người đàn bà đích thực 1

Emma Hactơ nghiêng người về phía trước và nhìn ra ngoài cửa sổ. Chiếc máy bay phản lực riêng Lia, tài sản của Công ty dầu lửa Sitex của Mỹ, tăng độ cao qua màn sương mờ của những lớp mây tầng, lúc này tuôn dài qua bầu trời xanh ngắt, ánh sáng rung rinh của nó làm chói mắt. Bị loá một thoáng vì sự rực rỡ của ban mai, Emma quay đi khỏi cửa sổ, ngả đầu vào đệm ghế và nhắm mắt lại. Trong một giây lát, màu xanh rời rợi đọng lại dưới mi mắt bà và chính giây phút ấy, một cảm giác buồn nhớ mãnh liệt và bất ngờ tràn ngập khiến bà ngạc nhiên nghẹn thở. Đó là bầu trời trong bức hoạ của Turner treo ở trên lò sưởi của ngôi nhà Penitstol Royal - bà nghĩ - một bầu trời Yorshire vào một ngày mùa xuân khi gió đã xua sương mù khỏi những cánh đồng hoang.

Một nụ cười thoáng hiện lên khóe miệng, làm cho đường cong của đôi môi dịu dàng một nét xa lạ khi bà nghĩ tới với một chút thích thú về Penistol Royal. Ngôi nhà lớn nổi lên sừng sững trong khung cảnh mạnh mẽ và khốc liệt của những cánh đồng hoang, và bà luôn cảm thấy nó như một sức mạnh của thiên nhiên do bàn tay của Đấng Toàn Năng tạo dựng, chứ không phải là công trình của bàn tay con người. Nơi duy nhất trên cái hành tinh hung bạo này bà có thể tìm được sự yên ổn, sự tĩnh mịch vô biên, nó an ủi và làm cho bà tươi trẻ lại. Ngôi nhà của bà. Lần này bà đã xa cách nó quá lâu, gần 6 tuần, đối với bà là cả một sự chia ly kéo dài. Nhưng trong tuần tới, bà sẽ trở lại London và đến cuối tháng, bà sẽ đi về phía bắc, đến Penistol. Về với miền yên ổn, nơi thanh thản, với những khu vườn và những đứa cháu nội, ngoại.Ý nghĩ này làm bà vui không sao kể xiết. Bà ngồi thoải mái trong ghế, sự căng thẳng của mấy ngày qua giảm đi dần dần cho đến khi nó biến thành mây khói. Bà mệt đến nhừ người vì những trận chiến căng thẳng mấy ngày cuối, ở những cuộc họp của uỷ ban tại trụ sở của tổ chức Sitex Odessa. Bà nhẹ hẳn người khi rời Texas, quay trở lại với cái bình tĩnh tương đối trong văn phòng của bà ở New York. Không phải vì bà không thích Texas, thực ra bà luôn ngóng về cái bang lớn đó, nhìn thấy trong đó một sức mạnh thô nhám, một cái gì tương tự như vùng Yorshire quê hương bà. Nhưng chuyến đi cuối cùng này đã làm cho bà kiệt sức. "Mình đã quá già không thể đi đây đó bằng máy bay'''', bà nghĩ một cách buồn bã, nhưng rồi lại gạt bỏ ngay ý nghĩ ấy. Như vậy không trung thực, và bà thì không bao giờ không trung thực với chính mình. Như vậy xét cho tới cùng đã tiết kiêm được rất nhiều thời gian. Và thành thực mà nói, bà không cảm thấy già. Chỉ một thoáng mệt mỏi trong một trường hợp và nhất là khi bà nổi cáu với những đồ ngu: Harry Mariot, chủ tịch Sitex là một kẻ ngu và do đó mà nguy hiểm như tất cả những tên ngu khác.

Emma mở mắt ra và ngồi lên một cách thiếu kiên nhẫn, trí óc bà lại quay về với công việc, bởi vì bà không biết mệt mỏi, không ngủ, bị ám ảnh khi nói tới công việc kinh doanh khổng lồ của bà, nó rất ít khi rời khỏi tư tưởng bà. Bà thẳng lưng, vắt chéo chân theo tư thế thông thường vốn có, một tư thế vừa tự chủ vừa vương giả. Có một phong thái đường bệ trong cách bà ngẩng đầu, trong dáng điệu nói chung và đôi mắt xanh đầy uy quyền to lớn. Bà bất giác đưa một bàn tay khoẻ mạnh nhỏ nhắn vuốt mớ tóc hoa râm mà thực ra không cần phải vuốt, vì lúc nào nó cũng hoàn hảo. Cũng như con người bà, trong chiếc áo màu sẫm bằng len xe đơn giản mà thanh lịch, vẻ nghiêm khắc của nó được làm dịu đi bởi màu trắng sữa của chuỗi ngọc tuyệt vời đeo cổ và chiếc ghim ngọc lục bảo đính ở vai.

Bà liếc nhìn cô cháu gái ngồi đối diện, đang ghi chép một cách cần mẫn công việc của tuần tới ở New York. Sáng nay trông nó mệt mỏi, Emma nghĩ, mình thúc nó quá. Bà thấy một thoáng ân hận vốn xa lạ đối với bà nhưng lại xua nó đi một cách nóng nảy. Nó còn trẻ, nó chịu được và đây là sự rèn luyện tốt nhất nó có thể có, Emma tự nhủ. Và bà nói: "Cháu nói với anh chàng chiêu đãi viên trẻ - cái anh chàng John đó chưa? - pha một ít cafe đi, Paula. Sáng nay bà rất cần uống.

Cô gái nhìn lên. Mặc dù cô không đẹp hiểu theo cái nghĩa được chấp nhận của từ này, nhưng cô đầy sức sống làm toát lên vẻ đẹp. Cái rực rỡ của màu sắc làm tăng hiệu quả này. Mớ tóc cô đen nhánh, kiểu tóc chữ V trên khuôn mặt trong sáng rạng rỡ như khắc từ một viên đá cẩm thạch. Khuôn mặt hơi dài, gò má nhô cao, lông mày rộng, nhanh nhẹn và linh lợi, một nét cả quyết của Emma trong chiếc cằm của cô, nhưng đôi mắt cô là nét nổi bật nhất, to, thông minh ánh màu hoa cúc thỉ, xanh thẫm đến độ như chuyển màu tím.

Cô mỉm cười với bà và nói: "Dạ, đã, thưa bà? Cháu cũng thích uống một chút". Cô đứng lên, tấm thân cao thon thả đung đưa duyên dáng. Con bé gầy, Emma bình phẩm một mình, gầy quá so với sở thích của mình. Nhưng nó vốn vậy. Mình cho rằng nó sinh ra đã thế. Lúc còn nhỏ nó như một con ngựa non cẳng dài, bây giờ là một con ngựa đua. Một cảm giác lẫn lộn vừa yêu thương vừa tự hào làm rạng rỡ nét mặt nghiêm nghị của Emma, đôi mắt bà tràn ngập một tình cảm ấm áp đột ngột khi nhìn theo đứa cháu gái, đứa cháu cưng nhất của bà, con gái của Daisy, cô con gái được Emma quý nhất.Nhiều giấc mơ và hy vọng của Emma tập trung ở Paula. Ngay khi còn bé, cô đã thấy cuốn hút với bà và hấp dẫn một cách kỳ lạ với công việc kinh doanh của gia đình. Sự xúc động to lớn nhất của cô là được đi với Emma tới văn phòng và ngồi với bà trong khi bà làm việc. Khi còn ở tuổi lên 10, cô đã tỏ ra có một sự am hiểu về những bộ máy phức tạp đến nỗi Emma quả thực phải kinh ngạc, bởi vì không một người con nào của bà tỏ ra có được một khả năng như vậy về công việc kinh doanh của bà. Emma thầm sung sướng, nhưng bà để ý và chờ đợi với nỗi rung động, sợ là lòng nhiệt tình của tuổi trẻ sẽ tan đi. Nhưng nó không giảm. Năm 16 tuổi, Paula không để ý tới chuyện học hết phổ thông ở Thuỵ Sĩ và đã đến ngay chỗ của bà để làm việc. Trong nhiều năm, Emma đã dồn việc cho cô không một chút khoan nhượng, khắt khe và chính xác với cô hơn là với bất cứ một người làm công nào khác, trong khi bà nỗ lực dạy cô tất cả mọi phương diện của các xí nghiệp Hactơ. Paula năm nay 23 tuổi, cô rất khôn ngoan, rất có khả năng, chín chắn hơn nhiều so với hầu hết các cô gái cùng lứa tuổi, đến nỗi Emma vừa mới đây đã chuyển cô lên cương vị có ý nghĩa trong tổ chức của Hactơ. Bà cho Paula làm người phụ tá riêng của mình, trước sự kinh ngạc và tức tối của Kit, người con cả của Emma. Anh ta cũng làm việc cho tổ chức Hactơ. Là cánh tay phải của Emma, Paula được biết những công việc riêng của bà, và khi Emma thấy là đã thích hợp, cô trở thành người tin cẩn của bà trong những vấn đề có liên quan tới gia đình, một tình hình mà Kit thấy không thể tha thứ được.Cô gái từ bếp máy bay quay lại, tươi cười. Khi cô tuồn vào ghế, cô nói: "Anh ấy đã pha trà cho bà, bà ạ. Cháu nghĩ, cũng như mọi người khác, anh ấy cho rằng người Anh chỉ uống có thế. Như cháu nói, bà cháu mình thích cafe hơn. Bà thích hơn, có phải không bà?"

Emma gật đầu một cách lơ đãng, bà còn mải mê với công việc. "Bà thích hơn, cháu ạ". Bà quay sang cặp tài liệu để trên ghế cạnh bàn, lấy kính và một cặp giấy. Bà đưa một cặp cho Paula và nói: "Cháu hãy nhìn những con số cho cửa hàng ở New York này. Bà rất muốn biết ý kiến cháu. Bà tin rằng chúng ta sắp bước một bước dài lên phía trước".Paula nhìn bà một cách hoạt bát. "Sớm hơn là cháu nghĩ, phải không? Nhưng việc tổ chức lại rất căng". Paula mở cặp giấy một cách thích thú, cô tập trung vào những con số. Cô có tài của Emma đọc bảng tổng kết tài sản rất nhanh và hầu như chỉ liếc nhìn là đoán được điểm mạnh điểm yếu của nó. Và cũng giống như bà của cô, giác quan công việc của cô thật là khủng khiếp.Emma đeo chiếc kính gọng sừng và cầm chiếc cặp màu xanh đậm có liên quan tới công ty dầu Sitex. Khi bà liếc nhanh các giấy tờ, một ánh hài lòng trong mắt bà. Bà đã thắng. Cuối cùng, sau 3 năm chiến đấu khốc liệt và vận động, Harry Mariot đã bị chuyển khỏi chức giám đốc Sitex và bị đá hất lên để trở thành chủ tịch uỷ ban.Emma đã nhận ra những nhược điểm của Mariot nhiều năm trước. BÀ biết ông ta không phải hoàn toàn là bị mua chuộc, ông ta rõ ràng là hay đòi hỏi và tốt mã bề ngoài. Và sự vờ vĩnh đã trở thành bản năng thứ hai của ông. Qua năm tháng, thành công và sự tích lũy của cải chỉ làm tăng thêm những nét này, bây giờ thì không thể nào nói chuyện với ông ta trên bất cứ mức độ nào của lẽ phải. Theo như Emma biết, sự xét đoán của ông ta què quặt và ông ta đã mất đi chút viễn kiến mà trước kia ông ta có được chút ít. Ông không có một tri thức nào về sự thay đổi nhanh chóng bên trong của thế giới kinh doanh.

Khi bà ghi chú vào những tài liệu để dùng sau này, bà hy vọng sẽ không còn chuyện đụng đầu khủng khiếp ở Sitex. Hôm qua bà đã bị ngây dại vì sự ngu xuẩn trong hành động của Harry, đã dõi theo với sự say mê kinh hoàng khi ông ta khéo léo rút vào một góc mà Emma biết là không còn một đường rút nào hết. Ông đã kêu gọi tình bạn của bà trong hơn 40 năm, lúng túng, hoang mang, vô vọng; một thằng khờ lắp bắp trước mặt các địch thủ của mình, mà bà là người nguy hiểm nhất. Emma đã đáp lại lời khẩn cầu của ông ta bằng sự yên lặng hoàn toàn, một cái nhìn tàn nhẫn trong đôi mắt không chút xót thương. Và bà đã thắng. Với sự ủng hộ hoàn toàn của Uỷ ban, Harry bị bật ra. Một người mới, người của bà đã vào, và công ty dầu Sitex an toàn. Nhưng không có niềm vui trong chiến thắng của bà, bởi vì đối với Emma, không có gì đáng vui trong cái thất bại của một người.Hài lòng vì các giấy tờ đều đâu vào đấy, Emma để cặp giấy và kính của bà vào cặp giấy tờ, ngồi lại trong ghế và uống cafe. Vài giây sau, bà nói với Paula: "Cháu đã từng tham dự nhiều cuộc họp của Sitex, cháu có nghĩ rằng một mình cháu có thể đương nổi công việc?"

Paula nhìn lên khỏi những bảng tổng kết tài sản, một nét kinh ngạc thoáng qua mặt cô. "Bà không định đưa cháu đến đó một mình chứ?" - cô kêu lên - "Như thế có khác nào đưa một con cừu tới lò sát sinh. Bà chưa làm vậy đối với cháu chứ?". Khi nhìn bà, cô nhận ra cái nét bí ẩn quen thuộc, một mặt nạ để che cái quyết tâm tàn bạo của Emma. Lạy Chúa, ý của bà là vậy đó, Paula nghĩ với một cảm giác nôn nao. "Bà không nói thật chứ, phải không bà?". "Tất nhiên là bà nói thật". Một nét bực bội thoáng qua nét mặt Emma. Bà ngạc nhiên trước sự e ngại bất ngờ nhưng rõ rệt của cô gái, bởi vì Paula đã quen với những cuộc thương thuyết căng thẳng và luôn tỏ ra có nghị lực, tinh ranh. "Bà có bao giờ nói điều gì không thật đâu. Cháu biết quá rõ điều ấy rồi, Paula", bà nói một cách nghiêm khắc.Paula yên lặng và trong khoảnh khắc yên lặng ấy, Emma đã nhận thấy sự căng thẳng của cô, biểu hiện hốt hoảng còn đọng trên nét mặt cô. Nó sợ chăng? Emma tự hỏi. Chắc chắn là không. Trước đây nó không bao giờ bộc lộ sự sợ hãi. Nó sẽ không trở thành giống như những người khác, có phải không nhỉ? Cái khả năng buối lạnh này thấm vào đầu óc sáng suốt của Emma như một lưỡi dai, và không thể chấp nhận được, bà gạt nó đi không suy nghĩ nữa. Bà nghĩ đúng là Paula chỉ bị bối rối vì cuộc họp, có lẽ hơn là sự bộc lộ của cô. Nó không làm cho Emma bối rối, nó chỉ làm cho bà bực tức khi bà thấy sự trích máu này là không cần thiết và là một sự hao phí thời gian quý báu, và vì thế mà càng đáng lên án. Nhưng chính bà đã thấy trước được tất cả, đã từng chứng kiến sự tranh chấp quyền lực một cách tham lam trong suốt cuộc đời và bà có thể chấp nhận điều đó trong bước đi của bà. Với sức mạnh của mình, bà đã được trang bị để đương đầu với nó một cách bình tĩnh. Paula cũng sẽ phải học để làm như vậy, bà tự nhủ.

Vẻ nghiêm khắc trên mặt bà không đổi, nhưng giọng bà dịu đi khi bà nói: "Tuy nhiên, bà sẽ không phái cháu một mình tới Sitex chừng nào cháu biết, như bà luôn luôn biết, là cháu có thể xử lý một cách thành công".Paula vẫn còn cầm chiếc cặp giấy trong tay, bàn tay thanh thoát, ngón tay búp măng. Cô để chiếc cặp giấy xuống, ngồi lại trong ghế. Cô đã lấy lại bình tĩnh, nhìn chăm chăm vào bà, cô nói điềm tĩnh: "Tại sao bà nghĩ là họ sẽ nghe cháu như họ vẫn từng nghe bà? Cháu biết Uỷ ban nghĩ như thế nào về cháu. Họ coi cháu như một đứa cháu gái hư hỏng được nuông chiều của một người đàn bà giàu có đầy uy quyền. Họ cho cháu là một kẻ ngu xuẩn, đầu óc rỗng tuếch. Một khuôn mặt đẹp không có óc. Họ không đối xử với cháu tôn kính như với bà, mà tại sao họ phải lam vậy. Cháu không phải là bà".Emma mím môi để giấu một nụ cười vui nho nhỏ, bà cảm nhận được lòng tự hào bị tổn thương hơn là sự sợ hãi. "Đúng, bà biết họ nghĩ thế nào về cháu", bà nói bằng một giọng dịu dàng hơn nhiều. "Và bà lẫn cháu đều biết họ đã làm thế nào. Bà biết thái độ của họ đã chọc tức cháu, cháu của bà. Bà cũng biết cháu có thể làm cho họ tỉnh ngộ rất dễ. Nhưng Paula này, cháu có muốn làm điều đó không?".Bà nhìn cô cháu gái một cách giễu cợt, một ánh láu lỉnh trong đôi mắt bà, và khi cô gái không trả lời, bà nói tiếp: "Bị đàn ông đánh giá thấp là một trong những nỗi giận dữ lớn nhất bà từng phải chịu suốt đời bà, và đặc biệt bực bội khi bà ở tuổi cháu. Tuy nhiên đó cũng là một lợi thế và một điều bà đã học để tận dụng, bà có thể nói chắc với cháu điều đó. Cháu biết không, Paula, khi đàn ông tin rằng họ đang làm việc với một phụ nữ dốt nát, ngu xuẩn và buông lơi cảnh giác, họ trở thành lơ là và bất cẩn. Họ không có ý thức đã trao cho mình lợi thế."."Vâng, nhưng...""Không nhưng gì hết, Paula. Và cháu đừng đánh giá thấp bà. cháu thực sự nghĩ là bà sẽ để cháu phơi mình trước một tình thế nguy hiểm sao?" Bà lắc đầu và mỉm cười. "Bà biết khả năng của cháu, cháu thân yêu. Bà luôn luôn tin tưởng ở cháu, tin tưởng cháu hơn bất cứ người con nào của bà, tất nhiên là ngoài mẹ cháu. Và cháu không bao giờ phản bội bà".

"Cháu biết bà tin cháu, bà ạ". Paula trả lời một cách vững vàng, ''''nhưng cháu thấy khó làm việc một cách có hiệu quả với những người không đối xử với cháu một cách nghiêm chỉnh, và uỷ ban Sitex thì không rồi". Một cái nhìn bướng bỉnh làm mờ ánh mắt cô và miệng cô chỉ còn là một đường thẳng băng, một bản sao của bà cô."Cháu biết không, cháu quả thực đã làm bà ngạc nhiên. Cháu có lòng tự tin lớn và đã từng đương đầu với đủ loại người ở mọi trình độ, từ khi cháu hãy còn nhỏ. Trước đây cháu không bao giờ bị lúng túng", Emma thở dài nặng nề. "Đã biết bao nhiêu lần bà nói với cháu, người ta nghĩ thế nào về mình, điều đó không quan trọng. Điều quan trọng đối với cháu là cháu biết mình là ai, làm gì; Và thành thực mà nói, bà luôn nghĩ rằng cháu biết điều đó".

"Cháu biết", Paula kêu lên. "Nhưng cháu không chắc cháu có được khả năng làm việc như của bà...hoặc kinh nghiệm của bà".Nét mặt Emma tối sầm lại: ''''Có, cháu có. Hơn nữa, cháu có tất cả sự thuận lợi của học vấn mà bà không bao giờ có, vì vậy đừng bao giờ để bà phải nghe cháu nói một cách tiêu cực như vậy về cháu nữa. Bà sẽ truyền lại kinh nghiệm cho cháu, nhưng chỉ tới một mức độ thôi. Mỗi ngày cháu lại có thêm được nhiều. Bà sẽ nói thành thực với cháu, Paula ạ. Bà không có một chút ân hận nào khi gửi cháu trở lại Sitex ngày mai, không có bà. Bởi vì, bà biết cháu sẽ đương đầu được một cách xuất sắc. Xét cho tới cùng, bà đã nuôi dưỡng cháu, đào tạo cháu. Chẳng lẽ cháu không nghĩ rằng bà biết bà đã tạo ra cái gì ư?"

Một bản sao bằng giấy than của chính bà, và một bản sao thì không bao giờ tốt bằng nguyên bản, Paula nghĩ một cách khó khăn, nhưng cô lại nói: "Xin bà đừng giận. Bà làm thật là tuyệt vời. Nhưng cháu không phải là bà và Uỷ ban cũng nhận thức được điều đó rất rõ. Nhất định điều đó phải ảnh hưởng tới thái độ của họ".

"Cháu hãy nghe này!", Emma nghiêng người về phía trước, đôi mắt nheo lại của bà giống như hai viên thuỷ tinh xanh dưới hai mí mắt già nhăn nheo. Bà nói chậm hơn thường lệ để câu nói thêm sức mạnh."Cháu hình như quên mất một điều. Khi cháu bước vào Sitex thay cho bà, cháu bước vào một cái gì đó mà họ phải coi trọng. Uy quyền! Dù họ nghĩ thế nào về khả năng của cháu, uy quyền là một điều họ không thể coi thường. Ngày cháu thay thế bà, sau khi bà chết, cháu sẽ đại diện cho mẹ cháu, sẽ trở thành người nắm cổ phần chứng khoán lớn nhất Sitex. Với cương vị của mẹ cháu là người uỷ quyền, cháu sẽ kiểm soát 25% cổ phần ưu đãi và 15% cổ phần chung của một công ty nhiều triệu đôla". Bà ngừng lại và nhìn chăm chú Paula, rồi nói tiếp: "Đó không phải là một uy quyền bình thường, Paula. Đó là uy quyền mênh mông, đặc biệt là trong tay một người. Cháu đừng có quên điều đó. Hãy tin bà, khi tới lúc gay go thì mới nhìn thấy rõ. Nhưng mặc dù thái độ không cân bằng của họ - và bà mới nhận ra điều đó đã làm cháu hoang mang thế nào - họ không thể phớt lờ bà và cái bà đại diện". Emma ngồi lại trong ghế, nhưng vẫn để mắt chăm chú nhìn Paula, và nét mặt bà tàn nhẫn.

Cô gái đã chăm chú lắng nghe bà, nhưng lúc nào cũng vậy, sự lo ngại của cô giảm dần. Bởi vì cô quả thực có can đảm và trí tuệ, chứ không phải chỉ một chút quyết tâm như Emma nói. Nhưng tính chất khốc liệt của cuộc đấu tranh ở Sitex đã thực sự làm cô kinh hoàng, và Emma, Emma đã ngờ như vậy. Khi cô nhìn bà, suy nghĩ về những lời bà nói, cô vẫn còn đầy kinh ngạc, y như ngày hôm qua. Emma 78 tuổi. Một bà già, ấy vậy mà bà không hề có sự ốm yếu bạc nhược của người già, cũng không mất vẻ duyên dáng. Bà vẫn sôi nổi và hoàn toàn làm chủ được mọi khả năng của mình. Paula đã theo dõi tài nghệ của bà ở Sitex với lòng khâm phục, kinh ngạc vì sức mạnh bất khả chiến bại, nhưng đặc biệt, cô đã thán phục sự bình tĩnh nguyên vẹn trước áp lực và sự đối kháng không thể tưởng tượng được. Lúc này, Paula tự hỏi, với tính khách quan lạnh lùng và có tính toán, không hiểu cô có bao giờ có được lòng kiên cường lạnh như băng để điều khiển những người đàn ông đó một cách thông minh như bà cô không. Cô không dám chắc. Nhưng rồi sự ngờ vực day dứt tan biến khi cô nhận ra sự thật của những lời bà cô nói. Cuối cùng, lòng tham vọng của cô đã thắng những nỗi lo lắng còn sót lại. Cô nói với lòng tự tin mới: "Tất nhiên bà nói đúng. Uy quyền là vũ khí mạnh nhất, có lẽ còn hơn cả tiền bạc nữa. Và cháu chắc chắn đó là điều duy nhất mà uỷ ban Sitex hiểu". Cô ngừng lại và nhìn thẳng bà. "Cháu không sợ họ đâu. Bà đừng nghĩ như thế. Mặc dù cháu phải thú nhận là họ làm cho cháu khó chịu. Cháu nghĩ là nếu cháu có sợ là sợ không làm xứng được ý bà". Nụ cười cô trao cho Emma đầy tự tin, và cái nhìn bối rối đã rời bỏ khuôn mặt cô.Emma ngả người về phía trước, vỗ vỗ bàn tay cháu một cách an ủi. ''''Đừng bao giờ sợ thất bại, Paula. Nó đã ngăn biết bao người muốn đạt được mục đích của mình. Khi bà ở tuổi cháu, bà không có thì giờ để lo lắng đến thất bại. Bà phải thành công để sống. Và hãy luôn nhớ điều cháu vừa nói với bà về quyền uy. Đó là vũ khí cuối cùng. Quyền uy, chứ không phải tiền bạc, lời nói. Tiền bạc chỉ quan trọng khi mình thực sự nghèo, khi mình cần nó để có một mái nhà trên đầu, để mua thức ăn và quần áo. Một khi những điều thiết yếu ấy đã giải quyết được và vượt quá lên nữa, thì tiền chỉ là một đơn vị, một công cụ để làm việc. Và đừng bao giờ cháu để ai thuyết phục được mình rằng, uy quyền làm ta hư hỏng. Không phải lúc nào nó cũng như thế, chỉ khi nào những người có quyền hành làm một cái gì đó để bám lấy những quyền hành ấy. Đôi khi, thậm chí nó còn cao quý nữa". Bà cười một thoáng rồi nói thêm một cách khẳng định: "Và cháu sẽ không phụ lòng bà đâu, cháu cưng ạ".

''''Cháu hy vọng là không", Paula nói và khi cô thấy cái nhìn thách thức qua nét mặt Emma, cô vội nói thêm: "Cháu biết. Nhưng còn Harry Mariot thì sao? Ông ấy là chủ tịch và hình như ông ấy ghét cháu"."Bà không nghĩ là ông ấy ghét cháu, Paula ạ. Có lẽ là sợ cháu". Giọng của Emma bỗng nhiên bình thản, nhưng một ánh xanh sẫm trong đôi mắt bà. Bà có nhiều hồi ức về Harry mà không một hồi ức nào vui, bởi vì bà đã đọ kiếm với ông ta không biết bao nhiêu lần trong quá khứ."Sợ cháu? Tại sao?" Ngạc nhiên làm cho giọng nói của cô gái cất cao lên mà cô không nhận thấy. Cô ngả người về phía bà.Một thoáng khinh bỉ hiên lên trên nét mặt Emma khi bà nghĩ tới Harry Mariot. "Bởi vì cháu nhắc ông ấy nhớ quá nhiều đến ông ngoại cháu, và điều đó làm ông ta mất bình tĩnh. Harry sợ ông ngoại cháu ngay từ đầu, khi họ thành lập công ty dầu Sydney Texor đầu tiên và bắt đầu khoan. Ông cháu luôn biết Harry là người thế nào và theo bản năng, Harry biết là ông cháu biết. Vì vậy ông ta sợ. Khi ông cháu để lại Sitex cho bà, ông cháu biết là chừng nào bà còn sống, bà không bao giờ bán nó. Bà phải giữ nó để trao lại cho mẹ cháu, hoặc đứa con nào của mẹ cháu. cháu thấy đó, ông cháu đã nhìn xa trông rộng, Paula. Từ nhiều năm trước, ông cháu đã thấy Sitex sẽ trở thành công ty chính và ông muốn chúng ta hưởng lợi từ đó. Và ông muốn bà lúc nào cũng cầm cương".

"Cháu không nghĩ là ông ấy còn có thể làm hại gì ở Sitex đuợc nữa. Ông ấy đã trở nên bất lực rồi, nhờ ở bà. Ông hẳn là tự hào về bà lắm". Paula nói rồi hỏi thêm với đôi chút tò mò: "Cháu có thực sự giống ông không? Ông ngoại ấy?"Emma nhìn nhanh Paula. Họ đang bay trong nắng và một luồng ánh sáng vàng ươm, lọt qua cửa sổ, đọng trên người Paula khi cô đang nói. Emma thấy tóc cô hình như bóng hơn và đen hơn trong cái ánh sáng màu vàng này, từng búp rơi xuống như nhung trên khuôn mặt im lìm, xanh xao, mắt cô xanh hơn và sinh động hơn bao giờ. Mắt của ông, tóc của ông. Bà mỉm cười dịu dàng, mắt bà sáng lên. "Thỉnh thoảng cháu giống như lúc này đây. Nhưng chủ yếu, bà nghĩ một cái gì trong cung cách của cháu làm cho Harry Mariot xôn xao. Và cháu không có lý do gì để lo ngại về ông ta cả, Paula. Ông ta sẽ không ở đó lâu đâu". Bà quay lại chiếc cặp để trên bàn và bắt đầu soạn các giấy tờ của bà. Vài phút sau bà nhìn lên và nói: "Nếu cháu đã xong những bản tổng kết về cửa hàng ở New York, bà sẽ lấy lại. À mà cháu có đồng ý với bà không?"Có, cháu đồng ý thưa bà? Họ đã làm một sự đảo lộn tuyệt vời"."Chúng ta hãy hy vọng là có thể giữ họ theo con đường đúng đắn", Emma nói và cầm lấy cặp giấy trong tay Paula. Bà đeo kính lên và bắt đầu nghiên cứu những con số của cửa hàng ở Paris và tính toán đến sự thay đổi cần làm ở đó. Emma biết cửa hàng đang gặp khó khăn, miệng bà mím lại bực bội và suy tính những bước bà sẽ làm khi họ trở về Anh.Paula rót cho mình một tách cafe nữa. Cô vừa uống vừa ngắm bà kỹ lưỡng. Đây là khuôn mặt mình đã từng thấy và yêu mến suốt cả cuộc đời, cô nghĩ, một làn sóng thân thương trào lên. Và bà không phải ở lứa tuổi của mình, dù cô muốn nghĩ gì đi chăng nữa. Trông bà chỉ như người mới bước vào tuổi 60. Paula hiểu rằng cuộc đời của bà gian khổ, và thường là đau đớn, thế mà ngạc nhiên thay, nét mặt bà vẫn được giữ gìn hoàn hảo. Paula nhận ra, đó là vì một phần do cấu tạo xương của bà. Cô để ý tới những nếp nhăn như ren chung quanh mắt, miệng bà, và hai đường hằn sâu từ mũi xuống đến cằm. Nhưng cô cũng thấy rằng gò má trên những đường hằn ấy vẫn còn vững, và đôi mắt xanh biến sang màu đá lửa trong lúc giận dữ không phải là đôi mắt nao núng đầy dử của một bà già. Chúng hoạt bát và hiểu biết. Tuy nhiên một vài nét của cuộc đời sóng gió vẫn phản chiếu trên khuôn mặt bà. Cô nghĩ, trong khi quan sát khoé miệng bất khuất của Emma và chiếc cằm bướng bỉnh của bà. Paula thừa nhận với mình rằng bà của cô nghiêm khắc, đôi mắt có nhiều nét tàn nhẫn, nhiều người cho là mắt của rắn thần. Nhưng cô cũng nhận thấy rằng cái vẻ chuyên chế này được làm dịu đi bởi một vẻ quyến rũ, óc hài hước và vẻ tự nhiên thoải mái. Và bây giờ, khi không cần phải cảnh giác nữa thì đây là một khuôn mặt dễ thương, cởi mở, đẹp và đầy trí tuệ.Paula không bao giờ sợ hãi bà, nhưng cô thấy hầu hết các gia đình đều sợ, đặc biệt là cậu Kid. Paula nhớ lại với niềm sung sướng khi cậu Kid đã có lần so sánh cô với Emma. "Mày cũng tệ hại như bà mày" - cậu đã nói khi cô khoảng lên sáu hoặc bảy. Cô không hoàn toàn hiểu cậu của cô muốn nói gì hoặc tại sao cậu lại nói như thế, nhưng cô đoán đó là một lời quở trách xét ở nét mặt cậu. Cô đã rung động khi được gọi là "tệ hại như bà mày", bởi vì chắc chắn điều đó có nghĩa là cả cô cũng sẽ phải đặc biệt như Bà và mọi người sẽ phải sợ cô, như họ đã sợ bà cô.

Emma ngước nhìn lên khỏi chồng giấy. "Paula, khi chúng ta rời New York, cháu có muốn tới cửa hàng ở Paris không? Bà nghĩ quả thật bà phải làm một số thay đổi trong hành chính, căn cứ những điều bà thấy ở bảng tổng kết tài sản này".

- Cháu sẽ đi Paris nếu bà muốn, nhưng nói thật, cháu muốn ở lại Yorkshire ít lâu, bà ạ. Cháu định gợi ý với bà là cháu sẽ đi một vòng những cửa hàng miền bắc - Paula nói, cố để cho giọng nói của mình nhẹ nhàng, tự nhiên.Emma choáng người và bà không có ý định che giấu điều đó. Bà chậm chạp bỏ kính ra, nhìn đứa cháu với một nỗi quan tâm ngày một tăng. Cô gái đỏ bừng dưới cái nhìn soi mói, mặt cô hồng lên. Cô quay đi, cúi mặt, lẩm bẩm: "Vâng, bà cũng biết là cháu sẽ đi chỗ nào bà cho là cần thiết. Rõ ràng đó là Paris". Cô ngồi rất yên lặng, cảm nhận được cái phản ứng ngạc nhiên của bà.

- Tại sao lại quan tâm đến Yorkshire? - Emma hỏi - Bà nghĩ chắc là có một điều mê say định mệnh nào ở đó. Jim Feli, có phải không?

Paula cựa mình trên ghế, tránh cái nhìn không chớp mắt của bà. Cô mỉm cười ngượng ngập, mặt đỏ bừng và nói với giọng chống chế:

- Bà vớ vẩn! Cháu chỉ nghĩ là cháu nên làm kiểm kê ở những cửa hàng ở miền nam.

- Kiểm kê mắt bà và Peghi Martin! - Emma thốt lên. Tất nhiên đó là Feli, mình có thể đọc Paula như một cuốn sách, bà nghĩ thầm, rồi tiếp - Bà nghĩ cháu sẽ gặp nó, Paula.

- Không gặp nữa! - Paula kêu to, đôi mắt cô lóng lánh - Cháu đã thôi không gặp anh ấy từ mấy tháng trước đây!Khi nói, cô lập tức nhận ra sự lầm lẫn của mình. Bà cô đã giăng bẫy cô thật dễ dàng để cô thừa nhận một điều mà cô đã thề không bao giờ thú nhận với bà.

Emma cười nhẹ nhàng, nhưng đôi mắt bà ánh mầu thép:

- Đừng hồi hộp như vậy. Bà không giận đâu. Sự thực thì bà không bao giờ giận cả. Bà chỉ hỏi tại sao cháu không bao giờ kể cho bà nghe.

- Cháu vẫn thường nói cho bà biết, bởi vì cháu biết bà sẽ cảm thấy như thế nào về gia đình Feli. Mối hận thù của bà! Và cháu không muốn làm bà xao động. Có chúa biết bà đã có đủ nỗi lo phiền trong đời, không cần cháu phải gieo thêm vào nữa. Khi cháu đã thôi không gặp anh ấy thì hình như không cần phải khơi lại câu chuyện đã chấm dứt. Cháu không muốn làm phiền hà một cách không cần thiết, chỉ có thế thôi.

- Nhà Feli không làm bà xao động, - Emma nói - và ngộ nhỡ cháu có quên mất thì bà phải nói để cháu nhớ là bà đã dùng Jim Feli cơ mà, cháu cưng. Nếu bà không tin nó thì bà đã chẳng cho nó điều hành Công ty củng cố báo chí ở Yorkshire - Emma liếc nhìn nhanh Paula vẻ dò hỏi và tò mò - Tại sao cháu lại thôi không gặp nó?

- Bởi vì cháu... chúng ta... anh ấy... bởi vì... - Paula bắt đầu nói, rồi ngập ngừng, tự hỏi không hiểu có dám nói tiếp không. Cô không muốn làm bà tổn thương. Cô nghĩ, bằng những cách của riêng bà, bà luôn luôn biết những mối quan hệ của mình. Cô lấy hơi để nói, biết là mình đã bị mắc bẫy - Cháu thôi không gặp Jim nữa vì cháu thấy mình đã bị vướng mắc. Cháu biết nếu cháu tiếp tục gặp anh ấy như vậy thì chỉ có nghĩa là chuyện đau lòng sẽ dành cho cháu, cho anh ấy, và cho cả bà nữa.

Cô ngừng lại, nhìn đi chỗ khác rồi nói tiếp với sự bình tĩnh tuyệt đối:

- Cháu biết là bà không chấp nhận một người nhà Feli vào trong gia đình ta, thưa bà.

"Bà cũng không chắc nữa", Emma nói bằng một giọng hầu như không nghe rõ. Thì ra nó đã đi xa như vậy, bà nghĩ. Bà thấy rã rời không thể tả. Hai gò má bà đau, đôi mắt nhức nhối vì mệt mỏi. Bà mong được nhắm mắt, được chấm dứt cái cuộc thảo luận xuẩn ngốc và vô ích này. Emma cố gắng mỉm cười với Paula, nhưng miệng bà khô và đôi môi không nhúc nhích, trái tim bà thắt lại và lòng tràn ngập một nỗi buồn tê tái, nỗi buồn mà bà tưởng đã bị xoá đi từ bao năm nay. Kỷ niệm về anh ấy lại trở về, rõ ràng quá, nó giống như chất cường toan trong óc bà. Và Emma đã nhìn thấy Edwin Feli hiển hiện y như anh đang đứng trước mặt bà, và trong bóng của anh là Jim Feli, hình ảnh hoá thân của anh Edwin Feli, hình ảnh thường là khó nắm bắt trong ký ức của bà lại đọng lại ở đây và tất cả nỗi đau anh đã gây cho bà lại ở đây, một vật sống. Một cảm giác nghẹn ngào ập tới bà, làm bà không thể nói được.

Paula nhìn bà chăm chú, cô sợ cho bà khi cô nhìn thấy nét buồn bã trên bộ mặt nghiêm khắc ấy. Đôi mắt Emma có một cái nhìn trống rỗng và khi bà nhìn vào khoảng trống; môi bà mím lại thành một đường thẳng khắc khổ. Nhà họ Feli khốn nạn, tất cả chúng nó, Paula nguyền rủa. Cô nghiêng người về phía trước nắm lấy tay bà, lo âu.

- Hết rồi, bà ạ. Không quan trọng gì đâu. Thật đấy. Cháu không bị đảo lộn gì hết. Và cháu sẽ đi Paris, bà ạ! Ôi, bà thân yêu, xin bà đừng nhìn như thế, cháu không chịu nổi.

Paula mỉm cười run run, lo ngại, sợ hãi và làm lành. Những cơn xúc động lẫn lộn này hoà nhập vào nhau làm thành một nỗi tức giận điên cuồng với chính mình vì đã để cho bà dồn cô vào cuộc nói chuyện lố bịch này, câu chuyện mà cô đã cố tránh nhiều tháng nay.Một lát sau cái cảm giác ám ảnh ấy đã tan đi trên nét mặt Emma. Bà nuốt mạnh và tự kiềm chế; dùng nghị lực sắt thép vốn là gốc rễ của uy lực và sức mạnh của bà. "Jim Feli là người tốt. Khác những người khác...", bà bắt đầu. Bà dừng lại và hít mạnh. Bà muốn nói tiếp với Paula là bà có thể nối quan hệ bè bạn với Jim Feli, nhưng bà không nói được. Hôm qua là đây. Quá khứ không thể biến đổi được.

- Chúng ta đừng nói đến nhà Feli nữa. Cháu nói sẽ đi Paris - Paula kêu lên và bám chặt tay bà - Bà biết điều đó hơn ai hết mà. Và cháu sẽ xem xét toàn bộ cửa hàng.

- Bà nghĩ cháu phải tới đó, Paula ạ, để xem chuyện gì đã xảy ra.

- Cháu sẽ đi ngay sau khi chúng ta trở lại London - Paula nói nhanh.

- Ừ, đó là một ý kiến hay.

Emma đồng ý khá đột ngột, cũng sung sướng như Paula vì đã thay đổi được chủ đề. Thời gian rất eo hẹp, suốt cuộc đời bà; thời gian lúc nào cũng eo hẹp. Thời gian là mặt hàng quý báu đối với Emma. Thời gian luôn được đánh giá như tiền bạc và bà không muốn hao phí nó như lúc này, để mà sống lại cái quá khứ; khơi dậy những chuyện đau lòng xảy ra cách đây chừng sáu mươi năm.

- Bà nghĩ là bà phải đi thẳng tới văn phòng khi chúng ta tới New York. Charles có thể đem hành lý về nhà sau khi anh ấy đưa chúng ta xuống. Bà lo lắng về Gaye, cháu ạ. Cháu có để ý thấy điều gì đặc biệt khi cháu nói chuyện với cô ta qua điện thoại không?

Paula ngồi ngả vào ghế, thoải mái và bình tĩnh trở lại, nhẹ nhõm khi thấy câu chuyện về Jim Feli đã chấm dứt:

- Không, cháu không thấy gì. Bà muốn nói sao?

- Bà không thể xác định được gì cụ thể - Emma tiếp tục một cách ưu tư - nhưng theo bản năng bà biết có chuyện gì hết sức lôi thôi. Cô ta có vẻ rất bồn chồn trong suốt câu chuyện. Bà nhận thấy thế ngay hôm cô từ London tới và gọi điện cho bà ở Sitex. Cháu có để ý được điều gì trong giọng nói của cô ấy không?

- Không ạ. Nhưng lúc ấy chủ yếu cô ấy nói với bà, thưa bà. Bà không nghĩ rằng có chuyện gì rắc rối với công việc ở London chứ ạ? - Paula hỏi, giọng hơi hoảng hốt.

- Bà thành thực hy vọng là không, - Emma nói - đó là tất cả những điều bà cần sau tình hình Sitex.

Bà gõ ngón tay lên bàn trong giây lát rồi nhìn ra ngoài cửa sổ, trí óc bà bị cuốn đi vì những suy nghĩ về công việc và về cô thư ký của bà là Gaye Sloan. Bằng một phương thức sắc sảo có tính toán bà suy nghĩ tới tất cả những gì có thể xảy ra ở London, nhưng rồi chịu. Tất cả mọi thứ đều có thể xảy ra, đoán cũng là vô ích. Và như vậy cũng là mất thì giờ.

Bà quay sang Paula, nở một nụ cười gượng gạo:- Cháu ạ, rồi chúng mình cũng sẽ biết ngay thôi. Chúng ta sắp hạ cánh.

Văn phòng Mỹ của những xí nghiệp Harter chiếm sáu tầng trong dãy nhà hiện đại trên đại lộ Công viên. Nếu những dãy cửa hàng bách hoá Anh Emma Harter đã thành lập nhiều năm trước đây là biểu tượng rõ rệt sự thành công của bà, thì xí nghiệp Harter là trái tim và đường gân. Một tổ chức bạch tuộc khổng lồ với những cái vòi vươn ra một nửa thế giới, nó kiểm soát các nhà máy quần áo, nhà máy len, bất động sản, một công ty hàng hoá bán lẻ và báo chí ở Anh quốc, cộng với những cổ phần khổng lồ ở những công ty lớn khác của Anh.Là người sáng lập ra cái công ty tư nhân này, Emma vần còn có một trăm phần trăm cổ phần của những xí nghiệp Harter, và nó chỉ hoạt động dưới sự bảo hộ của bà cũng như những dãy cửa hàng bách hoá mang tên bà với những chi nhánh ở miền nam nước Anh, London, Paris và New York. Những cửa hàng của Harter là một công ty công cộng, buôn bán chứng khoán của London, mặc dù Emma là cổ đông chính và là chủ tịch uỷ ban. Sự kiểm soát nhiều loại của các xí nghiệp Harter ở Mỹ bao gồm bất động sản; công ty may áo phụ nữ của Đại lộ số Bảy và những đầu tư chứng khoán khác trong những ngành công nghiệp của Mỹ.

Trong khi các cửa hàng của Hactơ và các xí nghiệp trị giá hàng triệu bảng, chúng cũng chỉ đại diện một phần tài sản của bà thôi. Ngoài việc được bốn mươi phần trăm chứng khoán ở Công ty dầu Sitex của Mỹ; bà có những hối phiếu ở Úc, gồm bất động sản, mỏ, những cánh đồng than và một trong những trại cừu lớn nhất ở miền nam xứ Wales. Ở London, một công ty nhỏ nhưng giàu có gọi E.H Hợp nhất kiểm tra những vốn đầu tư riêng và bất động sản (chẳng biết ý người dịch thế nào nữa).Lệ của Emma là một năm đi New York vài lần. Bà gắn bó với mọi lĩnh vực trong hoạt động thương trường của bà và mặc dù không phải bà hoàn toàn không tin nhưng người bà đã giao quyền hành thực hiện - bà tin ở sự lựa chọn khôn ngoan của mình - bà vẫn có sự thận trọng của dân Yorkshire trong con người bà. Bà không cho phép mình được liều lĩnh bất cứ cái gì, và bà cũng cảm thấy cần thiết phải thỉnh thoảng có mặt ở New York.

Bây giờ, khi chiếc Cadillac đưa họ từ sân bay Kenedy đỗ ở trước cửa toàn nhà chọc trời nơi cơ sở của bà đóng, những ý nghĩ của Emma lại quay trở lại với Gaye Sloan. Emma lập tức đoán ra được sự bồn chồn của Gaye trong cuộc nói chuyện bằng điện thoại đâu tiên khi bà từ London đến. Bình thường Emma đã nghĩ đây là do sự mệt mỏi sau một chuyến bay vượt Đại Tây Dương, nhưng sự bồn chồn này càng tăng lên chứ không giảm đi trong mấy ngày gần đây. Emma đã để ý thấy giọng nói của Gaye run run, cách lắp bắp nuốt chữ của chị, và ước muốn chấm dứt cuộc nói chuyện càng nhanh càng tốt. Điều này không chỉ làm Emma ngạc nhiên mà còn làm bà lo ngại, bởi vì Gaye cư xử hoàn toàn khác với bản chất của chị. Emma xét tới những khả năng, những vấn đề cá nhân có thể làm Gaye bối rối, nhưng linh tính của bà nói với bà gạt bỏ ý nghĩ đó, vì bà đã biết quá rõ Gaye. Theo trực giác, Emma biết là Gaye bị bối rối vì vấn đề công việc, một vấn đề quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp tới bà.

Emma khẽ rùng mình khi họ xuống xe. Đó là một ngày tháng Giêng lạnh giá và mặc dù mặt tròi chiếu trên bầu trời quang, gió lại mang đếnsương giá và mưa của Đại Tây Dương. Bà nhớ lại, có một thời bà cảm thấy cái giá lạnh khắp người, đôi khi bà thấy hình như xương của bà đóng lại thành những tảng đá, y như thể sương băng đã ngấm vào toàn bộ cơ thể bà và làm hoá đá cả máu bà. Cái rét tê dại lần đầu tiên ngấm vào cơ thể bà trong thời thơ ấu từ độ ấy ít khi rời khỏi bà, ngay cả trong cái nắng của mặt trời nhiệt đới và ở trước những ngọn lửa bừng bừng bên lò sưởi trung tâm ở New York, mà bà thường thấy ngạt thở. Bà ho khi bà và Paula vội vã đi về phía toà nhà. Bà đã bị cảm lạnh trước khi họ rời đi Texas và nó vẫn còn lại ở ngực bà, làm bà thỉnh thoảng lại nổi lên một trận ho. Khi họ đi qua những cánh cửa trong toà nhà, Emma lại một lần cám ơn lò sưởi trong những văn phòng của bà. Họ đi thang máy lên tầng 30, nơi văn phòng riêng của bà đóng ở đó.

"Bà nghĩ có lẽ bà nên gặp Gaye ngay, và gặp một mình", Emma nói khi họ bước ra. "Hay là cháu tới xem những bản tổng kết tài sản của cửa hàng ở New York với Jostan, bà sẽ gặp cháu sau".

Paula gật đầu: "Vâng. Bà cứ gọi cháu nếu bà cần, bà nhé. Và cháu hy vọng mọi chuyện sẽ tốt lành".

Paula tạt sang bên trái trong khi Emma đi tiếp vào văn phòng, đi nhanh vào khu đón tiếp. Emma mỉm cười với cô tiếp đón và trao đổi với cô những lời chào hỏi thân mật khi bà đi lướt qua cánh cửa phía sau, bởi vì bà không quen với phong tục Mỹ để mở cửa phòng làm việc. Bà nghĩ như vậy là kỳ quặc và mất tập trung, không hoàn toàn biệt lập. Bà ném chiếc áo khoác vải tuýt và chiếc túi một cách cẩu thả lên ghế xôpha, nhưng tay vẫn cầm chiếc cặp, bà đi ngang qua phòng tới bàn giấy. Đó là một tấm kính dày khổng lồ kê trong ra căn phòng rộng thênh thang và lộng lẫy, đối diện với một cửa sổ bằng kính. Nó che cả một bức tường cao tới trần có thể nhìn được toàn cảnh đường chân trời thành phố. Emma luôn nghĩ đó là một bức hoạ sống của quyền lực và của cải to lớn, nhịp đập của nền công nghiệp Mỹ.Bà thích cái văn phòng Mỹ của mình, khác với những dãy nhà hành chính của bà ở London, đầy những đồ cổ Georgia thượng hạng. Ở đây, không khí hiện đại và bóng bẩy, vì Emma có óc thẩm mỹ tinh tế, nên dù là bà thích những đồ đạc mang màu sắc của thời đại và nó sẽ không thích hợp nếu để kiến trúc mượt mà của thép và kính vĩ đại vươn thẳng lên bầu trời này. Và vì vậy, bà chỉ cần tập hợp cái đẹp nhất của kiến trúc thời hiện đại thôi. Những chiếc ghế Mies Van Der Rowe lẫn với những chiếc xôpha mảnh mai của Ý, tất cả đều được bọc da thẫm màu, mềm như lụa. Có một cái giá cao bằng thép và kính đầy sách vở, cái tủ ngăn bằng gỗ hồng tâm nhẵn bóng và những chiếc bàn nhỏ làm bằng những phiến đá của Ý kê trên giá Crown nhẵn bóng. Tuy vậy, mặc dù tất cả những hương vị hiện đại của nó, không có cái gì là nghiêm khắc lạnh lùng. Nó vẫn có một vẻ đẹp thanh tao cổ điển và là hoá thân của một phong vị cao cấp. Thực tế, nó có một vẻ đẹp bình thản, dịu dàng, pha trộn một cách huyền bí màu xanh lơ và xanh lá cây. Màu sắc dìu dịu này toả lan khắp mặt tường và sàn nhà, đây đó được làm rực rỡ thêm bằng những màu lộng lẫy của gối xôpha và những bức hoạ vô giá của chủ nghĩa Ấn tượng Pháp, làm cho căn phòng thêm duyên dáng. Lòng yêu thích nghệ thuật của Emma cũng được thể hiện trong điêu khắc của Henry Moore và Brancossi, đầu cung điện Angkor Vat được đặt trên những chiếc đôn bằng đá đen chung quanh phòng. Cửa sổ lớn được chắn bằng rèm màu xanh xám buông xuống từ trên trần và khi cửa mở ra, như lúc này, căn phòng dường như là một phần của bầu trời, y như nó được treo trong không gian những tấm đá nguyên khối của Manhattan.

Emma mỉm cười khi bà ngồi xuống bàn, vì bàn tay của Gaye rõ rệt. Tấm kính dài gọn ghẽ và không bừa bộn, dùng theo cách bà thích, không có gì ngoài điện thoại, ống đựng bút bằng bạc, tập giấy màu vàng để ghi chép, chiếc đèn chụp toả ánh sáng ra khắp bàn. Thư tín, bản sao, và một số lượng lớn telex được xếp thành ô thứ tự, những lời nhắn qua điện thoại được cặp lại để bên telephone. Bà bấm chuông gọi Gaye. Ngay phút chị bước vào phòng, Emma biết rằng nỗi lo sợ của bà không phải là không có căn cứ. Gaye hốc hác, những quầng thâm ở dưới mắt và người chị hình như rung lên vì căng thẳng. Gaye Sloan là một phụ nữ khoảng ba tám tuổi; chị là thư ký hành chính của Emma được sáu năm mặc dù chị đã làm việc cho bà tất cả là mười hai năm. Chị là kiểu mẫu của sự cần cù, hữu hiệu và rất tận tuỵ với Emma, người mà chị không chỉ kính phục mà còn rất yêu mến nữa. Một phụ nữ vóc cao, cân đối với vẻ ngoài hấp dẫn, lúc nào chị cũng bình tĩnh, thường là làm chủ được mình.Nhưng khi chị đi qua phòng, Emma đã có thể thấy được sự căng thẳng cố nén. Họ trao đổi những câu nói đùa và Gaye ngồi trong ghế đối diện với bàn của Emma, tập giấy trong tay.Emma ngồi lại trong ghế, tạo một thái độ thư thái, cố gắng làm cho Gaye cảm thấy thoải mái. Bà nhìn cô thư ký của bà một cách nhân hậu và hỏi khẽ khàng: "Có chuyện gì thế, Gaye?". Gaye do dự một lúc rồi nói khá vội vã, làm bộ ngạc nhiên: "Dạ, thưa bà Hactơ, có gì đâu. Dạ thật đó. Do ảnh hưởng của máy bay, tôi nghĩ thế".- Thôi quên cái chuyện mệt máy bay đi, Gaye. Tôi chắc chị hết sức xúc động kể từ khi chị đến New York. Nào cô gái thân yêu, cho tôi biết có chuyện gì thế? Có chuyện gì ở đây, hay có vấn đề gì về kinh doanh ở London?- Không ạ, tất nhiên là không có gì! - Gaye thốt lên, nhưng chị tái mặt và nhìn đi chỗ khác, tránh cái nhìn chăm chú của Emma.

Emma nghiêng người về phía trước, cánh tay bà để trên bàn, đôi mắt bà sáng lóng lánh sau cặp kính. Bà nhận thức được ngày một rõ hơn tình cảm cố nén của cô thư ký và cảm thấy là Gaye bị rối loạn vì một điều gì đó hết sức nghiêm trọng. Khi bà tiếp tục quan sát chị, bà nghĩ là Gaye sắp sửa sụp đổ đến nơi...- Gaye, chị ốm đấy à?- Dạ không, thưa bà Hactơ. Tôi hoàn toàn khoẻ, cám ơn bà.- Có chuyện gì trong cuộc sống riêng làm chị băn khoăn? - Emma hỏi một cách hết sức kiên nhẫn, quyết định đi tới cùng.- Không, thưa bà Hactơ.Tiếng nói của chị trở thành tiếng thì thào. Emma bỏ kính nhìn Gaye lâu và soi mói:- Thôi nào, thôi nào cưng! Tôi hiểu chị quá rõ. Có một cái gì đang đè nặng tâm trí chị và tôi không hiểu tại sao chị lại không nói với tôi về điều đó. Có phải chị đã phạm một sai lầm gì và sợ không dám giải thích không? Tất nhiên là không sau bao nhiêu năm trời làm việc như thế. Không ai là không có khuyết tật và tôi không phải là con ngoáo ộp như người ta nghĩ. Hơn ai hết tới lúc này chị phải biết rõ điều đó chứ!- Ồ, tôi hiểu, thưa bà Hactơ... - Giọng cô run run và sắp muốn bật khóc.Người đàn bà ngồi trước mặt Gaye điềm tĩnh và hoàn toàn tự chủ. Bà không phải là người yếu đuối. Gaye biết điều đó quá rõ. Bà là người kiên cường không hề nao núng, một người đàn bà không thể nào khuất phục nổi, người đã đạt được thắng lợi phi thường vì tính cách ghê gớm và sức mạnh ý chí của bà cộng với tài tháo vát và cái sắc sảo trong thương trường. Đối với Gaye, Emma Hactơ là không gì có thể phá huỷ nổi như chất thép lạnh nhất không thể uốn cong hoặc bẻ gãy. Nhưng mình sắp sửa bẻ gãy bà bây giờ, chị nghĩ, và cơn hoảng loạn lại xâm chiếm.

Emma với sự bất ổn lớn dần, đã nhìn thấy bắp thịt, rần rật và sự sợ hãi trong con mắt cô. Bà đứng lên một cách quả quyết, đi qua phòng, tới quầy rượu bằng gỗ hồng tâm, lắc đầu bối rối. Bà mở quầy, rót một chút cognac vào một ly nhỏ đem lại cho Gaye.

- Uống đi, cháu. Nó sẽ làm cho cháu thấy dễ chịu hơn - bà nói, và vỗ vỗ cánh tay người đàn bà một cách trìu mến.

Nước mắt dâng lên và cổ họng Gaye đau nhói. Rượu mạnh nó làm khé cổ chị, nhưng đột nhiên chị thấy vui vì cái vị mạnh của nó. Chị uống chầm chậm và nhớ lại lòng tốt của Emma đối với chị từ nhiều năm nay. Lúc này chị ao ước, hết sức ao ước, mình không phải là người đầu tiên đưa tin này. Gaye nhận thấy có những người đã đối phó với Emma như một địch thủ khủng khiếp, những người coi bà là con người cay độc, tham lam, quỷ quyệt và tàn bạo. Trái lại, Gaye biết bà là người hào phóng về thời gian và tiền bạc và là một trái tim thông cảm. Có lẽ Emma quả là ngang tàng, oai vệ và đầy uy quyền, nhưng rõ ràng là cuộc đời đã làm bà phải như vậy. Gaye đã từng nói với những người phê bình Emma với tất cả lòng chân thực của chị rằng vượt lên trên tất cả các trùm tư sản tầm cỡ của bà, Emma Hactơ có tình thương, công bằng, nhân ái và hết sức tử tế.

Gay cuối cùng đã nhận ra sự yên lặng kéo dài giữa hai người, cái nhìn chăm chú của Emma. Chị để chiếc ly xuống cạnh bàn và mỉm cười với Emma một cách yếu ớt:- Cám ơn bà Hactơ. Tôi thấy dễ chịu hơn.- Tốt. Nào Gaye, tại sao chị không tâm sự với tôi? Không thể nào lại khủng khiếp như vậy.

Gaye thẫn thờ, không sao nói nổi.Emma xoay người trên ghế, nghiêng mình về phía trước thôi thúc: "Nào, có phải chuyện liên quan đến tôi không, Gaye?"

Giọng nói của bà bình tĩnh và mạnh mẽ. Hình như nó đã cho Gaye chút tin tưởng nào đó. Chị gật đầu và sắp sửa nói, nhưng khi chị thấy cái nhìn quan tâm trong con mắt của Emma, thì chị lại mất can đảm. Chị đưa tay lên bưng mặt và bất giác kêu lên:- Trời ơi! Làm sao tôi có thể nói được với bà!- Cứ nói thẳng ra, Gaye. Nếu cháu không biết bắt đầu từ đâu, thì hãy bắt đầu từ giữa. Cứ nói buột ra ngay. Thường thường đó là cách tốt nhất để nói đến một cái gì đó không vui, bác nghĩ là thế.

Gaye gật đầu và bắt đầu một cách do dự, cố nén nước mắt, tay chị giật giật, đôi mắt trừng trừng mở to. Chị nói nhanh từng chặp, muốn nói hết ngay một lúc, nhanh chừng nào tốt chừng ấy. Nó sẽ là một sự thảnh thơi, vì nó đã gặm nhấm trí óc chị trong nhiều ngày.- Đó là cánh cửa... cháu nhớ... cháu quay lại... Cháu nghe thấy họ nói... không, hét... họ tức giận... tranh cãi... họ nói là...

- Khoan đã, Gaye - Emma giơ tay để ngăn những lời rời rạc - Bác không muốn ngắt lời cháu, nhưng cháu có thể nói rõ ràng hơn một chút được không. Bác biết cháu đang xúc động, nhưng cháu nên chậm lại và bình tĩnh. Cửa nào?- Xin lỗi - Gay hít một hơi dài - Cửa phòng hồ sơ mở ra phòng ban giám đốc ở London. Cháu đã quên không khoá nó tối thứ sáu trước. Cháu rời cơ quan và cháu nhớ đến cái cửa. Cháu quay lại văn phòng của cháu, bởi vì đến tối thứ bảy cháu sẽ đi New York. Cháu mở cửa bên, đi qua phòng hồ sơ để khoá cửa ở đầu kia.

Trong khi Gaye nói, Emma đã hình dung ra căn phòng hồ sơ trong dãy nhà hành chính ở cửa hàng London. Đó là một căn phòng hẹp với những tủ ngăn hồ sơ kê ở hai bên cao ngút đến tận trần. Một năm trước, Emma đã mở thêm một cánh cửa thông phòng hồ sơ với phòng ban giám đốc. Nó đã giúp để lấy được tài liệu có thể cần tới trong các cuộc họp của ban giám đốc, nó cũng trở thành một đường giao thông nhỏ có ích nối phòng ban giám đốc với các phòng hành chính và như vậy là đỡ được rất nhiều thời gian.

Biết bao nhiêu là câu hỏi qua đầu của Emma, nhưng bà để lùi nó lại sau. Bà gật đầu để cô thư ký của bà tiếp tục.

- Cháu biết bà quan tâm đến cái khoá cửa đó. Khi cháu đi từ văn phòng của cháu qua phòng hồ sơ, cháu nhận thấy cánh cửa không phải chỉ đã mở khoá mà còn mở he hé nữa. Đó là lúc cháu nghe thấy họ... qua khe cửa. Cháu không biết phải làm thế nào. Cháu không muốn ai nghĩ là cháu đang nghe trộm. Vì vậy cháu dừng lại một lát, rồi cháu tắt đèn để họ không biết cháu đang ở trong phòng hồ sơ. Thưa bà Hactơ, cháu... - Gaye ngừng lại và nuốt nước bọt, trong một lát cô không thể tiếp tục nổi.

- Nói tiếp đi, Gaye, không sao đâu.

- Cháu không nghe trộm, quả thật không, thưa bà Hactơ. Bà biết cháu không phải là người như thế. Hoàn cảnh là tình cờ... mà cháu nghe được họ, cháu muốn nói như thế... Cháu đã nghe thấy họ nói... nói...Gaye lại ngừng, run cả người. Chị nhìn Emma, bà đang ngồi cứng người trên ghế, mặt bà không thể nào đọc hết được.

- Cháu nghe họ nói, không, một người trong bọn họ nói là bác đã quá già, không thể điều hành nổi công việc nữa. Thật khó có thể chứng minh được là bác đã suy yếu vì tuổi già hoặc không còn đủ khả năng, nhưng chắc bác sẽ đồng ý rút lui để tránh bê bối, tránh tai hoạ với những cổ đông Hactơ của Sở Giao dich chứng khoán. Họ tranh luận vì điều này. Thế rồi ông ta, có nghĩa là cái người đã nói hầu hết cả buổi, nói là các cửa hàng phải bán cho hết và như vậy sẽ dễ dàng bởi vì vài ba công ty sẽ quan tâm tới một sự thay thế. Sau đó ông ta nói các xí nghiệp Hactơ có thể đem bán thành từng phần nhỏ...

Gaye do dự nhìn kỹ Emma để xem phản ứng của bà. Nhưng nét mặt Emma vẫn không sao có thể dò được.

Mặt trời ló ra từ sau những đám mây màu xám và ùa vào trong phòng, một dòng thác ánh sáng rực rỡ, chói chang, bạo tàn tràn ngập căn phòng mênh mông mang một màu trắng làm cho căn phòng trông xa lạ, không thật và khủng khiếp đối với Emma. Bà chớp mắt và đưa tay che.

- Cháu làm ơn đóng cái rèm kia lại, Gaye - Bà lẩm bẩm, giọng của bà chỉ còn là một tiếng thì thầm khàn khàn.

Gaye chạy bay qua phòng và ấn nút tự động điều khiển rèm cửa. Chúng lướt qua chiếc cửa sổ cao vút với một tiếng "xuỳ" khe khẽ và cái ánh sáng xuyên qua đã bị tản đi nhẹ nhàng. Chị quay trở lại ghế của mình trước bàn giấy và đăm đăm nhìn Emma, hỏi một cách quan tâm:

- Thưa bác Hactơ, bác không sao chứ ạ?

Emma đang ngó trân trân vào giấy tờ trên bàn. bà ngẩng đầu lên chầm chậm và nhìn Gaye với đôi mắt trống rỗng:

- Ừ. Xin cứ nói tiếp. Tôi muốn biết tất cả. Và tôi hoàn toàn chắc là còn nữa.

- Vâng, còn nữa. Người kia nói đấu tranh với bác bây giờ là vô ích, hoặc cá nhân hoặc theo pháp luậ, bác chẳng còn sống được bao lâu nữa, bác đã già, rất già, gần tám mươi rồi. Và người kia nói bác còn cương cường lắm, cuối cùng họ sẽ phải bắn bác. - Gaye lấy tay bưng miệng để cố nén một tiếng nấc và nước mắt ròng ròng - Ôi, bà Hactơ, cháu xin lỗi...

Emma im phăng phắc như hoá đá. Đôi mắt bà đột nhiên lạnh và tính toán:

- Cháu làm ơn nói cho tôi biết hai quý ông đó là ai, Gaye? Cháu nhớ là tôi dùng cái từ đó một cách mơ hồ. - Bà nói với một sự mỉa mai cay đắng.

Trước khi Gaye có dịp để trả lời, tự trong đáy lòng mình, tự trong xương tuỷ mình, Emma đã biết những người mà Gaye sẽ kết tội trước khi chị mở miệng nói. Nhưng một phần trong con người bà vẫn còn không tin, vẫn còn hy vọng và bà phải nghe từ chính miệng Gaye để thực sự tin. Để chấp nhận những ngờ vực đáng nguyền rủa của mình là thực tế.

- Trời ơi, bà Harter! Giá như cháu không phải nói với bác điều này! - Cô hít một hơi dài - Đó là ông Elsley và ông Lother. Họ lại bắt đầu bàn nhau. Ông Lother nói họ cần các cô cùng với họ. Ông Elsley nói rằng các cô gái đã ở với họ rồi và ông đã nói chuyện với họ. Nhưng ông chưa nói với bà Amory bởi vì bà sẽ chẳng bao giờ đồng ý. Ông nói là không được nói với bà ấy điều gì hết, trong bất cứ hoàn cảnh nào, bởi vì bà ấy sẽ chạy đi nói với bà ngay lập tức. Ông Lother lúc ấy nói lại là họ không thể làm gì để giành lấy công việc trong khi bà hãy còn sống. Ông ấy nói với bà Elsley là họ không thể ổn được bởi vì họ không có uy quyền, hoặc đủ cổ phần để nắm được quyền kiểm soát. Ông ấy nói là cứ phải đợi bà chết đã. Ông ấy rất kiên quyết về chuyện này. Ông ấy cũng nói với ông Elsley là chính ông ấy có quyền cổ phần của dây chuyền sản xuất Harter và ông ấy chắc chắn là bà sẽ để cho họ những cổ phần này. Sau đó ông ấy bảo với ông Elsley là ông ấy có ý định điều hành sản xuất Harter và sẽ không bao giờ đồng ý bán các cửa hiệu cho một conglomerate.

Ông Elsley tức giận, hầu như điên khùng, và bắt đầu chửi rủa ông Lother những điều khủng khiếp nhất. Nhưng ông Lother cuối cùng đã làm cho ông ta bình tĩnh trở lại, và ông ta nói rằng ông ta sẽ đồng ý với việc bán các Xí nghiệp Harter và như vậy sẽ đem cho ông Elsley số tiền triệu như ông ấy muốn. Lúc ấy ông Elsley mới hỏi ông Lother có biết những gì trong chúc thư của bà không. Ông Lother nói là ông ấy không biết, nhưng nói là bà sẽ công bằng đối với tất cả bọn họ. Ông ấy cũng bày tỏ nỗi quản ngại đối với cô Paula vì cô ấy gần gũi với bà. Ông ấy nói ông ấy không biết là cô ấy đã moi được gì của bà. Điều này làm cho ông Elsley bồn chồn và ông lại trở nên rất kích động, một chương trình mà họ sẽ thực hiện sau khi bà chết, trong trường hợp di chúc của bà không thuận lợi gì cho họ.Gaye ngừng lời như ngạt thở, ngồi sững trên ghế. Emma không thể nói được, chuyển động được hoặc suy nghĩ được gì. Lúc này bà sững sờ và rung động toàn thân khi bà suy nghĩ lại những lời Gaye nói, máu dồn lên đầu và bà xỉu đi luôn. Mỗi cái xương trong cơ thể bà đè xuống với cơn mệt khủng khiếp nhất, cơn mệt nặng trĩu và choáng váng.Trái tim bà xê dịch trong con người, và Emma thấy như ngay giây phút này đây, nó héo đi và biến thành hòn đá cuội nhỏ lạnh và cứng. Một cơn đau mênh mang ngập tràn thân thể bà. Đó là cơn đau của thất vọng. Cơn đau của sự bị phản bội. Hai đứa con trai của bà đang âm mưu chống lại bà. Robin và Kid là hai đứa anh em trai cùng mẹ khác cha chưa bao giờ ưa nhau, nay lại gần gũi ăn cánh với nhau trong phản phúc. Bà hoài nghi khi bà nghĩ: Trời đất ơi! Không thể như thế được! Không phải Kid. Không phải Robin. Chúng nó không bao giời có thể dễ mua chuộc như vậy. Không bao giờ. Không phải các con trai của ta! Thế nhưng ở nơi nào đó sâu trong tiềm thức của bà, trong linh hồn sâu kín nhất của bà, bà biết đó là thật. Và nỗi đau đớn của con tim, linh hồn và thân thể đã được thay thế bằng nỗi căm giận hung bạo lạnh lùng đến độ làm trí óc của bà minh mẫn và đẩy bà đứng vững trên đôi chân của mình. Mơ hồ, xa xôi, bà nghe thấy tiếng nói của Gaye vọng tới bà như từ một hang sâu.

- Bà Harter! Bà Harter! Bà ốm sao?

Emma nghiêng người qua bàn, bà nắm chặt lấy nó để giữ cho vững, mặt bà méo xệch. Giọng bà thấp xuống khi nói:

- Cháu có chắc tất cả những chuyện ấy không, Gaye? Tôi không nghi ngờ gì cháu, nhưng cháu có chắc là nghe đúng tất cả những điều ấy không? Cháy hãy nhận ra tầm quan trọng của điều cháu vừa kể, tôi chắc thế, vì vậy hãy suy nghĩ cẩn thận.

- Bà Harter, cháu tuyệt đối chắc tất cả những điều cháu đã nói - Gaye trả lời một cách lặng lẽ - Vả nữa, cháu không hề thêm bớt một chút gì hết và cháu cũng không hề cường điệu.

- Tất cả chỉ có vậy sao?

- Không, còn nữa.

Gaye cúi xuống và cầm cái túi xách lên. Chị mở túi và lấy một cái băng ra, chị để nó xuống bàn, trước mặt Emma.

Emma nhìn cái băng, đôi mắt bà nheo lại. "Cái gì thế?"

- Đó là cái băng ghi lại tất cả những điều đã được nói, thưa bà Harter. Trừ những điều đã xảy ra trước khi cháu vào phòng hồ sơ. Và câu đầu tiên cháu đã nghe thấy. Chúng bị thiếu.

Emma nhìn chị không sao hiểu nổi, lông mày bà rướn lên, những câu hỏi ở đầu lưỡi của bà. Nhưng trước khi bà có thể hỏi, Gaye đã tiếp tục giải thích đầy đủ.

- Thưa bà Harter, máy ghi âm mở. Bởi vậy trước tiên cháu trở lại văn phòng. Khi cháu vào phòng hồ sơ và nghe thấy họ la hét, cháu đãng trí mất một phút. Cháu tắt đèn phòng hồ sơ để cho họ không vào và nhìn thấy cháu. Vừa lúc ấy cháu cũng nhìn thấy ánh sáng đỏ trên máy ghi âm nhấp nháy và cháu cũng tới để tắt nó đi. Nhưng đột nhiên cháu nảy ra ý kiến là ghi âm cuộc nói chuyện của họ, bởi vì cháu nhận biết được tầm quan trọng của nó. Bởi vậy cháu ấn nút thu. Tất cả mọi thứ họ nói lú ấy ở đây, ngay cả những điều được nói sau khi cháu đóng cửa và không thể nghe thấy rõ ràng.

Emma có một nỗi ao ước không thể cưỡng lại được là cất lên một tiếng cười lớn và cay đắng. Bà cố cưỡng lại sự thôi thúc đó vì sợ Gaye có thể nghĩ là bà đã phát điên và trở thành mất trí. "Lũ ngu, lũ ngu cùng cực!" bà nghĩ. Và mới thật trớ trêu làm sao! Họ đã chọn chính phòng giám đốc của bà để âm mưu chống lại bà. Đó là cái sai lầm đầu tiên và thảm hại nhất của chúng. Một sai lầm không thể sửa nổi. Kid và Robin là các giám đốc của những xí nghiệp Harter, nhưng họ không ở trong ban của cửa hàng bách hoá dây chuyền. Họ không tới những cuộc họp giám đốc ở cửa hàng, vì vậy học không biết là mới đây bà đã đặt thiết bị tiên tiến để ghi lại những chi tiết, một phương tiện khác nữa để tiết kiệm thời gian. Nó đã giải phóng cho Gaye những công việc khac và chị chỉ việc đánh máy biên bản từ cuộn băng khi nào thuận tiện. Những microphone được móc dưới bàn của giám đốc, được giấu đi vì lý do thẩm mỹ chứ không phải vì bất cứ lý do bí mật nào trong căn phòng lịch thiệp Geogia với những đồ cổ đẹp và những bức hoạ giá trị. Emma nhìn xuống cuộn băng trên bàn kính, đối với bà nó là một điều độc ác, nằm đó như một con rắn độc cuộn mình.

- Tôi chắc cháu đã nghe cái này rồi, Gaye.

- Vâng, thưa bà Harter. Cháu đợi cho đến khi họ đi và vặn lại. Cháu mang nó về nhà với cháu hôm thứ sáu và từ đó lúc nào nó cũng ở bên cháu.

- Chỉ khoảng chừng mười phút gì đó nữa... Họ bàn bạc...

Emma giơ tay lên, hoàn toàn kiệt lực, không thể nghe thêm được nữa? "Thôi không sao, Gaye. Tôi sẽ mở nghe sau. Tôi đã biết đủ rồi!"

Bà đứng lên, đi qua phòng tới bên cửa sổ, thẳng người và tự chủ, mặc dầu bước chân bà chậm và kéo lê một cách mệt mỏi qua tấm thảm dày. Bà gạt tấm rèm nhẹ nhàng. Trời đã bắt đầu rơi tuyết. Những bông tuyết pha lê lấp lánh rơi liên tiếp, quay cuồng, phất phới trong gió, tạt vào cửa sổ, phủ lên nó bằng một lớp áo mỏng, thanh tao như những dải lụa trắng. Nhưng những bông tuyết nhanh chóng tan dưới anh sáng mặt trời, chạy thành từng rãnh từ trên kính xuống và biến thành mưa bụi trưốc khi chúng tới đất. Emma nhìn xuống. Phía dưới, xe cộ chuyện động thành những dòng chầm chậm bất tận ngược xuôi Park Avenue và cảnh tượng xa xôi đến kỳ lạ. Và mọi thứ ắng lặng trọng căn phòng y như thể cả thế giới này đã dừng lại và yên lặng, đọng lại đến muôn đời?

Bà tì cái đầu đau nhức vào cửa kính, nhắm mắt nghĩ đến hai đứa con trai của bà, đến tất cả các con của bà, nhưng chủ yếu là đến Robin yêu dấu, đứa con trai cưng của bà. Robin đã trở thành đối thủ của bà sau khi họ va chạm với nhau một vài năm trước về một chuyện đặt giá nhượng cho dãy cửa hàng. Một chuyện đặt giá nhượng từ trên trời rơi xuống mà bà không mươn thảo luận, không buồn cân nhắc. Khi bà không muốn nói chuyện với conglomerate, anh đã làm om sòm kết tội bà, nói một cách giận dữ là bà không muốn bán chỉ vì bà không muốn từ bỏ quyền hành của mình. Bà đã thấy sự bực bội của anh ta bộc lộ một cách hết sức hung hăng đến nỗi lúc đầu bà không thể tin được, rồi bà thực sự tức giận. Lúc đó bà nghĩ, tại sao nó lại dám cả gan ra lệnh cho bà về công việc của bà, một công việc nó không mảy may quan tâm đến ngoại trừ số tiền đem lại cho nó. Robin, một đại biểu quốc hội đẹp trai, sắc sảo, Robin, với người vợ chịu đựng đau khổ từ lâu, những nhân tình của anh ta, những người bạn trai đáng nghi vấn và sự ưa thích sống xa hoa của anh ta. Phải, Robin chính là kẻ chủ mưu cái âm mưu nho nhỏ chết tiệt này, mà bà đã biết quá rõ.

Kid, đứa con cả của bà, không đủ trí tưởng tượng hoặc nghị lực để nghĩ được một kế hoạch hiểm ác như thế. Nhưng nếu nó thiếu trí tưởng tượng thì lại bù lại được bằng cái cần mẫn, ương ngạnh và anh ta nhẫn nại một cách đặc biệt. Kid có thể đợi hàng năm cho cái mà anh ta thực sự mong muốn, và bà thì đã biết là nó cần các cửa hàng. Nhưng nó không có một khả năng nào về bán lẻ và từ lâu, khi nó hãy còn nhỏ, bà đã dìu dát nó vào trong các xí nghiệp của Harter, lái nó tới những nhà máy len ở Yorkshire, ở đó nó điều hành cũng có được một chút hiệu quả nào đó. Phải, Kid lúc nào cũng có thể bị điều khiển và không còn nghi ngờ gì nữa, chính Robin đã làm điều này, bà nghĩ một cách khinh bỉ.Bà nghĩ tới ba người con gái và môi bà méo đi thành một nụ cười cay độc khi bà nghĩ tới Edwina, người con gái cả, đứa sinh ra trước tiên trong mọi đứa. Bà đã làm việc như một kẻ lao dịch và chiến đấu như một con hổ cái cho Edwina khi chính bà cũng chỉ là một cô gái, bởi vì bà đã yêu Edwina hết lòng. Nhưng bà vẫn cảm thấy Edwina không bao giờ thực lòng đối với bà như bà đối với nó, hồi còn nhỏ nó đã xa lạ và sự xa lạ này đã biến thành sự lạnh lùng thật sự những năm sau. Edwina đã liên kết với Robin thời gian đặt giá chuyển nhượng, ủng hộ hắn ta một cách triệt để. Không còn nghi ngờ gì nữa, bây giờ con này là đồng minh chính của hắn ta trong cái kế hoạch phản phúc này. Bà thấy khó có thể tin được là Elisabeth, chị em sinh đôi với Robin lại có thể đi cùng với chúng nó, và có lẽ nó sẽ thế. Elisabeth đẹp, hoang dại và không gì có thể kiềm chế nổi với những đường nét tuyệt vời với nhan sắc lừa người và ý thích có những người chồng giàu sang, quần áo sang trọng, những chuyến du lịch tuyệt vời. Không một số lượng itền nào là đủ thoả mãn cô ta và cô ta cần nó một cách thường trực và tuyệt vọng như Robin.

Daisy là người con duy nhất bà tin chắc, bởi vì bà biết trong số tất cả những đứa con, chỉ có Daisy là thực sự yêu bà. Daisy không dính líu vào cái mưu kế này bởi vì cô sẽ không bao giwò là một thành viên của một vụ âm mưu do các anh chị em của cô bày ra để băm nhỏ gia sản của Harter. Ngoài tình yêu và lòng trung thành của cô, Daisy còn hết sức kính trọng bà và tin tưởng ở sự xét đoán của bà. Daisy không bao giờ đặt câu hỏi về những động cơ và quyết định của bà, bởi vì cô nhận thức được rằng chúng xuất phát từ ý định tốt, và hoàn toàn căn cứ trên sự tính toán sáng suốt.Daisy là con út của bà, nhưng cả hình dáng lẫn tính cách đều khác Emma cũng như tất cả những người con khác, nhưng cô gắn bó mật thiết với mẹ và họ chăm sóc nhau với một tình yêu sâu sắc và mạnh mẽ kèm theo lòng thán phục. Daisy dịu dàng, hiền hậu, tố đẹp và trọng danh dự. Ngày xưa, đã có lúc Emma suy ngẫm tới sự trong trắng thực chất, sự lương thiện của Daisy và lo ngại về chuyện này, bà tin rằng cô quá cởi mở vả dịu hiền như vậy thì rất khó an toàn. Emma đã lý luận lòng tốt của cô chỉ làm cho cô dễ gặp nguy hiểm. Nhưng cuối cùng, bà đã bắt đầu hiểu ra rằng còn một sợi dây mạnh mẽ bên trong con gnười Daisy. Theo cách thức riêng của mình, cô có thể vững chắc như Emma, và không thể nào lay chuyển nổi cô trong niềm tin, can đảm, dũng cảm trong hành động, kiên trì trong lòng trung thành. Cuối cùng Emma mới nhận ra là chính lòng tốt của Daisy đã che chở cho cô. Nó bao bọc lấy cô như một lá chắn bóng loáng, không thể xâm phạm được và vì thế nó đã làm cho cô vững chắc chống lại tất cả mọi thứ.

Và những người khác cũng biết điều ấy, Emma nghĩ trong khi bà tiếp tục nhìn ra phía đường chân trời Manhattan, trái tim bà tràn ngập một nỗi thất vọng. Và vẫn còn nôn nao, tuy nhiên cái cảm giác choáng váng nhen nhúm trong đầu bà đã dần dần tan biến đi. Bà cũng nhận ra rằng mặc dầu lúc đầu bị choáng váng, phản ứng này cũng trôi qua. Bây giờ bà thực sự không cảm thấy một chút ngạc nhiên nào trước câu chuyện của Gaye. Không phải vì bà đã chờ đợi những hành động này của con cái bà, bởi vì thật sự bà không hề chờ đợi điều đó. Nhưng ít cái có thể làm cho bà ngạc nhiên được nữa và với sự từng trải và kinh nghiệm đời, sự phản phúc trong gia đình chẳng hề làm bà ngạc nhiên chút nào.Từ lâu, Emma đã đi đến chỗ tin là những sợi dây máu mủ không bảo đảm sự trung thành và tình yêu. Nói một giọt máu đào hơn ao nước lã là không đúng, bà nghĩ, trừ trường hợp của Daisy. Nó thực sự là một phần của ta. Bà nhớ lại một cuộc nói chuyện trước đây với chủ ngân hàng của bà, Henry Rositer. Câu chuyện từ nhiều năm trước, nhưng nó trở lại với bà mồn một, từng điểm rõ ràng y như mới chỉ đâu như ngày hôm qua. Ông đã nói một cách cay độc rằng Daisy như một con bồ câu được tung vào ổ rắn độc. Emma đã rùng mình lùi lại trước sự so sánh man rợ này của ông ta. Để xua đuổi cái hình ảnh ghê tởm mà ông đã dựng lên trước mắt bà, bà đã cười để ông không trông thấy được phản ứng thật của bà là thế nào. Hôm nay vào một ngày tháng giêng này, ở tuổi bảy mươi chín, bà nhớ lại những lời của Henry đã báo điềm gở khi bà nghĩ tới bốn đứa con đầu tiên bà đã sinh ra, nuôi nấng, chúng đã phản lại bà. Đúng là một ổ rắn độc, bà nghĩ.

Bà đột ngột rời khỏi cửa sổ và quay trở lại bàn làm việc. Bà ngồi xuống và đôi mắt không chớp dừng lại ở cuộn băng đê tiện một lát rồi bà để chiếc cặp giấy lên bàn, mở ra, bỏ cuộn băng vào không bình luận gì thêm.Gaye nhìn một cách lo âu, mặt chị nghiêm trang. Chị bị bối rối vì nét mặt của Emma. Bề ngoài của bà bây giờ được tráng bằng một vẻ dữ tợn rắn chắc, trông bà hốc hác. Xướng trên má bà vốn cao lên rõ ràng, căng ra dưới làn da, thì bây giờ hầu như không còn thịt nữa. Nét mặt vốn xanh xao của bà bây giờ xám tro. Những chấm đỏ lộ ra như những vết bẩn trên đôi má bà và đôi môi bà trở nên xám ngoét dưới lớp son đỏ. Đôi mắt to màu xanh của Emma vốn trong sáng và hiểu biết giờ đây bị che phủ với một nỗi đau đen tối, một sự vỡ mộng và hấp hối của sự phản bội đã được biết một cách đầy đủ. Đối với Gaye, khuôn mặt bà mang âm bộc của mặt nạ tử thần.

Có một cái gì mong manh, dễ bị làm tổn hại trong con người Emma lúc này, trông bà già nua quá đến nỗi Gaye có niềm ao ước chạy lại, vòng tay quanh người bà. Nhưng chị kìm mình, vì sợ Emma sẽ nghĩ đó là một sự xâm phạm, vì chị biết sự tự chủ thường xuyên, niềm kiêu hãnh khôn cùng vốn là bản chất của Emma và bà có ý muốn giữ cho mình những công việc riêng tư của mình. Chị hỏi khe khẽ xen chút dịu dàng:

- Bà thấy trong người khó ở ra sao, thưa bà Harter? Bà có cần cháu lấy gì không?

- Tôi sẽ bình thường trong vài ba phút nữa, Gaye - Emma cố nở một nụ cười. Bà cúi đầu và cảm thấy những giọt nước đọng dưới mắt mình. Cuối cùng bà nhìn lên, nói:

- Tôi muốn ngồi một mình một lát, Gaye. Để suy nghĩ. Chị làm ơn pha cho tôi một tách trà và mang lại cho, chừng mười phút nữa, được không?

- Dạ, tất nhiên, thưa bà Harter. Chừng nào bà chắc là bà có thể ngồi một mình được.

Chị đứng lên, đi về phía cửa, ngập ngừng một lát. Emma mỉm cười: "Vâng, tôi ngồi một mình được, Gaye ạ. Đừng lo". Gaye rời khỏi phòng, Emma ngả người ra ghế, nhắm mắt, để cho những cơ bắp cứng nhắc của mình thư giãn. Trước tiên là Sitex rồi lại đến cái này, bà suy nghĩ một cách mệt mỏi, rồi lại đến Paula và mối quan tâm của bà đối với Jim Feli. "Quá khứ lúc nào cũng quay trở về ám ảnh ta", bà buồn bã nghĩ, mặc dù tận trong lòng mình bà biết không ai trốn khỏi được quá khứ. Đó là gánh nặng của hiện tại và tương lai và mình luôn phải mang nó.Nhiều năm trước đây khi Emma còn là một phụ nữ trẻ, bà đã nhìn thấy một vài nét phát triển trong những đứa con của bà làm cho bà kinh hoàng, bà nghĩ: Đó là lỗi của ta. Ta đã tạo nên chúng như thế. Một số đứa thì ta lơ là, một số đứa lại quá yêu thương, tất cả ta đều buông lỏng và làm hư chúng. Nhưng khi bà lớn tuổi hơn và khôn ngoan hơn, thì tội lỗi của bà loãng đi khi bà tin rằng mỗi người đều chịu trách nhiệm cho tính cách của riêng mình. Cuối cùng bà đã có thể thừa nhận với chính mình rằng nếu tính cách quyết định số phận một con người vậy thì mỗi một người đàn ông, mỗi một người đàn bà đều tạo ra thiên đường hay địa ngục của chính mình. Lúc này bà mới thực sự hiểu Paul Margin khi đã một lần ông nói với bà: "Mỗi chúng ta đều là tác giả của cuộc đời chúng ta, Emma ạ. Chúng ta sống trong chính cái chúng ta đã tạo ra. Không có cách gì đổ lỗi và không có ai nhận trách nhiệm". Từ giây phút ấy, bà đã có thể giải quyết những xúc động pha tạp hỗn loạn của mình về các con bà. Bà đã kìm mình để không quá đau khổ đối với chúng, bà đã thôi không tự trách mình trước những yếu đuối và lỗi lầm của chúng nữa. Chính chúng phải chịu trách nhiệm về những điều chúng đã làm đối với chúng, bà đã có thể rũ bỏ cái cảm giác là bà đáng trách.Tất cả những điều ấy bây giờ lại trở lại với bà khi bà nhớ tới những lời của Paul và bà nghĩ: Không, ta không có tội. Chúng xuất phát từ sự tham lam của chúng, từ những tham vọng ghê gớm và không đúng chỗ của chúng. Bà lại đứng lên và bước tới cửa sổ, bước chân của bà đã vững chắc thêm lên, nét mặt bà cả quyết. Bà nhìn ra ngoài một cách lơ đãng. Tuyết đã thôi rơi và mặt trời đang chiếu trên bầu trời quang đãng. Sau một vài suy nghĩ, bà quay trở lại bàn giấy. Bà biết bà phải hành động như thế nào. Bà bấm chuông gọi Gaye; chị đáp lại ngay tức thì, mang một khay trà vào phòng. Chị đặt nó lên trên bàn, trước mặt Emma, bà cảm ơn chị và chị tới ngồi ở một chiếc ghế đối diện bàn giấy. Bà ấy thật là bất khuất, Gaye tự nhủ khi chị nhìn Emma, chú ý tới vẻ bình tĩnh trong mắt bà, tay cầm bình chè rót nước.Một lát sau, Emma mỉm cười với chị: "Tôi thấy khá hơn rồi, Gaye ạ. Tôi nghĩ cháu nên đặt trước ba chỗ trên bất cứ một chiếc máy bay nào đi London tối nay. Tôi biết nhiều hãng hàng không có những chuyến bay sớm vào buổi tối. Không kể là chuyến bay nào, cho chúng tôi lên máy bay".

- Vâng, thưa bà Harter, cháu sẽ đi ngay - Chị đứng lên để đi.

- À này, Gaye thân mến, tôi chắc là Paula sẽ hỏi tại sao chúng ta lại quay trở lại London sớm hơn là điều mong đợi. Tôi sẽ nói với nó là có công việc khẩn cấp cần tới sự chú ý của tôi. Tôi không muốn nó không hay biết gì về cái này - Bà ngừng lại để tìm một từ thích hợp và cười cay đắng - về cái âm mưu này, tôi nghĩ chúng ta nên gọi nó như vậy.

- Cháu không bao giờ nghĩ là lại đi nói điều đó với cô Paula hay bất cứ ai! - Gaye kêu lên hăm hở.

- Và Gaye này...

- Dạ thưa bà Harter?

- Cám ơn cháu. Cháu đã làm điều đúng. Tôi rất cảm ơn cháu.

- Ôi, bà Harter, xin bà... cháu còn có thể làm được điều gì khác nữa? Cháu chỉ sợ không dám nói với bà bởi vì cháu biết điều ấy làm bà đau phiền đến thế nào.

Emma mỉm cười: "Tôi biết. Bây giờ cháu xem có thể kiếm vé máy bay cho chúng ta không?"

Gaye gật đầu và đi. Emma uống trà, đầu óc bà đầy ý nghĩ. Ý nghĩ về công việc, về các con, các cháu bà.

Gia đình bà đã gây dựng, cả một triều đại bà đã lập ra. Bà biết cần phải làm gì để giữ gìn tất cả. Nhưng bà có thể làm được điều đó không? Trái tim bà rung lên khi bà mường tượng những ngày phía trước. Nhưng bà biết bà sẽ tìm được sức mạnh. Bà thấy cuộc đời thật khôi hài. Những đứa con trai của bà đã phạm một sai lầm không sao sửa chữa được là âm mưu ngay trong phòng giám đốc của bà. Rõ ràng là chúng đã chọn cái mà chúng nghĩ là thời gian tốt lành, buổi chiều thứ sáu, khi mọi người đã đi hết. Dù vậy, bà kinh ngạc trước sự ngu ngốc hoàn toàn của chúng. Còn một điều sơ suất nữa trong âm mưu của chúng và đó là một sơ suất thảm hại. Chúng đã đánh giá thấp bà. Và cuối cùng, số mệnh xui khiến, bà đã được báo trước về sự phản phúc của chúng. Giờ đây bà đã được chuẩn bị, bà có thể xử lý tình huống một cách có hiệu quả, đón trước những bước đi của chúng và chặn chúng lại. Bà mỉm cười với mình một cách cay đắng. Bà luôn luôn làm một người chơi bạc trong công việc của bà, trong cuộc sống nói chung. Vận may của bà vẫn còn. Bà cầu nguyện cho nó còn mãi.

Henry Rositer áp sát hơn telephone vào tai, như để nghe rõ hơn tiếng nói của người đàn bà. Ông tập trung những lời của bà căng thẳng và chăm chú, bởi vì mặc dù giọng nói của Emma Harter vẫn trầm bổng như thường lệ, nhưng bà đã nói nhẹ nhàng hơn mọi ngày.

- Henry này, tôi sẽ rất mừng nếu ông vui lòng tới cửa hàng vào lúc mười một giờ ba mươi sáng nay. Tôi nghĩ chúng ta có thể trò chuyện chừng một tiếng rồi ăn trưa trong phòng giám đốc này. Tất nhiên nếu ông rỗi.

Ông do dự một thoáng hầu như không nhận ra, nhưng ông biết là Emma đã nắm được, ông vội vã nói:

- Tốt, bà thân mến ạ, tôi sẽ rất sung sướng tới gặp bà.

- Ông có cuộc hẹn gì khác không? Henry? Tôi không muốn làm phiền ông.

Đúng là ông có, và đó là cuộc hẹn ăn trưa quan trọng đã được sắp xếp từ trước, nhưng ông không thể làm phật ý người khách hàng quan trọng nhất của ông, cũng là một trong những người phụ nữ giàu nhất nước Anh, có lẽ là nhất thế giới, bởi vì khó có thể đánh giá tài sản thật của bà. Ông biết bà cũng đủ sắc sảo để nhận ra ông đã có hẹn từ trước, vì thế ông thôi không nói dối, đằng hắng một tiếng, ông nói:

- Có, tôi có hẹn, nhưng cũng dễ huỷ bỏ thôi, nếu bà muốn, bà bạn thân mến.

- Tốt. Tôi rất biết ơn, Henry ạ. Vậy tôi sẽ gặp ông lúc mười một rưỡi. Tạm biệt, Henry.

- Tạm biệt, Emma - ông lẩm bẩm, nhưng bà đã đặt máy.

Henry biết Emma Harter đã gần bốn mươi năm, đủ để hiểu một cách đầy đủ rằng dưới những lời yêu cầu nhỏ nhẹ bao giờ cũng là một mệnh lệnh đầy uy quyền, thực sự là những mệnh lệnh được thốt ra bằng một giọng dịu dàng, êm ái nhất và một dáng điệu hấp dẫn nhất. Sự hấp dẫn bẩm sinh này đã đưa bà đi xa như Henry đã phát hiện ra từ đầu.

Bà không nói điều gì đặc biệt và ông cũng không phát hiện ra được một sự bối rối hay giận dữ nào trong giọng nói của bà, thế nhưng một linh tính không hay đã tới với ông khi họ nói chuyện. Henry không phải là người không biết nhận thức, và là một giám đốc ngân hàng lớn nhất, lúc nào ông cũng cẩn thận làm cho thích hợp với các khách hàng của mình, ông nhận thức được một cách hoàn toàn đầy đủ những đặc tính cơ bản của họ, những điểm mạnh điểm yếu trong cá tính của họ. Ông phải làm như vậy bởi vì ông cần giữ công việc của họ. Từ nhiều năm trước, ông đã nhận ra được rằng những người rất giàu có thể khó tính, đặc biệt là về chuyện tiền nong của họ.

Lời mời ông của Emma đến ăn trưa thật bất ngờ làm ông bối rối. Trước đây chưa hề như vậy, vì thế ông thấy đáng ngờ Emma, như ông đã biết quá rõ, là một con người của thói quen. Bà rất ít khi có hẹn ăn trưa và khi nào có hẹn thì bà đều chuẩn bị cẩn thận trước. Sự khác thường này đúng là lạ. Suy nghĩ về điều này, Henry càng tin chắc là có chuyện gì không bình thường. Vả lại, ông đã nói chuyện với bà ba lần từ khi bà từ New York về một tuần trước đây. Bà vẫn bình thường, nhanh nhẹn và mặt ngoài hình như không có gì khuấy động.Ông bỏ kính ra, ngả người trong ghế và tự hỏi không hiểu có phải bà không hài lòng về cách thức nhà băng điều hành công việc của bà không. Henry luôn luôn lo ngại trước, đặc biệt là về nhà băng và sau này, điều đó trở thành mãn tính. "Có lẽ lời mời cũng chỉ đơn giản là như thế thôi. Mình chỉ tưởng tượng là có điều gì không ổn đó thôi". Ông lẩm bẩm pha chút bực bội, tuy nhiên ông vẫn bấm hệ thống liên lạc và bảo với thư ký của ông nói với Osborne đến gặp ông ngay. Tony Osborne và hai nhân viên khác của ngân hàng tư, giám sát công việc kinh doanh của Emma Harter ở Anh, cả công ty cổ phần lẫn tư nhân. Tất cả bọn họ đều trả lời ông đầy đủ, ông điểm lại công việc của Emma hai lầm và có khi là ba lần trong một tuần. Osborne thường khiển trách là tại sao lại dùng tới nhiều nhân lực như vậy và luôn luôn đòi hỏi phải dùng máy tính để giải quyết những công ty mẹ của Harter. Nhưng Henry không tin máy tính, ông vốn bảo thủ, thậm chí còn cổ lỗ nữa, theo kiểu riêng của ông. Hơn nữa, ông nghĩ việc giám sát một cái gì đó trong phạm vi ba trăm triệu bảng, cho hoặc lấy một vài triệu, thì cũng đáng bất cứ một số lượng nhân lực nào của ngân hàng. Emma đòi hỏi và bà ta quỷ quái, có lẽ thực tế là quỷ quái hơn bất cứ một chủ ngân hàng nào ông biết kể cả chính ông nữa. Henry tin tuyệt đối chắc chắn họ có thể trả lời bất cứ câu hỏi nào vào bất cứ lúc nào vì vậy tất cả các tài khoản đều được giám sát hàng ngày. Henry muốn tất cả những thông tin, có thể thấy được đều trong tay mình, cả ngày lẫn đêm lúc nào cần đến là có.

Osborne làm ngừng sự suy nghĩ của ông khi anh gõ cửa và lướt vào phòng. Là một thanh niên tự phụ, anh ta chỉ cho mình là nhất và quá nhiều tham vọng, lại quá mượt mà. Henry nhìn người thanh niên ăn mặc không thể chê vào đâu được trước mắt mình. Nhưng ở trường Eton là như vậy đó.

- Xin chào ông Henry.

- Chào Osborne.

- Hôm nay đẹp trời quá, phải không ạ? Tôi nghĩ xuân năm nay sẽ đến sớm, ông Henry. Ông có đồng ý thế không ạ?

"Tôi không phải là cái máy đo thời tiết", Henry lẩm bẩm. Osborne không hiểu lời nhận xét chua cay đó, và quyết định lờ đi. Tuy nhiên, cung cách của anh ta trở nên sự vụ hơn và giọng nói của anh ta lạnh hơn.

- Tôi muốn nói chuyện với ông về tài khoản Rowel - Tony bắt đầu.

Henry giơ tay lên và lắc đầu:

- Bây giờ thì không, Osborne. Tôi gọi anh đến vì tôi vừa nói chuyện với bà Harter. Bà ấy yêu cầu tôi tới cửa hàng sáng nay. Mọi thứ vẫn đâu vào đấy chứ? Không có vấn đề gì chứ?

- Hoàn toàn không! - Osborne nhấn mạnh, ngạc nhiên - Mọi thứ đều ở trong tầm kiểm soát.

- Tôi chắc anh đã để mắt tới những công ty nước ngoài của bà ta. Anh có tới đó hôm qua không? - Henry nghịch chiếc bút trên bàn, lòng vẫn bồn chồn lo lắng.

- Chúng tôi luôn luôn làm ngày thứ hai. Chúng tôi đã kiểm tra tiền lãi của Mỹ, Úc và của bà, tất cả đều đâu vào đấy. Sản xuất làm ăn cũng khá. Thực tế là giá cả có tăng lên kể từ khi có chủ tịch mới. Này, ông Henry, có chuyện gì vậy? - anh ta băn khoăn.

Henry lắc đầu:

- Tôi cũng chẳng biết là thế nào, Osborne. Nhưng tôi muốn biết hoàn toàn chính xác mọi sự trước khi tôi gặp bà ấy. Tôi nghĩ tôi sẽ xem những tài khoản của bà cùng với anh. Chúng ta hãy tới văn phòng của anh đi.

Sau một tiếng rưỡi đồng hồ tập trung vào những điểm tinh tế nhất trong tài khoản của Harter, Henry hoàn toàn hài lòng là cả Osborne và những trợ lý của anh ta đều chính xác và cần mẫn trong công việc của họ. Tất cả những con số của anh đều mới và các con số của những cổ phần Harter ở nước ngoài đều hiện đại như có thể với thị trường thế giới thay đổi, những vùng khác nhau và sự lên xuống của giá chứng khoán. Đúng mười một giờ, bởi vì ông rất chính xác về giờ giấc, Henry mặc áo khoác đen, cầm mũ quả dưa, ô, và rời văn phòng. Ông đứng trên những bậc thềm của nhà ngân hàng, hít không khí một lúc. Trời lạnh, khô và có nắng. Osborne nói đúng, một ngày tháng giêng như thế này là đẹp, như mùa xuân, tươi mát và trong sán. Ông bước nhanh xuống phố, vung vẩy chiếc ô một cách vui vẻ. Một người đàn ông cao lớn, đẹp trai ở tuổi đầu sáu mươi, cung cách nghiêm trang, đầy tư thế của ông gây một ấn tượng sai lầm về óc hài hước và bản chất thích tán tỉnh của ông. Henry Rositer có một đầu óc lạnh lùng, hết sức sắc sảo, một con người có học thức, một người sành sỏi nghệ thuật, một nhà sưu tầm những ấn phẩm đầu tiên, một người mê kịch và âm nhạc. Ông cũng có thể đi ngựa và bắn súng như một quý ông lịch sự và ông là bậc thầy của săn bắn trong vùng quê hương của ông. Sản phẩm của một gia đình cổ, giàu có, thực tế mà nói, ông là một hỗn hợp những nguyên tắc bảo thủ của gia đình thượng lưu Anh và sự tinh vi của thế giới. Ông đã lấy vợ hai lần, hiện nay ông đang ly dị. Điều này làm ông trở thành một người chưa vợ được ngưỡng vọng nhất, bởi vì ông vui vẻ, lịch thiệp, khéo léo trong tất cả mọi thứ phong lưu của xã hội, một kẻ thích ăn sung mặc sướng. Nói tóm lại, ông hấp dẫn và quyến rũ, một con người thành công trong cả công việc làm ăn và trong xã hội. Henry gọi taxi ở góc phố và bước vào. Ông nghiêng người về phía trước, nói: "Công ty Harter, làm ơn", và ngồi ngả người ra sau, thoải mái và tin tưởng Emma sẽ không thể có một điều gì phàn nàn về ngân hàng cả. Hoàn toàn không có một điều gì hết, ông vẫn chưa có thể dò được lý do của lời mời bất ngờ này, nên ông đã tỏ ra lo ngại. Phụ nữ, ông nghĩ với một nỗi bực bội hay hay, là những sinh vật không thể nào lường trước được, ngay cả trong những lúc tốt đẹp nhất. Ông thực sự tin là hầu hết các phụ nữ đều không sao có thể chịu nổi, bọn họ làm lạc lối, lúng túng, mê hoặc trong suốt cuộc đời ông. Nhưng giờ đây, ông cảm thấy bắt buộc phải điều chỉnh lại suy nghĩ của mình trong trường hợp của Emma. Hết sức thành thật mà nói, ông không thể gọi Emma là không thể lường trước hoặc là không thể chịu nổi. Cứng đầu cứng cổ, đúng, và đôi khi thậm chí còn ương ngạnh đến độ cứng nhắc. Nhưng bình thường, ông thấy Emma là người khôn ngoan, điềm đạm và sự thận trọng không thể nghi ngờ gì nữa là tính chất cơ bản nhất của bà. Không, "không thể lường trước được" không phải là chữ ông có thể gán cho Emma.

Khi taxi chạy chầm chậm qua khoảng đường ứ đọng thì những ý nghĩ của Henri dừng lại ở Emma Hactơ. Họ đã từng là bạn và cộng sự làm ăn với nhau trong nhiều năm, và mối quan hệ giữa hai người rất tốt, rất tương hợp. Ông luôn luôn thấy Emma là người dễ làm việc bởi vì đầu óc bà luôn luôn logic và thẳng thắn. Bà không suy nghĩ theo kiểu luẩn quẩn đàn bà, đầu óc bà cũng không có những điều tủn mủn, vớ vẩn. Ông mỉm cười với mình. Một lần ông đã nói với bà là đầu óc bà không giống đầu óc một người đàn bà chút nào, nó giống đầu óc một người đàn ông hơn. "Ồ, thế có sự khác nhau à?", bà hỏi lại một cách nghiêm khắc, nhưng một nụ cười vui đã nở trên nết mặt bà. Lúc đó ông thấy hơi phật ý một chút, bởi vì ông nói điều đó như một sự ca ngợi lớn, vì ông vốn có ý chê bai phụ nữ và khả năng am hiểu của họ.

Ông bị Emma hấp dẫn ngay từ ngày đầu họ gặp nhau. Lúc ấy ông nghĩ bà là người phụ nữ hấp dẫn nhất mà ông đã từng gặp và hiện nay ông vẫn còn nghĩ vậy. Có một lần, đã lâu lắm rồi, thậm chí ông còn tin là ông phải lòng bà, mặc dù bà không bao giờ biết đến những tình cảm của ông. Dạo ấy ông 24, bà 39, một phụ nữ hết sức hấp dẫn, có kinh nghiệm. Bà có dung nhan gây ấn tượng sâu sắc, mái tóc dày mượt chải hình chữ V trên vầng trán rộng, đôi mắt to màu xanh sáng và linh lợi. Con người bà tràn đầy một nghị lực phi thường, một sức sống mạnh mẽ lây sang cho mọi người. Ông luôn thấy mình sôi nổi hẳn lên vì cái sinh động, cái lạc quan không thể tưởng tượng nổi của bà. Bà là một phụ nữ uyển chuyển tươi mát khác những phụ nữ tẻ nhạt và gượng gạo mà ông đã thấy vây bọc xung quanh cuộc đời ông. Emma có một trí óc sắc sảo đầy hài hước, một khả năng để tự cười mình và những nỗi gian lao của mình, một nỗi vui vẻ bên trong và nhiệt tình sống mà Henri thấy thực là xuất sắc. Từ đó cho đến tận hôm nay, ông luôn bàng hoàn vì trí thông minh của bà, khả năng thấy trước, tính kiên quyết không thể lay chuyển nổi của bà, một vẻ lôi cuốn mà Henri biết là đã được chắt lọc một cách có chủ định trong nhiều năm. Bà đã học để sử dụng nó với sự khéo léo tột bực, vận dụng triệt để tác động của nó để đạt được những kết quả tốt nhất. Trong gần 30 năm, ông là cố vấn tài chính của bà. Bà lúc nào cũng chú ý lắng nghe ông, đánh giá cao những gợi ý của ông và họ không bao giờ cãi cọ nhau trong suốt thời gian đó. Theo cung cách riêng của mình, ông hết sức tự hào về Emma và những điều bà đã đạt được. Một phụ nữ vĩ đại. Một sự thành công trong kinh doanh có một không hai. Cửa hàng ở London của Hactơ đã vượt lên trên mọi cửa hàng khác trên thế giới là một thực tế rõ ràng, không chỉ về tầm cỡ mà còn về chất lượng các mặt hàng của nó. Không phải không có lý do mà bà được coi như bà hoàng vĩ đại trong kinh doanh, mặc dù ít người biết bà đã phải trả một cái giá to lớn và khủng khiếp như thế nào cho sự thành công. Ông vẫn luôn cảm thấy rằng nền tảng của đế quốc bán lẻ khổng lồ của bà là kết hợp của sự hy sinh và nghị lực, tài năng của bà, sự hiểu biết bản năng về thị hiếu của công chúng, con mắt không lầm lẫn để nhận ra chiều hướng và đủ nghị lực để đánh canh bạc khi cần thiết. Ông đã có lần nói với Tony Oxborn rằng gạch và vôi vữa cửa hàng của bà được tạo nên bởi viễn kiến lớn lao của bà, tài khéo léo đáng ngạc nhiên về tài chính, khả năng kỳ lạ vươn lên từ những tình huống không thể giải quyết nổi để đạt tới chiến thắng. Ý kiến của ông là như vậy. Theo như Henri biết, bà đã làm mọi điều một mình, cừa hàng London và tất cả các cửa hàng khác của bà là một chứng cơ hùng hồn về sức mạnh bất khả chiến bại của bà."Tới nơi rồi", người lái taxi nói một cách vui vẻ. Henri bước ra, trả tiền rồi vội vã đi xuống phố bên, tới lối vào, lên thang máy tới tầng trên cùng - các phòng hành chính của Emma.

Gaye Sloan đang nói chuyện với một người thư ký ở phòng đón tiếp phía ngoài thì Henri bước vào. Chị chào ông một cách niềm nở "Bà Hactơ đang đợi ông", chị nói và mở cửa văn phòng của Emma, dẫn ông vào. Emma đang ngồi ở bàn phủ đầy giấy tờ. Ông nghĩ, trông bà mỏng manh một cách kỳ lạ. Bà ngước nhìn lên khi ông bước vào, bỏ kính và đứng dậy. Ông nhận ra rằng sự mỏng manh của bà chỉ là một ảo ảnh do chiếc bàn to lớn đồ sộ gây ra, bởi vì bà tiến lại phía ông nhanh nhẹn, nhẹ nhàng, đầy sức sống, nét mặt bà rạng rỡ trong nụ cười. Bà mặc chiếc áo nhung xanh sẫm duyên dáng với một đường viền gì đó như lụa trắng nơi cổ, cài trâm ngọc bích, đôi bông tai ngọc bích lóng lánh.

"Henri thân mến, hết sức vui được gặp lại ông", bà nói và nắm lấy cánh tay ông một cách trìu mến. Ông mỉm cười, cúi xuống hôn vào má bà và nghĩ: bà vẫn khoẻ mạnh. Nhưng ông đã phát hiện được một nét đau đớn quanh đôi mắt bà, và thấy bà xanh hơn thường lệ.

"Cho tôi được nhìn bà nào, Emma thân mến", ông nói và giữ bà ở một khoảng cách để có thể nhìn bà kỹ hơn. Ông cười lớn, lắc đầu ngạc nhiên giễu cợt. "Bà phải nói cho tôi biết bí quyết của bà, cưng. Tôi không biết bà làm cách nào, nhưng trông bà như hoa nở".

Emma mỉm cười: "Làm việc chăm chỉ, một cuộc sống sạch sẽ, một lương tâm trong sáng. Và ông cũng chẳng có gì phải phàn nàn, Henri. Trông ông cũng tuyệt vời. Nào, cưng, chúng ta uống rượu anh đào và trò chuyện". Bà dẫn ông tới một dãy ghế bà biện thoải mái và một chiếc xôpha trước lò sưởi với ngọn lửa đang reo. Họ ngồi đối diện nhau. Emma rót rượu anh đào vào hai chiếc ly pha lê.

"Xin chúc mừng con người vĩ đại tên Emma", ông noi và chạm cốc với bà.

Emma nhìn ông nhanh và ngạc nhiên, rồi cười to vui vẻ. "Kìa, Henri", bà lại cười rồi nói một cách thích thú. "Với tất cả lòng kính trọng cần thiết, tôi không phải là Catơrin vĩ đại (Nữ hoàng Nga 1729-1796), và ông không phải Vônte (nhà văn Pháp). Nhưng, cám ơn ông, tôi nghĩ ông nói vậy như một lời khen ngợi.

Henri cười: "không hiểu còn cái gì nữa mà bà không biết, Emma thân yêu. Vâng, tất nhiên tôi nói vậy như một lời khen ngợi".

Emma vẫn còn cười: "Còn nhiều điều tôi không biết, Henri ạ. Nhưng một trong những đứa cháu trai của tôi đã tới đây trước ông, nó cũng nói đúng như vậy với tôi hôm qua. Và khi tôi khen ngợi nó vì lời khen ngợi của nó, nó đã nói lý do cho tôi nghe. Ông chậm mất một ngày, cưng ạ".

Henri cùng cười với bà. "Đúng, rõ ràng là chúng tôi cùng nghĩ như nhau. Đứa cháu trai nào vậy?", ông hỏi, và luôn ngạc nhiên vì cái gia đình lớn và không chính thống của Emma.

"Tôi có vài đứa, phải không nhỉ? " Emma nói với một nụ cười trìu mến. "Đôi khi cũng lẫn lộn. Đó là thằng Alexandre, con trai của Elisabeth. Nó đến đây chiều hôm qua từ Yorkshire và bực bội vì bác Kit của nó hết sức ương ngạnh về chuyện đặt máy mới vào một trong những xưởng máy. Nó rất tốn phí nhưng cuối cùng lại tiết kiệm được cho chúng tôi rất nhiều tiền, và thúc đẩy sản xuất. Alexandre hoàn toàn đúng. Cuối cùng, chúng tôi đã giải quyết được, không đến nỗi quá kinh khủng".

"Cậu ấy là một thanh niên xuất sắc và rất tận tâm với bà, Emma ạ. Nhân tiện nói về Kit...", ông dừng lại và mỉm cười. "Xin lỗi Emma, tôi tình cờ gặp Kit vài tuần trước đây và tôi hơi ngạc nhiên thấy ông ta cùng Edwina và Robin. Họ ăn ở nhà hàng Savoy".

Emma đã thư thái trở lại, nhìn Henri một cách trìu mến thích thú vì cử chỉ lịch sự với phụ nữ của ông. Giờ đây bà căng thẳng, nhưng bà cố tỏ ra bình thường, không để lộ tình cảm. "Ồ thế à, tôi rất sung sướng thấy cuối cùng các con tôi đã hoà thuận", bà nói nhẹ nhàng trong khi vẫn cẩn thận ghi nhớ cái tin này.

Henri châm thuốc và nói tiếp: "Tôi ngạc nhiên vì tôi không ngờ là Kit lại thân mật với hai người kia. Và nói thật, tôi không ngờ Robin vẫn thân mật với Edwina. Tôi nghĩ đây là một tình trạng tạm thời sau tất cả những chuyện rắc rối về vụ đặt giá chuyển nhượng vài năm trước. Thực tế, tôi không bao giờ có thể hiểu được mối liên hệ này, Emma. Tôi luôn nghĩ là hai người đó ghét nhau cho đến lúc họ lại hẩu với nhau như thế. Rõ ràng là nó bền vững".

Emma mỉm cười nhợt nhạt: ''''Ông nói ông không hiểu sự thân thiết của họ, Henry, thế nhưng từ lâu tôi đã phát hiện ra là, những âm mưu đen tối nhất đưa người ta trở thành bạn đồng sàng. Ông nói đúng. Tất nhiên, chúng ghét nhau ghê gớm, nhưng chúng không thôi móc túi nhau kể từ chuyện rắc rối với cônglômêra".

"Câu chuyện thật kỳ cục, phải không? Nhưng cám ơn Chúa, tất cả đều đã qua đi. Vâng, như tôi đã nói đó, thấy ba người với nhau thật là kỳ quá", ông kết thúc và uống rượu anh đào, hoàn toàn không nghĩ gì tới những xao động mà ông đã khuấy lên trong lòng Emma.

Bà nhìn ông chăm chú và nói với giọng hết sức bình thản: "Ồ, tôi không cho rằng điều đó là kỳ lắm đâu. Nói thật với ông, tôi đã nghe được từ nguồn thông tin mật của gia đình là cả ba người đó đang có dự định họp gia tộc nhân dịp kỷ niệm ngày sinh của tôi", bà nói một cách mỉa mai. "Tôi cho là họ gặp nhau để sắp xếp công việc".

"Tôi tưởng ngày sinh của bà vào cuối tháng 4''''.

"Đúng thế, cưng ạ, nhưng như vậy cũng chỉ còn vài tháng nữa.

"Tôi hy vọng sẽ được mời''''- ông nói - "xét cho cùng, bà sẽ phải cần tới một người hộ tống, mà tôi thì trong gần 40 năm trời vẫn không ngừng là người ngưỡng mộ bà".

"Ông sẽ được mời, cưng ạ", Emma trả lời, nhẹ nhõm trong lòng vì giây phút lúng túng đã qua một cách dễ dàng. "Nhưng tôi không mời ông tới đây để chuyện phiếm về con cháu tôi. Tôi muốn nói với ông một số việc..."

Điện thoại reo. Emma đứng bật dậy. "Xin lỗi Henry, chắc là Paula gọi từ Paris. Đó là điện thoại duy nhất tôi nói với Gaye là tôi có thể nghe".

"Tất nhiên rồi, cưng", ông nói, cùng đứng lên. Bà đi qua phòng tới bàn giấy. Ông ngồi xuống thư thái trước ngọn lửa, nhấm nháp rượu anh đào và hút thuốc, đầu óc thảnh thơi. Emma trông dáng mệt mỏi, tuy vây ông cũng không đoán được những dấu hiệu bên ngoài là bà đang có chuyện rắc rối. Sự thật, ông nghĩ, bà dường như còn khá vui vẻ nữa. Ông nhìn quanh căn phòng trong khi bà tiếp tục nói chuyện điện thoại. Ông thèm có được cái văn phòng này của Emma, nó giống một thư viện trong một ngôi nhà gia thế hơn là một nơi kinh doanh. Với những bức tường gỗ lát, những giá sách cao ngút, những bức hoạ tuyệt vời của Anh, những đồ gỗ Georgia, đó chính là nơi lui về nghỉ ngơi thú vị, một nơi ông ao ước muốn có để làm việc.

Emma nghe xong điện, ông đứng lên, đón bà tới bên lò sưởi. Bà cầm trong tay tập giấy mà ông không thể không chú ý. Bà để tập giấy lên bàn gần ghế của bà và ngồi xuống. Henry ngồi vào ghế của mình, châm một điếu thuốc nữa.

"Paula gửi lời chào, Henry ạ. Nó đang ở Paris, trông nom một vài thứ ở cửa hàng cho tôi".

"Một cô gái đáng mến", Henry đáp, sự thán phục biểu lộ trong giọng nói của ông. "Cô ấy giống Daisy, dịu dàng, cởi mở, không phức tạp. Bao giờ cô ấy trở lại?"

Emma không hề nghĩ là Paula không phức tạp, nhưng bà kìm không bình luận gì về cháu gái.

"Thứ Năm, Henry ạ. Một ly anh đào nữa?" , bà hỏi và rót vào ly của ông. ''

"âng, cảm ơn cưng. Bà nói bà muốn nói chuyện với tôi về một số việc trước khi bà nghe điện của Paula?". Ông liếc nhìn tập giấy một cách tò mò.

"Có gì nghiêm trọng không?"

"Không, không có gì hết. Tôi muốn thanh toán một vài tài sản cá nhân và tôi nghĩ ông có thể giải quyết cho tôi", Emma trả lời, giọng bà bình thản, nét mặt thư thái. Bà uống chầm chậm và chờ đợi, nhìn Henry chăm chú, bà biết quá rõ ông ta sẽ phản ứng ra sao.

Mặc dù những lo ngại của ông trước đó, ông đã bị ngạc nhiên. Ông không chờ đợi điều này chút nào. Ông đặt ly rượu xuống, ngả người về phía trước, nỗi lo ngại hằn trên trán. "Bà có vấn đề khó khăn sao, Emma? "ông lặng lẽ hỏi.

Emma nhìn thẳng mắt ông: "Không, Henry. Tôi nói với ông là tôi muốn thanh toán một vài bất động sản của tôi, vì những lý do riêng. Không có vấn đề gì đâu. Ông nên biết như vậy, cưng. Dù sao thì ông đã chẳng giải quyết tất cả những công việc nhà băng của tôi là gì."

Henry suy nghĩ một lúc, trí óc nhanh chóng tập hợp tất cả những con số ông đã thấy sáng nay. Ông đã bỏ sót điều gì hết sức quan trọng chăng? Không. Không thể như thế được. Ông thở ra thoải mái hơn một chút, dọn giọng: "Vâng, đúng thế", ông nói một cách suy nghĩ. "Sự thật là tôi đã nhìn lại tất cả các tài khoản của bà trước khi tôi đến đây. Mọi thứ đều ngăn nắp, đâu vào đấy. Hết sức ngăn nắp", ông nói một cách hết sức thành thật.

"Tôi cần một chút tiền, Henry ạ. Tiền mặt. Vì những lý do cá nhân, như tôi đã nói. Như vậy, thay vì bán đi những cổ phần, tôi nghĩ tôi sẽ cho đi một ít bất động sản, đồ nữ trang và một phần bộ sưu tập nghệ thuật của tôi".

Henry kinh hoàng đến độ không nói nên lời. Trước khi ông kịp trấn tĩh lại để đưa ra một lời bình luận, bà đã trao chiếc cặp giấy cho ông. Ông lấy kính ra đeo vào và nhìn xuống danh sách bên trong, giật mình lo ngại. Khi mắt ông nhìn những tài sản kê khai, ông nhớ lại cái linh tính không hay của mình vào buổi sáng. Có lẽ linh tính của ông đúng.

"Emma! Tất cả những cái này không phải là một chút tiền mặt như bà đã gọi nó một cách bình thường. Những bất động sản này đáng giá hàng triệu pao"

"Ồ, tôi biết. Tôi đoán là 7 hoặc 8 triệu pao. Ông nghĩ gì, Henry thân mến", bà hỏi một cách bình tĩnh.

"Trời ơi, Emma! Tại sao bỗng nhiên bà lại cần 7 hoặc 8 triệu pao? Và tôi nghĩ gì? Bà hỏi tôi? Tôi nghĩ phải có chuyện gì không hay và bà đã không nói cho tôi biết. Bà hẳn phải có vấn đề mà tôi không sao biết được". Cặp mắt xám trong trẻo của ông mờ đi trong khi ông cố gắng kiềm chế cơn giận dữ của mình. Ông chắc bà đang che giấu một điều gì và điều đó làm ông bực bội.

"Ồ, thôi nào Henry", Emma chặc chặc lưỡi. "Đừng kích động như thế. Không có chuyện gì lôi thôi đâu. Thực tế, tôi chỉ cần khoảng 6 triệu pao cho...tôi có thể gọi nó là dự án cá nhân của tôi không? Tôi thích bán những thứ đó, vì đằng nào tôi cũng không cần đến chúng nữa. Tôi không bao giờ đeo những đồ trang sức ấy. Ông biết là tôi không bao giờ thích kim cương một cách thái quá. Và cho dù có đem bán chúng đi, tôi vẫn còn thừa đủ để đeo đối với một phụ nữ ở tuổi tôi. Bất động sản của tôi cồng kềnh quá. Tôi cũng không cần đến nó, và lúc này là lúc tốt nhất để bán và kiếm lời. Tôi cũng khá khôn ngoan đó", bà kết thúc bằng một giọng tự khen mình và mỉm cười vui vẻ với Henry.

Ông nhìn bà bàng hoàng. Bà có cái tài làm cho tất cả những hành động của bà nghe thực tế một cách đáng kính phục và thường thường, nó làm ông điên người. "Những bộ sưu tầm nghệ thuật, Emma. Emma thân mến, bà đã để biết bao yêu thương, thời giờ và sự chăm sóc để thu thập những...những kiệt tác ấy. Bà có chắc là bà muốn cho chúng đi không?", giọng của ông đượm buồn và đăm chiêu. Ông liếc nhìn danh sách trong tay ông. "Hãy xem những gì bà kê ở đây? Sisley, Sagan, Monet, Manet, Dali, Renois, Pissaros và một bức của Dega. Sự thực là hai bức. Thật là một bộ sưu tập không thể tìm được"

"Bộ sưu tập mà ông đã hào hiệp giúp tôi thu lượm được trong nhiều năm, qua những tiếp xúc của ông trong giới nghệ thuật. Tôi rất biết ơn ông vì điều đó, Henry ạ, biết ơn ông nhiều hơn là ông có thể nghĩ. Nhưng tôi muốn bán đi. Như ông nói, đó là một bộ sưu tập không thể nào tìm được, và như vậy nó cũng sẽ đưa lại một cái giá không thể nào tìm được", bà nói một cách hoạt bát.

"Ờ, quả là vậy", Henry xác nhận, con người ngân hàng của ông lại trỗi dậy."

"Nếu quả thực bà hoàn toàn chắc chắn là bà muốn bán bộ sưu tập ấy thì tôi có thể làm điều đó quá dễ dàng", giọng của ông trở nên hăm hở. "Thực tế là tôi có một khách hàng ở New York muốn đặt tay tới những bức hoạ đó, và ông ấy cũng sẽ trả giá đúng thôi, cưng ạ. Nhưng mà Emma, thực đó, tôi không biết phải nói thế nào, thật là đáng tiếc..." Giọng ông kéo dài ra một cách yếu ớt, bởi vì ông bỗng nhiên nhận ra rằng bà đã điều khiển ông một cách khá khéo léo, ông không chú ý tới những lý do bà đưa ra để bán nữa.

"Tốt", Emma nói một cách vội vã, nắm lấy thời cơ để thôi thúc nhiệt tình của Henry, bản năng chủ ngân hàng của ông. "Thế còn những bất động sản ở Lidơ và London? Tôi nghĩ dãy nhà ở Hampstead và nhà máy cuối khu Đông cũng được giá lắm".

"Vâng, sẽ được giá lắm. Cả dãy nhà cơ quan ở cuối khu Tây nữa. Tất nhiên bà nói đúng, đây là thời cơ tốt để bán".

Ông tập trung vào những danh sách khác nhau bà đã trao cho ông, làm một con tính nhẩm nhanh. Bà đã đánh giá thấp tổng giá trị, ông chắc chắn như vậy. Những bức hoạ, bất động sản, đồ nữ trang sẽ đem lại 9 triệu bảng. Ông để tập giấy xuống, châm một điếu thuốc, nỗi lo ngại của ông tăng lên. "Emma cưng, bà phải nói cho tôi biết nếu bà có gặp khó khăn. Còn ai khác có thể giúp bà ngoài tôi? ", ông mỉm cười với bà, nghiêng người vỗ vào cánh tay bà một cách âu yếm. Ông không bao giờ có thể giận bà được lâu.

"Henry, Henry thân yêu, tôi không có khó khăn gì đâu'''', Emma trả lời với thái độ dàn hoà và chắc chắn nhất. "Ông biết là tôi không có khó khăn gì mà, chính ông cũng đã nói mọi chuyện không bao giờ tốt hơn bây giờ mà".

Bà bước lại, ngồi xuống bên ông trên sôpha và cầm lấy tay ông. "Henry này, tôi cần số tiền này vì một lý do cá nhân. Nó không liên quan gì tới vấn đề khó khăn cả, tôi đảm bảo với ông điều ấy. Xin hãy tin lời tôi, Henry, tôi sẽ nói để ông biết. Chúng ta đã là bạn của nhau trong nhiều năm và tôi đã luôn luôn tin ông, có phải thế không?". Bà mỉm cười với ông, dùng tất cả sức mạnh của sự mê hoặc, đôi mắt bà ánh lên trìu mến.

Ông mỉm cười lại và nắm chặt tay bà. "Đúng, sự thực là chúng ta luôn luôn tin nhau. Là giám đốc ngân hàng của bà, tôi biết là bà không có những vấn đề khó khăn về công việc và tiền bạc đến vậy, Emma. Nhưng đúng là tôi không thể hiểu tại sao bà lại cần đến 6 triệu bảng và bà lại không nói với tôi là để làm gì. Bà không thể nói được sao, Emma thân yêu?"

Nét mặt bà trở nên bí ẩn. Bà lắc đầu. "Không, tôi không thể nói được. Ông có thể thu xếp việc bán tài sản cho tôi được không?", bà hỏi bằng một giọng nói mang tính chất công việc nhất.

Henry thở dài: "Tất nhiên rồi, Emma. Không bao giờ phải nghi ngờ về điều đó nữa, có phải không?"

Bà mỉm cười: "Cám ơn Henry. Mất bao lâu để thanh toán cho xong?"

Ông nhún vai: "Quả thực tôi không biết. Có lẽ một vài tuần. Tôi chắc là có thể bán bộ sưu tập nghệ thuật trong tuần tới. Tôi cũng nghĩ rằng tôi có một khách hàng sẽ mua đồ nữ trang riêng, như vậy chúng ta có thể tránh được việc rao bán công khai. Bất động sản thì lại càng dễ. Vâng, tôi có thể nói nhiều nhất là một tháng".

"Tuyệt vời", Emma thốt lên. Bà nhảy lên, tiến về phía lò sưởi, đứng quay lưng lại. "Đừng đau khổ như vậy chứ, cưng. Ngân hàng cũng sẽ được tiền mà. Và cả nhà nước nữa, với tất cả thuế khoá tôi sẽ phải trả".

Ông cười: "Đôi khi tôi nghĩ bà hoàn toàn không thể nào sửa đổi đuợc, Emma Hactơ".

"Đúng thế đó. Tôi là người phụ nữ không thể nào sửa đổi được nhất mà tôi biết. Nào, bây giờ chúng ta hãy vào phòng giám đốc và ăn trưa, ông có thể kể cho tôi nghe về tất cả những bạn gái mới đây nhất của ông, và những bữa tiệc hấp dẫn ông đã dự trong khi tôi ở New York".

"Ý kiến tuyệt vời", ông nói, mặc dầu vẫn còn hoang mang vì nỗi lo lắng kỳ lạ trong khi ông đi qua phòng theo bà.

Ngày hôm sau, Emma bắt đầu cảm thấy khó ở. Cơn ho bà mắc phải ở New York vẫn còn làm bà khó chịu, ngực bà thắt lại. Nhưng phải sau một tuần bà mới chịu thua, và trong suốt một tuần ấy, bà dứt khoát từ chối thừa nhận điều gì không hay đến với sức khỏe vốn dồi dào của bà. Bà đường hoàng gạt đi sự lo lắng rối rít của Gaye và con gái Daisy. Bà không chịu đi chệch khỏi kế hoạch làm việc thường ngày và cần mẫn tới văn phòng vào lúc 7h30 mỗi sáng, trở về nhà ở quảng trường Belgrève vào 7h tối. Bởi vì bà đã quen làm việc trong phòng điều hành tại cửa hàng cho đến tận 8h30 và đôi khi đến 9h đêm, bà cảm thấy việc về nhà sớm như thế này là cả một sự nhượng bộ lớn.

Đôi khi vào cuối ngày, bà nhìn hàng núi giấy tờ quyết toán, những báo cáo chứng khoán, giấy cổ phần và những chứng từ hợp pháp, bà ho rũ rượi. Cơn ho làm bà kiệt lực, yếu đi và thờ thẫn một lúc. Đối với Emma, cơn ho xé ruột này là một triệu chứng xấu. Tuy nhiên bị thôi thúc vì cảm giác cấp bách nên bà vẫn tiếp tục. Đống giấy tờ hợp pháp do các cố vấn pháp luật của bà chuẩn bị theo yêu cầu là mối quan tâm lớn nhất của bà. Chúng trải ra trước mặt bà trên chiếc bàn làm việc khổng lồ vẫn còn đợi để hoàn thành. Bà nghĩ: ta sẽ không làm xong nổi. Không còn đủ thì giờ nữa. Đầu óc bà bỗng ngưng đọng lại vì cơn hốt hoảng chợt đến. Những cảm giác tê liệt về tinh thần này chỉ thoáng qua thôi, và bà tiếp tục làm việc, đọc và ghi chú. Trong khi làm việc, một ý nghĩ nảy ra trong đầu bà: những tư liệu này phải không thể đảo ngược, không thể huỷ bỏ được. Nó phải thật kín kẽ. Mình phải chắc chắn, hết sức chắc chắn là không bao giờ có thể bị tranh đoạt tại một phiên toà.

Một đêm vào cuối tuần, bà đang làm việc ở bàn trong cơn sốt hừng hực, bà bỗng có một sự thôi thúc đột ngột và hoàn toàn không thể cưỡng lại được là đi xuống cửa hàng. Lúc đầu, bà gạt bỏ ý nghĩ đó, coi như một sở thích chốc lát ngốc nghếch của một người già đang cảm thấy yếu đuối, nhưng ý nghĩ đó dai dẳng đến nỗi bà không thể phớt lờ đi được. Bà có một nỗi ao ước không thể cắt nghĩa được, một nhu cầu phải đi qua những căn phòng lớn, thênh thang phía dưới, y như thể tự đảm bảo với mình về sự tồn tại của chúng. Bà chậm chạp đứng lên, xương cốt run lên vì cơn sốt rét và cái đau trong lòng ngực. Sau khi xuống thang máy và nói với người gác trực nhật, bà đi qua phòng giải lao dẫn tới những gian hàng ở tầng trệt. Bà do dự ở ngưỡng cửa gian hàng bán đồ kim chỉ, nhìn cái cảnh im lặng như ma quái trải ra trước mắt bà. Ban ngày, nó lóng lánh dưới những chùm đèn khổng lồ, những quả cầu pha lê hắt ra những tia sáng rực rỡ. Giờ đây trong bóng tối và trong yên lặng của đêm, nó như một khu rừng hoá thạch, ngưng lại trong thời gian và không gian bất động, giá băng và không sức sống. Bà di chuyển lặng lẽ qua sàn trải thảm cho đến khi tới phòng lớn chứa thức ăn, một dãy phòng hình chữ nhật rộng thênh thang, phòng nọ thông sang phòng kia qua những cửa hình cung kiến trúc theo kiểu tu viện thời trung cổ. Đối với Emma, những phòng lớn chứa thức ăn luôn là cốt lõi của cửa hàng, bởi vì thực chất, nó là bắt đầu của tất cả, hạt giống nhỏ mà từ đó dãy cửa hàng Hactơ đã lớn mạnh và nở hoa để trở thành một đế quốc kinh doanh hùng mạnh như ngày nay. Tương phản với những khu khác của cửa hàng, ở đây, đêm cũng như ngày, những chùm đèn treo chiếu ánh sáng băng giá toả xuống từ trần và vòm giống như những nhũ đá khổng lồ, nó làm cho những phòng bên mang một ánh sáng lóng lánh ban sơ. Bà đi từ phòng này sang phòng khác, quan sát những trưng bày thức ăn, những sản phẩm của người sành ăn, những của ngon vật lạ nhập từ khắp nơi trên thế giới, món ăn hoàn hảo của Anh, các loại rượu nhiều đến kinh ngạc. Bà hết sức tự hào về tất cả. Emma biết rằng không có phòng thức ăn nào, không một cửa hiệu nào trên thế giới có thể sánh kịp nơi đây. Bà mỉm cười một mình, lòng mãn nguyện hoàn toàn và sâu sắc. Mỗi một gian, mỗi căn phòng là một khiếu thẩm mỹ bẩm sinh của bà, óc tổ chức đầy sáng tạo và sự cần mẫn tạo nên. Nói chung, các xí nghiệp nhà Hactơ không ai dám tự hào có được chút sáng tạo gì ngoài chính bà. Quả vậy. Lòng bà tràn đầy sảng khoái, mãn nguyện đến nỗi cơn đau trong lồng ngực đã tan biến đi. Khi bà tới gian hàng lớn, một hình ảnh tưởng tượng của cửa hàng đầu tiên ở Lidơ thoáng qua trước mắt bà và lập tức rõ ràng trong mọi chi tiết. Nó thôi thúc quá khiến bà sững người. Cái cửa hàng nhỏ bé đã làm nảy sinh ra tất cả, nó thật nhỏ nhoi, vô ý nghĩa làm sao so với cái kiến trúc cao sang, lịch sự và giàu có này. Bà lặng yên, cảnh giác, căng thẳng, nghe ngóng, y như thể bà nghe được những âm thanh từ xa xưa trong cái yên lặng của đêm nay. Những kỷ niệm đã quên lãng, nỗi buồn thương se sắt xô về mạnh mẽ và rành rọt. Những hình ảnh không còn mờ đục và bị bỏ rơi nữa, tạo thành những hình thể sống động. Khi bà lướt bàn tay lên quầy hàng bằng gỗ sồi nhẵn bóng, hình như ngón tay bà chạm vào mặt quầy hàng bằng gỗ thông thô nhám ở cửa hàng cũ. Bà như có thể ngửi thấy mùi gắt của xà phòng giặt bà đã dùng để cọ cửa hiệu của mình. Bà có thể nghe tiếng lách cách khe khẽ của chiếc máy tính tiền cũ kỹ mua lại trong khi bà vui sướng tính toán những số tiền bán hàng còm cõi của mình.

Ôi, bà yêu làm sao cái cửa hàng nhỏ bé nghèo nàn chật chội đó, đầy những thức ăn và mứt làm lấy, những chai bạc hà, những lọ đá đựng đầy đồ ngâm dấm và gia vị. "Ai có thể nghĩ được rằng nó sẽ trở thành như thế này?" Emma nói to, tiếng nói của bà vang vọng trở lại trong cái yên lặng của căn phòng không người. "Mình tìm được nghị lực ở đâu?". Trong giây lát, bà bàng hoàng. Bao nhiêu năm trời bà không hề nghĩ đến những thành tựu của bà, lúc nào cũng quá bận với công việc, không có lúc nào rảnh rang để lục lại sự thành công của mình. Từ lâu bà đã để công việc đó cho những người cạnh tranh, những đối thủ của bà. Vì sự ăn ở hai lòng và sự tàn nhẫn của chính họ, họ sẽ không bao giờ có thể hiểu được sản nghiệp nhà Hactơ lại được xây dựng trên một cái gì đó cơ bản như sự lương thiện, lòng dũng cảm mãnh liệt, lòng kiên nhẫn và đức hy sinh.

Đức hy sinh. Cái từ đó đọng lại trong óc bà như một con ruồi bị kẹp trong hổ phách. Bởi vì quả thật bà đã hy sinh to lớn để đạt tới sự thành công không thể nào sánh được, của cải không thể lường được và quyền lực không thể phủ nhận được trong thế giới kinh doanh quốc tế.

Bà đã hy sinh cả tuổi thanh xuân, gia đình, cuộc sống gia đình, rất nhiều hạnh phúc cá nhân, tất cả thời giờ nhàn rỗi và vô vàn những thú vui nhỏ bé phù phiếm nhưng cần thiết mà hầu hết phụ nữ đều thích.. Với sự nhận thức to lớn, bà nhận ra tầm quan trọng của sự mất mát, một phụ nữ, một người vợ và người mẹ. Emma để cho những giọt nước mắt tuôn rơi không kìm lại và nỗi đau đớn của bà trôi theo dòng lệ. Chỉ một lát sau bà lại hoàn toàn làm chủ được mình, bà lấy làm hổ thẹn đã nhượng bộ trước những tình cảm tiêu cực đó, cho sự thương thân trách phận, bà khinh miệt sự yếu đuối ở những người khác và đó là một thứ tình cảm không quen thuộc trong con người bà. Bà suy nghĩ một cách tức giận: ta đang sống cuộc sống chỉ riêng mình ta tạo ra. Bây giờ ta không thể thay đổi được gì hết. Ta chỉ có việc đi tới cùng.

Bà đứng thẳng người lên, thẳng lưng và kiêu hãnh: quá nhiều trong con người ta đã dành cho cái đó. Ta sẽ không để nó lọt vào tay những kẻ không xứng đáng, những bàn tay cẩu thả sẽ xé nát cả cơ đồ. Ta phải vạch kế hoạch, phải điều khiển, hành động là đúng. Không phải chỉ vì quá khứ, và vì những cái đã lấy mất của ta mà còn cho cả tương lai và cho những người đã làm việc ở đây, đã tự hào về cửa hàng này như ta vốn tự hào.

Sự kiện của mấy tuần qua đã cho bà thấy mối bất hoà to lớn về việc kiểm soát công cuộc kinh doanh và sự phân chia tài sản sẽ nảy sinh trong gia đình sau khi bà chết, trừ phi bà phải đập tan những phần tử bất đồng quan điểm trước khi bà chết. Bây giờ bà sẽ hoàn thành những tài liệu hợp pháp cuối cùng, nó sẽ ngăn chặn được việc phân tán cửa hàng và đế quốc kinh doanh mênh mông của bà, những tài liệu được hoạch định một cách cẩn thận, nó sẽ giữ gìn bất di bất dịch tất cả và sẽ chuyển đến tay đúng người, bàn tay của những người do bà chọn.

Sáng thứ Hai, cơn đau thắt ở ngực bà quá dữ dội và hơi thở của bà suy yếu đến nỗi Emma không thể rời giường. Chỉ mãi đến lúc ấy bà mới để Paula gọi bác sĩ Roger đến. Cuối tuần trước hầu hết các tài liệu đã được ký, được chứng thực và đóng dấu. Bây giờ Emma cảm thấy bà có thể cho phép mình được ốm. Sau khi bác sĩ khám cho bà, ông và Paula tụm lại ở một góc phòng ngủ của bà, nghe giọng nghẹn lại và hầu như không nghe thấy. Bà nghe lỏm được một vài chữ. Bà đã ngờ ngợ là mình bị sưng phổi và điều bà nghe được chỉ xác nhận thêm sự chẩn đoán của chính bà. Sáng hôm sau, họ đưa bà bằng xe cấp cứu tới bệnh viện London, nhưng trước đó bà đã moi được lời hứa của Paula đêm Henry Rositer đến gặp bà ngay hôm đó. Ông tới, kinh hoàng thấy bà đang thở oxy, các loại dụng cụ y tế bao quanh, rối rít các y tá khử trùng và các bác sĩ đầy quan tâm. Bà cười thầm trước khuôn mặt trắng bệch và cặp mắt lo âu của ông đã phản lại ông một cách dễ dàng, bởi vì bà đã nhận ra được Henry phụ thuộc vào bà, hay chính xác hơn vào công việc của bà. Ông nắm tay bà và nói chẳng bao lâu nữa bà sẽ khỏi. Bà cố đáp lại cái nắm tay ấy, nhưng bà cảm thấy quá yếu, bàn tay không nhúc nhích trong tay ông. Với một cố gắng to lớn, bà thì thào hỏi ông là mọi chuyện có ổn không. Nhưng ông hiểu lầm, ông nghĩ là bà muốn hỏi về bệnh tình của mình trong khi thực tế, bà muốn hỏi về việc thanh toán tài sản của bà mà ông đang thực hiện. Ông tiếp tục nói những lời an ủi, nói đi nói lại là chẳng bao lâu nữa bà sẽ lại trở về nhà, cho đến khi bà bực bội sôi lên với một nỗi tức giận bất lực.Lúc ấy Emma mới nhận ra rằng bà hoàn toàn cô đơn cũng như lúc nào bà cũng vẫn luôn luôn cô đơn khi những vấn đề trọng đại nảy sinh. Qua tất cả những bước thăng trầm của cuộc đời, mỗi khi bà phải đương đầu với những vấn đề nghiêm trọng nhất, bà hoàn toàn bị bỏ rơi và vì thế, buộc phải phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn sức mạnh của chính mình. Và bà biết, bà chỉ có thể dựa vào chính mình lúc này để hoàn thành một số ít công việc còn lại để có thể giữ gìn được cơ nghiệp và triều chính của mình. Để làm được như vậy, bà phải sống và bà quyết định không chịu khuất phục trước cái căn bệnh lố bịch này, nó tràn ngập cơ thể yếu đuối già nua của bà. Bà sẽ sống và sẽ thở dù cho có phải dùng tới hết sức mạnh của mình. Bà đã đem tất cả sức lực của ý chí để chịu đựng. Không còn nghi ngờ gì nữa, nó sẽ là cố gắng to lớn nhất của ý chí mà chưa bao giờ bà phải dùng đến, nhưng bà sẽ buộc mình sống.

Mặc dù vậy, bây giờ bà mệt, rất mệt. Mơ màng ở xa xa bà nghe thấy những cô y tá yêu cầu Henry đi ra. Bà được đưa một ít thuốc và liều oxy lại dựng chung quanh bà. Bà nhắm mắt lại, ngủ thiếp đi và trôi nổi bềnh bồng. Bà cảm thấy mình trẻ lại, trẻ lại mãi. Bà lại trở thành một cô gái 16 tuổi, trở về Yorkshire, chạy trên vùng đồng hoang thân yêu, trên làng Feli, tới Đỉnh của thế giới. Những cây thạch nam và dương xỉ cọ vào chân nàng, gió thổi tung chiếc váy dài của nàng, tóc nàng như một suối lụa bay phía sau khi nàng chạy. Bầu trời xanh như vùng cận thuỷ cự, và những con chim sơn ca hướng về phía mặt trời. Lúc này, nàng đã nhìn thấy Edwin Feli đứng bên những tảng đá lớn ngay dưới bóng vách đá cheo leo Ramxden Ghin. Khi anh trông thấy nàng, anh vấy tay và tiếp tục trèo về phía vách đá, nơi họ luôn ngồi tránh gió, ngắm cuộc đời ở phía dưới. Anh không nhìn lại mà tiếp tục leo lên. "Edwin! Edwin! Đợi em với", nàng gọi, nhưng tiếng nàng bị gió thổi bạt đi và anh không nghe thấy. Khi tới được Ramxden Crăc, nàng mệt đứt hơi, khuôn mặt xanh xao của nàng bừng lên vì ráng sức. "Em chạy ghê quá, em tưởng em chết mất", nàng hổn hển trong khi anh đỡ nàng lên bờ đá. Anh mỉm cười: "Em không bao giờ chết, Emma ạ, cả hai chúng ta sẽ sống mãi mãi, ở đây, trên Đỉnh của Thế giới này".Giấc mơ tan vỡ thành muôn nghìn mảnh và dần dần phai đi khi bà chìm trong giấc ngủ sâu.Emma sống. Mọi người đều nói đó là một điều thần kỳ. Một người đàn bà 78 tuổi có thể sống được qua cơn bệnh sưng phổi và những biến chứng phức tạp tiếp theo của nó lần này. Họ cũng biểu lộ sự kinh ngạc trước khả năng phục hồi sức khỏe không thể tưởng tượng nổi của bà đã khiến bà có thể rời bệnh viện London sau 3 tuần. Emma, khi nghe những lời bình luận này, không nói gì hết, bà chỉ mỉm cười một cách bí hiểm và nghĩ thầm: A, thế nhưng họ không nhận ra rằng ý chí sống là sức mạnh lớn nhất trên đời này.Sau 2 ngày nghỉ ngơi tại ngôi nhà của bà ở Belgravia, bà nóng lòng rời khỏi giường và bất chấp lời khuyên của bác sĩ, bà xuống cửa hàng. Đây không phải là một hành động thách thức ngu xuẩn như ngó bộ ở phía ngoài, bởi vì mặc dù bà có thể theo kinh nghiệm nhưng không phải là liều lĩnh, và bà cũng biết rõ cơ thể của mình. Bây giờ bà tự biết mình đã hoàn toàn bình phục. Bà được những người làm công tiếp đón nồng nhiệt, hầu hết đều yêu quý bà. Họ coi việc bà trở lại đột ngột là điều chắc chắn. Paula hồi hộp lăng xăng xung quanh bà, nâng giấc, lo lắng và quan tâm.

"Bà mong cháu đừng rối rít lên, cháu cưng của bà", Emma nói khi Paula đi theo bà vào văn phòng. Cô lẩm bẩm nói gì đó về chuyện nguy hiểm cho sức khoẻ của bà. Emma cởi chiếc áo khoác lông bằng vải tuyt và đứng sưởi ấm đôi tay trước lò sưởi một lúc, rồi bước qua phòng, dáng đi xăm xắn theo thường lệ, bước đi nhún nhảy, tư thế hoàn toàn đường bệ.

Con sóng đen choáng váng và thất vọng đã nhấn chìm bà sau khi Gaye tiết lộ chuyện mưu mô của lũ con bà đã lắng xuống, mặc dù chậm chạp và đau đớn, nhưng chúng đã hết hy vọng. Tội lỗi đốn mạt chó thể rút từ cuộc trò chuyện đáng nguyền rủa trên cuốn băng và sự chấp nhận cái phản phúc của chúng chỉ tôi luyện thêm trí óc của bà. Bà nhìn sự vật với tính khách quan lạnh lùng và sáng láng, đúng như nó vốn có, không bị những xúc động không cần thiết bao phủ. Trong lúc ốm đau, bà đã vận dụng ý chí sắt thép của mình, chiến đấu ngoan cường để sống. Bà đã biết hoà hợp với mình. Và một nỗi bình yên to lớn một hôm đã ùa vào con người bà như một luồng ánh sáng ấm áp, nó đem lại cho bà niềm an ủi và làm sống lại sức mạnh bên trong của bà. Hình như sự đụng chạm với cái chết đã làm bà mạnh mẽ tinh thần và lòng dũng cảm không gì có thể bẻ gãy được của bà. Sức lực của bà đã quay trở lại, tiếp theo là một sự bình yên, trầm tĩnh bao quanh lấy bà như một vỏ bọc.Bà ngồi vào vị trí của mình sau chiếc bàn lớn Georgia khảm lại, trở về với cương vị người chỉ huy. Bà mỉm cười với Paula: "Bà hoàn toàn bình phục rồi, cháu ạ", bà nói một cách rạng rỡ và chắc chắn. Và trông bà quả là như vậy, mặc dầu một phần là do cái ảo tưởng bà đã khéo léo tạo nên sáng hôm đó. Nhận thấy ánh xanh xao và những nét mệt mỏi quanh mắt và khoé miệng trong khi mặc quần áo, bà đã tránh màu sẫm ưa thích mà chọn trong tủ chiếc áo màu san hô, chiếc áo bằng len mềm, cổ trùm đầu gấp lại quanh cổ. Bà biết rõ là cái màu ấm áp và cái mềm mại của đường viền cổ rất ăn với nét mặt của bà, và một chút điểm trang cẩn thận, bà đã làm tăng tác dụng lên rất nhiều. Một nét khoẻ mạnh trong con người bà khiến Paula không thể không nhận thấy.

Paula nhận ra được rằng điều này được tạo nên bằng phương cách giả tạo tới một chừng mực nào đó, cô luôn luôn biết những cách thức muôn vẻ khác nhau mà bà cô sử dụng. Cô mỉm cười một mình. Thỉnh thoảng bà của cô rất quỷ quái, tuy nhiên cô cũng cảm thấy được một sự rung động thực sự, một năng lực, một mục đích mới. Khi cô ngắm nhìn bà cô kỹ lưỡng, cô cũng phải thừa nhận rằng Emma chính là bản thân cô. Thậm chí còn hơn thế nữa, cô nghĩ, y như bà đã hoàn toàn thanh xuân trở lại.Cô mỉm cười với bà và nói nhẹ nhàng y như có pha một chút trách móc: "Cháu biết bà rồi. Bà sẽ làm quá nhiều. Bà không được làm quá sức như hôm đầu tiên"

Emma ngả người trong ghế, thầm cảm ơn là mình đã được sống và hoạt động trở lại, trở về với công việc của mình. Lúc này bà hoàn toàn đồng ý chấp nhận mọi sự. "Ồ, bà sẽ không làm thế, cháu ạ. Bà chỉ gọi điện đôi chút và đọc cho Gaye, thế thôi. Bà sẽ nghỉ ngơi thoải mái, bà hứa vậy".

"Vâng", Paula nói thong thả, cô tự hỏi không hiểu bà có định thế thật không. Bà của cô có thể bị cuốn hút trong những hoạt động của một ngày tại cửa hàng. "Cháu hy vọng là bà giữ lời hứa", Paula nói thêm, một nét bình tĩnh trên khuôn mặt cô. "Bây giờ cháu phải đi họp với người thiết kế thời trang cho gian may mặc. Cháu sẽ tạt vào gặp bà sau, bà nhé".

"À này, Paula, bà nghĩ bà sẽ đi Penilstol Royal vào cuối tuần sau nữa. Bà hy vọng cháu có đi với bà", Emma nói với theo.

Paula dừng lại ở cửa và ngoái nhìn: "Tất nhiên ạ'', cháu thích lắm", cô reo to, đôi mắt sáng lên. "Bao giờ bà định đi?"

"Một tuần nữa, tính từ mai. Sáng sớm thứ Sáu. Nhưng chúng ta sẽ thảo luận cái đó sau".

"Tuyệt vời. Sau buổi họp cháu sẽ dọn bàn và huỷ tất cả các cuộc hẹn gặp trong ngày hôm đó. Trong chương trình của cháu không có gì quá quan trọng, vì vậy cháu có thể đi cùng bà".

"Tốt. Cháu sẽ đến uống trà với bà chiều nay lúc 4h, rồi chúng ta sẽ lập kế hoạch".

Paula gật đầu rồi rời khỏi văn phòng, một nụ cười rạng rỡ trên khuôn mặt cô khi cô nghĩ tới những viễn cảnh của ngày cuối tuần ở Yorkshire. Cô cũng hết sức nhẹ nhõm khi thấy bà đủ khôn ngoan để kéo dài thời gian phục hồi sức khoẻ bằng cách trở về ngôi nhà nông thôn của mình ở miền Bắc.

Emma giữ lời. Bà thu xếp một vài công việc giao dịch khẩn cấp, thảo luận ngắn với Gaye và cũng David Amory, chồng của Daisy và cha của Paula, cũng là tổng giám đốc điều hành những dãy cửa hàng nhà Hactơ. David là người mà Emma kính trọng và tin cậy hoàn toàn. Bà đang gọi điện thoại lần cuối cùng buổi chiều hôm ấy htì Paula bước vào căn phòng mang theo khay trà. Cô đứng quanh quất ở cửa, đưa mắt dò hỏi theo Emma. Bà ra hiệu cho cô vào bằng cái vẫy tay rồi vội vã tiếp tục nói chuyện. "Rất tốt, như vậy là đã quyết định. Con sẽ tới vào thứ Bảy, tạm biệt". Bà đặt máy xuống, bước qua phòng tới bên lò sưởi, nơi Paula đang ngồi trước một chiếc bàn thấp và pha trà.

Emma nghiêng người về phía trước, sưởi ấm đôi tay và nói: "Cô ấy là người ngỗ nghịch nhất trong tất cả, bà không dám chắc cô ta có nhận lời không, nhưng cô ta lại nhận lời". Đôi mắt xanh của bà ánh sẫm lại trong ánh lửa và một nụ cười thoáng qua trên nét mặt bà có nhiều trách móc. "Quả là nó không còn một sự lựa chọn nào", bà lẩm bẩm một mình và ngồi xuống.

"Ai cơ, bà? Bà đã nói chuyện với ai vậy", Paula hỏi và đưa tách nước trà cho bà".

"Cảm ơn cháu? Dì Edwina của cháu. Lúc đầu cô ấy không biết là có thể sắp xếp được kế hoạch hay không", Emma cười lớn nhạo báng. "Tuy nhiên cô ấy nghĩ lại và cuối cùng quyết định tới Penistol Royal. Tất cả mọi người đều tới".

Paula đang cúi trên tách trà: "Ai cơ, bà? Bà định nói gì? ", cô thoáng bối rối.

"Mọi người đều tới. Các dì, các chú bác, anh chị em họ của cháu".

Một bóng tối lướt qua mặt Paula: "Tại sao?'''', cô ngạc nhiên. "Tại sao tất cả mọi người đều phải tới? Bà biết là họ sẽ gây rắc rối. Họ bao giờ chẳng thế". Đôi mắt cô mở to và nỗi lo sợ thực sự hằn trên nét mặt cô.

Emma ngạc nhiên trước phản ứng của Paula. Bà nhìn cô một cách bình tĩnh những nói một cách gay gắt: "Không chắc như vậy đâu. Sự thật bà hoàn toàn chắc chắn là họ sẽ cư xử tốt đẹp nhất". Một vẻ gì giống như nụ cười điệu thoáng qua trên khoé miệng Emma. Bà ngồi lại, vắt chân lên một cách quả quyết và uống trà, nhìn một cách hờ hững: "Ồ, có chứ, bà tuyệt đối chắc chắn điều đó, Paula ạ". Bà kết thúc một cách dứt khoát, nụ cười điệu nở thành một nụ cười tự tin.

"Ôi, bà, tại sao bà lại như thế?", Paula kêu lên, cái nhìn với Emma đầy vẻ trách móc. "Thế mà cháu cứ nghĩ là chúng ta có thể mong chờ một ngày cuối tuần vui vẻ thoải mái". Cô ngừng lời và cắn môi. "Bây giờ thì mọi sự hỏng bét cả. Những anh chi em họ thì cháu chẳng phiền lòng, nhưng những người khác. Ừ, Kit và Robin, và những người khác hầu như là không thể chịu nổi khi họ ở cùng nhau". Cô nhăn mặt khi nghĩ tới ngày cuối tuần cùng các dì, các chú bác của cô.

"Cháu hãy tin bà, cháu cưng", Emma nói nhẹ nhàng nhưng đầy sức thuyết phục khiến nỗi lo ngại của Paula bắt đầu giảm bớt đi.

"Vâng, thôi được, nếu bà thích như thế. Nhưng nó sớm quá, ngay sau khi bà mới ốm dậy. Bà có nghĩ là bà có thể chịu đựng được một nhà đầy những...đầy những người không?", giọng cô kéo dài ra tội nghiệp, trông cô đau khổ và bơ vơ.

"Họ không phải là những người, có phải thế không nào, cháu cưng? Tất nhiên là không rồi. Chúng ta không thể gạt bỏ họ đi như vậy. Xét cho tới cùng, họ cũng là gia đình của bà".

Paula nhìn chằm chằm vào bình trà, bối rối một cách mơ hồ. Cô liếc nhìn nhanh Emma, bởi vì cô đã để ý tháy một nét giễu cợt cay độc trong giọng nói của bà. Nhưng nét mặt của Emma không biểu lộ điều gì. Bà đang có mưu kế gì đây? Paula suy nghĩ, trong lòng hơi hốt hoảng. Nhưng cô lập tức gạt đi, tự mắng mình quá đa nghi. Cô cố nở một nụ cười rạng rỡ và nói: "Vâng, cháu rất mừng là bố mẹ cháu sẽ đến. Hình như đã lâu lắm cháu không được gặp bố mẹ cháu nhiều, vì cháu đi hết nơi này đến nơi khác". Cô do dự, ngó nhìn sang Emma một cách tò mò rồi vội vã hỏi: "Sao bà lại mời toàn thể gia đình?

"Bà nghĩ sau trận ốm, được nhìn thấy tất cả các con cháu cũng là một điều rất thú vị. Bà cũng không gặp họ được nhiều, cháu ạ", bà trả lời một cách hiền lành rồi hỏi: "Có phải đúng thế không nào?"

Khi Paula đáp lại cái nhìn chằm chằm của bà, cô nhận ra, với một sự choáng váng bất ngời, rằng mặc dù giọng nói dịu dàng của bà, nhưng mắt bà lạnh và cứng như viên ngọc lục bảo Mc Gill lớn lóng lánh nơi ngón tay bà. Một thoáng sợ hãi len vào tim Paula bởi cô nhận ra cái nhìn ấy. Nó rắn như kim cương và cũng nguy hiểm.

"Vâng, cháu cũng nghĩ là bà không gặp họ luôn", Paula nói khẽ nghe như một tiếng thì thào, cô không dám dò thêm nữa và cũng e ngại, không dám khẳng định điều ngờ vực của mình. Và cuộc nói chuyện chấm dứt ở đó.

Một tuần sau vào lúc bình minh, họ rời London đi Yorkshire, lái xe ra ngoài thành phố trong cơn mưa phùn lạnh lẽo. Nhưng khi chiếc Roll Royce rú lên trên trên con đường hiện đại đã thay thế cho con đường Bắc lớn thì thời tiết bắt đầu khá hơn. Mưa đã tạnh và mặt trời ló ra sau những đám mây xanh xám. Emma và Paula trò chuyện linh tinh một đoạn đường, sau đó Emma gà gật ngủ còn Paula thì lo lắng về ngày cuối tuần sắp đến mà mặc dù sự cam đoan của bà cô là không có chuyện gì hết, nhưng ngày ấy vẫn lù lù phía trước như một cơn ác mộng. Cô nhìn lờ mờ ra ngoài cửa sổ, lòng bối rối khi nghĩ tới những bà dì, chú bác của cô. Kit, tự cao tự đại, khoa trương và Paula thấy đó là một con người lươn lẹo đầy tham vọng, một con người mà lòng căm ghét được che đậy bằng vẻ thân mật giả vờ. Và ông ấy sẽ đi cùng June, bà vợ lạnh lùng băng giá, người mà cô và người anh họ Alexandre đã đặt cho biệt danh là "Tháng Chạp" khi họ còn bé. Một người đàn bà lạnh lẽo không hề có một chút hài hước, con người mà qua bao năm tháng đã trở thành một phản chiếu tẻ ngắt của Kit. Rồi đến ông cậu Robin, đúng là một điều rắc rối nữa. Đẹp trai, cay độc, nói năng giảo hoạt và truỵ lạc một cách lạ lùng. Cô luôn luôn nghĩ ông ta như loài bò sát nguy hiểm, tất cả cái duyên dáng và mượt mà của ông chỉ càng đẩy cô ra xa. Cô đặc biệt ghét ông cậu bởi vì ông đối xử với bà vợ Valery khá xinh đẹp của mình bằng một sự khinh miệt băng giá, một sự rẻ rúng gần giống một sự tàn nhẫn thực sự. Bà dì Edwina của cô là một cái gì không thể hiểu được bởi vì Edwina để hầu hết thời gian lõm bõm đến tận đầu gối trong những vùng đầm lầy Ailen cùng với những con ngựa của bà. Paula nhớ tới bà như một người phụ nữ hãm tài, sĩ diện, tẻ nhạt và đanh đá, không tài nào biết trước được, tính õng ẹo của dì như đâm vào thần kinh Paula.

Cô thở dài. Bức tranh của Penistol Royal hình thành trong đầu cô, ngôi nhà cổ thân yêu ấy đẹp và ấm áp làm sao, ngôi nhà cô yêu thương cũng như Emma yêu thương nó. Cô hình dung ra mình cưỡi ngựa phi ngược lên vùng đầm lầy trong bầu không khí thanh sạch và rồi hoàn toàn bất ngờ, cô nhìn thấy khuôn mặt của Jim Feli. Cô nhắm mắt, trái tim thắt lại. Cô không dám nghĩ tới chàng nữa. Cô không được nghĩ tới chàng. Cô làm mình trở nên cứng rắn đối với những tình cảm xao động. Đau đớn quất vào cô mỗi khi những kỷ niệm với chàng lại xô về. Paula mở mắt và nhìn ra ngoài cửa sổ, quyết tâm đóng chặt tâm hồn mình với Jim Feli. Tình yêu của cô. Tình yêu duy nhất của cô. Điều ngăn cấm đối với cô vì quá khứ của bà cô. Một lát sau, cô liếc nhìn đồng hồ. Họ đã qua Gratham tiến về Dolcaster rất đúng giờ. Cô đổi thế ngồi và nhắm mắt lại.Nửa giờ sau, Emma cựa mình và ngồi thẳng lên. Tỉnh hẳn và tươi tắn, bà khẽ nghiêng người nhìn ra ngoài cửa sổ và mỉm cười lặng lẽ một mình. Bà luôn luôn biết khi bà ở Yorkshire. Đó là nơi cội rễ của bà, và xương thịt của bà đáp lại với một sự hiểu biết tiền kiếp và cảm nhận về nơi chốn đó. Nơi chốn của bà, nơi chốn duy nhất bà đã thuộc về nó. Xe họ bon nhanh trên xa lộ, vượt qua tất cả những thành phố quen thuộc. Cuối cùng họ đến thành phố Sit màu xám, trầm tư, nhưng hùng tráng và giàu có, tràn đầy nghị lực, một trong những trung tâm công nghiệp lớn của nước Anh, nơi những nhà máy quần áo, xưởng len, nhà máy đúc thép, công ty cơ khí, nhà máy ximăng, những nhà máy in lớn. Thành phố của bà. Cơ quan quyền lực của bà, nền tảng của sự thành công và giàu có lớn của bà. Họ qua những cao ốc, nhà máy mà bà làm chủ, những gian cửa hàng khổng lồ mang tên bà, rồi họ lại ra con đường lớn rộng mở hướng về phía nông thôn. Trong vòng một giờ, họ đã đỗ xe sát đường rải đá cuội của Penistol Royal. Emma nhanh nhẹn nhảy khỏi xe. Trời rét căm căm, gió như kim châm thổi về từ những cánh đồng hoang, nhưng mặt trời như một quả cầu vàng trên bầu trời xanh thẳm và dưới làn gió thổi, những bông thuỷ tiên tháng Ba nở sớm đung đưa một màu vàng trên thảm cỏ xanh được cắt xén hắt xuống mặt ao. Hoa huệ xa xôi dưới sân hiên lát đá phiến. Emma hít một hơi. Nó hăng hăng mùi than bùn của đồng hoang, của mặt đất ẩm và màu xanh đang nhú của mùa xuan thiên sứ sau một mùa đông khắc nghiệt. Đêm trước trời mưa, sương vẫn bám vào cây, vào bụi, tạo cho chúng một vẻ lóng lánh nhiều màu trong ánh sáng phương Bắc dịu mát. Như thói quen, Emma nhìn lên ngôi nhà trong khi bà và Paula bước về phía đó. Và một lần nữa, bà xúc động sâu sắc vì vẻ đẹp huy hoàng của nó, một vẻ đẹp đặc biệt Anh, bởi vì không nơi nào khác có một ngôi nhà nở hoa lộng lẫy như vậy và thích ứng với phong cảnh chung quanh như vậy. Sự mở đầu của nó bắt rễ từ thế kỷ 17 và một sự đường bệ của kiến trúc thời Phục hưng hoà hợp, không thể phá huỷ nổi và bền vững với những tháp cổ có lỗ châu mai và những cửa sổ có chấn song bọc chì, hắt ra những tia sáng trên những phiến đá xám phong sương. Nhưng có một vẻ dịu dàng chen vào cái hùng vĩ. Họ không nán lại lâu ngoài hiên, mặc dù trời trong sáng, nhưng ánh mặt trời không chút ấm áp và gió thổi từ biển Bắc nhuốm mùi ẩm lạnh. Emma và Paula bước nhanh trên những bậc thềm, qua hàng rào tạo hình in lên những thảm cỏ nhung, giống như những người lính gác của một thời đã qua.

Trước khi họ tới chiếc cửa lớn bàng gỗ sồi, cửa được mở tung ra. Hilda, người quản gia, đứng trên những bậc đá. ''''Trời ơi, bà'''', chị kêu lên sung sướng, lao lên phía trước để nắm lấy bàn tay chìa ra của Emma."Chúng cháu lo cho bà quá, nhờ Trời bà đã khá hơn? Được đón bà trở về thật vui mừng. Cả cô nữa, Paula''''. Chị lại cười toe toét, đẩy tất cả vào trong nhà. "Vào đi, vào đi không có lạnh''''.

"Tôi không thể nói để chị biết là tôi sung sướng như thế nào khi được trở về nhà", Emma nói khi họ đi vào trong. "Chị thế nào, Hilda?"

"Cháu khoẻ lắm, thưa bà. Chỉ lo cho bà thôi''''.

Emma bước vào giữa căn phòng lớn bằng đá và nhìn quanh, mỉm cười một mình sung sướng. Bà để mắt nhìn bộ bàn ghế bằng gỗ sồi cũ rất đẹp, những tấm thảm buông từ trên tường xuống, những bát bằng đồng lớn đựng hoa thuỷ tiên và cây liễu tơ trên bàn ăn.

"Ngôi nhà trông đẹp quá, Hilda", bà nói với một nụ cười ấm áp. "Chị lúc nào cũng làm ăn khá lắm"

Hilda rạng rỡ: "Cháu đã pha sẵn cafe, thưa bà. Hay là cháu có thể pha trà.Nhưng có lẽ bà thích dùng chút rượu anh đào trước bữa trưa?", chị xăng xái. "Cháu đã để loại bà ưa dùng trong phòng khách trên gác".

"Hay đấy, Hilda. Chúng tôi sẽ lên bây giờ. Bữa trưa sẽ vào khoảng 1h, như vậy được không?"

"Tất nhiên thưa bà"

Paula đi theo bà lên những bậc thang cao vút. "Một lát nữa cháu sẽ tới, bà nhé", cô nói khi họ bước xuống hành lang dài dẫn tới các phòng ngủ và phòng khách trên gác. "Cháu muốn tắm rửa cho sảng khoái trước bữa ăn trưa".

Emma gật đầu "Bà cũng vậy. Bà sẽ gặp cháu ngay". Bà đi vào phòng mình và Paula tiếp tục đi xuống hành lang tới phòng cô. Sau đó, khi bà đã thay quần áo đi đường, mặc bộ đồ len nhẹ, trang điểm lại mặt và tóc, Emma đi vào phòng khách thông sang phòng ngủ. Đây là căn phòng ưa thích của bà. Một ngọn lửa bùng cháy trong lò sưởi, và Hilda đã thắp vài ngọn đèn có chao bằng lụa để cho căn phòng chan hoà một ánh sáng dịu dàng. Emma liếc mắt hài lòng khi bà bước tới lò sưởi để sưởi ấm theo lệ thường.

Khi Emma cảm thấy ấm áp hoàn toàn, bà tới chỗ bàn đứng nhỏ khay bạc đựng đồ uống và những chiếc ly pha lê. Bà rót hai ly anh đào và đem lại bên lò sưởi. Trong khi đợi Paula, bà liếc nhìn những tờ báo buổi sáng. Tờ báo của chính bà, tờ "Yorkshire buổi sáng" coi bộ khá hơn nhiều từ khi bà tuyển Jim Feli về làm giám đốc điều hành. Anh ta đã làm được nhiều thay đổi, tất cả những thay đổi ấy đã làm cho tờ báo tốt đẹp hơn lên. Anh đã sửa lại cả khổ báo và market trong sáng sủa, hiện đại hơn, cả tờ báo buổi chiều của bà nữa, tờ "Yorkshire buổi chiều", cũng do Jim điều khiển. Lợi tức quảng cáo đã tăng lên, số phát hành cũng thế. Jim Feli... Paula... Bà không thể nào nghĩ tới anh mà không nghĩ tới Paula, trong tâm tư của bà, cô gái này luôn trong hình bóng của anh như một định mệnh. Bà thở dài. Cánh cửa mở, Emma thôi không nhìn vào nội tâm của mình nữa. Bà nhìn Paula trìu mến khi cô bước vào phòng. "Bà rót một ly anh đào cho cháu rồi đây, cưng ạ", bà nói và chỉ tay về phía bàn. Paula mỉm cười vui vẻ. Cô đã thầm quyết định trong phòng riêng của mình, là cô sẽ hết sức vui vẻ với tất cả những người họ hàng khó chịu của mình cuối tuần này. Đó là điều duy nhất cô có thể làm được và trong những hoàn cảnh như vậy, bà cô cần rất nhiều sự ủng hộ trong khi những kẻ hút máu ở quanh mình, như Paula thường gọi họ, mặc dù cô chỉ gọi như thế riêng với mình hoặc với nhưng anh em họ của cô Alexandre và Emilie thôi, những người cùng chung quan điểm với cô.

"Cháu định đi chơi bằng ngựa chiều nay, nếu được", cô nói khi ngồi xuống cùng Emma bên lò sưởi. "Tuy lạnh nhưng trời đẹp quá".

Emma gật đầu thích thú. Bà muốn ở một mình sau bữa trưa và bà định bụng cho Paula đi Lidơ bịa ra một việc lăng quăng gì đó. Bây giờ thì không cần thiết nữa. "Phải, cháu nên đi, cưng ạ. Như vậy tốt cho cháu. Nhưng mặc cho ấm vào. Bà cũng định nghỉ ngơi đôi chút. Bà phải sắp xếp chỗ ngồi cho bữa ăn của cả gia đình vào tối mai rồi bà sẽ nghỉ ngơi".

"Những người khác bao giờ tới ạ?", Paula hỏi, cố ý để cho giọng nói của mình tự nhiên, bình thường.

"Bà nghĩ một số sẽ tới đêm nay. Những người khác ngày mai", giọng Emma cũng nhẹ nhàng như Paula bởi vì bà đã cảm giác thấy nỗi bất hạnh của cô gái về ngày cuối tuần, và bà cũng không muốn cho cháu đau khổ hơn là bà đã đau khổ.

"Chắc là sẽ đầy chật cả nhà, bà nhỉ. Đã bao nhiêu năm nay không tập hợp đông như thế".

"Đúng".

"Dì Elisabeth có đem chồng theo không bà?"

"Hiện nay nó có chồng à?", Emma hỏi không hề có chút ác ý.

"Bà rõ thật là", Paula cười. "Bà biết rõ là dì ấy có mà. Bá tước người Ý, Gianni"

"Hừm. Hắn là bá tước cũng như bà là giáo hoàng ấy mà", Emma nói một cách mỉa mai. "Bà thấy hắn giống một tên bồi bàn người Ý hơn". Bà uống rượu anh đào, cặp mắt xanh của bà long lanh trên ly rượu.

"Bà ạ, cậu ấy rất hay. Hay hơn dì Elisabeth nhiều."

"Cháu nói đúng. Cái anh chàng này bền hơn những anh khác, cháu thử nghĩ mà xem, bà cũng lấy làm ngạc nhiên là dì cháu còn chưa bỏ anh ta. Phải chăng cũng đã đến lúc rồi?"

Paula lại cười: "Cháu cũng không biết. Nhưng dù sao thì cuộc hôn nhân này cũng sẽ tốt hơn lần trước".

"Và hơn tất cả những lần trước nữa", Emma bình luận một cách khô khan.

Paula thích thú: "Bà cũng có nhiều chồng mà, bà".

"Không nhiều như Elisabeth, hơn nữa bà không ly dị hết người này đến người khác. Chồng của bà cũng không ngày một trẻ hơn trong khi bà ngày một già đi", Emma nhận định. Nhưng bà còn óc hài hước để mà cười. "Tội nghiệp Elisabeth, nó có một thái độ quá lý tưởng đối với tình yêu và hôn nhân. Bây giờ nó vẫn cứ lãng mạn như năm nó 16 tuổi. Bà chỉ ao ước giá như nó ổn định đi"

"Và lớn lên nữa chứ bà. Vâng, cháu chắc dì sẽ mang Gianni và hai người con sinh đôi tới. Cháu chắc dì sẽ lái xe đến tối nay".

"Ừ, chắc nó sẽ làm thế. Bà nói với nó hôm qua và nó..."

Hilda gõ cửa và nhảy vào phòng. "Thưa bà, cơm trưa đã xong", chị thông báo và nói thêm giọng tự hào: "Đầu bếp đã làm tất cả những món bà ưa thích".

Emma mỉm cười. Bà rất mến chị giữ nhà đã ở với bà 30 năm, và trong suốt thời gian ấy bà không hề có một lời nói nặng. Hầu hết cuộc đời của Hilda đã tận tuỵ với công việc của Penistol Royal, chị làm không hề phô trương mà lại rất có hiệu quả. Hilda đứng ngoài hành lang phía ngoài cửa phòng ăn. Chị giữ cánh cửa cho hai bà cháu rồi theo họ vào phòng. "Thưa bà, đầu bếp đã làm món canh rau tươi bà thích, và món cá hồi rán". Chị lăng xăng tới tủ buffet để hầu cơm bà và nói thêm: "cả khoai rán nữa. Cháu biết là bà đang ăn kiêng không dùng thức ăn rán, nhưng một lần này thì cũng chẳng sao", chị nói và múc canh vào những chiếc bát.

"Ô, nếu chị đã nói như thế, Hilda", Emma cười và nháy mắt với Paula, cô hết sức kinh ngạc vì cái nét mặt bất ngờ này của bà cô đến nỗi suýt nữa đánh rơi cốc nước đang cầm trong tay.

Chiều hôm đó, trong khi Paula phi ngựa trên những cánh đồng hoang, Emma ngồi trên gác trong phòng khách của bà và xem xét tất cả những giấy tờ hợp lệ đã được các cố vấn pháp luật của bà chuẩn bị trước khi bà ốm. Bà để một thời gian nghiên cứu chúng cẩn thận và khi đã xong, bà gọi điện cho Henry Rositer ở London.

Thăm hỏi rất nhanh theo lệ thường rồi bà nói: "Henry này, công việc giải quyết những tài sản cá nhân của tôi đến đâu rồi?"

"Tất cả các giấy tờ đã ở trước mặt tôi đây, Emma. Tôi vừa xem xét xong tất cả", ông trả lời và hắng giọng.

Emma thấy giọng nói của ông đột nhiên nghe run run và mệt mỏi. Ông bạn thân mến của mình đã già, bà nghĩ, lòng buồn bã. Bao giờ ông ấy về nghỉ chắc mình sẽ thấy nhớ thiếu rất nhiều. Bản thân Emma không hề có ý định nghỉ hưu. Bà sẽ chết ngồi sau bàn làm việc, thẳng người.

"Vâng, đúng. Tôi có tất cả đây rồi, Emma. Mọi thứ đã được bán xong, giá cả rất ổn. Thực tế là tuyệt vời. Không dưới 9 triệu pao. Không tồi, hả?"

"Tuyệt hảo. Henry! Tiền đâu?"

"Sao? Ở ngay nhà băng đây. Thế bà nghĩ nó còn ở đâu nữa, Emma thân yêu?", giọng ông nghe có vẻ giật mình, thậm chí còn có vẻ hơi sỉ nhục nữa. Emma cười thầm.

"Tôi biết là nó ở nhà băng, Henry, nhưng nó để ở tài khoản nào?", bà hỏi một cách kiên nhẫn.

"Tôi để nó ở tài khoản riêng của bà đó, E.H Công ty"

"Làm ơn chuyển khoản ngay hôm nay, Henry. Chuyển vào tài khoản hiện nay của tôi. Tài khoản cá nhân hiện nay của tôi".

Emma thấy rõ là Henry kinh ngạc. Yên lặng vài giây, rồi bà thấy ông hít mạnh. Khi đã có thể nói được, ông nói: "Emma, như vậy nực cười quá. Không ai lại để gần chín triệu bảng vào một tài khoản cá nhân. Bà đã có khoảng 200.000 ở tài khoản đó rồi. Tôi nhớ bà nói với tôi là bà cần 6 triệu bảng cho một kế hoạch cá nhân nào đó nhưng phần còn lại của số bán sẽ được dùng cho bà".

"Tôi không muốn dùng cho tôi, Henry. Tôi muốn nó ở tài khoản cá nhân của tôi", bà cười và không kìm được ý muốn trêu chọc ông tý chút. "Tôi có thể muốn đi mua sắm, Henry"

"Mua sắm!", ông nói to. "Này Emma, dù cho là bà đi nữa cũng không thể mua sắm với một số tiền như thế. Đó là một điều lố bịch nhất tôi nghe thấy bà nói trong suốt những năm tháng tôi biết bà". Ông nổi giận đùng đùng.

"Chắc chắn là tôi có thể dùng số tiền đó đi mua sắm, Henry ạ, tất nhiên là phụ thuộc vào chỗ tôi muốn mua chính xác cái gì". Emma nói một cách gay gắt, lòng thầm nghĩ óc hài hước tuyệt vời của Henry hình như tan biến vào thinh không khi ông bàn tới tiền.

"Thôi Henry, xin ông đừng bàn tới tiền nữa; Ông hãy rút tiền phí tổn trong công việc bán và thuế phải trả, còn lại bao nhiêu để cả vào tài khoản cá nhân hiện nay của tôi".

Ông thở dài tuyệt vọng: ''''Được lắm, tôi cho là bà biết rõ điều bà đang làm. Xét cho tới cùng thì đó là tiền của bà cơ mà, Emma".

"Ông nói đúng quá đi rồi", Emma nghĩ bụng

Emma vạch kế hoạch chỗ ngồi cho bữa ăn gia đình vào tối thứ 7 và chuẩn bị một thực đơn có tính gợi ý cho Hilda. Rồi sau khi khoá những tài liệu hợp pháp trong cặp, bà đi vào phòng ngủ để nghỉ ngơi. Đó sẽ là một ngày cuối tuần cực kỳ khó khăn, điều ấy thì bà hoàn toàn chắc. Tuy nhiên, bà lại không cảm thấy một nỗi lo ngại hoặc một thoáng lo âu nào mà chỉ là một sự thờ ơ lạnh lùng, sự lợm giọng tự nhiên khi bà nhìn thấy trước những cảnh buộc phải xảy ra tiếp theo bữa ăn gia đình đêm thứ 7.

Bà đã từng căm ghét những cảnh mà bản chất hung bạo và thói phù phiếm của họ vừa làm bà khó chịu vừa tức giận, bà đã cố gắng hết sức để tránh cho họ, đặc biệt là con cái họ. Mặc dù đã đoan chắc với Paula, bà biết thế nào cũng có một cuộc đấu khẩu không thể tránh khỏi trong một vài ngày tiếp theo. Bà chấp nhận sự thật này một cách cam chịu và tôi luyện cho cứng rắn để chuẩn bị. Bà không chắc có một đứa con nào của bà, ngoài Daisy, gần đây có phát triển được một sức mạnh bên trong -giúp họ chịu đựng được một sự khủng hoảng đột ngột với chút ít kiên cường. Nếu như chúng có được thì đây là một điều ngạc nhiên choáng váng đối với bà, nhưng bà sẽ vui mừng đón tiếp sự phát triển này bởi vì nó rõ ràng là làm nhẹ đi một chút điều không mấy thú vị. Đồng thời bà không phải dò xem lúc đầu chúng sẽ phản ứng như thế nào với tin tức bà đưa ra. Emma hiểu chúng quá rõ để mà biết trước và đo được phản ứng của chúng. Ngoài Daisy, người không dính dáng gì, còn lại tất cả bọn chúng sẽ lần lượt bị sốc, và tức giận vì cái tin bà sẽ thông báo. Bà nhận ra rằng bà sắp giáng một đòn nhanh và khủng khiếp, một đòn sẽ làm ảnh hưởng cả cuộc đời họ. Nhưng bà không cảm thấy bất ổn hoặc thương hại, bởi vì đó sẽ là một đòn từ thanh gươm mà họ đã buộc bà phải cầm lên và sử dụng để tự vệ.Bà cũng không cảm thấy một cảm giác tội lỗi về những kế hoạch khôn cùng bà đã hoạch định cho tương lai. Và chắc chắn là không một chút xót thương nào cho những kẻ bị ảnh hưởng nặng nề nhất. Chỉ có một nỗi buồn xé nát tâm can vùi chôn trong lòng bà, thỉnh thoảng nó lại như một vành đai thép thít quanh ngực bà. Nó nảy sinh từ niềm đau, nỗi thất vọng trong các con cái của bà, và từ nỗi kinh hoàng lạnh sống lưng khi biết là họ đã âm mưu một cách nhẫn tâm chống lại bà. Từ nhiều năm trước đây, Emma đã thôi không còn trông đợi ở tình yêu thương của họ, và bà cũng không còn tìm sự tán thành của họ, nhưng dù vậy, không bao giờ bà hình dung đưọc là bà lại có lý do để đặt dấu hỏi cho lòng trung thành của họ. Những âm mưu khủng khiếp của họ lúc đầu làm bà kinh hoàng, nhưng các phản ứng ban đầu này đã nhanh chóng được thay thế bằng sự căm giận tê dại và cuối cùng chỉ còn là sự khinh bỉ. Bà mỉm cười một cách cay độc khi nghĩ tới sự lừa lọc của họ, một sự lừa lọc non nớt, quá thiếu cái khéo léo và trí tưởng tượng mà bà đã biết ngay từ lúc bắt đầu.

Ít nhất bà đã có thể tỏ được một chút kính trọng tiết kiệm đối với chúng nếu chúng bớt lộ liễu đi và khôn ngoan lên một chút trong âm mưu của chúng. Emma luôn có khả năng đứng lùi lại và chiêm ngưỡng một đối thủ mạnh và quỷ quyệt, dù sự thán phục ấy có hằn học đến mức nào. Còn như đối với con cái của bà, bà kinh ngạc trước sự thiếu suy xét của chúng, sự khờ khạo đã đẩy chúng tới những hành động liều lĩnh tàn hại, rõ ràng đã dẫn chúng tới chỗ đánh giá thấp bà.

Bà cau mặt và hướng ý nghĩ của mình khỏi những thành viên chống đối trong gia đình bà, dồn tình yêu thương cho Daisy, Paula và những đứa cháu khác. Cuối cùng sự bình tĩnh được lập lại, bà ngủ, một giấc ngủ sâu không gợn chút ám ảnh. Bữa uống trà chiều là một nghi thức ở Penistol Royal trong nhiều năm nay. Đó là một nghi thức mà Emma ưa thích, nhưng cho dù bà không thích chăng nữa thì Hilda cũng không cho phép nó được bỏ rơi. "Bước qua xác cháu, thưa bà", chị đã kêu to khi mấy năm trước Emma đã có ý kiến là hãy bỏ cái lệ đó đi. Emma đã nhún vai và cười một cách vô vọng. Và như vậy là đúng 4h, Hilda lươts vào phòng khách tay bê một khay trà Georgia bằng bạc trang trí thanh nhã, và đồ sứ tuyệt đẹp, trong suốt khi giơ lên ánh sáng. Đi theo chị là một trong hai người hầu gái trẻ hàng ngày đến làm việc nhà, cô gái cũng mang một khay to tướng đầy thức ăn do đầu bếp chuẩn bị thật công phu.

"Để nó lên bàn một chút, Brenda", Hilda bảo, "và khiêng một trong những chiếc bàn nhỏ lại đây bên lò sưởi". Chị cũng để khay của mình xuống, thở hổn hển vì mệt, chị dừng lại chỉ chỗ cho Brenda để chiếc bàn thứ hai chỗ nào cho tiện lợi. Hai người đàn bà cẩn thận đặt những cái khay phía trước lò sưởi rồi Brenda lặng lẽ ra khỏi phòng, để Hilda sắp xếp lại cho hoàn chỉnh. Chị quan sát tác phẩm của người đầu bếp một cách phê phán, rồi nở một nụ cười thoả mãn trên cặp má hồng tròn trĩnh. Có những chiếc bánh nướng phết bơ nóng, những lát bánh mì mỏng và bơ, mứt dâu nhà làm lấy, kem cứng, bánh sandwich dưa chuột, cà chua, cá hồi hun khói, bích quy ngọt, bánh trái cây có hạnh nhân rắc lên trên. Đúng là một bữa uống trà Yorkshire cổ xưa. Hilda cẩn thận gấp những chiếc khăn ăn bằng vải gai mịn để ở mỗi đĩa một chiếc với một con dao bạc nhỏ cán ngọc và dĩa, cho thêm củi vào lửa, làm tròn trĩnh những chiếc gối, rồi nhìn quanh. Rồi chị tự nhủ là mọi thứ đâu vào đấy, chị đã hoàn toàn hài lòng, bèn gõ cửa phòng ngủ của Emma.

"Bà có thức không, thưa bà?"

"Thức, Hilda à. Vào đi".

Hilda mở cửa thò đầu vào mỉm cười. "Trà đã xong", chị báo tin. "Và cô Paula đã đi chơi ngựa về. Cô ấy dặn cháu nói với bà là cô ấy sẽ có mặt trong vài phút nữa. Cô đang thay quần áo đi ngựa".

"Cảm ơn Hilda. Tôi sẽ tới ngay".

"Thưa bà, nếu bà cần gì xin cứ bấm chuông gọi", Hilda nói thêm, rồi xuống bếp để uống trà của mình và khen ngợi đầu bếp một tiếng. Một lát sau Paula tới, đứng ở ngưỡng cửa và nín hơi, ngỡ ngàng trước cái đẹp của phòng khách. Nó yên ắng, y như thể thời gian không đi qua đó. Âm thanh duy nhất là tiếng lách cách của lửa cháy trong lò sưởi lớn. Ánh mặt trời chiếu vào qua cánh cửa sổ bọc chì cao màu vàng bụi, tắm những đồ đạc và những bức hoạ trong một làn ánh sáng dịu xốp và không gian ngát mùi hương hoa lan, dạ hương và hoa mùa xuân, tràn ngập bao bọc lấy cô trong mùi hương ngây ngất. Có một cái gì nhoi nhói trong căn phòng cổ rộng lớn này. Kỷ niệm xôn xao trong lòng cô, thấp thoáng ẩn hiện và đầy nhớ nhung. Cô lặng lẽ lướt qua sàn như sợ không dám chuyển động trong vùng yên tĩnh ấy, tiếng sột soạt của tà áo cô có thể làm ngắt quãng và phá vỡ sự yên bình êm dịu. Cô ngồi xuống một chiếc xôpha, mắt nhìn quanh phòng. Ở đây thật dễ có thể quên cái thế giới bên ngoài, một thế giới đầy đau đớn, xấu xa và thất vọng. Cô trôi nổi nhẹ nhàng bên bờ kỷ niệm, nhớ lại tuổi thơ ở nơi này, thời kỳ sung sướng cô đã sống ở đây cùng cha mẹ, các anh chị em họ và bạn bè. Và Bà. Luôn luôn có Bà. Bà của cô không bao giờ xa, luôn có mặt để lau nước mắt cho cô, cười những trò nghịch ngợm trẻ con của cô, thán phục những thành tựu nhỏ bé của cô, mắng mỏ, chiều chuộng và yêu thương cô. Bà đã tạo nên cô như ngày nay. Chính Bà đã nói với cô rằng cô đẹp, thông minh và là một con người đặc biệt. Một người độc đáo, Bà đã nói vậy. Chính bà cô đã cho cô sự yên ổn bên trong, lòng tự tin và sức mạnh. Người đã dạy cô đối mặt với sự thật không chút sợ hãi và một trái tim dũng cảm.

Cô không nghe thấy Emma bước vào, bước chân bà quá nhẹ. Cả Emma nữa, cũng dừng lại để ngắm nhìn nhưng sự chú ý của bà chỉ tập trung vào Paula. Con bé trông dễ thương quá đi, Emma nghĩ trong lòng, như một hình ảnh trong một bức hoạ cổ nào đó, xa xôi, đăm chiêu, một thiếu nữ với con kỳ lân.

"Cháu đây rồi", Emma reo lên. "Trông cháu đẹp và tươi mát quá, sau khi đi ngựa về"

Paula liếc nhìn lên nhanh, thoáng giật mình. "Ôi bà, bà làm cháu giật mình. Cháu đang ở tận đâu đâu".

Khi Paula ngồi đối diện với Emma, mắt bà sáng lên bên trên khay trà: "Trời ơi, cháu hãy nhìn tất cả khay thức ăn này. Mà chỉ còn vài tiếng nữa là đến bữa ăn chiều rồi".

Paula cười: "Cháu biết! Có lẽ bác ấy muốn bà thêm dồi dào sức khoẻ. Bà biết bác ấy rối rít lên như thế nào chung quanh bà. Bác ấy đã lên tỉnh hôm nay. Giống như bữa ăn bác ấy thường làm khi cháu còn nhỏ".

"Bà không đói chút nào", Emma lẩm bẩm. "Chị ấy sẽ phật lòng lắm nếu chúng ta không ăn gì cả".

"Cháu đói như cào đây này, bà đừng lo", Paula nói, tay cầm một chiếc sandwich lên. Trên đồng hoang trời lạnh, vì thế cháu đã phi ngựa nhiều dặm. Như vậy chắc ăn ngon miệng lắm".

Cô cắn miếng bánh. Emma nhìn tán thành.

"Bà rất mừng thấy cháu hôm nay mới bắt đầu ăn. Hình như lúc nào cháu cũng chỉ gẩy gẩy thức ăn thôi. Thảo nào mà cháu chẳng gầy thế".

Điện thoại reo. Paula nhảy lên: "Bà khỏi phải bận tâm", cô vừa nói vừa lao ngang phòng. "Có lẽ chỉ là một người nào đó trong gia đình thôi".

Cô cầm máy lên: "Bác Hilda để cháu nghe cho. Alô, Paula đây. Dì muốn nói chuyện với bà à?". Cô nghe rồi nói: "Ồ vâng. Vâng. Tốt. Tạm biệt.". Paula quay trở lại chỗ của mình trên ghế sôpha. "Dì Elisabeth. Dì sẽ đến sáng mai và mang hai con sinh đôi đến, cả chồng nữa".

"Vậy là bây giờ chúng ta biết rồi", Emma nhận xét và cười. Điện thoại lại reo. "Trời ơi, bà hy vọng họ không cùng gọi để mà nói với chúng ta khi nào họ sẽ tới. Như vậy thì sẽ tiếp tục suốt cả ngày", Emma thốt lên thiếu kiên nhẫn.

Paula vội vã đi ngang phòng nghe điện mà lúc nào cũng là do Hilda nghe trước: "Emilie, khoẻ không?", cô kêu lên khi nhận ra tiếng của người chị em họ. Họ là bạn thân của nhau. "Ồ, tất nhiên là khỏe. Bà ở ngay đây". Paula đặt ống nghe xuống bàn và gọi Emma: "Emilie đấy bà ạ, nó muốn nói chuyện với bà".

"Cháu biết Emilie rồi đó, đây có thể là một câu chuyện rất rắc rối", Emma nói với một nụ cười. Bà cầm tách trà của mình lên mang ra bàn giấy. Vừa ngồi xuống, bà nhấc ống nghe lên, nói nhanh nhẹn:

"Chào cháu, cháu có..."

"Cháu khoẻ, bà ạ", Emilie nói chen ngay bằng cái giọng trẻ trung hổn hển của cô, vẫn líu ríu như bao giờ. "Cháu không thể nói dài được. Cháu đang vội lắm đây! Nhưng cháu chỉ muốn nói với bà rằng Sarah đang từ London bay về trưa hôm nay. Cháu sẽ đem xe đến đón Sarah tại sân bay Yeadon vào 6h30, như vậy chúng cháu nhất định sẽ tới ăn bữa tối. Ồ, mà Alexandre bảo cháu nói với bà rằng có thể đến chậm. Cậu Kit rất là hung hăng với cái máy đó. Cậu ấy bảo Alexandre phải xem xét lại tất cả những con số. Alexandre nổi cáu! Vâng, dù sao thì, anh ta nghĩ là sẽ có thể có mặt ở Penistol lúc 8h, nếu như vậy không quá muộn. Cả Jonathan cũng đi xe lửa từ London tới Lidơ, nhưng Jonathan nói không cần bảo Smith đem xe đi, anh ấy sẽ kiếm taxi".

Tất cả những lời nói trên được tuôn ra thành một tràng không ngừng nghỉ, đúng kiểu của Emilie mà Emma đã quá quen thuộc. Bà ngồi lại thoải mái, ánh vui vui trong mắt, bà lắng nghe chăm chú thỉnh thoảng lại nhấp nháp trà. Emilie lúc nào cũng hấp tấp vội vàng, eo hẹp thời gian hơn cả bà. Emma thường nghĩ cô cháu gái láu táu liến thoắng của bà hình như nói với hàng loạt những dấu chấm than. Bà nói trêu: "Đối với ai đang vội, cuộc nói chuyện này hình như là rất dài, cháu Emilie yêu của bà ạ".

"Bà! Bà đừng nói thế. Cháu không thể chịu được nếu tất cả những đứa cháu ngu ngốc của bà làm cái nơi ký thác những lời nhắn gửi của họ. Mà, cháu còn một cái nữa. Philippe định cố gắng tới với cháu, nếu không anh ta sẽ cùng lái xe với Alexandre. Bà thân yêu..."Emilie ngừng lại, giọng cô thấp xuống và bỗng nhiên êm dịu đầy sức hấp dẫn du dương: "Cháu có thể xin bà một điều không?"

"Tất nhiên, cháu yêu", Emma trả lời và cố nén một nụ cười thú vị nhưng đầy âu yếm. Bà đã biết quá rõ cái giọng phỉnh phờ ấy của Emilie khi cô muốn một điều gì.

"Bà có thể cho cháu mượn một trong những chiếc áo dạ hội của bà được không bà? Tuần trước khi cháu tới Bradford, cháu chỉ mua có vài thứ thôi. Cháu không hề biết bà lại mở một bữa tiệc gia đình lớn. Cháu chẳng có gì để mặc cả. Cháu đã ngó khắp các cửa hàng ở đây hôm nay và mọi thứ đều cổ lỗ quá đi. Mà cháu thì không có thì giờ để tới cửa hàng ở Lidơ".

Emma cười: "Nếu cháu nghĩ là những quần áo trong cửa hàng là cổ lỗ thì bà cũng không hiểu cháu có thể tìm gì được ở đây, cháu cưng!", bà nói, lòng phân vân không hiểu một cô gái hoạt bát tóc vàng 21 tuổi có thể thấy được cái gì thích hợp trong tủ áo của bà.

"Cái áo sa đỏ đó! Cái áo từ Paris! Nó hợp với cháu đấy. Cả đôi giày lụa đỏ nữa", Emilie nói sôi nổi. "Cháu biết là bà không phiền lòng để cháu thử, vì thế cháu đã mặc thử cuối tuần khi cháu ở Penistol. Cháu mặc trông tuyệt vời bà ạ. Bà ơi, cho cháu mượn nhé. Cháu sẽ giữ cẩn thận mà".

"Bà đã quên cái áo ấy rồi đấy, Emilie ạ. Tất nhiên là cháu có thể mặc nếu cháu thích. Chính bà cũng không hiểu tại sao bà lại mua nó nữa. Có lẽ cháu muốn có chiếc áo ấy", Emma gợi ý một cách rộng lượng.

Emilie xuýt xoa hít hà thật mạnh vì ngạc nhiên thú vị, nhưng cô lại nói: "Ôi, bà yêu quý, cháu không thể làm như thế được". Rồi ngừng lại một chút: "Thế bà không cần nó nữa, hở bà?"

Emma cười thầm: "Không thật sự cần, Emilie ạ. Đối với bà nó hơi rợ quá. Cho cháu đấy".

"Ôi, bà, trời ơi. Cám ơn bà, bà yêu thương. Bà là thiên thần. Bà ơi...?"

"Gì thế, Emilie. Còn gì nữa thế?"

"Hỏi mượn bà đôi hoa tai kim cương cũ có phải là một đòi hỏi quá đáng không bà? Chiếc áo đó cần một chút...vâng, cần một chút gì đó phải không bà?", Emilie kêu lên một cách say sưa. "Nó cần đồ nữ trang tốt, bà có nghĩ thế không?"

Emma bật cười."Emilie, cháu thật là buồn cười quá. Bà không biết đôi hoa tai kim cương cũ là thế nào. Bà có một vật như thế à?"

"Vâng. Đôi bông tai đó. Đôi bông toòng teng đó. Bà không bao giờ đeo chúng. Có lẽ bà đã quên chúng rồi". Emilie nói, giọng cô cất cao đầy hy vọng.

"Ồ, cái đó hả. Cháu có thể đeo nó hoặc bất cứ cái gì khác cháu muốn. Mà mọi việc ở cửa hàng Bradfofd ra sao rồi?"

"Cám ơn bà, về đôi hoa tai, cháu muốn nói thế. Mọi việc ở đây rất tốt đẹp. Khi nào gặp bà, cháu sẽ kể cho bà nghe một số thay đổi. Còn thì tất cả đều yên tĩnh và buồn tẻ".

"Ồ, tuần sau cháu sẽ ở Lidơ, và nó không đến nỗi quá tồi đâu", Emma nhắc nhở. "Và chúng ta sẽ nói chuyện về những thay đổi của cháu tối nay. À, mà bọn con trai có đến muộn cũng không sao đâu. Hilda luôn làm đồ ăn nguội để ăn buổi tối những ngày thứ sáu", Emma giải thích và nói tiếp: "Mẹ cháu vừa gọi điện xong. Ngày mai mẹ cháu sẽ tới..."

"Bà, trời ơi, cháu quên đi mất!", Emilie nói chen. "cháu muốn báo động cho bà một điều khủng khiếp. Mẹ cháu vừa cãi cọ một trận ghê gớm với hai đứa sinh đôi, về chuyện một bức tượng gì đó chúng đã làm cho bà. Chúng cứ đòi mang đi, còn mẹ cháu thì nói trông nó gớm ghiếc và không để vào trong xe được. Nhưng điều đó cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên cả, với tất cả những hành lý bà ấy có mang theo. Dẫu sao thì chuyện um lên và hai đứa sinh đôi rất khổ sở, chúng muốn chuyển đến sống với bà. Cháu muốn bà biết để đón trước sự việc!". Cô thở dài thê thảm: "Một cái gia đình gì như vậy?".

"Cảm ơn cháu đã cho bà biết, "Emma nói một cách tư lự. "Nhưng thôi đừng lo những chuyện ấy bây giờ vội. Bà chắc đến khi Elisabeth tới thì hai đứa bé sinh đôi sẽ trấn tĩnh trở lại. Chúng có thể ở với bà một thời gian nếu chúng thích. Thế thôi chứ, Emilie?", Emma hỏi một cách kiên nhẫn".

"Vâng ạ. Trời! Cháu phải đi đây bà ạ. Cháu muộn lắm rồi. Tạm biệt bà, hẹn gặp bà tối nay"

"Tạm biệt...", Emma nhìn chằm chằm vào ống nghe rồi cười to. Emilie đã đặt máy xuống. Bà ngả người trong ghế, lắc đầu và vẫn còn cười. "Bà không ngạc nhiên chút nào thấy những người quản lý cửa hàng run lên khi Emilie tới. Nó là một cơn lốc".

Paula mỉm cười với Emma, gật đầu đồng ý. "Cháu biết. Nhưng nó hết sức thạo việc bà ạ. Cháu nghĩ bà nên xem xét việc đưa nó tới cửa hàn Paris trong một thời gian. Nó thật là tuyệt".

Emma rướn mắt ngạc nhiên: "Nhưng nó đâu có nói được tiếng Pháp, chứ nếu không thì bà đã cân nhắc chuyện này rồi.

"Nó có nói đấy, bà ạ", Paula ngồi thẳng lên. "Nó vẫn đang học", cô giải thích, cẩn thận thăm dò. "Cô ấy muốn đi lắm và cháu nghĩ nó có thể là câu trả lời mà bà vẫn tìm kiếm"

"Ờ, để bà nghĩ xem", Emma nói, khá hài lòng vì tin của Paula. Emilie cần mẫn, bà biết điều đó. Có lẽ đó là một giải pháp. Emilie giống như tất cả các cháu khác của bà, đã đủ lớn khôn, đều làm việc trong các công ty của Hactơ và đã tỏ ra không hề biết mệt mỏi và siêng năng trong công việc. Bà sẽ xem xét chuyện đó sau. Bây giờ bà hướng đầu óc mình vào những vấn đề cấp bách hơn. "Bà đã lập một kế hoạch chỗ ngồi cho bữa ăn", Emma bắt đầu nói và tự rót cho mình một tách trà nữa.

Paula thích thú nhìn bà: "Vâng. Bà đã bảo với cháu là bà sẽ vạch một kế hoạch mà". Paula chờ đợi.

Emma hắng giọng: "Bà nghĩ là bà đã để cho mọi người ngồi đúng chỗ của họ. Bà đã cố gắng tách những người không ưa nhau lắm, mặc dù, như bà đã nói, bà chắc mọi người sẽ cư xử với nhau tốt đẹp nhất". Bà để tay vào túi và những ngón tay của bà nắm chặt tờ giấy. Bà vẫn trù trừ không muốn đem ra và đưa cho Paula.

"Cháu hy vọng như vậy bà ạ. Đông người lắm và bà cũng biết là một vài người rất khó tính". Cô cười một cách mai mỉa. "Không thể chịu đựng được, có phải bà nói thế không?"

"Ờ, đúng thế", Emma trả lời. Bà ngả người vào xôpha,nhìn Paula chăm chú dò hỏi. "Bà cho là tất cả bọn họ đều nghĩ là bà trút hơi thở cuối cùng mấy tuần vừa rồi, có phải thế không cháu?"

Câu hỏi bất ngờ làm Paula ngạc nhiên. "Cháu không biết", cô bắt đầu một cách suy nghĩ. "Có lẽ...", cô do dự rồi sự bực bội với các bà cô, bà dì, ông chú, ông bác đã thắng thế. "Ồ, họ là những con đỉa hút máu, bà ạ", cô thốt lên một cách tức giận. "Cháu không hiểu vì sao bà lại bận tâm với họ làm gì. Cháu xin lỗi. Cháu biết họ là các con của bà, nhưng cháu rất tức giận mỗi khi cháu nghĩ tới họ".

"Cháu không cần phải xin lỗi bà làm gì, cháu cưng ạ. Bà biết quá rõ họ là thế nào chứ", Emma mỉm cười gượng gạo. "Bà không tự dối mình rằng họ tới thăm bà vì quan tâm tới bà. Họ nhận lời mời của bà chỉ vì tò mò thôi. Những con chim kền kền tới nhìn xác chết. Nhưng bà chưa chết và bà cũng không lập những kế hoạch tức thời để chết". Bà kết thúc, một âm thanh chiến thắng trong giọng nói của bà.

Paula vội nghiêng người ra nhìn Emma chằm chằm: "Thế thì tại sao bà lại mời họ, nếu bà đã rõ họ là thế nào?", cô hỏi bằng một giọng cố tình.

Emma mỉm cười một cách bí ẩn và con mắt bà trở nên lạnh lùng. "Bà muốn gặp tất cả bọn họ cùng với nhau một lần cuối cùng".

"Bà đừng nói thế. Bà đã khỏe hơn rồi và lần này cháu sẽ trông nom bà cẩn thận. Kệ xác cửa hàng và công việc", Paula kêu lên cuồng nhiệt.

"Nói lần cuối cùng, bà muốn nói là lần cuối cùng bà sẽ mời họ đến đây trong một ngày cuối tuần thế này", Emma tuyên bố. "Bà có một chút công việc gia đình phải để mắt tới, và bởi vì họ có liên quan nên họ phải đến đây, tất cả bọn họ, cùng nhau". Miệng bà mím lại thành một nét kiên quyết quen thuộc, mắt tối sẫm lại lóng lánh.

Paula quan tâm: "Bà phải hứa với cháu là bà sẽ không để họ làm bà khó chịu", cô nói và để ý thấy vẻ biểu hiện trên nét mặt Emma. "Và bà cũng không nên lo lắng về công việc gia đình cuối tuần này. Nó quan trọng đến nỗi không thể chờ đợi được sao?", cô hỏi một cách hung dữ.

"Ồ, không phải chuyện sống còn đến như vậy đâu", Emma nói và nhún vai một cách thoái thác. "Chỉ là một số chi tiết có liên quan tới quỹ tơrơt. Nó không lâu đâu và bà không để họ quấy rầy bà đâu". Một nụ cười nửa miệng thoáng qua nét mặt bà. "Thực ra mà nói, bà lại trông chờ nó".

"Cháu không chắc là cháu có mong đợi nó hay không", Paula nói một cách thận trọng. "Cháu có thể xem bản sơ đồ chỗ ngồi không ạ?"

"Tất nhiên rồi, cháu yêu", Emma nhích người để tay vào trong túi. Bà sờ nắn mảnh giấy và do dự, rồi hít một hơi dài, bà rút nó ra. "Đây", bà đưa cho Paula,chờ đợi, người cứng lại, không dám thở nữa.

Đôi mắt Paula lướt nhanh trên tờ giấy. Emma theo dõi thật chặt. Dôi mắt cô dừng lại, mở to. Các chuyển động tiếp. Lại quay trở lại chỗ cũ. Một nét nhìn hoàn toàn không thể tin được lướt qua khuôn mặt cô. "Tại sao bà? Tại sao?", giọng cô cất cao lên giận dữ và tờ giấy bay trên sàn. Emma yên lặng, đợi cho sự ngạc nhiên ban đầu qua đi, cho Paula bình tĩnh trở lại.

"Tại sao?", Paula chất vấn. Cô nhảy lện mặt trắng bệch, miệng run run. "Bà không có quyền mời Jim Feli tối mai. Anh ta không phải là người trong gia đình. Cháu không muốn anh ấy ở đây. Cháu không cho anh ấy đến đây. Cháu không cho! Cháu không cho! Tại sao bà có thể làm như vậy, bà ơi!"

Cô chạy ra cửa sổ. Emma có thể thấy cô đang vật lộn để trấn tĩnh. Đôi vai gầy của cô nhô lên, cô ép trán vào khung cửa kính, xương vai nhỏ nhô lên dưới làn áo lụa. Trái tim Emma thắt lại vì yêu thương, bà cảm thấy nỗi đau đớn của cháu cũng sâu sắc như chính đau đớn của mình.

"Cháu lại đây, ngồi xuống. Bà muốn nói chuyện với cháu, cháu thân yêu", Emma nói nhẹ nhàng.

Paula quay nhanh người lại, đôi mắt sẫm trông như màu xanh nước biển. "Cháu không muốn nói chuyện với bà, ít nhất là không phải về Jim Feli". Cô đứng sững bên cửa sổ, thách thức, oánh trách, giận dữ sục sôi. Người cô run lên, tay nắm vào nhau rồi lại mở ra hết sức kích động. Tại sao bà cô lại có thể vô ý đến thế? Mời Jim Feli đến dùng bữa tối là một điều tàn nhẫn, không đẹp và cô không bao giờ biết bà cô lại là người như thế. Cô quay lưng lại Emma và lại tì trán vào khung cửa sổ, nhìn ra những ngọn cây xanh, nhưng không nhìn thấy gì hết, cô nuốt những dòng lệ ầng ậc trong mắt.

Emma đột nhiên thấy cô trẻ trung, yếu ớt một cách thật đáng thương. Nó là điều duy nhất có giá trị mà ta yêu thương, Emma nghĩ, trái tim bà thắt lại trong yêu thương. "Trong tất cả các đứa cháu của mình, nó là đứa ta yêu quý nhất. Cuộc đời gian khổ khủng khiếp của ta chỉ đáng được đền bù lại vì niềm vui có nó. Đứa con gái này, đứa con gái mạnh mẽ, bất khuất, dũng cảm, trung thành, luôn luôn đặt những ước muốn của ta lên trên hạnh phúc riêng của nó.

"Lại đây, cháu. Bà có chuyện phải nói với cháu".

Paula ngó nhìn Emma mơ màng như đang trong một cơn choáng. Cô miễn cưỡng trở lại bên lò sưởi, đi như một người mộng du, nét mặt trống rỗng. Cô vẫn còn điên khùng nhưng sự run rẩy đã hết. Đôi mắt cô dửng dưng và đờ đẫn như hai viên đá da trời trên khuôn mặt xám màu tro. Cô ngồi thẳng cứng trên ghế, có một cái gì chất chứa không nhượng bộ trong con người cô khiến Emma kinh hoàng, bà biết bà phải nhanh chóng giải thích để cho nét nhìn ấy rời khỏi cháu gái bà mãi mãi. Emma đã lựa chọn một cách gián tiếp để thông báo cho Paula biết là bà đã mời Jim Feli đến ăn tối, bởi vì bà không tự tin ở mình khi nói ra điều đó. Nhưng bây giờ thì bà phải nói. Giải thích. Đưa cô gái ra khỏi nỗi dày vò khủng khiếp.

"Paula, bà đã mời Jim Feli ngày mai, bởi vì anh ta gián tiếp có dính dáng đến những công việc của gia đình ta, bà đã nói với cháu trước đó". Bà ngừng lại hít hơi rồi nói tiếp một cách kiên quyết hơn, nhìn đăm đăm vào mặt Paula: "Nhưng đó không phải là lý do duy nhất. Bà cũng mời anh ta đến cho cháu. Và bà có thể nói thêm là anh ta rất sung sướng nhận lời".

Paula sững sờ, không sao tin nổi. Một nét ửng sẫm nổi lên từ cổ cô làm cô mặt đỏ tía tai, miệng cô bắt đầu run rẩy. "Cháu không hiểu...mời anh ấy đến cho cháu...", cô chếnh choáng và bối rối. Trong lúc kích động, tóc cô tung ra, cô gạt nó sang bên một cách nóng nảy, lắc đầu bàng hoàng: "Bà nói gì hả bà? Bà bao giờ cũng căm ghét nhà Feli cơ mà? Cháu không hiểu?".

Emma cố gắng đứng lên, tới ngồi trên ghế xôpha. Bà cầm lấy bàn tay búp măng đẹp của Paula trong đôi bàn tay nhỏ bé cứng rắn của bà. Bà nhìn Paula, tim thắt lại khi nhìn vào đôi mắt cô, những vùng nhợt nhạt trên khuôn mặt cô đầy những đau đớn. Emma sờ khuôn mặt xanh xao ấy, bà mỉm cười dịu dàng và nói bằng một giọng thì thào khàn khàn: "Bà là một người già nua, Paula ạ. Một bà già ngang ngạnh, chiến đấu từng phân để có được những thứ như bây giờ. Mạnh mẽ, đúng, nhưng cũng mệt mỏi. Cay đắng, có lẽ là như thế. Nhưng bà cũng thu được một số khôn ngoan nào đó trong cuộc đấu tranh của bà với cuộc sống, cuộc đấu tranh để sống còn và hôm nọ bà đã tự hỏi mình tại sao lòng tự hào ngu ngốc của một bà già ngang ngạnh lại cản đường một người mà bà yêu nhất trên đời này. Bà mới thấy là mình ích kỷ, ngu ngốc và để cho những sự việc của 60 năm trước đây che mờ sự phán đoán của mình ngày nay."

"Cháu vẫn không hiểu", Paula lẩm bẩm, con mắt cô lộ sự bối rối.

"Bà đang định nói với cháu là bà không còn phản đối việc cháu gặp Jim Feli nữa. Hôm qua bà đã nói chuyện rất lâu với nó, trong đó bà đã nhận thấy được rằng tình cảm của nó đối với cháu vẫn thế. Và bao giờ nó cũng có những ý định rất nghiêm chỉnh. Trưa hômm nay bà đã nói với nó rằng nếu nó muốn cưới cháu thì không những nó được phép của bà, mà bà còn ban phước cho nó nữa. Bà ban phước cho cả hai con với tất cả tình yêu của bà".

Paula lặng người. Trí óc của cô không nhận những lời của bà nói. Từ nhiều tháng nay, cô đã căn dặn mình không được nghĩ tới Jim và cuối cùng đã thừa nhận rằng không thể có một tương lai gì cho hai người. Cô đã khắt khe với mình, đẩy tất cả mọi xúc động, mọi tình cảm sang bên, dồn nghị lực của mình vào công việc trong một nỗi đau khổ tột cùng. Qua một màn mờ mờ của những dòng nước mắt, cô nhìn thấy khuôn mặt Emma, khuôn mặt cô từng nhìn và từng thương yêu suốt đời mình. Bộ mặt ấy cô tin tưởng. Emma mỉm cười trìu mến chờ đợi, đôi mắt bà thông minh, thông cảm và đầy yêu thương. Nước mắt lặng lẽ rơi trên má Paula, cô lắc đầu: "Cháu không thể tin là bà lại thay đổi ý kiến", cô nói, giọng nghẹn ngào.

"Bà đã thay đổi ý kiến".

Mấy chữ đơn giản ấy được nói lên một cách kiên quyết và chắc chắn cuối cùng đã lọt vào đầu óc đau đớn của Paula, vào trái tim tan nát của cô. Cô bắt đầu thổn thức, cả thân hình cô rung lên, những tình cảm dồn nén đã được cởi bỏ. Cô rũ người về phía trước, với lấy Emma một cách mù loà, bà ôm cô trong tay như một đứa trẻ, vuốt ve mái tóc cô, lẩm bẩm khe khẽ với cô y như bà vẫn từng làm ngày nào khi cô còn bé dại. "Không sao mà. Thôi nín đi con. Bà hứa với con là không sao đâu".

Cuối cùng tiếng nức nở đã lắng đi. Paula ngước lên nhìn Emma, nụ cười run rẩy trên mặt nàng. Emma lấy tay lau nước mắt cho nàng, nhìn nàng chăm chú và nói: "Bà không bao giờ muốn thấy con bất hạnh nữa chừng nào bà còn sống. Bà đã có đủ nỗi bất hạnh cho cả hai chúng ta rồi".

"Cháu không còn biết nói thế nào. Cháu tê dại. Cháu không thể nào tin được điều ấy", Paula trả lời lặng lẽ. "Jim. Jim ơi!".

Emma gật đầu: "Bà biết tình cảm của cháu", bà nói, đôi mắt mệt mỏi của bà sáng lên. "Nào, sao bây giờ cháu không giúp bà một việc, đi gọi Jim đi nào. Nó vẫn còn ở chỗ toà báo đấy. Sự thật là nó đang đợi cháu. Nếu cháu muốn thì mời nó đến ăn cơm tối nay. Hay là tốt hơn nữa hãy lái xe đi Lidơ, ăn bữa tối với nó. Bà đã có Emilie và Sarah đer nói chuyện rồi, và có lẽ Alexandre và những người khác cũng tới kịp để ăn bữa tối". Bà cưới nói, đôi mắt bà long lanh. "Bà còn có các cháu khác mà, cháu biết đó". Paula ôm và hôn bà, rồi cô đi, bay ra khỏi phòng không nói thêm một lời nào nữa.

Cánh chắp cho đôi chân con bé, Emma nghĩ, để đi tới chỗ người yêu. Bà ngồi một lúc trên xôpha, đầu óc ngổn ngang những ý nghĩ về Paula, Jim và biết bao nhiêu điều khác. Rồi bà bất chợt đứng lên, đột ngột đi về phía cửa sổ, duỗi chân tay đã cứng lại của mình, lấy tay vuốt nếp áo, sửa lại mái tóc. Bà mở cánh cửa sổ bọc chì và nhìn ra ngoài.

Phía dưới, ở trong vườn, các cây cối lung linh trong không khí buổi chiều dịu mát, mọi thứ đều xanh sẫm và lặng ngắt như tờ. Không một ngọn cỏ, không một chiếc lá nào lay động, chim muông cũng im tiếng hót. Bà có thể thấy những bông thủy tiên nhanh chóng bạc mất màu sắc rực rỡ, nhợt đi thành màu trắng khi mặt trời đã lặn và những hàng rào cây tạo hình dần dần ngả màu đen. Bà đứng đó thật lâu trong buổi chạng vạng, nhìn hoàng hôn dần xuống khi ánh sáng pha lê ở phương Bắc nhạt phai phía sau dãy đồi thấp ở chân trời. Sương mù bềnh bồng trôi vào trong vườn, bọc lấy tất cả mọi thứ trong một tấm khăn san hơi nước màu trắng đục đột ngột dâng lên, làm tối lại những hàng cây, những bụi cỏ và hàng hiên cổ, cho đến khi tất cả những hình ảnh ấy hoà lại cùng nhau.

Emma run run khép cửa sổ lại, quay trở vào cái ấm áp và tiện nghi của căn phòng. Bà bước qua tấm thảm, cầm que cời lửa và thêm những khúc củi vào lò sưởi để tạo nên ngọn lửa reo vang mà bà ưa thích.

Bà ngồi bên lò sưởi nhìn vào ngọn lửa, hài lòng và yên ổn, những kỷ niệm đã quên lãng của tuổi trẻ ùa vào tâm trí bà trong khi bà chờ đợi những đứa cháu khác tới. Bà nghĩ đến gia đình Feli. Bọn họ giờ đây tất cả đã ra đi, chỉ trừ James Arthur Feli, người cuối cùng trong dòng họ. "Tại sao nó cần phải đau khổ, cả Paula nữa vì những sai lầm của một thế hệ đã chết?", bà tự hỏi mình rồi nghĩ: "Mình làm như thế là phải. Đó là món quà tặng của ta cho con nhỏ. Cho cả hai đứa chúng nó". Bên ngoài, trời tối hơn và trong căn phòng mờ mờ, ánh sáng lò sưởi hắt những chiếc bóng kỳ lạ và huyền bí, qua những bức tường, trần nhà và trong những bóng tối ấy, bà thấy nhiều bộ mặt xưa cũ quen thuộc. Bạn của bà. Kẻ thù của bà. Tất cả bọn họ đều đã chết từ lâu. Những bóng ma...chỉ là những bóng ma không thể nào sờ được vào bà. Cuộc sống như một vòng tròn, bà suy tư. Cuộc đời của ta bắt đầu với gia đình nhà Feli và nó sẽ kết thúc với họ. Hai điểm ấy bây giờ đã tiếp nối và làm thành một vòng tròn.

"Mẹ...mẹ ơi, mẹ tỉnh ngủ chưa?", Emma gọi khe khẽ từ ngoài cửa. Không có tiếng trả lời.

Cô đi dò dẫm gần cửa, tai căng ra để nghe từng âm thanh nhỏ nhất, nhưng căn phòng yên lặng như một nấm mồ. Cô run run kéo chiếc khăn voan mỏng quanh đôi vai mảnh dẻ, run lên trong chiếc áo ngủ mỏng trước cái lạnh buốt da thịt trước lúc bình minh.

"Mẹ, mẹ ơi'''', cô gọi trong tiếng thì thào thôi thúc và bò gần hơn vào trong phòng, nhích một cách cẩn thận, dò dẫm loanh quanh giữa những đồ đạc rẻ tiền, mắt vẫn chưa quen với bóng tối. Cô hầu như không thở nổi, mùi không khí thật là tanh tưởi. Cô rùng mình, thoáng khó chịu vì mùi tường mốc, khăn trải giường bẩn và mồ hôi kết lại. Rõ ràng đó là mùi của nghèo khó, bệnh tật. Cô nín hơn và bước lên. Khi đến bên chiếc giường sắt, trái tim cô như ngừng đập khi nhìn xuống người đàn bà ốm nằm bất động dưới đống chăn mền lộn xộn. Mẹ cô đang hấp hối. Có lẽ là đã chết rồi? Sự hốt hoảng sợ hãi làm rung tấm thân gầy bé, cô run lên không sao kiềm chế nổi. Cô cúi xuống, áp mặt mình vào thân thể mẹ cô, ráng sức về phía cái hình hài mỏng manh đó y như để truyền cho nó một sức mạnh mới, một sức sống mới. Cô nhắm nghiền mắt lại, đọc thầm một bài kinh cầu, cuồng nhiệt và van lơn, tất cả sức tập trung của cô dồn cả vào đó.

Rồi cô mở mắt và bắt đầu vuốt ve nhẹ nhàng cái trán hầm hập của mẹ. Trong ánh sáng lung linh của một ngọn nến nhỏ xíu, nét mặt người đàn bà vốn đã xanh xao bây giờ chỉ là một cái bóng màu xám tro và những giọt mồ hôi lóng lánh tạo thành một màn ma quái trong ánh sáng yếu ớt. Mái tóc nâu một thời dày và óng mượt, bây giờ trở thành những mớ rối bù vắt qua cái trán ẩm mồ hôi, xoã tung trên nét mặt mà cái đau đớn và sự khổ sở cũng không hoàn toàn xoá đi được những dấu vết của vẻ đẹp dịu dàng thời thiếu nữ, đã bị tan tác đi vì sự tàn phá của nghèo khổ, cùng cực bởi những năm vật lộn để sống còn và cuối cùng bởi bệnh tật tàn khốc chết người này. Bà mới chưa đầy 34 tuổi.

Căn phòng của bà là phòng của người ốm, bởi vì nó chứa đựng rất ít những thứ tiện nghi còn đẹp đẽ, không một chút thú vui nào của cuộc đời. Giường là thứ đồ đạc lớn nhất và chiếm gần hết chỗ dưới mái chìa dốc, nhưng nó không được chăm nom cẩn thận vì Emma chỉ có thể thay khăn trải giường một tuần một lần khi cô từ Feli Hôn, nơi cô làm việc, trở về.

Elisabeth cựa quậy không thoải mái. "Có phải Emma đấy không?", giọng nói bà yếu ớt vì quá mệt mỏi và hầu như không nghe thấy được.

"Vâng mẹ ơi, con đây", cô gái kêu lên và nắm lấy tay mẹ.

"Mấy giờ rồi con?"

"4h mẹ ạ. Con xin lỗi đã làm mẹ thức giấc nhưng con muốn biết chắc là mẹ không sao trước khi con đi Hôn"

Elisabeth thở dài: "Ờ, con ạ, mẹ cũng không ốm lắm đâu. Đừng cuống lên như thế, lát nữa mẹ sẽ dậy, và...", bà bắt đầu ho dữ dội, đưa bàn tay gầy guộc lên ngực cố giữ cơn ho làm rung động toàn thân. Emma rót thuốc vào chiếc bình trên bàn, vòng tay qua người mẹ đỡ bà lên để bà có thể uống từ bình. Dần dần tiếng khò khè ương bướng trong ngực mẹ cô giảm dần di và cuối cùng, dù bị hút hơi vì gắng sức nhưng bà cũng có thể nói được.

"Tốt hơn hết là con nên xuống xem ba con và mọi người thế nào, con yêu. Mẹ sẽ nghỉ một chút và có lẽ trước khi con đi làm, con nên cho mẹ chút trà". Cơn sốt trong ánh mắt bà dịu đi, dà dường như nhận thức được những cái chung quanh mình, thấy được rõ hơn người con gái đứng bên giường.

Emma cúi xuống hôn má nhăn nheo của mẹ một cách trìu mến, kéo mền đắp lên vai bà một cách sẽ sàng: "Vâng, con sẽ mang lên". Cô nhẹ nhàng ra khỏi phòng, chạy lao xuống cầu thang đá hẹp. Những tiếng nói oang oang cao giọng cất lên đập vào tai cô giữa lưng chừng cầu thang. Emma đứng sững lại, hít hơi thật mạnh, tim cô như rụng xuống. Winston, anh trai cô, và ba cô lại đang cãi nhau và sự hung bạo của họ đã quá rõ qua giọng nói. Cái ý nghĩ họ có thể làm phiền tới mẹ làm Emma lạnh toát người. Cô nén cái tiếng hét kinh hãi thốt lên nửa chừng, lấy đôi bàn tay ráp bịt miệng và ngồi một cách nặng nề xuống những bậc đá lạnh.

"Đồ điên rồ", Emma nói to. "Những người lớn hành động như những đứa trẻ, họ quá ích kỷ không nghĩ tới người mẹ khốn khổ của mình". Ý nghĩ này làm cô kích động, cô nhảy lên, sự nôn nao ốm yếu được thay thế bằng nỗi căm giận lạnh lùng ngày môt tăng. Cô đẩy cửa bếp, đứng sững thẳng người ở bậc cửa, tay nắm chặt lấy khung cửa, mắt ánh lên màu đá.

Giăc Hactơ là một người đàn ông to lớn. Không đi ủng, chỉ với đôi chân đi tất, ông cao 6 fut 2 (mỗi fut = 0.3048m), người thẳng băng. Ông đứng cao vượt lên đứa con trai cả Winston của mình, nắm đấm giơ cao giận dữ và sẵn sàng giáng xuống thật mạnh. Khuôn mặt ông toát lên sự giận dữ của núi lửa, mắt loé lên một cách nguy hiểm. "Mày không có vào thuỷ quân gì hết, đây là lần cuối cùng tao nghe mày nói về chuyện ấy trong cái nhà này. Mày còn chưa đến tuổi và đừng hòng mày được phép của tao. Bây giờ hãy bỏ chuyện ấy đi và đừng bao giờ nhắc tới nữa, ông cả Winston của chúng tôi ạ, nếu không thì ông sẽ thấy tôi quật ngang lưng ông đó. Ông chưa đủ tuổi để mà bỏ trốn đi đâu, ông cả ạ. Và chớ có quên điều đó".

Winston trừng mắt nhìn cha, bộ mặt đẹp trai ửng lên và nhăn nhúm lại vì giận dữ điên khùng, đôi mắt xanh của cậu lạnh băng: "Nếu con muốn đi, con sẽ đi. Ba không thể cản được con nếu con muốn bỏ đi, mà thế nào con cũng bỏ đi, khỏi cái lỗ bị Chúa quên lãng này. Ở đây bây giờ chỉ có nghèo khổ khốn cùng và hấp hối".

"Con khỉ, mày cãi lại tao hử? Để rồi xem".

Cậu con trai không nhúc nhích trong một giây, rồi cơn giận bung ra trong đầu, cậu bước lên, giơ cánh tay như định đánh cha. Nhưng qua màn sương choáng váng của cơn giận mù quáng, cậu nhìn thấy một cái gì đe doạ trong đôi mắt ấy, cầu lùi lại, hoang mang kinh sợ vì sức mạnh của cha mình.Mặc dù không cao và lực lưỡng như bố, nhưng Winston vóc người cân đối, khoẻ mạnh, cậu được tạo nên bởi một chất liệu thanh tú hơn, giống mẹ của cậu hơn.Cậu bé 15 tuổi ngày càng nhận thấy vẻ ưa nhìn của mình và cậu biết đó là tài sản lớn nhất của cậu.

"Cậu cả Winston, cậu đừng tưởng là tao không biết điều đó. Tao sẽ dạy mày cách giơ tay đánh tao. Tao sẽ cho mày một trận để nhớ đời, mà đời mày thì dài đấy", ông bố vừa nói vừa bắt đầu cởi thắt lưng da, rút nó một cách vội vàng trong lúc nóng nảy và quấn nó quanh bàn tay phải, rồi tiến về phía cậu con trai một cách hăm doạ với một sức mạnh ghê gớm.

"A, ba không doạ được con đâu", Winston kêu lên, nhưng lại lùi lại phía sau bàn đứng, để chiếc bàn ngăn cách an toàn giữa hai người. "Ba không dám đánh tôi đâu. Mẹ tôi sẽ không bao giờ tha thứ cho ba nếu ba quật cái dây ấy vào người tôi", cậu cảnh cáo.

Giăc Hactơ dường như không nghe thấy những lời đó. Ông tiến lên nhanh nhẹn và khéo léo, chiếc thắt lưng da đen đung đưa một cách ghê sợ trong bàn tay nắm chặt. Ông giơ cánh tay lên, và hẳn là đã giáng xuống cậu bé nếu như Emma không chạy băng qua phòng đúng lúc và nhảy chồm lên trươc mặt cha mình. Cô nắm lấy cánh tay ông, dùng hết sức mạnh của đôi tay giữ lại. Khuôn mặt cô hốc hác đi trong ánh lửa và cô run hết cả người vì giận dữ. Cô đứng trước mặt cha không hề nao núng. Cô là người duy nhất dám thách thức ông, người có can đảm đương đầu với ông. Và cô thường làm dịu được cơn giận dữ của ông, làm ông nhu mì trở lại.

Mặc dù giọng nói của cô lặng lẽ nhưng có sức mạnh trong từng từ: "Yên đi, ba. Ba làm sao thế? Hò hét, chửi bới vào cái giờ này trong khi mẹ đang nằm ốm nặng trên gác. Đáng lẽ ba phải biết hơn ai hết chứ. Ba phải tự xấu hổ chứ. Thôi hãy ngồi xuống mà uống trà đi không thì chính con sẽ bỏ đi đấy, và lúc đó thì tất cả sẽ tan tác đi phương nào, hả?" Cô giữ chặt cánh tay giơ lên của cha, dỗ dành bằng một giọng nhẹ nhàng hơn: "Nào, ba, đừng ương bướng nữa. Winston của chúng ta sẽ không trốn vào thuỷ quân đâu. Anh ấy nói khoác đấy thôi".

"Cô Bôxi Nichcơ, cô nghĩ vậy sao?", Winston nói chen vào một cách giận dữ từ góc phòng bên kia. "Lần đầu tiên trong cuộc đời ngắn ngủi của cô, cô đã lầm, Emma ạ. Tôi nói thật đấy, phải, nói thật đấy".

Emma quay lại, đối diện với anh cô, cô gắng để tự kiềm chế: "Thôi đi Winston" - cô rít lên- "Anh sẽ giết chết mẹ. Mẹ đang ốm nặng. Và hãy ngừng cái câu chuyện ngu xuẩn vào thuỷ quân đi. Ba nói đúng đấy, anh còn quá trẻ. Và anh sẽ làm tan nát trái tim mẹ nếu anh bỏ đi. Vì thế mà thôi đi, thôi ngay".

Đôi mắt Winston loé lên bực bội và một sự thù hận xa lạ. "Cô Bôxi Nichcơ, cô làm tôi phát ốm. Lúc nào cũng chen ngang vào. Cô hãy lo lấy việc của cô, bây giờ cô chỉ là một cô bé con, cô biết cái gì, Emma Hactơ?"

Có một sự nanh nọc trong giọng nói của cậu, nhưng cậu lùi lại dưới cái nhìn như xoáy và ánh mắt đầy lạnh lùng của cô. Dáng vẻ cô là dáng vẻ lãnh đạm, cô cố tình quay lưng lại cậu. Winston có một nhận thức mơ hồ là cậu sợ em gái mình. Không giống sự sợ hãi với sức mạnh của cha cậu, nhưng ở một cách hoàn toàn khác mà cậu không thể hiểu nổi. Như để làm sai lạc tình cảm của mình, cậu hít hơi và kêu to: "Bà cụ non quá đấy, Emma Hactơ. Cô là như thế đó".

Emma phớt lờ sự cáu giận cuối cùng này, mím chặt môi, buộc mình không trả lời. Ông Giắc mơ hồ cảm thấy sự trao đổi hung hăng giữa hai người con lớn, ông đã để vài giây cho nguôi cơn giận. Giờ đây, ông chậm chạp quay cái đầu như sư tử ngắm nhìn con trai với một sự chăm chú soi mói: "Thế là đủ rồi, Winston. Để yên em gái mày đấy, hôm nay mày đã gây nhiều rắc rối rồi và tao sẽ không quên điều đó trong một thời gian rất dài đấy".

"Nó cứ luôn luôn dính mũi vào công việc của con", Winston nói nhưng ngừng ngay lại khi nhìn thấy cơn tức giận trong đôi mắt cha. Ông Giăc cựa quậy bồn chồn trong bàn tay nắm đã lỏng dần của Emma, và Winston biết quá rõ là không nên chọc tức ông them nữa. Cậu lén nhẹ nhàng như một con mèo tới cuối bếp, nơi Frank cậu em trai út đang rúm người lại vì sợ hãi, và rền rĩ trong buổi va chạm giữa cha và anh.

Emma quay sang phía ba cô, nắm cánh tay ông và nói nhẹ nhàng: "Nào, ba ngồi xuống đi". Trong một lúc, Giắc Hactơ không chịu theo cái áp lực kiên quyết nhưng nhẹ nhàng của đôi tay cô con gái trên thân thể cuồn cuộn cơ bắp của ông. Ông cúi nhìn con gái, thấy nó gầy quá, ông biết thoát khỏi vòng tay nắm giữ của nó mới dễ làm sao, chỉ cần hất cổ tay một cái là ông có thể hất cái thân thể mỏng manh của cô bay sang bên kia phòng. Nhưng ông không bao giờ đánh Emma, và sẽ không bao giờ đánh cô. Ông buông lỏng người và cho phép cô dìu ông vào ghế. Ông nhìn vào khuôn mặt xanh xao ấy thường thường rất trang nghiêm và suy tư, vẫn còn méo mó đi vì buồn phiền. Ông xúc động. Tất cả các con cái ông, chỉ có mỗi Emma mới làm ông xúc động được. Và trong khi ngắm con gái, người con duy nhất dám thách thức ông, Giăc lớn bỗng nhận thức một cách rõ ràng ông đang đương đầu với một ý chí không thể lay chuyển được. Một ý chí đúc bằng sắt thật là đáng sợ. Cái dáng vẻ nhỏ bé bất khuất ấy làm ông xúc động, xen lẫn tự hào và sợ hãi. Ông tự hào về sức mạnh của Emma và cũng thấy lo sợ thay cho cô vì cái sức mạnh ấy, nó sẽ đẩy cô vào tình thế khó khăn một ngày nào đó, điều ấy ông hoàn toàn chắc. Cô có một tinh thần độc lập, và trong cái thế giới của họ không có chỗ cho những tinh thần độc lập. Giai cấp của họ không thể tránh khỏi bị dẫm lên bởi gót giày những ông chủ. Ý chí hung bạo của Emma sẽ bị bẻ gãy và ông lo sợ cho cái ngày đó. Ông cầu nguyện mình sẽ không có mặt để chứng kiến cái cảnh đó, bởi vì nó sẽ làm con tim ông tan nát cũng như trái tim con ông tan nát.

Khi ông tiếp tục nhìn con gái mình, ông thấy nó một cách rõ ràng lần đầu tiên trong nhiều năm. Ông thấy cái thân thể thiếu ăn của nó, cái cổ gầy, đôi vai khẳng khiu dưới chiếc áo ngủ nhỏ bé nhàu nát. Nhưng ông cũng nhìn thấy một điều khác. Ông thấy cái trong suốt của làn da trắng như tuyết còn đọng lại trên những mỏm đá cao nhất. Ông nhìn thấy đôi mắt long lanh đầy ánh lửa màu ngọc lục bảo giống hệt đôi mắt ông. Ông thấy mái tóc dày màu nâu đỏ hất cao trên vầng trán kiêu kỳ, ông thấy trong thân hình trẻ con chưa nảy nở sự bắt đầu của vẻ đẹp. Nhưng không biết có bao giờ vẻ đẹp ấy nở hoa không? Trái tim ông nhức nhối và hình như rung chuyển với cơn đau không thể chịu nổi, và tràn đầy một nỗi căm giận và đau buồn sâu xa khi ông nghĩ tới cuộc sống lao dịch phía trước. Bây giờ nó đã là kẻ lao dịch, ở đây và ở Feli Hôn, mà nó thì còn nhỏ thế.

Giọng nói của con gái nhẹ nhàng đưa ông ra khỏi dòng suy nghĩ: "Ba ơi, ba thấy trong người thế nào?

"Ba không sao hết, con gái ạ. Con đã thăm mẹ chưa? Mẹ con thế nào?"

"Mẹ hơi mệt một chút trước khi con đến, nhưng bây giờ mẹ đang nghỉ. Lát nữa con sẽ mang lên cho mẹ một ít trà"

Cô bắt đầu đi chỗ khác, ông mỉm cười với cô, hàm răng trắng loá lên, mắt âu yếm, nhưng cô không đáp lại một cách trìu mến thường lệ như ông mong đợi. Cô chỉ vỗ vỗ vào cánh tay ông, nhìn ông thật lâu, và ông cảm thấy như bị trách móc và xấu hổ vì chính con gái ông, như thể ông là con gái và cô là phụ huynh. Và điều ấy làm ông phiền lòng ghê gớm vì Emma là con gái cưng của ông, ông hiểu cô có một tình yêu sâu sắc nhất đối với mình. Ông không muốn hình ảnh của mình xấu đi trong mắt cô, sự quý trọng của cô là rất cần thiết. Một cách máy móc, ông nhấc đôi ủng của mình khỏi lò. Đã bắt đầu muộn và ông sẽ phải tới lò gạch Feli nơi ông và Winston làm việc, mắt cả một tiếng đồng hồ mới đi bộ đến đó được.

Emma đi ngang qua bếp với một nghị lực và một mục đích mới. Cô muốn xua tan cái không khí này, đưa mọi việc trở lại bình thường. Cô nhìn Frank ngồi bên bộ đồ trà, cậu lại bình tĩnh trở lại và hết sức chăm chú chuẩn bị bánh sandwich cho bữa trưa và bữa nghỉ uống trà mà họ sẽ mang đi làm. Cô vội tới giúp em, xắn tay áo lên vẻ xăm xắn.

"Frank, em đang làm gì thế?", cô kêu lên và mắt mở to ngạc nhiên, đầu lắc lư. "Gạt mỡ thịt quay kiểu gì như là sẽ không có ngày mai nữa''". Cô cầm lấy con dao từ tay cậu bé đang giật mình, tặc lưỡi vẻ bực bội, cô bắt đầu vét bớt một ít bơ khỏi bánh mì. Những chỗ vét lại, cô cho một cách tiết kiệm vào chiếc lọ đá nâu để trên cái thớt gỗ: "Chúng ta chưa phải tầng lớp quý tộc nhỏ đâu Frank ạ", cô nói tiếp và khéo léo làm nốt những chiếc bánh.

Frank lùi lại, môi dưới run run, đôi mắt hạt dẻ của cậu long lanh những giọt nóng bỏng, khuôn mặt nhỏ bé của cậu dúm dó và sợ hãi. Frank 12 tuổi và bé nhỏ. Cậu có một mái tóc vàng hoe mềm như lông tơ vịt, nước da màu sữa, nét mặt dịu dàng đẹp như con gái. Cậu lấy làm hổ thẹn về cái bề ngoài dịu dàng của mình, đã làm cậu có những biệt danh như "Sissy, Nancy", ở nhà máy Feli, nơi cậu mót chỉ. Do sự huấn luyện thành thạo của Winston, cậu đã học cách đánh lại bằng nắm đấm, nhưng cậu thích bỏ đi, mặc những lời chế giễu, nhạo báng, đầu ngẩng cao, cậu phớt lờ tất. Đó là cung cách cậu áp dụng trong suốt cuộc đời, lúc nào cũng nhạy cảm và dễ chạm tự ái nhưng có khả năng nhẫn nhục một cách tự hào và khinh miệt.

Mớ tóc vàng xoã xuống mặt, cậu e dè gạt nó sang bên, quay lại phía Winston một cách tội nghiệp: "Em không có ý phá hại gì, anh Winston", cậu nói và nước mắt rơi xuống cặp má lốm đốm tàn nhang".

Winston biết rằng cái chặc lưỡi càu nhàu của Emma về mỡ rán là vô hại. Cậu kéo Frank lại gần, ôm lấy nó một cách an ủi trong vòng tay mình, giấu một nụ cười và nói: "Anh không bao giờ nghĩ rằng mình lại sống tới cái ngày mà Emma của chúng ta trở thành một cái tóp mỡ. Anh nghĩ vài cái thói quen của cụ nhà Feli đã thấm vào Emma của chúng ta". Cậu nói một cách hiền lành, tất cả sự thù hận đã biến khỏi mắt cậu.

Emma đi lại như con thoi trước mặt họ, má cô ửng hồng trong ánh lửa từ lò sưởi bừng lên và làm cho tóc cô đầy một ánh sáng vàng rực. Cô hơ con dao trước mặt: "Nói như thế không được. Tôi không phải là tóp mỡ. Có phải con là như thế không, ba?", cô cầu cứu và lại tất tả chạy đi trước khi ông kịp trả lời. "Thì, ông cụ Feli giàu đến nỗi chân đi vòng kiềng vì những đồ đồng, và có biết vì sao không? Bởi vì ông cụ không bẻ một quả lý làm đôi và cho con một nửa. Thế đó". Cô nói một cách sôi nổi, mặc dù không giận dữ, và một vẻ bối rối hiện trên nét mặt ửng hồng của cô. Winston biết sự trêu ghẹo của cậu đã trúng đích, vì Emma căm ghét sự keo kiệt và đây là sự buộc tội tệ hại nhất mà người ta có thể gán cho cô, dù là nói đùa chăng nữa.

Hất đầu một cách bực tức, cô nói cau có: "Cái mỡ đó dày đến 2 inch. Không thể ăn bánh sandwich như vậy được. Ăn như thế thì ốm mất. Nhất định ốm mất".

Winston bắt đầu cười, không thể kìm được sự vui thú của mình lâu hơn được nữa. Ông Giăc giật mình liếc nhìn cậu, đôi lông mày đen rậm nhíu lại khi nhìn cậu con trai một cách bí ẩn. Nhưng ông thấy ngay là tiếng cười của cậu không hề có ác ý khi ông cũng thấy Emma ngày càng bối rối. Khi ông nhìn từ cậu con trai này sang cậu khác, sự vui vẻ của các cậu bé lây sang ông. Ông bắt đầu cười khùng khục và vỗ đùi.

Emma trợn mắt nhìn họ và dần dần một nụ cười rụt rè lan ra trên khuôn mặt cô. Chính cô cũng cười. "Thật là rùm beng cả lên vì chuyện mỡ", cô lẩm bẩm qua tiếng cười, lắc đầu và đặt con dao xuống. Frank ngỡ ngàng nhìn mọi người, lắc đầu không hiểu và khi cậu nhận ra sự vui vẻ của họ là thật, cậu cũng cười, lau nước mắt bằng vạt áo sơ-mi xám. Emma ôm lấy em:" Đừng để tâm nhiều như vậy, Frank em. Chị không có ý gì đâu, em yêu quý ngốc nghếch ạ. Và đừng có lấy vạt áo mà chùi mũi", cô mắng yêu em và vuốt tóc, hôn lên trán cậu một cách âu yếm.

Không khí thân mật và tình yêu thương gia đình đã được lập lại một cách thần kỳ. Emma thở dài nhẹ nhõm và lại lăng xăng dọn dẹp. Cô sờ vào bình trà. Hãy còn nóng. "Frank này, em mang hộ chị trà lên cho mẹ", cô nói và rót trà vào trong bình, cho thêm vào rất nhiều đường và sữa. "Ba xem hộ lửa cho con, ba nhé. Ba cứ tiếp lửa đợi đến khi dì Lily tới. Winston, anh hãy rửa những chiếc ấm cho em trong khi em chữa lại bánh xe cho anh. Ba nhớ đừng quên trông lửa nhé".

Cô đưa bình trà cho Frank: "Em hỏi mẹ xem mẹ có ăn bánh và mứt không. Em nhanh lên nhé, còn bao nhiêu việc phải làm trước khi chị đi Hon". Frank cầm bình trà cẩn thận trong cả hai tay và vội vã đi qua phòng. Winston thu lượm những chiếc bình và đĩa bẩn trên bàn, đem chúng vào chậu rửa trong khi ông Giăc quay sang lò sưởi và xếp lại những khúc củi. Emma cười một mình. Hoà bình đã được lập lại. Cô bước về phía chảo và bắt đầu gói những chiếc bánh vào chiếc khăn ăn bông mà mẹ cô đã viền một cách cẩn thận, thấm nước vào khăn để cho bánh khỏi bị khô.

Ông Giăc nhìn Emma đang đứng bên chảo, hộp trà cầm trong tay ước lượng trà và đường cho họ, gói vào những mảnh giấy nhỏ, buộc hai đầu lại với nhau một cách chắc chắn để không bị rơi vãi một chút nào hết. "Con sẽ bị chết cóng trong cái áo ngủ mỏng manh ấy, Emma ạ, mà cái khăn ấy thì chẳng ấm áp gì đâu. Con mặc ấm vào, ở dưới này bây giờ mọi chuyện đã ngăn nắp đâu vào đấy rồi".

"Vâng, con sẽ mặc, ba ạ. Con sắp đóng gói xong trà đường cho ba đây". Cô nói và nở một nụ cười rạng rỡ làm sáng ngời cả khuôn mặt nghiêm trang của cô. Đôi mắt cô, vốn sâu và xanh một cách linh động, sáng lên, lóng lánh. Cô chạy qua bếp tới chỗ cha. Ông cúi xuống mỉm cười với cô và hiểu rằng tình yêu thương của cô với ông vẫn còn nguyên vẹn. Emma kiễng chân lên, vòng đôi cánh tay gầy vào cổ ông. Cô kéo mặt ông xuống và hôn lên má ông: "Thứ 7 tới con lại gặp ba, ba nhé". Ông Giắc giữ cô lại một lúc, đôi cánh tay gân guốc của ông vòng quanh cô, che chở, một niềm âu yếm tràn ngập: "Ừ con, và hãy giữ sức khoẻ ở trên Hon đó nhé". Ông lẩm bẩm, giọng nghẹt đi. Cô đã đi trước khi ông kịp lấy lại hơi thở, lướt qua phòng như một tia chớp. Ông còn lại một mình trong bếp.

Ông thở dài, với lấy chiếc áo trên mắc sau cánh cửa. Ông lần tìm trong túi những sợi dây da nhỏ, buộc quanh gấu quần để ngăn những bụi gạch bốc lên chân. Ông ngồi xuống bàn, thắt chúng lại, vừa làm vừa tự hỏi không biết có nên nói cho Elisabeth biết là ông đã xin thôi việc ở nhà máy gạch không. Ông cau mặt, đôi bàn tay khéo léo thít những chiếc nịt lại. Đây là một quyết định khó khăn đối với ông, bởi vì công việc khan hiếm và nhiều người đang thất nghiệp. Ông không phản đối công việc nặng nhọc, nhưng ông đã nói với Stan, trưởng kíp vào thứ 6 tuần trước: 18 shilling và 10 xu, chẳng có gì là nhiều để đem về nhà vào cuối tuần, Stan ạ. Mà tôi thì là một người đã có vợ và ba con. Tôi không trách móc ai về các con tôi, ngoài chính tôi, anh ạ, nhưng cái ông lão Feli trả cho những đồng lương chết đói. Đúng là như vậy đó, Stan ạ, mà anh cũng biết". Ông nói, hăm hở nhưng lặng lẽ

Stan lắc đầu, và mặc dù ông ta đã tỏ ra thiện cảm, ông cũng không thể gặp cái nhìn chằm chằm của Giăc. "Đúng đó, anh bạn. Đó là một tội ác chứ còn gì nữa. Nhưng có những kíp trưởng chỉ được 20 shilling một tuần thôi. Tôi cũng không được nhiều hơn. Tôi vẫn xoay xở được. Thôi, tuỳ cậu muốn làm gì thì làm, thôi thì thôi". Ông đã nói với Stan là ông sẽ thôi và ông miễn cưỡng đến nhà máy Feli vào sáng thứ bảy, mũ cầm trong tay, cố nuốt lòng tự hào của mình. Ông đã gặp người đốc công, bạn từ thở thơ ấu, người đã ký hợp đồng để ông bắt đầu làm việc trong một tuần với tiền lương 20 shilling một tuần, tuy không được nhiều lắm nhưng cũng khá hơn. Ông suy nghĩ em có nên nói với vợ chuyện này không, và ông đột ngột quyết định là không. Bà biết ông ghét công việc ở nhà máy và như vậy chỉ làm bà buồn thêm, bệnh nặng thêm.

Đồng hồ nhà thờ trong làng điểm 5 tiếng, ông đứng bật dậy, sải bước qua phòng nhẹ nhàng như dáng đi của tất cả những người đàn ông cao lớn. Ông lên phòng vợ.

Emma đã mặc quần áo đàng hoàng, đang đứng cùng Winston và Frank bên cạnh giường. Chúng như một bộ ba bé nhỏ thiểu não trong những bộ quần áo xám, cũ đã vá mạng. Những quần áo của chúng gọn ghẽ và sạch bong, với những khuôn mặt được kỳ rửa kỹ lưỡng, tóc chải thật cẩn thận. Và mỗi đứa trẻ, bề ngoài khác hẳn nhau, đều có một vẻ tao nhã nổi bật lên trên, đến độ những áo quần sờn rách trở nên vô nghĩa. Chúng toát lên một tư thế kỳ lạ khi chúng đứng đó với nét mặt trang nghiêm và lặng lẽ. Những đứa trẻ tách ra, lùi lại lấy lối cho Giăc khi ông bước vào phòng, đầy nghị lực, một nụ cười vui vẻ trên môi.

Elisabeth nằm tựa vào đống gối, xanh xao và suy nhược một cách tội nghiệp, nhưng cái nhìn bừng bừng sốt trên mặt bà đã biến mất và bà tỏ ra bình thản hơn. Emma đã rửa mặt cho mẹ, chải tóc và quàng chiếc khăn san xanh quanh vai bà, càng làm tăng thêm màu xanh đôi mắt dễ thương, mớ tóc bà trải ra trên gối như những dải lụa mềm. Không một vệt màu nào làm hoen ố màu trắng của khuôn mặt bà và đối với Giăc, trong ánh nến, nó giống như ngà khắc ông đã từng thấy ở châu Phi, được đẽo gọt sắc nét và thanh tao, gạt được những hình dáng thô lậu. Bà có dáng của một hình tạc thu nhỏ, thanh thoát. Mắt bà bừng lên khi thấy ông, bà duỗi đôi cánh tay gầy yếu ớt về phía ông và khi tới bên giường, ông kéo bà lại, gần như hung dữ áp chặt cái thân thể mỏng manh của bà vào tấm thân khoẻ mạnh cường tráng của ông, như thể không bao giờ để cho bà đi nữa.

"Trông em khỏe lên nhiều lắm, Elisabeth thân yêu", ông nói bằng một giọng nhẹ nhàng như ve vuốt làn không khí. Hầu như không còn nhận ra giọng nói của ông nữa.

"Đúng thế, Giăc ạ", bà công nhận một cách dũng cảm. "Tối nay khi anh đi làm về, em sẽ thức đợi anh. Em sẽ nấu cháo thịt cừu thật ngon cho anh, cả bánh hấp, cả bánh mì mới nướng".

Ông buông bà ra nhẹ nhàng và để lưng bà tựa vào gối. Khi ông nhìn vào bộ mặt hao mòn đi một cách tội nghiệp, ông không nhìn thấy nó như thực trạng lúc này, mà chỉ nhìn thấy người con gái đẹp ông đã từng giữ lại suốt đời mình. Bà nhìn ông với lòng tin và sự thán phục khiến trái tim ông thắt lại vì đau đớn, vì ông chẳng thể làm gì được để cứu bà. Và sự thôi thúc kỳ lạ ấy lại đến với ông, một sự thôi thúc ngày càng mạnh mẽ khiến ông muốn bế bà lên trong đôi tay mình, đưa bà ra khỏi căn buồng nghèo hèn này và cùng bà chạy lên đỉnh đồi hoang, nơi bà vẫn hằng ao ước. Ở đó, trên những vùng đầm lầy, có mỏm đất cao, không khí trong lành khoan khoái và bầu trời là ánh phản chiếu mênh mang của đôi mắt bà. Ông có một cảm giác không thể giải thích được, cái cảm giác huyền bí là trên mỏm ấy, cái căn bệnh này sẽ được cuốn đi khỏi thân thể bà, và bà sẽ được hồi sinh một cách thần diệu.

Nhưng màu oải hương và màn sương khói nhợt nhạt của những ngày mùa hạ dài dặc lúc này đã bị những cơn gió bấc xua tan. Nếu là mùa hạ, ông sẽ đưa bà lên đó. Đỉnh của Thế Giới, như bà vẫn gọi, và ông sẽ nằm xuống một gò thạch nam giữa những cây dương xỉ và những lá việt quất non mềm mại. Họ sẽ ở bên nhau hài lòng trong vách đá Ramxđân cheo leo, được mặt trời sưởi ấm, chỉ có hai người bên nhau ngoài những con chim sẻ và sơn ca vỗ cánh trong ánh sáng vàng mờ mờ. Không thể làm như vậy được lúc này. Mặt đất cứng lại vì sương giá. Tháng Hai vùng đầm lầy thật man dại và hoang vu dưới một bầu trời lạnh lẽo đầy mưa.

"Anh Giăc thân yêu, anh có nghe em nói không? Đêm nay em sẽ thức, chúng mình sẽ cùng ăn bữa tối trước ngọn lửa lò như trước đây, trước khi em ốm". Có một sự hoạt bát mới trong giọng nói của Elisabeth, một sự kích động rõ ràng là do sự có mặt của chồng.

"Em không được rời khỏi giường, em yêu", ông dặn dò với giọng khàn khàn. "Bác sĩ nói em phải nghỉ ngơi hoàn toàn. Lily của chúng ta lát nữa sẽ tới trông nom em và sẽ làm bữa tối cho chúng ta. Em phải hứa với anh là không được làm điều điên rồ. Nào, hứa với anh đi".

"Ôi, anh đừng cuống quýt lên như thế, Giăc Hactơ. Nhưng mà em hứa, nếu điều ấy làm anh vui. Em sẽ ở yên trên giường".

Ông cúi xuống để chỉ mình bà nghe thấy: "Anh yêu em, Elisabeth. Anh yêu em", ông thì thào.

Bà nhìn sâu trong mắt ông và thấy tình yêu phản chiếu rõ trong đó, không hề thay đổi và vĩnh hằng. Và bà nói: "Em cũng yêu anh, anh Giăc, cho đến ngày em chết và cả sau đó nữa".

Ông hôn bà vội vàng, hầu như không dám nhìn bà một lần nữa và khi ông đứng lên khỏi giường, cử động của ông giần giật, không ăn nhập, hình như ông không còn làm chủ được thân thể to lớn của mình nữa. Ông đi qua phòng ngủ rảo ba bước một. "Nào, Winston, hôn mẹ rồi ta đi làm. Chúng ta muộn rồi đó con", ông gọi to giật giọng.

Winston và Frank mỗi người hôn mẹ một cái rồi rời khỏi phòng, đi ra cửa lặng lẽ. Winston không nói một lời nào với Emma từ khi cậu trêu cô trong bếp trước đó, và bây giờ cậu mỉm một nụ cười rất tươi và hồ hởi, nói từ trên đỉnh cầu thang: "Emma, hẹn gặp lại vào thứ Bảy. Tạm biệt em".

Cô vẫy tay và mỉm cười: "Tạm biệt anh Winston", rồi cô nói thêm như một ý nghĩ chợt nảy ra: "Frank, em chuẩn bị đi làm đi. Chị sẽ xuống ngay và ta cùng đi". Frank gật đầu, khuôn mặt xanh xao của cậu nghiêm chỉnh: "Vâng, chị Emma", cậu vừa nói vừa rảo bước xuống những bậc thang theo gót Winston.

Emma ngồi nép bên giường: "Mẹ có cần gì trước khi con đi không, mẹ?"

Elisabeth lắc đầu: "Trà ngon lắm, con ạ. Mẹ chỉ cần có thế thôi cho đến khi dì Lily tới, mà mẹ cũng không thấy đói".

Bà không bao giờ đói hết. Bà khỏi bệnh làm sao được nếu như bà không bao giờ ăn, Emma tự hỏi và nói với một sự vui vẻ cô không hề cảm thấy: "Vâng, nhưng mẹ phải ăn thức ăn dì Lily mang tới. Mẹ phải giữ gìn sức khỏe".

Elisabeth cười yếu ớt: "Ừ, mẹ sẽ giữ gìn sức khỏe"

"Con thổi tắt nến đi nhé", Emma hỏi, cô chuẩn bị đi.

Elisabeth nhìn con âu yếm: "Ừ, khi nào con đi thì thổi tắt đi. Mẹ sẽ nghỉ một chút. Con ngoan lắm, Emma ạ. Mẹ không hiểu nếu không có con thì mẹ biết làm sao. Thôi bây giờ con đi Hon đi. Bà Turner đã cho phép con về thăm mẹ vào giữa tuần, bà ấy thật tử tế và mẹ không muốn cho con đi muộn".

"Vâng, thưa mẹ", Emma thì thào, cố nuốt nước mắt. Cô hôn mẹ hết sức âu yếm, kéo lại khăn trải giường, vỗ lại những chiếc gối, sắp lại mền khéo léo gọn gàng như thói quen. Khi cô kéo chăn trải giường chung quanh mẹ, cô nói: "Con sẽ cố gắng tìm một cành thạch nam trên đường về vào thứ Bảy mẹ ạ. Có lẽ sẽ còn một ít cành sương giá chưa kịp dập mất dưới vách đá".

Giăc và Winston đã tới xưởng gạch, còn lại Frank một mình trong bếp, bây giờ chỉ còn lờ mờ sáng bởi vì Giăc đã tắt ngọn đèn parafin như thói quen trước khi ông đi làm. Ánh sáng duy nhất từ ngọn nến đặt trên bàn, và ngọn lửa thỉnh thoảng loé lên làm căn phòng tràn ngập một thứ ánh sáng óng ánh trong chốc lát. Những hình bóng mờ ảo lướt qua lướt lại trong bếp, không gian ắng lặng trừ tiếng nổ lách tách của củi rít lên hoặc phùn phụt.

Frank ngồi trong một chiếc ghế dựa cao, bên lò sưởi, chiếc ghế làm người cậu như lùn đi, nó quá to, làm cậu thành nhỏ bé và mong manh hẳn. Cậu nhỏ xương, thanh tú, nhưng dẻo dai và kiên cường một cách kỳ lạ, giống như một con chó săn nhỏ.

Sáng hôm nay trông cậu hình như trơ trọi trong chiếc sơmi xám và chiếc quần lùng thùng mặc thừa của Winston, đôi chân cậu trong đôi bít tất xám mạng cẩn thận, đung đưa ở mép ghế trông tội nghiệp và quá yếu ớt để nâng đôi ủng lớn và xấu xí, cũng thừa hưởng từ ông anh trai. Nhưng thực tế mặc dù cái vẻ ngoài yếu đuối, Frank không có chút gì là trơ trọi, bởi vì cậu có một thế giới nội tâm đầy những hình ảnh đẹp, những giấc mơ bay bổng và những mong chờ làm cho cuộc sống hàng ngày của cậu hình như hoàn toàn không quan trọng. Và cái thế giới hoàn hảo này đã chở che cho cậu khỏi cái khắc nghiệt của cuộc sống nghèo khổ, nuôi dưỡng cậu một cách tuyệt diệu đến nỗi phần lớn thời gian cậu hoàn toàn quên lãng cái thiếu thốn và khắc khổ nơi cuộc sống của họ.

Đứng về thực chất, Frank là một cậu bé hạnh phúc, cậu hài lòng hoà vào cái thế giới tưởng tượng của mình, một thế giới rực rỡ, phì nhiêu. Chỉ một thời gian duy nhất cậu thấy thực sự u uất, đó là vào mùa hè năm ngoái khi cậu phải rời bỏ ngôi trường đạo trong làng. Cậu phải nhịn nhục đôi chút để chấp nhận cái thực trạng là cậu phải làm việc trong nhà máy cùng với những đứa trẻ khác, lượm những suốt chỉ đã hết. Cha cậu đã nói với cậu một cách tiếc rẻ, nhưng cũng kiên quyết là họ cần thêm một ít shilling cậu sẽ mang về hàng tuần, vì vậy cậu phải thôi học khi 12 tuổi. Cậu đã là một học sinh sắc sảo, ham học một cách kỳ lạ, vươn tới tri thức một cách nhanh chóng và thông hiểu đến độ làm cô giáo kinh ngạc. Cô giáo nghĩ cậu là nhất, và cô rất buồn khi thấy số phận của cậu là ở nhà máy. Cô biết cậu có những khả năng để có cuộc sống hơn thế nhiều lắm nếu được tạo cơ hội, nhưng cô cũng biết rằng cậu bị hoàn cảnh gia đình trói buộc.

Mặc dù Frank không còn được đi học nữa, nhưng cậu vẫn tiếp tục miệt mài tự học. Cậu đọc đi đọc lại bộ sưu tập sách ít ỏi, những cuốn sách đã sờn rách của mẹ và tất cả những gì cậu có thể kiếm được. Những từ ngữ thật đáng kinh hoàng và cũng thật thần kỳ đối với Frank, cậu yêu chúng thật là sâu sắc đến độ gần như tôn kính. Cậu sắp xếp đi sắp xếp lại những câu cú trong đầu mình và liên tục viết những đoạn văn ngắn trên những mẩu giấy quý giá mà Emma đã đem về cho cậu từ Hon. Cậu luôn luôn bắt gặp những ý nghĩ trừu tượng, nó làm cậu bối rối và thách thức cậu, bởi vì, Frank Hactơ có một trí tuệ thực sự, chân chính, một trí tuệ sẽ được phát triển một cách rực rỡ trong cuộc đời cậu sau này.

Giờ đây, cậu đang ngồi nhìn chăm chú ngọn lửa, một ca nước trà trong đôi tay vẻ sung sướng xuất thần trên nét mặt, đôi mắt mơ màng và xa xăm, nhìn thấy vô vàn những viễn cảnh trong ngọn lửa bập bùng.

Cánh cửa kêu két, làm cậu giật mình ngẩng phắt lên nhìn quanh quất. Emma bước vào phòng lặng lẽ. Frank bắt đầu nhấm nháp nước trà, đôi mắt màu hạt dẻ nhìn lên trên mép ca, dõi theo những cử động của chị. Cô dừng lại bên cửa sổ, vén rèm nhìn ra ngoài nói mà không nhìn cậu: "Bên ngoài trời vẫn còn tối, chúng ta chưa cần phải đi vội. Chúng ta có thể đợi thêm chút nữa cho trời sáng hơn và chúng ta sẽ chạy một đoạn đường tới Hon, như vậy chị sẽ không bị chậm".

Frank đặt chiếc ca lên lò sưởi và nói: "Ba đổ nước sôi vào đầy ấm và dặn em làm cho chị một bánh sandwich, ở trên chảo đó".

Emma nhìn chiếc bánh một cách mệt mỏi, nhận thấy vẻ mặt chị, cậu nói một cách chống chế: Em không phết mỡ vào đâu, em đặt mỡ lên rồi gạt đi, đúng như chị đã bảo mà, chị Emma".

Một nụ cười giấu trên nét mặt Emma, mắt cô nheo lại một cách thích thú trong khi cô rót cho mình một ca nước trà và để chiếc bánh lên đĩa. Cô mang cả hai tới bên lò sưởi và ngồi đối diện Frank. Cô nhai bánh một cách lơ đãng, lòng vẫn còn lo lắng cho mẹ.

Cậu em trai nhìn cô một cách tư lự và hơi tò mò, bởi vì cậu có nhiều xúc cảm với Emma, người mà cậu kính phục. Cậu luôn tìm sự tán đồng của cô, nhưng trong lúc cố gắng chiều lòng cô, cậu thường làm những điều tức cười một cách ngu ngốc khiến cậu cảm thấy bực tức. Tuy nhiên, điều đó cũng qua nhanh thôi. Có một sự thán phục trong đôi mắt xám khi cậu ngả người về phía trước, nói một cách tâm sự và hết sức nghiêm trang: "Em mừng là chị có thể ngăn được ba và anh đánh nhau. Em rất sợ khi họ la hét, chị Emma ạ".

Cô nhìn em lơ đãng, lạc đi trong những suy tư trong khi cô để đĩa xuống bệ lò sưởi: "Chị biết, nhưng mọi chuyện qua rồi mà em".

"Ờ, nó vẫn làm em sợ", cậu nói nhanh. "Chính vì thế mà em mới phết mỡ lên quá nhiều, chị biết không. Em run quá mà", cậu nói hết, cố gắng gỡ tội cho mình.

Emma cười lớn: "Mù! Thật là nói láo không biết ngượng mồm, Frankie", cô mắng.

Cậu bé sửng cồ, thân hình gầy gò của cậu căng thẳng, đôi mắt hiền lành đột nhiên trở nên dữ tợn trong khi cậu kêu lên một cách hăng hái: "Mẹ đã bảo chị không được gọi em là Frankie cơ mà, chị Emma".

Emma thấy cậu nghiêm chỉnh thực sự, cô mỉm cười nói: "Xin lỗi em, em nói đúng. Mẹ rất ghét những cái tên giễu cợt".

Frank ngồi thẳng người trên ghế, làm vẻ tư thế quan trọng: "Mẹ nói em là con trai đã lớn, còn Frankie là cái tên trẻ con", cậu thốt lên bằng giọng the thé những hết sức nghiêm nghị.

"Đúng, em đã lớn rồi", Emma trả lời và mỉm cười âu yếm. "Nào, chúng ta chuẩn bị đi".

Cô mang cái đĩa ra chậu, rửa và lau khô thật nhanh, rồi quay lại bên lò sưởi. Emma cầm đôi ủng từ lòng lò nơi cha cô đã để vào cho ấm, đi ủng vào một cách kiên quyết. trong khi buộc dây, Emma liếc nhìn Frank và nghĩ một cách sốt ruột: "Đấy, nó lại mơ mộng rồi, nhưng mà những giấc mơ của nó sẽ rất tốt đối với nó". Emma thì ít có thời giờ đưa mình vào mơ tưởng, nhưng những lúc có thời giờ, những mơ tưởng ấy nó chắc chắn, thực tế và không hề lãng mạn: áo ấm cho tất cả bọn họ; thật nhiều than đen đẹp trong hầm; một tủ thức ăn đầy ắp thịt hun, những khoanh thịt bò, từng dãy hoa quả và rau đóng thành chai giống như phòng để thức ăn ở Hon. Và những đồng tiền vàng rủng rỉnh trong túi, đủ để mua tất cả những thức cần thiết và đồ xa xỉ cho mẹ cô, ủng mới cho cha cô. Cô thở dài. Frank mơ ước có thật nhiều sách và đi thăm London, ngồi trên những chiếc xe sang trọng, đi xem hát, mơ ước những cuốn hoạ báo thỉnh thoảng cô mang từ Hon về. Và Winston thì mơ ước vào Hải quân, được đi khắp thế giới và những chuyến phiêu lưu ở những miền đất lạ. Frank và Winston mơ ước vui thú và vinh quang, Emma khi có thì giờ để mơ thì mơ ước được sống cho ra sống.

Cô lại thở dài. Cô mong có thừa được một vài shilling một tuần để giúp đỡ họ, chẳng cần phải là những đồng tiền vàng. Cô đứng lên dứt khoát, mặc áo khoác vào và gọi Frank: "Đừng ngồi đó ngây ra mà nhìn như con vịt con nữa, em. Mặc áo khoác vào. 6h kém 20 rồi đấy, và nếu chị không gấp lên thì chị bị chậm mất".

Cô đưa cho Frank áo và khăn quàng, cậu quấn khăn quanh cổ. Emma chặc lưỡi, lắc đầu, lập tức tháo khăn của em ra rồi cuốn quanh đầu, buộc chặt dưới cằm cậu. Cô nhặt chiếc mũ phớt đội chặt lên khăn, mặt kệ cậu dãy và phản đối.

"Ôi, chị Emma, em không thích quàng khăn cái lối này", cậu kêu lên. "Những thằng khác cười em, gọi em là thằng thò lò mũi".

"Nếu không thì nó không ấm cái tai, và chị đã bảo với em là không cần phải để ý đến những gì người ta nói về mình cơ mà, Frank. Nào, thôi nhanh nhẹn lên".

Cô quàng khăn của mình vào, đưa cho Frank chiếc hộp, nhìn quanh phòng một lần nữa rồi thổi tắt nến. Nắm chặt lấy tay Frank, cô kéo em ra khỏi nhà.

Chúng ngập ngay vào trong một buổi bình minh đen, cái lạnh quất vào chúng từng đợt gió đầy sương giá. Hai đứa trẻ vội vã đi xuống con đường lát đá, đi qua những bụi uất kim hương và tử đinh hương héo hon băng giá trong khu vườn nhỏ gầy guộc. Đất lạnh lẽo, cứng và trơ như đá. Âm thanh duy nhất là tiếng rên rỉ của gió và giầy ủng của chúng nện trên đá lạnh. Căn nhà trong ngõ cụt nơi chúng sống ở cao trên làng Feli, phía sau là cái nền cao hơn của vùng đồng hoang mênh mông, quạnh hiu và không mến khách, chỉ có những ánh sáng xanh xao loé lên nơi cửa sổ vài ba ngôi nhà là cho được người ta một ý niệm có người ở. Khi chúng ra tới đầu đường, Frank ngước bộ mặt nhỏ bé giá lạnh sang Emma và nói: "Em đến nhà dì Lily nhé".

"Ừ, em nói với dì đến thăm mẹ sáng nay. Nói với dì là mẹ có mê sảng một chút, nhưng khi chị em mình đi thì mẹ đã yên rồi. Mà đừng nói chuyện với dì lâu quá đấy, em biết là đốc công của nhà máy đóng cửa lúc 6h đúng. Nếu em bị khoá ở ngoài thì em sẽ phải đợi cho đến 8h và họ sẽ trừ lương của em đi đấy. Chóng ngoan nhé. " Cô hôn em rồi kéo chiếc mũ của cậu xuống cho chặt.

"Chị có đợi cho đến khi em tới nhà dì Lily không?", Frank hỏi, hết sức cố gắng để khỏi tỏ ra sợ hãi. Emma gật đầu: "Ừ, cưng, em cứ đi đi".

Frank chạy vào sương mù, thỉnh thoảng lại trượt chân trên đá sỏi rất trơn. Cô nhìn theo hình bóng nhỏ nhoi của em lướt xuống phố cho đến khi cậu chỉ còn là một cái bóng mờ trong làn ánh sáng đục. Nhưng có thể nghe thấy tiếng đôi ủng của cậu nện trên sỏi và khi chúng dừng lại, cô biết là em đã tới nhà dì. Tiếng gõ cửa to cùng với chiếc hộp thiếc làm cô an tâm là em mình đã thực sự đến nơi, cậu làm ồn đến nỗi đánh thức được cả người chết lẫn bà dì Lily, cô nghĩ, rồi lai ước giá như mình đừng nghĩ tới cái chết. Emma run lên khi cô quay đi hướng khác, đi về phía đồng hoang.

Cô là một hình bóng cô đơn nhưng thanh thoát trong chiếc váy dài màu đen và chiếc áo khoác cũ đã trở nên quá nhỏ, khi cô bước đi một cách lì lợm và can đảm về phía Feli Hon, thỉnh thoảng lại đưa mắt nhìn bầu trời nặng như chì và vùng đồng hoang u tối trải dài thành một đường bất tận trước mắt.

Những ngọn đồi nhấp nhô trùng điệp chế ngự làng Fairley và dải thung lũng Aire phía dưới luôn tối tăm và trầm mặc ngay cả trong lúc thời tiết tốt nhất. Nhưng khi mùa đông tiến hành cuộc bao vây dài dặc và khủng khiếp thì cảnh tượng trùm trong một bức tranh màu xám dưới những đám mây màu tro, vùng đồng hoang mang một vẻ hoang vu man dại, những đồi đá, những ngọn đồi trọc bị bóc đi mọi màu sắc cuộc sống. Mưa và tuyết tuôn xuống không ngừng, gió từ biển Bắc thổi vào hung dữ và tàn khốc. Những ngọn đồi cát, u ám hơn vùng đồng hoang xanh của miền thung lũng đá vôi bên cạnh, tất cả là một miền yên lặng mênh mông ngoài tiếng than vãn của gió, vì ngay đến muôn vàn những con suối núi nhỏ và những dòng suối cuồn cuộn chảy làm bớt cái đơn điệu trong mùa xuân và mùa hè, thì nay đã bị băng giá và lặng thinh. Vùng cao nguyên đầm lầy rộng lớn này trải dài không biết bao nhiêu dặm không có người ở về phía Shipley và thành phố công nghiệp sầm uất Leeds ở phía bên kia. Nó không có hình nét gì hết chỉ trừ vài vách đá cheo leo cao hun hút, vài cái cây đen thui, những bụi gai co quắp, những căn nhà xo rụi bỏ không điểm vào những khoảng không lạnh lẽo trống vắng. Sương mù liên miên, toả khắp và dày đặc trôi nổi trên vùng phong cảnh gân guốc, làm mờ cả những đỉnh núi cao nhất, phá huỷ chân đồi, trời đất hoà làm thành một màn xám bất tận bao trùm lên hết thảy. Ở đây ít có bằng chứng về con người, và ít có người dám đi lại trong khu vực.

Nhưng Emma lại tiến về vùng đồng hoang nghiệt ngã một cách khắc kỷ trong một buổi sáng tháng Hai băng giá năm 1901. Cô rùng mình khi rảo bước và thu mình hơn nữa trong chiếc áo khoác - đồ thải bỏ của nhà Hall, sờn rách, vá víu mỏng manh chẳng khác gì một tờ giấy. Khi cô được cho chiếc áo vào mùa hè, nó đã cũ kỹ, thảm thê lắm rồi, nhưng Emma đã nhận nó một cách biết ơn. Cô đã kiên nhẫn mạng những lỗ thủng, nối thêm cho dài ra và đơm khuy mới. Nhưng cô lớn quá nhanh và nó chật căng ở phía lưng. Ống tay áo quá ngắn và cánh tay gầy của cô thò ra một cách tội nghiệp như hình nộm rơm, phơi cái cổ tay trẻ con ra. Gió nhay một cách phản phúc qua làn áo mỏng và không khí ẩm làm cô ướt sũng, ngấm vào trong xương, đôi chân cô tê dại không còn sức sống. Cô kéo khăn quàng chặt hơn quanh đầu, thọc vội hai bàn tay nứt nẻ vào túi. Răng cô va lập cập vào nhau, mắt cô ứa nước vì những cơn gió băng giá, cô ao ước xiết bao là đến được Hall mặc dù cô ghét cái nơi ấy đến mấy.

Cho tới khi Emma tới được cánh đồng xây tường đá dẫn ra đồng hoang, cô đã hết hơi. Cô dựa vào ván mà nghỉ một lát, hơi thở của cô vẫn còn hổn hển, tim đập thình thình trong lồng ngực. Dưới chân cô, bên kia, trong thung lũng, một ánh sáng mờ mờ yếu ớt nói với cô là xưởng máy Fairley đang chuẩn bị cho công việc hàng ngày. Chẳng bao lâu nữa, còi tầm chói tai của nhà máy sẽ vang lên, phá tan sự yên lặng bằng giọng gay gắt, báo hiệu cửa mở. Trong một thời gian ngắn, đàn ông, đàn bà Fairley sẽ hối hả đi xuống điểm danh và lại bắt đầu một ngày buồn thảm, chải len sống, quay len, xe len chở đi khắp thế giới.

Emma nhìn ngơ ngẩn vào làng, nơi có mẹ cô và đó cũng là dấu hiệu cuối cùng của cuộc sống cho đến khi cô tới Hall, rồi quay ngoắt đi. Cô đã nghỉ một lúc lâu và bây giờ phải nhanh chân lên thì 6 giờ mới tới được Hall. Cô nhấc váy, trèo lên bậc, nhảy nhẹ nhàng vào trong cánh đồng. Cô làm việc ở Hall đã được 2 năm rồi, và đã thuộc lòng đường đi đến nó. Ý nghĩ hướng về cha cô trong khi cô vẫn bước đi. Emma yêu cha và hiểu bản chất của ông, nhưng ông đã làm cô bị xáo trộn suốt mấy tháng nay. Cha cô không còn như xưa kể từ khi ông trở về sau cuộc chiến tranh Bauer. Emma thấy hình như tất cả tinh thần đã toát hết khỏi con người ông, ông trở nên âm thầm, lặng lẽ, nhưng bất thình lình hay bùng lên những cơn giận không thể nào kiềm chế được khi Winston hoặc bất cứ ai ngoài cô và mẹ cô làm ông bực bội.

Sự bất thường trong cách cư xử của cha và những tâm tính hoàn toàn trái ngược nhau làm cho Emma lúng túng. Khi ông nhìn cô trống rỗng, ông giống như một đứa trẻ lạc loài. Đôi khi cô muốn nắm lấy ông, lắc thật mạnh để cố gắng giật ông trở lại với cuộc sống. Nhưng cô quá yếu ớt và mỏng manh để làm việc đó, vì thế, cô cố gắng lắc ông ra khỏi cơn ưu phiền với những câu hỏi và quấy rầy ông về chuyện tiền nong, nhắc ông tới cái ốm đau của mẹ cô. Khuôn mặt của ông vẫn luôn bất động và khép kín, nhưng đôi mắt ông đầy đau đớn. Chính cơn đau ốm của Elizabeth và nỗi sầu muộn của ông về vợ đã làm Jack Harter thay đổi và hoá đá linh hồn ông, làm cho ông trở thành vô dụng.

Nhưng Emma, trong cái ngây thơ non trẻ của mình, không hoàn toàn hiểu được điều này. Say mê với một mục đích duy nhất là làm thay đổi cái tình cảnh khốn khó mà họ sống, và điều này làm cô không thấy cái gì khác nữa. Cô chỉ biết có một điều là cha cô không có một đáp ứng nào cho cô, không có giải pháp nào cho những vấn đề của họ. Để cố gắng xoa dịu cô, ông lại bám vào cái câu nói xưa cũ mà gần đây ông hay dùng: "Mọi việc rồi sẽ tốt đẹp hơn, con ạ". Winston anh cô luôn luôn bị đánh lừa bởi cái tâm trạng tự tin và lạc quan của cha họ, và đôi mắt cậu sẽ lập tức chiếu sáng với nỗi mong chờ những ngày tháng tốt đẹp hơn. Cậu hỏi lại một cách hồi hộp: "Bao giờ, ba? Bao giờ?" Đầu óc thực tế của Emma lại kêu lên: "Làm thế nào, ba? Làm thế nào?" mặc dù cô không bao giờ thốt ra câu ấy. Cô sợ không dám ném ra lời thách thức này khi cha cô đã cố gắng cam đoan với Winston. Cô cũng biết, không cần phải hỏi, do những kinh nghiệm qua, rằng không thể nào có một câu trả lời thực sự và chẳng có một ý nghĩa thực tế nào nảy sinh ra cả. Emma, vốn là người thực tế, đã hiểu cái điều không thể tránh được này từ nhiều tháng trước và cô đã chấp nhận nó một cách khuất phục, bởi vì cô không hiểu làm cách nào để thắng được tính ỳ và sự bất lực của cha, sự chần chừ và thiếu năng động của ông.

- "Không gì xảy ra để có thể thay đổi số phận của chúng ta bởi vì ba chúng ta chẳng làm gì để thay đổi nó cả", Emma nói to một cách quyết liệt khi cô trèo qua bức tường thấp, tới con đường của đồng hoang phía bên kia cánh đồng. Cô vẫn còn chưa hiểu được rằng khi một người đàn ông đã mất hy vọng, thì anh ta không còn lại gì, đôi khi không còn ý chí muốn sống nữa. Và tất cả niềm hy vọng đã bị hất khỏi Jack Harter từ lâu.

Cô thổi vào đôi bàn tay lạnh giá, rồi lại đút nó vào túi, và bước lên cái dốc thấp dẫn cô tới Fairley Hall. Gần đây Emma không nhắc tới vấn đề tiền với cha cô nữa, nhưng nó vẫn không rời cô. Họ phải có thêm tiền để sống, nếu mẹ cô muốn hồi phục sức khoẻ. Emma biết, không có tiền, họ không là gì hết, chỉ là một nạn nhân bất lực và bị áp lực của giai cấp thống trị, một con vật bị đóng ách, bị xiềng xích vào một cuộc đời buồn thảm và một cuộc sống quá khốn khó, không hy vọng, đầy kinh hoàng và thất vọng đến độ không muốn nghĩ tới nó nữa, nói gì tới sống. Không có tiền, mình phải lệ thuộc vào những thói chất chưởng, những tâm tính, tính đồng bóng của những kẻ giàu vô tâm, bất cẩn, những thăng trầm của cuộc đời. Không có tiền, mình sẽ bị cuộc đời công phá.

Từ khi làm việc ở Fairley Hall, Emma có óc quan sát nhạy bén, cô cũng được trời phú cho cái khôn ngoan sắc sảo, cái cảm thụ đáng ngạc nhiên so với tuổi cô. Cô đã nhanh chóng thấy được và nhận ra sự khác nhau ghê gớm, quỷ quái giữa cuộc sống ở Fairley Hall và cuộc sống trong làng. Gia đình Fairley sống trong xa hoa, lộng lẫy, được nuông chiều và hoàn toàn cách biệt với thực tế đầy cay nghiệt của đời sống những người thợ, những người mà sự lao dịch triền miên, không được một chút xót thương đã cung cấp một thế giới vàng son đầy thoải mái, dễ chịu cho họ.

Quan sát gia đình Fairley và cung cách họ sống, Emma đã bắt đầu hiểu rằng tiền không phải chỉ để mua những thứ cần thiết, mà còn rất nhiều thứ khác nữa. Cô cũng đã đi tới chỗ nhận ra được rằng người có tiền cũng có quyền, một điều đáng ao ước nhất đối với Emma, vì bây giờ cô biết được rằng, uy quyền làm cho mình bất khả xâm phạm. Đồng thời cô cũng nhận thức được một cách cay đắng, sự thật là không có công lý, không có tự do cho người nghèo. Đúng, cô nghĩ một cách quyết liệt, tiền là câu trả lời cho mọi thứ.

Phải có một cách cho mình kiếm thêm tiền, cô quyết định. Có những người nghèo và những người giàu trên thế giới này. Và nếu như một số người có thể giàu thì rõ ràng những người khác cũng có thể như vậy, cô lý luận. Cha cô luôn nói đó là vấn đề số và may mắn. Emma không thích những câu trả lời có sẵn, bởi vì cô không tin ở sự đúng đắn của nó và vì thế cô từ chối không chấp thuận chúng. Nếu một người có một kế hoạch xuất sắc và làm việc nhiều, nhiều hơn bất cứ người nào khác thì rõ ràng người đó có thể kiếm được tiền. Rất nhiều tiền, cả một cơ nghiệp, có lẽ vậy. Emma đã để mắt vào mục đích này, không hề nao núng, không bao giờ thật sự mất lòng dũng cảm, bởi vì dù cô thiếu kinh nghiệm cuộc đời nhưng bù lại, cô có những điểm còn giá trị hơn: trực giác, trí tưởng tượng và tham vọng. Một cách bản năng, Emma hiểu nhiều điều và một trong những điều đó là sự tàn nhẫn, lạnh lùng rằng tiền không nhất thiết có được bởi sự thừa kế hoặc do tình cờ. Cô thở dài, thấy lạnh buốt thấu xương và đầy thất vọng về mẹ cô. Bà đơn độc không có bạn bè, chiến đấu với cuộc đời không một bàn tay giúp đỡ hoặc lời khuyến khích của bất cứ ai. Nhưng từ nhiều tháng trước, cô đã quyết định, không để chuyện đó đánh bại mình. Cô sẽ tìm một con đường để kiếm tiền, thật nhiều tiền, bởi vì chỉ đến lúc ấy cô mới được an toàn.

Bàn chân Emma đi theo con đường hẹp và mặc dù sương mù dày đặc, cô biết mình đang tới đỉnh của con dốc thấp, bởi vì cô đang thở hổn hển và đôi chân đau nhức vì leo. Cô rùng mình dưới cơn gió lộng từ đèo cao thổi xuống làm dựng cả cổ áo khoác. Đôi bàn tay cô lạnh cứng, nhưng chân cô thì ấm. Cha cô đã sửa lại đôi ủng cho cô tuần trước, ông mua hàng thuộc da và lông cho lần lót bên trong. Cô đã đứng cạnh ông, xem ông cắt đế và đóng thật chắc vào cái phần trên đã mòn và đôi ủng trên cốt giày sắt trong nhà bếp. Cô cũng nghĩ tới bát cháo nóng bốc hơi nghi ngút và hơi ấm của nhà bếp khổng lồ ở Hall, những sự thôi thúc này làm cô vội vã.

Một vài cái cây khẳng khiu lù lù trước mặt cô trong một khung cảnh tàn nhẫn, khắc nghiệt và ma quái trên một nền trời xanh thuỷ tinh. Trái tim cô bắt đầu đập dồn dập một phần vì mệt mỏi nhưng cũng vì sợ, bởi vì bên kia những hàng cây trơ trụi, con đường thẳng xuống Ramxđen Gim là một thung lũng nhỏ giữa hai quả đồi. Gim là một nơi mà Emma ghét nhất trên cuộc hành trình tới Hon, bởi vì đó là một nơi mê ám đầy những hình đá kỳ quái và những gốc cây đáng nguyền rủa. Sương mù, bị kẹt giữa hai đỉnh núi vút lên trên thung lũng, tụ lại, đóng thành một khối đen xám nặng nề, hầu như không thể qua nổi.

Emma kinh sợ chốn này, nhưng cô vẫn rảo bước, tự mắng mình vì sợ hãi trong khi cô nhào xuống con đường vào Gim. Cô sợ những bóng hình quỷ quái, những bóng ma của đồng hoang dường như trôi nổi như hơi nước mà lại đầy hăm doạ giữa những tảng băng lớn tạo nên bằng những sạn cát. Cô cũng sợ những linh hồn lang thang mà dân làng nói một cách mê tín là lởn vởn ở Gim. Để xua đuổi những hồn ma bóng quỷ và những linh hồn lạc loài, cô bắt đầu hát thầm trong đầu mình. Cô không bao giờ hát to vào giờ này trên đồng hoang vì sợ đánh thức người chết. Cô không biết nhiều bài hát, trừ một vài bài học ở nhà trường, nhưng cô thấy chúng nhạt nhẽo và trẻ con. Vì thế, cô hát bài "Tiến lên, hỡi những người chiến sĩ Cơ đốc giáo" một cách lặng lẽ và tiến bước một cách dũng cảm theo nhịp quân hành trong đầu.

Khi đã đi nửa đường tới Gim thì những lời bài hát đột nhiên bị quét đi. Emma dừng lại, đứng sững. Cô lặng người, nghe ngóng chăm chú. Ngay dưới tầm gió, cô nghe tiếng ầm ì khe khẽ như của một cái gì rất lớn và mạnh mẽ, được đẩy bằng một sức khổng lồ đang từ phía kia Gim đi xuống con đường. Cô rúm người sau một tảng đá, nín thở, nỗi sợ ngấm vào người như nước đá. Rồi, anh ta đứng trước mặt cô, không phải là một con quỷ còn phôi thai như một tảng đá hay một cái cây, mà là cả một con quỷ có hình thù, một người đàn ông cao như khổng lồ, cúi xuống nhìn chằm chằm vào cô qua cơn lốc sương mù.

Emma hít hơi, nắm chặt hai nắm tay trong túi. Cô tự hỏi mình một cách điên cuồng, không biết có nên lao ra, chạy trở lại, nhưng cô quá tê liệt vì sợ hãi không thể nhúc nhích nổi. Thế rồi con quỷ nói, và càng làm cô kinh sợ hơn.

- "Số mình thật may mắn gặp được một cô gái trẻ nhanh nhẹn ở cái vùng đồng hoang đáng nguyền rủa vào cái giờ không còn thuộc về Chúa này. Đây là nơi của Quỷ, mình đang nghĩ thế, không phải là một miền đất để mà đi lang thang vào cái buổi sáng lạnh giá này..."

Emma không thốt được một lời nào. Cô ngước nhìn lên người đàn ông đang đứng sừng sững trước mặt, nhưng cô không thể nào phân biệt được hình nét của ông ta trong ánh sáng mờ đục. Cô nép sát vào khe giữa hai tảng đá, lòng thầm ước mình tan vào đó, mắt cô như bật ra khỏi tròng hốt hoảng.

Người đàn ông lại nói, giọng anh ta ma quái như không phải từ cơ thể phát ra, tới với cô qua sương mù: "À,cô gái nhỏ đang sợ đây. Mà cũng đúng thôi, làm người ta giật mình như vừa rồi. Nhưng mình chỉ là một gã ngu ngốc bị lạc đường trong cái đám sương mù đáng nguyền rủa này trên đường tới Fairley Hall. Cô có thể chỉ cho tôi đường tới đó, và tôi có đi đúng đường không?"

Tim cô bớt đập cuồng loạn, nhưng cô vẫn còn run sợ, bởi vì một người lạ trên những vùng đồng hoang này, mà anh ta quả thật là một người lạ...thì cũng nguy hiểm như một con quỷ. Cha cô đã từng dặn cô không bao giờ được nói chuyện với bất cứ người nào cô không biết, người không phải ở thung lũng và vì thế là "người ngoại quốc" trong địa phương này, và là kẻ đáng ngờ. Cô ép người vào những tảng đá, mong cho anh ta đi đi, môi cô mím chặt vào nhau. Có lẽ, nếu cô không trả lời những câu hỏi của anh ta thì anh ta sẽ biến đi cũng đột ngột như lúc anh ta hiện ra vậy.

- "Đúng là con mèo đã lấy mất lưỡi của cô bé rồi. Đúng vậy", người đàn ông tiếp tục nói, y như là đang nói với người thứ ba. Emma cắn môi và nhìn chung quanh một cách lo ngại. Hình như không còn một ai khác, mặc dù trong ánh sáng xanh xám cũng khó chắc điều đó.

- "Tôi không làm hại gì cô đâu, cô gái nhỏ ạ", giọng nói lại tiếp tục. "Chỉ cho tôi con đường tới Fairley Hall thôi mà, rồi tôi sẽ đi đường tôi, chắc chắn là như thế".

Emma vẫn không nhìn thấy rõ mặt người đàn ông bởi vì nó lạc trong sương mù lúc này đang nhấn chìm cả hai người. Cô nhìn xuống. Cô có thể nhận thấy đôi chân to lớn của anh ta trong giày ủng và cái dáng quần của anh ta. Anh ta không nhúc nhích một ly khỏi chỗ anh ta dừng lại lúc ban đầu, anh đứng nguyên ở đó, cứ như thể anh ta có cảm giác bất cứ một cử động đột ngột nào về phía anh sẽ làm cô lao ra khỏi chỗ ẩn náu, lao vào màn sương mù trong cơn kinh hoàng.

Anh hắng giọng và lại nói nhẹ nhàng hơn: "Tôi không làm gì hại cô đâu, cô gái nhỏ ạ. Đừng sợ tôi".

Có một cái gì đó trong giọng nói của anh làm cho Emma buông lỏng cơ bắp căng thẳng của mình. Dần dần sự run rẩy của cô giảm đi. Anh có một giọng nói lạ lùng nhưng dễ thương, khác với tất cả những giọng nói cô đã nghe trước đây. Rồi Emma nhận ra giọng của anh nhẹ nhàng biết mấy, đầy nhân hậu và ấm áp. Nhưng anh vẫn là một người lạ. Trước sự kinh hoàng và đôi chút ngạc nhiên của chính mình, cô lại nghe thấy tiếng mình bất giác hỏi: "Tại sao anh lại muốn tới Hall?"

- "Tôi tới đó để sửa lò sưởi và ống khói. Tuần trước chính ông chủ đã đến gặp tôi. Điền chủ Fairley, phải, đúng thế. Ông ấy đã đến thăm tôi ở Leeds và cũng rất tử tế rộng lượng, đã kiếm việc cho tôi".

Emma liếc nhìn người đàn ông một cách ngờ vực, ngước bộ mặt ướt của mình cố gắng nhìn anh ta qua màn sương. Anh là một người đàn ông cao lớn nhất cô từng thấy, mặc bộ quần áo thợ, anh có một cái túi vắt qua vai.

- "Anh là thợ đấu à?", cô hỏi một cách thận trọng bởi vì cô vừa chợt nhớ là bà bếp đã bảo cô rằng một người thợ đấu sẽ làm công việc sửa chữa và xây gạch ở Hall.

Người đàn ông cười phá lên, tiếng cười từ bụng phát ra làm cả khung người đồ sộ của anh rung chuyển. "Đúng, tôi là thế đấy. Shane O’Neill là tên tôi, nhưng tất cả mọi người đều gọi tôi là Blackie".

Emma lại ngước nhìn anh, cố quan sát bộ mặt anh trong không gian mờ mờ và rung rinh hơi nước. "Anh không phải người da đen chứ? ", cô hỏi bằng một giọng run run, rồi lập tức tự trách mình vì sự ngu ngốc. O’Neill là một cái tên Ireland, điều đó giải thích cho cái lối nói như hát của anh, lối nói rất xa lạ với Emma nhưng cô đã nghe giọng địa phương Ireland và chắc chắn là nó đây.

Câu hỏi của cô hình như làm cho cái con người khổng lồ này buồn cười hơn và anh ta lại vừa cười, vừa nói: "Không, tôi không phải người da đen, chỉ là một người Ireland thôi. Thế còn gọi cô là gì?"

Cô lại do dự, vì cô tin rằng người ta càng biết ít về mình bao nhiêu càng tốt cho mình bấy nhiêu, càng an toàn bấy nhiêu, bởi vì nếu họ không biết thì họ không thể làm hại được gì. Nhưng, trước sự ngạc nhiên của mình, một lần nữa cô thấy mình nói:

- "Emma. Emma Harte là tên của tôi".

- "Rất hân hạnh được gặp cô, Emma Harte. Nào, bây giờ chúng ta đã quen nhau, như người ta vẫn nói như thế. Cô có thể vui lòng chỉ cho tôi đúng đường tới Fairley Hall được không?"

- "Chính là con đường anh đi, ở phía kia", Emma nói, lúc này hoàn toàn cóng vì đã đứng giữa thung lũng ẩm ướt và băng giá. Rồi lại một lần nữa, trước sự bực bội của bản thân, nhưng cũng trước khi kịp ngăn mình lại, cô giải thích: "Tôi cũng đi Hall. Anh có thể đi với tôi nếu anh muốn".

- "Sao? Cảm ơn Emma, vậy chúng ta cùng đi. Ở đây lạnh và ẩm đến mức quỷ quái. Tệ hơn cả vùng đầm lầy vào mùa đông".

Emma tuồn ra khỏi chỗ nấp giữa những tảng đá, dẫn đường lên dải đất sẽ đưa họ ra khỏi Ramsden Ghyll và tiếp tục tới vùng bằng phẳng của đồng hoang vươn dài tới Fairley Hall. Đó là một dải đất hẹp khá chênh vênh, dốc thẳng đứng, và họ phải đi hàng một. Emma vội vã đi trước người Ireland, líu ríu lướt ra khỏi thung lũng. Họ không nói, bởi vì đây là ngọn đồi dốc quanh co khó đi, và nữa, bản thân con đường cũng gồ ghề, rải rác những tảng đá và những rễ cây cắm trong đất đóng băng hết sức phản phúc và nguy hiểm vào mùa đông.

Khi họ tiến lên qua Ghyll trên vùng đất phẳng, sương mù đã tan, nó bị những cơn gió gầm rú từ những vách đá cao vút thổi bạt đi. Không khí buổi sáng nhuốm màu trắng đục, và bầu trời trong xanh đầy những ánh sáng rực rỡ dường như toát ra từ một nguồn kín nào dưới chân trời một thứ ánh sáng chói chang. Cô dừng lại, thở hổn hển và quay lại nhìn vách đá Ramsden ở phía xa, như cô vẫn thường làm. "Hãy nhìn những con ngựa này", cô nói và chỉ vào những vách đá khổng lồ nhô lên trong cái lộng lẫy cô đơn nỏi bật trên nền trời.

Blackie O’Neill nhìn theo ánh mắt của cô và nín thở. Cô gái nói đúng. Những tảng đá quả là giống những con ngựa khổng lồ lồng lên đường chân trời những hình thù gồ ghề đột nhiên sinh động, y như thể chúng là những con thần mã khổng lồ trong thần thoại đang phi qua bầu trời, lóng lánh như vàng trong ánh sáng rực rỡ.

- "Trời, cảnh tượng đẹp quá. Chỗ đó là chỗ nào?" Blackie hỏi.

- "Ramsden Crags, nhưng dân làng đôi khi gọi nó là Ngựa bay. Mẹ tôi gọi nó là Đỉnh của Thế giới", Emma nói.

- "Mà tôi trông nó hình như là thật vậy, rõ ràng như thế", Blackie lẩm bẩm, đặt phịch cái túi xuống và hít thở không khí trong lành.

Emma chưa hề nhìn kỹ Blackie O’Neill. Anh đã đi phía sau cô trên con đường dẫn ra khỏi thung lũng và lúc này anh đang đứng phía sau cô ở bên bờ của Ghyll. Mẹ cô luôn dạy cô cách cư xử, và đã bảo với cô là nhìn chằm chằm vào người ta là điều thô lỗ, nhưng bây giờ tính tò mò của cô đã thắng, và cô tự cho phép mình quay lại từ từ. Cô nhìn lên người đàn ông đã làm cô quá sợ hãi lúc ban đầu và giật mình thấy anh ta còn rất trẻ, có lẽ không quá 18 tuổi. Và anh ta là một người hết sức bất bình thường cô chưa bao giờ nhìn thấy.

Blackie nhìn trả lại, cười rộng miệng, và trong một giây phút cô gái đã hiểu vì sao cô lại không sợ anh ta nữa. Mặc dù vóc người to lớn, quần áo vải thô, nhưng có một cái gì đó dịu dàng thanh nhã không thể nói ra được về người đàn ông này, cả vẻ ngoài, cũng như về tư thế nói chung của anh ta. Nét mặt anh ta cởi mở thân thiện hoàn toàn không thổ lộ và nụ cười mở rộng của anh ấm áp, đôn hậu và có đôi chút nghịch ngợm trong đôi mắt đen tử tế, hiểu biết. Emma thấy mình mỉm cười lại với anh, một điều chưa hề có đối với tính cách cô luôn nghi ngờ những người lạ.

- "Từ chỗ này không nhìn thấy Hall đâu", Emma giải thích, "nhưng bây giờ thì không còn xa nữa qua đồng hoang ở phía bên kia. Ta đi nào, em sẽ chỉ đường cho anh, Blackie", cô kêu lên phấn khởi, rất thích người bạn mới này.

Blackie gật đầu, nâng cái túi lớn lên, lẳng nó qua vai một cách dễ dàng y như thể nó là một bọc nhẹ chẳng nghĩa lý gì trong bàn tay to lớn khỏe mạnh của anh. Anh nhịp bước theo Emma lúc này đã bước nhanh nhẹn trên đường phía trước, và bắt đầu huýt sáo, đầu anh ngả về phía sau, những búp tóc bay bay theo gió.

Thỉnh thoảng Emma lại ngước lên nhìn anh. Trước đây cô không bao giờ gặp một người nào như anh, và anh hấp dẫn cô. Blackie cũng không phải không để ý thấy sự quan sát này, sự thật anh hết sức nhận biết được điều ấy và nó làm anh thích thú. Anh đã thoáng nhìn cô gái, bởi vì anh nhanh nhẹn và có con mắt quan sát. Anh đoán cô hẳn khoảng 14 tuổi khoảng như vậy, và chắc là một cô gái địa phương chạy việc vặt tới Fairley Hall. Cô thật là một cô gái quỷ quái? Rõ ràng anh đã làm cô kinh sợ trong sương mù. Khi họ cùng đi qua đường, anh mỉm cười, thán phục cái dáng đi mạnh mẽ của cô, cố gắng theo kịp sải chân dài của anh. Anh chậm hẳn bước lại khi anh thấy cô dường như không thở được nữa.

Shane Patrick Desmond O’Neill thường được mọi người biết đến với cái tên Blackie, cao không quá 6 foot 3 inch, nhưng trông vóc dáng anh to lớn, tấm lưng rộng và hai vai mạnh mẽ. Anh nở nang cân đối không có chút thịt thừa, tất cả con người anh là cơ bắp. Anh toát lên sinh lực, một sức mạnh không gì chế ngự nổi. Chân anh dài, bụng thon dưới bộ ngực căng phồng. Cũng dễ hiểu vì sao mọi người gọi anh là Blackie. Mái tóc dày xòa ra phía sau, đen bóng như mun, đôi mắt cách xa nhau dưới đôi lông mày cong rậm, đôi mắt to dịu, khôn ngoan, mặc dù nó có thể loé lên giận dữ khi anh nổi cáu, cũng có thể dễ dàng trở nên sầu muộn và bi thảm khi tâm hồn Celtic của anh bị những tư tưởng đau buồn làm vẩn đục. Nhưng nói chung, lúc nào anh cũng vui vẻ. Da anh đen, nhưng không phải đen sạm mà nâu nâu điểm chút ửng hồng trên hai gò má cao. Mũi anh thẳng và khá nhỏ, cái miệng rộng và môi trên dài của người Ailen đã để lộ nguồn gốc Celtic của anh. Khi anh cười, một vệt lẹm hiện lên ở cằm, hai má lúm đồng tiền, cả khuôn mặt anh biểu lộ một sức sống mãnh liệt.

Thực tế mà nói, Blackie O’Neill là một thanh niên rất đẹp trai, nhưng chính cách thức và thái độ của anh là cái hấp dẫn nhất và đứng về nhiều phương diện đã làm Blackie khác với những người đàn ông khác. Ở anh toát lên cái sinh động vui vẻ, nét mặt hoạt bát, linh động và không ít tài trí. Một vẻ duyên dáng thoải mái không hề màu mè là bản chất thứ hai của anh, tinh thần của anh sôi nổi, y như thể anh chấp nhận cuộc sống như nó có, và luôn được nó làm cho tươi vui. Có một sự tự tin thoải mái trong con người anh, và Emma trong khi quan sát anh, thấy anh dường như không thể bị chạm tới bởi sự mệt mỏi, sợ hãi, cái vô vọng ám ảnh những người dân bản địa, làm cho họ còng lưng xuống, già trước tuổi. Lần đầu tiên trong cuộc đời trẻ trung của mình, Emma đã gặp một con người không thể khuất phục được và một linh hồn vui tươi, không hiềm thù, một con người yêu đời, sống hết mình, cô có cảm giác mang máng về tất cả những điều đó, nó thôi thúc, làm hoang mang và hấp dẫn cô.

Trong khi bước vội bên anh chàng khổng lồ đẹp trai, mắt cô thỉnh thoảng lại ngước nhìn anh và cô thấy hết sức tọc mạch muốn biết về anh. Anh là một người bạn đồng hành vui vẻ bằng một cung cách kỳ quặc nhất và không giải thích được, cô cảm thấy an toàn khi đi bên anh, nói ít, mỉm cười rạng rỡ, thỉnh thoảng huýt sáo vui vẻ, đôi mắt sáng bừng của anh nhìn đồng hoang, mong đợi đỉnh chóp Fairley Hall. Và một cái gì đó của tính cách trong sáng và thân ái hình như đã chuyển sang cho Emma một cách huyền bí, và nét mặt cô vốn nghiêm nghị căng thẳng quá sớm ở lứa tuổi của cô đã dịu đi vì sự vui vẻ tiềm tàng của anh.

Cô rất ngạc nhiên khi Blackie mở miệng và cất tiếng hát, giọng nam trung hùng mạnh của anh vang lên trong không gian yên tĩnh với những âm thanh dịu ngọt du dương khiến cô giật mình. Lời bài ca thật đẹp.

“Chú bé hát rong đã lên đường ra mặt trận

Anh sẽ tìm thấy chú trong số người chết

Thanh gươm của cha, chú đeo bên mình

Và chiếc đàn hạc lủng lẳng sau lưng...”

Nghe Blackie hát, Emma thấy lòng nhói đau, nước mắt dâng lên, nỗi xúc động cô chưa hề có trước đây. Có một cái gì buồn đến ám ảnh mà lại ngọt ngào tê tái trong lời bài hát và giai điệu thấm thía, cổ họng cô đau vì nước mắt, đột ngột quá, không hề ngờ tới, cô cố nuốt chúng lại vì sợ tỏ ra trẻ con, mà còn hơi ngu ngốc nữa đối với người đàn ông này khi anh hát xong bài ca: "Chú bé hát rong".

Blackie nhìn cô, thấy những giọt nước mắt lóng lánh, rưng rưng trên khoé mắt cô, anh hỏi nhẹ nhàng: "Vậy em không muốn tôi hát nữa sao?"

Emma nuốt khan và hắng giọng mấy lần, cuối cùng mới nói lên được: "Ồ, có chứ. Em muốn anh hát. Có điều nó buồn quá". Cô lấy tay quệt mắt, gạt vội những dòng lệ, cô để ý thấy cái nhìn quan tâm trên nét mặt anh, vội vã nói thêm: "Nhưng anh có một giọng hát hay quá, thật đấy". Cô mỉm cười, hy vọng những giọt nước mắt không làm anh phật ý.

Blackie ngạc nhiên trước phản ứng nhạy cảm và xúc động của cô gái trước lời hát của anh, anh mỉm cười đáp lại và nói hết sức dịu dàng: "Ừ, đúng là một bài hát buồn, nhưng nó rất đẹp, Emma ạ. Dù sao nó cũng chỉ là một bài hát cổ thôi. Em không nên xúc động. Và vì em đã tốt bụng nói là thích giọng hát của tôi, tôi sẽ hát một bài chắc chắn làm em cười, tôi nghĩ thế".

Và anh hát. Giọng hát đẹp, giàu nhạc điệu của anh tạo thành những âm thanh hết sức vui nhộn, những từ ngữ sinh động của điệu nhảy Ireland tuôn ra một cách nhẹ nhàng. Anh cố ý chọn một bài hát vô nghĩa lý, đầy những chữ phát âm đến trẹo lưỡi và chẳng mấy chốc Emma đã cười thích thú, nỗi buồn chốc lát của cô đã bị lãng quên trong niềm vui mới.

Khi anh hát hết, cô kêu lên vui vẻ: "Thật buồn cười quá đi. Anh sẽ phải hát cho bà Turner, bà bếp ở Hall nghe. Bà sẽ rất thích, em chắc chắn thế. Và thể nào nó cũng làm cho bà cười".

- "Nhất định rồi, mà tôi cũng sẽ sung sướng nữa, Emma". Blackie trả lời một cách tốt bụng. Rồi anh hỏi một cách tò mò: "Mà tại sao em đến Hall sớm thế, tôi có thể hỏi được không?"

- "Em làm công ở đó", Emma trả lời một cách long trọng, đáp lại cái nhìn thân mật của anh bằng cặp mắt chăm chú không nao núng.

- "Thật à? Nhưng một cô gái nhỏ như em thì làm gì để kiếm sống?"

- "Em là người hầu bếp"

Nhìn thấy đôi mắt nửa như lảng tránh của cô, miệng trễ xuống và một nét u ám lướt qua mặt, Blackie chắc rằng cô cũng không thích công việc của cô ở Hall. Cô không nói gì thêm nữa, rút về sau cái vẻ mặt như có mạng che trên khuôn mặt nhỏ bé. Cảm thấy được sự không thoải mái của cô, anh không hỏi thêm nữa và bước đi yên lặng, một chút gì vui tươi mà họ vừa cùng chia sẻ đã bị bôi xoá đi vì tâm trạng thay đổi đột ngột của cô.

Đối với Blackie, cô là một cô gái buồn cười, cái cô gái nhỏ của vùng đồng hoang này mà anh đã gặp quá đỗi bất ngờ, một sinh vật còm nhom chỉ có da với xương. Anh thấy cái cô Emma Harte này cần một bữa ăn ngon, nhiều bữa ăn ngon trong nhiều tháng tới. Đúng như vậy. Cô là một cô gái nghèo khổ đáng lẽ phải ở nhà và nằm trên giường chứ không phải lang thang ở những cánh đồng hoang bị Chúa ruồng bỏ và không có sự sống này vào lúc mới chớm bình minh giữa một mùa đông giá rét.

Mặc dù đã cũ kỹ, nhưng quần áo của cô gọn ghẽ, vá víu cẩn thận và anh có thể thấy mặt mũi cô sạch bong. Mặc dù chỉ nhìn thấy chút ít của khuôn mặt ấy vì nó được trùm kín trong chiếc khăn len đen dày. Nhưng đôi mắt cô mỗi lần quay sang nhìn anh, đẹp không thể tưởng. Chúng to, xanh và sáng rực, đôi mắt xanh nhất chưa bao giờ anh thấy.

Emma chen vào dòng suy nghĩ của Blackie khi cô hỏi: "Lúc trước anh nói anh là người Ireland đen, như thế là thế nào?". Blackie quay sang nhìn Emma và thấy cái nhìn căng thẳng đã biến khỏi khuôn mặt cô. Đôi mắt anh ánh lên vẻ tinh nghịch, anh nói: "Ồ, mavourneen, không phải là một chú da đen châu Phi như em ngờ đâu, mà chỉ là một người có màu da, tóc đen, mắt đen nghe nói chúng tôi thừa hưởng của người Tây Ban Nha". Cô đã định hỏi anh xem "mavourneen" nghĩa là gì, nhưng lời nói cuối cùng vừa rồi làm cô ngạc nhiên quá nên câu hỏi ấy lại buột đi. "Tây Ban Nha? Làm gì có người Tây Ban Nha ở Ireland. Em biết quá đi chứ", Emma nói với một thái độ hung dữ, mắt cô loé lên. "Em cũng đã được đi học, anh biết không", cô báo cho anh biết một cách tự hào, tự hỏi không hiều có phải anh cho cô là một con ngốc không.

Blackie vui vui vì cái phản ứng của cô, nhưng anh vẫn tỉnh bơ: "Vậy thì đã là một cô gái trẻ có học thức, em phải biết rằng vua Philip của Tây Ban Nha đã cất một đạo quân lớn tràn vào nước Anh trong thời nữ hoàng Elizabeth. Sách còn nói, một số thuyền buồm lớn bị chìm ở ngoài khơi Ireland và những người sống sót, tất cả đều là người Tây Ban Nha, đã định cư ở đảo Emerald. Người ta nói rằng những người Ireland nước da đen là con cháu của họ, và có thể đó là sự thật, tôi nghĩ thế".

- "Em biết về những người Tây Ban Nha và Đạo quân ấy, nhưng em không biết về những người Tây Ban Nha sống ở Ireland", Emma nói, ngước nhìn anh thật kỹ.

Một sự hoài nghi biểu lộ trong mắt cô, đến nỗi Blackie vỗ đùi cười phá lên. "Tôi nói với em sự thật đó, Emma, thề trên đầu cách chư vị thánh thần, tôi xin thề là tôi nói sự thật, mavourneen".

Lúc này Emma nói một cách vô thức: "Này, cái chữ mavuorneen nghĩa là gì thế? Anh chứ luôn mồm gọi em như thế, Blackie. Em chưa bao giờ nghe thấy cái chữ ấy trước đây cả. Nó không thô lỗ chứ?"

Blackie lắc đầu, những búp tóc của anh nhảy nhót khi anh làm như vậy, nụ cười không tắt loé lên trong mắt anh, và qua khoé miệng rộng của anh. "Đó là một từ Ireland, nghĩa là thân yêu hay thân mến ấy mà, Emma ạ, cũng như chữ "yêu" mà người Yorkshire luôn dùng. Không phải một từ thô lỗ đâu, cô gái nhỏ ạ. Trìu mến có lẽ là cách giải thích tốt nhất, tôi nghĩ thế. Hơn nữa, ai lại có thể thô lỗ với một cô gái có học như em", anh nói bằng một giọng nghiêm chỉnh nhất, một điệu bộ hào hoa nhất.

- "Ồ, à", Emma nói, một thoáng hoài nghi của người Yorkshire có thể nhận thấy trong giọng nói của cô.

Một sự yên lặng ngắn, rồi quay lại nửa chừng, chạm vào cánh tay anh theo bản năng, cô hỏi: "Blackie, vậy anh có sống ở Leeds không?". Nét mặt cô đột nhiên sinh động hẳn lên, và anh cảm thấy nỗi kinh động mới trong cô.

- "Có, có. Mà đó là một thành phố tuyệt vời. Emma, em đã bao giờ ở đó chưa?"

Nét mặt cô xịu xuống: "Chưa. Nhưng thế nào rồi em cũng tới đó. Bố em hứa sẽ đưa em đi chơi một ngày, và em biết thế nào ông cũng đưa em đi nếu ông có thời giờ". Thế còn tiền vé, Blackie nghĩ nhanh. Nhưng thấy giọng nói cô thiếu dứt khoát và cảm nhận được nỗi ưu phiền của cô, anh nói một cách hăng hái và có vẻ cả quyết: "Chắc chắn ông sẽ đưa em đi, Emma ạ. Rồi em sẽ thấy đó là một thành phố hấp dẫn nhất. Ấy, hết sức hấp dẫn, và nhộn nhịp. Một thủ phủ thực sự, tôi nghĩ thế. Nó có những đường vòm rất lớn với những cửa hàng kỳ diệu đầy những đồ trang sức lụa là cho phụ nữ và cho các quý ông nữa. Phải, lụa là như một bà hoàng mặc ấy, Emma. Những chiếc áo dài lụa và satin đẹp không thể tả. Những chiếc mũ đẹp có chùm lông vũ và mạng che mặt, những đôi tất nhiều màu, những đôi ủng da mềm có cái khuy, dù và túi lưới. Tất cả những gì mà trái tim nhỏ bé của em có thể ao ước. Và những cravate lụa cho quý ông. Ấy, mà cả những ghim cài cravate bằng kim cương, những chiếc can bằng ngà bịt bạc và những chiếc mũ chóp cao mượt mà. Những đồ cao cấp mà cả đời mình không mong thấy, tôi nghĩ vậy, Emma ạ"

Blackie dừng lại, rồi thấy sự kinh ngạc trong mắt cô, sự rung động làm ngời sáng khuôn mặt cô và khao khát muốn nghe nữa, anh tiếp tục: "Có những tiệm ăn phục vụ những món ngon không thể tưởng tượng nổi như khẩu vị của chúng ta, Emma ạ. Và những sàn nhảy, những thính phòng gọi là Tạp kỹ của thành phố, những rạp hát sang trọng, ở đấy họ diễn những vở kịch tận thành phố London đem tới. Ô, chính mắt tôi đã được thấy Vesta Tilley và Marie Lloyd trên sân khấu, mavourneen ạ. Rồi những xe điện mới. Những xe cộ chạy trên đường ray, không cần ngựa kéo, chúng đi từ Corn Exchange đến mọi miền của thành phố. Tôi cũng đi một chiếc xe rồi, đúng thế đấy. Tôi ngồi ở tầng trên cùng để ngỏ, xem thành phố như một quý ông thực sự. Thật là có rất nhiều điều kỳ diệu để xem ở Leeds, thật đấy".

Mắt Emma sáng lên, tất cả những mệt mỏi và buồn phiền bao trùm lấy cô sáng sớm nay đã tan đi một cách huyền diệu, trí tưởng tượng của cô bốc lửa, những xúc cảm được khuấy lên mãnh liệt bởi câu chuyện của Blackie. Theo như thói thường, cô cố gắng tự kiềm chế, nhưng trong sự nóng lòng muốn biết thêm về cái nơi kỳ diệu ấy, giọng cô cất cao và trở nên the thé: "Thế tại sao anh lại phải sống ở Leeds, nói cho em nghe thêm về thành phố ấy đi".

- "Tôi sống ở Leeds bởi vì không có công việc ở quê hương Ireland của tôi", giọng anh thấp xuống, bây giờ tẻ và buồn nhưng không có sự cự nự hoặc hiềm thù, chỉ có một sự cam chịu mơ hồ. "Ông cậu Pat của tôi sống ở Leeds từ nhiều năm, ông bảo tôi đến làm thợ đấu cùng với ông. Ở Leeds có nhiều việc lắm, nó là một thủ phủ đáng phát triển như tôi đã nói với em, Emma ạ. Khi tôi thấy tất cả những xí nghiệp mới mọc lên cùng các nhà máy và các xưởng đúc cũng như những chiếc xe đẹp đẽ, những ngôi nhà thanh lịch của tầng lớp quý tộc nhỏ, tôi tự nhủ thầm: "Blackie O’Neill, một người thợ đi làm thuê không sợ lao động nặng nhọc, khoẻ mạnh, dẻo dai, có thể đương đầu với bất cứ một người đàn ông nào. Đấy chính là một nơi để sống, bởi vì đường phố chắc chắn là lát bằng vàng. Người ta có thể làm nên sản nghiệp ở Leeds, tôi tin là thế, vì vậy mà tôi đến đó. Đó là 5 năm trước đây. Bây giờ cậu Pat và tôi đã có cơ sở riêng. Chúng tôi làm công việc sửa chữa và xây dựng cho các chủ xưởng và các tiểu quý tộc. Chúng tôi làm ăn được, cô gái nhỏ ạ, bây giờ cũng chỉ nhỏ nhoi thôi, nhưng tôi biết là nó sẽ lớn lên. Em có biết không, rồi thế nào tôi cũng trở nên giàu có. Tôi sẽ có rất nhiều tiền và trở thành triệu phú".

Anh hất đầu ra sau một cách kiêu căng và cười, nét mặt anh đầy lạc quan tươi trẻ. Anh quàng tay qua vai cô, nói một cách tâm sự và đầy tự tin: "Tôi sẽ mua một cái ghim cài cravate bằng kim cương và trở thành một quý ông lịch sự, một người thượng lưu thực sự, nhất định thế mavourneen ạ, xin thề có các chư vị thánh thần".

Emma đã chăm chú nghe. Lời nói của Blackie gây xúc động làm cô ngây ngất, khơi dậy tất cả những mong chờ trong lòng cô. Nhưng cái từ "sản nghiệp" đã gây một ảnh hưởng sâu sắc nhất đối với cô. Những ý nghĩ về quần áo đẹp và nhà hát bị xua đi. Những thứ vô bổ đó thật vô nghĩa khi đem so sánh với những phát hiện của Blackie về những cơ hội để lập một sản nghiệp ở Leeds. Đây là một con người nữa biết rằng tiền có thể kiếm được cũng như có thể được thừa hưởng. Trái tim Emma đập thình thịch quá lớn đến nỗi cô nghĩ lồng ngực mình có thể nổ tung, và giờ đây cô phải dùng tất cả sức lực của mình để giữ tư thế. Cô cảm thấy không thể thốt nên thành lời, cuối cùng cô hỏi: "Một người con gái như em có thể lập nên sản nghiệp ở Leeds không?"

Đây là điều Blackie không hề chờ đợi. Anh ngây người cúi nhìn Emma và thấy cô bé chỉ đứng cao tới ngực anh, mỏng mảnh, xanh xao, thiếu ăn, trái tim anh thắt lại vì thương xót và bao dung. Cô gái nhỏ tội nghiệp, anh nghĩ, lý ra mình phải ngậm miệng. Mình thật là điên rồ, làm đầy đầu cô bé với những giấc mơ cho một cuộc sống tốt đẹp hơn, một thế giới mà cô sẽ không bao giờ thấy được. Anh sắp sửa trả lời cô một cách phủ định thì thấy, với sự sáng tỏ ghê gớm, ánh mắt của cô - tham vọng, trâng tráo, không gì lay chuyển được. Anh nhìn khuôn mặt ấy, đột nhiên rất nghiêm nghị, đôi mắt loé lên ánh sáng xanh cứng rắn. Đó là một khuôn mặt kiên cường nhất mà anh chưa bao giờ thấy, và anh bị choáng váng, cảm thấy ớn lạnh phía sau gáy và cái trực giác Celtic của anh nói với anh là lời cô nói hết sức nghiêm chỉnh. Anh không thể khuyến khích cái ý nghĩ phi lý về lập nghiệp ở Leeds của cô, nhưng anh phải cố gắng hoà giải. Và như vậy Blackie O'Neill đã nuốt lại chữ "không" sắp sửa thốt ra, hít một hơi dài, mỉm cười và nói với tất cả sự hào hiệp mà anh có thể tạo ra: "Thật tình là em có thể làm được, Emma, nhưng không phải là bây giờ. Em mới chỉ là một cô gái nhỏ, em không thể nào tới Leeds. Phải đợi lớn lên đã, tôi nghĩ vậy. Đó là một thành phố đẹp, rõ ràng như vậy, nhưng cũng khủng khiếp và nguy hiểm đối với một cô gái bé nhỏ như em".

Emma làm như không nghe thấy điều đó. Ít nhất thì cô cũng phớt lờ nó đi. "Em sẽ làm việc ở đâu để gây dựng cái sản nghiệp ấy", cô hỏi dồn "Em sẽ làm gì?"

Blackie nhận ra rằng không dễ gì có thể xoa dịu được cô. Anh giả vờ cân nhắc vấn đề một cách nghiêm túc, chẳng lẽ anh không nhìn thấy vẻ quyết liệt trên nét mặt cô hay sao? Mọi thứ đều có thể được, trên những cánh đồng ma quái này, vào giờ này giữa mùa đông.

- "Ồ, để tôi nghĩ kỹ xem sao", anh nói một cách thận trọng. "Có lẽ em có thể làm việc tại một trong những xí nghiệp may quần áo đẹp, hoặc một trong những cửa hàng thanh lịch bán đồ trang sức cho phụ nữ. Có nhiều thứ em có thể làm được, nhưng như tôi đã nói trước đây, tôi phải suy nghĩ cẩn thận. Điều này rất quan trọng. Phải tìm cho em công việc thích hợp, đó là bí mật của thành công đó em biết không, Emma, ít nhất tôi cũng nghe người ta nói như vậy.

Cô gật đầu, nhận ra điều anh nói là đúng và đang nghĩ xem có nên tâm sự tiếp với Blackie không, nhưng tính dè dặt làm nảy sinh sự thận trọng đã làm cô im bặt. Cô quyết định nói vậy bây giờ là đủ rồi, nhưng có một câu hỏi nữa có tầm quan trọng quyết định với cô: "Nếu như một ngày nào đó em tới Leeds, khi em đã lớn như anh nói, anh có chỉ cho em mọi thứ không Blackie? ". Cô ngước mắt nhìn anh, và anh lại thấy khuôn mặt của một đứa trẻ, anh thở dài nhẹ nhõm mặc dù cũng không rõ vì sao.

- "Nhất định như thế rồi, Emma. Đó là điều hân hạnh cho anh. Anh sống ở nhà trọ của bà Riley ở đường Ham and Shank, nhưng em luôn có thể tìm anh ở Murky Duck”.

- “Cái gì? Ham and Shank?”. Lông mày cô nhíu lại ngơ ngác.

Anh cười, thích thú trước sự bối rối của cô. "Nhịp của “Ham and Shank” là cái gì nào?"

- “Nhiều thứ lắm!”, cô thốt lên một cách rắn rỏi và ném cho anh một cái nhìn cay độc.

- “Là một cái bờ, chứ còn là cái gì nữa. Ham and Shank - The Bank. Thấy không? Nó nhịp với nhau đấy. Ở Leeds bọn tôi gọi là tiếng lóng nhịp. Tuy nhiên đây là bờ đường sắt, chứ không phải là bờ sông, nó gần Leylands. Nhưng ở đây chung quanh hàng xóm láng giềng không phải là tốt. Họ thô bạo lắm! Không phải là nơi để cho một cô gái nhỏ đi một mình, anh nghĩ thế. Vì thế nếu em muốn tìm anh thì cứ đi tới Murky Duck ở đường York và hỏi Rosie. Cô ấy bán bar và cô ấy sẽ biết anh ở đâu, nếu anh không ở quán rượu. Em biết không, có thể anh ở Golden Fleece ở Briggate. Em có thể viết lại mấy chữ cho anh qua Rosie, chắc chắn em có thể làm như vậy được và cô ấy sẽ đưa cho anh hoặc cho cậu của anh ngay ngày hôm ấy".

- "Cảm ơn anh lắm, Blackie", Emma nói và thầm nhắc lại một cách hết sức thận trọng những cái tên mà anh vừa tuôn ra để có thể nhớ được. Bởi vì cô quả có ý định đi Leeds và lập một sản nghiệp.

Cô yên lặng. Họ cùng sóng bước không nói thêm một lời, cả hai đều chìm trong những ý nghĩ của mình, nhưng đó là một sự yên lặng đồng điệu không một chút gì lúng túng ngượng ngập. Mặc dù là người lạ, họ đã thấy ưa nhau và một sự thông cảm nảy sinh giữa hai người, tuy sự quen biết có ngắn ngủi. Blackie nhìn quanh, anh nghĩ, được sống thật là một niềm hạnh phúc, có một công ăn việc làm, vài đồng shilling ấm túi và điều quan trọng hơn nữa là tương lai sắp tới. Ngay cả những cánh đồng hoang cũng có một vẻ đẹp diệu kỳ, giờ đây khi anh được nhìn chúng một cách cẩn thận, sương mù đã tan từ lâu, không khí không còn ẩm ướt nữa. Đó là một ngày hanh khô, gió nhẹ thổi vào những thân cây trụi lá, vốn khô cứng và không còn sức sống vào mùa này, một sức sống mới, khi chúng đong đưa trong gió. Bầu trời không còn là một màu chì buồn thảm nữa. Một màu xanh như kim loại loé ra.

Họ đã đi gần tới cuối cao nguyên bằng phẳng của đồng hoang, và Blackie bắt đầu tự hỏi bao giờ họ sẽ tới Fairley Hall thì vừa lúc Emma tuyên bố: "Hall ở phía kia, anh Blackie ạ", y như thể cô đọc đưọc những ý nghĩ của anh. Cô chỉ tay về phía trước.

Đôi mắt anh hướng theo cánh tay cô. Anh không thể nhìn thấy gì hết ngoài cánh đồng hoang trống rỗng. "Ở đâu? Có lẽ anh mù hay sao ấy Emma ạ. Anh chẳng nhìn thấy những chóp nhọn và ống khói gì cả, không như ông ấy miêu tả cho anh nghe tuần trước".

"Anh sẽ nhìn thấy khi anh lên tới đỉnh dãy đồi kia", cô khẳng định, "rồi là dốc tuột xuống. Chỉ một lát nữa chúng ta sẽ đến Baptist Field, nó ở ngay bên cạnh Hall".

Emma và Blackie bây giờ đã đứng trên đỉnh dãy đồi mà cô đã chỉ. Đằng sau họ, mênh mông đến tận bầu trời không một gợn mây là những đồi đá cao nơi những lớp tuyết cuối cùng lấp lánh đây đó như những lớp satanh trắng uốn lượn trong ánh sáng mặt trời tẩm nước. Ở phía dưới là một thung lũng nhỏ, đặc điểm của miền Tây Raiđinh nằm trong đôi cánh tay của vùng đồng hoan bao quanh trải dài đến tận chân trời

Và trong thung lũng mờ mờ này, tất cả đều xám mỡ, than củi phủi bụi, màu nâu đất, là Fairley Hall. Chỉ có đỉnh của những chop nhnj và ống khói là có thể được nhìn thấy từ nơi họ đứng, bởi vì bản thân ngôi nhà cũng bị một bãi cây làm cho mờ tối. Không giống những cây cằn cỗi thỉnh thoảng phá vỡ cái trơ trụi của đồng hoang, nhũng cây này là những cây sồi cao, đường bệ, những cành cây lan rộng đan vào nhau tạo nên những hình màu phức tạp. Những cuộn khói từ lò sưởi uốn lượn lên cao phúa sau nhữn hàng cây làm cho bầu trời xanh băng giá đầy những dấu hỏi bằng khói xám. Đột nhiên, một đàn quạ vỗ cánh bay ra khỏi bụi cây, vút lên cao, bay theo một đường lượn như một cuộn giây thừng màu đen dày treo lơ lửng ở cái không gian. Ngòai ra không còn một dấu hiệu nào của cuộc sống trong thung lũng nhỏ đang chìm trong giấc ngủ không bị phá vỡ vào cái giờ sớm sủa này, quang đãng và yên bình trong cái ắng lặng khôn cùng.

Thật đáng ngạc nhiên, đỉnh đồi Emma và Blackie đang đứng không dốc người xuống như Blackie nghĩ mà thoai thoải về phía bờ của một cánh đồng nhỏ. Những bức tường đá, được các chủ trại nhỏ xây dựng từ lâu bao quanh cánh đồng này và những thứ khác ở phía xa, cắt thành hình mẫu chắp vá trên neefn của thung lũng, một hình mẫu mà Blackie thấy hình như rất ngăn nắp để cạnh nhau nổi trên vùng đòng hoang man dại. Y như có bàn tay không lồ đã khắc mảnh đất một cách thật chính xác, rồi đóng mỗi phần đất lại bằng những dãy tường cũ kỹ và lởm chởm.

Emma chạy trước, vừa chạy vừa gọi Blackie: “Nào, em sẽ chạy đưa anh tới cổng”. Cô băng xuống dốc với một tốc độ làm anh choáng đi một lúc, vừa vì sự nhanh nhẹn không thể tưởng tượng nổi vừa vì sự hăng hái đột ngột của cô. Cái con người này thật là dẻo dai. Nắm chắc lấy cái túi trong tay, Blackie nhảy theo sau cô, lúc đầu cách một đoạn khá xa. Với sức mạnh thể lực lớn và đôi chân dài, anh hẳn là đã vượt cô một cách dễ dàng, nhưng khi anh gần đuổi kịp cô, anh chậm lại, giảm bớt tốc độ, để cho cô có thể thắng cuộc đua.

Emma đứng bên cổng một cách chiến thắng: “Anh phải nhanh nhẹn hơn lên nếu anh muốn thắng được em”, cô nói với một chút khoác lác. “Em chạy giỏi lắm, anh ạ”. Cô nói thêm và thở hổn hển.

Blackie cười rộng miệng trước sự phù phiếm nhỏ nhỏ này rồi làm vẻ thán phục. “Ờ đúng thế, anh có thể thấy được điều đó, mavuốcnin ạ! Em chạy nhanh như một con chó săn thỏ, anh nghĩ thế. Hôm nào có cuộc chạy thi, anh sẽ đánh cá em”.

Emma nở một nụ cười biết ơn với anh và một ánh mắt mãn nguyện thoáng lướt qua mặt cô. Rồi cô quay nhanh đi, mở then cổng, đẩy nhè nhẹ, nhảy lên thanh thang thứ nhất, bám riết lấy nó khi cánh cổng đưa về phía bãi đất, đem cô theo. Liếc nhìn Blackie qua vai, cô gọi to: “Em luôn luôn đánh đu ở cánh cổng này, mặc dù em không được làm như thế”. Khi cánh cổng kêu rên rỉ dừng lại, cô nhanh nhẹn bước ra và đẩy nó trở lại, rõ ràng là muốn làm lại một lần nữa, mặt cô ửng hồng, đôi mắt vui vẻ.

Blackie ném chiếc túi xuống: “Nào, Emma để anh đẩy cho”.

Gật đầu một cách phấn khởi, cô lại trèo lên thang đầu, bám chặt lấy cánh cổng bằng hai bàn tay nứt nẻ nhỏ xíu khi Blackie đẩy nó thật mạnh vút vào trong bãi đất. Chiếc áo khoác sờn rách của cô bay tung về phía sau và tiếng cười lướt qua mặt cô. Blackie nhìn cô, thích thú với cô trong niềm vui đơn giản này. Phải, cô chỉ là một cô bé con, một niềm ấm áp dâng lên trong lòng. Tại sao mình có thể hình dung khác thế được? Đúng thế và mình thật là ngu ngốc.

Emma buông cánh cổng ra và vẫy gọi anh. “Nào, ta đi thôi! Em chậm quá mất rồi và em sẽ bị bà Turner bà ấy nói cho”.

Blackie cầm túi lên và đi theo cô. Anh quàng tay qua vai cô như một người anh, đi sóng bước cùng cô tiến về cuối bãi đất: “Anh phải thú thật với em là anh hết sức tò mò muốn biết về những người ở Fairley Hall. Họ ra sao, mavourneen”.

Một chút yên lặng ngắn.

- “Một phút nữa anh sẽ thấy”, Emma mỉm cười là lạ. “Bây giờ chúng ta đã gần đến nơi rồi đấy”. Cô gỡ tay anh ra, chạy lên phía trước, không nói một lời.

Blackie nhìn theo cô cau mặt, bối rối vì nụ cười lạ lùng đó. Cô thật là một hình bóng nhỏ bé trên con đường trước mặt anh, nhảy nhót trong dáng điệu vô tư. Anh phải thừa nhận là cô làm anh lạ lùng khó hiểu. Mới phút trước, cô là một đứa trẻ, nét mặt cô dịu dàng và tươi cười,; phút sau hình như cô giống một bà già, nét mặt đúc thành đồng. Phải, tất cả những người dân Yorkshire này đều kỳ quặc, với giọng nói khàn khàn khó nghe, tính nết độc lập, bản chất ương bướng, cứng đầu cứng cổ của họ và sự nghi ngại đối với người lạ, sự láu lỉnh và mẫn cảm của họ. Và lòng kính trọng đối với đồng tiền của họ. Nhưng anh vẫn có thể thấy được họ rộng lượng, mến khách và họ có óc hài hước, mặc dù thỉnh thoảng nó có trắng trợn và gay gắt. Quả thật họ là những người thú vị và có lẽ những nét rất đặc biệt anh đã thấy được ở Emma chỉ là những vết tích của những đặc tính Yorkshire này… Phải, đúng là như vậy, anh nghĩ, và anh rảo bước để theo kịp cô.

Emma đang đợi anh ở rặng cây cuối bãi đất. “Hall đây nè, Blackie ạ”, cô nói bằng một giọng hoàn toàn không có xúc cảm.

Blackie đứng sững lại và buông ra một tiếng huýt sáo dài khẽ và kinh ngạc. Fairley Hall ở thẳng trong tầm mắt của họ và nó không giống với cái hình ảnh anh mang trong đầu sau buổi nói chuyện với điền chủ Fairley ở Leeds.

- “Giêxuma, lạy Chúa tôi!”. Anh kêu lên, đôi mắt anh mở to, không tin là thật. Không thể được mavourneen. Không ai lại có thể xây một ngôi nhà như thế! Anh nhắm mắt lại thảng thốt và khi mở mắt ra anh thấy rằng mình không chỉ thất vọng trước cái mình thấy mà còn hoàn toàn kinh hoàng nữa.

- “Hall là một ngôi nhà lớn nhất vùng này, Emma chỉ tay, cũng nói bằng một giọng không ra lời ấy. Cha em gọi nó là sự điên rồ của nhà Fairley”. Anh không nhận thấy thoáng cay đắng trên môi cô.

- “Tôi có thể hiểu được vì sao”, Blackie lẩm bẩm, anh nghĩ đây là ngôi nhà kỳ cục nhất anh chưa bao giờ thấy. Trong khi anh ngắm nhìn nó, quai hàm của anh trễ xuống, miệng anh há ra, anh khó chịu nhận ra rằng nó không có một đường nét nào để đền bù lại cả. Bởi vì Blackie O’Neill có một con mắt cực kỳ chính xác đối với sự cân đối và đường nét, thực tế mà nói giấc mơ duy nhất của anh trong đời là khọa kiết trúc. Điều này không thể được, nhưng được khuyến khích bởi cha đạo, cha O'Donovan, khi anh còn là một chú bé, anh đã tự học rất nhiều từ một vài cuốn sách, và bởi lòng ham học cộng với tài năng rất tự nhiên của anh, anh đã trở nên hết sức hiểu biết về thiết kế và xây dựng.

Lúc này anh nhìn ngôi nhà bằng đôi mắt sắc sảo và phê phán. Họ càng đến gần thì Blackie càng thấy được thế nào là sự quái dị. Nó khum mình như một con quỷ giữa những mảnh vườn được sắp xếp cẩn thận nhưng trái ngược nhau một cách kỳ quái. Anh thấy tòa nhà trung tâm này là phần cổ nhất, có lẽ từ cuối những năm 1790 và nếu như nó chỉ đứng một mình thì nó sẽ có một vẻ đĩnh đạc bề thế, thậm chí còn oai vệ nữa. Nhưng những chái nhà khác rõ ràng là được thêm vào qua năm tháng, hình như không được suy nghĩ gì nhiều cho lắm, chúng nảy lên từ hai phía bất chấp hình thức và thiết kế. Bây giờ anh có thể thấy nó bắt chước kiểu mẫu Regency và Victoria, tất cả nháo nhào vào với nhau tạo nên một sự hỗn loạn.

Về thực chất Fairley Hall là một sự hổ lốn của các thời kỳ khác nhau, cạnh tranh nhau để tạo nên một bề mặt không cân đối, không hài hoà, thiếu cái đẹp. Nhà rộng, chắc chắn, giàu có, một tòa nhà thực sự, thật thế, nhưng sự mâu thuẫn trong kiến trúc của nó làm nó gớm ghuốc. Blackie thở dài. Anh yêu cái đơn giản và anh nghĩ tới những ngôi nhà Georgian đang yêu ở Ireland với những đường nét nhịp nhàng, sự cân đối hoàn hảo. Anh không ngờ là lại thấy một ngôi nhà như thế này trên vùng đồng hoang Yorkshire nhưng không phải không nhận thấy sự tồn tại, tầm quan trọng của gia đình Fairley, sự giàu có ghê gớm của họ, và anh đã chờ đợi một cấu trúc trang nhã và có khiếu thẩm mỹ hơn thế.

Họ gần tới ngôi nhà thì Emma đã cắt dòng ý nghĩ của anh khi cô nói “Anh thấy thế nào?” Cô nhìn lên anh tò mò và kéo ống tay áo của anh.

- “Không nhiều lắm! Đúng là điên rồ, đúng như ba em nói. Có thể đây là một ngôi nhà lớn nhất trong vùng này, nhưng nó không hợp với khiếu thẩm mỹ của anh”.

- “Vậy, anh sẽ có một ngôi nhà như Hall này khi anh bước lên thế giới thượng lưu, thành triệu phú một ngày nào đó như anh nói không?” Cô thăm dò và nhìn anh một cách láu lỉnh, “em cứ nghĩ tất cả các triệu phú đều sống trong những ngôi nhà vĩ đại như Fairley”.

- “Đúng thế! Đúng thế!”, anh nói nhanh. “Đúng là họ sống trong những ngôi nhà vĩ đại, nhưng không phải luôn luôn là những ngôi nhà xấu xí như Fairley Hall này, Emma ạ. Anh sẽ không bao giờ muốn một ngôi nhà như vậy cho mình. Nó làm chướng mắt anh, đúng là như thế, bởi vì nó không đẹp không có sự hài hòa, không theo một kiểu nào hết”, Blackie liếc nhìn phía trước và cười vì cái ý nghĩ có một cái lăng kỳ quái như thế.

Một nụ cười cay đắng lại lướt trên khóe miệng Emma và trong mắt cô ánh lên một sự hài lòng hiểm ác. Mặc dù cô không được tiếp xúc với thế giới ngoài vùng đồng hoang, vì thế không có cơ sở để mà so sánh, cô vẫn hằng luôn hiểu theo bản năng của mình rằng Hall thật khó chịu cho con mắt của người ta, không có một chút duyên dáng, không một vẻ đẹp. Cha cô và dân làng có thể gọi nó một cách mỉa mai là sự điên rồ của Fairley nhưng dù thế nào, nó vẫn gây một ấn tượng. Cô cười một mình, hơi hằn học đôi chút. Blackie vừa mới xác nhận những ý kiến của cô đối với Fairley Hall và điều này làm cô vui.

Cô quay sang Blackie, lúc này càng được cô kính trọng hơn và hỏi: “Thế anh thích sống trong một ngôi nhà như thế nào, nếu anh trở thành một nhà triệu phú như thế này?”

Vẻ u ám trên khuôn mặt anh giãn ra và ngay lập tức được thay thế bằng một sự rạo rực mãnh liệt. Đôi mắt đen của anh sáng lên khi anh thốt. “Nó sẽ theo kiểu Georgian, được xây dựng bằng đá trắng thuần khiết với cửa thật đẹp, những chiếc cột lớn cao vút, những bậc thềm rộng rãi. Sẽ có rất nhiều cửa sổ cao sáng chói nhìn ra những thảm cỏ và những khu vườn xanh. Nó sẽ có rất nhiều căn phòng rộng thênh thang, trần cao ngất, và tất cả đều tràn ngập ánh sáng và không khí. Sàn nhà sẽ được làm bằng gỗ sồi và những lò sưởi tất cả sẽ theo kiểu Robert Adam. Ở tiền sảnh rất rộng, anh sẽ cho lát đá cẩm thạch và một cầu thang hình vòng cung dẫn tới tầng trên. Ở mỗi phòng anh đều dùng phấn màu xanh nhạt, màu ve nhạt, làm dịu và mát mắt, Và anh sẽ mua những bộ đồ thật đẹp cho tất cả những căn phòng ấy. Ừ, đúng thế! Anh sẽ chọn kiểu tốt nhất của Sheraton và Hepplewhite và có thể một chút Chippendale. Cả những bức họa nữ, anh cũng sẽ có và rất nhiều những thứ khác đẹp và sang. A mavourneen ơi, nó sẽ là một ngôi nhà làm cho em phải nín thở, thật sự là như thế. Anh hứa với em điều đó. Anh sẽ xây lấy theo thiết kế của anh, chắc chắn là như thế!”

- “Anh xây lấy theo thiết kế của anh”, cô nhắc lại bằng một giọng tắc nghẹn, mặt cô đầy kinh ngạc.

- “Anh làm thế nào mà biết được cách thiết kế nhà, Blackie?”

- “Ờ, anh biết chứ”, anh trả lời một cách kiêu hãnh. Anh đi học, lớp buổi tối ở Leeds, học vẽ đồ án và như vậy là rất cần với kiến trúc. Rồi em sẽ thấy, Emma ạ, thế nào rồi anh cũng sẽ xây dựng một ngôi nhà như thế và rồi em sẽ tới thăm anh khi em là một phu nhân”.

Emma nhìn Blackie trong kinh hoàng: “Ai cũng có thể tới trường buổi tối đó mà học sao?” Cô hỏi, lòng nghĩ tới đứa em trai Frank của mình.

Blackie nhìn xuống nét mặt mong chờ của cô, chứa chan hy vọng và nói với cô một cách tự tin.

- “Tất nhiên thế rồi. Ở lớp học ban đêm, người ta dạy cho mình mọi thứ mình cần học”.

Câu trả lời của anh làm Emma sung sướng và cô ghi nhớ thông tin này để sau này kể cho Frank nghe, và hỏi anh với sự tò mò: “Vậy thì cái ông Robert Adam này là ai vậy và cả những người anh vừa nhắc tên đó? Sheraton, Hepplewhite và Chippendale?”

Nét mặt Blackie rạng rỡ lên vì họ đang đề cập đến một vấn đề thân thiết với anh. “Robert Adam là nhà kiến trúc lớn nhất của thế kỷ mười tám, Emma ạ. Ông xây dựng nhiều nhà lớn và đẹp cho tầng lớp quý tộc, trông thật tuyệt vời. A, nhưng mà Adam còn hơn thế nữa, anh nghĩ vậy, bởi vì ông đã hoàn thành nó đầy ý vị. Chưa ai vượt được ông ấy, mavourneen ạ. Những người khác mà anh đã nhắc tên, anh nói tiếp một cách hăng say, là ba nhà đóng đồ vĩ đại nhất của thời kỳ Georgia, đúng là như thế. Những thợ thủ công bậc thầy làm đồ cho tầng lớp thượng lưu”.

Anh nhe răng cười và nháy mắt với cô. “Em biết không, anh sẽ có những cái tốt nhất khi anh trở thành một gã giàu có. Bởi vì anh thường tự nhủ: “Có tiền mà làm gì, Blackie O’Neill, nếu như mình chẳng được thú vị gì do sự giàu có đó?” Vì thế anh sẽ tiêu nó. Tiền là để như thế, anh nghĩ vậy. Em có đồng ý với anh không?”

Emma nhìn anh một cách tỉnh táo. Hầu hết khi cô nghĩ đến tiền, đó là dùng vào những việc cần thiết của cuộc sống. Blackie đã đưa ra những khả năng mới đối với cô. “Vâng, em cũng nghĩ thế”, cô nói một cách thận trọng “chừng nào mình có đủ tiền thừa để mua tất cả những cái đẹp”.

Anh cười phá lên. Cười đến nỗi nước mắt vui ứa ra từ khóe mắt anh: “Em là một cô gái Yorkshire thận trọng, anh có thể thấy được điều đó”, anh nói qua tiếng cười. “Nhưng thế nào là đủ, Emma? Anh nghe nói một số người không bao giờ có đủ tiền để làm cho họ thỏa nguyện”.

Như ngài điền chủ Fairley, cô nghĩ một cách chua chát, nhưng lại nói: “Thế anh xây nhà của anh ở đâu, Blackie, nó có ở Leeds không?”

Anh lấy vạt áo lau nước mắt, nỗi vui sướng của anh giảm đi, anh lắc đầu: “Không, anh không nghĩ nó sẽ ở đó. Anh đang tính xây nó ở Harrogate, nơi tất cả những người thượng lưu sống”, anh nói một cách quan trọng. “Ừ, chính là ở nơi đó, anh nghĩ thế”, anh nói tiếp, giọng anh vang lên chắc chắn: “Đó là một thành phố đẹp. Một miền suối khoáng. Đúng là một nơi cho một gã lang bạt như anh. Em có nghe nói tới chỗ đó không, Emma?”

- “Có, mẹ em đã từng ở Harrogate cách đây đã lâu khi bà tới thăm Freda, người họ hàng của bà ở Ripon. Mẹ em đã nói với em về nơi đó một lần. Bà nói quả thật là một nơi rất sang trọng”.

Anh cười: “Đúng thế, đúng thế, mà Emma này, em có thích lời anh miêu tả ngôi nhà mà anh sẽ xây dựng cho mình một trong những ngày đẹp trời nào đó không?”

- “Ô, em thích lắm, Blackie ạ! Ngôi nhà của anh sẽ tuyệt vời, em biết nhất định nó sẽ là như thế. Không giống như chỗ này. Anh nên nhìn ngôi nhà này vào ban đêm. Nó làm cho em khiếp sợ hơn là khi em phải đi qua nghĩa địa”, cô thú thật.

Blackie cau mày, nhìn quanh khuôn mặt bé nhỏ của cô, nó trẻ con và đáng tin cậy, anh mỉm cười an ủi: “Ồ, nó chỉ là một ngôi nhà thôi, cô em bé bỏng ạ. Một ngôi nhà không thể làm hại gì em được”.

Cô không đáp lại lời bình phẩm này, nhưng mím môi và rảo bước khi họ đột nhiên ngập trong những bóng xanh xám khổng lồ do Fairley Hall tỏa xuống. Giờ đây khi họ tới gần, Blackie nhận ra một khía cạnh khác của ngôi nhà và chính là cái khía cạnh đó làm anh bối rối. Khi ngắm nhìn nó, Blackie thấy hình như tòa nhà lớn này trầm tư và thù địch một cách lạ lùng y như thể nó chưa từng được biết đến cuộc sống, tiếng cười hay niềm vui. Anh có một cảm giác kỳ quặc nhất là tất cả những người bước qua ngưỡng cửa đều bị nó giam cầm vĩnh viễn.

Anh nhìn lên. Những cửa sổ mênh mông nhìn xuống họ, những chiếc cửa sổ bịt kín với cuộc đời và đối với Blackie, chúng dường như đôi mắt của những người mù, trống rỗng, sâu, chết. Một vệt ánh sáng đập vào những bức tường đen và những cửa sổ mờ mờ, bí ẩn đó, thứ ánh sáng này, mạnh và chói dường như là để tô đậm thêm cái trơ trơ không gì lay chuyển nổi và cái lạnh lẽo của Fairley Hall. Blackie tự nhủ là mình buồn cười và quá tưởng tượng, nhưng những xúc đông này không giảm đi khi Emma dẫn anh qua góc nhà, ra khỏi bóng tối. Họ đi qua sàn ngựa rải sỏi, chan hòa ánh nắng và trời xanh về phía lối vào cửa của các đầy tớ. Anh máy móc quàng tay qua vai cô rồi cười vì sự phi lý trong hành động của anh. Cô đã tới đây lâu hơn anh và chắc chắn không cần đến anh che chở. Mà che chở chống lại cái gì chứ? Anh tự hỏi, khó hiểu với chính mình.

Emma ngước nhìn anh và mỉm cười, y như thể lại một lần nữa cô đọc được ý nghĩ của anh. Nhưng khi họ bước lên bậc thềm, nụ cười ấy lay động, ánh sáng trong mắt cô mờ đi. Một nét cảnh giác đọng trên mặt cô khi cô xoay quả đấm sắt cửa và bước vào bếp.

- Cô có biết bây giờ là mấy giờ rồi không mà còn tha thẩn như không có ngày mai nữa thế? Mà trông bộ như không còn cần cái gì trên đời này nữa! Ấy à, cô bé kia tôi cũng đến lúc phải thôi cô thôi. Thật đấy!

Tiếng nói the thé vang lên trong bếp, phát ra từ một người đàn bà thấp béo lùn, to ngang bè bè như cái bắp cày, vóc người ngắn ngủn. Đôi mắt nâu như mắt chim, ngó nhìn ra trên đôi má hồng như quả táo, loé lên tức giận và cái mũ chụp trắng cứng đó ngất nghểu như một vương miện trên mái tóc màu nâu đốm bạc bồng bềnh khi bà hất đầu lên.

- "Mà đừng có đứng đó ngó tôi như một con vịt con nữa!", bà nói tiếp một cách giận dữ. "Đã đến rồi thì nhanh chân nhanh tay lên! Hôm nay chúng ta không có thì giờ để lãng phí đâu".

- “Cháu xin lỗi bà, bà Turner”, Emma nói to, vừa chạy ngang qua phòng vừa cởi khăn quàng và tuồn ra khỏi áo khoác vo tròn nó lại thành một bọc, cô nói rất nhanh giọng xin lỗi, “cháu đi đúng giờ, quả là như thế, thưa bà Turner. Nhưng trên đồng hoang, sương mù dày đặc quá, cả ở Ghyll và ở…”

- “Ấy, mà tôi chắc cô vẫn dừng lại để đánh đu cánh cửa như thường lệ chứ gì?”, bà bếp ngắt lời pha chút bực bội: “Thế nào rồi cũng có ngày bị phạt thôi, nhất định là thế chứ không đâu”.

Emma đã biến vào trong một chiếc tủ, dưới cầu thang dẫn lên khu phòng khách của gia đình, cô nói to, giọng nghẹt đi: “Cháu sẽ làm kịp công việc của cháu mà, bà Turner. Bà biết là thế nào cháu cũng kịp mà”.

- “Cô sẽ phải làm kịp, đó là điều chắc chắn”, bà bếp đáp lại một cách khắc nghiệt. “Tôi có thể thấy được là hôm nay chúng ta sẽ bận tối tăm mặt mũi. Cả bà Hardcastle ở Bradford và bầu đoàn từ London tới, và Polly thì đang ốm”. Bà lắc đầu, thở dài nặng nề trước những gánh nặng của mình, sửa lại chiếc mũ, đập mạnh cái muỗng xuống bàn. Rồi bà quay ngoắt lại nhìn chằm chằm Blackie, người mà cho đến phút này bà vẫn phớt lờ đi. Hai tay chống nạnh, bà nhìn anh như thể để định giá, đôi mắt tròn sang của bà ngờ vực, con mèo kéo cái gì vào đây thế này, Lôchinvar?”, bà nói gay gắt.

Blackie bước lên một bước và mở miệng, nhưng trước khi anh có thể nói được, giọng của Emma đã từ tủ đựng bát đĩa vọng ra: “Người thợ đấu đó, bà Turner ạ. Người mà bà đang đợi để chữa ống khói các thứ. Tên anh ấy là Shane O’Neil, nhưng tất cả đều gọi anh ấy là Blackie”.

- “Xin kính chào bà”. Blackie kêu to, nở một nụ cười thật tươi, cúi chào kiểu cách.

Bà bếp phớt lờ lời chào hỏi thân thiện này và nói “Người Ireland, hả. Ờ tôi có thể đoán được liền. Tôi có thể thấy anh là một thanh niên khỏe mạnh. Không có chỗ cho những kẻ yếu ớt trong ngôi nhà này!”. Bà ngừng lại và mắt nhìn vào chiếc túi anh để trên sang cạnh anh, cái túi cũ và cáu ghét. “Cái gì ở trong cái của bẩn thỉu kia thế?”, bà hỏi.

- “Chỉ là những đồ nghề của tôi và một ít, à…à…vật dụng cá nhân”, Blackie nói, cử động đôi chân bối rối.

- “Này đừng làm bẩn cái sàn đang sạch đi!”. Bà la rầy: “Để nó ở một góc kia kìa cho nó khỏi vướng”. Sau đó bà ta đi về phía lò sưởi, mở nắp vung lách cách, nhìn vào những chiếc nồi đang sôi sùng sục, lẩm bẩm điều gì đó. Bà ta cũng dịu dần. Đây chủ yếu là bực bội chứ không phải là tức giận thật sự, và cũng chủ yếu là do lo lắng cho Emma phải đi qua vùng đồng hoang một mình chứ không phải là sự chậm trễ của cô bé, điều đó chẳng có gì là quan trọng. Xét cho tới cùng, nửa tiếng đồng hồ có giá trị gì? Bà mỉm cười một mình. Emma là một cô gái ngoan, ta không thể còn nói gì thêm được trong những ngày khủng khiếp này nữa.

Blackie đặt cái túi của anh xuống một góc và nhảy cẫng về phía lò sưởi khổng lồ choán gần hết bức tường. Trong khi anh sưởi tay trước lò sưởi anh nhận thức được hai điều. Anh rét cóng và đói. Cảm giác này càng thôi thúc khi cái ấm áp bốc hơi nóng của căn phòng và mùi thơm ngon tỏa khắp nơi. Anh hít hơi và miệng chảy nước dãi khi anh hít vào mùi thịt hun, mùi ngọt ngào ấm áp của bánh mì mới nướng và trùm lên những mùi hấp dẫn đó anh phát hiện được mùi xúp rau ngào ngạt. Dạ dày anh cồn cào, anh liếm môi thèm khát.

Dần dần thân thể anh bắt đầu tan ra, anh duỗi người như một con mèo lớn, mắt anh đảo khắp phòng và những cái anh thấy làm anh vui lên ghê gớm, giúp anh tan đi cái lo lắng trước đây. Bởi vì không có gì u ám và hăm dọa trong cái bếp này cả. Đó là một nơi ấm áp vui vẻ, sạch như lau như li. Tất cả các xoong chảo đều sáng loáng treo trên những bức tường thẳng và sàn đá lát ánh lên trong ánh sáng của những tia khí thắp và ngọn lửa nổ lép bép vút lên gầm gào trong ống khói lớn. Những đồ đạc bằng gỗ sồi vững chắc, nhẵn bóng lóe lên dịu dàng trong ánh màu hồng này.

Blackie nghe tiếng “cách” của một cánh cửa, anh nhìn lên khi Emma từ tủ đựng bát đĩa nhô ra. Cô đã thay áo hàng xéc màu xanh sẫm, rõ rành là cắt từ cùng một mảnh vải của bà bếp và cô mặc một cái tạp dề bằng vải bông lớn có sọc màu xanh và trắng. “Có phải bà nói Polly lại mệt không, bà Turner?” Cô vừa nói vừa vội vã tiến về phía lò.

- “Ờ, đúng rồi. Ho ghê gớm. Tôi phải nói chị ấy nằm ở giường sáng nay. Cô có thể thăm chị ấy một chút, sau đó xem xem chị ấy có cần gì không?” Có một sự ấm áp chân thật trong giọng nói của bà bếp, nét mặt bà dịu lại khi bà nhìn cô bé. Blackie nhìn bà và nhận thức được rằng không có sự hằn thù thực sự nào trong lòng bà hết. Điều đó rõ ràng, nhìn cái vẻ yêu thương tràn ngập trên khuôn mặt bà thì thấy được bà quý Emma biết chừng nào.

- “Vâng, cháu sẽ tạt vào sau khi dọn xong bữa sáng và đem cho chị ấy ít súp”, Emma đồng ý, cố không tỏ ra quá lo ngại về Polly. Emma chắc rằng chị cũng bị cùng một bệnh như mẹ cô, bởi vì Emma đã thấy những dấu hiệu nói lên điều đó: sự suy nhược, sốt và ho khủng khiếp.

Bà Turner gật đầu: “Ờ, cô bé tốt lắm”. Bà cau mặt, nhìn Emma qua làn khói. “Con phải làm công việc của Polly hôm nay và cả việc của con nữa, cưng. Không thể làm thế nào khác được. Murgatroyd nói với bác là bà Wainwright đến chiều nay, bà Hardcastle vẫn còn đi vắng, chúng ta quả là thiếu người”. Bà thở dài đánh thượt và gõ mạnh cái muỗng vào thành nồi một cách giận dữ: “Ầy, bác muốn giá như bác làm người giữ nhà ở đây thì hay quá! Failey Hardcastl có công việc thật là dễ dàng thoải mái, đúng vậy, luôn luôn đi đây đi đó!”

Emma nén một nụ cười. “Đây là mối bất hòa xưa cũ”. “Bà nói đúng, bà Turner, nhưng chúng ta sẽ lo liệu được”, cô nói để an ủi. Cô yêu bà bếp, người duy nhất tỏ lòng thương yêu cô ở Hall này, và cô luôn cố gắng chiều ý bà. Emma chạy lại tủ đựng bát đĩa dưới cầu thang, lôi ra một cái rổ to đựng bàn chải, vải, xi, chì đen và đi về phía cầu thang, vừa vẫy Blackie.

Bà Turner vội hất đầu lên: “Này, con, ta không đến nỗi nhẫn tâm đến thế đâu! Trông con mệt muốn chết rồi. Đến bên lò mà sưởi ấm một chút đi và hãy uống một bát xúp này trước khi lên đó”. Bà nhấc nắp vung khỏi nồi sắt lớn, quấy thật mạnh, chép miệng hài lòng và bắt đầu múc xúp vào một cái ca lớn. “Anh có muốn làm một bát không, anh bạn?”, bà gọi Blackie, trong khi đã múc đầy một ca thứ hai.

- “Chắc chắn là cháu muốn rồi, và xin cám ơn bà”, Blackie nói to. “Nào, con gái, đưa cho Blackie cái ca này và lấy ca của con đi”, bà bếp nói và tiếp một cách nhanh nhẹn. “Và cậu cả có muốn một lát thịt muối không? Ăn với xúp của tôi vô lắm.”

- “Cám ơn. Vâng, ăn cũng không sao. Cháu sắp chết đói đến nơi rồi”.

- “Con có ăn một chút không, Emma?”

- “Không, cám ơn bà Turner”, Emma trả lời khi cô cầm những ca xúp của bà bếp. “Cháu không đói”. Bà bếp nhìn xoáy vào cô: “Ầy, cô bé, cô ăn uống không đủ đâu đấy. Ăn xúp và uống trà không bao giờ bị béo đâu”.

Emma mang hai ca xúp tới lò sưởi đưa một ca cho Blackie không một lời, nhưng khi cô ngồi xuống một chiếc ghế đẩu khác và ngước nhìn anh, thì một nụ cười dịu dàng hiện trên khuôn mặt cô, sự mệt mỏi giảm đi. “Cám ơn em”, anh nói, đáp lại nụ cười của cô, rồi mắt anh nheo lại khi anh bắt đầu nhận thức được cô lần đầu tiên từ khi họ gặp nhau trên đồng hoang.

Trong khi họ húp nước xúp trong yên lặng, Blackie nhìn Emma một cách kín đáo, cố gắng giấu sự ngạc nhiện anh đang cảm thấy. Anh quả thực là choáng váng. Lúc này cô đã bỏ chiếc khăn trùm kín và chiếc áo khoác cũ chật chội, anh có thể nhìn cô rõ ràng hơn, cô không phải là một cô bé gầy ốm như anh đã nghĩ lúc ban đầu. Anh không thể gọi được cô là đẹp nếu anh phải đánh giá cô qua những tiêu chí trên những bức tranh hiện hành. Cô không có vẻ đẹp của Étoát cái dịu dàng êm ái màu hồng và tính chất phụ nữ yếu mềm, cô cũng không xinh xắn một cách mượt mà. Nhưng cô hấp dẫn người ta, có một cái gì đó không thể định nghĩa được ở con người cô như muốn hút trí tưởng tượng của anh, làm anh ngừng thở. Mặt cô hình trái xoan hoàn hảo, gò má hơi cao, mũi thẳng mảnh mai, miệng cong thanh tú và khi cô cười có lúm ở hai bên. Hàm răng nhỏ, đều, rất trắng giữa đôi môi hồng nhạt và anh thấy nó dịu ngọt và dễ tổn thương mỗi khi cô không chú ý. Nếu như cái trán bằng phẳng của cô rộng hơn lên một chút thì chắc là không hấp dẫn, nó lại được cân đối bởi kiểu tóc hình chữ V trên nước da sáng láng và hàng mi cong dài màu nâu vàng trên cặp mắt to mở rộng. Đôi mắt đập vào anh một cách thật là mạnh mẽ từ lúc ban đầu, quả thực long lánh và xanh như màu lục bảo dưới đôi lông mày màu vàng nâu cong tỏa những bóng mờ tối xuống da thịt của cô. Nó giống như lụa màu kem nhạt và cũng mượt mà như vậy. Mái tóc nâu dầy óng ả được chải một cách đơn giản về phía sau để lộ khuôn mặt nổi bật lên. Mớ tóc mượt mà tết lại rồi kết thành búi sau gáy, trong ánh sáng rỡn múa, nó như giống một chiếc mũ nhung thêu bằng chỉ vàng.

Cô gầy và vẫn còn nhỏ, anh nghĩ thế. Nhưng anh cũng biết cô sẽ lớn mạnh trong một vài năm nữa. Nhìn thân hình cô, Blackie có thể nói được khi lớn lên cô sẽ trở thành một thiếu nữ cao, thon thả. Cô đã bắt đầu nở hoa, bởi vì anh đã nhìn thấy chỗ phồng lên của đôi vú non trẻ và háng đã có hình nét dưới cái tạp dề to tướng, cặp đùi dài làm cho dáng đi của cô hết sức uyển chuyển.

Giác quan bẩm sinh của Blackie về cái đẹp và sự thanh tú không chỉ bó hẹp ở kiến trúc, nghệ thuật và đồ tạo tác mà còn vươn tới cả phụ nữ và ngựa nữa. Niềm say mê phụ nữ của anh hầu như, nhưng không phải là luôn luôn bị lấn áp, bởi thú thích ngựa và những cuộc đua ngựa, anh đặc biệt tự hào ở khả năng xét đoán ngựa và biết được con nào là thuần chủng khi anh nhìn thấy. Bây giờ trong khi nhìn kỹ Emma, anh nghĩ: Thế đó! Cô có vẻ thuần chủng! Anh biết cô là một cô gái nghèo của tầng lớp công nhân, nhưng mặt cô lại là quý tộc bởi vì nó chứa những nét giáo dục và thanh nhã. Đó là những phương tiện hợp thành để tạo nên những phẩm cách không thể định nghĩa mà anh đã khám phá ra trước đó. Cô là quý tộc và có một tư thế bẩm sinh thật là độc đáo. Anh chỉ thấy một điểm để lộ tình trạng sống của cô – đôi tay. Chúng nhỏ và cứng cáp, nhưng nó bị nứt nẻ và đỏ lên, móng tay gãy và thô nhám. Anh biết quá rõ tình trạng xấu xí của chúng là do công việc nặng nhọc cô phải làm.

Anh tự hỏi cái gì sẽ tới với Emma, và lòng anh tràn ngập một nỗi buồn vốn xa lạ đối với bản chất của anh khi nghĩ tới tương lai của cô. Có cái gì cho cô trong ngôi nhà này và cái làng lạnh lẽo trong vùng đồng hoang? Có lẽ cô đúng khi muốn thử vận may của mình ở Leeds. Có thể ở đó cô sẽ có dịp sống chứ không phải chỉ là sống sót.

Bà Turner cắt ngang dòng suy nghĩ của anh khi bà nẩy lên như quả bóng tới bên lò sưởi và dúi một đĩa sandwhich trước mặt anh với dáng hấp tấp. “Thịt lợn muối của cậu đây, cậu cả”. Ăn ngay đi trước khi Murgatroyd xuống. Ông ta đúng là một kẻ vắt cổ chầy ra nước và muốn cho tất cả chúng tôi chế độ ăn chết đói. Cái đồ bần tiện!”, bà cố nén lại cái từ cuối cùng và nhìn có dáng lo ngại ra phía ngoài ở đầu cầu thang.

Quay sang Emma, bà nói tiếp: “Con không phải đánh bóng vỉ lò sáng hôm nay đâu. Nó vẫn còn được cho đến ngày mai. Nhưng con hãy nhóm lửa ở phòng buổi sáng, lau bàn ghế, hút bụi trên những tấm thảm và dọn bàn để ăn sáng như Polly đã bày cho con rồi đó. Rồi quay lại giúp bác chuẩn bị bữa sáng. Rồi con lau dọn phòng ăn, phòng khách và thư viện, lấy phất trần quét thẳng xuống để tường sạch bụi và tất cả các tấm thảm nữa. Rồi con sẽ phải dọn phòng khách của bà Fairley. Khi dọn xong là dến giờ mang bữa sáng cho bà trên gác. Con có thể dọn giường trước bữa ăn trưa cũng được và quét bụi trong phòng của trẻ con. Chiều hôm nay con sẽ làm tất. Còn phải đánh bóng những đồ đạc và đồ sứ nữa…”. Bà Turner dừng lại, mệt thở ra hơi và lôi ở túi ra một mảnh giấy nhầu nát. Bà vuốt thẳng bậm môi lại tập trung đọc.

Blackie nhình Emma một cách cẩn thận, một nỗi giận quặn lại trong bụng anh. Lúc đầu anh đã lắng nghe bản độc tấu của bà Turner một cách vui vui, nhưng bây giờ thì anh nổi giận, không ai có thể làm được nhiều công việc như vậy trong một ngày. Emma lại càng không thể, cô chỉ là một cô bé. Thế nhưng Emma dường như không chú ý khi cô đứng một cách kiên nhẫn bên cạnh bà Turner. Quan sát cô một cách cẩn thận hơn, Blackie nhận ra là một sự vui vẻ nào đó đã che giấu sự lo ngại trong đôi mắt đen của cô và miệng cô bất giác mím lại. Anh liếc nhanh bà bếp. Anh biết bà không cố ý bóc lột Emma, bởi vì bản chất bà là người đàn bà tốt bụng, nhưng anh vẫn cứ kinh hoàng và anh không thể dằn lòng được. “Công việc như vậy quá nặng nề đối với một cô bé, tôi nghĩ thế”.

Bà Turner nhìn anh ngạc nhiên và đỏ bừng mặt. “Ấy, cậu cả, đúng thế đấy. Nhưng Polly đang bị ốm, mà tôi thì biết làm thế nào, có khách khứa tới. À suýt nữa thì quên mất, này Emma”. Bà vội vã nói thêm, không có vẻ bối rối “con phải chuẩn bị phòng khách cho bà Wainwright đó”.

Emma quay sang bà Turner đang nghiên cứu mảnh giấy một cách chăm chú. “Vâng cháu lên gác nhé!”, cô hỏi, Emma không phải là người ngu, trong khi cô nghe sự cắt đặt của bà bếp không hề phàn nàn gì, dù sao cô cũng thấy ớn. Cô sẽ không còn thì giờ để mà nghỉ lấy hơi nếu cô phải hoàn thành mọi công việc cho tới giờ ăn tối, cô nóng lòng bắt đầu những công việc vặt.

- “Ầy, chút xíu nữa đã, con”, bà bếp nói một cách lơ đãng. “Để bác đọc thực đơn ở trong này đã. Mình bác có thể làm được bữa sáng”. Bà nheo mắt nhìn tờ giấy. “Nào, để xem nào. Trứng tráng và thịt muối cho cậu Edwin. Bầu dục, thịt lợn muối, xúc xích, khoai tây rán cho cậu Gerald. Một cá trích muối cho ông chủ. Trà, bánh mì nướng, bánh mì mới, bơ, mứt, mứt cam. Thế, và như vậy là đủ rồi!” Cái đầu của bà lắc lư mạnh mẽ trên cái cổ núc ních ngắn ngủi và bà lẩm bẩm: “Tôi không hiểu sao tất cả họ không thể đều cùng ăn một thứ trong gia đình này”.

Sau một lát bà Turner xác định: “Ờ, bác tin là có thể giải quyết được bữa sáng, con ạ. Còn bữa trưa khoai tây đánh, bánh táo với món sữa trứng?” Bà lật tờ giấy lại và khùng khục cười một mình. “Nhưng mà con gái này, dù sao bác cũng nghĩ là con sẽ phải giúp bác một tay cho bữa tối đấy. Murgatroyd có đề nghị một vài món, hừm! Ông ta có thật. Xúp thịt gà, thịt cừu với sốt, cá chép, khoai tây rán và hoa lơ với nước sốt pho mát, bánh xốp kem. Pho mát Wensleydalevà bánh quy. Và bánh mì rán với pho mát cho cậu Gerald”. Bà dừng lại và chớp mắt, ngó nhìn tờ giấy: “Một bánh mì rán với pho mát cho cậu Gerald!” Bà nhắc lại nghi ngờ: “Cứ như là cậu ta ăn còn chưa đủ cho cả ngày. Cậu ta sẽ trở thành một con lợn con thật sự. Cậu Gerald của chúng ta, nếu có một điều tôi không thể chịu đựng được thì đó là cái tính háu ăn!” Bà nói chung với cả mọi người trong phòng. Bà đút nhanh mẩu giấy vào trong túi: “Bây giờ con có thể đi lên và phải cẩn thận khi quét bụi, cưng nhé”, bà dặn dò.

- “Vâng, thưa bà Turner”, Emma nói đều đều, mặt cô không biểu lộ gì hết. “Em sẽ gặp anh sau, Blackie nhé”, cô gọi to và mỉm cười với anh.

- “Chắc chắn là như vậy rồi, mavourneen ạ, bởi vì anh sẽ còn ở đây một vài ngày, anh nghĩ vậy”

- “Ừ, đúng thế”, bà Turner nói chen vào, “Ông chủ gần đây đã xao lãng công việc ở đây. Cậu Edwin thì ốm từ ngày Noel và bà chủ dạo này rất yếu. Tôi cũng mừng là bà Wainwright tới, bà luôn luôn làm cho tất cả mọi người ở đây vui vẻ lên. Phải, bà chủ dạo này khó ở”. Bà Turner dừng lại giữa chừng và ngậm tăm.

Blackie và Emma theo ánh mắt của bà, nhìn về phía cửa ở đỉnh cầu thang. Một người đàn ông đã vào và đang bước xuống bậc cầu thang một cách chậm chạp. Blackie đoán chắc là người quản gia.

Murgatroyd là một người đàn ông cao, khẳng khiu. Lão ta có một bộ mặt xác chết với những đường nét hằn sâu khiến cho bộ dạng của lão một vẻ cấm kỵ. Đôi mắt nhỏ nhợt nhạt hầu như là không màu, gần nhau trong hai cái hố sâu hoăm hoắm. Đôi mắt lợn luộc này hình như là nhỏ hơn thực chất của nó, bởi vì nó tối đi một phần bởi đôi lông mày rậm, đen đâm lên tua tủa thành một đường dài liếc qua trán. Lão mặc quần đen, áo sơ mi trắng có sọc đen, cổ cồn cao và một cái tạp dề của quản gia bằng vải len tuyết dày, màu xanh. Cánh tay áo của lão vén lên để lộ cánh tay dài lòng khòng, đường gân xanh nhằng nhịt. Mặt lão có vẻ thê thảm, đôi mắt ánh lên hằn thù. “Cái gì thế này? Cái gì thế này?” Lão hét lên bằng giọng the thé khi lão dừng lại ở chân cầu thang. “Thảo nào mà hôm nay chậm”. Lão ba hoa chích chòe. “Tôi có thể thấy bà xao lãng nhiệm vụ của mình, bà bếp”, lão nói tiếp một cách huênh hoang: “Cái con bé lười biếng thối thây này, đáng lẽ phải đến sớm hơn nửa tiếng đồng hồ, đúng là như thế! Ông chủ không phải là đang thực hành công việc từ thiện, các người biết đấy. Con bé này được trả tiền mà làm ăn ít thế à. Ông chỉ thật quá rộng bụng. Ba shilling một tuần chứ ít đâu. Một giá vương giả để chẳng làm một việc gì hết”. Lão cau mặt nhìn Emma đang đứng gần tủ bát đĩa dưới cầu thang “mày còn chờ gì nữa, lên ngay!”, lão gầm lên.

Emma gật đầu câm lặng, nhặt cái rổ, cái hốt rác, cái quét thảm và đi về phía cầu thang. Khi cô đi qua Murgatroyd, vài cái rổ rơi ra và cả thuốc đánh sàn. Cái hộp sắt lăn qua sàn và cái nắp văng đi, đổ bột đen vào chân Murgatroyd. Emma há hốc mồm ra vì kinh sợ, cô cúi xuống nhặt nó lên. Trong khi cô làm như vậy, Murgatroyd vung thẳng cánh tay đánh vào đầu cô rất mạnh bằng mu bàn tay.

- “Đồ ngu ngốc khốn nạn!”, lão hét lên, “mày không làm gì cho nên thân nữa sao? Mày hãy nhìn cái đống bẩn thỉu mày đã làm trên cái sàn sạch sẽ này xem!”.

Emma lộn nhào vì cú đánh hung bạo và bất ngờ, cô lảo đảo lùi lại, buông rơi chổi quét thảm và cái hốt rác. Blackie nhảy ra khỏi chiếc ghế đẩu trong nổi kinh hoàng. Cơn giận sôi sục trong lòng anh. Anh nắm chặt hai nắm đấm tiến về phía lão quản gia. Ta sẽ giết nó anh nghĩ. Ta sẽ giết chết thằng con hoang này!

Bà bếp đã đi được nửa bếp, bà gặp Blackie, bà đẩy anh lùi lại, lắc đầu cảnh cáo và rít lên: “Cậu hãy tránh khỏi chuyện này. Để lão đấy cho tôi”.

Bà Turner đối mặt với Murgatroyd như một con gà chọi. Mặt bà đỏ bừng lên giận dữ, ánh mắt của bà như sát nhân. Bà giơ quả đấm nhỏ bé của mình lên dứ vào mặt lão bừng bừng khí thế: “Đồ chó chết bẩn thỉu!”, bà kêu lên cuồng nộ. “Đó chỉ là lỡ tay. Cô bé không cố ý”. Bà nhìn Murgatroyd qua đôi mắt bừng bừng “Ta mà thấy lão đánh con bé đó một lần nữa thì mạng lão sẽ không đáng sống đâu. Ta hứa chắc như vậy. Ta sẽ không phải tới gặp ông chủ đâu. Ta sẽ không cần phải gặp. Ta sẽ nói với cha cô bé đó. Và lão biết cái gì sẽ chờ đợi lão nếu Jack Harter lớn để tay vào người. Ông ấy sẽ biến ngươi thành khoai nghiền!”.

Murgatroyd trợn mắt nhìn bà Turner, nhưng kìm lại không trả lời gì hết. Blackie, đôi mắt xoáy vào Murgatroyd, thấy được một nỗi lo lắng đột ngột trong lão. Sao, lão là một thằng hèn nhát, Blackie nghĩ. Lão là một thằng nhát gan, đớn hèn, đầy huênh hoang khoác lác!

Bà bếp quay ngoắt khỏi Murgatroyd một cách kinh tởm và quay sang Emma, lúc này đang quỳ trên sàn, nhặt một cách gọn ghẽ tất cả những thứ rơi ra khỏi rổ. “Con không sao chứ, cưng?”. Bà hỏi một cách quan tâm, Emma ngẩng đầu lên và gật chậm chậm. Mặt cô như một phiến đá trắng khắc và cũng bất động như thế. Chỉ có đôi mắt là còn linh động bởi vì nó bừng lên một nỗi căm ghét khôn cùng đối với Murgatroyd: “Cháu sẽ lấy một cái khăn ướt lau sạch chỗ thuốc đen”. Cô nói một cách nhẹ nhàng, che giấu cơn giận của mình.

Murgatroyd Murgatroyd bây giờ hướng sự chú ý vào Blackie. Anh đi vào trong phòng một cách nhẹ nhàng y nhu thể không có chuyện gì xảy ra cả. “O’Neill phải không? Người thợ đấu ở Leeds. Ông chủ nói chờ anh sáng hôm nay”. Lão ước đoán Blackie bằng đôi mắt lạnh lùng và gật đầu một cách tán đồng: “Ờ, trông anh cũng có vẻ khỏe mạnh đấy. Tôi hy vọng là anh không sợ công việc chứ, anh bạn”.

Phải mất một nỗ lực đáng kể để Blackie có thể nói một cách lịch sự với lão quản gia, nhưng anh biết anh không còn cách nào khác. Anh nuốt mạnh cục nước bọt và nói bằng một giọng sự vụ mà anh cố tạo nên:

- “Vâng, tôi đây. Nếu ông cho tôi biết chi tiết của công việc, tôi sẽ bắt đầu”.

Murgatroyd rút một mảnh giấy từ trong túi ra và đưa cho Blackie: “Tất cả đều được viết ở trong này. Chắc anh biết đọc chứ”.

- “Biết”.

- “Tốt. Nào, bây giờ nói chuyện lương của anh. Mười lăm shilling cho một tuần làm việc, ăn ở trong thời gian anh ở đây. Ông chủ chỉ thị như vậy”. Đôi mắt lão đầy quỷ quyệt.

Blackie cố kìm một nụ cười hiểu biết. Sao, cái thằng quỷ đểu cáng này đang cố gắng lừa mình đây, anh nghĩ vậy, nhưng anh nói: “Không, thưa ông! Ông chủ đã đồng ý với tôi ở Leeds với giá một guinea. Vâng một guinea đó. Ông Murgatroyd ạ!”.

Đôi mắt lão quản gia mở to ngạc nhiên: “Anh không chờ đợi tôi tin là chính ngài chủ tới gặp anh chứ anh bạn? Nhân viên của ngài ở Leeds luôn luôn giải quyết những công việc lặt vặt này?”. Lão tuyên bố.

Nhìn Murgatroyd chằm chằm Blackie nhận ngay ra rằng nỗi kinh ngạc của con người này là thật. Nét mặt Ireland đẹp trai của anh nở một nụ cười rộng miệng. “Đúng đó, chính ông ấy đến gặp tôi và ông chú Pat của tôi. Chả là chúng tôi có một xưởng nhỏ. Ông ấy thuê tôi sửa chữa ở đây, còn chú Pat của tôi thì làm ở các nhà máy và các cơ quan báo ở Leeds. Và tôi chắc chắn về giá cả như vậy, chắc chắn là như thế. Có lẽ ông hỏi lại ông chủ xem chắc là có chuyện nhầm lẫn, tôi nghĩ thế”. Blackie cười thầm, bởi vì lão quản gia rõ ràng là không chỉ bối rối mà còn bực tức vì sự việc.

- “Nhất định tôi sẽ nói chuyện với ông chủ!”. Murgatroyd buông xuôi. “Chắc hẳn ông chủ đã quên là ông đã thu xếp với anh. Ông ấy có những việc quan trọng hơn để nghĩ tới! Thôi, ta bắt tay vào đi. Người phụ trách nhà kho đang ở trong chuồng ngựa. Ông ta sẽ chỉ cho anh mọi thứ ở đây, và phòng của anh ở trên chuồng ngựa, anh sẽ ngủ ở đó”.

Murgatroyd ra hiệu cho Blackie đi bằng cái gật đầu cụt lủn và ngồi xuống bàn. “Cho tôi trà và thịt lợn muối xông khói”. Lão gọi bà bếp. Bà ném cho lão một cái nhìn căm ghét. Bà nhặt một con dao lên và bắt đầu cắt ổ bánh mì một cách hết sức hung dữ và từ vẻ mặt của bà, rõ ràng là bà mong ước chính bà đang đâm chém Murgatroyd lúc này.

Blackie sải bước về phía để túi của anh, hất nó lên vai. Emma đang nhặt nhạnh những đồ quét dọn của cô ở dưới chân cầu thang. “Đêm nay anh sẽ gặp em mavourneen”, anh nói nhẹ nhàng và mỉm cười.

- “Vâng, nếu lúc ấy em làm xong công việc”, cô trả lời một cách âu sầu. Nhìn thấy vẻ băn khoăn thoáng hiện trên mặt anh, cô mỉm cười: “Ôi, em sẽ xong thôi. Đừng lo về em, tárar(1) , Blackie”. Anh nhìn theo cô biến mất trên những bậc thang trước khi anh mở cánh cửa bếp đi vào, trong buổi sáng lạnh, đầu óc anh đầy những ý nghĩ ngổn ngang về những người sống trong Fairley Hall, và đặc biệt là Emma, thân cô thế cô trong ngôi nhà xa lạ này.

Emma dừng lại trong hành lang nhỏ trên gác nối với cầu thang bếp, cô đặt những dụng cụ lau chùi cô đang mang xuống. Cô tụt cái giỏ ra khỏi đây và tựa vào tường. Mặt cô dài ra, cái đầu đau ê ẩm vì cú đánh mạnh, cô sôi sục căm hờn. Cô thấy hình như lão khoái đánh cô, và mặc dù lão liên tục mắng mỏ Polly, nhưng lão cũng không tàn nhẫn với chị ta như vậy. Sự bộc lộ cái cáu kỉnh của lão một vài phút trước đây chẳng phải là điều gì bất bình thường và cô biết lão sẽ đánh cô tàn nhẫn nếu bà bếp không ngăn cản. Lão sẽ đánh cô luôn luôn, cô nghĩ một cách u ám, rồi ta sẽ cho nó biết.

Cô sửa lại cái giỏ nặng trên cánh tay, nhặt những thức khác lên và đi chậm chạp xuống hành lang, giác quan của cô mẫn cảm, cô lắng nghe chăm chú tất cả những tiếng động bất thường trong nhà. Nhưng không có một âm thanh nào hết vì gia đình vẫn còn đang ngủ. Hành lang đầy mùi u ám, thoang thoảng mùi sáp, mùi bụi khô và mùi mốc đặc biệt chứng tỏ những cửa sổ đóng từ lâu và những căn phòng đóng kín, không có không khí. Cô ao ước được quay lại nhà bếp, nơi vui vẻ nhất trong Fairley Hall.

Mặc dù sự đồ sộ và đồ đạc sang trọng của nó, ngôi nhà làm cho Emma tràn đầy những nỗi kinh hoàng không tên và bao giờ cô cũng muốn chạy trốn khỏi nó. Có cái gì ghê sợ, đè nén trong những căn phòng tối tăm, giá buốt với những trần cao ngút, đồ đạc nặng nề, những căn phòng mênh mông, những hành lang quanh co kéo dài mãi không dứt qua ngôi nhà. Đó là một nơi của những miền yên lặng câm nín, nơi hoang tịch, những điều bí mật dấu kín, một ngôi nhà kỳ bí gợi nên điều bất hạnh và sự mục nát. Tuy nhiên mặc dù tất cả cái im lìm ấy vẫn có một sự xáo động cất giấu ở khắp mọi nơi, được kìm lại nhưng đầy hăm dọa thầm đợi nổ tung ra.

Emma rùng mình khi cô lướt qua tấm thảm Thổ Nhĩ Kỳ giàu có trong tiền sảnh khổng lồ, đẩy cánh cửa đôi của căn phòng buổi sáng. Cô đứng trên ngưỡng cửa, liếc nhìn chung quanh một cách hồi hộp. Những ngón tay gầy guộc của ánh nắng mỏng nhẹ như sa tìm được đường vào trong phòng qua những khung cửa sổ cao, buông rèm lụa trắng, trướng bằng nhung xanh dầy. Những tấm ảnh tối tăm nhìn xuống từ những bức tường nhung xanh mờ mờ và Emma tưởng tượng một cách phi lý, rằng những đôi mắt cổ xưa của họ dõi theo cô khi cô len lén đi về phía lò sưởi, lách qua nhiều đồ đạc nặng nề thời Victoria làm bằng gỗ gụ đen bóng lên trong ánh sáng ảm đạm. Âm thanh duy nhất là tiếng tích tắc rầu rĩ của chiếc đồng hồ để trên bệ lò sưởi bằng đá cẩm thạch đen.

Emma đặt dụng cụ, lau dọn trên sàn và quỳ trước lò sưởi. Cô phủi những vết tro, chất đầy giấy và củi mà Murgatroyd đã xếp thành đống trên lòng lò sưởi cùng với diêm. Cô châm lửa vào giấy và khi củi đã bắt lửa, cô mở chiếc xô đựng than bằng đồng, nhặt ra những hòn than nhỏ. Cô thận trọng đặt chúng vào củi đang cháy. Than không bắt lửa ngay, vì thế cô nâng cái tạp dề lên quạt cho đến khi nó bắt đầu hồng.

Tiếng tích tắc đều đều của cái đồng hồ nhắc cho Emma nhớ là cô còn ít thì giờ. Cô lau dọn căn phòng một cách có hiệu quả và nhanh nhẹn, mặc dù đồ đạc cồng kềnh và chen chúc. Khi đã xong, cô lấy ở trong tủ kéo ra một khăn trải bàn Ireland trắng tinh, trải nó trên chiếc bàn tròn lớn. Cô dọn bốn bộ đồ ăn bằng bạc và chạy lại tủ buffet lấy đĩa. Khi cô lấy ra bốn chiếc đĩa Crown Derby, cô sững người, câm lặng. Cổ cô gai gai và da gà nổi lên, bởi vì cô biết cô không còn một mình nữa. Cô có cảm giác hơn là nghe được một sự hiện diện khác trong căn phòng.

Cô chậm chạp quay lại. Ông chủ Fairley đang đứng ở ngưỡng cửa, ngắm cô chăm chú.

Cô vội đứng lên, cúi chào: “Kính chào ông chủ”, cô lẩm bẩm một cách nhút nhát, ôm chặt chồng đĩa vào ngực để chúng khỏi kêu lách cách trong đôi tay run rẩy của cô. Đôi chân cô run lên, mặc dù vì ngạc nhiên hơn là vì sợ.

- “Chào! Polly đâu?”.

- “Chị ấy bị ốm – Thưa ông chủ”.

- “A”, ông chủ nói một cách ngắn gọn.

Đôi mắt ông ta nhìn xoáy vào cô với sự tập trung tột độ. Ông cau mặt và một nét bối rối đọng trên mặt ông. Sau một hồi yên lặng kéo dài, trong lúc Emma ngó ông như bị mê hoặc, ông gật đầu ngắn ngủi, quay gót nhanh và bỏ đi. Tiếng cửa thư viện đập mạnh khi ông đập cửa đi và làm cô giật mình kinh ngạc. Chỉ lúc ấy cô mới thở dài nhẹ nhõm và dọn xong bàn cho gia đình ăn sáng.

đam Feli đúng giữa thư viện hai tay ôm mặt. ông mệt, kiệt sức thực tế là như vậy, bởi vì ông ngủ rất tồi. Bệnh mất ngủ của ông không có gì là mới. Những ngày gần đây, ông dường như bị nguyền bởi căn bệnh ấy, với những đêm không bao giờ kết thúc. Ngay cả khi ông phải uống đến năm, đôi khi sáu ly poóctô lớn sau bữa cơm chiều, những ly poóctô vang, nhưng vang không làm nổi thuốc an thần cho ông. ông sẽ ngủ một vài tiếng đồng hồ, một trạng thái hôn mê nặng nề như bị đánh thuốc ngủ đè sập xuống ông, nhưng rồi ông đột ngột tỉnh dậy vào nhũng giờ sớm, mồ hôi vã ra, hoặc run sợ, tùy thuộc Ở những cơn ác mộng, đầu óc ông xao động với những nỗi nhớ đau đón vẩn lên và sự phân tích, đánh giá cuộc đời ông, nó không hề làm ông vui. NÓ kéo dài không lâu.

ông chậm chạp đi đi lại lại trong căn phòng, lạc trong suy tư, ông là một người gọn ghẽ, cân đối chừng sáu pút(l) bộ mặt hấp dẫn, thông minh, nhạy cảm, hôm (I) Một pút bằng O.3048m.

nay trông xanh xao, mệt mỏi. Ðôi mắt đẹp của ông màu xanh xám và hết súc sáng hầu như là rực lên, hết sức minh mẫn, chứa một độ sâu và gợi nên trí tuệ, nhưng hôm nay nó viền đỏ và ánh sáng trong đó mờ đi. Nét đáng ngạc nhiên nhất trong bộ mặt có chiều khắc khổ của ông là miệng ông, hết súc ham muốn, mặc dù sự hạm muốn này thường được nén lại và được ngụy trang bằng vẻ nghiêm khắc thường xuyên phảng phất quanh môi ông. Mái tóc nâu nhạt điểm vàng hoe thẳng và đẹp.

ông chải sơ qua trên chiếc đầu thon thả, tóc để dài hơn thời thượng một chút. Do đó mái tóc phía trước luôn luôn xòa xuống vầng trán rộng và ông có thói quen nóng nảy là gạt vội nó ra sau. Bây giờ ông cũng làm như thế khi ông đi đi lại lại trên sàn.

Mà lạ thay, cử chỉ nóng nảy này hình như không bao giờ làm cho đầu ông rối bù, bởi vì Ðam Feli là một trong những người lúc nào trông cũng chải chuốt tề chỉnh bất kể trong tình huống nào hoặc đang làm gì. Bề ngoài của ông không thể chê vào đâu được. Lúc nào ông cũng hết sức sang trọng, hợp với tình thế, phong lưu nhưng không hề lòe loẹt.

BỘ com lê của ông tuyệt hảo, cắt đẹp, chính xác, đó là sự thèm thuồng đối với bạn hữu của ông Ở Luân Ðôn và các cộng sự của ông Ở Li dơ và Brátfoóc. Ðại bộ phận chúng là những vải vóc đẹp từ chính nhà máy của ông hoặc từ nhà máy của các bạn ông - hàng len xe của những máy dệt lớn Ở Ioócshơ, trung tâm nổi tiếng của công nghệ len sợi mà trong đó Ðam Feli là ông hoàng nổi tiếng. Nói tóm lại, Ðam Feli là tinh túy của cách ăn mặc lịch sự. ông ghét tất cả nhũng gì là thứ phẩm hoặc thô nhám và nhược điểm của ông đối với quần áo đẹp là mốt, một trong vài cái ham mê ít ỏi của ông. Ngược lại, ông không bao giờ nghĩ là ngôi nhà ông đang sống không có một chút gì gọi là đẹp. ông hầu như không nhận ra điều ấy.

Sau một vài phút, ông thôi không đi đi lại lại nữa, mà bước qua phòng, tới bên chiếc bàn gỗ mun lớn chạm trổ. ông ngồi xuống một chiếc ghế da đỏ thẫm, nhìn một cách lờ mờ vào cuốn sổ ghi chép công việc của ông. Ðôi mắt ông ngứa ngáy và rực lên vì thiếu ngủ, người đau như dần, đầu ông giần giật không phải chỉ vì mệt mỏi mà còn vì như tư tưởng buồn chán giày vò ông. ông cảm thấy không còn một chút giá trị gì trong cuộc sống của ông nữa. Không niềm vui, không tình yêu, không chút ấm áp không bạn bè, thậm chí không một chút thích thú nào để ông có thể đem nghị lực của mình đặt vào trong đó Không có gì hết... Không gì hết ngoài những ngày cô đơn bất tận kéo dài chậm chạp và tàn nhẫn sang những đêm cô đơn hơn, bất tận, hết ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác.

Tất cả sự xốn xang đã trôi đi và mặt ông hốc hác.

Những vệt tím đọng lại trên má dưới mắt, đó là bằng chứng mạnh mẽ của sự tàn phá đêm hôm trước, của những giờ không đếm được ông đã đi đi lại lại trong phòng ngủ, giày vò bới nỗi khổ não mà ông thấy không thể chịu đựng nổi. ấy thế nhưng đó là một bộ mặt trẻ thơ, dù cho nó có sầu muộn và mệt mỏi đến thế nào, Ðam Feli không trẻ hơn nhiều so với tuổi bốn mươi tư của ông.

đời tôi là một mớ hỗn độn khốn kiếp, ông suy nghĩ với nỗi buồn bã trong lòng. Sống dể làm gì? Ta chẳng có gì để mà sống cho nó. Ta ao ước giá như ta có đủ can đảm dể nã một phát vào dầu ta và chấm dứt nó mãi mãi.

Ý nghĩ này làm ông choáng váng đến nỗi ông ngồi thẳng người lên trên ghế và nắm chặt lấy tay ghế. ông nhìn đôi bàn tay của mình. Chúng run run. Ngay trong những giây phút tệ hại nhất, mà gần đây luôn luôn xảy ra, nhưng ông chưa bao giờ nghĩ đến tự tử. Ngày xưa, ông luôn cho rằng tự tử đi đôi với sự hèn nhát, nhung bây giờ ông thừa nhận với mình là có lẽ, đúng về một phương diện nào đó, hành động này cũng cần phải có một lòng dũng cảm. ông bỗng nghĩ rằng chỉ có nhũng kẻ ngu ngốc mới không bao giờ nghĩ tới tự vẫn. Chắc chắn hầu hết những người thông minh đều cân nhắc tới chuyện này, lúc này hay lúc khác! ông tự hỏi. Bởi vì lòng ông nhận ra, với một cảm giác vô vọng bệnh tật răng tri thức về cuộc đời và hoàn cảnh của nhân loại không thể đem lại sự vỡ mộng với nỗi thất vọng. Ðối với ông, nó cũng còn đem lại một cảm giác bơ vơ mà ông thấy ngày càng không thể chịu nổi.

Mặc dù của cải và địa vị của mình, Ðam Feli là một con người bị dằn vặt, một người bị thất vọng cay đắng trong cuộc đời, ông không còn mong chờ Ở hạnh phúc, nhưng ông vẫn ao ước được mãn nguyện và ít nhất Ở sự yên ổn của tâm hồn. Thế những ông không tìm thấy được sự nghỉ ngơi nào khỏi nỗi cô đơn cay đắng, và cái cô quạnh trong tim ông, nỗi đau càng không thể chịu nổi, bởi vì, Ở một chừng mực to lớn, là do cái sáng tạo chính ông. Sự bất mãn và cái vỡ mộng đau đớn của Ðam nảy sinh từ sự phản bội đối với chính ông, tham vọng của ông, mơ ước của ông, và lý tưởng của ông. ÐÓ là cái thất bại của tri thức của niềm tin giáo lý.

Ðam ngẩng đầu lên mệt mỏi và chậm chạp nhìn quanh thư viện, y thể nhìn thấy nó sau một cuộc hành trình dài. ÐÓ là một căn phòng nguy nga, trần cao mênh mông, kích thích lớn với những bức tương gỗ sồi ốp, những bô sách kinh điển và những đồ cổ. Những tấm thảm Ba tư hắt ra nhũng màu ngọc xanh sẫm và màu đỏ lung linh trên nền sàn gỗ nhẵn bóng và một bộ chọn lọc những bức họa di sản quý tộc thêm duyên dáng cho bức tường nhiều giá sách. Một chiếc sô pha chextơfm thoải mái bọc da màu vàng nâu đỏ được đặt bên cạnh lò sưởi gỗ sồi chạm trổ, cùng với nhiều ghế tựa bọc nhung thẫm. Bên cạnh một chiếc bàn thư viện gỗ mun cất đầy báo, tạp chí và họa báo. Ở một góc, một chiếc tủ đứng đen màu hạt dẻ có một chiếc khay bằng bạc và những chiếc bình pha lê đựng rượu poóctó, rượu mạnh, anh đào, uýtxki và gin, cũng như những chiếc cốc phalê Oatfót lóng lánh trong ánh sáng xám Ithat.

Thư viện không buồn tẻ như những phòng khác Ở Feli Hon, Ðam luôn luôn chống lại ý của vợ muốn chất nhũng đồ cổ tạp nham và đồ sặc sỡ rẻ tiền như ông vẫn gọi một cách khinh rẻ những đồ trang sức khác của bà.

Do đó, căn phòng có được một chừng mực nào đó của sự duyên dáng và tư thế, mặc dù một tư thế nam giới. Giống như phòng ngủ của ông dù nó có vẻ nghiêm khắc hơn, nhưng phản ảnh hoàn toàn tính cách và thị hiếu của ông.

Ðam sư dụng hầu hết thời gian của mình trong thư viện trù phi phải tiếp khách, dạo này rất hiếm, đây đã trơ thành bến bờ bình yên của ông, nơi ông khoan khoái đọc và suy tư, không bị quấy rầy trong nỗi cô đơn.

ông lấy chiếc đồng hồ túi ra nhìn giờ. Ðã gần bảy rưỡi mà ông vẫn không thấy dấu hiệu gì của các gia nhân, trừ một người hầu gái trơ trọi đang lau căn phòng buổi sáng. Nguyền rủa sự vắng mặt của quản gia, ông giật chuông, bực bội nhìn lò sưởi lạnh lẽo và trống không.

Trong khi ông đợi Mớcgaroi xuất hiện, bức ảnh bản kẽm của ông trong bộ binh phục ky binh đệ tứ Hu đa đập vào mắt ông. ông quay lại, nhìn nó kỹ hơn, môi mím lại trong khi ông quan sát nó. ông mỉm cười phiền muộn. Một bộ mặt gì vậy. Ðầy mong đợi, trông chờ, và phải, thậm chí cả hạnh phúc nữa. ông hầu như không nhận ra mình.

Mớcgaroi gõ cửa, bước vào phòng, cắt ngang dòng suy nghĩ của Ðam. "Chào Mớcgaroi", ông nói một giọng lạnh lùng.

Lão quản gia tiến lại phía ông một cách nhẹ nhàng, vừa chỉnh lai chiếc áo vét đen. "Xin chào đại nhân. Tôi tin là ngài ngủ ngon. Hôm nay rất đẹp trời cho cuộc hành trình của ngài tới Li dơ. Nắng, khô ráo và hầu như không có gió Bếp sắp sửa soạn xong bữa sáng hầu ngài. Thưa ngài, bà ta đang chuẩn bị món cá trích muối hun khói cho ngài". Ðiều này được nói lên với sự xúm xoe đến nỗi Ðam phải nhăn mặt và tránh mặt đi để cho Mớcgaroi khỏi nhìn thấy sự ghê tởm trong đôi mắt ông.

Khi Ðam không trả lời, lão quản gia nói tiếp: "Thưa ngài, ngài còn cần gì nữa không ạ, ngoài món cá trích, tôi muốn hỏi vậy ạ?

Thằng ngu, Ðam nghĩ, lúc này nhìn thẳng vào mặt Mớcgaroi, một ngọn lửa thì hay quá, ông nghĩ thế.

',Xin lỗi ngài bảo sao ạ?". Mớcgaroi hình như bối rối. Lão nhìn nhanh xuống lò sưởi trống không và rủa thầm Emma.

- ',Một ngọn lửa, Mơcgaroi!", Ðam nhắc lại! "ở đây đủ lạnh để làm chết cóng cả một con khỉ bằng đồng - Ðam dừng lại, tay che tiếng ho, một thoáng thú vị trong mắt ông khi ông để ý thấy sự lúng túng của Mớcgaroi! - Ư hừm! à, để tôi nói thế này nhé. Không khí Ở trong phòng này sáng nay chỉ có thể so sánh được với vùng bắc cực Tôi thấy hình như tôi cũng thuê đủ gia nhân để có thể phục vụ được cả một chiến thuyền, ấy thế mà tôi lại không có được một vài tiện nghi đơn giản!. Dù cho rất bực bội những điều trên vẫn được nói với sự kiềm chế thường ngày của Ðam bởi vì ông rất ít khi phơi bày sự giận dữ với bất cứ ai, đối với những gia nhân thì lại càng hãn hữu.

Quỷ quá! Sáng hôm nay ông Ở trong một tâm trạng gì vậy Mớcgaroi nghĩ là lão nói một giọng trơn như dầu:

- hết sức xin lỗi ngài. Pô li bị ốm và cô bé kia thì lại chậm. Tôi cũng không hiểu nữa, nếu tôi không để mắt từng phút một thì cô bé đó chẳng làm một việc gì hết.

Tôi đã bảo nó nhóm lò Ở đây từ bao lâu rồi, tôi...".

- Này, thế ông làm sao vậy? ông què à?". Ðam nói xen vào một cách nhẹ nhàng, nhưng đôi mắt ông là hồ băng giá.

Một vẻ hốt hoảng hiện trên bộ mặt sầu thảm của Mớcgaroi: "Dạ, không, không ạ, tôi sẽ lo việc đó ngay ạ, thưa đại nhân". Lão nói vội vã cúi chào khúm núm liên hồi một cách lật đật.

- "Phải, làm ngay đi!".

"Có ngay, thưa đại nhân?". Lão lại cúi chào và giật lùi ra khỏi phòng.

- "à Mớcgaroi này!".

- ,'Dạ, thưa ngài 'Người thợ đấu từ Li dơ đã tới chưa? tên trẻ ấy?".

"Dạ thưa ngài tới rồi. Tới sáng sớm nay. Tôi đã trao cho anh ta danh sách những thứ cần sửa chữa".

- "Tốt. Ðưa cho anh ta tất cả những thứ anh ta cần để làm tốt công việc. Hãy để cho anh ta những điều kiện thuận tiện trong bếp. Thật nhiều thức ăn vào".

Mơcgaroi gật đầu, ngạc nhiên trước sự quan tâm của ông chủ đối với một người lao động bình thường. NÓ vừa làm lão kinh ngạc vừa làm lão thú vị. thưa ngài vâng.

Ngài có thể tin cậy tôi như bất cứ lúc lào. Tôi sẽ sắp xếp Dạ thưa đại nhân, tôi sẽ trả cho anh ta bao nhiêu tiền một tuần làm việc?".

Ðôi mắt xảo quyệt của lão không rời khuôn mặt Ðam.

Ðam cau mặt. "Tôi đã bảo với ông tối qua là anh ta sẽ nhận ghinê cho công việc của anh ta. Trí nhớ của ông tồi đến thế sao?".

',Dạ không, thưa ngài. Tôi thoắt quên, thế thôi!"

- ',Tôi hiểu. à, không sao. Trong thời gian này, tôi sẽ rất biết ơn, nếu như ông lo cho ngọn lửa ngay lập tức.

Tôi đang nhanh chóng biến thành một khối băng. Và tôi cũng muốn một tách trà nóng nữa, Mơcgaroi, nếu như nó không quá khó khăn".

Giọng nói gai gai của Ðam không thoát khỏi sự chú ý của lão quản gia. "Thưa ngài, có ngay ạ", lão vừa nói vừa cúi chào. Lão quay lại và hấp tấp đi, lòng đầy căm giận bà bếp và lũ hầu gái. Tất cả đều chếnh choáng trong đêm khuya, và điều đó làm lão bực tức, lão lẩm bẩm và nhẹ nhàng khép cửa.

Ðam nhìn ra cửa. Mớcgaroi này sinh một tính lạ là quên những câu chuyện về tiền nong, nhất là khi nó có liên quan tới lương cho những công nhân bên ngoài thỉnh thoảng tới Hon làm việc. Lão quản gia cho đến nay đã quá bủn xỉn và điều này làm ông phiền lòng, Ðam nghĩ Mớcgaroi vốn là một gã ngu ngốc, hẳn phải là một bạo chúa trong lãnh địa của lão ta dưới nhà.

ông lắc đầu và lại quay trở lại với bức ảnh thời trẻ trung của ông. ông không cần phải nhìn khuôn mặt ấy để nhắc ông tới binh nghiệp dang dở của ông Gần đây nó luôn luôn Ở trong tâm trí ông. ông đã đi đến chỗ tin rằng cuộc đời của ông hẳn đã rất khác nếu như ông đi theo mục đích chỉ đạo của mình chứ không ngoảnh mặt đi vì trung thành với cha ông. Bây giờ ăn năn là quá muộn, nhưng dù sao thì ông đã ăn năn.

Khi ông đứng đó trong căn phòng tối lạnh, một bóng hình của chính ông hồi còn trẻ lướt qua tâm trí. ông thấy một cậu bé gầy gầy từ Tôn trở về nhà trong những ngày nghỉ, báo cho cha biết với một nỗi hăm hở gần như cuồng tín, ý định nhập ngũ của cậu. Cha cậu không chỉ kinh hoàng mà còn cực lực phản đối ý nghĩ mà ông không tán thành.

Ðam nhớ lại cái quyết tâm của ông mới vững vàng làm sao, sự kiên trì và chiến thuật đầy thuyết phục của ông cuối cùng đã chinh phục được cha ông làm ông thành thật chịu thua.

ông điền chủ già cuối cùng đã chịu thua và dè dặt đồng ý để cho con thi vào Sa nhớt, cậu đã thi đỗ kỳ thi này không mấy khó khăn gì. ông già mình quả đã cư xử rất là tốt đẹp, lúc này Ðam nghĩ, với một chút trìu mến, khi nhớ lại cha ông.

ông điền chủ già Ri chớt Feli là người Ioócshơ cường tráng, ồn ào, một trong những nhà công nghiệp mạnh nhất và giàu nhất Ở miền Bắc nước Anh, với bản năng của một tay cờ bạc đợi thời cơ, con mắt làm ăn tinh quái và một bộ óc sắc như lưỡi thép. Khi Ðam tỏ ra mình là một sĩ quan học viên gương mẫu tại học viện quân sự, thì ông lão đã ném tất cả quyền lực và tiền bạc của mình sau con trai. Khi Ðam tỏ ý muốn nhập một trung đoàn ky binh vì cậu là một ky mã không ai sánh nổi, Ri chót Feli đã làm hết cách để đạt được mục đích đó. Qua của cải của mình và sự quen biết về chính trị, ông đã đạt được một vị trí cho Ðam trong Ðệ tứ ky binh, cùng với khoản chi phí nuôi hai con ngựa và một chuồng ngựa con mà ông đã mua cho cậu con thứ của ông. Vốn là?7897;t người quan sát sắc sảo bản chất con người, ông điền chủ già nhận thấy rằng Ðam có tất cả nhũng thuộc tính tự nhiên mà một người lính đòi hỏi. Anh thích hợp một cách thật là lý tưởng cho cuộc sống nhà binh, bởi anh có một bộ óc mẫn cảm. CÓ chút gì đó của một người lãng mạn, Ðam thèm phiêu lưu ở những miền xa lạ và như một con người bảo hoàng tận trung với những mục đích và tham vọng của nữ hoàng Victoria, anh ao ước được phục vụ quê hương anh và nữ hoàng của anh, trong vương quốc đang bành trướng một cách nhanh chóng.

Ðam vừa được vào đệ tứ ky binh thì người anh trai của cậu Estuat đã bị chết đuối một cách bi thảm trong một tai nạn đắm thuyền. ông điền chủ già tan nát cõi lòng. ông cũng tin răng hòn đá thử vàng của tính cách một người đàn ông là tận tụy với nhiệm vụ. Mặc dù hiểu tính cách của Ðam, nhưng ông vẫn bảo với cậu con thứ của ông rằng nhiêm vụ của anh là trở lại Ioócshơ và giữ vị trí của Étuat trong công việc làm ăn buôn bán của gia đình, một công việc khổng lồ.

Sáng hôm nay, Ðam có thể nhớ lại giọng nói của cha: "Thôi đừng lang thang đây đó trên lưng ngựa trong những bộ binh phục đỏm dáng đàn áp những ngươi dân bản xứ Ở những miền đất xa lạ", ông nói một cách hăm hở, cố gắng nén bót nỗi sầu thương cho Estuat. ÐÓ là một nỗi sầu thương rõ ràng là đau đớn với Ðam, anh buộc phải miễn cưỡng rời bỏ nghiệp của mình. Anh thất vọng một cách cay đắng, nhưng anh đã xử sự theo cách duy nhất anh biết, như một sĩ quan và một con người lịch sự bị ràng buộc bởi luật danh dự và nghĩa vụ đối với gia đình Anh đã chấp nhận chữ hiếu một cách khả ái, lúc ấy anh không nhận ra rằng sự tuân theo mệnh lệnh của cha anh là một sai lầm không sửa nổi. Bây giờ thì ông biết điều ấy. ÐÓ là một sự thật ám anh ông. Khi ông quay trở lại bàn giấy, Mớcgaroi gõ cửa vội vã mang một xô than vào. "Thưa ngài, trà của ngài sẽ được mang lên một phút nữa", lão nói.

- 'Cám on, Mớcgaroi. Nếu ông thắp cho những ngọn đèn Ở cuối phòng sáng lên thì hay quá. Vừa nói Ðam vừa đánh một que diêm và châm ngọn đèn trên bàn rồi kéo cuốn sổ công việc về phía mình. ông nhìn những cuộc hẹn gặp của ông một cách khó chịu. ông đã có một cuộc họp ban giám đốc tại Yoskchire forning Gazette Ở Li dơ, công ty báo chí mà ông la người có cổ phần lớn nhất.

Sau bữa ăn trưa với một người mua vải vóc Ở Luân Ðôn tới, một trong những khách hàng quan trong nhất của ông. Dù sao cũng không phải là một ngày quá nặng nhọc.

ông sẽ tới Li dơ, để nói chuyện với Uynxton, người quản đốc, về sự tiến bộ của Giêron, con trai ông. ông nén một tiếng thở dài. Công việc bắt đầu làm ông phát ngấy.

Không còn gì hấp dẫn nữa. Giờ đây khi nghĩ lại, sự thật thì không hề có cả. ông không quan tâm đến việc theo đuổi tiền tài, sự thật thì ông không bao giờ nuôi tham vọng cho tiền của và quyền lục. Thành công của ông là thành công của bố ông và của ông ông và ông chỉ gặt hái những thành quả mà thôi.

RÕ ràng là Ðam Feli đã tăng của cải ông thừa hưởng, nhưng đối với ông điều đó dường như xảy ra do tình cờ ngẫu nhiên hơn là sự sắc sảo của ông. Như vậy là ông đã làm một việc bất công đối với mình, bởi vì ông có một sự nhạy bén nào đó về công việc, tuy không rõ rệt bằng cha ông, dù sao nó cũng rất sắc sảo. ông được coi như nhà thương lượng ngoan cường mặc dù cái cung cách nói năng nhẹ nhàng của ông, và một số cộng sự của ông thậm chí còn coi ông như một người cơ hội có tính toán giống y như cha ông vậy.

ông đẩy cuốn nhật ký sang bên. Ngọn lửa lúc này cháy sáng và mặc dù cái ấm áp của nó không lan tỏa khắp căn phòng rộng mênh mông, cái cảnh tượng ngọn lửa bùng bùng bay vút trên ống khói làm cho ông vui lên và cái cảm giác lạnh lẽo trước đây bao trùm lấy ông đã bắt đầu lùi đi. Thư viện đã mất bóng u ám của nó.

Mặc dù kiểu của nó về cơ bản là nghiêm khắc và thiếu những đồ cổ lạ, căn phòng vẫn có một không khí dễ chịu toát lên tính chất đàn ông, sự chắc chắn, dòng dõi, tiền bạc từ xưa chứ không phải là giàu xổi.

Mớcgaroi lúi húi bên lò sưởi, sau đó lão dừng bên bàn của Adđam. Lão hắng giọng. Ðam ngước nhìn lên khỏi tờ quyết toán hàng năm của công ty mà ông đang nghiền ngẫm. "Sao, Mớcgaroi, có chuyện gì vậy?".

- thưa ngài, tôi đang tự hỏi không biết có lệnh cho người hầu gái chuẩn bị cùng phòng đó cho bà Vên rai không? Căn phòng xám Ở cánh chính? Bà thích phòng đó, thưa đại nhân, tôi biết điều đó. Tôi luôn luôn muốn bà Vên rai thục sự được thoải mái ạ".

Lần đầu tiên, thái độ bợ đỡ của lão quản gia không làm cho Ðam bục tức. ông ngạc nhiên thấy mình hầu như không để ý thấy điều đó. ông nhìn Mớcgaroi chằm chằm, bàng hoàng trong giây lát. Và rồi ông nhớ ra. Vì quá bận rộn với những vấn đề của mình ông đã quên khuấy mất là cô em vợ mình sẽ tới chiều nay. - ừ' như vậy tốt đó, Mớcgaroi," Ðam thừa nhận, rồi nói nhanh thêm: Và làm ơn xem hộ trà của tôi ra sao rồi và cho tôi biết khi nào lũ trẻ xuống ăn sáng. Tôi sẽ đợi chúng sáng nay". Ðam cho lão quản gia đi bằng cái gật đầu ngắn ngủi.

- , Dạ thưa ngài, vâng. Một cái nhìn trả thù trên nét mặt Mớcgaroi khi lão rời khỏi thư viện, lão vội vã xuống bếp để cho Emma một trận. Con bé làm hại lão, cố tình trùng trình với món trà đó.

Ðam mở ngăn kéo giữa cái bàn giấy và điên cuồng tìm lá thư của ôlivia biết cho ông ông nhận ra rằng sự xem xét nội tâm của mình làm ông hoàn toàn quên lãng.

ông phải kéo mình ra khỏi nổi ưu phiền, lúc này đã trở thành tình trạng thường xuyên, nếu không ông sẽ phát điên mất. điêll như cái người. đàn bà trên gác.

Hầu hết mọi lúc, Ðam cố cưỡng lại sự phỏng đoán về tình trạng tâm thần bất ổn của vợ ông, xua đuổi cái cách cư xử lạ lùng của vợ trong mấy năm gần đây, coi nó như là những u uất của phụ nữ, sự buồn chán nói chung, bệnh tưởng và một sự mơ hồ đặc biệt luôn luôn chế ngự trong tính cách của vợ. lúc nào bà cũng đầy những lo sợ và ảo giác, nhưng cả những điều này nữa, ông cũng chỉ coi là sự tưởng tượng của phụ nữ. Giờ đây ông tự hỏi với một cảm giác tội lỗi nho nhỏ, không biết thái độ của ông là do muốn tự bảo vệ mình mà ra, bởi vì ông không bao giờ muốn tự mình thú nhận rằng Ðam có thể bị mất trí. Chừng nào ông không nghĩ tới điều đó thì ông sẽ không gặp phải cái thực tế ấy.

Giờ đây ông đã gặp nó, ông nhớ lại thỉnh thoảng vợ ông giống như cô ôphêlia điên, đi lang thang ngơ ngẩn loanh quanh Ở những dãy hành lang trên gác, vẻ lờ mờ trên nét mặt nàng, tóc bù rối, khoác chiếc áo choàng tắm bằng sa the bềnh bồng mà nàng thích quấn quanh người như một đám mây giông. Vài tháng trước, trong một chuyến đi công tác tới Luân Ðôn, ông đã miêu tả hành vi của vợ ông với Anđru Wenđon, ban ông, một bác si có danh tiếng, ông này đã nghe một cách kiên nhẫn và đã đề nghị Ðam nên đi khám một bác sĩ ở Li dơ hay tốt hon nữa là chính òng ta, Ðam đã dự định đi. Nhưng khi trở về Feli, ông đã ngạc nhiên và nhẹ nhõm trong người khi thấy sự lạ lùng của nàng đã tan biến đi và nàng dáng như đã hoàn toàn bình thường từ đó.

Mỏng manh, đúng thế nhung không bị ảo tưởng ám ảnh nữa. Nhưng ông biết một cách bản năng và với một cảm giác ghê sợ rằng cái kém lành mạnh mong manh bọc quanh nàng có thể vỡ tan bất cứ lúc nào.

Giờ đây ông ương ngạnh đẩy lùi cái ý vấn vương này và liếc nhìn lá thư của ôlivia Vên rai. Nàng sẽ tới nhà ga Li dơ bằng con tàu ba giờ ba mươi từ Luân Ðôn. ông sẽ có thể đón tàu của nàng ngay sau bữa ăn trưa của ông. ông hướng sự chú ý vào bảng quyết toán tài chính và ghi chép một vài điểm Ở bên lề rồi qua những tài liệu về công việc khác mà ông đã từng lơ là và đòi hỏi có sự chú ý tức thời của ông.

Khi ông làm việc với những giấy tờ này, Ðam không biết là đã thay đổi một cách dễ nhận thấy. Cái vẻ hốc hác đã biến đi một cách kỳ diệu, và đôi mắt ông đã bừng sáng. Tất cả những điều Ðam có thể hiểu được, trong khi ông làm việc, là tinh thần của ông được nâng lên một cách bất ngờ và hoàn toàn không thể giải thích được. Một tiếng gõ cửa rụt rè. Ðam ngẩng đầu và nói: "Vào đi", ông khẽ cựa mình trên ghế và nhìn ra cửa. Cửa mở chậm chậm và Emma bước vào. CÔ mang một tách trà trên một chiếc khay bạc nhỏ, cô do dự bên cửa.

- "Thưa đại nhân, trà của ngài", cô lẩm bẩm. Tiếng cô hầu như không nghe thấy được. CÔ khẽ nhún mình chào trong khi nói và xuýt nữa thì làm đổ tách trà. Ðôi mắt xanh trang trọng của cô nhìn ông chằm chằm, nhưng không làm một cử động nào để trà cho ông, Ðam nghĩ cô tỏ ra sợ không dám đến gần bàn.

ông mỉm cười một cách yếu ớt. cứ để đó, trên bàn gần lò sưởi", ông nói nhè nhẹ. CÔ làm như được bảo, đặt khay xuống và vội vã quay ra cửa. CÔ lại nhún người chào, quay ra.

- "Ai bảo cô làm như thế Nhún người xuống mỗi khi thấy tôi".

Emma nhìn lại ông, một vẻ hốt hoảng qua nét mặt cô, đôi môi cô mở to, để lộ ra không phải chỉ là sự sợ hãi đối với ông.

CÔ nuốt nước bọt, nói một cách rụt rè: "Thưa đại nhân, Mớcgaroi ạ" . CÔ dừng lại, nhìn thẳng vào ông và hỏi bằng một giọng mạnh mẽ hơn. "Tôi làm có đúng không ạ".

ông cố nén một nụ cười. "Có, cô làm đúng. Nhưng nó làm tôi bực mình ghê gớm khi thấy cô cứ nhổm lên nhổm xuống hoài. CÔ không cần phải nhún chào tôi như vậy Tôi có phải là hoàng đế đâu, cô biết đó. Tôi đã bảo Pô li đừng làm thế và tôi cho rằng cô ấy đã bảo cho Mớcgaroi ý muốn của tôi. RÕ ràng là cô ấy không nói. CÔ có thể nói với Mớcgaroi điều tôi vừa nói và đừng làm thế nữa."

- .Vâng, thưa đại nhân".

- Tên cô là gì, cô gái?".

,Emma, thưa đại nhân".

ông gật đầu trầm tư. "Cô có thể đi, Emma, và xin cám ơn cô một lần nữa vì đã đem trà".

Emma lại nhún người chào một cách máy móc, nhưng vội sửa lại ngay và chạy bay ra khỏi phòng. Khi cô xuống cầu thang tới bếp, cô cười khẽ một mình và đó là một nụ cười cau có. Phải chăng ông ta nghĩ cô là con bé ngớ ngẩn và cố gắng xoa dịu cô kiểu như vậy! Lại đi bảo cô không cần phải nhún mình chào như vậy. Dù ông ta có làm gì cũng thế thôi, cô sẽ không bao giờ thay đổi ý kiến về ông. Không bao giờ. Chừng nào cô còn sống.

Ðam bước qua sàn, tới bên lò suối, khuôn mặt của Emma đọng lại với ông. NÓ đánh vào một sợi giây trong ký ức của ông, y như sáng nay khi ông lần đầu tiên để ý thấy cô, nhưng nó mờ ảo ông không thể nào nắm được nó. CÔ ta hẳn phải Ở trong làng, nhưng cô lại không giống bất cứ một ngươi dân làng nào mà ông thì biết từng gia đình một. Cái cau mặt bối rối lại về với khuôn mặt đẹp trai của ông khi ông lần mò ký ức, cố gắng khơi dậy kỷ niệm xưa. NÓ vẫn cứ trôi đi và lảng tránh. CÓ một sự trong trắng, thơ ngây và cao quý trong khuôn mặt tươi trẻ của cô gái và đôi mắt kia đầy một màu xanh Bắc cực thăm thẳm, là đôi mắt chói lòa nhất ông chưa bao giờ nhìn thấy. CÔ nhắc ông nhớ đến một người, nhưng ông không tài nào nhớ ra được người đó là ai.

ông cầm tách trà và chiếc đĩa lót lên, uống nhanh trước khi nó nguội. ông đang ngồi sưởi trước lò sưởi thì có một tiếng gõ cửa nữa. vẫn tiếng gõ nhè nhẹ như lần trước nhưng lần này kiên quyết hơn. Sau khi được lời của ông, cánh cửa mở và Emma lại đứng đó một lần nữa. CÔ dườg như ít lưỡng lự hơn, Ðam nhìn cô chăm chú khi kỷ niệm lại sống dậy một cách lạ lùng, nhưng vẫn không báo được cho ông điều gì.

Trong một giây phút, đôi mắt họ gặp nhau và cả hai không ai có thể dời mắt đi, và Ðam nghĩ một cách kinh hoàng và với một nhận thức đột ngột: sao cô bé này không sợ mình. CÔ ta ghét mình! ông lùi lại trước cái nhìn của cô. Emma nghĩ: ông ta là một con người bần tiện và độc ác, sống bám vào lao động của người khác, trái tim non trẻ và run rẩy của cô rắn lại trước con người này.

Giọng cô mạnh mẽ và lạnh lùng khi cô nói. "ông Mớcgaroi nói tôi báo với ngài là trẻ con đang đợi ông Ở phòng buổi sáng, thưa đại nhân". CÔ nắm chặt cánh cửa để đứng cho vững bởi vì cô còn đang bị choáng váng vì đòn trừng phạt thứ hai cô vừa bị từ bàn tay độc ác của Mớcgaroi.

Ðam gật đầu, ông nhận ra rằng mình có một kẻ thù không khoan nhượng trong người con gái lạ lùng mà lại hấp dẫn này, mặc dù ông không thể hiểu nổi tại sao lại như thế.

Cô rút lui một cách lặng lẽ không liếc nhìn lại một lần nữa. Ðam nhận thấy cô không cần phải sửa lại cách nhún chào.

Một lát sau, Ðam bước vào phòng, dáng điệu của ông nhanh nhẹn, nét mặt ông điềm tĩnh. Khi bước vào, ông va phải một trong những chiếc bàn mỏng mảnh. ông nắm lấy ghế với hình ảnh cô gái chăn chiên xứ Mê xen nghiêng trên mặt ghế rồi cả hai đổ xuống sàn, ông dựng chúng lại và lẩm bẩm rủa, vừa bực bội vừa chán nản.

Liếc nhìn lão quản gia, đang đứng bên tủ đựng bát đĩa đợi để hầu bữa sáng ông nói một giọng lặng lẽ, - Mớcgaroi làm ơn lát nữa chuyển chiếc bàn này. Hãy tìm một chỗ khác cho nó. Muốn để nó đâu thì để tôi không cần, cứ chuyển đi cho khỏi vướng. Tôi luôn luôn vấp phai nó.

Thưa ngài, vâng", Mớcgaroi vừa nói vừa xếp lại những chiếc nắp trên nhiều chiếc lò hâm.

Ðam ngồi xuống và nhìn hai con của mình đã ngồi vào bàn. Chào các con, ông nói một cách vui vẻ Giêron lầm bầm đáp lại nhưng étwin đẩy lùi chiếc ghế lại, đứng nhanh lên đến bên ghế của Ðam. Anh hôn bố nhẹ bên má và nói với nụ cười rạng rỡ nhất "chào ba".

Ðam mỉm cười đáp lại cậu con thứ, vỗ vai con một cách trìu mến. Sự vỡ mộng của ông đối với vợ và cuộc hôn nhân cũng ngang với nỗi thất vọng đối với các con ông, mặc dù ông yêu quí étwin thật sự, cậu này tốt hơn anh. Về mặt thể chất cậu cũng hết sức giống bố.

"Thế nào, con có khỏe không?", Ðam hỏi nhẹ nhàng.

Con khá hon rồi chứ.", Nhìn bộ mặt xanh xao của étwin, ông nói nhanh, "nhưng chúng ta phải tô thêm chút màu trên đôi má kia étvin ạ. Ba nghĩ con nên đi ngựa chiều nay, hay ít nhất cũng nên đi bộ trên đồng. Cho nó khuây khỏa. Ðúng không". .

'Vâng thưa ba", étwin nói và ngồi xuống, cậu rũ chiếc khăn ăn một cách cẩn thận. "Hôm qua con cũng muốn đi, nhưng mẹ nói trời lạnh quá đối với con". Nét mặt cậu trông già dặn một cách đáng ngạc nhiên đối với một cậu bé mười lăm tuổi, bừng lên mong đợi. "Con nói với mẹ là ba nói hôm nay con có thể đi chơi được không .Ðừng lo chuyện đó, étwin. Chính ba sẽ nói với mẹ con", Ðam trả lời quả quyết, ông nghĩ Ađelơ sẽ biến đứa bé thành người mắc bệnh tưởng như chính nàng nếu ông không để mắt tới. Lúc này Ðam cảm thấy gần đây mình tắc trách lơ là với étwin. ông quyết định phải kiên quyết và kéo cậu bé ra khỏi vòng ảnh hưởng ốm yếu, bệnh hoạn của mẹ cậu.

Trong khi đó Mớcgaroi đã mang một cái khay bạc tới bàn. Lão đứng bên canh Ðam, và đưa món cá trích hun khói với một vẻ khoa trương. "Trông quả thật là ngon, thưa ngài. Tôi chắc ngài sẽ thích. Thưa ngài, tôi hầu ngài được chưa ạ?.

Ðam đồng ý và cố nén một cảm giác buồn nôn đang dâng lên khi nhìn vào khay. Mùi cá hun khói làm cho dạ dày ông nôn nao, ông tiếc là đã uống quá nhiều rượu đêm qua. Trong khi Mớcgaroi phục vụ món cá, Ðam nhấc chiếc bình trà bằng bạc lên, tự rót cho mình một tách trà, thêm đường và sữa một cách lơ đã?ết sức, mong trà sẽ dìm được bực dọc của mình. ông quay sang Mớcgaroi.

"Cám ơn. Sáng hôm nay bọn con trai có thể tự làm lấy được, bởi vì ông đang thiếu người giúp việc. ông có thể đi làm những việc khác, Mớcgaroi ạ'!.

"Xin cám ơn ngài". Lão quản gia đặt lại cái khay lên tủ bát đĩa và lùi ra khỏi phòng. Giêron đẩy rầm rầm chiếc ghế Victôria lại và lao ra phía tủ đựng bát đĩa, étwin theo sau chậm rãi hơn và đĩnh đạc hơn.

Khi cả hai trở lại bàn, Ðam nhìn một cách hết sức khó chịu thức ăn đầy ắp trên đĩa của Giêron, và cơn buồn nôn lại ập tới ông đến nỗi ông cảm thấy người yếu đi và hơi choáng váng. Sao, thằng bé này đã trở thành một kẻ tham ăn tục uống. ông quyết định sẽ nói chuyện riêng với Giêron sau. Cậu con trai mười bảy tuổi của ông quá to béo, cái diện mạo của nó cùng với cung cách thô lỗ của nó làm Ðam thấy nhục mạ mỗi khi ông nhìn thấy nó. Bởi vì hình hài của Giêron là một khối phình ra, hoàn toàn thiếu góc cạnh cơ bắp thân thể như con quay, phủ hết lớp mỡ này đến lóp mỡ khác dày như mỡ cá voi, Ðam nghĩ một cách khó chịu, ông tự sửa lại. Một mùi mỡ. ông cau mặt.

- "Công việc của con Ở xưởng thế nào, Giêron? Vẫn tốt đẹp chứ? Ðam đợi một cách kiên nhẫn trong khi cậu con cả của ông nhai thức ăn một cách cần mẫn, cuối cùng nuốt đánh ực một cái sau thời gian dường như bất tận đối với Ðam.

Giêron chùi cái miệng ái nam ái nữ vào khăn mặt một cách thong thả và cuối cùng mới nói: "Vâng, tốt đẹp, ba ạ. Uyntxơn rất hài lòng với tiến bộ của con. ông ấy nói con có một khả năng thực sự, đối với công việc len sợi và con đang rất thích công việc này. ông ấy nói giữ con Ở trong xưởng để học tất cả những tiến trình khác nhau là không cần thiết và hôm nay ông ấy sẽ cho con làm Ở văn phòng. Khuôn mặt tròn đỏ hồng của cậu ta khá là trống rỗng, nhưng đôi mắt nâu đen của cậu để lộ một sự láu lỉnh quỷ quyệt. "Ðó là tin vui, Giêron. Ba rất mừng", Ðam nói, mặc dù ông không đặc biệt ngạc nhiên.

Giêron vốn có năng khiếu bước vào thương trường, cậu có một nghị lực phi thường và một khả năng làm công việc nặng nhọc mặc dù cái trọng lương quỷ quái cậu vác trên mình. Cậu ta cũng cực kỳ bủn xỉn, một cái tính mà Ðam thấy là xấu Thực tế mà nói, gần đây ông đã tin rằng tiền là sự đam mê lớn nhất của Giêron, thậm chí còn hơn cả ăn uống nữa. ông nghĩ cả hai đều đáng tiếc.

Ðam hắng giọng và nói tiếp một cách có suy nghĩ.

-ba sẽ nói chuyện với Uynsơn sau. Ba định dừng lại Ở nhà máy trên đường tới Li dơ. Hôm nay ba có rất nhiều cuộc hẹn gặp trước khi ra tàu đón dì ôlivia của các con.

Các con biết dì sẽ đến Ở với chúng ta vài tháng chứ! .

"Vâng, thưa ba", Giêron nói, hiển nhiên không thú vị gì việc bà dì tới . Cậu ta lại tiếp tục tấn công vào bữa sáng một cách hăm hở, không kiềm chế nổi.

Nhưng khuôn mặt của étwin thì lập tức mất đi cái nhìn bơ vơ trước đây. con rất mừng dì ôlivia tới ở, ba à' cậu nói một cách nhiệt thành. "Dì thật là tuyệt Ðam mỉm cười. ông cầm tờ The Times đang để gập gần đĩa của ông, mở ra, những trang báo sột soạt khi ông bắt đầu đọc tin tức hàng ngày.

Yên lặng buông xuống trong phòng. âm thanh duy nhất là tiếng nổ lách tách, tiếng rít khe khẽ của bình khí, và tiếng lanh canh khe khẽ của đồ sứ trong khi hai cậu con ăn sáng. HỌ biết tốt hon là không trò chuyện một cách không cần thiết khi cha họ đang mải xem báo.

Ðiều này không thành vấn đề gì hết vì Giêron chẳng có gì giống với étwin, cậu đã xa lạ với anh từ lâu.

- "Thật là một mớ hẩu lốn. Một mớ hẩu lốn", Ðam đột nhiên nói to sau tờ báo, tiếng nói của ông vang lên trong phòng, phá tan sự yên lặng. Không quen thấy cha mình giận dữ, hoặc cao giọng, các con nhìn ông giật mình ngạc nhiên.

Cuối cùng étwin đánh liều hỏi. "Có chuyện gì thưa ba. CÓ gì trong báo làm ba bận tâm?".

- Vấn đề thương nghiệp tự do Quốc hội lại mới họp và họ lai bắt đầu với cái vấn đề này. NÓ sẽ là một mớ hẩu lốn, hãy nhớ lời ba. Ba chắc nó sẽ hạ bệ Berlfo.(l) Và chính phủ của ông ta. CÓ lẽ không phải ngay lúc này, nhưng chắc chắn trong một tương lai không xa lắm, nếu cái trò lố lăng này vẫn tiếp tục".

étwin hắng giọng. Cặp mắt màu xanh nhạt của cậu hết sức giống cha, ánh lên nét thông minh trên khuôn mặt dịu dàng. Cậu nói: "Vâng. Con nghĩ hoàn toàn đúng.

Con đọc báo hôm qua thấy Uynxtơn Chơcchin cực lực phản đối dư luận thương nghiệp tư do mà ba biết ông ấy khôn khéo làm sao. ông ấy sẽ chống lại kịch liệt và con chắc chính phủ sẽ rất lộn xộn, đúng như lời ba nói".

Sự ngạc nhiên của Ðam rõ rệt. ba không ngờ con lại quan tâm đến chính trị như vậy, étwin. Ðây là một điều mới, có phải thế không"?.

étwin mở miệng định nói, nhưng Giêron cười khẩy và nói một cách miệt thị: "Chớcchin, ai cần quái gì đến điều ông nghĩ. ông ấy chỉ là thành viên của ônđơm(2).

Một tỉnh nhà máy Len eashơ. Nếu ông ấy theo bước chân của cha thì sự nghiệp chính trị của ông sẽ ngắn ngủi như Lo Ranđônphơ thôi. Chơchin là một gã ba hoa, thành công ngắn ngủi."

Ðam che miệng ho. Khi ông nói, giọng ông lạnh lùng nhung bình tĩnh. "Ba không đồng ý với con. Giêron ạ. Và ba nghĩ étwin hoàn toàn đúng Uynxtơn Chớcchin là một chính khách sắc sảo, người biết các vấn đề. Con thấy đó, ông đã làm rạng danh cho mình trong cuộc chiến tranh Nam Phi, và ông đã giải thoát Bâuơ. Sự thật đã trở thành một anh hùng đối với quần chúng và khi bước vào chính trị, bài phát biểu đầu tiên của ông đã được đón tiếp nồng nhiệt Từ đó, ông đã hành động rất khá và ba ngờ là chúng ta không biết nhiều về chàng trẻ tuổi Uynxtơn gần đây ba tin rằng một ngày nào đó, ông sẽ trở thành một nhân vật quan trọng trên đất nước này. Nhưng quả thực, tất cả nhũng cái đó thật là không thích hợp. Con công kích Chớcchin một cách giả dối nhất, nhưng lại thận trọng phớt lờ điểm thực tế của étwin đó là chính phủ sẽ lâm vào tình trạng hết sức lôi thôi đối với sự thật thương mại tự do, étwin đã nói lên hộ những tình cảm của ba".

Giêron lắng nghe chăm chú, coi bộ như sắp sửa đưa ra một nhận xét mỉa mai. Nhưng cậu ta nghĩ lại đứng lên, mang đĩa của mình ra phía tủ, lấy thêm thức ăn.

Một ánh mắt ma mãnh len vào cặp mắt nâu đen của cậu ta, dáng điệu kiêu căng khi cậu ta di chuyển một cách chậm chạp từ đĩa thức ăn này sang đĩa thức ăn khác.

Nét mặt étwin sáng bừng lên khi cậu hướng cặp mắt long lanh nhìn cha và mỉm cười. Cậu đã khẳng định được( mình lần đầu tiên và đã thấy sự liên minh bất ngờ của cha. Ðam mỉm ườoi với cậu con thứ một cách trìu mến.- 'con có hiểu vấn đề thương nghiệp tự do là thế nào không. Etwin"? Ðam ỏ?r> - con nghĩ là có, thưa ba. CÓ phải là việc đánh thuế thực phẩm và những thứ khác không ạ?".

- ,'Ðúng. Nhưng nó cũng còn phức tạp hơn thế nữa một chút. Con biết không? Nhân chủ trương bảo vệ công nghiệp trong nước do Chambơclen đúng đầu đang cố gắng thuyết phục chính phủ bỏ chính sách thương nghiệp tự do và lương thực rẻ mà đất nước này đã được hưởng từ lâu HỌ muốn định thuế và đánh thuế đối với tất cả mọi hàng hóa để bảo vệ các nhà công nghiệp Anh. Chống lại cái gọi là cạnh tranh ngoại quốc. Ðam ngừng một lúc lại nói tiếp "Nếu như chúng ta Ở trong tình trạng suy thoái thì sẽ còn có chút ý nghĩa, đằng này nền công nghiệp của ta lúc này đang vững mạnh. ÐÓ là một lý do vì sao đạo luật của Chambớclen là ngớ ngẩn như đại đa số chúng ta đã nhận định. NÓ sẽ là tai họa cho đất nước.

Trước tiên, mọi người đều sợ thực phẩm sẽ đắt đỏ hơn.

Tất nhiên điều đó không ảnh hưởng đến chúng ta, hoặc những ngươi Ở địa vị của chúng ta. Tuy nhiên nó là nỗi lo ngại thực sự cho các bà nội trợ của giai cấp công nhân khi thấy giá thịt và bánh mì tăng lên. Ngoài ra, người ta tin đặc biệt những đảng viên Ðảng tự do, rằng thương nghiệp tự do là cách duy nhất để giữ gìn hòa bình và thông cảm trên thế giới. CÓ một câu nói cổ như thế nào.

Nếu hàng hóa không vượt qua biên giới thì quân đội sẽ vượt qua. Chớcchin hiểu những điểm cốt yếu này. ông đã nói đi nói lại nhiều lần rằng những người chủ trương bảo vệ công nghiệp trong nước sai lầm trong kinh tế, sai lầm trong những quan điểm chính trị và sai lầm một cách đáng sợ nhất trong cách đánh giá dư luận quần chúng của họ".

- ,,Ðiều gì sẽ xảy ra, ba", étwin hỏi.

- ,'Ba nghĩ, chúng ta sẽ chứng kiến một cuộc chiến gay gắt và đẫm máu giữa Liên đoàn sửa đổi thuế quan ủng hộ Joe Chambớclen và Liên đoàn lương thực do các thương nhân sáng lập. Quận công đêvônsơ là chủ tịch của nhóm thứ hai và ông đã tập hợp nhiều nhân vật bảo thủ có tên tuổi xung quanh mình bao gồm Chớcchin?".

- ,ba nghĩ họ có thắng không? nhóm của Chớcchin ấy?".

- "Ba chắc chắn mong như vậy, étwin ạ, vì lợi ích của đất nước".

- ,'Nhưng Nghị Viện sẽ bị chia rẽ, có phải không, ba?"

- "Ðúng thế. Và cả Ðảng bảo thủ nữa. Vì thế ba mới nói cảm thấy sự rối loạn đang âm ỉ. áctơ Banfo định ngồi trên cọc, nhung điều đó cũng chẳng đem lại mấy tốt đẹp cho ông ta. ông ta vẫn ra khỏi cái chức thủ tướng sớm hơn ông mong đợi".

Giêron quay trở lại bàn một cách vội vã, buông mình xuống đột ngột và nặng nề đến nỗi chiếc bàn rung lên, đồ sứ và đồ đạc kêu lách tách và nước chè sóng ra khỏi tách của cậu, làm cho chiếc khăn trải bàn trắng loang một vệt sẫm bẩn thỉu. Ðam quan sát Giêron và một sự lạnh lùng to lớn, trợn mắt nhìn cậu ta, nỗi bực bội của ông ngày một tăng lên. "Giêron này! Hãy cố gắng lễ độ hơn Ở bàn ăn. Và con có nghĩ là con nên tự kiềm chế không? Cứ tọng thức ăn một cách vô độ thế này không tốt gì cho súc khỏe của con đâu. Mà trông nó cũng đáng ghét lắm!".

Cậu thanh niên cố làm vẻ phớt lờ lời giáo huấn nhẹ nhàng này, cậu ta với lọ hạt tiêu, rắc thật nhiều vào thức ăn. "Mẹ nói con ăn như thế này là bình thường đối với một ngươi con trai đang tuổi lớn", cậu ta nhận định một cách thiển cận và tự mãn. Ðam cố kìm một câu bình luận chua chát và nhấp nước trà.

Vừa ăn, Giêron vừa liếc nhìn cha một cách không cởi mở. "Trở lại với thảo luận lúc tnrớc ba ạ. Con chắc ba sẽ đồng ý rằng là những người lịch sự, chúng ta có thể có những bất đồng ý kiến mà không đi tới chỗ cãi nhau.

Ðam chùn bước trước cái ý kiêu căng này khi Giêron tiếp tục nói: "Con chỉ muốn nói là con không đánh giá cao Chớcchin, mặc dù những lời bình luận ngược lại của ba. Xét cho đến cùng ông ấy đại diện cho ai? Cho những người se bông choàng khăn, đi guốc gỗ ư.".

',Ðiều dó không hoàn toàn đúng đâu, Giêron ạ. Và đừng có vội vàng gạt bỏ giai cấp công nhân đi vội. Thời thế đã thay đổi rồi".

- "Ba nói nghe như một người xã hội chủ nghĩa ấy".

Bồn tắm cho các công nhân ư. Ba biết là họ sẽ chỉ để than vào đó thôi".

ÐÓ là một câu chuyện ác ý và nực cười gần đây loan đi, do những kẻ ngoan cố cổ lỗ sĩ sợ những thay đổi trong đất nước này", Ðam nói một cách gay gắt. "Nhưng ba nghĩ đó chỉ là một câu chuyện và ba lấy làm khó chịu, con lại làm cho nó có vẻ trang nghiêm bằng cách nhắc lại nó, ba nghĩ là con khá hơn thế, Giêron ạ".

Giêron cười một cách đần độn, nhung đôi mắt ti hí của cậu ta hằn thù: "Ba đừng nói là ba có ý định cho các công nhân Feli những bồn tắm đi, ba".

Ðam nhìn con một cách lạnh lùng. "Không, ba không định làm như thế. Nhưng ba luôn luôn cố gắng cải thiện điều kiện Ở nhà máy, và như con đã dư biết, chắc chắn ba sẽ tiếp tục làm như vậy.

- "A, khỏi phải làm điều đó", Giêron thốt lên một cách hăm hở. "Như thế này họ cũng đã đủ kích động lắm rồi. Cứ để họ Ở thấp, làm việc nặng và đói. Như vậy cho khỏi những trò gây rối và chúng ta có thể kiểm soát được "

- ,'Ðó không phải là một phương châm hay ho gì cho nó lắm, Giêron ạ và cũng chẳng phải là một chính sách nhìn xa thấy rộng gì cả", Ðam xẵng giọng. "Nhưng chúng ta sẽ bàn chuyện nhà máy sau. Trong thời gian đó, ba muốn chỉ còn thấy rằng con phải học tập nhiều bản chất của con người và của những người thợ, con ạ. Trước đây họ bị đối xử một cách tàn tệ. Phải có những cải cách, và ba hy vọng điều đó sẽ xảy ra mà không có quá nhiều đổ máu .

"Có lẽ tốt hơn ba không nên để các bạn bè của ba trong ngành len nghe được những điều ba nói, chứ nếu không thì, thưa ngài, họ sẽ thiến ngài như một kẻ phản bội giai cấp của mình". Giêron trả lời.

- "Ðùng hỗn". ông bố thốt lên, mắt ông long lanh sáng màu trắng lạnh lùng. Ðam, người ít khi nổi nóng, lúc này rất bực bội. Nhung ông kiềm chế được và tự rót một tách trà nữa cho mình. Vì sự mệt mỏi về thể xác và tinh thần nên sự kiên nhẫn của ông không còn và thần kinh ông căng thẳng.

Giêron nhăn răng cười và nháy mắt với étwin, cậu này chằm chằm nhìn anh một cách kinh ngạc trước một sự hỗn láo kỳ quặc như vậy. Cậu bàng hoàng trước sự hỗn láo của Giêron, cậu hết nhìn bố lại nhìn Giêron rồi cúi mặt.

Giận sôi người, nhưng tự chủ được, Ðam mở tờ báo và sắp sửa náu mình sau đó thì étwin, nhận biết nỗi ưu phiền của cha và cố gắng làm cho ông nghĩ sang chuyện khác, nên nói: "Ba có biết Kitchonơ khi ba còn Ở trong quân đội không ba?".

- "Không, ba không biết. étwin ạ. Tại sao con hỏi vậy?," Ðam hỏi một cách thiếu kiên nhẫn. ông đặt tờ báo xuống, nhìn étwin một cách tò mò.

- "Hôm qua con đọc một chuyện ông ấy va chạm với ngài Cớcđơn Ở ấn Ðộ. Ba có đọc chuyện đó trong tờ Times không? Con không hiểu tại sao họ luôn luôn hục hặc nhau? Thưa ba, ba có biết không ạ?".

.Có, ba có xem cái chuyện đó, và nguyên nhân chính là bởi vì khi Kitchơnơ đến ấn ÐỘ làm tổng tư lệnh quân đội Anh, ông ấy sắp xếp lại quân đội. ông ấy nhanh chóng nắm độc quyền kiểm soát quân đội lớn hơn và vị phó vương đã phản đối điều này và hiện nay cũng vẫn cứ phản đối, ba có thể nói thêm điều đó. cớcđơn đã gặp đối thủ của mình, ba sợ là như vậy. - Kitchơnơ không phải là ngươi có thể phá ngang được. Rồi ông ấy sẽ có cách dù cho gì gì đi nữa. - Ba không nói thế, con ạ".

,'Ba không thích Kitchơnơ, đúng không ba étwin ướm. "Nhưng mà tại sao con lại nghĩ ra một diều như vậy?".

- "Hồi con còn nhỏ, một lần ba đã nói với con chính do lỗi của Kitchơnơ mà Cơcđơn đã bị giết Ở Khắc tum".

Ðam nhìn xoáy vào étwin: "Con có một trí nhớ phi thường. Nhưng ba không hoàn toàn nói như vậy. Nếu ba nhớ lại được đúng thì ba nói là đội cứu viện của Kitchơnơ đến quá muộn dể cứu tướng Cơcđơn Ở Khắc tum đã bị quân của Mađi(l) tấn công, đội quân này đã giết Cơcđơn một cách tàn ác, cũng không phải hoàn toàn là lỗi của Kitchơnơ. Thực tế thì đó là lỗi của Glaxtôn, bởi vì ông ta chậm trễ gửi quân cứu viện Cơcđơn. NÓ đã gây ra một sự phản kháng rầm rộ lúc đó. Thực vậy, sự công phẫn của quần chúng vì việc bỏ rơi Cơcđơn thực tế đã góp phần vào việc sụp đổ của chính phủ Glaxtôn. Nhưng không để trả lời cho câu hỏi của con, ba không trách Kitchơnơ về cái chết của Cơcđơn vì Kitchonơ là một người lính tốt, rất tận tụy với nhiệm vụ của mình".

- "Con hiểu', étwin nói một cách tư lự, cậu hết sức nhẹ nhõm thấy cha mình đã bình tĩnh hơn.

- con thích quân đội hay chính trị. étwin? Ba có thể thấy là con thích cả hai". Ðam nói. Không phải là một nói có thể tức giận lâu, sự giận dữ của ông đối với Giêron bắt đầu lắng xuống.

',ồ, không ba. Con nghĩ là con thích làm luật sư, étwin thông báo điều đó một cách sốt sắng. Nhưng rồi cậu xị mặt khi thấy Ðam cau lại. "Ba không tán thành sao?".

Ðam vội mỉm cười, ông cảm thấy được nỗi thất vọng đột ngột của con trai. "Tất nhiên là ba tán thành. Bất cứ cái gì con muốn, con trai. Ba không bao giờ nghĩ rằng con lại thích luật. Tuy vậy, ba luôn luôn biết con sinh ra không phải để làm công việc buôn bán. Vả lại, Giêron dường như rất thú vị với nhà máy". ông liếc nhìn đứa con cả, giọng ông đanh lại khi ông nói tiếp. "Ðúng không, Giêron?".

Giêron gật đầu và nói: "Hoàn toàn đúng' Con biết Uynxtơn sẽ cho ba những báo cáo tốt về con?". Cậu ta ngừng lại, liếc nhìn em một cách quỷ quyệt. "Dù sao thì étwin cũng không thích làm việc Ở nhà máy và sức khỏe của chú ấy không đủ để làm việc trong những điều kiện khắc nghiệt. Ðã có lúc con nghĩ chú ấy thích báo chí, nhưng vì chú ấy không thích, con hoàn toàn ủng hộ ý muốn học luật của chú ấy Và tại sao lại không? CÓ một bộ óc luật sư trong gia đình cũng hoàn toàn là một điều tốt .

Nhũng điều trên được thốt ra bằng một giọng ngọt ngào nhất. Những từ ngữ khéo léo che giấu sự quỷ quyệt của Giêron. Cậu ta vô cùng ghen ghét với em và cậu ta không bao giờ muốn étwin can thiệp vào công việc làm ăn. Ðứng về mặt quyền lợi thì đó là của cậu ta, con cả và là người thừa kế, cậu ta nhằm giữ cho mình và chỉ riêng cho mình mà thôi.

Ðam không bị đánh lừa. Trò bịp của Giêron đối với ông là quá rõ ràng và hẳn là ngẫu nhiên mà étwin không muốn một tham vọng nào để đi vào công việc của gia đình Ðam ngờ rằng Giêron có thể là một đối thủ tàn bạo khi cần thiết.

,'ờ hình như thế là quyết định, étwin". ông nói chậm chạp gõ ngón tay nhè nhẹ lên bàn. "Con cũng lại đúng với nhũng niềm ao ước tốt đẹp của Giêron nữa".

étwin rạng rỡ, trước tiên nhìn Giêron, rồi nhìn bố.

',Con rất mừng được ba tán thành và được sự đồng ý của ba", cậu reo lên sung sướng. "Thưa ba, con cứ nghĩ là ba phản đối". "Tất nhiên là không". Ðam cầm tờ Yorkshire Mormng Gajette và giở sang mục thị trường len Ở Bratfoóc.

ông đọc nhanh mục đó và nói với Giêron. "Tốt, giá len tương đối ổn định và xuất khẩu tăng. Chúng ta vẫn làm chủ thị trường thế giới. Xuất khẩu vải của Anh trung bình khoảng hai mươi bảy triệu Yard(l) một năm giống như năm ngoái và năm kia. Không tồi chút nào".

Ðôi mắt keo bẩn của Giêron ánh lên trong khuôn mặt nhũn thịt của y: "Uynxtơn nói với con hôm qua, năm nay công việc của chúng ta rất tốt. Buôn bán phát đạt.

À mà, ba có tiếp cái anh chàng len từ Úc tới sáng nay không? Bruxơ Mácgin. Ba biết ông ta sẽ tới nhà máy mà".

- ,'Khỉ thật! Ba quên khuấy đi mất". Ðam thốt lên bực túc: "Ba sợ là ba không thể gặp ông ta được, Uynxtơn sẽ giải quyết việc này".

- "Thưa ba, vâng. CÓ lẽ con tới nhà máy bây giờ", Giêron đứng lên, bước ra ngoài một cách vội vã.

Ðam cau mày nhìn cái hình dáng đang rút đi rồi quay lại étwin. "Ba sẽ nói chuyện với cố vấn pháp luật của ba về con, con trai ba, tuần sau khi ba gặp ông ấy.

CÓ lẽ có một vài ý kiến về học tập tiếp theo của con khi con học xong phổ thông. ông ấy và ba sẽ quyết định xem con sẽ học Ở trường đại học nào. étwin".

- "Thưa ba vâng, và cám ơn ba nhiều. Con hiểu nỗi quan tâm của ba đối với con, đúng thế, thưa ba". Cậu yêu quí và kính trọng cha.

Vào lúc này Emma gõ cửa, bước vào phòng mang theo một khay lớn. CÔ nhìn Ðam một cách lạnh lùng rồi liếc nhanh đi, mắt dán vào cái bình trà bằng bạc.

',Thưa ngài, Mớcgaroi sai tôi lên dọn dẹp nếu bữa ăn đã xong". CÔ nói bằng một giọng cứng rắn, tay nắm chặt khay, lưng rất thẳng. "Vâng, chúng tôi đã xong, cám ơn Emma. CÔ có thể dọn tất cả đi nhưng hãy để lại ấm trà. Tôi có thể cần một tách nữa rót khi tôi đi".

ánh mắt Ðam dịu dàng và ông mỉm cái với cô một cách tử tế.

Emma chỉ chú ý nghe ông có một phần, cô lại nghiêng đầu đi và có thể không nhìn thấy sự tử tế và thông cảm ánh lên trên khuôn mặt nhạy cảm của ông. - Thưa ngài, vâng", cô nói lạnh băng và đi lại tủ búp phê. CÔ tựa khay vào tủ rồi quay vào bàn thu dọn những đĩa bẩn.

Ðam thở dài và tiếp tục nói chuyện với étwin.

Emma di chuyển quanh chiếc bàn tròn một cách lặng lẽ thu dọn những bộ đồ ăn bằng bạc và các đĩa cố gắng gây ra ít tiếng động nhất, bản thân sự việc này là một sự bảo vệ, bởi vì cô tin rằng người ta càng ít chú ý đến sự hiện diện của mình càng đỡ lôi thôi. CÔ lấy làm buồn, thật là không may, cậu Giêron luôn luôn chú ý đến cô bới móc khuyết điểm của cô như cậu ta đã làm Ở trong phòng một vài phút trước đây. Cậu ta đã ép vào người cô và véo đùi cô một cách dâm đãng đến nỗi xuýt nữa thì cô đánh rơi cái khay. Lòng cô tràn đầy tức giận và nhục nhã khi nhớ lại.

CÔ mang tới tủ đựng và bắt đầu xếp chúng lên khay, trong lòng tự hỏi không hiểu mình có thể chịu đựng bao lâu nữa trong cái ngôi nhà này và nhũng con người khủng khiếp sống Ở đây. CÔ ao uữc mình có thể bỏ chạy với Uynxtơn, nhung cô biết điều đó là không thể được. HỌ không còn một nơi nào khác cô có thể đi được. Vả lại, mẹ cô cần cô - và ba cô và thằng nhỏ Grăngki. CÔ thấy hốt hoảng mồ hôi lấm tấm trên trán và chảy dọc xuống đôi vú của cô. CÔ phải đi khỏi ngôi nhà này, khỏi Feli.

Trước khi một điều gì đó khủng khiếp xảy ra. CÔ không có một sức mạnh gì trong ngôi nhà này và trong lòng sợ hãi, cô hiểu rằng tất cả mọi hành động ác độc bọn giàu có có thể làm chống lại người nghèo. CÔ phải kiếm được tiền không phải chỉ là vài đồng sinh tiền may thuê vá mướn Ở trong làng, mà là thật nhiều tiền. Phải đó là lời đáp CÔ vẫn luôn luôn hiểu nó là như vậy. CÔ phải tìm một cách đi tạo dựng một cơ nghiệp. Nhưng bằng cách nào: "ở đâu'. Lúc này cô nhớ đến Blácki và những chuyện anh đã kể về Li dơ, thành phố có những đường phố lát vàng. ÐÓ là chìa khóa, và Ở đó cô sẽ tìm ra điều bí mật để kiếm tiền, tiền thật nhiều để cô sẽ không còn sợ hãi hoặc thấy mình bất lực nữa. Và rồi lúc ấy tình thế sẽ chuyển ngược đối với gia đình Feli. Dần dần, nỗi sợ của cô tiêu tan.

Chiếc khay đầy vun lên, Emma bê lên, lảo đảo vì nặng.

CÔ nghiến răng, lặng lẽ bước ra khỏi phòng, đầu ngửng cao, nét mặt tự hào, sự quyết tâm biểu hiện trên đôi vai cô Và mặc dù còn trẻ thiếu kinh nghiệm, nhung vẻ đàng hoàng đường bê lộ rõ trong dáng đi của cô.

étwin bồn chồn trong ghế. Cuối cùng cậu nói "con xin lỗi ba. Con phải chuẩn bị bai vở, nếu không con sẽ bị chậm trong kỳ hội thảo".

ánh mắt của Ðam tán thành. "ờ, con chăm chỉ lắm.

Con cứ đi đi. Nhưng đến chiều con hãy đi chơi cho thoáng đãng.

.Thưa ba, vâng", étwin đứng lên đi ra cửa với dáng uyển chuyển thường lệ của cậu.

à, étwin này':.

- ' Dạ thưa ba?". Cậu bé dừng lại, tay để trên nắm đấm cửa.

- ,'Ba nghĩ con nên ăn cơm chiều với dì ôlivia và ba chiều nay".

',Trời cám ơn ba. Con thích lắm!". Phấn khởi vì lời mời bất ngờ, étwin quên cả mình và đập cửa mạnh đến nỗi đồ treo tường rung lên bần bật.

Ba cậu mỉm cười. étwin lớn lên thành một chàng trai dễ thương, Ðam thích thú thấy con trai mình đã bắt đầu tỏ ra một chút độc lập về tinh thần. CÓ lẽ cái ảnh hưởng ốm yếu của mẹ cậu cuối cùng cũng không tai hại là bao. ông nên lên thăm bà Ađelơ. ông có nhiều chuyện phải bàn bạc với bà, mà, như thường lệ, ông đã tìm cách tránh hàng tuần nay. Nếu ông thành thật với chính mình thì ông phải thừa nhận rằng hiện nay ông cũng đang tìm cách tránh. ông nghĩ tới vợ mình. Nàng Ađelơ mỏng manh, xinh đẹp, dịu hiền. Nụ cười nàng dịu dàng. Cái nụ cười vĩnh viễn này bắt đầu làm ông kinh hoàng. Ađelơ với vẻ đẹp lung linh muôn màu đã chinh phục tâm hồn ông từ bao nhiêu năm trước. ông đã nhanh chóng phát hiện ra rằng đó là một nhan sắc khác người che đậy tính ích kỷ và một trái tim lạnh như đá cẩm thạch. NÓ cũng ngụy trang một sự bất ổn về tinh thần.

HỌ không có sự tiếp xúc hoặc một sự giao lưu thực sự nào trong nhiều năm nay. Nói cho đúng là hai năm nay, Ađelơ đã len vào cái vỏ tàn phế u uất. Mỉm cười một cách dịu dàng và vẫn ngây thơ như bao giờ hết, nàng đã đóng chặt cửa phòng ngủ, khóa chặt không cho ông vào.

Ðam giật mình khi thấy rằng ông chấp nhận sự chấm dút những nhiệm vụ vợ chồng của nàng một cách nhẫn nhục nói lên sự khoan khoái sâu sắc của bản thân ông.

Từ lâu, Ðam Feli đã chấp nhận cuộc hôn nhân không có súc sống và không có tình yêu cũng chẳng phải là một điều lạ lùng gì. Nhiều bạn của ông cũng có nhiều cuộc hôn phối lạnh lùng và không có kết quả tương tự như vậy mặc dù ông không biết họ có bằng lòng với sự rối loạn trong tâm hồn như vậy không. Với sự buông xuôi, và không hề suy nghĩ lại, các bạn bè của ông đã tìm nguồn an ủi trong những vòng tay đàn bà khác. Sự nhạy cảm của Ðam, khiếu thẩm mỹ bẩm sinh của ông đã không cho ông có quan hệ với những người đàn bà trăng hoa. Bởi vì, mặc dù bản chất đa cảm, Ðam Feli không phải là một con người nhục dục hoặc theo đuổi những thú vui xác thịt, ông yêu cầu những đức tính khác Ở một người phụ nữ cũng như bộ mặt với một thân hình đẹp.

Và như vậy qua nhiều năm tháng ông đã học để chấp nhận cuộc sống đơn côi, coi nó như một tình trạng thường xuyên và giờ đây nó gần như là khắc kỷ. ông không hiểu rằng tình trạng này có sức hấp dẫn riêng của nó đối với những phụ nữ mà ông tiếp xúc trong xã hội, những người thấy ông không thể cưỡng nổi trong nỗi đau khổ với cuộc sống, ông không để ý tới sự xôn xao, ông đã tạo ra và nếu như có để ý tới thì ông cũng chẳng cần.

Ðam bước tới cửa sổ, vén rèm và nhìn ra ngoài.

Nhũng đám mây đen đã trôi đi để lại một bầu trời trong xanh ngăn ngắt như bóng một chiếc bát tráng men lật ngửa, mặt trời nhạt nhưng sáng càng làm tăng thêm cái ngời sáng của ánh sáng phương bắc. Những ngọn đồi đen vẫn khắc nghiệt và hoang tàn như bao giờ. Nhưng đối với Ðam, chúng có một vẻ đẹp hùng tráng và bí ẩn.

Chúng đã tồn tại Ở nơi đây từ muôn thế kỷ trước khi ông sinh ra và chúng sẽ còn lại đó rất lâu sau khi ông chết. Mảnh đất bao giờ cũng còn lại, bất biến và vĩnh hằng, cội nguồn của quyền lực và sức mạnh nhà Feli.

ông chỉ là một giọt nước trong vũ trụ bao la và đột nhiên những vấn đề của ông dường như ít ý nghĩa, thậm chí còn ti tiện nữa bởi vì ông chỉ là một vật phù du trên mặt đất phì nhiêu và lộng lẫy này, và phải chết như mọi ngừơi, rồi một ngày ông cũng sẽ chết. Và như vậy thì có sao? Tất cả sẽ là gì? Và ai cần?

Tâm trạng trầm tư của ông bị xao động bởi tiếng vó ngựa khi Giêron lao nhanh qua sân chuồng ngựa trên đường tới xưởng máy. Ðam nghĩ tới Giêron và étwin.

ông đã nhận thức được bao nhiêu điều sáng nay, không phải chỉ về mình mà còn về các con trai của mình nữa.

Theo quyền thừa kế của con trai trưởng, Giêron sẽ thừa kế đất đai của nhà Feli, sảnh đường, xưởng máy, và cậu ta sẽ phải chăm sóc em trai mình suốt đời. Nhưng étwin sẽ chẳng nhân được gì có giá trị thật sự và sẽ phải phụ thuộc hoàn toàn vào lòng rộng rãi của Giêron. Không phải là một viễn cảnh vui vẻ gì cho lắm Ðam nghĩ thầm.

Lúc này ông nhận ra rằng nhất thiết phải có sự phân chia thích đáng cho người con thứ của ông trong di chúc.

ông quyết định gặp cố vấn pháp luật của ông ngay. ông không tin Giêron. Không, ông không tin Giêron một chút nào hết.

Tài sản của gia đình Fairley, hiện do Adam kiểm soát, dựa trên hai nguồn chính – đất đai và sản xuất vải vóc.

Trước hết là đất đai.

Adam Fairley có thể đi ngược lên dòng dõi của mình tới thế kỷ mười hai, và một người tên là Hubert Fairley. Một tài liệu từ năm 1155 vẫn còn tồn tại trong mái vòm ở Fairley Hall, ghi lại rằng Hubert được nhà vua ban cho vùng đất Arkwith và Ramsden ở miền Tây Riding của Yorkshire. Tài liệu này được làm với sự hiện diện của Henry đệ nhị và được mười bốn người làm chứng ở lâu đài Pontefract ký, nơi hoàng đế thường lưu lại trong những chuyến viếng thăm của người. Hubert tiếp tục làm ăn, phát đạt, được mọi người coi là người của nhà vua. Arkwith cuối cùng đã trở thành Fairley. Chính Hubert đã xây tòa lâu đài Fairley ở nơi sảnh đường hiện nay.

Tôn tộc nhà Fairley được nhận thêm đất đai và ân sủng của các vương triều của họ. Là những người theo chủ nghĩa bảo hoàng triệt để, nhiều người trong gia đình này đã cầm súng bảo vệ hoàng đế của họ và quê hương, đã được tặng thưởng hậu hĩ. Chính Henry đệ tam đã bán cho Gerald Fairley vùng đất tiếp nối khu đầm lầy Ramsden trong gia đoạn hủy bỏ các tu viện đã có công phục vụ Henry trong thời kỳ cải cách giáo hội của nhà vua. Sau đó, con gái của Henry là Elizabeth Tudor bán thung lũng Kirkton trên bờ sông Aire cho William Fairley, tức ông của lâu đài Fairley và Hamlet. Elizabeth đệ nhất, luôn hết sức cố gắng làm đầy ngân khố hoàng gia, đã tính cách bán dần đất đai của hoàng tộc. Bà nhìn William Fairley một cách có thiện cảm, bở vì con trai Robert của ông la một đại úy hải quân từng đi biển với Drake(1) tới những lãnh thổ miền Nam và Đông Nam châu Á. Sau đó thuyền của ông là một phần của hạm đội vĩ đại của Anh Quốc, do Drake gan dạ lãnh đạo đã đưa thuyền vào bến cảng Cádiz và đánh bại những hạm thuyền Tây Ban Nha 1588. Cuối cùng, nữ hoàng đã bán đất Kirkton với một giá khá hời. Chính việc bán phần đất đặc biệt trên bờ sông Aire là một yếu tố quyết định trong việc phát triển gia sản nhà Fairley vì con sông la nguồn sức mạnh của xưởng máy.

Con trai của Robert, Francis, được đặt tên theo Drake không thích nghề hàng hải hoặc tham vọng về binh nghiệp, và thực tế, từ giai đoạn này, không có người nào theo nghề binh trong gia đình, cho mãi đến tận khi Adam trong một giai đoạn vẫn trở thành quan kỵ binh Hussar số bốn. Francis, chậm chạp, kiên trì nhưng không giàu óc tưởng tượng, ít nhất cũng có đủ bản năng của một thương gia để nhình thấy trước tầm quan trọng ngày càng lớn của một sản phẩm cơ bản và thiết yếu, đó là vải vóc. Ông ta bắt đầu một nền công nghiệp dệt len cuối thế kỷ 16. Những người dân trong làng tiếp tục dệt trong nhà của họ, nhưng những cái trước đây dệt để cá nhân mình dùng thì bây giờ đem ra bán. Từ chỗ bắt đầu khiêm tốn như vậy, những nhà máy lớn của Fairley phồn thịnh, làm cho con cháu của Francis không chỉ giàu có mà còn trở thành những ông vua len hùng cường nhất Tây Riding. Đến đầu thế kỷ 17, Fairley đã là một xóm có nghề len phát triển với một cửa hàng thu hoạch, một xưởng nguội và hồ vải trên sông, và một bể chứa nước để chuội.

Francis Fairley đã nối xưởng vải với điền địa.

Nhưng không có điền địa thì cũng không có vải vóc. Vị trí của Fairley ở Tây Raiđing, địa thế của nó, khí hậu của nó, tất cả đã góp phần to lớn vào thành công của nghề sản xuất len vải của gia đình.

Làng Fairley nằm dưới chân đồi Pennine Chain, một dãy đồi lớn cuồn cuộn đổ về trung tâm của nước Anh từ Cheviots(2) trên biên giới Scottish tới vùng Peak(3) ở Derbyshire được những người sống ở vùng này gọi là xưong sống cua nước Anh. Địa thế của Pennine Chain thay đổi. Ở phía bắc Yorkshire, đồi đá vôi trắng, cỏ ngọt mọc lên trên. Nhưng có ít mùa xuân ở vùng đá vôi, chỗ nào cũng là đá vôi. Phía dưới chân là một chỗ ngắt đột ngột gọi là Aire Gap, sông Aire chảy qua về phía Leeds. Nó ở phía Nam Skipton(4) và Aire Gap nơi bắt đầu vùng Tây Riding. Ở đây những ngọn đồi Pennine gồm những sạn cát đã vôi đen và cứng, bọc ngoài là một lớp than bùn hoặc đất sét. Rất ít thứ mọc trên sạn cát đá vôi. Cỏ lúa mạch là hoa màu duy nhất của nó. Tuy nhiên, đó là loại hoa màu mà cừu lông thích ăn nhất. Vả lại, vùng đất than đá và sạn cát có rất nhiều suối ít khi cạn nước, nhờ những trận gió ẩm từ Đại Tây Dương lướt qua núi đồi đem đến những cơn mưa quanh năm. Nước ở những con suối nhỏ không có đá vôi. Nó mềm và tốt cho tơ sợi. Lông cừu và nước mát là hai cái cần thiết để làm vải vóc, mà ở Tây Riding thì cả hai đều thừa thãi.

Với những yếu tố tự nhiên thuận lợi đó, công việc làm len ở Fairley phát đạt, nhất là vào thế kỷ 18. Nhưng sự phát triển của ba đời nhà Fairley - cha, con và cháu - Joshua, Percival và David. Tất cả đều là những người tiền phong trong công việc làm len, và vốn là những người sắc sảo tinh khôn, họ nhận ra tầm quan trọng của ánh sáng tạo thành hình, điều này giúp tăng sản xuất một cách hữu hiệu nhất. Trong khi một vài nhà công nghiệp đối địch ở Tây Riding lúc đầu không chịu chấp nhận sự cải tiến kỹ thuật của nó làm thay đổi cơ cấu kinh tế và xã hội của nước Anh, gia đình Fairley không hề phản đối. Họ hăng hái mua những máy móc mới lạ, những người lái buôn kém tiến bộ hơn thường mệnh danh chúng như vậy, và lập tức dùng chúng ngay.

Gerald,người thừa kế gia sản khổng lồ hiện nay đang ở trong tay Adam Fairley, đã thừa hưởng một nét đặc biệt của tổ tiên, một nét hoàn toàn không có trong Adam. Đó là tình yêu của họ đối với nghề len dạ. Nó gợi lên trong con người Gerald một nỗi mê say được thúc đẩy bởi tiền và thức ăn. Khi Gerald đứng tên sành nhà máy, giữa những tiếng lách cách của máy móc, cậu ta trở thành con người thật của mình. Cậu cảm thấy bối rối với một sức mạnh tràn đầy. Tiếng động rầm rầm của máy móc khiến Adam chói tai, nhưng không hề làm Gerald khó chịu, cậu ta cho rằng đó là âm nhạc đẹp nhất đời. Mùi gây gây khó chịu của len độc hại với cha cậu thì đối với Gerald lại là một hương thơm say người. Khi Gerald nhìn thấy hàng trăm chồng len chất cao ngất của nhà Fairley, cậu ta thấy một nỗi rung động, không giống với bất cứ một nỗi rung động nào trong cuộc đời trai trẻ mười bảy năm của cậu ta.

Sáng hôm nay, khi Gerald lái xe xuống con đường chạy từ sảnh đường qua thung lũng, cậu nghĩ tới xưởng máy, hay chính xác hơn là nghĩ tới cha cậu và Edwin những người có dính dáng tới nhà máy. Cậu ta không nhìn thấy phong cảnh hoặc chú ý đến thời tiết, hay cảm thấy cái giá rét cắt da cắt thịt. Cậu ta lạc trong mê lộ của những ý nghĩ đan xoắn vào nhau. Edwin đã bị gạt bỏ hoàn toàn trong bữa ăn sáng nay. Và ngay cả trong những giấc mơ cuồng dại nhất, cậu ta cũng không hề mong đợi một điều như thế. Không phải vì Edwin là một mối đe dọa thật sự. Xét cho đến cùng, cậu Gerald, là người thừa hưởng và theo quyền con trưởng thì mọi thứ đều là của cậu ta. Nhưng gần đây cậu ta lại thường xảy ra ý nghĩ là Edwin có thể cũng muốn bước vào công việc len dạ, và cật ta cũng không thể ngăn chặn được điều này. Thật là một nỗi phiền toái không cần thiết. Bây giờ thì cậu ta không cần phải lo ngại gì về Edwin nữa. Đứa em trai của cậu giờ đã mất hết sức manh mà lại do chính nó tự nguyện. Còn đối với cha cậu... ờ! Có một cái gì hủ bại trong con người Gerald, lòng cậu sôi sục niềm căm ghét bố. Vốn là một kẻ thiếu nhạy cảm, Gerald chỉ cảm thấy một cách mơ hồ rằng tình cảm này nảy sinh từ một nỗi ghen ghét, nung nấu, khủng khiếp. Cậu ta luôn luôn làm giảm giá trị của cha cậu trong đầu óc của cậu. Cậu ta nhặt ra một số điểm của Adam, thực tế là những điểm nhỏ nhặt, không có gì là ghê gớm rồi đem thổi phồng quá mức cho đến khi chúng trở thành khuyết điểm không thể tha thứ được. Tằn tiện đến mức bần tiện, hẹp hòi, Gerald căm giận ngấm ngầm về khoản tiền cha cậu tiêu vào quần áo, những chuyến đi London và ra nước ngoài của ông, cậu bực bội và thậm chí hung dữ khi thấy cha đổ bao nhiêu tiền mặt vào tờ báo.

Gerald suy gẫm tất cả những điều đó trong khi lái xe xuống xưởng máy. Đột nhiên cậu cười lớn khi chợt hiểu là cha cậu thờ ơ đối với công việc làm ăn buôn bán và thái độ của ông nói chung đã mở đường cho cậu và lại còn sớm hơn điều cậu ta mong ước.

Giờ đây khi nghĩ tới điều đó, cậu thực sự không còn một giải pháp nào khác mà phải nắm lấy công việc trong tay mình khi cha cậu hành động như vậy. Cậu quyết định chính mình phải nói chuyện với ông buôn len người Úc sáng nay. Wilson đã nói cậu hôm qua là Bruce McGill mà họ có thể cần, và bất kể thế nào, kết bạn với McGill một trong những nhà chăn nuôi cừu giàu nhất và mạnh nhất nước Úc.

Cậu ta cũng quyết định khuyến khích cha nên tiếp tục vắng mặt hơn là đấu tranh với cha về chuyện này. Như vậy sẽ phù hợp với ý đồ của cậu hơn. Cậu ta không thể đợi đến ngày cha cậu về hưu. Như vậy thì lâu quá.

Phòng khách trên gác của Adele Fairley tại sảnh đường Fairley gồm những đồ đạc cá nhân rất đẹp. Thế nhưng, dù vậy, nó không phải là một phòng đẹp. Nó không có sức sống và cảm giác giàn trải một cách kỳ lạ, một cảm giác lạnh lẽo toát ra một nỗi cô đơn hoàn toàn. Rõ ràng cảmgiác này không phải do cần có đồ đạc bày biện, bởi vì, trái lại, nó đầy đồ đạc rồi.

Phòng khách vuông, rộng thênh thang, trần vòm như nổi trôi về nơi vô tận. Những đường gờ kết hoa và lá ôrô, phía giữa là trúc dài và treo pha lê óng ánh. Nhiều cửa sổ cao, uy nghi cắt ngang những bức tường và một lò sưởi kiểu Gotich của thế kỷ 18 bằng đá cẩm thạch phù hợp với bệ lò sưởi khổng lồ và những chiếc cột cuốn hài hòa.

Hầu như tất cả mọi thứ trong phòng đều màu xanh. Màu xanh nhạt che tường, gợn sóng bên cửa sổ, phủ trên ghế sofa, trên những chiếc ghế mạ vàng và ngay cả tấm thảm cổ cũng màu xanh trên sàn gỗ tối sẫm. Những tấm gương để trang trí bằng pha lê, những vòm kính phủ hoa khô, quả bằng sáp, bộ đồ bằng bạc, đồ sứ vô giá, tất cả đều ánh lên một thứ ánh sáng lạnh, chỉ làm tăng cái giá băng của căn phòng. Một ngọn lửa cháy không nghừng trong lòng lò sưởi, những ngọn đèn trong chao ngọc bích và sứ đắt tiền hắt ra những tia sáng mềm mại, đồ đạc cổ óng ánh màu thẫm, thế nhưng tất cả những cái đó cũng không làm giảm cái không khí giá buốt và trong không gian một cảm giác bị bỏ rơi bàng bạc đâu đây.

Nó nặng trĩu như bị ám ảnh, nó biểu lộ sự cố gắng tội nghiệp của một người đàn bà đơn côi, có những nỗi lo buồn canh cánh đang cố tìm nguồi an ủi trong của cải vật chất, toan tính gây dựng lại một tâm hồn tan tác bằng những đồ vật chứ không phải là con người, y như thể chúng cho nàng ảo cảnh của một cuộc sống vậy. Rất ít người đến phòng này mà cảm thấy thực sự thoải mái hoặc dễ chịu và ngay cả Adele nữa, kẻ thủ phạm duy nhất của tòa lâu đài đầy sự ngờ vực này, giờ đây cũng hình như lạc lõng và nổi trôi, một sự hiện diện ma quái, di chuyển qua những đồ tế nhuyễn của riêng tây mà nàng đã thu thập dày công phu, đầy khổ công mà hình như nàng không còn để ý tới nữa.

Sáng hôm nay, nàng bước vào phòng một cách dè dặt, thận trọng dừng lại trên ngưỡng cửa phòng ngủ tiếp nối. Đôi mắt nàng, to đẹp nhưng lúc này đầy những chấm lo âu, vội vã lướt quanh phòng, những ngón tay quí phái của nàng nắm chặt tua của chiếc áo choàng tắm nàng đang mặc. Nàng khép chặt chiếc áo mỏng manh quanh người giữ gìn, liếc nhìn quanh rất nhanh, để biết chắc là chỉ có một mình trong phòng, không có một người đầy tớ nào rình mò ở xó góc tối xâm nhập vào sự riêng tư của nàng.

Adele Fairley người cao duyên dáng nhưng cử động kiềm chế đến nỗi thỉnh thoảng nàng tỏ ra làm tất cả mọi việc một cách chậm chạp. Lúc này nàng cũng như vậy khi nàng rời ngưỡng cửa tranh tối tranh sáng, lướt vào trong phòng. Mái tóc vàng nhạt của nàng gần như ngả sang màu bạc, xòa xuống lưng thành từng suối tóc, hào vào chiếc áo lụa trắng như tuyết phủ lên thân hình nàng đến nỗi hầu như không còn phân biệt được đâu là tóc, đâu là lụa. Nàng dừng lại bên cửa sổ nhìn ra bên kia thung lũng, một vẻ xa xăm mơ màng trong mắt nàng. Vài hôm gần đây, phong cảnh đã thay đổi. Màu xám bụi màu đen âm thầm đã nhường chỗ cho những dấu hiệu đầu tiên của màu xanh mùa xuân. Nhưng Adele chỉ nhìn thấy mờ mờ y như qua một màn sương mỏng, lạc trong suy nghĩ và ưu phiền. Là một phụ nữ cô đơn tự trọng, nàng sống hoàn toàn cách biệt với thế giới xung quanh, nàng quên lãng ngoại giới một cách kỳ lạ. Cuộc sống nội tâm đã trở thành thực trạng duy nhất của nàng.

Nàng đứng bất động bên cửa sổ, ánh sáng mặt trời tràn lên mặt, chiếu sáng những đường nét mềm mại. Mặc dù đã ba mươi bảy tuổi, nhưng vẫn còn có vẻ con gái và trong trắng trong con người Adele Fairley, nhưng đó là vẻ trong trắng của một bức tượng đá hoàn hảo bị cầm tù trong nhiều năm sau tủ kính, chưa từng được tình yêu sưởi ấm, đau khổ bởi sầu thương, hay xúc cảm vì một mối thương tâm.

Đột nhiên, hoàn toàn bất ngờ và xa lạ với bản chất nàng, Adele quay ngoắt khỏi cửa sổ, hăm hở vì một mục đích. Nàng lướt nhẹ tới tủ đựng đồ đạc quí ở cuối tường bên kia, mắt long lanh. Đấy là một tủ kính Pháp đựng nhiều đồ quí mà Adele đã thu thập được trong những chuyến đi của nàng cùng Adam trong nhiều năm. Những thứ này có thời là niềm kiêu hãnh của Adele và nàng đã tìm thấy một niềm vui không dứt trong chúng, nhưng giờ đây, chúng không làm cho nàng thích nữa.

Nàng đứng trước tủ kính nhìn quanh quất một cách lo ngại, rồi rút chiếc chìa khóa nhỏ từ trong túi ra. Khi nàng mở khóa, đôi mắt yêu kiều của nàng nheo lại đến độ làm mờ nhan sắc tuyệt vời của nàng. Nàng với vào bên trong tủ và cẩn thận nâng ra một chiếc bình thon cổ. Đó là chiếc bình thủy tinh Venide đỏ thắm lát bạc một cách tinh xảo, rất cổ và vô giá. Nó ánh lên trong nắng và hắt ra muôn vàn màu sắc lăng kính, nhưng Adele không dừng lại để chiêm ngưỡng nó như ngày xưa đã có một lần. Nàng vội vã mở nắp, với đôi bàn tay run rẩy, nâng chiếc bình lên đôi môi giá lạnh nhợt nhạt. Nàng uống một cách hăm hở, thèm thuồng như người chết khát, ngửa cổ từng chặp rồi khư khư ôm chặt chiếc bình, nàng nhắm mắt lại đầy lòng biết ơn rồi thở sâu. Khi chất lỏng ngấm dần dần qua người sưởi ấm nàng, thì nỗi kinh sợ ghê gớm trong cơ thể nàng bắt đầu giảm đi và nỗi lo ngại thâm căn cố đế luôn luôn hiện hữu mỗi lầm nàng trở dậy đón một ngày mới bắt đầu lùi xa. Một cảm giác no đủ, một trạng thái phớn phở tràn ngập cơ thể khi rượu thấm lục phủ. Nàng nhìn quanh căn phòng. Bây giờ trông nó đỡ thù hận, kinh hoàng và nàng bắt dầu cảm nhận được ánh mặt trời êm dịu ùa vào, ngọn lửa cháy sáng và những bông hoa mùa xuân trong bình.

Nàng mỉm cười một mình lại nâng chiếc bình thon cổ. Chỉ một giọt chất lỏng chạm đầu lưỡi, nàng cầm chiếc bình giơ ra xa, lắc nó một cách thiếu kiên nhẫn, trợn mắt nhìn một cách tức giận và không tin là thật. Nó đã hết.

- "Khỉ thật! Khỉ thật! Khỉ thật!". Nàng kêu to hung hăng, giọng đầy tức giận. Nàng nhìn lại chiếc bình. Đôi tay nàng bắt đầu run rẩy, thân thể nàng bỗng nhiên bị những cơn rét xâm chiếm. Đêm qua mình uống quá nhiều chăng? Nàng tự hỏi. Nàng kinh hoàng thấy rằng không thể nhớ lại được nữa. Rồi nỗi hốt hoảng ngày một tăng thực sự xâm chiếm lấy nàng, và với một cảm giác kinh hoàng, nàng hiểu tình trạng nguy cập của mình. Không còn rượu trong dãy buồng của nàng. Điều này làm nàng sợ đến tê dại. Dù cho nàng không bị cám dỗ muốn uống thêm nữa thì bao giờ nàng cũng vẫn cần biết chắc là còn có rượu để cho lòng được yên ổn. Nhưng bây giờ không còn lại một giọt nào nữa. Hơi lảo đảo, nàng lần mò như một người mù tới ghết, buông mình xuống, đầu óc trống rỗng. Vẫn ôm chặt chiếc bình thon cổ, nàng vòng đôi tay ôm lấy mình đu đưa, rên rỉ, kẹp trong gọng kềm của một nỗi lo âu vô bờ bến. Ôi trời, ôi trời! Mình sẽ làm gì? Mình sẽ làm gì? Nàng run lên, nhắm mắt lại, chạy trốn sự thật.

Bộ mặt nàng tái xám, đầu ngửa ra sau ẻo lả, tóc nàng tung trên đôi vai, trông nàng nhợt nhạt, giống như một đứa trẻ.

Cuối cùng nàng mở mắt ra: "Bé dịu hiền của má". Nàng vừa nói vừa cúi nhìn vào cái vật trong tay "Con cưng của má. Gerald con!" Nàng ngừng lại đăm chiêu nhìn xuống cánh tay mình. "Hay là Edwin!" Nàng gật đầu chầm chậm. "Tất nhiêh không phải là Gerald. Edwin rồi". Nàng bắt đầu rì rầm, lẩm bẩm một mình không rõ tiếng, vỗ về điên cuồng trong ghế.

Khoảng một tiếng sau, Adele Fairley trải qua một sự biến động. Sự xúc động nắm giữ nàng trong gọng kềm của nó đã tan đi, nàng trấn tĩnh trở lại. Nàng liếc nhìn ra ngoài cửa sổ và nhận thấy trời đang mưa. Không phải là cơn mưa rào nhẹ điển hình ở Yorkshire mùa này trong năm, mà là mưa sầm sập. Những thác nước đập vào cửa sổ khi gió lớn nổi lên quất như điên dại vào cửa kính khiến nó rung lên và kêu lách cách. Cây quật vào không khí, những mảnh vườn rung lên dưới cơn giông gió. Chỉ những cảnh đồng lầy là không hề lay động vẫn đen tối và lầm lì, một đường phẳng đá nguyên khối màu đen vắt thách thức lên trời trắng nhợt. Adele rùng mình khi nàng nhìn vào chúng. Chúng dường như lúc nào cũng dữ tợn đối với con mắt miên man của nàng. Nàng nghĩ tới chúng như một bức tường giam vây lấy ngôi nhà này và cái làng, đóng nàng lại với thế giới bên ngoài. Nàng là một người xa lạ trong cái thế giới không quen biết này.

Nàng rùng mình. Nàng lạnh. Tay chân nàng như những trụ băng. Nàng kéo chiếc áo khoác mỏng manh kín ngời, nhưng nó không ấm lên được chút nào. Nàng đau buồn khi thấy lửa đã lụi tàn chỉ còn lại mấy cục than hồng. Khi nàng đứng lên đi vào trong phòng, chân nàng đá phải chiếc bình thon cổ đã lăn xuống sàn từ lúc nào. Bối rối, nàng nhặt nó lên, tự hỏi không hiểu tại sao nó lại ở đây nhỉ? Tại sao nó lại ở trên sàn? Nàng xem xét nó một cách cẩn thận xem có vết nứt nào không. Thế rồi nàng nhận ra. Trước đây nàng đã đi tìm rượu và đã lấy cái bình ra khỏi tủ. Bao giờ nhỉ? Một tiếng, hai tiếng trước đây? Nàng không còn nhớ nữa, nhưng nàng nhớ lại hành vi của mình. Nàng hốt hoảng như vậy thật là ngốc nghếch. Nàng là chủ nhân của ngôi nhà này, nàng chỉ cần bấm chuông gọi Murgatroyd, ra lệnh cho anh ta mang cho nàmg một chai wishky, và một chai rượu mạnh, một cách kín đáo, như anh ta vẫn thường làm, như vậy Adam sẽ không hay biết.

Tiếng lách cách của đồ sứ ở hành lang bên ngoài phòng khách báo hiệu cho nàn biết người hầu gái đang mang bữa sáng của nàng tới gần. Vội vã, Adele để chiếc bình thon cổ trở lại tủ, khóa lại, lướt ra khỏi phòng mau lẹ khác thường, chiếc áo choàng tắm phồng lên phía sau giống như đôi cánh nhiều màu, tóc nàng xõa xuống lưng từng dòng suối bạc.

Nàng đón cửa phòng ngủ lại khe khẽ, tựa vào cửa và mỉm một nụ cười mãn nguyện. Nàng phải chọn một chiếc áo buổi sáng, một chiếc áo lịch sự, ăn sáng xong, nàng sẽ sửa sang lại tóc và mặt. Rồi nàng sẽ cho gọi Murgatroyd. Khi nàng đi lại tủ áo, nàng tự nhủ mình phải cố nhớ rằng ình là chỉ Fairley Hall, chứ không phải là ai khác. Nàng phải khẳng định mình. Ngay ngày hôm nay. Cô em Olivia của nàng đã tử tế đảm nhiệm bao nhiêu là nhiệm vụ quản lý nhà cửa từ khi cô đến vào tháng hai, nhưng bây giờ cô sẽ phải thôi,. "Mình cũng khỏe đủ để chăm lo công việc rồi", Adele nói to, và nàng thực sự tin những lời của mình. Phải, như vậy sẽ làm Adam hài lòng, nàng quyết định như vậy. Cổ họng nàng thắt lại khi nghĩ tới chồng. Nàng cau mặt. Nhưng như vậy có làm anh ấy hài lòng không? Anh ấy cho nàng là đồ ngốc và hoàn toàn không giống cô em, người mà anh ấy coi à một cái mẫu hoàn hảo dưới ánh mặt trời này. Gần đây nàng đã nghĩ tới Adam là một con người hết sức dè dặt lãnh đạm. Nàng rùng mình. Những tuần lễ gần đây, nàng cũng nhận thấy một cách sợ hãi nỗi hăm dọa trong mắt anh ta. Không phải chỉ có thế, anh luôn luôn nhìn nàng băng đôi mắt xám nhạt. Olivia cũng thế. Họ không biết điều đó, nhưng nàng thấy họ nhìn nàng một cách thèm thuồng và thì thầm với nhau ở một góc. Họ kết hôn với nhau. Họ bày mưu tính kế chống lại nàng. Chừng nào mà nàng còn biết là họ đang bày mưu tính kế, thì họ còn chưa làm hại được nàng. Nàng phải cảnh giác đối với họ trong mọi lúc. Adam, Olivia, những kẻ thù của nàng.

Nàng bắt đầu lôi ra hết chiếc áo này đến chiếc áo khác, điên cuồng, và với một nghị lực siêu phàm, nàng vất bừa bãi cả lên sàn. Nàng đang tìm một chiếc áo đặc biệt. Đó là một chiếc áo có hoa đặc biệt. Khi nào nàng mặc nó vào, nàng sẽ tự nhiên lại trở thành bà chủ của ngôi nhà này, điều ấy thì nàng hoàn toàn chắc chắn. Nàng biết chiếc áo ở đó. Nó phải ở đó... Trừ phi... trừ phi là Olivia đã ăn cắp mất... cũng như cô ta đã ăn cắp địa vị chủ nhân của nàng ở Fairley Hall. Nàng tiếp tục lôi những áo và quần áo khác một cách điên cuồng, quăng chúng lên sàn cho đến khi tủ áo hoàn toàn trống trơn. Nàng nhìn chúng chằm chằm một hồi lâu, rồi lơ đãng nhìn xuống chồng lụa và xatanh, nhiễu, sa nhung, len quấn quýt vào nhau thành một đống đầy màu sắc dưới chân nàng.

Tại sao tất cả những áo tắm, áo buổi sáng, quần áo dạ hội lại nằm ngổn ngang trên sàn nhỉ? Nàng đang tìm cái gì vậy? Nàng không thể nhớ được nữa. Nàng giẫm chân lên, bước qua phòng tới chiếc giường đứng gần cửa sổ. Nàng đứng trước gương, đùa với mái tóc của mình một cách lơ đãng, nâng nó lên trên đầu, rồi để nó rơi chầm chậm đón lấy ánh nắng, làm đi làm lại nhiều lần. Mặt nàng trống rỗng, hoàn toàn không xúc phạm, nhưng ánh mắt nàng ánh lên mê sảng.

Emma bước vào phòng của Adele Fairley một cách vội vã gần như chạy. Đôi chân cô, trong đôi ủng đen mới nhẵn bóng như gương, hầu như không chạm sàn, chiếc váy trắng hồ cứng dưới cái áo len màu xanh sột soạt trong không khí yên ắng. Cô nắm chặt cái khay đồng trong dôi tay chai sạn giơ cao phía trước để tránh va phải những đồ đạc khác và để tránh tai nạn.

Trên chiếc khay quá khổ, mặt cô được kỳ cọ nhẵn bóng, ánh lên sức sống tuổi trẻ, đôi mắt xanh của cô lóng lánh thông minh dưới cặp lông mày rậm. Mái tóc màu nâu đỏ của cô chải cẩn thận, mượt mà hất về phía sau, búi thành búi lớn sau gáy. Hôm nay kiểu tóc hình chữ V của cô càng rõ hơn bao giờ hết, với chiếc mũ gia nhân đội đầu đóng khuôn bộ mặt cô như một vầng hào quang nhỏ. Nó cũng được hồ cứng trắng tinh, như cái tạp dề, cái cổ cồn, cổ tay áo, tất cả vừa được Olivia Wainwright mua ở Leeds cho cô. Cả chiếc áo nữa, cũng mới, nhưng áo này Emma tự mình may lấy bằng một mảnh vải của nhà máy Fairley cũng do bà Wainwright cho. Niềm sung sướng của Emma đối với chiếc áo chỉ bị nhạt đi trước niềm tự hào vì cái mỉm cười tán thưởng của Olivia Wainwright về tài khéo léo vá may, kim chỉ của cô.

Bộ quần áo mới này dù đơn giản, nhưng không những xua tan cái bề ngoài chết đói khiến Emma có một vẻ bị chà đạp làm cho Blackie phải kinh hoàng, mà còn làm tăng cái vẻ đẹp say người của cô một cách đáng kể. Sự kết hợp giữa màu xanh và màu trắng thật là sinh động và tươi mát, kiểu quần áo đồng phục, chiếc mũ nhỏ xinh xắn làm tăng thêm những đường nét thanh tú và làm cô hình như già dặn lên. Nhưng quan trọng hơn là sự thay đổi tinh tế trong cách cư xử sự của cô hai tháng gần đây. Mặc dù cô vẫn thầm lo ngại vì phải gần gũi với một số người trong gia đình nhà Fairley, và phải làm việc ở Fairley Hall. Sự lo ngại đó đã được kiềm chế hơn là hai năm cô làm việc ở đó. Vả lại, sự rụt rè ban đầu vì việc đột nhiên phải đẩy cô lên khu trên gác cũng giảm dần. Sự nhút nhát của cô lúc này được ngụy trang bằng sự tự chủ cứng nhắc biểu hiện ở thái độ bên ngoài rất nghiêm nghị và đàng hoàng đến mức cao ngạo mà bất cứ người nào ở tuổi cô trông sẽ lố bịch, nhưng nó lại rất tự nhiên ở con người Emma. Cô đã bắt đầu có được một mức độ tự tin, tuy nó vẫn còn là dè dặt, thận trọng, nhưng nó đã cho cô một tư thế đĩnh đạc thơ ngây.

Sự thay đổi trong phong cách của Emma là do một số hoàn cảnh đem lại và rõ ràng nhất, mặc dù trong thực tế, đứng về tổng thể thì không có gì là quan trọng, đó là tình hình diễn biến trong gia đình tại Fairley Hall, do việc Olivia Wainwright tới. Olivia Wainwright là một người phụ nữ tính cách hoàn hảo, có nguyên tắc cao và đầu óc rất thực tiễn. Mặc dù bản chất nàng là người tốt, biết phân biệt phải trái, tức giận và xúc động trước những hành động thiếu nhân đạo, nhưng nàng không hề là một người yếu mềm. Nàng cũng không dễ bị thuyết phục hoặc lôi kéo bởi những lời van xin thúc bách, hoặc sướt mướt đối với lòng từ thiện, độ lượng, sự tốt bụng vốn có. Thực tế là nàng có thể quá nghiêm khắc đối với những người mà nàng coi là già ốm để trốn việc hoặc những kẻ ăn mày chuyên nghiệp, kiên quyết không tán thành một số cái gọi là có lợi và tiêu những khoản tiền quyên góp một cách bừa bãi. Thế nhưng nàng kinh tởm sự bất công, sự tàn ác vô lương tâm, đặc biệt là đối với những người không có phương tiện để trả đũa lại. Cách giải quyết của nàng cũng đầy lòng trắc ẩn, đầy tình thương bởi vì nàng hiểu thế nào là phẩm giá của lao động lương thiện và kính trọng nó. Nàng là một phụ nữ cao quý hiểu theo nghĩa chính xác nhất của từ đó, có học thức, có danh dự, tế nhị, tư thế và lễ độ đối với mọi người.

Sự hiện diện của Olivia ở trong nhà, sự quan tâm của nàng trong mọi lĩnh vực quản lý, mối liên hệ hàng ngày của nàng với các gia nhân, tính cách đáng gờm biểu lộ trong tất cả mọi việc đã có một tác dụng sâu xa nhất. Không khí ở Hall nói chung, đặc biệt là ở dưới nhà đã được tốt lên một cách hết sức lớn lao. Nó bớt sự hằn thù và âm mưu. Olivia đã trở thành một vật đệm giữa Murgatroyd và các gia nhân khác, đặc biệt là Emma một cách tự nhiên. Ngay từ phút đầu tiên nhìn thấy Emma, Olivia đã thấy thích cô một cách đặc biệt, khác thường, nàng đã dành cho cô cả lòng tử tế lẫn sự kính trọng. Mặc dù Emma làm việc nặng nhọc, nhưng cô đã được đối xử bớt thô bạo và con người hơn. Lão quản gia thỉnh thoảng vẫn buông lời nhục mạ cô, nhưng lão ta không đánh cô một lần nào nữa từ khi Olivia tới và Emma biết là lão không dám. Sự đe dọa của bà bếp mách với bố cô không làm cho lão sợ đâu, nhưng chắc chắn là Olivia Wainwright thì khiến lão sợ, điều này Emma hoàn toàn tin chắc.

Emma cảm thấy có phần biết ơn Olivia Wainwright, nhưng dù vậy, cô vẫn cảm thấy mâu thuẫn trong tình cảm đối với Olivia. Mặc dù cô nghi ngờ, thận trọng đối với tất cả mọi người, đôi khi cô vẫn thấy mình thán phục Olivia, ngược lại với ý chí của cô. Tình cảm này liên tục làm Emma ngạc nhiên và cũng làm cô phật ý, bởi vì sự thiếu tin cậy của cô đối với giai tầng quý tộc, và đặc biệt là gia đình nhà Fairley không hề giảm một chút nào. Bởi thế cô luôn luôn cố gắng đè nén tình cảm nồng nàn và sự thân mật càng lên, mỗi khi cô tiếp xúc với bà Wainwright. Tuy nhiên vì mối quan tâm đặc biệt và rõ rệt của Olivia Wainwright đối với cô, nên Emma đã có một niềm kiêu hãnh mới trong công việc của mình, cô ít sợ sệt và bực bội hơn trước.

Ngoài ra, khi Polly ốm, Emma đã được giao cho những nhiệm vụ của Polly là trông nom Adele Fairley. Sự tiếp xúc gần gũi và thân mật với bà chủ của mình, tự bản thân nó đã có ảnh hưởng đối với Emma, và cũng giúp trong một chừng mực nào đó thay đổi cuộc đời cô tới một mức tốt đẹp hơn. Còn đối với Adele, Emma thấy nàng hư hỏng, đam mê, đòi hỏi quá nhiều thời gian và sự chú ý của cô, nhưng sự dịu dàng hết mức của nàng với cô đã thắng được những tính nết khác của nàng . Sự lãnh đạm, thờ ơ của nàng đối với luật lệ gia đình đã khiến Emma có quyền chăm nom bà Fairley mà không làm phiền gì tới những người khác trong nhà. Sự độc lập mới này, tuy ít ỏi mong manh nhưng cũng khiến cho Emma có được cảm giác tự do và một quyền lực nào đó mà cô chưa hề có trước đây ở Hall, nó cũng làm cô thoát khỏi quyền tài phán của Murgatroyd và tính nết khó chịu của lão ta.

Nếu Emma ngưỡng vọng Olivia Wainwright, cho rằng nàng là một phụ nữ cao siêu và thán phục nàng ngược với ý muốn của mình, cô cũng không thể không thích Adele Fairley mặc mọi sự. Chủ yếu cô thấy thương hại nàng. Đối với Emma, nàng có thể được tha thứ vì sự lơ là sai sót kỳ lạ của mình, bởi vì Emma coi nàng như trẻ con và, thật cũng lạ lùng, cần đến sự che chở trong cái ngôi nhà lạ lùng này. Đôi khi Emma ngạc nhiên, thấy mình tha thứ cho bà Fairley vì sự quên lãng của bà đối với nỗi đau khổ của những người kém may mắn hơn, bởi vì Emma hiểu theo bản năng, điều đó không phải là vì ác ý hay tàn nhẫn mà chỉ là sự vô tư và không hiểu biết đời sống của những người lao động. Thái độ của cô đối với bà Fairley cũng giống như thái độ của cô ở nhà. Cô điều khiển. Thỉnh thoảng, thậm chí cô còn có vẻ bà chủ chút nữa. Nhưng Adele hình như không nhận thấy điều này, và nếu như có nhận thấy, thì rõ ràng là không để ý. Bây giờ chỉ có một mình Emma chăm sóc nàng, để ý đến tất cả những nhu cầu hàng ngày của nàng. Adele đã đi tới chỗ phụ thuộc vào cô, nàng thấy Emma không thể thiếu được, cũng như Murgatroyd là không thể thiếu được vì những nguồn cung cấp rượu bí mật của lão.

Hai chị em Adele, trong những cung cách khác nhau của họ, đã đối xử với Emma một cách tử tế thông cảm. Và điều này không hoàn toàn làm giảm sự tổn thương của sự nhuc mạ mà những gười khác trong gia đình đem đến cho cô, nhưng nó cũng làm cho cuộc sống của cô ở Hall có thể chịu đựng nổi.

Nhưng một yếu tố khác, cơ bản, vững chắc và do đó có tầm quan trọng đặc biệt đã đem lại thay đổi trong cá tính của Emma. Đó là

sự củng cố những nét tự nhiên đang trở thành những nhân tố quyết định trong cuộc sống của cô. Tham vọng ghê gớm và ý chí khủng khiếp của cô. Cả hai hội tụ và cứng rắn thành một mục đích điên cuồng, tạo thành sức mạnh đằng sau mỗi việc cô làm. Những câu chuyện ban đầu của Blackie về Leeds đã nung nấu trí tưởng tượng của cô và trong những lần đến thăm Hall của anh sau này, cô đã hỏi anh kỹ càng, chi tiết về triển vọng công việc ở đó. Lúng túng, thận trọng, anh đã cổ vũ giấc mơ danh vọng, tiền bạc, một cuộc sống tốt đẹp, và tất nhiêu là thoát khỏi cái làng này.

Và vậy là Emma cuối cùng đã nhận thức được rằng cuộc sống của cô ở Fairley Hall chỉ là một sự lưu lại tạm thời cần phải kiên nhẫn chịu đựng, bởi vì một ngày nào đó sẽ chấm dứt. Giờ đây cô tin, với một sự hiểu biết chắc chắn rằng cô sẽ ra đi khi thời cơ đến và cô cảm thấy rõ ngày ấy không còn xa nữa. Cho đến ngày ấy, cô không phải chỉ tính thời gian mà còn sẽ học mọi thứ có thể học để chuẩn bị cho thế giới bên ngoài, một thế giới không hề làm cô sợ

Emma còn một điều bí mật mà cô không chia sẻ cùng ai ngay cả với Blackie. Thực ra, đó là một kế hoạch. Nhưng là một kế hoạch lớn lao đến nỗi không thể còn nghi ngờ gì nữa, và nó làm cho những ngày trong cuộc đời cô đầy tuyệt vời, đầy kỳ ảo – đó là hy vọng. Một niềm hy vọng che mờ tất cả mọi thứ khác trong cuộc đời trẻ trung không chút vui thú của cô. Cô cho thêm ý nghĩa vào những ngày trong đời, làm cho mỗi giờ phút lao động khổ sai là không đáng kể. Chính niềm tin mù quáng này, sự tin tưởng tuyệt đối vào bản thân mình và tương lai của mình đã tăng thêm nhịp vào bước đi của cô, đem đến cho cô bộ mặt trẻ trung vốn trang nghiêm một nụ cười hãn hữu, nâng đỡ cô trong mọi lúc.

Sáng hôm nay, lòng tràn ngập niềm hy vọng ấy, trong bộ đồng ohục thời xưa rất mới, với bộ mặt vui vẻ sạch bóng, trông cô tươi roi rói lấp lánh như một đồng penny mới tinh. Khi cô bước qua tấm thảm dày, cô giống như một ngọn gió xuân tươi mát trong căn phòng đầy đồ đạc lạnh lẽo như tu viện. Len lỏi giữa những đồ đạc linh tinh ngổn ngang, Emma lắc đầu kinh hoàng nhạo báng. Tất cả những đồ tạp nhạp này! Cô nghĩ, hơi bực bội, khi nhớ là lau bụi cho tất cả những thứ này luôn mất rất nhiều thời gian. Mặc dù cô không sợ công việc vất vả, nhưng cô rất ghét việc lau bụi, đặc biệt là cái phòng này.

Một nửa những thứ này có thể đem mà quẳng đi cũng không ai thèm nhặt, cô nói to, rồi lấy tay bụm chặt lấy miệng và ngó đăm đăm về phía trước, chờ đợi trông thấy bà Fairley ngồi trong chiếc ghế bành mà nàng ưa thích bên cạnh lò sưởi, bởi vì mùi nước hoa của nàng còn đượm trong không khí. Nhưng căn phòng trống không và Emma thở dài nhẹ nhõm. Cô chun mũi, hít hít mấy cái. Cô đã quen với hương thơm của hoa gay gắt tràn ngập trong các dãy phòng và thực tế đã bắt đầu thích nó. Thực tế, với một chút ngạc nhiên, bởi vì cô không phải là người thích những cái phù phiếm, Emma đã khám phá ra rằng cô hết sức thiên vị với mùi nước hoa đắt tiền, sự êm dịu của len dạ lụa là sang trọng, cái long lánh của những đồ trang sức. Cô cười thầm một mình. Khi nào cô thành một phu nhân, như Blackie đã nói, thể nào cũng có ngày, và khi cô đã tạo dựng được một cơ nghiệp theo đúng ý cô, cô sẽ mua một ít nước hoa như thế. Nước hoa hoa nhài. Cô đã đọc được cái nhãn lọ nước hoa trên bàn trang điểm của bà Fairley. Mua ở tận London, ở một cửa hiệu tên là Floris, nơi bà Fairley đã mua tất cả nước hoa, xà phòng và những cánh hoa khô ướp với hương liệu để đặt trong bát và những túi hoa cải hương nhỏ để trong những ô kéo đựng đồ lót sang trọng bằng lụa mềm. Phải, cô sẽ có một chai nước hoa nhài, một bánh xà phòng Pháp và thậm chí vài túi hoa cải hương cho những đồ lót của cô nữa. Và nếu như cô còn tiền để dành thì những bộ đồ lót ấy cũng sẽ sang trọng và mềm mại như những thứ của bà Fairley.

Nhưng cô không có thì giờ để đắm mình trong suy tư về những thứ kỳ khôi ấy lúc này, cô dứt khoát gạt chúng ra khỏi đầu và vội vã bưng khay tiến về phía lò sưởi. Có nhiều việc phải làm sáng nay mà cô thì đã muộn rồi.

Bà bếp đã bắt cô làm nhiều việc lặt vặt trong nhà khiến cô chậm lại biết bao nhiêu và vì vậy cô rất bực mình. Không phải vì những việc lặt vặt ấy mà là vì nó đã làm cô chậm trễ. Sự chính xác đã có một ý nghĩa mới và đặc biệt đối với Emma, nó trở thành điều cực kỳ quan trọng đối với cô trong mấy tháng nay. Cô không thích đem bữa sáng chậm cho bà Fairley hoặc bất cứ một cái gì khác, bởi vì từ khi được nâng lên địa vị của một cô gái hầu bàn cô coi trách nhiệm mới của mình một cách rất nghiêm túc.

Cô đặt chiếc khay ăn bữa sáng một cách cẩn thận lên trên chiếc bàn nhỏ đựng trà của nữ hoàng Anne gần chiếc ghế bành để sẵn chờ bà Fairley, bà thích dùng bữa sáng trước lò sưởi. Cô nhìn qua khay, kiểm tra xem mọi thứ đã đâu vào đấy chưa, sửa sang lại mấy cái bát sứ cho nó hấp dẫn hơn, xếp lại gối trong ghế vầ chú ý ngọn lửa đang tàn. Cô quỳ trước lò sưởi và bắt đầu nhóm lại bằng giấy, thanh củi, những hòn than nhỏ, dùng kẹp lửa nhón cẩn thận, cố gắng giữ cho tay khỏi bẩn. Cô chặc lưỡi một cách nôn nóng. Cái bà Turner với những công việc lặt vặt trong nhà của bà thỉnh thoảng thật là khó chịu quá đi! Giá như cô lên phòng khách đúng giờ thì cô đã không phải làm cái công việc nhóm lại lửa như thế này. Điều này làm cô bực bội, bởi vì nó lẹm vào thời gian quí báu của cô, Emma vốn là một con người cứng rắn, không khoan nhượng với bản thân mình, không thích đi trệch với lối sống hàng ngày. Nó làm cô rất khó chịu bởi vì nó làm hỏng tất cả thời gian biểu của cô trong cả ngày. Thời gian biểu này, sáng kiến của Emma mới đây, là kinh thánh của cô và cô sống vì nó. Cô biết nếu không có nó thì cô không còn biết làm ăn ra sao nữa.

Cô cầm cái ống bễ lên làm việc trước ngọn lửa thoi thóp. Dưới sức mạnh của luồng không khí nhỏ nhưng mạnh, những mảnh củi âm ỉ phụt lên, cuối cùng đã bắt lửa và bùng cháy. Trong ánh lửa bùng lên đột ngột, gương mặt cô bừng sáng. Một nét cau mày nho nhỏ làm nhăn cặp lông mày của nó, nét vui tươi bị xóa nhòa đi khi cô nhớ lại một cách rõ ràng và cay đắng là nếu như không có cái thời gian biểu đó, đời cô sẽ ra làm sao.

Hôm đó, đầu tháng hai, Polly lâm bệnh và buộc phải nằm lại giường, Emma đành phải chấp nhận việc làm thay công việc của Paulie cộng thêm với công việc của mình. Cô biết cô không còn cách nào khác. Bản chất khỏe mạnh và vốn là con người lạc quan, cô đi lại như con thoi trong Hall như một con quỷ với một nghị lực phi thường, lòng tự nhủ là Polly ngày mai sẽ khỏe để đảm nhận trở lại việc của mình. Nhưng điều này không xảy ra. Bỗng nhiêu Emma phải chồng chất những công việc vặt trong nhà với một thời gian dường như là bất tận. Chẳng bao lâu, cô bị chất đống bởi những công việc vô kể, cô lo lắng muốn hoàn thành chúng một cách có kết quả.

Mấy ngày đầu, cô mệt rũ người sau mỗi ngày, bởi vì cô bắt đầu làm việc từ sáu giờ sáng, không một phút để thở, chứ chưa nói đến chuyện nghỉ ngơi, cho đến bảy giờ tối mới xong việc. Đến lúc ấy, cô hầu như quá mệt không ăn nổi bữa tối, thực tế, cô đã phải vận dụng tất cả nghị lực và sức lực cuối cùng để bò lên gác xép tới phòng cô. Mặt trắng bệch, run rẩy, không nói được một lời nào vì kiệt lực, hầu như không cởi nổi quần áo, cô buông mình xuống chiếc giường nhỏ không thoải mái trong cơn bàng hoàng tê dại. Cô chìm ngay trong giấc ngủ nặng nề đờ đẫn. Hôm sau khi trở dậy, cô vẫn còn đau ê ẩm. Đôi mắt đỏ vì mệt mỏi, tay chân nặng như chì, bàn tay tấy sưng.

Khi cô run rẩy mặc quần áo trong căn phòng lạnh lẽo, và rửa ráy trong làn nước giá băng, cô giận dữ hừng hực không có gì có thể làm nguôi được. Tuy vậy, cô cũng không dám phàn nàn vì sợ Murgatroyd trả thù hoặc tệ hơn nữa là bị đuổi. Ngày ngày, cô kéo lê thân hình mệt mỏi qua cái ngôi nhà như lăng tẩm, đi lên đi xuống nhiều cầu thang, dọc theo những đường hành lang ngoằn ngoèo, ngang qua tòa đại sảnh, những phòng thênh thang, lau chùi, đánh bóng, quét dọn, đánh bóng grafite vỉ lò, cời lửa, dọn dẹp giường, đánh bóng những đồ đạc, là ga trải giường, chăm sóc cho Adele Fairley nữa. Trong khi làm những việc đó, cô vẫn tự hỏi mình có thể tiếp tục bao nhiêu lâu nữa mà không bị gục ngã. Ý nghĩ này ngày càng làm cô kinh hoàng, cô nghiến chặt răng và cố giữ lại những nghị lực đang giảm sút, bỏi vì đồng tiền cô kiếm được là tối cần thiết cho gia đình, và cô gắng sức, với một nghị lực khủng khiếp, cô đứng vững vì nỗi sợ mất việc lạnh cả người.

Một buổi sáng, sau khoảng một tuần làm cái công việc lao động gãy xương sống này, Emma đang lau dọn tấm thảm ở phòng khách, nhao lên nhao xuống giữa muôn vàn những bông hoa nhiều màu sắc và những đường lượn trang trí bện vào nhau, cái chổi quét thảm như một vũ khí nguy hiểm cô phải nắm chắc trong tay. Trong khi cô chạy đi chạy lại, một ý nghĩ lảo đảo đến với đầu óc cô, nó làm cô kinh hoàng đến sững sờ giữa lùm hoa hồng. Cô tựa vào chiếc chổi quét thảm, hoàn toàn bị cuốn hút trong suy tư và dần dần một vẻ hiểu biết chắc chắn lướt qua mặt cô. Emma nhận ra rằng việc lau chùi dọp dẹp, chăm sóc Fairley Hall khó giải quyết bởi vì nó không những được hoạch định rất tồi mà còn hoàn toàn lộn xộn. Lúc này, cô cũng nhận ra tình trạng này là do óc tổ chức rất tồi của Murgatroyd và việc phân phối công việc tùy tiện của lão. Rất nhiều những công việc lặt vặt được lắp đi lắp lại hàng ngày một cách không cần thiết và mất quá nhiều thì giờ với chúng bởi vì Murgatroyd chú ý tới những cái tẹp nhẹp không ích lợi gì. Thế rồi, tất cả những công việc lớn khác như đánh bóng đồ đạc, là hàng núi quần áo, phủi bụi trong thư viện, tất cả dồn lại để mà hoàn thành trong một ngày. Một người không tài nào hoàn thành tất cả công việc này một cách hoàn hảo và lại còn phải làm những việc linh tinh khác trong cùng một ngày. Nhưng có một giải pháp, nó đến với đầu óc Emma như một ánh chớp, khi cô đứng ngay với chiếc chổi quét thảm giữa sàn của phòng khách. Đây là một giải pháp đơn giản đến nỗi cô phải ngạc nhiêu sao lại chưa có ai từng nghĩ tới. Giải pháp đó là kế hoạch. Cô bỗng hiểu rằng nếu công việc được kế hoạch hóa một cách đúng đắn, có hệ thống, theo một phương thức hợp lý và phân phối một cách thông minh hơn thì nó sẽ dễ điều hành hơn. Có điều này cô hoàn toàn chắc chắn và cô càng nghĩ đến nó thì cô càng vững tin.

Để cố gắng tìm ra một cách hợp lý trong công việc hỗn độn hằng ngày, Emma bắt đầu tính toán giờ giấc cho mỗi công việc, rồi viết số lượng thời gian trên một mảnh giấy lượm từ trong sọt rác ở thư viện. Cô ghi danh sách những công việc lặt vặt hàng ngày cùng với những nhiệm vụ chính cho cả tuần. Nhiều đêm sau đó, dù mệt mỏi đến kiệt sức, Emma vẫn buộc mình phải thức để vật lộn với vấn đề này. Cô đã nghiên cứu mảnh giấy của cô một cách cần mẫn, dò từng công việc một và thời gian cần dùng, sau đó cô vạch kế hoạch riêng của cô. Trước tiên cô phân phối những công việc nặng nhọc một cách đều đặn hơn, bố trí chéo những việc phức tạp hay mất nhiều thời gian cho cả tuần, để dễ giải quyết hơn cùng với những công việc đều đều hàng ngày. Cô cũng phân phối số lượng thời gian cho từng công việc, cắt bỏ thẳng thừng những cái kém quan trọng hơn cho nó thiết thực. Cuối cùng cô mãn nguyện vì đã rút ra được một cách làm việc hợp lý mà trước đây là một mớ hỗn độn, cô chép ra một bản vào một mảnh giấy đỡ nhàu nát hơn, rồi vội vã hớn hở đưa cho bà bếp, lòng thoải mái, nhẹ nhõm. Nếu cái kế hoạch mới này được tuân theo một cách chính xác thì công việc có thể được hoàn thành một cách trật tự và thực tiễn hơn, mọi người đều có lợi.

Trước sự ngạc nhiên của Emma, bà bếp không những kinh hoàng mà còn nổi cơn thịnh nộ, xưa nay chưa hề có, và cảnh cáo một cách cực kỳ nghiêm khắc để cô biết cơn giận dữ khủng khiếp của Murgatroyd về sự hỗn hào không thể tưởng tượng nổi của cô, khuôn mặt tròn trịa đỏ ửng của bà đầy lo âu và thậm chí cả hốt hoảng nữa. Chỉ đến lúc này, Emma mới nhận ra cái tầm quan trọng của sự việc cô đề nghị và run sợ vì tính tình hung hăng của Murgaroyd, những cú đấm khủng khiếp của lão.

Nhưng bà Turner không lường được tính nết cương trường của Emma, một ý chí không lay chuyển nổi. Hầu như ngay lập tức, cả hai đặc tính này đã thắng sự do dự ban đầu của cô gái, cô quyết định theo cách thức sắt đá của mình, không nản, không nhụt chí phải đem lại bằng được chút thoải mái và trật tự trong công việc của mình. Trong khi cô kiên nhẫn nghe những lời lải nhải đầy hăm dọa của bà Turner, Emma chợt nảy ra ý nghĩ, lúc này đã có tính toán một cách lạnh lùng, là cô không thể để bà bếp làm nhụt chí, người mà cô vừa cho là một kẻ ngốc. Cô quyết định ngay rằng cách duy nhất để đạt được mục đích của mình, là phải chặn Murgatroyd. “Cháu sẽ lên gác trình bày với bà Wainwright kế hoạch này của cháu”. Emma tuyên bố bằng một giọng kiên quyết, cứng rắn, mặt cô sắt lại! “Để rồi chúng ta sẽ xem bà ấy nói gì. Bà ấy đã có kế hoạch như vậy từ khi bà ấy đến đây và cháu nghĩ bà ấy sẽ là người điều hành nhà này. Và đã đến lúc phải có người làm một điều gì!” Cô nói một cách thách thức, và như đã được chứng minh sau đó, câu nói có tính hoàn toàn kiên trì. Không nói thêm một lời nào với bà bếp, cô quay đi bước lên cầu thang bếp, trước khi ý chí lụi tàn, để cho bà bếp kinh hoàng vì sự táo tợn của cô. Trong một giây khắc, cái bà Turner vốn lắm điều ngây ra như phỗng, kinh ngạc vì sự bạo loạn bất ngờ này của Emma.

Mãi bà mới thốt được nên lời. “Lên gặp bà cũng chẳng ăn thua gì đâu, cô ạ”, bà kêu lên hăm hở trong khi Emma tiếp tục trèo lên thang gác không nhìn lại. “Con đã quên mất thân phận của mình, người ta sẽ đuổi cổ con thôi”, bà vẫn tiếp tục nói, khi cánh cửa đã đóng sầm phía sau cô bé Emma yên lặng và đầy quyết tâm.

Emma từ trước đến giờ không nói quá hai chữ với Olivia Wainwright trong tuần lễ ngắn ngủi từ khi nàng đến Fairley, cô cảm thấy e thẹn và vụng về khi cô gõ cửa thư viện. Được sự đồng ý của Olivia. Cô bước vào phòng, sợ hãi đứng ở bực cửa, do dự, tay cô nắm chặt, buông thõng xuống hai bên,tê dại vì sợ hãi. Olivia Wainwright đang ngồi sau bàn của Adam xem xét sổ sách bị xao lãng một cách đáng buồn, ông đã yêu cầu nàng tính toán hộ mà trước đây do Murgatroyd trông nom. Trong chiếc váy bằng vải xẹc đen cắt rất đẹp, áo sơ mi thêu ren, cao cổ, ống tay bồng, nàng là điển hình của vẻ lịch thiệp quý phái. Một chiếc trâm to, đắt tiền làm giảm bớt vẻ trang nghiêm của chiếc cổ cao, một chuỗi ngọc màu hồng óng ánh quanh cổ, đôi bông tai bằng ngọc bích. Mái tóc đen của nàng chải bồng bềnh, tạo cho bộ mặt nàng một dáng vẻ mong manh, như một bông hoa kiều diễm trên một cành mảnh mai. Emma nhút nhát và run sợ, đứng như trời trồng. Cô chằm chằm nhìn Olivia, bị mê hoặc bởi sắc đẹp, sự duyên dáng, vẻ thanh cao của nàng và trong khi cô tiếp tục nhìn nàng kinh hoàng, cô nhận thức được một cách đau đớn, chiếc áo xanh cũ đã vá của cô và cái tạp dề, xưa đã có một thời còn mới. Cô đưa tay vuốt cái váy nhàu nát và cái tạp dề cố gắng làm cho thẳng những vết nhăn nhúm, nhưng đó là một cố gắng vô ích. Cô nhìn xuống đôi ủng cũ đã há mõm của mình, mặt đỏ bừng bối rối và lần đầu tiên trong đời cô thấy xấu hổ. Đó là một nỗi xấu hổ làm tim cô thắt lại. Chưa bao giờ cô thấy như vậy, nó làm cô tràn ngập một cảm giác tự ti, tự thấy mình là vô giá trị, một cảm giác mà chừng nào cô còn sống thì không sao có thể quên nổi.

Emma hiểu rằng nghèo không phải là một cái tội khi cô lởn vởn trơ tráo, lo âu câm như hến ở mép tấm thảm sang trọng tạo thành một bức tranh mới ngớ ngẩn làm sao. Cô tự hỏi không hiểu cái người đàn bà sang trọng, lịch sự này tiếp nhận những điều cô nói ra sao?

Nhưng Emma, mặc dù thông minh và khôn ngoan đến mấy cũng không có cách nào để hiểu rằng Olivia Wainwright là một phụ nữ khác thường, có một trái tim hiểu biết, một tấm lòng đại lượng, người trọng công lý, sòng phẳng, thương cảm, sẵn lòng giúp đỡ mọi người trở nên tốt đẹp hơn nếu họ muốn như vậy. Emma cũng không nhận được rằng Olivia nhìn cô không hề chỉ trích hoặc chế nhạo, hoặc thương hại hay ra vẻ kẻ cả dón tay làm phúc mà chỉ là hết sức tò mò và quan tâm thực sự. Hết sức quan tâm tới sức khỏe suy sụp của chị, trạng thái sa sút của Adam từ khi nàng tới, nàng chưa có đủ thời gian để giải quyết tình trạng trong gia đình ở Hall. Và trong khi nàng để ý thấy cô hầu gái vun vút như con thoi trong nhà, đây là dịp đầu tiên để nàng quan sát cô bé gần đến như vậy. Ngay từ phút Emma vào thư viện, Olivia đã ngạc nhiên vì vẻ tao nhã của cô, không hề bị bộ quần áo đã cũ và cái mũ đầy bụi bẩn che mờ, các gia nhân của nàng bao giờ cũng ăn mặc hấp dẫn và lịch sự, mặc dù chỉ mặc bộ quần áo bình thường. Nhìn Emma nàng nhận thấy bộ mặt và mái tóc của cô bé sạch sẽ như lau như li, cô có vẻ gọn gàng, chỉnh tề mặc dù cái bộ quần áo gớm ghiếc đó, điều này Olivia thấy đáng khen ngợi.

Trong lúc đó, Emma đã rụt rè bước lên, đôi ủng của cô cót két một cách dễ sợ trong căn phòng yên tĩnh làm cô tủi hổ, cô dừng lại, xấu hổ, lúng túng, vẻ chưng hửng lộ trên nét mặt cô.

Olivia không để ý đến tiếng cót két nếu như nàng có nghe thấy, nàng mỉm cười đôn hậu và nói bằng một giọng dịu dàng: “Có chuyện gì thế? Con có vấn đề gì khó khăn muốn thảo luận với tôi?” Olivia Wainwright từ nhỏ đã được phú cho một khả năng phi thường là làm cho mọi người, nhất là những người giúp việc cảm thấy thoải mái với sự hiện diện của nàng. Cái khả năng vốn có này của nàng rõ ràng là truyền sang Emma, lúc này cô tiến đến bên bàn một cách tự tin hơn, thầm cầu nguyện cho đôi ủng của cô đừng kêu cót két nữa. Nhưng không được, Emma nhăn mặt, dặng hắng thật to, hy vọng át được tiếng của đôi ủng. Cô đứng trước mặt Olivia, nuốt nước bọt, nhớ là phải cúi chào và nói với vẻ kiên quyết run run: “Vâng, vâng, thưa bà, quả là cháu có vấn đề khó khăn”.

- “Trước hết con hãy nói cho tôi biết tên con”, Olivia nói, lại mỉm cười.

- “Thưa bà, Emma ạ”. Emma nói một cách sợ sệt.

- “Nào, Emma, con có vấn đề gì vậy? Cách duy nhất để giải quyết nó là nói về nó. Có phải thế không?” Olivia hỏi.

Emma gật đầu, và bằng một giọng gần như một tiếng thì thào, cô đã giải thích công việc hàng ngày trong gia đình, những khó khăn cơ bản của nó, những vấn đề của bản thân cô phải đương đầu với chúng vì sự tổ chức kém cỏi. Olivia đã nghe một cách kiên nhẫn một nụ cười ấm áp nở trên khuôn mặt bình tĩnh và đáng yêu của nàng, một vẻ ưu tư trong đôi mắt xanh trong sáng của nàng. Nhưng khi Emma tiếp tục câu chuyện buồn khổ thì Olivia đã nổi giận âm thầm, máu nàng sôi lên vì sự bất công và sự quản lý tồi tệ trong gia đình người anh rể, một gia đình danh giá và giàu có không nên để cho sự việc tồi tệ một cách đáng hổ thẹn như vậy và tình trạng gần như là không thể cứu chữa được nữa.

Khi Emma nói xong, Olivia quan sát cô một cách chăm chú hơi ngạc nhiên vì giọng nói ngọt ngào và êm ái của cô gái và lời giải thích rõ ràng, khúc chiết của cô. Nó hoàn toàn trong sáng, mặc dù vốn từ ngữ hạn chế của cô, những thành ngữ mà cô dùng may mà không có nhiều phương ngữ như Olivia đã nghĩ. Olivia đã thấy được theo bản năng của mình là cô gái không cường điệu, cũng không tỏ vẻ, nàng biết mình đang nghe một nhân chứng thành thật về tình hình ở Hall, và nàng choáng váng.

- “Emma có phải con định nói với tôi là lúc này con là người hầu gái duy nhất trong nhà này không?” Olivia hỏi.

- “À, không, thưa bà, không hoàn toàn như vậy”, Emma trả lời nhanh. “Còn một cô gái nữa thỉnh thoảng giúp bà bếp là Polly. Nhưng chị ấy vẫn ốm, như cháu đã nói với bà. Chị ấy chính là người hầu bàn.”

- “Từ khi Polly ốm, một mình con vừa phải làm công việc của Polly vừa phải làm công việc của con sao. Dọn dẹp cả cái ngôi nhà này đồng thời phải trông nom bà Fairley nữa? Tôi nói có đúng không, Emma?”

- “Thưa bà đúng”, Emma nói, bàn chân xê dịch bồn chồn.

- “Tôi hiểu”, Olivia trả lời lặng lẽ, nàng càng thêm tức giận. Olivia quen với sự trật tự và yên bình trong nhà nàng, là người điều hành có khả năng và hiệu lực trong nhà riêng ở London, trong trang trại ở nông thôn, trong công việc kinh doanh, hết sức ngạc nhiên trước sự phi lý trong tình trạng ở Fairley. “Không thể tha thứ được và hết sức lố bịch”, Olivia lẩm bẩm một mình, nàng ngồi thẳng người bên ghế.

- “Cháu không có ý trốn tránh công việc của cháu, thưa bà”. Emma nói, cô sợ có thể bị đuổi vì sự cả gan của mình, điều này có thể coi là trốn việc. “Cháu không sợ công việc nặng nhọc, cháu không phải là người như vậy. Chỉ có điều là Murgatroyd giải quyết – giải quyết tồi quá, thưa bà”.

- “Qua những lời con nói thì hình như là như thế, Emma”, Olivia trả lời, vẻ ưu tư đọng trong mắt nàng. Emma nhìn bà một cách cẩn thận, và được khuyến khích bởi cái bề ngoài bình thản của người đàn bà, cuối cùng cô đã lôi ra mảnh giấy nhàu nát, vuốt thẳng nó lại.

- “Cháu có làm kế hoạch này, thưa bà. Vâng, cháu nghĩ nó sẽ giúp cháu làm những công việc lặt vặt trong nhà dễ dàng hơn. Cháu đã tính toán cẩn thận”. Emma bước đến bên bàn, và đưa cho Olivia tờ giấy. Trong khi cô đưa, Olivia nhận thấy đôi bàn tay sưng tấy, nứt nẻ của cô gái, nàng kinh hoàng. Nàng nhìn vào khuôn mặt trang nghiêm chập chờn trước mặt, thấy những vết quầng đen dưới cặp mắt to của cô, đôi vai xuôi gầy gò mệt mỏi của cô, nàng bỗng xúc động buồn đến đau thắt cả tim. Olivia cảm thấy một nỗi xấu hổ thay cho Adam mặc dù nàng hoàn toàn chắc rằng ông không hề hay biết chuyện này. Nàng thở dài, và nhìn xuống mảnh giấy nhàu nát. Olivia xem xét nó một cách cẩn thận và vừa ngạc nhiên vừa thích thú. Cô gái này chắc chắn là trên mức thông minh và chắc chắn có một đầu óc thực tiễn và hiệu quả. Công việc nhà cửa hàng ngày được hoạch định một cách chính xác có tổ chức và Olivia thấy rằng chính nàng cũng không thể làm hơn được.

- “Ờ. Emma ạ, tôi hoàn toàn hiểu ý con. Hình như con đã suy nghĩ rất nhiều về cái thời gian biểu này và tôi phải khen ngợi con. Đúng là phải khen ngợi con.”

- “Dạ thưa, có phải bà muốn nói là cái cách của con tốt hơn không?” Emma hỏi, cô thấy nhẹ nhõm nhưng chưa phấn chấn lắm.

- “Có hiệu quả hơn, tôi chắc là con định nói như thế, Emma”, Olivia trả lời nàng cố nén nụ cười. “Tôi nghĩ chúng ta nên bắt đầu thi hành kế hoạch của con ngay lập tức, Emma ạ. Chắc chắn là tôi tán thành nó và tôi tin là Murgatroyd cũng nhận ra được ý nghĩa của nó”, nàng nói, phát âm cái tên của lão quản gia một cách lạnh lùng. Để ý thấy nét lo âu thoáng trong mắt Emma, nàng nói thêm an ủi: “Chính tôi sẽ nói với ông ta. Tôi cũng sẽ chỉ thị cho ông ấy tìm thêm một cô gái nữa trong làng để giúp con làm những công việc nặng nhọc hơn. Emma ạ, mặc dù thời gian biểu có tính thực tiễn nhất của con, thì công việc cũng còn quá nặng nề, một mình con không thể làm nổi đâu.”

- “Thưa bà, vâng con cám ơn bà”, Emma nói và cúi chào, lần đầu tiên sau bao nhiêu ngày, cô cười.

- “Thôi được rồi, Emma. Con làm ơn nói với Murgatroyd, ta cần gặp ông ta. Ngay lập tức”, Olivia nói.

- “Thưa bà, vâng ạ. Xin bà cho con lại tờ kế hoạch được không? Bản thời gian biểu của con ấy à. Để con biết là con sẽ làm những gì.”

Olivia cố giấu nụ cười nữa. “Tất nhiên. Đây. À, Emma này, có phải con chỉ có một bộ quần áo này thôi không?” Olivia hỏi.

Emma đỏ bừng mặt, cô cắn môi, nhìn xuống chiếc áo nhàu nát và cái tạp dề, hết sức bối rối và buồn bã. ‘Vâng, thưa bà. Nghĩa là để mặc mùa đông. Con còn một chiếc sợi bông để mặc mùa hè”, Emma lẩm bẩm.

- “Chúng ta phải giải quyết điều này ngay. Nếu con cho tôi biết kích thước của con, tôi sẽ lo liệu cho con cuối tuần này khi tôi đi Leeds”, Olivia tuyên bố, rồi nói thêm “Tôi sẽ mua cho con vài bộ cả cho mùa đông lẫn mùa hè, Emma. Mỗi thứ một bộ thì không đủ”.

- “Ôi! Cám ơn bà thật nhiều! Emma kêu lên. Một ý nghĩ chợt nảy ra, cô nói một cách kính cẩn, xin lỗi bà Wainwright, nhưng nếu con có vải thì con có thể may lấy được. Mẹ con dạy con khâu vá rất tốt?”

- “Thế à? Như vậy thì tuyệt. Tôi sẽ hỏi ông chủ xin một ít vải của nhà máy và tôi sẽ mua một ít vải bông ở Leeds để may áo mùa hè. Bây giờ con có thể đi được rồi, Emma, tôi rất mừng con đã đến gặp tôi nói những vấn đề khó khăn của con. Con nên luôn luôn làm như vậy, chừng nào tôi còn ở Fairley này.”

- “Thưa bà, vâng. Cám ơn bà. Con sẽ xin đến gặp bà nếu có chuyện gì ạ”. Emma đã hứa như vậy. Cô cúi chào và vội vã ra khỏi thư viện, tay nắm chặt tờ thời gian biểu y như thể nó là chiếc vương miện dát ngọc. Cô không trông thấy cái nhìn thương cảm pha lẫn sự thán phục trên mặt Olivia Wainwight. Cô cũng không hay biết là cô đã làm được những điều sẽ khiến cho cuộc sống của tất cả mọi người ở Fairley Hall thay đổi.

Không có chuyện ầm ĩ hoặc đấu khẩu ở trong bếp về sự biểu lộ tính độc lập xưa nay chưa hề có của Emma. Murgatroyd khôn ngoan phớt lờ đi, bởi vì nó cũng rất phù hợp với mục đích của lão. Sự thật lão cũng chẳng chú ý gì nhiều đến những hoạt động của Emma, và Emma cũng hiểu là sở dĩ như vậy là vì lão quá bận tâm đến việc duy trì địa vị của lão trong nhà, không có thì giờ để ý tới cô. Giờ đây lão đã ở dưới con mắt diều hâu của bà Wainwright thì lão phải cẩn thận và không còn nghi ngờ gì nữa tất cả những điều bà ấy nói với lão đều có hiệu lực. Quan sát Murgatroyd từ khóe mắt trong khi lão đi đi lại lại cúi đầu chào và nhún gói, hết sức đảm đương phần trách nhiệm của mình trong nhà, Emma thường cười một mình và trong nụ cười thoáng qua khuôn mặt cô, vừa có chút hài hước vừa tự mãn. Emma bắt đầu hiểu rằng Murgatroyd đã gặp phải địch thủ trong Olivia Wainwright. Mặc dù dáng điệu dịu dàng, Emma hiểu rằng tác phong lịch sự đó che giấu một ý chí mạnh mẽ, một bản tính chính xác nhưng cũng công bằng.

Tuy nhiên, nhiều tuần lễ trôi qua, thời gian biểu và sự tuân thủ sát sao của Emma đã bắt đầu làm cho bà bếp thích thú, bà này đã quên rằng mình từng phảin đối kế hoạch đó. Bà chưa bao giờ chứng kiến một cái gì tương tự như vậy trong suốt quãng đời phục vụ của bà. Nó đã làm bà cười lên từng trận. Bà vỗ cặp đùi bạch bạch, lắc đầu bà nói giữa những tràng cười: “Ấy, con nhỏ, thật là kỳ quá. Có ai nghe nói tới thời gian biểu ngoại trừ là ở nhà ga. Thế mà con lại làm thật, Emma. Con chạy rồ lên như ma làm. Mà nói chuyện rồi con được gì? Để ta nói cho con hiểu, con nên nhớ lời ta. Mình càng làm nhiều thì càng nghỉ ít. Ta biết ta làm gì”.

Trước những lời lẽ khàn khàn nhưng chân thật này, Emma nhìn bà bếp bằng đôi mắt to, nhưng không nói gì. Cô không có thì giờ để giải thích những nguyên nhân của cô. Thời gian đối với Emma lúc này là tiền bạc và cô không nên hao phí nó để mà chuyện gẫu. Vả lại Emma chắc là bà bếp sẽ không thể hiểu, làm sao bà có thể hiểu rằng thời gian biểu, đứng về một mặt nào đó, là để bảo vệ cô? Nó tạo điều kiện để cô làm việc một cách có hiệu quả và ngăn nắp hơn. Cô có thể làm giảm nhẹ gánh nặng của công việc trong vài ba ngày để bảo tồn sức lực của mình. Không những thế, Emma còn có thể ăn cắp được một chút thời gian cho bản thân mình và cái thời gian ăm cắp được này là cực kỳ quan trọng đối với cô. Một tuần, nhiều buổi chiều và hầu hết các buổi tối, cô lui về phòng xép của mình, cô may áo và sửa lại những quần áo khác cho bà Wainwright và bà Fairley. Cô được trả tiền riêng cho công việc này, theo đề nghị của Olivia Wainwright, và chiếc hộp thuốc lá nhỏ đựng những đồng shilling và đồng sáu xu cứ từ từ tăng mãi lên. Không có gì có thể ngăn được cô kiếm những đồng tiền này, những đồng tiền bí mật của riêng cô, mặc dù đôi khi cô cũng bớt xén được thì giờ từ những công việc lặt vặt để thu xếp cho vá may. Với một quyết tâm ghê gớm, cô khâu và cần mẫn cho đến tận nửa đêm, dưới ánh sáng của ba ngọn nến, mắt cô cay se, đầu ngón tay đau nhức, đôi vai ê ẩm khi cô cúi xuống những chiếc áo choàng, áo sơ mi, váy áo dài, những bộ đồ lót nắn nót từng đường kim mũi chỉ. Đồng tiền cô kiếm được này là để tài trợ cho kế hoạch của Emma, cô luôn luôn nghĩ tới nó với chữ K hoa.

Bà bếp biết chuyện vá may, nhưng không biết Emma đã thức khuya như thế nào, bà mà biết được, hẳn bà sẽ bực bội lắm, bởi vì bà rất yêu cô bé và lo lắng cho cô. Vì thế Emma cũng không hề cho bà hay biết, cô giữ kín điều này một mình.

Mặc dù bà Turner là một người đàn bà cũng có chút láu lỉnh, nhưng bà không được trời phú cho sự thông minh và nhận thức lớn và bà cũng chẳng hiểu tính cách của Emma chút nào. Bà cũng không có được cái viễn kiến để nhận ra được rằng cô gái có khả năng tổ chức phi thường: sự chính xác, sự cần mẫn tính hữu hiệu, đó là dấu hiệu bên ngoài của tính kỷ luật, của tham vọng vô cùng lớn lao, điều này chứng tỏ những cội nguồn thành công sau này của cô.

Giờ phút này trong cuộc đời cô, Emma rõ ràng cũng không hiểu điều này, và tương lai còn xa quá, cô nhớ lại những sự việc của mấy tuần qua trong khi vẫn cời ngọn lửa. Cô thở dài khe khẽ. Đó là những ngày khốn khổ, nhưng bây giờ chúng đã qua rồi. Cô vui lên một cách rõ rệt. Sự việc đã khá lên. Thời gian biểu của cô hết sức tác dụng và cuộc sống của cô dễ chịu hơn nhiều. Bà Wainwright giữ lời hứa đã thuê thêm một cô bé nữa, Annie Stead ở làng, người mà Emma huấn luyện một cách kiên nhẫn, đôi khi cũng la mắng om sòm để làm cô hầu phụ công việc nhà trôi chảy như một chiếc đồng hồ, thậm chí như là một điều thần diệu, một điều mà Emma cầu nguyện cho được dài lâu. Nhưng ngoài điều này ra và là điều quan trọng hơn hết, bà Wainwright đã tăng tiền công cho Emma hai shilling một tuần, một nguồn thu nhập thêm đáng hoan nghênh cho gia đình.

Emma lấy cặp than nâng một khối củi to để nó lên ngọn lửa đang cháy bừng bừng, tỏa nhiều sức nóng đến nổi mặt Emma ấm, ửng lên. Cô đứng lên vuốt thẳng chiếc tạp dề, sửa lại mũ, kéo lại cổ tay áo, bởi vì cô hết sức tự hào về vẻ ngoài của cô từ khi Blackie bỏa với cô rằng trông cô quyến rũ và là cô gái đẹp nhất Yorkshire. Cô liếc nhìn xung quanh phòng khách và cau mày. Cơn bão đã dừng cũng đột ngột như khi nó nổi lên, nhưng bầu trời vẫn còn âm u và nó làm căn phòng đầy những bóng tối. Ở đây tối quá, cô nói một mình và vặn to đèn trên chiếc bàn sơn Trung Quốc. Căn phòng lập tức sáng lên hơn, ấm áp, phá tan cái không khí âm u và cái giá rét do các đồ đạc màu xanh trong phòng gây nên.

Emma bước lùi lại nhìn bệ lò sưởi, đầu cô nghiêng về một phía, mắt cô suy tư khi cô ngắm những đồ vật bày dọc bên tường. Một đôi đèn nến bằng bạc rất đẹp chứa hai cây nến trắng, một chiếc đồng hồ bằng sứ được chân của hai con sư tử đỡ hai bên, và cứ nửa tiếng đồng hồ lại gọi chuông một lần. Những bức tượng nhỏ của một quý bà và một quý ông trong y phục cổ xưa. Emma tự mình sắp xếp lại những vật này một cách hài hòa hơn, cũng như cô đã sắp xếp rất nhiều những thứ khác trong phòng. Đôi khi cô đã toan giấu bớt một nửa những đồ tạp nhạp trong các tủ kính vào ngăn kéo, bởi vì cô coi chúng là thừa, nhưng cô không dám đi quá xa như vậy. Đôi khi cô tự hỏi không hiểu tại sao mình lại có đủ can đảm để bày biện lại những thứ đó mà không được phép. Bà Fairley hoặc người khác hình như cũng không để ý. Cô đang say ngắm mặt lò sưởi thì một tiếng sột soạt khe khẽ làm cô chú ý. Cô quay nhanh lại và thấy bà Adele Fairley đứng ở cửa phòng ngủ bên cạnh.

- “Ôi, bà Fairley! Xin chào bà”, Emma nói và nhún gót chào. Mặc dù ông chủ bảo cô mấy tuần trước là đừng nhsn gót chào bởi vì nó làm ông khó chịu, nhưng Emma vẫ cảm thấy buộc phải làm như vậy khi có mặt bà vợ ông và bà Wainwright.

Adele gật đầu và mỉm cười yếu ớt rồi hình như bà lảo đảo như thể bị ốm, bà nắm lấy cánh cửa để đứng cho vững và nhắm mắt lại.

Emma chạy lao đến bên bà: “Bà Fairley, bà có làm sao không ạ? Bà thấy trong người thế nào ạ?” Emma hỏi một cách lo ngại và nắm lấy cánh tay bà.

Adele mở mắt ra. “Tôi thấy bị choáng một tí. Nhưng không sao. Tôi không ngủ được.”

Emma nheo mắt nhìn bà Fairley trông xanh xao hơn bao giờ hết, mái tóc bà xưa nay vốn chải chuốt rất đẹp, lúc này bù xù. Đây là một điểm không bình thường. Emma nhận thấy mắt bà Adele đỏ và sưng lên.

- “Thưa bà, bà hãy đến bên lò sưởi cho ấm. Uống một chút trà nóng.” Emma nói một cách thương cảm và nắm tay bà mạnh mẽ đưa qua sàn. Adele, người lắc lư và tựa hẳn vào Emma, bềnh bồng vòa trong phòng mang theo mùi hoa ngòa ngạt, chiếc áo dài lê thê.

Emma để bà ngồi vào chiếc ghế bành, liếc nhìn bà một cách lo lắng và nói mau: “Cháu biết bà thích món đó và cháu cũng thấy tối qua bà ăn ít quá”. Vừa nói, cô vừa nhấc vung ra khỏi chiếc đĩa bạc, đẩy nó về phía trước cốt làm cho bà chủ chú ý.

Adele Fairley đưa đôi mắt xa xăm rời ngọn lửa và nhìn điẽa trứng không lấy gì làm thích thú. Một vẻ trống vắng hiện trên nét mặt xanh xao màu chết chóc của nàng. “Cám ơn Polly”, nàng nói, giọng thờ ơ, không xúc cảm. Nàng ngẩng đầu chầm chậm và đăm đăm nhìn Emma, một vẻ bối rối hiện trên mặt nàng. Nàng chớp mắt bàng hoàng và lắc đầu. “Ồ, Emma đấy à. Tất nhiên là tôi quên, Polly đang ốm. Cô ấy có đỡ hơn chút nào không? Bao giờ cô ấy quay trở lại làm việc?”

Emma xỉu người vì câu hỏi ấy đến nỗi bất giác bước lùi lại chằm chằm nhìn Adele không dám tin là thật. Mắt cô mở to, chiếc vung trong tay cô lơ lửng. Để cố giấu nỗi hốt hoảng của mình, cô đậy lại chiếc vung lên đĩa vơi một tiếng kêu lách cách, hắng giọng bồn chồn. Rồi cô nói run run, “nhưng mà, thưa bà Fairley, bà không nhớ sao?” cô ngừng lại, nuốt nước bọt, rồi nói tiếp bằng một giọng rung động, “Polly – Polly”, cô dừng lại rồi nói buột ra rất nhanh: “Polly chết rồi, thưa bà Fairley. Chị ấy chết tuần trước, họ đã chon chị ấy hôm thứ năm” - giọng cô bây giờ khẽ như thì thào, kéo dài lê thê cô chằm chằm nhìn Adele mỗi lúc thêm bồn chồn.

Adele Fairley đưa tay lên trán một cách mệt mỏi và che mắt, rồi sau một giây, nàng buộc mình nhìn thẳng vào Emma. “Phải, tôi nhơ ra rồi, Emma ạ. Tha lỗi cho tôi. Những cơn đau đầu này cô biết đấy. Nó khủng khiếp lắm, sau mỗi cơn đau, tôi thấy kiệt sức! Thỉnh thoảng tôi sợ là ôi không còn nhớ được gì nữa. Ôi trời ơi! Phải rồi, Polly tội nghiệp. Hãy còn trẻ như vậy”. Khuôn mặt của Adele chỉ tỉnh táo được một thoáng, lại mờ đi, nàng quay về phía ngọn lửa trong một cơn mê hoảng.

Emma đã quen với tính đãng trí mãn tính của Adele, nhưng vẫn thấy bàng hoàng vì sự mất trí nhớ kỳ lạ này, cô thấy thật ghê sợ và không thể tha thứ được. Sao bà Fairley lại có thể quên cái chết của một con người nhanh chóng và cũng thật dễ dàng đến như vậy? Emma hoảng sợ tự hỏi. Nhất là Polly đã làm việc cho bà trong năm năm quần quật và tận tụy như một cô bé thành Troy.

Cho đến lúc này, nói chung Emma đã có thể tha thứ cho sự thờ ơ của bà đối với cuộc sống đầy khó khăn của người khác, và đó là do cuộc sống nuông chiều, quan niệm về thế giới phi thực tế và trẻ con của bà. Nhưng sự việc này thì cô cho là khó có thể bỏ qua được. Emma không có ý giấu vẻ khinh bỉ lướt trên khuôn mặt cô, miệng cô mím lại thành một đường thẳng nghiêm khắc không khoan nhượng. Sao, bà ta cũng không khác gì những người khác, cô buộc tội. Bọn họ cùng một giuộc cả, cái bọn nhà giàu này.

Emma nhìn Adele đang bờ phờ ngó trân trân ngọn lửa, cô tức giận và khó chịu. Cô chợt nhận thấy Adele không chỉ nông cạn và ích kỷ mà còn vô tâm nữa. Theo quan niệm của Emma, ngay cả sự dịu dàng của Adele hình như cũng khong còn là một đặc tính được cứu chuộc nữa. Nhưng một lát sau, Emma đẩy cơn giận lui đi, kiềm chế nó bằng một quyết tâm sắt đá cho đến khi nó bị dìm xuống, bởi vì cô biết đó là một xúc cảm vô ích. Emma cũng hiểu rằng đi vào bản chất của giai cấp quý tộc là một chuyện khôi hài. Như vậy có nghĩ lý gì? Và nó đi tới đâu? Không đi tới đâu hết! Cô cũng không thể hao phí thời gian quí báu của mình để mà cố gắng đi tìm hiểu những người giàu, cung cách của họ thật là bí hiểm đối với cô. Cô cần thời gian và nghị lực để làm cho cuộc sống của mẹ cô, cha cô, và Frankie dễ chịu hơn.

Emma bắt đầu bận rộn với bàn trà, cố che giấu tình cảm của mình, dáng điệu của cô trở về sự tự chủ bình tĩnh thường ngày, nét mặt cô phẳng lì như một tảng đá xám. Nhưng khi cô pha trà, phết bơ vào bánh, dọn trứng, Emma vẫn cứ nhìn thấy bộ mặt héo hon của Polly, đôi mắt đen của chị sốt bừng bừng trong hốc mắt sâu, trái tim cô thắt lại trong một nỗi buồn kinh khủng và niềm thương cô dành cho Adele một thoáng vừa qua đã tan đi.

- "Bà Fairely, mời bà ăn trước khi nó nguội", Emma nói lạnh băng.

Adele nhìn Emma với đôi mắt màu bạc của nàng và mỉm một nụ cười làm tan biến mọi chuyện, y như thể câu chuyện về Polly chưa bao giờ xảy ra cả. Trên khuôn mặt của nàng vẫn bình thản, còn đôi mắt thì trong sáng.

- "Cám ơn Emma. Tôi hơi đói một chút. Và tôi phải nói là cháu trông nom tôi rất tử tế". Nàng nhấm nháp trà và tiếp tục trò chuyện: "Mẹ cháu thế nào, Emma? Bà vẫn tiếp tục khỏe lên chứ?"

Sự thay đổi của Adele đột ngột không thể nào tưởng tượng được làm Emma nhìn nàng bối rối. Cô nói nhanh: "Vâng thưa bà, cám ơn bà. Mẹ cháu cũng khá lên nhờ thời tiết tốt hơn, và ba cháu làm việc ở nhà máy cũng được dễ chịu hơn".

Adele nghiêng đầu. "Trứng ngon lắm, Emma ạ", nàng nói và ăn hết một nửa.

Emma hiểu rằng cái giây phút trò chuyện thân mật ngắn ngủi đã qua, cô lấy ở trong túi ra tờ thực đơn của bữa chiều mà bà bếp đã đưa cô. Mặc dù đã từ lâu Adele đã nhường quyền trông nom nhà cửa cho Murgatroyd và gần đây hơn cho em của bà, bà bếp vẫn khăng khăng đòi hàng ngày đưa thực đơn lên cho bà. Bà Turner đã làm việc cho Adele từ khi Adele đến Fairley làm cô dâu của Adam và lúc nào bà cũng cung kính đối với Adele, theo cách suy nghĩ của bà, không bao giờ bà nghi ngờ, bà Fairley vẫn là bà chủ của Fairley Hall, chứ không phải là ai khác. Vì thế bà đối xử với Adele như vậy, với sự kính trọng hết sức lớn lao. Bà Turner trung thành không hề nghĩ rằng Adele ít chú ý tới những thực đơn, hoặc chẳng có được một lời bình luận khen chê gì hết.

Emma rút tờ thực đơn từ trong túi ra đưa cho Adele. "Bà bếp nói xin bà làm ơn coi tờ thực đơn này cho bữa chiều, thưa bà Fairley", cô nói.

Adele làm một cử động nho nhỏ và cười khẽ. Tôi không thể bận tâm gì chuyện đó sáng nay được, Emma ạ. Cháu biết rất rõ là tôi tin tưởng ở bà Hardcastle làm những thực đơn thích hợp cho tôi, và hôm nay vẫn thế. Tôi hoàn toàn nghĩ rằng hôm nay không phải là một ngoại lệ".

Emma chuyển chân một cách bồn chồn, tờ giấy lật phật trong tay cô. Cô nhìn Adele một cách tò mò. Không hiểu bà Fairley làm sao nhỉ? Cô tự hỏi, tim cô đập thình thịch. Sáng hôm nay bà tệ hơn tất cả mọi sáng. Emma cắn môi khi một ý nghĩ lo âu chợt đến. Bà Fairley tàng tàng chăng? Trước đây cô chưa bao giờ có ý nghĩ người giàu mà lại bị dở hơi. Cô cứ nghĩ một bệnh tật khủng khiếp như thế là ưu tiên cho người nghèo, nhưng có lẽ cô lầm. Bà Fairley xử sự lạ lùng đến nỗi ai cũng phải ngạc nhiên tự hỏi. Trước tiên bà quên là Polly đã chết, bây giờ bà lại nói về bà Hardcastle y như thể bà không biết bà này không làm quản gia từ nhiều tuần trước đây.

Emma do dự không rõ phải trả lời như thế nào. Bà Fairley có thể phật ý nếu cô cứ nhắc đến sự quên lãng của bà. Vì vậy cô nói chầm chậm, chọn từ cẩn thận; "Thưa bà Fairley, trước đây không biết cháu đã nói với bà chuyện bà Hardcastle đi rồi chưa? Chắc là cháu quên mất. Đó là lúc bà đang mệt phải nằm. Bà Wainwright đã đuổi bà ấy. Bà ấy nói bà Hardcastle có thói quen xấu là nghỉ những ngày không phải ngày nghỉ".

Adele nhìn xuống khay bữa ăn sáng. Tất nhiên Olivia đã tức tốc thải Hardcastle. Olivia đã đứng ở ngay căn phòng này và bảo với bà Fairley là đã cho bà Hardcastle thôi việc. Bà đã nổi giận trước sự quá tự tin của em gái nhưng bà vẫn không thể đảo ngược lệnh của em. Bà ốm quá vả lại Adam ủng hộ Olivia đến cùng, phản đối lại họ, cũng là vô ích. Bây giờ bà phải thận trọng. Chú ý hơn tới những điều mình nói, ngay cả với Emma nữa, nếu không cô bé này sẽ nghi ngờ bà, như Olivia và Adam đã nghi ngờ. Phải, bà phải cẩn thận hơn mới được. Bà ngẩng đầu lên và mỉm cười đằm thắm, nét mặt bà là cả một sự ngây thơ.

Có sự khôn ngoan và quỷ quyệt trong con người Adele. Bà ta có tài năng vờ vịt kỳ lạ và ngụy trang nhược điểm của mình khi cần nấp sau một bộ mặt có vẻ hợp lý, thái độ của bà thỉnh thoảng tỏ ra rất bình thường như lúc này đây.

- "Có lẽ cháu đã nói với tôi rồi, Emma. Tôi biết là bà Wainwright đã nói tới điều này. Nhưng lúc ấy tôi ốm quá và quá lo lắng về cậu Edwin vì thế nó không ghi vào tâm trí. Ờ, thôi bây giờ đừng lo câu chuyện đó nữa. Cho tôi xem thực đơn nào!" Bà giơ tay đón lấy tờ thực đơn. Bà chỉ liếc nhìn qua nó một cái rồi trả lại cho Emma. "Tuyệt! Thật là một bữa đại tiệc chứ không chơi", Adele tuyên bố và mỉm cười. Rồi nói thêm: "Chuyển tới bà bếp lời khen ngợi của tôi và nói với bà ấy là bà ấy đã làm quá sức của mình, Emma ạ". "Thưa bà, vâng", Emma nói tiếp, và đưa tờ báo cho bà chủ. "Bây giờ cháu xin phép đi dọn phòng ngủ", cô nói và cúi chào khẽ.

- "Cám ơn Emma. Khi nào xong cháu chuẩn bị phòng tắm cho tôi để ăn xong tôi tắm và thay quần áo".

- "Thưa bà, vâng", Emma nói và vội vã đi vào phòng ngủ.

Emma cố nén một tiếng kêu kinh hoàng khi cô bước vào phòng và trông thấy tất cả đống quần áo mà Adele đã lôi tờ trong tủ ra và ném trên sàn thành những đống hỗn độn. Cô đưa tay bịt miệng, hốt hoảng đứng ngây ra ngó nhìn những chiếc áo, áo choàng, áo dài và những bộ đồ đẹp khác nằm ngổn ngang hỗn độn. Bà làm sao thế này, cô lầm bầm khe khẽ, miệng há hốc nhìn đống quần áo, không dám tin là thật. Bà ta không phải chỉ là tàng tàng, mà hành động như một người điên thật rồi. Trong khi cô bước một cách thận trọng chung quanh đống quần áo, một cảm giác tức giận lẫn với một tâm trạng thất vọng làm nôn nao ruột gan Emma. Cô giận dữ điên cuồng nhận ra rằng phải mất một thời gian mới sắp xếp ngăn nắp lại đống quần áo này, và xếp chúng lại vào tủ được. Thời gian biểu của cô thế là bị vỡ hết! Cô bắt đầu nhặt chúng lên như cái máy. Treo mỗi bộ lên mắc rồi để chúng vào tủ, cô làm một cách mau lẹ và có hiệu quả, hết sức tập trung để tiết kiệm được nhiều thời gian quý báu của cô chừng nào hay chừng ấy.

Trong lúc đó, Adele tiếp tục gẩy gót bữa ăn sáng và sau vài miếng, nàng đẩy đĩa ăn sáng một bên, bụng dạ nôn nao. Nàng lắc mạnh đầu từ bên này qua bên kia y như thể để gỡ một mạng nhện. Trong khi làm như vậy, nàng tự bảo với mình là phải cảnh giác hơn và không được mơ mộng nữa, nếu không thì nàng không bao giờ còn giữ được địa vị làm chủ nhân của ngôi nhà này. Sau đấy nàng sẽ cho gọi Murgatroyd, người mà ít nhất cũng thừa nhận uy quyền của nàng và lệnh cho ông ta mang wishkey lên cho mình.

Một tiếng gõ mạnh ở cửa rồi cánh cửa mở đột ngột. Đang mê mải với ý nghĩ về lão quản gia, Adele nửa mong muốn thấy Murgatroyd đứng đó, nàng mở mắt ra, ngồi thẳng dậy, quay ra cửa, nở nụ cười tuyệt diệu của mình, sẵn sàng đón lão quản gia. Nàng ngạc nhiên bắt gặp cái nhìn lạnh lùng và đăm chiêu của chồng. Nụ cười nàng giá lại và nàng ngồi cứng trên ghế. Ông ít khi vào buồng nàng.

Adam để ý thấy phản ứng khiếp hãi của vợ, mặc dù nó làm ông mất tinh thần, ông khôn ngoan phớt lờ nó.

- "Chào Adele. Anh hy vọng em ngủ được ngon", ông nói.

Adele nhìn ông một cách cẩn thận, lòng đầy phản kháng và bực bội điên cuồng. Trong tình trạng tinh thần xao động hiện nay, những tình cảm sợ hãi và nghi ngờ choán lấy tâm hồn nàng, nàng nghi ngờ tất cả những điều ông nói và làm. Do đó nàng cảnh giác đối với ông.

Cuối cùng nàng nói: "Không, tôi ngủ không được tốt lắm", nàng nói lạnh lùng.

- "Anh lấy làm buồn nghe thấy như vậy, em thân yêu. Có lẽ em có thể nghỉ ngơi, chiều nay", ông gợi ý ân cần.

- "Có lẽ" Adele nói, nàng nhìn ông ngây dại và hơi khiếp đảm, nàng tự hỏi cuộc vuếng thăm này có ý nghĩa gì đây.

Adam vẫn đứng ở ngưỡng cửa, tựa vào thành cửa với dáng điệu lịch thiệp bẩm sinh của ông. Ông đã không bước qua ngưỡng cửa phòng này tính ra đã mười năm trường và ông cũng không có ý định làm như vậy nữa. Nó luôn luôn làm ông kinh hoàng và bối rối vì sự lộn xộn màu xanh lạnh lẽo và tính chất đàn bà tràn ngập căn phòng. Bây giờ nó làm ông nôn nao phát ốm.

Gần đây, những cuộc nói chuyện với Adele cực kỳ đau đớn đối với Adam. Ông luôn luôn có những ý định hết sức tốt, nhưng bao giờ nàng cũng gạt bỏ, ông thấy mình ngày một thêm bực tức, không thể nào kiên nhẫn nổi. Vì thế ông mong kết thúc điều ông phải tới để nói với nàng một cách hết sức hòa nhã và nhanh chừng nào tốt chừng đó, vì vậy, ông nói nhanh: "Adele, anh muốn nói chuyện với em về Edwin". Ông nhìn nàng một cách thận trọng, bởi vì ông biết mình đang đề cập tới một vấn đề dễ xúc động. Nàng ngồi thẳng người trong ghế và nắm chặt lấy hai tay ghế. "Nó làm sao" nàng kêu to, mắt lóe lên lo lắng. Edwin là đứa con nàng cưng nhất, nàng tôn sùng cậu.

Thấy nỗi hốt hoảng ngày càng tăng của vợ, ông nói dịu dàng: "Đã đến lúc con nó phải quay lại ký túc, có phải em đã nói như thế không? Mặc dù đã gần nửa học kỳ rồi, nhưng anh nghĩ nó nên trở lại trường ngay. Anh muốn con nó có một vài tuần để bắt kịp bài vở. Em biết đó,con nó phải học đuổi nhiều. Nó đã ở nhà từ Noel đến nay. Quá lâu, theo ý anh".

- "Cho nó quay trở lại trường lúc này là điều hết sức nực cười, một việc không đáng làm", Adele kêu to, ngày một thêm bực bội. Nàng đứng lại thở sâu vài ba hơi để tự trấn tĩnh. "Vả, nó vẫn còn yếu lắm mà, Adam", nàng nói thêm, dùng một giọng nói êm dịu hơn, nở một nụ cười dịu dàng nhất mà đối với ông bây giờ không còn gây được một ấn tượng gì nữa.

- "Vớ vẩn!" Adam nói giọng cương quyết. "Sức khỏe của nó tốt rồi. Nó là một thanh niên cường tráng và đã hoàn toàn khỏi sưng phổi rồi. Em quá nuông chiều Edwin, Adele ạ. Như vậy không tốt cho nó đâu. Và dù động cơ của em là tốt đẹp thế nào chăng nữa, thì cũng là em đang bóp ngạt nó. Nó nên sống với những thanh niên cùng lứa tuổi và ở trong một môi trường có kỷ luật hơn và lành mạnh hơn. Em đối xử với nó như một đứa trẻ".

- "Không phải thế!", Adele kêu to, tự bảo vệ mình, giọng nàng cất lên thành một tiếng sét và sự bực tức âm ỉ với chồng trở thành một nỗi căm ghét tức thời.

- "Anh không có ý định cãi nhau với em về vấn đề này, Adele ạ". Adam mói lạnh như băng. "Anh đã hoàn toàn quyết định rồi, và không gì có thể thuyết phục được anh thay đổi ý kiến, đặc biệt là cái ước muốn bất bình thường của em bám lấy thằng bé. Anh cũng đã nói chuyện với Edwin và con nó ao ước được trở lại trường càng sớm càng tốt".

Adam nhìn xoáy vào Adele. "Ít nhất thì con nó cũng thấy ý nghĩa của vấn đề. Và anh phải nói rằng nó rất cần mẫn trong những hoàn cảnh như vậy, cố gắng tiếp tục tự học. Nhưng như vậy đối với anh chưa đủ tốt, Adele ạ". Adam đằng hắng và dịu giọng: "Em phải cân nhắc tình hình của Edwin em ạ. Con nó nhớ trường, nhớ bạn, điều ấy là lẽ tự nhiên. Và vì thế" -Adam do dự, rồi tiếp tục nói nhẹ nhàng- "và vì thế anh đến để báo cho em biết anh có ý định chính anh sẽ lái xe đưa con đến Worksop vào ngày mai".

Adele cố nén sự kinh ngạc. Nhanh như thế sao, nàng nghĩ, và nước mắt dâng ứ lên mắt nàng. Nàng quay mặt đi để Adam khỏi thấy. Tay nàng run run khi nàng lén gạt giọt nước mắt. Adam làm như vậy để phá nàng. Chẳng phải là vì Edwin gì cả. Anh ta ghen vì Edwin thích ở nhà với nàng. Nàng bỗng thấy một nỗi thôi thúc về thể xác muốn nhảy lên và nhào vào anh ta, đánh vào mặt anh ta, nói với anh ta là anh ta đã tàn ác biết bao đem đi người duy nhất yêu nàng và người nàng yêu.

Nhưng nàng nhìn lại Adam và ngay lập tức, thấy sự quyết tâm trên bộ mặt đẹp trai sắt đá của anh ta, và nàng biết với một cảm giác nôn nao, rằng đáng anh ta nàng cũng sẽ không đạt được gì. Anh ta không thể lay chuyển nổi. "Thôi được rồi, Adam, anh muốn nói sao cũng được". Adele nói, giọng nàng hãy còn run run và đầy nước mắt. Lấy thêm một chút sức mạnh, nàng tiếp: "Nhưng tôi mong anh hiểu rằng tôi chỉ đồng ý với các - cái - quyết định nực cười của anh, bởi vì anh nói chính Edwin đã tỏ ý muốn trở lại trường. Mặc dù tôi không bảo là con nó có tự đánh giá được chính xác bản thân nó để quay lại trường sớm như vậy hay không. Riêng tôi, tôi nghĩ bây giờ đã nửa học kỳ rồi, điều đó là vô nghĩa lý. Nó đến đó thì cũng lại vừa lúc để quay trở về. Tất cả những chuyện đi lại như vậy, đủ làm nhược người, nhất là đối với một đứa bé đang ốm yếu. Tôi nghĩ anh quá khắt khe đối với Edwin, Adam ạ. Tôi nghĩ như thế đấy".

Adam không thể ngăn được sự thôi thúc đáp lại một cách mỉa mai. "Edwin không còn làm một đứa bé nữa. Vả lại, anh không muốn nó lớn lên thành một người ẻo lả, yếu đuối, Adele ạ,mà nó sẽ là một người như vậy khi nó cứ bị mãi mãi buộc vào gấu váy của mẹ nó. Em lúc nào cũng nuông chiều và làm hư nó. Nó trở thành tốt đẹp như vậy là một điều kỳ diệu - cho đến nay".

Adele há hốc miệng, khuôn mặt xanh xao của nàng ửng thắm lại. "Anh không công bằng chút nào, Adam, Edwin không bao giờ bị buộc vào gấu váy của tôi cả như anh nói một cách tầm thường như vậy. Làm sao con nó lại như vậy được? Anh cho nó đi học khi nó mới" - giọng nàng xúc động đến nỗi không thể nói tiếp được, nhưng một lát sau, nàng lại tiếp giọng đầy nước mắt, "mới chỉ mười hai tuổi. Và nếu như tôi có chiều chuộng nó chút ít là bởi vì nó hay xúc động và luôn bị Gerald áp chế".

Adam nhìn nàng, kinh ngạc, rồi ông mỉm cười chua chát: "À, à, em thân yêu, thì ra em có óc quan sát nhiều hơn là anh tưởng. Anh mừng khi biết em nhận ra rằng Gerald luôn luôn ăn hiếp và cư xử hết sức mất dạy đối với Edwin tội nghiệp. Đó lại là một lý do nữa, anh muốn con nó đi khỏi cái nhà này tránh cho nó khỏi sự o ép của thằng anh nó. Nó sẽ được sung sướng hơn ở nhà trường cho đến khi nó trưởng thành để tự bảo vệ chống lại Gerald. Mặc dù, cá nhân anh, anh hy vọng nó sẽ vượt lên trên mức đó. Cái thằng con cả nhà mình, chẳng phải là một thằng khả ái gì cho nó cam", ông nói một cách nhẹ nhàng nhưng với một sự khinh miệt ghê gớm.

Lời bình luận naỳ qua đầu Adele. Một vẻ mệt mỏi hiện trên nét mặt nàng. Nàng thở dài, đưa bàn tay lên bưng trán. Một cảm giác buồn nôn cứ dâng mãi lên làm nàng chóng mặt, nàng ao ước biết bao, giá Adam đi đi và để cho nàng yên ổn. Cái cố gắng của nàng để giữ cân bằng và mạch lạc đang làm hao mòn sinh lực nhỏ bé còn lại của nàng. Nàng cảm thấy kiệt quệ. "Vấn đề như vậy là đã được quyết định, Adam", Adele nói lặng lẽ, cố gắng vật lộn với nhu cầu khẩn thiết muốn lui về cái thế giới bên trong của nàng, nơi không gì có thể động chạm tới nàng. "Tôi đang bị đau đầu ghê gớm", nàng rên rỉ, "và tôi cũng chắc là chính anh đang có những công việc cấp bách khác cần làm".

- "Phải đúng thế". Ông nhìn nàng chăm chú và một nỗi buồn kỳ lạ xâm chiếm tâm hồn ông. Một mối thiện cảm trong giọng nói của ông khi ông nói "Anh hy vọng em cảm thấy khỏe hơn, em thân yêu. Anh xin lỗi cuộc nói chuyện này đã gây cho em nỗi đau đớn, nhưng em hiểu cho là anh chỉ nghĩ đến Edwin".

Cho là cuộc nói chuyện đã kết thúc, Adam cúi đầu lịch sự và quay gói. Một cái gì đó làm ông ngừng lại, ông nhìn lại, nàng cau mặt, đột nhiên nhận ra vẻ u tối trong mắt nàng, vệt mờ phủ trên mắt nàng.

- "Anh mong em khỏe để có thể cùng dự bữa ăn tối nay chứ? Em biết chúng ta đang đợi khách", Adam nói.

Nàng ngồi thẳng lên, thảng thốt: "Tối nay!"

- "Phải, tối nay. Chắc là em không quên bữa tiệc tối nay Olivia tổ chức cho Bruce McGill, chủ trại cừu người Úc. Cô ấy đã nói với em từ đầu tuần", Adam nói gay gắt, cố kìm sự bực bội. "Nhưng thứ bảy cơ mà, Adam. Olivia nói với tôi là thứ bảy. Tôi biết cô ấy nói thế. Tôi không thể nào lầm lẫn như vậy được". Nàng kêu lên dằn dỗi.

Ồ, thế à, Adam nghĩ, và nhìn chằm chằm vào vợ một cách lạnh lùng. "Hôm nay là thứ bảy mà, Adele".

Nàng xao động, đưa tay lên trán run rẩy. "Tất nhiên. Tôi thật ngu quá", nàng lẩm bẩm một cách vội vã. "Vâng, tôi chắc là tôi sẽ khỏe để xuống dự tiệc".

- "Tốt". Ông mủm mỉm cười. "Xin lỗi, Adele. Anh phải đi gặp Wilson ở xưởng, rồi anh phải đi Leeds. Anh mong gặp tối nay, em thân yêu". "Vâng, Adam", Adele nói, ngã người vào trong ghế, cảm thấy muốn ngất xỉu và nàng rất kinh hoàng nghĩ tới là phải gặp nhiều người, nhất là người lạ.

Adam khép cửa nhẹ nhàng lại phía sau. Ông khá ngạc nhiên. Thật là một thành tựu đáng kể đối với ông khi ông có thể giật Edwin ra khỏi bàn tay nắm giữ của nàng với một sự chống trả ít như vậy. Đứng về một phương diện, ngay cả sự biểu lộ một chút thần khí của nàng cũng làm ông nhẹ người. Thường thường những lời than vãn của nàng để giữ Edwin lại bên mình bao giờ cũng được tiếp nối bằng những suối nước mắt, những cơn ngất xỉu và những cơn thần kinh phi lý mà ông luôn thấy không có cách nào đối phó nổi. Những cảnh tượng của quá khứ là không thể chịu nổi và làm ông hoảng sợ.

Emma, làm việc trong phòng ngủ, không thể tránh không nghe thấy cuộc nói chuyện này, mặc dù cô không bao giờ cố ý nghe lỏm như những đầy tớ khác thường làm. Cô dọn xong giường, mím môi và nghĩ: người đàn bà, tội nghiệp. Ông ta quả là một kẻ hay bắt nạt, quá bần tiện đối với bà ấy. Cũng như ông ấy bần tiện với tất cả mọi người.

Mặc dù nỗi căm ghét của Emma đối với Adam Fairley là phi lý và không có cơ sở, nhưng nó hoàn toàn thật. Cũng như mối ác cảm của cô đối với Gerald, con người không bao giờ bỏ lỡ cơ hội nào để dằn vặt, hành hạ cô. Nhưng cô không phàn nàn gì đối với Edwin. Cậu ta lúc nào cũng dịu dàng với cô và cô kính trọng Olivia Wainwright. Giờ đây, cô tự hỏi không biết có phải mình thiếu lòng từ bi đối với bà Fairley trước đây không. Cô dừng lại, ôm chặt một chiếc gối lụa vào ngực và nghĩ hoài chuyện này. Có lẽ chính ông ta đã làm bà hành động kỳ quặc như vậy, cô tự nhủ. Ông ta làm cho bà ấy hồi hộp và hốt hoảng, có lẽ chính vì thế mà bà luôn luôn quên cái này cái nọ và đi đứng như trong cơn mơ. Emma để lại chiếc gối lụa, vuốt thẳng và kéo tấm vải phủ gối bằng xa tanh màu xanh và vàng nhạt. Một nỗi thương cảm đối với Adele tràn ngập trong cô, dập tắt những tình cảm giận dữ lẫn với mối hằn thù cô hằng ấp ủ, và vì một lý do nào đó, hoàn toàn không hay biết đối với cô, Emma cảm thấy sung sướng hơn đối với sự thay đổi tình cảm này.

Emma đang lau bụi chiếc bàn phủ kính Venetian để trước cửa sổ rồi ngân nga một điệu ca thì Adele bước vào. Nét mặt nàng căng thẳng lo âu, hai gò má nổi lên thành nhọn dưới đôi mắt phủ đầy một nỗi đau thương. Sự lo ngại của nàng về bữa tiệc tối sắp tới gạt cả niềm ao ước da diết và cơn thèm rượu wishkey sang một bên. Trong trạng thái khoan nhượng hiện nay của ông, Adam gieo kinh hoàng trong lòng nàng, nàng buộc phải xuất hiện tối nay và phải cư xử đàng hoàng, tư thế. Dù phải tốn bao nhiêu nghị lực nàng cũng phải tự kiềm chế, thoải mái, duyên dáng và không ai có thể hay biết được một chút nào những xúc động trong lòng nàng.

Thế rồi một sự láu lỉnh trong người Adele dấy lên, nàng mỉm cười một mình. Nàng đã có một con bài giấu sẵn và bao giờ cũng là một con bài chiến thắng. Nhan sắc của nàng. Adele biết rằng những dáng vẻ lạ thường của nàng bao giờ cũng làm cho người ta choáng váng, đến nỗi sự chú ý của họ đi chệch hướng. Nàng quyết định nàng phải thật lộng lẫy tại bữa tiệc. Nàng sẽ nấp sau cái mã đẹp đẽ của nàng.

Nàng vội vã tới bên tủ áo mà Emma vừa thu xếp ngăn nắp trở lại và mở cánh cửa tủ đôi một cách nóng nảy. Tim Emma thắt lại. Một bức tranh tức thời, cảnh quần áo Adele quăng bừa bãi khắp phòng, cô nhìn lên và nói vội: "Thưa bà Fairley, cháu xếp lại tất cả quần áo của bà ngăn nắp ạ. Thưa, bà đang tìm gì ạ. Bà nói cho cháu biết". Giật mình, Adele vội vã quay ngoắt lại. Nàng đã quên mất Emma trong phòng ngủ. "Ồ! Emma. Phải, tôi đang tự hỏi mặc gì cho bữa tiệc đêm nay. Toàn những người hết sức quan trọng được mời cháu ạ". Nàng kéo những chiếc áo choàng loạt soạt nói tiếp bằng một giọng thắc mắc. "Cháu ở đây để giúp tôi mặc quần áo, phải không Emma? Cháu biết nếu không có cháu, tôi không làm gì được". "Thưa bà, vâng. Bà Wainwright bảo cháu làm việc cả ngày cuối tuần cháu không được nghỉ như bình thường vì bữa tiệc tuần này", Emma nói một cách lặng lẽ.

- "Nhờ trời! Adele kêu lên nhẹ nhõm, nàng vẫn tiếp tục tìm kiếm chiếc áo thích hợp. Việc Emma buộc phải bỏ ngày nghỉ cuối tuần ở nhà với gia đình cô cũng chẳng gây được một chút cảm tưởng gì nhỏ nhặt đối với Adele. Nàng chỉ quan tâm tới chính mình thôi. Cuối cùng bàn tay nàng chạm vào một chiếc áo và nàng lôi nó ra, giơ lên cao cho Emma xem. Cuối cùng Adele thấy khó quyết định được gì nếu không bàn bạc với Emma và bây giờ nàng muốn cô khuyên nàng về chiếc áo nàng đang cầm. Cháu có nghĩ là chiếc này đủ đẹp không?", nàng hỏi và ép chiếc áo vào người. Tối hôm nay trông tôi phải thật đẹp - phải tuyệt vời".

Emma từ bàn trang điểm bước ra và đứng trước Adele. Cô nghiêng đầu sang bên, nheo mắt lại, nhìn chiếc áo cẩn thận, với con mắt phê phán. Cô biết chiếc áo này đắt tiền và mua từ Worth. Bà Fairley đã bảo với cô như vậy trước đây. Và nó đẹp thật, tất cả bằng xa tanh trắng viền đăng ten. Thế nhưng Emma không thật sự thích nó. Cô nghĩ nó cầu kỳ, kiểu cách quá và bà Fairley mặc không thích hợp chút nào.

Sau một phút suy nghĩ, Emma nói, "Dạ vâng, thưa bà, nó đẹp, nhưng cháu nghĩ, nó hơi - nó hơi nhạt màu đối với bà, nếu bà cho phép cháu nói như vậy. Vâng, đúng thế đấy, thưa bà Fairley. Nó làm bà tái đi bên cạnh nước da xanh và mái tóc vàng của bà".

Vẻ vui tươi trên nét mặt Adele tan biến đi, nàng trợn mắt nhìn Emma. "Nhưng như vậy thì tôi biết mặc cái gì? Cái áo này mới đây mà, Emma. Tôi chẳng có cái nào khác gọi là đẹp cả".

Emma mỉm cười yếu ớt. Có ít nhất cũng đến một trăm chiếc áo, Adele có thể chọn và cái nào cũng đẹp hết.

- "Bà cần một chiếc áo nào nó - nó - Emma ngừng lại, cố gắng tìm một chữ. Cô nghĩ tới những tạp chí có minh họa, có những tấm hình chụp những mốt hiện đại nhất và cái chữ mà cô cần vụt hiện ra trong đầu cô. Bà cần một chiếc áo nó tao nhã hơn, nó sẽ làm cho tất cả mọi người đều phải quay đầu lại nhìn. Phải, như vậy đó, thưa bà Fairley, mà cháu biết chiếc áo ấy là chiếc nào?"

Cô chạy lại tủ áo, lôi ra một chiếc áo bằng nhung đen. Đó là một màu lý tưởng làm tôn nước da ngà ngọc và mái tóc bạch kim lộng lẫy của nàng. Rồi Emma chau mày khi nhìn lại chiếc áo. Nó được điểm trang bằng những bông hồng đỏ như máu ở một bên vai tỏa xuống thành một đường dài.

- "Cái này đây, cô kêu lên một cách hết sức chắc chắn và nói thêm, nếu cháu tháo những bông hồng này ra".

Adele nhìn cô bé kinh hoàng, không dám tin là thật. Tháo những bông hồng đó! Không thể làm thế được. Cháu sẽ làm hỏng mất chiếc áo. Vả lại, nếu không có những bông hồng thì trông nó sẽ quá xám xịt.

- "Dạ thưa bà, không đâu ạ! Thật đấy ạ. Trông nó càng tao nhã hơn. Nhất định là như thế. Cháu biết nhất định sẽ như thế. Và bà có thể đeo chuỗi vòng kiều diễm này, cái chuỗi lóng lánh này, cả đôi bông tai nữa. Và cháu sẽ chải mái tóc của bà theo kiểu trong họa báo bà cho cháu xem tuần trước. Ôi, trông bà sẽ rất đẹp trong chiếc áo này, thưa bà Fairley, thật đấy ạ".

Adele dường như còn hoài nghi, nàng nặng nề ngồi xuống chiếc ghế bọc xa tanh, cau mày và cắn môi. Emma chạy ngay ra bàn trang điểm, cầm chiếc kéo lên, bất chấp tiếng kêu phản kháng của Adele, cô cắt chỉ đính những bông hồng.

- "Bà Fairley, bây giờ xin bà hãy nhìn xem, nó thật sự tao nhã". Emma thốt lên đầy phấn khích, phăm phăm dứt những bông hồng. Cô giơ chiếc áo lên với vẻ đắc thắng.

Adele giận dữ. "Cháu làm hỏng nó rồi!", nàng há miệng, giọng rít lên. Mà trông nó bây giờ xám xịt. Đúng như tôi đã nói mà. Nàng tức giận Emma, mắt nàng long lên.

- "Bà mặc vào, trông nó ắt không xám xịt đâu, nếu bà đeo đồ trang sức vào nữa", Emma nói một cách kiên quyết phớt lờ cơn giận dữ nho nhỏ đó. "Và nếu bà muốn, sau đó cháu lại đính những bông hồng vào. Nhưng bây giờ hãy để thế này đã, thưa bà Fairley. Xin bà", cô van nài, Adele yên lặng, mắt nàng như một đám mây dông, nàng nhìn Emma dằn dỗi, hai tay vặn vào nhau một cách bồn chồn.

- "Chỉ thoáng một cái là cháu lại đính chúng vào được ngay. Vì vậy, thưa bà, xin bà đừng ngại". Emma nói an ủi.

- "Ờ - thôi được", Adele nói một cách miễn cưỡng hơi có vẻ làm lành, mặc dù môi vẫn còn mím.

Emma mỉm cười tự tin. "Cháu sẽ treo nó lại vào tủ bây giờ. Đừng lo, bà Fairley, đêm nay trông bà sẽ đáng yêu, nhất định là như vậy. Cháu hứa. Bây giờ cháu đi chuẩn bị để bà tắm, thưa bà".

- "Cám ơn, Emma", Adele nói một cách âu sầu, lòng vẫn còn lo ngại về bữa tiệc tối. Emma treo chiếc áo trở lại tủ áo và vội vã đi vào phòng tắm.

Adele bước tới bàn trang điểm, lấy ra chiếc hộp bằng nhung đỏ đựng chuỗi vòng kim cương, xuyến và đôi hoa tai của nàng. Nàng nâng chuỗi vòng lên, ướm vào cổ. Vẻ long lanh của nó khiến nàng nín thở vì ngạc nhiên. Nàng quên mất là nó đã từng lộng lẫy như thế nào, bây giờ nghĩ lại, chiếc áo bằng nhung đen sẽ thật là hoàn hảo xứng với nó. Xét cho đến cùng có lẽ Emma đã đúng trong sự lựa chọn của mình. Adele mỉm cười sung sướng. Đêm nay nàng sẽ thật là lộng lẫy đến Adam cũng phải nghẹn ngào.

Hôm đó, sau khi Emma đã làm xong những công việc trong ngày của mình, cô quay trở lại phòng khách trên gác với bữa trà chiều cho Ađelơ Feli. Ađelơ từ chối không xuống ăn trưa, nói là bị đau đầu và mệt, vì vậy Emma chuẩn bị bữa trà thật cẩn thân, cô quyết tâm để bà Feli ăn một chút gì đó giữ sức cho buổi tối quan trọng tới Sau khi đã nghe lỏm được cuộc nói chuyện giữa Ađelơ và Ðam, thấy được sự quan tâm của Ađelơ về trang phục, Emma cảm nhận được theo trực giác nỗi lo ngại của nàng. CÔ cảm thấy cần che chở cho Ađelơ bây giờ khi tình cảm thương xót của cô đã trở lại, cô muốn làm giảm bớt nỗi lo âu của Ađelơ với sức của mình. Chiều chuộng nàng chút ít là cách duy nhất Emma biết cách làm.

Vì những lý do này, mặc dù cô có phải làm việc nhiều hơn bình thường, bữa tiệc tối, Emma đã cất công chuẩn bị một số thứ Ađelơ thích cho bữa trà, hy vọng khơi dậy được khẩu vị đã chán chường của nàng. CÓ những chiếc bánh sanuých và những chiếc khác nhồi trứng, những chiếc bánh kem phết bột nhồi tôm, những chiếc bánh nướng nóng phết bơ, mứt anh đào nhà làm, bánh bơ giòn, cô cũng pha một bình trà lớn mà bà Feli vốn thích, mặc dù, Emma không hiểu bà sẽ uống ra sao. Ðối với Emma các vị của nó, kỳ kỳ tựa như nước ám khói chứ không giống như trà thật chút nào, mặc dù nó đắt tiền và thửa đặc biệt từ cửa hàng Fortmim và Ma son Ở Luân Ðôn. Nhưng không thể giải thích được khẩu vị của người giàu, Emma quyết định như vậy trong khi cô bưng khay trà bước lên gác. HỌ ăn và uống những thứ kỳ quái nhất, theo cách suy nghĩ của cô. Bản thân cô cũng thích những thứ ăn ngon, nhưng những món sơn hào hải vị không bao giờ hấp dẫn nàng. CÔ cũng cho là những người quý tộc ăn nhiều và nhiều món quá. Emma thấy cách họ tọng đầy ruột như lợn thật là tởm lợm. Thảo nào mà họ chẳng mắc chứng khó tiêu, dễ phật ý và bẳn gắt. Tất cả là do những đồ ăn và thức uống đó. Dù cho ta có giàu có sau này, ta cũng vẫn ăn uống giản dị, cô tự nhủ lòng khi đi vào những căn phòng của bà Feli.

Ađelơ đã nghỉ ngơi suốt cả buổi, quá trưa nàng vẫn còn nằm trên chiếc giường bốn cọc lớn, tựa trên một chồng gối màu xanh nhạt, đọc tờ Yorkshire Moming Gaette khi Emma vào phòng và mang khay tới bên giường. Ađelơ nhìn lên khỏi tờ báo, mỉm cười dịu dàng. 'tôi rất mừng là cháu đã khuyên tôi nghỉ ngơi', Ađelơ nói, nàng ngồi ngay lại: "Tôi đã ngủ được khá và tôi thấy khỏe khoắn, sảng khoái hơn cho buổi tối nay, đúng như lời cháu nói, Emma ạ". Nàng lại mỉm cười thoáng biết ơn trong mắt.

Emma nhìn Ađelơ chăm chú. Nhũng đường nét căng thẳng, lo âu quanh khóe miệng nàng sáng nay đã không còn nữa. Mặt nàng thư thái và bình tĩnh, đôi mắt nàng hết sức trong sáng hầu như vui tươi. Mí mắt lúc trước sưng húp híp nay cũng mất cái quầng đỏ, nét xanh tái đã nhường chỗ cho ánh sáng thanh tao hoàn toàn thích hợp với chiếc áo ngủ xa tanh mầu hồng nàng mặc.

Chà, trông nàng đẹp quá, Emma nghĩ, và nói: "Thưa bà Feli, cháu đã mang cho bà chút ít để ăn. Chắc là bà phải đói lắm, bởi vì từ bữa sáng đến giờ bà đã ăn gì đâu Xin bà cố gắng ăn tý chút dù chỉ vài ba miếng". CÔ đặt khay cạnh Ađelơ trên giường và nói tiếp. cháu pha cả thứ trà buồn cười bà vốn thích nữa?".

Ađelơ cười và lần đầu tiên giọng nói của nàng có sự vui vẻ "Có phải cháu định nói là trà Lapsang Souchong không. Emma, cám ơn cháu'.

- ,'Vâng, đúng ạ. Lapsang Souchong - " Emma nhắc lại chậm và ngập ngìmg. Rồi cô hỏi: "Cháu nói như vậy có đúng không ạ, thưa bà.

"Ðúng rồi", Ađelơ khăng định, vui vui đôi chút, trong khi nàng tự rót một tách cho mình.

Emma mỉm cười. CÔ thích học hỏi để sử dụng sau này. CÔ sẽ cần biết nhiều điều khi cô tới Li dơ để lập nghiệp. CÔ hắng giọng và nói: "Xin lỗi bà Feli, cháu muốn biết chắc xem là có điều gì sai sót không. CÓ cần phải sửa sang lại gì không. Cháu muốn nó thật hoàn hảo cho bữa tối nay. Cháu có làm phiền gì bà không ạ?". tất nhiên là không, Emma và nếu như không cần phải làm gì thêm đối với chiếc áo đó, cháu có thể Ở lại đây mà làm việc. Cháu không cần phải lên phòng cháu nữa. Nhưng tôi chắc nó không bị hư hỏng gì. Tôi đã mặc nó đâu?"

Ađelơ nói.

Trong khi Ađelơ uống trà, Emma lấy chiếc áo nhung đem ra, xem xét thật cẩn thận xem nó có khuyết tật gì không. NÓ còn rất đẹp, ngoại trừ một cái móc bị lỏng và một vài đường chỉ bị tụt Ở vạt, hẳn bà Feli đã giẫm phải.

Emma cũng nhận thấy nhiều sợi chỉ phía bên chiếc áo nơi cô đã cắt bỏ những bông hồng. CÔ đã phải nhẹ nhàng rút những sợi chỉ ấy ra để khỏi làm hỏng nhung đen đắt tiền.

Emma mang chiếc áo ra ghế và bắt đầu làm rất thận trọng, bởi vì cô là một người cầu toàn và làm bất cứ việc gì cũng hết sức cẩn thận. CÔ sung sướng được ngồi xuống một lát. CÔ đã chạy ngược chạy xuôi suốt ngày và sắp sửa phải trải qua một buổi tối dài và mệt nhọc, vì cô sẽ phải giúp Mớcgaroi phục vụ bữa tối. CÔ nghỉ ngơi trong khi làm việc và cái mệt mỏi cô kinh qua trước đây dần dần biến đi.

Một sự hợp nhau nào đó đã nảy sinh giữa Emma và bà Feli trong mấy tháng vừa qua. Tuy bối cảnh và tuổi tác của hai người khác nhau, họ hết sức thoải mái Ở bên nhau và mặc dù sự thông cảm này không thể bày tỏ ra được nó vẫn có giá trị. CÔ gái theo trực giác của mình đã cảm thấy nỗi lo âu khủng khiếp của người phụ nữ lớn tuổi hơn và mặc dù còn trẻ và thiếu kinh nghiệm, cô vẫn nhận ra được tấn bi kịch trong đời Ađelơ. Hoàn toàn tự động và không hề suy nghĩ trước, Emma biết cách xử sự thích hợp không hạ thấp, cũng không làm tăng thêm nỗi lo lắng cực kỳ của Ađelơ. Về phần mình, Ađelơ đã bắt đầu thích Emma, người mà nàng thấy là kiên nhẫn, tốt bụng, kín đáo khi cô làm việc trong phòng. Ađelơ cũng nghĩ là Emma xinh đẹp và điều này làm nàng vui lòng bởi vì nàng không thể chịu được sự xấu xí. Và một vòng ánh sáng yên lành bao phủ lấy hai người khi họ ngồi cùng nhau trong phòng, cô gái nhỏ thì mải miết khâu vá, người phụ nữ có tuổi hơn thì uống trà.

Phòng ngủ tràn đầy những ánh sáng dịu dàng nhất ùa vào qua nhũng cánh cửa cao và ngọn lửa nổ lách tách, bùng bùng trong lò sưởi, hắt ra ánh vui tươi, vùa ấm áp vừa dễ chịu. Nhưng tấm lụa màu táo nhạt phủ những bức tường. Những tấm cửa sổ buông xuống như những thác nước cuộn sóng từ bốn góc của chiếc giường bằng gỗ sồi chạm trổ tạo nên một cảm giác mát mẻ và nghỉ ngơi, một cảm giác làm Emma cảm thấy bình tĩnh và bởi vì phòng ngủ không bộn rộn những đồ tạp nhạp như phòng khách bên cạnh, nàng cũng thấy đỡ bực bội hơn khi Ở trong đó.

Và rõ ràng nó thoải mái hơn cái bếp nàng vừa bước ra, nó đầy huyên náo, ồn ào, hối hả, tức giận. Anni, cô hầu phụ, đang giúp bà bếp chuẩn bị thức ăn cho bữa tối, một bữa ăn cần kíp, cả mẹ Anni cũng phải đến giúp đỡ buổi tối đó. Bà Vên rai đã vạch một thực đơn tuyệt vời tất cả đều đồng ý, mặc dù bà bếp cứ tiếp tục lẩm bẩm hoài là mọi thứ hơi quá tân kỳ. Emma cho rằng cơn bực bội nho nhỏ của bà Tớcnơ, sự kêu ca phàn nàn của bà là do sự hồi hộp, lo ngại cực độ của bà phải chuẩn bị một bữa ăn hết sức phức tạp. Mặc dù bà Tớcnơ luôn tuyên bố là nấu nuộc kiểu Ioócshơ là sở trường của bà, từ lâu Emma đã hiểu đó là tiết mục biểu diễn của bà.

Vừa rút chỉ, Emma vừa nghĩ về cái thực đơn đó, cô lặng lẽ cười một mình khi cô nhớ lại bộ mặt của bà Tớnơ lúc bà đọc thực đơn đó sáng nay. Mắt mở tròn xoe, bà tức tối một tiếng đồng hồ liền. CÔ có thể hình dung được sự bực bội của bà lúc này. Bà bếp tội nghiệp chưa bao giờ phải chuẩn bị một bữa cơm như thế này trong suốt những năm tháng của bà Ở Feli. Trước tiên các vị khách được dùng trứng cá lạnh, trứng luộc thái thành lát, hành sống thái, những lát chanh và bánh đậu bày lên trên.

Sau đó là tới món tôm hùm rán phồng với nước xốt tôm, tiếp theo là xúp ba ba với xốt anh đào. "Ðừng cho nhiều anh đào quá đấy", bà Vên rai đã báo trước, vừa đủ để có hương vị thôi. Rồi đến món cá đô vơ nấu bằng rượu vang trắng, có kem với nấm hương và hẹ tây. Món chính là thịt bò rán với nước xốt cây cải ngựa. Khoai tây rán trong chảo với thịt, cà rốt, đậu Hà Lan, chấm với nước thịt bò ép CÓ những loại phó mát, Xtintân Chéctxơ và Vênxlêđên, phó mát với bích quy giòn và bích quy giúp cho tiêu hóa.

Cuối cùng là ba loại tráng miệng để kết thúc bữa ăn mà bà bếp cứ luôn miệng gọi là một "bữa tiệc làm lóa mắt".

ÐÓ là mứt quả trộn, bánh ngọt chanh tươi phết kem dày, và một món kem mứt sôcôla mà bà Vên rai đã nói là phải xốp bông và thật hoàn hảo.

Emma biết một số món này đã căng hết tài năng của bà bếp, tài năng này thực ra chưa bao giờ được đưa ra thử thách đến như vậy, bản thân Emma cũng buộc phải hết sức vội vàng. CÔ đã làm món xúp và nước chấm cho món cá và những món thịt, chuẩn bị kem mút và cho rượu vào mứt hoa quả, theo sự chỉ dẫn của bà Vên rai từng ly từng tý.

Emma hết sức sung sướng được thoát trong chốc lát.

Giờ phút cuối, mọi sự rối rít, bà bếp quá lo lắng đến độ thô bạo đối với những ngươi hầu gái và cả mẹ của An ni, Emma lại mỉm cừơi. CÔ biết quá rõ bà bếp rất dễ cuống khi nào có một sự thay đối gì đó trong nhà bếp. Không phải chỉ có thế, đây là bữa tiệc lớn đầu tiên mà ông chủ thết trong nhiều năm nay, và làm cho tất cả mọi người xôn xao, vì bà Vên rai. Và bản thân mình, Emma nghĩ bụng, trong lòng cũng hơi tự phụ một chút khi nhớ lại nhũng lời khen của bà Vên rai về đầu óc bình tĩnh của cô sự làm việc có hiệu quả, bàn tay khéo léo của cô khi làm nước chấm và kem mút.

Mặc dù bản thân cô không được nếm qua những món ăn phong phú và phức tạp nhưng Emma thích nấu nướng và bắt đầu cảm thấy như một điều thách thức khi chuẩn bị những bữa ăn lý thú. Từ khi ôlivia tới, những món ăn nói chung đã trở nên phức tạp hơn bình phương đôi chút tại gia đình nhà Feli và gần đây Emma đã giúp việc bếp núc bà Tớcnơ. CÔ cũng học tập ở bà Vên rai rất nhiều, bà đã viết những chỉ dẫn rõ ràng cho mỗi món ăn mới và thường xuống bếp để kiểm tra. Emma đã giữ lại thực đơn cùng những chỉ dẫn và dán chúng vào một cuốn sách bài tập Ở trường cũ của cô. Bản năng của cô đã tự động nói với cô là một ngày nào đó cô sẽ cần dùng tới nó. Bây giờ cô nhắc mình phải ghi lại tên của các loại trà đặc biệt. Lapsang souchong vào sách của cô và tên của những loại rượu mà bà Vên rai nói rất kỹ lưỡng sáng hôm đó và lần đầu tiên trong đời cô được biết vang đỏ bao giờ cũng được phục vụ cùng với món thịt, vang trắng với cá, và xâm banh với đồ ăn tráng miệng. Những tên trên chai thật là buồn cười. '!Tên Pháp" bà Tớcnơ đã bảo với cô với cái nhăn mặt ngạo mạn. Mớcgaroi trợn mắt. "Nhưng đó là thứ ngon nhất, đồ đàn bà dốt nát", lão đã vặc lại. Loại rượu vang cho chính cụ chủ ngày xưa đã để vào đó nhiều năm trước. Quanh đây không thể có một loại nào ngon hơn thế, ngay cả Ở Luân Ðôn nữa, lão nói huênh hoang.

Phải đấy. Mình phải nhớ khéo những tên rượu cẩn thận và hỏi bà Tớcnơ xin thực đơn bữa ăn và công thức chế biến mới được, Emma tự nhủ. CÔ kéo một sợi chỉ đen khỏi cuộn chỉ, liếm đầu chỉ xâu kim rồi bắt đầu viền gấu áo, đầu óc cô vẫn còn để Ở cuốn sách bài tập. Tất cả những gì có thể có giá trị đều ghi Ở đó. CÔ không biết những sự hiểu biết nào cô có thể cần đến Ở Li dơ khi cô đưa phương trình của mình với chữ K hoa vào hoạt động, cô phải hoàn toàn chuẩn bị về mọi mặt. Cuốn sách cũ, rách ghi nhũng món ăn đủ loại, rất nhiều công thức cách khâu vá những bức vẽ áo dài và mũ mà chính Emma đã thiết kế và một số bí mật về nhan sắc của bà Feli.

Bây giờ phải ghi lại tên các loại mũ, Emma nghĩ, cô thấy hài lòng. Emma khâu một cách kiên nhẫn, vừa khâu vừa nghĩ tới những ý tưởng đầy tham vọng của mình thỉnh thoảng lại liếc nhìn lên để quan sát bà Feli. CÔ phải chú ý chặt chẽ tới bà, để biết chắc là bà không bị hồi hộp, lo lắng trước bữa tiệc tối mà còn lâu mới tới.

Các vị khách sẽ đến lúc tám giờ mười lăm và bữa tiệc sẽ được bày đúng tám rưỡi, Mớcgaroi đã nói với cô như vậy cảnh cáo cô bằng cái giọng trưởng giả học làm sang là cô phải ăn mặc sạch sẽ gọn gàng. Cứ làm như cô không biết điều ấy.

Ađelơ Feli bình tĩnh một cách lạ thường khi nàng uống xong trà, cầm tờ báo lên và tiếp tục đọc. Nỗi lo sợ cơn thịnh nộ của Ðam, nếu như đêm nay nàng xuất hiện với tư thế lạ lùng đã làm nàng tự kiềm chế bản năng của mình, ước muốn cho gọi Mớcgaroi và yêu cầu đem rượu lên, cái duy nhất có thể làm dịu nỗi đau của nàng những ngày gần đây. Nàng đã quay ra uống rượu, xem nó như thuốc giảm đau cho những cơn ốm yếu của nàng mới nảy sinh từ năm ngoái và vẫn còn có khả năng chống đỡ khi hoàn cảnh buộc nàng phải làm như vậy.

ấy thế nhưng nàng không hề bị rượu làm cho u mê đần độn hoặc trở thành người nghiện ngập. Buổi chiều hôm ấy, nàng hết sức xua đuổi sự cám dỗ muốn uống bằng cách đi nằm. Phương pháp này tuy hèn nhát, nhưng nó lại giải quyết được vấn dề. Và nữa, Ađelơ không nhận ra là mình đã mệt mỏi như thế nào, nàng lập tức chìm trong giấc ngủ mê man và tê điếng. Khi tỉnh dậy, nàng thấy mình khỏe hơn và điều quan trọng hơn, cũng thật là đáng ngạc nhiên đối với nàng, là thấy đỡ lo âu hơn.

Nàng tập trung vào tờ báo, lại một mẹo nữa để làm cho đầu óc nàng bận rộn và ngăn nàng không nghĩ tới uống rượu, hoặc tới cái buổi tối lù lù một cách đầy hăm dọa Ở phía trước. Nàng giở sang trang và liếc nhìn mục thông tin. Triều đình đưa tin từ lâu dài Bơckin Ham.

Trong khi liếc nhìn cột báo với những dòng chữ in đen gọn ghẽ, nàng biết là các đại sứ Nga và Pháp được nhà vua tiếp hôm qua: hầu tước Lânđânđeri đã hội kiến với đức vua, sau cuộc họp: Hoàng hậu và công chúa Víctoria đã đi thăm một cuộc triển lãm tranh. Chán ngán, nàng giở qua trang cuối. Mắt nàng bắt gặp dòng chữ thị trường Brátfoóc. Nàng giở qua vội vàng. ÐÓ là tất cả những cái nàng cần: len sợi. Nàng đã biết nó đủ để kéo suốt cả cuộc đời nàng. Khi mắt nàng chiếu lên cái quảng cáo nrợu của Công ty Giônximit và Tétcaxtơ, Ađelơ quằn quại nghĩ tới uytxki và miệng nàng chợt khô đi. Nàng liếm môi, mắt nàng hồi hộp liếc qua trang khác. Nàng gấp đôi tờ báo và bắt đầu trầy trật đọc một cái truyện dài về cuộc đi săn của ngài Fituyliam Ở Ciptân gần đoneaxtơ. Nàng tập trung tất cả sự chú ý của mình vào đó cố gắng ngăn chặn hình ảnh dai dẳng của chiếc ly đựng chất lỏng màu hổ phách trôi nổi bồng bềnh trước mắt và đọng lại đầy cám dỗ Ở giữa trang báo. ***.

Tiếng bó ngựa, tiếng ngựa hí, tiếng người xôn xao nổi trôi Ở bên ngoài phá tan cái tâm trạng nhẹ nhàng và cái yên tĩnh của phòng ngủ. "Cái gì mà ồn ào khủng khiếp thế nhỉ? Tất cả những tiếng hò hét ấy?" 'Ađelơ kêu lên, đôi mắt nàng lóe lên kinh ngạc, khi những tiếng nói bên ngoài ngày một trở nên to hơn và giận dữ hơn.

Emma lắc đầu, cô cũng ngạc nhiên không kém. CÔ dể chiếc áo đang sửa dở và chạy lại cửa sổ. CÔ vén rèm nhìn xuống sân bên dưới.

- ',Dạ thưa, đó là các cậu, cô nói lặng lẽ, cắn môi, rồi quay lại nhìn bà Feh. "Ðó là cậu Giêron. Cậu ấy đang quát mắng cậu étwin ghê quá", Emma do dự hầu như sợ không dám nói tiếp. Ađelơ nhìn cô chờ đợi. Emma quết nước bọt. "Thưa bà Feli, cháu nghĩ cậu ấy đang khóc, tội nghiệp cho cậu étwin?".

- ',étwin", Ađelơ rít lên, nàng đẩy chiếc khay sang bên mạnh đến nỗi Emma nghĩ là tai nạn sẽ xảy ra. Ađelơ nhảy ra khỏi giường chạy băng qua phòng như một Vankiri(l) tóc nàng xõa xuống lưng. Nàng lao đi với một tốc độ chưa tùng thấy, Emma phải vội tránh sang một bên khi Ađelơ tới bên cửa sổ, giật mạnh tấm rèm sang một bên và nhìn ra. Cảnh tượng diễn ra Ở phía dưới làm cổ họng Ađelơ thắt lại và mặt nàng tái đi khủng khiếp.

Hai cậu bé vẫn còn đang trên mình ngựa, sau chuyến đi dạo. Giêron đang quát mắng étwin, cái mặt bự thịt của cậu ta sưng lên và đỏ vì tức giận, étwin mặc dù đẫm nước mắt, nhung vẫn dũng cảm cố gắng bảo vệ mình khỏi sự tấn công bằng miệng này. Ađelơ mở tung cánh cửa ra, sắp sửa can thiệp. Ðúng lúc này, Giêron thúc ngựa lại gần étwin. Ađelơ co dúm người lại, không dám thở nữa. Nàng nhìn Giêron cố ý đá chân đi ủng của mình vào xuống sườn phía dưới của con Rấtxết Ðon, con ngựa giống màu hạt dẻ của étwin. Khi chiếc ủng đá trúng, con ngựa giật mình nhảy dựng hai chân trước lên, kinh hoảng, sợ hãi, lỗ mũi phun phì phì, nó lao lên phía trước mãnh liệt .Nếu không phải là một tay ky mã cừ khôi như cha thì étwin đã bị quăng xuống mặt đường rồi. Cậu giữ vững đầu, ngồi chắc và với tài đi ngựa phi thường, cậu đã điều khiển được con Rấtxết Ðon.

Ađelơ quá kinh hoàng, quá ghê tởm, quá tức giận vì cái hành động tàn ác này, toàn thân nàng run lên và trong một giây lát, cổ họng nàng thắt lại. Từ lâu Ađelơ đã tự thú nhận là bà sợ Giêron. Nhưng giờ đây nỗi căm giận kinh khủng và sự lo lắng của nàng cho étwin đã giúp nàng vượt qua nỗi sợ cố hữu, nỗi sợ làm tê liệt.

Cả sân đột nhiên yên ắng như chết. Giêron thực sự là đang nhăn nhở. étwin đang lấy mu bàn tay lau đôi má ngấn nước mắt. Ađelơ nắm lấy cơ hội này. Nàng nghiêng người ra ngoài cửa sổ thét lên bằng một giọng nghiêm khắc khác thường. "Sự lộn xộn này là nghĩa làm sao. Giêron? Tại sao lại có sự cãi lộn khủng khiếp này!

con đang hành động một cách bỉ ổi nhất, ta không thể nào tha thứ được".

Giêron nhìn lên, nheo mắt, kinh ngạc vì sự xuất hiện không chờ đón trước của mẹ Ở cửa sổ và cũng bởi sự nghiêm khắc trong giọng nói của bà. Giêron vẫn khinh miệt mẹ từ lúc cậu ta còn nhỏ. Cậu ta nghĩ là bà ngu ngốc hão huyền, cậu ta chế giễu mẹ sau lưng.

Lúc này cậu ta bồn chồn trên lưng ngựa và hắng giọng. "Không có gì quan trọng đâu mẹ ạ; Cậu con quý tử của mẹ hoàn toàn có khả năng tự chăm sóc lấy mình, mặc dù nó là một thằng bé con lớn xác, do sự nuông chiều của mẹ". Cậu ta nói với một sự ngạo nghễ thô bỉ.

"Mẹ đi ngủ đi. Chúng con không muốn mẹ can thiệp vào chuyện của chúng con, như một giám định viên, vì việc này".

- "Tại sao mày dám nói với tao một cách hỗn hào như vậy", Ađelơ thốt lên với tất cả sự lạnh lùng, bà choáng váng vì sự láo xược của Giêrôn. "Tao muốn có một sự giải thích về chuyện này, nếu không mày sẽ phải trả lời ba. Hãy vào thư viện ngay. Và hãy tháo cái đôi ủng bẩn thỉu của mày ra trước khi làm như vậy".

Giêron quá ư bàng hoàng trước sự thay đổi bất thường trong thái độ của mẹ, bình thường là nhu mì không biểu lộ gì rõ rệt, cậu ta há hốc mồm nhìn bà, sự cãi cọ cố hữu của cậu ta không bật ra được. étwin không ngạc nhiên chút nào, nhưng cậu lo thay cho mẹ, một thoáng lo âu hiện trên nét mặt nhạy cảm của cậu.

',Nhưng chẳng có". - Giêron bắt đầu.

- "Ngay lập tức, tao bảo rồi Ađelơ quát, đập mạnh cánh cửa sổ trước mặt cậu ta, một nét dữ dội hằn trên khóe miệng nàng. Thế rồi nàng bắt đầu run rẩy, gần như là co quắp, mặc dù đó là do tức giận hơn là vì những xúc cảm khác. Nàng bíu lấy tấm rèm bằng lụa xanh để đứng vững.

Emma tiến lại gần hơn và nắm lấy cánh tay nàng.

"ồ, thưa bà Feli, xin bà đừng xúc động như vậy. Xin bà.

Bà hãy nhớ bữa tiệc tối nay. Bà phải giữ bình tĩnh cho buổi tối nay. Bà đùng để ý đến cậu Giêron cả, thưa bà.

Bà biết thanh niên là như thế mà, luôn luôn cãi nhau vặt".

Thực tế thì quả là mình biết thanh niên là thế nào, đặc biệt là cái con quỷ nhỏ bỉ ổi đó, Ađelơ nghĩ, nhưng nàng nói, hơi run rẩy: "Ðúng thế, Emma, chừng mực nào đó cháu nói đúng. Nhưng thỉnh thoảng trẻ con cũng phải quở mắng khi chúng xử sự sai trái và dạy chúng sự khác nhau giữa phải, quấy. Nào, chiếc áo choàng của ta đâu nhỉ?".

- ,,Ðây thưa bà", Emma nói, cô cầm chiếc áo dài nhung đỏ đính xa tanh hồng để phù hợp với chiếc áo ngủ vắt ngang Ở ghế trước bàn trang điểm. "Và đây là dép của bà ạ", cô nói tiếp, với đôi dép đế mỏng nhung tím trang trí bằng lông chim ưng biển màu hồng. CÔ đưa chúng cho Ađelơ.

- ,Cám ơn cháu. ông chủ đâu?", Ađelơ vừa hỏi, vừa vội vã mặc chiếc áo khoác và thọc chân vào dép.

- "Thưa, ông chủ đi Li dơ ạ. Và cháu biết đến sáu giờ tối ông mới về. Cháu nghe ông nói với Mớcgaroi thế ạ " Emma nói.

- . Thế à. Bà Vên rai đâu? CÓ lẽ cháu đi tìm bà ấy.

Emma, và bảo bà ấy vào thư viện với tôi", Ađelơ nói.

- ,!Thưa bà, bà ấy cũng không có Ở đây ạ. Bà ấy đi vào làng gặp cha Mác tin về vấn đề gì đó có liên quan tới nhà thờ", Emma giải thích, cô tự hỏi không hiểu bà Feli sẽ giải quyết thế nào với một mình Giêron. Cậu ta có thể là một con quỷ khi cậu ta muốn và là một gã ti tiện. CÔ biết điều ấy quá rõ.

Ađelơ thở dài nặng nề và nhìn emma nhưng không bình luận gì, đôi mắt ánh bạc của nàng đầy tư lự. Nàng kiên quyết đẩy nỗi kinh sợ bắt đầu xâm chiếm sang bên.

Lần đầu tiên trong đời nàng phải đương đầu với tình thế khó chịu một mình. Trước đây, bà đã quyết tâm khẳng định mình trong ngôi nhà này và bây giờ rõ ràng là dịp ấy đã đến. Dù cho có khó khăn đến mấy, nàng phải đương đầu với nó bằng mọi giá. Cái thằng quỷ nhỏ đáng khinh bỉ sẽ không thoát một cách dễ dàng như nó tưởng, nàng quyết định như vậy Nàng thở một vài hơi thật sâu, rồi soi mình trong gương Vơnidơ trên bàn trang điểm. Nàng quấn tóc thành búi, cài bằng nhiều chiếc lược đồi mồi.

Thỏa mãn với diện mạo của mình, nàng uỡn ngực rồi bước ngang qua phòng một cách tự tin, lạnh lùng trong tư thế.

Nhung nàng do dự Ở cửa, nhìn trở lại Emma đang đứng câm lặng, cô kinh ngạc vì biểu hiện sức mạnh bất bình thường này.

- ,'Có lẽ cháu nên đi cùng tôi vào thư viện, Emma", Ađelơ nói khẽ. Mặc dù tim nàng đang đập dồn dập, và nàng cảm thấy thể xác rất yếu, cái quyết tâm sắt thép của nàng đương đầu với Giêron là không thay đổi. Tuy nhiên nàng tin rằng sự hiện diện của Emma sẽ nâng đỡ lòng dũng cảm của nàng hơn lên.

- ',Vâng, thưa bà Feli, tất nhiên cháu sẽ tới cùng bà", Emma nói: cô thấy nhẹ hẳn người vì được yêu cầu. Nếu như có chuyện gì rắc rối cô có thể chạy đi tìm Mớcgaroi lão ta có thể là một bạo chúa Ở trong bếp, nhưng lão ta trung thành với bà Feli. . . . .

Hai người cùng đi dọc hành lang dài và mờ tối, chậm chạp xuống những bậc thang thứ nhất của cầu thang lớn trải thảm đỏ. Adele vịn vào tay cầu thang bằng gỗ sồi nhẵn bóng để trấn tĩnh, còn Emma thì đỡ lấy khuỷu tay bên kia. Khi họ tới đầu cầu thang nơi hai loại cầu thang trái và phải đồng quy để nối vào cầu thang chính, Adele dừng lại để lấy hơi nàng bám chặt lấy trụ giữa chạm trổ tinh vi.

Một cửa sổ lắp kính khổng lồ phía trên đầu cầu thang rực rỡ màu sắc, ném ra những tia sáng dữ dội, hắt lên những bức tường trắng, ùa vào căn phòng lớn thăm thẳm ở phía dưới. Emma liếc nhìn xuống bất giác rùng mình. Căn phòng hoang vắng khủng khiếp thậm chí kinh hoàng, ánh sáng ma quái, làm những đồ đạc mang hình thù kỳ dị. Một lần nữa, nỗi kinh hoàng lại chảy qua đường gân thớ thịt của cô và vẫn như bao giờ, cô muốn chạy trốn khỏi cái căn nhà ngột ngạt đầy những bí mật và sự hung bạo tàng ẩn này.

Đừng ngu ngốc nữa, cô tự nhủ mình một cách kiên quyết, nhưng cô nắm chặt lấy cánh tay bà Fairley vừa để dìm nỗi sợ hãi của mình vừa để nâng đõ Adele.

Cuối cùng khi họ tới căn phòng lớn, Adele nhìn quanh thật nhanh rồi nàng cũng rùng mình, khép chặt tà áo quanh người. Hình như nàng đã vọng lại những tình cảm của Emma khi nàng nói: “Ở trong này tối tăm và lạnh lùng quá, Emma ạ. Làm ơn vặn đèn lên”.

Emma đã làm như vậy rồi vội vã theo sát gót Adele đương oai vệ vào thư viện, lưng thẳng, đầu ngẩng cao trên đôi vai kiêu hãnh, mặt nàng không một xúc động, như đá trắng. Murgatroyd đang mải miết đánh những chiếc ly pha lê trên chiếc tủ bằng gỗ.

Lão vội đứng thẳng người, nhìn bà Fairley, đôi chút kinh hoàng, bà vốn rất hãn hữu xuất hiện dưới gác, nếu không phải là lần đầu tiên. “Dạ thưa bà, thấy bà khỏe mạnh như vậy thật là một điều sung sướng. Bà có sai bảo gì không ạ, thưa bà Fairley?” lão hỏi một cách cung kính. “Không, cám ơn ông, Murgatroyd”, Adele nói, nàng cố gắng mỉm cười. “Thưa bà Fairley, không có chuyện gì chứ ạ?” Lão hỏi và nhìn nàng kỹ lưỡng.

Adele vừa bước ngang qua phòng cùng Emma vừa nói nhanh. “Không, tất nhiên là không, Murgatroyd ạ. Tôi muốn nói chuyện với lũ trẻ một chuyện; chỉ có thế thôi. Nhưng cám ơn ông đã qua tâm”.

- “Thưa bà, không có gì ạ”, Murgatroyd nói. Sự tò mò của lão tăng lên, lão quản gia cứ loanh quanh bên Adele, nàng từ chối chiếc ghế lão mời và đứng trước lò sưởi.

Emma lùi lại phía sau, mặt cô quyết liệt, mắt cảnh giác.

Adele quay về phía lão. “Nếu tôi cần gì tôi sẽ có chuông gọi ông, Murgatroyd”, nàng nói, cho lão đi bằng cái gật đầu khẽ.

- “Dạ thưa bà vâng”, lão quản gia nói, cúi chào lễ phép. Lão nhặt vải vóc của lão lên và đi lùi ra khỏi phòng. Khi lão rút lui, lão ném một cái nhìn gườm gườm vào Emma. Cái kiểu mà đứa con gái này quẩn quanh bà chủ và bà Wainwright thật là khó chịu, lão lẩm bẩm ghen tị.

Adele vẫn đứng, một tay nắm lấy mép lò sưởi, tay kia đút vào túi áo dài, nắm chặt đến nỗi ngón tay đâm vào lòng bàn tay. Bản năng của nàng là chạy lên gác rút lui vào sau những cánh cửa khóa chặt. Chỉ có mối lo âu cho Edwin mới làm nàng đứng vững vàng tại chỗ và chuẩn bị đối đầu với Gerald, người mà nàng biết là độc ác.

Cửa mở, Gerald bước vào, theo sát là Edwin, cậu đứng gần bàn làm việc của cha. Mặt cậu là một bức tranh đau buồn và cậu run rẩy.

Gerald đi chậm chạp quanh phòng, cái thân hình phục phịch của cậu ta căng chếic áo vét và quần đi ngựa chật ních của cậu, cái anh chàng Gerald láu cá vừa mới nghĩ là đương đầu với mẹ cậu thí vị hơn với bố cậu nhiều. Theo quan niệm của cậu ta thì cái người đàn bà hão huyền và vô công rồi nghề này có thể dễ dàng thao túng. Cậu ta biết không thể như vậy với cha cậu.

Cái đồ đàn bà ngu ngốc, cậu ta nghĩ và mỉm cười với Adele một cách âu yếm. Cậu ta đứng sững lại ngay trước mặt mẹ. Cậu ta lấy vẻ mặt dịu dàng và nói một cách vui vẻ, xa lạ với bản chất của mình: “Thưa mẹ, xin mẹ tha lỗi cho con đã vô lễ với mẹ. Nó thật không sao có thể tha thứ nổi, con biết. Nhưng con e là, chúng con có hơi bị kích động đôi chút. Tuy nhiên, con không có ý định hỗn láo hoặc làm phương hại tới mẹ. Con mong mẹ tha thứ cho con, mẹ thân yêu nhất của con”.

Đã chuẩn bị chờ đợi những lời lẽ tức giận và thóa mạ hoặc ít nhất cũng là sự hỗn láo, nên Adele có bàng hoàng trong giây lát. Một chút nhẹ nhõm tràn qua và nàng định buông lỏng gân cốt. Nàng kìm lại được theo bản năng. Mặc dù Gerald đánh giá thấp mẹ, nhưng nàng có tầm nhìn bên trong sâu sắc hơn cậu ta tưởng, nàng biết nó là thế nào và nàng không tin nó. Nàng cũng nhận ra rằng, như tất cả những kẻ đi bắt nạt người khác, nó là một thằng hèn nhát.

Nàng ngồi yên như tờ, không nhúc nhích. Và nàng không khoan nhượng. Nàng biết nếu nàng chùn bước thì không những nàng sẽ mất mặt mà Edwin sẽ còn bị khốn khổ trong bàn tay Gerald.

- “Con quả là hành động một cách cục cằn thô bạo nhất Gerald ạ”, Adele nói, “Lần này mẹ cho qua, nhưng lần sau mẹ mong con cư xử lễ độ và đàn ông hơn”. Giọng nàng vững vàng. Nàng nhìn thẳng vào mặt cậu ta không nao núng và nói tiếp: “Con sẽ phải giải thích về cái hành động bỉ ổi của ocn ở ngoài sân. Mẹ muốn biết tại sao con – Adele ngừng lại và liếc nhìn cậu con trai một cách lạnh lùng – Tại sao con lại đối xử với Edwin một cách không thể nào nói nổi như vậy. Mẹ nghĩ cái cách con cứ liên tục gây chuyện với Edwin thật là đáng quở trách. Nó là em trai của con. Mẹ sẽ không cho phép điều này tiếp diễn, Gerald”.

Gerald cựa quậy một cách thiếu bình tĩnh, cậu ta bắt đầu nhận ra rằng tình hình diễn biến khôngg đơn giản như cậu ta tưởng. Tuy nhiên, cậu ta ngạc nhiên bối rối trước sự kiềm chế của mẹ. Giờ đây, hiểu rằng chỉ một lời xin lỗi không thôi là không đủ, như cậu ta đã tưởng tượng một cách sai lầm, cậu ta hít một hơi dài và bắt đầu giải thích bằng một giọng dàn hòa. “Dạ chuyện thưc sự là không có gì, mẹ thân yêu nhất. Xin mẹ haỹ tin cho, đó là sự thật tuyệt đối. Không may là con lạii là – lại – mất bình tĩnh”. Cậu ta ngừng lại, nở nụ cười âu yếm vờ vịt. “Chúng con phi ngựa trên đầm lầy, như mẹ biết đó. Trên đường về, chúng con bắt gặp một con chó có lẽ là của làng bị kẹt trong những chiếc bẫy cha đã cài để săn thỏ và những vật khác. Edwin trở nên bồn chồn, quá bồn chồn về điều này, con có thể nói như vậy và thực sự là muốn thả con chó ra. Con không để em nó làm việc đó. Chúng con tranh luận nhau về điều đó, mẹ ạ, chủ yếu là bởi vì con không muốn Edwin bị thương tích. Những chiếc bẫy đó cực kỳ nguy hiểm, mẹ ạ. Con thuyết phục Edwin cứ phi ngựa tiếp, vì một lý do gì đó, mà con hoàn toàn không hiểu, khi về tới nhà em nó càng sướt mướt hơn. Tất cả chỉ có thế thôi, mẹ thân yêu nhất”.

Ra thế, Adele nói một cách tư lự. Nàng nhìn xoáy vào Gerald, cậu ta hơi chùn người lại dưới sự quan sát căng thẳng, nhưng vẫn nói khá ngọt ngào: “Con đã kể cho mẹ nghe toàn bộ sự thật, mẹ ạ. Mẹ hỏi Edwin mà xem”.

- “Ồ, mẹ cũng hoàn toàn có ý định đó”, Adele nói một cách quyết liệt. Đôi chân nàng đã nhũn ra, và mạch máu trên thái dương nàng đã bắt đầu đập thình thình. Nàng ép mình phải nói tiếp, nàng quay lại nhìn Edwin. Mẹ muốn nghe con nói về cái – cái chuyện ghê tởm này, Edwin”.

- “Thưa mẹ, vâng, Edwin nói và đến gần mẹ bên lò sưởi, mặt cậu vẫn còn trắng bệch, sự hốt hoảng của cậu rõ rệt, mặc dù điều đó là do sự khiếp đảm của cậu đối với sức khỏe của mẹ cậu hơn là sợ hãi người anh trai. Mặc dù bản chất nhạy cảm của mình, Edwin vẫn có thể chọi lại anh cậu hầu hết mọi lúc.

Cậu che miệng ho rồi nói nhẹ nhàng: “Gerald nói với mẹ sự thật đấy ạ. Ít nhất thì cũng là hầu hết sự thật. Anh ấy chỉ bỏ mất một việc là con chó vẫn còn sống và quằn quại trong nỗi đau ghê gớm. Khi Gerald không để cho con cố gắng giải thoát cho nó, con đã đề nghị cho một người giữ ngựa đến để gỡ cho nó ra. Hoặc là nếu như không thể được thì bắn nó đi, chấm dứt cho nó nỗi đau đớn. Đối với con thì đó hình như là một điều ơn huệ duy nhất có thể làm”. Edwin dừng lại nhìn kết tội Gerald cậu này lập tức quay đi.

Giọng của Edwin cất cao giận dữ. “Nhưng anh ấy cười nhạo con. Thực sự là cười lớn nói rằng con là đồ trẻ con và tâm thần. Gerald còn nói rằng làm như vậy phí thời giờ và phí cả viên đạn nữa. Chính vì thế mà con mới tức giận như vậy” – Cậu đưa tay lên vuốt mớ tóc một cách bồn chồn. “Chính sự tàn nhẫn của anh ấy làm con điên lên. Và đến khi con nói con sẽ kể cho ba về chuyện con chó thì Gerald trở nên hết sức lăng nhục”.

Adele nuốt nước bọt, cố gắng nén sự nôn nao đang cuộn dâng: “Con thật là đáng ghê tởm. Để một con vật khốn khổ tội nghiệp đau khổ như thế mà không cứu lấy nó. Sao, con thật là không bằng” – Cái nhìn cuồng nộ của nàng xoáy vào Gerald, cậu ta không nhúc nhích chỉ nhìn lại con mắt buộc tội của mẹ đăm đăm.

- “Xin mẹ đừng tự giày vò như thế, chỉ thêm làm mẹ ốn thôi”, Gerald nói một cách dịu dàng che giấu sự lừa lọc của cậu ta. “Con chó đó đã gẫy cả chân sau rồi. Có lẽ bây giờ nó dã chết”. Cậu ta nhún vai. Gerald biết cậu ta phải giải quyết cho xong vấn đề này trước khi cha cậu từ Leeds về, nếu không thì mọi chuyện sẽ loạn xà ngầu cả lên. Vì vậy cậu ta nói, lại với sự dịu dàng giả dối. “Mẹ muốn con làm gì để chuộc lỗi, thưa mẹ? Con không muốn thấy mẹ ở trong tình trạng rối loạn như thế này”.

Adele nhìn thẳng qua cái con người Gerald phục phịch, nét mặt nàng bí hiểm. “Mẹ muốn con đem ngay người coi ngựa đến đây, ngay lập tức, Gerald”, Adele nói.

Gerald chớp mắt, quai hàm cậu ta trễ ra một cách đần độn. “Mẹ định nói mang anh ta, đến đây, vào nhà này. Vào trong thư viện của ba?”, cậu ta nói, lẩn tránh ý nghĩ đó.

- “Đúng Gerald, vào trong nhà này. Chắc chắn mẹ không có ý định đi đến chuồng ngựa rồi”.

- “Nhưng, thưa mẹ, có lẽ…”.

- “Đừng tranh luận, Gerald”.

- “Vâng thưa mẹ, như mẹ muốn, cậu ta nói một cách miễn cưỡng.

Mắt Adele tìm Emma, cô đang đứng trong một góc tối, mặt cô cũng xám ngắt và xao xuyến như mặt Edwin. “Emma, cháu làm ơn chạy xuống bếp lấy cho tôi một ly nước. Cái câu chuyện khủng khiếp làm tôi thấy nôn nao quá”.

- “Thưa bà, vâng ạ”, Emma nói, nhún đầu gối cúi chào.

- “Còn con, Edwin”. Adele tiếp tục, “lấy hộ cho mẹ ống muối ngửi ở phòng ngủ của mẹ. Nó ở trên bàn trang điểm ấy, con ạ”. Edwin gật đầu, lướt ra sau Emma.

Adele lúc này tập trung con mắt bốc lửa và tất cả sự chú ý của mình vào cậu con cả. Cậu ta đang nhích về phía cửa. “Gerald, trước khi con đi gọi người coi ngựa, mẹ muốn nói chuyện với con”. Giọng nói của Adele dịu dàng và nàng mỉm cười rạng rỡ.

Gerald bối rối vì sự thay đổi cơ bản. "Về việc gì?", cậu ta nói thô lỗ.

- "Một việc có tính chất quan trọng. Quay lại đây, Gerald", Adele gọi.

Gerald miễn cưỡng bước lên, cậu ta đã nhận ra quá muộn là giọng của mẹ cậu không dịu dàng chút nào. Nó là chất acid và nụ cười ấy là nụ cười nguy hiểm. Cậu ta do dự, nao núng và dừng lại.

Adele đột ngột bước nhanh lên và trong một cử động như ánh chớp, chộp lấy cổ tay cậu bé. Họ chỉ đứng cách nhau vài bước, Adele giơ bàn tay kia lên, tát vào mặt cậu ta một cách tàn bạo.

Gerald lùi lại, cố gắng thoát ra. Adele nắm lấy cậu ta như một gọng kìm mạnh mẽ không thể tưởng tượng nổi. Nàng nghiêng người về phía trước, nhìn sâu vào mặt cậu ta đầy căm ghét: "Nếu tao thấy mày làm nguy hại đến tính mạng của Edwin một lần nữa, hoặc nghe thấy mày làm như vậy, tao sẽ không chịu trách nhiệm đối với những hậu quả đâu đấy nhé".

Cái lưỡi dễ uốn của Gerald đã định chối, nhưng khi cậu ta nhìn thấy ánh lửa trong mắt của mẹ liền đổi ý. Lần đầu tiên trong đời cậu sợ hãi trước người đàn bà mà trong cơn giận dữ ngút ngàn trông đẹp hơn bao giờ hết, và cũng thật là đáng sợ.

- "Tao thấy mày đá con Russet Dawn", Adele vẫn tiếp tục rít lên cay độc. "Mà đá vào sườn nó. Mày cũng thừa biết như tao là khi một con ngựa đua giỏi bị đánh bất thình lình và đánh mạnh như vậy thì chắc chắn phải nhảy dựng lên. Tất nhiên, chính vì vậy mà mày đã làm điều đó! Edwin rất dễ dàng bị giết chết. Mày biết người ta làm gì đối với những tên giết người ở nước Anh này không, Gerald? Người ta treo cổ chúng lên cho đến chết. Tao có cần phải nói thêm nữa không? Mày có hiểu tao không?"

Gerald tái mét không còn hột máu. Những ngón tay dài của mẹ cậu ta nắm chặt vào da thịt cậu, những vết lằn đỏ xuất hiện trên bộ mặt híp của cậu. "Vâng, con hiểu, mẹ", cậu lẩm bẩm. "Tốt. May mắn cho mày là tao đã quyết định không để lộ chuyện này với ba mày. Nhưng tao cảnh cáo mày, tao sẽ làm như vậy nếu từ nay về sau một chuyện tương tự như vậy còn xảy ra nữa", Adele nhìn Gerald chằm chằm một hồi lâu rồi nới lỏng nắm tay, hất mạnh bàn tay của con trai như thể nó bị nhiễm trùng. "Bước cho khuất mắt tao! Ngay lập tức! Trước khi tao đánh mày một lần nữa!" nàng rít lên. Gerald chạy vụt đi.

Cửa đóng sầm, Adele lấy tay bưng miệng, nàng run rẩy. Đây là lần đầu tiên nàng đánh con của mình, hoặc bất cứ một người nào, sự hung bạo của nàng khiến nàng kinh hoàng. Adele ngả người vào sofa và nhắm mắt lại. Một lát sau, nàng nghe thấy tiếng Emma.

- "Thưa, bà bị choáng đôi chút, phải không ạ? Dạ nước đây". Mở mắt ra, Adele thấy Emma và Edwin đứng trước mặt. Nàng uống cốc nước một cách biết ơn và đưa lại chiếc cốc không cho Emma. "Cám ơn". Edwin quỳ xuống dưới chân mẹ, đưa qua đưa lại ống muối ngửi dưới mũi bà nhiều lần. Adele nhăn mặt và lùi lại: "Cám ơn con. Thế đủ rồi. Mẹ đã khỏi hẳn rồi".

Mặc dù sự cam đoan này, Edwin tiếp tục cau mặt một cách lo ngại: "Mẹ có chắc không? Trông mẹ xanh ghê lắm".

- "Chắc, Edwin ạ!" Adele mỉm cười và vỗ nhẹ đầu con. "Con là đứa con ngoan". Nàng liếc nhìn Emma. "Nhưng cho tôi xin một cốc nước nữa".

- "Thưa bà, vâng. Cháu đã mang một bình lên ạ". Emma chạy ra chiếc bàn gỗ sồi nơi cô để nước và rót một cốt thứ hai.

- "Có lẽ mẹ nên uống chút rượu. Nó có thể làm mẹ khỏe lên đôi chút".

- "Không!" Adele kêu lên.Lời nói được thốt ra dữ dội đến nỗi Edwin lùi lại. Cậu hình như bị tổn thương và nói: "Con xin lỗi mẹ. Con cứ nghĩ nó làm cho mẹ khỏe lên!"

- "Mẹ biết, con ạ, và vào bất cứ lúc nào khác, mẹ sẽ uống một ly nhỏ, tất nhiên, chỉ vì mục đích chữa bệnh. Nhưng mẹ phải giữ cho đầu óc minh mẫn cho bữa tiệc tối nay, Edwin ạ. Nó sẽ là một buổi tối dài và sẽ có nhiều loại rượu khác nhau được dọn. Mẹ không muốn bắt đầu uống quá sớm". Sự thật thì, Adele cần uống kinh khủng, nhưng nàng chống lại ham muốn đó. Nàng nhìn con âu yếm: "Mẹ không có ý nói gay gắt như vậy. Tha lỗi cho mẹ, con nhé".

- "Có gì đâu phải tha lỗi ạ", Edwin nói và nhìn lại mẹ. "Con biết điều này làm mẹ mệt mỏi nhiều. Con xin lỗi mẹ để mẹ phải bận tâm".

Cánh cửa mở ra đón Gerald, theo sau là người coi ngựa. "Trên đường từ chuồng ngựa tới đây, con đã thừa dịp giải thích về con chó tội nghiệp bị sa bẫy và mối quan tâm của mẹ đối với vấn đề đó, mẹ thân yêu nhất". Gerald nói với một thoáng mai mỉa, vẻ nghênh ngáo của cậu ta đã hoàn toàn trở lại.

Adele đứng lên, nhìn cả hai với vẻ lạnh lùng. "Ừ, nàng đưa mắt nhìn người coi ngựa, tôi cho rằng anh biết cách sử dụng những cái bẫy đó và có thể gỡ con chó ra một cách dễ dàng. Tôi muốn anh đi làm việc đó ngay".

- "À, à, cháu không biết chuyện đó", anh ta lẩm bẩm. "Ông chủ không nghĩ nhiều tới chuyện đó ạ, phụ nữ thích dính vào những chuyện của đàn ông. Xin bà nhớ cho là cháu đã nói với ông những cái bẫy đó nguy hiểm lắm ạ. Cháu đã nói với ông chủ sẽ có chuyện không hay xảy ra mà. Một thứ đồ chơi mới lạ, những cái bẫy là như vậy đó".

- "Đúng thế. Nhưng vì rõ ràng ở đây anh là người duy nhất có thể điều khiển được chúng, vậy hãy đi làm như tôi nói. Tôi sẽ chịu hoàn toàn trách nhiệm với ông chủ", Adele nói. "Chúng ta không biết chắc là con chó đã chết chưa. Có thể, nó vẫn còn sống và đang đau đớn. Hãy đi làm việc đó ngay lập tức. Nếu nó chết thì hãy chôn nó. Nếu như nó còn sống và còn có thể sống được thì mang nó về đây, chăm sóc nó. Nếu như con vật tội nghiệp ấy đã tuyệt mọi hy vọng, hãy bắn nó và chôn nó ngoài đầm lầy".

Nàng trợn mắt nhìn anh ta còn ngập ngừng trên ngưỡng cửa. "Còn đợi gì nữa? Đi ngay lập tức! Cậu chủ Gerald sẽ đi cùng với anh, để khi về cậu ấy có thể báo cáo với ta", bà dằn giọng, thần kinh căng thẳng.

- "Nhưng, mẹ ạ!" Gerald nói một cách bướng bỉnh. "Không có lý do gì để con phải đi. Anh ta hoàn toàn có đủ khả năng giải quyết vấn đề này một mình".

- "Đừng cãi! Làm như ta bảo", Adele ra lệnh.

Nhìn thấy vẻ sắt đá trong con mắt của mẹ, Gerald nhún vai, nói: "Nào thì đi vậy". Họ cùng ra đi. Gerald hết sức phẫn nộ.

Adele ngồi xuống và nhìn chằm chằm ngọn lửa, mặc dù nàng lãng quên một cách kỳ lạ những nỗi đau của con người, trái ngược thay, ý nghĩ về một con vật bị thương và đau đớn luôn luôn làm nàng xúc động.

Emma mang nước đến cho nàng. "Họ sẽ làm như bà bảo", cô nói. "Xin bà đừng ngại, thưa bà Fairley".

- "Con đưa mẹ lên gác nhé", Edwin gợi ý, "Mẹ nên nghỉ một chút, trước khi chuẩn bị cho bữa tiệc buổi tối".

- "Ừ, Edwin, ý kiến của con rất hay", Adele nói đầy lòng biết ơn. Nàng đã kiệt lực. Đương đầu với Gerald đã làm tiêu hao hết nghị lực của nàng. Buổi tối sắp tới sẽ là một sự gắng sức nữa, và nàng muốn thu tàn lực để sẵn sàng đối phó với nó. Lúc này đây, nàng ao ước biết bao được lui về chiếc giường đầy thoải mái với một chai rượu và quên mình trong thế giới bên trong của nàng, nàng đứng vụt dậy. Edwin đỡ lấy cánh tay nàng, đưa mẹ ra khỏi thư viện.

Họ chậm chạp bước lên cầu thang, Emma nhẫn nại theo sau. Khi Edwin đỡ mẹ vào phòng ngủ với tất cả sự dịu dàng, Emma làm Edwin chú ý và ra hiệu cho cậu theo cô. Cậu xin lỗi mẹ và vội vã đi theo Emma. Cô đang đợi ở phòng khách.

- "Cái gì thế, Emma?" Cậu hỏi, nghi ngại vì nhận ra vẻ lo âu trên mặt cô. "Cậu Edwin, xin cậu đừng để bà một mình", Emma dặn khe khẽ. "Cậu có thể ở lại một chút, đọc cho bà nghe hoặc trò chuyện với bà cho đến khi tôi thay đồng phục của tôi và trở lại giúp bà chuẩn bị được không?"

- "Sao, tất nhiên là tôi có thể làm được, Emma. Nhưng không biết để cho mẹ tôi ngủ một chút có phải là tốt hơn không?", cậu hỏi. "Tại sao không để mẹ tôi một mình?"

- "Bởi vì bà xúc động vì chuyện vừa rồi và hết sức hồi hộp vì bữa tiệc đêm nay. Vả lại tôi biết bà không ngủ đâu vì trưa nay bà đã ngủ nhiều rồi. Cậu cứ ngồi trò chuyện với bà. Giúp bà không nghĩ tới bữa tiệc tối. Chỉ một lát là tôi trở lại ngay thôi, còn làm đầu cho bà", Emma nói.

Edwin gật đầu đồng ý. "Phải, cô nói hoàn toàn đúng, Emma ạ. Mẹ tôi hồi hộp và dễ dàng trở nên lơ đãng". Cậu nhô ra theo bản năng khẽ chạm vào cánh tay Emma. "Cảm ơn cô rất nhiều, Emma ạ, vì đã chăm sóc mẹ tôi ân cần như thế. Tôi ghi nhận điều ấy, xin ghi nhận", cậu nói chân thành, đôi mắt dịu dàng, tử tế.

Emma nhìn lên Edwin, người cao lớn đối với tuổi cậu, cô ngạc nhiên sung sướng vì biểu hiện của lòng biết ơn đó. "Cậu nói vậy thật là tốt đẹp thưa cậu Edwin. Tôi làm hết sức mình", cô trả lời ngọt ngào, lòng bừng lên nỗi sung sướng thật sự. Rồi cô mỉm cười. Một nụ cười sáng trong nhất chiếu sáng bừng khuôn mặt cô làm nó lung linh trong nắng quái, và mắt cô mở to, ngước lên màu xanh sẫm sáng đến làm người ta ngừng thở.

"Sao cô ta đẹp", Edwin nghĩ, cậu hơi loạng choạng và lóa mắt bởi ánh sáng của cô với nụ cười quyến rũ, đôi mắt màu ngọc bích đầy thông minh, hiền dịu ngây thơ nhìn anh không chớp và tin cậy hoàn toàn. Lạ thật, taọi sao mình không chú ý tới nhan sắc của cô trước đây, cậu bàng hoàng nghĩ trong lòng, cậu không thể dời mắt khỏi cô. Trái tim non trẻ của Edwin xốn xang, những xúc cảm mạnh mẽ lấn át mối cúc cảm trước đây cậu chưa bao giờ trải qua và không hiểu nổi. Hai người cứ nhìn nhau như đam mê quyện chặt trong giây phút yên lặng kéo dài đến nỗi không gian dường như rung lên xung quanh họ. Họ như hai bóng hình cô đơn và ngây dại. Khuôn mặt của Edwin trắng bệch, xương nhô lên. Đôi mắt trong trẻo của cậu ghi nhận từng nét mịn màng khuông mặt nàng, y thể cậu buộc phải gắn nó vào ký ức muôn đời. Một nét ửng hồng của cô hé mở. Cô bối rối trước cái nhìn căng thẳng và chăm chú trong con mắt Edwin. Một nỗi lo âu chợt đến làm tắt ánh rực rỡ trên mặt cô. Chính lúc đó, Edwin mơ màng nhận ra ở dưới tiềm thức của mình rằng một cái gì cực kỳ quan trọng đã xảy đến với cậu, mặc dù cậu không biết chắc đó là cái gì. Trong tuổi hoa niên của mình, cậu không hiểu lúc này cậu đang ngắm người đàn bà duy nhất cậu sẽ thực sự yêu. Người đàn bà sẽ ám ảnh cậu một cách bi thảm suốt cuộc đời cậu, người mà tên cậu sẽ kêu to, với lòng khao khát khi cậu trút hơi thở cuối cùng.

Hoàn toàn bất ngờ, những giọt nước mắt dâng lên trong mắt Edwin, cậu buộc phải quay đầu đi. Cậu nuốt mạnh, lấy tay che miệng ho bối rối. Ngượng ngùng một cách kỳ lạ trước mặt cô gái đã đem lại một sự chấn động thình lình trong cậu. "Xin lỗi", cậu nói, lại ho, không dám nhìn thẳng vào mặt cô, nhưng cậu không thể cưỡng lại được, mắt cậu lại nhìn cô, Emma mỉm cười, dịu dàng, nhân hậu, mặt cô thanh tú quá, mong manh quá, dịu hiền quá. Edwin phải gắng sức ngăn sự thôi thúc muốn vươn ra nâng nó trong hai bàn tay mình, sờ vào nó một cách tôn kính. Cuối cùng, cậu cố gắng nói bằng một giọng nghẹn ngào: "Cô là một cô gái tốt, Emma ạ, và tôi sẽ ở lại với mẹ, như cô nêu ý kiến, cho đến khi cô quay lại".

Cậu quay gót và đi về phía phòng ngủ. Khi cậu bước qua phòng với dáng điệu thanh thoát duyên dáng thừa hưởng được của cha, cậu thấy một nỗi mất mát kỳ lạ, một cảm giác cô đơn sâu xa tràn ngập cõi lòng làm cậu đứng sững lại. Rung động, cậu quay ngoắt lại làm Emma giật mình. Cậu nhìn cô chăm chú, đôi mắt dò hỏi và bối rối. Emma quan sát cậu kỹ lưỡng và với một sự hiểu biết của người lớn. Cô mỉm cười yếu ớt, và trước khi cậu có thể nói một điều gì khác, cô vội vã ra khỏi phòng với khay trà, những chiếc đĩa lách cách ầm ĩ.

Kỳ diệu thay, sự ồn ào trong bếp đã lắng xuống và mặc dù Turner mặt đỏ bừng bừng, mồ hôi mồ kê nhễ nhại, bà dường như ít bực bội và lo ngại về bữa tiệc tối hơn. Bà chế ngự những xoong chảo với một vẻ kiêu ngạo, một nụ cười tán thưởng nở trên bộ mặt màu mận, chiếc muỗng móc vào túi tạp dề, hai tay chống nạnh.

Emma để cái khay gần chậu rửa bát và nói: "Nếu bà không cần gì cháu nữa, bà Turner, cháu nghĩ có lẽ cháu nên đi chuẩn bị cho buổi tối nay".

- "Ồ, đúng thế, cưng ạ, mà nhanh lên", bà bếp vừa trả lời vừa nhìn vào đồng hồ để trên bệ lò sưởi. "Ở đây mọi sự đều yên ổn cả. Từ nay tất cả đều thuận buồm xuôi gió, bác có thể nói như thế". Bà nở một nụ cười mãn nguyện với Emma. "Khi biết cách thì sẽ được hết", bà nói tiếp giọng hài lòng: "Lần sau có đại tiệc thì nhắm mắt lại bác cũng có thể làm được".

Annie đang đánh một cái khay đồng lớn để đựng thịt ở một góc, nhìn lên, cười. Cô ta nháy mắt với Emma, cô quay đi cố nén một nụ cười và nói: "Cháu chắc thế, thưa bà Turner. Hẹn gặp bà sau".

Emma trèo lên những bậc thang hẹp và ngoằn ngoèo dẫn lên phòng cô trên gác xép. Cô rùng mình khi bước vào. Cửa sổ mở toang, những tấm rèm xanh căng phồng trong gió rét buổi chiều thổi từ đầm lầy. Emma chạy lại đóng cửa sổ lại rồi nhanh chóng cởi quần áo. Cô đứng trước giá rửa mặt trước cửa sổ nhỏ bằng chì và kỳ cọ mặt bằng nước lạnh và một chiếc khăn flannel cho đến khi nó sạch bóng lên. Cô chải mái tóc dài, khéo léo búi lại thành búi to rồi mặc bộ đồng phục buổi tối cô mới may. Đó là chiếc áo len dài đen, tay dài, chật và một chiếc váy thẳng, trông nghiêm trang hơn bộ áo ban ngày của cô. Nhưng chiếc cổ cồn và cổ tay áo bằng lụa trắng làm giảm bớt cái mạnh mẽ của màu đen, cả chiếc tạp dề đăng ten màu da cam cuốn quanh tấm lưng thon thả.

Emma nhìn mình trong gương và đột nhiên hài lòng với cái cô nhìn thấy. Cô đội chiếc mũ màu da cam duyên dáng lên đầu, mỉm cười sung sướng một mình. Cô chợt thấy là mình xinh đẹp. Blackie luôn luôn bảo với cô là cô quyến rũ và cậu Edwin rõ ràng cũng nghĩ như vậy. Cô biết điều đó, xem như cái cách cậu ta nhìn cô. Cô đã dành nhiều thì giờ nghĩ đến Edwin. Cậu không giống những người trong gia đình Fairley một chút nào. Cô rùng mình khi nghĩ tới Gerald và câu chuyện khủng khiếp về con chó. Cậu ta gian ác và đầy gian ý, trong khi Edwin thì tử tế và tốt bụng. Sự thật, cậu đúng như không thuộc về Fairley Hall. Cô tự hỏi không hiểu có phải cậu bị những người Digan đánh cắp và đem bán cho ông chủ để lấy tiền hay không. Cô cười to vì trí tưởng tượng bay bổng của mình mà cô biết là điên rồ. Những chuyện như vậy chỉ xảy ra trong những chuyện kể mà cậu em trai Frank của cô đã bịa ra chép trên những mẩu giấy rồi đọc cho cô khi cô có thì giờ để nghe. Thốt nhiên cô thở dài. Cô sẽ lấy làm tiếc khi Edwin trở lại trường, ngày mai. Cô đã nghe ông chủ nói như vậy. Cô sẽ nhớ những nụ cười thân mật của cậu, những câu chuyện vui vẻ và sự chu đáo của cậu. Mẹ cậu cũng sẽ nhớ cậu, cô nghĩ thế, lòng bỗng trào lên một nỗi buồn sâu xa cho Adele. Theo bản năng, Emma nhận ra rằng Edwin là người duy nhất có thể cho người đàn bà bị ám ảnh và đầy xao động này chút niềm vui.

Lúc này, cũng vẫn vội vàng như bao giờ, Emma rời khỏi gương, treo bộ quần áo mặc ban ngày vào mắc đằng sau cửa và vội vã xuống gác. Cô phải giúp bà Fairley mặc quần áo cho bữa tiệc tối, phòng khách trống rỗng và khi Emma đi qua phòng ngủ, cô ngạc nhiên thấy Edwin một mình. "Bà đâu, cậu Edwin?"

Edwin dời mắt khỏi cuốn sách cậu đang xem, cố nén khỏi há hốc miệng khi nhìn thấy Emma. Emma lại còn đẹp hơn trước nữa, cậu nhìn cô như mê hoảng. Chiếc áo dài đen làm cho cô cao hơn nhiều, lả lướt và nó cho cô vẻ lịch duyệt rõ rệt. Và, màu đen làm tôn nước da ngà của cô, trong như màu sứ mềm mại, dịu dàng tươi mát như hoa mai. Chiếc mũ đội trên đầu gọn ghẽ giữ mái tóc nâu đỏ và mắt cô rực lên một màu sáng lóng lánh ở bên trong. Mắt mèo, cậu nghĩ. Phải, có một cái gì tựa như mèo trong con người Emma lúc này đang thu hút người ta.

- "Xin lỗi cậu chủ Edwin, bà Fairley ở đâu ạ?" Emma nói vừa nôn nóng vừa quan tâm.

Edwin như sực tỉnh. "Mẹ tôi đang tắm, Emma ạ", cậu nói nhanh. Emma cau mày. "Nhưng thường bà vẫn đợi tôi chuẩn bị nước tắm cho bà cơ mà", cô nói và cắn môi. Cô nhìn đồng hồ. "Và tôi cũng có chậm đâu. Mới có sáu giờ".

- "Xin đừng lo ngại, Emma. Mẹ không khó chịu gì đâu Bà muốn bắt đầu mặc quần áo sơm hơn bình thường. Sự thực là tôi đã vào chuẩn bị nước tắm cho mẹ tôi rồi đó", cậu giải thích.

- "Đáng lý cậu nên gọi tôi mới phải thưa cậu chủ", Emma nói giọng trách óc, miệng nàng mím lại.

Edwin cười vui vẻ: "Trời ơi, Emma, đừng cáu giận như thế. Không tai hại gì đâu. Vả lại cô không nghĩ rằng tối hôm nay cô có đủ việc làm rồi hay sao? Tôi chuẩn bị cho mẹ tôi tắm cũng không có gì là phiền phức cả".

- "Thưa cậu chủ, nếu cậu đã nói như thế, tôi xin cám ơn cậu", Emma nói một cách lịch sự. Sau đó cô hỏi một cách lặng lẽ: "Mẹ cậu thế nào? Bà không bị xáo động nữa chứ".

- "Không, Emma ạ. Tôi đọc cho bà nghe, như cô đã gợi ý đó, rồi chúng tôi trò chuyện một lúc, tôi đã làm bà cười, khi kể cho bà nghe về lũ học sinh ở trường và những trò đùa của họ. Mẹ tôi vui vẻ lắm, Emma ạ, thật đấy".

- "Cám ơn Chúa", Emma nói, nhẹ nhõm trong người. Cô nở một nụ cười ướm rồi bắt đầu bận rộn trong phòng ngủ. Vừa làm những công việc nho nhỏ của mình, Emma vừa vô tình trò chuyện với Edwin, cậu đang quan sát mỗi cử động của cô một cách tỉ mỉ và đầy thán phục. "Thế, chuyện gì đã xảy ra với con chó, cậu chủ Edwin? Cậu chủ Gerald có quay lại báo cáo tình hình như bà Fairley bảo cậu ấy làm không?"

- "Có, Emma ạ. Gerald vừa ở đây xong. Con chó vẫn còn sống. Nhưng những vết thương quá nặng, hy vọng ít lắm. Họ đã bắn nó và đào một nấm mồ, ngoài đầm lầy". Cậu thở dài nặng nề. "Thôi bây giờ nó đã hết đau đớn. Đó là điều quan trọng nhất. Tôi không thể chịu được sự tàn ác, Emma ạ", cậu kết luận, giọng tâm tình. "Vâng, tôi biết điều đó, cậu Edwin", Emma nói. "Thật tội nghiệp cho con chó bị sa bẫy!" cô lẩm bẩm thương cảm. "Những cái bẫy ấy nguy hiểm thật đấy".

Trước khi Edwin có dịp bày tỏ tiếp thái độ của mình, Adele đã đi vào phòng ngủ, người quây trong chiếc áo choàng tắm len dày. "Cháu đấy à, Emma". Bà liếc nhìn Edwin. "Mẹ xin lỗi con. Bây giờ mẹ phải mặc quần áo".

- "Thưa mẹ vâng", Edwin nói kính cẩn. Cậu chạy lại hôn mẹ. "Chúc mẹ một buổi tối tốt đẹp", cậu nói thêm và mỉm cười với bà.

- "Cám ơn Edwin. Nhất định thế", Adele nói mà không chắc rằng có được như thế hay không. Nhưng bà quyết định không nghĩ ngợi gì tới cái buổi tối sắp tới, nếu không bà sẽ trở nên mê hoảng và không thể dời căn phòng của bà. Sau khi Adele đã mặc xong đồ lót, Emma thắt corset cho bà. "Chặt nữa, Emma". Adele kêu lên, miệng há ra một chút, tay nắm cột giường để giữ cho vững.

- "Thưa bà Fairley, nếu cháu thít chặt hơn, bà sẽ không thể ăn uống gì được", Emma nhận định. "Bà nghĩ mà coi, bà cũng sẽ không thể thở được nữa".

- "Tất nhiên được! Đừng ngốc, Emma". Adele nói nhanh nhẹn: "Tôi thích eo nhỏ".

- "Vâng, nhỏ hay không, nhưng bà không muốn bị ngất trong bữa tiệc chứ ạ, thưa bà Fairley".

Adele hơi tái mặt khi nàng nghĩ tới chuyện đó. Nó sẽ là một tai họa nếu nàng ngất đi tối nay. Adam sẽ không bao giờ tin như vậy là vì thiếu không khí. "Ờ, có lẽ cháu nói đúng", nàng miễn cưỡng nhượng bộ. "Vậy thì đừng thít chặt hơn nữa, nhưng cũng đừng nới lỏng ra Emma ạ. Như thế này là được lắm rồi. Và làm ơn buộc bằng nơ đúp chắc chắn để khỏi tụt".

- "Thưa bà, vâng ạ", Emma nói, cô làm xong công việc nhanh chóng.

- “Thưa bà, bây giờ để cháu làm tóc. Bà biết phải làm lâu lắm ạ”.

Adele ngồi xuống trước bàn trang điểm có gương sáng bóng ngắm nhìn khuôn mặt mình một cách thán phục và mê mải, trong khi Emma chải mái tóc dài óng mượt và bắt đầu thao tác phức tạp thành một kiểu tóc lộng lẫy. Đây là một kiểu tóc lịch sự, thời thượng mà Adele đã để ý thấy trong một tờ họa báo trình bày mốt tóc mới ở London và Paris. Tuần trước, khi Adele đã sao chép lại cho Emma, cô đã cố gắn sáng tạo, nâng nó lên, thêm vào một số nét độc đáo của mình làm cho nó thích hợp hơn với dáng vẻ mảnh mai của Adele. Trước sự ngạc nhiên của Adele kết quả cuối cùng không những thật đặc sắc và độc đáo mà còn hết sức nghệ thuật nữa.

Lúc này Emma đưa cả mớ tóc lên khỏi mặt Adele, khuôn lại bộ mặt kiều diễm của nàng, cài trâm để giữ cho chắc. Emma làm miệt mài, hết sức tập trung, trong một lúc, cô lùi lại để ngắm công trình của mình, gật đầu hài lòng, mắt cô ngời lên. Khi đã gần hoàn thành, cô mới nhận ra là trâm của cô đã hết rồi.

Emma tặc lưỡi bực bội. Adele nhìn cô qua gương, nàng cau mày: “Cái gì thế? Tôi hy vọng không có vấn đề gì chứ, Emma? Tóc tôi đêm nay chắc là đẹp”.

- “Ồ vâng sẽ đẹp, thưa bà”, Emma bảo đảm. “Bây giờ đã đẹp rồi. Nhưng cháu cần một ít trâm nữa để cài ở phía trước. Cháu sẽ đến chỗ bà Wainwright hỏi mượn bà mấy cái, cháu xin lỗi bà một phút”. Emma để chiếc lược bạc lên bàn trang điểm, nhún gót chào rồi lướt ra.

Hành lang tối tăm và đầy những bóng vô hình, những bộ đồ thời Victoria điểm cho con đường dài những bóng ma âm u trong ánh sáng đục lạnh lẽo tỏa ra từ những chiếc đèn gá trên tường. Emma phải đi suốt chiều dài của hành lang âm u mới tới được phòng của Olivia Wainwright, vì nó hoang lạnh như vậy nên cô đã chạy suốt đoạn đường mặc dù không phải vì sự cần thiết phải tiết kiệm thời gian, như bao giờ. Cô thở hổn hển khi gõ cửa.

- “Vào đi”, Olivia nói to bằng một giọng nhẹ nhàng du dương. Emma mở cửa đứng lễ phép ở ngưỡng cửa quan sát khắp phòng, theo thói quen, và sự đồng tình dè dặt. Đây là căn phòng duy nhất ở Fairley Hall cô có cảm tình ngoài gian bếp vui vẻ.

Olivia Wainwright ngồi bên bàn trang điểm gỗ sồi chạm trổ, lưng quay ra cửa. Nàng quay ngoắt lại. “Ồ, Emma, cháu cần tôi có việc gì?”, nàng hỏi với thái độ lịch sự bình thường của nàng.

Emma đã bước lên một bước, mỉm cười đáp lại, nhưng đột nhiên cô cứng người, dừng sững lại. Mặt Olivia nhợt nhạt một cách bất bình thường, khi đã không còn son phấn của Pháp và những đồ mỹ phẩm khác nàng ưa dùng. Những màu xanh xao này làm cho nàng có vẻ nhợt nhạt và kiệt sức, cũng như đôi môi rất trắng của nàng, đôi mắt màu ngọc xanh của nàng long lanh, hình như to hơn và xanh hơn trong nét nhợt nhạt của khuôn mặt thanh tú, cái màu sắc hầu như là siêu tự nhiên đó càng tăng thêm chiếc áo dài lục màu thanh thiên nàng mặc. Trong ánh phản chiếu của chiếc đèn mái tóc màu sẫm của nàng, thường vốn được chải đúng mốt, bây giờ buông xõa xuống vai như chiếc mũ trùm bằng nhung óng.

Emma biết mình đang há hốc nhìn Olivia Wainwright, và điều đó là hết sức thô lỗ. Nhưng cô không kìm được, cô không thể quay đi, cô quá kinh hoàng. Cái màu xanh xao ấy, đôi mắt long lanh, tất cả đều hòa tạo thành một bộ mặt tràn đầy dịu dàng, thương xót, một bộ mặt rực rỡ ám ảnh mà Emma quá ư quen thuộc.

Trong khi đó, Olivia đã ngay lập tức nhận ra phản ứng mạnh mẽ của Emma. Nàng bí ẩn và nhìn cô gái một cách tò mò, rồi với nỗi hồi hộp ngày một tăng, bông đánh phấn đung đưa trong tay nàng.

- “Trời ơi, Emma, chuyện gì vậy? Sao cháu như là trông thấy ma ấy. Cháu có ốm không?”, nàng kêu lên, giọng mạnh mẽ khác thường.

Emma lắc đầu. Cuối cùng cô nói: “Không, thưa bà Wainwright. Không có chuyện gì cả ạ. Xin bà đừng lo ngại, thưa bà. Xin lỗi bà, nếu trông cháu có điều kỳ lạ” – Emma ngừng lại, không biết làm thế nào giải thích hành vi của cô mà cô biết là kỳ quái và không phải phép nữa; cô húng hắng ho sau tay. “Cháu thấy như bị ngất đi tý chút”, cô nói dối và tiếp tục chân thật hơn và bằng một giọng mạnh mẽ hơn, “cháu chạy dọc hành lang quá nhanh. Vâng, tại vì thế”.

Olivia thoải mái nhưng nàng vẫn tiếp tục cau mặt. “Cháu lúc nào cũng chạy. Thế nào rồi cũng có ngày xảy tai nạn. Nhưng thôi không sao. Cháu chắc là cháu không làm sao chứ? Trông cháu nhợt nhạt lắm. Có lẽ cháu nên nằm nghỉ cho đến khi quan khách tới”. Olivia gợi ý, hết sức quan tâm.

- “Cháu hết sức cám ơn bà. Nhưng cháu đỡ rồi. Thật ạ. Cháu chỉ mệt vì chạy thôi. Và, bây giờ không thể nghỉ được, thưa bà Wainwright. Cháu phải giúp chuẩn bị cho bà Fairley cho xong. Vì thế cháu mới tới đây mượn mấy cái trâm gài đầu, nếu bà còn”. Emma giải thích bằng một chuỗi lời rối rít để che đậy sự bối rối đáng kể của cô.

- “Tất nhiên là được”, Olivia vừa nói vừa lấy một nắm trâm, Emma đỡ lấy và cố gắng nở một nụ cười. “Xin cám ơn bà Wainwright”.

Đôi mắt am hiểu của Olivia ngắm Emma một cách tư lự. Nàng không chắc là mình có tin lời giải thích của cô gái hay không. Tuy nhiên vì không thể hình dung ra một lý do hợp lý nào khác cho cái bộ mặt tro xám và nỗi đau đớn của cô, nàng không còn cách nào khác là đành phải chấp nhận nó.

- “Tôi thấy cháu hơi có vẻ tiều tụy, Emma”, nàng nói chậm chạp. “Sau khi các quan khách tới, và khi cháu đã lo liệu xong các áo choàng của các phu nhân, tôi muốn cháu nghỉ ngơi trong bếp cho đến giờ dọn bữa tối vào lúc tám rưỡi. Tôi không muốn cháu bị gục vì mệt. Báo cho Murgatroyd biết đó là ý muốn của tôi”.

- “Thưa bà, vâng. Bà thật tốt bụng quá”, Emma nói, cô cảm thấy có tội và xấu hổ vì đã giả vờ ngấy, và vì đã nói dối bà Wainwright.

Olivia nghiêng người vỗ vai Emma. Nàng lắc đầu ái ngại. “Đôi khi tôi nghĩ cháu quá cần mẫn, Emma ạ. Cháu biết là tôi hết sức hài lòng với việc làm của cháu. Hãy cố gắng làm từ từ thôi, con ạ”, nàng nói hết sức tử tế.

Emma nhìn nàng chằm chằm, cô cảm thấy cổ họng thắt lại vì xúc động và nước mắt dâng lên mắt cô. Cô hắng giọng: “Thưa bà vâng”. Cô nhún gót chào và rời phòng khoan thai tới mức có thể. Khi đã an toàn ra tới hành lang rồi, Emma thở dài một hơi nhẹ nhõm. Cô tựa vào một cái bàn nhỏ để trấn tĩnh. Chân cô như nhũn ra trống ngực đập thình thình. Cô nhìn lại về phía cửa, lắc đầu không tin là thật. Olivia Wainwright trông giống y như mẹ cô. Điều ấy dường như không thể tin được, nhưng Emma đã nhìn thấy bằng chính mắt mình. Bà ấy giống hệt như mẹ mình, cô thì thào kinh hoàng, vẫn không tin là thật.

Emma tự hỏi tại sao trước đây cô không bao giờ để ý thấy sự giống nhau này. Ngay lập tức cô hiểu. Sự thực rất là đơn giản. Trong suốt thời gian Olivia ở Fairley Hall, Emma chưa bao giờ thấy nàng để lộ thân hình một cách thoải mái, cởi quần áo và không ăn mặc chỉnh tề trong phòng riêng của mình như mấy phút vừa rồi. Ngồi ở bàn trang điểm trong ánh sáng khuếch tán, quần áo bình thường, mặt không phấn son, nàng là một người phụ nữ khác với người mà Emma vốn quen nhìn thấy đi lại trong nhà một cách lịch thiệp và uy phong lạnh lùng. Bình thường Olivia hết sức đáng yêu, nhưng không có những y phục hợp thời traing, kiểu tóc tinh vi, nàng chân thật, dễ bị tổn thương, một sự giản dị dịu dàng hầu như là trẻ con và ngây thơ bao quanh nàng.

Và Emma không lầm. Olivia Wainwright, không còn vẻ ngoài của xã hội thượng lưu trông giống Elizabeth Harte. Sự thật, sự giống nhau này quá ư lạ lùng. Có thể là cả hai người cùng được đúc từ một khuôn, chỉ có điều nhan sắc của Elizabeth lúc này chỉ là một tiếng vang mờ nhạt của Olivia. Bị kiệt quệ trong cuộc vật lộn để sống, bị hành hạ bởi chứng lao phổi, thiếu ăn, đau đớn liên miên, vẻ đẹp của bà dần dần tàn phai. Thế nhưng, Emma đã nhìn thấy trong Olivia nhan sắc ngày xưa của mẹ cô và điều này không chỉ làm cô giật mình mà còn làm xúc động nữa. Emma không phải là người duy nhất nhận thấy sự giống nhau nổi bật giữa hai người đàn bà từ những thế giới khác nhau đến như thế. Một người nữa ở Fairley Hall đã nhận ra điều ấy và, cũng như Emma, đã thảng thốt trước sự khám phá này.

Nhưng, Emma không hay biết điều này khi cô đứng nhìn đăm đăm ở cửa Olivia Wainwright và lắc đầu. Cô lấy lại được đôi chút bình tĩnh và lần thứ nhất trong đời cô không chạy. Cô đi xuống hành lang chầm chậm, tê dại vì sự trùng hợp kỳ quặc này. Khi cô trở lại phòng ngủ của Adele, Emma không thấy rằng có lẽ cô đã nhận ra một cách vô ý thức sự giống nhau trước đó và điều này phần nào đã giải thích sự quý mến ngấm ngầm của cô đối với Olivia. Chỉ nhiều năm sau, ý nghĩ này mới đến với cô, một cách bắt buộc.

Trong khi Emma đi vắng, Adele đã trang điểm bộ mặt. Nàng đã quyết định là cần phải viện đến những lọ son phấn của Pháp. Nàng đã thoa một ít phấn hồng vừa đủ để làm nổi đôi gò má và làm mất cái nhợt nhạt của làn da, noàng cũng thoa lên đôi môi. Nàng đang nhẹ nhẹ đáng lên mũi thì Emma vào…

- “Thưa bà Fairley, cháu đã về”, Emma nói khẽ và vội vã đi đến bàn trang điểm đợi Adele.

Thường thường thì nàng quá bận rộn với bản thân mình, không để ý đến người khác, nhưng đêm nay nàng đặc biệt mẫn cảm và nhạy bén sẵn sàn cho buổi tối quan trọng và có lẽ là đầy thử thách ở phía trước. Nàng nhận biết được thật ra là để ý thấy tiếng nói khẽ nén lại trong giọng nói của Emma, giọng nói luôn luôn vui vẻ và nàng nhìn Emma soi mói.

- “Bà Wainwright có cho cháu trâm cài đầu không? Có vấn đề gì không?”, nàng hỏi nhanh.

- “Ồ không ạ”. Emma trả lời, cô bắt đầu làm những búp còn lại. “Bà ấy còn rất nhiều ạ”.

- “Bà Wainwright sẽ mặc gì đêm nay, Emma?”, Adele tiếp tục một cách tò mò vừa nhìn Emma chằm chằm trong gương.

- “Cháu chưa thấy bà ấy mặc, thưa bà Fairley”. Emma nói một cách lặng lẽ, mặt cô khép kín.

Adele mím môi buồn bực và thất vọng. Nàng ao ước muốn biết Olivia chọn chiếc áo nào trong rất nhiều chiếc áo thanh nhã của nàng. Adele bao giờ cũng hết sức ganh đua với chị của nàng và giờ đây nó lại càng rõ rệt và nung nấu hơn bao giờ. Adele lòng đầy tủi nhục và bực bội vì Olivia tỏ ra thanh nhã và hấp dẫn trong tất cả mọi dịp. Nàng mỉm cười. Nàng sẽ át tất cả mọi người đêm nay. “Olivia sẽ chỉ là giẻ rách so với ta”. Nàng nghĩ hả hê.

- “Thưa bà thế xong rồi!”. Emma thốt lên đắc thắng, cô bước lùi lại để ngắm mái tóc của Adele. Cô đưa chiếc gương tay nhỏ bằng bạc cho Adele. “Bà xem xem có thích phía sau gáy không, thưa bà Fairley”.

Adele vặn người trong ghế, nhìn mốt tóc pompadour (1) từ mọi phía. “Trời! Emma, thật là tuyệt hảo”, nàng kêu lên thích thú. Nàng cười vui vẻ: “Đây là một tác phẩm nghệ thuật. Một kiệt tác. Tôi ưa quá. Cháu là một cái gái thông minh”.

Adele xỏ đôi dép lê rồi bước xuống luồn tay vào chiếc áo dài Emma giữ cho nàng. Nàng nghiêng người trước tấm gương, Emma kiên nhẫn cài hàng khuy dà phía sau, thầm cầu nguyện để Adele đừng nhớ tới những bông hồng mà cô đã tháo gỡ trước đó; chúng xấu xí và Emma chắc là chúng đã làm hỏng cả chiếc áo, nó đẹp và đầy sức thể hiện trong cái đơn giản của nó. Khi cài xong chiếc khuy cuối cùng, Emma nói vội vã, mong làm Adele hướng sự chú ý sang phía khác. “Chỉ cần những đồi trang sức nữa là xong thưa bà Fairley”.

- “Khoan đã, Emma”, Adele vừa nói vừa bước lùi lại để ngắm nghía. Nàng hết sức sung sướng trước hình bóng mình. Chiếc áo dài nhung đen làm nàng cao lên, uyển chuyển, kiểu may tuyệt vời làm nổi eo nhỏ xíu của nàng. Chiếc cổ thấp ôm lấy hai vai, áo nịt bó lấy thân hình tươi trẻ của nàng.

Nàng thấy đây là chiếc áo hợp nhất, sung sướng với chính bản thân mình, nàng quay một vòng. Emma hoàn toàn đúng về những bông hồng. Chúng thật ghê khiếp, nàng nghĩ, người hầu của nàng quả là có khiếu thẩm mỹ bẩm sinh.

Nàng ngồi xuống, lấy đôi hoa tai kim cương trong chiếc hộp nhung đỏ và đeo vào. Nàng đeo thêm nhiều vòng xuyến, sau đó Emma đeo một chuỗi kim cương quanh cổ nàng, cài cẩn thận. Nó bằng mặt đá rất đẹp. Những viên kim cương lóng lánh rực lên như lửa, đẹp không sao nói hết.

- “Đẹp quá nhỉ”, Adele nhận xét. “Ông chủ tặng tôi”, nàng nói tiếp và thở dài: “trước đây ông tặng tôi nhiều đồ châu báu rất đẹp”, nàng tâm sự nhẹ nhàng.

- “Nó làm cháu ngộp thở, thưa bà Fairley, đúng thế”, Emma nói trong kinh hoàng, tự hỏi không hiểu giá nó bao nhiêu. Cả một gia sản, không còn nghi ngờ gì nữa. Mua được là do mồ hôi nước mắt của người khác, cô nghĩ thoáng cay đắng, cô nghĩ tới Frankie và cha cô lao động ở xưởng máy.

Adele không trông thấy nét cau trên khuôn mặt Emma, nàng mỉm cười một nụ cười hài lòng và mở một hộp nhung khác. Nàng lấy ra một cái trâm kim cương lớn và bắt đầu cài lên ống tay áo bên trái.

Emma bưng lấy miệng. “A – Ô – thưa bà Fairley. Cháu nghĩ bà không cần đến cái trâm đó, nếu bà cho phép cháu nói như vậy”.

- “Đó là của mẹ tôi”, Adele nói một cách kiên quyết.

- “Ồ! Thế thì xin lỗi bà, thưa bà Fairley. Cháu hiểu. Bà muốn mang nó vì những lý do tình cảm”, Emma nói hết sức lễ phép. Nhưng cô thất vọng. Cái trâm này không cần thiết và nó làm hỏng tất cả tác dụng mà cô đang gắng vươn tới.

Những lý do tình cảm, Adele thầm nhắc lại và nhìn vào trong gương. Mắt nàng nheo lại lạnh lùng và cũng lóng lánh như những viên kim cương nàng mang. Nàng nhìn xuống cái trâm một cách lơ đãng và nghĩ tới mẹ nàng, rồi từ từ ngẩng đầu lên.

Như trong mơ, Adele tháo trâm và đặt lại nó vào hộp. Nàng không cần những điều nhắc nhở về mẹ nàng. Nàng cũng không cần phải nhắc nhở cho Olivia. Olivia nghĩ là nàng điên như mẹ họ đã điên, cả Adam cũng thế. Họ đang âm mưu chống lại nàng. Ô phải rồi, đúng thế đấy, Adam và Olivia. Nàng nhìn thấy họ, thì thào trong các góc của ngôi nhà gớm guốc này.

Đôi mắt nàng chằm chằm nhìn Emma, cô đang đóng các hộp trang sức, nàng nắm chặt lấy cánh tay cô. Bị ngạc nhiên, Emma lùi lại. Nhưng nhận thấy vẻ đờ đẫn và hừng hực bất thình lình cô không dẫy dụa để thoát ra. “Dạ thưa bà Fairley? Có chuyện gì thế ạ?”, cô hỏi dịu dàng.

- “Cháu phải đi khỏi nơi này, Emma. Đi khỏi ngôi nhà này trước khi quá muộn. Nó độc hại”. Adele thì thào.

Emma nhìn Adele, kinh hãi vì lời nói đó. “Độc – Độc gì ạ? Cháu không hiểu như vậy là nghĩa thế nào thưa bà Fairley”.

Adele cười ré lên, tiếng cười làm Emma lạnh toát người. “Nó có nghĩa là độc ác. Độc ác! Độc ác! Độc ác!” nàng rít lên, giọng như một tiếng thét.

- “Khẽ chứ, khẽ chứ, bà Fairley!”, Emm nói cố gắng hết sức bình tĩnh.

Cô run lên, da gà nổi lên hai cánh tay, bà ấy nói kỳ lạ quá, cô run sợ nghĩ. Nhưng cô không có thì giờ nghĩ tới nó lúc này. Cô có chuyện quan trọng hơn để mà quan tâm. Đó chính là bà Fairley.

Emma cẩn thận rút tay ra và nhìn đồng hồ. Cô thót tim. Các quan khách sắp sửa tới bây giờ, mà trong tình trạng hiện nay, bà Fairley khó có thể xuống nhà để tiếp họ.

Emma nhìn quan vô vọng, cô cân nhắc cách xử lý tốt nhất, mặt cô trắng bệch và căng thẳng. Cô tự hỏi không biết có nên chạy đi mời bà Wainwright hay không, hay có lẽ cậy Edwin. Thế rồi một bản năng báo cho cô là không nên để họ dính vào. Chỉ mình cô thôi sẽ phải kéo bà Fairley ra khỏi cái tâm trạng mất trí này. Emma quỳ xuống sàn, nắm lấy hai bàn tay mảnh dẻ, quý phái của Adele trong đôi bàn tay nhỏ bé chai sạn của cô. Bàn tay của Adele lạnh chết.

Emma bóp chặt đến nỗi cô nghĩ cô có thể bẻ gãy chúng. “Bà Fairley! Bà Fairley! Nghe cháu này”, Emma nói khẩn thiết, giọng mạnh mẽ và thôi thúc. “Bà phải nghe cháu. Khách khứa sắp tới đến nơi. Bà phải bình tĩnh lại và xuống gặp họ. Bà phải làm điều đó, vì lợi ích của chính bà!” Cô hét lên dữ dội, cuồng nhiệt trong quyết tâm đánh thức Adele.

Adele dường như không nghe thấy. Đôi mắt mờ đục của nàng nhìn Emma như mù. Emma bóp đôi tay Adele mạnh hơn nữa, những vết bầm đỏ bắt đầu xuất hiện. Cô ráng hết sức đến nỗi chính những ngón tay của mình bắt đầu đau. “Bà Fairley, cháu xin bà hãy tự trấn tĩnh lại. Ngay lập tức, bà có nghe thấy không. Ngay lập tức”. Giọng của Emma lúc này hết sức lạnh lùng, và mệnh lệnh, tất cả ý chí ngoan cường của cô trỗi dậy. Nó hiện lên trên khuôn mặt cô, kiên quyết trong mục đích của nó khi cô buộc Adele phải nghe mình. Dáng vẻ của người đàn bà đứng tuổi hơn vẫn khép kín.

Emma tính đến chuyện tát vào má nàng để lôi nàng ra khỏi sự u mê này. Cô đổi ý. Cô không dám. Cô không sợ những hậu quả. Cô chỉ không muốn phương hại đến làn da mỏng mảnh của Adele.

Cuối cùng mắt Adele lấp lánh một tia sáng và đôi môi nhợt nhạt của nàng hé mở. Emma hít một hơi dài và nắm chặt lấy hai vai nàng: “Bà phải xuống nhà, bà Fairley, ngay lúc này, trước khi quá muộn! Bà là vợ của ông chủ, chủ nhân của ngôi nhà này. Ông chủ đang đợi bà, thưa bà Fairley”.

Emma lắc mạnh nàng hơn nữa: “Hãy nhìn cháu đây này, bà Fairley nhìn cháu.” Đôi mắt Emma lóe lên luồng sáng xanh. “Bà phải tự kiềm chế mình. Nếu không nhất định sẽ có chuyện lôi thôi. Sẽ trở thành chuyện bê bối, bà Fairley”.

Adele chỉ nghe thấy lờ mờ những âm thanh của pha lê vỡ vang lên trong đầu nàng. Dần dần tiếng loảng xoảng bắt đầu lùi lại, nàng trông thấy Emma rõ hơn khi mắt nàng bắt đầu tập trung và mất đi dáng âm u. Giờ đây tiếng nói của Emma đang thấm vào trí óc mệt mỏi của nàng. Tiếng nói mạnh mẽ. “Cháu sẽ có mặt ở đó, nếu bà cần cháu, thưa bà. Bà chỉ cần ra hiệu cho cháu trong bữa tiệc, nếu bà cần điều gì. Hoặc sau đó gọi cho cháu. Cháu sẽ trông nom bà cẩn thận. Nhất định thế! Cháu sẽ trông nom bà, thưa bà Fairley. Cháu hứa!” Emm nói giọng vỗ về nhưng cứng rắn.

Adele chớp mắt và ngồi thẳng lên, đột ngột gần như hung bạo.

Emma nói gì thế nhỉ: rằng nàng là chủ nhân của ngôi nhà này… vợ của ông chủ. Phải đó chính là điều cô ta đã nói và đó là sự thật. Adele đưa tay lên trán một dáng điệu nói lên sự bối rối mệt mỏi và thất vọng của nàng.

- “Cháu lấy cho bà một ly nước nhé, bà Fairley?”, Emma hỏi, cô sung sướng vì một sự am hiểu, sự bình thường đang trở lại trên khuôn mặt Adele.

- “Không, cám ơn Emma”, Adele thì thào và nhìn thẳng vào mặt cô. “Tôi không hiểu điều gì đã xảy ra, đầu tôi bắt đầu đau. Phải, thế đó, Emma ạ. Lại một trong những cơn đau đầu khủng khiếp nữa của tôi. Nó là suy nhược ghê gớm, Emma ạ”. Nàng mỉm cười yếu ớt. “Nhưng nó đã qua rồi, ơn Chúa”.

- “Bà có chắc không, thưa bà?”, Emma quan tâm, cô quan sát nàng thật kỹ.

- “Có, có và tôi phải xuống nhà”. Nàng đứng lên run run và chuyển động tới bên chiếc gương. Emma vội vã bước theo.

- “Bà hãy nhìn mình trong gương mà xem, trông bà đẹp đẽ biết bao”, Emma nói một giọng thán phục và đảm bảo, cố gắng nâng lòng tự tinh của Adele lên. “Ông chủ sẽ tự hào về bà. Nhất định như vậy”.

Ôi! Chúa ôi! Adam! Nàng phải đi xuống đó, phải cư xử đàng hoàng, tư thế, duyên dáng, lịch thiệp, nếu không cơn giận của Adam sẽ giáng xuống đầu nàng và nàng sẽ không sống nổi. Nàng nhìn hình ảnh của chính mình trong gương và đột nhiên, nàng thấy nó một cách khách quan, như người ta quan sát một người lạ. Đó là hình ảnh một người phụ nữ đẹp đến choáng váng. Rồi nàng nhớ ra. Nàng như là nấp sau cái mặt nạ của sắc đẹp mình để cho tất cả mọi người đều bị đánh lừa, kể cả Adam. Nụ cười của nàng hắt ra những tia sáng bạc. Nàng vuốt chiếc áo rồi quay lướt nhẹ nhàng. “Tôi xong rồi, Emma”, nàng nói ngọt ngào.

- “Cháu đi cùng bà được không, thưa bà Fairley?”

- “Không, cám ơn cháu. Tôi đi một mình được rồi”, Adele trả lời hoàn toàn chắc chắn. Nàng lướt qua phòng khách bên cạnh ra ngoài hành lang, vừa lúc đồng hồ sư tử bằng sứ trên bệ lò sưởi điểm giờ.

Bữa tiệc thành công lớn, trước sự nhẹ nhõm và hài lòng sâu sắc của Adam Fairley. Ông ngả người trong ghế đầu bàn, cười thầm, quan sát các vị quan khách và cảnh tượng loang loáng trải ra trước mắt ông.

Không khí thoải mái và thân mật gần như là vui vẻ và mọi người tỏ ra dễ chịu. Đã từ lâu lắm Adam mới lại nghe thấy những tiếng rì rầm trò chuyện và sự vui vẻ vang lên trong những bức tường cổ lỗ và nó làm ông tràn đầy vang nỗi biết ơn khiến ông giật mình. Lúc bắt đầu tối, ông hết sức hồi hộp. Adam cảm thấy lo ngại cũng là chuyện bình thường, xét tới những hành động trước đây của Adele, và trong khi ông có thể giấu những nỗi lo sợ của mình, ông bồn chồn, tất cả các giác quan của ông đều báo động chờ sự rắc rối. Nhưng khi bữa tiệc tiếp diễn không có sự cố gì, những tình cảm này giảm đi và ông bắt đầu lơi được. Thỉnh thoảng ông lấy làm kỳ lạ tình trạng phiền muộn trong tâm hồn ông dần dần giảm đi trong mấy tuần qua, bây giờ đêm nay đây đã hoàn toàn biến mất. Y như một gánh nặng to lớn đã được cất khỏi vai ông, ông cảm thấy nhức nhối; thậm chí còn thoải mái nữa.

Ông nâng ly sâm banh pha lê mà Murgatroyd vừa rót đầy cho ông và nhấm nháp chậm chạp, thưởng thức cái vị mát lạnh lấp lánh của nó. Thức ăn rất ngon, các loại rượu quý tuyệt vời, Murgatroyd và Emma đã thực hiện nhiệm vụ của họ một cách tự tin, y như thể họ là một đội được rèn luyện để chuẩn bị một bữa tiệc phức tạp và tinh vi mỗi đêm trong tuần. Ông nhận ra rằng thành tựu này không phải là tình cờ. Nó chỉ đạt được với sự hoạch định tài năng của Olivia, khiếu thẩm mỹ hoàn hảo của nàng có thể thấy được một cách rõ ràng ở khắp nơi.

Adam nhìn xuống dãy linen trắng cho đến khi Adele hiện ra trong tầm mắt của ông. Ông đã theo dõi nàng sát sao suốt cả buổi tối, thái độ của nàng đã làm ông ngạc nhiên. Nàng duyên dáng và chú ý tới các vị khách của họ và, ít nhất là về bề mặt, nàng dường như giống một người đàn bà cách đây nhiều năm. Trông nàng thật lộng lẫy. Nàng tán tỉnh với Bruce McGill, ông này dường như mê say, khiến Adam thú vị nhăn nhó. Ông ngờ ngợ một vẻ gì như kịch trong con người Adele. Chắc chắn nàng đã gây được sự hấp dẫn hơn. Bruce đã đến sớm hơn các vị khách khác để kết thúc công việc làm ăn của họ, hai người đang bước dạo qua căn phòng lớn thì nàng hiện ra ở đầu cầu thang. Biết là họ đã nhìn thấy mình, nàng đã dừng lại bất chợt ở bực thang giữa, bám lấy trụ thang một giây rồi lướt xuống như Aphrodite (1) giáng trần. Bruce miệng há ra, trong một giây không thốt nên lời, Adam thấy ông ta như một chú học trò nhỏ mê sân khấu. Cái dáng vẻ ấy vẫn còn đọng lại trên khuôn mặt ông người Úc. Ngồi bên trái Adele, ông ta chú ý ngây ngất tới nàng và tiếng cười vang của Adele bay tới chỗ Adam trong làn không khí ấm áp. Ông nheo mắt lại, quan sát nàng kỹ hơn. Mặc dù tất cả vẻ đẹp của nàng, vẫn có một cái gì đó di chuyển kỳ quái trong con người nàng. Nữ hoàng Tuyết. Không bao giờ được sờ mó tới.

Mắt Adam lướt qua chỗ Olivia, đang ngồi ở giữa bàn. Nàng có một vẻ tự tin đặc biệt thường thấy ở những người phụ nữ Anh tầng lớp quý tộc luôn luôn thoải mái, làm chủ được bản thân và tình thế, bất kể là ngồi trên lưng ngựa hay ở bàn ăn. Trông nàng cũng lộng lẫy như Adele nhưng đỡ mong manh hơn. Chiếc áo dài lụa màu xanh của chim bói cá thật lịch thiệp, cổ áo cắt thấp gợi tình, tuy không quá buông thả như Adele. Chiếc vòng saphia tạo nên một vòng lửa xanh quanh cổ nàng, cũng những viên kim cương như vậy buông xuống đôi tai nhỏ nhắn của ngàn, những chiếc vòng tay ôm lấy cánh tay tuyệt vời kia. Nàng đang lặng lẽ nghe người thực khách trong một dáng điệu thanh thản. Người đẹp ngủ trong rừng, đợi đánh thức dậy, Adam tự nhủ, ngạc nhiên sao một tư tưởng kỳ lạ như vậy lại đến với ông.

Ông bắt gặp cặp mắt của Olivia. Nàng mỉm cười ấm áp với ông, và nghiêng đầu về phía cửa phòng ăn. Ông gật đầu, hiểu rằng nàng nghĩ bữa tiệc lúc này đã kết thúc.

Adam phác một cử chỉ cho Murgatroyd, lão vội vã đến bên ông. "Tôi nghĩ là ông đã bày rượu và xì gà trong thư viện, Murgatroyd".

- "Dạ, vâng, thưa đại nhân. Loại rượu cognac ngon nhất của Pháp, rượu port và Bénédictine, cũng có cả rượu Scotch và Ailen. Bà Wainwright cũng lệnh cho tôi để khay đồ uống trong phòng dành cho các quý bà nữa rồi ạ".

- "Tốt lắm Murgatroyd", Adam quay sang các vị khách nữ ngồi gần ông nhất: "Tôi biết các quý bà sẽ tha lỗi cho chúng tôi nếu đàn ông chúng tôi xin được phép dời quý bà trong chốc lát". Ông nói với nụ cười. Ông đẩy lùi ghế lại và nhìn quanh bàn: "Thưa quý ông chúng ta có nên dời sang một nơi không?", ông nói tiếp và đứng lên. Với những tiếng lầm bầm đồng ý, các quý ông đã đi theo Adam, trò chuyện râm ran.

Vào đến thư viện, Bruce McGill uống một ly whiskey sô đa Murgatroyd đưa cho và bước lại phía lò sưởi. Bruce khoảng trên bốn mươi, cao và gầy, dáng đi cuồn cuộn của một người suốt đời trên lưng ngựa. Ông ta có mớ tóc quăn màu nâu trên một khuôn mặt gồ ghề, một bộ mặt lập tức làm cho người ta tin tưởng, đặc biệt là đối với phụ nữ, đôi mắt của ông vui tươi. Phong cách của người đàn ông, một dáng vẻ táo tợn mang đầy tính hấp dẫn.

Ông đến bên Adam và nói: "Xin chúc sức khỏe anh, mối quan hệ lâu dài và thành công". Ông cười tươi và đôi mắt lấp lánh. "Tôi nghĩ chắc chắn là chúng ta sẽ có một tình bạn tốt đẹp nhất". Ông chạm ly với Adam.

"Xin chúc anh Bruce". Adam rất thích Bruce McGill mặc dù tất cả sự cứng rắn của ông ta trong việc buôn bán. Người đàn ông này thẳng thắn và lương thiện mà Adam đánh giá cao những đức tính này vì nó cũng là bản chất của ông. Ông nói "Thế là tuần sau anh lên thành phố vì bây giờ anh đã hoàn thành công việc ở Yorshire rồi. Anh sẽ ở London bao lâu?"

- "Nửa tháng. Tôi sẽ đi Sydney đầu tháng năm", nét mặt của Bruce rạng rỡ hẳn lên. "Liệu có dịp gặp lại anh ở thành phố không, Adam? Anh có thể đi một vài ngày không? Chúng ta sẽ có thể ăn với nhau, đi xem hát vài buổi vui vẻ một chút. Tôi có một vài người bạn rất tốt tôi chắc thể nào anh cũng thích gặp. Ông ngừng lại và nháy mắt. "Những người bạn rất khoái trá, thật đấy".

Adam cười khùng khục và lắc đầu. "Dù nghe nói có quyến rũ đến mấy tôi cũng không nghĩ là tôi có thể vắng khỏi nhà máy lúc này. Chúng tôi có nhiều đơn đặt hàng khẩn cấp và tôi không thể trút tất cả mọi gánh nặng lên cho Wilson. Anh ấy cần tôi. Xin lỗi, nhưng tôi phải khước từ, Bruce ạ, lần sau anh đến đây, có lẽ".

- "Anh là chủ nhà rất tốt đối với tôi, Adam, trong nhiều chuyến đi của tôi tới Yorkshire những tháng gần đây. Và nói đến lòng hiếu khách, nếu như tôi không thể thuyết phục anh làm khách của tôi ở London, tôi có thể dụ dỗ anh tới Úc vào cuối năm nay được không? Tôi quả thật thích anh đến thăm Dunoon".

- "Anh bạn, anh thật là tốt quá", Adam nói. Mắt ông sáng lên trước ý nghĩ đó. "Tôi có thể làm như thế. Quả thật có thể". "Anh sẽ thích. Tôi hứa với anh như thế. Chỉ có tôi với con trai tôi, cháu Paul ở trại cừu ở Coonamble, tất nhiên là không kể những người làm công. Vợ tôi chết cách đây ba năm. Nhưng tôi có một người trông nom nhà cửa tốt và chúng tôi sẽ làm anh hết sức thoải mái. Chúng ta cũng có thể tiêu một chút trong khi ở Sydney. Đó là một thành phố thú vị, nếu như không tinh tế bằng London", ông kết thúc bằng một tiếng cười rầu rĩ. Ông nắm lấy cánh tay Adam và nói: "Này tôi nảy ra một ý nữa. Tại sao anh không tính đến chuyện mua đất ở Úc, Adam? Anh thấy khong, nó sẽ là một sự đầu tư rất tốt. Anh có thể nghĩ tới bắt đầu một trại cừu nhỏ của riêng anh. Tôi có thể kiếm được cho anh những tay giỏi, và thậm chí tôi có thể cai quản cho anh trong lúc anh vắng mặt. Anh có thể làm người cung cấp cho chính anh, hả".

Adam nhìn Bruce trầm ngâm: "Anh nói có lý đấy Bruce. Nó đáng để cân nhắc, xem xét và tôi có suy nghĩ một cách nghiêm túc tới chuyến đi ấy. Tôi sẽ cho anh biết cuối năm nay".

Adam lấy chiếc đồng hồ bỏ túi ra liếc nhìn. "Chúng ta hãy uống một chút nữa rồi có lẽ chúng ta sẽ tới với các quý bà trong phòng khách trước khi họ trở nên quá bồn chồn".

- "Ý kiến hay. Nhân tiện, tôi phải xin chúc mừng anh về vợ của anh, Adam ạ. Nàng đẹp và rất dễ mến. Anh là một người may mắn".

"Có phải không nhỉ", Adam nói, ông mỉm cười yếu ớt. Giá như anh biết được. Nếu như anh biết được, ông nghĩ cay đắng, khi hai người sóng bước vào thư viện.

-"Thưa đại nhân, còn gì nữa không ạ?" Murgatroyd hỏi. các quan khách đã ra vể từ lâu, Adele và Olivia cũng lui về phòng chỉ còn Adam ở lại một mình trong thư viện.

- "Không, cám ơn Murgatroyd. À này, tôi phải khen ngợi ông trong việc thực hiện nhiệm vụ vủa ông đêm nay. tôi hết sức hài lòng, cả đối với Emma nữa. Làm ơn nói hộ với cô ấy như thế, và tôi gữi lời cám ơn cô ấy".

Murgatoyd hoàn toàn không có ý làm việc này, nói, " thưa đại nhân, vâng ạ. tôi sẽ nói lại. Xin cám ơn đại nhân thật nhiều".

Adam cầm ly rượu vả soda Murgatroyd đã pha cho ông gật đầu thân mật, ông để người quản gia làm nhiệm vụ ban đêm của mình; vài phút sau, khi Adam vào phòng ngủ, ông sung sướng thấy lửa đã nhóm trong lò sưởi. Nó bừng cháy vui vẻ, ông vội vã bước lại gần. Vẫn như thường lệ, Adam đứng quay lưng lại phái cửa, đôi chân cũa ông giạng ra hưỡng cái ấm áp lan dần lên chân. Ông nhìn đăm đăm về phía trớc, hơi lơ dãng, nét mặt trang nghiêm, cốc rượu trong tay còn nguyên vẹn, đầu óc ông ngổn ngang bao nhiêu là ý nghĩ. Phòng ngũ của ông rất trang nghiêm khắc khổ. tường trắng, không trang diểm trần nhà cao với những xà đen và sàn đánh bóng không có đồ đạc. Ngoài những rèm treo màu mận ở cửa sổ và bức chân dung của cha ông đóng khung để trên lò sưởi, nó không có gì là xa hoa giàu có, y như phòng củ một sĩ quan. Một vài đồ dùng cá nhân như những chiếc bàn chải bằng ngà trên bàn trang điểm, những tài liệu viết trên bàn giấy bài biện chính xác và gọn ghẻ kiểu quân dội, y như thể tầt cả đang chờ cấp trên đến kiểm tra. Adam chỉ thuận theo một điều thuận tiện, đó là chiếc ghế da đen lớn để gần lò sưởi. Tuy nhiên chính sự đơn giản này đả hấp dẩn ông, bởi gì nó làm cho ông nhẹ nhỏm sau những căn phòng trang trí lộng lẫy ở dưới nhà.

Giống như thư viện, ông thấy phòng ngủ của mình yên tĩnh và thoải mái, một thánh đường thanh tảnh nơi ông có thể rũ bỏ được gánh nặng trong ngày, không bị ai quấy rầy trong niềm cô quạnh mà ông hằng yêu thích.

Thế nhưng, vì một lý do nào đó, đêm nay căn phòng dường như xa lạ, thậm chí hoang vu mặc dù ngọn lửa reo ấm áp trong lò sưởi và ánh sáng từ những ngọn đèn để trên bàn bên chiếc giường nhỏ nhắn của ông toả ra. Ông ngó quanh buồn phiền và cau mặt. Đột nhiên ông thấy bồn chồn mật cách lạ lùng. Adam bắt đầu đi đi lại lại trong phòng, người căng thẳng, bao nhiêu năm nay ông chưa từng như thầ. Ông lạc thần trí và không hiểu tại sao. Ông thấy trong người nóng hầm hập. Ông kéo chiếc ca vát quanh cổ và nới lỏng ra. Ông đi tới đi lui khẩn thiết, nhưng sau mười phút đi lại điên cuồng như thế, ông dừng lại bên lò sưởi nắm lấy chiếc ly uống liên tục và nhanh chất rượu pha sô đa đó.

Adam nhìn quanh căn phòng, ông đưa tay lồng qua mớ toc một cáh lơ đãng. Ông bị ngột ngạt, bó buộc trong bốn bức tường này. Ông suy nghĩ như buộc tội mình: Nhưng mà ngươi là tù nhân tự nguyện của chính ngươi kia mà, Adam Fairley. Có phải thế không? Ông đả xây thành quách cho chính ông. Những bức tường dường nhừ lù lù tiến lại phia ông đầy hăm doạ. Ông phải chạy trốn. Ông nhảy lên lao ra cửa, vặn mở. Ông bước ra ngoài vào hành lang mờ tối đi nhanh xuống thang gác. Ông đẩy cửa thư viện. Ánh trăng ùa vào phòng sáng đến nổi ông không cần phải châm đèn. Ông vội vã bước đến bên chiếc bàn gổ sồi, rót ly rượu đầy. Tay ông run run. Ông uống cạn ly. trong lúc vội vàng đánh rớt ra cả áo. Ông rót ly nửa. bàn tay ông tiếp tục run lẩy bẩy không sao kiềm chế nổi.

Adam đứng bên bàn, cố gắng trấn tỉnh. cuối cùng ông bắt đầu thở bình thường hơn, tiến thình thịch ở trong tim giảm đi, các cãm giác bị dồn nén dần dần nâng lên. Tại sao đêm nay mình lại xôn xao thế? Có chuyện gì không ổn đối với mình?

Ông cảm thấy cô đơn không nói nổi và thất vọng. Ông có niềm ao ước được trò chuyện với ai đó. với một người bạn hiểu ông. Nhưng ông không có một người bạn nào trong cái ngôi nhà buồn tẻ bị Chúa ruồng bỏ này. Trừ olivia. Tất nhiên! Olivia! Nàng thông cảm và khôn ngoan. Ông sẽ đi và trò chuyện cùng nàng. Nàng sẽ nghe những nổi niền đau khổ của ông, một cách thông minh và nhẩn nại. Ông sẽ đi tới nảng ngy bây giờ. Ngay lập tức. Adam rời thư viện. Ông lên cầu thang hai bậc một, lòng bừng một nghị lực mới, lẫn với nổi nhẹ nhỏm với ý nghĩ trò chuyện với Olivia, cởi mở lóng mình. Khi tới cầu thang giữa thì chiếc đồng hồ cũa ongy6 nội trong phòng điểm 12 tiếng. Ông đứng sững lại "điên" ông lẩm bẩm. Ông không thể nào đến phòng của Olivia khuya khoắt như thế này. Như thế sẻ là một sự đột nhập không thể nào tha thứ được. Lúc này chắc nàng đả lên giường và ngủ rồi. Ông tiếp tục bước lên cầu thang chậm chạp hơn. sự dẻo dai đả rời bỏ bước chân ông, hai vai ông trĩu xuống.

Adam dừng lại ở cửa phòng ngủ của ông, tay ông để vào quả đấm cửa rồi ngược lại với ý nguyện của mình, nhưng hết sức có cân nhắc, ông tiếp tục đi xuôi hành lang tới phòng của Olivia, bị thúc đẩy bởi một lực nào đó mạnh hơn chính bản thân ông. Một vệt sáng ở dưới chân cửa cũa nàng. tinh thần ông phấn chấn. Nó cho ông can đản mà ông cần. Trước khi ông kịp gỏ cửa phòng mở tung, một suối ánh sáng ùa vào hành lang tối tăm. Adam giật mình và loá mắt trong chốc lát, ông chớp mắt nhiều lần. Olivia đứng in bóng lên ánh sáng từ những ngọn đèn phía sau nàng. thân hình mảnh mai của nàng trông siêu thoát gần như là không thật. Ôn không nhìn được nét mặt nàng vì nàng đứng trong bóng của chính mình.

Adam ngó nàng, không thốt được một lời.

Olivia mở cánh cửa rộng hơn và không nói một lời, nàng lùi vào phía trong lấy chổ cho ông bước qua. Ông bước vào trong phòng và mặc dù vốn là người duyên dáng tế nhị, ông rất phiền muộn thấy mình hoàn toàn cứng họng. Ông không biết mình sẽ nói gì với nàng. tất cả những ý nghĩ trước đây đã trốn sạch khỏi đầu ông. Olivia nhẹ nhàng đóng cửa lại rồi tựa mình vào cánh cửa, một vẻ dịu dàng hiện trên khuôn mặt nàng. Adam đi lượm lờ một cách sợ sệt, một bóng cao lớn, miệng ông khô. Nàng ngước nhìn ông chờ đợi.

Cuối cùng Adam hắng giọng bối rối." Tôi xin lổi đã tới quá muộn, Olivia, ông bắt đầu, vắt óc tìm ra một lời giải thích hợp lý. Ông hít một hơi dài. Nhưng tôi- tôi-không thể ngủ được vì vậy tôi xuống nhà để uông một tí chút" ông chỉ cái ly trong tay rồi mĩm cười đau khổ:"Trong khi đi về phòng, tôi mới chợt nhớ ra rằng tôi chưa cám ơn Olivia vì đã sắp đặt một bửa tiệc tuyệt vời như vậy. tôi xin cảm ơn tất cả những điều Olivia đã làm để khiến cho nó thành công to lớn đến như vậy."

-" Ôi, Adam, xin anh" Olivia thốt lên nồng ấm." Amh biết là tôi rất thích đải khách. tôi hết sức thích việc đó."

_" Dù sao tôi cũng sẻ là kẻ vong ơn nếu như không bày tỏ niềm cảm kích của tôi đối với Olivia." Adam nói. Ông đả bắt đầu thở dể dàng. Ông cũng thấy trong lòng nhẹ nhỏm hơn vì đả giải quyết dược vấn đề vào phòng nàng ở chừng mực khéo léo nào đó.

Olivia không trả lời. Nàng tiếp tục nhìn ông dò hỏi. Một nét cau mặt làm nhăn vàng trán mịn màng của nàng, đôi mắt nàng rất xanh, không rời khỏi khuôn mặt ông. Ông uống quá nhiều, nhưng ông không say, nàng nghĩ. Ông hoàn toàn làm chủ bản thân. Một con ngưới lịch sự hoàn toàn, như bao giờ. Dưới cái nhìn chăm chú của nàng, Adam nhận ra tình trạng nhếch nhác của mình. Ông nhận ra rằng không những ông không mặc áo vét mà óa sơ mi của ông còn phanh hết cả ngực, ca vát lòng thòng quanh cổ. Ông lại bối rối, lúng túng với vạt áo trứơc, cố gắng khép lại, mà không được. Ông mĩm cười yết ớt:” Thôi, tôi xin phép Olivia. Tôi không muốn làm phiền chị nữa. Nếu như không nhìn thấy ánh diện phòng chị thì tôi đã chẳng dám vào.”

Adam bước một bước ướm thử về phía cửa. Olivia không có ý định mỡ cửa. Nàng vẫn tựa vào cánh cửa, nét mặt bình thản, vẻ bề ngoài không thay đổi, nhưng trái tim nàng thì run rẩy, và những lan sóng hốt hoảng xo qua. Sau một lát im lặng kéo dài, nàng ngước lên nhìn ông và nói nhẹ nhàn, “Đừng đi, adam. Xin hãy ở lại nói chuyện một lúc. Tôi không mệt mỏi chút nào. Tôi đang đọc như anh thấy đó”. Nàng phác một cử chỉ về phía tờ báo trên bàn gần ghế sôpha.

_ “ Tờ tạp chí của anh đó”, nàng nói thêm, hy vọng lới nói nghe có vẻ hờ hững. Khi ông không trả lời nàng nói vội vã. “Trừ phi chính anh muốn đi”

-“Không, không. Tôi không muốn”, ông ngắt lời kiên quyết. Nhận thấy lo ngại mà ông đã quá hăng say, ông dịu giọng lại:”sự thực, tôi rất thích nói chuyện với chị, Oliviva ạ. Tôi hoàn toàn tỉnh ngủ để nghe tất cả những câu chuyện sôi nổi đêm nay, tôi chắc thế”, ông lẩm bẩm với một tiếng cười lo ngại nhỏ. “ Trừ phi chị chắc rằng tôi không làm chị phải thức giấc”.

-“ Không, không hề. Xin anh tới gần lò sưởi, Adam ngồi cho thoãi mái”, Olivia nói, nàng đi lại một cách duyên dáng trong phòng, nổi hốt hoảng của nàng giảm đi. Nàng quan sát người ông, ông tháy mùi nước hoa nàng thoang thoảng, một cái gì nhẹ và gợi cảm. Tên của nước hoa ông không nhớ, nhưng mùi hương của nó vẩn còn động lại trong mũi ông.

Adam thong thả theo nàng đến ben lò sưởi. Olivia ngồi xuống chiếc sôpha trước ngọn lửa. Adam ngồi bên cạnh nàng cũng là điầu hết sức tự nhiên thôi nhưng ông không ngồi.

Ông cẩn thận tránh chiếc ghế sôpha và bông mình xuống cái ghế gần đó.

Olivia ngồi tựa vào đống gối, vuốt nếp vái rồi nhìn sang Adam mỉn cười. Một nụ cừơi âu yếm làm Adam thấy nhói ở tim, ôngnhìn nàng sững sờ. Nàng đã thay chiếc áo dạ hội để mặc chiếc áo lụa mền trang trí kiểu dông phương; chỉ khác thế thôi còn trong nàng cũng y như lúc ở dạ tiệc. Ông không bao giờ thấy nàng đẹp như thế trong suốt hai mươi năm ông biết nàng.

Ông cuối đầu nhận ra là mình nhìn nàng qua chăm chú. Ông mín môi lại ngó đăm đăm vào ly rượu rồi nâng ly lên miệng lơ đểnh. Ông xấu hổ thấy tay mình run.

Quan sát ông, ngồi trên sôpha, olivia nghĩ: Anh ấy hồi hộp quá, nếu như mình có thể làm cho anh ấy thoãi mái, dể dàng, có lẽ anh ấy sẽ ở lại. vì vậy nàng nói, “ Buổi tối đẹp quá, Adam.”

Adam cứng người lại. “Tối nay chị nghĩ như thế nào về Adele?”, ông hỏi đột ngột rồi nói tiếp vẩn bằng một giọng như vậy. “Tôi rất vui thấy cô ấy tự chủ như vậy. Nhưng rồi tôi bổng nảy ra ý nghĩ lúc ở trong phòng khách sau bửa ăn, là cô ấy bình thường quá đến độ trở thành-vâng- trỏ thành hầu như la bất bình thường”.

Olivia nhìn Adam thảng hốt. “ tôi chắc cô ấy đã đóng một trong những vai của mình, Adam ạ; thỉnh thoảng cô ấy làm như vậy khi cô ấy phải dưong đầu với một tình thế mà cô ấy thấy là khó khăn. Tôi nghĩ đó là cách duy nấht cô ấy có thể ứng xữ với mọi người. Cô ấy rút lui hiểu theo một nghĩa nào đó vả đeo một cái mặt nạ để che giấu tình cãm thật của mình”.

Adam trầm tư khi ông lắng nghe những lời của nàng.” Vâng tôi nghĩ những lời của chị là đúng Olivia a”; ông nói. “ đúng là như thế, chhị nhận ra điều đó thật là sắc sảo quá”.

Một nụ cười hiện trong đôi mắt Olivia “ cô ấy là chị của tôi mà”. Nét mặt nàng nhuốm buồn. Từ lâu nàng đã biết những mâu thuẫn nội tâm sâu sắc của Adele, sự bất lực của Adele để tạo ra mối quan hệ vững bền với mọi người, nhất là đối với Adam, và nàng thở dài:” Từ khi đến Fairley, tôi thực sự cố gắng giúp cô ấy; nhưng cô ấy quá cảnh giác, quá hung hăng nên thật là khó”. Olivia nghiêng người về phía trước căng thẳng nói tiếp: “Adam, anh có biết không, mặc dù nghe nó có vẻ lạnh lùng, tôi cảm thấy cô ấy nghi ngờ tôi”.

-“ Nó không có vẻ gì là lạ lùng hết, dạo này cô ấy cũng như thế đối với tôi.” Ông nói. “ Đứng về một mặt mà nói, tôi xin lỗi tôi đã không nói về tình hình sức khỏe của Adele với chị khi chị mới đến đây vào tháng hai. Nhưng tôi không muốn chị bận tâm vô ích. Tuy vậy tôi phải thú nhận là tôi cũng hơi lo ngại vè cô ấy từ năm ngoái. Thái độ cư xử của cô ấy kỳ lạ đến nổi”.

Adam dừng lai, tìm một từ thích hợp, cuối cùng ông nói:” Thái độ cư xữ của cô ấy thực tế khá là phi lý. Không còn cách nào khác để miêu tả nó. Tuy nhiên, sáu tháng gần đây, cô ấy tiến bộ đáng kể, vì thế tôi không muốn làm chị hoảng hốt không cần thiết? Ông mĩn cười yếu ớt. lộ vẻ hổ thẹn. Vả lại chị cũng quá bận rộn với việc điều hành công việc của nhà này từ khi chị tới”.

Olivia đổi thế ngồi và vắt chân. Trái tim nàng thông cảm với ông. Trông ông trẻ con và và bất lực quá. “đúng lýanh nên nói với tôi, anh Adam. Gánh nặng dược san sẻ bao giờ cũng đỡ đi rất nhiều”, nàng nói thông cảm. “ Tôi biết Andrew Melton giúp ích dược cho anh rất nhiều. Ông ta bảo với tôi là thỉnh thoảng có bàn chuyện Adele với ông ấy. Lần mới đây nhất khi tôi gặ ông ấy, ông ấy có vẻ phấn khởi và lạc quan về” – giọng nói của Olivia ngập ngừng và nàng dừng lại. Adam thấy ông không thể gặp ánh mắt của nàng. Ông nói: “ Chị có dịp gặp Andrew Melton bao giờ?”.

Ông nói gay gắt, Olivia lại giật mình. “Sao. Ông ấy đến dự một số chiuê đải của tôi ở Luân Đôn và ông ấy đưa tôi đi nhạc kịch, và hòa nhạc một vài lần”. Nàng nói một cách lặng lẽ kinh ngạc về thái độ của ông. Tất nhiên ông ấy hỏi tôi về Adele. “ Tôi hy vọng anh không nghĩ rằng Andrew Melton lại đi phản bội một điều tâm sự”. Khi ông không trả lời, nangw nói bằng giọng tha thiết hơn,”Anh không nghĩ thế chứ, phải không?”

Adam phớt lờ câu hỏi đó. Cơn giận của ông đang trải qua lúc này rất mảnh liệt. “ Vậy là chị đã gặp Andrew rất nhiều?”, cuối cùng ông nói bằng một giọng căng thẳng.

“ Không có gì là sai trái trong việc đó chứ, Adam? Việc tôi, thân mật với Andrew ấy? Xét cho cùng, chính anh giới thiệu chúng tôi mà. Bây giờ trông anh có vẻ không tán thành”. “ Không tất nhiên là không có chuyện gì sai trái trong việc chị gặp ông ta. Và tôi cũng không hề không tán thành”, ông nói giọng thấp.

-“Ồ có đấy”, Olivia nghĩ mặc dù nàng chưa biết được lý do để giải thích cho thái độ của ông. Ông và Andrew là hai người bạn xưa nấht và thân nhất. nàng ngồi lại trên sôpha, để hai tay vào lòng và không nói gì. Nàng không muốn làm ông phiền thêm.

Adam không thể tránh mặt mình nữa. ông buộc phải nhìn nàng. Mắt họ gặp nhau. Ông nhìn thấy những câu hỏi của nàng trong đó, sự bối rối và tổn thương trên nét mặt nàng. Môi nàng hé mở dường như muốn nói, nhưng không một lời thaót ra. Nàng thật đáng yêu, ông nghĩ. Nhưng có cái gì đó mong manh, dể rạn vỡ ở nàng lúc này. Trái tim ông xốn xang, ông vẩn tiếp tục nhìn vào trong mắt nàng, đôi mắt xanh như màu thủy cự, một niềm khao khát kỳ lạ lan tỏa trong người ông. Ông muốn vòng tay quanh người nàng, ôm nàng sat vào người ông, xin náng tha thứ cho sự thô lỗ của mình, xua tan nỗi đau buồn trên mặt nàng bằng những nụ hôn của ông. Bằng những nụ hôn của ông. Ông kinh hoàng.

Thế rồi ông hiểu. Adam Fairley nhận ra một cách hết sức rỏ ràng sự xôn xao, sự căng thẳng, sự bồn chồn của mình là vì sao. Ông đột ngột dứng lên và nắm lấy bệ lò sưởi.

Đồ điên, ong nghĩ, đồ điên. Mày ghen. Lúc trước thì với Bruce McGill khi anh ta quanh quẩn với Olivia và mày ghen với Andrew Melton bởi vì anh ta xứng đáng làm chồng hơn. Mày sẽ ghen với tất cả mọi người đàn ông nhìn nàng. Mày ghen bởi vì mày muốn nàng cho riêng mày.

Ông cảm thấy máu dồn lên mặt. Một cảm giác nôn nao trong lòng và ông sẽ không bao giờ có thể nhìn lại nàng mà không để lộ tình cảm của mình. Ngó nhìn đăm đăm vào lò sửơi ông nhận ra một cái ly trong tay mình. Trong mê hoảng, ông nâng nó lên môi giá lạnh của ông và ngửa cổ uống một hơi.

Olivia cảm nhận, hơn là nhìn thấy, sự bồn chồn của ông bởi bởi vì mặt ông bị che khuất. Nàng ngồi yên lặng và chờ đợi hy vọng ông sẽ tâm sự với nàng.

Nàng liếc nhìn ông qua khóe mắt, nàng cố kiềm bản năng muốn nhoài ra để bàn tay mình lên cánh tay ông an ủi. Ông quay đầu lại, mắt ômg lộ ra. Nó khắc khổ, dôi môi ông nhợit nhạt gần như trắng bệch. Một tay ông nắm bệ lò sưởi, bắp thịt ở mặt ông rần rật.

-“ Adam! Adam! Trông anh lạ quá kìa. Có chuyện gì thế?”. Nàng kêu to.

Ông mơ hồ nghe thấy tiếng nói của nàng. Ông nhắm nghiền mắt lại rồi mở nhanh. “Không có chuyện gì đâu. Tôi hoàn toàn không sao hết”, ông nói cụt ngủn. ông phải ra khỏi chổ này, ngay lập tức. Trước khi ông hành động một cách ô nhục. Làm ô danh của ông. Tự biến mình thành một thằng hề . Ông không cử động, ông thừa nhận với mình, với cảm giác khủng khiếp, là không thể cử động được. Thế nhưng với lương tâm của ing6, ông phải đi. Ông không thể lạm dụng vị trí của mình trong ngôi nhà này, từa cơ hội nàng đang ở nhà ông. Như một kẻ mộng du ông đi qua sàn.

-“Adam! Anh đi đâu thế?”, Olivia gọi với theo nàng đứng lên. Mặt nàng xám ngoét. Giọng nàng run lên, nàng kêu to:”Tôi đã làm gì phật ý anh, Adam?”.

Ông chầm chậm quay gót lại nhìn thẳng vào nàng. Ông để ý thấy nổi quan tâm trên nét mặt nàng, sự hốt hoảng traong mắt nàng, ông cảm động nhứ chưa bao từng bao giờ lại cảm động đến như thế trong bao nhiêu năm nay. Làm sao em có thể làm phật ý anh dược, em thân yêu? Ông nghĩ. Một lần nửa, ông lại có niềm ao ước thôi thúc nhào ra kéo nàng vào trong cánh tay ông. Ông nuốt mạnh nước miếng “ Chị không làm gì hay nói gì phật ý tôi cả, chị Oliviva”, ông trả lời,cố gắng nói giọng bình thường.

Ông do dự, và trong phút giây do dự ấy ông yếu đi, Adam Fairley thất trận:

-“ Tôi chỉ địng đi xuống thư viện kiếm ly rựou và một điếu xì gà”, ông nói dối. Trong khi nói, ông biết ông không thể dối nàng. Ông không thể để nàng ở đây một mình chừng nào cái nhìn sợ sệt vừa bối rối vẫn còn trong mắt nàng.

-“ Tôi có một bình rượu đấy, nàng dựa tay về phía bàn chân quỳ, nhưng tôi sợ lả không có xì gà. Tất nhiện là có nhiều thuốc lá”, không dợi ông trả lời, Olivia cầm chiếc ly ông để trên mặt lò sưởi, đi một bước về phía bàn chân quỳ trước cửa sổ.

Ông sải bước qua phòng đở lấy cái ly trên tay nàng. Tay ông chạm vào tay nàng, ông cãm thấy những làn sóng điện nhỏ chạy trên cánh tay ông. : Xin Olivia cứ ngồi xuống tôi sẽ làm lấy”, ông nói kiên quyết. Ông ấn nàng nhẹ nhàng xuống sôpha. Ông thấy hình như da thịt nàng đốt những ngón tay ông qua lan lụa mỏng của chiếc áo dài nàng đang mặc.

Adam đứng ở bàn chân quỳ, lưng quay lại phía nàng, tay ông nắm lấy cổ chiếc bình thon bằng pha lê. Ông nhắm mắt. Ôi, trời ơi. Ta yêu nàng. Ta đả yêu nàng bao nhiêu năm nay, ông nghĩ. Tại sao ta lại không nhận ra điều đó trước đây ? ta cần nàng. Trời ơi. Ta cần nàng biết mấy. ta cần nàng hơn bất cứ người phụ nữ nào. Nhưng anh không thể có dược nàng đâu, một giọng khẽ từ trong tiềm thức của anh đáp lại. Bàn tay ông nắm chặt chiếc bình. Ông phải làm chủ mình và làm chủ những xúc cảm của mình. Ông không được làm nàng luống cuống hay hoảng sợ. Ông phải cư xử bình thuongừu như tất cả mọi lần có sự hiện diện củ nàng như mọt ngừoi đàn ông lịch sự có danh dự.

-“Olivia, tôi mở cửa sổ có dược không? ở trong này nóng kinh khủng”, cuối cùng Adam nói.

-“ Vâng anh mở cửa đi?” Olivia nói lặng lẻ, sự hốt hoảng của nàng đã giảm, nhưng nàng vẩn còn bàng hoàng vì hành vi của ông. Olivia vẩn theo dỏi Adam đi qua phòng với ánh mắt lo ngại, vẻ mặt đấy quan tâm. Nhưng đột nhiên tất cả mọi sự chú ý của nàng dồn vào ông. Ông đang nhoài ra bàn để mở cửa sổ, thân hìng ông nghiêng nghiêng chiếc áo sơ mi lụa căng ra qua tấm lưng rộng, đôi vai và cánh tay, thể lực cường tráng của ông lộ sau lần vải, cơ bắp nổi lên cuồn cuộn khi ông cử động uyển chuyển. “ Anh ơi” nàng nghĩ “Anh yêu”

Adam thở mạnh bên cửa sổ. Sau nhiều giây ông cầm bình rượu, hai chiếc ly đem trở lại sôpha. Ông nhìn xuống Olivia và mỉm cười: “ tôi nghĩ chị có thể uống cùng tôi, Olivia”, ông nói giọng vững vàng. “ Uống một mình không vui”, ông rót hai ly rượu, đưa cho nàng một.

-“ Cám ơn anh”, nàng nói và mĩm cười đáp lại.

- “ Tha lổi cho tôi đã cư xữ thô lỗ trước đây”, Adam mói và ngồi xuống 1 chiếc ghế. “ tôi thật quạ kệch đã để những nổi ưu phiền cũa tôi chế ngự, trong một giớ khuya khoắt như thế này”. Ông duỗi dài chân ra và thong thả, tựa mình vào ghế, nghỉ. Tiếng thình thịch trong trong đầu ông đã giảm và cái đau nhói trong ngực ông đã biến mất. ý nghĩ duy nhất của ông là giải tội với nàng và làm cho nàng thoải mái.

-“ Anh không cần phải xin lổi, Adam, và nếu như anh cần một bờ vai để tựa thì có tôi ở đây”, nàng nói dịu dàng. Nàng nhìn ông hết sức âu yếm.

- “ Tôi biết như vậy, Olivia, ông dáp. Ông cuối xuống để cầm chiếc ly để trên bàn lên. Áo sơ mi của ông mở ra để lộ bộ ngực và đám lông hung hung. Olivia nhìn ông qua miệng ly, bổng thấy mình đỏ bừng mặt. Tim nàng rộn lên. Nàng vội cuối mặt.

-“ Tôi sẽ quấy rầy chị với những vấn đề khó khăn của tôi đêm nay”, Adam nói tiếp lặng lẻ. “ Nhất là sau một buổi tối vui vẻ nư thế này. Chị ạ, cho mãi đến tận hôm nay ngôi nhà này là một nấm mồ thực sự không tiếng cười, không niềm vui, không còn gì hết; Từ nay mọi sự đã khác rồi”, ông thốt lên. Ông châm một điếu thuốc, cảm thấy trong người đột nhiên thoải mái.

Olivia quan sát ông một cách tư lự. nàng thấy trong Adam tất cả những phẩm chất mà nàng ngưỡng mộ và kính trọng nhất. Trí thức và học vấn của ông luôn luôn lộ rõ. Đôi mắt nàng đọng trên khuôn mặt đẹp trai của ông. Trông ông độc đáo và có duyên, nàng nghĩ. Và đôi mắt thật đẹp. To và trong sáng rất khác với đôi mắt của chồng nàng. Mắt chồng nàng nhỏ, đen và sâu. Charles luôn luôn được coi là đẹp trai. Riêng nàng tâhý anh ta quá to béo phây phây, không thể coi là đẹp trai được. Nàng không hề yêu charles. Tội nghiệp cho Charles đã qua đời. Cha nàng đã sắp xếp cuộc hôn nhân này.

-“ Chị nghĩ gì mà mãi mê thế”, Adam nói và nhìn nàng chăm chú, ông hiểu rõ cuộc độc thoại nội tâm cũa nàng.

Olivia nhỏm dậy, giật mình ra khỏi cơn mơ và không cảnh giác nữa nàng nói: “ Tôi đang nghĩ đến Charles”.

-“ Ồ tôi hiểu. Thì ra là như thế”. Adam chăm chú nhìn xuống mũi giày của mình vì thế nàng không nhìn thấy nét biểu hiện trên mặt ông. Nếu như ông thành thật với chính mình thì ông phải thừa nậhn rằng ông cũng ghen với Charles.

Gời đây ông nói một giọng dịu dàng “ Chị có hạnh phúc không? Oliviva. Gần đây tôi thường tự hỏi điều đó”.

-“Tất nhiên là tôi hạnh phúc”, nàng kêu lên. Anh ấy có hình dung- anh ấy có thể nào tin là nàng đang thương tiếc Charles? “ Tại sao anh lại nghĩ tôi không hạnh phúc?”

Một nụ cười yếu ớt nở trên môi ông. “ Thực ra tôi không biết. tôi nghĩ chắc bởi vỉ chị còn trẻ và đẹp. tôi tin chắc rằng chị có những người cầu hôn khác như Andrew Melton chẳn hạn”, ông cố cười: “ Sao tôi nhìn thấy ánh trong mắt của Bruce McGill đêm nay, và còn nhiều quý ông khác đang mong đợi’.

Olivia nhấp nháp ly rượu. Đôi mắt nàng sáng long lanh và không dời khỏi mặt ông. “ Andrew không phải là người cầu hôn”, nàng nói. “ Anh ấy là một người bạn tốt, thế thôi. Tôi cũng không để ý tớ Bruce McGill mà”. Nàng nhìn ông hồi lâu. “ Thực sự, tôi không để ý tới bất cứ một người đàn ông nào”, nàng thốt lên mạnh mẻ hơn. Và nghĩ: chỉ nghĩ tới anh thôi anh yêu, nhưng anh là chồng của chị gái em và vì thế anh không bao giờ biết được.

Adam đưa tay vuốt tóc một cách nóng nảy. “ chị muốn nói là chị không nghĩ tới việc lấy chồng à?”, ông thúc giục. “ Không, vì tôi không có ý định lấy chồng. Không bao giờ, Oliviva do dự, rồi nói:” adam, tôi hơi lạnh. Anh làm ơn đóng cửa sỗ hộ, dược không?”.

-“Có ngay”, ông nói và nhảy lên.

Khi ông quay lại, Olivia ngồi nhích ra mép sôpha.” Adam, anh làm ơn ngồi đây, bên cạnh tôi. Tôi có điều muốn hỏi anh”.

Ông không còn cách nào khác phải buông mình xuống sôpha. Ông làm việc này một cách lâm lì, tránh sự động chạm nhỏ nhất đối với nàng.

-“ Sao, Olivia? Có chuỵên gì thế cưng?”

-“ Tôi hơi bối rối vì anh hay nói đúng hơn là anh đã bồn chồn trước đó, tôi biết anh không muốn trò chuyện về những vấn đề của anh đêm nay. Nhưng anh có thể tâm sự cùng tôi không?”. Nàng mĩm cười với anh dụi dàng nhất. “ Nói với một người bạn đôi khi cũng có ích, và tôi không muốn nhìn thấy anh đau khổ”.

Adam tự hỏi làm thế nào để tháo gở cho mình. Chắc chắn là ông không muốn cho nàng biết những lý do cho việc bồn chồn của ông trước đó. “ Chẳng có chuyện gì phải thảo luận cả Oliviva”, cuối cùng ông nói.

-“ Tôi cho rằng tôi lo lắng về các con, nhà máy và tờ báo chỉ là những chuyện lo lắng bình thường hàng ngày cũa một người ở vị trí như tôi nhưng không có gì là nghiêm trọng cả”, ông nói một cách khéo léo.

-“ Và anh cũng lo lắng về Adele đúng không?”, nàng hỏi ướm. “ chừng mực nào đó”, adam thú nhận, anh không muốn nghĩ tới vợ mình.

- “ Xin anh đừng lo lắng về sức khỏe của cô ấy quá nhiều. cô ấy đả khá hơn rồi. chính anh đã nói với tôi như vậy mà, và Andrew cũng đông ý. Và đã có tôi ở đây giúp đở anh. Để làm cho mọi việc dể dàng hơn với anh, Oliviva nói bằng một giong an ủi.

“ Nhưng vài tháng nửa chị cũng sẽ đi. Chị nói chị phải trở về Luân Dôn vào tháng bảy”.

-“ Ồ, adam anh biết là tôi sẽ ở lại đây chừng nào mà tôi còn cần thiết”.

- “Thật thế ư?” , Adam thấy tâm hồn lâng lâng.

Nàngmĩm cười: “ Có phải điều ấy làm anh lo ngại không? Anh biết tôi thích ở đây. Ở Luân Đôn, tôi hoàn toàn cô đơn mặc dù tôi rất bận rộn và đầy bạn bè, Adele lũ trẻ và anh, sao, anh là gia đình duy nhất mà tôi có bây giơ”. Như tuân theo bản năng, nàng nghiêng người để tay lên đầu gối anh một cách an ủi. “ tôi sẻ ờ lại đây lâu chừng nào mà anh nghĩ rằng tôi còn cần thiết”.

Adam không thể trả lời được. Ông chỉ có thể nhìn xuống bàn tay nàng. Nó đặt trên đầu gối ông, mềm, mát và trắng như một con bồ câu bât1 dộng. nhưng nó cháy bỏng qua lần vải quần ông như thép nung. Ông cảm thấy sức nóng dâng lên cổ ông, lan khắp mặt ông. Tim ôngbắt đấu đập nhah hơn, ông phải cắn môi để trấn tỉnh lại. ông cầm lấy bàn tay nàng, định đặt nó lại một cách yên ổn trong lòng nàng. Nhưng, khi ông cầm lấy nó, ông thấy ngón tay mình từ từ nắm chặt lấy tay nàng và ông cảm thấy nàng run lên. Ông nhìn vào mắt nàng. Mắt nàng sẩm quá gần như đen. Nó chứa đầy một nổi buồn lạ lùng mà gần đây ông thường để ý thấy.

Olivia nhìn lại chăm chú, rồi, với một chút choáng váng nàng nhận thấy sự ham muốn trần tục trên mặt Adam, nhìn thấy cái nhục dục trên đôi môi hé mở kia, nghe tiếng thở gấp của ông và nàng sợ. Không phải sợ Adam Fairley. Sợ chính nàng. Nàng nhẹ nhàng rút tay ra và từ từ nhích ra xa khỏi ông.

Một vẻ đau đớn hiện trong mắt Adam và trước khi ông kịp ngăn mình, ông đã nghiêng người ra, cầm lấy tay nàng, đưa lên môi. Ông gở nghững ngón tay nàng ra hôn vào lòng bàn tay, ép chặt vảo miệng ông. Ông nhắm mắt. Ông nghĩ mình sẽ nổ tung ra mất.

Đầu Olivia ngửa ra sôpha và môi nàng run rẩy. Một bắp thịt nhỏ nổi trên chiếc cổ mảnh mai trắng ngần, cặp vú nàng nhấp nhô dướic làn áo, Adam nhích lại gần hơn. Ông nhìn sâu trong mắt nàng, đôi mắt vẫn đâu đây rất gần và cuối cùng ông đã nhận ra nét buồn đó là cái gì. Nó không phải là nổi buồn. Đó là một điều mong mõi, một niềm khao khát không ngụy trang và tất cả là dành cho ông. Ông biết diều đó mà không cần phải hỏi.

Niềm vui trào lên trong lòng ông. Ông cuối xuống, hôn nàng nghiêng miệng nàng dưới miệng ông dữ dội đến nổi răng nàng vập vào môi ông. Cánh tay nàng vòng quanh cổ ông, ép ông vào sát người nàng. Adam nghe thấy tim nàng đập thình thịch vào trái tim ông, toàn thân nàng run lên cũng như ông vậy.

Olivia cữ động khe khẻ trong vòng tay ông và lúc này ông cảm thấy bàn tay sờ miết vào bộ ngực để trần của ông. Ông vừa hôn tóc nàng, mặt nàng cổ nàng vừa lẩm bẩm gọi tên nàng, gọi nàng lan ngừơi yêu, ngưởi tình, người yêu duy nhất, nói với nàng những điều ông chưa hề nói với một phụ nử nào. Nàng đáp lại cũng cuồng nhiệt như thế, giọng nàng run lên đầy yêu thương và ham muốn càng làm cho ông rạo rực điên cuồng.

Đột ngột adam lùi ra và đứng lên. Ông nhìn xuống nàng. Mắt nàng mở to, dò hỏi.

Olivia nhìn lại Adam. Mặt ông phị ra , mắt ông bốc lửa và toàn thân ông giần giật một niềm ham muốn khi ông đứng vươn lên trước mặt nàng. Như bị thôi miên, ông không sao rời mắt khỏi nàng.

Bị cơn khát vọng xô đẩy, nổi thèm nhục dục bừng lên trong lòng ông sau bao nhiêu năm sống độc thân, dược khơi dậy bởi cơn mê say của Olivia, chếnh choáng vì men rượu, Adam Fairley không kìm lòng được nữa. Không nói một lời, ôngôm nàng lên trong đôi tay của mình, mang nàng qua sàn.

Olivia bám chặt lấy ông, đôi cánh tay nàng vòng riết lấy người ông, mặt nàng vùi vào mái tóc quăn, mềm sau gáy ông, nàng có thể nghe tiếng đập thình thịch của tim ông to như tiếng đập của chính tim nàmg. Nàng ghì chặt thêm.

Giây phút này, những nguyên tắc của nàng tan rả, những luật lệ nghiêm khắc nàng hằng đeo đuổi cũng bị buông lơi. Tất cả đều bị cuốn đi bởi sức mạnh của dục vọng và nổi khát khao nhau của hai người. Những tình cãm bị dồn nén bao nhiêu năm nay cuối cùng đã tung ra, bởi vì nàng cũng khôngsuy nghĩ nột cách hợp lý nữa. Nàng đã ở trong cánh tay người đàn ông duy nhất mà nàng yêu. Người đàn ông nàng đã thuộc về ngay từ ngày đầu tiên nàng gặp. Và bây giờ chĩ có điều ấy là có ý nghĩa.

Chân Adam run lên khi ông bước tới giường. mình không nên làm như vậy, ông nghĩ. Nàng là em vợ mình. Nó ngược lại tất cả những quan niệm của mình về tôn giáo, về đạo đức, về danh dự. Mình không nên làm như thế. Như vậy là không đúng, ông tự nhủ lòng. Và rồi , ông nghĩ: Nhưng ta cóc cần.

Adam để Olivia nhẹ nhàng xuống giường. nàng nằm trên gối, nhìn lên ông, mặt nàng vẫn còn trắng và căng thẳng, hơi thở vẩn gấp. Adam ngồi xuống mép giường cúi xuống nàng. Ông để tay qua cổ nàng, tháo chuổi vòng đeo cổ và cẩn thận bỏ đôi bông tai bằng saphia. Ông để chúng trên chiếc bàn trên giường, hai tay ôm lấy mặt nàng âu yếm. Ông hôn nàng thật lâu và thắm thiết. Rồi, nửa mỉm cười, ông đứng lên, đi nhanh tới cửa phòng ngủ. Ông nghe thấy nàng thở há ra. Ông quay lại nhìn nàng. Ông bắt gặp nổi đau đớn và kinh hoàng trên nét mặt nàng, nổi hoảng sợ tràn ngập ánh mắt nàng.

-“ Em đã đợi anh hai mưoi năm”, Oliviva thì thầm khe khẻ như một tiếng rên.” Đó là một nửa đời em, Adam Fairley ạ. Bây giờ anh không rời em nữa chứ?”

Adam lắc đầu: “ Không, anh sẽ không rời em, em yêu. Không bao giờ. Không bao giờ nữa”.

Mắt ông rời mặt nàng, một tay ông khóa cữa, tay kia ông bắt đầu cởi nốt khuy chiếc áo sơ mi lụa nhầu nát của ông.

Emma ngồi ở bàn trong bếp của Fairley Hall, khâu một cái cổ đăng ten trắng vào, một chiếc sơ mi lụa mà Olivia Wainwright đã tặng cho cô cùng với một cái áo dài vải bông xanh và một cái khăn len dày màu đỏ sáng chói.

Trong bếp ấm cúm. Ngọn lửa reo vui trong bếp lò, mặt trời ùa vào qua những cánh cửa sổ lónh lánh và cả căn phòng bừng lên trong anh nắng chiều, nắng hắt vào những đồ đồng bóng loáng, chiếu lên sàng khiến nó cũng thành màu vàng. Không khí hết sức thanh thản, yên bình đó là chủ nhật. Murgatroyd vừa đi Pudseyđể thăm bà chị lão, và Annie cô hầu phụ đang ở phòng ăn trên gác theo chỉ địng của Emma và đang dọn dẹp bàn ghế để chuẩn bị bửa ăn tối. Ngọn lửa reo phần phật cùng tiếng nổ lách tách hầu như hòa cùng tiếng gáy của bà Turner. Bà bếp nằm trong ghế, ngủ trước ngọn lửa, mũ làm bếp nghiêng sang một bên, bộ ngực đồ sộ của bà nâng lên nâng xuống một cách mãn nguyện trong khi bà vẩn tiếp tục ngủ, mơ những giấc mơ yên ổn của mình. Những âm thanh duy nhất khác là tiếng tích tắc của chiếc dồng hồ và thỉnh thoảng tiếng rít của gió khi nó lách cách đập vào cửa sổ. Mặc dù trời nắng, và bầu trời trong xanh, nhưng ở bên ngoài là một ngày tháng tư ào ào gió.

Emma vuốt thẳng miếng lụa vả giơ chiếc sơ mi lên phía trước, ngắm nghiá nó một cách tán thưởng. Vớikiếu thẩm mỹ bẩm sinh và đôi mắt sắc sảo của mình, cô nhận ngay ra cái lịch sự của nó. Nó gần như mới, màu xanh rất dể thương. Như bầu trời bên ngoài, Emma nghĩ khi liếc nhìn ra ngoài cửa sổ. Như đôi mắt của mẹ mình, cô thầm nhủ và quyết định sẽ đưa cho mẹ cô vào cuối tuần khi cô về nhà. Ý nghĩ là có thể trao cho mẹ một cái gì đó đẹp đến như vậy làm lòng Emma tràn đầy sung sướng và khuôn mặt vốn bình thản của cô đột nhiên chiếu rọi bằng một nụ cừơi vui. Cô nhặt một cái ren lên, dính nó vào một ống tay áo dài, đầu óc cô nghĩ tới Leeds và kế hoạch với chử K hoa của cô.

Vừa lúc đó, cánh cửa bếp bên ngoài mở tung rất mạnh tiếng kêu rấm làm Emma giật mình. Cô nhìn ra cửa, nghĩ chắc đó là do gió thổi ở bên ngoài. Khi cô sắp sửa đi đóng nó lại thì một bộ mặt vui vẻ xuất hiện ở ngưởng cửa. Những búp tóc đen bay trong gió, đôi mắt đen trong sáng rỡn đùa vui vẻ trên hai gò má đen, cái miệng rộng nở nụ cừơi tinh nghịch.

-“Anh hy vong em không tan biến đi trong cái ngày giá rét này”. Giọng nói đầy sắc thái địa phương, tiếng cười và niềm yêu đời. “Anh hy vọng em sẽ cho anh một cốc nước chè chứ”. “ Blackie!”, Emma kêu ré lên hoàn toàn quên bà turner đang ngủ, sung sướng cô nhảy lên chạy qua phòng, váy quấn vào cặp đùi dài, mặt cô rặng rở. Blackie lách tấm thân khổng lổ qua cửa, nhảy xuống bực ba bước một. Anh nhấc bổng Emma lên trong cánh tay nâu rám cũa mình quay cô mấy vòng cho đến khi căn phòng quay cuồng trước mặt cô, rối anh đạt cô xuống một cách cẩn thận. Anh ngắm cô nhẹ nhàng, dể cô cách môt sải tay,xem xét thật tỉ mỉ.

Mỗi lần anh gặp em em đều đẹp thêm ra em gái, anh reo lên. Anh tin em là cô gái đẹp nhất nước Anh, thề có Chúa, thật đó!

Emma đỏ bừng mặt xinh đẹp. “ Ấy. Blackie, anh chỉ dược cái hay trêu thôi, đừng ngớ ngẩn nữa.” Điều này dược nói một cách gay gắt, nhưng cô rạng rở vì sung sướng.

Tiếng ầm ỉ đánh thức bà bếp, bà giật mình ngồi dậy và dụi mắt. Bà chớp chớp, thoáng bối rối. “sao có chuyện gì thế?”, bà hét lên, trợn mắt nhìn Emma:”cô làm ầm ỉ đủ đánh thức cả ngừoi chết trở dậy”.

Nhưng trước khi Emma kịp báo sự đến của người khách bất ngờ, Blackie đả sải bước qua bếp để làm lành với bà bếp: “ Bà không nhìn thấy sao, bà Turner thân yêu”, Blackie nói: “ Cháu dây mà, cháu đến để chào bà và tặng bà cái này”. Anh dừng lại bên ghế của bà và với một chút khoa trương anh rút trong túi áo ra một gói giấy nâu, đưa cho bà và cuối chào lịch sự. Cơn cáu bẩn của bà Turner lập tức tan biến đi khi thấy Blackie O’neill người mà bà trở nên rất thích.

- “ Kìa. Blackie, cậu đấy à”, bà bếp hớn hở nói. Bà ngó nhìn vào trong gói và con mắt màu nâu giống như mắt chim của bà bừng lên. “ Ôi, Blackie, kẹo bơ và bạc hà món sở thích của tôi đây. Cám ơn cậu. Cậu thật chu đáo quá. Đúng thế. Và cậu có nghe thấy tin tức của chúng tôi không? Chúng tôi không cần phải lo ngại nửa”. Một vẻ đắc thắng hiện trên nét mặt bà bếp khi bà tâm sự .” “ Lỏa ta bị chặt vây cánh rồi, Backie ạ. Bị rồi. Mọi việc đã thay đổi ở đây từ khi bà Wainwight tới”. bà bếp nở một nụ cười thỏa mãn và rồi nói tiếp: “ Bà Wainwight rất tốt với tất cả chúng tôi. Phải, dúng thế. Bà ấy quả là một thiên thần”.

-“ Qua những điếu cháu nghe được thì đúng bà ấy là một thiên thần”, Blackie nói, đôi mắt anh vui vẻ. “ Và chẳng lẻ cháu lại không thấy việc đã tốt đẹp lên hay sao, bà Turner? Đúng là như vậy , cám ơn Chúa.”

Blackie liếc nhìn Emma rất nhanh và càng ngạc nhiên hơn. Cô đả nở hoa thành một thiếu nữ trẻ thực sự kiều diễm. Trông cô no đủ và tươi đẹp, nét mặt rặng rở và mái tóc óng mượt, cô mẵc áo màu xanh và chiếc tạp đề trắng cứng.

-“Vâng đúng thế, nó làm tôi ấm cả lòng khi thấy cô gái được ăn uống no đủ và mặc quần áo đẹp đẻ”. Blackie nói thêm, anh gật đầu tán thưởng. Bà bếp chặc lưởi hưởng ứng và ngã người trong ghế. Bà bỏ một chiếc kẹo bạc hà vào mồn co hai chân lên bệ lò sưởi.

Lúc này Blackie đã ngồi ở bàn đối diện với Emma. Anh móc ở phía trong áo khoát và đem ra một gói nhỏ: “Còn cái này cho em, cô gái”, anh nói một cách quan trọng, để nó trên bàn trước mặt cô. Cặp mắt đen vui tươi của anh nhìn cô trìu mến.

Emma nhìn cái gói rồi nhìn Blackie với đôi mắt to:” Cái gì thế?” cô hỏi, giọng thì thào.

-“ Vớ vẩn ấy mà. Quà sinh nhật cho em”. Blackie nói. Miệng anh co lại vì sung sướng khi anh quan sat nổi tò mò ngày một tăng lên với sự ngóng đợi của cô.

-“ Mãi đến cuối tháng tư mới là ngày sinh nhật của em cơ mà”, Emma nói. Cô cầm cái gói lên, lật nó trong tay. Xem xét nó với nổi thích thú mgày một tăng lên. Trứơc đây cô chưa bao giờ nhận được một món quà như thế này. Một món quà bọc trong giấy bạc buộc bằng giây bạc. Suốt đời cô, chưa bao giờ có như thế. Trông đẹp quá không dám mở ra nữa.

-“ Ồ, anh biết là bao giờ chứ”, Blackie nói với cô. “ nhưng cậu Pat anh bảo anh đi Harrgate để làm một công trình xây dựng lớn nah sẽ phải đi ba tuần hoặc hơn nữa. Anh không muốn lỡ cái ngày sinh trọng đại của em. Vì thế anh phải mang đến cho em hôm nay, cô gái tốt của tôi”.

Emma nhìn xuống món quà trong tay. Mặt cô đỏ ửng lên, đôi mắt sing động của cô lóng lánh ánh xanh. “Bây giớ em mở được không”. Cô hỏi, không giấu được sự kích động. “ Em không phải dợi chứ?”.

-“ Chắc chắn thế rồi, Emma. Em mở ngay đi”, Blackie nói hết sức dụi dàng.

Emma cởi chiếc giây bạc, bỏ giấy bọc ra một cách hết sứa cẩn thận. Một chiếc hộp nhỏ màu đen hiện ra, Emma mở to mắt nhìn, trái tim cô rung động. Chầm chậm, cô mở cái nắp ra. “Ô, Blackie, đẹp quá”, cô há miệng, mắt mở to hơn. Đôi tay run run, cô lấy ra một chiếc trâm nhỏ hình cung trang trí bắng đá xanh sáng. Cô giơ lên ánh sáng. Chiếc trâm nhỏ rẻ tiến lóng lánh, trong ánh mặt trời sự lòe loẹt của nó giảm đi, và trong bàn tay cô, hình như nó mang một vẻ đẹp đặc biệt đến blackie cũng phải ngạc nhiên.

-“ Bà xem này , bà Turner”, Emma rít lên, cô chạy lại cho bà bếp xem. Bà bếp nói” Ồ. Cháu là một cô gái may mắn, Blackie nhớ ngày sinh nhật thứ mười lăm của cháu thật là phải quá”. “Nó chỉ bằng thủy tinh thôi mà”. Blackie nói bằng một giọng như cáo lổi. Nhưng khi tôi nhìn thấy nó trong cử hiệu Leeds trong một lối đi lớn, toôi tự nhủ: “sao, đâ là màu mắt ngọc bích của Emma, đúng là như thế. Vì thế mà tôi mua, không một chút do dự”. Blackie cười cuốn hút. “Khi tôi làm một kẻ thương lưu, một triệu phú một ngày nào đó, tôi sẽ mua cho em một cái trâm đúng hệt như cái này, cô gái. Nhưng nó sẽ được làm bằng ngọc bích thứ thiệt, anh có thể hứa với em điều đó”. Anh tuyên bố bằng một niềm tin tuyệt đối. “anh không cần phải làm thế”, mma vội nói: ‘Cái trâm nay là cái đẹp nhất chưa bao giờ em thấy. Sao, em sẽ giữ nó mãimãi. Em không cần ngọc bích nòa hết, anh blackie ạ. Thế này là hoàn rồi. Cám ơn anh thật nhiều”. Cô cười với anh rạng rở và hôn lên má anh.

Anh ôm ghì cô và nói: “Anh sung sướng vì em thích nó, emma ạ”.

Emma ngồi xuống, nụ cười vẩn còn đọng trên môi, vài giây sau, cô để chiếc trâm trở lại an toàn vào hộp của nó, nhưng vẩn mở nắp để có thể ngắm nghía nó.

-“ Thế nào, bây giớ có làm một chén nước chè không, cậu hả, bà bếp nói vả nhỏm người khỏi ghế với nhiều tiếng phì phò. Bà sửa lại chiếc mũ, vuốt thẳng tạp dề và tiếp tục: “ Nước đang sôi, tôi sẽ pha cho”. Vừa nói bà bếp vừa lạch bạch ra chạn bát đĩa, lấy cái bình nâu, hộp đụng chè và bắt đầu làm vội vàng.

-“ Cám ơn bà Turner, như vaậy thì tốt qua”, lBackie nói, vắt đôi chân to lớn của mình, ngồi lại thoải mái trong ghế. Anh dồn tất cả mọi sự chú ý vào Emma. “chủ nhật mà em làm gì ở đây vậy, anh có thể hỏi được không?”, anh hỏi và cau mày. “ Anh cứ nghĩ là em được nghỉ như thường lệ. Anh đã định đến nhà ba em. gửi lại quà cho em, sau khi đến đây thăm bà Turner tí chút”.

-“Ông chủ thiết tiệc đêm qua, bà Wainwright bảo em làm việc thêm một ngày nghỉ, có nhiều công việc dọn dẹp phải làm”, Emma giải thích. “Thứ năm em mới về nhà, nhưng bà Wainwright rất tốt Blackie ạ, bà ấy đã cho em nghỉ bốn ngày liền, hai ngày để bù vào những ngày cuối tuần này, cả thứ bảy và chủ nhật tới nửa”.

- “ Như thế thì anh rất mừng”, blackie nói. “ Thế ông chủ thiết tiệc à? Anh chắc phải thịnh soạn lắm nhỉ? Rất nhiều người thượng lưu ở đây, anh nghĩ thế, Blackie cười. Không còn nghi ngờ gì nữa rồi à, đúng thế, có tiền thật là tuyệt vời.

Emma gật đầu long trọng mắt cô long lanh. “ Anh nói đúng, Blackie ạ, có tiền ai cũng có thể trở thành thượng lưu”. Cô nhìn anh một cách tán thưởng và nói tiếp: “Trông anh củng diện lắm. Có phải là một bộ quần áo mới không?”

Blackie rạng rở và ngồi thẳng lên hơn, vuốt chiếc áo vét màu xẩm, bằng pôpolin tốt. “Đúng thế. Và cà vạt mới nữa”, anh vừa nói vừa sờ chiếc cà vạt màu xanh xẫm một cách kiêu hảnh. Anh nháy mắt. “ Hôm nay anh mặc bộ quần áo chủ nhật đẹp nhất. Em không nghĩ là anh đến thăm một tiểu thư trong bộ quần áo công nhân chứ?”

Emma mỉm cười cô không để ý tới lời bình luận đó và nói: “ Già mà anh nhìn thấy bà Fairley và bà Warnwright nhỉ. Trông hai bà thật đẹp. Y như tranh của những tờ họa báo. Thanh lịch thật sự”.

-“ Anh cũng có thể hình dung ra được”, Blackie nói. Anh nhìn Emma một cáh triều mến và nói, “ và một ngày nào đó, em sẽ cũng như thế, cô gái nhỏ của anh, khi em là một bà mệnh phụ”. Emma đỏ bừng mặt. “Ôi, không phải đâu”, cô lẩm bẩm, bổng nhiên e thẹn. “Nhưng anh hãy kể cho em nghe nhửng chuyện ở Leeds đi, Blackie. Gần đây anh làm gì ở đó”.

-“Cũng chẳn có chuyện gì nhiều", Blackie nói một cách thận trọng, đôi mắt anh cẩn thận khi anh nhận thấy cái dáng vẻ đó trên nét mặt nàng, cái dáng vẻ đó luôn luôn xuất hiện khi cô nhắc đến thành phố này. " Mọi sự vẩn nhừ thế, anh nghĩ, anh chẳng có chuyện gìlý thú để kể với em cả, em gái ạ, anh nói thật đấy. Tất cả những việc anh làm từ khi anh gặp em lần cuối vào tháng ba là làm quần quật. Anh và cậu Pat của anh có quá nhiều việc quá sức, không kham nổi. Nhờ ông chủ. Đúng thế, chính ông chủ đã giúp cậu cháu anh làm ăn phát đạt. Đã giới thiệu cho cậu cháu nah và tất cả những chuyện đó”. Lúc này không giấu nổi niềm vui, anh hể hả nói thêm mà không xem tác dụng nó gây cho cô. “ Emma, anh không nói dối em đâu khi anh nói công việc làm ờ Leeds rất phát đạt”.

Emma nhìn Blackie chăm chú. Cô nghĩ: Thế thì thế nào mình cũng phải sớm tới đó, nhưng cô lại nói: “ Thế ông chũ được cái gì?”

Blackie hất chiếc đầu khổng lồ cũa mình về phía sau cừoi phá lên. “Ông chủ chẳng được cái gì cho bản thân mình”, anh lại nói, “ Tại sao em lại nghĩ ra một chuyện như thế , em gái?” Blackie rút ở túi ra một cái mùi soa đỏ, lau mắt và hỷ mũi.

-“ Bởi vì em biết ông chủ, ông ấy không bao giờ làm cái gì không cả”, cô nói một cách rắn rỏi, sự khinh bỉ hằn trên khóe miệng cô. “Ông ấy thì chai sạn lắm”.

Blackie lại cười và vổ đùi: “ Emma! Emma! Không phải ai cũng cần có đi có lại đâu”, anh cãi lại nhẹ nhàng. “ Nhất là một nhà quí tộc như ông chủ. Ông ấy giới thiệu cậu cháu anh bởi vì ông ấy quen với công việc của anh. Ông ấy biết cậu cháu anh là những người thợ nề và nhà xậy dựng tốt, anh và cậu Pat. Đúng là như vậy”. Anh dừng lại và nói một cáh chắn chắn. “ anh nghĩ ông ấy cũng giới thiệu cậu cháu anh bởi vì ông ấy thích cậu cháu anh”.

- “Ồ, À”, Emma nói một cách khô khan, đôi ắt cô ngờ vực. Cô thấy khó có thể tin điều đó.

Blackie tựa ngừoi qua bàn nói với vẻ tâm sự. “Ờ, hơn cả thích nữa: em biết không em gái. Ông cậu Pat của anh đã cứu sông ôg chủ ba năm trước đây và ông ấy rất biết ơn”. “ Cứu sống ông chủ”, Emma lập lại một cách lạnh lùng. “Ông chủ anh làm thế nào”.

-“ Lúc đó ông chủ đang dắt xe độc mã qua Leeds, xuống Briggate, anh nghĩ thế, thì ngựa lồng lên. Đúng thế. Ông cậu Pát của anh thấy vậy, với sự nhạy cảm cao độ, cậu nhãy lên lưng ngựa đó kìm nó lại”, Blackie nói, bất giác ưỡn hai vai ra sao. “Ông cậu Pát của anh vốn là ngưởi to lớn, nhưng ong cũng phài ráng hết sức mới làm nổi! Nếu không có ông cậu Pát của anh, thì hẳn là ông chủ đã chết rồi, chắc chắn là như thế, thực là cực kỳ nguy hiểm. Sau nữa, ông cậu Pát cũa anh có thể bị ngựa dẩm lên và tàn tật suốt đời”.

Blackie nhìn emma có vẻ am hiêu. “ Phải rồi, cô gái ơi, ông chủ biết ơn, như anh đã nói đó, và có ấn tượng rất tốt đẹp với lòng dũng cảm của cậu Pat và muốn đền đáp ông”. Blackie lắc đầu và tiếp tục một cách đùa cợt, “ông cậu Pát của anh, không chịu lấy tiền. chỉ một kẻ ngoại đạo, mới lấy tiền khi cứu mạng một người khác. Ông cậu anh nói như thế; Vì thế, ông chủ, với lòng biết ơn đời đời, đã cho cậu cháu anh công việc và giới thiệu chúng tôi”, Blackie kết luận một cách đắc thắng và gật đầu. “ Chúng tôi vui sướng có dược công việc dó, cô gái ạ”.

-“ Ông cậu Pát của anh hẳn rất dũng cảm”, Emma nói. Cô suy nghĩ một lát, rồi mím môi lại thành một đường thẳng. “ Vâng em hy vọng anh đòi ông chủ nhiều tiền và những ngừơi ông ấy giới thiệu”, cô bình luận một cách chua chát.

-“ Kìa Emma Harte! tại sao lại nói như thế”. Blackie kêu lên vờ hốt hoảng. Anh giấu nổi thích thú của mình và thốt lên, “ anh có thể thấy em lớn lên thành một cô gái Yorkshire ương bướng”

- “ Chè được rồi!”, bà bếp tuyên bố, cắt đứt cuộc nói chuyện của họ. “ Emma cháu hãy mang những đĩa, tách đẹp nhất ra và trải khăn thêu đẹp nhất lên bàn, hôm nay chủ nhật và chúng ta có khách”. Bà bếp lạch bạch bưng khay trà tới. “Cháu có thể làmgì để giúp bà, thưa bà Turner?”, Blackie đứng lên hỏi.

- “ Không có gì hết, cậu cả. Cậu cứ ngồi. Chút xíu nữalà xong thôi”. Bà lại tất bật bỏ đi, mấy giây sau, bà quay lại với một chiếc khay nữa, chất đầy những đĩa đựng sanuých, thịt lợn mứoi, những khoanh bánh mì thịt bê và thịt lợn muối ngon lành, những khoanh xúc xích nóng, nhửng dĩa nhỏ đựng hành muối, củ cải, các loại rau trộn, bánh nướng nóng phết bơ, mứt dâu, và một chiếc bánh hạt caraway thật lớn.

- “ Cháu thề là chưa nhìn thấy một bửa tiệc trà nào như thế này, bà Turner. Thề đó là sự thật”. Blackie nói. “ Bà đã làm quá sức của mình, bà Turner thân mến. Đúng đấy, là bửa tiệc sang trọng nhất đời cháu”.

- “ Tôi chắc cậu đã hôn tảng đá Blarney Stone(1) trước khi cậu rời Ailen”, bà bếp nói nhưng đôi mắt bà tươi cười và đầy vui thú. Bà nhìn blackie thân thiết vổ vai anh.” Nào, thôi đi cậu. Nịnh bà già như tôi thì Được gì “.

Vừa lúc này, Annie, cô hầu phụ từ trên gác đi xuống. Cao lớn, nước da trắng hông, tóc hoe, đôi mắt xanh nhạt. Annie giống hệt như một cô gái vắt sửa và dáng điệu của cô cũng nặng nề chậm chạp.. Emma bàu dĩa tách ra, cô nhìn lên: “ Cậu đã don dẹp xong mọi thứ ở trên gác chưa, Annie? mọi sự ổn cả chứ, mình”; Annie gật đầu chậm chạp, nhưng vẻ bình thản thường nhật của cô đã biến mất, và Emma đã nhận thấy ngay. “ Ra chậu rửa tay đi cưng, chúng mình sẽ dùng trà.”. Emma nói vội vàng, dắt Annie qua bếp, không để cho bà bếp nghe thấy,” Có phài cậu vừa đánh vở cái gì không, cưng”, emma hỏi. “ Không, Emma ạ, mình rất cẩn thận như cậu đã dặn mình đấy”. Annie nói.

- “Vậy thì có chuyện gì trong cậu lo lắng bồn chồn quá đi. Mình trông thấy cậu thế nào ấy”.

- “ Bà fairley, Annie thì thào bí mật: “ Bà ấy làm mình ngạc nhiên quá, thật dấy, emma ạ”.

-“ Có chuyện gì xãy ra?”. Emma mở vòi nước làm như rửa tay để cho át tiếngnói của hai người.

-“ Mình lên gác để xem bà chủ, như cậu đã dặn mình, sau khi mình đả dọn bàn xong. Nhưng khi mình gõ cửa , bà không trả lời. mình mói đi vào phòng khách thì thấy bà ở đó, ngồi trong bóng tối và nói lầm bầm.

- “ Thế thì có làm sao?”, emma gắt lời một cách sốt ruột. “ Cậu không hiểu, Emma! Không có ai ở đó với bà cả, bà ấy nói với cái ghế không”, Annie thì thầm mắt cô mở to như cái dĩa. “ Này Annie cưng, không thể như thế được. Có lẽ bà warnwright ở đó. Có lẽ bà ấy ở nơi nào đó trong phòng mà cậu không để ý thấy”, Emma nói và cau mặt dù cô cũng nghĩ là không thể như thế được.

-“ Bà warnwright di Kirkend chưa về”, Annie lẩm bẩm: “ Vả lại, khi bà Fairley trông thấy mình, bà ấy thôi không nói nữa. Mình hỏi bà ấy có dùng trà không, hỏi hết sức lễ độ, như Emma dặn mình ấy, bà ấy nói bà ấy không, nhưng bảo mình bảo với cậu là bà ấy sẽ dùng cơm tối sau đó”, Annie nói. Cô bắt đầu thở dể dàng hơn khi đã an toàn trở lại bếp.

- “ Có lẽ tôi nên lên xem bà ấy thế nào”, Emma nói một cách lo ngại.

-“ Không cần đâu, Emma ạ. Bà chủ nói với mình bà ấy mệt lắm, vì thế mình đã đở bà ấy lên giường rồi. bà ấy đã nằm và một vài phút nữa sẻ ngủ”. Annie dừng lại và nắm cánh tay Emma. “ Emma này-“ cô ngập ngừng và im lặng.

- “Ờ, còn cái gì nữa thế cưng?” emma hỏi.

- “ Bà fairkey có mùi lạ quá, bà ấy có mùi Whiskey. Hay ít nhất mình cũng nghĩ như thế”, annie tâm sự.

Mắt Emma nheo lại, như giọng nói cô hoài nghi: “Ố annie chắc cậu tưởng tượng”.

-“ Không, mình không tưởng tượng đâu. Thật đấy, Emma ạ”.

Emma trợn mắt nhìn Annie. Trước hết alm2 sao cô biết mùi whiskey như thế nào , Annie Stead? Ông bà cô chỉ có uống bia thôi”. Cô nhìn xoáy vào Annie rồi nói thêm, giọng bao dung. “ Bà Fairley dùng một loại thuốc đặc biệt. Đó là các mùi mà cô ngửi thấy đó, Annie stead.

-“ Nếu chị nói thế”, Annie nói, bởi vỉ cô phục và cũng sợ Emma nữa. Dù sao, cô cũng tìm được đủ can đảm để nói thêm: “ Nhưng bà chủ cứ nói chuyện một mình. Điều ấy thì không còn lầm lẩn vào đâu được nữa”.

Emma, cảm thấy buộc phải bảo vệ Adele Fairley, cô nghĩ nhanh và nói với nụ cười hiểu biết. Chắc hẳn bà ấy đang làm như vậy khi cậu vào. Có diều cậu không để ý thấy quyển sách thế thôi”. Cô nhìn Annie một cách hăm dọa khiến cho cô này tái mặt đi và co dúm người lại. “ Nhưng nếu cậu quan tâm đến như vậy, tôi sẽ llên thăm bà ấy ngay bậy giờ”, emma nói lạnh lùng, Annie lắc đầu.

-“Không! Không! Cứ để bà một mình Emma. Bà đang ngủ rất say khi tôi xuống mấy phút trước đây”.

-“Này, các cô! Làm gì mà thì thà tì thào ờ chậu rửa thế. Các cô có biết tôi không thích cái kiểu ấy đâu”, bà Turner kêu lên một cách tức giận. Bà vỗ tay: “ Emma, Annie! Lại đây uống trà đi. Tôi không cho phép thì thào nữa”.

-“ Không được nói gì với bà bếp đấy”, Emma dặn. Cô tắt vòi nước, lau tay khô và làm ra vẻ như không có chuyện gì. Như vậy là cả Annie cũng ngưởi thấy mùi rượu, Emma buồn phiền nghĩ. Nhưng khi ngồi xuống bàn, cô thừa nhận với mình là lên gác bây giờ thì phi lý nếu như bà Fairley đang ngủ. Đó là tốt nhất cho bà lúc này, Emma quyết dịnh, với sự khôn ngoan vốn có của cô.

Do ảnh hưởng sôi nổi cua Blackie, emma chẳng bao lâu thấy vui vẻ lên. Anh là một người kể chuyện tuyệt vời, và làm mọi người cười suốt buổi trà với những câu chuyện vui vẻ và những lời trêu chọc của anh. Emma thấy rằng cô đã hoàn toàn gạt được Adele Fairley ra khỏi đâu óc cũa mình và cô bắt đầu thích thú như những người khác. Cô cười rất nhiều làm Blackie hết sức vui. Theo ý anh, cho đến nay, Emma lúc nào cũng quá nghiêm trang vì vậy thấy cô vui vẻ anh hất sức sung sướng.

Không khí cởi mở, bếp vang lên tiếng cười ầm ỉ của Blackie, những tiếng khúc khích, tiếng ré lên sung sướng và thình thoảng tiếng mắng của bà bếp khe khẻ mồn thôi, thốt lên một cách khoan nhượng qua những tiếng cười dòn của chính bà.

Khi họ ăn xong, Emma nói: “ Hát cho chúng em nghe đi, Blackie”.

-“Ừ, nhất định rồi em gái, thế em thích nghe bài gì?”. “ Anh hát bài Dannyboy dược không Blackie?. Bà Turner thích…”. Emma dừng lại và nhìn ra ngoài cửa bếp bị bật mở tung ra rung bần bật trong gió. Cô hà hốc miệng vì khinh ngạc khi thấy cậu em trai Frank đứng ở ngưỡng cửa. Cậu đóng sầm cửa lại một cách giận dữ và bước xuống những bậc đá, đôi ủng cậu kêu ầm ầm, bộ mặt nhỏ trắng và lạnh, thân hình gầy gò của cậu run lên bần bật trong chiếc áo vét sờn rách. “ Trời đất ơi! Thế này là thế nào?”, bà Turner kêu lên bối rối.

Emma chồm lên, chạy qua phòng. “ Em Frank, có chuyện gì thế?”, cô vừa hỏi vừa kéo cậu lại một cách che chở, Frank hà miệng thở, đôi mắt cậu mở to vì khinh hoàng, những vết tàn nhang nổi trên bộ mặt mệt mỏi của cậu. Emma nhẹ nhàng dắt em tới bên ngọn lửa dổ dành như bà mẹ và vổ vai an ủi. Hơi thờ của cậu bé nặng nhọc, bởi vì cậu chưa thể nói lên được. Cuối cùng cậu mở dược miệng: “Bố nói chị phải về nhà ngay, Emma. Ngay bây giờ!”.

-“ Có chuyện gì thế?” Emma nói, cô hôt hoảng nhìn vào mặt em, đầu óc quay cuồng. Mắt Frank đấy nước mắt, trước khi cậu nói theo bản năng, Emma đã hiểu một cách chính xác em muốn nói gì. Cô nín thở và cầu chúa là mìn lầm.

-“Mẹ của chúng mình Emma. Bố sai em đi báo cho chị là mẹ mệt lắm. bác sỉ Mac cũng có mặt. nhanh lên!”. Cậu gào lên, túm lấy cánh tay chị một cách điêm cuồng.

Mặt Emma trắng bệch và sự sợ hải làm mắt cô tối đen lai, nó mang màu Malachite. Cô cởi tạp dề, chạy vào chạn bếp, nắm lấy áo khoát và khăn không nói một lời. Blackie và bà Turner trao đổi cái nhìn lo ngại. Bà Turner nói: “ Cháu, bác nghĩ không có gì trầm trọng đâu. Đừng hốt hoảng. Cháu biết gần đây mẹ cháu đả khá hơn nhiếu mà”. Giọng bà an ủi, nhưng bộ mặt to béo của bà đầy lo âu.

Blackie đứng lên, ân cần giúp Emma mặc áo. Anh nắm chặc tay cô, nói nhe nhàng:” bà Turner nói đúng đấy. Chắc chắn là bà ấy nói đúng. Emma ạ. Đừng sợ. Mẹ em có bác sĩ tốt chăm nom”. Anh dừng lại nhìn bộ mặt khinh hoàng của cô. “ Em có muốn anh đi cùng với em không?.

Emma nhìn lên và lắc đầu “ Nhưng nếu bác sỉ Mac ở đó cùng với mẹ thì tình hình hẳn là nguy kịch”. giọng của Emma run rẩy, mắt cô ngấn nước mắt.

-“ Emma đừng vội kết luận’, Blackie nói hết sức nhẹ nhàng, cố gắng làm cho cô bớt sợ. “ Mẹ em sẽ khỏe thôi, em gái. nhất định thế”. Emma ngước nhìn lên buồn bả nhưng không trả lời. blackie choàng hai cánh tay khỏe mạnh quanh Emma và ôm lấy cô. Sau vài giây, anh buông cô, sờ mặt cô một cách triều mến: “ Em phải có lòng tin”, anh thì thầm khe khẻ vừa nhìn vào trong mắt cô.

-“ Vâng, anh Blackie”, cô vửa thì thào vừa thắt chặt khăn quàng. rồi cô nắm lấy bàn tay Frank dắt em vội qua phòng. “ Cháu nghĩ là cháu không trở lại kịp để giúp bà chuẩn bị bửa cơm chiều, bà Turner”, cô gọi với, và chạy lên những bậc thềm. Nhưng cháu sẽ cố gắng”. cánh cửa sập lại đằng sau Emma và Frank.

Bà Turner ngồi xuống một cách nặng nề xuống ghế. “ quá tốt đẹp không thể lả thật được. Mấy tuần qua, mẹ cô ấy khá lên nhiều. Sự bình tình lại trước cơn bảo nếu cậu hỏi tôi”, bà lẩm bẩm một cách khắc khổ. “ Tội nghiệp con nhỏ đã có một thời nó từng sung sướng”.

-“ Bà Turner, xin bà đừng nhìn vào khía cạnh đen tối. Mẹ cô ấy có thể bị một cơn nhỏ thế thôi. Có thể la một nổi hốt hoảng hiểu lầm”, blackie nói voới điệu bộ vui vẻ nhưng trong lòng anh thì nặng trĩu và nổi u buồn phủ lên đôi mắt đen của anh.

Khi hai chị em ra đến ngoài, Emma không có ý định hỏi Frank gì hết. Cô biết, từ trong xương tủy mình, rằng cô cần phải về tới nhà sớm chừng nào hay chừng đó, không để lãng phí một chút nào thời gian quý báu. Nếu mẹ cô không nguy kịch hơn thì không đời nào cha lại cho gọi cô. Mặc dù những lời an ủi của Blackie và bà Turner, Emma vẫn hoàn toàn khẳng định như vậy và cô run lên khi nổi sợ hải bùng lên thành một cơn hoảng loan lạnh toát.

Nắm tay nhau, Emma và Frank chạy qua chuồng ngựa xuống dường, qua bãi bồi lớn và qua cánh đồng Bastist. Họ cùng chạy ngược lên con dốc nhỏ dẩn tới đoan bằng của đầm lầy và con dường rộng về làng. Lúc này, Frank thơ hồng hộc cậu thấy khó theo kịp Emma. Cô nắm tay em chặt hơn, kéo cậu theo một cách tàn bạo, phớt tất cả sự phản đối và những tiếng kêu nho nhỏ của cậu.

Cậu vấp ngã nhưng Emma không dừng lại, mà cũng không chú ý gì đến cậu cả. Với một sức mạnh gần như siêu phàm, cô lôi em xềnh xệch theo liền sau mình, cái thân hình nhỏ bé của cậu kéo lê trên đất theo chị. Tiếng rên rỉ và kêu la chói tay của cậu cuối cùng cũng dược ghi nhận, cô sững lại.

Frank! Trời đất ơi, cô hét lên man dại, nhìn xuống cậu em mình một cách giận dữ. “Đứng lên, đứng lên lập tức”. Cô toan kéo em dậy, nhưng Frank nằm bất động trên đường.

-“Em không thể nào theo kịp dược chị, chị, Emma”. Emma bản chất không phải là người tàn ác lúc này bối rối đến độ điên loạn. Ý nghĩ duy nhất của cô là về nhà với mẹ, người đang cần tới cô. “ Vậy thì em phải đi theo chị”, cô hét lên lạnh lùng.

Emma tiến lên con đường gập ghềnh, ý chí sắt thép của cô đẩy cô đi tới một nghị lực siêu phàm. Cô chạy nhanh hơn, váy bay tung theo gió. Và một ý nghĩ choán lấy đầu óc cô trong khi chạy. Đừng để cho mẹ chết. Đấy là một lời cầu nguyện thực sự và cô nhắc đi nhắc lại “ xin Chúa để cho mẹ con chết”.

Khi tới Ramsden Ghyll cô dừng lại và quay nhìn về phía sau. Nhưng cô không thể đợi em, cô loa xuống đèo Ghyll, không giảm tốc độ. Có lúc cô vấp và suýt ngã, nhưng cô lấy lại dược thăng bằng nhanh chóng và chạy tiếp tục, chạy như bay. Đèo Ghyll tối, những tảng đáa nhô hắt ra những hình bóng khổng lồ và làm tắt mọi ánh sáng, nhưng Emma không để ý tới sự kỳ quái hay là bóng tối. Chẳng mấy chốc, cô đả leo lên con đường bên kia đèo Ghyll bước vào ánh sáng chan hòa.

Cô thở hồng hộc, thở không thể nào dừng lại được. Thế nhưng cô vẩn không dừng lại. Cô lao lên con đường phía trước, đá và đất bay tứ tung ở phía sau, cho đến khi vừa khóc vừa đứt hơi cô lảo đảo đi lên Ramsden Craigs. Cô tựa người vào một phiếm đá, cố lấy lại hơi. tiếng vó ngựa nện rầm rập trên đường đột nhiên phá vở sự yên lặng. Emma nhìn trở lại, giật mình. Cô ngạc nhiên thấy Blackie trên lưng con ngựa của ông chủ đang tới gần. Anh ôm Frank ở phía trước.

Blackie dừng ngựa và Emma nhận ra con Russet Dawn con hạt dẻ cua cậu Edwin. Blackie nghêng người xuống đưa bàn tay to lớn của anh ra cho cô. Anh đưa chân ra và nói: “ Nhảy lên. Emma. Dẩm lên chân mà trèo lên”. Emma làm theo trèo lên phía sau anh. “ Nào”. Anh kêu lên và họ lao đi, ngựa phi nước kiệu. chẳng bao lạu họ đã nhìn thấy dòng xoắn ốc của nhà thờ và trong vòng vài phút họ đã phi ngựa lên đỉnh Fold.

Bếp của gia đình Háctơ hoang lạnh khi Emma bước vào và đóng cửa lại nhẹ nhàng. NÓ âm u trong ánh trời chiều và hiu quạnh. Ngọn lửa đã tàn, lò sưởi đầy tro, lạnh, mùi cải bắp, mùi hành rán và mùi của những chiếc xoong cháy. Cha lại làm hỏng bữa cơm ngày chủ nhật, Emma nghĩ một cách lơ đãng trong khi cô cởi áo khoác khăn quàng và nhìn quanh ngôi nhà yên ắng một cách đáng ngại. Emma run lên khi cô trèo lên nhũng bậc đá tới phòng của mẹ cô, trái tim cô đập mạnh hơn khi nỗi hốt hoảng tăng lên.

Cha cô có một mình, ông đang cúi xuống Elidabet.

ông đang nhẹ nhàng lau khuôn mặt ũớ đẫm mồ hôi của nàng bằng một tấm khăn và âu yếm vuốt ve mái tóc ướt và rối bù của vợ. ông ngước nhìn lên khi emma dón dén đi vào Ðôi mắt ông đen, trầm ngâm và đầy đau buồn, mặt ông khắc khổ một màu chì đục trong hoàng hôn.

- ',Mẹ con - làm sao vậy?", Emma thì thầm giọng khàn khàn - Giắc lắc đầu mệt mỏi. "Bác sĩ Mác nói bệnh tái phát. Mấy ngày hôm nay mẹ con ngày một yếu hơn, không còn sức chiến đấu nào trong người nữa", ông lầm bầm một giọng nghẹn ngào: "Bác sĩ vừa về xong. Không còn hy vọng" Giọng ông vỡ ra, ông nhìn nhanh đi chỗ khác, dằn nỗi đau, cố nuốt những dòng nước mắt làm đau cổ họng ông.

,'Ðừng nói như thế ba", Emma kêu lên khe khẽ nhưng mãnh liệt. CÔ liếc nhìn quanh: "Anh Uynxtơn đâu - ',Ba bảo anh ấy đi tìm dì Lili. Elidabet cựa mình bồn chồn. Giắc vội quay sang vợ và lại lau mặt cho bà một cách trìu mến. "Emma, con có thể tới bên giường.

Nhưng thật khẽ thôi. Mẹ con cần phải được yên tĩnh.

Giặc nói, giọng ông khẽ và rầu rĩ. ông lùi lại, như vậy Emma có thể ngồi trên chiếc ghế đẩu nhỏ, ông chạm nhẹ vào vai con. "Mẹ con vẫn hỏi con đấy", ông lẩm bẩm.

Emma cầm lấy bàn tay võ vàng của mẹ. NÓ lạnh như băng và không có sức sống. Elidabet từ từ mở mắt, y như thể cái cố gắng nâng được mí mắt lên là quá ư to lớn. Bà nhìn Emma trống rỗng. "Mẹ, con đây". Emma nói khẽ, nước mắt dâng đầy mắt cô. Mắt của cô hoàn toàn không có mầu, một ánh sáng đặc biệt phủ lên đó.

Những đường mờ tim tím, nhuốm làn da, chung quanh mắt bà và đôi môi xinh xắn của bà trắng như chiếc khăn trải giường. Bà tiếp tục nhìn Emma một cách mê hoảng.

Emma cầm lấy bàn tay mẹ chặt hơn, nỗi sợ dâng lên trong lòng cô như một đợt sóng dữ. CÔ lại nói tha thiết hơn. "Mẹ! mẹ con đây, Emma đây".

Elidabet mỉm cười yếu ớt, sự phân biệt chiếu sáng đôi mắt bà, đôi mắt đột nhiên u ám và trở nên hiểu biết hơn. "Emma con", bà nói yếu ớt, bà định sờ mặt con gái, nhưng quá kiệt sức, bàn tay bà rơi lỏng xuống giường.

Mẹ đợi con về, Emma". Tiếng nói của bà chỉ còn là một hơi thở mong manh. Hơi của bà là những tiếng thở ngắn và gấp. Bà run rẩy trong lớp chăn.

- . Mẹ! Mẹ ơi! Mẹ sẽ khỏe, phải không mẹ?" Emma nói giọng khẩn thiết với nỗi lo âu "Mẹ sẽ khỏe, phải không mẹ?".

- ,Mẹ khỏe rồi, con yêu', Elidabet nói. Một nụ cuời dịu dàng nở trên môi. Bà thở dài "Con là một đứa con ngoan, Emma. Bà dừng lại, hơi thở trở nên nặng nhọc.

',Hãy hứa với mẹ là con sẽ trông nom Uynxtơn và Frank.

Và ba con. Giọng bà lúc này yếu quá hầu như không còn nghe được rõ nữa".

- ',Mẹ đừng nói thế, mẹ ơi", Emma kêu lên, giọng cô run rẩy.

- "Hứa với mẹ đi!" Ðôi mắt của Elidabet mở giãn ra trong niềm khẩn cầu câm lặng.

- "Vâng, con hứa, mẹ", Emma nghẹn ngào. Nước mắt rơi xuống má cô lặng lẽ. CÔ cúi xuống, sờ vào bộ mặt héo hon của mẹ, hôn lên đôi môi bà và để mặt cô sát với mặt mẹ. gọi ba con", Elidabet kêu lên với một hơi thở ngắn và gấp gáp, chút sức mạnh đang lụi tàn nhanh của bà.

Emma quay lại ra hiệu cho cha đang đứng bên cửa sổ ông bước nhanh tới bên giường và ngồi xuống, ôm Elidabet trong đôi cánh tay ông, giữ lấy bà một cách tuyệt vọng. ông cảm thấy như có một lưỡi hái đang giật mạnh tất cả, ruột gan ông, xé toang trái tim ông. ông không biết làm sao có thể chịu đựng được cơn đau này, cơn hấp hối của vợ ông. Bà nằm lại trên gối. Mặt bà như sáp và ngả màu xám. Bà mở mắt và ông thấy nó đầy một ánh sáng mới và rực rỡ. Bà cố nắm lấy tay ông, nhưng bà quá yếu và bàn tay bà rơi xuống, run rẩy. ông cúi xuống, bà thì thào với ông, ông gật đầu, không sao nói lên được trong cơn đau xé này.

Giắc kéo những chiếc khăn trải giường lại, nâng Elidabet lên trong đôi cánh tay khỏe mạnh của ông, mang bà cẩn thận tới bên cửa sổ. Bà nhẹ quá, nhẹ như một chiếc lá rơi và nàng hầu như không cử động trong tay ông. Cửa sổ mở, những tấm rèm tung lên trong gió chiều và mớ tóc đen của bà bay quanh mặt bà. ông nhìn xuống bà. Vẻ mặt bà cuồng nhiệt, đôi mắt long lanh. Bà hít mạnh không khí trong lành, ông cảm thấy tất cả thân thể bà dướn lên trong tay ông khi bà ngẩng đầu, nhìn ra những cánh đầm lầy đầy mong ước.

- 'đỉnh của Thế Giới", bà nói, tiếng nói rõ, mạnh và trẻ trung khiến ông thoáng giật mình. NÓ vang lên trong căn phòng hầu như kỳ lạ. Bà ngã trở lại trong tay ông.

Một nụ cười dịu dàng thoáng nở trên môi. Bà thở dài mấy cái. Những tiếng thở dài sâu làm rung động toàn thân bà. Thế rồi bà yên lặng. "Elidabet", Giắc gọi to, giọng ông lạc đi vì xúc động, ông ôm bà trong tay, nước mắt ông ướt đẫm mặt nàng.

"Mẹ ơi", Emma gào lên và chạy như bay qua phòng.

Giắc quay lại, nhìn Emma như người mù, nước mắt trên hai gò má ông. ông lắc đầu. "Mẹ con đi rồi", ông nói và bế Elidabet quay lại giường, lấy mền đắp lên thân thể bà. ông đặt chéo hai bàn tay bà lên ngực, vuốt mái tóc khỏi lòa xòa trên mặt bà, nét mặt thật bình thản lúc chết, vuốt mắt cho nàng. ông cúi xuống hôn lên đôi môi giá băng của bà đôi môi ông run rẩy với đau đớn và thất vọng.

Emma khóc nức nở bên cạnh ông. "Ba ơi, ôi, ba ơi", cô kêu lên, bám chặt lấy bố. ông đứng thẳng người, nhìn xuống khuôn mặt đầm đìa nước mắt của con. Rồi ông ôm lấy cô, kéo cô lại gần an ủi: "mẹ con được thanh thoát rồi, Emma. Cuối cùng đã thoát khỏi nỗi đau khổ khủng khiếp này". ông cố kìm tiếng nức nở, ôm chặt hơn lấy Emma. ông vuốt tóc con, an ủi con, họ cùng ôm lấy nhau một lúc lâu trong nỗi đau khổ chung.

Cuối cùng Giắc nói: đó là ý Chúa", và ông thở dài.

Emma lùi ra và ngóc khuôn mặt đẫm lệ lên: "ý Chúa!

cô nhắc lại chậm chạp, giọng nói trẻ trung của cô đanh lại không hề khoan nhượng: ,Không có cái gì gọi là chúa hết!", cô kêu to, đôi mắt rực lửa. "Bây giờ thì con biết điều ấy Bởi vì nếu như có chúa, thì Ngươi sẽ không bao giờ để mẹ con phải chịu đau đớn suốt bao nhiêu năm tháng đó, và Người cũng sẽ không cho mẹ chết!".

Giắc nhìn con kinh hoàng và trước khi ông kịp trả lời cô đã chạy băng ra khỏi phòng ngủ. ông nghe thấy tiếng chân con nện thình thình trên bậc thang và cánh cửa đóng sầm phía sau cô. ông quay lại mệt mỏi, thân hình to lớn của ông rủ xuống, ông nhìn xuống người vợ đã chết, một tiếng nấc lại dâng lên, ông bị nhận chìm trong bóng tối khủng khiếp. ông lảo đảo như một người mộng du tới bên cửa sổ và nhìn ra. Mờ mờ, qua cơn đau, ông nhìn thấy Emma chạy ngược lên đỉnh Fôn về phía đầm lầy. Bầu trời vàng nghệ ứa máu thành đỏ tươi khi mặt trời run rẩy buông mình sau những ngọn đồi lạnh lẽo Những tia sáng lung linh vắt ngang qua Ramxđen Crag trong buổi chạng vạng.

Nếu như Elidabet còn quanh quất Ở nơi đâu, thì chính bà Ở đó, ông nói: Ở đỉnh của Thế Giới.

Khi Adam Fairley từ xưởng trở về, chiều chủ nhật, ông thấy Olivia ngồi một mình trong thư viện. Ông vội tới bên nàng, mỉm cười thích thú, đôi mắt sáng lên yêu thương. Ông vẩn còn tràn ngập những nổi xúc động của đêm hôm trước, và điều này biểu hiện trên khuôn mặt rạng rở cũa ông, trong dáng nhanh nhẹn, trong tất cả sự vui vẻ và đã mất đi nét vỏ vàng.

Nhưng khi Olivia ngước lên nhìn ông, ông hít một hơi dài rồi chầm chầm nhìn nàng. Đôi mắt lanh lợi của ông lướt qua mặt nàng. Nàng hết sức bối rối và hình như bị đè nặng bởi một nổi chán chường. ông rất buồn và nhận ra rằng nàng đang có nhiuề nổi băng khoăn.

Adam cầm lấy tay nàng, kéo nàng lên, không nói năng gì. Ông hôn má nàng và ôm nàng trong vòng tay âu yếm. nàng bám chặt lấy ông, áp đầu vào vai ông. Ông thấy người nàng run lên nhè nhẹ. Sau vài giây, nàng khe khẻ nhích ra và ngước nhìn ông. Cái nhìn của nàng sâu thẳm trong đôi mắt xanh của nàng. Adam nhận thấy sự bối rối và đau khổ.

- “Có chuyện gì thế, Olivia”, ông hỏi nhẹ nhàng: “Em phiền muộn, điều đó làm anh đau khổ”.

Olivia lắc đầu ngồi xuống. nàng đặt tay vào lòng, nhìn chúng đăm đăm nhưng không nói gì. Adam ngồi xuống cạnh nàng trên ghế sôpha cầm một bàn tay nàng. Ông giử nó trong tay mình, bóp nó một cách âu yếm.

- “Nào, nào, em như vậy không được đâu”, ông thốt lên giọng vui vẻ giả vờ. “ Có chuyện gì xảy ra làm em không vui”. Trong khi nói, Adam cũng hiểu đấy là câu hỏi ngớ ngẩn nhất. Rỏ ràng là nàng bối rối vì sự phát triển của mối quan hệ giữa hai người, điều này làm ông hốt hoảng và kinh hoàng.

Olivia hắng giọng, cuối cùng nàng chầm chậm ngẩn đầu lên. Đôi mắt nàng ươn ướt nước mắt. “Em nghĩ em phải đi khỏi đây thôi, Adam ạ. Ngay, thực tế là ngày mai”.

Trái tim Adam giật thót lên, ông hết sức sợ hải: “ Nhưng mà tại sao?” ông kêu lên, nghiêng người gần hơn. Ông nắm chặt bàn tay nàng: “ Anh biết là tai sao, Adam. Em không thể nào ở lại đây sau câu chuyện đêm hôm qua. Em đang ở vị trí không thể biện minh được”. “ Nhưng em đã nói là em yêu anh”, ông phản kháng.

Olivia mỉm cười yếu ớt. “ Em yêu anh. Em đã yêu anh từ bao nhiêu năm nay. Và em sẽ mãi mãi yêu anh. Nhưng em không thể ở đây được Adam, cùng một mái nhà với chị gái của em, vợ của anh, và làm một chuyện tình bí mật. em không thể!”.

-“ Olivia, Olivia, chúng ta đừng vội vả. Chắc chắn nếu ta cẩn thận”. “ Không phải vấn đế chỉ nhứ thế”, nàng vội vã ngắt lời. “Điều mình làm đêm qua là sai trái. Chúng ta đã phạm một trọng tội”.

Adam nói gần như thô kệch: “ Bởi vì anh đã phạm tội thông dâm, có phải em đang nói như thế không Olivia”. “ Không phải em ,mà chính anh đã phạm tội theo con mắt của luật pháp. Đó là vấn đề lương tâm của anh, không phải em. Vì thế hãy để anh lo chuyện này”.

- “ Cả hai chúng ta điều phạm tội… trong con mắt của Chúa”, nàng trả lời rất khẻ.

Nhìn vẻ trang nghiêm trên mặt nàng, ông hiểu, với một linh tính không hay, rằng nàng hết sức nghiêm chỉnh. Ông không muốn lương tâm của nàng đẩy nàng xa ông. Ông không thể để nàng đi. Bây giờ thì không. Không bao giờ hết. không, khi mà cuối cùng họ tìm thấy nhau sau bao năm tháng cô đơn và bất hạnh mà c ả hai người điều phải chịu, kẹt trong cuộc hôn nhân không một chút giá trị của họ.

Adam nói khẩn thiết, “Olivia, anh hiểu tâm trạng của em. Hãy tin anh, anh hiểu. Em là một người rất tốt và lương thiện. Lừa dối và mưu mô không có trong bản chất của em. Anh cũng biết là em có ý thức rất cao về danh dự cá nhân. Cũng như anh, anh đã chiến đấu hết sức qquyết liệt với những xúc cảm, với lòng ham muốn em đêm qua”.

Ông ngừng lại và nhìn sau trong mắt nàng. Ông vuốt khuôn mặt nàng một cách triều mến. “ Anh cho rằng anh có thể sai đứng về phương diện nào đó. Nhưng chúng ta không làm thương tổn đến ai. Alede lại càng không. Và chắc rchắn anh không cảm thấy ăn năn, hối hận gì. Em cũng không nên như thế. Như vậy thì sẽ vô nghĩa, chúng ta không thể không làm những cái mình đã làm, chúng ta cũng chẳng thể thay đổi sự thật là chúng ta yêu nhau. Và anh yêu em, hơn là anh đã từng yêu bất cứ người đàn bà nào”.

-“ Em biết”, nàng lẩm bẩm một cách buồn rầu. “ Tuy nhiên chúng ta không thể chỉ nghĩ đến chúng ta một cách ích kỷ. Chúng ta phải dặt trách nhiệm lên trước”. Mắt nàng đầy nước mắt, nàng cố kiềm lại, mặt nàng tràn ngập tình yêu đối với ông. “ Em biết bản chất của anh không phải là con ngừơi cư xử tồi tệ, Adam”.

_” Tất nhiên, tất cả những điều em nói là đúng. Nhưng anh không thể sống quảng đời còn lại của anh không có em, em yêu”. Ông lắc đầu. “ Anh không thể!”. Đôi mắt sáng của ông van lơn nàng. “ em hảy ở lại với anh ít nhất cho đến tháng bảy như kế hoạch của em trước đây, và như em hứa đêm. Về phần anh, anh sẽ hứa không bao giờ đột nhập, không bao giờ ép buộc em”. Adam lại cầm lấy tay nàng. “ Một điều như vậy dẽ không htể tha thứ được, xét tới hoàn cảnh và những tình cảm của em đối với Adele và địa vị của em trong ngôi nhà này. Nhưng Olivia, xin em hãy ở lại với anh vài ba tháng”. Ông van xin nàng, giọng khẻ và khàn đi vì thất vọng. “ Anh xin thề anh sẻ không bao giờ toan tính làm tình với em. Xin em, anh xin em đừng bỏ mặc cho cuộc đời anh ở cái lăng tẩm này. Mặc anh trong ngôi nhà không tình yêu này”.

Olivia mủi lòng. Nàng yêu ông, yêu ông thật nhiều, cuộc sống đã giáng cho ông một đòn độc ác, đã đóng đai ông vào cô chị gái ốm đau bịnh hoạn của nàng. Ông, một con người mạnh mẻ, đầy sức sống và tốt đẹp như vậy. Nàng nhìn kỷ khuôn mặt căng thẳng và đầy đau khổ của ông, Olivia cảm thấy quyết định cũa nàng lung lai. sự quyất tâm rời Yorkshire của nàng tan biến. Dần dần, nàng mềm yếu đi, bởi vì nàng thấy khó mà từ chối ông. vả lại, nghững điều ông yêu cầu không hề phi lý một chút nào. “Được rồi, em sẽ ở lại” cuối cùng nàng nói với giọng dịu dàng. “Nhưng phải trên những điều kiện anh vừa nêu”. Nàng ngồi sát bên ông trên sôpha, ôm lấy khuôn mặt khổ ải của ông, và hôn lên má ông. “ Không phải vì em không thèm muốn anh đâu, anh yêu. Mà chính là vì thế”, nàng lẩm bẩm. “ Dù sao thì, chúng ta không thể là tình nhân trong ngôi nhà này”.

Adam thở ra một hơi dài. “ Cám ơn Chúa!”, ông thốt lên. Cái lạnh khủng khiếp ngấm vào người ông dần dần biến đi. Một cảm giác mênh mông quá gân nhưu bồng bềnh. Ông ôm lấy nàng, để đầu nàng áp vào vai ông, và vuốt ve mái tóc nàng. Anh cần em thật nhiều , em yêu. Sự hiện diện của em cần cho anh như một hơi thở. Nhưng anh thề không đụng chạm đến em, hoặc làm bất cứ một thỏa hiệp nào. Anh sung sướng được ở bên em, có em bên cạnh làm bầu bạn, chỉ cần em yêu anh. Em cũng cảm thấy như thế phải không em ?”

-“ Vang, đúng như thế”, Olivia đáp. Dù sao chúng ta cũng phải kín đáo, và đừng biểu lộ sự yêu thương nhau quá lộ liểu”, nàng nhìn vào mặt ông, gần sát mặt nàng và lần đầu tiên nàng mĩm cười. “ Như thế này, nếu như Gerald. hoặc một trong những gia nhân bước vào lúc này thì thật lúng túng quá”. Vừa nói nàng vừa gở khỏi vòng tay của ông. “Đúng rồi”, Adam đồng ý với tiếng cười ngắn. ông sẳn lòng đồng tình với tất cả những gì nàng muốn, nếu như nó giữ dược nàng ở bên ông. “Phải đấy, em yêu, nếu chúng ta cần thận trọng, có lẻ chúng ta nên uống rượu anh đào và ngồi ở hai phía cữa của căn phòng và trò chuyện vui”, ông làm cho giọng nói của mình nhẹ nhàng và long trọng cốt để gây cừơi. “ Em có muốn uống chút gì trước bữa ăn không, em yêu?”

-“ Vâng, vậy thì tuyệ vời, adam. nới như vậy là tự nhinê nhất nếu như một người nào đó trong nhà tình cờ bước vào”. Đôi mắt nàng đột nhinê vui vẻ và nàng thấy mình cười cùng với ông.

Adam cười và đứng lên. Đôi mắt nàng nhìn theo ông. Nàng cảm thấy một nổi đau bất ngờ ở vùng tim, và nàng tự hỏi không hiểu họ có đủ sức mạnh kìm chế tình cảm của họ để mà khước từ nhau hay không. Chúng ta phải, nàng nói một cách kiên quyết với bản thân.

Adam trở lại với rượu anh đào. Ông đưa cho nàng một ly và cung ly.-“Chúc em , em yêu”. Ông mỉm cười gượng gạo và ngồi xuống ghế đối diện. “ Khỏng cách như thế này đủ kín đáo chưa?”, ônh hỏi đôi mắt nhấp nháy.

-“ Em nghĩ được rồi”, nàng nói và lại cừơi. Nàng ngồi lại trên ghế Chesterfield và nghĩ ngợi, sự thanh thản thường ngày của nàng đã trở lại. Nàng tin Adam hoàn toàn. Ông sẽ giử lời hứa và khoảng cách của ông tự bản thân nó sẻ cho nàng sức mạnh đủ để làm như thế. “ Còn một điều nữa”, Adam bắt đầu một cách thận trọng. “ Em nói chúng ta không thể là tình nhân trong ngôi nhà này. Tuy nhiên, nếu như anh gặp em ở London, thì có lẽ- có thể- khác? Ở đó chúng ta sẽ tự do”, ông tuyên bố.

Cái miệng xinh đẹp của Olivia cong thành một nụ cười nhỏ. “Ôi, anh thân yêu, anh thật sự không thể chịu nổi”, nàng vừa nói vừa lắc đầu. rồi đôi mắt nàng trở nên lặng lẻ và trang nghiêm. “Em không biết phải trả lời câu hỏi đó như thế nào. Như vậy mình cũng phạm tội có phải không?”. Nàng đỏ bừng mặt và cuối đầu. “ Em không biết phải nói như thế nào. Em phải nghĩ đã”.

“ Xin em đừng bận tâm nữa, em yêu”, Adam kêu khẻ lên khi ông nhận thây vẻ bối rối của nàng. “Chúng ta không bàn tới khía cạnh đó về mối quan hệ của chúng ta nửa, cho đến khi nào em muốn bàn tới nó. Nhưng anh có thể xin em một ân huệ được không?”.

-“ Tất nhiên, anh Adam”, Olivia nói.

- “ Khi anh tới thành phố, em sẽ ăn cơm với anh và cùng anh đi xem hát được không?”. Nổi thất vọng của ông hiện rỏ trong giọng nói.

-“ Anh biết rất rõ là em sẻ làm như vậy. Chúng ta bao giờ chẳng cùng nhau khi anh ở London. tại sao bây giờ lại có thể thay đổi, Adam? Chúng ta thậm chí còn có nhiều lý do hơn để gặp nhau về mặt xã hội”, nàng tuyên bố với một giọng cả quyết và bình tỉnh.

Điều đó làm ông an tâm. “ Tốt vậy là mọi chuyện đều được giải quyết”. Adam đứng lên, nén khúc gổ vào lò sưởi, cố xua đuổi ký ức về cơn mê say của hai người đêm hôm trước.

-“ Edwin có mừng khi trở lại trường không?”. Olivia hỏi. Adam đang châm điếu thuốc . Ông hút một hơi và nói” “ Có, nó rất sung sướng được trở lại. Edwin tội nghiệp rất buồn phiền, tù túng với Adele trong suốt bao nhiêu tháng!”. Ông thở dài. “ Cô ấy rất nuông chiều con”. Adam để một cánh tay trên bệlò sưởi, gác một chân đi đôi ủng nâu bóng loáng lên lò, và nghiêng người gần hơn về phía nàng, ông nói tiếp giọng thấp xuống. “Anh mong em biết được là Adele và anh không có quan hệ vợ chồng từ hơn mười năm nay”.

-“ Em cũng nghĩ như thế”, Olivia nói. Nàng đứng lên đi lại chổ ông. Nàng hôn mặt ông và vuốt tóc ông. “ Mọi chuyện rồi sẽ ổn thôi. Em biết rồi nó sẽ ổn thôi bây giờ em đi lấy cho anh một ly anh đào nữa”.

Nàng đỡ chiếc ly từ tay ông, ông mỉm cười cám ơn nàng vì đã ở bên ông và bây giờ nàng quyết định ở lại Fairley đến hết mùa hè. Ông nhìn nàng đi qua thư viện, duyên dáng tao nhả và tự tin. Ông bổng nhận ra là nếu không có nàng, đời ông sẽ lại chìm vào tăm tối. Nàng là cuộc sống của ông và ông quyết định không bao giờ xa nàng, chừng nào ông còn sống.

-“ Ba không hiểu tại sao Winston lại có thể làm một điều như thế”. Ông Jack Harte lớn nói với Emma “ Bỏ đi ngay sau mẹ con mất, khôngmột lới tạm biệt”.

-“ Nhưng anh ấy để lại cho ba mấy dòng đấy thôi, Emma nói nhanh. Khi ông không trả lời, cô nói tiếp: “ Ba đừng lo, đi vào hải quân không sao đâu ba ạ. Anh ấy đã lớn, anh ấy có thể tự lo liệu”. Cô nghiêng người qua bàn bóp cánh tay cha an ủi.

-“ Ừ ba cũng biết thế. Dù sao thì lặng lẽ bỏ đi goí ghém đồ đạc rồi lẻn ra đi lúc nửa đêm cũng là điều lừa gạt. không giống Winston của chúngt a một chút nào”. Jack càu nahù, sự bực bội của ông lộ rõ. Ông lắc đầu: “Còn một điều nữa- ba muốn biết làm thế nào mà nó vào được hải quân khi không có chữ ký của ba trong giấy tờ của nó. Nó chưa đủ tuổi con biết đấy Emma, đáng lẻ nó phải có cử ký của ba chứ”.

Emma thở dài. Câu chuyện này cứ tiếp diễn không ngừng và lập đi lập lại ba ngày hôm na, từ khi cô từ Hall trở về và nó bắt đầu làm cô bực mình.

Nhưng trước khi cô có thể trả lời, Frank đã lên tiếng “ Anh ấy giả mạo chử ký của ba. Đúng, con chắc là như thế! Anh ấy phải làm như vậy để sĩ quan tuyển quân nhận anh ấy”.

Emma nhìn Frank với vẻ tức giận, cô nói gay gắt: “ Im mồm, Frank. Em chỉ là một thằng bé con. Em không biết gì những chuyện ấy”.

Frank đang ngồi ở phía đầu bếp, hí hoáy niết như thường lệ. Cậu nói bằng một giọng chiếu lệ: “ Em biết tất cả Emma ạ. từ những tờ báo tạp chí có tranh ảnh và báo chí từ Hall về, em đọc từng dòng mà”.

-“ Vậy thì từ nay tao không mang chúng về nữa”. Cô đốp lại: “ Nếu những tờ báo ấy làm cho mày khoác lác và hổnláo như thế. Mày sắp sửa trở thành cái thằng cái gì cũng biết rồi đấy Frank ạ”.

-“ Thôi, Emma mặc kệ nó”, Jack lẩm bẩm. ông đang hút thước là tẩu, chìm đắm trong suy tư, rồi nói: “ Frank nói đúng đấy, con ạ. Winston chắc phải giả mạo chử ký của ba. Không cỏn nghi ngờ gì nữa, nó làm thế đấy. chắc chắn như trứng là trứng vậy’.

- “ Con cũng chắc như thế”, Emma nói: “ Bởi gì đó là cách duy nhất anh ấy có thể gia nhập quân đội. nhưng cái gì đã qua rồi là qua rồi: và bây giờ chúng ta có chẳng thể làm gì được nữa. Dù cho họ có đưa anh ấy đi đâu, anh ấy cũng chẳng sao hết”

- “Đúng đấy, con ạ”, Jack nói và ngã ngưởi tựa vào ghế.

Emma im lặng, cô nhìn cha chằm chằm, cái cau mặt lo âu hằn qua vầng trán phẳng phiu của cô. Mẹ cô chết gần 5 tháng, trong thời gian đó, Jack luôn luôn cố gắng để che dấu mổi đau đớn của mình. Emma biết nó làm ông hao mòn tâm can nhiều lắm. Ông gầy hẳn đi, vì ông hầu như không ăn uông gì hết, thân thể to lớn cường trán của ông hình như co dúm lại. Ông cố dằn lòng một cách đáng sợ và thỉnh thoảng, khi ôpng không biết tới sự theo dõi sát sao của emma thì mắt ông ứot dẳm và mối sầu của ông được bộclộ trên khuôn mặt hốc hác đến phát sợ. Emma quay mặt đi một cách vô vọng, nổi đau đớn của riêng cô trồi dậy như diên cuồng khiến cho cô khó có thể kiềm chế nổi. Nhưng cô phải tự kiềm chế. Phải có người giữ vững tinh thần cho gia đình. Emma tự nghĩ vì nổi buồn thương đã xâm chiếm cha cô nhiều tháng trước khi mẹ cô qua đời, mỗi ngày một tăng lên. Giờ đây, sự ra đi thầm lén của Winston tuần qua lại gieo cho Jack một nổi phiền muộn nữa.

Emma thở dài. Cô đã tạm thời hoãn kế hoạch với chử K hoa của cô. Cô không thể đành lòng đi Leeds được khi mà Winston đã bỏ đi, mặc dù cô đã để dành được nhiều shillings. Cô đã có trên 5 pounds, một món tiền vương giả để khởi đầu cho kế hoạch lập nghiệp của cô. Và, cô đã hứa với mẹ cô là trông nom gia đình. Đó là lời hứa danh dự mà lúc này Emma phải giữ.

Cô cầm một công thức của Olivia, phếthồ khấy bằng bột và nước vào mặt sau rồi dán cận thận vào cuống sách để sau này cần dùng tới. cô nhìn vào chử của Olivia Wainwright. Nét chử thật đẹp, tròn trặn thanh nhã và bay bướm. Emma cố gắng chép lại. Cô cũng chú ý tới cách Olivia nói vì cô đang hết sức bắt chước cách nàng phát âm các từ. Blackie lúc nào cũng nói với emma rằng một ngày nào đó, cô sẽ là một mệnh phụ và cô biết các mệnh phu phải pát âm cho chính trực. Cô âm thầm tu sửa cho mình. Mình phải nói là “ chính xác” hay “đúng” chứ không được nói là chính trực.

đột nhiên, sự yên lặng trong căn bếpnhỏ bị phá vở khi Frank kêu lên đầy kích thích: “ Này, ba, con vừa nghĩ ra một điều: Nếu Winston làm giả chữ ký thì giấy tờ anh ấy không hợp lệ, có phải không ạ?”.

Jack giật mình vì lời bình luận sôi nổi này của Frank, mà chính bản thân ông cũng không nghĩ tới. ông ngắm nhìn cậu con trai út của ông một cách kinh ngạc. Gần đây, Frank liện tục làm ông ngạc nhiên. Cuối cùng, ông Jack nói: “ Frank có vấn đềnhư thế đấy. Có đấy, con ạ”. Ông gây được ấn tượng, bởi vì Frank đang là nguồn thông tin lớn, tất cả những lời bình luận thông minh phát ra từ miệng cậu trong lúc Jack ít chở đợi nhất.

-“ Vậy thì sao”. Emma vừa nói vừa trợn mắt nhìn Frank , biểu lộ mối thù hằn rỏ rệt, xưa nay chưa hề thấy ở cô vì cô vốn là người bảo vệ Frank. Nhưng cô không muốn bàn tới vấn đề Winston bỏ đi nữa. Cô biết kéo dài buổi thảo luận chỉ làm cho cô thêm buồn phiền.

-“ Nó nói đúng đấy, Emma ạ”. Jack nói, giọng nói của ông khẳng định hơn, rõ ràng và phấn chần lên.

-“ Frank của chúng ta có thể nói dúng, nhưng làm thếnào chúng ta đưa Winston ra được, ba?”. Emma hỏi luôn: “Ba sẽ viết thư cho Hải quân Hoàng gia chăng? Và ba sẽ viết cho ai?”. Cô cau mặt nhìn Frank, cậu bé đang nở nụ cười mãn nguyện trên khuôn mặt đầy tàn nhan xanh xao của mình. Thằng bé thông minh, Emma không thể phủ nhận diều đó, nhưng cô bực mình khi cậu gây ra sự bất ổn thêm trong gia dình với những lời bình luận của cậu đôi khi quá thông minh khinế cô không thể ưa.

- “ Ba có thể hỏi ông chủ xem nên như thế nào”. Frank gợi ý.

Jack suy tư, nhưng Emma đả rít lên: “Hỏi ông chủ xem nên làm như thế nào?”, tôi không bao giờ hỏi ông ấy gì hết. Chứ sao, ông ấy chẳng cho mình bải nước bọt mà không đòi tiên đâu”. giọng cô lạnh băng và miệt thị.

Jack phớt lờ không dể ý tới nhận định của cô, ông nói: “Ờ , ba có thể đi Leeds tới phòng tuyển quân và hỏi về Winston của chúng ta. Tìm ra nơi họ điều nó đi. Họ chuyển nó tới trại đóng quân nào. Họ hẳn có hồ sơ. Và ba sẽ nói vớ ihọ là nó đã làm gì. giả mạo chử ký của ba và vân vân”.

Emma ngồi nhỏm ngay lên, nétmặt cô thật thảng thốt, cô nói bằng giọng nghiêm khắc: “ Ba hãy nghe con đây. Ba sẽ không làm gì hết. winston của chúng ta vẩn luông luôn muốn vào hải quân, giờ đây anh ấy đã thực hiện điều đó. Và ba hãy nghĩ tới một điều này. Ở Hải quân, anh ấy sẽ tốt đẹp hơn là làm quần quật bao nhiêu tiếng đồng hồ ở xưởng đóng gạch Fairley, tron bùn lầy bẩn thỉu. Hãy để anh ấy ở đó ba”.

Cô ngừng lại nhìn cha một lúc lâu, có chiều âu yếm rồi dịu giọng: “Winston của chúng ta sẽ viết thư về khi nào anh ấy ổn định. Như vậy, hãy cứ để mặc anh ấy, như con đã nói trước đây”.

Jack gật đầu, bởi vì ông kính trọng sự suy sét của Emma “Đúng dấy con ạ, những lời con mói là hợp lý. Nóluôn luôn muốn đi khỏi Fairley”. Jack thở dài: “Ba không nói là ba trách nó. chỉ trách cái cách nó làm như vậy, bỏ trốn đi”.

Emma không thể nhịn được cừơi: “ Thì ba, con nghĩ là anh ấy biếtnếu anh ấy xin phép ba tì thếnào ba cũng nói không, chíng vì thế ,mà anh ấy phải trốn trước khi ba kịp ngăn chận anh ấy”. cô đứng lên, tới ôm lấy cha. “Thôi ba thân yêu, ba hãy vui lên. tại sao ba không ra quán, làmmột vại bia, trò chuyện với bạn bè một chút”. Cô gợi ý. Cô nghĩ thế nào ông cũng gạt bỏ ý kiên đó, mhư ông luôn luôn làm những ngày gần đây, nhưng cô ngạcnhiên khi nghe ôg nói: ‘Ừ có lẻ thế, con ạ”.

Sau đó khi cha cô đã đi tới quán Bạch mã, Emma quay sang Frank: “ Chị mong giá như em đừng nói như vậy, Frank về chuyện Winston giả mạo chử ký của ba là việc không hợp lệ, và đưa Winston ra khỏi Hải Quân. Như vậy chỉ làm cho ba thêm buồn phiền. em nghe này, cưng- cô lắc lắc ngón tay chỉ vào Frank, vẽ mặt nghiêm trang.

-Chị không muốn nghe chuện cú Winston nửa khi chị đã trở lại Hall, em có nghe rỏ không, Frank?”

-“ Có, chị Emma”. Frank nói và cắn môi: “ Em xin lổi chị. Em không có ý làm gì sai trái. Em không nghĩ ra, chị đừng giận em”. –“Chị không giận em cưng! Nhưng em hãy nghĩ tới những điều chị nói khi em còn một một mình với ba”.

- “Em sẽ làm theo chị. Chị Emma này” .

- “ Cái gì thế cưng?”

- “ Xin chị đừng gọi em là Frankie”.

Emma giấu một nụ cười vui thú. cậu bé làm ra vẻ nghiêm trang và làm ra vẻ người lớn: Được rồi Frank. Bây giờ chị nghĩ tốt nhất'là em nên chuẩn bị đi ngủ đi. Tám giờ rồi và chúng ta phải dậy sớm để ngày mai còn phải đi làm. Đừngthức đến nữa đêm đọc báo và sách nữa”. cô chắc lửoi và lắc đầu: “ Thảonào nhà không còn lấy một cây nến! Nào thôi cậu em! chị quay lại một chút nửc để cho em ăn. Chị sẽ mang cho em một cốc sửa và một quả táo coi như cuộc chiêu đãi đặc biệt”. Cậu bé cau mày nhìn chị:” Chị cho rằng em là cái gì, Emma Harte? Một cậu bé lớn xác? Em không muốn chị cho em ăn”. Cậu kêu lên khi cậu lấy những cuốn sổ và những tờ báo. Khi ra khỏi bếp, cậu quay lại: “ Nhưng em thích quả táo đấy”, cậu vừa nói vừa cười.

Sau khi rửa xong bát dĩa buổi tối chất đầy trong chậu, Emma lên gác. Frank ngồi trên giường ,viết trong cuốn sổ tay. Emma để quả táo và sữa trên bàn và ngồi xuống giường: “Em đang viết cái gì thế, Frank?” , cô hỏi tò mò. Giống như cha, cô luôn luôn ngạc nhiên, vì sự thông minh đặc biệt của Frank vì cái đầu đầy suy nghĩ của cậu. Cậu cũng có trí nhớ tốt.

-“Truyện m..a”, cậu nói với chị bằng một giọng rầu rĩ. Cậu nhìn cô một cách thận trọng và mắt mở thật to. “ Một truyện ma”. về những ngôi nhà có ma và linh hồn của những ngừơi chết từ những nấm mồ trổi dậy đi lang thang. Muu”. Cậu thì thào, giọng khẻ và đáng ngại. Cậu rung rung tờ giấy trước mặt cô. “ Em đọc cho chị nghe, chị Emma nhé? Nó sẽ làm cho chị sợ đến chết”, cậu báo trước.

-“ Không, cám ơn em! Mà đừng có ngốc nữa”, cô kêu lên kéo chiếc khăn trải giường cho thẳng lại. Đoạn cô bất giác rùn mình, đồng thời tự mắng mình trẻ con, bởi vì cô biết Frank đang trêu cô. Nhưng những đều mê tính dị đoan của miền bắc đã ăn sâu vào cô, cánh tay cô nổi da gà. Emma hắn giọng và làm ra vể bề trên: “ Tất cả những cái chuyện nhảm nhí ấy sẽ đưa em tới đâu, Frank? Chi phí những tờ giấy chị mang từ Hall về. Viết lăng nhăng như vậy có kiếm được tiền đâu?”

-“ Có kiếm được đấy!”. Cậu kêu lên hết sức mạnh dạn làm cô giật mình. Và em sẽ nói để chị biết nó sẽ đưa em tới đâu. Tới tòa báo khi em lớn. Thậm chí có thể tới cả tờ Yorkshire Morning Gazett. Thế đó!”. Cậu nhìn cô không chớp mắt và nói tiếp. Chị phải chấp nhận sự thật đó, Emma Harte”

Tiếng cười nổi lên trong cổ họng Emma nhưng hiểu rằng cậu nghiêm chỉnh, nên cô giữ nét nghiêm nét mặt: “ Chị hiểu, nhưng đợi đến khi em lớn lên đã. Một vài năm nữa, có lẽ chúng ta nghĩ đến chuyện này”.

-“ Đúng thế, Emma”, cậu nói và cắn quả táo. “ Mà, Emma thật tuyệt vời. Cám ơn chị”.

Emma mĩm cười, cô vuốt lại mớ tóc bù xù của em và hôn cậu như một người mẹ. Đôi cánh tay khẳng khiu của cậu vòng qua cổ cô, cậu nép vào chị trìu mến và thương cảm. “ Em yêu chị, Emma. Yêu chị lắm”. Cậu thì thào. “ Chị cũng yêu em, Frankie”, cô trả lời. Ôm chặt lấy em. Và lúc này cậu không trách chị vì gọi mình bằng cái tên ấy.

-“ Đừng thứa suốt đêm, cưng” . Emma bảo em trong khi cô khép lại cửa phòng.

-“ Vâng, em không thức đâu, em hứa với chị, Emma”.

Ngoài đầu cầu thang hơi lạnh, Emma lần vào phòng ngủ của mình, dò dẩm tới bên giá để quần áo gần chiếc giường nhỏ. Cô rờ rẩm tìm diêm và châm ngọn nến dặt trong bình đồng. Ngọn nến lắt lay, tỏa sáng một vùng nhỏ vớiluồng ánh sáng nhợt nhạt. Căn phòng nhỏ xíu đồ đạc đơn sơ như là trống rổng, nhưng giống như tất cả mọi căn phòng khác, nó sạch như lau như li. Emma đặt cây nến tới chiếc hòm gổ lớn ở góc phòng. Cô đặt nó lên bệ cửa sổ và cô quì xuống, nâng nắp hòm lên. Mùi băng phiến và mùi vải hương khô bay lên nồng nặc. Cái hòm này trước là của mẹ cô, và tất cả những thứ trong đó bây giờ là cũa Emma. Cha cô đã nói là đó là ý muốn của mẹ cô. Từ lúc me cô mất, cô mới chỉ nhìn vào đó một lần mà rất vội. Mãi cho đến hôm nay, cô còn quá xúc động và đau khổ để sắp xếp những đố đạc quí giá của mẹ.

Cô nhấc ra một chiếc áo dài lụa, đã cũ nhưng hầu như chưa mặc, vì thế vẫn còn rất tốt. Cuối tuần sau, cô sẽ mặc thử. Cô chắc rằng nó sẽ vừa, chỉ cần sửa sang đôi chút. Dưới chiếc áo dài đen là chiếc áo cưới trắng đơn giản của mẹ. Emma sờ chiếc áo một cách âu yếm. Chiếc đăng ten đã ngả màu vàng được gói trong một giải lụa xanh đã nhạt. Cô tìm thấy một bó hoa nhỏ, khô quắt và rời ra từng mảnh. Chúng có mùi ngọt ngào và thoang thoảng của những bông hồng héo. Cô tự hỏi tại sao mẹ cô lại giữ chúng và chúng có ý nghĩa gì. Nhưng bây giờ thì cô không bao giờ có thể biết được câu trả lời. Một vài bộ đò lót đẹp, một chiếc khăn san màu đen dính những bông hồng đỏ và chiếc mũ rơm trang trí bẳng hoa còn đó!.

Ở dưới đáy hòm là một hộp gổ nhỏ, Emma đã nhìn thấy chiếc hộp này nhiều lần trước đây, khi mẹ cô mang nó ra để chọn một đồ trang sức vào những dịp hết sức đặ biệt và quan trọng. Emma mở nó ra bẳng chiếc chìa khóa nhỏ. Trong hộp không có nhiều đồ trang sức, và những cái đó thực tế cũng chẳng có gía trị gì. Cô lấy ra một chiếc trâm và đôi bông tai mà mẹ cô luôn luôn đeo vào ngày Noel, những đám cưới và lể rửa tội và vào những ngày đặc biệt. Trong khi ngắm những đồ trang sức này, Emm chợt nảy ra ý nghĩ là những viên đá giống như hồng ngọc lóng lánh trong ánh nến. Mẹ cô vốn thích những đồ trang sức này.

“Ta không bao giờ chia tay với những thứ này”. Emma nói to, cô nuốt nước bọt, mắt cô mờ đi. Cô bày tất cả lên bàn và nhìn chung quanh hộp. Có một chiếc trâm đá chạm và một cái nhẫn bạc, cô xem xét cả hai cái một cách thích thú. Cô đeo thử chiếc nhẩn, vừa khít. Cô lại đưa tay vào chiếc hộp, ngón tay cô chạm vào cây thánh giá bằng vàng và chiếc dây mẹ cô luôn luôn đeo trước ngực, Emma nhăn mặt. Cô không muốnmột vật gì nhắc tới Chúa, mà đối với cô không còn tồn tại nữa. Chính vì thế mà cô không tới trường vào Chủ nhật, mặc dù việc trốn học của cô làm cho cha cô bực tức. Cô để cây thánh giá và chiếc dây xuống sàn cùng với những đồ khác và cầm lên một chuổi hạt hổ phách, lật xem trên tay. Chúng ánh lên một màu vàng xẩm mà trong con mắt của Emma nó có màu sắc độc đáo. Nó là món quà của một bà đại quí tộc, mẹ cô đã nói với cô như vậy những năm trước đây.

Sau khi xem xét những tài sản mới của mình, Emma bắt đầu xếp chúng lại vào trong hộp gổ. Chính lúc này cô cảm thấy có một cái gì kệnh lên lên dưới lớp nhung lót ở dưới đáy hộp. Cô đưa tay lần chung quanh mép hộp. Lớp nhung không dính vào hộp vì thế cô có thể nhấc nó lên một cách dể dáng. Có một vật hình trái tim và một cái ghim lộ ra. Emma nhấc lên và nhìn nó một cách tò mò. Cô không nhớ cô thấy mẹ cô đeo nó bao giờ. Sự thật, trước đây cô không bao giờ thấy nó. Nó bằng vàng thật, ánh lên lóng lánh. Cô cố gắng mở nó ra nhưng không được. Cô đứng lên, vội vã đi tìm cái kéo trong hộp đố khâu. Sau một vài giây, hơi ấn một chút cô mở được nó ra. Có ảnh mẹ cô chụp hồi bà còn con gái. Mặt bên kia không có gì. Emma nhìn kỷ hơn trog hộp còn một lọn tóc màu hung.

Không hiểu ai thế nhỉ, cô nghĩ vả cố nâng lớp kính che nó. Nhưng nó gắn rất chặt vào trong trái tim. Nếu lấy kéo bẩy quá mạnh thì nó sẽ long ra, Emma đóng hộp hình trái tim lại, xoay trở nó trong tay một cách tò mò. Lúc ấy cô mới nhìn thấynét chữ khắc ở phìa sau. Nó không rỏ ràng và hầu như bị mờ đi vì thời gian. Cô không nhận ra chút gì nữa. Cô nheo mắt nhìn lại. Cuối cùng cô đem cây nến lại gần hòm, để chiếchộp dưới ánh sáng.

Dòng chử rất là mảnh. Cô chậm chạp đọc to “ A cho E- 1885”, Emma nhắc lại niên đại này. Mời tám năm trước đây. Năm mẹ cô mười lăm tuổi. Có phải E là Elizabeth không? Đúng rồi, cô quyết định như vậy. Còn A là cho ai? Cô không nhớ mẹ cô nhắc tới tên một người nào trong gia đình có cái tên bắt đầu bằng A. Cô quyết định sẽ hỏi cha khi ông từ quán về. Emma để chiếc hộp hình trí tim bằng vàng thật cẩn thận lên trên chiếc áo dài đen, rồi sờ nắn chiếc hộp tóc, nhìn nó thật kỷ lưỡng. Mẹ cô có một cái ghim như vầy thì thật là lạ quá. Cô chau mày. Đây là loại ghim mà một quí ông lịch sự cài vào cà vạt, chắc là cùng với quần áo đi ngựa. Nó cũng được làm bằng vàng, cô cũng có thể nói như vậy, và nó rõ ràng có giá trị. Chắc chắn là của cha cô.

Emma lắc đầu thở dài vẻ buồn buồn. Cô tự động để lại hình quả tim và chiếc ghim vào chổ củ, lấy bạt nhung phủ lên trên rồi cất vào trong hộp gổ. Cô để tất cả các vật khác vào trong hòm, đóng nắp lại, rồi lắc đầu vẻ suy tư. Trí óc sắc nhại của Emma phán doán rằng hình quả tim và chiếc ghim đã được mẹ cô giấu đi, vì một lý do gì không rõ, điều này, làm cô băng khoăn, suy nghĩ. Sau đó cô quyết định sẽ không nói gì với cha, mặc dù chính cô cũng không biết cái gì thúc đẩy cô đi tới quyết định này. Cô cầm hộp đồ khâu lên, thổi tắt nến và đi xuống gác.

Bếp mờ mờ trong ánh sáng nhạt phát ra từ hai ngọn nến để trên bàn. Emma châm ngọn đèn parafin trên bệ lò sưởi cầm chiếc giỏ vámay cô mang từ Hall về để trên bàn. Cô ngồi xuống khâu vá. Trước hết cô sửa chiếc áo sơ mi của bà Wainwright rồi bắt đầu chửa đường viền chiếc áo của bà Fairley. Tội nghiệp bà Fairley, Emma vừa khâu vừa nghĩ. Bà ấy vẩn lạ lùng như bao giờ. Lúc thì yên lặng, ủ rũ, một lát sau lại vui vẻ, trò chuyện sôi nổi, Emma sẽ cảm thấy nhẹ nhỏm khi bà Wainwright đi thăm bạn từ Scotland trở về. Bà ấy mới đi có nửa tháng mà hình như lâu đến hàng tháng. Vắng bà, Hall không còn như cũ, một sự hồi hợp bắt đầu len vào Emma làm cô bồn chồn không dứt.

Ông chủ cũng đi vắng, đi săn gà gô, bà bếp báo với cô thế. sớml ắm thì cũng cuối tuần này ông ấy sẽ về. Mọi việc ờ Hall yên tĩnh, vì bà Wainwright và ông chủ đi vắng, nhiệm vụ của Emma cũng giảm đi. Vì thế bà Turner mới để cho cô nghỉ thứ sáu, thứ bảy và cả chủ nhật nữa. “Ở với bố cháu ít ngày”. Bà Turner nói,rồi nói thêm đầy thiện cảm: “Lúc này bố cháu cần cháu, Emma”. Và thế là tuần này cô ở nhà ba ngày liền, lau dọn, giặt giũ, nấu nứơng cho cha và Frank. Điều duy nhất làm hỏng sự đầm ấm là việc Winston ra đi đầu tuần. Thật là tiếc, bởi vì không có một giải pháp nào cho vấn đề này hết.

Bổng nhiên Emma mỉm cười một mình. Vì ở Hall sự giám sát không chặt chẻ nửa, cô có thể lẻn ra đám lầy vào những buổi chiều có nắng, ngồi dưới vách đá cheo leo của đỉnh Thế Giới cùng cậu chủ Edwin. Họ đã trở thành bạn thân trong thời gian nghĩ hè.

Emma trở thành người để Edwin giảy bày nhiều tâm sự. Cậu kể đủ thứ chuyện, về trường của cậu, về gia đình và hầu hết là những điều bí mật đặc biệt mà cô hứa không tiết lộ với bất cứ một ai. Khi Edwin dẩn cô qua những cánh đầm lầy vào buổi trưa thứ năm. Cậu đã nói với cô rằng có một người bạn thân của cha cậu cuối tuần này sẽ tới làm khách ngày cuối tuần. Ông ấy tận London tới và theo lời Edwin ông là một nhân vật quan trọng. Một ông bác sỉ Andrew Melton nào đó. Edwin rất phấn khích về chuyến thăm sắp tới, bởi vì ông bác sĩ này vừa từ Mỹ về và Edwin muốn biết về New York. Ngay cả bà bếp hay Murgatroyd cũng không biết. Edwin phải bắt cô thề không được nói và cô đã phải thề để làm Edwin yên lòng. Cô phải làm dấu thánh giá, giơ tay lên cho long trọng.

Những ý nghĩ của Emma về Fairley Hall và đặc biệt hơn, về Edwin ngừng lại đột ngột. Cha cô từ quán trở về. Đồng hồ nhà thờ đổ mười giờ. Cô nhận ngay ra rằng ông đã uống nhiều hơn thừơng lệ. Ông bước chân nam đá chân chiêu, mắt mờ đi. Ông cởi áo treo nó vào mắc phía sau cửa trước. Ông treo hụt, chiếc áo rơi xuống sàn.

-“Để con mắc cho, ba. Ba cứ ngồi xuống để con đi pha trà ba uống”, Emma vừa nói vừa để chiếc váy sang sang một bên và đứng ngay dậy.

Jack tự mình nhặt chiếc áo lên, lần này ông treo được áo vào mắc. “ Ba không cần gì hết”, ông lầm bầm và quay vào phòng. Ông chập choạng tiến lên vài bước vềphía Emma và dừng lại. ông trừng mắt nhìn cô một hồi lâu, sự ngạcnhiên hiển hiện trên mắt. “ Thỉng thoảng cón có nét nhìn giống má con quá”, ông thì thầm.

Emma ngạc nhiên vì sự nhận xét đột ngột này. Cô không nghĩ cô giống mẹ cô một chút nào. “ Thế ạ”. Cô hỏi. “ Nhưng mẹ con mắt xanh và tóc đen hơn”. “ Mẹ con cũng không có dường ngôi hình chử V như con”, Jack ngắt lời. “ Con thừa hưởng của mẹ ba, bà con. Nhưng dù thế nào chăng nữa, con cũng giống mẹ con ghê gớm, ngay phút này đây. Khi mẹ con là con gái. Hình dáng khuôn mặt mẹ con, nhất là đường nét của con. Và miệng con. Ấy, con càng ngày trông càng mạnh mẽ giống y như mẹ con. Thế đó con gái ba.

-“ Nhưng mà mẹ con đẹp”, Emma bắt đầu và do dự. Jack tựa vào ghế cho vững. “ dúng mẹ con đẹp. Một cô gái xinh đẹp nhất ba chưa bao giờ thấy. Không một người đàn ông nào ở Fairleynày mà không để mắt tới mẹ con lúc này hay lúc khác. Ấy, con sẽ phải hết sức ngạcnhiên nếu con biết”- Ông kìm lại không nói hết câu và lẩm bẩm điều gì không hiểu nổi.

-“ Ba nói gì. Con không nghe thấy?”

- “ Không có gì cả. Bây giờ thì không sao nữa.” Jack nhìn emma qua đôi mắt mờ đi cũa ông nhưng cón phân biệt được, ông nửe mỉm cười: “ con cũng đẹp, giống như mẹ con. Nhưng cám ơn chúa, con được tạo nên bằng một chất liệu mạnh mẽ hơn. Elizabeth mỏng manh quá. Không khỏe như con”. Ông lắc đầu một cách buồn bả đi không vững vàng qua sàn. Ông hôn lên trán con, lẩm bẩm chúc ngủ ngon rồi bước lên những bậc cầu thang đá, hình dángông nhỏ đi một cách đáng thương đến nổi Emma tự hỏi không biết ông còn được gọi là ông Jack lớn nửa không. Cô ngồi xuống ghế, nhìn lơ đảng vào ngọn nến bùng lên quá sáng trước mắt cô. Cô tự hỏi không hiểu cha cô rồi sẽ ra sao. Không có mẹ, cha cô tựa một linh hồn lạc lõng, và cô biết ông sẽ chẳng bao giờ lại được như xưa. điều nhận biết này làm cô buồn ghê gớm, bởi vì cô cũng hiểu là cô chẳng thể làm được gì để giảm bớt nổi đau khủng khiếp của ông, hoặc gánh nặng đè về mối sầu đè nặng lên ông. Ông sẽ than khóc cho mẹ cô đến ngày chính ông cũng chết.

Cuối cùng Emma giũ khỏi mối suy tư, cầm chiếc váy và tiếp tục. Cô làm việc đến tận khuya, quyất làm cho xong công việc sửa quần áo của Hall. Bà Wainwright đã trả thêm tiền cho cô làm việc này và Emma hết sức cần tiền, điều này đả khiến cô để ý tới đôi mắt mệt mỏi, những ngón tay đau nhức, và sự rả rời toàn thân dần dần choán lấy cô khi những giờ khắc trôi qua. Mãi đến một giờ sáng cô mới gấp chiếc áo cuối cùng và leo lên gác đi ngũ, vừa hăm hở tính món tiền chính xác mà bà Wainwright đã nợ cô lúc này.

Cứ mỗi năm một lần, cánh đồng lầm lì và hoang dại của Tây Riding lại mất đi vẻ tăm tối, không mầu sắc của nó. Đến cuối tháng tám, một sự chuyển mình nhanh chóng đã diễn ra đúng trong một đêm khi cây thạch nam nở hoa rực rở. Những ngọn đồi bừng lên lộng lẩy, từng đợt, từng đợt màu hoa tím rải khắp Pennines làm những thung lũng phía dưới mang một vẻ đẹp sửng sờ khiến những cặp mắt khó tính nhất cũng phải ngột thở.

Cao nguyên menh mông của đồng hoang trải dài trên làng Fairley, một phần của dãy Pennines, cũng không phải là một ngoại lệ. cả ở đây nữa, cái vẻ khắc khổ đen tối bị xóa từ đầu tháng chín, đến tháng mười, y như một tấm thảm mênh mông được tung ra phủ lên núi đồi, phả những màu tím, xanh da trời và xanh thẩm. Bởi trên những dốc thạch nam mọc lên những cây hoa chuông, dương xỉ, việt quất, ngay cả những cây khẳng khiu nhất cũng nhú ra những chiếc lá nhỏ tươi mơm mởm.

Họa mi và chim sẻ khẻ bay vút lên không gian sáng ngời, và bầu trời vốnlúcnào cũng nặng trĩu những đám mây , nay bổng xanh đến lóe mắt và sáng kỳ lạ, ánh sáng đặc biệt của miền Bắc nước Anh. Không phải chỉ một vùng khốc liệt dụi dàng trở lại vào mùa này, mà cả cái yên lặng dể sợ cả mùa đông cũng đột nhiên tan biến bởi những âm thanh sống động. tất cả vùng bên đồi được dệt bằng những thung lũng nhỏ với nhựng giống mới đổ xuống, những thác nước lónglánh tràn trên những vách đá cheo leo. Vào những tháng hè, tiếng nước đổ lúc nòa cũng vang lên trên đồng hoang Yorkshire cùng với những tiếng chim ríu rít dịu dàng, những con thỏ vùn vụt chạy giữa những bụi việt quất và dương xỉ, tiếng kêu be be của nột con cừu lang thang đi tìm ăn trên những ngọn đồi thạch nam.

Emma yếu mềm đặc biệt đối với đồng hoang trong những mùa đông âm u và rét mướt cả khi nó trở thành bạo tàn và khủng khiếp. Như mẹ cô trước đây,cô cảm thấy thoải mái trong cái miền đồi đơn côi ấy, trong sự cô quạnh tột cùng của mình. Cô không bao giờ cảm thấy cô đơn. Cô thấy trong cái mênh mông, trong chính cái trống trải củanó, một miền an ủi cho những cái làm cho cô đau đớn, mọt sự bình yên lạlùng nhưng làm vững dạ trong cái phong cảnh sừng sửng ấy. Đối với Emma, lúc nào nó cũng đẹp qua bốn mùa thay đổi và đặc biệt là vào những ngày cuối hạ khi hoa thạch nam nở rộ, màu sắc ruc85 rở không thể tưởng tượng nổi như thế.

Buổi sáng thứ hai một ngày tháng tám, tâm hồn cô phơi phới. Cô trèo lên bậc đi vào cánh đồng cỏ dài xanh ngát điểm đầy hoa cúc. Cô rảo bước trên lối đi hẹp, thỉnh thoảng lại nhìn lên. Cặp mắt xanh thẩm của cô lướt trên những ngọn đồi cao điểm hoa đinh tử hương ngả màu tím dưới bầu trời xanh như men sứkhôngmột gợn mây. Mặt trời đã lọt qua màng sương mong manh nơi chân trời xa nhuộm nền vàng. Cô hiểu, lại một ngày nóngnhư thiêu đốt nữa sẽ kéo dài trong cả tháng.

Lần đầu tiên cô sung sướng rời ngôi nhà ở đỉnh Fold. Nổi đau buồn của cha cô về chuyện ra đi của Winston đã làm cô khồ sở cho đến ngày cuối tuần. Với một cảm giác lâng lâng cô khép cánh cửa nhà mình, di về phía đỉnh của Thế Giới. Buổi sáng ở miền hoang dã này, không khí trong lành sáng sủa, cô cảm tâhý tự do, không hề bị trói buộc, bởi vì Emma thực sự là đứa con của đồng hoang được sinh ra và lớn lên trên những cánh đồng hoang ấy, hình như chính những đặc tính của chúng đã thắn vào linh hồn cô. Bởi vì, cô cũng bất kham như đồng hoang và chúng là một phần bản chất của cô, y như chính khôngkhí mà cô đang thở.

Ngay từ hồi còn là một đức trẻ nhỏ cô đã chạy nhảy tung hoàng trên những triền đá cao, qua những thung lũng nhỏ hẹp: bầu bạn duy nhất của cô là chim muông và những sinh vật nhút nhát. Không còn một chỗ nào cô không biết, mà lại biết rất rỏ. Cô có những nơi ưa thích, những nơi khuất nẻo trong các khe đá vànhững ngọn đồi hoang, nơi không ngờ có những loài hoa đẹp nở và những con sơn ca làm tổ. cónhững giọt băng lấp lánh trong nắng dịu hiền, những ngón chân cô đặt lên đá lốm đốm.

Giờ đây, khi Emma đả ra đồng hoang yêu mến của mình, cái cảm giác tù túng cô đã trải qua mấyngày vừa rồi giảm đi nhanh chóng. Cô rảo bứơc theo con đường quanh co, uốn khúc, vừa trèo cô vừa nghĩ tới Winston. Cô sẽ nhớ anh cô, bởi vì hai người luôn luôn là bạn gần gủi và thân thiết, nhưng cô cũng mừng cho anh. Anh đã trăn trở nhiều đêm và dũng cảm ra đi, để trốn khỏi làng và xưởng đóng gạch Fairley dù đã quá muộn. Nổi tiếc hận duy nhất của cô là anh cô đã sợ không không dámt hố lộ với cô cí anh ấy tin, một cách hoàn tòan sai lầm rằng cô sẽ nói với cha cô hoặc tệ hại hơn nữa là thuyết phục anh đổi ý. Cô mỉm cười một mình. Sự suy xét của winston đối với cô mới sai lầm làm sao. Cô hẳn là đã khuyến khích anh theo đuổi giấc mơ của mình bởi vì cô hiểu bản chất của anh, hiểu quá rõ anh đã cảm thấy tù túng và buồn bực thế nào, không có gì để mong chờ Fairley này ngoài cái buồn, cái chán và những đêm uống rượu ở quán cùng với bạn bè quê mùa của anh.

Emma dừng lại để thở khi cô lên đến đỉnh đồi. Cô quạt quạt mấy cái, thở sâu mấy hơi, trước khi xuống dốc tới vách Ramsden. Vách dựng đứng như những con tuấn mã khổng lồ bằng granit nổi bật trên nền trời, nhuộm trong ánh nắng, những dòng suối nhỏ chảy phía mặt tối tăm và cổ xưa của nó như vàng lỏng. Mùa đông, băng tuyết phủ đầy, chúng cỏ thể khủng khiếp nhưng bậy giờ đây trong không khí mùa hè dịu dàng, chúng có vẻ nhân từ và cởi mở. Emma nhìn chung quanh, nuốt cả khung cảnh bằng đôi mắt của mình và bao giờ cô cũng thấy được tiếp thêm sức mạnh bởi những phong cảnh tượng thân quen ấy. Sương mù đang tan và mặc dù làn gió nhẹ từ đồi cao thổi xuống, cô đả bắt đầu cảm thấy được cái nóng. Cô mừng là đã mặc chiếc áo bằng vải bông xanh sẩm bà Wainright đã cho. Áo cọ nhẹ vào đôi chân trần của mình gây cho cô một cãm giác êm dịu.

Trong vòng vài ba phút, Emma đã ở dưới bóng vách Ramsden. Cô để giỏ quần áo nặng cô đang mang và ngồi trên một tảng đá phẳng. Dạo này cô luôn luôn ở lại một phút trên đỉnh của Thế Giới, bởi vì ở đây cô cảm thấy có sự hiện diện của mẹ cô rỏ rệt hơn trong căn nhà nhỏ. Đối với Emma, mẹ cô vẩn sống và thở ở cái nơi yên tỉnh được che chở này, nơi cả cô và mẹ cô đầu yêu mến, Emma đã nhìn thấy bộ mặt thân yêu của mẹ trong bóng râm nhợt nhạt và trong ánh úa vàng bốc hơi của đồng hoang, nghe tiếng cười vang ngân trong vách đá đã mòn vì thời gian, chuyện trò với cô trong cái yên lặng dịu dàng không hề bị phá vỡ, chỉ trừ tiếng một con chim thỉnh thoảng cất lên đâu đó, hoặc tiếng ù ù khe khẽ của một con ong.

Emma tựa đầu vào những tảng đá phía sau và nhắm mắt lại, khuôn Mặt mẹ của cô hiện về. Cô mở mắt ra, ngay tức khắc hình như cô thấy mẹ cô đứng ngay trước mặt, vui vẻ và mỉm cười, hình ảnh thân yêu ấy dần dần thành hình trọn vẹn. Ôi, mẹ ơi, mẹ, con nhớ mẹ quá, cô gọi to, lòng cô đau đớn, mong nhớ khôn nguôi nhớ không sao chịu nổi, làm cổ họng cô đau nhói. Cô giơ tay về phía hình ảnh như tinh vân ấy, nó mờ đi nhanh chóng. Emma ngồi yên một lúc lâu, tựa mình vào những tảng đá mát, đôi mắt nhắm lại, nổi buồn củng còn nhấp nhô hiện lên và khi trấn tỉnh lại được, cô nhặt giỏ lên kiên quyết hướng về phía Ramsden Ghyll.

Chuyển chiếc giỏ về phía tay bên kia, cô vội vả đi xuống Ghyll. Trong bóng tối màu xanh, râm và mát rồi chỉ có một chút ánh sáng lọt qua những tấm vách đá và những cây cổ thụ với những cành đan vào nhau như nhũng ngón tay xương xẩu của một ông già. Một con thỏ chạy vụt qua lối đi của cô rồi biến mất phía sau, một cành cây phủ đầy những lớp rêu tồi và mượt như nhung trong ánh sáng mờ mờ. Khi cô tới giữa thung lũng nhỏ, nơi tất cả ánh sáng mặt trời đầu bị xáo sạch, cô bắt đầu cất tiếng hát như tất cả mọi lần đến đây, giọng nữ cao nhẹ nhàng của cô vang lên ngọt ngào trong sự yên tĩnh hoàn toàn. “Ôi, Danny Boy, kèn giục, kèn đang gọi. Từ thung lũng này qua thung lũng khác, bên bờ núi. Mùa hạ đã qua và tất cả những bông hồng đã rụng. Chính anh, chính anh phải đi và tôi phải chờ đợi”.

Cô ngừng hát và mĩm cười một mình, lòng nghĩ tới Blackie. Đây là bài hát ưa thích của anh và anh đã dạy cô lời. Hơn một tháng nay anh không đến Hall. Lúc này anh đã hoàn thành mọi công việc ở đó rồi. Nhưng thỉnh thoảng anh tạt tới thăm cô mỗi khi anh đến huyện, và cô tự hỏi không hiểu bao giờ anh quay trở lại. Cô nhớ anh. Trong vóng vài ba phút, Emma đã leo lên khỏi thung lũng lạnh, lại đi vào trong không khí sáng dưới bầu trời rông bóngloáng, tiến về phía Hall. Cô bắt đầu bước nhanh hơn để bù lại thời gian sáng nay, cô chậm hơn mọi ngày đến hơn một tiếng, chắc bà bếp thế nào củng càu nhàu về sự chậm trể của cô, điầu ấy là chắc chắn rồi. Cô chạy xuống dốc, mở cánh cổng gổ củ kỷ, cọt kẹt ở cuối cánh đồng Baptist, đóng lại cẩn thận phía sau, để then sắt nặng nề vào chổ của nó.

Emma không đánh đu lên cánh cổng nữa. Cô nghĩ bây giờ cô đã quá lớn không nghịch cái trò trẻ con ấy. Xét cho cùng, cô đã mười lăm tuổi bốn tháng, đã vào tuổi thứ mười sáu rồi. Gần như một tiểu thư trẻ, mà các tiểu thư, sau này sẽ thành những mệnh phụ không làm những điều vô tích xự như vậy.

Đi vào sâu chuồng ngựa rải đá cuội, Emma hơi ngạc nhiên thấy con ngựa của bác sĩ Malcolm và dây cương buộc ở bệ lên xuống. Sân hoang vắng và lạnh ngắt, không thấy bóng dáng Tom Hardy, người coi ngựa đâu cả, bình thường anh ấy vẩn bận rộn chải lông cho những con ngựa của ông chủ vào giờ này. Cô cau mày không hiểu tại sao bác sĩ Mac lại tới thăm Hall vào bẩy giờ sáng. Chắc có người nào ốm nặng, cô phỏng đoán và ngay lập tức nghĩ tới Edwin, cậu bị cảm lạnh tuần trước. Hình như cậu bị lạnh phổi, bà Fairley đã nói với cô như thế. Đôi chân Emma lướt lên những bậc thềm dẩn tới cửa sau, nhưng cũng không quá nhanh để con mắt sắc sảo của cô không để ý thấy những bậc thềm còn chưa được cọ rửa. Annie lại trở nên lơ là với nhiệm vụ của mình rồi, cô nghĩ với một thoáng tức giận.

Vừa bước vào trong nhà, Emma hiểu ngay là có chuyện gì rắc rối to. Cô lặng lẻ khép cửa và đi vào trong bếp. Ngọn lửa vẩn reo vang, chiếc ấm đồng vẩn rít trên ngăn bên lò sưởi, nhưng mùi sửa sáng ngon lành rỏ ràng là thiếu vắng. Bà bếp ngồi trong ghế đặt bên lò sưởi, đu đưa, cố nén tiếng nức nở và chùi nước mắt dòng dòng bằng vạt tạp đề đã ướt đẩm nước mắt. Annie tỏ ra tự kiềm chế được. Emma bước nhanh qua sàn lát đá phiến tới bên Annie, hy vọng biết được chút ít tin tức. Nhưng cô thấy ngay là Annie cũng đau khổ như bà bếp, Annie ngồi ngây ra trong ghế y như thể đã biến thành một cột muối. Giống vợ của Lot, Emma nghĩ.

Emma vội đặt chiếc giỏ xuống, “ Có chuyện gì thế?”, cô kêu lên và nhìn hết người này đến người khác. “ Tại sao bác sĩ lại ở đây? Có phải cậu Edwin không? Cậu ấy ốm ư ?”. Cả bà bếp lẫn Annie hình như đêu không nghe thấy. Rỏ ràng họ không chú gì đến cô cả. Và nổi lo âu dần lan sang Emma mạnh mẽ làm cô rung chuyển cả người. Bà Turner rả rời lúc này mới nhìn lên, vẻ lo lắng hiện trên bộ mặt như táo chín của bà, đôi mắt đỏ hoe. Bà nhìn Emma câm lặng, rỏ ràng là không thể nói lên được, rồi lại bật khóc một chập nữa người rung lên bần bật và rền rĩ rất to giữa những tiếng nấc.

Emma phát cuồng lên, cô chạm khẻ vào vai Annie. Cô gái hóa đá đả nhảy lên kinh hoàng, y như thể những ngón tay của Emma đả quất vào người cô. Cô đáp lại con mắt dò hỏi của Emma bằng cái nhìn ngây dại, Annie chớp mắt nhiều lần, rất nhanh, miệng cô giật giật, nhưng cô vẩn yên lặng. Rồi cô bắt đầu run lên bần bật. Emma nắm chặt lấy cô bằng đôi bàn tay nhỏ mạnh mẽ của mình, cố gắng trấn tỉnh Annie đồng thời chính Emma cũng thấy mất kiên nhẩn và bắt đầu hốt hoảng thật sự.

Lúc này Emma thấy rằng cô phải đi tìm Murgatroyd, nhưng vào lúc đó, lão quản gia xuất hiện trên đỉnh cầu thang dẩn tới phòng khách của gia đình. Đôi mắt Emma tức thì ngước lên hìn lão một cách khẩn thiết. khuônmặt ấy cũng đau thương hơn bao giờ hết. Lão mặc chiếc áo khoát màu đen của quản gia, trước đây lão chưa hề mặc như vậy vào giờ này, thường lào chỉ mặc có sơ mi và tạp dề bằng vải len tuyết màu xanh để làm những công việc trong nhà. Tới chân cầu thang, lão tựa ngừoi vào cột, đưa tay ôm lấy trán trong dáng điệu tuyệt vọng. Dáng điệu kiêu căng của lảo được thay thế bằng một vẻ ủ ê, điều này làm cho Emma một ấn tượng rất mạnh.

Cô gái bàng hoàng tiến vài bước gần lão! “ Có chuyện không hay đã xảy ra. Cậu Edwin có phải không?”. Cô thì thầm. Đó là một nhận định hơn là một câu hỏi.

Murgatroyd nhìn cô một cách thê thảm: “ Không bà chủ”. - Lảo nói “ bà mệt nặng phải không?”. Chính vì thế mà bác sỉ đến.- “ bà chết rồi”, Murgatroyd ngắt lời thô bạo, giọng lão khẽ và khàn.

Emma bất giác lùi lại một bước. Cô cảm thấy như bị đánh một đòn rất mạnh vào mặt. Cô thấy hình như tất cả máu trong ngừoi đã trào ra khỏi người cô, chân cô run lên. Giọng cô lạc đi khi cô kêu “ Chết!”

- Phải chết hẳn rồi”, Murgatroyd lầm bầm ngắn gọn, bộ mặt đen xậm lại của lão biểulộ nổi thống khổ chân thật nhất.

Trong giây lát, Emma mất hẳn khả năng nói. Miệng cô mở ra rồi đóng lại một cách ngu ngốc trong cơn choáng voáng và kinh hoàng.

Cuối cùng cô mới nói được. “ Nhưng chiều thứ năm khi cháu đi, bà có đến nổi nào đâu”.

-“Đúng, cả hôm qua cũng có sao đâu”, Murgatroyd ngân lên bằng giọng bi thảm. Lão nhìn Emma vẻ nghiêm trang và lần đầu tiên không có chút hằn thù nào trong dáng điện của lảo đối với cô. “ Nửa đêm bà ngã xuống cầu thang. Bị gảy cổ, bác sĩ Mac nói thế”.

Emma há hốc miệng, cô lảo đảo nắm lấy mép bàn để đứng vững. Đôi mắt cô to và xoáy vào lão quản gia.

Murgatroyd nghiêng đầu về phía Annie. “ Cô bé kia thấy bà vào lúc năm giờ rưởi sáng nay khi cô ấy lên gác để khều tro ra khỏi lò sưởi. Bà cứng như gổ nằm ngay ở cuối chân cầu thang lối vào phòng lớn. Trong quần áo ngủ, Annie sợ hải rụng rời vội chạy đến tìm tôi y như quỉ dử đuổi theo sau”.

-“ Không thể như thế được”. Emma vừa rên rỉ vừa lấy khớp ngón tay ấn vào miệng trắng bệch của mình. Mắt cô đầy nước mắt.

- “Ấy, khủng khiếp quá, thấy bà nằm đó, mắt mở to, trừng trứng và đờ đẩn. Đầu bà thòng sang một bên như đấu búp bê gãy. Tôi biết khi tôi chạm vào người bà thì bà đả chết hàng tiếng rồi. lạnh như một tấm đá thế đó!”.

Murgatroyd dừng lại trong lời kể đau lòng ấy, rồi lại tiếp tục: “ Tôi khiêng bà lên gác rấtnhẹ nhàng và dặt lên giường bà. Có thể là bà không hề chết. trông bà thật đẹp, vẫn đẹp như bao giờ, mái tóc vàng xõa xuống gối. Chỉ trừ đôi mắt trừng trừng của bà, tôi cố khép nó lại. Nhưng chúng không chịu khép. Tôi phải để hai đồng pennies cho tới khi bác sỉ Mac tới. Tội nghiệp, tội nghiệp quá!”.

Emma run rẩy và sững sờ gục xuống nặng nề trong ghế. Nước mắt lăn trên gò má, cô lần tìm trong túi một mảnh vải sạch dùng làm mùi xoa và lau mặt. Cô khom người trong ghế, choáng váng và khủng khiếp không còn nghĩ nổi điều gì. Nhưng dần dần sự bình tỉnh của cô trở lại, lúc ấy cô mới nhận ra rằng cô yêu quí Adele Fairley đến chừng nào. Bà phải ghánh chịu số kiếp, Emma tự nhủ. rồi cô nghĩ: mình biết thế nào cũng có chuyện khũng khiếp xảy ra ở cái nhà này.

Sự yên lặng trong nhà bếp thật nặng nề, chỉ thỉnh thoảng vẳng lên tiếng nấc của bà bếp. Một vài phút sau, lão quản gia lại xuất hiện từ phòng để thức ăn và nói một cách cộc cằn chua chát: “ Tất cả những sự khóc lóc, than vãn như nữ thần báo tử đếu phải chấm dứt, hiểu chưa”. Lão nói với cả phòng, mắt lướt qua tất cả mọi người: “ Chúng ta còn có nhiệm vụ phải làm. Còn cả gia đình phải lo liệu”.

Emma nhìn lão một cách đề phòng, cô nghĩ đầy thương cảm đối với Edwin và nổi khổ của cậu khi biết mẹ cậu chết yểu và đầy thê thảm như vậy. “ Các cậu ấy”, cô nói qua những dòng nước mắt cố nén và hỉ mũi. “Họ có biết không?”.

-“ Bác sĩ Mac đangnói chuyện với cậu Edwin trong thưviện lúcnày đây”, Murgatroyd thông báo cho cô biết. “ Còn tôi đã nói với cậu Gerald sau khi tôi khiêng bà vào phòng của bà trên gác, trước khi tôi sai Tom vào làng kiếm bác sĩ . Cậu Gerald đợi bác sĩ Mac. Ông đã tức tốc phái cậu ấy đi Newby Hall để tìm ông chủ về rối”.

- “ Thế còn bà Wainright?” Emma liềnhỏi.

Murgatroyd nén cho cô một cái nhìn cay độc. “ Cô nghĩ rằng tôi là một thằng ngu vô ý thức sao, cô bé? Tôi đã nghĩ đến điều ấy rồi. Bác sỉ Mac đã viết một bức điện và cậu Gerald đã gởi tới Scotland cho bà khi bưu điện bắt đầu mở cửa”. lão quản gia hắng giọng và nói tiếp: “ Nào, bây giờ chúng ta phải nhanh tay lên ở đây. Để bắt đầu, hãy pha một ấm trà. Bác sĩ cần một tách” – lão liếc nhìn quanh phòng và đôi mắt tròn , sáng của lão dừng ở bà Turner. “ Cả bà bep961 cũng cần một tách”.

Emma gật đầu, vội vã làm như lời lão. Murgatroyd lúc này nói với bà bếp giọng to hơn: “ Nào bà Turner. Bà hãy bình tỉnh lại. Còn nhiều thứ phải làm lắm. Chúng ta không thể gục ngã tất cả được, bà biết đấy”.

Bà bếp ngẩn bộ mặt sầu thảm của bà lên, nhìn Murgatroyd bực bội. Bộ ngực đồ sộ của bà vẫn còn phập phồng, nhưng tiếng nứcnở của bà đã hết. Bà nhổm khỏi ghế và gật đầu. “ Phải rồi. Cần phải nghĩ tới những đứa trẻ và ông chủ nữa”. Bà lại lau bộ mặt đẩm ứơt bằng tạp dề của bà, rồi lại nhìn xuống, vẩn lắc đầu. “Để tôi thay cái tạp dề của tôi và chuẩn bị bữa sáng. mặc dù tôi nghĩ chẳng ai thiết ăn uống gì đâu”.

-“ Bác sĩ Mac có thể cần ăn tí chút”, Murgatroyd nói: “Bây giờ tôi lên xem ông ấy một chút. Và kéo rèm. Chúng ta phải tỏ lòng kính trọng đối với người chết”.

Bà bếp đã thay xong tạp dề, bànói nhanh: “Ông đã sai Tom vào làng thăm bà Stead chưa. Để liệm cho bà chủ. Bà ây là người làm công chuyện này, tốt nhất ở đây”.

- “Ờ, tôi bảo rồi”.

Nghe nhắc đến tên mẹ, một thoáng lo ngại hiện lên đôi mắt đờ đẩn của Annie. “ÔNg đã gọi mẹ cháu rồi”. cô nói chậm chậm, cổ vương ra khỏi sự đờ đẩn choán lấy cô mấy giờ liên này.

- “ Tôi đã làm rồi, Annie”, Murgatroyd khẳng định: “ Chỉ vài phút nữa, bà ấy sẽ đến. Bà ấy cũng rất bận rộn với việc khâm liệm. Bà ấy không cần phải lo lắng thêm về cô nữa cô bé ạ !”.

Bà bếp đến bên Annie, ôm lấy cô và nhìn khuôn mặt xanh xao cũa cô bé. “ Cháu có thấy đở nhiều hơn chút nào không, cưng”, bà hỏi một cách lo lắng.

_“ Vâng, có” Annie lẩm bẩm: “ Cháu sợ quá”, cô há hốc miệng “ thấy bà chủ như vậy”, giọng cô run rẩy đứt quảng vì xúc động và cuối cùng nước mắt không nén lại được, cứ dòng dòng chảy.

_ “ Cứ khóc cho thỏa đi con, khóc cho vơi đau khổ trước khi mẹ con đến đây. Đừng để mẹ con phải đau buồn , có phải khôngnào, cưng?”. Annie vùi đầu vào người bà bếp, lặng lẽ khóc, bà Turner vỗ vỗ vai cô, vuốt tóc cô, lẩm bẩm ân cần với cô như một bà mẹ.

Hài lòng vì phần nào trật tự đã được lập lại, Murgatroyd quay đi và nhanh nhẹn bước lên cầu thang trước tiên lảo sẽ bàn bạc với bác sĩ Mac để xem ông có chỉ thị tiếp theo nữa không, rồi lão sẽ phải đi vòng vòng quanh nhà, kéo tất cả rèm lại, không cho ánh sáng lọt vào cho đến sau tang lể theo như phong tục của phương bắc đối với gia đình có người chết.

Emma pha trà, tất cả ngồi uống nứoc, yên lặng, tất cả đều sầu thương. cuối cùng, Annie là người đầu tiên nói. Cô nhìn Emma ở bên kia bàn vànói: “ Tôi ao ước giá Emma có mặt ở đây ngày cuối tuần. như vậy chị sẽ thấy bà chủ chứ không phải là em”. Mắt Annie mở to: “ Em không bao giờ có thể quên được cái nhìn ấy trên khuôn mặt bà ta. Y như bà ta đã nhìn thấy một cái gì khủng khiếp trước khi bà ngã xuống”.

Emma nhìn Annie qua con mắt nheo lại của mình, “ Cậu nói thế là nghĩa làm sao?”.

Annie thấy nghẹn ở họng: “ Y như bà ta đã nhìn thấy – nhìn thấy một trong những bóng hình ma quỉ đi lang thang trên đồng hoang lúc ban đêm mà mẹ em thường kể”, Annie nói, giọng nhỏ dần. “ Thôi nào, Annie, cháu im cái miệng lại. Tôi không cho phép những câu chuyện tưởng tượng về người chết ở trong ngôi nhànày”, bà Turner xẵng giọng. “ Tất cả chỉ là chuyện mê tín ngốc nghếch của dân làng. Toàn là nhảm nhí cả”.

Emma cau mày: “ Không hiểu bà Fairley định làm gì nhỉ?” Đi xuống gáclúc nửa đên, Murgatroyd nói là bà phải chết hàng tiếng đồng hồ rồi. Chắc hẳn bà phải đi lang thang lúchai, ba giờ sáng”.

Annie nói một cách từ tốn: “ Em biết bà định làm gì”.

cả bà Turner và Emma đều nhìn cô một cách khinh ngạc và trông đợi. “ Làm thếnào cháu biết được. Annie Stead ?”. Bà bếp hỏi một cách hách dịch: “ Yrừ phi tôi lầm, còn tôi biết cháu ngũ say ở căn gác xép của cháu. Hoặc là lý ra cháu phải như vậy”.

-“ Vâng đúng thế. Nhưng mà chính cháu thấy bà. Và có những mảnh thủy tinh vở chung quanh người bà, thủy tinh của ly rượu đẹp nhất. Bà vẩn còn nắm chặt cái ly, và có máu khô trên tay ở chổ bà bị đứt tay”, Annie rùng mình khi nhớ lại và thì thào: “ Cháu chắc là bà xuống thư viện để lấy chút xíu bởi vì cháu ngủ…”

-“ Murgatroyd không nhắc gì tới chuyện cốc vỡ với tôi cả”, bà bếp nói chen vào một cách dứt khoát và trợn mắt nhìn Annie.

- “ Vâng, ông ấy không. Nhưng cháu nhìn thấy, ông ấy quét dọn những mảnh vở hết sức nhanh”, Annie trả lời: “Ông ấy nghĩ cháu không nhìn thấy vì cháu sợ cứng người”.

Bà bếp tiếp tục trừng trừng nhìn Annie không nói mộtlời, nhưng Emma hít hà, cô lập tức nhận ra sự chân thực trong những điều Annie đã nói. Đó là một giải thích hiển nhiên nhất< “ Cậu không được nói lại điều ấy với ai, Annie. cậu có nghe tôi nói gì không? Ngay cả với ông chủ”. Emma căn dặn một cách trang nghiêm. “ Cái gì đã qua là đã qua, càng ítnói càng tốt”.

-“ Emma nói đúng đấy, cưng?”. Đã trấn tỉnh lại được bà bếp nói: “ Chúng ta không muốn những lời đồn xấu ở trong làng. Hãy để bà chủ tội nghiệp chết an bình”.

Annie gật đầu. “ Cháu hứa sẽ không nói gì hết”.

Emma thở dài và trầm tư. Rồi cô nhìn xoáy vào bà bếp và nói: “ Thật là kỳ quái, thử nghĩ mà xem. Trước hết Polly chết, rồi mẹ cháu. Và bây giờ là bà Fairley, tất cả chỉ cách nhau vài ba tháng”.

Bà bếp nhìn lại cái nhìn tập trung của Emma: “ Nghe nói, ở những miền đó, tất cả điều đi cặp ba”.

Đám tang của Adele Fairley tổ chức vào cuối tuần đó. Nhà máy Fairley đóng cửa ngày hôm ấy, tất cả công nhân đều đi đưa đám cùng với các gia nhân của Hall. Nghĩa trang nhỏ nối liền nhà thờ Fairley đầy người. các nhà quý tộc địa phương và bạn bè của gia đình trên khắp miền đều đến đưa tiển.

Hai ngày sau tang lễ, Olivia Wainright rời đi Luân Đôn, Edwin đi theo. Đúng một tuần sau, Adam Fairley cùng đi để ở với cậu con út ở nhà chị dâu ở Mayfair.

Ernest Wilson được giao trách nhiệm trông mon nhà máy, trước sự khoan khoái ngấm ngầm của Gerald Fairley. Đối với anh chàng Gerald chai sạn, không có đầu óc, vô trách nhiệm hoàn toàn không động tâm trước cái chết của mẹ, chỉ chăm chăm nghĩ tới những cơ hội khôn cùng. Cậu ta hoàn toàn lăn lộn với nhà máy trong khi cha cậu vắng mặt, cậu tha thiết muốn tình hình này sẽ kéo dài.

Tháng sáu năm sau , vào một buổi chiều chủ nhật ấn áp, Edwin từ Fairley Hall đi đến đồng hoang . Một tay anh mang một chiếc giỏ đựng đầy những thức ăn của nhà bếp, còn túi kia để những dụng cụ làm vườn và một vài thứ thiết dụng khác .

Anh và Emma có một công việc nặng nhọc phải làm ở vách Ramsden, một công việc đã được họach định từ nhiều tuần . Bởi từ thời tiết khắc nghiệt và mua luôn , họ đã phải hõan việc mạo hiểm này mấy lần . Thứ sáu , khi Emma về nhà để nghỉ những ngày cuối tuần , Edwin đã đi cùng với cô đến tận vách . Họ đã hẹn nhau ở đó ba giờ chiều , nếu thời tiết cho phép .

Và thời tiết đã cho phép Edwin nghỉ . Anh ngước nhìn lên mặt trời nhợt nhạt luôn ẩn hiện sau những đám mây xanh , trắng rải rác trên bầu trời , nhưng không có dấu hiệu báo mưa . Ngay cả cơn gió nhẹ hầu như cũng không có và không khí dịu dàng quá như ngát hương .

Edwin cố ý tránh chuồng ngựa . Một vài phút trước đó khi anh xuống bếp để lấy giỏ đựng thức ăn , anh đã thấy Annie Stood , và Tom Hardy chuyện trò , cười với nhau ở trong sân . Hai người tán tỉnh nhau , và như vậy chắc là họ không để ý gì đến anh đâu , vì họ có vẻ như đang quấn quít lấy nhau , Emma đã báo với anh như thế . Mặt khác , anh cũng không muốn thử họ làm gì bởi vì anh không hề có ý định khêu gợi sự tò mò nhỏ nhặt của họ . Không phải việc anh đi chơi ở đồng hoang là bất thường đối với anh , nhưng cái túi có thể gây sự chú ý . Anh bước nhanh qua vườn hồng có tường xây và ra tới khu sồi gìa . Chỉ một lúc sau , anh đã vượt qua cánh đồng Baptist , họ leo dốc nhô lên vùng cao nguyên bằng phẳng của đồng hoang , lối đi nhỏ chạy suốt tới Ghyll và vách Ramsden bên kia . Edwin hít một hơi thật dài , không khí trong lành đầy hai lá phổi, không khí làm khỏe người ở trên miền đất cao này . Sức khỏe của anh bây giờ đã phục hồi hòan tòan và anh cảm thấy khỏe trở lại . Đầu tháng năm anh bị cảm lạnh mùa hè, nhiễm vào phổi sau đó phát triển thành viêm phế quản . Sau hai tuần ở viện điều dưỡng , theo đề nghị khẩn thiết của bác sĩ nhà trường , anh được đưa về nhà để phục hồi sức khỏe .

Tom Hardi đã đánh xe ngựa tới Worksop để đón anh , vì cha anh đi vắng , điều này hiện nay không phải là chuyện bất thường , theo như chỗ Edwin hiểu, cha anh chỉ tới Fairlay theo chu kì khi tuyệt đối cần công việc gì ở đó không rõ . Tuy nhiên , cha anh đã kiếm cho anh một gia sư để việc học tập của anh sẽ không bị tụt lại sau . Mặc dù Edwin là một học sinh có kỉ luật và hòan tòan có khả năng làm việc một mình, cha anh vẫn muốn anh chắc chắn phải đạt được thành tích học tập xuất sắc . Khi mười tám tuổi, anh được đưa tới Cambridge để học làm luật sư dưới sự hướng dẫn của giáo sư luật học tại trường đại học Downing . Ngòai Gerald và các gia nhân thì chỉ có một mình Edwin và gia sư không bi quan chuyện này . Thực ra thì anh còn thích nữa là khác . Anh được để mặc một mình muốn làm gì thì làm, chỉ trừ những buổi sáng phải học căng thẳng với gia sư . Gerald coi anh như không có, và ít khi nói năng gì với anh . Anh ta quá bận . Bởi vì xưởng máy ở Fairlay và hai xưởng khác ở Stanningley Bottom và anh đã chóan hầu hết thì giờ của Gerald , hai anh em chỉ gặp nhau vào lúc ăn mà cũng không thường xuyên lắm . Thỉnh thỏang Gerald đem theo bữa ăn của bà bếp chuẩn bị cho tới nhà máy Fairley và ăn ở đó , một ý nghĩ không ngon lành gì đối với Edwin khiến anh buồn nôn .

Edwin bắt đầu húyt sáo vui vẻ khi cậu hướng về phía vách Ramsden, anh bước rảo , mớ tóc vàng bay trong gió . Anh rất mong gặp Emma, và cũng để thực hiện kế họach của hai người . Emma đã thách thức một lí thuyết anh về vách Ramsden và vì một lí do nào đó, anh cảm thấy buộc phải chứng minh quan điểm của mình . Anh tự hỏi không hiểu mình có phải là thiếu niên không . Có lẽ .

Edwin Fairley vừa kỉ niệm ngày sinh thứ mười bảy lúc này anh coi mình hòan tòan là một người lớn , anh không tỏ ra là lớn hơn chính tuổi của mình . Điều này cũng tự nhiên thôi do những sự việc đã xảy ra năm ngóai, trong đó có cái chết đột ngột và bi thảm của mẹ anh . Việc qua đời của mẹ anh đã có một ảnh hưởng sâu sắc đối với anh hơn là với anh của anh , bởi anh đã gần gũi hơn, gắn bó hơn đối với me. Lúc đầu nỗi buồn của Edwin là vô cùng to lớn, nhưng với bản chất học giả và là người ngốn sách giống như cha anh , nên anh đã vùi đầu vào học tập . Việc học tập căng thẳng đã ngăn anh khỏi sầu thương quá độ vì cái chết của mẹ và những tình huống khủng khiếp của nó . Anh đã lao mình , như để trả thù, vào những họat động không sao kể hết ở nhà trường , những họat động thể thao và nó đã giúp anh nguôi nỗi buồn . Nó làm anh bận rộn từ sáng sớm tới khuya . Cuối cùng , anh đã có thể hướng theo một thái độ triết học , và cuối cùng lúc này , anh đã chấp nhận mất mát của me, đỡ đau khổ hơn .

Olivia Wainwright cũng đóng một vai trò quyết định trong sự phát triển của Edwin, tuy là gián tiếp , nhưng thật là thiết yếu . Khi anh đến thăm bà ở London trong một phần thời gian nghỉ hè của mình , anh được tiếp xúc với rất nhiều bạn bè của bà - các nhà chính trị , các nhà văn , các nhà báo , nghệ sĩ , nhiều người nổi tiếng và xuất sắc trong lãnh vực của mình . Những cuộc gặp gỡ đầy đặc ân trong một xã hội vui vẻ, khoan khóai và tinh tế luôn có một ảnh hưởng lớn lao đối với anh , Olivia nhận biết được những cử chỉ thanh lịch của anh , ngạc nhiên vì trí óc thông minh của anh nên đã để anh tham dự tất cả các buổi tiếp tân của mình , anh hòan tòan thích thú và cư xử lịch sự . Do đó anh đã trưởng thành và tự tin . Đứng về một số mặt tinh tế , anh là một thanh niên hòan tòan khác với đứa con được nuông chiều như hồi Adellor còn sống .

Nhưng , ngòai những thay đổi về nhân cách và thái độ, Edwin còn trải qua một sự thay đổi về thể chất đáng ngạc nhiên , do một phần ở sự quan tâm tới thể thao của anh . Anh cao lên và nở nang ra , anh đã trở thành một thanh niên hết sức đẹp và ngày càng giống bố . Anh đã thừa hưởng được đôi mắt mày xanh thẫm của Adam Fairley , khóe miệng đầy ham muốn và bộ mặt thông minh rõ nét của ông , mặc dù nét mặt của Edwin không khắc khổ như bố . Bây giờ anh gần như cao to bằng Adam . Thân hình đẹp và với bộ mặt đẹp trai kiểu cổ điển của anh đã khiến anh có cái tên giễu là " Adonis " ở Worksop khiến anh rất bực bội . Anh luôn luôn bối rối vì sự xôn xao mà dáng vẻ của anh gây ra đối với các chị em và họ hàng của các bạn anh cùng trường anh .

Edwin coi họ là những kẻ lăng xăng , vô vị và nhẫn tâm . Anh ghét những câu chuyện nhạt nhẽo của họ , nó làm cho anh bối rối . Anh thích trò chuyện với Emma hơn nhiều , cô là nguồn an ủi đối với anh trong lúc anh mất mẹ . Không một người nào trong số các tiểu thư , hoặc các cô gái con nhà đại tư bản mà cha anh gắn cho anh có thể so sánh được với Emma về nhan sắc và duyên dáng , thông minh và trí óc sắc sảo . Lạy chúa tôi , cô ấy mới đẹp làm sao . Mỗi lần anh quay trở về Fairley , cô lại làm anh sung sướng hơn , ở tuổi 16 , cô đã phát triển đầy đủ và tuyệt vời làm sao . Hình dáng nở nang của cô là hình dáng của một thiếu phụ trẻ và nét mặt cô phi phàm .

Edwin mỉn cười sung sướng , được ở bên Emma thật là hạnh phúc , thóat khỏi những con mắt thóc mách của cách gia nhân . Cô làm cho anh cười vì sự sắc sảo của mình và đi thẳng vào vấn đề . Anh cười một mình , Murgatroyd đối tượng châm biếm chua chát của cô . Cô gọi lão là " Mặt băng " sau lưng lãi , nhưng chỉ với Edwin thôi . Gerold của anh được đặt tên " Xương sườn" khiến anh cười bò ra vì anh chàng Gerold phát phì , ngày một phì nộn ra một cách khả ố . Những ý nghĩ về Emma làm anh rảo bước chẳng bao lâu đã đến vách . Anh để giỏ thức ăn và túi xuống rồi bước lên , anh lấy tay che mắt ngó ra xa .

Emma trèo qua ngọn đồi cuối cùng và nhìn thấy Edwin trước khi anh nhìn thấy cô . Cô bắt đầu chạy . Cây thạch nam và dương xỉ lướt qua bàn chân , gió thổi tung chiếc váy dài phồng lên như những đám mây , tóc cô xòa bay phần phật ra phía sau . Bầu trời như cây thủy cự , những con chiền chiện vui đùa trong nắng . Lúc này cô có thể nhìn thấy Edwin rất rõ , anh đang đứng bên những tảng đá khổng lồ ngay dưới bóng vách bên Ramsden Ghyll . Khi nhìn thấy cô, anh giơ tay vẫy và bắt đầu trèo ngược lên về phía cách đá khuất gió nơi họ luôn ngồi với nhau để nhìn thế giới phía dưới . Anh không nhìn lại mà vẫn tiếp tục reo lên .

- " Edwin ! Edwin ! Đợi em với " , cô gọi , nhưng tiếng cô bị gió đưa đi và anh không nghe thấy . Khi cô lên tới vách Ramsden , cô mệt đứt hơi khuôn mặt vốn xanh của cô ửng hồng vì quá sức .

- " Em chạy ghê quá , em tưởng đến chết mất ", cô hổn hển trong khi anh giúp cô lên vách đá .

Anh mỉm cười với cô : " Em sẽ không bao giờ chết cả , Emma . Cả hai chúng ta sẽ sống mãi mãi muôn đời trên đỉnh thế giới . "

Emma liếc mắt nhìn anh và cười . Rồi cô nhìn xuống và nói :

-" Em thấy anh mang cái túi ".

-" Tất nhiên . Và cả giỏ thức ăn nữa , để dùng sau này ".

-" em nghĩ chúng ta sẽ phải dùng tới nó sau việc làm nặng nhọc mà chúng ta phải tiến hành ".

-" Nó sẽ không nặng nhọc như em nghĩ đâu , Emma ạ và anh sẽ làm việc cho ". Anh bước lấn xuống những bậc đá nhỏ như những bậc thềm đẽo qua loa và nhảy xuống đất . Anh mở túi lấy ra chiếc búa , một cái đục và một cái đinh lớn . Anh đút những thứ đó vào túi .

Ngước nhìn Emma trên vách , Edwin nói " Anh sẽ chứng minh cho em biết rằng tảng đá chính này không phải là một phần của vách mà là hòan tòan tách biệt . Và có thể chuyển nó đi . " Vừa nói Edwin vừa đá vào tảng đá cao chừng 4 foot rộng 2 foot . Tảng đá này được chêm giữa những tảng đá lớn hơn cao vút tận trời .

-" Có thể là như thế ", Emma vừa nói vừa nhìn xuống chỗ anh .

-" Nhưng anh vẫn nghĩ là dù anh có chuyển nó đi , anh cũng chẵng thấy gì sau đó . Chỉ là đá tiếp theo thôi ".

Edwin lắc đầu . " Không , Emma ạ, anh không đồng ý . Anh chắc sau tảng đá đó , chỉ có một khỏang trống ". Anh trèo lại lên vách đá , lách qua cô rất cẩn thận và ngồi trên mỏm đá . Mỏm đá này gần vách đá nhưng thấp hơn vài inch và nó hơi nhô ra một chút . Edwin quì xuống vách đá , lấy búa và đục ra . Anh tiến lại gần tảng đá hơn và cúi người xuống .

-" Anh làm gì thế , Edwin ", Emma hỏi một cách tò mò , rồi dặn nhanh : " Cẩn thận không có ngã lộn cổ đấy ".

-" Anh rất an tòan ", anh trả lời và tiếp tục : ' Em có nhớ cái kẽ nứt chỗ anh mất đồng silinh ấy mấy tuần trước đây không - Anh nghe thấy nó lách cách khi nó rơi xuống một cái hố , vì thế anh có thể nhìn thấy xuống xem dưới tảng đá có cái gì trong đó ".

-" Anh sẽ chẳng nhìn thấy gì nữa đâu ngòai đá và đá ", cô nói buộc miệng .

Edwin khúc khích cười và bắt đầu đục liên tục vào kẽ nứt . Emma theo dõi anh một cách kiên nhẫn và lắc đầu . Cô hòan tòan tin chắc Edwin chỉ phí thời gian thôi , nhưng cô quyết định chiều lòng anh khi anh đánh rơi đồng shilling . Sau mười phút đục liên tục , anh đã đào được một lỗ rong kẽ nứt đường kính chừng 2 inch . Anh cúi xuống , ép một mắt vào lỗ tay nắm lấy 2 bên tảng đá để giữ thăng bằng :

-" Anh có nhìn thấy gì không ? " . Emma hỏi .

Edwin thẳng người lên và lắc đầu : " Không , đen ngòm tất cả ."

Anh lấy cái đinh ra khỏi túi vừa ngóai đầu lại để có thể nhìn thấy Emma . " Xích lại gần đây , Emma , nghe cẩn thận ". Cô làm như lời anh bảo , men theo vách đá và ép sát vào người anh . Cả hai người cúi xuống lỗ , anh thả chiếc đinh xuống đó . Trong một vài giây không có một âm thanh gì , sau đó họ nghe thấy tiếng cạch rất rõ khi chiếc đinh chạm đất .

-" Đấy ! Em có nghe thấy không Emma ? "

-" Có, có nghe thấy . Nhưng có thể là nó rơi vào một tảng đá khác thôi ".

-" Không , anh không nghĩ như thế . Mãi nó mới rơi xuống . Nó ở trên mặt đất ", Edwin kêu một cách chắc chắn . Anh để lại những dụng cụ vào túi áo vét . Lùi lại theo vách đá , và trèo xuống chầm chậm để khỏi trượt chân . Anh sẽ theo sau .

Emma bước xuống những tảng đá dưới vách , bước lùi một cách cẩn thận và nhảy xuống đất . Edwin theo sát phía sau . Anh cởi áo vét ra , quẳng nó sang một bên và vén tay áo lên . Emma đứng nhìn anh trong khi anh lục tìm trong túi , một vẻ hòai nghi trên mặt cô . " Bây giờ anh sẽ làm gì nữa ? " Cô hỏi : " Anh sẽ gạt tất cả rêu , những tấm thạch nam và cỏ dại mọc ở đây ", anh thốt lên , và chỉ vào phía dưới của tảng đá . " Em có thể giúp anh ". Anh đưa cho cô cái xẻng và bản thân mình cũng cầm một cái mai nhỏ : " Em làm ở phía đó , còn anh ở phía này ".

Emma cho tất cả những ý nghĩ ấy chỉ là một sự mất thời gian và sức lực ; tuy vậy cô cũng bắt đầu làm rất nhiệt tình , đào lên những túm thạch nam và rên đã bám vào tảng đá nhiều năm . Một lát sau , cô bắt đầu đổ mồ hôi . Cô đặt xẻng xuống , xắn tay áo lên , mở khuy cổ áo . Cảm thấy thỏai mái hơn , cô lại tiếp tục đào . Sau khoảng 20 phút làm việc miệt mài , họ đã làm được một công việc đáng kể là làm quang được phía mặt và phía đáy của tảng đá .

Edwin bước lùi lại và nhìn nó một cách suy nghĩ " Coi này , Emma ", anh nói . Anh nắm lấy bàn tay cô và kéo cô lại phía anh . Anh chỉ vào tảng đá . " Em có thấy khi mình gạt bỏ tất cả mọi thứ chung quanh thì bản thân tảng đá này được nhìn rõ nét hơn không . Đó không phải là một bộ phận của tòan bộ vách . Em thấy nó được lắp vào giữa những tảng đá lớn không , một tảng đá nào có thể rơi chính xác như vậy , Emma ạ . Anh chắc chắn nó được đặt ở đó ".

Emma gật đầu . Cô phải đồng ý . " Anh nói đúng ", cô nói như vậy rồi nói thêm :"Nhưng Edwin , hãy còn một khỏang cách nữa . Chúng ta làm thế nào chuyển được nó ".

Anh bước nhanh lại chỗ tảng đá và nói một cách hòan tòan tự tin : " Anh sẽ làm cho kẽ nứt này rộng hơn ". Anh vỗ vào tảng đá trung tâm và chỉ vào một khỏang cách nhỏ ở chân nó , giữa tảng đá và vách núi sừng sững vươn lên phía sau . " Không thể được đâu , Edwin ạ . Và anh có thể bị thương đấy ".

-" Không , không việc gì đâu , Emma . Anh đã suy nghĩ rất cẩn thận rồi ".

Dùng búa và đục làm việc một chập , Edwin chẳng bao lâu đã làm được một khỏang rộng vừa đủ để dùng xà beng . Anh để xà beng vào lỗ và chêm một cục gỗ nhỏ nhưng chắc ở phía sau, để ở trên phía tay trái tảng đá . " Lùi lại , Emma ", anh dặn , " ra gần chỗ cây ấy . Đá sẽ rơi về phía trước và anh không muốn em đứng vướng đường của nó ". Dùng tất cả sức mạnh của mình , Edwin tì xà beng vào phía đầu nhô ra của khúc gỗ, dùng nó như điểm tựa , ấn mạnh bẩy tảng đá ra khỏi vách đá . Nhưng nó không nhúc nhích , Edwin mồ hôi nhễ nhại , cách tay anh cong lên nhưng anh quyết tâm đẩy xà beng .

Emma hai tay chắp vào nhau và nín thở . Edwin đã lầm . Không được đâu . Vừa nghĩ thế , cô bỗng thấy nó chuyển động .

-" Edwin! Edwin ! Em nghĩ là em thấy nó nhúc nhích ", cô hét lên .

-" Anh biết rồi ", anh hổn hển : " Anh cũng cảm thấy thế ". Với một cố gắng cuối cùng , anh ấn mạnh xà beng và tảng đá đổ nhào về phía trước , đúng như anh tiên đóan . Một kẽ nứt trên bề mặt của vách Ramsden đã lộ ra . Nó rộng chừng 18 inch và cao 2 foot . Edwin không giấu nổi sự xúc động của mình . Anh quay ngoắt lại .

-" Em này , Emma này , ở đây có một cái lỗ đây này ", anh kêu lên đắc thắng . Anh quì xuống và nhìn vào trong đó rồi anh áp đầu vào . Nó giống như một đường hầm nhỏ . Đồng Shilling và cái đinh đây rồi ! Anh cuốc chúng và kéo lên . Anh cầm giơ ra cho cô xem , mặt anh cười rạng rỡ .

-" Anh nghĩ , nó đi tới đâu ". Emma vừa hỏi vừa chạy tới bên khe .

-" Anh không biết . Dưới khe có lẽ thế , nó trải dài hàng dặm chứ chơi à . Anh sẽ vào xem ".

-" Ồ , Edwin , có nên không anh ? " Một vẻ lo ngại hiện trên nét mặt cô . " Có thể nguy hiểm . Ngộ nhỡ anh xuống và bị kẹt trong đó thì sao ? "

Edwin đứng lên và rút khăn mùi soa ra . Anh lau bộ mặt ướt đẫm và chải mái tóc lật lại sau . " Anh chỉ xuống một đọan thôi mà . Anh đã mua nến và diêm rồi . Chúng ở trong túi . Em lấy hộ anh với Emma , cả đọan dây thừng nữa ".

-" Có đây ". Cô đưa cho anh những thứ anh yêu cầu . " Em sẽ xuống cùng với anh ", cô tuyên bố .

Anh nhìn cô chằm chằm và cau mày . " Anh không nghĩ như vậy . Lúc đầu hãy khoan đã . Để anh xuống điều tra rồi anh sẽ lên đưa em xuống ". Cô mím chặt môi và nói một cách mạnh mẽ : " Em không sợ , anh biết đấy ".

- "Ừ , anh biết . Nhưng anh nghĩ em nên ở đây , ngộ nhỡ anh có cần cái gì ". Vừa nói Edwin vừa buộc dây thừng quanh bụng anh . Anh đưa cho cô đầu dây kia . " Em giữ lấy cái này , dưới đó có thể có những đường ngang ngỏ tắt . Anh đã đọc về chuyện leo đá và đi vào những hốc đá sâu , những người đi vào hốc đá luôn buộc dây thừng chung quanh cho an tòan ".

Emma lúc này rõ ràng là đã có ấn tượng tốt đẹp về những kết luận của Edwin , cô lập tức hiểu ngay được ý nghĩ của công việc . " Ồ , anh phải cẩn thận " - Cô nhìn Edwin cao lớn , bắp thịt cuồn cuộn , rồi nhìn vào kẻ nứt . " Làm thế nào mà anh xuống đó được ? Em muốn biết . Nó nhỏ quá ".

-"Anh sẽ phải ép người vào rồi bò dọc theo ".

-" Như thế thì bẩn hết người , Edwin Fairley . Bà bếp sẽ ngạc nhiên không hiểu anh đã làm gì . Anh sẽ bị chỉnh cho một trận đấy . "

Miệng của Edwin chun lại và anh bất ngờ bật cười , " Emma thôi em đừng lo nghĩ nhiều quá nữa , tòan là những cái chuyện lặt vặt ấy . Bà bếp sẽ không nói gì đâu . Chúng ra đã tíên được một đọan dài . Ít nhất chúng ta phải hòan thành một dự án này đã ".

Emma thở dài . " Được rồi . Nhưng mà từ từ , thong thả thôi , nếu anh cần em thì hãy giật dây thừng . Anh hứa đi ".

-" Anh hứa ".

Emma thấy bồi hồi khi nhìn Edwin biến trong kẽ nứt . Dần dần độ dài của dây thừng cứ kéo ra khi anh di chuyển sâu tít vào trong đường hầm cho đến tận khi cô chỉ còn lại một đọan dây cuối cùng ở phía tường bên ngòai vách . Một thoáng lo ngại qua mặt cô , cô cúi đầu gọi vào trong hang : " Edwin ! Anh có an tòan không ? "

-" Có ," giọng anh vọng lại , vang lên từ xa .

-" Anh đã dùng hết cả dây rồi đấy " ,cô kêu lên giọng the thé .

-" Anh biết rồi . Bỏ dây ra ".

-" Không! Em không bỏ đâu ".

-" Emma , bỏ ra ! !, anh kêu to giọng mệnh lệnh . Cô làm như vậy mặc dù rất miễn cưỡng và quì xuống nhìn vào khe , đột nhiên sợ thay cho Edwin . Bên trong dường như đầy đe dọa .

Nhưng trong vòng vài ba phút , cô nghe thấy tiếng cạo đất và cô nhẹ cả người khi thấy mái tóc hoe của Edwin . Cô tránh sang một bên để anh có thể lách ra . Sơ mi và quần anh phủ đầy đất và mặt anh nhem nhuốc bẩn thỉu . Anh đứng thẳng lên, cười . " Có cái gì ở trong đó ? ", cô hỏi , sự tò mò ngày càng tăng .

-" Một cái hang , Emma ạ ! Một cái hang tuyệt vời !" Anh kêu lên , đôi mắt lấp lánh : " Em thấy không , anh nói đúng mà . Đi , anh sẽ cho em xem . Và chúng ta không cần tới thừng . Đường hầm này thẳng và dẫn ngay vào trong hang . "

-" Một cái hang thật sự : Lạ chưa này !" . Emma nói , rồi cô mỉm cười hơi xấu hổ . " Em xin lỗi đã nghi ngờ anh , Edwin ". Anh cười : " Không sao . Nếu như em không nghi ngờ anh thì có lẽ anh cũng không cảm thấy buộc phải chứng minh rằng anh đúng . Nào , chúng ta đi ". Anh thu thập thêm nến và nói tiếp : " Em theo anh . Trước hết thấp đầu xuống . Ở phía ngòai , đường hầm rất thấp ".

Edwin chui vào lỗ , Emma nhích theo sau , mắt chơm chớp để làm quen với bóng tối vì vừa ở ngòai nắng chan hòa . Lúc đầu hai người phải bò , nhưng họ càng vào sâu thì đường hầm càng cao hơn , rộng hơn và họ đã có thể đi khom khom một phần còn lại của con đường . Chẳng mấy chốc Emma đã có thể nhìn thấy ánh nến le lói mà Edwin đã để trong hang , và một vài giây sau anh đã giúp cô đứng trong hang .

Edwin bắt đầu thắp những ngọn nến mang theo , đặt chúng ngay ngắn thành một hàng dài dọc theo vách đá hẹp gần lối vào . Trong khi anh làm việc này , Emma nhìn quanh hết sức thích thú . Khi ánh sáng của những ngọn nến lóe lên chiếu sáng trong bóng tối , cô thấy chiếc hang thật là tuyệt vời đúng như Edwin đã nói . Đó là một cái hang lớn có trần cao vút hình nón kì lạ . Có một số vách đá nhỏ nhô ra từ những bức tường đá , trong khi những chỗ khác có những đọan thụt vào lớn nối với miền bằng phẳng nhẵn nhụi đến nỗi như được đánh bóng bằng một bàn tay khổng lồ . Một cảnh tượng vĩ đại đến ngộp thở của phía trong hang có lẽ cũng cổ xưa như chính thời gian vậy . Nó mát mẻ , khô và tuyệt đối yên tĩnh . Emma có một cảm giác chóang ngợp .

Edwin đưa cho cô một cây nến và anh cũng cầm một cây . " Chúng ta hãy điều tra ", anh tuyên bố . Anh tiến lên và chân anh đá phải cái gì dưới đất . Anh nhìn xuống , hạ thấp cây nến để nhìn rõ hơn . " Emma , nhìn xem này ! Đây là phần còn lại của một đốm lửa ". Anh đá cục củi đã cháy đen thành than, cục củi lập tức tan ra . " Trời ơi , có người đã khám phá ra hang này trước chúng ta ".

-" Anh nói đúng ", Emma vừa nhìn khúc củi cháy đen vừa xác nhận , rồi cô nhìn thấy cái gì giống như một đống túi ở tít một góc xa . "Phía kia kìa , Edwin . Em nghĩ là những cái túi ".

Anh nhìn theo ngón tay chỉ của cô và rảo bước qua hang . Đúng thật . Và trên vách đá này còn có cả một mẩu nến . " Ồ , nào ! Ta xem còn tìm thấy gì nữa không . Em đi sang phía bên kia, anh sẽ tìm ở phía bên này ", giọng anh run lên hăm hở .

Emma vừa chầm chậm , tay cầm ngọn nến giơ ra phía trước . Vừa đi cô vừa nhìn nhanh hai bên , nhìn xuống sàn đất cứng , dõi mắt trông lên những bức tường cao .

Trước sự thất vọng to lớn , phía trong của hang hình như hòan tòan trống rỗng . Cô định quay lại cùng với Edwin thì ánh sáng yếu ớt của ngọn nến đã chiếu vào một mảnh tường bằng phẳng . Cô chắc chắn có thể nhận ra những nét mờ mờ trên tường như chữ viết vạch trên bề mặt . Cô chạy lại và giơ ngọn nến sát gần . " Chữ viết . Thú vị thật ".

Rồi Emma hít hơi kinh ngạc , bởi vì chữ đầu tiên cô đọc là Elizabeth . Cô di chuyển cây nến . Viết ở dưới là Elizabetta . Và ở dưới nữa là Isabella . Từ từ , đôi mắt của Emma theo hàng chữ chạy dọc hang Lilibeth , Beth , Betty , Besss, Eliza, Liza, Lisa . Bên cạnh cột này có một chỗ , khắc bằng những chữ cái lớn ADAM . Cô nuốt nước miếng . Dưới cái tên đó là một trái tim nhỏ với một mũi tên xiên qua và bên trong trái tim là hai chữ AE.

Mắt Emma dán chặt lấy bức tường và những chữ cái này . Cô lạnh tóat người khi cô nhớ lại trái tim cô đã tìm thấy chiếc hộp gỗ của mẹ cô . Có lẽ nào mẹ mình và ông ta !

-"Emma ! Emma ! Em ở đâu ? "

Cô trấn tĩnh lại khi bước chân Edwin tới gần , vang lên trên nền đất cứng . Cô há miệng ra rồi khép lại ngay , trong một giây lát không tin là mình có thể nói được rành rọt . Cuối cùng cô gọi : "Ở đây ".

-" Em thấy gì ", Edwin vừa hỏi vừa chạy xô đến chỗ cô . Cô câm lặng chỉ lên những chữ trên tường . Mắt của Edwin chiếu ngay lên tên của cha anh ! Adam! Anh đọc một cách kinh ngạc , mắt mở to nhìn những cái khổng lồ . " Sao , cha anh đã tìm ra cái hang này nhiều năm về trứơc !" . Anh kêu lên mừng rỡ . " Và nhìn này , đây là những biến thể của cái tên Elizabeth, cả tiếng Ý và Tây Ban Nha . Thật là hết sức gợi tò mò . Em nghĩ Elizabeth đã là ai hoặc đang là ai ? "

Emma yên lặng . Edwin hình như không để ý đến sự không trả lời của cô , hoặc sự yên lặng hòan tòan của cô , bởi vì cô đứng ngây như đá bên cạnh anh . " Anh không nghĩ là anh nên hỏi cha anh . Tuy nhiên , chúng ta hãy tìm hiểu thêm một chút nữa ", Edwin đầy sôi nỗi . Anh để Emma đứng trước những nét chữ vạch trên tường, vẫn còn lảo đảo với những ẩn ý của nó .

-" Lại đây Emma . Anh còn tìm thấy một cái nữa ", Edwin gọi to sau một vài giây . Emma cố ngăn lại niềm ao ước muốn chạy ra khỏi hang , cô hết sức miễn cưỡng tiến lại bên anh ở một góc nơi chất các túi . Edwin đang cầm một viên đá hình trái xoan bèn bẹt dài chừng vào ba inch rộng hai inch . Anh đưa nó cho cô và giơ ngọn nến lên hỏi : " Em có thấy không , Emma ? hòn đá được vẽ lên . Đó là một bức vẽ thu nhỏ hình một người phụ nữ . Xem này ! Anh nghĩ đó là Olivia . Ừ, anh chắc chắn đó là dì ".

Emma không nói gì , nhưng cô nghĩ một cách dữ dội : Không , không phải . Đó là mẹ tôi .

-"Em có nghĩ đó là dì Olivia không ? "

-" Vâng , " Emma trả lời một cách buồn tẻ .

Edwin để hòn đá vào túi . " Anh nghĩ anh sẽ giữ cái này ", anh nói .

Emma run lên , cây nến lọang chọang trong tay cô . Edwin nhận thấy điều này . " Emma , em lạnh rồi !" . Anh chặc lưỡi thông cảm , và quàng tay lên người cô . Emma phải cố gắng lắm để khỏi lùi tránh .

-"Vâng , em lạnh . Chúng ta hãy ra khỏi đây . Ở bên ngòai trời ấm hơn ".

Không đợi anh trả lời , cô nhòai người ra và chạy về phía cửa hang . Cô thổi tắt ngọn nến, đặt nó và bệ đá cúi lom khom, rồi bò đi với một tốc độ nhanh không thể tưởng tựơng nổi dọc theo đường hầm cho đến khi ra ngòai không khí trong mát . Cô thở nhẹ nhõm . Cô sẽ không bao giờ trở lại đó nữa . Không bao giờ .

Một lát sau Edwin cũng chui ra . Mắt anh dõi tìm Emma . Cô đứng dưới vách Ramsden , giũ áo khỏi bụi bẩn , tóc cô bay phần phật trong gió , mặt cô bí hiểm . Khi anh tiếp tục nhìn cô, anh nhận ra một sự lạnh lùng kì lạ , thỉnh thỏang đến với khuôn mặt nàng . Vốn là người nhạy cảm , nhất là đối với Emma , anh lập tức thấy ngay được sự thay đổi trong tâm trạng của cô , một sự thay đổi về cơ bản . Điều ấy làm anh đau buồn .

Anh bước lại cầm lấy cánh tay cô . " Emma , có chuyện gì không ? ". Cô tránh mặt sang một bên , không trả lời .

-" Có chuyện gì không ? " - Anh lại hỏi , to hơn .

Cô gạt tay anh ra : " Không , không có chuyện gì cả ".

-" Nhưng trông em lạ quá . Và em bỏ chạy như con thỏ sợ hãi trốn ra khỏi hang ".

-" KHông sao cả . Em lạnh , thế thôi ".

Edwin quay đi, anh biết rằng anh sẽ chẳng làm được gì hay hơn với cô lúc này . Anh phủi bụi khỏi quần và bắt đầu nhặt nhanh dụng cụ . Anh bỗng cảm thấy xẹp . Emma ngồi trên tấm đá phẳng nơi cô luôn luôn ngồi . Anh nhìn cô trong khi cô nâng mái tóc dài và hất nó ra sau vai một cách duyên dáng . Rồi cô đặt hai tay vào lòng ngồi nhìn chăm chăm ra phía trước , ngó ra cách đồng hoang , từ thung lũng ở phía xa . Anh mỉm cười một mình . Trông cô đàng hòang , chững chạc quá . Không, như bà hòang , anh tự nhủ , cái cách cô ngẩng đầu rất cao và lưng thật thẳng .

Anh đi về phía Emma , cố làm ra vẻ tự nhiên . Anh ngồi xuống đất dưới chân cô và ngước nhìn lên . " Bây giờ em đã thấy đỡ chưa ? ở ngòai nắng này ", anh hỏi nhẹ nhàng . " Vâng , cám ơn ", Emma nói nhẹ nhàng không nhìn anh . Edwin nhăn mặt . Tiếng cô nghe lạnh lùng và xa vắng . Anh tì đầu vào tảng đá dẹt và nhắm mắt lại , tự hỏi không hiểu vì sao cô lại có thái độ cứng rắn này . Anh nhận thấy cô đã cố ý gạt anh ra . Anh cảm thấy đau nhói ở ngực cái cảm giác mất mát anh đã trải qua .

Trong khi đó , đầu óc mẫm cảm của Emma quay cuồng . Làm thế nào mà người mẹ dịu dàng của cô lại thân thiết với Adam Fairley như vậy ? Cái con người khủng khiếp ấy . Và dù sao thì mẹ cô đã sống một phần đời con gái của mình ở Ripon cùng với người chị em họ Fretia . Lúc ấy cô mới nẩy ra ý nghĩa rằng cái tên Elizabeth không phải là một cái tên đặt biệt gì cho lắm . Có thể là một cái tên Elizabeth nào khách được khắc ở trên tường chăng ? Một cô gái của tầng lớp trên , có lẽ ngừơi biết Adam Fairley khi ông ta còn trẻ . Ông ta kết bạn với một cô gái quí tộc hơn là với một cô gái thuộc giai cấp công nhân . Nhưng lại còn viên đá Edwin đã tìm thấy . Dù sao , nó vẫn có thể là một bức họa của Olivia , đúng như Edwin đã tin như thế , rõ ràng trông giống bà . Cô nghĩ tới trái tim , mà ngay cả cái đó cũng chẳng có ý nghĩa gì . Khối người có cái tên bắt đầu bằng chữ A . Ai cũng có thể tặng cho mẹ cô được . Lúc này Emma thấy tất cả những kết luận ấy không thể cưỡng được . Và bởi vì cái ý nghĩ về mối quan hệ bạn bè giữa mẹ cô và Adam Fairley là không thể tha thứ và không thể chấp nhận được đối với cô vì nó bôi nhọ kỉ niệm của mẹ cô , Emma từ từ thuyết phục mình rằng mẹ cô không phải là Elizabet không hang .

Chẳng mấy chốc , cô cảm thấy vui vẻ hơn . Cô nhìn xuống Edwin nghỉ một cách yên lành dưới chân cô . Edwin tội nghiệp . Cô đối xử không công bằng với anh trong khi lúc nào anh cũng tốt với cô . Cô vỗ nhè nhẹ lên vai anh nửa như tinh nghịch .

Edwin mở mắt và ngước nhìn cô , không nghi ngại , vì không hiểu tâm trạng Emma . Anh sung sướng thấy Emma mỉm cười với anh , nụ cười dễ thương và tươi tắn nhất và đôi mắt màu lục bảo của cô rỡn đùa trong ánh sáng huy hòang .

-" Hình như đã đến giờ uống trà . Anh có đói không , Edwin ? "

-" Anh đói mềm rồi !" Anh rất mừng thấy sự vui vẻ của cô đã trở lại . Anh nhảy lên và tiến lại chiếc áo khóac của anh . Anh rút chiếc đồng hồ vàng nhỏ ra . " Sao Emma bốn giờ ba mươi rồi . Anh sẽ mở giỏ đồ ăn ra ngay đây ".

Emma cười to và lắc đầu . Edwin nhìn cô kinh ngạc .

-" Cái gì thế ? " . Anh hỏi

-" Giá như anh nhìn thấy anh lúc này nhỉ , Edwin Fairley . Trông anh như cái chổi quét ống khói ấy . Mặt thì đầy bụi bẩn , cả bàn tay anh nữa , nhìn anh xem ". Anh cùng cười với cô .

-" Anh với em chạy thi ra suối ở đằng kia đi ", cô kêu lên . Cô nhẩy lên và chạy như bay xuống ngọn đồi bên cạnh . Edwin chạy lao theo . Anh đuổi kịp và nắm lấy dây lưng của cô . Cô cười to và vùng vẫy , nhưng anh vẫn nắm chặt dây lưng . Anh trượt chân , ngã lăn xuống, miệng vẫn cười ngặt nghẽo vì sung sướng . Cả hai ngả bên bờ suối , nếu Edwin không ôm chặt cô trong tay mình thì Emma đã ngã xuống suối rồi .

-" Edwin Fairley , anh xem anh đã làm gì đây này ", Emma nói bực bội qua tiếng cười . " Anh làm ướt hết áo em rồi ".

Edwin buông tay ra và ngồi lên , anh gạt mớ tóc xòa xuống một cách vội vàng . " Anh xin lỗi Emma . Nhưng ướt mỗi đường viền thôi . Có nắng là khô ngay thôi mà ".

-" Ấy , em cũng hi vọng thế ".

-" Em muốn nói . Vân em cũng hi vọng thế , phải không Emma ". Edwin chữa lại lời cô .

Cô nhìn anh thông cảm và nói thẳng một giọng bắt chứơc . " Vâng , Edwin , anh hòan tòan đúng . Em nói không được chỉnh ". Cô phát âm , những từ rất cẩn thận . Giọng cô vốn ngọt ngào , êm ái bây giờ lại hết sức học thức khíên anh há hốc miệng ngạc nhiên .

Emma chọc vào sườn anh . " Em có thể nói như anh nếu em muốn ", cô nói , rồi tâm sự . " Em vẫn nghe bà dì của anh nói . Bà có giọng nói tuyệt vời ".

-" Em cũng thế , Emma ạ mỗi khi em phát âm đúng những từ và quay lại với phương ngữ Yorkshire ". Anh mỉm cười âu yếm . " Anh mong em không phật ý khi anh chỉ ra những sai lầm trong lời nói của em . Nhưng chính em đã yêu cầu anh làm thế mà " .

-"Vâng , đúng thế . Em rất cám ơn ". Cô mỉm cười một mình . Cô đã làm anh ngạc nhiên và điều này kích thích cô cao độ . Cô cúi xuống suối rửa tay vục nước vỗ lên mặt .

Edwin lấy khăn mùi soa , trao cho cô với cử chỉ trìu mến . " Hãy lau khô , bằng cái này ".

Khi Emma và Edwin rửa mặt chân tay xong , họ ngồi bên bờ suối đối diện bờ bên kia đồi đá , trò chuyện vui vẻ , sung sứơng được ở bên nhau . Edwin sôi nổi nói về chuyện đi Cambridge học luật và giải thích hết sức chi tiết một luật sư là thế nào . Emma cũng nói một cách đầy tự hào về Winston và anh đẹp trai như thế nào trong bộ quân phục khi anh từ hải quân Hòang gia về nhà nghỉ phép .

-" Từ đấy đến nay anh ấy đã trở về Fairley hai lần ". Emma nói . " và bố em đã khá hơn trước nhiều . Đã ổn định hơn đối với chuyện Winston xa nhà ...." cô đột ngột ngồi lên nhìn trời .

-" Lạ thật , em vừa thấy có hạt mưa ?"

Edwin ngẩng đầu . "Nhưng bầu trời vẫn xanh và chỉ có một đám mây xám ".

-"Tốt hơn hết là nên thu xếp và quay về Hall ngay thôi ", Emma tuyên bố nhanh .

-" Ờ , đừng ngốc nữa . Chẳng qua chỉ là cơn mưa rào mùa hạ . Một vài phút là quay ngay . "

Nhưng trong khi anh nói thì mặt trời nhợt nhạt bị che bởi những đám mây phồng lên đang tụ lại phía đồng hoang ùn ùn kéo đến . Có tiếng sấm lớn . Hình như nó xé toang bầu trời , tung ra những tia chớp sáng lóa rồi một màu xám ập đến thật nhanh như một tấm vải nhuộm đen che hết ánh sáng .

-" Nào ", Edwin kêu lên . Anh hối hả kéo Emma đứng dậy . " Thời tiết thật không thể lường trước được trên những cách đồng hoang khốn khổ này . KHông bao giờ có thể biết bão nỗi lên khi nào ".

Họ cùng vội vã lên đồi . Mưa trút xuống xối xả . Mưa lớn như thác đổ không ngừng . Đến lúc họ tới vịnh Ramsden thì hầu hết mọi ánh chớp lóe lên kèm theo những tiếng sét vang vọng làm rung chuyển cả vịnh Ramsden . Edwin và Emma ướt như chuột , quần áo , mặt mũi và tóc họ dòng dòng nước .

Edwin nắm lấy cái túi và chiếc áo vét ướt của anh quẳng chúng cho Emma . " Cầm lấy ," anh hét lên và đẩy cô về phía cửa hang .

-" Anh nghĩ chúng ta nên chạy thẳng về Hall không ? ". Cô phản đối .

-" KHông bao giờ làm nổi như vậy đâu , Emma . Chúng ta gặp bão thật rồi . Nhìn trời mà xem . Tối đen như mực . Thôi đừng tranh cãi nữa . Vào hang đi . Ở trong đó chúng ta sẽ an tòan . "

Mặc dù Emma không muốn trở vào hang một chút nào , nhưng cô phải nhận đề nghị của Edwin là hợp lí . Quả không còn cách nào khác nữa . Đồng hoang có thể cực kì nguy hiểm trong cái thời tiết giông bão này . Cô nắm chặt cái túi vào áo khóac áp vào người , môi mím chặt , cô bò vào miệng hang , Edwin theo sau vừa đẩy cái giỏ thức ăn về phía trước .

Vào được hang , Emma đứng ở lối ra vào , cố gắng sắp xếp mọi chuyện . Edwin rút khăn mùi soa lau tay và đưa nó cho Emma . Rồi anh lập tức bắt tay vào việc hăm hở đến nỗi Emma phải ngạc nhiên . Anh thắp những ngọn nến trên bệ đá ở lối vào và mở giỏ đồ ăn .

-" Tờ Gazette chủ nhật đây " . Anh nói to : " Anh mang đi để đọc ngộ nhỡ chúng ta có bị lỡ . Thật là may . Em dịch ra để nhóm lửa đi . " Anh để tờ báo dứơi chân cô và nói tiếp : " Anh thấy đống cành cây ở phía kia kìa . Chúng rất khô . Chúng mình sẽ nhóm một ngọn lửa ". Anh cầm một cây nến lên , nắm lấy tay Emma dẫn cô ra góc xa .

-" Chúng mình sẽ nhóm lửa ở đây ", Edwin vừa nói vừa lấy đầu ủng hất đất . " Chỗ này là chỗ tốt nhất , vì nó thông gió từ đường hầm ra ngòai và ngược lại . "

Anh chỉ về phía một khe hở nữa mà Emma trước đây chưa để ý thấy .

-" Lối đó dẫn đi đâu , Edwin ? "

-" Anh cũng không biết nữa . Nó nhỏ quá anh không bò vào được , nhưng có gió từ đồng hoang thổi vào . Nào , Emma . Nhanh tay lên , rồi chúng ta có thể ngồi trên những cái túi cho khô người . Anh rét cóng lên đây này mà chắc em cũng thế " .

-" Vâng ,em rét lắm ".

Chẳng bao lâu họ nhóm được lửa . Giấy và cành cây bắt lửa ngay và khi nó đã cháy , Edwin để hai khúc củi gỗ nhỏ lên trên . Sau đó anh bận rộn với những chiếc túi rỗng . Có chừng hơn chục chiếc , anh trải chúng xuống sàn , còn những chiếc khác anh cuộn lại và tựa chúng vào tường . " Sẽ rất thỏai mái , Emma ạ " . Anh nói rồi quay lại , mỉm cười với cô để làm cô yên lòng .

Emma đứng bên ngọn lửa , run lên bần bật vì rét . Mặt cô vẫn lóang nước , mớ tóc ước của cô nước chảy ròng ròng xuống lưng . Cô cố vắt áo dài cho hết nước .

Edwin chạy vội đến bên ngọn lửa , chính anh cũng rét run . Anh bắt đầu ho . Emma nhìn anh qua ánh lửa và cau mặt " Ồ, Edwin em hi vọng anh không bị cảm lạnh một lần nữa . Anh vừa mới khỏi xong ".

-" Anh cũng hy vọng như thế ", anh lấy tay che miệng và ho . Một lát sau , cơn ho giảm đi anh nói : " Anh nghĩ em nên cởi áo ra , Emma . Chúng ta có thể trải nó ra , hong cho khô ".

Cô liếc anh . " Cởi áo của em ra !" Cô nói vọng lại không tin là thật . " Ồ , Edwin , em không thể làm thế được ".

-" Em đừng có buồn cười nữa . Em còn mặc váy lót và ... và những thứ ở bên trong nữa , phải không ? "

-" Vâng", cô lẩm bẩm khe khẽ giữa kẽ răng lúc này đã va vào nhau lập cập .

-" Vậy thì xin em hãy làm như anh nói " anh nói buột giọng rành rọt ." Anh cũng cởi sơ mi ra. Nó ướt sũng rồi ,và nếu chúng ta ngồi trong những bộ quần áo ướt thì cả hai đến sưng phổi mất thôi ".

-" Có lẽ anh nói đúng ". Cô trả lời dè dặt. Emma quay lưng lại và bắt đầu cởi áo dài , thấy thẹn thùng và lúng túng . " Đưa cho anh cái áo đó ", Edwin ra lệnh bằng một giọng cứng rắn như vậy , sau kho cô đã cởi hẳn ra. Cô đưa nó cho anh từ phía sau lưng mà không nhìn lại . Lúc ấy cô mới thấy là mình ngớ ngẩn . Dù sau , cô vẫn còn mặc váy lót và áo trong hòan tòan che kín thân thể , trừ đôi cánh tay .

Cô liếc qua vai rồi từ từ quay lại , Edwin đang kéo chiếc áo của cô bên bờ đá gần sơ mi và gilê của anh chặn bằng mấy viên đá nhỏ . Làm ra vẻ hờ hững . Emma quay trở lại ngọn lửa cô hơ hai bàn tay và mặt , rồi cố gắng làm khô mái tóc dài của mình , vắt nước khỏi tóc , lấy hai tay chà xát . Edwin dường như không chú ý tới cái tình trạng ăn mặc phong phanh của cô , và cũng không hề xao động , anh cầm giỏ thức ăn lên mang lại chỗ để túi . Anh quì xuống , lấy ra một bình đá đựng rượu dâu , giở tất cả thức ăn ra. Đột nhiên anh hét lên một tiếng dài kinh ngạc.

Emma liếc nhìn anh . " Cái gì thế?"

-"Bà Turner tốt bụng làm sao ", anh thốt lên với một nụ cười rạng rỡ trong khi tiếp tục lục lọi dưới đáy giỏ. " Trời đất ơi , bà ấy lo liệu mọi thứ . Bà ấy không chỉ để khăn ăn và khăn trải bàn cho cuộc đi chơi của anh , mà còn cả một cái chăn nữa này . May làm sao . Ít nhất thì cái chăn cũng giúp chúng ta . Anh nhìn lên và giơ cho cô xem một cách đắt thắng , rồi mặt anh chảy ra . Nước từ chiếc váy lót của cô chảy tong tỏng đọng thành vũng dưới chân . " Trời ơi , Emma . Em bị ướt đẫm tất cả , vẫn còn run bần bật lên đây này . Em không thấy ấm hơn ư ? "

-" Hơn một chút . Nhưng chiếc váy lót làm chân em lạnh quá . Nó cũng ướt như áo của em vậy ". Cô bước lại gần ngọn lửa hơn . Đôi ủng của cô kêu lép nhép . Cô vắt nước chiếc váy lót , cố gắng kiềm chế , sự run rẩy của mình .

Edwin đứng lên , nhìn xuống quanh mình và cau mặt " Anh sợ quần anh cũng ở trong một tình trạng như vậy ". Anh nhăn mặt và đến bên cô gần lửa -họ cùng hong trước ngọn lửa cháy , hy vọng làm khô quần áo . Nhưng không ăn thua gì hết , bởi vì ngọn lửa quá yếu vì thế không đủ sức nóng và không khí trong hang lại mênh mông giá lạnh .

-" Vô ích !" Edwin tuyên bố sau một lát . Đôi chân anh biến thành những tảng băng và cái lạnh bắt đầu thấm khắp người anh . Anh bắt đầu ho rũ rượi .

Emma hốt hỏang nhìn anh , cô nghĩ anh rất có thể bị cảm lạnh . " Anh có làm sao không ? "

-" Anh đang lạnh cóng đây . Anh hi vọng không bị sưng phổi lại ". Anh run lên . " Tại những cái quần áo ướt này ". Anh do dự . " Anh sợ là chỉ còn một việc có thể làm được , Emma . Anh nghĩ anh phải cởi quần ra và em cũng cởi váy lót ra ..."

-" Cởi tất cả quần áo của chúng ta ra ấy à ? ". Cô há hốc miệng dúm người nép sát vào vách hang , vẻ hốt hỏang hiện trên mặt cô . " Edwin , Không thể như thế được ! Như vậy không ra làm sao cả ", cô nói một cách dữ tợn .

Một nụ cười nhợt nhạt trên môi anh , anh nhún vai .

-" Vân , tùy ý cô thôi , thưa cô Harter . Nhưng tôi đã quyết định cởi quần ra và treo quần và các đồ lót trên bệ đá cho khô . Tôi sẽ không chết vì một sự khiêm tốn rởm của tôi ".

Emma trợn mắt nhìn anh . "Em nghĩ anh làm như vậy là rất thô lỗ , Edwin ", cô nói gay gắt . " Trời , đúng thế . Nó không - không - lịch sự ".

Sự phiền muộn hiện lên mặt anh , " Emma , anh không có ý định làm phật ý em !" Anh suy nghĩ rất nhiều , tự hỏi không hiểu phải làm gì , anh hiểu tất cả tình cảm của cô . Anh nhìn thấy tấm thảm len kẻ ô vuông và một giải pháp lập tức đến . " Anh có ý kiến này . Anh sẽ lấy cái chăn quấn quanh người như một cái váy . Nó sẽ phủ kín anh hòan tòan ", anh cam đoan với cô ! " Nhưng anh nghĩ anh phải cởi những thứ ướt này ra đã . Chúng ta có thể phải ở lại đây hàng tiếng ".

Emma cắn môi . Điều anh nói là hợp lí , nhưng nó vẫn không làm bớt sự lúng túng của cô khi nghĩ anh cởi quần áo trước mặt mình . Mặt khác , cô không muốn chịu trách nhiệm nếu anh bị ốm . Cô cũng nảy ra ý nghĩ là bản thân cô không cần phải cởi quần áo của mình . Cô vẫn có thể cố gắng hong lửa cho khô . Một lát sau , cô chậm chạp nói : " Ồ trước khi anh cởi quần áo của anh ra , hãy bò tới chỗ cửa xem xem thời tiết thế nào " cô đòi hỏi dứt khóat . " Có thể cơn bão đã qua và chúng ta có thể đi ".

-" Có thể", Edwin đồng ý và vội vã theo ý kiến của cô . Tới cuối đường hầm , Edwin hòan tòan thất vọng khi anh thò đầu ra ngòai khe hở . Mưa vẫn đổ xuống như thác . Một trận cuồng phong đã nổi và như roi quất vào mưa . Những làng chớp xé qua bầu trời đen và sấm rền xuống dốc núi như đại bác nổ không ngừng . Rõ ràng là họ sẽ bị vây hãm rất lâu . Anh thụt ngay đầu vào . Mãi đến lúc này , Edwin mới hết sức bực bội nhận ra rằng để quay trở lại dọc theo đường hầm thì anh hoặc là phải bò ra ngòai rồi mới quay trở vào , hoặc là lết lùi lại . Anh quyết định cách thứ nhất là hợp lí hơn và anh lách ra khỏi hang . Anh quay thật nhanh trở lại bằng đầu gối nhưng bị ướt sũng . Cuối cùng khi anh bò trở lại hang người anh run lên vì nước mưa .

Emma nhìn anh hỏang hốt . " Tại sao anh lại đi ra ngòai ", cô chất vấn . "Thật là một việc làm ngớ ngẩn ".

Anh thở dài rồi giải thích . Anh cầm khăn lau mặt và tóc . Rồi anh cầm lấy tấm chăn và rảo bước về tít góc xa trong hang . Anh quay lại :" Xin lỗi Emma . Nhưng bây giờ quần của anh ứơt hơn bao giờ hết . Anh không còn cách nào khác ngòai việc phải cởi nó ra lúc này ".

Trong lúc vắng Emma đã để một khúc củi nhỏ nữa vào lửa và ngồi co ro , tiếp tục vắt nước từ chiếc váy lót , mặt cô hằn những nét sắt đá .Cô kiên quyết không cởi quần áo dù cô cảm thấy cái lạnh ngày một dữ dội . Trong vòng một vài giây , Edwin đã treo quần dài , quần lót và tất của anh lên vách đá lấy thêm một vài viên đá nhỏ chặn chúng xúông . Rồi anh mang ủng của anh tới bên ngọn lửa để cho khô . Emma cúi mặt , không thể nhìn nổi anh .

Quan sát cô một cách chăm chú, Edwin bắt đầu cười trước sự hài hước của tình thế :" Không sao đâu , Emma . Anh hòan tòan lịch sự . Anh có thể cam đoan với em điều đó ".

Từ từ, miễn cưỡng , Emma ngẩng đầu lên , cô không thể không mỉm cười , Edwin đã cuốn cái chăn quanh thắt lưng và buộc nút lại . Nó chùm xúông quá đầu gối anh chỉ để lộ mắt cá chân : " Cũng hơi giống chiếc váy miền Ecốt một chút thôi ", cô nói thêm một cách nhẹ nhõm " và nó cũng che kín đấy ".

Edwin ngồi xuống bên cạnh cô , nâng gấy váy lót của cô lên và lắc đầu buồn bã . "Em thật là điên rồi . Em bị cảm lạnh mất thôi . Emma ạ. Sao , em chỉ có thể làm khô được cái mép thôi . Chỗ còn lại vẫn ướt sũng ". Anh buông cái váy với một cử chỉ thiếu kiên nhẫn . Đột nhiên nét mặt anh tươi hẳn lên và anh với cái khăn trải bàn .

-"Nhìn này Emma . Em có thể lấy cái này mà cuốn quanh người giống như Xari người Maharani Ấn Độ mặc". Anh nhẩy lên và rũ nó ra :" Nhìn này , rộng ra phết". Edwin làm thử cho cô xem. Anh cuống chiếc khăn trải bàn quanh ngực và buộc hai nút lại với nhau . Rồi anh tuồn cánh tay trải xuống dưới tấm vải kéo che vai trái , " Rất tốt !". Anh mỉm cười nhìn xuống người mình ." Tất nhiên trông nó giống cái toga của người LaMã hơn là cái Xari ", anh nhượng bộ bằng một giọng nghiêm chỉnh .

-"Đấy là một chiếc khăn trải bàn đẹp nhất của bà bếp đấy!" Emma kêu lên thất kinh . "Em mà làm bẩn nó thế nào em cũng bị phạt . Nhất định như vậy !"

Edwin giấu một nụ cười thích thú ." Trong những hòan cảnh như thế này , anh không nghĩ điều đó đáng để chúng ta phải lưu tâm . Có phải không ? " Anh giơ tay về phía cô ." Nào , cô gái ngốc nghếch ", anh nói tiếp giọng nhẹ nhàng hơn và kéo cô đứng lên .

Emma đỡ lấy một cách rụt rè, sợ hãi khiến Edwin phải mỉm cười . Anh nhìn cô trong khi cô xem xét nó một cách cẩn thận , một vẻ ngờ vực thóang hiện trong mắt cô .

Tiếng cười rộn lên trong người Edwin," Emma , em quá ư sợ hãi đến nỗi anh tin là em nghĩ rằng anh là một tên đểu cáng vô lại có những rắp tâm xấu xa", anh vừa nói vừa cười "và anh đang âm mưu tìm kế đưa em vào một tình thế để anh có thể lợi dụng em . Xin em hãy nhớ là anh không hề có một động cơ nào ".

-"Em không thể nghĩ anh như thế".Emma vừa nói vừa cau mặt , cô không thực sự hiểu được những từ dài dài của anh , tuy nhiên cô cũng nắm được ý nghĩa theo trực giác ." Em biết là anh không làm điều gì ... điều gì sai trái , Edwin . Em biết anh không bao giờ lại hại em ".

Anh vỗ vai cô, nhìn xuống cô và mỉm cười dịu dàng. "Tất nhiên là không bao giờ Emma. Sao , em là người bạn tốt nhất của anh . Sự thật là bạn thân nhất của anh ".

-"Thật không ?" , cô kêu to, đôi mắt sáng lên vì sung sướng .

-"Đúng thế . Nào , em hãy nhanh nhanh, thay..."Edwin ngừng lại và cười một mình ..." Mặc Xari đi . Ở phía đằng kia còn nhiều đá lắm . Em có thể treo đồ lên cho khô cùng với anh . Trong khi đó anh sẽ chuẩn bị picnic của chúng ta ." Edwin ngắm nhìn hình dáng co lại của cô và nghĩ : Nàng thật dịu dàng và thân thương . Nàng là bạn tốt nhất của ta . Mình thực sự là thích nàng nhất . Anh không hề nghĩ rằng anh đã thực sự yêu cô .

Những ngọn nến trên vách đá đã cháy hết . Edwin lấy ở túi ra hai cây nữa . Trong khi thắp , anh mừng là đã có viễn kiến mang theo nhiều đồ dự trữ . Anh đã bày thức ăn trên những khăn ăn khi Emma trở lại bên ngọn lửa . Cô bỏ đôi ủng cạnh ủng của anh .

Nhìn lên Edwin thấy ngay cô đi lại có vẻ dụt dè với một vẻ thẹn thùng , rất khiêm tốn và đoan trang . Chiến khăn trải bàn cuốn quanh người cô như cái tã , cô giữ chặt lấy nó, hai cánh tay bắt chéo che ngực . Nó được phủ đầy tấm thân mềm mại của cô , nhưng anh giật mình khi thấy nó chỉ kín được tới đầu gối , còn để lộ bắp chân tròn trỉnh và mắt cá chân thanh nhã của cô . Trước đấy anh không hề biết cô có cặp đùi dài và đôi bàn chân đẹp như thế . Vẫn giữ chặt khăn trải bàn quanh mình . Emma ngồi xuống, nhìn lên e lệ và không nói năng gì .

-" Bỏ những đồ lót ướt ra , em có thấy dễ chịu hơn không ?" .Anh hỏi với dáng vẻ cố ý vô tâm , anh hi vọng có thể làm cô bớt nhút nhát và lúng túng vụng về mà anh biết cô đang cảm thấy lúc này .

-" Có, dể chịu hơn ", cô lẩm bẩm khe khẽ . Cô cười mĩm và nhìn xuống thức ăn bày trước mặt họ . "Em đói quá ",cô nói , cố làm vẻ tự nhiên .

Anh cũng thế . Anh xin lỗi chỉ có một cái dĩa và một cốc . Chúng ta chung nhau vậy . Anh rót một chút rượu dâu và đưa cho cô .

-" Cám ơn Edwin"

-" Bây giờ chúng ta đã khô hơn và ấm hơn , thật là vui , phải không ?"

-"Vâng ," cô trả lời khẽ và uống rượu .

-" Trời ơi , bà bếp chu đáo chưa kìa !" . Mắt cô lướt qua những chiếc bánh sanwitch bánh hoa quả và táo .

Emma chọn một chiếc bánh ngọt chính cô đã làm . Nhưng cô không nhắc tới điều ấy . Họ ăn ngấu nghiến đồ ăn , chung nhau uống rượu dâu và Edwin cứ liên tục rót . Anh trò chuyện vui vẻ với cô và dần dần sự bối rối của Emma cũng qua đi . Edwin dường như không để ý tới trạng thái nửa lõa lồ của cô , cô thấy nhẹ hẳn người . Sự thật thì anh cố phớt lờ điều đó . Khi họ ăn xong, họ ngồi tựa vào những đống túi cuống thành hình ống, sưởi ấm bàn chân trước ngọn lửa . Emma nói một cách thận trọng không nhìn Edwin ," Anh nghĩ thế nào về những chữ viết trên tường ? Anh có nghĩ là ba anh khắc những tên đó không ?"

Edwin gật đầu hăm hở . "Có , anh nghĩ thế . Sự thật anh cũng suy nghĩ đến chuyện này , đặc biệt là tới những biến thể của cái tên Elizabeth và anh tin rằng anh đi đóan được tung tích của ngừơi phụ nữ đó ". Anh nhìn cô, đôi mắt rực lên trong ánh sáng ngọn lửa . Emma nín thở , anh nói tiếp ," anh nảy ra ý nghĩ hẳn đó là em gái của bá tước Sydney , tên bà ấy là Elizabeth, anh anh và gia đình Sydney cùng lớn lên . Anh chắc là hồi nhỏ họ đi chơi đùa ở đây ".

-" Em không biết bá tước Sydney lại có người em gái ", Emma nói , cô khẽ hít hơi . Mắt cô nhìn dán vào mặt Edwin ." Em chưa bao giờ nhìn thấy bà ấy , họăc nghe ai nhắc đến tên bà ".

-" Bà mất cách đây chừng mười năm ở Ấn Độ , nơi chồng bà làm việc ở cơ quan ngọai giao . Anh nghe cha anh nhắc đến tên bà hết sức trìu mến trong nhiều dịp. Bà trạc tuổi ba anh . Càng nghĩ anh càng thấy đúng là như thế ".

Emma đã giảm bớt căng thẳng đi rất nhiều , những ý nghĩ đau đớn trong đầu óc hỗn lọan của cô đã dịu đi ,thân thể cô dịu xuống . Lúc trước cô đã lầm lẫn biết bao , đi tới một kết luận không xứng đáng như vậy đối với mẹ cô và ông ấy . Tất nhiên Edwin là đúng , như anh luôn luôn đúng .

-" Đúng là thế rồi ". Cô reo lên và mỉm cười . Sau một lát yên lặng , cô nói :" Không hiểu mấy giờ rồi ",

-" Để anh nhìn đồng hồ xem ", Edwin ra phía cửa nơi anh quẳng chiếc áo vét khi hai người lao vào tránh bão . "Sáu giờ" . Anh nói to và mang chiếc áo vét đến bên ngọn lửa . " Áo ẩm quá".

-" Anh sẽ trải nó lên sàn cho khô ". Anh liếc nhìn cô một cái nhìn lo âu thóang qua nét mặt anh khi anh nói ," không biết cha em có đang lo cho em không, Emma?"

Cô lắc đầu :" Không .Ông biết bà bếp muốn em trở lại chiều nay , chứ không phải là mai để giúp bà làm mứt . Bà ấy đợi em lúc năm rưỡi ".

-" Ôi trời , vậy thì bà ấy phải lo lắng về em ", Edwin kêu lên ." Chắc bà ấy nghĩ em vẫn còn ở nhà vì có bão vân vân . Bà biết ba em sẽ không để cho em đi qua miền đồng hoang thời tiết này ", Emma giải thích . " Nhưng em đóan bà ấy sẽ rất hoang mang về anh , Edwin ạ. Vì không hiểu anh ở đâu ?"

-" Chắc là như thế . Nhưng có thể bà ấy nghĩ là anh đã chạy vào làng gần hơn là về nhà ". Anh thở dài :" Ồ , biết làm thế nào !"

-" Anh có cho rằng mưa đã tạnh rồi không, Edwin ?"

-" Em có muốn anh bò ra xem không ?"

-" Vâng, có lẽ như thế . Nhưng anh đừng có ra ngòai và lại ướt hết đấy !" Emma nói có vẻ mệnh lệnh một chút .

Anh cầm nến lên và đi . Vài giây sau anh trở lại ." Trời vẫn mưa to , sấm chớp ầm ầm ", anh vừa thông báo vừa đặt cây nến trên bệ đá . " Chúng ra chưa đi được đâu". Anh ngồi trên những chiếc túi , chân vắt chéo , cẩn thận phủ đầu gối bằng tấm chăn . " Em biết những cơn bão như thế này rồi đó , Emma . Nó có thể kéo dài hàng tiếng !"

-" Ấy , em biết ", Cô đứng lên . " Có lẽ em sẽ đi xem xem quần áo của chúng mình khô chưa để còn mặc vào ".

Emma lướt đi nhẹ nhàng qua nền hành lang trên đôi chân trần , tóc xõa xuống sau lưng. Cô sờ vào quần áo một cách thành thạo và nói giọng rầu rĩ ." Ôi , Edwin , chúng hãy còn ướt quá . Mình phải để một lúc nữa đã ".Cô vừa nói vừa quay ngoắt lại và đăm đăm nhìn anh hết sức buồn bã .

-" Chúng ta phải ở lại đây cho đến khi cơn mưa ngớt ", anh trả lời . "Có lẽ chừng nửa tiếng nó sẽ phô hơn và lúc đó có thể con bão đã đi qua ."

-"Em hi vọng như thế ", cô vừa nói vừa vội vã quay lại .

Họ ngồi ở một góc , người run lên bần bật vì không khí trong chiếc hang khổng lồ lúc này lạnh lên một cách đáng kể mà ngọn lửa thì thấp . Edwin nén một khúc gỗ nữa vào và nói với cô " nguồn cung cấp đang cạn dần . Chúng ta phải tiết kiệm những khúc gỗ ít ỏi cuối cùng này ". Họ nép lại bên nhau , cố tìm hơi ấm của nhau . Edwin quàng tay ôm lấy cô , kéo cô lại sát bên mình . Emma nhìn lên , đôi mắt cô mở to ." Anh không nghĩ rằng chúng mình bị sập bẩy ở đây chứ , anh ?" Cô run rẩy hỏi . Anh mỉm cười an ủi , đôi mắt trong sáng của anh dịu hiền và đầy ánh sáng thương yêu . "Tất nhiên là không , đừng ngốc". Anh thốt lên vui vẻ . " Em đừng sợ . Có anh ở đây che chở cho em , Emma .Em coi , quần áo ổn ổn một chút , chúng ta sẽ mặc vào và xem bên ngòai ra sao . Nếu cần chúng ta sẽ phải đội mưa đội gió mà về . Chúng ta không thể trở về quá muộn ".

-" Được , Edwin ", cô khom khom người sát người anh . Edwin quàng tay kia quanh người Emma và lấy tay bắt đầu xoa mạnh cánh tay cô từ trên xuống dưới cố gắng làm cho cô ấm người lên . "Thế , em có thấy khá hơn không ?" , anh hỏi dịu dàng .

-"Có , cám ơn anh , Edwin ".

Tất cả đều bắt đầu hòan tòan là ngây thơ từ phía Edwin . Dần dần sự xoa nhanh và mạnh trở thành cái xoa bóp chầm chậm , cái ve vuốt mặt, cổ và đôi vai cô . Emma không phản đối . Chỉ khi bàn tay của Edwin tình cờ chạm vào ngực , cô mới dúm người và lùi lại , nhìn anh ngạc nhiên pha lẫn lo ngại . Cô lập tức thóat khỏi vòng ôm của anh và ngồi ngay ngắn tựa vào những túi đứng cách anh một quãng .

-"Anh xin lỗi Emma . Anh thực không cố tình làm điều đó . Thực mà. Quay lại đây , ở đấy em sẽ rét run lên đấy ".Anh báo trước , bực tức với chính mình , với sự thiếu cẩn trọng của mình và cũng lo lắng cho cô nữa .

-"Em ở đây được rồi . Cám ơn anh ", cô nói lạnh lùng , tựa người vào những chiếc túi đựng , dáng vẻ đường hòang .

-"Tùy em thôi ", Edwin lẩm bẩm bùôn bã , anh co hai chân lên ngực , tay ôm lấy đầu gối .

Yên lặng kéo dài giữa hai người . Emma nhìn đăm đăm ngọn lửa , cố gắng làm chủ tứ chi của mình , hi vọng anh không để ý thấy cơn rét ngày càng tăng của cô . Edwin tựa đầu lên gối đưa mắt lén nhìn cô . Chính lúc này , ngọn lửa chợt bùng lên , ánh mắt anh mở to kinh ngạc . Trong ánh sáng đột ngột , thân hình cô bộc lộ rất rõ ràng . Trước đây anh không hề nhận ra chiếc khăn trải bàn mới mỏng manh làm sao vì cô phải ghì sát nó vào người . Lúc này anh có thể nhìn rõ đôi vú rắn chắc và khêu gợi nổi hẳn lên trên nền vải , đường nét của cặp đùi cô , đôi chân dài và cái vệt đen hình tam giác , mờ mờ trên đó . Anh không thể rời mắt khỏi cô , khi anh nhìn cô ao ước , anh thấy một nỗi rung động chạy khắp người .

Đây không phải là lần đầu tiên Edwin bị kích thích . Cũng như hầu hết thanh niên ở lứa tuổi anh , trước đây anh đã bị kích thích về tình dục theo cái cách bình thường của con trai . Nhưng chưa bao giờ anh thực sự bị một cô gái khêu gợi một cách mãnh liệt như thế này , bởi vì anh chưa bao giờ nhìn thấy một phụ nữ ăn mặc không kín đáo và gần gũi với một người mặc mỏng manh như thế này . Anh run lên vì những xúc cảm của mình .

Anh nghẹn ngào , hầu như phải thở thành tiếng, cổ họng tắc lại . Một vài giây sau anh mới có thể dời đôi mắt như bị bùa mê khỏi thân hình quyến rũ của cô để nhìn đăm đăm vào bức tường trước mặt . Bóng lung linh bồng bềnh trên nền ánh sáng lửa tạo nên những khối nho nhỏ không định hình giống như những con thú , những thân cây . Kia là một con thỏ , đó là một cây sồi già , anh tự nhủ, đặt tên những sinh vật cho hình ảnh rỡn múa ấy . Anh tập trung cao độ vào bức tường ấy , cố nhận chìm lòng ham muốn của mình , không để đầu óc vào Emma , làm ngơ trước nỗi kích thích giần giật của anh .

Chính Emma đã phá vỡ sự yên lặng ấy . Cuối cùng cô nói khẽ , "Edwin, em lạnh quá ". Ngay lập tức anh quay ngoắt đầu lại nhìn cô . Cô cuộn tròn người , giật lên từng hồi , hàm răng va vào nhau lập cập .

-" Anh tới đó giúp em cho ấm lên được không, Emma?", anh hỏi một cách rụt rè , hầu như ngại phải nói tới điều này vì sợ cô nổi giận hoặc phản đối .

Anh ngạc nhiên thấy cô thì thào "Vâng ". Cô nhìn anh ngượng ngập qua đôi lông mi rậm và nói thêm :" Em xin lỗi đã nổi giận với anh , Edwin ".

Không trả lời , anh bò lại chỗ cô . Anh ôm vòng quanh người cô, một tay đẩy đầu gối cô xuống . Rất nhẹ nhàng , anh đặt cô nằm tựa trên đống túi cho đến khi cả hai đều nằm ngửa thỏai mái . Anh phủ lên phần tấm thân thon thả run rẩy của cô bằng tấm thân to rộng hơn của mình .

-"Đây là cách duy nhất chúng ta có thể làm ấm ", anh nói . Cô xích lại gần anh hơn , tìm sự thỏai mái nơi anh , khom người như một đứa trẻ trong cánh tay anh . "Vâng, em biết ", cô lẩm bẩm khe khẽ .

-" Em hãy nhìn những chiếc bóng rỡn múa kia " , anh chỉ ," và tất cả những hình thù kì quái chúng tạo nên , động vật , cây cối và núi non ".

Emma mỉm cười , cô nhìn anh . Kì diệu thay , cái động này đã biến hình trước mắt cô. Cô không còn khiếp hãi trướa nó , và cô không còn gắn nó với mẹ cô và Adam Fairley . Nó đã trở thành một nơi huyền ảo, diễm kì . Một nơi bí mật đầy cuốn hút của riêng hai người . của cô và Edwin .

Edwin bắt đầu chà xát cách tay và đôi vai giá băng của cô . Chẳng bao lâu vết nổi da gà đã biến đi và anh thấy dường như làn da của cô lúc này êm mượt như sa tanh . Một lúc sau , những cái ve vuốt lại bắt đầu , bởi vì Edwin không thể ngăn được không sờ vào người cô . Emma ngước nhìn anh , đôi mắt to của to đầy ánh lửa xanh , đôi môi hồng bé hé mở khiến anh có thể nhìn thấy hàm răng trắng nhỏ của cô . Anh đưa tay lên gạt mái tóc màu nâu hồng khỏi xõa xuống mặt cô , lướt những ngón tay lên đôi má tròn trĩnh , xuống chiếc cổ của cô trắng ngần trong ánh nến.

-"Em đẹp quá, Emma ", anh nói giọng khàn đi vọng niềm kính phục . " Em cho tôi hôn em . Chỉ một lần thôi . Xin em , anh van xin ".

Cô không trả lời , mà vẫn tục đăm đăm ngước nhìn anh . Biết bao nhiêu là sự tin cậy , thơ ngây và tình yêu chân thật trên khuôn mặt trong trắng làm anh hết sức cảm động . Anh cúi xuống cô. Anh nghĩ mình có thể đắm đuối trong màu xanh huyền ảo của đôi mắt ấy . Đôi môi anh chạm nhẹ vào môi cô . Miệng cô ướt , ngọt và mời mọc , chỉ một nụ hôn là không đủ đối với Edwin Fairley . Anh hôn Emma một lần ,lần nữa , rồi lại nữa , mỗi lần một mạnh mẽ hơn , không cho cô cơ hội để phản đối nữa .

Cuối cùng khi Edwin ngẩng đầu lên, nhìn xuống cô, anh thấy đôi mắt cô nhắm lại . Anh mơn trớn mặt cô, vai cô , bàn tay anh chầm chậm lần xuống cho đến khi nó phủ lên vú cô , chỉ lúc này cô mới mở chòang mắt ra điên dại ." Ồ , Edwin , không ! Anh không được làm như thế !"

-"Xin em ,Emma! Anh sẽ không làm gì đâu . Để cho anh giữ em một lúc " ,anh van em .

Cô do dự , anh áp chặt miệng vào miệng cô trước khi cô kịp từ chối và tiếp tục mơn trớn , sờ bóp . Hầu như không còn nhận biết gì và không kìm được , Edwin luồn tay dưới khăn trải bàn đang phủ người cô . Anh lướt những ngón tay trên làn da mịn như sa tanh của cô , cái sờ mó của anh nhẹ nhàng nhưng run rẩy trong cơn kích thích ngày một tăng của anh . Emma lánh ra, miệng kêu lên một tiếng khẽ, mặt cô đỏ bừng lên , nhưng anh giữ lấy , âu yếm ôm cô trong vòng tay , hông lên trán cô .

-" Anh yêu em , Emma ", anh thì thầm , mặt sát mặt cô ." Nhưng với nhau thế này là không phải ", cô thì thào lại , người run lên và sợ , đầu óc cô mang đầy ý nghĩ vì sự độc ác và cám dỗ của xác thịt đưa người ta xuống địa ngục .

-" Yên nào , Emma dịu ngọt", Edwin dỗ dành, giọng nói của anh đáng tin cẩn . "Anh sẽ không làm điều gì sai trái đâu . Anh chỉ muốn cảm thấy em gần gũi bên anh . Anh không làm gì hại em đâu . Người ta không bao giờ đi hại một người mà mình yêu mến nhất ".

Những lời nói của anh gieo vào lòng cô một niềm vui bất chợt , cô nhích lại gần anh hơn , tìm mặt anh chờn vờn trên mặt con , cái bộ mặt đa cảm mà cô biết quá rõ . Trong ánh nến hình như nó bừng lên rạng rỡ . Mắt anh mở to , đầy ngưỡng vọng .

-" Anh có thực yêu em không , Edwin ? " Cô hỏi một giọng êm ái nhất .- "Có, Emma ! Ôi , anh yêu em . Em có yêu anh không ?"

-"Có, Edwin, ồ có !"

Emma thở dài, cô nhận thấy hai bàn tay của anh lại lướt trên người cô ; vuốt , vỗ , sờ nắn từng phần một cơ thể cô, nhưng nó êm ái quá khiến cô khoan khóai hưởng những cái sờ mó ấm áp và âu yếm của anh . Bỗng nhiên ngón tay anh chạm vào chỗ cấm kị nhất , da diết nhưng nhẹ như một chiếc lông . Lúc đầu cô không thể nhận biết được anh đang làm gì . Cô không còn có thể phản đối hoặc ngăn được anh . Bởi vì cô bị tràn ngập bởi những cảm giác không ngờ tới , lạ lùng mà khóai cảm gây những chấn động qua thân thể cô làm tim cô đập thình thịch . Mịêng anh , bàn tay anh, thân thể anh tất cả đều chùm lên cô , anh kéo cô sách mãi , sát mãi cho đến khi cô cảm thấy cô tan vào Edwin .Một sự uể ỏai ập đến khi anh tiếp tục mơn man cô đẩy cô lên tới cực độ như chính bản thân anh .

Edwin ngừng lại nhìn Emma . Mắt cô nhắm lại và anh thấy cô run lên khe khẽ . Anh cựa mình ra khỏi chiếc chăn bằng một cử chỉ nhẹ nhàng nhất , anh kéo khăn trải bàn vẫn còn phủ một nửa thân hình cô ra . Cô không động đậy mặc dù mi mắt chơm chớp và mắt cô mơ ra to hơn khi cô trố mắt nhìn anh đang quì trên người cô . Edwin Fairley không phải là một cậy con trai , anh la một người đàn ông, cô nghĩ , một thóang kinh ngạc , một thóang sợ hãi , bởi vì cái chất đàn ông đó bây giờ đã phơi bày ra hòan tòan . Edwin hít một hơi, nhìn cô ngây ngất, lòng đầy một nỗi ham muốn chiếm cô trọn vẹn . Và anh kinh ngạc trước vẻ kiều diễm của cô . Nước da cô như một cánh hoa màu xanh nhạt , điểm ánh vàng đây đó trong ánh nến và ánh lửa hồng. Cô giống như một tượng đá tuyệt xảo .

Chầm chậm , hết sức dịu dàng và tế nhị , Edwin giúp Emma vượt qua nỗi kinh hòang , sự thận trọng , sự thẹn thùng của cô . Mặc dù cả hai đều còn tân , Edwin bắt đầu làm tình với Emma rồi sau đó cô lại làm tình với anh theo sự chỉ dẫn thì thào khe khẽ của anh . Lòng ham muốn của anh bùng lên thành một nỗi đam mê mà anh không còn kìm chế được nữa và chính sự đam mê này đã khơi trong lòng anh một sự tế nhị . Chỉ có một lần cô cứng người lại , anh nghe thấy một tiếng kêu nhỏ nghẹt lại trong cổ họng nhưng cô ngăn lại được . Nhưng anh hết sức nhẹ nhàng với cô , chiêm ngưỡng cô, nên giây phút ấy qua mau, và chẳng bao lâu anh đã mang cô đi cùng anh trên sóng ngất ngây của khóai lạc . Họ níu lấy nhau, hòa thành một nhịp , ngập trong cái ấm ấm dịu ngọt cả hai thân hình tươi trẻ . Emma nghĩ cô dần dần ta ra dưới Edwin , trở thành một bộ phận của anh . Trở thành anh . Bây giờ họ là một . Cô là Edwin . Cô rên lên và đưa hai tay dọc sống lưng anh , nó rung lên dưới cái ve vuốt của cô . Đây là lúc Edwin thấy một nỗi sướng khóai anh nghĩ anh có thể kêu thét lên khi anh lao vào cái cốt lõi của thân hình cô , anh không biết là anh đã thét gọi tên cô và van xin cô không bao giờ rời xa anh .

Một vài tiếng sau , cơn bão tan cũng đột ngột như khi nó đến . Mưa như trúc nước chuyển thành mưa nhè nhẹ , cuối cùng dừng lại một cách lạ kì . Cuồng phong hung dữ đã tắt . Sự yên lặng kinh khiếp làm ngạt không gian .

Bầu trời xa xăm , xanh thẳm hầu như ngả sang màu đen , nhưng trong trẻo như giát một thứ ánh sáng kì lạ , như được thắp từ bên trong . Mặt trăng tròn đã nhô ra trong mày trắng kim loại , một hình tròn hòan hảo lơ lửng trên bầu trời mênh mông , chiếu sáng đồng hoang và những triền núi một thứ ánh sáng mơ màng, phủ lên cảnh hoang tàn khủng khiếp . Cơn bão cuồng nộ đã tàn phá cảnh vật.

Đồi núi mênh mang , chênh vênh . Ở những góc trên đồng hoang là những vách núi sừng sững , những thác nước mưa không ngừng đổ xuống như những khối nước khổng lồ làm ngập lụt những thác nước thiên nhiên khiến chúng đổ đầy cả suối , nước dềnh lên những nước là nước . Cơn mưa to, bất chợt lướt qua đồng hoang như một ngọn triều dâng khổng lồ . Nước chảy cuốn phăng cây cối , bụi rậm , làm đảo lộn cả tấm đá tảng lớn . Những thung lũng nhô giữa hai ngọn đồi điểm tô cho đồng hoang hòan tòan ngập nước. Những sinh vật không kịp trốn chạy đã bị sập bẫy trong cuộc tấn công điên cuồng này . Những con cừu lạc đàn bị chết đuối những cái xác trương phềnh của chúng bồng bềnh một cách kì quái trong những vũng nước tù đọng . Những con chim , què chân , gãy cánh rải rác trên mặt đất . Những mảnh xương gãy sứt mẻ và những túm lông thấm máu rải rác . Những con chim đã tắt tiếng hót rộn ràng .

Sét đã để lại dấu vết của nó khắp nơi . Nó đã đánh đổ cây , tiện chúng thành từng phần gọn ghẻ , biến những cành lá tươi thành tro đen . Một con ngựa buộc ở đồng cỏ gần đỉnh Fold đã bị sét đánh chết ngay tại chỗ , bờm bị Sét đã để lại dấu vết của nó khắp nơi . Nó đã đánh đổ cây , tiện chúng thành từng phần gọn ghẻ , biến những cành lá tươi thành tro đen . Một con ngựa buộc ở đồng cỏ gần đỉnh Fold đã bị sét đánh chết ngay tại chỗ , bờm bị cháy xém . Ngay cả bản làng cũng không tránh khỏi tai họa . Ngói bay ra khỏi mái, cửa sổ vỡ, vô vữa nứt khỏi tường, rơi lả tả như những bông tuyết nhỏ . Một ngôi nhà bị đổ sụp hoàn toàn, một cánh cửa sổ của nhà thờ Fairley vỡ tan hàng trăm mảnh . Đó là chiếc cửa sổ Adam Fairley đã cúng vào nhà thờ để làm kỷ niệm, tưởng nhớ tới cái chết của Adele Fairley .

Trên vách Ramsden, nước tháo qua mặt đá lớn, đất lầy như dầu lỏng, nhầy nhụa . Hai cái cây đơn độc đứng đó bao nhiêu năm như hai người lính gác cô đơn ở phía trái của vách đá đổ xuống theo kiểu anh lính chì, xơ xác vì những đợt sét liên tục . Edwin bò ra khỏi hang trước và đưa tay cho Emma theo sát sau anh . Họ tránh nước đổ từ vách xuống gần cửa, chân họ nước ngập đến mắt cá . Edwin để cái giỏ thức ăn trên một phiến đá và giúp Emma bước lên những tảng đá khó hơn, rồi anh nhanh chóng trèo sau cô . Họ thở hổn hển, hầu như cùng một nhịp, nhìn nhau hốt hoảng, buồn bã lộ trên nét mặt khi họ nhìn thấy cảnh tàn phá .

- Chúng mình may mà tìm thấy cái hang, - Edwin nói với Emma đang đứng há miệng bên anh . Anh nhìn xung quanh, choáng váng vì cảnh vật bị xé nét tơi tả . - Em có nhận ra là chúng mình có thể bị chết ở ngoài này không ? Hoặc bị sét đánh hoặc là bị chết đuối vì nước lũ ? - Emma gật đầu, rùng mình vì thoát chết và im lặng .

- Nhìn thác nước trên vùng đầm lầy Dimerton kìa, - Edwin thốt lên . - Anh chưa bao giờ thấy nó đầy và hung dữ như vậy . Thật không thể tin được .

Emma theo ngón tay anh chỉ và nín thở . Thác nước vốn hiền hoà có thể nhìn thấy rất rò trong ánh trăng, nước lăn tăn đã bị biến thành một thác nước tung bọt trông thật hùng tráng nhưng cũng thật thần bí . Emma phải thừa nhận nó đẹp và cô nói như vậy, nhưng nỗi lo lắng của cô để quay trở về Fairley Hall cứ mỗi phút một tăng lên .

- Edwin, anh có nghĩ rằng chúng ta nên cố gắng trở về Hall không ? Bà bếp sè làm rầy rà anh và cả em nữa .

- Đúng, anh tin là chúng ta nên rút ngay . - Edwin đồng ý . Nhờ trời mà trăng sáng . - Ít nhất chúng ta cũng thấy mình đang đi đâu . Ta đi chứ ?

Anh chuẩn bị đi . Emma nắm lấy cánh tay anh .

- Nhưng còn lối ra cửa hang ? - Cô hướng về lỗ hổng - Cái tảng đá chắn cửa trước đây em thấy hình như nó ngập và trong bùn .

- Em nói đúng . - Edwin quay ngoắt lại, đôi mắt dò tìm . Anh tìm thấy chiếc cây bị nứt . - Anh sẽ dùng những cành kia để che cái lỗ, và một ngày khác sẽ quay trở lại để đặt nó vào chỗ cũ .

Anh rời những tảng đá, mò mẫm qua chỗ bùn, kéo một chiếc cây tới lối vào cửa hang . Anh ấn nó xuống sâu vào đất lầy bùn . Những cành cây xương xẩu che chỗ hổng vừa vặn .

Không hay biết đến những tai họa gì khác, họ lên đường một cách dũng cảm, chân ngập bùn, ủng kêu lép nhép . Họ vội vã rời khỏi đỉnh của Thế Giới đi thắng về Ramsden Ghyll . Emma trượt chân trong khi hai người đang líu ríu trên đỉnh núi ẩm ướt . Edwin vội giữ lấy cô, choàng tay quanh người che chở, giúp cô cho đến khi tới lối đi hẹp . Họ dò đường một cách thận trọng, bước trên tảng đá vỡ và những cành cây gãy quăng bừa bãi trên đường sụt đất . Khi tới Ghyll, đứng bên bờ họ ngây người nhìn ánh trăng sáng chiếu vào một phần vực sâu, đủ để cho họ nhìn thấy nước ào ạt, như muốn tràn lên bất cứ lúc nào . Những con chim, thỏ chết và một con cừu lắc lư nghiêng ngã trên đống đổ nát hoang tàn, gợi lại nỗi ghê khiếp của cơn giận vừa qua . Emma rùng mình và ép mặt vào vai rộng lớn của Edwin .

Edwin giữ lấy cô .

- Đáng lẽ anh phải nhận biết vực Ghyll đầy nước mới phải . Chúng ta phải quay lại đi xuống gờ núi tới suối, vượt qua rồi đi xuôi con đường thấp hơn tới Hall .

- Nhưng không biết con suối đó có bị lụt không ? - Emma hỏi và cắn môi .

- Rất có thể . Nhưng ít nhất nó cũng hẹp hơn và không phải là một hẽm núi như Ghyll . Nó không quá sâu . Chúng ta có thể bơi qua .

- Em không biết bơi . - Emma rền rĩ .

- Không lo . Anh sẽ trông nom em, Emma . Anh đã nói với em mà, có anh bao giờ em cũng được an toàn . Anh không bao giờ để cho một tai họa gì đến với em . Không bao giờ . - Anh ôm cô trìu mến, hy vọng làm bớt nỗi lo ngại của cô, và cầm lấy bàn tay cô dắt cô quay trở lại, vừa đi anh vừa an ủi . Không may, điều tiên đoán của Emma là đúng . Con suối nhỏ, nơi mới buổi trưa họ còn vục nước rửa, bây giờ đã trở thành một con suối nước chảy xiết . Nước vùn vụt cuốn đi, tung bọt trắng vào hai bên bờ . Edwin ném chiếc giỏ "picnic" xuống đất, nghiến răng, buông mình một cách thận trọng xuống bờ vào dòng nước xoáy .

- Bỏ cái túi lại, Emma . - Anh hét to, - và leo lên lưng anh . Ôm chặt lấy cổ anh, bám cho thật chắc vào . Anh sẽ bơi cả hai người qua .

Emma do dự . Cô gái này thực tế không sợ gì hết, lại có nỗi sợ kỳ lạ không thể hiểu nỗi về nước . Ngay từ khi còn nhỏ, khi mẹ gội đầu cho cô, bao giờ cô cũng kêu lên: "Mẹ đừng để nước vào mặt con," rồi hốt hoảng tăng lên không sao có thể giải thích nỗi .

- Nào, Emma, - Edwin gọi, - nước lạnh lắm .

Cố trấn áp nỗi sợ hãi, Emma làm theo lời chỉ dẫn của anh . Cô run run trèo lên lung anh . Edwin bắt đầu bơi qua suối, nhưng anh đã đánh giá lầm sức nước và nhiều lần anh đã nghĩ mình bị nước cuốn đi, y như có một dòng nước xiết cuốn lấy chân anh như một xoáy nước . Tuy nhiên, anh biết là không thể như vậy . Có một lần họ bị chìm nhưng anh ngoan cường bơi lên, ngoi lên, bơi với tất cả sức mạnh của mình . Đối với Edwin, đây là một trận chiến kiệt lực, còn đối với Emma thì đó là một điều khủng khiếp . Cô bám riết lấy anh không rời . Cuối cùng họ đã tới được bờ bên kia . Edwin thở hồng hộc, nhổ nước trong miệng ra, tay nắm lấy bụi cây nhỏ vẫn còn nguyên vẹ một cách kỳ ảo trên bờ suối . Anh đứng dừng để lấy lại hơi thở, nắm lấy rể của bụi cây, rồi anh kéo cả hai cùng đứng lên khỏi dòng suối nước cuồn cuộn chảy, loạng choạng trượt đi . Họ ngã xuống đất và nằm im tại đó vài ba phút, ngực phập phồng, vừa ho vừa thở, vuốt nước khỏi mặt .

Cuối cùng, Emma nói:

- Cám ơn, Edwin. Đã có lúc em nghĩ chúng ta chết đuối mất . Đúng thế, nhưng anh quả là người bơi giỏi .

Lồng ngực của Edwin thắt lại . Anh không thể nào nói được, nhưng anh cũng mỉm một nụ cười méo mó với cô và lắc đầu một cách mệt mỏi .

- Anh có sao không ? - Emma nhìn anh sợ hãi . Trong ánh trăng, trông anh hết sức nhợt nhạt và anh run bắn người còn hơn cả cô nữa .

- Không . - Anh rên lên và ngồi dậy . - Chúng ta đi thôi . Trời lạnh lắm, Emma . - Anh cười vẻ rầu rĩ, mắt nhìn mái tóc, bộ mặt, và quần áo cô nước ròng ròng chảy . - Trông chúng ta lại giống một đôi chuột chết đuối .

- Nhưng chúng ta an toàn và chẳng bao lâu nữa chúng ta sẽ trở lại Hall . - Cô trả lời, cố lấy giọng vui vẻ .

Con đường dưới đã lầy bùn và đây đó quăng đầy đá và cành cây . Mặc dù mặt đất trơn trượt và rất nhiều trở ngại, họ vẫn rảo bước và khi hơi thở của Edwin đã bình thường trở lại, họ bắt đầu chạy, nắm chặt tay nhau, băng qua những tảng đá và những thân cây đổ . Họ tới lối vào chính của Fairley Hall sớm hơn dự tính . Một trong những cổng sắt lớn mang hình dấu riêng của gia đình bằng đồng bóng loáng đã bị lật nghiêng lủng lẳng, chênh vênh trên chiếc tường gạch cao bao quanh khu đất . Đi lên con đường trải sỏi, họ thấy nơi đây cơn bão đã gây nên cảnh hoang tàn ghê gớm . Những luống hoa bẹp gí, những bụi cây tơi tả, hàng rào đổ nghiêng, những cây thuỷ tùng được cắt gọt thành những hình thù tinh xảo đã bị đập tan tành .

Edwin đau khổ hết sức lớn lao: một trong những cây sồi đại thụ bị sét đánh vỡ đôi, một tượng đài để kỷ niệm thời gian cuối cùng đã bị đổ sập trước cơn thịnh nộ của Thượng đế và sự bất trắc của thiên nhiên . Chính ở đây, Edwin đã dừng lại, ôm lấy Emma. Anh gạt mái tóc đẫm nước của cô ra phía sau, nhìn xuống mặt cô vẫn vẻ yêu kiều không hề bị giảm .

Trên đầu hai người, ánh trăng chiếu qua lá sồi xanh bồng bềnh . Anh cúi xuống hôn vào miệng cô một cách cuồng nhiệt, nhưng là sự cuồng nhiệt dịu dàng âu yếm . Họ ghì chặt lấy nhau, người khẽ chao đảo . Sau một giây lát yên lặng, Edwin nói:

- Anh yêu em, Emma . Em cũng yêu anh, có phải không ?

Đôi mắt xanh của cô lấp lánh trong đêm tối lướt qua mặt anh, một nỗi đau sắc nhọn nhói lên trong tim cô . Lòng cô tràn ngập một xúc động kỳ lạ mà trước đây cô chưa hề cảm thấy . Đó là một nỗi xúc động dịu ngọt pha lẫn một nỗi buồn, một niềm mong mỏi mơ hồ và lạ lùng mà cô không sao hiểu nỗi .

- Vâng - cô trả lời dịu dàng .

Anh khẽ chạm vào mặt cô , đáp lại cái nhìn sâu thẳm của cô .

- Và em sẽ gặp anh trong hang trên đỉnh của Thế Giới vào cuối tuần khi thời tiết khá hơn lên, chứ em ?

Cô yên lặng . Cho đến lúc này, Edwin chưa hề tính đến khả năng là cô có thể từ chối, nhưng lúc này ý nghĩ ấy đến với anh làm anh hốt hoảng:

- Xin em, anh xin em nói ừ đi . - Anh nhận thấy sự yên lặng kéo dài, và nỗi do dự của cô . Anh ép chặt người vào người cô hơn nữa và dỗ dành, - Chúng ta lại đi picnic nữa .

Cô vẫn yên lặng .

- Ôi, Emma, xin em, xin em đừng hắt hủi tôi . - Tiếng thì thầm của anh khàn khàn và một nỗi thất vọng mới đã len vào giọng nóio của anh . Edwin giữ cô ở một khoảng cách, nhìn kỹ khuôn mặt cô, nó quá xanh xao và bí hiểm . Một vẻ nhìn trong mắt cô làm anh kinh sợ, một vẻ nhìn anh không sao có thể thuyết minh được . - Emma không lo ngại về những điều xảy ra chứ ? Về những cái chúng mình đã làm chứ em ? - Anh hỏi nhẹ nhàng, mỗi lúc một thêm hốt hoảng tự hỏi không hiểu có phải đó chính là lý do về thái độ đột ngột và bất ngờ của cô . Ánh trăng mờ mờ chiếu qua những cành cây, anh thấy nét đỏ tía trên cổ cô, tim anh thót lại . Cô đang giận anh .

Emma quay đi, nhưng hơi thở nặng nề của Edwin phà vào cô . Cô quay mặt lại, nhìn sâu vào trong mắt màu xanh xám của anh, lòng cô tràn ngập niềm vui . Đôi mắt anh chứa đầy tình yêu và sự mong mỏi, nhưng lượn lờ . Phía sau những tình cảm lẫn lộn rất dễ thấy, cô nhận thấy một thoáng sợ hãi . Lúc ấy, Emma biết một cách chắc chắn nhất rằng Edwin Fairley quả là yêu cô đúng như anh nói . Và cô yêu anh . Bây giờ anh là một phần của cô . Cô ngạc nhiên thấy một người trong toàn bộ cuộc đời này đột nhiên lại có ý nghĩa nhiều đối với cô như vậy, trong một vài tiếng đồng hồ thôi có thể vượt lên trên tất cả mọi cái khác . Đây là một khả năng cô không hề dự tính trước mà không hề tìm kiếm nó . Cô không thể đành lòng chứng kiến sự đau đớn trong mắt anh .

- Vâng, Edwin, em sẽ gặp anh ở hang và em không giận chuyện chúng ta đã làm đâu . - Cô mỉm cười, vẫn nụ cười làm tất cả khuôn mặt cô bừng lên rạng rỡ . Những bắp thịt trên mặt Edwin căng thẳng vì lo âu bây giờ giãn ra, anh mỉm cười, ôm lấy cô trong vòng tay sung sướng và nhẹ nhõm . - Ôi, Emma, Emma, Emma dịu ngọt của tôi . Đối với anh em là tất cả .

Đứng dưới những gốc cây sồi già, trong vòng tay nhau khăng khít như gắn bó số kiếp của họ lại với nhau, họ không để ý tới quần áo ướt lướt thướt, chân tay run rẩy và khí lạnh ban đêm . Họ chỉ hay biết tới nhau và tình cảm bùng cháy dữ dội mà trong lúc cuồng nhiệt không nhận ra rằng những tình cảm ấy có thể đem đến sự huỷ diệt khủng khiếp như cảnh tượng tàn phá tơi tả chung quanh họ . Cuối cùng, họ rời nhau, tìm mặt nhau để khẳng định cho tình yêu của họ . Edwin gật đầu, mắt anh tràn ngập một ánh sáng dịu dàng, và Emma mỉm cười rồi lặng lẽ hai người đi về nhà, tay trong tay . Edwin hoạt bát và hình như không chút bối rối, nhưng Emma vốn là người thực tế, đột nhiên cô bắt đầu nghĩ tới sự đón tiếp họ sẽ nhận được . Cô nhận thấy sự đón tiếp ấy chắc sẽ không thể nào thân mật được, mà chắc chắn là những lời quở mắng giận dữ .

Khi họ tới sân chuồng ngựa rải cuội, họ thấy cánh cửa bếp mở sáng choang . Đứng trong hành lang của ánh sáng là bà Turner đã mất trí . Bà đứng im phăng phắc, ngóng trông, chời đợi, hai tay chống nạnh . Khuôn mặt tròn trĩnh của bà lạnh như tiền, tuy nhiên, sự yên lặng ấy nói lên những hậu quả tàn phá ghê gớm . Emma rút tay ra khỏi Edwin, lùi lại để anh đi lên trước .

Bà Turner hết sức nhẹ nhõm và sung sướng khi thấy Edwin nhưng sự lo lắng của bà lớn quá nên sự nhẹ nhõm này lập tức biến thành cơn giận đùng đùng . Điều này là bởi vì Edwin là ông chủ trẻ trong nhà, vì vậy cần phải có sự kính trọng đầy đủ nên bà bếp đã kiềm chế được cơn giận đó, nhưng giọng bà rít lên khi bà nhìn xuống cậu:

- Cậu Edwin! Cậu đi đâu vậy ? Cậu làm tôi lo cuống cuồng khi không thấy cậu về . Sao, bây giờ đã gần 10 giờ rồi . Tôi cứ nghĩ cậu bị lạc trong đồng hoang, hay chết trong cơn bão hung dữ này . Ấy, đúng như thế! - Bà lắc đầu, đôi mắt lóng lánh, - Trời ơi, cậu Edwin, may mà ông chủ đi vắng, cậu Gerald đang đi nghỉ ngày cuối cùng ở Bradford không thì cậu đến rầy rà to, thật đấy . Cậu làm tôi hết hồn hết vía . Tôi đã sai Tom mang đèn lồng đi tìm cậu hai lần đấy .

Bà bếp thở dài đánh sượt làm cho bộ ngực đồ sộ của bà gợn sóng .

- Thôi nào, cậu thanh niên, đừng chần chừ ở đó nữa, vào bếp ngay đi! - Bà quay lại và vội vã đi vào, Edwin theo sau, cậu bước lên những bậc đá . Bà không để ý đến Emma đang lếch thếch đi sát sau . Edwin dừng lại ở cửa bếp và vẫy gọi:

- Nào, không sao đâu, Emma . Anh sẽ giải quyết với bà Turner, - anh thì thào .

- Tôi đã đun nước trong nhà giặt . - Bà bếp loan báo từ giữa bếp, đôi mắt bà đảo nhanh trên bộ quần áo bẩn thỉu, nước đang chảy nhỏ giọt của Edwin, - trông đẹp chưa kìa! - Bà làu bàu . - Trông cậu như từ trong cống chui ra ấy, thật đấy .

Đó chính là lúc bà Turner trông thấy Emma tuồn qua cửa xuống cầu thang bếp . Bà không tin ở mắt mình, quai hàm bà trễ xuống:

- Ầy, cô nhỏ, cô làm gì ở đây thế ? Tôi lại cứ nghĩ cô vẫn ở nhà an toàn với ba cô chứ . Tôi không bao giờ ngờ được cô lại đi vào thời tiết này .

Emma không trả lời . Bà Turner nhìn từ Emma sang Edwin, há hốc mồm . Mãi bà mới nói được, giọng bà cộc cằn:

- Cô vẫn chưa nói cho tôi biết cô đi đâu mà lang thang vào giờ này với cậu chủ Edwin, trông như một con chuột chết . Nào, cô gái, nói lên với chứ! - Bà trợn mắt nhìn Emma, dậm chân một cách sốt ruột, hai tay bà chống nạnh .

Trước khi Emma có thể trả lời được, Edwin đã bước lên nói giọng tự tin và đủ uy quyền để nhắc nhở bà bếp anh là ai:

- Tôi tình cờ gặp Emma trên đồng hoang, trong cơn bão, bà Turner . Cô ấy nói với tôi cô ấy phải trở lại trưa nay để giúp bà làm mứt hay công việc gì đấy . Chúng tôi cố gắng trở lại cùng nhau, nhưng tôi quyết định là cơn bão này quá nguy hiểm . Chúng tôi đứng trú ở vách Ramsden đợi cho cơn bão ngớt . - Anh dừng lại vừa đưa mắt lạnh lùng nhìn bà bếp đang cáu kỉnh .

- Khó mà có thể quay lại được dù mưa tạnh! Ghyll bị ngập nước và con suối nhỏ ở con đường thấp nước rất to và chúng tôi đã về đây an toàn tuy có hơi lếch thếch tí chút . - Anh cười tươi, biểu lộ sự duyên dáng như bố anh, sự duyên dáng anh thừa hưởng được của bố .

- Lếch thếch! Tôi nghĩ đây là một sự thảm hại gớm ghiếc, cậu chủ Edwin ạ, thật đấy! - Bà Turner kêu lên cay độc - Trông hai người như hai kẻ cầu bơ cầu bất, như lũ móc cống . - Đầu bà lại lắc lư, mắt trợn . - May mà Murgatroyd đang ở Shipley . Ông ấy không chịu được sự biến mất của cậu đã gây ra biết bao nhiêu là bối rối ở đây đâu, cậu Edwin . Cậu hãy nhớ lời tôi, ông ấy không đời nào chịu hết .

- Tôi có biến đi đâu, bà Turner, - Edwin trả lời bình tĩnh kiên quyết . - Tôi bị kẹt trong vùng đồng hoang khốn khổ đó, đâu có phải là lỗi của tôi .

- Ầy, những điều cậu nói cũng đúng đấy, - bà lầu bầu . Bỗng nhiên bà trợn mắt nhìn họ . Nhìn hai người này, đứng nhỏ hết cả nước bùn nhớp nhúa ra khắc cả cái sàn gạch . - Cậu chủ Edwin, cậu lên gác tắm ngay đi . Tôi không muốn cậu lại bị ốm một lần nữa và tháo đôi ủng bẩn của cậu ra . Tôi không muốn những vệt bùn làm lấm lem những tấm thảm trên gác, - bà cảnh cáo nhưng không phải không tử tế .

Bà Turner quay sang Annie, cô này vẫn đứng yên lặng trố mắt tò mò trong suốt buổi nói chuyện:

- Annie, cô chạy vào nhà tắm mang hai thùng nước lớn lên gác vào buồng tắm cho cậu Edwin . Rồi mang hai xô vào đây cho Emma .

Bà bếp lúc này mới hoàn toàn chú ý đến Emma:

- Lẽ ra cháu không nên ở cả đêm trên đồng hoang với cậu chủ Edwin, đáng lẽ cháu nên trở về . Sự thật thì, cả hai nên trở về làng sớm . - Bà quở trách, sự cáu kỉnh của bà hết sức rõ ràng . Bà lắc đầu và nhìn hết người này đến người kia một cách soi mói . - Tôi nghĩ ch'au phải biết suy nghĩ hơn thế chứ, cả cậu Edwin nữa . Thôi, hãy đi vào phòng tắm của các đầy tớ đi, cô gái . Cháu cần phải tắm nước nóng, không thì đến cảm lạnh chết thôi .

Emma cố gượng cười:

- Vâng, thưa bà Turner . - Cô vội vã đi vào phòng tắm của đày tớ đàng sau bếp và không nhìn Edwin .

Edwin đã tháo ủng và lên gác . Lên đến đầu cầu thang anh quay ngoắt lại mỉm cười một nụ cười ấm áp và nói ngọt ngào:

- Tôi xin lỗi, bà Turner, vì đã gây cho bà lo âu và phiền não . Tôi không cố ý, thưa bà .

- Ầy, cậu Edwin, tôi biết thế .

- Ồ, mà tôi sợ là tôi đã bỏ quên cái giỏ thức ăn rồi . Nhưng một ngày khác tôi sẽ mang về .

- Ầy, chắc thế, nếu như trong giỏ không còn gì, - bà lầm bầm . Trên mặt anh quá nhiều đau buồn khiến bà dịu lại, bởi Edwin là người bà cưng nhất . - Khi nào tắm xong và giường ngay rồi tôi sẽ mang cho cậu một đĩa thịt cừu nguội thật ngon và món thịt rán kèm theo rau thái nhỏ để phần cậu hàng tiếng đồng hồ nay, cậu Edwin .

- Cám ơn bà Turner . - Anh mỉm cười và đi .

Bà bếp nhìn theo và ngồi đánh phịch xuống ghế, mặt bà đầy những nếp nhăn đau buồn . Bà đã nhìn thấy hai người thì thầm và cười với nhau ở góc nhà khi họ không hay biết tới sự quan sát sắc sảo và yên lặng của bà . Bà cũng nhìn thấy họ cùng với nhau trong vườn quá nhiều lần gần đây khiến bà không thấy thú vị chút nào . Bà suy nghĩ về câu chuyện kể của Edwin và ngờ vực đôi chút . Bà cau mày . Dù sao thì nó vẫn có đôi chút thật thà và bà chưa hề thấy cậu chủ Edwin nói dối bao giờ hoặc không bao giờ lừa lọc từ khi cậu sinh ra . Cậu không giống Gerald, anh chàng này láu cá và lừa lọc .

Dù sao thì ... một sự ngờ vực nho nhỏ len vào tâm trí bà lúc này đầy những ý nghĩ hỗn độn . Không được rồi, người ở và chủa nhà, bà nhủ thầm . Cái cô bé đó lại bước ra khỏi giai cấp của mình . Bà suy nghĩ điều này . "Không hay . Rắc rối to . Chúng ta cần phải biết địa vị của mình," bà nói to trong căn phòng không có nguời . Elsie Turner bất giác rùng mình, cánh tay mập mạp của bà nổi da gà khi những kỷ niệm đã quên lãng từ lâu dồn dập trở lại, rõ ràng, quá sống động khiến bà giật mình ngồi thẳng dậy . Đừng như thế nữa, bà nghĩ và rùng mình . Không thể xảy ra một lần nữa .

Emma bước qua hiên xuống lối đi dẫn tới vườn hồng, tay khoác lẵng hoa, tay cầm chiếc kéo lớn . Bá tước và phu nhân Sydney sẽ đến dự bữa trưa, bà bếp đã sai cô đi cắt ít hoa để cắm vào những chiếc lọ bằng pha lê Waterford trong phòng ăn và phòng khách . Emma rất thích hoa, đặc biệt là hoa hồng mà khu vườn này đặc biệt trồng hồng . Đây là nơi cô ưa thích nhất trong toàn bộ vùng đất mênh mông của Fairley Hall và đối với Emma, nó hình như lạc lõng với ngôi nhà mà cô thấy là xấu xí, âm u, bởi khu vườn này tràn đầy một sự yên tĩnh, nó cho cô nỗi thư thái, và vẻ đẹp của nó làm giàu tâm hồn cô .

Khu vườn cũ đáng yêu được bao quanh bởi bốn bức tường đá cổ đến hàng trăm năm phủ những dây leo cuốn lấy hai cây cổ thụ ở cuối vườn, hoa của chúng lấp lánh trong những lùm cây màu thẫm như những mảnh lụa màu trắng toát . Những bông hồng đại nở rộ dưới chân tường . Hồng được trồng thành từng khóm lớn, quấn quít với nhau, mỗi bông thuộc một loại màu sắc chen nhau tươi rói . Màu đỏ, màu nhạt trong màu san hô, màu san hô lại nhuốm màu hồng phơn phớt như sương, rồi trắng, màu vàng đan nhau, những cuộn hoa nhung giữa đám lá xanh rờn .

Ở chính giữa bao quanh bởi những lối đi rải sỏi là khu trưng bày cây cảnh . Bồn hoa này với những luống hoa chạy quanh vườn giống như tự nhiên, nhưng lại được sắp xếp một cách chính xác để làm tăng thêm tác dụng tương phản của nó . Trong bồn hoa, những luống hồng đủ lọai xếp theo hình khối, hình tam giác, hình vuông trông như được khắc bằng đá nhẵn bóng . Cũng giống như tất cả mọi vật, vườn hồng cũng chịu chung số phận do cơn bão khốc liệt đã làm cả miền đầm lầy tan hoang . Nhưng Adam Fairley đã đưa những chuyên gia làm vườn tới, gồm một chuyên gia về hoa hồng và một nghệ sĩ phong cảnh giúp cho người làm vườn của gia đình ông . Với chi phí khổng lồ về tiền bạc và thời gian, với tài khéo léo phi thường, họ đã dựng lại được vườn hoa rực rỡ như trước đây của nó .

Trong cái yên lặng lộng lẫy của buổi sáng tháng tám huy hoàng, mảnh vườn có một vẻ đẹp choáng váng khiến Emma nín thở, ngây người ngắm vẻ diễm lệ của nó . Mặt trời bềnh bồng trên bầu trời không mây, không gian trong suốt và đậm hương thơm ngây ngất của những loài hoa hồng . Không một chiếc lá lay động, âm thanh duy nhất là tiếng vỗ cánh nhè nhẹ của một con chim cô đơn bay vút lên trong ánh sáng trong veo, tiếng kêu vọng lại yếu ớt dần xa . Emma thở dài, ngơ ngẩn vì vẻ đẹp chung quanh, cô bước tiếp, hăm hở vì một mục đích .

Vì những bông hồng ở trong bồn không bao giờ cắt, Emma tiến lại cụm hoa bao quanh dưới chân tường . Cô hơi có mồ hôi vì đã vội vàng xuống lối đi trải sỏi và rất vui sướng đứng dưới bóng mát của những cây lá sum xuê . Cô quỳ xuống và bắt đầu cắt những thân cây, đi từ bụi này đến bụi khác lựa chọn những bông hoa một cách cẩn thận . Người làm vườn đã dạy cô chỉ cắt một ít bông ở mỗi khóm để cho cái diện mạo tổng thể của vườn hoa lộng lẫy khỏi bị trụi đi từng đám . Cô cầm những bông hồng một cách nhẹ nhàng bởi vì hoa đã nở hết, hầu như nở quá . Cô hết sức chú ý tới màu và loại, dần dần xếp đầy lẳng hoa .

Emma vừa làm việc vừa mỉm cười một mình . Edwin đã trở lại Fairley tối qua cùng với ông chủ . Ông luôn trở vễ Yorkshire để bắt đầu mùa săn gà gô trắng . Hai tuần qua, Edwin đã đi thăm Olivia Wainwright tại ngôi nhà của bà ở nông thôn miền nam . Đối với Emma thì hình như đó là hai năm . Căn nhà ngay trong những lúc tốt đẹp nhất cũng là một nơi hoang vu và đặc biệt là như vậy khi chỉ có một mình Gerald Fairley ở đó và nó đã bắt đầu đè nặng lên cô hơn bao giờ hết . Những căn phòng cao vút, mênh mông và âm u lặng lẽ quái đản, và mỗi khi xong công việc, cô lại trốn khỏi chúng . Bây giờ Edwin đã trở về, mọi thứ sẽ khác đi . Cô nhớ nụ cười của anh, sự âu yếm và mê say của anh vì những buổi họ đi chơi ở đồng hoang vẫn tiếp tục hết tháng sáu đến tháng bảy cho đến ngày anh đi .

Đôi khi Emma đã lên đỉnh của Thế Giới và ngồi một mình trên hòn đá phẳng dưới bóng vách Ramsden mở rộng, lạc trong muôn ngàn ý nghĩ . Cô không bao giờ vào hang mà không có Edwin . Trước khi anh đi nghỉ, anh đã dặn cô một cách nghiêm khắc là không bao giờ được vần gảng đá nếu không có anh bởi vì nó rất nguy hiểm và cô rất dễ bị thương .

Nhưng bây giờ anh đã trở lại và nỗi cô đơn của cô tan biến . Sáng sớm hôm đó khi hai người tặp nhau ở hành lang trên gác, họ đã thì thào hẹn nhau ở vườn hồng vài phút trước khi đi chơi bằng ngựa! Cô hầu như không thể chịu nổi nỗi thông khổ đợi chờ anh . Cô hết sức mong anh mau tới . Lẵng hoa của cô đã đầy tràn; vả lại bà bếp cũng sốt ruột không hiểu cô đi đâu . Vài phút sau, Emma đã nghe bước chân anh lạo xạo trên sỏi, cô mong ngóng nhìn lên . Cô thấy tim mình đập nhanh kỳ lạ, một niềm hạnh phúc trào dâng, đem tia sáng óng ánh lên mắt và nụ cười trên mặt cô .

Edwin bước nhanh xuống lối đi với một dáng vẻ phóng khóang, vô tư lự, chiếc roi da vung vẩy trong tay . Anh mặc chiếc sơ mi trắng, chiếc khăn lụa màu vàng buộc ở cổ, quần da bò, đôi ủng đi ngựa đánh bóng lộn ánh lên trong nắng . Trông anh cao hơn, to hơn, lớn hơn bao giờ hết . Anh đẹp trai quá, Emma nghĩ, cổ họng cô nghẹn lại . Cô thấy đau nhói và cô nhận ra một cách đầy đủ nỗi cay đắng ngọt ngào của tình yêu .

Mặt Edwin rạng rỡ khi anh nhìn thấy cô, anh rảo bước . Khi anh đứng trước mặt cô, miệng cười tươi, đôi mắt màu xanh biếc của anh phản chiếu nỗi vui sướng lại được trở về . Emma nghe tim cô đập đến vỡ tung ra mất . Anh đưa tay ra đỡ cô đứng lên, dìu cô tới một góc, khuất ngôi nhà . Anh ôm ghì lấy cô, hôn say đắm . Bàn tay rám nắng vuốt lưng cô âu yếm . Rồi anh lùi ra, những ngón tay khỏe mạnh của anh nắm lấy hai vai cô, anh nhìn kỹ vào khuôn mặt cô y như thể mới nhìn thấy nó lần đầu . Trời nắng đẹp quá, anh nghĩ, một nỗi kích thích làm rạo rực lòng anh .

- Anh nhớ em quá, Emma, - anh nói hăm hở, sự nồng nhiệt lộ rõ trên mặt anh, - Anh nóng lòng muốn trở về . Em có nhớ anh không ?

- Ôi, có, Edwin, em nhớ anh . Anh đi em thấy cô đơn quá . - cô mỉm cười, - anh đi nghỉ có vui vẻ không ?

Anh cười và nhăn mặt:

- A, có, đứng về một số mặt . Nhưng nó xã giao quá, không hợp với tính cách của anh . Dì Olivia có hàng tấn khách khứa đến và đi . Dì cũng tổ chức hai buổi vũ hội mà giá anh không đi dự thì hay quá . Những cô gái ngu ngốc của bạn bà dì làm thần kinh anh căng thẳng .

Emma thẳng đơ người trong đôi bàn tay nắm chặt cứng của anh . Một sự ghen tuông bừng lên tâm trí cô với ý nghĩ Edwin ôm những cô gái khác trong tay, chỉ là để nhảy với họ . Cô thấy tắc nghẹn không nói nên lời .

Nhìn thấy vẻ đau đớn thoáng qua mắt cô, anh tự mắng mình là thiếu suy nghĩ rồi anh cười an ủi:

- Anh thích ở với em hơn nhiều, Emma dịu ngọt của anh. Hẳn em biết điều ấy . - Anh nới lỏng vòng tay . - Chúng mình lại ngồi ở chỗ kia đi, - anh nói, gật đầu về phía chỗ ngồi kết bằng những cành cây dưới một thân cây có bóng mát ở góc vắng trong vườn .

Anh mang lẵng hoa cho cô và khi hai người đã ngồi, anh nói:

- Chúng ta có thể gặp nhau ở đỉnh của Thế Giới chủ nhật này để đi picnic không ? Đó là những ngày nghỉ cuối tuần của em, phải không ?

- Vâng, đó là ngày nghỉ cuối tuần của em . - Emma nói . - Em sẽ gặp anh chứ ?

Emma nhìn anh, đôi mắt cô nghiêm chỉnh khi nó dõi tìm khuôn mặt anh, lúc này thật thân yêu đối với cô và không bao giờ rời khỏi tâm trí cô, ngay cả ngày lẫn đêm . Edwin mỉm cười âu yếm .

- Sao đột nhiên em có vẻ suy tư vậy ? Chắc em không thay đổi ý kiến về những cuộc hẹn của chúng ta chứ ? Không phải là em không còn yêu tôi nữa ?

- Tất nhiên là em yêu anh, - cô kêu lên . - Anh Edwin.

Emma do dự và nuốt nước bọt . Những từ cô biết cần phải nói nghẹn lại trong cổ họng .

Edwin chạm vào vai cô âu yếm:

- Ờ, tại sao em lại do dự chuyện gặp anh ?

- Edwin, em có mang . - Cô nói tuột ra một cách mộc mạc, không biết cách nào để nói với anh dịu dàng hơn . Cô không thể mang nổi cái gánh nặng đầy lo âu này một mình .

Trong khi nói, Emma không rời mắt khỏi anh . Cô nắm chặt hai tay vào nhau để cho bàn tay khỏi run . Trong phút giây yên lặng đầy dằn vặt buông xuống giữa hai người như một bức màn chì, tim Emma muốn rụng xuống . Cô nhận thấy một cách rõ ràng thân thể của Edwin cứng lại, nó lùi xa cô lúc nào không hay, vẻ nhìn không tin là thật đã xóa nụ cười khỏi khuôn mặt anh . Nỗi kinh hoàng tiếp tục theo ngay và đọng lại ở đó, vẻ mặt hoá băng đã nói lên sự choáng váng của anh .

- Ôi, trời ơi! - anh kêu lên, loạng choạng lùi lại ngã vào chiếc ghế dài . Anh há hốc miệng nhìn cô, mặt anh lúc này nhợt nhạt và dúm dó . Edwin có cảm giác như vừa bị đánh một đòn tàn bạo, chí tử vào bụng . Anh hoàn toàn bị suy sụp . Anh cố gắng một cách vô vọng để rũ cái cảm giác run rẩy nó chóan lấy anh, nhưng ít thành công . Cuối cùng, anh cất tiếng nói được . - Emma, em có hoàn toàn chắc như vậy không ?

Cô cắn môi, đưa mắt nhìn anh cố gắng đánh giá thái độ của anh:

- Vâng, Edwin, em chắc .

- Trời đất thánh thần ơi!, - anh kêu lên, quên cả lễ độ trong lúc lo âu . Anh đăm đăm nhìn vào khoảng không, mặt anh co rúm lại . Một cảm giác ngột ngạt choáng lấy anh . Anh nghĩ anh không thể thở được . Cuối cùng, anh quay lại và nhìn cô chằm chằm, đôi mắt anh đầy lo ngại . - Cha anh sẽ giết anh mất . - Anh thở hổn hển, hình dung ra nỗi giận dữ điên cuồng của cha .

Emma liếc nhìn anh, ánh mắt hiểu biết:

- Nếu cha anh không giết anh, thì cha em sẽ làm điều đó . - Cô báo cho anh biết một cách ngắn gọn, giọng cô thất thanh và khàn khàn .

- Trời ơi, em sẽ làm thế nào ? - Anh hỏi .

- “Có phải anh muốn nói là chúng ta sẽ làm thế nào không, Edwin?”. Câu hỏi đó khá nhẹ nhàng nhưng Emma cảm thấy nỗi hốt hoảng dâng lên cổ họng đã tắc nghẹn của cô. Trong mấy tuần vừa qua, cô không một phút nào nghĩ tới một phản ứng như vậy ở anh. Cô biết, anh sẽ bối rối, lo lắng trước cái tin của cô cũng như chính cô. Nhưng cô không bao giờ nghĩ được rằng anh lại hành động y như thể đây là trách nhiệm của cô và chỉ cô mà thôi. Nó làm cô kinh sợ.

- “Ừ, tất nhiên anh muốn nói chung ta”, anh hỏi lại vội vàng,” Emma, nhưng mà am có thực sự chắc chắn là như thế không? Có thể em chỉ… chỉ chầm thôi chăng?”

- “Không, Edwin, em chắc mà.”

Edwin yên lặng, đầu óc anh hoang mang, hàng nghìn ý nghĩ chen lẫn1 trong đầu anh. Anh chưa bao giờ suy nghĩ tới sự việc này trong lúc mê đắm vì sắc đẹp của cô và sự ham muốn sôi sục trong lòng anh. Anh quả thật là một thằng đốn mạt đã không cân nhắc đến điều không thể tránh được ấy, cáu hậu quả tự nhiên của những cuộc làm tình.

Emma phá vỡ sự yên lặng ấy.

- “Edwin, xin anh, hãy nói với em! Hày giúp em! Trong thời gian anh đi vắng, em lo lắng quá khi biết em có mang, em chắng hiểu phải làm thế nào nữa. Em không thể nói với ai khác. Thật là kinh khủng đối với em, quả thật là như vậy, thời gian em chờ đợi anh trở lại Fairley”.

Edwin suy nghĩ nát óc. Cuối cùng, anh hắng giọng hơi sợ hãi. Giọng anh run run:

- “Emma này, anh nghe nói có các bác sĩ- các bác sĩ lo những chuyện như thế này trong những giai đoạn đầu của sự thai nghén lấy những món tiền lớn. Có thể sẽ có người làm điều này. ở Leeds hoặc Bradford. Có lẽ chúng ta có thể tìm được một bác sĩ. Anh có thể bán chiếc đồng hồ của anh.”

Emma kinh sợ bàng hoàng. Những lời nói của anh ta như dao nhọn đâm vào da thịt cô. Sự lạnh lùng nhẫn tâm này quá ghê gớm, khiến cô run lên bần bật.

- “Đến một ông lang vườn à?” Cô kêu lên giận dữ, ngày một ngạc nhiên hơn, mắt cô mở to. “Một ông lang băm nào đó sẽ mổ thịt tôi bằng một con dao và có thể sẽ giết chết tôi.” Đôi mắt cô lúc này hết sức lạnh lùng, ánh lên màu xanh sẫm và cảnh giác. Cô hầu như không thể tin được rằng anh đã thốt ra những lời ghê gớm đó.

- “Nhưng mà Emma, anh không biết phải gợi ý với em một điều gì khác nữa! Đây đúng là một thảm họa, một tai ương. Edwin không thể có con được!”

Edwin tiếp tục nhìn cô ngây dại, trí óc anh hỗn độn. Điều cần làm là lấy cô. Họ có thể trốn đi. Tới Gretna Green và S cotland. Anh đã đọc truyện những đôi trai gái lấy nhau ở đó. Nếu người ta sống ở đó hai mươi mốt ngày thì sẽ hợp pháp. Anh mở miệng định nói điều đó nhưng ngậm ngay miệng lại. Sao đó rồi sao? Nghĩ tới sự điên giận của cha làm anh tê liệt. Ông sẽ từ anh, bỏ mặt anh không biết gì hết. Rồi Edwin nghĩ tới Cambridge, tới tương lai làm luật sư của anh. Anh không thể đóng đai vào một người vợ lúc này, ở tuổi của anh, ở cái tuổi quyết định nhất của đời anh. Đôi mắt anh lướt trên người cô. Cô là một cô gái đẹp. Sáng nay, mái tóc màu nâu đỏ của cô hất ngược về phía sau, bím tóc tết trên đỉnh đầu như một vương miện. Khuôn mặt trái xoan, xanh xao hơn thường lệ nhưng long lanh thanh tú và kiêu sa. Mái tóc của cô nhô ra trên vầng trán rộng và đôi mắt to xanh màu ngọc bích làm tăng vẻ đẹp của cô lên một cách khác thường. Cô đẹp mê hồn, điều ấy không còn gnhi ngờ gì nữa. Quần áo sang trọng mặc vào… nhưng bài học dạy cách ăn nói… một cái lí lịch bịa. Nhưng điều như vậy có thể làm được, học hành đúng qui cách có thể đem lại hiệu quả thần kỳ. Có thể có một cách để giải quyết. Không, không có, không bao giờ có thể được. Một giọng nói nhỏ day dứt sau đầu anh. Anh sẽ bị phản bác. Anh có thể đánh giá được một cách rõ ràng phản ứng của cha anh. Ông sẽ giận dữ đến độ phát điên lên. Cô là một cô gái quê. Con mắt Edwin dừng lại ở Emma, anh nghĩ tới cô với một vẻ lạnh lùng tính toán và trong một giây lát, sắc đẹp của cô mờ đi. Cô là một đầy tớ, xét cho đến cùng, sự khác biệt về giai cấp giữa hai người quá lớn lao, không thể chấp nối được.

Và, vậy là Edwin nuốt nước bọt và yên lặng, kìm lại những lời anh định thốt ranh lúc ban đầu. Đó là một sai lầm mà anh sẽ phải sống để mà ân hận, bởi vì nếu như anh nói lên, thừa nhận cô là của anh, thách thức cha anh và cả thế giới thì đời Edwin hẳn sẽ khác đi biết chừng nào.

Lúc này, Emma đã nhìn thấy một cách thật là rỏ ràng sự khước từ trên mặt anh, nhận thức được một cách cay đắng sự chối bỏ trong mắt anh. Cô đứng thẳng người, đầu cô hất lên trên chiếc cổ mỏng manh. Cô phải lấy hết sức tự chủ để nói một cách bìnht hường bởi vì người cô đang run lên giận dữ, sự xúc phạm và sự kinh tởm trong lòng cô trỗi dậy.

- “Tôi không đến một ông lang băng nào như thế và sự yên lặng của anh nói với tôi rằng anh không định lấy tôi, Edwin”. Cô cười khe khẽ, nhưng đó là nụ cười cay độc. “Nó không xứng đáng, có phải thế không, cậu chủ Edwin? Giai cấp quí tôc và giai cấp công nhân cách nhau quá xa không thể thực sự lấy nhau được”.

Cô nói lên với sự mẫn cảm chính xác thường lệ của mình, giọng cô lạnh băng.

Edwin dúm người lại. Anh có một cảm giác đặc biệt là cô đã đọc được ý nghĩ của anh và anh đỏ bừng mặt.

- “Emma, không phải như vậy, không phải là vì anh không yêu em. Nhưng chúng ta còn quá trẻ để mà lấy nhau”, anh nói lập lờ, “anh sắp sửa đi Cambridge. Cha anh…”

- “Ấy, tôi biết“, cô cắt ngang. “ông ấy sẽ giết anh”. Đôi mắt sáng của cô nheo lại khi cô nói, nó xoáy lấy mặt anh.

Edwin lùi lại và anh hiểu rằng mình sẽ không bao giờ quên được cái nhìn đầy uất ức ấy. Nó kết án anh một cách hung dữ và với tất cả lòng căm ghét. Anh sẽ không bao giờ xóa gột được nó khỏi tâm trí anh.

- “Emma, anh- anh- anh xin lỗi”, anh ấp úng, mặt đỏ bừng, “nhưng, nó…”

Cô lại ngắt lời anh với tất cà sự cay độc:

- “Tôi sẽ phải đi khỏi Fairley. Tôi không thể ở đây. Tôi không chịu trách nhiệm cho những gì cha tôi sẽ làm. Trước hết là ông không thể chịu đựng được sự tủi nhục này và tình khí ông rất hung bạo”.

- “Bao giờ em đi?”, anh hỏi một cách vụng về, không dám nhìn vào mắt cô.

Một cái nhìn khinh bỉ xuất hiện trên mặt emma. Anh không thể đợi để cô rời đi. Điều đó đã quá rõ ràng đối với cô. Sự vỡ mộng của cô là trọn vẹn.

- “Càng sớm càng tốt”, cô buông thõng.

Edwin hai tay ôm lấy đầu, suy nghĩ điều cô vừa nói. Có lẽ đó là một giải pháp lý tưởng. Để cô trốn đi. Anh cảm thấy nhẹ nhõm đôi chút và ngẩng đầu lên:

- “Em có tiền không?”, anh hỏi.

Emma muốn nôn mửa. Sự phản bội của Edwin, hành vi yếu đuối , đáng khinh bỉ của anh ta làm cô choáng váng. Cô nghĩ chắc mình sẽ ngất đi và ngã ngất xuống. Đau đớn này chồng chất lên đau đớn khác, bện vào nhau thành một chiếc đay sắt thít chặt hầu như không thể chịu nổi. Đau đớn, căm giận, nhục nhã, thất vọng và một nỗi hoảng hốt đột ngột nổi dậy thành một cơn đau xé lòng xâm chiếm toàn cơ thể cô. Hương thơm của hoa hồng bốc lên từng đợt ngột ngạt, ngột đến nhức đầu, nó làm cô muốn xỉu. Mùi thơm của nó đang làm cô nghẹt thở. Cô muốn chạy khỏi khu vườn này, khỏi anh ta. Cuối cùng, cô nói giọng khẽ không có âm sắc:

- “Có, tôi có một ít tiền để dành”.

- “Ồ, anh chỉ có £5. Tất nhiên, anh sẽ cho em. Nó sẽ có ích đôi chút, Emma”.

Niềm tự kiêu dữ dội của Emma dâng lên buộc cô không nhận, buộc cô từ chối lời đề nghị của anh, nhưng vì một lý do nào đó cô không biết, trong giây phút ấy, cô đã thay đổi ý kiến.

- “Cám ơn, Edwin”. Cô nhìn anh, cái nhìn xuyên thấu tim gan. “Còn một điều nữa anh có thể làm cho tôi”.

- “Ừ, Emma, bất cứ điều gì. Em biết anh sẽ làm bất cứ điều gì để giúp đỡ em”.

Bất cứ điều gì, cô tự hỏi. H anh ta không làm bất cứ điều gì đâu, chỉ là nhưng cái tiện cho anh ta thôi, những cái giúp anh ta rũ trách nhiệm trong vấn đề này.

- “Tôi sẽ phải cần một chiếc vali”, cô đáp một cách lạnh lùng, không thể che dấu nỗi đắng cay.

- “Anh sẽ để một chiếc vào phòng em chiều nay và trong đó có cả £5”.

- “Cám ơn Edwin. Như vậy tốt quá”.

Anh nhận ra sự chua chát và cả giọng điệu học thức mà cô đã bất ngờ tạo nên. Anh nhăn mặt:

- “Emma, xin em, xin em hiểu cho”.

- “Ồ, có chứ. Tôi hiểu lắm chứ”.

Anh đứng lên, bàn chân luôn luôn di động 1 cách bồn chồn, rõ ràng là muốn đi, muốn chấm dứt tất cả câu chuyện. Cô nhìn anh ta đứng đó, cao lớn và quá đẹp trai, hình ảnh thu nhỏ của xã hội bên ngoài. Còn phần bên trong của anh thì sao? Cô tự hỏi mình. Một kẻ yếu đuối. Một thằng bé con sợ sệt chỉ có hình hài của một thằng đàn ông. Chì có thế thôi. Anh ta không là cái gì hết. Anh ta không bằng cục đất dưới chân cô.

Emma đứng nâng lẵng hoa khoác vào cánh tay. Mùa hoa hồng ngào ngạt ùa vào mũi cô làm cô choáng váng, nôn nao như ốm. Cô trừng trừng nhìn anh đang đứng gần chiếc ghế băng.

Cô bước đi chầm chậm, người thẳng và kiêu hãnh, tư thế đĩnh đạc, một tư thế che dấu nỗi cô đơn ghê gớm trong linh hồn cô. Cái yên lặng trong khu vườn là một vật hữu hình cô có thể với tới và sờ được. Tất cả mọi thứ trông không thực, mong manh và nhạt nhòa rồi lại lóe sáng dữ dội ùa vào làm mắt cô đau nhói. Không gian tối sầm xung quanh, mắt cô mờ đi. Hình như lớp sương mù lơ lửng che vùng đồng hoang đã đổ xuống. Một cái lạnh khủng khiếp ngấm qua người cô, nội tạng của cô teo lại trở thành không còn gì hết. Mòn đi, mòn đi. Tim cô rung động thật nhanh rồi dừng lại. Nó cứng lại thành đá, cô để một bàn chân trước bàn chân kia, di chuyển chúng một cách tự động. Chúng như những trọng lực đã chết. Cô tự hỏi không biết cô có thực sự mong đợi Edwin lấy cô không. Cô không dám chắc. Nhưng cô biết chắc là cô không hề chờ đợi anh ta đối xử không một chút quan tâm tới sự nguy hiểm đối với cô, tới lợi ích của cô. Cô cũng không lường được một sự sợ hãi dúm dó đáng khinh bỉ đến như vậy. Thậm chí anh ta cũng không tỏ một chút quan tâm cho đứa bé cô mang trong mình. Đứa con của anh ta. Thật là một cái mẫu tội nghiệp của nhân loại. Cô mỉm cười hài hước. Hãy tưởng tượng anh ta chỉ có được £5 mang trên mình. Chính cô cũng còn có nhiều hơn thế. £15, nói một cách chính xác. Cộng với ý chí sắt đá của cô. Và quyết tâm của cô.

Edwin nhìn hình bóng lùi dần của cô với nỗi bồn chồn ngày một tăng, rồi với một sự thôi thúc, anh bước theo cô:

- “Emma”, anh gọi, cô phớt lờ, “Emma, xin em khoan đã”, anh gọi lại.

Cô dừng lại, anh nín thở hy vọng cô quay lại. Nàng anh nhận ra là cô dừng lại chỉ vì áo cô vướng vào một bụi cây. Cô gỡ áo ra, bước lên những bậc sân hiên, không nhìn lại một lần.

Edwin đứng ngây người trên lối đi trải sỏi, tay nắm chặt chiếc roi đang đi ngựa tới nỗi nhưng đốt ngón tay nhợt ra, nổi hằn lên trong ánh nắng chói lọi. Một nỗi hốt hoảng đột ngột đến khi cô khuất vào trong nhà. Đôi chân anh nhũn ra như nước, trí óc anh như bơi trong chốn mông lung, rồi cái cảm giác kì quái nhất choán lấy như đọng thành cục trong dạ dày anh. Anh cảm thấy như thể một cái gì của sự sống còn đang rút khỏi cơ thể anh, quét sạch mọi cảm xúc khác. Đứng đó, trong khu vườn hồng cổ xưa, Edwin Fairley, mười bảy tuổi, không b iết là sự trống rỗng nôn nao bao trùm khắp con người anh. Cái hố này trong trái tim anh là một cảm giác sẽ không bao giờ rời bỏ anh chừng nào anh còn sống. Anh sẽ mang nó theo tới nấm mồ của mình.

Emma mang những bông hồng vào buồng cây gần nhà kính và đặt lẵng hoa trên bàn. Cô gài cửa lại thật cẩn thận và lao ra chỗ chậu rửa bát. Cô ọe cho đến lúc cô tưởng có thể chết được, mắt cô đẫm nước, ruột gan lộn lại. Một vài giây sau, cơn nôn dịu đi, cô lấy tay lau mặt, tựa vào chậu rửa bằng thiếc cũ, thở hổn hển. Rồi cô quay sang những bông hồng một cách bình thản, bắt đầu cắt tỉa một ít lá, sắp xếp những bông hoa cẩn thận vào trong cái lọ bằng pha lê, tập trung tất cả sự chú ý vào đó. Cô không thể chịu được mùi hoa hồng lúc này. Sự thật, cô sẽ căm ghét cái mùi hương lan tỏa của chúng mãi mãi, nhưng cô còn có việc phải làm và sự cố gắng miệt mài này đã giúp cô xoa dịu trí óc đầy phiền muộn và chân tay run rẩy của cô.

Vừa làm việc, cô vừa chợt nghĩ rằng Edwin thậm chí cũng không hỏi là cô đi đâu. Chỉ hỏi khi nào. Cô sẽ đi đâu? Cô không biết chắc. Nhưng cô sẽ ra đi vào ngày mai. Cha cô và Frank làm việc ở nhà máy sáng thứ bảy cũng như một số công nhân khác muốn làm thêm giờ. Họ đi khỏi một cái là cô sẽ biến ngay. Cô sẽ để lại cho cha mấy chữ như Wilson đã làm. Cô không biết cô sẽ viết gì trong lá thư ấy. Cô sẽ nghĩ điều ấy sau.

Emma vừa làm việc vừa rủa thầm mình. Cô thật là một con điên. Cô không thấy ân hận hoặc nuối tiếc gì về những cuộc hẹn hò của họ trong hang. Những cái đã làm rồi không thể làm lại và hối tiếc chỉ là một sự hao phí thời gian quí báu. Cô là một con điên vì một lý do khác: cô đã để cho Edwin lôi kéo cô khỏi mục đích của mình, có thể thiệp vào kế hoạch với chữ K hoa của cô cũng giống như cô đã cho phép cái chết của mẹ cô, sự ra đi vội vã của Wilson và sự cần thiết không thể thiếu cô của cha cô đã làm cô nao núng quyết tâm đi khỏi Fairley.

Một tiếng vọng yếu đuối từ quá khứ trở về với cô. Đó là những lời nói với cô một năm trước. Đêm hôm ấy, tại bữa tiệc cái đêm trước hôm mẹ cô chết, những lời đã quên từ lâu nhưng bây giờ lại nhớ. Đó là lời của Adele Fairley nói với cô.

- “Cháu phải đi khỏi chốn này, Emma, khỏi ngôi nhà này, trước khi quá muộn”.

Bà Fairley không phải là một người rồ dại như mọi người nghĩ, Emma tự nhủ, bà đã biết. Bằng cách nào đó, bà đã biết tai họa, sự rắc rối và nguy hiểm rình rập trong những bức tường này.

Emma ngừng tay, đứng lặng, đắm chìm trong những ý nghĩ. Cô nắm chặt lấy mép bàn vì một sự chấn động đột ngột ập đến, cô nhắm mắt lại, tập trung vào những ý nghĩ của mình. Vài giây sau, cô mở mắt ra, nhìn một cách lờ mờ vào những bông hồng. Emma không nhận ra rằng một ánh sáng hoàn toàn mới và nguy hiểm đã nhập vào đôi mắt màu ngọc bích ấy. Đó là lúc cô thề với mình, với mọi đường gân thớ thịt, với tất cả sức mạnh của mình. Điều đó sẽ không bao giờ xảy ra nữa. Cô sẽ không bao giờ cho phép ai, cho phép bất cứ cái gì đưa cô chệch khỏi đường hướng của mình, chắn lối mình, phá ngang hoặc làm yếu quyết tâm của cô. Từ hôm nay trở đi, cô sẽ chuyên tâm vào một mục đích, gạt bỏ mọi thứ khác. Mục đích đó: tiền. Thật nhiều tiền. Vì tiền là quyền lực. Cô trở nên giàu và đầy quyền lực để không thể nào bị tổn thương đối với cuộc đời này. Và sau đó thì sao? Trả thù. Cô mỉm cười và đó là một nụ cười không khoan nhượng và hận thù.

Emma mở then cửa, cầm một chiếc lọ hoa lên, mang nó vào phòng ăn. Cô phải làm xong công việc của cô ngày hôm nay. và bằng mọi giá, cô phải tránh Edwin. Cô sẽ không bao giờ nhìn thấy cái bộ mặt ấy. bởi vì sự khinh bỉ của cô đã biến thành hận thù. một lòng hận thù dữ dội quá, ghê gớm quá. Nó đã làm đầy ứ tâm hồn cô, xóa nhòa tất cả mọi chuyện khác. Thậm chí, cô cũng không nghĩ tới đứa bé cô đang mang trong bụng hay những vấn đề to lớn đang ở trước mặt. sự căm thù khủng khiếp đối với Edwin Fairley sinh ra trong lòng cô ngày ấy chỉ làm tăng thêm nỗi ghê tởm cô luôn luôn có đối với Adam Fairley, đó là một sức sống mạnh mẽ trong lòng cô, đọng lại trong tim cô suốt cả cuộc đời. về thực chất, nó trở thành một động lực thúc đẩy kết hợp lại với tham vọng nghị lực và sự khôn khéo của cô đưa tới những đỉnh cao mà chính cô cũng không thể mơ tới.

Sáng hôm sau, Edwin Fairley đi dạo qua sân nhà máy, vẻ buồn phiền trên nét mặt anh. Thỉnh thoảng, anh ngước nhìn lên làng trên đồi, suy nghĩ một cách đau khổ về Emma.

Anh biết cô sẽ rời khỏi Fairley vào cuối tuần này, nếu không phải, thì cô đã đi rồi. Anh hoàn toàn chắc chắn về điều đó. Đếm rât khuya, không thể ngủ được, lo âu và cảm thấy có tội, anh đã bò lên căn phòng xép nhỏ của cô. Chiếc vali anh để đó chiều hôm ấy đã biến mất với quần áo trong phòng cô. Và những thứ nhỏ nhoi, tội nghiệp khác như chiếc bình nhỏ đựng cây thạch nam khô héo, trên bệ cửa sổ một chiếc trâm bằng thủy tinh xanh khốn khổ.

Edwin thở dài. Anh cảm thấy đau khổ. Anh đã cư xử như một kẻ đểu cáng cùng cực. Giá như cô không nói với anh đột ngột như thế, đợi cho đến khi đầu anh tỉnh táo lại, sáng sủa ra sau cơn choáng choáng váng vì cái tin tức đầy tai ương này, có lẽ anh sẽ có thể suy nghĩ thông minh hơn, quyết định tỉnh táo hơn. Như thế nào? Môi giọng nhỏ đay lại. Nếu như anh trung thực với chính mình thì anh phải thú nhận là anh sẽ không lấy cô. Điều ấy không thể có được. Nhưng mà- Ôi, Chúa ơi, đừng tự đẩy mình tới chỗ phát điên lân nữa, anh tự nhủ một cách giận dữ, anh không thể đương đầu được với những ý nghĩ hỗn loại đang lồng lộn trong đầu anh.

Emma đã đi rồi. Và thế là hết. Trong hoàn cảnh như vậy, có lẽ cô bỏ đi ngay lập tức là điều khôn ngoan. Nếu như cô ở lại, cô có thể lôi anh vào tình thế bi đát, mặc dù là không cố ý và như vậy sẽ xảy ra một sự bê bối ghê gớm đến nỗi anh không dám nghĩ tới nữa. Nghĩ như vậy không tốt đẹp và không xứng đáng, Edwin Fairley, anh tự mắng mình với nỗi hổ thẹn nhói lên, anh thoáng nhìn vào mình và Emma. Cô sẽ chẳng bao giờ nhận anh là cha của đứa bé. Anh biết cô đủ tự tin để thừa nhận là…, cách này hay cách khác, cô sẽ bảo vệ anh. Choáng váng, anh tự hỏi không biết cô sẽ tự thu xếp bằng cách nào, cô sẽ làm gì, cô đã đi đâu hoặc đang đi đâu. Trong cơn hốt hoảng, bàng hoàng ngày hôm qua, anh không còn lòng dạ nào tìm xem cô định đi đâu, bây giờ nó mới ám ảnh anh.

Anh dừng bước khi tới gần những con ngựa buộc bên cổng của nhà máy. Anh vuốt ve con Russet Dawry, cố gắng làm dịu những tình cảm đau đớn trong lòng mình. Phóng ngựa trên đồng hoang có lẽ giúp anh chăng. Anh ngước nhìn lên. Không phải là một ngày đẹp trời. Không gian hết sức u ám. Trời đầy mây, nặng nề, gió thổi mạnh. Mặt khác, cuộc đi thăm Kirkend sẽ làm cho đầu óc anh bận rộn và có thể ngăn anh nghĩ tới chuyện Emma và cũng làm bớt nỗi băn khoăn anh đang cảm thấy trong lòng.

Edwin đăm đăm nhìn vào khoảng không, đôi mắt anh trống rỗng, vì vậy anh không hề thấy những vệt khói nhỏ tuôn ra từ dưới những cánh cửa của nhà kho lớn gần đó. Chỉ mãi đến khi con Russet Dawnry hí và nhảy dựng lên, anh nhìn quanh lại và thấy khói ngày càng rõ rệt hơn. Edwin ngừng thở, vỗ yên con ngựa rồi chạy về phía nhà kho một cách lo ngại.

Khi Edwin lao qua sân, Jack Harte đang từ lán dệt đi tới, mang theo một chồng bao không. Chiếc cửa sổ bên cửa nhà kho ở trong tầm nhìn trực tiếp của ông, đôi mắt ông lóe lên khi ông nhìn hấy ánh đỏ bên trong. Ông cũng nhìn thấy Edwin Fairley kéo then cài trên những cánh cửa nặng nề. Jack bắt đầu chạy, sự sợ hãi lướt trên mặt ông. Vừa chạy ông vừa thét gọi:

- “Edwin, hãy lùi xa những cánh cửa. Đừng mở cửa”. Ông hét lên. “nguy hiểm lắm. Tránh xa ra, cậu ơi”.

Edwin lếc nhìn ở, nhưng không để ý đến lời ông, vẫn cứ tiếp tục mày mò mở cửa. Cuối cùng, anh đã làm được và đi vào đúng lúc Jack chạy tới nhà kho. Jack đặt phịch những chiếc túi trên đất và lao vào sau Edwin, vẫn thét lên báo trước sự nguy hiểm.

ở tít cuối nhà kho mênh mông, nhiều thùng lồng bằng gỗ dùng để chuyên chở len và suốt chỉ đã bắt lửa. Những cục than hồng bay ra từ đó, bám vào những kiện len xếp chồng chất trong túi, túi nọ trên túi kia. Chúng bốc cháy dữ dội, những chồng khác ở bên cũng bén lửa liên tiếp. Ngôi nhà kho cũng như khối lượng len khổng lồ chứa trong đó bốc cháy bùng bùng như chiếc bật lửa, tàn lửa và than hồng bay tung tóe, khói cuồn cuộn, xà nhà, tường gỗ kêu tanh tách, nứt toác khi những lưới lửa bốc lên trần, lan ra khắp ngả. Trong một vài phút nữa, nó sẽ là một đám cháy lớn khủng khiếp, bởi gió lùa vào những cánh cửa mở quạt lửa thành một cái lò nóng chạy, sức nóng ngột ngạt, khói ngút ngàn.

- “Ra khỏi đây, cậu Edwin”. Ông Jack lớn hét lên át tiếng gầm của lửa đang nuốt chửng ngôi nhà bằng gỗ.

- “Chúng ta phải làm gì ngay lập tức”. Edwin há hốc miệng, anh nhìn cảnh cháy như bị thôi miên.

- “Ầy, tôi biết. Nhưng đây không phải là chỗ của cậu”. Jack nắm lấy cánh tay cậu và kéo mạnh cậu đi. “Nào, ra khỏi đây lập tức. Nếu muốn ngăn đám cháy khỏi lan ra, chúng ta sẽ cho máy hơi và máy bơm hoạt động ngay”.

Hai người cùng quay lại, Jack dẫn đường qua đám khói dầy đặc cuồn cuộn như một vùng nước xoáy trong nhà kho uà vào mắt cay xè đang ứa nước của họ. Vì độ dầy đặc của khói mồi giây lại tăng thêm nên Edwin không nhìn thấy chiếc vòng sắt gắn vào một cái cửa sập trên sàn, anh vướng chân và đó và ngã sấp mặt. Anh cố gỡ ra, miệng hét gọi Jack chạy ở phía trước. Jack quay ngoắt và chạy ngược trở lại. Ông kinh hoàng khi nhìn thấy mủi giày của Edwin kẹp trong chiếc vòng. Ông quì xuống, cố gắng gỡ nó ra.

- “Cậu có thể cho chân ra khỏi giày không?”. Jack kêu to.

- “Ở vị trí như thế này thì không thể được”. Tuy anh vẫn ngọ ngoậy và vặn chân nhưng không ăn thua.

- “Chiếc vòng này cũng hơi lỏng. Tôi sẽ cố vặn nó ra khỏi sàn”. Jack vừa nói vừa ho sặc sụa và lấy tay vuốt mặt cho khỏi khói. Dùng toàn lực, ông kéo chiếc vòng sắt, và thật là may mắn, sau khi kéo vài cái, nó lỏng ra khỏi chiếc cửa sập bằng gỗ.

Lúc này, cả một khoảng chứa rông chung quanh nhà kho, ngay phía dưới trần bắt đầu bùng lên khi ngọn lửa cuồn cuộn lướt qua, cả một con sông lửa màu trắng gầm rú. Từng kiện bông bén lửa bung ra khi khoảng chứa sập xuống. Jack hốt hoảng nhìn lên, một tiếng kêu nghẹt trong cổ họng ông. Những kiện bông khổng lồ từ trần chứa đang phụt lửa như những ánh sao lửa đe dọa tàn phá. Và Edwin bị kẹt ngay phía dưới. Không làm dự hoặc nghĩ tới bản thân mình, Jack chồm lên người cậu bé, lấy thân mình che cho Edwin. Một kiện bông cháy rơi trúng lưng Jack. Jack cố nuốt một tiếng thét chực buột ra khỏi họng mình. Đau đớn xé rách người ông, lửa lập tức bắt vào quần áo ông và bắt đầu đốt đã thịt ông cháy xèo xèo. Ông vùng vẫy mãnh liệt để hất kiện bông ấy đi, vai ông lắc mạnh, chân đá tứ tung. Với một cố gắng phi thường, ông hất được một phần ra khỏi vai. Và với một sức mạnh tuyệt vọng của sức lực giảm đi một cách rõ rệt, kiện bông lăn sang một bên. Jack chồm lên, ngạt thở vì khói ông đã hít phải. Ông mặc kệ cơn đau như xé và quần áo đang bốc cháy, dùng cả hai tay mạnh mẽ của mình giật mạnh chiếc vòng. May thay, vì trước đó ông đã làm lỏng được nó ra nên bây giờ nó bật ra ngay, Edwin lồm cồm đứng lên mặt anh trắng bệch re vì sợ cũng như đau đớn cho người cứu mạng anh một cách dũng cảm và đầy vị tha như vậy.

Vừa ho, vừa nhổ, hai người lảo đảo ra khỏi nhà kho mà phần mái trung tâm đã đổ rụi. Jack loạng choạng ngã co quắp xuống đất, quằn quại vì đau đớn, ngực phình lên, không thở được. Edwin cũng ho sặc sụa, anh hít lấy một ít không khí trong lành hơn, cởi áo vét của mình ra rồi lấp nó dập lửa ở quần áo đang bốc cháy của Jack.

Adam Fairley cùng Wilson đang chạy lao qua sân miệng thét ra lệnh cho độ mươi người đang chạy theo. Ông kinh hoàng khi nhìn thấy quần áo đang cháy bùng bùng của Jack Hecto và những cố gắng vô vọng của Edwin để dập tắt ngọn lửa. Ông tuột áo vét ra gọi Wilson mang những xô nước lại là lấy những túi kia.

Với sự nhanh nhẹn vào tháo vát kì lạ, Adam ném chiếc áo vét của mình vào chiếc áo sơ mi đang bốc cháy của Jack, giật lấy chiếc áo vét của Edwin, quấn chung quanh chân Jack. Ông lấy những chiếc túi Wilson ném cho ông quấn quanh người Jack, không chú ý tới ngọn lửa đang đốt cháy hai bàn tay ông. Wilson mang hai xô nước chạy tới, cùng những người khác xách xô theo sau. Adam và Wilson đổ nước lên người Jack cho ông đỡ nóng và dập lửa cho đến khi nó tắt hẳn chỉ còn lại quần áo cháy th2nh than và những chiếc bao bám vào Jack đang nằm bất động và hình như không còn sự sống.

Adam quỳ xuống bắt mạch Jack. Nó yếu nhưng vẫn còn nhịp đập. Jack nhìn lên Adam, một vẻ mờ đục trong đôi mắt ngầu đỏ của ông. Ông chớp mắt. Một tiếng rên nhỏ phát ra khỏi miệng trước khi ông hôn mê vì bị choáng vì những cơn đau làm bỏng nặng.

Adam đứng lên, lắc đầu một cách lo lắng.

- “Mang ông ấy đến phòng tôi, nhè nhẹ tay vào!”. Adam quát bảo hai người công nhân, ông liếc nhìn Edwin đang loanh quanh bên cạnh: “Con có sao không?”

- “không, ba ạ. Quần áo con bị cháy một chút”. Edwin trả lời trong cơn ho làm rung chuyển toàn thân anh. “Và phổi con đầy khói khủng khiếp này. Nhưng chỉ có thế thôi”.

- “Vậy là con đủ sức để phi ngựa đến Clive Malcolm, bảo ông ấy là Jack Harte bị bỏng nặng. Nói ông ấy tới đây ngay lập tức!”.

Edwin đứng lên như trời trồng. Anh câm lặng há hốc miệng nhìn cha, đột nhiên, hình như anh chợt hiểu.

- “Khỉ chưa kìa Edwin! Đừng đứng đó như thằng ngây nữa!”, anh quát lên một cách giận dữ, “Nào, tính mạng của ông ấy đang nguy hiểm, ông ấy cần phải được chữa chạy ngay!”.

- “Thưa ba, vâng”. Anh lại nhìn Adam rồi quay lại nhìn thân thể của Jack đang được khiêng đi. “Ông ấy đã cứu mạng con”, anh nói lặng lẽ, “Kiện bông hẳn đã rơi vào con nếu ông ấy không nằm đè lên con!”.

- “Thôi được rồi, Edwin, được rồi! Ba hiểu!”. Adam nói một cách thiếu kiên nhẫn. “Ba hiểu con nói gì, nhưng chúng ta sẽ nói chuyện ấy sau. Nào, bây giờ, vì Chúa, hãy làm như lới ba bảo, hãy tới chỗ Clive và phi ngựa hết tốc lực. Thời gian là vô cùng quí giá. Hãy nói với Clive là việc cực kỳ khẩn cấp”.

- “Vâng, thưa ba”, Edwin nhảy lên yên ngựa và phi ra khỏi sân nhà máy, một ý nghĩ duy nhất xuyên vào trí não của anh với một sự rõ ràng buốt nhói: “cha của Emma đã cứu mạng anh”.

Adam lúc này mới hướng sự chú ý vào nhà kho đang bốc cháy, ông đã có viễn kiến mua một máy chữa cháy nhỏ bằng hơi mấy năm trước đề phòng sự khẩn cấp như thế này. Mười người đã kéo nó ra khỏi nhà chứa đồ. Than để cho vao máy đang cháy hồng, họ khéo léo lắp hai vòi vào máy nước. Tất cả các công nhân khác kể cả những kẻ không công ăn việc làm cũng kéo đến chật cả sân. Trong số đó có Frank Harte, cậu đã không được chứng kiến tai nạn của cha. Dưới sự điều khiển của Wilson, nhóm này được xếp thành một dây chuyền từ sân nhà máy tới bờ sông Aire, , chuyển những xô nước đầy tiếp nối, cứ thế mãi cho đến khi cánh tay họ đau nhói. Adam tự điều khiển và hoàn toàn làm chủ được tình thế. Ông cùng làm việc với những người thợ, lòng thầm cảm ơn những người Yorkshire ngoan cường tiếp tục nhiệm vụ của mình với đầu óc bình tĩnh và lòng dũng cảm phi thường trước sự khẩn cấp bất ngờ và nguy hiểm này.

Đột nhiên, gió đổi chiều. Adam thở dài khoan khoái rồi rên lên, đau buốn hiện trên nét mặt khi ông thấy một phần của mái nhà cháy đổ rụi vào một bãi cây nhỏ dẫn ra phố chính. Giờ đây, với sự thay đổi chiều gió, bãi cây này có thể nguy hiểm.

- “Wilson, đưa thêm một số người nữa đến cho tôi”. Adam thét gọi. “Họ phải giải quyết bãi cây kia ngay lập tức! Cây sẽ bắt lửa nếu chúng ta không cẩn thận. Gió đang thổi tạt lửa về phía đó”.

- “Nhưng chính nhà máy đang…”. Wilson bắt đầu nói.

- “Kệ xác nó! Cứ làm theo lời tôi nói. Lúc nào, tôi cũng có thể xây dựng lại được nhà máy. Nhưng còn phụ nữ và trẻ con ở những ngôi nhà kia. Nếu cây bị bắt lửa thì ngọn lửa sẽ lan vào làng ngay”.

Wilson phái 5 người tới chỗ Adam, ông khẩn cấp đưa họ sang một bên. Ông nói nhanh nhưng rõ ràng:

- “Lấy một ít rìu trong nhà đổ ra chỗ bãi cây kia. Chặt sát đến tận đất, dọn một khoảng đất trống trước đám cháy để cho tàn hỏa có bay đến sẽ rơi vào khoảng trống đó và sẽ bị dập tắt nhanh chóng. Rồi kiếm những xô nước giột lên tất cả các cây. Chúng ta phải ngăn chặn lửa lan ra bãi cây bằng mọi giá”.

Năm người gật đầu đồng ý, lặng lẽ tản đi lấy rìu và xô nước. Họ bắt đầu làm việc ở bãi cây ngay. Trong khi đó, Adam vội vã quay lại chỗ Wilson đang trông coi việc phun nước vào nhà kho. Dưới sức nước, ngọn lửa bắt đầu lụi dần và gió đổi chiều. Bây giờ, nó đã tương đối có thể khống chế được.

Adam lấy khăn tay lau bộ mặt đẫm mồ hôi và loang lổ khói. Đoạn ông quay ngoắt lại khi nghe thấy tiếng bánh xe lăn vào trong sân. Clive Malcolm xách túi nhảy ra trước khi xe kịp dừng hẳn. Ông ném dây cương cho Violet, vợ ông đi cùng ông. Edwin cho ngựa chạy nước kiệu vào sân liền sau.

Adam đau khổ chỉ tay vào nhà trong:

- “Harte bị nặng lắm, Clive ạ. Anh hãy làm hết sức cho”.

- “Còn ai bị thương nữa không?”. Clive hỏi to trong khi ông lao qau sân.

- “Chỉ vài người bị bỏng nhẹ và một người bị mảng trân rơi trúng. Nhưng theo chỗ tôi biết thì không có gì là trầm trọng cả. Hãy xem cho Harte trước đã. Edwin, con đi cùng với bác sĩ và bà Malcolm. Xem xem con có thể làm gì để giúp đỡ họ”.

Adam ho. Phổi ông đầy khói, ông thấy buồn nôn. Ông nhìn ra phía bãi cây một cách lo lắng. Những người công nhân đã có những tiến bộ tốt và đã ngăn được lửa khói khói lan rông. Mặc dù những bụi cây vẫn còn bốc cháy nhưng những cây dẫn tới làng không việc gì. Những tàn lửa bay lên không, rơi xuống bãi trống đã được chặt hết cây đúng như Adam đã dự đoán trước. Chúng đã được tưới nước nhanh chóng bằng những xố nước chuyền liên tục.

Khi ông nhìn chung quanh, ước lượng thiệt hại đối với nhà kho, Adam dần dần nhận ra rằng gió đã bất ngờ lặng. Ông ngước nhìn lên trời:

- “Khỉ thật, tại sao không mưa?”.

Ông lẩm bẩm. Ông lại nhìn lên bầu trời mây phủ và cầu nguyện thầm, Wilson vội vã tiến lại chỗ ông:

- “Tôi nghĩ chúng ta đã dập được lửa, thưa ông chủ. Nhà máy không còn nguy hiểm nữa”. Vừa nói, Wilson vừa nhìn Adam, một nụ cười nở rộng trên khuôn mặt đầy bụi bẩn. “Thưa ông, tôi nghĩ sắp mưa rồi, lạy Chúa, thưa ông, tôi vừa thất một giọt”.

Và Wilson đúng. Trời mưa thật. Lần đầu tiên trong đời, Adam Fairley đón mừng nạn hồng thủy bắt đầu tuôn từ trên trời xuống như những dòng thác làm họ ướt sũng, làm tắt ngâm ngôi nhà kho còn âm ỉ và những bụi bậm ở bãi cây. Những người thợ ngừng tay, tất cả mọi người quay về phía Adam. Mọi người đồng thanh reo hò thắng lợi.

- “Tất cả chúng ta vẫn khó chịu, phàn nàn về thời tiết ở miền đồng hoang này, thưa ông chủ, nhưng cái trậnmưa này đúng là món quà tặng của Thượng Đế”. Eddie, một người đốc công hét lên. Adam mỉm cười:

- “Tôi cũng không thể nói khác hơn thế được, Eddie ạ”.

Eddie lúc này đã đến gần chỗ Adam đang đứng cùng với Wilson:

- “Thưa ngài, cho phép tôi lên thăm ông bạn Jack Harte của tôi, tôi có thể giúp ích đôi chút cho ông bác sĩ”.

- “Ừ, Eddie, anh di di. Tôi cũng vào bây giờ”. Adam để tay lên vai Wilson. “Tôi nghĩ bây giờ anh có thể lo liệu ở đây. Nhìn trời thì thấy đấy không phải là cơn mưa mùa hạ thoáng qua đâu”.

- “Thưa ngài, tôi đồng ý. Tôi sẽ cho người chuẩn bị câu liêm và thang. Chúng ta có thể dọn dẹp đống hỗn độn này đôi chút.”. Wilson liếc nhìn cảnh đổ nát cháy thành than của nhà kho vẫn còn âm ỉ và bốc khói dưới cơn mưa như thác. “Thưa ngài, chúng ta may, đúng là may”.

Adam gật đầu:

- “Tôi sẽ nói với anh về chuyện này sau, Wilson”. Đôi mắt ông nheo lại. “Trước hết, tôi lấy làm ngạc nhiên sao chuyện này có thể xảy ra”.

Wilson nhìn lại sắc mặt lạnh lùng như thép của Adam nhưng không nói gì.

Trước khi vào khu nhà phụ, Adam triệu tập tất cả mọi người trước cảnh đổ nát hoang tàn:

- “Tôi xin cảm ơn các anh em đã hăng hái bắt tay vào việc vừa rồi một cách đầy hiệu quả, bình tĩnh. Và cũng đầy dũng cảm. Sẽ có thưởng cho tất cả anh em vào kỳ lương tuần tới để thể hiện lòng chân thành biết ơn của tôi. Các anh em đã cứu nhà máy và nhân thể cả làng nữa. Tôi sẽ không quên điều này”.

Một số người cười, một số giơ tay chào, những người khác gật đầu. Tất cả đều lẩm bẩm cám ơn. Một người trong số họ tiến lên nói:

- “Chúng tôi không thể làm thế nào khác được, có phải vậy không thứ ngài? Nó cũng là nhà máy của chúng tôi nữa. Và thưa ông chủ, ngài cũng đã hành động không kém, nếu ngài cho phép tôi được nói như vậy. Tôi nghĩ tôi sẽ nói thay cho tất cả anh em ở đây rằng ngài là một chiến sĩ chân chính”.

Một nụ cười thoáng hiện trong mắt Adam:

- “Cám ơn anh, Alfie”.

Anh ta gật đầu và bước đi. Adam thấy Clive Malcolm trong văn phòng của mình, đang chăm sóc cho Jack Harte. Eddie đang đứng bên cửa sổ nói chuyện khe khẽ với Edwin.

- “Ông ấy ra sao?”. Adam hỏi từ bục cửa. Clive nhìn quanh và chau mày. “Không tốt, nhưng tôi nghĩ ông ấy sẽ bình phục thôi, Adam. Tất nhiên, ông ấy bị thương và bỏng nặng ở lưng, vai và đùi. Bỏng cấp ba. Tôi đang cố gắng làm cho ông ấy được thoải mái, sau đó, tôi phải chuyển ông ấy đến bệnh viện của thung lũng sớm chừng nào hay chừng ấy. Tôi sẽ phải cần đến chiếc xe ngựa lớn của anh, Adam, để có thể đặt ông ấy nằm thẳng. Tôi nghĩ Edwin có thể phi ngựa tới Hall và cho Tom Hardy đem xe lại ngay. Đây là một trường hợp hết sức khẩn cấp đối với Harte. Tôi không có đủ dụng cụ và thuốc men để có thể chữa chạy cho ông ấy một cách có hiệu quả. Tôi phải đưa ông ấy đến bệnh viện ngay”.

- “Tôi sẽ cho Edwin đi ngay”. Adam hướng về phía con trai ông. “Con đi đi và thật nhanh vào. Chúng ta không còn thì giờ nữa đâu”.

- “Còn những người khác đâu, Clive? Họ thế nào?”.

Violet đang băng bó cho họ trong văn phòng của Wilson. Họ không bị nặng lắm. Bị bỏng cấp một, có thế thôi. Một hai ngày gì đó, họ sẽ khỏi”.

- “Jack Harte liệu có sống được không?”. Adam hỏi, ông ngồi xuống sau bàn làm việc một cách mệt mỏi. Một vẻ nghiêm trang bao phủ lấy mặt ông.

- “Ừ, tôi nghĩ như vậy. Nhưng phải nói thành thật với anh, Adam à, cũng khó mà có thể nói trước được. Tôi không biết ông ấy có bị thương ở nội tạng hay không. Edwin nói với tôi là một trong những kiện bông lớn rơi vào Harte. Ông ấy cũng hít phải nhiều khói và sức nóng làm cháy phổi củ ông ấy. Tôi nghĩ một lá phổi đã bị bẹp rồi”.

- “Ôi, trời đất ơi”. Adam thốt lên và lấy tay che mắt. “Nghe anh nói không có vẻ gì là hy vọng lắm”.

- “Ông ấy là một người khỏe mạnh, Adam, tôi hy vọng chúng ta có thể cứu được ông ấy”. Clive mỉm một nụ cười thông cảm với Adam. “Cố gắng đừng lo nghĩ, bạn ơi. Xét cho cùng thì có phải lỗi của anh đâu. Anh may mắn vì thương vong ít như vậy”.

Adam thở dài:

- “Tôi biết, nhưng đáng lẽ là Edwin nằm ở trong tình trạnh như vậy cơ, Clive ạ. Ông ấy đã cứu mạng cho Edwin, anh biết không? Trước sự nguy hiểm cho chính tính mạng của bản thân mình, Jack Harte đã làm một hành động dũng cảm phi thường mà tôi sẽ không bao giờ quên. Ông ấy không hề biết sợ và vị tha”. Cặp mắt màu xanh biếc của Adam nheo lại, ông lắc đầu. “Không thể tìm được nhiều người như Jack Harte trong đời này đâu”.

Clive đứng thẳng người lên, ông nhìn Adam chăm chú và lặng yên:

- “Tôi biết. Ông ấy bao giờ cũng khác người một chút, phải không? Nhưng chúng ta sẽ chiến đấu cho ông ấy, Adam. Tôi hứa với anh điều đó”.

- “Tất cả những hóa đơn về thuốc men tôi sẽ chịu, Clive ạ, cho Harte cùng những người khác. Và hãy nói với bệnh viện, ông ấy phải có sự chăm sóc tốt nhất. Không tiếc một sự chi tiêu nào và đừng để ông ấy ở phòng bệnh chung. Tôi muốn một phòng riêng cho ông ấy và bất cứ cái gì ông ấy cần, ông ấy sẽ có”.

Có tiếng gõ nhẹ ở cửa.

- “Vào đi”.

Adam gọi to và một đứa trẻ đánh suốt, khắp người bụi bậm nhem nhuốc dứng ở lối vào một cách rụt rà. Adam ngạc nhiên nhìn cậu bé.

- “Chuyện gì thế con?”

Cậu bé do dự:

- “Cháu hỏi về ba cháu”, cậu nói, đưa mắt nhìn chỗ Jack, môi cậu run run, “ Có phải ba cháu… là ba cháu”. Giọng cậu run rẩy, nước mắt ứa ra.

Adam nhổm dậy, đi rảo bước ra san. Ông nhẹ nhàng dẫn cậu bé vào phòng, tay quàng qua hai vai cậu.

- “Thưa ngài, đó là Frank, con trai của Jack”. Eddie bước ra khỏi cửa sổ.

- “Nào, Frank”. Adam nói khẽ, tay vẫn ôm lấy hai vai cậu bé. Nước mắt ròng ròng xuống mặt Frank khi cậu đứng nhìn cha. “Cha cháu chết rồi à?”, cuối cùng, cậu mới thốt lên được trong một giọng nghẹn ngào.

- “Tất nhiên là không, Frank ạ”. Adam cam đoan với chú bé bằng một giọng nhẹ nhàng nhất. “Ông ấy bị thương nặng, bác không nói dối cháu điều ấy. Nhưng bác sĩ Mac đã làm cho ông ấy hết sức thoải mái, và ngay khi xe ngựa của bác tới, chúng ta sẽ đưa ông ấy đi bệnh viện ở thung lũng. Ông ấy sẽ được chăm sóc thuốc men tốt nhất”.

Adam rút khăn lau nước mắt trên mặt Frank.

- “Nào, bây giờ cháu phải dũng cảm lên và cháu không được lo lắng, cha cháu chẳng bao lâu nữa sẽ đỡ”.

Frank ngước nhìn Adam một cách lo lắng:

- “Thưa ngài, ngài có chắc thế không? Ngài không nói dối cháu chứ?”.

Adam mỉm cười nhân hậu:

- “Không, bác không nói dối cháu đâu, Frank. Bác nói thật với cháu đó”.

- “Ba cháu đang nằm nghỉ thoải mái”, Clive nói chen vào, “và ngay sau khi bác đưa ba cháu vào bệnh viện, các bác sĩ có thể điều trị được cho ông ấy đâu vào đấy”.

Frank hết nhìn Adam lại đến Clive một cách ngờ vực, cậu sụt sịt và cố nén tiếng khóc. Cậu yên lặng và nghĩ ngợi một lúc rồi nói với Edddie:

- “Cha cháu sẽ khỏi, phải thế không, Eddie?”, cậu thì thào.

Eddie bước lên một bước, cố gượng một nụ cười trên khuôn mặt dài thuỗn:

- “Ừ, đúng, cháu ạ. Ba cháu sẽ đỡ! Cha cháu là người khỏe mạnh. Thôi, cháu đừng lo lắng! Nào, chú sẽ đưa cháu đến dì Lily của cháu”.

Eddie liếc nhìn Adam thật nhanh, ông gật đầu xác nhận. Adam vỗ nhẹ vai Frank:

- “Cháu hãy đi cùng Eddie, Frank. Bác sĩ sẽ đến thăm cháu sau”. Adam nhìn Frank, ông đột nhiên quan tâm: “Cháu có làm sao không? Cháu không bị thương chứ?”.

- “Thưa ngài, không”. Frank sụt sịt trả lời.

- “Thế thì được, cháu đi đi. Cám ơn Eddie vì tất cả sự giúp đỡ của anh. Tôi đánh giá cao sự giúp đỡ này”.

- “Thưa ngài, tôi chỉ làm hết sức mình”. Eddie nói và mỉm cười. “Tôi sẽ đưa cháu bé tới dì cháu. Chị ấy sẽ chăm sóc cháu”.

Eddie nắm lấy bàn tay Frank, bóp chặt an ủi, hai người đi. Eddie nói những lời dỗ dành Frank.

- “Tôi nghĩ có lẽ phải đến văn phòng của Wilson để thăm những người khác, anh Clive ạ. Tôi muốn cám ơn họ và biết chắc họ đang được dễ chịu thoải mái”. Adam nói.

- “Để Violet xem hai bàn tay của anh, Adam”. Clive nói một cách kiên quyết. “Trông có vẻ hơi lôi thôi đấy”.

Buổi chiều hôm đó, Adam đi đi lại lại trong thư viện ở Fairley. Ly rượu soda cầm trong bàn tay bị băng bó, vẻ tư lự trên nét mặt ông. Wilson vừa tới, anh ngồi trên chiếc ghế chestersfield theo dõi ông lặng lẽ uông whiskey.

Cuối cùng, Adam thôi không đi đi lại lại nữa và ngồi xuống chiếc ghế đối diện. Ông châm một điếu cigar, hút một hơi rồi nói:

- “Wilson, anh nghĩ ngọn lửa bắt đầu ở nhà kho như thế nào? Nó nổi lên quá đột ngột và cháy quá nhanh. Tôi không thấy đích xác chút nào. Trước đó tôi có hỏi Edwin, nó nói những thùng lồng bằng gỗ bốc cháy dữ dội khi nó mở cửa và những kiện bông đầu tiên đã bắt đầu bén lửa. Tôi cho rằng những tàn lửa có thể đã bắt vào len và gió lùa từ ở cửa quạt làm bùng ngọn lửa. Nhưng đó vẫn là một điều bí ẩn đối với tôi. Anh có ý kiến gì không?”

Wilson im lặng, môi anh mím chặt, vẻ mặt anh rât nghiêm trang. Anh thở dài và nhìn thẳng vào Adam:

- “Thưa ngài, tôi có thể đoán nhưng no không được hợp lý lắm”.

Adam nghiêng người nhìn Wilson chăm chú:

- “Anh nói đi, Wilson. Rõ ràng, anh có suy nghĩ chuyện này, cũng như tôi đã nghĩ suốt cả buổi chiều”.

Wilson cau mặt:

- “Có thể là một vụ đốt nhà”.

- “Đốt nhà?”. Adam quá kinh hoàng đến nỗi ông giật mình ngồi dậy, dằn chiếc ly xuống bàn cái rầm. “Ồ, Wilson, điều đó không thể được. Chắc chắn là không thể được!”

- “Vâng, thưa ngài. Len sống không dễ cháy dễ dàng như thế được, nhưng gỗ thì được. Tôi cũng nói với cậu Edwin, cậu ấy cũng nói với tôi như vậy- những thùng bông cháy bùng bùng. Một chút Parafin trên một trong những kiện len đó đã thấm vào len”. Wilson ngừng lại, nhìn xuống ly rượu và thở dài. “Thưa ngài, nó hẳn đã trở thành một sự tàn sát khủng khiếp sáng nay nếu gió không đổi chiều và mưa không bắt đầu trút xuống. Nên chúng ta mới chỉ bị cháy ở nhà kho một phần và đã khống chế được”.

- “Nhưng tại sao?”. Adam chất vấn, ở vẫn còn choáng váng vì những lời nói của Wilson. Wilson do dự và nhấp whiskey. Và anh nhìn vào mắt Adam.

- “Trả thù”.

- “Trả thù! Trả thù cái gì? Trả thù ai? Tôi đã quá tử tế với anh em công nhân mấy năm qua. Chắc anh nói đùa”.

Wilson đã suy nghi đến lý làm của vụ hỏa hoạn mấy tiếng đồng hồ, anh chọn chữ một cách cẩn thận. Anh biết phải nói gì, nhưng anh cảm thấy phải diễn đạt những ý kiến của mình theo kiểu nói ngoại giao nhất có thể được. Anh hắng giọng:

- “Thưa ngài, năm qua ngài đã không có mặt ở nhà máy nhiều, vì ngài đã đi du lịch, vân vân. Các anh em thợ không tiếp xúc với ngài. Và những khi ngài có mặt ở đây, những cuộc viếng thăm của ngài cũng ngắn ngủi…”

- “Đi vào vấn đề đi, Wilson! Anh nói là trả thù. Tôi muốn biết như vậy là thế nào.” Adam buông thõng. Wilson hít một hơi:

- “Tôi nghĩ hỏa hoạn được gây nên là cố ý vì cậu chủ Gerald”.Adam cứng người, mắt ông mở to:

- “Gerald? Nó làm gì trong khi tôi đi vắng? Trời, Wilson, tôi sẽ lột xác nó ra nếu như nó chịu trách nhiệm về việc này. Tôi sẽ lột đã sống nó”.

Wilson hắng giọng lo ngại:

- “thưa ngài, cậu chủ Gerald là một người làm việc chăm chỉ. Tôi là người thứ nhất nói như vậy. Và cậu ấy yêu nhà máy giống như ông cụ của ngài. Nhưng mà cậu chủ Gerald- vâng thưa ngài, cậu ấy không biết cách đối xử với mọi người. Hầu hết mọi người cười, quay đi, không chú ý gì đến cậu ấy cả và tiếp tục công việc của họ. Nhưng có một nhóm nhỏ quá khích trong nhà máy. Những kẻ gây rối trong một chừng mực nào đó, có thể thể nói như vậy. Những người thuộc đảng Lao động, thưa ngài. Vâng, họ bực tức thái độ của cậu Gerald đối với họ”.

- “Anh cứ nói toạc ra đi, Wilson”. Adam nói một cách nghiêm khắc, sự giận dữ của ông quá rõ rệt.

- “Đó là cái cung cách của cậu ấy, như tôi đã nói”. Wilson vừa trả lời vừa châm một điếu Woodbine. “Cậu ấy đốc thúc, dồn đẩy mọi người, vung roi vọt. Và khi họ đề nghị cậu ấy một chút nhượng bộ đơn giản, chẳng hạn như nghỉ uống trà lâu hơn một chút thì cậu ấy đuổi họ đi…”

- “Chắc là anh nói đùa! Anh không nghĩ rằng tôi có thể tin được một vụ hỏa hoãn gây ra chỉ vì Gerald từ chối không cho họ nghỉ uống trà dài hơn. Như vậy nó lố bịch và thật nực cười, Wilson”. Adam nổi giận, sự tự chủ thường nhật của ông thoáng biến mất.

- “Không, thưa ngài, không phải chỉ riêng chuyện đó, mà còn vì vô số thứ khác chồng chất mấy tháng qua. Đúng là những chuyện nhỏ thôi, nhưng tôi biết một số thanh niên gần đây rât tức giận vì sự hống hách, quát nạt của cậu Gerald, tính tình của cậu ta, vân vân”. Giọng nói của Wilson kéo dài.

Adam thở dài nặng nề, ngả người trong ghế, mắt ông nhìn Wilson một cách trầm tư:

- “Và như vậy, anh nghĩ là một số người trong bọn họ nổi lửa để trả thù”. Adam ngước lên, đôi mắt ông thăm thẳm hơn bao giờ hết. “Nhưng đó chỉ là một hành động vô ích, Wilson, bởi vì bản thân nhà máy vẫn có thể tiến lên và họ có thể bị sa thải hàng tuần chỉ được hưởng nửa lương”.

- “Vâng, tôi biết. Chính tôi cụng đã cân nhắc sự thật đó”. Wilson nhượng bộ một cách mệt mỏi. “Nhưng tôi nghĩ một đám cháy nhỏ có thể khơi lên để gây ấn tượng. Tôi không cho là họ nghĩ rằng nó lại bùng ra như thế. Tôi cũng không nghĩ như thế. Thưa ngài, chắc ngài hiểu tôi muốn nói gì. Nổi một ngọn lửa nhỏ, phá hủy một vài kiện len. Như tôi nói, để gây ấn tượng. Làm chậm sản xuất, gây ra một chút khó khăn, khiến chúng ta phải ngồi đây và chú ý”.

- “Những kẻ thủ phạm?”. Adam trừng mắt nhìn Wilson hỏi.

- “Vấn đề chính là ở chỗ đó, thưa ngài, tôi không thể chỉ ngón tay vào ai hết. Cái nhóm người tôi nhắc đến đều có mặt ở nhà máy sáng nay và tất cả đều tham gia như điên, quả là như thế”. Wilson kìm lại không nói thêm ba người kích động hung hăng nhất chống lại Gerald Fairley không có mặt ở đó hôm ấy. Chính anh sẽ giải quyết sau với họ. Bởi vì anh tin đây là vụ cố ý đốt nhà và anh cũng chắc rằng những người vắng mặt là những người đốt. Anh sẽ đem nỗi sợ Chúa để trong lòng họ. Anh cũng cầu nguyện Adam Fairley sẽ làm như vậy đối với con trai ông.

Adam tư lự, suy nghĩ những lời nói của Wilson, rồi ông nói:

- “Những điều anh vừa nói thực sự không có mấy ý nghĩa. Tại sao họ lại đốt lửa rồi lại tự để lộ? Như vậy là quá điên rồ”.

- “Thì tôi đã nói với ngài rồi, tôi nghĩ họ gây hỏa hoạn là để dọa một chút, có thế thôi. Không ngờ nó lại bùng lên ghê gớm như vậy”.

Adam lúc này yên lặng, nỗi căm giận Gerald sôi sục trong lòng ông. Ông cố gắng trấn tĩnh lại để suy nghĩ được rõ ràng. Những điều Wilson có ý nghĩa- tới một chừng mực nào đó. Len sống vì nó có dầu nên lúc đầu âm ỉ chứ chưa bùng lên. Sau đó, dầu Parafin có thể được đổ vào một trong những cuộn len. Người nhóm lửa chắc hẳn nghĩ là một phần của nhà kho và một vài kiện hàng sẽ bị hư hỏng.

“Lũ điên rồ!”. Ông nghĩ một cách tức giân. “Đồ điên rồ ngu xuẩn!”

Nhà kho rất dễ bắt lửa bởi vì nó được ghép bằng gỗ. Họ không nghĩ tới hậu quả của những hành động vô trách nhiệm ấy. Họ không nhận ra sự nguy hiểm cho tất cả các toà nhà của nhà máy và cả làng nữa.

- “Được lắm, Wilson, tôi chấp nhận sự giải thích của anh. Lời đoán của acan là đúng”. Cuối cùng, Adam nói, mặt ông căng thẳng. “Và vì những người của nhóm Cấp Tiến anh vừa nhắc tới đều tham gia làm việc sáng nay, chúng ta không thể buộc tội gì hết, có phải thế không?”.

- “Vâng, thưa ngài!”. Wilson trả lời hăm hở. “Chúng ta không thể. Chúng ta không dám. Trước hết là chúng ta không có chứng cớ và cung cách mọi người làm việc để giúp dập tắt đám cháy- lạy Chúa, thưa ngài, họ sẽ phản đối chính đáng chuyện đó, họ sẽ làm như thế. Vả lại, công nhân sẽ đoàn kết lại. Họ sẽ đình công, tôi đảm bảo như vậy, nếu chúng ta cứ tiếp tục nói tới tôi cố ý gây ra hỏa hoạn”.

Wilson gật đầu một cách nghiêm trọng cô hắng giọng:

- “Thưa ngài, có lẽ ngài nên nói một vài lời với cậu Gerald khi cậu ấy ở Shipley về ngày mai, nếu ngài cho phép tôi được gợi ý như vậy. Ngài hãy dặn cậu ấy nên cẩn thận trong cách ăn nói, đối xử với anh em”.

- “Ồ, tôi cũng định như thế, Wilson. Thật sự mà nói, nó sẽ nhận một trận ra trò xưa nay chưa từng có. Hãy tin tôi, nhất định nó sẽ biết tay”. Adam tuyên bố, nỗi bực tức của ông lại ngùn ngụt bốc lên. “Tôi không bao giờ có thể ngờ được nó lại dám thách thức những lời dặn dò của tôi trong việc đối xử với anh em thợ”.Một lát sau. Ông dịu giọng. “Trong thời gian này, chúng tanh có một vấn đề tối hệ trọng phải làm… nguồn cung cấp, tất cả các kiện len trong nhà kho đều bị phá hủy sạch, như anh biết đó. Chúng ta còn bao nhiêu len khô trong nhà kho kia?”

- “Đủ cho hết tháng này, chắc vậy, thưa ngài”. Wilson trả lời. Óc anh làm việc nhanh, điểm lại nguồn cung cấp và những đơn đặt hàng của họ. Anh bập tẩu thuốc. “Chúng ta có một tàu của mcgill từ Úc tới trong vòng hai, ba tuần nữa, lạy Chúa. Tôi nghĩ chúng ta có thể xoay sở đủ cho đến khi đó”.

- “Anh hãy cố gắng hết sức, Wilson. Sáng thứ hai, anh hãy bắt tay vào công việc đó ngay. Tôi cũng sẽ đến sớm và chúng ta có thể tính toán xem. Anh hãy xây ngay một nhà kho mới. Dùng gạch, đừng dùng gỗ. Và cũng đặt một máy cứu hỏa nhỏ nữa. Tôi không dự tính trước một sự lập lại của thảm họa này, nhưng chuẩn bị cho tất cả mọi sự bất trắc bao giờ cũng đều khôn ngoan. Như anh nói đó, lần này, chúng ta may bởi vì sự thay đổi của khí hậu”.

- “Không, tôi không nghĩ nó sẽ xảy ra một lần nữa, thưa ngài”. Wilson nói quả quyết chắc chắn đến nỗi Adam phải liếc nhìn anh nhưng không nói gì. Wilson không để lọt phản ứng của Adam. Anh nói tiếp giọng bình thường hơn. “Nhưng ngài nói đúng. Tốt hơn hết là phải có những dụng cụ đề phòng hỏa hoạn, ngộ nhỡ ra… Thưa ngài, tôi đang nghĩ, nếu ngài đồng ý, sáng mai tôi sẽ xuống nhà máy và bắt đầu kiểm tra hàng hóa. Như vậy sẽ tiết kiệm được thời gian”.

- “Ý nghĩ rất hay, anh Wilson, nếu anh không ngại làm việc ngày chủ nhật. Tôi cũng sẽ có mặt ở đó và chúng ta sẽ cùng làm việc”.

- “Vâng, thưa ngài”, Wilson ngừng lại. Đôi mắt anh lấp lánh ranh mãnh sau cặp kính. “Và ngài sẽ nói chuyện với cậu Gerald chứ ạ?”, anh thúc giục.

- “Cứ yên trí, tôi sẽ làm điều đó, không còn nghi ngờ gì nữa”. Adam đứng lên. “Để tôi rót thêm cho anh, Wilson”.

- “Cám ơn ngài. Trước khi lên đường, tôi không từ chối”.

Trong khi Adam rót rượu, một ý nghĩ nảy sinh ra một cách hết sức vững chắc: Wilson biết nhóm có tội này là ai nhưng rõ ròng là anh không muốn lộ họ vì những lý làm riêng của anh, mà rõ ràng là những lý làm lành mạnh. Thì cứ để như thế, Adam tự nhủ. Ông tin Wilson có thể giải quyết được họ một cách thỏa đáng. Ông sẽ giải quyết với Gerald. Miệng ông mím lại khi ông nghĩ tới đứa con lớn. Thằng ngu, nó làm hỏng tất cả những điều tốt đẹp mà ông đã cố gắng đạt được. Chống đối lạ những người làm công, không những là một biểu hiện của sự kém suy xét mà còn là một hành động ngu xuẩn. “nhưng đó cũng là lỗi của mình”, ông thừa nhận. “Mình đã buông cho nó sợi dây quá dài và việc mình vắng mặt liên tục là không tốt. Mình sẽ phải ở Fairley nhiều thời gian hơn”. Ông quyết định.

Nhưng còn Olivia. Ông thấy không thể cách biệt nàng. Nàng đã trở thành toàn bộ lý làm cho sự tồn tại của ông. Tảng đá trên đó cuộc đời ông được dựng lên. Ông nhận ra một cách buồn bã là ông phải chú ý hơn đến nhà máy. Điều này, không còn ai nghi ngờ gì nữa là điều ưu tiên hơn tất cả những việc khác. Có lẽ ông sẽ thuyết phục được Olivia tới Fairley. Nàng sẽ hiểu. Cái thằng khốn kiếp ấy! Một vẻ ghê tởm thoáng trên nét mặt ông khi ông nghĩ tới Gerald và những biện pháp ông phải áp dụng với nó. Gerald là một thằng đi hà hiếp người và vì thế mà cũng là một tên hèn nhát. Nó sẽ phải tuân theo mệnh lệnh. “Lạy Chúa, nó sẽ phải tuân theo!”. Adam lẩm bẩm.

Ông tự trấn tĩnh mang ly rượu trở lại cho Wilson:

- “Tôi mong bác sĩ Mac trở lại đây. Tôi hết sức lo lắng cho Jack Harte”. Adam nói và trao cho Wilson một ly whiskey.

- “Vâng, thưa ngài, tôi cũng thế. Nhưng Harte là một người chiến đấu. Anh ấy sẽ qua khỏi”.

Adam thở dài:

- “Tôi cũng hy vọng là anh đúng, Wilson. Thành thật như thế. Tôi không bao giờ trả được món nợ ông ấy đã cứu mạng cho Edwin”.

Con vịt nhốp nhúa đây rồi", người thợ hàn vừa nói vừa giật dây cương cho chiếc xe ngựa dừng lại ở đường Ioóc và chỉ ngón tay to bè, còn vấy bẩn vào quán trọ.

- "Nhưng biển đề là Thiên nga đen", Emma thốt lên, cô đọc tên trên biển đung đưa trong gió. Xác nhận những chữ đó là bức tranh của con thiên nga bằng gỗ mun, cố uốn cong lên một cách kỳ quặc đến nỗi không thể là một biểu hiện của một con chim thanh nhã.

Vợ của người thợ hàn, tóc xoắn tít, mặt đen đủi, nhăn nhúm hét toáng lên trước sự ngạc nhiên của Emma.

- "Ấy, con bé, ở Leads này người ta gọi con Thiên nga đen là thế đó. Con vịt nhốp nhúa. Cô không hiểu à?". Chị ta lại quàng quạc cái mồm phơi mấy cái răng vàng óng ánh như đôi bông tai, tòng teng buông xuống dưới chiếc khăn quàng đỏ và trắng thắt lên mái tóc Digan của chị ta.

- "Vâng, em hiểu", Emma nói với một nụ cười vui vẻ. Cô ôm chặt chiếc túi lưới và trèo xuống xe một cách cẩn thận. Người thợ hàn đưa cho cô chiếc vali lớn bằng da mà Etwin đã để vào phòng cô hôm qua cùng với năm pao. Cô nhìn lên người thợ hàn và bà vợ người Digan của ông ta, nói một cách long trọng, hết sức lịch sự: "Cám ơn anh rất nhiều đã cho em đi nhờ suốt từ Shipley đến đây. Anh thật tốt bụng quá."

- "Kìa, cô bé, không có gì là phiền cả." Người thợ hàn nói một cách tử tế. "Rất sung sướng được giúp đỡ một thiếu nữ xinh đẹp như cô". Anh giật dây cương và chiếc xe lọc cọc chuyển bánh, nồi niêu xoong chảo va vào nhau kêu leng keng cùng với những chiếc bánh xe cũ kỹ theo nhịp lóc cóc lóc cóc. Vợ của anh thợ hàn quay nhìn lại, hét lớn: "Chúc thật nhiều may mắn ở Leads này nhé, cô bé xinh đẹp". "Cám ơn", Emma hét to, giơ tay vẫy chiếc xe đi khuất dần. Cô đứng bên ngoài quán một lúc rồi xách valy lên, hít một hơi dài, đẩy những cánh cửa bằng gỗ nặng trịch, cánh cửa phía trên lắp kính mờ có hình hoa văn những bông huệ và những con thiên nga. Cô lập tức thấy mình trong một lối đi hẹp và tối sặc mùi chua, khói thuốc lá và mùi khí đốt từ những vòi phun trên tường dán giấy mầu nâu càng làm tăng thêm không khí ngăn cách, mặc dù có những luồng khí đốt toả ra, nhưng không có vẻ gì mời mọc hết.

Emma nhìn quanh một cách tò mò. Một cáo thị được in một cách cẩn thận đính trên tường bằng chữ to: Cấm phụ nữ quàng khăn ở đây!. Cô thấy hình như đó là một điều báo trước không hay. Tường đối diện là một bức hoạ gớm ghiếc một con bò mộng đang tấn công đặt trong một cái khung mạ cũng xấu xí như thế. Emma rùng mình, con mắt phê phán của cô khó chịu vì sự ghê tởm xấu xí của nó. Phía trước mặt cô là một hàng cửa bật ra bật vào cũng lắp kính mờ, cô vội vã bước lên đi qua chúng. Emma đứng ở lối vào cửa, trước đây hẳn là quầy rượu chính. Nó được thắp sáng và rõ ràng là vui tươi hơn nhiều, giấy dán tường màu sắc rực rỡ, in màu nâu đen hấp dẫn, một chiếc dương cầm kê ở một góc. Quầy rượu vắng không ngoài hai người đàn ông đang tựa lưng vào tường uống những vại bia đang sủi bọt, trò chuyện thân mật với nhau. Con mắt sắc sảo của Emma nhìn khắp chung quanh, không bỏ lỡ một cái gì. Hai phòng kia mở ra quầy rượu chính. Biển treo trên lối đi dẫn tới một phòng đề Saloon bar, phòng kia đè rượu. Trong phòng rượu, cô nhìn một người làm công đang chơi trò ném phi tiêu, hai ông già ngồi ở một bàn đang mê mải chơi domino, những ống điếu bằng đất sét gắn lấy bộ răng ám khói thuốc của họ, khói cuộn chung quanh. Emma liếc nhìn vào giữa quầy rượu, mấy chiếc gương lớn treo trên tường phía sau, mỗi chiếc làm tăng thêm giá trị của rượu bia Tetley và những loại bia khác của địa phương bằng chữ màu đen và vàng, rất nhiều chai rượu trên chiếc phông được kính rọi lóng lánh, ở dưới là những thùng bia lớn. Mấy quầy bằng gỗ đào hoa tâm dài, và rộng thênh thang, nhẵn và bóng lộng như gương, nhô lên trên quầy rượu gỗ đào hoa tâm là một mớ tóc vàng hoe. Emma bước một cách chững chạc qua phòng, đôi ủng của cô gõ khe khẽ trên sàn gỗ. Từ khoé mắt cô nhận thấy hai người đàn ông đang nhìn cô, nhưng cô không chú ý mà nhìn thẳng phía trước.

Khi tới quầy rượu, cô đặt vali xuống nhưng vẫn giữ chiếc túi lưới trong tay. Cái đầu có mớ tóc vàng bồng bềnh lên xuống dưới quầy, Emma hắng giọng: "Xin lỗi", cô nói.

Chiếc đầu tóc vàng quay lại để lộ khuôn mặt vui vẻ, cởi mở và thành thật. Đó là một bộ mặt màu hồng, trắng và hết sức đẹp, cặp má đầy đặn, lúm đồng tiền, đôi mắt nâu vui vẻ nhảy nhót dưới cặp lông mày màu vàng: "Cái gì thế, cưng?". Người đàn bà tóc vàng đứng lên chậm chậm và có vẻ suy nghĩ, tay cầm một chiếc cốc lớn và một mảnh vải.

Emma phải cố gắng nhịn ngáp, bởi vì khuôn mặt ấy, và cái đầu tóc vàng với những lọn tóc gọn khẽ trên một cái thân thể to béo khủng khiếp mà cũng cực kỳ cao lớn. Cái thân thể không thể tưởng tượng nổi ấy của chị được bó chặt trong chiếc áo vải bông màu vàng tươi, cổ vuông cắt thấp và tay áo bồng. Bộ ngực đồ sộ, vai long đình, cánh tay dài mập mạp trắng hồng và mềm mại.

Người phụ nữ nhìn cô dò hỏi. Emma nói lễ phép: "Em tìm cô Rosie. Người ta bảo em cô ấy là người bán rượu ở đây". Bộ mặt hồng hào rạng rỡ một nụ cười thân thiện rất hấp dẫn, và đầy sức quyến rũ tự nhiên: "Ô, thế thì đã tìm thấy cô ta rồi đấy, cưng ạ. Tôi đây. Tôi là Rosie đây. Cô cần gì?".

Thân hình căng thẳng của Emma giãn ra, cô thấy mình tự động mỉm cười đáp lại với cô Rosie đang mỉm cười rạng rỡ. "Em là bạn của Blakie O'Neill. Anh ấy nói với em là "Chị có thể nhắn cho anh ấy hoặc cho cậu Pat của anh ấy".

Hô! Hô! Rosie nghĩ, cố giấu một cái nhìn am hiểu: "Vậy là Blackie lại giở trò với các cô gái nữa rồi! À, cái anh chàng biết cách kiếm họ", Rosie bình phẩm một mình. Cái cô bé này kháu khỉnh thật. Rosie đặt cốc và mảnh vải lên quầy và nói: "Phải rồi, cưng ạ, tôi có thể nhắn cho Blakie. Phiền một nỗi là, không giúp được gì cho cô đâu. Bây giờ anh ấy không ở Leads. Anh ấy đi hôm qua rồi. Lỡ mất rồi. Ò, anh ấy đi Liverport lấy tàu đi Ireland. Hình như là để gặp một ông thầy tu già ốm nặng, có lẽ đang hấp hối, Blackie nói với tôi như thế trước khi anh ấy đi".

- "Trời ơi", Emma nói, nỗi buồn hằn lên khuôn mặt cô rõ ràng đến nỗi Rosie không thể không nhận thấy. Cô gái bán bar to lớn như hộ pháp vươn cánh tay mập mạp của mình và để những ngón tay chuối mắn nhẹ nhàng trên bàn tay Emma. "Em có làm sao không cưng? Trông cô có vẻ muốn xỉu. Làm một chút rượu rum, rượu mạnh chăng? Tốt đấy."

Emma lắc đầu, cố gắng kìm nỗi lo ngại loé lên trong lòng cô. "Không, cám ơn chị, chị Rosie. Em không uống rượu mạnh." Cô lẩm bẩm. Cái khả năng Blackie đi xa chưa bao giờ đến với cô. Cô run hết cả người không thể nói lên được.

- "Thế một ly nước chanh nhé?", Rosie nói tiếp, chị nhìn Emma chăm chú. "Nó sẽ làm khỏe người, mà trông em tái xanh quá". Không đợi trả lời, Rosie mở nắp chai nước chanh và rót một cốc. Emma không muốn tiêu tiền vào nước chanh. Từng đồng penny đối với cô là quý giá và mặt khác cô lại không muốn làm Rosie một con người tốt bụng và thân thiện phật ý.

- "Cám ơn chị", Emma nói nhẹ nhàng và mở túi xắc. "Dạ, thưa bao nhiêu tiền ạ?".

- "Này, cô gái ơi, không mất gì cả. Cốc này nhà hàng chịu. Rosie chịu". Chị nói và đặt cốc nước chanh đầy tràn trước mặt Emma. "Nào, uống chút đi. Không chết đâu mà sợ", chị nói đùa và cười. Nét mặt vui vẻ của chị lắng xuống. Cô gái này mặt trắng bệch và Rosie nhận ra ngay lập tức, bàn tay nhỏ nhắn torng chiếc găng tay trắng móc run run khi cầm chiếc cốc lên.

- "Harry ơi! Lấy cho tôi một chiếc ghế trong phòng rượu ra đây mới! Cô thiếu nữ này hơi bị mệt". Rosie gọi một người đàn ông ở cuối phòng.

- "Có ngay, Rosie", người đàn ông mang tên Harry nói vậy. Anh quay lại ngay, mang theo chiếc ghế cao. Ghế đây, cưng, cô ngồi xuống, anh ta nói và nở một nụ cười thân mật với Emma trước khi anh ta trở lại với người bạn.

- "Cám ơn". Emma ngồi ngất nghểu trên chiếc ghế cao, cô thấy mình yếu hẳn đi, đầu quay cuồng choáng váng vì cái tin Rosie vừa cho biết về Blackie.

Rosie chống hai khuỷu tay lên quầy nhìn Emma chăm chú, vẻ quan tâm hiện lên nét mặt chị, cái vui vẻ của chị biến mất. "Này cưng, tôi biết không phải là việc của tôi, nhưng em có khó khăn gì không? Tôi thấy em có vẻ nghi ngại quá".

Emma do dự. Vốn hay hoài nghi cô hết sức tin ở câu châm ngôn cổ của miền Bắc "cái lưỡi yên lặng, cái đầu khôn ngoan" và vì thế cô không tâm sự gì với ai cả. Trí óc cô lúc này hoạt động nhanh chóng với sự tinh quái thường lệ của nó. Cô đang ở một chỗ lạ. Một thành phố mênh mông. Cô không biết đường hướng gì hết. Blakie ở Ireland, cô không có ai để nhờ giúp đỡ. Vì thế cô đi tới một quyết định nhanh chóng. Cô sẽ tin Rosie, nhưng tới một mức độ nào thôi. Thực tế, cô không còn một sự lựa chọn nào khác. Nhưng trước hết cô còn có một vấn đề khác, nó cực kỳ quan trọng.

- "Thế còn ông cậu của Blackie ạ? Em có thể đến gặp ông ấy và có lẽ biết được bao giờ Blackie trở về?".

- "À, đúng rồi, cưng ạ. Hai ba tuần nữa Blackie sẽ quay lại. Anh ta nói anh ta sẽ đi độ nữa tháng. Nhưng bây giờ em đến gặp Pat cũng không được, ông ấy đang xây dựng một công trình lớn. Tôi chắc ông ấy cũng phải đi một thời gian lâu".

Emma thở dài và nhìn chằm chằm vào ly nước chanh. Rosie kiên nhẫn đợi, không muốn tỏ ra mình muốn dính mũi vào, nhưng bị óc tò mò thôi thúc, chị nhấn thêm ý kiến của mình.

- "Tại sao cưng không nói cho tôi biết những khó khăn cảu mình? Có lẽ tôi có thể giúp đỡ".

Sau khi do dự một phút nữa, Emma nói: "Vâng, quả là em có sự khó khăn. Em phải tìm một chỗ ở. Một nhà trọ. Có lẽ chị có thể cho em một lời khuyên, cô Rosie? Đó là lý do mà em muốn gặp Blackie".

- "Ấy, cô gái, tại sao em cứ luôn gọi cô Rosie vậy? Ở đây chúng tôi không khách sáo đâu. Mọi người đều gọi tôi là Rosie. Rosie thôi, ngắn gọn và đơn giản. Tại sao em không cho tôi biết tên em, bạn của một người bạn".

Emma nghĩ tới cha và khả năng ông đi tìm cô. Nhưng theo lá thư cô để lại, ông sẽ tin là cô đi Bradford và ông cũng không biết "Con vịt nhốp nhúa" hoặc họ của Blackie. Cô an tâm. "Em là Emma Harte, cô nói và nói thêm, truớc sự ngạc nhiên của chính mình : "Bà Harte".

Mắt Rosie mở to: "Cô lấy chồng rồi à?". Chị hỏi và suy nghĩ. Thế người chồng đâu? Nhưng kìm lại không hỏi thêm điều gì nữa lúc này. Cô làm chính mình ngạc nhiên hơn là Rosie.

- "Ồ, chúng ta đã quen nhau rồi, phải nói như vậy, và bây giờ tôi đã biết sự khó khăn của em, chúng ta hãy đi vào vấn đề cụ thể. Em đang đi tìm một chỗ để tá túc. Hừm! Để tôi nghĩ xem nào". Rosie cau mặt, đôi mắt chị tư lự.

- "Cái nhà trọ nơi Blackie sống có được không? Em có thể đến đó không?". Emma hỏi. Cô cảm thấy bình tĩnh hơn, suy nghĩ được rõ ràng hơn.

- "Ủa, không được!". Rosie thốt ra vội vã đến nỗi giật mình. "Tôi không thể để một thiếu nữ đáng yêu như cô đến đó, đến cái nơi bát nháo ấy. Đầy những tên du côn, anh chị. Không, không được đâu cưng ơi". Rosie nhăn mặt và suy nghĩ đến vấn đề nghiêm chỉnh, chị muốn giúp đỡ cô gái này. Một lát sau, nét mặt chị lấy lại được sự vui vẻ bình thường, chị mỉm cười. "Tôi có, em có thể đến gặp bà Daniel. Bà ấy cho thuê phòng ở nhà. Cách đây không xa lắm. Có thể đi bộ dễ dàng. Tôi có thể ghi địa chỉ cho cô. Nói với bà ấy là Rosie ở quán "Con vịt nhốp nhúa" bảo cô đến. Ở đây cô sẽ được an toàn. Bà ấy cũng khi cộc cằn một chú, cái bày Daniel ấy, nhưng là một người tốt".

- "Một phòng mất bao nhiêu tiền ạ?", Emma hỏi nhẹ nhàng, Rosie nhìn cô soi mói: "Cô không có nhiều xu phải không, cưng?". Chị dò hỏi nhưng không kém phần thông cảm. Cô gái trông vẻ bối rối và sự sửng sốt không tìm được Blackie càng lộ rõ. Không hiểu cái anh chàng đó đã giở trò trống gì. Nhưng cô bé nói cô ấy đã có chồng. Vả lại, chắc vấn đề không chỉ giản đơn, Rosie ranh mãnh quyết đoán như vậy.

Emma nhận thấy sự nghiên cứu tò mò của Rosie. Cô hắng giọng và lấy dáng vẻ bình tĩnh. "À, có, em có một ít gạo". Cô nói vẻ tự tin, vô tình nắm chặt lấy cái túi vốn không dời tay một giây phút từ khi cô rời Fairley buổi sáng sớm hôm đó. Nó đựng từng đồng penny cô có và một ít đồ tư trang.

Rosie mỉm một nụ cười làm Emma an tâm. "Ồ, thế thì tốt! Bà Daniel là người ngay thật. Bà ấy không moi của cô đâu. Tôi chắc bà ấy sẽ lấy một vài Shilling một tuần một phòng, thế thôi. Chắc bà ấy không cho cô ăn uống với số tiền đó. Nhưng cô có thể mua lấy thức ăn. Có một cửa hàng cá và khoai tây ở cuối phố, và có một ông có cái xe bán bánh ba tê và đậu Hà Lan".

- "Em sẽ lo liệu". Emma nói, cô nuốt mạnh. Dạo này cứ nghĩ tới thức ăn là lại làm cô buồn nôn. Sự nôn nao cô cảm thấy mỗi sáng đôi khi dường như kéo dài suốt cả ngày. Cô nói: "Rosie, em rất cảm ơn chị đã giúp đỡ em. Em hết sức cảm ơn. Và em chắc phòng của bà Daniel sẽ tốt".

- "Đúng, tốt cưng ạ. Bà ấy thật thà lắm. Này, em ngồi nghỉ chút đi. Để tôi vào phòng trong lấy mãnh giấy viết điạ chỉ bà Daniel cho em". Rosie dừng lại và nói thêm: "Em mới đến Leads lần đầu, phải không Emma?".

- "Vâng đúng thế, chị Rosie".

- "Vậy thì tôi chỉ dẫn tỉ mỉ cho em. Làm thế nào để tới đó. Nhanh thôi".

- "Cám ơn Rosie, chị tốt quá".

Rosie hối hả đi ra phòng khách, muôn ngàn ý nghĩ chen lấn trong đầu chị. Chị rất mến cô gái không biết xuất hiện từ đâu này. Thật ra, chị bị cuốn hút bởi cô gái này. Emma Harte đó - Rosie dừng lại trong phòng khách tìm một từ thích hợp để miêu tả Emma "Tư thế"! Đúng, chữ đó. "Cô cũng xinh đẹp nữa! Khuôn mặt ấy!". Rosie nghĩ, hơi bàng hoàng. Sao chưa bao giờ chị gặp một khuôn mặt nổi bật như vậy trong suốt cuộc đời chị trước đây. Cô là một hoa khôi, đúng thế, mặc dù là một kiểu hoa khôi khác. Không bình thường.

- "Đây không phải là một cô gái bình thường hoặc một cô gái của giai cấp công nhân. Đó là một điều chắc chắn!". Rosie nói to trong căn phòng không có người. Rosie Miller, người tự coi mình biết đánh giá người, bởi vì chị tiếp xúc với đủ loại, đủ tầng lớp người trong quán rượu, biết rằng chị không thể bị đánh lừa bởi bất cứ ai. Đúng, cô gái này là một quí bà thực sự, Rosie khẳng định như vậy. CHẳng hạn như cái cách Emma nói. Không dùng địa phương ngữ hoặc tiếng lóng địa phương, chỉ có một chút giọng Yorkshire với lối nói học thức của cô. Không phải chỉ có thế, còn dáng vẻ và cách cư xử của cô nữa. Học thức, Rosie nói một cách hiểu biết. Quần áo của cô ấy nữa, chị bán ba suy nghĩ trong khi đi tìm một mảnh giấy và một cái bút chì. Phải, chiếc áo đen hơi cổ điển một chút, Rosie phải thừa nhận như vậy, nhưng nó được may bằng thứ hàng tốt, cắt rất thanh nhã. Và chiếc mũ màu kem đúng là của Leghorn, bông hoa cài trên đó là lụa nguyên chất. Rosie am hiểu về quần áo. Quả đúng là chị đã thấy những thiếu nữ quý phái đội những cái mũ như thế, ở thành phố Luân đôn. Còn đôi găng móc và chiếc túi da sang trọng với cái khung đồi mồi nữa. Nhưng cái đó chắc hẳn là sở hữu của một mệnh phụ cũng như chuỗi ngọc trai hổ phách. Rosie nghĩ tới chiếc va ly chị đã quan sát trên sàn. Đắt tiền, đúng thế, được làm bằng da thật. Phải, cô ấy thuộc tầng lớp quý tộc. Rosie kết luận, chị ngậm bút chì và bắt đầu viết theo kiểu chữ in địa chỉ bà Daniel. Khi Rosie viết, chị lại bị trí tò mò thôi thúc, không hiểu sao cô gái này lại tìm Blackie Oniel. Anh ta là một thanh niên đẹp trai, điều ấy không còn nghi ngờ gì. Nhưng mà anh ta vẫn là một người lao động. Sự liên hệ giữa hai người là thế nào? Rosie tự hỏi, càng thấy là huyền bí.

- "Tôi đây rồi", Rosie kêu lên và đi về phía sau quầy. Trông cô bé buồn quá. Rosie nghĩ khi liếc nhìn Emma. Emma nhảy lên. Cô đang suy nghĩ. "Địa chỉ đây, tôi đã viết cả những chỉ dẫn làm sao tới được nhà bà Daniel", Rosie nói tiếp và đưa tờ giấy cho Emma.

- "Cám ơn, Rosie". Emma đọc tờ giấy. Lời chĩ dẫn hoàn toàn rõ ràng.

Rosie nghiêng người trên quầy, thái độ tâm tình hơn: "Tôi đã nói trước tôi không muốn dính mũi vào chuyện người khác, nhưng hình như em vẫn lo ngại phải không, cưng? Tôi có thể giúp em được gì nữa không? Blackie là bạn thân của tôi. Tôi muốn đền đáp anh ấy bằng cách giúp đỡ một người bạn của anh ấy, nhất là một người bạn gặp bước khó khăn".

Emma vẫn yên lặng. Cô không có ý định tâm sự những điều khó khăn với Rosie, mặt khác, chị là một người đàn bà tốt bụng và rõ ràng là người sinh trưởng ở Leeds. - Emma nghĩ chị có thể cho một vài lời khuyên đối với vấn đề khác. Emma đưa mắt nhìn Rosie: "Vâng, quả là em còn một vấn đề nữa. Em phải tìm một việc làm", Emma thốt lên.

- "Ừ, cưng, tôi không biết một thiếu nữ trẻ đẹp như em có thể tìm được việc làm gì ở Leeds. Rosie nghiêng người lại gần hơn và hạ giọng, chị không thể kìm được hỏi: "Chồng em đâu cưng?".

Emma không bị bất ngờ. Cô đã chuẩn bị cho câu hỏi hiển nhiên trong lúc Rosie vắng mặt, vì cô đã nói với chị là cô đã có chồng... "Anh ấy ở trong hải quân Hoàng Gia - Hiện anh ấy đang làm nhiệm vụ ở Địa Trung Hải. Sáu tháng nữa". Điều này được nói lên một cách bình thản, chắc chắn, tự tin khiến Rosie tin ngay.

- "Thế em còn gia đình bà con gì không?".

- "Không, em không còn". Emma nói dối.

- "Nhưng trước đây, em sống ở đâu?", Rosie hỏi, đôi mắt sắc sảo của chị soi mói.

Thấy rõ Rosie càng ngày càng chú ý tới mình, Emma nói: "Với bà của anh ấy. Gần Ripon. Chồng em là một trẻ mồ côi, cũng như em. Bà của anh ấy mới chết gần đây, bây giờ em chỉ còn có một mình, vì Winston đang ở đại dương", nghĩa là, "em chỉ có một mình cho đến khi anh ấy nghỉ phép trở về". Mặc dù đã nói dối, không cố ý, một phần là do buồn phiền, Emma cố gắng bám vào sự thật chừng nào có thể được. Nó đơn giản hơn, và quan trọng hơn là nó dễ nhớ sau này.

- "Ra thế", Rosie nói và gật đầu. "Thế làm sao mà em gặp Blackie". Chị không còn kìm được sự tò mò của mình. "Blackie đến để làm một vài công việc cho... bà của chồng em". Emma bịa nhanh. "Anh ấy luôn luôn rất tốt, làm thâm việc cho chúng tôi mà lấy rất ít tiền. Anh ấy thích bà già, chị ạ. Anh ấy cũng biết rằng bà ấy không còn sống lâu trên cuộc đời này nữa. Em đã nói với anh ấy là khi nào bà mất, em muốn đi Leeds để tìm việc. Blackie bảo em tìm anh ấy". Emma dừng lời, nhấm nháp ly nước chanh để tranh thủ thời gian. Cô lấy làm ngạc nhiên vì cái tài đánh lừa của mình, và khả năng của cô kể một câu chuyện bịa như vậy. Mặt khác, cô phải nói tiếp và làm cho nó có tính thuyết phục: "Blackie gợi ý rằng em có thể tìm được việc tại một trong những cửa hàng mới, bán quần áo sang trọng cho các bà giàu có. Anh ấy nghĩ một người được học hành như em sẽ có ích trong một cửa hiệu. Em cũng có thể khâu vá và sữa chữa quần áo".

- Ừ, ý kiến hay đấy". Rosie nói, chị thấy rất hài lòng với chính mình. Chị đã xét đoán đúng về cô gái xuất thân từ tầng lớp trên này. Chị thấy rõ ràng Emma chỉ có thể gặp Blackie với khả năng làm thợ của anh, và sửa chửa tại nhà cô. Giai cấp quý tộc bị bần cùng. Emma Harte là như vậy. "Để tôi nói em sẽ làm gì, cưng". Rosie nói tiếp: "SÁng sớm ngày thứ hai hãy ghé tới Briggate. Em sẽ tìm thấy đường dễ thôi. Đó là một phố lớn. Có rất nhiều cửa hiệu mới ở dãy cuối. Em có thể tìm thấy cửa vào..." Rosie ngừng bặt, một nhóm người đã vào trong quán và đang tiến lại gần quầy rượu. Chị thở dài rồi mỉm cười hiền lành với Emma. "Emma, em ngồi một lát, nếu em muốn. Nhưng quán sắp sửa rất bận rộn. Tôi không còn nhiều thời giờ để trò chuyện với em nữa, cưng".

- "Cám ơn chị, nhưng có lẽ em đi gặp bà Daniel để giải quyết phòng ở thì tốt hơn". Emma đứng lên. Cô mỉm cười rạng rỡ. "Xin cám ơn chị một lần nữa, chị Rosie, đã giúp đỡ em. Em rất cảm kích".

Rosie gật đầu: "Thực sự tôi có làm gì đâu. Cứ liên hệ với tôi nhé! Bao giờ dọn nhà đi không ở nhà bà Daniel thì cho tôi biết với. Để tôi có thể nói với Blackie em ở đâu. Và hãy đến thăm tôi nếu em cảm thấy cô đơn hay nếu em cần gì khác, cưng nhé".

- "Vâng, em sẽ tới, chị Rosie. Cám ơn chị một lần nữa. Tạm biệt chị". Emma xách valy lên và với một nụ cười nữa, cô rời khỏi quán rượu.

Đôi mắt nai dịu hiền của Rosie nhìn theo cô đầy suy tư. Lạy Chúa, cầu cho cô ấy được yên ổn, chị thầm nói. Thật là một cô gái quá dễ thương. Và đơn độc trên đời này. Quả là tội nghiệp. Rosie hy vọng sẽ gặp lại cô. Có một cái gì đó đặc biệt ở con người Emma Harte.

Khi đã ra đến ngoài quán, Emma xem mãnh giấy mà Rosie đã đưa cho cô, đút nó vào túi và kiên quyết đi tìm nhà bà Daniel. Sự thật, có rất nhiều phòng cho thuê ở chung quanh quán "Con vịt nhốp nhúa", nhưng, Rosie đã cố ý chọn nhà trọ của bà Daniel cho Emma, mặc dù thực sự nó xa hơn là chị đã chỉ. Rosie muốn cô gái này lánh xa cái vùng Leeds khủng khiếp, bởi vì con đường York tứ bề là những hàng xóm du côn du kề, ở đó ngay cả người lớn cũng không an toàn, nói gì đến một cô gái không có gì bảo vệ. Và vì thế nỗi lo sợ của Rosie vươn ra như một cánh tay hầu che chỡ cho Emma.

Hầu hết những phố cách xa cái khu ghê gớm này đều an toàn, nhưng chúng hẹp, xấu xí, với những ngôi nhà giáp lưng nhau, trông bần tiện, cái nọ ẹp sát cái kia, một di sản tàn hại từ thời Victoria, những ngôi nhà khốn khổ cho giai cấp công nhân. Emma tập trung vào những tên phố, cô gắng đi hết sức mình, bởi vì cái thành phố vĩ đại này, đầy những con người vội vã hối hả, xe và ngựa, xe điện thật là hoang mang và xa lạ đối với cô sau cái tĩnh mịch của "làng Fairley". Tuy vậy, ngược lại, cô không khiếp sợ. Dù sao, cô không dừng lại để quan sát những cảnh tượng mới lạ này hoặc trố mắt ra mà nhìn chúng. Emma chỉ tập trung vào một vấn đề trong mỗi lúc và lúc này, mục đích của cô là tìm đuợc ở một phòng, tìm một công việc, đợi Blackie trở về theo thứ tự như vậy. Cô không dám nghĩ tới điều gì khác, đặc biệt là đến đứa bé. Cô để mắt nhìn về phía trước nhưng cảnh giác, để ý những tên phố cô lướt qua, một tay nắm chặt túi xách, tay kia nắm chiếc valy da.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: