau anh đến Anh. Mục đích của anh : gặp E in ma và đưa chúc thư của Paul Mcgill cho các cố vấn pháp luật của Mcgill Ở Anh và Châu âu.
Emma mặc đồ màu đen khắc khổ trông xanh xao và mong manh như thế khi nàng tới Price, Ellis, và Watson để nghe đọc chúc thư cuối cùng của Paul Mcgill. Winston, Frank và Henry Rossiter đi cùng với nàng.
- "paul trao cho chị là người thi hành về tài sản của anh ấy", Mel thông báo cho nàng khi nàng vừa ngồi xuống. Nàng ngạc nhiên, nhưng chỉ gật đầu, lúng túng không tìm được từ gì.
CÓ chúc thư cho các gia nhân, cho những người làm công cũ đã trung thành và một quỹ tín dụng hai triệu pound để cung cấp cho vợ và con trai anh khi họ còn sống. Khi nào họ chết thì quỹ sẽ để cho từ thiện. Toàn bộ gia sản của mình, anh để cho Emma vĩnh viễn, chuyển sang cho Daisy sau khi nàng chết và từ Daisy chuyển qua con cháu. Trước sự ngạc nhiên của Emma, Paul đã để lại cho nàng mọi thứ anh có, trị giá trên hai trăm triệu pound. Anh đã làm nàng trở thành một trong những người phụ nữ giàu có nhất thế giới và con gái của họ là người thừa kết một cơ đồ lớn. Nhưng điều làm Em ma cảm động nhất là Paul đã dành cho nàng sự kính trọng mà người ta thường để cho người vợ hợp pháp chứ không phải là vợ bé. Trong cái chết hay trong cuộc sống, paul dã tuyên bố lòng tận tụy và tình yêu của anh đối với nàng, dã công nhận nàng với toàn thể mọi người. Và tài sản dòng họ nhà Mcgill đã chuyển vào tay nàng.
Nỗi đau buồn của Emma là một tấm áo bằng sắt, nhưng dần dần nàng phải đương đầu với nỗi đau lòng của mình. Sự thật mà nói nỗi sầu của nàng không thực sự giảm bớt, nàng nhớ Paul và mong mỏi anh thường xuyên, nhưng nàng làm chủ được xúc động của mình, những tuần lễ qua đi, nàng bắt đầu hoạt động như xưa. Vả lại, nỗi khổ não của nàng bị câm nín bởi hoàn cảnh đời nàng và cuộc khủng hoảng của thế giới.
Nàng bị choáng bởi những vấn đề cấp bách khi nước Anh nhào vào cuộc xung đột châu Âu, do đó nghị lực của nàng phải dồn vào, không còn thì giờ và sức lực cho suy nghĩ riêng tư. Các con trai nàng vào quân ngũ, Kit vào bộ binh, Robin vào không quân.
Elizabeth ghi tên học ở Hàn lâm viện nghệ thuật kịch mùa hè năm 1936 đã lặng lẽ lấy Tony Barkstone trong mùa Giáng Sinh. Mặc dù Elizabeth mới mười tám tuổi và hãy còn quá phù phiếm để mà lấy chồng, nhưng theo ý của Emma, nàng không đủ can đảm để mà phản đối. Mỗi người đều phải nắm bắt hạnh phúc khi họ có thể, đặc biệt là trong cái thời gian khủng khiếp này, và mặc những mối nghi ngại của mình, nàng cũng vẫn ban phước. Đôi bạn trẻ này rõ ràng là phải lòng nhau. Emma đồng ý Tony, bạn của Robin ở trường Cambridge và cũng là phi công của không lực hoàng gia Anh.
Mặc dù tình thế khẩn trương, không khí vui vẻ vẫn ngự trị trong đám cưới và cả gia đình lại có một thời gian ngắn ngủi để đoàn tụ, trừ Edwina, vẫn ghẻ lạnh với Emma, và Kit không được phép về. June, vợ mới cưới được một năm của cậu cũng tới London để dự đám cưới và ở lại với Emma đến hết năm mới. Tháng giêng năm 1940, Elizabeth bỏ Hàn lâm Hoàng Gia để trở thành y tá của hội Hồng thập tự, trước sự ngạc nhiên của Emma. “Mẹ cứ nghĩ con luôn mơ ước trở thành một diễn viên nổi tiếng và được đọc tên con trên ánh đèn quảng cáo”, nàng thốt lên khi nghe được tin này. “Ồ, giã từ tất cả những trò nhảm nhí ấy”. Elizabeth vội trả lời. “Con cảm thấy con cũng phải là một bộ phận của những cố gắng chiến tranh mẹ ạ”, Emma có ấn tượng tốt đẹp đối với sự nghiêm chỉnh của Elizabeth và lòng tận tụy của cô đối với công việc y tá, nàng bắt đầu nghĩ rằng cuộc hôn nhân sẽ có một ảnh hưởng làm ổn định đứa con ương bướng nhất của nàng.
Tin tức ngày một xấu đi, và đến tháng ba, Emma đã nghĩ đến chuyện cho Daisy đi Mỹ để sống với gia đình Nelson ở điền trang Hudson River của họ. Nhưng càng nghĩ đến chuyện này, nàng cảm thấy nản lòng, nàng thừa nhận việc vượt đại dương có thể nguy hiểm, nàng quyết định là chỗ ở hiện nay của đứa bé trong trường nội trú ở Ascot có lẽ là chỗ an toàn nhất.
Những tháng tiếp theo, Emma lao vào công việc một cách hăm hở, nhưng nàng cũng tiếp nhận thú tiêu khiển. Henry Rossiter trước đây phụ trách một số công việc kinh doanh của nàng. Bây giờ làm cố vấn tài chính chủ chốt, bởi vì bây giờ nàng phải cai quản tất cả tài sản của McGill cũng như của nàng. Nàng tiếp xúc thường xuyên với Mel Harrison ở Sydney và Harry Marriott ở Texas, ngày của nàng dài hơn và căng thẳng hơn bao giờ hết bởi vì trách nhiệm của nàng nhiều hơn. Nàng là máy phát điện như trước đây hồi còn trẻ và hồi thế chiến lần thứ nhất khi nào cũng phải đơn thương độc mã với đời. Nếu như qua năm tháng nét mặt của Emma có nghiêm nghị hơn thì tất cả những khuôn mặt khác ở nước Anh cũng vậy, bởi vì cả đất nước đang ở trong sự tuyệt vọng khi cuộc tấn công ồ ạt như vũ bão của Hitler tiếp tục không giảm.
Khoảng cuối tháng năm, ngay sau ngày sinh thứ năm mươi tư, David Kallinski tới London để bàn về lãi suất chung của anh với Emma. Anh vẫn là một con người đẹp trai, đôi mắt xanh sắc sảo của anh vẫn không bị mờ đi, mặc dù tóc anh đã điểm bạc và bụng đã hơi to. Lòng tận tụy của anh đối với Emma không thay đổi qua năm tháng và anh luôn luôn quan tâm đối với nàng. Anh nhẹ nhõm trong lòng khi nàng đón anh tại ngôi nhà ở quảng trường Belgrave, anh thấy ngay rằng khuôn mặt ấy đã mất vẻ hốc hác và nhan sắc của nàng đã trở lại và nàng cũng béo ra được một chút. Một lát sau, Blackie cũng đến và sau một bữa ăn tối nhẹ, họ dời sang thư viện để uống cà phê.
- “Các anh có nghĩ rằng chúng ta có khả năng đưa lũ thanh niên ra khỏi bãi biển không?”. Emma hỏi, nàng không phải chỉ nghĩ tới Kit hay Ronnie và Mark Kallinski mà là tới hàng ngàn binh lính Anh đang mắc cạn ở Dunkirk.
- “Nếu như có người nào có thể làm được việc đó, thì lạy Chúa, người đó chính là Winston Churchill”. Blackie khẳng định. Anh cựa mình trên ghế và nói tiếp: “Ông tập hợp một đội tàu mà thế giới chưa bao giờ có, mặc dù là một đội pha tạp. Nhưng do được gắn bó với nhau trong cùng một mục đích – đưa những thanh niên của chúng ta an toàn về Deal và Ramsgate trước khi bị bọn Đức tiến qua những nước thấp về Pháp tiêu diệt”.
- “Tôi đọc thấy họ tới từ khắp nước Anh để yểm trợ cho tàu khu trục của Hải quân hoàng gia”, David vừa lập bập điếu cigar vừa nói xen vào. “Những người tình nguyện của mọi giai tầng xã hội với đủ các loại thuyền, thuyền mái chèo, thuyền đánh cá, thuyền du lịch và ngay cả sà lan nữa. Đó là một sự biểu lộ của lòng yêu nước và chủ nghĩa anh hùng tốt đẹp nhất chưa từng thấy suốt cuộc đời tôi”.
Blackie gật đầu. “Ừ, đúng thế, David. Bảy trăm chiếc thuyền đủ mọi hình dáng, kích thước, tất nhiên là gồm cả khu trục. Hình như những người tình nguyện đã đón các thanh niên và đưa họ vào những con tàu lớn hơn không thể đến gần bãi biển. Những con người thật là dũng cảm không biết mệt mỏi”.
- “Các anh nghĩ rút đi phải mất bao lâu?”, Emma hỏi khẽ, nàng hết nhìn Blackie lại đến David một cách kinh hoàng.
David nói ít nhất cũng phải vài ngày nữa. Có đến hàng trăm ngàn quân Anh và Pháp phải đưa ra.
- “Hôm nay em đọc báo thấy không quân Đức vẫn tiếp tục oanh tạc dữ dội vùng bờ biển”, Emma nói, “Em lo sợ khi nghĩ đến những tổn thất”.
- “Nhất định là phải chút ít tổn thất, Emma”, Blackie nói. “Nhưng không lực hoàng gia đã cất cánh trên những chiếc phi cơ chiến đấu, giáng những đòn chí tử cho…” “Bryan, Robin và Tony ở trong số đó, Blackie”, Emma nói xen vào và nhìn đi chỗ khác.
- “Tất cả chúng ta ngồi ở London này đều cảm thấy thất vọng và khổ sở. Nhưng chúng ta chỉ còn biết cầu nguyện cho con cái chúng mình. Và chúng ta phải vui vẻ lên", Blackie nói: “Nào thôi, chúng ta uống một chút nữa. Như vậy tốt đấy”. Trong khi Emma pha rượu, con mắt Blackie nhìn vơ vẩn lên chiếc đồng hồ trên bệ lò sưởi. “Chúng ta vặn radio được không, Emma? Winston Churchill sắp sửa nói”.
- “Vâng, tất nhiên”. Emma cũng muốn nghe ông ấy nói. Nàng đứng lên, mở nút, dò đài BBC, một phút sau, giọng nói quen thuộc mạnh mẽ vang lên: ‘Chào các quí vị. Đây là đài Thủ tướng”. Ba người bạn cũ, những người đã chia sẻ với nhau rất nhiều trong ba mươi năm qua, ngồi lại nghe, họ càng gắn bó với nhau trong nỗi lo sợ cho những đứa con trai của nước Anh. Khi Thủ tướng nói xong, mắt Emma cay cay, giọng nàng run run khi nói: “Con người ấy đã đem lại cho chúng ta một sự truyền cảm to lớn làm sao. Nếu không có Churchill thì chỉ có Chúa mới giúp nổi chúng ta thôi”.
Thiên anh hùng ca Dunkirk đã làm choáng ngợp trí tưởng tượng của nước Anh và các đồng minh của nó. Như từ địa ngục trở về, những con thuyền nhỏ và những thuyền có mái chèo, những con tàu du lịch đã đưa những người sống và những người bị thương trở về.
Cuộc rút đi đã diễn ra trong mười một ngày và 340,000 quân đội Đồng minh đã được cứu lúc quân Đức chiếm thành phố biển của Pháp. Chỉ còn 40,000 hầu hết là người Pháp còn đọng lại phía sau. Emma và David may mắn. Trong số những người được đưa vào bờ có Tony và Mark, và ngày 3 tháng sáu, Kit đã bước ra khỏi sà lan đưa cậu đến Deal qua biển Manche bập bềnh sóng vỗ và chất lên thuyền những vật đổ nát. Sau đó Kit nói với Emma khi cậu nghỉ phép về: “Thật là hút chết, mẹ ạ. Chắc con phải có một thiên thần hộ mệnh phù hộ cho con”. Cậu ôm chặt mẹ. Bám lấy con, nàng nghẹn ngào nghĩ đến cha nó đã chết ở Pháp năm 1816, rõ ràng là vô ích.
Ngày 4 tháng sáu, Winston Churchill tới Hạ nghị viện và đọc một bài diễn văn về Dunkirk. Có một đoạn, ông nói: “Chúng ta sẽ chiến đấu, trên bãi biển, chúng ta sẽ chiến đấu trên bãi hạ cánh của máy bay, chúng ta sẽ chiến đấu ngoài cánh đồng, trong các phố, chúng ta sẽ chiến đấu trên đồi, chúng ta sẽ không bao giờ đầu hàng”.
Sáu ngày sau đó, chính phủ Pháp và bộ chỉ huy quân sự bỏ chạy khỏi Paris khi quân đội Quốc xã tiến đến gần hơn. Bốn ngày sau đó, thủ đô Pháp bị Đức chiếm đóng mà không tốn một viên đạn. Nước Pháp thất thủ.
Anh đứng một mình.
Mùa hè ấy là mùa hè tồi tệ nhất mà Emma có thể nhớ được. Tháng bảy, cuộc chiến ở Anh bắt đầu khẩn trương. Hitler đã ra lệnh tổng tấn công không lực hoàng gia Anh, đặc biệt là các nhà máy, máy bay của Anh, và những căn cứ chiến đấu chung quanh London.
Ngày qua ngày, đêm qua đêm những tốp máy bay ném bom khổng lồ Dornier và Heinkel lướt qua biển Mache để tán vụn nước Anh, trong khi những chiếc máy bay chiến đấu Messerschmitt đánh bại những chiếc Hurricane và Spitfire của không lực hoàng gia Anh.
Ban đêm thức giấc vì tiếng còi báo động phòng không rú lên, Emma trở dậy đứng bên cửa sổ trong căn phòng ngủ tối tăm của nàng, nhìn ra bầu trời đêm lấp lánh sao và chiếu sáng bởi những ánh đèn pha rọi máy bay và tiếng ầm ĩ vang lên không ngớt của máy bay ném bom và máy bay chiến đấu, tim nàng đau đớn khi nghĩ đến Robin, Tony, và Bryan cùng những phi công trẻ khác ở trên cao kia, tính mạng đang bị đe dọa. Một vài đêm, Elizabeth cũng ở bên nàng, cô đã bỏ ngôi nhà nhỏ cô ở những ngày ở Hàn lâm Hoàng Gia để ở nhà. “Mẹ thức đấy hở mẹ?”, cô luôn luôn thì thào như vậy và lướt vào phòng trong chiếc áo ngủ. “Ừ, con à”, Emma trả lời và cả hai đứng bên nhau, hai tay vòng ôm nhau, nhìn máy bay gầm rú bay qua.
Một đêm, Elizabeth nắm lấy cánh tay mẹ một cách dữ dội, giọng cô khàn khàn một cách khác thường khi cô kêu lên. “Tại sao, tại sao? Tại sao cuộc chiến tranh kinh khủng này lại cứ phải xảy ra? Mục đích của nó là cái gì? Tất cả sẽ bị giết chết! Tony, Robin, Bryan, và tất cả những thanh niên khác của chúng ta!”.
Emma không có câu trả lời nào cho con gái, hay cho chính mình. Elizabeth trở nên điên cuồng, cô khóc nức nở không sao kìm được. Emma ôm vai Elizabeth và dẫn con tới bên giường. “Họ sẽ không bị giết chết đâu, con ạ”, nàng an ủi, “họ sẽ không làm sao đâu. Mẹ hứa với con như thế. Chúng ta phải dũng cảm lên. Vào giường mẹ và ngủ với mẹ đêm này. Chúng ta sẽ làm bạn bên nhau”.
- “Vâng, con nghĩ thế, mẹ ạ”, Elizabeth nói và chui vào trong chăn. Emma ôm chặt con y như hồi còn nhỏ và sợ bóng tối. “Đừng khóc và hãy cố đừng lo lắng Elizabeth”.
- “Nếu Tony bị giết thì con sẽ không thể nào chịu được đâu”, Elizabeth nói qua những dòng nước mắt. “Con yêu anh ấy lắm. Và nếu Robin…”
- “Im đi con. Cố ngủ đi. Con phải nghỉ ngơi”.
- “Vâng, con sẽ cố. Cám ơn mẹ. Chúc mẹ ngủ ngon”.
- “Chúc con ngủ ngon”.
Emma nằm trong bóng tối, đợi cho thân thể căng thẳng của Elizabeth trùng xuống và mềm rũ ra trong giấc ngủ. Nhưng nó không và Emma hiểu rằng con gái nàng sẽ qua một đêm mất ngủ nữa lo lắng về chồng và đứa em trai cũng như chính nàng.
Emma có thói quen đi bộ tới cửa hàng Knightsbridge hàng ngày và khi mùa hè bồng bềnh trôi đi, nàng vẫn đi như vậy trong tiếng súng phòng không, tiếng còi báo động rền rĩ, những đống đổ nát những tấm kính vỡ. Nàng chùn bước khi thấy một mốc đường nào đó bị phá hủy, những nơi nàng và Paul hay lui tới ngày trước bị san bằng. Thế nhưng mặc dù nét hoang tàn của London, vẻ lạnh lẽo của nó, dáng mệt mỏi trên những nét mặt đi qua trên phố, Emma kinh ngạc trước cái kiên cường, bất khuất của đồng bào nàng cả nam lẫn nữ. Thường thường một giọng Cockney vui vẻ lại cất lên một bài ca, có lẽ là một người lính cứu hỏa đang vun một đống gạch bốc khói, hoặc một người công nhân đang dọn một đống hoang tàn, hoặc một người lái taxi buông một lời đùa bỡn và họ làm trái tim nàng thêm dũng cảm. Vào những lúc như thế này nàng lại nhớ đến những lời ca của Churchill: “Chúng ta sẽ không bao giờ đầu hàng”, và sức mạnh của nàng lại phục hồi, dáng đi nhảy nhót, lưng thẳng lại, đầu ngẩng cao tự hào. Và những gánh nặng của nàng hình như nhẹ hơn, dễ mang hơn.
Mùa hè đã gần hết. Tháng chín, phần lớn những vũng tàu đậu ở miền cuối Đông bị phá hủy trong một trận oanh tạc khổng lồ. Những trận ném bom hàng ngày vẫn tiếp tục, các phi công của không lực hoàng gia đã dốc hết sức lực, hay những phi vụ không ngừng nghỉ. Những hạn nghỉ phép hai, ba ngày bị bãi bỏ và đã hàng tuần nay Emma không nhìn thấy Robin. Không lực hoàng gia là khâu phòng ngự cuối cùng của Anh, và mặc dù là một tróc ba, các chiến sĩ áo xanh trong những chiếc Spitfire và Hurrican của họ đã vượt lên những chiếc Luftwaffe. Đến tháng mười thì kế hoạch của quốc trưởng tiêu diệt không lực hoàng gia và bẻ gãy tinh thần của dân Anh, đã tỏ ra là một thất bại. Sự thật, Hitler đã chịu thất bại to lớn đầu tiên. Nhưng máy bay ném bom của Đức vẫn tiếp tục những trận ném bom đêm trên những thành phố lớn, san phẳng nhiều thành phố và những năm đen tối kéo dài vô tận. Những năm của những trận oanh tạc dữ dội: phiếu mua hàng, phiếu thực phẩm và xếp hàng, khan hiếm và thiếu thốn, sầu não, buồn khổ khi những người bạn cũ bị giết hoặc có tên trong danh sách những người mất tích trong chiến đấu. Nhưng ở giữa đống hoang tàn vẫn có sự tái sinh kỳ diệu. Năm 1942, June vợ của Kit sinh một đứa con gái. Emma yêu June và sung sướng có một đứa cháu thứ hai, nàng lên Leeds để dự lễ rửa tội cho đứa bé được đặt tên là Sarah.
Cùng năm ấy, mỗi học kỳ mùa hè, Daisy rời nội trú, về nhà sống với mẹ và Elizabeth ở quảng trường Belgrave. Giờ đây ngôi nhà dường như không còn hiu quạnh, và thậm chí có những giây phút vui vẻ và tiếng cười, đặc biệt khi Robin từ Bigginhill, nơi cậu đóng quân trở về. Bao giờ cậu cũng đem theo một hoặc hai chiến hữu của không lực hoàng gia đội bay 111 về và giải thích với Emma: “Các cậu này sẽ ở lại với chúng ta mẹ ạ. Được chứ mẹ? Tất cả các khách sạn đều chật ních cả rồi”. Emma đồng ý. Sự thật, nàng sẵn lòng mở rộng cửa và trái tim mình cho những phi công trẻ tuổi bất khuất này.
Vào ngày Giánh sinh, Robin may mắn được nghỉ ba ngày vào phút cuối và cậu trở về không báo trước vào đêm Noel, như thường lệ, đem theo ba người bạn. Lúc David Amory bước vào phòng khách, Emma thót tim. Cậu cao lớn da ngăm đen, đôi mắt xanh sáng và nụ cười lóe sáng, một cái gì trong dáng vẻ và điệu bộ của cậu làm nàng nhớ đến Paul McGill. David không đẹp trai như Paul trước đây khi còn trẻ, cậu cũng không có được vóc dáng đồ sộ hoặc sự táo tợn của anh, nhưng cậu vẫn gợi kỷ niệm của Paul trong Đệ nhất thế chiến, David hai mươi tư tuổi, mới đến Bigginhill mà đã có vẻ như một người hùng trong chiến đấu. Với một vẻ chân thật đáng mến, cậu đã làm cho Emma mến ngay.
Mùa Giáng sinh ấy thật là vui, ngôi nhà vang lên tiếng cười. Những người đùa nghịch tuy thân ái nhưng rất gay gắt giữa các thanh niên của không lực hoàng gia và các cô con gái của nàng, tiếng nhạc không ngớt của máy quay đĩa và tiếng cốc chạm nhau.
Emma tiếp đãi rất vui vẻ, che chở tất cả cho mọi người, nàng cũng thích thú y như bọn trẻ. Nhưng dù nàng chiêu đãi mọi người, hoặc lặng lẽ ngồi một góc nhìn hoặc đan mũ len, nàng vẫn để ý tới David Amory. Nụ cười của nàng nhân từ, nhưng đôi mắt nàng cảnh giác khi nàng quan sát cô con gái mười bảy tuổi Daisy đang bị quyến rũ, bị bùa mê của chàng sĩ quan không quân đẹp trai. Và David hình như cũng mê đắm Daisy như cô mê đắm chàng và cậu không lúc nào rời xa cô. Emma nín thở, biết rằng hai đứa yêu nhau và nàng không thể làm gì để ngăn chặn điều ấy. Nàng cũng không chắc là mình có muốn can thiệp hay không. Sau kỳ nghỉ, David Amory trở thành khách thường xuyên ở quảng trường Belgrave hoặc đến với Robin hoặc đi một mình và qua nhiều tháng, Emma đã yêu quí cậu. Cậu xuất thân từ một gia đình Gloucestershire cổ, có giáo dục, được học hành, đang học luật thì chiến tranh bùng nổ. Emma nhanh chóng thấy cậu tính tình cương trực, đầu óc thông minh và một sự dịu dàng, nàng sửng sốt và rất tán thành cậu cho Daisy. Nàng không ngạc nhiên khi David xin phép nàng cho cậu được lấy con gái út của nàng. Cậu đã cưới Daisy tháng năm năm 1943, ngay sau ngày sinh thứ mười tám của cô. “Nhưng nó còn trẻ quá mà. David thân yêu”. Emma thốt lên, định bụng thuyết phục hai người chờ đợi thêm chút nữa. Nhưng thay vào đó, nàng lại thấy mình nói: “Bao giờ hai con định làm đám cưới?”
Daisy lúc này đang đi lại một cách hồi hộp quanh quẩn lò sưởi, ôm lấy mẹ một cách điên cuồng khiến Emma nhăn mặt. Mặt Daisy rạng rỡ, mắt cô long lanh: “Cuối tuần sau, mẹ ạ, nếu mẹ đồng ý”.
Đám cưới lặng lẽ, đúng như đám cưới Elizabeth trước đây do điều kiện thời chiến và Emma cũng không muốn phô bày sự giàu có của mình trong thời buổi nhiễu nhương này. Daisy mặc chiếc áo lụa xanh, đội mũ và mang một bó hoa mùa hè. Winston đưa dâu, Robin phù rể và Elizabeth là phù dâu. Bố mẹ của David từ Gloucestershire lên dự cưới và sau đó ở nhà có một bữa tiệc chiêu đãi nhỏ. Đôi vợ chồng trẻ hưởng tuần trăng mật một đêm ở khách sạn Ritz trước khi David trở về Bigginhill và Daisy trở về nhà mẹ.
Và sau đó, hầu như trước khi Emma kịp thở, Robin cưới Valerie Ludden, một cô bạn y tá của Elizabeth, vào tháng giêng năm 1944 và một vài tuần sau đó, Elizabeth sinh một con trai, cô đặt tên là Alexander. Elizabeth muốn ở gần Tony, đã tìm được một ngôi nhà nhỏ gần sân bay và chuyển tới đó khi đứa bé được một tháng.
- “Hầu như không thể tin được rằng, tất cả bọn nó đã lấy vợ lấy chồng”, Emma nói với Winston một ngày mùa xuân khi hai người cùng ăn trưa. “Cũng không tin là em đã có ba cháu gọi bằng bà. Em cảm thấy quá già nua”.
- “Vớ vẩn”, Winston nói: “Em là một người đàn bà đẹp nhất chưa bao giờ anh được thấy. Và em sẽ không bao giờ già. Em có một nhan sắc không gì tàn phá nổi”. Anh nhìn nàng cười trìu mến. “Hơn nữa, Frank nói với anh là anh chàng thiếu tá người Mỹ em gặp ở nhà cậu ấy mê em lắm đó. Em sẽ thấy có một người theo đuổi mình mà em không biết đâu”.
- “Anh đừng có vớ vẩn, anh Winston”, Emma buông xõng nhưng nàng mỉm cười khi nói.
- “Anh không vớ vẩn đâu”, Winston đáp. “Mà xét cho cùng, tháng tới em cũng chỉ mới năm mươi lăm. Vả lại trông em trẻ hơn tuổi nhiều lắm”. Anh dừng lại nhìn nàng một cách cẩn thận. “Và Paul mất đã được gần năm năm rồi”.
Emma yên lặng, Winston thay đổi chủ đề. Anh và Frank luôn luôn nói đến khả năng Emma có thể kết hôn với một người khác và họ đã giới thiệu nàng với những người bạn có đủ tư cách của họ. Nhưng quả thực nàng không hề quan tâm. Nàng không bao giờ thay thế Paul trong đời mình, nàng không muốn như vậy.
Năm 1945 bắt đầu một cách thuận lợi cho Emma. Daisy sinh đứa con đầu lòng vào tháng giêng. Đó là bé gái.
- “Con thấy thế nào?”, Emma hỏi khi nàng bước vào phòng riêng của Daisy ở bệnh viện London.
- “Yếu”, Daisy nói và cười. Cô ôm lấy Emma: “Con may mắn ghê gớm. Con đẻ dễ”.
- “Ừ, mẹ biết. Bác sĩ đã nói với mẹ”. Emma vuốit một mớ tóc xòa xuống mặt Daisy và hôn con. “mẹ vừa mới nói chuyện với David ở Bigginhill. Nó sướng run người. Ăn mừng với các bạn ở đội bay, lên mặt ông bố. Chút nữa nó sẽ gọi điện cho con. Và có tin mừng nữa đây này. Nó được phép nghỉ hai mươi bốn tiếng. Ngày mai chồng con sẽ có mặt ở thành phố”.
- “Ôi, tuyệt vời quá, mẹ. Con nóng lòng muốn gặp anh ấy”. Daisy chun mũi: “Con cũng không biết đứa bé giống ai. Nó rúm ró và đỏ hon hỏn tội nghiệp. Nhưng tóc nó đen và con nghĩ kiểu tóc của nó thì rồi sau này sẽ giống kiểu của mẹ. Mà mắt nó màu tím. Mẹ nghĩ là rồi nó sẽ đổi màu không?”.
- “Có thể”, Emma nói và ngồi xuống. “Thường là như vậy. Nhưng mắt của con vẫn là màu xanh”.
- “Con đã chọn hai tên đầu cho cháu, mẹ ạ”. Daisy tuyên bố.
- “Con sẽ gọi cháu là Paula McGill. Đặt theo tên bố con”.
Nét mặt của Emma vốn là không thể thăm dò, nhưng lần đầu tiên trong đời nó có thể đọc được và Daisy bật cười. “Mẹ đừng choáng váng như vậy. Thành thật mà nói, đối với một người phụ nữ tinh tế như mẹ, đôi khi mẹ cũng rất là ngây thơ. Mẹ nghĩ rằng con không biết Paul là cha con chắc?”.
Emma nói: “Mẹ… mẹ…” và dừng lại…
Daisy lại cười nhưng là một cái cười hiền lành và đầy tình thương mến. “Ngay cả khi con còn bé tí con đã nghĩ rằng Paul là ba con. Xét cho cùng, ba luôn luôn đi với chúng ta và chúng ta đi khắp mọi nơi với ba. Thế rồi khi con lớn hơn, con nhận ra con giống ba đến thế nào. Và chúng ta hãy nhìn thẳng vào sự thật, con không bao giờ biết Arthur Ainsley, người mà con mang tên là ai”, Daisy ngừng lời, đôi mắt xanh trong sáng của cô nhìn chăm chú vào Emma. “mà, khi con mười hai tuổi, chính Paul đã nói với con điều ấy”. Quai hàm Emma trễ xuống. “Paul bảo với con ông ấy là cha con sao? Mẹ không thể tin được điều ấy!”.
Daisy gật đầu. “Vâng, đúng thế. Ba nói ba muốn con biết và con đã đủ lớn khôn để có thể hiểu được. Nhưng ba nói hãy để là điều bí mật trong vài năm. Ba lo là mẹ sẽ sầu muộn. Ba giải thích tất cả mọi điều với con một cách trực tiếp, cẩn thận và hết sức dịu dàng. Ba nói vì sao ba và mẹ không thể lấy nhau và ba hy vọng một ngày nào đó sẽ giải quyết được vấn đề này. Ba cũng nói với con ba chính thức nhận con, ba nói ba yêu cả hai mẹ con hơn bất cứ cái gì trên đời”. Mắt Daisy ươn ướt. Cô hắng giọng và nói nốt. “Sự thực, con không lấy gì làm ngạc nhiên hết, mẹ ạ, bởi vì đến lúc đó con đã đoán được rồi. Con nói với ba như thế và ba đã cười. Ba nói ba biết công chúa của ba là cô gái thông minh nhất đời”.
- “Con có… bây giờ con có phiền lòng khi biết mình là con tư sinh không?”. Emma gượng hỏi.
- “Ồ, mẹ, đừng cổ hủ như thế. Tất nhiên là không. Con thà là tư sinh của Paul McGill còn hơn là con hợp pháp của Arthur Ainsley cho dù chỉ là một ngày”.
Nước mắt dâng lên mắt Emma, nàng loay hoay tìm khăn tay. “Mẹ… mẹ… không biết nói như thế nào”, nàng ngập ngừng.
Daisy nghiêng người về phía trước, giơ tay về phía Emma. “Con yêu mẹ, mẹ ơi. Và con yêu Paul. Nếu cho con tự chọn con cũng không chọn được bố mẹ như thế. Và mẹ là người mẹ tuyệt vời nhất trên đời”.
- “Nhưng tại sao con không nói với mẹ là con biết trước điều đó?”, Emma hỏi giọng tắc nghẹn, mặt nàng áp vào vai Daisy. “tại sao con không nói với mẹ khi Paul chết?”.
- “Con nghĩ đó không phải lúc. Nỗi quan tâm chính là cố gắng làm giảm nhẹ nỗi đau khổ của mẹ”.
Emma ngồi ngả trong ghế, hỉ mũi. Nàng mỉm cười yếu ớt với Daisy, mặt đầy yêu thương. “Mẹ sung sướng là con đã biết, con yêu. Đáng lẽ tự mẹ phải nói với con. Nhưng mẹ cứ nghĩ là con sẽ phản ứng như… con sẽ buồn và ghét mẹ và Paul”.
- “Mẹ ngốc nghếch quá, mẹ ơi. Con không bao giờ có thể ghét hoặc chỉ trích mẹ hoặc ba con vì việc hai người đã làm. Bố mẹ yêu nhau”. Daisy cầm lấy tay Emma và nắm chặt lấy. “Con tự hào được làm con của mẹ”. Daisy nhìn Emma cái nhìn dò hỏi: “Mẹ có chắc là không phiền lòng con lấy tên ba đặt cho cháu?”.
- “Mẹ thấy rộn ràng”, Emma nói.
Y tá vào làm họ ngắt quãng. Emma ôm đứa bé trong tay, mặt nàng rạng rỡ khi nhìn xuống cái bọc nhỏ nép bên vai nàng. Đây là cháu ngoại đầu tiên của Paul, nàng nghĩ, tim nàng đập rộn ràng. Phải chi anh còn sống để nhìn thấy nó. Paula McGill Amory thế hệ mới đầu tiên của giòng họ McGill.
Một tuần sau, Daisy về nhà ở quảng trường Belgrave. Hầu như ngay lập tức, đứa bé trở thành trung tâm thế giới của Emma, thỉnh thoảng nó làm đảo lộn vai trò làm mẹ của Daisy, cô không lấy thế làm phiền lòng chút nào. Cô sung sướng thấy Emma vui vẻ, tươi cười. Cô nhiệt liệt khuyến khích mẹ khi bà nói tới kế hoạch của mình cho Paula và tương lai của con bé.
- “Hình như Paula sinh ra là điềm may”. Một buổi sáng tại bữa ăn sáng, Emma đã nói, tay chỉ về phía tờ báo đang đọc. “Đồng minh đấ thực sự chọc thủng trận tuyến, mẹ nghĩ chiến tranh sắp kết thúc”.
Nàng đã đúng trong giả định này. Khi năm mới chuyển qua mùa xuân khắp nước Anh rộn ràng. Tháng ba, đội quân thứ nhất của Mỹ vượt qua sông Rhine qua cầu ở Remagen lập một mũi tấn công ở Đức. Khoảng từ 20 đến 25 tháng tư, người Nga vào Berlin, năm ngày sau đó, Hitler và Braun tự tử. Đế quốc thứ ba mà quốc trưởng nói là sẽ kéo dài một ngàn năm đã tan rã trong thất bại nhục nhã. Ngày 7 tháng năm, Đức đầu hàng vô điều kiện tại Reims ở Pháp.
Emma ở Leeds ngày 8 tháng năm, đó là ngày chiến thắng ở Anh. Tối hôm ấy, nàng ăn cùng Winston, Charlotte và họ uống hai chai champagne để ăn mừng. Nhưng mặc dù cờ treo ngòai cửa sổ, phần phật trên những cột cở khắp Leeds, và hội hè tiếp nối chung quanh họ, Emma cảm thất nhẹ nhõm hơn là vui sướng. Và nàng thở hơi nhẹ nhõm đầu tiên trong sáu năm. Các con trai của nàng đều an toàn, kể cả con rể, các con trai của anh nàng và của những người bạn thân thiết nhất của nàng, Blackie O’Neill và David Kallinski. Không có một mất mát gì trong gia đình của họ, và Emma hết sức biết ơn vì điều đó.
Rồi dần dần tất cả đều về nhà.
*
* *
- “Anh chỉ tạt vào để chúc mừng em thôi, Emma”. Blackie O’Neill vừa nói vừa sải bước vào trong phòng khách ở Pennistone Royal. “Winston nói với anh là Công ty báo Yorkshire đã kiểm soát được tờ Yorkshie Morning Gazette. Như vậy là cuối cùng em đã thắng”.
Emma mỉm cười yếu ớt với anh. “Vâng, em đã thắng. Nhưng mà từ trước anh cũng biết là em sẽ thắng cơ mà”.
- “Có, anh biết”. Anh nhìn nàng sắc sảo và hỏi: “Em làm như thế nào vậy, Emma? Anh rất tò mò muốn biết”.
- “Kiên nhẫn, và một địch thủ yếu”. Nàng đặt tay vào lòng, nhìn xuống chiếc nhẫn lục bảo McGill rồi nói tiếp nhanh nhẹn. “Những tờ báo của em là những tờ báo thành công nhất ở Yorkshire và dần dần chiếm lĩnh được tất cả mọi số phát hành của tờ Gazette. Tờ báo đó đã thất thu từ sau chiến tranh. Thành thật mà nói, em cố đẩy tờ Gazette xuống bùn đen và em làm như vậy không hề hối tiếc. Edwin Fairley không phải là người kinh doanh tốt. Đáng lý anh ta phải bám vào luật pháp”. Nàng cười khô khan: “Và anh ta đã mắc một vài sai lầm nghiêm trọng, một trong những sai lầm đó là bán một cổ phần của anh ta hai năm trước đây. Anh ta đã làm suy yếu vị trí của mình. Từ lâu anh ta đã không còn đứng ở thế mạnh để giải quyết công việc rồi”.
- “Nhưng anh ấy vẫn là chủ tịch hội đồng”, Blackie xen vào.
- “Vâng, đúng thế. Nhưng anh ta không nhận ra cái tinh tế, vị trí của mình và anh ta cũng đánh giá thấp những cổ đông khác cả cũ lẫn mới. Anh ta hình như không hiểu rằng sự trung thành cũng bay ra ngoài cửa sổ khi một sô tiền lớn đang rình rập. Ban giám đốc đã lo lắng về sự thua thiệt của những tờ báo trong nhiều năm nay và khi các Công ty Harte xáp vô để mua các cổ phần của họ thì họ sẵn sàng bán ngay không một chút do dự. Em đã thu thập được các cổ phần ở công ty trong nhiều năm, những cái đó cùng với những lần mua cuối của em đã đem lại cho em nhiều quyền lực. Những người cổ phần lúc đầu không bán cho em, sau lại quăng gánh nặng của họ cho em. Hết sức đơn giản. Edwin Fairley bị thua phiếu ở cuộc họp lãnh đạo lần cuối và phải thôi không làm chủ tịch nữa. Công ty Harte đề nghị mua cổ phần còn lại và thật ngạc nhiên, anh ta đã bán”.
- “Thật là một đòn cho anh ta, Emma hả?”, Blackie nhận định. “Nhưng anh ngạc nhiên em không có mặt ở cuộc họp lãnh đạo đó để mà chứng kiến sự chuyển nhượng của anh ấy. Winston nói chính anh ấy đại diện cho em”.
Nét mặt của Emma thay đổi thật nhanh và một sự lạnh lùng len vào đôi mắt của nàng. Nàng nói: “Bốn mươi lăm năm trước đây em đã nói với Edwin chừng nào em còn sống em sẽ không gặp anh ta nữa và em đã không gặp. Anh không nghĩ là bây giờ em lại muốn để mắt tới anh ta chứ?”.
Blackie nhún vai: “Anh chắc là không”, anh trả lời lặng lẽ. Winston có kể cho em nghe Edwin đã phản ứng như thế nào khi anh ấy biết em là người đứng sau mọi chuyện không?”.
Emma gật đầu: “Rõ ràng anh ta mặt phớt tỉnh. Tất cả các trạng sư đều là những diễn viên giỏi mà”. Rồi anh nói: “Anh hiểu. Nhưng Winston kể với anh là Edwin có nét mặt rất đặc biệt khó mà có thể hiểu được là thế nào”. Anh dừng lại và nhìn thẳng vào mặt Blackie. “Winston nói anh nghĩ Edwin có vẻ hài lòng. Lạ, phải không nhỉ?”.
- “Ừ, đúng thế. Anh không hiểu tại sao Edwin Fairley lại hài lòng khi em chiếm đoạt tờ báo của anh ấy”. Anh lắc đầu, bàng hoàng. “Tờ báo thuộc về gia đình anh ấy đã ba thế hệ nay”.
- “Có Trời biết”, Emma nói: “Đó là một điều huyền bí đối với em. Winston nói hình như được chứng kiến thấy Edwin nhẹ người”, nàng cười một cách hài hước. “Đúng về một mặt nào đó, anh có thể nó được rằng em đã nhấc một gánh nặng khỏi vai Edwin”.
- “Đúng thế, em gái”. Blackie nói, nét mặt anh không thể đọc được khi anh châm một điếu xì gà. Có lẽ nàng nói đúng, anh nghĩ. Có lẽ Edwin Fairley nhẹ nhõm trong người, nhưng không phải với lý do nàng nghĩ đâu.
Emma đứng lên: “Em phải đi tìm Paula đây. Đã đến giờ cho cháu ăn trưa rồi. Em quay lại ngay. Blackie, xin lỗi”.
Blackie gật đầu và theo nàng ra ngoài sân hiên. Anh nhìn nàng bước vội xuống vườn, mắt anh dõi theo và nheo lại vì mặt trời tháng tám sáng chói. Emma đứng sững bên ao hoa huệ ở cuối vườn và cúi xuống nói chuyện với Paula đang chơi con búp bê. Emma vẫn đẹp dáng như bao giờ, và xa xa, trong chiếc áo dài mùa hè mỏng nhẹ, mớ tóc vẫn còn óng mượt điểm ánh vàng- đỏ của thời trẻ trung, trông nàng như cô gái trẻ anh đã gặp lần đầu tiên trên đồng hoang từ những ngày xa xưa và trong một khoảng khắc, những năm tháng trôi đi. Anh nhớ lại một cách rõ ràng cô hầu gái nhỏ bé của Fairley Hall, và một nụ cười chậm chạp nở trên mặt anh. Gần một nửa thế kỷ đã qua, bao nhiêu điều đã xảy đến, những điều anh không bao giờ mơ có thể xảy ra. Cuộc sống thật lạ kỳ. Và Emma cứ tiếp tục đi mãi, giờ đây vẫn bất khuất như bao giờ. Anh chớp chớp và lấy tay che mắt. Anh thấy nàng đang xoa đầu đứa bé, rồi nàng đứng thẳng lên và quay về sân hiên, bước đi mạnh mẽ.
Blackie mỉm cười trìu mến với nàng: “Rõ ràng em là người bà đẹp nhất trên đời này”, anh nhận xét và cười “còn đứa nhỏ kia, nó đã trở thành cái bóng của em”.
- “Em nghĩ bà cháu em là một đôi lạ lùng, một bà già và đứa bé lên năm, nhưng chúng tôi hiểu nhau”. Nàng quay lại nhìn đứa bé, mặt nàng dịu lại. “Tất cả những mơ ước, những hy vọng, những mong chờ của em đều tập trung vào nó, Blackie ạ. Nó là tương lai của em”.
Emma ngồi ở bàn trong phòng khách riêng sang đẹp ở Pennistone Royal, nghiên cứu những giấy tờ trải trước mặt bà, con mắt sắc sảo của bà nhanh chóng lướt qua các trang. Cuối cùng bà gật đầu hài lòng, để lại các giấy tờ vào cặp tài liệu, đóng lại, đặt nó xuống sàn gần bàn. Khẽ mỉm cười, bà đứng lên, đi lướt ra chiếc bàn nhỏ, bà dừng lại một lúc để rót cho mình một ly sherry. Bà mang nó ra lò sưởi và như thường lệ, đứng quay lưng vào ngọn lửa, cố gắng sưởi ấm chân tay giá lạnh của mình.
Emma Harte Lowther Ainsley bảy mươi tám tuổi. Cuối tháng tư, còn đúng một tháng nữa, bà sẽ tổ chức sinh nhật thứ bảy mươi chín. Thế nhưng, trong tuổi già cũng như tuổi thanh xuân, dáng vẻ của bà cũng vẫn cuốn hút. Nhiều năm trước, bà đã thôi không nhuộm tóc nữa và giờ đây mớ tóc màu bạc quanh khuôn mặt trái xoan của bà vẫn cứ đẹp như xưa. Cặp mắt xanh không gì sánh nổI xưa kia hình như nhỏ đi hơn, viền bằng những nếp nhăn, giờ đây lại càng sắc sảo, không bỏ lỡ một điều gì. Khuôn mặt bà có vết hằn của năm tháng, những nếp nhăn, nếp gấp ở cổ, nhưng khung xương hoàn hảo không bị mờ đi và nước da hồng hào trắng trẻo của bà vẫn trong trẻo như khi bà còn là một thiếu phụ. Sự ăn uống đơn giản của bà giữ được thân hình mảnh mai: người ta rất dễ coi bà chỉ mới sáu mươi, bà không hề muốn làm như vậy một cách tự giác, bởi vì bà không phải là con người sĩ diện.
Tối nay bà mặc chiếc áO vải sa màu đen ống tay áo rộng. Chiếc nhẫn hồng ngọc McGill to tướng ánh lên như một ngọn lửa xanh trên bàn tay trái nhỏ bé của bà. Trong mười năm qua, bà đã có một vẻ đẹp khác, một vẻ đẹp trang nghiêm và quí phái trông đúng như bà đã trở thành ngày nay – một người đàn bà có quyền uy và sức mạnh khôn cùng, một người đàn bà đích thưc. Bà là chúa tể trong gia đình hiểu theo mọi nghĩa, và nếu như bà mệnh lệnh và độc đoán, thì bà cũng thông cảm và ngay cả kẻ thù của bà cũng bất đắc dĩ phải thừa nhận bà là một trong những người đàn bà kỳ lạ nhất trong thời đại của mình. Hầu như không có cái gì bà không nhìn thấy hoặc trải qua. Bà là một huyền thoại sống.
Bà nhấp một ngụm sherry, quay lại đặt ly lên bệ lò sưởi, nhìn xuống ngọn lửa một cách suy tư, nghĩ tới buổi chiều trải dài ở phía trước.
Các con và các cháu của bà đã về, hoặc đêm qua hoặc sớm hơn bà đã triệu tập họ tới Pennistone Royal, bề ngoài là để đoàn tụ gia đình sau khi bà viêm phổi nhưng thực tế là cho cuộc đụng độ mà bà đã vạch kế hoạch từ vài ba tuần nay. Nét mặt bà thay đổi và ánh sáng trong mắt bà mờ đi khi bà mệt mỏi nghĩ tới những đứa con của bà, hoặc chính xác hơn, đến bốn đứa đầu tiên bà đã sinh – Edwina, Kit, Robin và Elizabeth. Những tên âm mưu đã bị bắt quả tang trong kế hoạch của chúng, nhưng vẫn không hay biết là bà đã được báo về sự ăn ở hai lòng và sự bất trung của chúng hoặc bà đã phá vỡ kế hoạch của chúng.
Khi người thư ký của bà, Gaye đã phát hiện âm mưu của các con bà chống lại bà ở New York tháng giêng, Emma đã bị choáng. Nhưng bà đã không cho phép những xúc cảm làm mờ trí thông minh, bởi vì chính cái thông minh sắc sảo của bà đã cứu khỏi thảm họa nhiều lần. Bà đã lập tức thấy mọi điều một cách khách quan và không xúc động, bà đã tiến lên một cách mau lẹ với đầy đủ thông tin khi bà giáp mặt với địch thủ. Trong khi chúng còn loạng choạng, lúng túng thì bà đã tiến hành các biện pháp làm chúng mất hết sức mạnh chống lại mình.
Emma lắc đầu một cách buồn bã. Bà đã mất ý thích xung trận sau khi đã chiếm tờ Gazette Yorkshire Morning và đã chôn kiếm từ lâu. Bà thấy thật đáng tiếc là các con bà đã buộc bà phải tìm kiếm để bảo vệ tất cả những cái bà ngoan cường xây dựng trên sáu mươi năm ròng đầy mục đích và hy sinh. Cái cảnh được diễn ra tối hôm nay là cái cảnh bà chẳng mấy thích thú, nhưng công việc và triều chính bà đã gây dựng nên phải được gìn giữ.
Cửa mở và Paula đi vào, cắt đứt dòng suy tưởng của Emma. Paula dừng lại bên ngưỡng cửa, nhìn Emma. Bà đang có kế hoạch gì đây, Paula nghĩ. Mặc dù ngoại đảm bảo là không có gì, nhưng ngày cuối tuần không phải được hoạch định như lý do bà đưa ra. Bà sắp mở trận chiến đấu. Mình biết quá rõ ánh lửa trong mắt bà. “Kìa bà, trông bà hệt như trong thần thoại”, Paula thốt lên. Cô hôn Emma rồi nghiêng người ra xa, vẻ thán phục. “Bà quả thực làm người ta tròn mắt trong chiếc áo và đồ trang sức của bà”.
- “Thế à”, Emma nói. Đôi mắt đọng lại trên đứa cháu yêu và ánh mắt trở nên dịu dàng hơn, vẻ sắt đá biến mất khỏi khuôn mặt bà. Bà gật đầu tán thưởng, Paula mặc chiếc áo dài bằng màu lụa tím hết sức hợp với màu mắt cô và tôn thêm vẻ thanh khiết của làn da. Mái tóc đen như mun buông xõa quanh mặt cô, làm cô có vẻ dễ bị xúc phạm khiến Emma mủi lòng. Bà nói: “Trông cháu yêu kiều quá, Paula. Như một mảnh trời xuân”.
- “Cảm ơn bà”, Paula bước lại bên chiếc bàn con và rót một ly rượu trắng đầy. “Nhưng bà hãy đợi gặp Emily đã. Chị ấy mới thật lộng lẫy trong áo sa the đỏ và đôi hoa tai kim cương. Cháu thấy mẹ chị ấy nhìn đôi hoa tai đó có vẻ thèm thuồng”.
- “Elizabeth có khả năng học hỏi”. Emma nói một cách khô khan và cầm ly sherry lên. Bà nhấp một ngụm và nói tiếp. “Bà nghĩ bây giờ có lẽ họ đã tụ tập đông đủ và đang đợ bà xuống. Chắc là hết sức tò mò xem bà già chống đỡ ra sao?”. Bà cười một cách cay độc: “Bà quả thực nghĩ rằng lần này họ nghĩ thế nào bà cũng toi mạng. Nhưng bà chưa ngủ với giun đâu, và còn lâu mới đến ngày đó”.
Paula nói: “Vâng, họ từ từ kéo vào phòng khách, nơi bác Blackie đang tổ chức buổi họp. Không thể tưởng tượng được bác đã tám mươi hai mà vẫn khỏe mạnh. Bác là một điều kỳ diệu, phải thế không bà?”.
- “Đúng thế”, Emma nói. Bà cảm thấy ấm áp khi nghĩ tới Blackie. Họ là bạn của nhau sáu mươi tư năm và ông lúc nào cũng có mặt mỗi khi bà cần ông. “Bạn thân của bà”, Emma nói thêm, hầu như nói với chính mình, rồi tiếp: “Jim đã đến chưa?”.
- “Đã đến rồi. Các thím các bác ai cũng kinh hoàng thấy một người họ Fairley trong ngôi nhà này, trong một cuộc họp gia đình. Đặc biệt là bác Robin”.
- “Bà không ngạc nhiên. Bác ta không ưa gì Jim cho lắm, cháu biết đó. Bác ta nghĩ bà cho Jim quá nhiều quyền hành trong công ty báo. Quả là như vậy, ở một chừng mực nào đó. Nhưng bà sẽ không thuê một người điều hành các tờ báo của bà để rồi trói tay mình lại”. Mắt Emma sắt lại như đá. “Kể từ khi bác Robin của cháu trở thành đại biểu quốc hội của miền Đông Nam Leeds, bác ấy có quan niệm sai lầm là các báo của bà sẽ là phương tiện để tải những quan điểm xã hội của bác ta. Nhưng bà không bao giờ tán thành quan điểm chính trị của bác ta và bây giờ bà cũng không có ý định làm điều ấy. Bác ta đã trách Jim một cách sai lầm về chính sách Tory của tờ báo, không biết rằng chính bà điều khiển chính sách. Bà luôn luôn làm như vậy và bà sẽ làm như vậy. Vả lại, những ý kiến của Robin không làm bà thích thú chút nào”, bà kết thúc, “bà thấy bác ấy quá ư là cánh tả”.
- “Quan điểm chính trị của Robin và lối sống của bác ấy không khớp với nhau lắm”, Paula nhận định. “Chia đều, chia đều là phương châm của bác ấy. Nhưng điều ấy chỉ tồn tại khi bác ấy không phải chia những cái bác ấy có. Bác ấy là người đạo đức giả và một kẻ cơ hội, nếu bà muốn biết ý kiến của cháu”.
Emma ngửa đầu ra phía sau và cười ầm ĩ: “Thôi nói đến Robin thế là đủ rồi. Jim đã nói chuyện với ba con chưa?”.
- “Anh ấy vừa nói xong ạ. Họ cùng ở trong thư viện với nhau. Jim nói anh ấy muốn gặp riêng bà trước bữa cơm tối, bà ạ. Có được không bà?”.
- “Tất nhiên. Bảo nó lát nữa đến. Bà muốn gặp bác Edwina của cháu trước, những điều bà nói với bác ấy không mất nhiều thì giờ. Thôi nào cháu, bây giờ cháu hãy ngồi đây với bà vài ba phút. Còn nhiều thì giờ và bà cũng chưa vội xuống”. Bà mỉm cười hơi ác ý. “Cứ để họ đợi”.
Paula ngồi bên Emma trên sofa, đôi mắt tím của cô rất giống mắt Paul McGill bỗng u buồn. “Có chuyện gì không hay không, bà? Nghe bà nói có vẻ nghiêm trọng quá”.
- “Không”, Emma nói: “Cháu đừng lo ngại như thế”. Bà cầm lấy bàn tay búp măng dài của Paula trong bàn tay nhỏ khỏe khoắn của mình, mắt bà nhìn vào mắt đứa cháu ngoại dò xét. “Lúc này cháu hạnh phúc, phải không?”.
- “Ồ, vâng, thưa bà, rất hạnh phúc”. Mặt Paula ngời sáng. “Cháu rất yêu Jim. Cám ơn bà đã đảo ngược quyết định, cho phép chúng cháu lấy nhau. Bà đã làm thay đổi cuộc đời cháu, cho cháu điều duy nhất cháu cần”.
- “Bà rất vui, vui lắm, cháu yêu”, Emma lẩm nhẩm. “Hạnh phúc của cháu đối với bà là điều quan trọng nhất trên đời này. Đó thực sự là một món quà nhỏ. Như bà đã nói với cháu đêm qua, bà thấy thật là nực cười, thậm chí còn tàn ác nữa để cho sự kiêu căng và mối hận thù của một bà già ngáng trở niềm khao khát của con tim và tương lai của cháu”. Bà nhìn sâu vào trong mắt Paula: “Gia đình Fairley đã nhuốm đau đớn vào cuộc đời bà từ khi bà còn là một cô gái mười bốn tuổi. Có lẽ giờ đây, người cuối cùng của dòng Fairley lại nhuốm niềm vui vào cuộc đời đó”. Emma lắc đầu kinh ngạc. “Nghĩ như vậy bà thấy thật là lạ. Bà đã hết sức cố gắng bảo vệ các con cái của bà thoát khỏi gia đình Fairley, tránh cho chúng khỏi quĩ đạo của gia đình đó, và chưa bao giờ bà nghĩ là bảo vệ các cháu của bà khỏi quĩ đạo đó, đặc biệt là cháu. Bà nghĩ không còn lại một người nào của nhà Fairley cả, ngoại trừ Jim”.
- “ Thế mà bà lại cho anh ấy một công việc ở tòa báo, bà”.
Emma cười gượng: “Đúng, bà đã cho nó. Bà phải thú nhận là khi nó xin việc, bà bối rối, thế rồi sự tò mò đã thắng. Bà muốn tận mắt xem nó ra làm sao, khi nó từ Fleet Street lên để trả lời phỏng vấn, bà đã có ấn tượng tốt vì khả năng của nó, mặc dù những thành kiến ghê gớm của bà. Bà biết nó là người đúng để làm việc, là người đầu đơn tốt nhất. Chấp nhận nó nghĩa là tự mình đánh bại mình”.
Miệng Emma chúm lại thích thú: “Bà cũng nghĩ là bà hết sức thích thú trước cái ý nghĩ một người nhà Fairley làm công cho bà. Nhưng trong trí tưởng tượng hoang dại nhất của mình, bà cũng không bao giờ nghĩ rằng hai đứa lại gặp nhau, đặc biệt là cháu không dính dáng đến phía xuất bản của các công ty Harte”.
Lúc này Emma nghiêng người về phía trước: “Làm sao cháu lại gặp nó? Bà vẫn thường tự hỏi như vậy”.
- “Cháu không gặp anh ấy ở Leeds đâu, nếu như vậy có làm bà cảm thấy dễ chịu hơn. Cháu gặp anh ấy trên một chuyến bay từ Paris. Cháu thì đi thu nhập kiểu mốt cho cửa hàng, còn anh ấy thì đi nghỉ”. Paula cười: “Sự thực anh ấy đã để mắt đến cháu từ ngoài phi trường và đã cố gắng kiếm được chỗ ngồi cạnh cháu. Cháu để ý đến anh ấy và bị cuốn hút ngay lập tức. Nhưng khi anh ấy xưng danh và nói anh ấy làm việc cho ai thì cháu như bị lên một cơn đau tim. Bà ghét gia đình nhà Fairley, điều ấy chẳng phải là bí mật gì ghê gớm và cháu biết bà sẽ không tán thành nếu cháu đi chơi với anh ấy. Một anh chàng Fairley làm công cho bà là một chuyện, tán tỉnh cháu bà lại là một chuyện khác.
Emma nhìn xoáy vào Paula: “Cháu vẫn đi chơi với nó mặc dầu những nghi ngại, thì ra cháu cũng ương ngạnh và bướng bỉnh như bà, bà nghĩ thế”.
Paula nhìn lại bà chăm chăm. Thì bà muốn cháu như vậy mà, cô nghĩ. Thấy được sự quan tâm của Emma, cô nói: “Nhìn lại, cháu thấy cháu yêu Jim lần thứ hai chúng cháu gặp nhau. Anh ấy mời cháu ăn tối với anh ấy vào hôm sau. Cháu biết cháu không nên, và như vậy là chuốc lấy phiền não, nhưng cháu không kìm được lòng. Cháu lại muốn gặp anh ấy. Và phải nói cho công bằng đối với Jim, anh ấy không biết cháu là ai. Cháu lẩn tránh không nói về mình. Bọn cháu ăn tại nhà hàng Mirabelle và người hầu bàn vẫn phục vụ bà đã thấy cháu. Tất nhiên là anh ta cứ rối rít mù cả lên và ca ngợi bà đến tận trời. Anh ta muốn biết bao giờ bà sẽ lên thành phố và lại ăn ở tiệm nữa. Jim bắt đầu hỏi về bà. Anh ấy muốn biết người bà yêu quí của cháu là ai”.
Khi hình dung cảnh tượng đó, đôi mắt Emma lấp lánh: “Thế con nói sao?”.
Tiếng cười vang trong lòng Paula: “Cháu cũng hơi hư một chút bà ạ”. Cháu không thể ngăn được đã nói: “Bà em là chủ tịch Công ty liên hợp báo chí Yorkshire và là chủ của anh”. Jim suýt nữa thì ngã lăn ra khỏi ghế. Anh ấy nhìn cháu ngây dại, rồi anh ấy nhận định là bà và cháu có mái tóc giống nhau và chắc là bà phải giống cháu khi bà còn trẻ. Cháu biết bà không nghĩ hình thức của cháu giống bà, nhưng cháu thì nghĩ thế. Cháu đã xem tất cả những hình ảnh cũ của bà, và quả là giống nhau, bà ạ.
- “Ông bác Blackie hẳn là đồng ý với cháu, nhưng bà không dám chắc lắm. Có lẽ bởi vì bà luôn luôn nghĩ rằng hình thức của cháu giống ông ngoại cháu. Ơ, chuyện gì xảy ra sau khi hai đứa ăn tối với nhau?”.
- “Cháu vẫn tiếp tục gặp Jim, ngược lại với sự suy xét của cháu. Hai đứa không thể cưỡng lại nhau. Khi cháu nhận thấy hai đứa chúng cháu đã ngập sâu và ý định của Jim là nghiêm chỉnh, thì cháu lảng ra. Phần còn lại bà đã biết rồi”.
Emma nhìn xuống đôi bàn tay mình vẻ suy nghĩ trên nét mặt bà: “Như vậy là một cuộc gặp gỡ ngẫu nhiên. Một cuộc gặp gỡ phải xảy ra dù Jim có làm việc cho bà hay không. Bà nghĩ ngay cả bà cũng không kiểm soát nổi các sự việc. Có lẽ nó phải như thế”. “Cháu nghĩ là như vậy, bà ạ. Jim là số mệnh của cháu và cháu là số mệnh của anh ấy”.
Emma giật mình và nhìn Paula cái nhìn tò mò: “Cháu nói như vậy là điều lạ. Ông cháu nói với bà, bà là số mệnh của ông năm mươi năm trước đây”.
Có tiếng gõ cửa trước khi Paula có thể trả lời, Edwina bước vào một cách quả quyết, đem theo một ly Scotch: “Mẹ muốn gặp con?”, cô ta nói một cách lạnh lùng, gật đầu không cười với Paula.
- “Đúng thế, Edwina. Mẹ thấy con đã bắt đầu uống, vậy thì hãy ngồi xuống. Paula cưng, xin lỗi cháu. Nói với Jim bà sẽ gặp nó sớm”.
- “Vâng, thưa bà”, Paula lầm bầm và đi ra.
Edwina, quả phụ thừa kế nữ bá tước Dunvan, lướt đi một cách oai vệ vào trong phòng khách, ngồi đối diện với Emma, mối ác cảm của cô ta không che giấu được là bao. Cô ta chằm chằm nhìn mẹ, chờ đợi, vẻ hiếu chiến hiện trên mặt.
Emma nhìn Edwina với nỗi thích thú ngày một tăng. Bà nghĩ: nếu Adele Fairley còn sống đến tuổi của Edwina, bà sẽ y hệt như thế này. Edwina sáu mươi hai tuổi, và hình thức không giữ gìn được như mẹ cô ta. Nhan sắc tuyệt vời của cô ta quá mong manh với thử thách của năm tháng và vẻ đẹp của cô ta đã tàn phai từ lâu. Mái tóc của cô vẫn bạc màu óng ánh, nhưng màu của nó đã thô, đôi mắt ánh bạc đáng yêu ngày xưa đã mờ đi và hùm hụp.
- “Chiếc áo đẹp đó, Edwina”, Emma nói và nhấp ly sherry, nhìn con gái trên bờ cốc rượu.
- “Tại sao mẹ lại muốn gặp con?”. Edwina trả lời giọng khinh bạc lạnh lùng. “Con hoàn toàn tin chắc là mẹ không gọi con đến đây để khen chiếc áo của con”.
- “Hoàn toàn đúng”, Emma nói. Bà mỉm cười khe khẽ, Edwina vẫn không bớt gay gắt với tuổi tác. “Hãy để mẹ hỏi con một câu trước khi trả lời câu hỏi của con. Tại sao con lại nhận lời của mẹ tới đây ngày cuối tuần?”.
- “Lời mời!”. Edwina thốt lên, đôi mắt đầy hằn thù. “Đó là một mệnh lệnh như thường lệ mà mẹ. Và chúng con chưa một ai phớt lờ mệnh lệnh của mẹ, có phải thế không? Con đầy mâu thuẫn về chuyện đến này. Nhưng mẹ nói mẹ cũng muốn Anthony và khi con nói với nó, nó đòi đi”. Edwina nhìn Emma, cái nhìn ác cảm: “Con trai con say mê mẹ. Cả những ao ước của mẹ nó cũng như những con ngựa hoang đều không thể ngăn nó không đến cái cuộc họp mặt nho nhỏ này. Nó cũng lo lắng về sức khỏe của mẹ. Và như vậy, vì con yêu con trai con và muốn chiều ý nó nên con đã nhận lời. Nếu không vì Anthony thì con chẳng tới, con bảo đảm với mẹ như thế”.
Emma thở dài sườn sượt: “Khi bác Winston của con ký một hiệp ước hòa giải giữa hai chúng ta năm 1951, mẹ đã hy vọng chúng ta có thể trở nên bạn bè. Nhưng nó luôn luôn là một cuộc hữu chiến có vũ trang, có phải thế không?”.
- “Vâng, mẹ ạ. Và nếu mẹ muốn biết sự thật, chính Jeremy đã thuyết phục con gặp lại mẹ. Chồng con luôn luôn có tình cảm gia đình lớn. Anh ấy cảm thấy chúng ta cần giảng hòa”.
- “Như thế này”, Emma trả miếng. “Nhưng thôi đừng cãi nhau vặt nữa. Mẹ muốn gặp riêng con bởi vì mẹ có điều quan trọng nói với con. Mẹ muốn nói với con về cha con”.
Mặt Edwina đanh lại: “Con không thể hình dung nổi mẹ còn có thể nói được gì về ông ta”, cô buông xõng, mặt đỏ bừng bừng. “Ông ta đang ngồi ở dưới nhà lúc này, hành động như một đại quan. Thành thực mà nói, con không hiểu tại sao mẹ có thể vô ý cho ông ta đến đây với sự có mặt của con, hoặc sự có mặt của con trai con, một người quý tộc. Cái con người không thể tha thứ được ấy làm con thấy không thoải mái chút nào. Nhưng con ngờ là mẹ thích làm cho tất cả chúng con lúng túng, có phải thế không mẹ? Mẹ thích lôi kéo mọi người”.
- “Con không bao giờ hiểu kỹ mẹ, Edwina”, Emma thở dài. “Và không có lý do Blackie O’Neill lại làm con cảm thấy lúng túng hoặc gây bối rối cho con, vì bác ấy không phải là cha con”.
Quai hàm Edwina trễ xuống. Cô ta há hốc miệng nhìn Emma nhưng không nói gì. Lấy lại được hơi sức, cô kêu lên vội vã: “Nhưng tên ông ta ở giấy khai sinh của con”.
- “Đúng thế, nhưng vì những lý do hoàn toàn khác với những lý do mà con vẫn tin. Blackie là người bạn duy nhất của mẹ khi mẹ mười sáu tuổi. Một mình một thân, hầu như không một xu dính túi và có mang con. Bác ấy đề nghị mẹ lấy bác ấy chỉ vì tình bạn, mẹ nghĩ thế. Mẹ từ chối, bác ấy khăng khăng bảo mẹ lấy họ của bác ấy đặt cho con. Bởi vì bác ấy nghĩ cái câu “bố không rõ” sẽ là một vết nhơ nữa để con mang. Bác ấy cũng nghĩ như vậy, chừng mực nào đó sẽ bảo vệ được chúng ta, mà đứng về một mặt thì quả như vậy”, Emma kết thúc, bà nghĩ nó đã cho bà đủ dũng cảm như thế nào để phủ nhận quan hệ cha của Edwina, đúng hơn là sự tồn tại của đứa bé đối với Gerald Fairley. “Vậy thì ai đã hay đang là cha của con?”, Edwina chất vấn.
- “Cha con là Edwin Fairley”.
Edwina hốt hoảng nhô người về phía trước. “Mẹ định nói ngài Edwin Fairley? Vị luật sư lừng danh bào chữa cho các tội phạm vừa mới chết năm ngoái? Một người trong dòng họ Fairley, ở làng Fairley”.
- “Phải đúng thế”, Emma nói lặng lẽ.
- “Trời đất ơi!” Edwina ngồi ngả người ngây dại và uống một hơi dài. Một lát sau, cô ta nói: “Tại sao mẹ không nói với con điều này cái hôm con đưa cho mẹ xem giấy khai sinh của con?”
- “Con không cho mẹ cơ hội để giải thích gì hết. Con bỏ chạy đến nhà Freda, nếu như con còn nhớ lại. Vả lại mẹ cũng không rõ lúc ấy mẹ có nên tiết lộ ra hay không. Có thể, nhưng mẹ vẫn còn hồ nghi. Gia đình nhà Fairley đã gây cho mẹ nhiều cái đau đầu. Mẹ không muốn con phải chịu đựng hoặc phơi bày ra lộ liễu. Mẹ cũng…”.
- “Thế tại sao lại là bây giờ? Tại sao đột nhiên bây giờ mẹ lại kể cho con nghe điều ấy? Cái gì đã thúc đẩy một sự thành thật xưa nay chưa hề có của mẹ, vào một thời điểm muộn màng như thế này?”.
- “Bởi vì tối nay mẹ sẽ thông báo lễ đính hôn của Paula với Jim Fairley, cháu nội độc nhất của bố con. Nó sẽ là một thành viên trong gia đình này, và con cũng là máu mủ ruột rà duy nhất còn sống, với nó. Bố mẹ nó bị chết trong một vụ nổ máy bay năm 1948. Mẹ nghĩ nó nên biết con là bác nó. Mẹ cũng muốn rũ sạch trách nhiệm một lần và mãi mãi”. Một ánh suy nghĩ len vào đôi mắt Emma. “Mẹ muốn Paula và Jim lấy nhau theo đúng nghi thức. Không một bí mật nào còn được che giấu. Không một điều ẩn uất nào ám ảnh chúng. Nhưng ngoài cái đó ra, mẹ cảm thấy mẹ nợ con một sự thật, Edwina. Nó đã quá hạn từ lâu”.
Nói không đúng sự thật, Edwina nghĩ một cách cay đắng. Cuối cùng, cô nói thong thả: “Edwin Fairley là một luật sư xuất sắc và nổi tiếng khắp cả nước, và có lẽ quan trọng hơn ông là một nhà quý tộc. Ông là con nhà gia thế. Con không xấu hổ thừa nhận ông là cha con. Mẹ có thể nói với Jim nếu mẹ muốn sự thật, con nghĩ con muốn mẹ làm điều đó”.
- “Cám ơn Edwina”.
Edwina đứng lên: “Con mong mẹ thành thực với con từ nhiều năm trước, mẹ. Sự thể có lẽ khác đi giữa hai chúng ta”.
Mình thành thật ngờ vực điều này, Emma nghĩ, nhưng lại nói: “Có lẽ như vậy”.
Edwina bước về phía cửa không nói một lời và Emma để ý thấy vẻ hài lòng trong ánh mắt của con gái. Thật là một kẻ diện rởm, bà tự nhủ. Việc là con hoang không còn quan trọng đối với nó nữa, giờ đây khi nó biết cha nó là quí tộc. Emma gọi với theo: “Nhờ con bảo Jim lên gác nhé”.
Edwina quay ngoắt lại: “Thưa mẹ, vâng”. Cô ta chàng màng một lúc rồi nói một cách ngập ngừng. “Mẹ đã nói gia đình nhà Fairley đã gây cho mẹ bao nhiêu là buồn khổ thế mà… mẹ vẫn đặt tên con theo bố con…”
- “Nói buột mồm ra thế”, Emma nói một cách mạnh mẽ. “Nhưng đó lại là chuyện khác”.
Mấy phút sau, Jim Fairley bước vào, Emma thẳng người lên, mỉm cười một cách vui vẻ, Jim khoảng ba mươi tuổi, cao chừng sáu foot, vai rộng, bụng thon, chân dài. Anh có khuôn mặt hấp dẫn, khá nhạy cảm, mặc dù khóe miệng anh có nét ham khoái lạc tương phản một cách rõ rệt với đường nét khắc khổ và cặp mắt xanh đầy tình cảm của mình. Mái tóc nâu sáng điểm vàng chải bồng bềnh trên mái đầu cân đối và để dài hơn tí chút. Bề ngoài của anh không chê vào đâu được bởi vì anh luôn luôn ăn mặc sang trọng, anh là hình ảnh thu nhỏ của một nhà quý tộc. Anh hoàn chỉnh từ trên xuống đến đôi giày khâu tay. Anh mặc bộ dạ phục cắt tuyệt xảo theo mốt hiện đại…
Jim như bước thẳng từ một thời đại khác vào thế giới hiện tại, và khi anh bước nhanh về phía bà, mỉm cười duyên dáng, Emma thấy mình quay trở lại cái thời của bữa ăn lịch thiệp ở Fairley Hall mà Olivia Wainwright đã thết năm 1904. Mình luôn luôn tin là Jim trông giống Edwin, Emma nghĩ vậy. Anh đứng sững lại và bà nhận ra đó là Adam Fairley đứng trước mặt bà đêm nay. James Arthur Fairley người cuối cùng của dòng họ, là hóa thân của ông tổ anh.
Emma cảm thấy mất bình tĩnh trong giây phút, nhưng bà gạt bỏ cái cảm giác kỳ lạ đó qua một bên và nói một giọng duyên dáng: “Chào Jim”, bà đứng dậy, giơ tay ra. “Chào mừng cháu đến nhà bà. Chào mừng cháu vào gia đình bà”.
Jim mỉm cười ấm áp. Anh kính trọng và tôn thờ người đàn bà vương giả đang nắm tay anh và sự thán phục biểu lộ trên nét mặt. “Chào bà Harte. Và xin cảm ơn bà. Cháu lấy làm vinh dự trở nên một thành viên của gia đình bà và được ở trong ngôi nhà của bà”. Anh nắm chặt lấy ngón tay bà và nhìn xuống vào mắt bà. “Cháu yêu Paula với tất cả trái tim của cháu. Cháu sẽ làm một người chồng tốt đối với nàng”.
- “Ừ, bà tin như thế, Jim”, Emma vừa nói vừa rút tay ra.
- “Bà mời cháu uống nhé?”. Bà vừa nói vừa đi về phía bàn rượu.
Ngăn bà lại, Jim nói, “cám ơn bà. Cho cháu xin một cốc vang. Nhưng để cháu tự lấy. Bà khỏi phiền”.
Emma ngắm nhìn anh sải bước qua phòng với vẻ duyên dáng nhẹ nhàng nảy sinh từ sự tự tin do được giáo dục và gốc gác gia đình, và bà thấy anh qua một con mắt khách quan mới, tại sao mình không thấy được sự giống nhau của anh với Adam. Có lẽ điều đó càng rõ rệt hơn vì bộ dạ phục, bà nhủ lòng như vậy và nhìn vào ngọn lửa, lòng tràn đầy những hồi tưởng của thời dĩ vãng.
Jim mang thức uống trở lại.
Emma nâng cốc: “Paula có nói cho bà biết là con muốn nói chuyện với bà”.
- “Dạ, vâng, đúng thế, thưa bà Harte. Nhưng trước hết cháu có quà cho bà đã”. Anh đặt ly rượu xuống và tìm trong túi. Anh lấy ra một chiếc hộp nhỏ bằng carton và đưa cho bà.
Emma ngước nhìn Jim: “Cái gì vậy?”.
- “Bà mở ra đi”. Jim nói.
Emma mở nhanh, trí tò mò của bà tăng lên. Chiếc hộp có một chiếc khăn tay lụa, màu trắng của nó đã bị thời gian làm úa vàng, nó được gấp lại một cách cẩn thận để những chữ cái E.A được nhìn thấy một cách rõ ràng. Tay bà run run khi nâng tấm khăn lên. Bà nín thở nhìn xuống viên đá. Đó là viên đá cuội dẹt mà bà và Edwin đã tìm thấy trong hang trên đỉnh của Thế Giới, trên đó có vẻ bức chân dung nhỏ xíu của một người đàn bà. Nó được bảo quản cực kỳ cẩn thận, vết dầu vẫn tươi như trên nửa thế kỷ trước. Bà nâng nó lên, nhìn đăm đăm rồi ngước nhìn Jim dò hỏi.
- “Ông cháu đưa cho cháu hôm ông mất”, Jim nói và nhìn mặt bà, “ông cháu bảo cháu mang đến cho bà. Ông muốn bà giữ nó”.
- “Tại sao?”, Emma hỏi giọng khe khẽ, như vậy cuối cùng Edwin Fairley đã không quên bà. Ông đã nhớ đến bà trên giường hấp hối.
- “Thưa bà Harte, lát nữa cháu sẽ trả lời điều đó. Cháu muốn giải thích một điều khác trước đã. Ông cháu biết mối quan hệ của cháu với Paula. Dạ thưa bà, cháu có đưa nàng đến gặp ông cháu ở nhà ông ở Harolgate, khi chúng cháu mới bắt đầu gặp nhau. Lúc ấy cháu không thể hiểu tại sao ông cháu như nhìn thấy ma khi nàng bước vào. Vâng, sau nhiều tháng, ông cháu bắt đầu quí nàng và rất sôi nổi về chuyện hôn nhân. Nó hình như cho ông nguồn nghị lực mới. Điều ao ước nhất của ông cháu là chúng cháu lấy nhau”.
Jim ngừng lại, châm thuốc, hút một hơi và nói tiếp. “Thế rồi đột nhiên Paula chấm dứt với cháu, giải thích rằng bà không bao giờ chấp nhận một người họ Fairley trong gia đình, rằng bà hằn thù với gia đình nhà cháu vì một lý do nàng không thể hiểu. Nàng nói với cháu nàng sẽ không bao giờ làm một điều gì để gây cho bà đau đớn, bởi vì bà đã có quá nhiều đau đớn và phiền muộn trong cuộc đời. Cháu tranh cãi với nàng, muốn nàng thảo luận chuyện đó với bà, hoặc để cháu thưa chuyện với bà.
Nhưng nàng như lên cơn điên cuồng khi nghe cháu đề cập đến chuyện đó, cháu quyết định để nàng bình tĩnh lại, hy vọng nàng sẽ thay đổi ý kiến. Nàng không thay đổi, như bà đã biết”.
Emma gật đầu. “Và cháu đã kể tất cả những điều ấy với ông cháu”.
- “Dạ, vâng, cháu van xin ông cháu khai sáng cho cháu. Sự thật là rất nhiều lần. Ông từ chối thẳng thừng. Cháu biết bà đã giành quyền kiểm soát tờ Gazette của ông cháu năm 1950, và cháu hỏi ông có phải lòng căm thù của bà nảy sinh do sự va chạm trên con đường kinh doanh hay không. Ông cháu lại từ chối không trả lời cháu hoặc nói chuyện về bà. Ông cháu hình như xuống dốc khi Paula rời cháu. Thưa bà, ông cháu nuôi dạy cháu rất gần gũi, nhưng cả cháu nữa cũng không thể hiểu được ông. Mấy tuần lễ cuối cùng của cuộc đời, ông cháu yếu đi một cách dễ sợ và một ngày cuối tháng mười hai, ông cháu cho gọi cháu. Cháu nghĩ ông biết ông sắp chết…”
- “Và ông cháu đưa viên đá này để đưa cho bà”. Emma ngắt lời: “Và ông cháu đã kể cho cháu nghe toàn bộ câu chuyện, phải không? Ông cháu đã kể cháu nghe về bà và những chuyện đã xảy ra giữa ông cháu và bà khi hai người còn trẻ”. Bà nói xong bằng một giọng yếu ớt.
- “Vâng, ông cháu kể cho cháu nghe mọi chuyện. Ông cháu nói bà sẽ khoan nhượng và ban phúc cho chúng cháu, nếu như bà không thì cháu sẽ tới bà mang theo hòn đá này. Ông cháu nói điều hết sức quan trọng là để và dễ hiểu rằng đây là bức họa của mẹ bà chứ không phải của Olivia Wainwright, như ông cháu đã tin khi ông tìm thấy nó”, Jim ngừng lại và nhìn bà chăm chăm, cố gắng đo xúc cảm của bà, nhưng mặt Emma là một màng phủ không thể đo được.
Sự thật là Emma không ngạc nhiên trước phát hiện của Edwin. “Bà cũng nghĩ đó là mẹ của bà”, bà lẩm bẩm khe khẽ. “Bà nghĩ bà luôn luôn biết điều đó. Adam Fairley vẽ, có phải không?”.
- “Đúng thế. Ông cháu đem viên đá tới cụ của cháu sau khi Olivia chết, ông nghĩ chắc cụ muốn có viên đá này vì những lý do đa cảm. Rõ ràng là ông cháu đã đưa cho Adam trước đây, nhưng cụ không nhận. Cụ cháu đã giải thích vì sao. Cụ nói đó là bức họa mẹ bà và người nói với ông cháu, họ là người tình tuổi thơ của nhau”.
Emma gật đầu chầm chậm. “Đó là một điều nữa mà bà đã ngờ từ lâu… là giữa hai người có một tình bạn”.
Jim hít một hơi thật sâu: “Mẹ của bà và cụ của cháu còn hơn là bạn, thưa bà Harte. Họ là người tình”.
Emma nhổm thẳng người trên sofa, những ngón tay của bà nắm chặt lấy hòn đá. “Cháu có chắc thế không, Jim?”. “Dạ, có. Cụ cháu giải thích rất cặn kẽ và cẩn thận tất cả với ông cháu. Hình như Adam yêu mẹ của bà, Elizabeth và mẹ của bà cũng thế. Mẹ của bà có mang với Adam và chạy trốn khỏi Fairley. Ông cụ tìm thấy bà cụ mấy tuần sau ở Ripon. Ông cụ quyết định từ bỏ binh nghiệp, bất chấp cha, và đi sang Mỹ, cùng với mẹ của bà. Quá chậm. Bà cụ đã sảy thai, Elizabeth rất ốm. Bà suýt chết. Và bà không ưng thuận ý nghĩ bỏ trốn của Adam. Cuối cùng bà đã bình phục, trở về Fairley, và một thời gian ngắn sau đó, Elizabeth lấy ba của bà, Jack Harte. Và không bao giờ nói chuyện với Adam Fairley nữa”.
Emma yên lặng, lòng đầy một nỗi buồn nhức nhối. Mình vẫn biết là như thế, bà nghĩ. Đó là một trong những lý do mình căm ghét Adam Fairley một cách cay độc. Nhưng làm sao mình biết được nhỉ? Hồi còn nhỏ mình có nghe lỏm được gì chăng? Một cuộc cãi cọ trong gia đình? Sự buộc tội lẫn nhau giữa cha và mẹ mình? Xì xào của những người trong vùng? Bà lục tìm trong trí óc nhưng không thấy được câu trả lời.
Jim đến ngồi cạnh bà trên sofa: “Cháu hy vọng cháu không làm bà buồn phiền, thưa bà Harte, khi mở những vết thương cũ hẳn là đau đớn đối với bà. Tuy nhiên, cháu cảm thấy là bà nên biết ông cháu đã tâm sự, ký thác ở cháu và cháu muốn bà có viên đá mặc dù bà đã tự mình động lòng thương Paula và cháu”.
Một thoáng đăm chiêu lướt trên mặt Emma. “Không, cháu không làm bà buồn phiền đâu, Jim. Bà mừng là cháu đã nghe theo bản năng của mình. Bà yêu bà cụ thân sinh ra bà lắm và bà lại không có một tấm ảnh nào của mẹ bà. Bà sẽ nâng niu viên đá đó. Nào, cháu cứ nói tiếp đi. Bà chắc là còn nữa”.
- ‘Vâng, đúng thế. Khi ông cháu cho cháu viên đá để đưa bà, ông cháu nói những người phụ nữ nhà Harte luôn luôn có một sức quyến rũ tiền định đối với con trai nhà Fairley, nhưng họ luôn bất hạnh trong tình yêu. Bị đọa đày vì dòng dõi dó là câu ông cháu dùng. Ông nói: “Cháu hãy nói với Emma để cho nó chấm dứt đi. Nói với bà là hãy để cho thế hệ này có được niềm hạnh phúc mà bà và ông đã bị khước từ, mà mẹ của bà và cha của ông đã bị khước từ. Hãy nói với bà là vì lương tâm bà phải chấm dứt điều đó, lần này và mãi mãi. Nói với bà là bà, chỉ có bà là người duy nhất cuối cùng có thể kết hợp cả hai gia đình lại cùng nhau trong hôn nhân thần thánh”. Ông rất xúc động, thưa bà Harte. Cháu nói cháu sẽ làm như lời ông yêu cầu”.
Emma nắm lấy tay Jim trong tay mình, đôi mắt già nua và thông hiểu, đang ướt: “Jim, tại sao cháu không đến với bà từ trước? Ông cháu chết đã ba tháng rồi”.
- “Cháu định tới bà vào tháng giêng, nhưng lúc ấy bà và Paula đột ngột đi Mỹ. Khi trở về, bà bị ốm. Cháu đã định nói với bà mấy tuần trước đây nhưng bà quá bận, cháu không muốn quấy rầy, đặc biệt là lại vừa mới ốm dậy”. Anh mỉm cười: "Thế rồi như từ trên trời rơi xuống, bà cho cháu biết là bà tán thành cuộc hôn nhân nếu hai chúng cháu đều muốn”. “Bà mừng là bà đã đi bước đầu tiên”, Emma nói. “Dù sao nó cũng làm bà cảm thấy dễ chịu hơn”. Bà lắc đầu bàng hoàng. “Kể cũng lạ, có phải không, ba thế hệ đàn ông nhà Fairley đều phải lòng những người đàn bà nhà Harte và luôn luôn tan vỡ cho đến tận ngày hôm nay. Ba thế hệ, Jim ạ, gần một trăm năm”, bà thở dài. “Quá lâu, và quá nhiều đau khổ. Ông cháu nói đúng. Bây giờ nó phải chấm dứt”. Bà mỉm cười: “Ồ, mà nó đã chấm dứt rồi phải không, Jim?. “Vâng. Cám ơn Chúa”. Trước sự ngạc nhiên và bàng hoàng của Emma, Jim quì xuống sàn dưới chân bà, nắm chặt lấy hai tay bà trong đôi tay của mình. Anh ngước nhìn lên mặt bà, đôi mắt anh gần như cầu xin. “Ông cháu bảo cháu làm một điều khác nữa, thưa bà Harte. Ngay trước khi ông cháu chết, ông cháu nói, khi cháu đã nói với Emma tất cả những điều đó rồi, ông muốn cháu quì hẳn xuống và xin người đàn bà ấy sự tha thứ cho tất cả mọi điều mà gia đình nhà Fairley đã gây nên cho bà. Đặc biệt, cháu xin bà tha thứ cho ông. Hãy nói với bà là ông không bao giờ ngừng yêu bà trong suốt những ngày của đời ông, và không có bà, đời ông không có một ý nghĩa thực sự gì hết. Một phần của con người ông đã chết cái ngày ông khước từ Emma ở vườn hồng, và ông đã trả giá đắt cho điều ông làm. Cháu đã hứa một cách trung thành như điều ông cháu ao ước, thưa bà Harte, nhưng ông cháu đột nhiên xao động và bắt cháu hứa đi hứa lại. Ông cháu cũng nói, bằng một giọng buồn bã nhất “Jim, ông sẽ nằm trong một nấm mồ không yên nếu Emma không tha thứ cho ông. Hãy van xin bà, Jim, để cho linh hồn bị hành hạ của ông được an nghỉ”. Cháu nói với ông cháu biết bà sẽ tha thứ cho ông, và cuối cùng cháu đã làm được cho ông cháu bình tĩnh lại. Ông cháu chợp ngủ đi được một lát. Khi ông cháu mở mắt ra thì hình như ông không nhìn thấy cháu. Một vẻ xa xăm hiện ra trên khuôn mặt ông. Ông nhìn đăm đăm ra ngoài cửa sổ một lúc lâu. Khi ông nằm lại trên gối, cháu biết ông cháu đang trôi đi. Hoàn toàn bất ngờ, ông mỉm cười, và đó là một nụ cười đắc thắng và hạnh phúc. Ông kêu lên bằng một giọng mạnh mẽ nhất: “Emma! Emma! Anh trở lại với đỉnh của Thế Giới đây”, thế rồi ông cháu chết một cách bình yên trong cánh tay cháu.
Emma nuốt lệ: “Tội nghiệp Edwin. Tội nghiệp Edwin”. Bà nói giọng run rẩy. “Bà nghĩ xét cho cùng có lẽ ông cháu chịu đựng nhiều hơn bà”.
- ‘Vâng, cháu cũng tin là như vậy”, Jim nói. Nét mặt anh trở nên căng thẳng. “Bà đã tha thứ cho dòng họ nhà Fairley, có phải thế không, thưa bà Harte? Và đặc biệt là ông cháu”.
- “Bà tha thứ cho họ, Jim. Tất cả họ, và đặc biệt là Edwin”.
Bà chạm nhè nhẹ mặt Jim một cách trìu mến. Nhưng lúc này bà nhìn thấy chính Edwin đang quì trước mặt bà. Tôi đã để cả cuộc đời tôi tìm sự trả thù cho những điều anh gây ra cho tôi, bà nghĩ. Nhưng sự thực là không cần thiết. Lương tâm của anh đã làm điều đó cho tôi rồi. Nếu như tôi biết được, thì có phải tránh được biết bao nhiêu đau đớn và sức lực. Anh muốn tôi thắng. Đó là nguyên nhân vì sao anh đã khoan khoái, nhẹ nhõm trong lòng khi tôi đoạt tờ Gazette của anh. Anh biết cuối cùng thù máu đã hết.
- "Bà Harte, bà có làm sao không ạ?”, Jim lo lắng hỏi.
Emma chớp mắt và nhìn anh đăm đăm. “Không, bà khỏe. Nào cháu cho bà mượn chiếc khăn tay, cháu ngoan. Bà không thể đi xuống gác để thông báo lễ đính hôn của hai cháu với những dòng nước mắt trên má, có phải thế không nào?”
- “Theo như cháu hiểu, thì bà muốn làm gì bà có thể làm được”, Jim vừa nói vừa trao cho bà chiếc khăn tay.
Emma hỉ mũi và hói: "Bà sẽ nói với cháu đêm nay rằng bà là mẹ của con gái ông cháu. Jim. Bà muốn cháu biết điều ấy. Con gái cả của bà, nữ bá tước Dunvan, là bác Edwina của cháu. Hay nói cho đúng là bác về phía nội của cháu”.
- “Cháu cũng đoán như vậy khi cháu gặp bác ấy buổi chiều nay”, Jim cười: “Bác ấy trông giống nhà Fairley, nếu bà cho phép cháu nói điều đó”.
Emma khúc khích. “Đúng thế. Bác ấy là người giống hệt cụ bà của cháu, Adele, khi bác ấy còn trẻ hơn. Nào hãy đưa cánh tay của cháu cho một bà già, và bà xuống gác để gặp mặt gia đình của bà”.
- “Cháu rất hân hạnh”, Jim nói.
Bữa ăn đã tiến hành được một lúc. Emma ngồi ở đầu chiếc bàn gỗ đào hoa tâm trong phòng khách lộng lẫy chung quanh là các con, vợ chồng của họ và các cháu nội ngoại. Thức ăn tuyệt vời, rượu thượng hảo hạng, không khí yến tiệc tràn ngập. Mọi người đều thư thái, sự ghen tuông, thù hận và những ý kiến khác nhau của họ được chôn vùi hoặc che giấu cái bề ngoài tươi cười của họ.
Tất cả bọn hề đeo mặt nạ, Emma nghĩ bà mượn một câu thơ mà bà đã có lần đọc, bởi vì bà phát hiện được một sự căng thẳng ẩn tàng trong không khí, mặc dù ở một chừng mực nào đó, nó không rõ rệt như khi bà mới vào phòng khách trước đó cùng với Jim Fairley. Các cháu nội ngoại của bà những người yêu bà thắm thiết và trung thành với bà một cách điên cuồng đã chào đón bà thật thắm thiết và trìu mến, tình cảm chiến hữu đối với nhau rất rõ ràng. Các con của bà cũng khá là nhã nhặn, nếu có đôi chút dè dặt, nhưng Emma nhận ra sự thận trọng ở một số người này, sự thù hận được ngụy trang ở một số người khác, sự cảnh giác ở tất cả mọi người, trừ Daisy.
Bà chua chát thấy bốn kẻ âm mưu đã cố tình tránh mặt nhau. Tuy nhiên, bà không bỏ qua những cái liếc lo âu mà Kit và Robin trao đổi cho nhau khi chúng nghĩ không ai quan sát chúng, nhưng cả chúng nữa, cũng tránh nhau. Ngay cả Elizabeth xưa nay vẫn rất gần gũi với Robin, đã khôn khéo bước tránh người anh em sinh đôi với mình, lẩn quất bên Blackie, tán tỉnh, nịnh nọt ông. Edwina ở bên cạnh con trai trong suốt giờ cocktail. Lễ đính hôn đã được thông báo, champagne đã được mở, chúc tụng không ngớt và mặc dù sự ngạc nhiên rõ rệt khi họ biết là bà đã chấp nhận một người nhà Fairley vào trong lòng gia đình bà, nhưng thái độ của các con bà không thay đổi.
Giờ đây, trong ánh lắt lay của những ngọn nến, trong lúc bà gẩy gẩy đồ ăn tráng miệng trên đĩa của bà, thỉnh thoảng Emma lại ngẩng lên, kín đáo nhìn bốn tên thủ phạm, đôi mắt xanh của bà cảnh giác. Bà đã có lợi thế. Kinh nghiệm của một đời người trong việc ứng xử với người đời đã làm tăng khả năng tự nhiên của bà để đánh giá được những khả năng và thiếu sót của từng đứa con một.
Bà đã phát hiện ra những khuyết tật của chúng từ lâu và nó không còn làm cho bà bàng hoàng và ngạc nhiên nữa. Bà có thể đọc được từng đứa như trang sách mở. “Sau đêm nay bà sẽ không còn phải nhọc lòng nữa. Cuốn sách sẽ được đóng lại.”
Mắt bà thoáng nhìn Kit. Sao mà nó trở nên giống Joe Lowther lắm vậy. Cần cù, phớt đời, thiếu trí tưởng tượng và óc sáng tạo. Và thật là một thằng ngu khi nó gắn đời nó với Robin, cái thằng sẽ ăn ở hai lòng với nó không một chút do dự. Bà chuyển hướng nhìn sang đứa kia. Đêm nay trông Robin đẹp trai quá, bà nghĩ, bà bỗng cảm thấy nhói đau. Robin vốn là đứa con bà yêu quí và biết rằng nó là kẻ chủ mưu trong cái âm mưu này làm bà đau đớn hơn bà tưởng. Nó tao nhã và dịu ngọt, một nhà chính trị có nòi, miệng lưỡi khéo léo, một nhà thương thuyết. Không may, cũng như cha nó, Arthur Ainsley, tính hư danh của nó là khuyết điểm thảm hại và luôn che mờ sự suy xét của nó.
Đứng về nhiều mặt, đứa chị em sinh đôi của nó giảo hoạt hơn nó, ngoại trừ cô này ít khi dùng đến khả năng này của mình. Emma liếc nhìn Elizabeth đầy đồ trang sức, kim cương. Cái vấn đề của nó là đi tìm khoái cảm đến cùng cực. Cũng giống y như bố nó.
Ở tuổi bốn mươi bảy, Elizabeth hãy còn đẹp mê hồn, vẻ đẹp đích thực của gia đình, nhưng nó vẫn sôi nổi và chưa chính chắn ở rất nhiều mặt. Emma nghĩ: nó là một người đàn bà cực kỳ bất hạnh. Nhưng thử hỏi đã có bao giờ nó hạnh phúc chưa? Và nó đã có biết bao nhiêu người chồng từ khi nó ly dị Tony Barstone, cha của Alexander và Emily? Emma hầu như không đếm xuể. Có Michael Villiers, rồi là Derek Linde, mà nàng đã đẻ sinh đôi, Amanda và Francesca. Sau khi ở cữ, Elizabeth bắt đầu mất khẩu vị đối với những người đàn ông Anh, và đã đi tìm những khẩu vị lạ hơn. Một ông hoàng Balan với cái tên không sao phát âm nổi, tiếp theo là bá tước người Ý, kém cô mười lăm tuổi. Bá tước bá tiếc gì, Emma nghĩ một cách khô khan. Giống một thằng ma cô nhiều hơn.
Lúc này Emma để ý thấy cái gã bá tước này chú ý một cách thái quá đến Edwina, cô này đóng cái vai quả phụ thừa kế của bá tước Dunvan, hành động một cách hạ cố với một vẻ bề trên ban ơn đến lộn mửa. Sau đêm hôm nay, với thông tin cô ta biết về ông cụ thân sinh của mình, cô ta cảm thấy cần phải lên mặt lên mũi với cuộc đời.
Bốn cái đứa này, Emma tự nhủ một cách lạnh lùng. Chúng đem đến cho tuổi già của mình quá ít niềm vui và an ủi. Nhưng chúng lại cho mình những đứa cháu và mình hết sức cám ơn vì điều đó. Emma đặt đĩa xuống và ngả người trong ghế, mỉm cười nhân từ. Nhưng đôi mắt bà vẫn cảnh giác như bao giờ và nếu có người con nào của bà để ý kỹ hơn, họ sẽ thấy một ánh cay độc trong chiều sâu của nó. Bà nghiêng đầu, nhìn xuống cuối bàn, vào Blackie đang ngồi ở ghế của khách, oai vệ và khác biệt. Mái tóc óng trắng như tuyết nhưng vẫn dầy và quăn, nước da ông đỏ au, đôi mắt đen vẫn vui vẻ như sáu mươi năm trước đây. Ông đã trở thành một con người đường bệ, hình hài không giảm, trí óc không suy, tuổi già vẫn khỏe mạnh. Ông sống lâu hơn Winston và Frank, cả hai đã chết đầu những năm 1960, trước sau một năm và David Kallinski đã qua đời mùa hè 1967. Bây giờ chỉ còn lại hai chúng ta, Emma nghĩ. Và Blackie sẽ tiếp tục mãi mãi. Ông là một con ngựa chiến già. Nhưng mà, cả ta cũng thế.
Emily ngồi phía cuối bàn, bắt gặp sự chú ý của Emma, mắt trợn lên, miệng nói không thành tiếng, Emma không hiểu gì. Bà cau mặt, ra hiệu cho Emily tới đầu bàn.
- “Có chuyện gì thế Emily? Trông cháu như là muốn ngất đi”.
Emily cúi xuống thì thào: “Bác Edwina, thưa bà. Bác ấy say bí tỉ và nghiêng ngả, như thường lệ. Với tất cả số lượng rượu bác ấy uống, cộng với bốn cốc scotch và champagne trước bữa tối. Nếu bà cần biết, bác ấy có vấn đề rượu chè. Bác ấy trở nên khó chịu với Gianni. Cháu biết là bà không thích chú ấy, nhưng chú ấy không đáng sợ và chú ấy rất tốt với hai đứa sinh đôi và mẹ cháu. Cháu nghĩ là bác ấy trở nên hung dữ và chú ấy không được thoải mái. Mẹ cháu cũng giận dữ nữa. Có vẻ gì không giống như mọi ngày. Hilda pha cà phê, bà nhé?”.
Emma vỗ cánh tay Emily một cách trìu mến: “Cháu ngoan. Bà mừng cháu đã nói cho bà biết. Nào bây giờ cháu hãy làm ơn giúp bà chạy lên gác. Cháu sẽ thấy cặp sách của bà trong phòng khách. Hãy để nó phía sau bàn làm việc trong thư viện”.
- “Thưa bà, vâng. Cháu đi ngay đây”. Emily quay lại chỗ của mình, nghiêng người cầm ly rượu của cô lên. Cô đứng ở phía sau ghế của mình, hắng giọng thật to. “Xin mọi người yên lặng!”, cô nói bằng một giọng mạnh mẽ. Tiếng trò chuyện lao xao dừng lại đột ngột, tất cả ngạc nhiên nhìn cô.
Cô Emily tự tin, không bị nhụt chí trước bất cứ điều gì, cô đã nói: “Quả thực không phải công việc của tôi, một thành viên của thế hệ trẻ trong gia đình này, để có thể nói là đêm nay, ở đây đã có người nào thiếu sót. Nhưng tôi muốn nói là không ai nâng cốc chúc mừng bà, vừa mới bình phục sau một trận ốm nặng… Tôi nghĩ chúng ta nên uống chúc sức khỏe của bà. Bởi vì tất cả chúng ta đều yêu bà tha thiết…”
Emily dừng lại, trợn mắt nhìn Robin và Kit, những người cô ghét. Đôi mắt xanh của cô, hết sức giống Emma, đang buộc tội: “Và vì thế tôi đề nghị nâng cốc mừng bà. Mừng Emma Harte. Một người phụ nữ vĩ đại. Người mà tất cả chúng ta đều mang một món nợ quá lớn. Chúc bà sống với chúng ta một thời gian thật lâu nữa. Xin chúc Emma Harte”.
- “Chúc Emma Harte!”. Họ đồng thanh nói và nâng cốc.
Emma cảm động vì cử chỉ của Emily. Nhưng, có lẽ quan trọng hơn, bà tự hào về đứa cháu hai mươi mốt tuổi. Nó có dũng khí, cái con bé này, bà nghĩ, và nó không sợ ai hết, càng không sợ các vị chú bác của nó. Emma nhận thấy những nét giận dữ trên khuôn mặt của các con trai bà, bà giấu một nụ cười mỉm, bà đứng lên.
- “Cám ơn”, bà nói và nghiêng đầu. “Thôi bây giờ chúng ta sang thư viện uống cà phê và rượu mùi.” Và là chầu cuối cùng bà nói thêm lặng lẽ, lòng nghĩ tới quân bài chiến thắng bà còn giấu dưới ống tay áo.
Thư viện là một phòng lớn, trần cao và những cửa sổ có song nhìn ra ngoài sân. Với kiến trúc kiểu tây phương và panel gỗ thông đầu thế kỷ 18 đã tạo nên một cái nền thật duyên dáng cho những chiếc bàn cổ, một chiếc bàn Chippendale lớn, rất nhiều sách, những chiếc sofa thoải mái bọc vải hoa nhiều màu sắc, những chiếc ghế nhung xanh và những chiếc màn cửa hợp màu.
Emma bước nhanh nhẹn qua tấm thảm Aubusson phủ trên sàn gỗ đen và đứng trước lò sưởi đá khổng lồ có từ năm 1821, khi Pennistone Royal được xây dựng. Bà xòe tay sưởi trước ngọn lửa, rồi nhìn lên đồ trang trí đặt trên hình chạm Ở chính giữa. Thật là thích hợp, bà nghĩ với nụ cười đôi chút hài hước. NÓ miêu tả sự phán xét của Solomon.
Emma quay ngoắt lại khi Emily vội vã vào. CÔ giơ cao chiếc cặp, cười và để nó phía sau bàn làm việc rồi nhẹ lướt về phía lò sưởi, chiếc áo đỏ tung bay. CÔ ôm Emma. "Cháu mê cái áo này quá, bà ạ.
Cám ơn bà đã cho cháu".
Mỉm cười một cách trìu mến, Emma sờ má Emily, cử chỉ âu yếm : "Cháu có thể giữ cả những đôi hoa tai nữa, cưng".
Emi ly há miệng : "ồ, không được! Bà có chắc như vậy không?", Emily nhìn bà chăm chăm, đôi mắt cô lóng lánh. "Bà nói thật rồi.
Nhìn mặt bà cháu biết. ô, bà thật là tuyệt vời. Cám ơn bà. ôi, Trời!". CÔ đột nhiên sững người ợii, mặt ngây ra. "Mẹ cháu phát điên phát cuồng. Mẹ cháu rất tức giận khi nhìn thấy cháu mang nó".
Emma nhịn cười : "Bà nghĩ bà có thể chuyển nhượng đồ trang sức của bà theo kiểu bà thích, Emily. Ðó không phải là việc của mẹ cháu, hoặc không phải là việc của bất cứ ai. Cháu đừng bận tâm về chuyện đó nữa".
Sarah, con duy nhất của Kit, xuất hiện Ở ngưỡng cửa. CÔ là bức tranh tương phản trong chiếc áo nhung xanh, mái tóc màu đỏ vàng xõa tung quanh khuôn mặt tàn nhang làm dịu bớt những đường nét xương xương của cô. Cũng may, nó không giống cha, hoặc ông nó, joe, Emma nghĩ, khi Sarah đến ngồi cùng họ.
CÔ gái hai mươi sáu tuổi khoác vào cánh tay Emma một cánh khăng khít và cau mặt nói: "Cháu cũng không hiểu cha cháu có chuyện gì. Suốt cả buổi tối ông ấy cứ bồn chồn. Cháu tình cờ gặp ông ấy Ở Stone Hall trò chuyện với chú Ro bin. Trông cả hai đều như sấm sét và hình như đang cãi cọ nhau ghê gớm. Cháu hy vọng họ không làm hỏng buổi liên hoan tuyệt vời đêm nay với những trò cãi cọ của họ.
HỌ là những con người không thể chịu nổi như thường lệ".
- bà chắc là không có chuyện gì quan trọng đâu, Sarah ạ. Ðừng lo", Emma nói. "Bà nghĩ. Thế là lũ âm mưu lại giằng xé cổ họng của nhau. Chẳng có gì đáng ngạc nhiên".
Emily tình nguyện bằng một giọng thở không ra hơi, "cháu nghĩ tất cả các ông bà già khi đến đây, hành động đều có chút lạ lùng. CÓ vẻ bồn chồn hốt hoảng. Bà ạ. Nhất là mẹ cháu. Nhưng bà ấy lúc nào chẳng thần kinh, đồng bóng. ô, thì cần gì đâu. Chúng ta đang vui vẻ".
- "Ðúng thế", Emma nói và lao vào một cuộc thảo luận sôi nổi về công việc làm ăn với các cháu gái của bà .
Những người khác bắt đầu thư thái đi vào dần dần. HỌ ngồi chung quanh phòng hoặc túm tụm thành nhóm. Hilda, người trông nhà, phục vụ cà phê và người quản gia phân phát đồ uống và cigar sau bữa ăn. Blackie đi lại phía Emma, tay cầm ly rượu mạnh, miệng ngậm điếu cigar: "Buổi tối dễ thương, Emma". ông nhìn xuống mặt bà. "Và trông em tuyệt vời, em gái. Nếu anh trẻ hơn hai tuổi thế nào anh cũng xin cưới em. Xin thề trên các chư vị thánh thần là thế nào anh cũng làm như vậy", ông cười, lại chuyển sang tiếng địa phương như ông thường có thói quen gần đây.
- "Không có kẻ điên nào hơn kẻ điên già", Em ma cười. Mặt bà dịu lại" "Và nói đến điên, anh có nghĩa anh nên sử dụng những của này không?", bà hỏi và chỉ vào đồ uống và cigar.
- "ồ tuổi của anh, anh chẳng cần lo lắng đến sức khỏe. Anh đang sống thời gian vay mượn", ông thốt lên và nói tiếp: "Bryan gửi lời chúc mừng em. Anh cũng sung sướng thong báo rằng Geraldine đang chờ đợi đứa cháu nội thứ ba của anh".
- "Xin chúc mừng Blackie. Thật là tuyệt vời..."
Elizabeth có vẻ kích động như lên cơn sốt, chộp lấy Blackie và lôi ông đi, vừa trò chuyện huyên thuyên không nghỉ khi cô ta dẫn ông tới chỗ chồng. Emily và Sarah đi chỗ khác, còn Emma đứng một mình trước lò sưởi lặng lẽ quan sát cảnh tượng. Bà cảm thấy hoàn toàn thoải mái với mình và bà thích thú Ở bên chín đứa cháu nội ngoại mỗi đứa một kiểu đã đem đến cho bà niềm hạnh phúc. Từng đứa một, thế hệ trẻ hướng về bà, bà tắm mình trong tình thương mến toát ra từ lũ trẻ. Và niềm tin là bà đã đúng trong tất cả những điều bà làm để gìn giữ triều đại của mình được củng cố mạnh mẽ hơn bao giờ hết trong bà.
philip, được gọi từ úc về trước đó đã kể lại những giai thoại về những chuyện xảy ra Ở trại cừu, trong khi lắng nghe, lòng bà tràn đầy những kỷ niệm thân yêu về Dunoon và những ngày sung sướng bà đã sống với Paul và Daisy trong ngôi nhà xưa đầy lưu luyến ấy, Paul hẳn sẽ tự hào về các cháu của anh, bà nghĩ. Chúng nó đều trưởng thành, Philip người thẳng như cái cột, thông minh, làm việc chăm chỉ và anh đang chứng tỏ là một nhà kinh doanh giỏi. Cùng với Paula, anh sẽ đảm bảo sự thành công tiếp tục của chúng, những xí nghiệp Mcgill.
Emma liếc nhìn sang đứa cháu gái đang cuốn hút với jim Fairley, cả con người toát ra hạnh phúc, trí óc bà tự nhiên quay trởlại với gia đình nhà Fairley. Bà đã đem đến sự tàn phá cho gia đình đó và bà tự hỏi không hiểu có đáng phải làm như thế không. Nhưng ân hận, tiếc nuối chỉ hao phí thời gian. Bà nhớ lại những lời Paul nói nhiều năm trước. "Thành công là sự trả thù tốt nhất, Emma ạ". CÓ lẽ thành công của chính bà là đủ, thế nhưng không có lòng căm thù đối với gia đình nhà Fairley để thôi thúc thì cũng có thể bà đã không tới được đỉnh điểm . Sự trả thù là đinh thúc. Giờ đây bà đang Ở trong thung lũng của cuộc đời và sau đêm nay, bà có thể nghỉ ngơi, an toàn trong ý nghĩ là tất cả những cái bà đã xây dựng lên không gì có thể xâm phạm được cái thế hệ này và những thế hệ tiếp nối.
Mình phải làm cho rõ ràng. Làm cho xong, bà tự nhủ. Một giờ đã trôi qua và đã đến lúc ra tay. Bà lặng lẽ tách khỏi đám đông trước lò sưởi, đi quanh các vị khách của bà cho tới khi bà đứng trước bàn giấy của mình Ở cuối phòng .
- "Xin mọi người chú ý", Emma vừa nói vừa bước ra sau bàn. Tiếng trò chuyện ầm ĩ vẫn không giảm.
Bà cầm cái chặn giấy gõ mạnh lên tập giấy. Tiếng ồn ngưng lại, họ ngừng nói và tất cả các bộ mặt hướng về bà.
- "Xin mọi người hãy thoải mái. Tôi có một chút công việc gia đình nho nhỏ cần nói với các anh các chị".
Những cái liếc mắt trao đổi của một số người và tất cả đều làm theo lời bà. Khi mọi người đã yên vị, Emma ngồi xuống bàn mở cặp. Bà lấy ra một tập giấy tờ, trải trước mặt, thong thả, từ tốn. ánh mắt của bà gặp mắt jonathan, anh nháy mắt và cười với bà. NÓ giống Arthur Ainsley hơn Ro bin, và vừa nghĩ vừa lật những trang giấy. Một điều tình cờ, tính nết của nó lại giống mình hơn. Bà mỉm cười với jonathan: "Nào cháu hãy lấy cho bà một cốc nước đi, chóng ngoan", jonathan bật ngay dậy và làm người bà bảo. Emma uống một ngụm, nhấm nháp giây phút, cố ý để bọn âm mưu phải điên lên vì lo lắng.
Cuối cùng Emma cầm một tài liệu lên, giọng bà vang vang.
- "Tôi, Emma Harte Lowther Ainsley Ở Pennistone Royal, Yorkshire, với trí óc và thân thể đều khỏe mạnh và tỉnh táo, tuyên bố Ở đây Di chúc cuối cùng của tôi và do đó hủy bỏ tất cả các chúc thư và những bổ sung di chúc khác của tôi".
Một sự sững sờ chung của tất cả mọi người. Emma dừng lại, ngẩng mái đầu bạc lên. Mọi con mắt đều dồn về bà, sự yên lặng trong căn phòng đột nhiên sâu lắng đến nỗi giá một cái kim băng rơi xuống cũng nghe thành tiếng sấm. Emma mỉm cười, cảm nhận một niềm vui ác ý trên những nét mặt kinh ngạc của những đứa con bà. Chỉ có Daisy và các cháu nội ngoại không xao xuyến.
Emma mỉm cười, nhưng mắt bà ánh lên màu thép. "Tôi biết một di chúc do người viết đọc là điều không bình thường, nhưng không có một lý do nào về luật pháp là chuyện ấy lại không thể làm được.
Không chính thống, có lẽ, nhưng mà, tôi lại chưa hề là một người theo những thông lệ".
- "Nhưng như vậy nó có hơi bệnh hoạn không mẹ?".
Elizabeth thốt lên hoang mang, nét mặt cô ta căng thẳng. "Xin đừng ngắt lời tôi! Và không, tôi không nghĩ nó là bệnh hoạn một chút nào", Emma đập đập vào bản di chúc và nói tiếp: "Không thể đọc từng từ tài liệu này, bởi vì nó dài trên một trăm trang. NÓ cũng đầy những thuật ngữ về luật. Vì thế, tôi nghĩ dễ dàng hơn là tóm tắt tất cả lại và nói với các anh các chị bằng một ngôn ngữ đơn giản tôi đã chuyển nhượng gia tư điền sản của tôi như thế nào".
Emma ngả người trong ghế. Ðôi mắt bà lướt khắp phòng, quan sát một cách sắc sảo. Không ai buông ra một lời và bốn tên đã âm mưu chống lại bà trông như thể chúng đã biến thành tượng đá trong ghế của họ .
Ðặt bản di chúc sang một bên, Emma tiếp tục. "Trước khi tôi tiến hành chuyển nhượng tài sản của tôi, tôi muốn làm sáng tỏ một điều. Tôi nghĩ có lẽ có một sự hiểu lầm về đế chế của Mcgill mà tôi được thừa hưởng. Mới đây tôi mới chợt thấy có thể có một số người trong anh chị tin rằng Paul để lại cho tôi tất cả mọi thứ vô điều kiện, và tôi có thể chuyển nhượng tài sản của Mcgill theo kiểu nào mà tôi thích. Tuy nhiên, sự việc lại không phải như vậy".
Bà uống một ngụm nước và chuyển mình trên ghế. Bà nhìn bao quát đám đông và nói một giọng trang nghiêm : "Theo những điều khoản của di chúc và ý nguyện cuối cùng của Paul Mcgill thì cô con gái tự nhiên của ông, Daisy Ainsley Amory được tự động thừa hưởng toàn bộ tài sản khi tôi chết. Từ cô lại chuyển qua hai con của cô, Paula Mcgill Amory và Philip Mcgill Amory được chia làm hai phần bằng nhau giữa hai người khi mẹ họ chết".
Những tiếng rì rầm khe khẽ nổi lên, Emma giơ tay ra hiệu yên lặng. "Sinh thời của mình, Daisy sẽ được nhận nguồn thu nhập từ tài sản của Mcgill với ngân hàng Thương Gia Rossiter là người ủy thác. Tôi đã chỉ định Daisy là người thi hành di chúc tài sản của Mcgill và Henry Rossiter là người cộng tác thi hành.
Khi tôi chết, con gái của Daisy là Paula, sẽ thay thế tôi trong ban điều hành Tổng công ty dầu Sitex và sẽ làm việc thay mặt mẹ nó như tôi đã hướng dẫn nó làm. Ðiều nữa, sau khi tôi chết, con trai của Daisy là Philip sẽ nắm toàn bộ tài sản của Mcgill Ở úc và sẽ điều hành thay cho mẹ nó, điều này nó đã học làm dưới sự dìu dắt của tôi trong ba năm qua. Tôi chắc tất cả các anh các chị đều đã hiểu rõ không có một cách nào bất kỳ một người con, một đứa cháu khác của tôi có thể thừa hưởng một đồng xu nhỏ từ tài sản của Mcgill".
Không ai nói gì. Con mắt nheo lại của Emma lướt nhanh qua những khuôn mặt chằm chằm nhìn bà.
Các con khác của bà nghĩ gì. Chúng đều giữ tình cảm trong lòng và nét mặt chúng không thay đổi.
Bà nói: "Gia sản của Mcgill đã được làm rõ rồi, bây giờ tôi bắt đầu chuyển nhượng tài sản của bản thân tôi". Emma cảm thấy sự căng thẳng và đợi chờ tăng lên rõ rệt như những lớp sóng va vào cơ thể bà. Ðôi mắt bà dừng lại trên đứa con duy nhất của Edwina, bá tước Dunvale ba mươi hai tuổi, cháu ngoại của Edwin Fairley, họ hàng với jim. "Anthony, xin mời đến đây đứng bên cạnh bà".
Người bá tước trẻ, e thẹn, hơi giật mình vì bị gọi đến tên, nhưng anh đã làm như được bảo và đứng Ở vị trí bên phải Emma. Bà mỉm cười với cháu và quay lại đối diện với những người khác: "Cháu đầu của tôi, Anthony sẽ được nguồn thu nhập của trust hai triệu bảng mà tôi đã lập cho nó. Tôi cũng cho Anthony ngôi nhà của tôi Ở jamaica, miền Tây ấn của Anh và tất cả những đồ đạc trong đó trừ những bức họa mới treo trong ngôi nhà đó", Emma nhìn Anthony, anh này kinh ngạc, không nói nên lời. Bà nói: "Bà không để cho cháu chút lãi nào trong công việc kinh doanh của bà bởi vì cháu không bao giờ làm việc cho bà, và cũng bởi vì cháu hết sức bận rộn với những tài sản của cháu Ở Ireland và những công cuộc kinh doanh khác cháu thừa hưởng của cha cháu". Bà ngừng lại và nhìn xoáy vào anh. "Bà hy vọng là cháu hiểu và không cảm thấy mình bị lừa Ở một phương diện nào hết".
- "Trời ơi, bà, hoàn toàn không ạ!", anh kêu lên, mặt đỏ bừng: "Cháu không biết nói thế nào. Cháu bị ngợp. Bà rộng lượng đến không thể nào tin được. Cám ơn bà". Anh định đi về chỗ của mình.
Emma giữlại: "Ðứng đây với bà", bà nói, Anthony gật đầu và bước lùi lại đứng sau ghế của Em ma phía phải. "Nào bây giờ đến hai đứa cháu nhỏ nhất của tôi. Amanda và Francesca", bà vẫy gọi hai đứa sinh đôi mười bốn tuổi, con gái của Elizabeth, cháu của Arthur Ainsley đang ngồi Ở sàn, dưới chân Blackie.
Chúng đứng dậy, hơi bàng hoàng và dắt tay nhau tiến lại.
- "Ðứng bên người họ hàng của các cháu đi", Emma bảo hai đứa. "Bà cũng lập một trust hai triệu bảng cho Amanda và cũng như vậy cho Francesca, cả hai sẽ nhận được nguồn lợi tức từ những trust trên khi đến tuổi mười tám". Bà xoay ghế để nhìn hai chị em sinh đôi. "Bà biết các cháu còn hơi trẻ để mà hiểu những sự việc này. Bà sẽ giảng mọi điều cho các cháu sau đó". "Vâng, thưa bà", hai đứa bé đồng thanh nói, Amanda kêu lên giọng đầy nước mắt: "Bà không sắp chết chứ, bà ơi".
Emma lắc đầu và mỉm cười trấn an: "Không, chưa, cháu ạ? Nhưng bà phải phân phối hợp lý cho tương lai của các cháu. Câu chuyện chỉ là như thế thôi".
- "Chúng cháu có thể và sống với bà, được chứ bà?". Francesca hỏi một cách buồn thảm, mặt cô bé nhăn nhúm. "Chúng ta sẽ nói chuyện ấy sáng mai, cưng".
Emma nghiêng người về phía trước, hai tay chắp vào nhau, và giọng bà vốn luôn luôn mạnh mẽ, lại càng rung lên hơn bao giờ hết. "Bây giờ tôi sẽ nói về việc phân chia Harte Enterprises, công ty điều hành những nhà máy may quần áo, nhà máy len sợi, công ty mua bán nhà cửa Deergeld, công ty phát triển Roe Lanh, cũng như công ty thương nghiệp bán lẻ tổng hợp và Công ty báo chí Yorkshire.
Như các anh chị đã biết, nó là một công ty trị giá nhiều triệu bảng và tôi có trăm phần trăm cổ phần..."Bà ngừng lời, uống một ngụm nước, và ngả người trong ghế, mặt bà không thể dò biết. Một nụ cười nhè nhẹ khẽ lướt trên môi bà. Bốn kẻ âm mưu trước đây hết sức chú ý, bây giờ chúng như bị thôi miên. Bà nhìn thẳng vào Ro bin rồi Kit.
- "Tôi để lại bằng chúc thư cho cháu trai tôi Alexander Barkstone, năm mươi hai phần trăm cổ phần Ở công ty Harte Enterprises".
Bà nghe Kit hít một hơi, sự ngờ vực lan trên mặt anh ta. Còn Robin thì há hốc miệng : "Trời ơi", mặt tái mét và hơi nhỏm người lên. Emma nhìn trừng trừng. "Tiếp tục. Tôi để lại theo di chúc cho các cháu Sarah Lowther, -]onathan Ainsley, và Emily Barkstone chỗ còn lại của gia sản Ở Harte Enterprises.
Những phần nói trên được chia đều trong ba người đó, mỗi người nhận mười sáu phần trăm còn lại".
Bà ra hiệu cho bốn người được hưởng hoa lợi tới bàn. HỌ đừng trước mặt bà, nét mặt trang nghiêm.Emma nhìn từng người một và nói đều đều: 'Tôi hy vọng mọi người hiểu lý lẽ của tôi trong việc phân chia Harte Enterprises này. Sau khi cân nhắc kỹ lưỡng tôi quyết định phương cách duy nhất để giữ gìn công ty, để tránh chia rẽ và cãi cọ là để quyền kiểm soát công ty vào tay một người. Theo ý kiến đã được cân nhắc của tôi, Alexander là người được trang bị tốt nhất cả về trí thức và kinh nghiệm để điều hành công ty. Không phải nghi ngờ khả năng của cháu đâu, nó tuyệt vời rồi. Nhưng cháu vẫn tiếp tục làm việc Ở công ty phụ và sẽ nắm quyền kiểm soát khi bà chết. Và tất nhiên, cháu sẽ có nguồn thu nhập đáng kể từ những cổ phần bà cho cháu. và cũng lập một trust một triệu bảng cho mỗi cháu, kể cả Alexander. Bà hy vọng các cháu không nghĩ là bà thiên vị hoặc không công bằng".
HỌ nói với bà là họ hoàn toàn hiểu, từng người một cảm ơn bà và bước sang bên trái bàn. Sarah nhìn chăm chú vào lò sưởi đá, không thể gặp ánh mắt trừng trừng tức giận của Kit. CÔ hiểu cha mình mong được thừa hưởng phần lớn cổ phần của công ty Harte. jonathan nhìn xuống chân mình, tránh cặp mắt nảy lửa của Robin cũng với một lý do đó. Nhưng Alexander lầm lì và Emily sôi nổi hình như không quan tâm đến Elizabeth, phản ứng của mẹ họ là bàng hoàng và không tin là thật.
Emma tiếp tục: "Bây giờ không nói tới những tài sản kinh doanh của tôi nữa. Tôi muốn nói để các anh, các chị rõ tôi sẽ phân những ngôi nhà của tôi như thế nào, những bộ sưu tầm nghệ thuật, điêu khắc và đồ nữ trang. Cho cháu trai Philip Mcgill Amory, tôi để lại bộ sưu tầm nghệ thuật và điêu khắc, ngoài những bức họa Ở Pennistone Royal này, Ở khắp các ngôi nhà của tôi, các văn phòng làm việc Ở Lon don, Paris và New York. Philip, cháu hãy đứng bên các anh chị em của cháu'.
philip đứng Ở bên bàn và cám ơn bà. "Bà sẽ không để cho cháu cái gì khác nữa, Philip ạ, bởi vì cháu sẽ trở thành một đại triệu phú theo di chúc của ông cháu. Bà hy vọng cháu hiểu được những lý do của bà ".
- "Dạ thưa bà cháu hiểu. Bà thật là công minh".
- bây giờ tới những ngôi nhà khác của tôi. Tôi chuyển theo di chúc những ngôi nhà sau đây cho các cháu của tôi. Cho Alexander, biệt thự Ở Cạp Martin Ở miền nam nước Pháp. Cho Sarah, nhà Ở quảng trường Belgrave. Cho Emily ngôi nhà Ở đại lộ Foch Ở Paris. Cho jonathan, ngôi nhà Ở đại lộ thứ năm Ở New York. Các cháu này cũng được thừa hưởng tất cả đồ đạc trong những ngôi nhà nói trên. Ðồ nữ trang của tôi trừ kim cương sẽ được chia đều cho các cháu gái của tôi. Sarah, Emily, Francesca, và Amanda".
Emma dừng lại và đưa mắt ra hiệu cho Daisy. Người con gái trẻ nhất của bà, nhận thức được một cách sâu sắc mối ác cảm trong căn phòng, đã đừng lên và lướt đi nhanh nhẹn qua phòng, đừng bên con trai Philip. Emma nói: "Con gái Daisy, tôi cho nhẫn kim cương, hoa tai, vòng cổ, mà cha cô đã cho tôi. Tôi cũng di chúc cho cô ấy ngôi nhà này, Pennistone Royal với tất cả mọi thứ trong đó trong suốt đời cô ấy Sau khi Daisy chết sẽ chuyển qua con gái cô ấy, Paula".
Tiếng rì rầm, thì thào nổi lên. Tiếng áo dài sột soạt. Ghế kêu rắc rắc khi những tấm thân cựa quậy một cách giận dữ bên trong. Bốn người con lớn nhất của bà ngồi Ở phía đối diện của căn phòng, chằm chằm nhìn bà, sự thù địch không che giấu, nhưng ánh mắt Emma không nao núng và mặt bà sắt đá.
Mặt bà chú mục vào jim Fairley. Bà nâng một tài liệu khỏi chồng giấy. "Cái này cho cháu, jim", bà nói và để nhanh nó vào phong bì, đưa ra cho anh.
jim giật mình, mắt mở to, rồi anh vội vã chạy lại bên bà. Bà trao cho anh chiếc phong bì: "Ðây là hợp đồng mới của cháu, bảo đảm sử dụng cháu làm Ở Công ty báo Yorkshire trong mười năm tới. Hãy nghiên cứu nó, đưa nó cho các cố vấn pháp luật của cháu, và trả lại cho bà vào tuần tới. Ký tên. Bà cũng chỉ định cháu làm giám đốc điều hành của Công ty, sẽ có hiệu lực vào tháng tới với tiền lương tăng".
- "Cháu xin cám ơn bà, thưa bà Harte. Cháu không biết biểu lộ lòng biết ơn của cháu như thế nào.
Cháu sẽ..."
Emma nói ngắn gọn: "Ðể sau, jim, và cháu hãy Ở đây cùng với người khác". Emma nâng cốc nước, uống một hơi hết. Bà thẳng người trong ghế, cử chỉ vương giả, bộ mặt lạnh băng. "Bây giờ tôi sẽ phân cửa hàng bách hóa dây chuyền Harte. Ðiều mà tôi chắc các anh chị ai cũng nóng lòng nghe". Bà ngừng lời, đôi mắt trở nên suy tư: "Tôi xây cửa hàng ấy từ chỗ không có gì, với lao động của đôi bàn tay này". Bà giơ đôi tay lên cho mọi người nhìn. "Cả một đời người lao động để xây dựng nên cửa hàng dây chuyền như hình hài của nó ngày nay. Một trong những cửa hàng lớn nhất thế giới. Tôi đã quyết định mấy tuần trước đây là nó phải chuyển đến đúng người, đúng một người có thể bảo đảm sự tiếp nối của tôi, điều hành nó một cách hữu hiệu, theo cái cách mà tôi thường điều hành...". bà ngắt cuối câu một cách bi thiết, lúc mà sự yên lặng lên đến tột độ, cái căng thẳng không thể chịu nổi.
- "Tôi dành và di chúc tất cả cổ phần của tôi tại Cửa hàng Harte cho cháu gái tôi Paula Mcgill Amory.
Tôi cũng cho Paula chỗ còn lại của bộ sưu tầm ngọc bích của tôi".
paula đứng bật lên như một cái máy, cô buồn bực phát hiện rằng đôi chân cô không vững khi cô bước qua tấm thảm dài. Nhưng cô giữ cho nét mặt không thay đổi, đôi mắt chỉ hướng về Emma. Vẫn chờ đợi sự rắc rối suốt cả tuần, nhưng cô vẫn không chờ đợi một điều gì bi thiết như thế này và cô không dám nghĩ tới hậu quả của nó. CÔ đứng trước bàn: "Thưa bà, cháu xin cám ơn bà đã tin cậy cháu.
Cháu xin hứa cửa hàng Harte bao giờ cũng sẽ được an toàn".
- cháu tưởng bà không biết điều ấy hay sao, cháu yêu?", Emma nói, Paula đi nhanh về những người khác đứng vòng quanh Emma như đội hình phalanx. và đã chia căn phòng thành hai phe, Paula tự nhủ, và tự hỏi, với một nỗi thích thú ngày một tăng, không hiểu cái gì sẽ xảy ra tiếp theo.
- "Cuối cùng, tôi đã chỉ định cho con gái tôi Daisy Amory làm người thi hành di chúc gia tư tài sản của tôi và Henry Rossiter của ngân hàng Thương Gia Rossiter làm người đồng hành di chúc".
Edwina, Kit, Robin, Elizabeth tê liệt vì choáng, Emma nhìn thấy lòng hận thù hòa cùng nỗi cay đắng và thất vọng ánh lên trên những bộ mặt lạnh lùng của họ. Bà ngồi hoàn toàn yên lặng, đợi cho sự giận dữ bùng nổ.
Robin là người đầu tiên bừng tỉnh. Anh ta chồm lên, nét mặt ứ máu: "Này, mẹ. Mẹ thật không công bằng chút nào. Mẹ đã nhẫn tâm cắt bỏ chúng con ra khỏi di chúc của mẹ, tước bỏ của chúng con những cái thuộc về chúng con một cách hợp pháp. Con hoàn toàn tán thành sự phân chia tài sản Mcgill, nhưng tài sản của mẹ, tất nhiên là phải về các con của mẹ. Chúng con là những người thừa tự hợp pháp của mẹ. Con không chấp nhận điều này. Con sẽ tranh cãi về di chúc, và những người khác sẽ ủng hộ con. Những ảnh hưởng không tốt đã có tác động đến mẹ. Con sẽ chứng minh là mẹ không đủ sáng suốt khi viết chúc thư. Mẹ rõ ràng là không còn chịu trách nhiệm đối với những hành động của mẹ. Bất cứ một tòa án nào cũng thừa nhận điều đó. Hơn nữa...". "Câm miệng và ngồi xuống", Emma nói, giọng bà vang lên trong không gian. Bà đứng lên và nắm lấy mép bàn . "Quả là tôi đã cắt bỏ anh ra khỏi di chúc của tôi. Mà có lý do rõ ràng. Anh biết không, tôi biết bốn người các anh đã âm mưu giật tôi ra khỏi vương quốc của tôi, để mà đoạt lấy mọi thứ cho các anh chị, thậm chí bất chấp cả quyền lợi của con các anh chị". Bà cười mỉa mai: tôi nghĩ tôi có thể có một chút kính trọng tiết kiệm nếu như các anh chị tinh tế hơn chút nữa trong âm mưu của mình. Tôi vẫn luôn luôn kính trọng các địch thủ thông minh của tôi. Nhưng các anh chị vớ vẩn và lộ liễu. Bà hít hơi: "Và có một khuyết điểm tai hại trong kế hoạch của các anh chị. Các anh chị đánh giá thấp tôi".
Bà nhìn họ, đôi mắt chỉ còn là hai sợi chỉ nhỏ. "Henry Rossiter có lần miêu tả các anh các chị như một ổ rắn độc. ông ấy nói đúng quá. Các anh chị không xứng đáng phải cân nhắc quan tâm do hành vi tán tận lương tâm. Nhưng tôi không có tính hay trả thù như các anh các chị nghĩ đâu, và như nhiều người làm Ở địa vị của tôi. Và vì thế tôi quyết định không thu hồi quĩ của trust mà tôi đã lập cho mỗi anh chị vài năm trước đây". Môi Emma cong lên miệt thị: "Còn như tranh cãi về di chúc của tôi thì, tôi đã mong đợi điều ấy. Tôi đã tiên lượng anh sẽ làm điều đó, Robin. Tôi đã chuẩn bị cho sự việc".Emma cầm một chiếc phong bì lên, lấy ra bốn mảnh giấy. Bà giơ chúng lên cao và phất phất giữa những ngón tay. "Ðây là những tấm check làm cho mỗi anh chị. Giá trị của mỗi cái check là Một triệu bảng. Một giọt trong thùng nước, so với cái mà các anh các chị có thể được hưởng nếu các anh các chị không phản bội tôi, nhưng, tuy nhiên nó cũng là rất nhiều tiền theo tiêu chuẩn bình thường". Bà mỉm cười cay độc: "Chớ có nghĩ đây là những món quà. Chúng không phải như vậy đâu. Tôi đơn giản là mua các anh các chị đó. Và tôi biết tất cả các anh các chị đều có một giá".
Ðặt những tấm check lên bàn, bà cầm một tập tài liệu lên. "Nếu các anh các chị mỗi người nhận một tấm check một triệu bảng, có thể đổi ra tiền mặt vào thứ hai, mỗi người sẽ phải ký với tôi một hợp đồng riêng". Bà vẫy vẫy tập tài liệu bà đang cầm trước mặt họ. "Chúng đã được viết ra, như các anh các chị thấy. Mỗi hợp đồng là một thỏa ước hợp pháp giữa chúng ta qui định các anh các chị thừa nhận di chúc của tôi. Là luật sư, Robin, anh hiểu rằng ký vào một thỏa ước như vậy và nhận tiền thì các anh chị không thể tranh cãi".
Mắt bà lướt nhanh từ Robin đến Kit, Edwina và Elizabeth. "Tôi báo trước để các anh các chị rõ là di chúc của tôi không thể thay đổi. Bởi vì nó là như vậy, các anh các chị có thể hỏi tại sao tôi lại sẵn lòng đưa cho các anh các chị một triệu bảng. Rất đơn giản, là để ngăn các anh các chị đừng quậy phá công việc triều chính của tôi dù chỉ là gợn sóng lăn tăn và bảo đảm rằng không một ai trong số các anh chị gây rắc rối cho các cháu tôi". Bà lại cầm lấy những tấm check, vẫy vẫy chúng trong không khí.
"Chúng ta hãy nói rằng tôi tin tưởng Ở chính sách bảo hiểm".
Bà ngồi yên, chăm chú nhìn họ một cách không xúc động. Kit rũ ra Ở trong ghế. Anh ta nao núng và không thể gặp con mắt của bà. Elizabeth hồi hộp đan bện những ngón tay vào nhau, rõ ràng là không biết quyết định như thế nào, trong khi Robin, toán trưởng, làm một vẻ anh hùng rơm giả tạo. Trong số bọn họ chỉ có Edwina hình như là bình tĩnh nhất, ít quan tâm nhất.
Emma, trước đây không chú ý đến con dâu, con rể của mình, trong suốt quá trình diễn biến, bấy giờ bà chuyển sang nói với họ: "Anh, chị có muốn trò chuyện với vợ chồng mình không?". Bà hỏi và cười:"Một triệu bảng là một món tiền quá lớn để mà từ chối". june và Valeri xưa nay vẫn yêu mến Emma và rõ ràng là kinh hoàng trước sự ăn Ở hai lòng của chồng họ, lắc đầu câm lặng. Còn bá tước, nhận thức được vị trí bấp bênh của mình trong gia đình, cũng lịch sự nghiêng người. "Nào, các anh các chị quyết định đi", Em ma buông xõng. "Tôi không có thì giờ cả đêm đâu. bà đứng dậy và nhanh chóng bỏ tài liệu vào trong cặp. "Tùy các anh các chị thôi. Nhưng tôi xin báo để các anh các chị rõ lần cuối cùng, các anh các chị không thắng được đâu nếu các anh các chị định tranh cãi về bản di chúc sau khi tôi chết. Không bao giờ. Từ trong mồ tôi sẽ thắng các anh các chị".
Elizabeth đứng lên trước: "bút đâu?", cô ta kêu to, đứng dậy, tránh cái nhìn giận dữ của Robin, Edwina làm theo. Robin cũng tiếp, vẫn nỗi căm giận sôi sục. Tất cả đến ký vào hợp đồng và nhận check. Kit là người cuối cùng. Emma nhận thấy tay anh run lên và hoàn toàn không thể nhìn vào mặt mẹ.
Emma khóa những hợp đồng vào cặp, "vâng, bây giờ câu chuyện nhỏ trong gia đình đã hoàn tất một cách thỏa đáng, tôi đề nghị chúng ta tiếp tục cuộc vui".
Một giây phút hoàn toàn yên lặng, mọi người đều há hốc miệng nhìn bà và sự hỗn loạn tột độ bà đã tính trước, bùng nổ. Tất cả xúm quanh bà, nhao nhao lên. Emma cầm lấy cặp và nói: "Tôi xin lỗi một vài phút". Bà nắm lấy cánh tay Paula. "Chúng ta hãy lên phòng khách với jim. Bà muốn gặp riêng hai cháu một lát. Và làm ơn mang hộ bà cái cặp".
- "Tất nhiên, thưa bà".
Emma lướt qua phòng. Bà khoác tay Blackie : "Anh có lên uống một chút với em trong yên tĩnh được không?". "Anh rất sung sướng". Blackie nói. ông hướng mặt Emma về phía mình, như cung cách vốn có, nhìn sâu vào mắt bà, mắt ông lấp lánh : "Thật là một màn biểu diễn, Emma, một màn biểu diễn".Emma mỉm cười lại với ông, nhưng yên lặng, và cả hai rời thư viện, đi qua Stone Hall, theo Paula và jim lên cầu thang cuốn rộng thênh thang. Một điều gì đó đã khiến Em ma dừng Ở lối rẽ cầu thang. Bà quay người nhìn lại Kit, Edwina, Ro bin và Elizabeth đang đứng Ở ô cửa thư viện nhìn bà đi lên, nét mặt họ không sao hiểu nổi. Nhưng bà biết họ đang nghĩ gì. Bà thẳng người lên, đá vạt áo sau của bà với một cử chỉ xua đuổi khinh bỉ. Bà bước tiếp lên, đường bệ như bao giờ.
Vào đến phòng khách, Emma cáo lỗi, và đi vào phòng ngủ của mình. Một vài phút sau khi bà quay lại, bà đã thấy jim và Paula ngồi trên sofa, Blackie ngồi Ở bên kia, bà đứng trước lò sưởi nhìn từ jim sang paula. "Cháu đã kể cho Paula nghe câu chuyện dị thường của những người phụ nữ nhà Harte với những người đàn ông nhà Fairley chưa?".
jim nói nhanh. "Dạ thưa bà Harte, cháu chưa ạ. Cháu thấy bà kể thì đúng hơn ạ".
- "Câu chuyện dị thường gì?", Paula hỏi một cách tò mò. "Bà sẽ để jim kể lại cháu nghe. NÓ sẽ kể sau đó Bây giờ không phải lúc". Lúc này Emma mở bàn tay phải ra : "Bà tìm thấy trái tim lồng ảnh trong số đồ đạc của mẹ bà sau khi bà mất. NÓ có khắc "A cho E 1885". Bà biết cái này là của Adam Fairley, cụ của jim tặng cho mẹ bà, cụ của cháu. bà muốn cháu giữ lấy, Paula".
Ngạc nhiên, Paula cầm lấy trái tim, xem xét: "Cảm ơn bà". CÔ nói: "Cháu sẽ giữ nó mãi mãi". CÔ nhìn jim : "Anh phải kể cho em nghe chuyện khi chúng ta xuống nhà . Nghe có vẻ hấp dẫn".
Emma lúc này quay sang jim : "Bà cũng thấy cái kẹp ca vát bằng vàng cùng với trái tim. Không biết có phải của cụ cháu không?"
- "Cháu tin là đúng", jim thốt lên, xoay xoay nó trong tay. "Có một bức ảnh của cụ cháu trong phòng làm việc của ông Edwin cháu mà cháu tìm thấy khi xem những đồ đạc của ông. Adam lúc này còn rất trẻ và ăn mặc quần áo đi ngựa. Cháu tin chắc là hoàn toàn cụ đeo cái này".
- "Cháu hãy giữ lấy, jim ", Emma nói dịu dàng .
- "Cháu xin cám ơn bà Harte. Cháu rất là cảm động. Và cháu xin cám ơn bà vì bản hợp đồng là tăng cấp cho cháu. Cám ơn bà vì tất cả. Cháu không ngờ! ..."
- "Ðó là cái ít nhất có thể làm", Emma ngắt lời. "Thôi bây giờ các cháu hãy đi chơi. Bà muốn nói chuyện với Blackie một lát. Suốt cả buổi tối nay, ông Blackie và bà chưa nói với nhau được một lời nào. ông và bà có nhiều chuyện cần nói".
jim đứng lên. Anh cúi xuống hôn vào má bà. "Bà quả là một người đàn bà vĩ đại, thưa bà Harte".
Emma mỉm cười. Paula ôm lấy bà và thì thầm vào tai : "Cháu vẫn biết bà lắm mưu lắm mẹo và lường trước được mọi thứ. Nhưng ngay cả cháu cũng bàng hoàng. Bà lúc nào cũng đầy sự ngạc nhiên, bà ạ.Và cháu yêu bà".
Emma nhìn hai đứa cùng nhau rời phòng khách, tay nắm tay và mỉm cười trong mắt nhau. Chúng nó sẽ tốt đẹp, bà tự nhủ.
Blackie nhìn bà chăm chú, miệng bặp cigar, đôi mắt đen của anh đầy âu yếm. Anh đã yêu nàng sáu mươi tư năm, cô gái trẻ, hoang dại của vùng đầm hoang. HỌ đã qua một đoạn đường dài bên nhau, chia sẻ niềm vui nỗi buồn và nàng không bao giờ hết làm anh kinh ngạc. Cuối cùng anh nói: "Như vậy là thù oán cuối cùng cũng đã hết, em đã đoàn kết hai gia đình, Paula trở thành một người nhà Fairley".
Anh cười dịu dàng với nàng, "anh bắt đầu nghĩ rằng em là một bà già đa cảm, Emma Harte ạ".
- "Có lẽ thế", Emma ngồi dựa vào sofa và vuốt ve tà áo.
- "Anh biết không, Blacke, em mà sống lâu em sẽ có chắt nhà Fairley nhảy lên lòng. Ai mà có thể tin được điều ấy!" Ðôi mắt nàng long lanh: "Em rất mừng đã khoan nhượng cho jim và Paula. Bây giờ hạnh phúc của chúng nó là điều quan trọng. HỌ là tương lai".
Blackie nói: "Ư, đúng thế", ông đứng lên và bước nhanh về phía bàn con. "Em có thích uống chút gì không Emma?", ông hỏi và róc cho mình một ly cognac. "Cho em xin một ly Bonnie Prince Charlie".
Blackie quay lại, ngồi cạnh bà trên sofa. HỌ chạm ly. "Ly này cho những người chúng ta yêu và đã mất, cho những người chúng ta yêu và giữ gìn, cho những con cháu chưa ra đời, Emma".
- "Vâng, cho thế hệ tiếp theo, Blackie".
HỌ ngồi yên lặng một lúc, suy tư, thoải mái bên nhau như ngày mới gặp lần đầu Ở vùng đồng hoang trên làng Fairley. Ðột nhiên Blackie cầm lấy tay nàng trong tay mình. ông nói: "Emma, em đã đi một con đường lạ thường, đi tìm quyền lực và sự giàu có. Em hãy nói cho anh biết, em có phát hiện được điều gì đặc biệt, em có thể thổ lộ cho người bạn già của em không?"
- "Có, Blackie. Em tin rằng em đã học được bí mật của cuộc đời".
Blackie nhìn nàng chăm chú. "Cái gì vậy, em gái?".
Emma nhìn lại ông một hồi lâu. Rồi nàng mỉm một nụ cười độc đáo làm rạng ngời khuôn mặt nàng.- Ðó là cam chịu, nàng nói.
Hết .
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top