nguoc ve thoi minh 41-89

Chương 41: Lo trước tính sauDịch: 6300 Biên dịch: Hieusol Biên tập: Ba_Van Hiệu đính: Nguồn: www.tangthuvien.com Y khục khục cười gượng, vội vàng nói chữa: - Đại thúc hiểu lầm rồi, vị tiểu thư này không phải vợ của cháu. Vì vừa rồi chưa biết rõ ngọn nguồn nên mới nói dối thúc. Chương 41: Lo trước tính sau Mã Liên Nhi rất lúng túng, sợ bị người khác hiểu nhầm là anh em thì càng tệ hơn nên đành đỏ mặt đáp bừa: - Đại thúc, xin lỗi thúc. Cháu và... tướng công đang rời nhà đi xa. Đại thúc hơi quá cẩn thận rồi! Dương Lăng giật mình, lúc này y mà giải thích nữa thì không khỏi càng rối rắm hơn nên đành ngậm miệng làm thinh. Đại hán chợt nói: - Ta biết rồi, năm mới về nhà mẹ phải không? Quân Thát gây khổ nhiều quá. Chúng ta cũng từ trong thành trốn tới đây, vậy cùng đi với nhau nhé! Đại hán họ Hàn, gọi là Hàn Lâm, con trai trưởng là Hàn Uy, con trai thứ là Hàn Võ, còn cậu út có tên hơi tầm thường một chút, gọi là Mãn Thương (đầy kho). Người dân có hoàn cảnh thiếu hụt thường đặt cho con mình cái tên may mắn để lấy khướt. Dương Lăng đã từng biết mấy người có tên Mãn Thương rồi, đáng tiếc là đa số những người có tên như vậy đều nghèo rớt mùng tơi. Hàn Lâm náu mình ở vùng núi hẻo lánh nơi biên thùy, dọc đường đã thu nhận khoảng một trăm người dân đang chạy giặc, tất cả đều phải dựa vào tay nghề săn bắn của cha con họ mới có thể sống sót. Cả nhà xem ra cũng khá chất phác, gió lạnh át tiếng không tiện chào hỏi nhiều nên họ chỉ cười cười khách khí rồi vác thú săn được lên lưng, đi nhanh về phía trước. Chú bé Mãn Thương tới dắt con hoẵng đi, cười hì hì hết nhìn Dương Lăng lại nhìn Mã Liên nhi. Cậu tới sát Dương Lăng, líu lo: - Dương đại ca, vợ của huynh đẹp thật đấy! Xinh hơn chị của đệ nhiều. Mã Liên Nhi nghe được đỏ cả mặt, thoáng nét vui mừng. Được gọi là "vợ" khiến cô nàng mới biết yêu này ngây ngất mãi. Dương Lăng ngượng nghịu chẳng thể thừa nhận hay phủ nhận, đành ho khan giả điếc. Hàn Võ nói với Hàn Uy: - Đại ca, sau khi có tuyết lớn thì bầy thú kéo nhau đi kiếm ăn, quả thực là cơ hội săn bắn rất tốt. Xem ra cả trăm người đều có thể húp canh thịt rồi. Hàn Uy đáp: - Ừ, những người trẻ tuổi đều lập nhóm tới vùng lân cận hái hoa quả khô, thêm vào thú săn được của chúng ta thì có thể khiến mọi người đều được ăn no. Phỏng chừng chập tối là có thể đến Kê Minh rồi. Hàn Võ liền cất tiếng chửi: - Ngay cả ông già với trẻ con còn biết đi xung quanh nhặt củi khô để mọi người sưởi ấm đấy! Nhưng tên tam ca nhà họ Dương lại quá hèn hạ, chẳng chịu làm gì cả, lúc ăn cơm lại còn cố vơ vét, thật khiến người ta bực cả mình! Hàn Uy huých hắn một cái: - Đừng cằn nhằn nữa, cha mà nghe thấy lại đá vào mông đệ đấy! Dù sao đó cũng là bà con của em rể chúng ta, không nên so đo với gã làm gì. Bên cạnh, Hàn Mãn Thương vừa ra sức kéo con hoẵng nhỏ vừa hào hển nói: - Theo đệ thì chúng ta không nên chạy trốn nữa. Đám giặc Thát tới thôn ta chỉ hơn ba chục tên, bằng võ nghệ của cha và chúng ta thì sao không thể trừng trị được chúng chứ? Hàn đại thúc đang đứng trên một mỏm đá, gằn giọng quát con: - Cuồng vọng kiêu căng! Chúng ta có thể trừng trị được mấy chục tên giặc Thát kia, nhưng khi chúng quay lại sẽ dẫn theo vài trăm vài nghìn tên đến san bằng cả thôn. Một cá nhân võ nghệ cao cường so với vạn quân thì có tác dụng gì chứ? Lão chống nạnh dạy bảo con trai: - Lúc ta còn ở Thiếu Lâm học nghệ, đã từng nghe kể, lúc Tổ Tĩnh gặp nạn, Đạo Diễn đại sư mời ba trăm tăng binh của phái Thiếu Lâm tới trợ chiến. Cuối cùng chỉ có hơn một trăm người trở về, phân nửa đã tàn phế. Lúc đó, dẫn đầu là trưởng lão Hư Vân đại sư của La Hán đường, có công phu Kim Chung tráo và Thiết Bố sam đao thương bất nhập cũng chỉ chống đỡ được trong thời gian uống cạn chén trà rồi bị loạn tiễn bắn như con nhím. Hàn Mãn Thương không phục nên hỏi lại: - Vậy thì học võ cũng chẳng có tác dụng gì ư? Hàn lão nhẹ giọng đáp: - Cũng không hẳn như thế! Ba trăm tăng binh Thiếu Lâm kia cũng chiến đấu ngoan cường được trong vòng một canh giờ với hai nghìn quân địch. Nhưng khi đại quân giao chiến thì mấy trăm cao thủ võ thuật có tác dụng gì chứ? Dương Lăng thấy tên nhóc con kia có vẻ chán nản liền phỉnh: - Đừng nhụt chí! Đó là do người chỉ huy không biết cách thôi. Phái những cao thủ như thế đi xông pha chiến đấu thì tất nhiên không có tác dụng gì rồi. Nếu như giao cho họ cướp đốt lương thảo, ám sát tướng địch thì còn có tác dụng hơn mấy vạn đại quân đấy. Dương Lăng nói tới đây chợt nghĩ đến một điều khiến y giật thót mình: ”Không phải chứ? Y họ Hàn, có ba đứa con trai, từng học nghệ ở Thiếu Lâm, bây giờ là một thợ săn....". Dương Lăng hơi hoảng hốt: "Lẽ nào đây chính là cha vợ, anh vợ và em vợ mà mình chưa từng được gặp sao? Mình không biết họ đã đành, thế quái nào mà họ cũng không nhận ra mình như vậy nhỉ?” Thực ra, nếu bây giờ mặt hắn không dính đầy bùn đất thì lão Hàn cũng không thể nhận ra ông con rể của mình được. Sau khi con gái mình lấy chồng, tuy lão Hàn cũng từng gặp con rể mình vài lần nhưng khí sắc hiện tại của hắn khác xa vẻ mặt vàng vọt, hơi thở thoi thóp trước kia. Từ miệng của những người dân trong làng đang chạy nạn, Hàn Lâm biết được con rể đã bình phục và dọn vào Kê Minh ở rồi. Cho nên bây giờ dù có thấy Dương Lăng quen quen thì lão cũng không thể nghĩ tới cái tên mang vợ vào thành thăm người thân lại là con rể mình được. Mà chính Dương Lăng cũng chưa từng gặp người nhà của Ấu Nương. Trước đây vì sợ Ấu Nương phát hiện sơ hở nên mỗi khi nàng tán gẫu nhắc tới người nhà, y cũng đều không dám dò la tên tuổi của họ là gì. Lúc này cảm thấy nghi nghi, Dương Lăng liền luống cuống. Y thấp thỏm bất an, ngượng ngập bắt chuyện với lão Hàn: - Hàn đại thúc, các người từ đâu trốn tới đây vậy? Hàn Lâm đáp: - Từ dãy núi Bình Vân. Chúng ta đi săn trong núi khoảng mười ngày, vừa mới về làng thì đụng phải giặc Thát, phải vội vàng cùng dân làng chui vào khe núi. Còn hai người từ đâu tới đây thế? Dương Lăng giật thót, dãy núi Bình Vân à? Không thể sai được rồi, người đàn ông vạm vỡ mặc đồ da thú, tướng người rắn rỏi bị mình lừa chính là .... cha vợ của mình! Y khục khục cười gượng, vội vàng nói chữa: - Đại thúc hiểu lầm rồi, vị tiểu thư này không phải vợ của cháu. Vì vừa rồi chưa biết rõ ngọn nguồn nên mới nói dối thúc. - Ồ? Hàn Lâm nhìn y ngờ vực, Dương Lăng vội giải thích: - À ừm.. Thực ra chúng cháu chạy tới đây báo tin cho quân Đại Minh. Rút cuộc khi chiến sự xảy ra, bọn cháu bị quân Thát truy đuổi mà lạc vào khu rừng này. Còn việc... là do lúc đó nàng quá sợ hãi. Ngài là người từng trải, chắc ngài cũng hiểu phải không? He he he.... Hắn vênh mặt với ông bố vợ, cười đúng chất của một gã đàn ông đích thực. Hàn Lâm hiểu ý cười hô hố rồi vuốt vuốt râu, xem ra chính lão cũng không biết mình hiểu cái gì nữa, tuy nhiên lão cũng không tiện hỏi lại. Dương Lăng thừa cơ kể sơ qua hàng loạt chuyện mình đã trải qua, bao gồm đưa tin, gặp mai phục, chạy trốn, gặp sói để ”gài hàng” với ông bố vợ. Đám người trong khe núi lợi dụng địa thế tự nhiên, dùng thân cây dựng lên rất nhiều lều cỏ hình chóp, trên nóc được lợp lá cây để chắn tuyết, tạo thành những ngôi nhà tạm. Bây giờ, phía trước mỗi túp lều đều có một nồi sắt sứt miệng bắc trên những chiếc bếp xếp bằng đá, gỗ cháy tí tách, tuyết trong nồi đã được đun sôi, khói trắng bốc lên mịt mù. Những người chạy nạn này dường như đã có kinh nghiệm chạy giặc nên chậu, nồi, bát, muỗng đều đủ cả. Thực ra, bình thường tất cả tài sản của họ cũng chỉ có mấy thứ này thôi. Thấy cha con Hàn Lâm mang về được nhiều thú như vậy, những người dân ăn mặc lam lũ, mặt mày ngây dại đều trở nên có sức sống hơn, nhao nhao tới giúp bọn họ khiêng thú vào giết mổ. Mặc dù Hàn lão đại mang về hai người khách lạ, một người lại là một mỹ nhân xinh như hoa như ngọc, nhưng bọn họ, kể cả là những thanh niên khí huyết cương phương cũng không thèm nhìn lâu. Trên đường chạy nạn, họ đã nhìn thấy quá nhiều rồi. Mà bây giờ đối với bọn họ, sắc đẹp không có sức mê hoặc bằng một chiếc màn thầu. Hàn Lâm mời Dương Lăng và Mã Liên Nhi tới trước lều của mình ngồi. Hàn Uy cắt vài miếng thịt sói, thịt hươu quẳng vào trong nồi. Có một bà già tóc bạc cẩn thận lấy ra một chiếc túi vải, thả vào từng chiếc nồi một ít gạo, rồi thêm một chút muối, cuối cùng thả vào rất nhiều quả khô do những người dân chạy giặc kiếm được. Trong không khí bắt đầu tỏa lên mùi thức ăn. Lúc này, có một giọng nói già nua cất lên: - Hàn Lão đệ, hôm nay có thể tới được Kê Minh không? Có một vài bà con bị trúng phong hàn, không thầy không thuốc, sợ rằng không chịu nổi nữa rồi. Nhìn về phía tiếng nói, Dương Lăng thấy một ông lão chống gậy lảo đảo bước tới. Ông có gương mặt chữ điền, khuôn mặt đỏ au, đôi lông mày dài bạc phơ. Vừa nhìn thấy Dương Lăng, ông lão liền ngẩn người, Dương Lăng cũng giật mình nhìn kỹ lại ông ta. Y đã nhận ra ông lão này, ngày thứ hai sau khi sống lại chính ông lão này còn lên núi thăm hắn. Vị này chính là tộc trưởng họ Dương, Dương lão thái gia. Ông lão ngẩn người một lúc rồi đột nhiên tức giận, quơ gậy nhằm đánh Dương Lăng, miệng thì chửi: - Cái thằng chẳng ra gì này, ngay cả sản nghiệp tổ tiên cũng đem đi bán! Ngươi có xứng với cha ngươi không? Có xứng với liệt tổ liệt tông không hả? Chuyện đại sự như vậy lại không bàn với ta, ngươi đã trưởng thành hay chưa vậy? Dương Lăng ngỡ ngàng lùi về phía sau, không biết cụ lớn này nổi giận vì điều gì: “Ta bán đất của ta thì việc gì phải bàn bạc với ông nhỉ? Lại còn tức giận như thế nữa, chẳng nhẽ ngay cả chuyện này cũng phải hỏi gia tộc sao?” Hàn Lâm giữ tay Dương lão thái gia lại, cười nói: - Sao lão ca lại làm thế? Có chuyện gì thì cứ nói cái đã. Dương lão thái gia căm hận trả lời: - Biết ngay là ông bênh con rể ông mà! Tên tiểu súc sinh này bán cả sản nghiệp tổ tiên, chuyện lớn như vậy mà không bàn bạc với người trong tộc, hắn có còn coi mình là người họ Dương nữa không chứ?

Chương 42: Nhìn nhau say đắmDịch: 6300 Biên dịch: Lamsonquaikhach Biên tập: nguyenthai Hiệu đính: Nguồn: www.tangthuvien.com Dương Lăng ngửa mặt nhìn nàng, thấy ánh mắt vui mừng khôn xiết của nàng tỏa sáng như ánh mặt trời. Bốn mắt nhìn nhau, sóng lòng dâng trào. Chương 42: Nhìn nhau say đắm Hàn Lâm cũng trố mắt ra nhìn, lão giật mình quan sát Dương Lăng. Quả thật mặt mày của gã này càng nhìn càng giống thằng con rể bệnh tật liên tục của lão nên ngập ngừng hỏi: - Y... y đúng là con rể của ta à? Dương lão thái gia trợn mắt, cười khẩy: - Sao vậy? Hai người còn muốn cùng nhau lừa ta nữa à? Ta tuy già rồi nhưng chưa có mù đâu nhé, tên nhóc Lăng Nhi này là do một tay ta chăm sóc từ bé đến lớn, làm sao có thể nhìn lầm được? - Hả? Ngài là .... cha vợ ư? Dương Lăng liền giả vờ 'giật nảy mình', 'vui mừng ngạc nhiên' tiến lên chào hỏi. Nếu y không làm nhiều trò như vậy thì sợ rằng ông bố vợ sẽ không chịu tin lời giải thích về chuyện vừa nãy. Ai bảo khoảnh khắc y sắp chết thì bị Mã Liên Nhi 'cưỡng hôn', lại còn bị ông bố vợ nhìn thấy chứ? Dương lão gia tử vẫn chưa hết tức giận, đứng ở bên cạnh xem vở kịch nhận người thân. Ông bố vợ tuy chưa đến mức lú lẫn nhưng bị Dương Lăng 'gài hàng', nên lúc này nhìn thấy ông con rể quả thật đang vui sướng nhảy cẫng lên, mặt mày hớn hở thì chỉ biết hỏi han tình hình gần đây của con gái mình. Nhưng hai ông anh vợ thì lại không dễ bị lừa, sau khi nghe nói biết y là em rể của mình, hai người đều tỏ vẻ hơi khó chịu. Về phần mình, Dương Lăng cũng thấy hơi run khi nhìn vào nắm tay to bằng chiếc bát của họ. Thấy Dương lão thái gia và vài ông lão vẫn còn lấn cấn về chuyện mình tự tiện bán sản nghiệp của tổ tiên nên nhân cơ hội này, y bèn tìm cách thoát khỏi hai ông anh rể. Rồi Dương Lăng chủ động tiếp cận với Dương lão thái gia: - Đại bá, cháu biết ngài không vừa lòng với việc cháu bán đất. Tuy vậy, cháu có câu này muốn hỏi đại bá, tổ tiên của họ Dương từ đâu tới đây, hay là vừa mới đến nơi này đã có ngay đám đất đai ruộng vườn này? Dương lão thái gia giật mình, tuy chưa biết y hỏi là có ý gì nhưng cũng trả lời: - Chúng ta là hậu duệ của người kế nghiệp Đại Tống, từ Sơn Tây chuyển tới đây, tính ra thì cũng đã năm đời. Lúc đó, Thuận Đức công chuyển lên phía bắc, chỉ mang theo vợ con tới Kê Minh mua mười mẫu ruộng núi. Nhưng bây giờ tộc chúng ta đã hưng vượng, ruộng đất có hơn trăm mẫu, tất cả đều do tổ tông chúng ta chắt chịu mà có. Chúng ta, phận là con cháu thì phải có trách nhiệm giữ gìn không được thay đổi, sao lại có thể phá hoại như ngươi được? Lúc Dương lão thái gia tới thăm Dương Lăng, lão cũng đã lải nhải về sự tích chói lọi của tổ tiên. Nghe nói bọn họ là hậu duệ của Dương gia tướng ở Sơn Tây, cũng thuộc dòng dõi của Long Hổ vệ thượng tướng quân Dương Hữu của triều trước. Thời Hồng Vũ, có một vị tổ tiên tên là Dương Thuận Đức chuyển tới đất này, hình thành nên họ Dương. Hồi đó khi Dương Lăng nghe xong nguồn gốc của mình cũng giật mình kinh ngạc một hồi lâu. Tuy nhiên, Dương gia tướng hưng thịnh phát đạt, con cháu đông đúc. Các triều Bắc Hán, Bắc Chu, Tống, Nguyên, Minh đều có hậu duệ của Dương gia vào triều làm quan. Mỗi triều đều có hậu duệ kiệt xuất làm đến các chức quan cao, hiển quý không chỉ trăm năm. Do đó, nếu khiên cưỡng gán ghép như thế thì có cả đống người mang họ Dương nhân đó mà dựa hơi Dương gia tướng, chính vì thế nên Dương Lăng mới nửa tin nửa ngờ. Nghe Dương lão thái gia nói thế, Dương Lăng liền hân hoan trả lời: - Chính thế, nghèo thì phải thay đổi. Lúc Thuận Đức công chuyển tới đây thì không nhà không cửa, không tấc đất cắm dùi, chẳng phải nhờ xông pha mà có phần gia nghiệp này sao? Đã khi nào người ôm khư khư lấy gia viên mà không thay đổi cho thích ứng không? Chính vì điều này nên cháu đã tìm ra lối thoát, làm rạng rỡ họ Dương đó. Bây giờ cháu được bổ nhiệm làm Dịch Thừa của Kê Minh, không tốt hơn là ôm đống ruộng vườn làm nông dân sao? Dương lão thái gia nghe nói Dương Lăng giờ đã làm quan, cười tít mắt sung sướng, cơn tức giận liền tan biến ngay lập tức, còn xoay ra hỏi việc làm quan của Dương Lăng. Theo đó, y liền đem việc mình làm sư gia, thêm mắm dặm muối việc mình nhậm chức Dịch thừa, tuần tự kể ra một lượt. Dương lão thái gia còn chưa kịp nói gì thì mấy ông già trong tộc đã khen ngợi không ngớt. Hiển nhiên, một người làm quan cả họ được thơm lây. Dương Lăng lòe xong mấy lão già ngang bướng, vừa quay đầu lại thì thấy hai ông anh vợ vẫn đang nhìn mình trừng trừng, thầm kêu khổ. Y chợt nhận ra hai ông anh vợ này không hề chất phác như vẻ bên ngoài, mà ngược lại từ ánh mắt có thể thấy họ rất lanh trí. Thấy Dương Lăng đã nói chuyện xong với những người trong họ, Hàn Võ tươi cười đi tới, vỗ vai Dương Lăng, thân thiết nói: - Em rể giỏi thật đấy, mới lên huyện được hơn một tháng mà đã làm quan rồi. Em gái của ta tuổi còn nhỏ, nếu làm gì không đúng quy củ ở nơi ấy thì mong em rể khoan dung nhiều hơn nữa. Dương Lăng mỉm cười, khổ sở nói: - Nhị ca sao lại nói thế, Ấu Nương đối với đệ rất tốt, chúng em là vợ chồng cùng chung hoạn nạn, đệ và Ấu Nương rất là ... rất là đằm thắm. Hàn Võ vui vẻ nói: - Thế thì tốt, thế thì tốt, em rể là người đọc sách, hiểu biết nhiều, chắc cũng rành đạo lý phải quý trọng vợ từ thuở hàn vi, quả thật ta đã quá lo lắng rồi. Dương Lăng trả lời với vẻ mặt nhăn nhó: - Phải, phải, nhị ca cứ yên tâm đi. Vừa rồi bị ông anh vợ vỗ một cái, không hiểu sao khớp hai vai của Dương Lăng bị sái, bây giờ mềm oặt không thể động đậy. Y ủ ê mặt mày ngước mắt nhìn lại, thấy Hàn Mãn Thương đang ngồi bên cạnh nồi sắt đang cười khúc khích, làm mặt quỷ với y. Ba anh em đều ghét một người, cặp mắt đen láy đầy vẻ lanh lợi kia không hề hiền lành như vẻ bên ngoài. Dương Lăng giận thầm: - Anh vợ thì "chơi khó" mình, em vợ thì mình không chấp. Ấu Nương còn biết đọc biết viết, hai ông anh vợ này sao có thể là kẻ quê mùa không biết chữ nghĩa chứ? Chỉ sợ chút mánh khóe này của mình chỉ có thể gạt được ông bố vợ hiền lành chất phác thôi. Hàn Uy vốn đĩnh đạc, thấy Dương Lăng đang khó xử liền bước tới bắt chuyện với y: - Em rể, ta và nhị đệ đều rất yêu thương cô em gái nhỏ. Em rể là người đọc sách, thông tình đạt lí, tất nhiên sẽ không bạc đãi Ấu Nương. Nhị đệ tuy tính tình cương trực, nhưng thực ra lại là người có tấm lòng rất tốt, đệ đừng nên trách y. Y tươi cười vỗ lên vai Dương Lăng: - Đi nào, chúng ta đi ăn chút gì đó, nếu em gái biết ta để tướng công của nó đói thì nó sẽ nổi giận với ta mất, ta không gánh nổi trách nhiệm này đâu. Y mượn động tác lại gần, lặng lẽ huých vào tay trái Dương Lăng, tay phải giữ lấy bả vai ông em rể, tiếng khớp xương khẽ kêu "khục khục", lập tức phục hồi lại nguyên trạng hai khớp vai bị sái. Dương Lăng cảm thấy bất lực, thầm nghĩ xem ra mình cũng cần phải nhanh chóng thúc đẩy quá trình học "Phong ma côn pháp" thôi. Nếu không thì mình làm thịt cá cho mấy người này làm dao thớt, cuộc sống của mình sau này sẽ không dễ chịu tí nào đâu. Buổi chiều tà, khi vừa vượt qua ngọn núi cuối cùng ở phía trước, cổ thành Kê Minh bỗng hiện ra trong tầm mắt. Vừa leo qua núi, mọi người đều sững sờ, kinh hoàng. Lúc này ánh hoàng hôn đỏ như máu, từng đụn khói thuốc súng lập lờ bốc lên từ cánh đồng tuyết, pha lẫn mùi máu tanh nồng nặc. Trên mặt tuyết, hàng trăm xác người đang nằm ngổn ngang, giống như bị đàn trâu chạy qua giày xéo. Mỗi ngọn giáo đều xuyên qua một thi thể, lẻ loi vươn cao trong làn gió. Trên xác rất nhiều quân Minh hoặc quân Thát đều vương những ngọn cỏ khô, tuyết nhuộm chiến bào. Vài con chiến mã vô chủ mang theo vết thương trên mình đang chậm chạp bước đi trên cánh đồng tuyết, thỉnh thoảng hí lên những tiếng thảm thương khiến cho khung cảnh đầy xác người càng toát lên vẻ thê lương. Từ tình cảnh này có thể thấy, một ngày một đêm đó, quân Minh và quân Thát ở trước trạm Kê Minh giằng co chém giết không biết bao nhiêu hiệp. Không rõ tình hình hiện tại ra sao, quân Thát đã lùi chưa hay vẫn còn đánh chiếm Kê Minh? Lòng Dương Lăng trầm xuống, nếu như trạm Kê Minh đã bị Thát tử chiếm rồi, vậy thì Ấu Nương.... Nghĩ tới điều này,trong lòng y cực kì trống rỗng, hồn bay phách lạc, muốn lao nhanh xuống núi. Thấy vậy, Hàn Lâm liền giữ y lại, quát lên: -Chớ nên lỗ mãng, phải nhìn cho rõ đã! Hàn Uy đứng ở nơi cao, rẽ đám cỏ lạnh, nheo mắt nhìn một lát, hưng phấn kêu lên: - Là cờ của nhà Minh, trạm Kê Minh vẫn nằm trong tay quân Minh. Hơn trăm nạn dân nghe vậy, vẻ mặt đang lo lắng trở nên rạng rỡ phấn khởi. Không cần kêu gọi, cả đoàn người liền ráng sức băng qua chiến trường đẫm máu đáng sợ này, nhanh chân chạy về phía Kê Minh. Dương Lăng biết mình suốt một ngày một đêm không trở về, không biết Ấu Nương sốt ruột đến nhường nào. Lúc ở trên núi y biết có vội cũng chẳng có tác dụng gì nên còn giữ được bình tĩnh, nhưng lúc này đây thấy Kê Minh đã ở trước mắt, trong lòng kích động, y càng chạy càng nhanh hơn. Nhưng đôi giày của y lại không thích hợp để đi đường núi, vừa mới chạy đã mệt lử, khiến cho y loạng choạng ngã mấy lần liền. Mấy anh em Hàn Uy phải chăm sóc cho các cụ cao tuổi nên không rảnh tới giúp y. Mã Liên Nhi thấy thương, tuy cũng muốn tới đỡ y, nhưng người nhà họ Hàn, họ Dương gia ở đây, nàng là người dưng sao có thể đỡ một người đàn ông, nên chỉ đành coi như không thấy. Hàn Lâm thấy vậy thầm lắc đầu, biết rằng xương cốt thân thể con rể vẫn còn yếu đuối quá. Mà y là tú tài, chắc là không thèm để ý tới cái phương pháp rèn luyện thân thể bằng cách múa thương xách đao của mình đâu. Lão mò mẫm móc từ trong người ra một cái bao bố, bên trong đều là những thứ lão kiếm được trong lúc đi săn, bao gồm cẩu kỷ (vị thuốc đông y), nhung hươu, đuôi hổ, xương hổ... Ừm... trong lòng lão thầm tính toán chờ đến khi vào thành rồi sẽ ủ rượu hầm canh cho con rể uống để bồi dưỡng thân thể mới được Càng tới gần cổ thành, từ nam chí bắc, tử thi và máu trên mặt đất càng nhiều. Cổ thành Kê Minh được xây bằng gạch xanh, cô độc đứng sừng sững dưới bóng núi nhập nhoạng. Có thể thấy rõ cổng thành dù đã sụp một góc nhưng vẫn vươn lên trời cao, tạo thành một đường cong tuyệt đẹp. Trên tường thành thấp thoáng bóng người đang qua lại. Đoàn người càng dìu nhau tới gần, số người trên tường thành cũng nhiều hơn. Ánh chiều tà rọi xuống tháp canh, làm cho đao thương và những bó tên trong tay bọn họ lấp lánh bén ngọt. Dương Lăng sợ quan binh trên tháp canh tưởng nhầm mình là Thát Tử mà bắn tên bừa, do vậy, y liền chặn bước chân của nạn dân, một mình đi lên phía trước, vừa đi vừa hét to về phía trên thành: - Ta là Dịch thừa Kê Minh Dương Lăng. Đằng sau là người dân ở thôn trấn phụ cận, vị đại nhân nào hiện đang trấn giữ tháp canh, mời ra gặp mặt. Y còn đang do dự nhìn đám người trên tháp canh (tường thành), thì bỗng một bóng người quen thuộc lọt vào trong tầm mắt. Là Ấu Nương, nàng đứng trên tháp canh cao cao. Bóng tà dương chiếu xuống cổ thành, cũng chiếu xuống người nàng, khiến cho thân thể nàng như được phủ một lớp viền màu vàng. Dương Lăng ngửa mặt nhìn nàng, thấy ánh mắt vui mừng khôn xiết của nàng tỏa sáng như ánh mặt trời. Bốn mắt nhìn nhau, sóng lòng dâng trào. Trên tháp canh, Giang Bân cất cao giọng ồ ồ: - Đúng là Dương Dịch thừa rồi, mau mở cổng thành! Mau mở cổng thành! Hàn Ấu Nương ngẩn ngơ nhìn Dương Lăng, khuôn mặt thùy mị hiếm có, không hề nghe thấy gì chung quanh.

Chương 43: Cẩm Y Bách hộDịch: TheJoker Biên dịch: Lamsonquaikhach Biên tập: nguyenthai Hiệu đính: Nguồn: www.tangthuvien.com - Triều đình cần một chút thể diện, quân đội lại cần một con dê thế tội, Cẩm Y Vệ thì cần phần công lao này, ngươi hiểu chứ? Quyển một - Khói lửa suốt ba tháng - Chương 43 Cẩm Y Bách hộ (1) Hôm đó quân Minh đột phá khỏi vòng vây của người Thát, lập tức tháo chạy về trạm Kê Minh, toàn bộ ngựa xe dùng vận chuyển quân nhu đều bị vất lại ở Ngũ Sách Lĩnh. Do quân Thát bỏ ngựa, cận chiến nên bọn chúng cùng hoà vào trong đám quân Minh hỗn loạn, kết quả là không kìm lại được nên bị dòng người điên cuồng ép xông về phía trước. Trên dải đất bằng phía trước trạm Kê Minh xuất hiện một cảnh tượng chiến tranh chưa từng có: vây chặt xung quanh bọn tướng tá của hai bên địch, ta có ít nhất khoảng trăm tên thân quân, còn lại đều quấn lẫn vào nhau. Trong đó, xông lên phía trước cả chính là quân Minh, phía sau là quân Thát, phía sau nữa lại là quân Minh, cuối cùng là quân Thát. Mọi người cùng chạy đến nỗi nón xiên giáp lệch, kèn lệnh, chiến kỳ đều bị vứt sạch. Tất cả là một khối "thịt ba rọi" đang "lăn" về phía trước. Đám quân Thát chạy ở đằng đầu chẳng có lòng dạ nào mà rượt đuổi. Nhưng khi bọn chúng vừa ngoái đầu nhìn lại, thì thấy cuồn cuộn mênh mông quân Minh đang chạy thục mạng áp sát sau lưng. Nếu dừng chân, thì cho dù không bị giết cũng sẽ bị quân Minh giẫm chết, thế là bọn chúng đành phải cắm đầu cắm cổ chạy về phía trước. Theo sau quân Minh chính là hai cánh quân Thát ở trên chóp núi lúc đầu, vì nhìn thấy đằng trước quân Minh có người của mình, lại không nghe thấy thủ lĩnh ra lệnh thu binh, thế là bọn chúng cũng liền "bèo trôi theo nước" mà "chảy" về phía trước. Do vậy hai bên vừa chạy vừa đánh, trong khi thực lực binh sỹ cũng tương đương, nên nhất thời không phân thắng bại. Từ lúc Dương Lăng rời khỏi huyện nha chạy đi báo tin, Mẫn huyện lệnh không yên lòng bèn kêu người khiêng đến thành đầu chờ. Khi nhìn thấy đám quân như một cơn hồng thuỷ từ xa xa ập đánh tới, Mẫn huyện lệnh sợ bắn người, liền vội vã ra lệnh cho sỹ tốt thủ thành dàn đại pháo, chuẩn bị nghênh địch. Đến khi loạn quân chạy tán loạn đến dưới thành, thấy cảnh tượng kinh ngạc ngàn năm có một này, nhất thời Mẫn tri huyện nhìn mà miệng mồm há hốc, hai hàng lông mày dựng đứng cả lên. Lão thật không rõ tình hình bên dưới thế nào, là quân Minh đã tạo phản hay là quân Thát đã quy hàng. Đến khi thấy loạn quân dưới thành vẫn "ngươi một đao, ta một thương" chém giết nhau không ngừng, lão mới đoán ra mấy phần căn nguyên. Nếu mở cổng thành lúc này, loạn quân Thát Đát thế nào cũng sẽ thừa lúc hỗn loạn mà xông vào thành. Để đội quân hơn một vạn người này biến trạm Kê Minh thành chiến trường, toà cổ thành này chắc chắn sẽ bị phá huỷ. Do vậy, Mẫn Văn Kiến quyết định dứt khoát, lập tức ra lệnh cho quân đội sở thuộc của Giang Bân nghiêm thủ thành trì, không mở thành cho bất kỳ ai. Dưới thành binh sỹ quân Minh kêu gào "mở thành", Hoàng huyện thừa dìu Mẫn tri huyện đứng trên thành đầu, hướng xuống thành la lớn: - Giết giặc là trách nhiệm của các ngươi, giữ đất là chức trách của bổn huyện. Quân Thát còn chưa lui thì cổng thành còn chưa mở! Đôi khi, nỗi sợ hãi cực độ cũng có thể khiến người ta sinh ra dũng khí giết người. Trong lúc binh sỹ quân Minh còn chưa hết kinh hoảng thì lại bị chặn mất đường lui, quay đầu lại nhìn, vốn dĩ bọn Thát tên nào cũng cao to, kéo đến kéo đi như một cơn gió, nhưng hôm nay bọn chúng cũng giống như bọn họ, chạy đến nhễ nhại mồ hôi, trông cực kỳ thảm hại, tức thì bọn họ dũng khí dâng trào, không cần tướng, tá hạ lệnh liền bắt đầu "bắt cặp" chém giết luôn. Mẫn huyện lệnh điều động toàn bộ hơn bốn trăm quan binh lưu thủ ở ba cổng thành khác đều đến bờ tường thành nam, dùng cung tiễn hiệp trợ quân Minh dưới thành. Nhiều mũi tên bất ngờ được bắn đi, tuy rằng địch ta hỗn loạn đã giảm thiểu lực sát thương, nhưng sức uy hiếp về tâm lý lại cực lớn. Bá Nhan Mãnh Khả tự mình dẫn đại quân chặn đường quân Minh ở cuối đầu Hồ Lô cốc, lấy khoẻ ứng mệt (dĩ dật đãi lao). Sỹ tốt Thát Đát lại như sói như hổ, nghênh chiến với quân Minh đang quýnh quáng, dĩ nhiên quân Minh lập tức tan rã, Hạ đô ty Hạ Sĩ Kiệt tử trận. Bá Nhan Mãnh Khả liên tục đuổi theo, nhưng không ngờ trận chiến lại biến thành như thế này. Lúc này số lượng nhân mã của hắn vốn đã hơi chiếm thượng phong so với quân Minh, về năng lực cận chiến thì lại càng bỏ xa quân Minh, nhưng muốn giết chết hết một nghìn binh lính quân Minh thì bản thân cũng tổn thất hết tám trăm. Vì vậy, nếu như thật sự muốn quét sạch những binh sỹ quân Minh đã đỏ mắt liều mạng này, hắn cũng không chắc sẽ còn người nào có thể bình yên trở về hay không. Ngoài ra hắn vẫn chưa quên tham tướng doanh mã Trác Lộc Thạch đang chỉ huy một đội quân đang tiến tới gần. Mặc khác, đại quân của Quảng tham tướng Uất huyện tuy bị một cánh nhân mã khác của mình dẫn dụ, nhưng hơn hai nghìn quân tinh nhuệ của Du kích tướng quân Dương Gia Long cũng đang thẳng tiến về phía Hoài Lai, nếu không thể tốc chiến tốc thắng thì sẽ bị quân Minh bao vây ngược lại. Thế là, Bá Nhan Mãnh Khả đã đưa quân đánh lén được một trận, hết cách đành phải thu thập loạn binh, bắt đầu thoái lui. May mắn cho quân Thát là lúc này quân Minh tự ai nấy đánh, nên không cách nào tổ chức phản kích một cách hiệu quả. Vì vậy, hỗn chiến kéo dài đến nửa đêm, Bá Nhan Mãnh Khả đã có thể thu thập loạn quân rút lui, cướp lấy ngựa rong bên ngoài Hồ Lô cốc rồi trốn xa. Lúc này Mẫn tri huyện mới mở cổng thành cho tàn quân vào thành. Quân Minh bấy giờ như chim sợ cành cong, hối hả rút vào thành, không có lấy cả dũng khí để thu dọn chiến trường. Trận chiến này quân Minh tổn thất hai nghìn binh sĩ, ngoài ra ba trăm cỗ chiến xa, tám trăm thớt chiến mã đều bị vất lại ở Hồ Lô cốc. Hà tham tướng thủ ở trạm Kê Minh thêm ba ngày, rồi phụng lệnh Tổng binh Tuyên phủ thu binh quay về thành, còn nhân mã quân đội sở thuộc của Tất đô ty thì lưu thủ tại Kê Minh. Lúc này, Hà tham tướng biết rằng con đường làm quan của mình đã mịt mờ rồi, đành ngoan ngoãn chờ nghe hạch tội. Sau khi về thành, Dương Lăng đã viết lại một ít tri thức về tăng cường tố chất binh lính và vận dụng hoả khí đưa cho Hà tham tướng. Y thấy rằng, hiện nay loại quân đội "trọng tướng không trọng binh, hai quân giao chiến đều dựa vào dũng tướng, tướng dũng thì binh cũng như hùng sư (sư tử đực), mất tướng thì trăm vạn sỹ binh cũng biến thành cát vụn" này thật sự là quá có vấn đề. Tuy nhiên ngay khi y vừa mới rời đi, thì những điều y đã khổ tâm tư lự viết ra liền bị Hà tham tướng cười khẩy ném xuống bàn: - Một kẻ thư sinh thì biết quái gì về quân sự chứ? Trái lại, vị Lưu công công kia lại lặng lẽ nhặt lấy bức thư cất vào trong ngực áo. Bây giờ bất cứ thứ gì có thể gây chút bất lợi cho Hà tham tướng đều là "chứng cứ" để lão "chạy tội", đùn đẩy trách nhiệm cho người khác. Vị Lưu công công này ít học nhưng không ngờ lại có thể viết ra được một bản sớ chương "trình độ cao" đưa khoái mã phi báo về kinh sư: quân ta tổn thất thê thảm, một vị đại quan tứ phẩm tử trận, tất cả đều vì Hà tham tướng ngang ngược độc hành, tham công mạo tiến, mắc mưu giặc Thát. Ngày thứ bảy sau khi cuộc chiến chấm dứt, Dương lão thái gia bận lòng về nhà cửa ở quê, cho nên thế cục vừa ổn định liền không nhẫn nại được nữa, đòi dẫn tộc nhân trở về Dương gia bình. Thấy vậy, Dương Lăng thở phào nhẹ nhõm. Qua bảy ngày này, y mới biết dấu ấn gia tộc in sâu trên thân thể một người ở thời đại này như thế nào. Nếu trong gia tộc có một người tài hoa xuất chúng, bất luận quan hệ họ hàng xa hay gần, kẻ đó đều phải gánh vác trách nhiệm trọng đại cho cả gia tộc. Vì thế, cả nhà họ Dương nhân khẩu khoảng sáu, bảy mươi người (trong đó có vài người chỉ là họ hàng cùng chi gần cả trăm năm trước), vào thành ăn, ở toàn bộ chi phí đều đến đòi y một cách rất là "hợp tình hợp lý", hệt như đó chính là nghĩa vụ mà y phải hoàn thành. Hơn nữa những người khác, bất kể là Ấu Nương hay là hương thân đồng liêu, họ cũng đều coi chuyện đấy là lẽ đương nhiên. Tuy nhiên, đối với Dương Lăng thì điều này thật sự hơi khó hiểu. Do vậy, sau khi vất vả tiễn đưa những người này xong, Dương Lăng liền nhẹ nhõm trở về sở Dịch. Một tên tiểu lại chạy đến trước mặt bẩm báo: - Đại nhân, có một vị tiên sinh muốn gặp ngài, chờ trong phòng khách đã lâu. Đưa cương ngựa cho một tên dịch tốt, vội chạy đến phòng tiếp khách be bé của sở Dịch thừa, Dương Lăng thấy một lão già mặc áo bào xanh đang ngồi vắt chân trên chiếc ghế dựa chậm rãi nhấp trà. Dương Lăng biết trà của sở Dịch được chia thành bốn cấp, nếu không phải là những quan viên mà mình tự thân khoản đãi, bọn tiểu lại sẽ không dâng loại trà ngon thượng đẳng lên. Khi thấy loại trà tứ đẳng thấp kém ấy mà lão vẫn thưởng thức ngon lành đến vậy, y bèn thầm đánh giá: xem ra lão ta cũng chẳng phải là nhân vật trọng đại gì. Nghĩ vậy, y lấy làm yên tâm, bèn ung dung cười nói: - Vị tiên sinh đây, tại hạ chính là Dịch thừa của bổn huyện, không biết có điều chi chỉ giáo? Lão già mặc áo bào xanh một tay bưng trà, một tay nhịp khẽ lên bàn ra điều hài lòng. Nhìn dung mạo của lão thấy tuổi trạc ngũ tuần, vẻ mặt quắc thước, cặp mắt phượng đang khép hờ. Nghe tiếng Dương Lăng, lão hơi mở mắt, nhìn từ trên xuống dưới mấy lượt, rồi cười ha hả nói: - Dương lão đệ đã về rồi à? Còn nhận ra ta không? Lão vừa nói, vừa nhẹ tay đặt chén trà lên bàn. Dương Lăng liếc thấy trên tay lão đeo một chiếc nhẫn ngọc lục trong suốt. Thời đó vẫn chưa có sản phẩm hợp chất nhân tạo, màu sắc chiếc nhẫn lại êm dịu như vậy nhất định giá trị của nó không nhỏ. Dương Lăng chột dạ, càng cảm thấy thêm phần hiếu kỳ đối với thân phận của người này. Y bèn nhìn kỹ lại, thấy lão thật cũng có hơi quen quen, song nhất thời y lại không nhớ nổi đã gặp lão ở đâu rồi. Lão già áo bào xanh thấy Dương Lăng có phần lúng túng, không kìm được bèn bật cười ha hả, đứng dậy nói: - Lần trước ta và ngươi đã gặp nhau, cũng là ở trong sở Dịch thừa này, khi đó ta là khách, ngươi cũng là khách. Nhưng mà không ngờ chưa đến một tháng, ngươi đã làm chủ nhân rồi. Dương Lăng "a" lên một tiếng, vui vẻ chắp tay nói: - Ta nhớ ra rồi, ông là... Ông là bằng hữu của Mã dịch thừa Mã đại nhân, đại dược thương (buôn dược) của Xuyên, Thiểm, Ngô Kiệt, Ngô lão tiên sinh. Ngô Kiệt, cũng chính là nhà buôn dược lớn đã giúp Mã dịch thừa khuyên nhủ nhà họ Vương rút kiện khi xưa, nghe xong cũng phá ra cười to, liền đó chỉnh lại nét mặt, nghiêm túc nói: - Ta không phải là bằng hữu của Mã dịch thừa, mà chính là thượng cấp của y. Dương dịch thừa, hôm nay... Ta cũng là thượng cấp của ngươi. Dương Lăng mặt mày rúng động nhìn lão già thoắt cười tươi roi rói, thoắt thâm trầm lạnh nhạt này, trong lòng chợt loé linh quang, không khỏi la thất thanh: - Lão tiên sinh là... là Cẩm Y... Ngô Kiệt nét mặt dãn ra, mỉm cười, chậm rãi nói: - Hiện giờ ngươi không phải cũng vậy sao? Dương đại nhân, Dương bách hộ! Dương Lăng sững sờ. Bách hộ? Bách hộ là một chức quan chánh lục phẩm đó trời, và còn là quan chức thuộc vệ sở nữa. Từ lúc nào mình đã tòng quân, lại còn được lên Bách hộ vậy? Thấy mặt y tràn đầy vẻ kinh ngạc, Ngô Kiệt cười lớn khoát tay nói: - Không cần phải ngạc nhiên. Ngươi vừa được nhậm chức Dịch thừa tạm thời, thì bộ Lại đã phát công văn, phỏng chừng không lâu sau thì ngươi sẽ có thể tiếp nhận lệnh bổ nhiệm thôi. Dịch thừa Đại Minh chúng ta tuy thuộc quản hạt của bộ Hộ, nhưng ai ai cũng biết rằng, tất cả dịch thừa đều là người của Cẩm Y Vệ chúng ta. Bổn Thiên hộ đã phái người điều tra về ngươi rồi. Ngươi là tú tài năm Hoằng Trị thứ mười lăm, gia thế trong sạch, là hậu duệ của danh tướng Bắc Tống nhà họ Dương. Bây giờ, ta phụng chỉ dụ của Bắc Trấn phủ ty (2) Trấn phủ Trương đại nhân triệu ngươi gia nhập Cẩm Y Vệ, phụ trách truy bắt và thám thính tình báo khu vực Hoài Lai, trao chức Bách hộ, mọi việc ngươi sẽ trực tiếp chịu sự điều khiển của bổn Thiên hộ. Nói đoạn, Ngô Kiệt rút từ trong ống tay áo ra một cuộn giấy, một thẻ bài giắt lưng, mỉm cười đưa cho Dương Lăng rồi nói tiếp: - Dương bách hộ! Mã dịch thừa vất vả nửa đời, cũng chưa được phong Bách hộ. Ngươi tuy mới sơ nhiệm Dịch thừa, nhưng đã vì Đại Minh ta lập được đại công, thế nên giành được sự tưởng thưởng này. Ha ha, Bách hộ của Cẩm Y Vệ ta so với Thiên hộ trong quân hãy còn cao hơn ba phần, ngươi chớ có mà phụ sự ân thưởng của Trấn phủ Trương đại nhân đấy nhé! Mù mờ nhận lấy thẻ bài và chỉ dụ, Dương Lăng lắp bắp: - Đại nhân, tại hạ... ti chức thật sự không hiểu, ti chức đã từng lập được đại công gì? Ngô Kiệt cười nói: - Có công mà không kiêu ngạo, quả nhiên rất tốt, có điều đã là công của ngươi thì ngươi cũng không cần phải khiêm nhường. Tiểu vương tử Thát Đát bố trí mai phục ở Hồ Lô cốc muốn một mẻ tóm gọn quân ta, nhưng may nhờ mật thám Cẩm Y Vệ nhận được tin tức này, Dương dịch thừa lại phi ngựa báo tin mới khiến quân đội Đại Minh tránh được họa thua trắng. Đây còn không phải là một đại công sao? Dương Lăng thất thanh: - Cái gì? Nào có chuyện đó, Thiên hộ đại nhân đã hiểu lầm rồi. Khi tại hạ nhận được tin tức đuổi đến thì đã chậm trễ, nếu không phải nhờ Tất đô ty dẫn quân liều chết mở một đường máu thì quân ta đã... Nói đến đây, y bất giác lạnh người, lập tức không dám nói tiếp những lời phía sau nữa. Lúc này, ánh mắt của vị Ngô thiên hộ diện mạo quắc thước, phong thái nhẹ nhàng đã trở nên âm u lạnh lẽo, trên người toát ra vẻ lạnh lùng mà chỉ những kẻ có thể tuỳ ý quyết định sinh tử kẻ khác mới có thể có. Lão thoáng cười nhạt, rất lâu sau mới buông ra từng chữ: - Tiểu vương tử Thát Đát bố trí mai phục ở Hồ Lô cốc, muốn một mẻ tóm gọn quân ta. Hà tham tướng tham công mạo tiến, nhưng may nhờ Cẩm y vệ Dương dịch thừa phi ngựa báo tin, nên quân Đại Minh không bị tiêu diệt, có đúng hay không? Dương Lăng lạnh người, bất giác đáp: - Việc này... Ti chức... Đúng ạ! Ngô Kiệt nhẹ gật đầu, đột nhiên lại mở miệng cười, nói: - Ngươi vốn là một kẻ đọc sách, thân lại ở xa chốn triều đình nên không biết chuyện trong triều, không hiểu một số chuyện vốn cũng không thể trách ngươi được. Nhưng giờ ngươi đã là người của Cẩm Y Vệ, cho nên... Những chuyện trước đây không hiểu, bây giờ nhất định ngươi phải hiểu! Dương Lăng không cầm lòng được hỏi: - Ý đại nhân là... Ngô Kiệt đưa ngón tay đeo ban chỉ (3) bằng ngọc xoa xoa cằm, thong thả: - Triều đình cần một chút thể diện, quân đội lại cần một con dê thế tội, Cẩm Y Vệ thì cần phần công lao này, ngươi hiểu chứ? (1) Thời Minh, chế độ quân đội vệ sở cũng lập ra Bách hộ sở. Bách hộ là quan chỉ huy (trưởng quan) của Bách hộ sở, thống lĩnh 112 quân, gồm 2 tổng kỳ, mỗi tổng kỳ gồm 5 tiểu kỳ; mỗi tiểu kỳ 10 lính. Bách hộ sở trực thuộc Thiên hộ sở. Có lẽ con số 112 bao gồm 2 vị chỉ huy tổng kỳ lẫn 10 vị chỉ huy tiểu kỳ (Rất cám ơn Bác luulang :cute::cute:) (2) Nhà Nguyên, Minh đều cho chư vệ bố trí Trấn phủ ty, thiết lập cấp quan Trấn phủ. Cẩm y vệ sở thuộc của nhà Minh có Nam Bắc Trấn phủ ty. Nam Bắc Trấn phủ ty là cơ cấu phụ trách thám thính và truy bắt hình sự của Cẩm y vệ, trong đó "Nam Trấn phủ ty" phụ trách quân kỷ, pháp kỷ của bản vệ. "Bắc Trấn phủ ty" ghi chép các án kiện mà Hoàng đế đã khâm định, có ngục riêng (Chiếu ngục), có thể tự do bắt bớ, tra hỏi, hành quyết mà không cần phải qua tổ chức tư pháp. (3) Một loại nhẫn to đeo trên ngón tay cái, có từ đầu nhà Thanh, đến cuối nhà Thanh mới được biết đến rộng rãi. Đầu đời Thanh, ban chỉ được làm bằng xương, dùng để bảo vệ ngón tay cái khi bắn cung. Sau này, ban chỉ được làm bằng vàng, bạc, ngọc thạch và dùng để trang sức cho giới quý tộc Mãn thanh, hoặc là tặng phẩm của vua ban cho bề tôi có công. (Nguồn: baike)

Chương 44: Trăng tỏ khó trònDịch: TheJoker Biên dịch: Lamsonquaikhach Biên tập: Ba_Van Hiệu đính: Nguồn: www.tangthuvien.com Dương Lăng hoàn toàn hoá đá: "Đồng chí, đồng chí từ nơi nào vượt thời không đến đây vậy?" Quyển một - Khói lửa suốt ba tháng - Chương 44 Trăng tỏ khó tròn Ngày mai là rằm tháng giêng. Sau khi trải qua cuộc chiến loạn đêm giao thừa, dân chúng đã tìm lại được cảm giác ngày Tết. Ngay khi Hà tham tướng hậm hực ra đi, quan viên Kê Minh Dịch cũng dần bắt đầu mở tiệc mời nhau tới tấp. Mãi đến hơn mười ngày sau, lệnh bổ nhiệm của bộ Lại mà theo lời của Ngô thiên hộ là sẽ lập tức đến ngay mới rề rà đưa đến, khiến cho Dương Lăng được một phen kiến thức trọn vẹn sự chênh lệch giữa hệ thống tình báo bí mật và đường đi bình thường của quan phủ. Hôm nay, Mẫn huyện lệnh thiết tiệc khoản đãi Tất đô ty. Tuy rằng thưởng phạt của triều đình còn chưa ban bố, song ai nấy đều biết Mẫn tri huyện sắp được thăng chức. Tuy quân Hoài Lai thua trận, nhưng trách nhiệm không thuộc về huyện lệnh. Hơn nữa, huyện lệnh là quan văn mà có thể tự tay chém chết vương tử của thủ lĩnh địch quân, trong mắt của thánh thượng và đám đại học sỹ, ý nghĩa chính trị của nó đã vượt xa bản chất của cuộc chiến. Đang lúc rượu cao hứng, Mẫn tri huyện cười hề hề đi đến trước mặt Dương Lăng, thấp giọng: - Dương sư gia à, em rể của bổn huyện đã đưa tin đến cho bổn huyện, kinh thành muốn điều ta đi phương nam, nghe đâu là điều nhiệm làm Phó sứ Diêm vận ty Hải Ninh. Dương Lăng không biết chức quan này phẩm cấp cỡ nào, song thấy Mẫn tri huyện mặt mày hớn hở, nên y nghĩ chắc hẳn chức quan không nhỏ. Hơn nữa vùng đất biên thùy nghèo xác hoang vu này đương nhiên không thể so sánh với Hải Ninh, thế là y vội vàng vòng tay chúc tụng: - Chúc mừng đại nhân! Chúc mừng đại nhân! Phó sứ Diêm vận ty là quan Tòng ngũ phẩm, đối với tri huyện một huyện cấp ba như Mẫn Văn Kiến có thể được xem là đã thăng liên tiếp ba cấp rồi (1). Quan trọng nhất chính là Diêm vận sứ là một chức quan cực tốt. Diêm thương (nhà buôn muối) vùng đó đều là ức vạn phú ông, giàu nứt đố đổ vách, chỉ cần chút tiền lọt qua kẽ hở ngón tay thôi cũng đủ cho người ta ăn cả đời rồi. Mẫn tri huyện thích chí cười tít mắt, xua tay lia lịa: - Nói nhỏ chút đi! Nhỏ chút đi! Chiếu chỉ còn chưa ban xuống, chưa thể nói gì được. Thoáng nhìn đám quan lại đang luân phiên mời rượu nhau, nói cười rôm rả, lão nói tiếp với Dương Lăng: - Sau khi bổn huyện qua đó, một khi ổn định rồi sẽ liền giúp ngươi hoạt động, cũng điều ngươi đến Giang Nam. Bổn huyện ngồi ở cái xứ Kê Minh khỉ ho cò gáy này hết hai năm cũng không được chút công tích nào, ngươi vừa tới, bổn huyện liền được thăng quan. Ngươi thật đúng là phúc tướng của bổn huyện. Điều đến Giang Nam tất nhiên là tốt, nhưng mà tôi còn mạng hưởng phúc sao? Vả lại thân phận công khai trước mắt của tôi là Dịch thừa, trong tối đã là Cẩm y vệ Bách hộ, còn cao hơn lão đại ông một cấp, không được Cẩm y vệ gật đầu, việc điều động đâu dễ vậy được? Nghĩ đến đây, Dương Lăng gượng cười, đáp: - Đại nhân đã yêu mến đề bạt ti chức, Dương Lăng thật cảm động, xin ghi khắc trong tim, không biết lấy gì báo đáp! Trộm thấy y có vẻ lơ đễnh, Mẫn tri huyện không khỏi cười ha hả. Lão đấm vai Dương Lăng, thân mật nói: - Đại trượng phu chí tại bốn phương, chớ nên bi quan như vậy. Vả lại sau khi ta nhậm chức, thế nào cũng phải mất một năm rưỡi mới có thể tìm được cơ hội điều ngươi đi. Ngươi nên thoải mái một chút, thời gian dài như vậy đủ để sinh con rồi. Đã có lòng thì "ra tay" sớm chút đi, chớ nên lề mề chậm chạp. Dương Lăng ù ù cạc cạc, chả hiểu mô tê gì: - Ủa! Ủa? Sao ti chức chẳng hiểu đại nhân đang nói gì cả? Mẫn tri huyện bĩu môi, liếc xéo y nói: - Tiểu tử nhà ngươi chả thành thật! Chuyện này mọi người đều biết cả rồi, ngươi còn muốn giấu ta sao? Ha ha, cũng khó trách ngươi phải giấu giấu diếm diếm, đứa con gái đó thật sự là "mọng véo ra nước" quá mà. Nhưng ngươi yên tâm đi, ông đây không ham nữ sắc, ha ha ha... Dương Lăng đầu óc mù mờ còn đang muốn truy vấn, Tất đô ty đã gọi lớn kêu Mẫn tri huyện qua. Y đang cảm thấy thắc mắc quay người lại thì Lưu điển sử mỉm cười đi tới, nâng chén chúc mừng: - Dương lão đệ, chúc mừng song hỷ lâm môn, hôm trước vinh dự nhậm chức dịch thừa, ít hôm nữa lại “đỗ nhỏ” (2). Đến lúc đó Lưu mỗ lại phiền kính một chén rượu nhạt đấy. - Nào có, nào có, Lưu đại nhân khách khí rồi! Dương Lăng cười rồi cùng nâng chén. Lúc này y mới ngẫm lại ý tứ trong câu nói vừa rồi: “Đề tên trên bảng vàng là đỗ lớn, động phòng hoa chúc là đỗ nhỏ. Hắn nói mình ‘đỗ nhỏ' là có ý gì?” Dương Lăng muốn hỏi lại cho rõ, nhưng ai nấy đều chỉ uống cho cao hứng rồi đi lung tung chuyện trò, vớ lấy một người thì lè nhè vài câu. Lưu điển sử vừa dứt lời đã loạng choạng đi thẳng đến chỗ Vương chủ bộ. Ánh mắt Dương Lăng mãi dõi theo lão đến nổi Hoàng huyện thừa đến bên cạnh mà cũng không hay biết. Hoàng huyện thừa thong thả bước đến cạnh y, ho nhẹ một tiếng, rồi mỉm cười nói: - Mẫn đại nhân sắp thăng quan! Dựa vào tư cách, lai lịch của cậu và mối quan hệ với Mẫn đại nhân, theo lão phu đoán, không tới mấy năm cậu sẽ có thể lên đến thất phẩm. Tiếp đó có thể vượt được Vũ môn hay không, phải xem phúc khí của cậu nữa. Cậu còn trẻ, chỉ cần cẩn thận làm quan, một mai phong vân tề tụ (3), tiền đồ tự nhiên vô lượng, nóng vội sẽ lại không được. Dương Lăng thấy Hoàng huyện thừa đến, vội cung kính đáp: - Đa tạ Hoàng lão chỉ điểm, học sinh xin thụ giáo! Hoàng huyện thừa thấy chung quanh không ai chú ý, đột nhiên thấp giọng nói: - Có điều chuyện lần này cậu thật đã lỗ mãng rồi! Nhà họ Mã tuy đã sa sút nhưng suy cho cùng người ta cũng từng làm quan, hôm nay chuyện của các cậu ai ai cũng đã biết, tại sao cậu cứ kề cà không chịu sắm đồ mua thiếp (4)? Nếu trong túi eo hẹp, mấy năm nay lão phu vẫn còn chút tiết kiệm, cậu cứ tạm cầm để ứng phó trước vậy. Dương Lăng thất kinh: - Hoàng lão, ông nói gì vậy? Nạp thiếp? Tôi... tôi... Tôi nói là muốn nạp thiếp khi nào vậy? Hơn nữa tiểu thư nhà họ Mã vì lý gì lại chịu làm thiếp người ta? Y vừa nói xong, Hoàng huyện thừa đã giật nảy mình, vội luôn miệng nói: - Cẩn thận lời nói, cẩn thận lời nói! Cậu nói bậy bạ gì thế? Làm thiếp người ta tuy hơi mất thể diện, nhưng cũng không ai lại chê cười nàng. Còn cậu nói như vậy, lỡ mà lan truyền ra ngoài, tiểu thư nhà họ Mã làm sao sống được đây? Dương Lăng trợn mắt hỏi: - Hoàng lão, rốt cuộc là đã xảy ra chuyện gì vậy? Tại sao... tại sao học sinh nghe mà không hiểu? Hoàng huyện thừa cười nói: - Nạp thiếp rước người đẹp về, đó là chuyện hết sức phong lưu, cậu còn nghệch mặt ra là sao? Hôm đó cậu cùng Mã tiểu thư quay về thành, bọn ta với Mẫn tri huyện đã nghe Mã tiểu thư kể lại đã từng cùng cậu trải qua một đêm trong hố tuyết trên rừng núi ... Nghe xong, lúc này Dương Lăng mới chợt tỉnh ngộ, không kìm được đành bật cười ha hả, nói: - Hoàng lão quả nhiên đã hiểu lầm rồi. Tôi cùng Mã tiểu thư chỉ là vì trời đông đất lạnh, không hề có bất kỳ..., Nói đến đây, y chợt nhớ đến chuyện hai người từng ôm nhau qua đêm; cho dù ở thời hiện đại cũng đủ coi là mờ ám rồi, thế là y lập tức nghẹn họng, không nói gì được nữa. Hoàng huyện thừa vân vê chòm râu, hơi phật lòng, nói: - Tóm lại chuyện cô nam quả nữ cùng nhau qua đêm là thật, đúng không? Nàng ta dám kể chuyện này cho mọi người, hiển nhiên đã có tình ý với cậu. Nữ tử coi trọng danh tiết, nàng còn có thể chọn chồng khác tái giá được sao? Làm giàu thì phải nhân từ, làm quan thì phải liêm chính, làm người thì phải có tình nghĩa. Cậu là kẻ đọc sách thánh hiền, chẳng nhẽ còn không hiểu đạo lý này hay sao? Ta coi cậu như con cháu nên mới nói câu chân thành như vậy với cậu, cậu nhất định chớ phạm sai lầm đó! Dương Lăng thoáng nghẹn lời, nhất thời cũng không nói thêm được gì... *** Tuyết đọng dưới chân bờ tường trên con đường truyền tin bị Dương Lăng giẫm lên phát ra những tiếng "rộp rộp". Bước vào gian thứ tư của dịch quán, ngẩng đầu nhìn thấy đèn treo trong sân của Mã Liên Nhi vẫn sáng, Dương Lăng nhớ lại lời Hoàng huyện thừa đã nói trong bữa tiệc hồi tối, trong lòng máy động bèn chầm chậm bước tới. Cửa phòng không đóng, dưới ánh đèn có thể thấy khói bếp bên trong lan toả ra ngoài, Dương Lăng bước tới cửa, nhìn thấy Mã Liên Nhi đang ngồi trên chiếc ghế đặt trước bếp, một tay chống cằm, một tay đun củi vào lò, dáng trông rất nhàm chán, tư thế uể oải yêu kiều động lòng người. Ánh lửa soi lên khuôn mặt trắng bóng như ngọc của nàng, thoáng lộ vẻ ửng hồng mỹ lệ, đôi mắt quyến rũ mê người lờ mờ lộ vẻ trưởng thành: sự dằn vặt khiến cho người ta trở nên chín chắn. So với buổi đầu gặp gỡ, vị đại tiểu thư này hôm nay đã bớt sôi nổi và khinh xuất, bất giác đã nhã nhặn và trầm tĩnh hơn. Dương Lăng gõ nhẹ lên khung cửa. Mã Liên Nhi ngẩng đầu, nhìn thấy y, trong mắt nàng bỗng loé lên một tia vui mừng và thân thiết. Nàng phấn khởi định đứng dậy, song lại lập tức thu lại tình cảm đã biểu lộ, mỉm cười nói: - Từ lúc trở về thành, đã mấy ngày rồi không gặp huynh! Tiệc rượu đã tàn rồi sao? Dương Lăng giật mình, không nhịn được bèn hỏi: - Làm sao cô biết tôi đi dự tiệc? Mã Liên Nhi không trả lời, chỉ dùng cặp mắt biết nói liếc y thật sâu. Dương Lăng chợt sững người. Y chợt biết, những ngày qua chắc chắn Mã Liên Nhi không lúc nào không để ý tới hành tung của y. Những lời nàng nói trong cái đêm trên Ngũ Sách Lĩnh đó, thật chỉ là nói đùa sao? "Nàng ta dám kể chuyện này cho mọi người, hiển nhiên đã có tình ý với cậu. Nữ tử coi trọng danh tiết, nàng còn có thể chọn chồng khác tái giá được sao?" Ngẫm lại lời Hoàng huyện thừa, Dương Lăng chợt hiểu. Mình không biết có nhiều cấm kỵ như vậy, nhưng Mã Liên Nhi lại có thể không biết sao? Nàng đã kể lại những chuyện này, rõ ràng là đang tạo ra một sự thật đã rồi, lợi dụng dư luận khiến mình phải rước nàng về. Dương Lăng không khỏi cười khổ: - Liên Nhi tiểu thư! Có phải là cô đã cố ý đem chuyện chúng ta bị lạc trong rừng, cùng trải qua một đêm dưới hố tuyết kể cho mấy người Mẫn đại nhân phải không? Cô rõ ràng biết những thứ lễ nghi phiền phức đó hại chết người, vậy mà còn đem danh tiết của mình ra đùa được. Sao cô có thể làm ra chuyện ngốc nghếch như vậy chứ? Mã Liên Nhi chợt ngưng bỏ củi vào lò, im lặng một hồi, rồi đột nhiên bật cười lớn đáp: - Chẳng phải ngốc sẽ tốt hơn hay sao? Chẳng phải người ta thường nói con gái bất tài thì có đức sao? Huynh thích muội thông minh một chút hay là ngốc một chút? Nàng cười có phần xảo quyệt, lại có phần đắc ý như đã đạt được quỷ kế. Dương Lăng giậm chân nói: - Sao cô lại chẳng biết nặng nhẹ đến vậy? Mồm mép chết người, cô... Cô thật quá khinh xuất rồi! Tay Mã Liên Nhi thoáng run lên. Không hề ngẩng đầu lên, nàng cứ cúi đầu một hồi lâu rồi bỗng nghẹn ngào hỏi: - Dương Lăng! Có phải huynh rất ghét muội hay không? Bếp lửa hồng bùng lên những ngọn lửa, Dương Lăng bắt gặp một giọt nước mắt trong suốt nhỏ xuống mu bàn tay nàng, bất giác mềm lòng, bèn vỗ về: - Sao lại có thể như thế được chứ? Có lúc nào cô thấy tôi ghét cô không? Mã Liên Nhi nín khóc, mỉm cười: - Đương nhiên là... chưa thấy. Huynh có thích muội hay không, muội nhìn ra ngay. Bếp lửa hồng sáng rực, vẻ mặt tươi cười rạng rỡ đang mang đầy nét vui sướng lẫn đắc ý. Dương Lăng buồn bực. Nha đầu này chẳng những diện mạo giống hồ ly tinh, bụng dạ cũng hệt như một cô nàng tiểu hồ ly. Thật không biết mới nãy nàng ta thật sự đau lòng hay là giả đò đau lòng nữa, bộ dạng của nàng nào có giống như người mới khóc đâu? Bị y nhìn chằm chằm, Mã Liên Nhi vậy mà lại biết thẹn thùng, nàng ngượng nghịu cúi đầu, đỏ mặt nói: - Dương đại ca, đêm đó là muội không tốt. Huynh nói đúng, nếu như huynh thật sự thôi Ấu Nương, vậy còn đáng để muội yêu sao? Hôm đó ở dưới thành, nhìn thấy ánh mắt huynh nhìn Ấu Nương thì muội đã biết cả cuộc đời này sẽ không có ai có thể thay thế vị trí nàng ấy trong trái tim huynh. Muội nào dám mộng tưởng tranh giành địa vị đó, muội chỉ hy vọng... chỉ hy vọng huynh cũng có thể đối xử tốt với muội, thì muội đã đủ thoả mãn rồi. Nàng ngẩn ngơ nhìn chăm chăm vào ánh lửa bập bùng, ánh mắt tràn ngập sự khao khát được hạnh phúc, rồi nói với giọng mơ màng: - Muội chỉ cần có một phu quân có thể cưng muội, yêu muội thì đã cảm thấy mỹ mãn rồi. Ăn ngon mặc ấm? Muội không khao khát. Còn địa vị chính thê?... Hừm! Nếu như một nam nhân coi nữ nhân là tài sản riêng của mình, giống như cha muội, và cũng như rất, rất nhiều nam nhân Đại Minh chúng ta, thì cái gọi là chính thê đó, liệu có đem đến hạnh phúc cho người ta không? Bằng giọng điệu cứng cỏi chứa đựng một sự chín chắn không cân xứng với tuổi tác, nàng thổ lộ nội tâm thiếu nữ với Dương Lăng: - Muội lớn lên vùng biên ngoại, ăn nói, cư xử không biết giữ lễ, quy củ như con gái Trung Nguyên chúng ta. Nhưng muội tuyệt đối không phải là một đứa con gái tuỳ tiện. Dương đại cạ, muội sẽ tuân theo đạo làm vợ, kính trọng Ấu Nương. Dương Lăng giậm chân cười khổ: - Cô... Ngày thường thấy cô thông minh lắm mà, sao lại bất chấp lý lẽ như vậy chứ? Tôi không đùa với cô nữa, ngày mai tôi sẽ lập tức đi tìm Mã Ngang bái kết nghĩa. Hẳn không ai có thể huyên thuyên chuyện huynh muội vì mạng sống mà náu thân cùng một chỗ chứ? Mã Liên Nhi thấy y quay người sắp bỏ đi thì phát hoảng, nàng vội vã phóng tới ngăn y, rồi lao vào lòng ôm lấy y hờn mắng: - Cả nửa tháng huynh mới tới gặp muội, muội không cho huynh đi! Dương Lăng cuống lên, vội vã kêu: - Mau bỏ tay ra, để người ta trông thấy thì còn ra thể thống gì? Mã Liên Nhi càng ôm cứng lấy y không chịu buông. Khuôn mặt ngọc còn chưa khô lệ hé một nụ cười lấy lòng: - Kẻ có danh tiết không biết giữ là muội, kẻ đáng bị người ta nhổ nước bọt dìm chết cũng là muội. Hết thảy muội đều không sợ, huynh sợ gì chứ? Dương Lăng nghẹn họng, lắp bắp nói: - Là... Tôi... là tôi lo cho cô thôi! Mã Liên Nhi chợt đảo đôi mắt trong veo, quyến rũ nói: - Chàng vẫn có thể cưới, thiếp còn chưa gả, muội mới không sợ kẻ khác nói lời đàm tiếu. Trong ánh mắt loé lên một tia khinh miệt và oán hận kỳ lạ, nàng bỗng nhiên căm giận thốt lên một câu tục ngữ: "Nghe tiếng dế kêu mà không trồng trọt ư(5)!" Dương Lăng đứng trơ ra đấy, dở khóc dở cười. Mã Liên Nhi nở một nụ cười xinh đẹp, hai tay vẫn ôm lấy cổ Dương Lăng, say sưa nói: - Từ sau đêm ấy, muội rất nhớ vòng tay của huynh, nhớ đến những câu truyện xưa vừa dễ sợ, lại hấp dẫn mà huynh kể cho muội nghe. Huynh biết không, bắt đầu sau cái đêm ấy, muội đã không thể nào cách xa huynh được nữa. Lời của nàng thật sự thốt lên tự đáy lòng, ngữ khí hết sức chân thành. Đáng tiếc khuôn mặt trời sinh đoan chính của nàng vốn chứa sức mê hoặc của loài yêu tinh, chỉ là vì tuổi tác hãy còn nhỏ, còn chưa hiện quá rõ. Lúc này hình ảnh một thiếu nữ mơ mộng trong tình yêu, vẻ mặt nhu mì, má đỏ hây hây, bất kể có tình cảm chân thành và nồng nàn như thế nào cũng vẫn mang vẻ yêu kiều lẳng lơ, dường như đang cố ý quyến rũ người. Thấy vẻ mặt khó xử của Dương Lăng, nàng ranh mãnh nói: - Huynh thật muốn kết bái với đại ca muội à? Thật sự muốn làm thân ca ca của muội? Đôi mắt lấp lánh đen nhánh đó cháy ngầm hai ngọn lửa, bờ mi thẹn thùng rũ xuống, miệng khẽ ngâm nga một bài hát: "Củi khô ~ Lửa cháy ~ Nấu nên cơm ngon í a ~ Nghĩa huynh, nghĩa muội ~~~ Càng thêm thân ~~", chỉ hát được mấy câu, nàng không nén được xấu hổ mà vùi vào lòng Dương Lăng, lấy hết dũng khí nói: - Bài hát này muội học ở biên ngoại, huynh muốn làm anh… kết nghĩa của muội? Được á, muội thấy chả sao cả! Dương Lăng hoàn toàn hoá đá: "Đồng chí, đồng chí từ nơi nào vượt thời không đến đây vậy?" Cô nàng đại tiểu thư ở trước mặt người khác thì hoá trang thành một tiểu thục nữ này, ở trưóc mặt y lại tràn trề nóng bỏng hệt như một người đàn bà vùng quan ngoại, không chút che giấu (cái hotness của her!). Mã Liên Nhi lấy hết dũng khí mạnh dạn thổ lộ nỗi lòng xong, nhiệt độ trên khuôn mặt xinh xắn không ngừng tăng lên. Bàn tay của nàng dán lên cổ Dương Lăng, mu bàn tay bị lò bếp hun, mềm mại và nóng hừng hực. “Đôi gò bồng đảo đầy đặn mê người ở trước ngực nàng có phải cũng ’mềm mại và hừng hực’ như vậy hay không?” Dương Lăng biết rõ là không nên nghĩ đến nó, nhưng khi ánh mắt vừa chạm phải đường cong ưu mỹ trước ngực nàng, trong đầu y không tự chủ mà loé lên cái ý nghĩ đấy. Y chỉ cảm thấy bụng dưới nóng lên, một loại xao động khó có thể chế ngự khiến y thiếu chút nữa mất tự chủ, hôn lấy đôi môi anh đào có thể tuỳ ý "chiếm đoạt" ấy của nàng. "Bước thêm một bước thì sẽ không thể quay đầu được nữa đâu!" Dương Lăng âm thầm cảnh báo chính mình, rồi vùng thoát khỏi vòng tay của Mã Liên Nhi. Bị bất ngờ, Mã Liên Nhi loạng choạng lui lại mấy bước, sắc mặt lập tức trở nên trắng bệch, đôi mắt cong vút tựa vầng trăng bỗng nhiên đờ đẫn, giống như tử tù bị áp giải ra pháp trường - tràn ngập sự hoảng sợ. Nếu như Dương Lăng có tình, có ý với nàng, nếu như y chịu nạp nàng làm thiếp, thì sao y có thể đối xử với nàng như vậy? Mã Liên Nhi cố kìm chế bản thân, muốn giữ lại chút tôn nghiêm cuối cùng, nhưng nước mắt lại cứ tuôn trào, đồng thời khoé miệng nhếch lên một nụ cười thê lương. Dương Lăng không đành lòng, bèn quay đầu đi, khẽ nói: - Liên Nhi tiểu thư! Dương Lăng không phải là người đáng để cô phó thác cả đời. Thật đấy, lời tôi nói ngày hôm nay không phải vì bản thân tôi, cũng không phải vì Ấu Nương, mà chỉ là vì cô. Hai năm, nhiều nhất là hai năm, cô sẽ hiểu vì sao tôi lại cự tuyệt cô! Y không dám quay đầu lại, cứ vậy bước thẳng ra ngoài, mất hút trong màn đêm. Mã Liên Nhi chầm chậm bước đến cửa, đôi mắt đượm nỗi mất mát thất thần nhìn về phía y vừa biến mất, một lúc lâu sau lại chậm rãi hướng lên bầu trời. Trời đêm trong vắt, một vầng trăng sáng như chiếc mâm bạc lấn át bầu trời, soi sáng vô số chùm sao. Lệ đẫm nhoè mi, Mã Liên Nhi khẽ ngâm: "'Kim phong ngọc lộ nhất tương phùng, tiện thắng khước nhân gian vô số (6). Muội không biết huynh đang nói gì, không hiểu huynh đang tìm cớ gì. Có lẽ đối với huynh, ở chung với nhau đêm đó không đáng là gì, nhưng mà huynh có biết, với muội, đó lại là hạnh phúc mà suốt cuộc đời muội cũng khó thể quên.” (1) Tri huyện Kê Minh Dịch là quan Tòng thất phẩm (2) Thuở xưa, việc thi đậu và việc cưới vợ gần như liên tiếp gắn liền với nhau, vì thi đậu Trạng Nguyên thì được nên danh phận, rồi có nhiều gia đình quyền quí kêu gả con gái cho. Do đó, người xưa xem việc thi đậu Trạng là Đại đăng khoa (đậu lớn), cưới vợ là Tiểu đăng khoa (đậu nhỏ). (3) Nguyên văn "phong vân tế hội" ý chỉ gặp được cơ hội hiếm có, sẽ thăng quan tiến chức vù vù. (4) Thời đó, khi cưới vợ (thê) thì được gọi "thú" (cưới), mà thiếp lại là "nạp". Lễ vật tặng cho gia đình nhà vợ khi "thú thê" (cưới vợ) được gọi là "sính lễ", mà lễ vật dành cho lúc "nạp thiếp" thì lại bị gọi là "đồ mua thiếp". (5) Nguyên văn "thính lạt lạt cổ khiếu, hoàn bất chủng địa liễu ni": "lạt lạt cổ" là một loại côn trùng có hại cho hoa màu, thuộc họ dế nhũi, nghĩa đen là: nghe thấy tiếng dế kêu mà sợ không dám trồng trọt. Tục ngữ này răn chớ nên nghe những lời tầm phào (tiếng dế) mà hãy cứ làm chuyện mình nên làm (trồng trọt). (6) Dịch thơ "Gió vàng sương ngọc tìm nhau Đường trần muôn kiếp có đâu sánh cùng" (vietkiem.com) Đây là câu thơ trích trong bài "Thước kiều tiên" (Cầu ô thước) của Tần Quán viết khi bị đày ra biên cương, chia cắt với người vợ là Tô Tiểu Muội. Hai câu này miêu tả sự gặp gỡ của Ngưu Lang và Chức Nữ (kim phong: gió thu, do mùa thu thuộc hành kim), ám dụ rằng phu thê của tác giả chia cách đôi nơi, nhưng với tình cảm sâu đậm của phu thê họ, gặp nhau một lần còn giá trị hơn nhiều lần gặp mặt của người khác. Nguyên văn:鵲橋仙纖雲弄巧飛星傳恨銀漢迢迢暗度金風玉露一相逢便勝卻人間無數柔情似水佳期如夢忍顧鵲橋歸路兩情若是久長時又豈在朝朝暮暮 Hán Việt: Tiêm vân lộng xảo, Phi tinh truyền hận, Ngân Hán điều điều ám độ. Kim phong ngọc lộ nhất tương phùng, Tiện thắng khước nhân gian vô số. Nhu tình tự thuỷ, Giai kỳ như mộng, Nhẫn cố thước kiều quy lộ! Lưỡng tình nhược thị cửu trường thì, Hựu khởi tại triêu triêu mộ mộ? Dịch nghĩa: Từng đám mây màu nhỏ khoe đẹp Sao bay truyền cho nhau nỗi hận Sông Ngân vời vợi thầm vượt qua Gió vàng móc ngọc một khi gặp nhau Hơn hẳn bao lần ở dưới cõi đời Tình mềm tự nước Hẹn đẹp như trong giấc mơ Không nỡ nhìn cầu Ô Thước là lối về Hai mối tình đã thật sự là lâu dài Há đâu cứ phải gặp nhau chiều chiều sớm sớm Vài bài dịch thơ : Mây viền khoe đẹp, Sao bay đưa hận, Thầm qua sông Ngân vời vợi. Gió vàng, móc ngọc một gặp nhau, Hơn biết mấy người đời gần gụi. Tình mềm tựa nước, Hẹn đẹp như mơ, Cầu Thước nhìn về ngại nỗi. Hai tình ví phỏng mãi lâu dài, Đâu cứ phải mai mai tối tối. (Nguyễn Xuân Tảo, thivien.net) m thầm quá bước Ngân hà Sao bay gửi hận mây hoa khoe màu Gió vàng sương ngọc tìm nhau Đường trần muôn kiếp có đâu sánh cùng Nhu tình mộng đẹp tương phùng Ngậm ngùi chẳng nỡ ngoảnh trông thước kiều Tình xưa nếu mãi còn yêu Cần chi sớm sớm chiều chiều bên nhau (Phi hoa phi tuyết, Vietkiem.com)

Quyển 2: Nhắm mắt vào kinh

Chương 45: Mùa xuân đã đếnDịch: TheJoker Biên dịch: Fishscreen Biên tập: Ba_Van Hiệu đính: Nguồn: www.tangthuvien.com Khoé miệng Dương Lăng méo xệch: “Gần đây mình bị sao thế nhỉ? Sao cứ có những suy nghĩ không đứng đắn vậy ta?” Quyển 2 - Nhắm mắt vào kinh Chương 45 – Mùa xuân đã đến Tháng hai đầu xuân, tiết trời vẫn còn lạnh lẽo cô liêu, nhưng nụ đào đã nở, cỏ cây cũng đã nảy chồi non xanh nhạt. Trên sân đập lúa bằng phẳng sực nức mùi thóc gạo. Bọn dịch tốt đã chuyển tất cả lương thực trong kho ra ngoài sân đập; chân để trần, tay giơ cào gỗ, xới thóc lên phơi. Tiếp sau đó, Dương Lăng được một phen “bận rộn”. Thấy lương thực đã được trải đều, y liền xỏ giày thong thả bước ra khỏi sở Dịch. Công việc hiện giờ của y rất nhàn hạ, thành Kê Minh vừa trải qua trận chiến, ngoại trừ một số thư từ công văn ra thì không phải tiếp nhận nhiệm vụ gì cả. Song ở bên phía Cẩm Y Vệ, tin tức bí mật lại lui tới như thoi đưa. Theo như tình hình được miêu tả trong các bản tin tình báo, các bộ lạc trên thảo nguyên cũng đang không ngừng phân tranh. Lúc hợp lực tấn công cướp bóc các thành trì gần biên giới Đại Minh, bọn chúng giống như một đám cường đạo kết phường cướp bóc, ngầm hẹn phối hợp với nhau. Khi lui về, sẽ lại vì phân chia chiến lợi phẩm không đồng đều mà bắt đầu hiềm khích lẫn nhau. Giữa các bộ lạc Thát Đát và các bộ tộc khác thường xảy ra chuyện đánh giết. Nghe đâu Nữ Chân, Tây Phiên và một số bộ lạc nhỏ thân đơn thế cô của Thát Đát, mặc dù cũng tham gia cướp phá đợt này, nhưng kết quả là nhân mã tổn thất thảm trọng, tài sản được phân chia lại ít nhất. Trải qua trận chiến này cuộc sống bọn họ lại càng thêm gian khổ: nấu cơm không có nồi sắt, nêm món ăn không có muối, không có lấy cả một bộ quần áo chỉnh tề. Có điều lúc này cỏ đã mọc xanh trên thảo trường, chim oanh bay lượn khắp nơi, những người dân du mục mưu sinh bằng chăn nuôi sắp bắt đầu cuộc sống mới cho nên không còn lo bọn họ tấn công nhà Minh vào mùa này. Mẫn huyện lệnh đã đến Hải Ninh nhậm chức. Sắp tới đây Tất đô ty cũng phải lên đường trở về Giang Nam. Còn cha con Hàn Lâm vốn là hộ săn bắn trong núi, không có ruộng đất, không cần phải trở về. Trong trận chiến vừa qua, dịch tốt Kê Minh tử thương gần ba phần, đang lúc thiếu người, Dương Lăng bèn thu xếp đưa cha vợ và anh vợ vào làm việc trong sở Dịch. Còn cậu em vợ Hàn Mãn Thương, mặc dù chú ta cũng nhao nhao đòi làm dịch tốt nhưng cho dù có khai man tuổi thì cái bộ mặt búng ra sữa của nó cũng quá rành rành, nên đành phải thôi. Dưới nỗ lực của Dương Lăng cùng với sự trợ giúp trấn áp của Vương chủ bộ và Hoàng huyện thừa, nhìn chung lời đàm tiếu về “Dương dịch thừa tuyết dạ bạn mỹ nữ, tú tài công chánh nguyệt nạp kiều nương (1)” lưu truyền trong nha môn đã được khống chế, không lan truyền đến dân thường và quân lính. (1) Tạm dịch: Dương dịch thừa đêm đông cùng mỹ nữ Ông tú tài giêng đến nạp thiếp xinh Dương Lăng phải suy nghĩ nhiều như vậy, mối bận tâm về Mã Liên Nhi cũng phai nhạt đi, chuyện cứ thế trôi qua. Ai ngờ, không biết bởi vì hai người cùng tuổi hay vì Mã Liên Nhi là bạn gái duy nhất của Hàn Ấu Nương trong dịch thự, mà chuyển đến chưa được mấy hôm, hai người đã đối xử với nhau rất thân thiết. Tuy Mã Liên Nhi tránh mặt không gặp Dương Lăng, song tình thân giữa nàng với Hàn Ấu Nương thì lại càng lúc càng mật thiết. Hai ngày trước Dương Lăng vô tình gặp cô nàng một lần. Mới chỉ hơn một tháng, hai má của nàng đã gầy đi, cằm cũng nhọn hơn, đôi mắt có vẻ to hơn nhưng ánh mắt thì lại ít có thần hơn. Trông thấy vậy, Dương Lăng cũng không biết là nên đau lòng hay nên áy náy. Y chỉ có thể cố hết sức trong khả năng của mình, căn dặn người chiếu cố cho cuộc sống nàng tốt hơn một chút. Mạng sống của bản thân y quá ư ngắn ngủi, trong khi Mã Liên Nhi vẫn còn có thể lựa chọn khác; với sắc đẹp của nàng ấy, không nghi ngờ gì sẽ có thể tìm được một tấm chồng yêu thương và nuông chiều nàng. Nhận nàng làm thiếp ư? Như vậy là quá ích kỷ. Nếu lợi dụng lúc nàng không hay biết về cuộc sống đoản mệnh của mình mà bỉ ổi tiếp nhận nàng, vậy ta yêu nàng hay làm hại nàng? Như vậy là quá bất công cho nàng! Về phần Ấu Nương, y đã suy nghĩ nghiêm túc và đã thông suốt. Từ giây phút y mở mắt ra, Ấu Nương đã được ông trời xếp đặt là người của y. Những ngày qua, y đã biết rõ Ấu Nương là một phụ nữ rất truyền thống, rất chất phát. Ngay từ lúc đầu, khi còn hoàn toàn lạ lẫm với phu quân, còn chưa có tình cảm gì, nàng đã quyết tâm vì y trọn đời thủ tiết, huống hồ giờ đây tình cảm bọn họ đang nồng nàn sâu đậm như vậy. Lối nghĩ mà ban đầu y cho là đúng, tuyệt nhiên không thể thành hiện thực được. Nếu cứ cùng Hàn Ấu Nương sống hết hai năm với thứ tình cảm nửa như tình thân, nửa như tình yêu này, nhất định y sẽ ôm theo mối hận suốt đời mà bắt đầu kiếp luân hồi mới. Còn Ấu Nương? Những gì mình để lại cho nàng sẽ chỉ là nỗi đau thương vô tận và thêm nhiều nhung nhớ. Nếu đã như vậy, thì sao không để cả hai cùng trải qua hai năm trong ngọt ngào và hạnh phúc? Nếu có thể cho nàng một kết tinh của tình yêu… Mắt Dương Lăng đã ươn ướt. Làm chồng, làm cha, chỉ cần nghĩ một chút, một cảm giác trách nhiệm nặng trĩu và thành tựu đã khiến y kích động không ngừng. Tuy rằng sinh mạng hơi ngắn ngủi, nhưng cuộc sống chung của bọn họ cũng muôn màu muôn vẻ. Nếu lại có thêm một đứa con bé bỏng thì cho dù có mình có mất đi, Ấu Nương vẫn sẽ có chỗ dựa, vẫn có thể dũng cảm sống tiếp. Đứa con của bọn họ vẫn sẽ đem lại niềm vui và hạnh phúc cho nàng. Nhưng mà, khi y vừa có cái quyết tâm khiến y kích động không thôi này, lời nói dối đáng chết đó lại trở thành chướng ngại vật. Sẽ phải nói với Ấu Nương thế nào đây? Cho dù Ấu Nương vẫn luôn tuân lời y, nhưng e rằng việc này liên quan đến sống chết của y, tiểu nha đầu cũng khó mà đành lòng để y thắt cổ trong yên bình. Nàng không thuận lòng lên giường, chăng nhẽ y phải giở trò cưỡng gian? Ha, đợi đến khi nào mày đánh thắng được nàng rồi hãy cân nhắc nhé! Dương Lăng gãi cằm cười khổ không thôi. Bản tính y vốn ngả ngớn hoạt bát, nhưng từ khi gặp được Ấu Nương, y lại càng lúc càng trở nên trầm tĩnh và thực tế, quả thật chẳng giống chính mình. Cái cô bé cưng ngây thơ thuần khiết, dịu dàng đáng yêu này thiệt là! Dương Lăng vừa đi vừa nghĩ đến Ấu Nương, khi thì mỉm cười, khi thì lại khẽ nhíu mày. Bên bờ sông nhỏ ngoài phía đông thành, nước sông đã tan hoàn toàn, dòng nước trong veo vui sướng chảy băng băng. Lấy tay dò thử thì thấy nước vẫn lạnh thấu xương, song đã có thể chịu được. Y cảm thấy gần đây thân thể đã săn chắc hơn thấy rõ. Rượu thuốc nhạc phụ đại nhân ngâm cho uống quả là rất tốt, không biết có phải là phương thuốc bí truyền của võ tăng chùa Thiếu Lâm hay không. Khi y hỏi thì nhạc phục cũng không đáp, chỉ bảo rằng rượu này được ngâm bằng thảo dược trân quý trên núi, có công hiệu bồi bổ căn nguyên, cường thân kiện thể. Phải nói, rượu thuốc này đúng là chính hiệu. Lần đầu không biết độ mạnh của thuốc, y uống một hơi ba chung, kết quả là tối hôm đó y quá đỗi dễ chịu luôn, hai bên eo sau nóng hầm hập như đang chườm hai túi nước nóng, thậm chí tinh thần cũng hết sức sung mãn, mãi đến tận nửa đêm mới ngủ được. Bây giờ vào mỗi bữa cơm tối Ấu Nương đều pha cho y một chung, y càng uống càng hứng thú. Một thiếu phụ trẻ tay cầm làn tre nhảy qua những hòn đá trên sông. Trông thấy một người thanh niên đang đứng bên bờ nhìn mình, cô nàng e thẹn lướt qua bên người y, bị ánh mắt sáng rỡ của y ngắm nghía, cô nàng nhất thời không dám xoay bờ eo thon lại. Ánh mắt Dương Lăng dõi theo bóng dáng mềm mại phơi phới tuổi xuân của nàng ta lả lướt đi thật xa, đến khi có một cơn gió lạnh thổi thốc vào mặt y mới định thần lại. Y tự tát mình một cái: “Chết tiệt, gần đây sao kỳ vậy ta? Sao dạo này thường hay thích ngắm gái đẹp quá ta! Chẵng lẽ xuân đến, cả loài người cũng lên cơn động cỡn hay sao?” Dương Lăng nhìn vũng nước ở phía trước, không có gì làm nên y đang tính đi kiếm cần câu giết thời gian, đột nhiên nghe một giọng nói trong trẻo đáng yêu: - Tướng công, chàng đang chờ bọn thiếp trở về sao? Dương Lăng nghe tiếng liền ngẩng đầu lên, trông thấy Hàn Ấu Nương và Mã Liên Nhi xinh đẹp dịu dàng đang bước men theo con đường nhỏ từ trong núi đi đến. Tay trái Hàn Ấu Nương khoác chiếc giỏ vuông, tay phải đang đung đưa một cành đỗ quyên rực rỡ, mặt tươi như hoa, xinh xắn như nước suối dưới khe . Mã Liên Nhi đi cạnh, y phục trắng hơn tuyết, xinh đẹp thướt tha, cả người không chỗ nào không quyến rũ. Hai người lên núi hái rau dại mới trở về, đột nhiên thấy Dương Lăng đang đứng bên bờ sông. Hàn Ấu Nương vui mừng, hí hửng bước nhanh tới trước nghênh đón. Mã Liên Nhi vừa đuổi theo mấy bước, chợt bước chậm lại, ngẫm nghĩ cẩn thận lời của Hàn Ấu Nương: “Tướng công, chàng đang chờ ‘bọn thiếp’ trở về sao?” Những ngày gần đây, Hàn Ấu Nương tỏ ra thân cận với nàng, Mã Liên Nhi cực kỳ thông minh, lẽ nào không thấy được? Nàng chỉ biết Dương Lăng thu xếp để Ấu Nương đến chiếu cố cho mình, nhưng bây giờ càng lúc nàng càng cảm thấy dường như Hàn Ấu Nương đang tỏ ý muốn xúc tiến cho mình và Dương Lăng. Nàng ấy… nàng ấy thật sự vui lòng để mình bước vào nhà họ Dương ư? Vừa nghĩ đến khả năng này, trống ngực Mã Liên Nhi không khỏi đập thình thịch. Nàng biết quá rõ vị trí của Ấu Nương trong trái tim của Dương Lăng, nếu như nàng ấy chịu gật đầu, vậy chuyện này sẽ rất có hi vọng. “Mình thật là ngốc! Nếu trực tiếp đến với tên ngốc Dương Lăng này không được, sao mình lại không nghĩ ra cách lấy lòng Ấu Nương nhỉ? Sau này khi thật sự trở thành tỷ muội rồi, mình cũng phải được nàng ấy cho phép mới có thể gần gũi y. Đã vậy, bây giờ nên đối xử tử tế với nàng ấy mới được.” Hàn Ấu Nương lại không phát hiện sơ hở trong lời nói của mình. Nàng nở một nụ cười rực rỡ, chạy đến bên cạnh Dương Lăng, giơ chiếc giỏ lên như thể muốn hiến dâng bảo vật, nói: - Tướng công, thiếp ngắt được rất nhiều rau dại nè. Chàng xem, nào là nấm tai mèo, rau tề, rau khúc (2). Còn nữa, chàng xem, quả thù lù này to không? Để thiếp rửa rồi chàng nếm thử, ngon lắm đó. (2) Rau tề (tề thái, cỏ tâm giác, địa mễ thái): tên một thức cỏ, hoa trắng, khi còn non ăn được, dùng làm thuốc giải nhiệt, lợi tiểu, cầm máu... Rau khúc (thử khúc thảo, thanh minh thảo): Tên một loài rau dại. Hằng năm, cứ tới mùa xuân, cây lại xuất hiện, mọc lên khắp nơi, thường hay gặp nhất ở trên các bãi hoang, bờ ruộng, bờ cát ven sông... Rau khúc vừa làm bánh được vừa làm thuốc chữa bệnh rất tốt. Hàn Ấu Nương phấn khởi đặt chiếc giỏ xuống đất, chọn quả thù lù to nhất rồi chạy ra bờ sông rửa. Lúc này, Mã Liên Nhi cũng đã đi đến, nhìn Dương Lăng cười một cách thiếu tự nhiên. Dương Lăng nhìn nàng. Mã Liên Nhi toàn thân mặc đồ trắng, cách ăn mặc đã giản dị hơn nhiều so với trước kia. Ánh nắng ấm áp của ngày xuân chiếu lên khuôn mặt mịn màng thanh tú của nàng, tựa như trong suốt. Trên chiếc eo thon thon khiến người ta hận không thể siết lấy kia, chiếc đai lưng phe phẩy theo gió núi, như thể chỉ khẽ giật nhẹ sẽ lột trần tấm thân ngọc ngà ấy. Khoé miệng Dương Lăng méo xệch: “Gần đây mình bị sao thế nhỉ? Sao cứ có những suy nghĩ không đứng đắn vậy ta?” Không gặp hơn một tháng, Mã Liên Nhi cũng không thay đổi nhiều lắm. Trên môi vương những sợi lông măng nhỏ bé. Vẫn là bộ dáng thiếu nữ còn mang vẻ ngây thơ, nhưng cõi lòng từng trải và chín chắn khiến nàng như lột xác, giống như một đoá thược dược mảnh mai, yểu điệu lung linh. “Cô ấy đã gầy đi nhiều!” “Y đã cường tráng hơn nhiều!” Mã Liên Nhi thật sự giống như Ấu Nương đã nói, chiếc cằm thon lại, đôi mắt thật to, khuôn mặt trái xoan ấy đã sắp đuổi kịp hình ảnh hồ ly tinh trong phim hoạt hình rồi, vẻ yếu ớt gầy ốm càng tăng thêm phần quyến rũ. Mà Dương Lăng vốn là một kẻ văn nhã, song cái vẻ phong độ của kẻ trí thức ấy lại có phần nho nhã yếu đuối. Hôm nay lưng của y đã thẳng hơn, cặp mắt đã đen và sáng hơn, cặp lông mày cũng đã trở nên khí khái bừng bừng. Hiện tại y mặc một chiếc áo đơn màu xanh, răng trắng môi hồng, mắt sáng như sao, hệt như một chàng công tử phong lưu văn nhã. Gò má vốn tái nhợt cũng hồng hào lên rồi. Vừa nói đến hồng thì đã thấy hồng rồi, ừm… rất là… hồng! Cảm thấy chóp mũi chợt lạnh, Dương Lăng thuận tay quẹt qua, không ngờ máu đỏ cả tay. Ơ… kém dữ vậy sao? Gần đây y cảm thấy mũi hay bị khô, còn tưởng là do trong nhà đốt giường đất, hoặc vì mùa xuân khí hậu khô hanh. Nhưng bây giờ nhìn thấy người ta lại chảy máu mũi, chuyện này coi bộ khó giải thích à! Y lúng túng đưa tay lên mũi giữ chặt. Máu vẫn đang chảy, đã tràn qua miệng, cho nên y không dám mở miệng. Mã Liên Nhi sợ hãi la lên: - Dương đại ca, huynh chảy máu kìa! Bất đắc dĩ Dương Lăng đành đảo mắt ra hiệu đã biết, cái này trông giống như bọn họ đang có bất hoà không thèm nói chuyện với nhau. Vừa ngước mắt lên thấy vậy, Hàn Ấu Nương liền cuống quít chạy tới hỏi: - Chàng bị sao vậy? Mau ngửa cổ lên đi! Nói đoạn nàng dùng bàn tay còn ướt vuốt trán giúp Dương Lăng. Dương Lăng ngửa đầu nhìn trời, bầu trời thật trong xanh, mây trắng cuộn chung quanh, giống như màn tơ, dằng dặc nhớ đất trời… Đang thầm lặng hỏi ông trời, đột nhiên ai đó nhét một vật mềm mại vào trong tay, y thoáng sờ qua, thì ra là một chiếc khăn nhỏ. Y vội chụp lên mũi, lau máu. Chiếc khăn tay trắng tinh toả ra một mùi hương nhàn nhạt. Đây không phải là mùi của Ấu Nương. Mùi hương của Ấu Nương là một mùi thơm dịu nhàn nhạt như hoa nhài, còn đây là mùi hương cực phẩm cao cấp. Dương Lăng máy động trong lòng: “Đây là khăn của Liên Nhi!” Máu đã ngưng chảy. Dưới ánh mắt ân cần của hai tiểu mỹ nhân đang lom lom nhìn, Dương Lăng bối rối chạy ra bờ sông rửa mặt. Mã Liên Nhi và Hàn Ấu Nương nhìn y, lại nhìn nhau, rồi chột dạ quay đầu đi chỗ khác. Mã Liên Nhi cắn môi, hơi chột dạ, hơi buồn cười, lại hơi đắc ý. Cách biệt một tháng, không ngờ vừa gặp lại nhau, y lại có thể xịt máu khi thấy mình. Hàn Ấu Nương nhìn Dương Lăng với vẻ khẩn trương, nhủ thầm: “Hỏng rồi! Cha nói thứ rượu thuốc dùng nhân sâm, hổ cốt, nhung hươu, cẩu kỷ để pha chế này dùng để bồi bổ thân thể, song thuốc quá mạnh, gân cốt tướng công lại yếu, cho nên phải uống cẩn thận. Nhưng mình thấy tướng công thích uống, nên mỗi ngày rót nhiều thêm một chút, ai ngờ… ‘hư bất thụ bổ’ (3) thật rồi. Tướng công sẽ không có chuyện gì chứ?” (3) Theo Trung y, cơ thể con bệnh quá yếu, được bồi bổ mà bệnh tình không những không thuyên giảm mà còn nặng hơn hoặc xuất hiện di chứng thì gọi là “hư bất thụ bổ” (yếu nên không tiếp thu chất bổ được). Trông thấy ánh mắt Mã Liên Nhi đang liếc nhìn tướng công, Hàn Ấu Nương thầm nghĩ: “Đệ đệ không nói càn, quả nhiên Liên Nhi tỷ tỷ có tình ý với tướng công.” Lời của tiểu đệ Mãn Thương tố cáo với nàng lại văng vẳng bên tai: - Tỷ! Đệ nói cho tỷ nghe, khi bọn đệ đến cứu tỷ phu, thì thấy y đang cùng với vị tỷ tỷ xinh đẹp ở trong sở Dịch, à… là Liên Nhi tỷ tỷ đang thơm môi đó. Hàn Ấu Nương khẽ thở dài, lại nhớ đến lời dặn của cha: - Ấu Nương, chồng có cương thường của chồng, vợ có đức hạnh của vợ, lời thầy dạy con đã quên hết rồi sao? Người vợ ghen tuông sẽ bị ruồng bỏ đó! Con thử xem tự cổ chí kim có kết cục tốt nào cho nữ nhân được cưng chiều mà kiêu ngạo không? Luật pháp nhà Minh chúng ta quy định bốn mươi không con mới được nạp thiếp. Nhưng đó là cho bách tính thường dân, không áp dụng được cho kẻ làm quan. Cô gia (con rể) tiền đồ rộng lớn lắm. Con gái à, rất nhiều phụ nữ bản triều chủ động nạp thiếp cho phu quân mình, ai cũng nói bọn họ hiền hậu rộng lượng. Con chớ nên để mang tiếng ghen tuông, sẽ lợi không bằng hại đấy! Chúng ta xuất thân bần hàn, con có thể cưới được ông tú tài này là vì năm xưa ta đã cứu Dương lão gia khỏi miệng cọp, cho nên mới có thể kết thông gia với họ. Con là một đứa nhỏ tốt phúc, con hãy xem trong thôn chúng ta, làng trên xóm dưới có ai mà không hâm mộ con? Hai con mắt tinh tường này của cha không nhìn lầm người đâu. Cô gia là người phúc hậu, đối đãi với con cũng rất tốt. Chỉ cần con tận tâm hầu hạ chồng, sớm ngày hạ sinh quý tử cho nhà họ Dương, thì cho dù tiểu thư nhà họ Mã của y có xinh đẹp hơn con, thân thế có tốt hơn con, vị trí của con cũng sẽ vẫn vững chắc, không ai có thể chiếm đoạt được. Không được nổi máu ghen tuông! Theo cha nghĩ, nếu cô gia đã thích Mã tiểu thư rồi, chi bằng con chủ động giúp nàng ấy một chút, sau này thành tỷ muội rồi cũng sẽ dễ sống chung hơn, cô gia sẽ càng kính trọng con hơn. Như vậy không tốt cho con sao? Hàn Ấu Nương thầm thở dài một tiếng. Đã làm vợ, ai lại không mong muốn chồng mình xuất chúng hơn người chứ? Nhưng có tiền đồ rồi thì lập tức chồng mình sẽ có thêm người khác. “Hối giáo phu tế thỏa phong hậu” (4), đời người có được thì cũng có mất thôi. (4) Trong câu này chữ 觅 (mịch) viết sai thành chữ 妥 (thỏa), chữ 侯 (hầu) viết sai thành chữ 候 (hậu). Câu đúng là “hối giáo phu tế mịch phong hầu”. Câu thơ này trích trong bài “Khuê Oán” (閨怨), tạm dịch “nỗi oán phòng khuê” của Vương Xương Linh thời Thịnh Đường, miêu tả tâm trạng u sầu của người thiếu phụ có chồng đang tham gia chinh chiến. Nguyên văn 閨怨王昌齡閨中少婦不知愁, 春日凝妝上翠樓。忽見陌頭楊柳色, 悔教夫婿覓封侯。 Hán Việt: Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu Xuân nhật ngưng trang thượng thúy lâu Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc Hối giáo phu tế mịch phong hầu Dịch thơ : Cô gái phòng the chửa biết sầu Ngày xuân trang điểm dạo lên lầu Đầu đường chợt thấy tơ xanh liễu Hối để chồng đi kiếm tước hầu Ngô Tất Tố Ngày xuân trang điểm má hồng Lên chơi gác Thúy, nàng không biết sầu Đường xa, kìa liễu xanh mầu Xui chồng đi giật tước hầu, dại chưa! Vũ Hoàng Chương

Chương 46: Niềm vui chốn khuê phòngDịch: TheJoker Biên dịch: Hieusol Biên tập: Ba_Van Hiệu đính: Nguồn: www.tangthuvien.com Thiếu nữ dù si tình đến mấy, nhưng giữa hai người lại chưa có thâm tình gì đáng kể, liệu nàng ta sẽ còn nhớ đến mình sao? Quyển hai - Nhắm mắt lên kinh thành - Chương 46 Niềm vui chốn khuê phòng Joker dịch- Hieusol biên Dương Lăng đứng trong sân dùng muối và xơ mướp chà răng, hà hơi ra vẫn còn thoảng mùi rượu, đầu cũng hơi lâng lâng. Tối hôm nay Ấu Nương không cho y uống rượu thuốc mà thay bằng rượu Cao Lương tự ủ mua ở tiệm rượu nhỏ trên huyện, nên y đã uống thêm mấy chén. Buổi chiều Ấu Nương luộc mớ rau dại, chưng một con gà nhỏ, mời Liên Nhi qua dùng bữa chung. Trời còn chưa tối Ấu Nương đã đưa nàng ấy về phòng, đến giờ vẫn chưa trở lại, cũng chẳng biết hai người bọn họ đang nói những chuyện gì. Dương Lăng cũng lười không muốn quan tâm. Lúc cần chẳng quyết, nay phải lo toan. Tình hình thực sự của bản thân không thể kể cho bất kỳ người nào cả, dù gì cũng không thể giở lại cái câu dối trá "nội trong hai năm ắt chết" ra gạt thêm Mã Liên Nhi, nếu để Hàn Ấu Nương biết được, thế thì chẳng khác nào lạy ông tôi ở bụi này. Dương Lăng đang chìm trong suy nghĩ, Hàn Ấu Nương đã bước vào trong sân. Miệng còn ngậm bọt muối, Dương Lăng gật đầu đón nàng: - Đưa nàng ta về rồi à? - Dạ! Hàn Ấu Nương đáp lời, bước đến cạnh Dương Lăng, chần chừ không vào nhà. Súc miệng xong, Dương Lăng thấy nàng vẫn đứng cạnh mình, trên khuôn mặt không biết giấu diếm đó rõ ràng đang viết "có chuyện muốn nói", không nhịn được bèn mỉm cười trìu mến véo nhẹ mũi nàng, bảo: - Đứng ngây ra đó làm gì? Đi, vào nhà thôi! Dương Lăng cài cửa lại, ngồi xuống giữa phòng, đưa tay lấy bình trà. Cô nàng Ấu Nương chu đáo không biết đã thay trà tự khi nào, bây giờ vừa khéo đủ ấm để uống. Tường đặt ghế dựa là kiểu tường vách đôi được hun khí nóng bởi hệ thống sưởi chung trong sở dịch, vách tường được giữ ấm suốt ngày nên gian phòng rất ấm cúng. Y vừa đưa mắt nhìn, Hàn Ấu Nương liền luống cuống đan hai ngón tay mảnh khảnh lại vào nhau, đảo mắt nhìn khắp phòng mấy vòng, rồi trộm liếc y, vẻ do dự. Thấy vậy, Dương Lăng lấy làm thú vị, bụng bảo dạ: "Ấu Nương trước giờ chưa từng có vẻ mặt khó xử như vậy, chuyện gì khiến nàng ấy khó mở miệng như vậy chứ? À, đúng rồi, hình như nghe nhạc phụ nói đang xoay sở tiền nong làm mối cho Hàn Uy cưới vợ. Chẵng nhẽ là muốn mượn tiền?" Khi mấy mươi cái miệng người họ Dương tới đây ăn uống, nàng đã không chút keo kiệt chu cấp cái ăn cái mặc cho bọn họ, còn luôn lo lắng mình sẽ trách móc nàng không chăm sóc chu đáo người nhà họ Dương. Lần này nàng lại đứng ra mượn tiền cho nhà mẹ đẻ, thật làm khó cho nha đầu này quá rồi. Dương Lăng không nỡ để nàng khó xử thêm, bèn chủ động hỏi: - Ấu Nương, có phải nàng có chuyện muốn nói không? - Á? Cơ thể Hàn Ấu Nương thoáng run lên, nàng hoảng hốt lắc đầu: - Phải, á, không phải, ưm... Trà nguội rồi phải không? Để thiếp đi đun thêm nước. Dương Lăng phì cười, nói: - Nàng thật! Có phải là đại ca thiếu tiền để cưới vợ không? Nghe nói y và vị Trương cô nương cùng chạy nạn vào thành đó rất là thân thiết à. Thiếu tiền lo liệu hôn sự phải không nào? Mấy chuyện này nàng không cần hỏi ta, nhà chúng ta do nàng làm chủ, thiếu bao nhiêu nàng cứ lấy là được. - Không phải mà! Hàn Ấu Nương dẩu môi, ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh, nguýt yêu y: - Không phải vì chuyện của nhà ngoại. Cha đã nói rồi, anh cả muốn cưới vợ thì phải tự mình kiếm tiền để cưới, tướng công tìm việc làm cho cha và hai anh là đã quí lắm rồi. - Xem nàng nói kìa! Dương Lăng cười ha hả: - Ta phải cảm kích nhạc phụ đã cho ta cô vợ đáng yêu, dịu dàng như vầy mới phải chứ! Lại còn phải cảm kích đại ca, nhị ca đã sinh ra sớm hơn nàng nữa, bằng không thì chừng nào mới đến phiên chúng ta xứng đôi như thế này? Có phải không hử, cô vợ bé nhỏ của ta? Thấy dáng vẻ đáng yêu của nàng, Dương Lăng không chế ngự được lửa dục dâng trào, quên sạch mình đang muốn hỏi gì. Y thích chí ghé sát qua ôm lấy bờ vai thơm của Ấu Nương, hôn đánh chụt lên má nàng. Hàn Ấu Nương thẹn thùng nhích vai tránh ra, dài giọng trách: - Tướng... công..., mùi rượu nồng quá à! - Giỏi nhỉ! Dám chê miệng tướng công có mùi rượu! Ta phải chấp hành gia pháp, phạt nàng đứng phơi mông trong sân. Dương Lăng mượn rượu giả khùng. Không biết có phải do bị Ấu Nương đùa bỡn không, y chỉ cảm thấy lửa dục đang thiêu đốt, nhất thời không kìm được mà thi triển ma thủ lên bộ ngực trắng mềm và bờ mông căng tròn của Ấu Nương. Hàn Ấu Nương ngượng đến nhũn cả người. Nàng uốn éo tấm thân hòng tránh né sự tập kích của y, yêu kiều lí nhí trong hơi thở gấp: - Bỏ chàng đi! Ở đâu lại có... có kiểu phạt vợ mình như vậy chứ? Nàng quẫn bách đấm nhẹ lên người Dương Lăng, ánh mắt chợt sáng lên; tưởng tượng nếu như tướng công phạt mình như vậy thật... Lập tức bị ý nghĩ bạo dạn của mình làm cho ngượng chín mặt, nàng lấy tay che mặt, giậm chân, lắc vai: - Tướng công nói bậy quá à, thật là ngượng chết đi... Vẻ khêu gợi hấp dẫn đầy nữ tính đó khiến Dương Lăng hưng phấn không thôi, hận không thể lập tức "làm thịt" Ấu Nương ngay tại chỗ. Y hít vào một hơi, nâng tấm thân mềm mại của Ấu Nương đặt lên gối mình, hôn phớt lên má nàng một cái, rồi chủ động trở về chủ đề chính: - Được rồi, tướng công không làm loạn nữa. Nói cho ta nghe, nàng muốn nói gì với tướng công vậy? Hàn Ấu Nương thẹn thùng liếc y cười, dí dỏm: - Tướng công đòi chấp hành gia pháp mà! Thiếp sợ quá nên quên hết rồi. Dương Lăng thấy nàng cười đỏ cả mặt, mắt ngọc đong đưa, vẻ nũng nịu rất quyến rũ, tức thời lửa dục vừa mới dằn xuống lại bùng lên, bên dưới cơ thể lập tức cứng như thép. Hàn Ấu Nương đang khúc khích cười trêu tướng công, bờ mông tròn lẳn hoạt bát vừa hơi dịch đi bỗng chạm phải một vật cứng như khúc gỗ. Thoạt tiên nàng giật mình, sau đó liền như một con thỏ trúng tên, nhảy vụt ra khỏi lòng Dương Lăng, hai tay bưng lấy khuôn mặt đỏ bừng, nóng như lửa, lắp bắp: - Tướng công, chàng... chàng... thiếp... thiếp... , Ấu Nương không trêu... Không trêu chàng nữa. Dương Lăng cười khổ. Y cảm thấy mũi khó chịu như thể lại sắp chảy máu, bèn vội vàng cầm lấy chén trà đã nguội uống cạn một hơi, hắng giọng vài tiếng, rồi ra vẻ đạo mạo trang nghiêm: - Tiểu nha đầu, vậy còn không mau kể đi. Rốt cuộc là muốn nói chuyện gì với ta? Hàn Ấu Nương hé ngón tay, trộm liếc Dương Lăng, rồi mới từ từ bỏ tay xuống, giọng thẹn thùng pha lẫn rụt rè: - Tướng công! Thiếp... Thiếp biết Liên Nhi tỷ rất thích tướng công. Ấu Nương nghĩ... Nếu như tướng công đồng ý, hôm nào thiếp sẽ nói chuyện với Liên Nhi tỷ tỷ. Chúng ta sẽ... sẽ rước nàng ấy về. Tướng công nhân phẩm xuất chúng, dưới gầm trời tướng công là giỏi nhất, cũng coi như chúng ta không làm nhục mặt người ta. Chợt đổi sắc mặt, Dương Lăng nhíu mày hỏi: - Nàng nghe ai nói vậy? Là... Mãn Thương nói à? Hàn Ấu Nương ngập ngừng: - Tướng công! Ấu Nương sớm đã... đã nghe người ta nói rồi. Nữ tử rất coi trọng danh tiết đó. Thiếp nghe nói Mã đại ca muốn rời đi cùng Nam quân, Liên Nhi tỷ tỷ không danh không phận ở lại nơi này cũng không thích hợp. Nháy mắt sẽ qua hạn cúng thất tuần rồi, nếu bây giờ không rước người ta về, vậy sẽ phải chờ thêm ba năm nữa. Nếu chàng đồng ý, chúng ta sẽ cho nàng một danh phận trước, khi đó cho dù có rước về chậm một chút cũng không sao. Thời xưa, đối với con gái, cha mẹ tạ thế là đại tang, theo quy định sẽ phải chịu tang ba năm. Nhưng có vài trường hợp có thể châm chước được, người xưa cũng không quá cứng nhắc. Ví dụ như chuyện tòng quân của Mã Ngang, hay bản thân là đại quan trọng yếu của triều đình, vì đại sự quốc gia cần kíp được vua đích thân giữ lại, thì gọi là "Đoạt tình". Trong dân gian, cũng có một tình huống, đó chính là: cha mẹ mất đi trong vòng bảy bảy bốn chín ngày thì cho phép kết hôn, dân gian gọi nó là "Xung hỷ". Tục ngữ có câu "Thiên quan tòng môn xuất, kỳ gia hảo hưng vượng"(1), nghĩa là vì sự ra đi của người chết đem đến sự ra đời của thêm nhiều sinh mạng mới cho gia tộc, con đàn cháu đống, kế tục hương hoả dài lâu, như vậy không bị xem là bất hiếu. Dương Lăng yên lặng nhìn Ấu Nương một hồi lâu. Cặp mắt trong veo của nàng có chút tủi thân, chút ghen tuông, song nhiều hơn lại là sự lo lắng cho Mã Liên Nhi và sự tín nhiệm vô điều kiện đối với y. Dương Lăng chậm rãi lắc đầu, đoạn nói: - Đừng nghe người khác nói xàm, nàng không cần phải dây vào chuyện vớ vẩn đó. Ta đã tìm hiểu rồi, tháng tư hằng năm sẽ có một đoàn buôn hàng da từ quan ngoại ghé qua Kê Minh xuống phương nam. Đến lúc đó ta sẽ thu xếp để bọn họ giúp đỡ Mã tiểu thư đưa linh cữu xuôi nam, trở về cố hương là được. Hàn Ấu Nương tròn mắt, thắc mắc: - Nhưng mà... Chàng và nàng ấy... Nhẹ nhàng hôn lên chiếc môi anh đào không cho nàng nói tiếp, đoạn lướt miệng đến bên tai nàng, Dương Lăng khẽ nói: - Giữa ta và nàng ấy không phức tạp như nàng tưởng tượng đâu. Ngoan đi, thời gian trôi qua tự nhiên sẽ không còn có ai nhắc đến nữa, Liên Nhi tiểu thư cũng sẽ không còn nhớ đến những chuyện này, hiểu không? - Dạ! Hàn Ấu Nương ngoan ngoãn khép miệng lại. Tuy nàng không rõ những gì tướng công nói lắm, nhưng hàng chân mày lại hiện lên vẻ nhẹ nhõm và vui sướng. Vốn chỉ đòi voi, lại được thêm tiên, còn có gì để mà không vui chứ? *************************** Dương Lăng nằm trên giường, đầu gối lên tay, hai mắt nhắm hờ, thầm tính: "Ấu Nương cũng biết chuyện giữa mình và Mã Liên Nhi rồi, xem ra người biết chuyện này thật không ít. Tuy nhiên, đến khi Mã Liên Nhi đưa linh cữu về Kim Lăng, hết thảy mọi việc tự nhiên sẽ tan theo mây khói, từ đây trở đi mỗi người một phương. Thiếu nữ dù si tình đến mấy, nhưng giữa hai người lại chưa có thâm tình gì đáng kể, liệu nàng ta sẽ còn nhớ đến mình sao?” Chắc chắn qua một hai năm, nàng ấy sẽ buông xuôi đoạn tình cảm này, bắt đầu cuộc sống mới. Dương Lăng tin tưởng vào điểm này, y vẫn chưa "tự sướng" đến độ cho rằng một khi thích y thì phụ nữ sẽ "không bao giờ chùn bước, trọn đời không quên". Y cũng chỉ là một thằng đàn ông bình thường, không có sức hấp dẫn đến cỡ đó. Cảm thấy gò má nhồn nhột, Dương Lăng mở mắt thấy Ấu Nương đang ngồi bên cạnh, dịu dàng nhìn y. Mái tóc dài hơi ẩm ướt, chạm vào mặt lành lạnh. Tiểu nha đầu vừa mới tắm rửa xong. Khuôn mặt xinh xắn thuần khiết khuất sau mái tóc vẫn còn phơn phớt hồng sau khi tắm. Hàng mi mềm, đôi mắt ươn ướt, quyến rũ không nói lên lời. Những tâm tư phiền não trong lòng Dương Lăng lập tức hóa thành hư không. Y thở dài, bắt đầu chuyển sang cân nhắc nên làm thế nào để phá vỡ cục diện bế tắc hiện nay. Một người con gái xinh đẹp mỹ miều phơi bày ngay trước mắt như vậy, song chỉ có thể nhìn mà không thể "ăn", thật khó chịu muốn chết à. Chẳng biết vì sao, Hàn Ấu Nương mặt mày hớn hở, còn mang vẻ nhu mì khó tả, hình như... còn đang cười lấy lòng? Dương Lăng chớp chớp mắt, nghi ngờ mình đã nhìn lầm. Nàng mặc áo ngắn, nằm sấp trên giường, kề sát bên Dương Lăng, thả dài mái tóc về phía trước, tươi cười bắt đầu kể chuyện linh tinh với y: - Tướng công, hôm nay thiếp và Liên Nhi tỷ tỷ lên núi hái rau, thấy một cây hòe già phải đến mấy trăm năm tuổi mà hai ngày trước đã bị sét xuân bổ cháy đó. Thân thể nhỏ nhắn xinh xắn mê người, bộ ngực mềm mại vô ý chạm vào khuỷu tay Dương Lăng. Ngửi thấy huơng vị xử nữ tươi mát từ người nàng, phần dưới mới vừa "nguội" của Dương Lăng lại không thể kìm chế bắt đầu xuất hiện phản ứng "căng phồng". Thân thể mềm mại của Hàn Ấu Nương lại dựa sát hơn, kề mặt trên ngực y, hào hứng kể chuyện: - Bọn thiếp nghe đại thúc sống trong núi nói, đó là bởi vì cây hoè già muốn thành tinh, nên Lôi thần đã nổi giận đó. Nếu là trước kia thì thiếp sẽ còn bán tín bán nghi, nhưng mà tướng công cũng đã gặp được thần tiên, thiếp cũng không dám không tin, nên đã kéo Liên Nhi tỷ tránh đi. Tướng công, nếu như cây hoè già đó bị sét đánh không chết, có thật nó sẽ biến thành yêu tinh không? "Nha đầu à, ta không biết là cây hoè già có biến thành yêu tinh hay không, ta chỉ biết là nàng sắp biến thành yêu tinh đến nơi rồi! Còn ta... ta cũng đã chuẩn bị khẩu 'đại pháo trần gian' rồi đó, biết không hử? Tiểu yêu tinh!" Dương Lăng nghiến răng nghiến lợi thầm nghĩ. (1) Nguyên văn:千棺从门出, 其家好兴旺. 子存父先死, 孙在祖乃丧 Hán Việt: Thiên quan tòng môn xuất, Kỳ gia hảo hưng vượng. Tử tồn phụ tiên tử, Tôn tại tổ nãi táng. Nghĩa là: Nghìn quan tài qua cửa, Nhà đó hẳn có thời. Con còn cha mất trước, Cháu sống ông đi rồi. (Trích từ Ỷ Thiên Đồ Long ký - Hồi 17)

Chương 47: Không gần nữ sắcDịch: TheJoker Biên dịch: Hieusol Biên tập: Ba_Van Hiệu đính: Nguồn: www.tangthuvien.com - Tướng công, như thế... thật sự không tính là gần nữ sắc ư? - Ờ... Đương nhiên! Tướng công là kẻ đọc sách mà! Quyển hai - Nhắm mắt lên kinh thành - Chương 47 Không gần nữ sắc Dương Lăng đang bị lửa dục thiêu đốt, tấm chăn bất tri bất giác lặng lẽ dựng lên một cây cột nhỏ. Nhưng Hàn Ấu Nương chưa trải sự đời, đối với mấy chuyện này cái hiểu cái không, hơn nữa thường ngày nàng cũng hay bám dính bên người Dương Lăng, cho nên không hề biết lúc này vì uống rượu tráng dương hằng ngày mà tinh trùng Dương Lăng đã chạy lên tới não rồi. Vẫn cố đè nén lòng ham muốn Ấu Nương, Dương Lăng khổ sở cười, đáp: - Ừm! Biết đâu được, có thể thành tinh đấy. Tham lam rờ rẫm khuôn mặt trơn nhẵn của Ấu Nương, y cố ý ngáp to một tiếng, rồi bảo: - Vừa mới tắm xong, nàng hãy mau đắp chăn lên rồi ngủ đi kẻo nhiễm lạnh. - Không, bây giờ nóng quá à! Con người có thể thích nghi với hoàn cảnh. Sự nuông chiều và dung túng của Dương Lăng đã khiến bản tính của Hàn Ấu Nương đều phát huy ra hết, không còn vì tướng công là ông tú tài mà lúc nào cũng bị gò bó, mất tự nhiên. Nàng như một đứa trẻ đang làm nũng, nằm sấp trên giường, co hai cái chân nhỏ nhắn đong đưa trên không: - Sở Dịch vẫn đốt giường sưởi mà. Sáng nào thức dậy cũng phải uống nhiều nước hết, miệng khô rồi nè. Lát nữa thiếp thay chăn mỏng. Tướng công! Chàng có muốn thay không? Dương Lăng rướn người dậy, dồn gối cao lên một chút, đoạn đáp: - Không cần, ”xuân che đông đậy”, nàng hiểu không? Thay chăn sớm sẽ bị cảm mạo đó. Nàng cũng đừng nên thay vội, đợi thêm vài bữa nữa đi! Hàn Ấu Nương bĩu môi: - Nóng vậy mà tướng công còn chưa chịu thay. Tối ngủ chàng hay đạp chăn ra, thiếp vẫn phải đắp lại cho chàng nhiều lần lắm đó. Chải tóc xong, nàng khéo léo vén lên cao để lộ cần cổ xinh đẹp. Đưa mắt dõi theo tà áo hở lệch, y bắt gặp làn da trơn mượt của bầu ngực. Quả đào non bé xinh xinh đã bắt đầu tạo thành đường cong tuyệt mỹ. Dương Lăng nhìn chăm chăm, không nỡ thu lại ánh mắt, rồi nhìn dọc xuống xuôi theo tấm lưng nàng. Một đôi chân trắng nõn nhỏ nhắn đang xoè ngón đong đưa trên không, làm co giãn chiếc váy lót của nàng, thi thoảng hiện rõ đường cong của bờ mông tròn trịa khoẻ khoắn. Tiểu cô nương mới mười bốn, mười lăm, tướng mạo vẫn còn hơi giống một quả nho xanh, nhưng cặp mông tròn lẳn ấy đã có hơi hướm xinh đẹp của phụ nữ rồi. Theo cách nói của các cụ, mông như vậy sẽ đẻ tốt, Dương Lăng "xấu xa" suy nghĩ. Dạo gần đây y thường hay có những ý nghĩ xấu xa. Thân trên của Ấu Nương thon thả, đáy thắt lưng ong, nhưng mông và đùi lại đã nẩy nở như một người phụ nữ trưởng thành. Theo hiểu biết của Dương Lăng, thân dưới phát dục sớm cho biết sau này nàng sẽ không lớn lên theo hướng cao gầy, mà hẳn sẽ vẫn duy trì vóc dáng nhỏ nhắn đáng yêu này. Trông thấy ánh mắt bốc lửa của trượng phu, Hàn Ấu Nương thẹn thùng bỏ chân xuống, khuôn mặt càng thêm ửng hồng. Nàng vẫn chưa biết cách phơi bày tư thế khêu gợi để trêu chọc đàn ông, nhưng động tác và dáng điệu ngây thơ thuần khiết này lại càng quyến rũ mê người hơn. Không nhịn thêm được nữa, Dương Lăng thở gấp, tung chăn ra, xoay vai Ấu Nương lại. Trong tiếng kêu dịu dàng, Ấu Nương khẽ trở người ngả vào lòng y. Nàng tràn trề hạnh phúc tựa vào ngực y, hưởng thụ những cái vuốt ve mơn trớn của phu quân. Những lúc hai người nằm trên giường tán gẫu chuyện gia đình, Dương Lăng vẫn thường táy máy tay chân nên Ấu Nương cũng dần dần quen với những vuốt ve của y. Hôm nay cảm kích phu quân đã từ chối nạp thiếp, Hàn Ấu Nương càng để cho y thoả sức vuốt ve, không hề trái ý. Dương Lăng ôm chiếc eo thon của nàng, vuốt ve bộ ngực non nớt cùng bờ mông đầy đặn săn chắc, rất đàn hồi của nàng. Đường cong mềm mại mượt mà ấy dường như có thể tạm xoa dịu dục vọng của y. Ấu Nương nhắm mắt lại, ngất ngây trong lòng trượng phu, cánh mũi khẽ phập phồng. Bỗng nhiên Dương Lăng đưa tay mò vào trong quần lót của nàng, bờ mông săn chắc, trơn tuột bị y bóp mạnh. Làn da mịn màng trơn bóng tựa như một dòng suối chảy xuôi, lờ mờ toát ra sức sống tràn trề của tuổi thanh xuân. Hàn Ấu Nương cảm giác động tác của trượng phu hôm nay có chút khác với ngày thường. Nàng thẹn thùng cụp mi, cản: - Tướng công, chàng đừng... đừng... mà! Tinh trùng lên não có thể khiến cho đàn ông có thể nói những lời bình thường không thể nói, làm những chuyện bình thường không thể làm, hơn nữa còn có thể ra sức điều động tế bào não bộc phát cơ trí. Nhân loại tiến bộ là nhờ theo đuổi dục vọng mà. Lúc này, Dương Lăng chợt loé sáng kiến, nảy ra một biện pháp giải quyết cho nan đề của mình. Y chẳng nói chẳng rằng ôm chặt lấy Ấu Nương, nhẹ giọng bảo: - Ấu Nương! Ngày đó ta đã uống rượu, cũng buồn ngủ rồi, lại thêm vì nàng đang khóc nên ta hơi sốt ruột, có vài điều vẫn chưa nói kịp cho nàng hay. - Ừm? Hàn Ấu Nương mở mắt ra, nhìn sang Dương Lăng dò hỏi. Mặt giả thần giả quỷ, Dương Lăng ra vẻ nghiêm túc nói: - Thành hoàng còn nói với ta rằng, nếu như mời hoà thượng làm phép rồi đeo một tượng phật đã được khai quang (1) trên người thì... thì cũng sẽ không ảnh hưởng đến chuyện sinh hoạt vợ chồng. - Ồ!? Khoé miệng Hàn Ấu Nương hơi nhếch lên. "Sinh cho phu quân một đứa con, thừa kế hương hoả nhà họ Dương, thì con sẽ không sợ mất đi sự yêu thương của hắn", lời cha nói bỗng lướt qua đầu nàng. Trải qua chuyện của Mã Liên Nhi, nàng hơi có cảm giác không an toàn, cho nên ngay lập tức nghĩ đến vấn đề quan trọng cần đưa vào lịch sinh hoạt thường ngày. Nàng phấn khởi siết chặt vòng tay quanh ôm cổ trượng phu: - Kê Minh Dịch có miếu tự nhưng không có hoà thượng. Chúng ta sắp xếp thời gian đi Phủ thành một chuyến được không? Tìm một vị đại sư... “Được, đương nhiên là được rồi, nhưng còn bây giờ thì sao đây? Tên đã lên dây cung rồi, không thể không bắn đâu à!” Uống rượu bổ hơn một tháng nay, bây giờ quả thật Dương Lăng đã như thác lũ tràn bờ, đại hồng thủy chứ chẳng chơi à! Dương Lăng ậm ờ: - Được! Được! Có thời gian chúng ta sẽ đi Phủ thành một chuyến. Vừa nói y vừa lật mình đè lên người Ấu Nương. Thân thể non nớt của Ấu Nương phối hợp một cách hoàn mỹ với y; đùi, eo và tay đều tràn trề sự mềm dẻo, không chỗ nào không đàn hồi, không chỗ nào không linh hoạt tự nhiên. Đó là kết quả của việc Ấu Nương đã chạy nhảy, leo trèo trong rừng từ nhỏ. Lửa dục của Dương Lăng bị thân thể trẻ trung tràn trề sức sống của nàng bùng thổi. Y vứt bỏ gánh nặng trong lòng, ôm chầm lấy tấm thân tuyệt mỹ của Ấu Nương, tuỳ ý nhấm nháp đôi môi anh đào ngọt ngào và mềm mại của nàng. - Tướng công! Bây giờ vẫn chưa được. Bây giờ... đừng... Hàn Ấu Nương vừa thích vừa sợ, hoảng loạn đẩy người y ra. - Yên tâm nào vợ yêu, tướng công... Hôm nay tướng công không đòi thân thể của nàng, sẽ không tính là gần nữ sắc đâu! Dương Lăng thở hổn hển, đành miễn cưỡng lùi bước mà cầu xin. Hàn Ấu Nương ngạc nhiên chẳng hiểu, chớp chớp đôi mắt xoe tròn long lanh bóng nước, bàn tay nhỏ bé đã bị Dương Lăng kéo vào trong quần lót của y. Một tiếng "á" khẽ cất lên, Ấu Nương rút mạnh tay về như thể bị ong chích. Nhưng Dương Lăng đã giữ chặt lấy cổ tay nàng, tách từng ngón ra, để nàng nắm lấy cái vật cứng ngắt, nóng hổi đang kích động ở trong đó. Cả người Hàn Ấu Nương run lên vì căng thẳng, nàng nhắm tịt mắt, người cứng đờ, không dám nhúc nhích. Dương Lăng dẫn dắt tay nàng vuốt lên vuốt xuống, rồi hôn nhẹ vành tai xinh xắn của nàng, nhỏ giọng: - Cứ như vậy, hiểu không? Hàn Ấu Nương hé một con mắt nhìn y, rồi lại lập tức nhắm nghiền lại, mặt đỏ bừng như lửa, lắp bắp: - Thiếp... thiếp... ưm..., nhưng... vậy... như vậy không tính là gần nữ sắc à? - Ừm, không tính! - Thật ư? - Đương nhiên rồi! Tướng công là người đọc sách mà! - Ờ... - Nhẹ quá... nàng làm mạnh thêm chút đi. - Ờ... - Ui da... Nàng đang nhổ cải hay sao vậy? Nhẹ tay chút đi cưng. - Ờ... Ngoài cửa sổ ánh trăng sáng ngời. Trong phòng, Dương Lăng đang kiên nhẫn phổ cập tri thức vỡ lòng cho Ấu Nương. May mắn gặp một học sinh giỏi tiếp thu rất nhanh, cho nên cuối cùng y cũng dần lạc bước thiên thai, bay bổng như tiên. Hàn Ấu Nương ngồi xếp bằng bên cạnh Dương Lăng, mái tóc rối tung buông xoã, đôi mắt long lanh chứa đựng vẻ ngượng ngùng không thể che giấu. Đôi bàn tay thon thả trắng phau đang "chấp hành" chỉ thị của Dương Lăng, không ngừng hoạt động dưới chăn. Một lúc lâu sau nàng mới cố nén ngượng ngùng, tò mò hỏi: - Tướng công, làm như vậy rất dễ chịu à? Dương Lăng đang nhắm mắt say sưa tận hưởng vui thú. Bàn tay nhỏ bé của Ấu Nương đã mềm lại có sức, tuy nàng không biết kỹ thuật gì, nhưng lúc này y cũng chẳng lo, sau này cứ từ từ "chỉ dạy" thôi. Hiện tại động tác như vậy cộng thêm dáng vẻ loli của nàng đã đủ kích thích rồi, cho nên y chỉ khẽ "ừm" một tiếng. Hàn Ấu Nương nghĩ ngợi một chút, rồi lại dừng tay, vẻ mặt nghiêm túc: - Tướng công, thiếp vẫn cảm thấy... Như vầy thật không tính là gần nữ sắc sao? “Nàng không biết là nói về mấy chuyện này cần phải có quá trình chuẩn bị hay sao? Sao bỗng dưng lại cứ muốn dò hỏi vấn đề này?” Dương Lăng khóc không ra nước mắt, chỉ đành cắn răng nhắc lại từng chữ một: - Tin ta đi! Không sai đâu, bởi vì ta là kẻ đọc sách mà! Hàn Ấu Nương rụt rè cười, không thắc mắc nữa. Vẻ mặt nàng rất chuyên tâm, dưới ánh đèn, khuôn mặt non nớt yêu kiều khoác lên thêm một quầng sáng màu hồng nhạt, ngũ quan xinh xắn toát ra vẻ dịu dàng đáng yêu. Lưng Dương Lăng bắt đầu cứng lại. Thoáng nhìn Ấu Nương như một con sói nhìn mồi, y phát hiện đôi môi của nàng cong cong, mảnh mai, hàm răng hơi hé mở, mắt đẹp tựa mùa xuân. Ban nãy sao không phác giác ra nhỉ? Theo tính nết ngoan ngoãn vâng lời của Ấu Nương đối với y, nếu như dùng cái miệng chúm chím như quả dâu đó để..., Chỉ mới vừa nghĩ như vậy, cơn hưng phấn đang gần đạt đến đỉnh điểm của y liền không kiềm chế được mà phun trào. Ấu Nương không hề có kinh nghiệm, nên vừa cảm nhận được phản ứng kích động của y, tay nàng càng hoạt động hăng hơn. Cơ thể sau khi mới phát tiết xong cực kỳ mẫn cảm, Dương Lăng vội nắm lấy cổ tay nàng, ngăn cô nàng vì lòng tốt mà "giày vò" mình. Vừa hổn hển khôi phục thần trí xong, y thấy Ấu Nương đang tròn xoe đôi mắt nhìn mình tựa như còn chưa biết đã xảy ra chuyện gì, nhưng trong ánh mắt trong veo thánh khiết đó lại mang đầy vẻ hứng thú. Khi ánh mắt hai người vừa chạm nhau, đôi mắt ấy lập tức e thẹn dời đi. - Tướng công, chàng đỡ rồi à? Nàng cúi đầu thẹn thùng hỏi. Dương Lăng khẽ vuốt chân nàng, "ừm" một tiếng. Hàn Ấu Nương bị nhột bèn rụt chân lại, sau đó vui vẻ mỉm cười như thể đã hoàn thành một nhiệm vụ vĩ đại. Như một cô mèo con mềm mại, nàng mãn nguyện ngả vào lòng Dương Lăng, khẽ nói: - Tướng công, như thế... thật sự không tính là gần nữ sắc ư? - Ờ... Đương nhiên! Tướng công là kẻ đọc sách mà! Dương Lăng vừa dứt lời, Hàn Ấu Nương lại cười ngọt ngào: - Tướng công, tim chàng đập nhanh quá! Dương Lăng bật cười, y vừa cười vừa ôm chặt hơn cô vợ bé bỏng đáng yêu này vào lòng. Y bỗng hiểu “chẳng qua Ấu Nương chỉ muốn trò chuyện với mình mà thôi”. Y âu yếm vuốt mái tóc mềm mại như tơ của Ấu Nương. ****************** Sáng sớm hôm sau, Dương Lăng đi đến kho sân lương thực ở gian hai, thấy hơn mười tên lính sắp hàng bên xe ngựa đang chờ sẵn trong sân, dẫn đầu chính là đội trưởng thân binh của Tất Xuân - Quan Thụ Anh. Dương Lăng vội vàng bước lên nghênh đón. Trông thấy y, Quan Thụ Anh cười lớn chào: - Dương dịch thừa dậy sớm thật! Vì trong quân cần lương thảo cho nên tại hạ đưa người đến để nhận thêm ba ngày lương thực. Dương Lăng đã sớm nghe tin đại quân của Tất Xuân sắp sửa lên đường quay về Chiết Giang, cho nên y cũng đã tính toán để bọn họ nhận lương thảo theo từng hạn ngắn, phòng sau này còn phải nộp lên trên, vì thế quân dụng phải chia ra nhận nhiều lần. Hai người đang đứng tán gẫu trong sân, chợt thấy Mã Ngang tay cầm roi ngựa hầm hầm từ sân sau bước ra. Y đoán Mã Ngang mới vào thăm em gái, chỉ không biết đã cãi nhau với Mã Liên Nhi chuyện gì mà vẻ mặt có phần không vui. Dương Lăng chắp tay: - Mã huynh! Đã lâu không gặp! Mã Ngang thấy y thì hơi ngạc nhiên, song cũng vội chắp tay đáp lễ: - Dương dịch thừa! Quan Thụ Anh cười hì hì, nói chen: -_Mã lão đệ, sao sắc mặt khó coi quá vậy. Chẵng nhẽ... lệnh muội không đồng ý? Mã Ngang gượng cười, đáp: - Làm gì có chuyện đó! Đại nhân đã coi trọng, để mắt đến anh em của bọn đệ như vậy! Thường có câu ‘huynh trưởng như cha’, chuyện của em gái còn không phải do đệ làm chủ hay sao? Quan Thụ Anh cười vờ vịt: - Nói cũng phải, ta chúc mừng Mã lão đệ trước vậy! Sau này vẫn mong lão đệ chiếu cố nhiều một chút đấy! Trên mặt hơi loé lên một tia đắc ý, Mã Ngang đáp: - Không dám, chúng ta cùng là huynh đệ dưới trướng Tất đại nhân, nên chiếu cố cho nhau mới phải. À! Đệ còn phải đi chùa Phổ Độ một chuyến. Dương dịch thừa, lão Quan, ta đi trước đây! Đưa mắt tiễn Mã Ngang vội vã rời đi, Dương Lăng thắc mắc: - Quan huynh! Mã đại ca đang làm gì vậy? Sao lại gấp gáp vậy? Quan Thụ Anh nói với giọng điệu kỳ quái: - Đại nhân đã nhìn trúng em gái của Mã Ngang, có ý muốn nạp nàng ta làm thiếp. Có được cơ hội kết thân với Đô ty đại nhân, vị nhân huynh này đây dĩ nhiên cầu còn không được rồi. Có điều xem bộ dạng thua cuộc của y, quả hồng này không dễ cầm à. Xem ra đứa em gái đó của y cũng không phải là cô gái không có chủ kiến. Ha ha, muốn dùng em gái làm bàn đạp, xem ra cũng không dễ dàng gì! Nhìn gã cười như vậy, cũng không ai biết là vì gã khinh thường Mã Ngang, hay là vì đố kỵ mình không có một cô em gái như hoa như ngọc để mình cũng một bước lên trời, trở thành ông anh vợ của đại quan tứ phẩm triều đình. Dương Lăng nghe xong không khỏi thất kinh, "Tất đô ty đã nhìn trúng Mã Liên Nhi rồi sao?" Nghĩ đến tuổi tác của Tất đô ty và cha Mã Liên Nhi không hơn kém bao nhiêu, lại nghĩ đến cặp mắt tam giác có điều khắc bạc đấy của hắn, hơn nữa Mã Liên Nhi mới mười sáu mười bảy, xinh đẹp và ngây thơ, hình tượng "đầu bạc má hồng"(trâu già gặm cỏ non) lướt qua đầu, bất chợt y cảm thấy khó chịu. Cự tuyệt Mã Liên Nhi xong, y cảm thấy mình đã nợ người ta một phần tình cảm, cho nên mới hao phí tâm sức lợi dụng chức quyền muốn giúp nàng đưa linh cữu về quê, coi như là đền bù. Nếu như nàng có thể tìm được một tấm chồng vừa ý, y cũng sẽ có thể trút bỏ được gánh nặng trong lòng. Ngờ đâu anh trai nàng lại tự dưng chen ngang, vì tiền đồ của bản thân mà muốn nàng làm thiếp một kẻ tuổi đã gần năm mươi. Chẳng nhẽ thật sự hồng nhan bạc mệnh, Mã Liên Nhi chỉ có số làm thiếp người ta thôi sao? Trông bộ dạng đùng đùng bỏ đi của Mã Ngang, hiển nhiên là gã đã ăn phải quả đắng ở chỗ Mã Liên Nhi, cô em gái trong cứng ngoài mềm rồi. "Mình có nên đi thăm nàng ấy một chút không?" Dương Lăng tự hỏi, muốn xoay người song lại sững ra, dừng lại: "Dù sao đây cũng là chuyện của nhà người ta, mình lấy tư cách gì mà xen vào chứ?" Thấy Dương dịch thừa nghe lời mình xong thì hơi thừ người, Quan Thụ Anh không khỏi cảm thấy kỳ quái. Tay lính xuất thân là thợ mổ heo này lại rất tinh ý, gã lập tức nhìn ra vài phần căn nguyên ngay: “Trông dáng điệu thế này, chẵng nhẽ Dương dịch thừa cũng thích Mã cô nương? Ừ nhỉ, bọn họ ở chung trong một đại viện, ’Thư sinh với tiểu thư sau vườn hoa’ mà, trong hí kịch vẫn thường hát như vậy.” “Ha! Có kịch hay xem rồi. Tên tiểu tử Mã Ngang đó, khi trước gặp mình lúc nào cũng một điều Quan đại ca, hai điều Quan đại ca; bây giờ còn chưa có gì mà hễ mở miệng là luôn mồm lão Quan rồi, nghe chối tai bỏ mẹ. Nếu để nó lên làm anh vợ của Tất đại nhân, đạp lên mặt mũi mình, thì chắc mình sẽ biến mẹ nó thành tiểu Quan quá! Ừ, chuyện này mình phải tính toán một chút. Tiểu Dương này trượng nghĩa, giúp y cũng là giúp mình mà!" Trong khi hai người đang mang những tâm sự riêng, một tên tiểu lại đã vội vội vàng vàng chạy đến, từ xa đã gọi vọng: - Dịch thừa đại nhân! Người lần trước lại đến tìm ngài rồi, đang ở tiền thính (sảnh chờ) đợi ngài đó. Câu nói không đầu không đuôi làm Dương Lăng ngây người, y hỏi dồn: - Cái gì mà lần trước tới? Người nào vậy? Tiểu lại bẩm: - Chính là cái lão buôn thuốc tự xưng là họ Ngô ấy, lão nói là có chuyện gấp cần gặp đại nhân ngài đấy ạ! (1) “Khai quang” là thỉnh một Pháp thân của Phật nhập vào tượng Phật; rồi sau đó coi tượng Phật như một thân thể hữu hình của ngài để thờ cúng.

Chương 48: Thăng quan mù mờDịch: TheJoker Biên dịch: Hieusol Biên tập: Ba_Van Nguồn: www.tangthuvien.com Ngây người một hồi, Dương Lăng mới lắp bắp hỏi: - Ngô đại nhân, chuyện này... Sao đột nhiên lại điều ta vào kinh làm quan vậy? Quyển hai - Nhắm mắt lên kinh - Chương 48 Thăng quan mù mờ Nghe nói Ngô thiên hộ đã đến, Dương Lăng biết có chuyện quan trọng nên lập tức cáo biệt Quan Thụ Anh, gấp rút chạy ngay đến sảnh chờ (tiền thính). Bên ngoài văn phòng của dịch thừa có hai người dong dỏng, trẻ tuổi lanh lợi đang đứng nghiêm. Dương Lăng đoán họ là tuỳ tùng của Ngô Kiệt nên cũng không để tâm, sải bước qua cửa. Y thấy Ngô Kiệt vẫn mặc bộ áo xanh, đang ngồi ngay ngắn trên ghế dựa, nhưng dáng ngồi ngay ngắn hôm nay lại không hề giống với vẻ khoan thai tự đắc trong lần gặp trước. Dương Lăng chợt cảm thấy hồi hộp, xem bộ dạng này, nhất định Ngô Kiệt có chuyện trọng yếu mới đến, chẳng lẽ Cẩm y vệ đã xảy ra chuyện gì sao? Trông thấy y đi tới, Ngô Kiệt liền lập tức đứng lên. Thấy tên tiểu lại vừa nhắn tin cũng đang theo sau Dương Lăng, lão ta vội vàng nói: - Dương đại nhân! Mời vào nội sảnh nói chuyện! Thấy vậy, Dương Lăng phất tay để tên tiểu lại rời đi, rồi khép chặt cửa phòng, thấp thỏm theo Ngô Kiệt bước vào phòng trong. Y vừa định dùng lễ ra mắt của hạ quan với cấp trên thì bất ngờ Ngô Kiệt chợt xoay người, sụp gối quỳ đánh soạt: - Hạ quan Ngô Kiệt, bái kiến Cẩm y thân quân Chỉ huy sứ ti Đồng tri (1) Dương Lăng Dương đại nhân! Dương Lăng giật nảy người, lúng ta lúng túng nâng Ngô Kiệt dậy, vẻ bối rối không hiểu: - Ngô đại nhân, ngài nói gì vậy? Đồng tri gì? Việc này... việc này… Ngô Kiệt cố nặn bộ mặt tươi cười, vòng tay đáp: - Chúc mừng đại nhân! Đề đốc Cẩm y vệ Trương đại nhân rất xem trọng tài học của Dương đại nhân, đã lệnh cho đại nhân lên chức Cẩm y vệ Đồng tri, thăng quan ngũ phẩm. Hạ quan vào kinh xử lý công vụ, đặc biệt tiếp nhận lệnh dụ này thông tin trước cho đại nhân. Phải biết Ngô Kiệt là Thiên hộ Tòng ngũ phẩm, chỉ thua y nửa cấp nên không cần phải giữ lễ đến cỡ đó. Nhưng hiện thời Dương Lăng đã là quan viên kinh thành, tham gia bộ phận trung ương của Cẩm y vệ, lại mới chỉ có mười tám tuổi, tiền đồ vô cùng rực rỡ, Ngô Kiệt sao dám không ra sức bợ đỡ? - Hả? Dương Lăng càng thêm ngỡ ngàng, tù mù chẳng hiểu gì. Y không có chút khái niệm gì về chức quan Đồng tri, nhưng về ngũ phẩm thì lại biết rành. Ngây người một hồi, Dương Lăng mới lắp bắp hỏi: - Ngô đại nhân, chuyện này... Sao đột nhiên lại điều ta vào kinh làm quan vậy? Ngô Kiệt nghe mà thiếu điều muốn khóc: "Ngươi hỏi ta, ta biết hỏi ai đây? Ta chỉ là Cẩm y vệ thế tập (là con cháu của Cẩm Y vệ đời trước), khổ cực ba mươi năm mới lên được chức Thiên hộ. Trong số Cẩm y vệ được tuyển chọn từ dân gian mà thăng tiến từng bước cũng có kẻ đạt đến cấp bậc này, nhưng bọn họ đều cũng phải lăn lộn cả đời, lập không biết bao nhiêu công lao mới được chức đó. Ai mà biết được phần mộ tổ tiên nào của tiểu tử nhà ngươi đã kết phát(2) chứ! Ta vẫn còn ức đến run người lên đây này!" Có điều mấy lời này nào dám nói ra, lão vội vừa cười vừa đáp: - Hạ quan tiếp nhận xong lệnh dụ liền từ kinh thành chạy đến đây ngay trong đêm, cũng không rõ tình hình cụ thể trong đó. Có lẽ bụi trần không che được ngọc sáng, ngọc rực rỡ chói loà, đại nhân tài học xuất chúng, nổi trội hơn người, sao triều đình lại có thể chôn vùi nhân tài chứ? Ha ha ha... Vừa cười, Ngô Kiệt vừa rút từ trong ống tay áo ra một tấm giấy nhét vào trong tay Dương Lăng, rồi nói tiếp: - Đại nhân lần đầu lên kinh, mua nhà lập đất, thăm viếng đồng liêu, nhất định sẽ tốn chút chi phí. Hạ quan kính biếu nghìn lạng gọi là lộ phí, xin đại nhân vui lòng nhận cho. Dương Lăng vừa nghe nói nghìn lạng bạc ròng thì nào dám nhận, Ngô Kiệt nghiêm mặt giải thích: - Đại nhân chớ quan tâm! Hằng năm hạ quan bôn ba biên ngoại, khổ thì có chút khổ, nhưng để che dấu thân phận nên thường tiến hành riêng một vài vụ buôn bán dược liệu, da, trà, muối… với ngoại tộc. Có thân phận Cẩm y vệ che chở nên tiền bạc kiếm được cũng khá dễ, chút bạc này không đáng là bao, chỉ là chút thành ý của hạ quan, đao cùn không đáng tra vỏ mà thôi. Nếu như đại nhân không nhận, thật tình hạ quan sẽ rất khó xử. Không đợi Dương Lăng cự tuyệt, lão đút ngân phiếu vào trong ống tay áo y, rồi làm ra vẻ bịn rịn không nỡ xa, nói tiếp: - Hạ quan và đại nhân quen biết nhau đến nay khá hợp duyên. Lần này đại nhân tiến kinh, chỉ đến khi trở về kinh thành báo cáo nhiệm vụ hằng năm hạ quan mới có thể đến phủ của đại nhân để bái kiến rồi. Ôi chao! Hạ quan tuổi đã cao, quanh năm bôn ba vùng biên ngoại, chân cẳng đã cảm thấy bất tiện. Lần này đại nhân tiến kinh nhất định sẽ được trọng dụng, đến lúc ấy vẫn mong đại nhân có thể nói tốt vài lời cho hạ quan. Nếu có thể điều hạ quan về kinh, hạ quan nguyện sẽ theo làm tuỳ tùng cho đại nhân. Dương Lăng thầm nghĩ “Xem ra vị Ngô thiên hộ này chẳng được lòng người trong kinh, bằng không có lắm người quyền cao chức trọng như thế, y không cần phải nhờ vả đến mình. Nhưng mà, một tiểu lại như mình được vẻ vang thăng quan lên Bách hộ, còn có thể nói là nhờ Cẩm y vệ vì đón cầu ân huệ ở trước mặt hoàng đế mà tranh đoạt chiến công đi, chứ hôm nay chẳng biết vì sao lại thăng mình lên làm Đồng tri như thế này, quả thật có vẻ quá ư quỷ dị!” Ngô Kiệt về kinh lần này chính là để chạy chọt trên dưới khắp nơi muốn được điều hẳn về kinh, không phải chỉ thông qua riêng mỗi một cửa. Những người này làm quan lâu năm, kết bè kết phái, rất chú ý đến những động thái thay đổi nhân sự trong triều. Dương Lăng tuổi chưa tròn hai mươi, lại do đích thân thủ lĩnh tối cao Cẩm y vệ hạ lệnh tấn chức vào kinh, tiền đồ đương nhiên không thể lường được. Nếu như hôm nay không tạo dựng tốt quan hệ, sau này còn ai thèm để ý dệt hoa trên gấm (nói tốt) cho họ chứ? Dương Lăng suy nghĩ một hồi rồi lại hỏi: - Ngô đại nhân, bây giờ tôi vẫn mang thân phận dịch thừa, không cần lệnh điều động của bộ Lại sao? Khi nào thì tôi mới có thể vào kinh vậy? Ngô Kiệt ngẩn người, đáp: - Đại nhân! Trong kinh lệnh cho hạ quan phải cấp tốc chạy về đây ban lệnh dụ ấn tín, nhưng lại không hề đề cập đến ngày tiến kinh của đại nhân. Ồ, phải rồi, đến cùng với hạ quan có hai vị Cẩm y Hiệu úy, là người trong kinh phái tới hộ tống đại nhân, đại nhân có thể hỏi thăm bọn họ. Dương Lăng thu lệnh dụ ấn tín xong, cả hai cùng trở ra ngoại sảnh. Ngô Kiệt mở cửa gọi hai người trẻ tuổi ban nãy vào. Hai người bọn họ cao xấp xỉ như nhau, cùng ngươi sáng mắt trong, trông mười phần thông minh lão luyện. Hai người đã sớm biết lệnh bổ nhiệm từ kinh thành nên vừa bước vào phòng liền ôm quyền, quỳ một gối, hành lễ với Dương Lăng: - Ti chức Liễu Bưu, Dương Nhất Thanh bái kiến Đồng tri đại nhân! Dương Lăng chưa quen bị người ta dùng đại lễ như vậy để yết kiến, vội vàng bước tới nâng hai người dậy. Hỏi kỹ một hồi, y biết được mệnh lệnh mà hai người nhận được là mặc thường phục bảo vệ y về kinh, rồi diện kiến Trương đại nhân. Còn phần lúc nào về kinh, Trương đại nhân từng căn dặn kỹ càng sắp đến trong kinh sẽ đưa một đội ngũ khác đến nghênh đón, bọn họ chỉ cần ở yên đó chờ là được, đồng thời tạm thời không thông báo cho quan phủ địa phương chuyện y thăng chức Đồng tri. Dương Lăng và Ngô Kiệt nghe xong trố mắt nhìn nhau, hết sức ngạc nhiên. Phải biết rằng thân phận của Cẩm y vệ chia làm ba loại. Một loại là làm ban sai (3) trong nha môn, thân phận công khai, là thành viên nòng cốt của Cẩm y vệ; một loại là bán công khai giống như cái chức dịch thừa này, ai ai cũng biết y có lớp thân phận này, nhưng không ai vạch trần, là nhân viên ngoại vi của Cẩm y vệ; loại thứ ba chính là loại như Ngô Kiệt, lấy thân phận thường dân để hoạt động, người ngoài tuyệt đối không thể biết được thân phận thật sự của họ là mật thám của Cẩm y vệ. Dương Lăng được thăng chức Đồng tri, vào kinh đô làm quan, chính là thân phận công khai. Bây giờ lại không cho y thông báo với quan phủ địa phương, hiển nhiên trong đó còn có ẩn tình. Trong kinh còn có người đặc trách đến để nghênh tiếp y? Điều này càng khiến cho Ngô Kiệt nghĩ rằng nhất định Dương Lăng đã kiếm được chỗ dựa lớn nào đó ở trong kinh, cho nên thái độ càng thêm cung kính. Về phần hai tay Hiệu úy đã là thân binh do Dương Lăng quản lý, thấy vị đại nhân này trẻ tuổi như vậy cũng hết sức vui mừng. Hậu nhân của những công thần huân khanh (bề tôi có công) của các triều đại trong Cẩm y vệ rất nhiều, đều là quan chức truyền đời, hai người bọn họ lại là Cẩm y vệ được tuyển chọn và điều động từ trong dân gian. Điều này giống như người ta học hệ đại học chính quy, còn anh chỉ tốt nghiệp trung học dạy nghề, cho dù năng lực làm việc của anh có cao hơn người ta, việc thăng tiến của anh cũng sẽ gặp phải trùng trùng cách trở. Hôm nay hai người bọn họ được hầu hạ vị đại nhân trẻ tuổi có tiền đồ rộng lớn như vậy, hơn nữa lại cùng hệ bình dân, đương nhiên cơ hội thăng tiến sẽ càng lớn. Tiễn Ngô Kiệt xong, Dương Lăng thu xếp cho Liễu Bưu và Dương Nhất Thanh trọ lại dịch quán. Ngẫm lại, hôm nay mình đã là quan lớn ngũ phẩm, hơn nữa còn là Cẩm y vệ quyền cao chức trọng, sau phút ngỡ ngàng y bỗng cảm thấy vui sướng khôn tả. Không nén được rạo rực, y chạy thẳng vào hậu viện để báo tin mừng cho Ấu Nương. Đàn ông đang yêu ai cũng đều giống như trẻ con, có chuyện gì hay ho đều chỉ mong sao cho người thân yêu nhất của mình có thể biết tin càng sớm càng hay. Dương Lăng phấn khởi chạy ào đến sân trong gian thứ tư (tứ tiến), đúng lúc gặp Mã Liên Nhi rẽ ra cổng sân, tay bưng một chậu nước đổ ào ra ngoài. Nàng đeo tạp dề, mái đầu tóc đen quấn khăn trắng, tay áo xắn lên phân nửa, phơi trần hai cánh tay nõn nà như ngó sen đã đỏ ửng vì ngâm lâu trong nước dưới tiết trời hãy còn se lạnh; dáng điệu áo vải, váy rũ hiếm khi thấy được của nàng lại đem đến một ý vị khác biệt. Khóe mắt nàng đo đỏ, hình như vừa mới khóc. Chợt thấy Dương Lăng đi tới, Mã Liên Nhi giật mình thất kinh, không muốn bị y bắt gặp bộ dạng nhếch nhác hiện giờ nên nàng vụt quay đầu bước nhanh vào trong sân. Trông thấy nàng, Dương Lăng sực nhớ đến chuyện Tất đô ty nạp thiếp vừa nghe ban nãy, liền vội vàng đuổi theo. Vừa lách người vào trong sân lại thấy Dương Lăng lẽo đẽo theo vào, Mã Liên Nhi cuống cuồng, vội vã bê một chậu gỗ khác ở dưới đất lên rồi hoảng hốt bước vào phòng. Từ khi nào Mã Liên Nhi lại sợ gặp người khác như vậy nhỉ? Càng thêm hiếu kỳ, Dương Lăng không chút nghĩ ngợi liền bước theo vào phòng. Vừa giận vừa thẹn, Mã Liên Nhi đặt chậu gỗ lên bàn, lúng túng xoay người chắn phía trước, cáu gắt: - Huynh đuổi theo ta làm gì? Dương Lăng buông thỏng tay, vẻ bất đắc dĩ: - Khi không cô chạy làm gì? Trong chậu có vật gì không thể cho người khác thấy hay sao? Mã Liên Nhi chợt đỏ mặt, tức giận lườm Dương Lăng, gắt gỏng: - Ai cần huynh lo? Huynh là gì của ta chứ... Chó mà cứ thích bắt chuột (ý nói nhiệt tình một cách không cần thiết)! Mặt đỏ hồng, nàng kéo khăn trải bàn che chậu gỗ lại, rồi đi đến đầu giường ngồi phịch xuống, hai chân co lên, hai tay ôm gối, gác cằm lên đầu gối, nhìn Dương Lăng hỏi: - Huynh đuổi theo ta làm gì? Có chuyện muốn nói sao? Dương Lăng chú ý thấy nàng mang một đôi hài cong màu trắng, đó là đôi giày mang để tang cho phụ thân; hai chân gập lại, váy căng ra, đằng sau đôi chân thẳng tắp là nửa cung tròn tuyệt mỹ như vẽ bằng com-pa. Vừa quét mắt nhìn, cảm thấy lòng hồi hộp kích động, lập tức Dương Lăng không dám nhìn lâu, ánh mắt dời lại chiếc chậu gỗ được khăn trải bàn che phủ, y mới chợt ngộ ra ban nãy rất có thể nàng giặt giũ một loại yếm lót của nữ nhân. Đấy là những thứ cấm kỵ nhất của nữ nhân, ngay cả Ấu Nương khi giặt giũ những thứ đồ lót này cũng đều tránh mặt mình. Thảo nào Mã Liên Nhi lại cứ như giẫm phải đuôi chuột mà chạy về phòng, té ra là muốn cất giấu vật đó gấp. Buông người ngồi xuống chiếc ghế đối diện, y trầm ngâm một lúc rồi hỏi: - Nghe nói... sáng nay Mã huynh có ghé qua? Liếc y một cách đầy hàm ý, Mã Liên Nhi nhếch miệng: - Không phải huynh đã gặp y rồi sao? Dương Lăng đỏ mặt, ngượng ngập hỏi: - Cô... Sao cô biết? Mã Liên Nhi đảo mắt một vòng, thoáng nở một nụ cười khó hiểu, trả lời: - Ta... nghe nói sáng nay huynh đã gặp y. Dương Lăng gượng cười nói: - Còn chọc à? Sao cô vẫn không biết lo sầu gì thế? Nghe nói ca ca cô muốn ép cô gả cho Tất đại nhân hả? Mã Liên Nhi trợn mắt, thầm nhủ: ”Ta lo lắng cái gì? Ca ca lại hám lợi đến mê muội tâm can. Chẳng lẽ ta không tự nguyện, y dám trói ta giao cho người khác bắt làm thiếp hay sao?" (1) Tên chức quan xưa, tên gọi của chức phó. (2) Nguyên văn "tổ phần mạo thanh yên" (nghĩa đen là mộ tổ tiên toả khói xanh), là một kiểu nói theo phong thuỷ, khói xanh (thanh yên) đại khái mang khí chất xanh tươi, cát tường, là một điềm báo đại cát đại lợi. Dựa theo cách nói xưa là mộ phát, có thể làm quan. (3) Giúp quan phủ hoặc quân đội giải quyết những việc như trưng thu thuế má, chiêu mộ phu dịch, vân vân.

Chương 49: Hẹn ước ba nămDịch: TheJoker Biên dịch: Hieusol Biên tập: Ba_Van Hiệu đính: Nguồn: www.tangthuvien.com Bây giờ tôi và cô lập một ước hẹn quân tử ba năm, sau ba năm, nếu như Dương Lăng chưa ch... úi... chưa "lạc phách" thì sẽ rước cô về! Quyển hai - Nhắm mắt lên kinh - Chương 49 Hẹn ước ba năm Thấy y lo lắng cho mình, lòng Mã Liên Nhi ngọt ngào hơn được rót mật. Vừa tính mở lời an ủi, lòng nàng chợt máy động: “Hôm qua Ấu Nương muội muội nói ra nói vào đã để lộ ý chấp nhận nạp mình làm thiếp, cũng không biết muội ấy đã đề cập với vị lang quân nhẫn tâm này chưa. Hôm nay y chịu lo lắng cho mình, cho thấy y cũng không vô tình, cũng không uổng mình đã trao toàn bộ con tim cho y.” “Chi bằng mình...,” nàng cắn nhẹ môi, cười nửa miệng liếc Dương Lăng, "Mình thử khích y xem sao, nếu có thể làm cho y mở mang đầu óc là tốt nhất. Ôi! Thật không biết kiếp trước mắc nợ y cái gì nữa?! Thân là con gái mà phải trăm phương nghìn kế, nhẫn nhịn để được việc mà xuống nước cầu xin y!" Thầm oán lườm Dương Lăng, Mã Liên Nhi cất giọng u uẩn: - Ừm! Ta có thể như thế nào chứ? Một nữ nhân như ta, huynh nói có thể khuấy lên phong ba gì chứ? Huynh trưởng như cha, y lấy danh nghĩa phụ huynh ép ta, Tất đô ty lại là quan lớn, ta có thể làm sao đây? Thấy nàng ngân ngấn lệ, Dương Lăng không cầm lòng được, thấp giọng an ủi: - Cô là người tự do, nếu cô không bằng lòng, ai có thể cưỡng ép cô chứ? Mã Liên Nhi vốn chỉ muốn khơi dậy lòng thương hoa tiếc ngọc của Dương Lăng, không ngờ nói rồi lại gợi lên chuyện đau lòng của mình. Có chút không kiềm chế được tâm tình, nàng chán nản nói: - Người tự do? Từng có việc đó sao? Người con gái có thể có quyền tự lựa chọn phu quân ư? Giọng nàng dần nhỏ lại: - Ta vẫn muốn..., ta chấm một người. Vì hắn, ta không tiếc phải trả giá bằng danh tiết của mình, tự dồn bản thân vào đường cùng, chẳng qua là bởi thích hắn, muốn ở cùng hắn mà thôi. Người ta sẽ tiếp nhận sao? Biết đâu trong lòng hắn, ta bị coi là một đứa con gái nham hiểm, vô sỉ, thích dùng cơ mưu. Nếu như hắn thích ta, vậy thì xong, nhưng nếu hắn không muốn, kẻ khác sẽ chỉ ca tụng hắn là anh hùng cao cả, danh sỹ phong lưu, mọi cô gái đều thích. Nhưng còn cô gái từ đó về sau lại sẽ không thể ngẩng đầu, chịu hết mọi đắng cay nghiệt ngã. Mã Liên Nhi đỏ bừng mặt, trừng mắt oán hận nhìn Dương Lăng: - Huynh cùng Ấu Nương nghĩa nặng tình thâm, từ hôm dưới thành đó ta đã rõ. Được, ta tự nguyện làm thiếp, hầu chồng lo việc nhà, vậy mà vẫn khó được toại nguyện. Ha ha, là ta tự làm tự chịu, hôm nay danh tiết đã huỷ, còn có người nguyện đối đãi với ta như là vợ chính sao? Dương Lăng ngây người một hồi lâu, rồi hổ thẹn chống chế: - Cô… Cô thông minh thanh khiết, đoan trang dịu dàng, không phải người đàn ông nào cũng sẽ để ý đến những lời ong tiếng ve này đâu. Không để ý đến những lời y nói, Mã Liên Nhi tự cất giọng xa xăm: - Tất đô ti lấy ba nàng tiểu thiếp ở Giang Nam, nghe nói y đối đãi với tiểu thiếp vô cùng hà khắc, chánh thê thì lại hết sức hung hãn, ta... Hôm nay ta muốn làm thiếp cũng không còn đường lựa chọn... Tự mình tạo nghiệt thì không còn đường sống nữa ư? Dương Lăng im lặng một hồi lâu mới hít vô một hơi thật sâu, hạ giọng: - Liên Nhi, không phải Dương Lăng thật sự muốn ép cô bước trên con đường này. Số mệnh là vậy, tôi... Tôi thật sự là có nỗi niềm khó nói. Mã Liên Nhi nghe xong, rèm mi cụp xuống, hai hàng lệ trong vắt trào ra, đau thương đến chết lịm cõi lòng. Lời đã nói đến dường này, vậy mà Dương Lăng vẫn tìm cớ cự tuyệt nàng; nàng thật sự đã tuyệt vọng rồi. Từ sau đêm cùng ở bên nhau trong hố tuyết giữa núi rừng ấy, Mã Liên Nhi đã khắc sâu hình bóng của Dương Lăng vào trong tim, y chính là đấng phu quân thích hợp với nàng. Nếu chưa bao giờ gặp gỡ y, có lẽ sau này nàng vẫn còn có thể tuỳ ý tìm lấy một người chồng, thế nhưng biết y rồi, làm sao những nam tử bình thường cổ hủ ngu muội, xem nữ nhân như đồ chơi đó còn có thể được nàng để vào mắt chứ? Dương Lăng kính trọng nàng, hiểu nàng, không xem nàng như một người con gái đi ngược truyền thống. Nàng đã thấy y cưng chiều yêu thương, không bỏ rơi ruồng rẫy Ấu Nương như vậy, nếu như nàng nên vợ nên chồng với y, thành tâm hầu hạ, nhất định y cũng sẽ thật tâm che chở và yêu thương nàng, sẽ không vì thân phận tiểu thiếp mà xem thường nàng, sẽ không vì thứ bậc xếp sau mà ruồng bỏ nàng. Phu quân như vậy còn không đáng để mình một lòng một dạ hay sao? Thế nhưng, dù đặt cược hết danh tiết của bản thân vào một ván, rốt cuộc nàng vẫn thua, thua hoàn toàn, thua đến thảm. Dương Lăng thấy nàng lệ châu lăn xuống, nhất thời không biết phải làm thế nào; khuôn mặt xinh đẹp ấy đã không còn chút sinh khí, tựa như một bức tượng điêu khắc bằng ngọc. Một hồi lâu y mới thở dài, bất lực cúi đầu nói: - Nước mắt của phụ nữ...! Liên Nhi, cô nên cư tang cho cha ba năm. Bây giờ tôi và cô lập một ước hẹn quân tử ba năm, sau ba năm, nếu như Dương Lăng chưa ch... úi... chưa "lạc phách" (1) thì sẽ rước cô về! Dĩ nhiên để cho công bằng, cô vẫn được xem như chưa gả, cho đến lúc đó cô vẫn có thể chọn lựa khác, chỉ cần cô gặp được người đàn ông hợp ý! Mã Liên Nhi bừng mở lớn hai mắt, cố gắng chớp chớp cho rơi hết lệ, không dám tin: - Thật chứ? Dương Lăng cười giễu bản thân: - Thật đấy! Chỉ cần nội trong thời gian đó Dương mỗ vẫn chưa... "lạc phách", vẫn có thể nuôi được cô. Khi ấy nếu cô bằng lòng bước vào nhà họ Dương tôi, sẽ không ai có thể ngăn cô! Mã Liên Nhi từ khóc hóa cười, nàng nhảy phóc xuống đất, vui mừng muốn nhảy bổ đến ôm lấy y. Song khi Dương Lăng đã chấp nhận nàng, sự mạnh dạn và đáo để vốn có lại hoàn toàn biến mất, thay vào đó là vẻ thẹn thùng khó kềm nén. Mắt ngọc xoe tròn, hàng mi cong vút, nàng cắn môi, nhẹ giọng nói với Dương Lăng: - Nghèo khó thì đã sao? Chẳng lẽ bây giờ chức quan huynh đang làm khiến cho người ta ao ước sao? Hừm! Có phải huynh cho rằng tiểu nữ bị huynh mê hoặc đến ngay cả giữa dịch thừa và đô ti, chức quan nào lớn hơn cũng không phân biệt được sao? Huynh đó nha, người ta hết lần này đến lần khác tỏ lòng với huynh như vậy, huynh còn không rõ tấm lòng của người ta hay sao? Dương Lăng cười gượng: - Chức quan hiện tại thì sao chứ? À phải rồi, tôi có chuyện muốn nói với cô. Tôi dự tính hai tháng nữa, lúc thương nhân buôn hàng da ở quan ngoại ghé qua Kê Minh, tôi sẽ nhờ bọn họ giúp cô đưa linh cữu về quê. Có điều... Dương Lăng đem tin được thăng chức lên Cẩm y vệ chỉ huy Đồng tri, sắp sửa lên kinh sư kể cho nàng một lượt. Mã Liên Nhi nghe xong mừng đến mặt mày rạng rỡ, hồ hởi nói: - Tốt quá rồi, vừa rồi muội còn lo vì muội mà... Tất đô ty sẽ tìm huynh gây phiền toái, bây giờ không phải sợ hắn nữa! Nàng thoáng suy nghĩ, rồi bỗng chau mày lo lắng nói tiếp: - Không đúng à! Thăng cấp trong quân đội nào phải trò đùa, chuyện này thật cổ quái! Dương Lăng cười lớn đáp: - Tôi cũng cảm thấy cổ quái, tuy nhiên ngẫm lại, thấy cũng chẳng phải là chuyện xấu. Ai mà tốn hao bấy nhiêu công sức cho tôi một chức quan to, rồi lại lo nghĩ tìm cách hại tôi chứ? Mã Liên Nhi, lúc này đã chuyển sang vai trò người vợ nhà họ Dương, suy nghĩ cẩn thận rồi lắc đầu: - Có câu nói 'quan lộ hiểm ác' huynh có biết không? Để muội suy nghĩ một chút, ừm... với 'công lao' mà huynh lập được, tuyệt không có lý nào thăng liền ba cấp, thẳng đến trung ương của Cẩm y vệ. Trong kinh lại càng không thể có ai tốt bụng mà vô duyên vô cớ thăng chức cho huynh như vậy. Chúng ta phải suy nghĩ thật kỹ xem sao, không thể để bị kẻ khác hãm hại được... Mã Liên Nhi càng nghĩ càng cảm thấy có vấn đề. Trên đời làm gì có chuyện tốt như vậy, trong chuyện này ắt có một mấu chốt quan trọng nào đó chưa thể lần ra. Dương Lăng lên kinh lành hay dữ nhất định có quan hệ với cái mấu chốt này. Thấy nàng ngồi ở đầu giường, mày ngài nhíu chặt, lẩm bẩm một mình, Dương Lăng bèn bật cười: - Tôi thấy cô sắp sửa có thể mở hiệu xem số mệnh cho người ta rồi đó. Suy nghĩ nhiều như vậy để làm gì? Chờ đến khi tôi vào kinh diện kiến vị Trương đại nhân đó rồi, bí ẩn tự nhiên sẽ tỏ tường thôi. Bây giờ có suy nghĩ thêm nữa thì vẫn là võ đoán, hà tất phải đa nghi? Mã Liên Nhi lườm y, quở trách: - Huynh hay quá nhỉ! Không phải người ta lo là lo cho huynh sao? Nghẫm nghĩ một lúc, nàng lại lắp bắp: - Thế... thế huynh vào kinh, vậy muội thì sao đây? Dương Lăng đáp: - Chiều nay tôi sẽ đi gặp Hoàng huyện thừa nhờ Hoàng lão giúp đỡ. Hai tháng sau đoàn buôn phương bắc sẽ xuôi nam, giúp cô trở về Kim Lăng. Ánh mắt Mã Liên Nhi chợt ảm đạm, bịn rịn: - Vậy muội... chẳng phải là sẽ không thể gặp lại huynh trong suốt ba năm rồi sao? Huynh... có vì lâu ngày chày tháng mà quên mất người ta hay không? Nàng thầm tính trong lòng: “Đưa linh cữu phụ thân trở về cố hương xong, mình có nên lên kinh sư để gặp huynh ấy không nhỉ? Nếu huynh ấy thăng chức Chỉ huy Đồng tri, mà thật sự không ai có ý gì với huynh ấy, theo lẽ thường hẳn sẽ không thể nhậm chức tại nha môn quan trọng như Bắc trấn phủ ty. Nếu như huynh ấy được điều đến Kim Lăng Nam trấn phủ ty làm quan, vậy chẳng phải... Ừm, đợi khi có tin tức chuẩn xác của huynh ấy rồi hẵng nói vậy". ****************************** Trong lều của Tất Xuân, Tất đô ty vui vẻ nói với Mã Ngang: - Mã Ngang, không lâu nữa quân ta sẽ trở về Chiết Giang rồi. Ngươi biết đấy, qua ngày cúng thất tuần của lệnh tôn thì bổn quan sẽ không tiện... Ha ha ha, nếu không thì cái đám ngự sử mọt sách ngớ ngẩn của tỉnh Giang Chiết biết được, tấu lên trên thì thật không đáng. Không biết hôm nay ngươi đã đề cập với lệnh muội tâm ý của bổn quan chưa? Mã Ngang biết em mình giỏi cưỡi ngựa bắn cung, tinh thông âm luật, lại xinh đẹp quyến rũ, tính khí luôn ương bướng, thiết nghĩ nàng ta sẽ lập tức đáp ứng chuyện tốt "thà làm thiếp anh hùng còn hơn làm vợ kẻ tầm thường". Cho nên khi nghe Tất Xuân tiết lộ tình cảm yêu thích Mã Liên Nhi, chưa thèm dò hỏi ý tứ của em gái y đã đồng ý ngay lập tức. Nào ngờ hôm nay đề cập chuyện đó với em gái thì bị nàng ta khóc lóc mắng cho một trận rồi đuổi ra ngoài. Lúc này thấy Tất Xuân hỏi tới, mặt gã không khỏi đơ ra, ngập ngừng đáp: - Chuyện này... Ty chức chỉ mới dò xét ý tứ của em gái một chút, vẫn chưa đề cập tới ý của đại nhân. Có điều đại nhân lãnh đạo quân đội một phương, quyền cao chức trọng, cô ấy xưa nay xem trọng anh hùng trượng phu, có lẽ sẽ không cự tuyệt. Cặp mắt tam giác của Tất Xuân vẫn luôn chăm chú nhìn vẻ mặt của Mã Ngang, vừa nghe gã trả lời một cách miễn cưỡng, mặt lập tức sa sầm. Hôm nay sau khi trở về, Quan Thụ Anh đã lỡ miệng nói với hắn là có người đồn rằng vị Dương dịch thừa và Mã Liên Nhi cô nương có tình ý với nhau, nghe đâu gần đây muốn nạp nàng ta làm thiếp, khi đó Tất Xuân đã hết sức không vui. Chẳng qua hắn nghĩ Mã Liên Nhi đang trọ trong dịch thự, sẽ khó tránh được lời ong tiếng ve của những kẻ rỗi việc. Luận thân phận, luận địa vị, Dương Lăng sao có thể bì được với mình? Nếu như Mã tiểu thư quả thật có ý làm thiếp Dương Lăng, vậy chẳng phải mình càng có hy vọng hay sao? Nghĩ đến dáng vẻ cực kỳ xinh đẹp, kiều diễm của Mã Liên Nhi, hắn liền không quan tâm đến những lời đồn đãi kia nữa. Nhưng lúc này trông thấy thần sắc của Mã Ngang, hắn nghĩ "chẳng lẽ Mã tiểu thư không biết thủ lễ, thật đã có tư tình với Dương dịch thừa sao?", trong lòng liền cảm thấy khó chịu. Mã Ngang thấy sắc mặt hắn âm u, không khỏi rùng mình, vội hoảng hốt nói tiếp: - Việc hôn nhân đại sự nào ai cho phép phận gái tự mình làm chủ? Tục ngữ có câu "quyền huynh thế phụ", lời của ty chức sẽ là ý của cô em gái. Cô ấy giỏi cưỡi ngựa bắn cung, dạo gần đây tù túng ở trong thành nhất định cũng rất buồn chán. Hôm trước Trương huyện lệnh mới nhậm chức đã mở tiệc chiêu đãi đại nhân, chi bằng ngày mai đại nhân mời Trương tri huyện đi săn, đến lúc đó ty chức sẽ hẹn em gái đi cùng. Đi săn về, trên bàn tiệc, ty chức tuyên bố gả em gái cho đại nhân ở trước mặt mọi người là xong. Vẻ âm u trên mặt Tất Xuân lập tức tiêu tan, hắn cười ha hả: - Nếu là như vậy, chuyện này sẽ giao cho ngươi! Chốc nữa hãy lấy thiệp của ta đi gặp Trương đại nhân nhé. Mã Ngang khom người đáp: - Vâng, đại nhân! Tất Xuân vẫy tay cười, nói: - Không cần câu nệ như vậy! Ngày mai ta và ngươi sẽ là người một nhà rồi, còn khách khí làm gì, ha ha ha... (1) Ở đây Dương Lăng chơi chữ: "lạc phách" vừa có nghĩa là nghèo khổ, bần cùng (còn gọi là "lạc bạc" 落泊), vừa có nghĩa là mất đi hồn phách. Y nói như vậy thì Mã Liên Nhi sẽ nghĩ đến nghĩa đầu, mà không nghĩ y đang nói đến cái chết.

Chương 50: Không khí chan hoàDịch: TheJoker Biên dịch: Vo vong Biên tập: Ba_Van Hiệu đính: Nguồn: www.tangthuvien.com Mã Liên Nhi thấy vậy vội vàng bỏ củ khoai qua một bên, dìu Ấu Nương ngồi xuống ghế, mang chén trà của Dương Lăng đến, nói: - Ấu Nương muội muội! Muội uống miếng trà đi! Quyển hai - Nhắm mắt lên kinh Chương 50 - Không khí chan hoà Nghe nói tướng công sắp được vào kinh làm quan, Hàn Ấu Nương mừng líu lo như một nàng chim hỉ thước. Thấy bộ dạng vui sướng của nàng, Dương Lăng cũng thả lỏng tâm tình, tạm thời dẹp bỏ những mối lo ngại qua một bên. Y có thể cảm nhận được niềm vui sướng của Ấu Nương, cùng chia xẻ cảm giác ngọt ngào ấy. Hồ hởi đến nỗi hai má căng mọng như quả táo chín, Hàn Ấu Nương vui sướng nói: - Thiếp biết mà! Tướng công là người đọc sách có tiền đồ nhất, nhất định sẽ có thể làm quan lớn. Đợi cha về thiếp sẽ nói cho người biết chuyện này, nhất định người sẽ cao hứng lắm đây. Dương Lăng mỉm cười kéo nàng vào lòng, khẽ nói: - Xem nàng cao hứng chưa kìa, nhỏ giọng một chút đi, tí nữa bẩm với nhạc phụ một tiếng là được rồi. Công hàm trong kinh đặc biệt nói rõ là tạm thời chưa được rêu rao ra ngoài, người biết chuyện càng ít càng tốt. Hàn Ấu Nương cũng biết đây là quy củ làm quan của Cẩm y vệ, mặc dù có chút tiếc nuối vì chuyện phu quân làm đại quan mà không thể vinh hiển với xóm làng, nhưng y đã nói là không thể để người khác biết, nên nàng liền ngoan ngoãn đáp lời: - Vâng, vậy chút nữa thiếp sẽ thông báo cho cha một tiếng, không nói ra ngoài là được rồi. Hàn Ấu Nương càng ngoan ngoãn nhu mì, Dương Lăng càng cảm thấy áy náy trong lòng. Tuy rằng "tấm séc khống" chi cho Mã Liên Nhi chỉ là hoa trong gương, là trăng trong nước, là toà lâu đài vẽ trong không khí, nhưng y vẫn không đành lòng giấu gạt Ấu Nương. Thở dài một hơi, y vùi đầu vào cổ Ấu Nương, nhẹ vuốt làn da mịn màng của nàng, dè dặt nói: - Ấu Nương, tướng công... còn có một chuyện... Vừa nghe đến đó cơ thể Hàn Ấu Nương liền run lên, tức thời khuôn mặt đỏ bừng như lửa, cả người trở nên mất tự nhiên. Đêm qua, sau khi được kiến thức "hung khí" đáng sợ của tướng công, lại nhớ đến lời mà mấy bà dì, bà thím vô duyên nhiều chuyện đã nói với mình, Ấu Nương không khỏi suy tưởng liên miên. Ai nói thiếu nữ không tơ tưởng yêu đương chứ? Sau khi Dương Lăng đã say giấc nồng, cô gái nhỏ này vẫn thường nằm chống cằm, si mê ngắm nhìn y non nửa buổi tối. Lúc này bị Dương Lăng ôm vào lòng với một tư thế thân mật như vậy, lại nghe ngôn từ ám muội của y, lập tức Ấu Nương nghĩ lệch ý đi. Lông măng toàn thân dựng đứng cả lên, nàng ngượng ngùng hỏi: - Tướng... tướng công, là chuyện gì? Dương Lăng ấp úng kể lại chuyện Mã Ngang muốn gả em gái làm thiếp cho Tất đô ty cùng với chuyện hẹn ước ba năm của mình cùng Mã Liên Nhi. Kể xong, Dương Lăng đưa mắt nhìn trộm Ấu Nương, chỉ thấy vai của tiểu nha đầu này thoáng trùng xuống, vẻ ủ rũ lộ rõ trên khuôn mặt. Dương Lăng áy náy: - Ấu Nương, chuyện này là ta không tốt... Nhưng Tất đô ty đó... Ta... Ước hẹn ba năm của ta bây giờ cũng chỉ là nói suông như vậy thôi, tướng công chưa từng nghĩ tới việc hễ thấy con gái đẹp là rước về nhà đâu. Có nàng, tướng công thật sự đã rất thoả mãn rồi. Đừng giận có được không? Khi vừa nghe Dương Lăng kể xong, thật sự Hàn Ấu Nương cảm thấy hơi khó chịu, nhưng nghĩ lại thấy tính cách của tướng công quả thật không phải là loại đàn ông phong lưu thành tính, mà kẻ làm quan lớn có mấy ai lại không năm thê bảy thiếp? “Theo tập quán, khi muốn nạp thiếp phu quân tuyệt nhiên không cần phải được mình đồng ý. Bây giờ chàng lại còn dè dặt, chỉ lo mình không vui như vậy, mình cũng nên biết tự vừa lòng rồi.” “Cha nói đúng, tướng công càng thương mình, mình càng phải thường xuyên nhắc nhở bản thân, ngàn vạn lần chớ nên vì được cưng yêu mà kiêu ngạo. Hơn nữa... Ài, ai bảo tướng công đã cùng trải qua một đêm với người ta làm chi, đổi lại là mình, đặt vào hoàn cảnh đó, về sau cũng sẽ khó mà lấy người khác, không thể hại cả cuộc đời của Mã tiểu thư được.” Nghĩ vậy, Ấu Nương vui vẻ nói với Dương Lăng: - Tướng công! Ấu Nương không phải là kẻ ghen tuông, đây cũng là duyên phận của Liên Nhi tỷ tỷ và chàng. Nếu đã như vậy, chút nữa chúng ta sẽ nhờ trưởng bối có danh vọng trên huyện ra mặt ước định chuyện này với nhà họ Mã trước nhé! Dương Lăng thở phào nhẹ nhõm, đáp: - Không cần đâu, bây giờ chưa nói tới chuyện đó vội. Tất đô ty là người có địa vị, chỉ cần Mã tiểu thư một mực không bằng lòng, hắn sẽ không dám làm chuyện ép gả ép cưới đâu. Không lâu nữa Mã tiểu thư sẽ đưa linh cữu về quê nhà Kim Lăng, nơi ấy những kẻ tài hoa, gia thế hiển hách nhiều không kể xiết. Không chừng ba năm sau người ta đã nhìn trúng một thanh niên tài năng xuất chúng nào đó rồi, hà tất phải trói buộc người ta làm gì!" Tuy Hàn Ấu Nương không cam lòng chia sẻ tình yêu của trượng phu với người khác, nhưng cũng không thích nghe y nói lời hạ thấp bản thân. Trong con tim bé bỏng của nàng, phu quân mới là người trượng phu tài ba nhất, biết quan tâm tới nương tử nhất. Nếu như có một ngày Mã Liên Nhi thật sự chọn kẻ khác, vậy đúng là cô ấy có mắt không tròng. Nghe Dương Lăng nói như vậy, nàng vứt bỏ lòng ghen tuông qua một bên, có phần không phục nói: - Hứ, nếu thật sự như vậy thì nàng ta không có phúc rồi! Có ai tốt hơn tướng công của thiếp chứ? Được nghe nàng khen như vậy, trong lòng Dương Lăng thầm cảm thấy ấm áp, y không kìm nổi bèn trêu: - Nếu tướng công nàng tốt như vậy, vậy để ta kiếm thêm mấy tỷ muội nữa về cho nàng nhé? Tuy biết rõ tướng công đang trêu mình nhưng Hàn Ấu Nương vẫn không khỏi quýnh quáng: - Không cần, không cần, không cần! Chúng ta... Chúng ta... Nồi trong nhà chúng ta không đủ nấu cho nhiều người như vậy đâu. Thấy nàng luống cuống đưa lý do như vậy, Dương Lăng bật cười rộ, nào ngờ Ấu Nương lại bồi thêm một câu: - Vả lại thân thể tướng công không tốt, chàng có thể không lo chứ thiếp phải lo đấy! Tiếng cười của Dương Lăng bất chợt tắt ngúm, mãi một hồi lâu y mới "thẹn quá hoá giận", hầm hừ: - Cái gì? Nàng chê thân thể ta yếu hử? Thân thể tướng công yếu lắm phải không? - Không, không, không phải mà! Hàn Ấu Nương cười tít mắt, giọng dịu dàng như thể đang dỗ trẻ con: - Tướng công đổ oan người ta rồi! Người ta là nói thân thể chàng vừa phải mà, ưm ưm... Lời còn chưa dứt, Dương Lăng đã khoá cái miệng xinh xắn của nàng bằng một nụ hôn, trong lòng tức tối thầm nhủ: "Bé con này được mình chiều quá đâm hư rồi, không ngờ đã bắt đầu trêu chọc mình. Hôm nay mình phải chấp hành gia pháp mới được, bằng không e chẳng bao lâu sẽ không còn 'Phu cương' gì nữa." Nào ngờ chỉ hôn một lát, Dương Lăng đã cảm thấy có nơi nào đó bắt đầu phồng lên, y không khỏi say đắm nhìn xuống cái miệng nhỏ xinh của Ấu Nương, mang vẻ "nhục mất nước" mà khẩn cầu: - Vợ yêu ơi! Tướng công vừa gần gũi nàng thì đã chịu không nổi nữa rồi, hãy giúp tướng công một chút được không? Ấu Nương ngoan, Ấu Nương... Hàn Ấu Nương bật cười, tức tốc nhảy phóc ra khỏi đùi y, chạy vội ra ngoài. Chỉ nghe tiếng "loảng xoảng" vang lên, giọng nói của Ấu Nương vọng vào từ phía xa xa bên ngoài phòng: - Mùa xuân trong người nhiều hỏa khí, tướng công uống nhiều trà một chút đi nhé! Sẵn tiết trời đang đẹp, thiếp đi giặt... giặt mền. ****************************** "Một chú ong mật chăm chỉ cần cù." Đó là lời bình luận của Dương Lăng về ái thê. Nàng không cho y động tay động chân, lý do là đàn ông không nên rớ tới những thứ này. Do bị chiều riết đâm trở nên "kiêu ngạo", tiểu cô nương ngày càng lớn mật này còn bồi thêm một câu: - Nam nhân chân tay vụng về, mang tiếng là giúp thu dọn đồ đạc, nhưng càng giúp càng bừa. Tướng công đại nhân của thiếp ơi, chàng hãy ngoan ngoãn ngồi yên ở đó đi! Chàng tướng công họ Dương ngoan ngoãn ngồi yên được một lát, thấy Hàn Ấu Nương loay hoay lục lọi, thu xếp vật dụng cần đem lên kinh, y ngẫm thấy mình cũng nên thanh lý sổ sách, chỉnh lý lại những công hàm bí mật tới lui của Cẩm y vệ một chút, phòng khi vào kinh cần giao tiếp cũng đỡ phải luống cuống chân tay. Thế là y bèn báo Ấu Nương một tiếng rồi vội chạy về sở dịch. Sắp xếp công hàm lại một lượt, vừa cho tất tần tật vào cái tủ có treo chiếc khóa hình con cá vàng, khóa tủ xong, Dương Lăng chợt nghe từ gian ngoài vang lên tiếng đập cửa, y vội kéo lê đôi giày chạy ra. Vừa mở cửa, Dương Lăng ngay lập tức nhìn thấy Mã Liên Nhi tay lót khăn đang bưng một chiếc nồi sắt nhỏ nghi ngút khói. Dương Lăng rất đỗi ngạc nhiên, vội vàng tránh lối cho nàng bước vào. Mã Liên Nhi đặt chiếc nồi sắt lên bàn rồi e thẹn nói: - Muội... muội thấy tối rồi mà huynh vẫn còn xử lý công vụ cho nên đã làm chút đồ ăn, cũng không biết có hợp với khẩu vị của huynh không. Dương Lăng đã không còn ngây ngô như lúc mới đến thời đại này nữa, một người con gái chủ động làm cơm cho con trai là có ý gì, trong lòng y hiểu rất rõ. "Ba ngày xuống bếp làm cơm. Rửa tay, nấu bát canh thơm đã rồi (1)", Mã Liên Nhi lúc này đây đang mang tư tưởng cô dâu muốn xắn tay hầu hạ y. Lúc dự tiệc trên huyện, Dương Lăng đã có ăn qua món này, biết được cái món "đả-biên-lô" (hay tả-pí-lù, tạp-pín-lù) này chính là món lẩu (2). Y mở vung ra, chỉ thấy trong chiếc nồi nghi ngút khói là rau cải xanh biếc, nấm ăn đen đen, thịt hoẵng trắng hồng, gừng lát xanh nhạt..., thật khiến cho người ta phải phát thèm. Dương Lăng buột miệng khen: - Thơm quá! Còn thơm hơn cả bếp trưởng ở lầu Hồng Nhạn nấu nữa. Được y khen ngợi, Mã Liên Nhi vui mừng ra mặt. Nàng lấy đôi đũa từ trong ống tay áo ra, định bảo y nếm thử, thế nhưng ngoài cửa chợt vọng vào giọng nói phấn khởi của Hàn Ấu Nương: - Tướng công, đại ca đem từ Phủ thành về một ít vật hiếm lạ nè, đây là... Theo tiếng nói, Hàn Ấu Nương sải bước vào trong cửa, vừa trông thấy Mã Liên Nhi cũng ở đây, nàng không khỏi ngẩn người. Tuy Mã Liên Nhi đã được Dương Lăng chấp nhận, nhưng dẫu sao thân phận vẫn xem như là người ngoài, hôm nay bị Ấu Nương bắt gặp tại trận, nàng lập tức xấu hổ đến nỗi đỏ bừng cả mặt. Dương Lăng cũng không hề chuẩn bị tâm lý cho cục diện "hậu chiếu hậu" như thế này. Ba người tròn mắt ngẩn tò te nhìn nhau một chốc, bất chợt Hàn Ấu Nương nhoẻn miệng cười: - Liên Nhi tỷ tỷ, tỷ cũng ở đây à? Mã Liên Nhi thở phào nhẹ nhõm. Nàng ngượng nghịu nói: - Ấu Nương muội muội, ta... tối nay ta có làm món đả-biên-lô, thế nên mang đến mời Dương đại ca nếm thử. Tay nghề của ta không sánh bằng muội, nếu muội không chê, hãy đến đây nếm thử chút đi! Thấy trong tay Ấu Nương đang cầm mấy vật không nhìn rõ do khuất ánh đèn, Dương Lăng tò mò hỏi: - Ấu Nương, nàng cầm gì thế? Hàn Ấu Nương đáp: - Tướng công! Đây là thứ mà đại ca mang từ Phủ thành về, nghe nói nó được mang tới Đại Minh chúng ta từ các nước phiên bang, gọi là khoai ngọt, luộc chín ăn rất ngọt. Chàng nếm thử đi! À, Liên Nhi tỷ tỷ, tỷ cũng nếm thử xem! Nhìn thấy vật được nàng giơ lên ấy, Dương Lăng không khỏi ngạc nhiên thốt: - Khoai lang? Cẩn thận nhìn kỹ, đây quả đúng là hai củ khoai lang. Hàn Ấu Nương lấy làm lạ hỏi: - Tướng công biết nó à? Đây là sản vật từ phiên bang mang về đấy. Nghe đại ca nói ở phương nam có người trồng, ở nơi này nó vẫn là của hiếm, nhưng không hề đắt. Thế nên đại ca mua một ít về nếm thử cho biết. Dương Lăng vội lấp liếm: - Ta... à, lúc ta đi tới Phủ thành thi hương, từng thấy thứ này. Đoạn y cười nói tiếp: - Trông thế này e là nó đã để qua cả mùa đông, lượng nước ít đi, nướng lên ăn sẽ ngọt hơn. À phải rồi, so với ngũ cốc chúng ta trồng ở đây, thứ này dễ sinh trưởng hơn, sản lượng lại nhiều, sao không trồng với số lượng lớn nhỉ? Một mẫu phỏng chừng có thể thu hoạch được không ít lương thực đấy. Nhìn vật trong tay, Hàn Ấu Nương tò mò hỏi: - Vật này không có hạt giống thì sao mà trồng nhỉ? Hơn nữa cũng không biết nó có thích hợp với đất canh tác nơi đây của chúng ta hay không, người làm nông vẫn phải dựa vào thu hoạch mỗi mùa để mà sống qua ngày, ai dám mạo hiểm trồng nó chứ? Lúc này Dương Lăng mới sực nhớ rằng y chưa bao giờ nhìn thấy các loại cây nông nghiệp thích hợp trồng trọt ở phương bắc như ngô, khoai lang, khoai tây được trồng ở Kê Minh cả. Cây nông nghiệp ở nơi đây căn bản vẫn là các giống như lúa mạch, lúa gạo, đậu, kê, vân vân... Xem ra, theo con đường mậu dịch hàng hải, những sản vật của nước ngoài này đã được đưa vào Đại Minh, chỉ có điều vẫn chưa được phổ biến rộng rãi. Nếu phổ biến những loại cây nông nghiệp này, vậy sản xuất nông nghiệp của cả Đại Minh sẽ được nâng cao biết bao. Dương Lăng biết nông dân xem trọng nhất là đất đai, nếu như đột nhiên bắt bọn họ trồng những thứ cây lạ lẫm thay thế cho những giống cây lương thực truyền thống từ mấy trăm năm qua, chỉ sợ sẽ chẳng có ai dám mạo hiểm như vậy. “Lần này tiến kinh, có lẽ nên tìm cơ hội đề xuất với triều đình một phen, nếu chuyện này được chú trọng, rồi sau đó triều đình ra mặt phát triển những thứ cây trồng này trên diện rộng, vậy cũng xem như là mình đã làm được một chuyện ích nước lợi dân rồi!" Nghĩ đến đó, Dương Lăng mừng vui khôn xiết. Y biết mình chưa động đến thì Ấu Nương nhất định sẽ không ăn một miếng nào, nên bèn khấp khởi nhận lấy củ khoai lang từ tay Ấu Nương. Y bẻ một miếng lớn, trìu mến đút vào cái miệng nhỏ xinh của nàng, nói: - Nàng nếm thử xem ăn có ngon không? Đưa mắt liếc qua, thoáng thấy mặt Mã Liên Nhi đầy vẻ hâm mộ, những tưởng là nàng cũng thèm vật hiếm lạ mà trước giờ chưa từng được thấy này, y bèn nhét củ khoai lang vào tay nàng, cười bảo: - Đây, cô cũng nếm thử đi, ngọt lắm! Mã Liên Nhi ưm một tiếng, nhìn y đầy vẻ tình ý mặn nồng. Nàng vừa cho khoai lang vào miệng, chợt nghe Hàn Ấu Nương "ợ" một tiếng, vẻ mặt trở nên khá là kỳ dị. Hoá ra bị Dương Lăng bẻ một miếng khoai lang lớn đút vào miệng, ngại má phồng lên sẽ trông khó coi nên Hàn Ấu Nương nuốt vội, không ngờ lại bị nghẹn. Mã Liên Nhi thấy vậy vội vàng bỏ củ khoai qua một bên, dìu Ấu Nương ngồi xuống ghế, mang chén trà của Dương Lăng đến, nói: - Ấu Nương muội muội! Muội uống miếng trà đi! Ấu Nương đón lấy chén trà, hớp vài hớp cho thấm họng, thông cổ, đoạn liếc nhìn nàng như có thâm ý, ngại ngùng nói: - Khiến Liên Nhi tỷ chê cười rồi, có điều cái thứ này ngọt thật đấy. Liên Nhi tỷ, tỷ cũng nếm thử đi! Mã Liên Nhi ừm một tiếng, cầm lấy củ khoai, sau đó lại đặt đôi đũa vào tay Ấu Nương, nhẹ giọng bảo: - Muội muội cũng nếm thử tay nghề của ta đi! Ta không giỏi nấu nướng, muội đừng chê cười nhé! Hai người con gái, một người ăn khoai lang, một người nếm lẩu, bầu không khí bỗng trở nên chan hoà trong tiếng nói cười vui vẻ. Dương Lăng đứng một bên, không hề hay biết vừa rồi "thượng viện” và “hạ viện" đã đạt được một nghị quyết chung về vấn đề chủ quyền quốc gia và liên hợp cầm quyền. (1) Hai câu thơ này được trích trong bài "Tân giá nương" (Nàng dâu mới) của Vương Kiến (王 建 ) thời Đường. Nguyên văn: Tam nhật nhập trù hạ, Tẩy thủ tác canh thang. Vị am cô thực tính, Tiên khiển tiểu cô thường. Dịch nghĩa: Ngày thứ ba (cô dâu) xuống bếp Rửa tay sạch rồi nấu món canh Vì chưa biết rõ khẩu vị của mẹ chồng Nên nhờ cô em chồng nếm thử trước. Dịch thơ - Trần Trọng Kim: Ba ngày xuống bếp làm cơm, Rửa tay, nấu bát canh thơm đã rồi. Chưa hay tính mẹ thường xơi, Nhờ em nếm trước, xem mùi được không. (theo thivien.net) (2) Lẩu là cách gọi theo kiểu phiên âm từ chữ 爐 ( lú), đọc là lô. "Đả biên lô" tức là món ăn nấu chín bên lò lửa (biên lô).

Chương 51: Ngũ tiễn liên châu (Năm mũi tên liên tiếp)Dịch: TheJoker Biên dịch: Vo vong Biên tập: Ba_Van Hiệu đính: Nguồn: www.tangthuvien.com Cho nên vừa nghe Giang Bân nói tiễn thuật của Ấu Nương xuất sắc, Mã Liên Nhi liền nổi lòng háo thắng, lập tức thôi không khước từ nữa mà tháo cung tên xuống, tay phải đưa ra sau rút luôn năm mũi tên từ trong ống. Quyển hai - Nhắm mắt lên kinh Chương 51 - Ngũ tiễn liên châu (Năm mũi tên liên tiếp) Sắc xuân ló dạng, tuyết chảy băng tan, bình nguyên rợp bóng cỏ xanh rờn song trên những dãy núi xa xa vẫn trắng xoá băng tuyết. Hôm nay gió xuân nhàn thổi, không khí thoáng đãng dễ chịu, từng đám mây trắng trôi lững lờ trên bầu trời xanh thẳm. Trên thảo nguyên, những khóm cỏ non phủ lên mặt đất ẩm ướt tơi xốp trông như một tấm thảm mềm mại. Tất đô ty và Trương huyện lệnh mới nhậm chức cùng một số quan chức dân sự lẫn quân sự đang cưỡi ngựa đi vòng qua núi Kê Minh. Phía trước là một thảo nguyên, vài chú chim đang bay lượn là là trên thảm cỏ. Trương huyện lệnh là tiến sỹ năm Hoằng Trị thứ mười hai (1499), tuy là thư sinh tuổi trạc tam tuần nhưng lại đang cưỡi chiến mã, kỵ thuật cũng tương đối rành rẽ. Đi song song với Trương huyện lệnh, Tất đô ty quay sang mỉm cười nói: - Tất mỗ xưa nay vẫn cho là thuật cưỡi ngựa bắn tên trong học xá (như trường học - ND) chỉ là chuyện hư hão mà thôi. Khi nãy nghe quý sư gia nói Trương đại nhân có thể kéo cung ba thạch (1 thạch bằng 60 kg, cung ba thạch là loại cung cần dùng lực kéo 180kg mới có thể kéo được – ND.), trong vòng trăm bộ (khoảng 167 mét, một bộ là 5/3 mét – ND.) bách phát bách trúng, ấy thật là văn võ song toàn. Vừa nói ánh mắt hắn lại vừa lơ đễnh liếc trộm Mã Liên Nhi. Mã Liên Nhi đang cưỡi một thớt ngựa đỏ tía, trên người mặc trang phục đi săn, khoác thêm một chiếc áo lụa mỏng ở bên ngoài, tất cả đều có màu xanh sẫm, chân nàng vẫn xỏ đôi giày tang, lưng thắt đai trắng, bên hông còn giắt thanh loan đao nhỏ như để làm đồ trang sức. Nàng khoác nghiêng chiếc cung, lưng đeo ống tên, trang phục khoẻ khoắn mang phong cách của dị tộc vùng Tái ngoại khiến nàng càng thêm phần lộng lẫy. Gió xuân thổi chiếc áo khoác lụa tung bay, vừa hay giúp cho bộ trang phục đi săn tôn lên những đường cong quyến rũ của nàng. Đằng sau chiếc áo lụa mỏng tanh, những đường cong hoàn mỹ mang đầy hơi thở của tuổi thanh xuân ấy lúc ẩn lúc hiện, quyến rũ vô cùng. Nghĩ đến việc mấy ngày nữa sẽ có thể ôm lấy tiểu mỹ nhân quyến rũ này vào lòng, Tất đô ty không khỏi sinh lòng dâm dục. Thật tình hắn lười chẳng muốn để ý đến Huyện thái gia, trong lòng thầm hận trên thảo nguyên này không thể chỉ có hắn và Mã Liên Nhi, hai người lấy đất làm giường, lấy trời làm chăn, điên đảo một phen cho sướng. Nhưng dẫu gì hắn cũng là đại quan có thân phận trong triều đình, đừng nói hiện giờ Mã Liên Nhi còn chưa phải là thiếp của hắn, cho dù đã được hắn cưới về, lúc này hắn vẫn đang ở cùng một chỗ với đồng liêu, nếu chỉ lo cho ái thiếp của mình thì thật quá mất thân phận. Nghe được lời "khen tặng" của Tất đô ty, Trương huyện lệnh dè dặt mỉm cười, vuốt râu khiêm tốn đáp: - Đại nhân quá khen rồi. Lúc còn ở học xá, bổn huyện tuy cũng tập bắn cung cưỡi ngựa, nhưng nào so được với đại nhân và các vị mãnh tướng trong quân. Về phần cây cung ba thạch đó thì... bổn huyện quả thực là không giương nổi, có điều bách phát bách trúng... Ha ha ha, Tất tướng quân hẳn không biết! Bia trong học xá của chúng ta ở Phúc Kiến có đường kính gần một trượng. Bia lớn có đường kính một trượng? Tất đô ty nghe xong, thoạt tiên ngây người, sau đó bật cười ha hả. Các quan bên cạnh phần lớn là người phương bắc hoặc tướng lĩnh trong quân, tất cả đều không kềm được vẻ tủm tỉm, có người vội hắng giọng nhằm che giấu nụ cười. Với bia có đường kính một trượng, nếu nói trong vòng trăm bộ bách phát bách trúng thì thật sự cũng chẳng có gì đáng khoe khoang. Bọn họ quả thật không ngờ bia trong học xá ở phương nam lại lớn như vậy. Mã Liên Nhi ngồi trên lưng ngựa, vẻ mặt như cười mà chẳng phải cười, tâm tư ngơ ngẩn, chỉ thả hồn vào tâm sự của bản thân. Mã Ngang cẩn thận liếc nhìn vẻ mặt của em gái, thấy nàng sắc mặt bình tĩnh, hắn còn tưởng rằng nàng thấy Tất đô ty đầu đội mũ, thân mặc giáp, oai phong lẫm liệt, thế nên đã bị rung động bởi khí phách anh hùng của gã, lúc này mới cảm thấy yên tâm. Buổi sáng Mã Liên Nhi bị ca ca gạt ra ngoài, lấy lý do là rủ nàng đi dạo chơi săn bắn. Lúc này trái tim đã có chốn về, Mã Liên Nhi đang cảm thấy cực kỳ vui vẻ, do vậy nàng cũng không muốn tỏ ra quá khắt khe với người thân duy nhất của mình. Huống hồ khi ở tái ngoại, hầu như mỗi ngày nàng đều cưỡi ngựa bắn cung, từ khi trở về Trung Nguyên thì đã lâu không thử lại tay nghề, nên nàng bèn vui vẻ đồng ý ngay. Nào ngờ sau khi cưỡi ngựa ra ngoài thành bằng con chiến mã do ca ca dắt đến, Mã Liên Nhi thấy một đám quan chức, lại còn có cả Tất đô ty, lúc bấy giờ nàng mới hiểu rõ ý đồ của ca ca mình. Vốn Mã Liên Nhi muốn quay đầu ngựa bỏ đi ngay, nhưng hiện đang có nhiều quan viên không hiểu rõ sự tình đang ở đây, nàng làm như vậy sẽ quá thất lễ. Sợ rằng nàng vừa mới bỏ đi, lập tức sẽ xuất hiện rất nhiều lời võ đoán và chỉ trích. Nếu là trước đây nàng còn có thể chẳng để tâm đến cách nhìn của người khác, nhưng hôm nay nàng đã tự xem mình là người của nhà họ Dương, nên không dám không kiêng nể điều gì như trước nữa, đành phải đi theo tới thảo nguyên. Tối hôm qua, sau khi được Ấu Nương ngầm tỏ ý tiếp nhận, xem như chuyện sau này được gả vào nhà họ Dương đã là trăm phần trăm, Mã Liên Nhi vừa yên tâm lại vừa cảm thấy ngọt ngào. Nàng hoàn toàn ngây ngất trong tâm tình của bản thân, đôi mắt lung linh trong veo như nước hồ thu thỉnh thoảng hoà theo dòng cảm xúc. Nàng lúc thì mỉm cười, khi thì e thẹn, phối hợp với ngũ quan xinh xắn mê người tạo nên một vẻ quyến rũ khôn tả. Khi Tất đô ty nhìn nàng bằng ánh mắt nóng bỏng thì nàng cũng nhận biết. Nàng thấy hắn tự cao rằng bản thân là người có danh phận, chẳng những không dám đến gần bắt truyện với nàng, mà còn khi nhìn nàng cũng phải mượn lúc nói chuyện với người khác rồi liếc một cái thật nhanh, như thể sợ sẽ làm mất cái vẻ “oai phong” của một gã tướng quân vậy. Trong lòng nàng chỉ cảm thấy cái vẻ giả dối của hắn thật buồn cười. Dương đại ca. Ôi, Dương đại ca! Nghĩ đến Dương Lăng, lòng Mã Liên Nhi lại thầm cảm thấy ngọt ngào. Dương đại ca chẳng như cái kẻ kia, huynh ấy thèm vào quan tâm đến việc người khác nghĩ gì về bản thân. Ngày đó hai người bọn mình từ trong vùng rừng núi trở về thành, mấy người Mẫn đại nhân, Giang bả tổng đều đứng trên tường thành, nhưng khi bước vào thành Dương đại ca lại chỉ ôm chặt lấy Ấu Nương đang đẫm lệ vào trong lòng, sau đó còn dỗ dành, chọc cười muội ấy, mặc kệ những người xung quanh. Lúc nhìn Ấu Nương, đôi mắt ấy huynh ấy tựa như đang ngắm bảo vật trong lòng vậy. Nghĩ đến đây, lòng Mã Liên Nhi lại không khỏi rạo rực. Chỉ cần có một ngày huynh ấy cũng có thể nhìn mình bằng ánh mắt chở che yêu thương như vậy, đừng nói là chờ ba năm, dù có chờ ba mươi năm, chờ cả đời, mình cũng sẵn lòng. Nghĩ vậy, Mã Liên Nhi bất giác lại mỉm cười. Suốt nãy giờ Giang Bân vẫn ở bên cạnh ngắm nàng, lúc này thấy nụ cười xinh như nụ đào hé nở làm mê đắm lòng người kia, cặp mắt hắn không khỏi muốn rớt ra ngoài. Hôm đó Mã Liên Nhi từ ngoài thành trở về, áo quần nhếch nhác, tóc mai tán loạn, trong mắt hắn nàng đã chẳng khác gì tiên nữ rồi. Hôm nay nàng trang điểm nhạt, trang phục khoẻ khoắn, đẹp đến mức khiến người ta phải nghẹt thở. Ôi trời, nếu như có thể cưỡi lên người đại cô nương hoa nhường nguyệt thẹn này thì... Giang Bân nuốt nước miếng ừng ực, rồi ngẩng đầu oán hận liếc nhìn Tất Xuân, trong lòng thầm nhủ: "Con mẹ nó, nếu mình mà cũng là một đại tướng quân, dù gì cũng phải cưới cô nàng như vậy về thì mới không tính là uổng phí cuộc đời." Từ miệng thân binh trong quân của Tất đô ty, gã cũng đã nghe phong phanh tin tức Tất Xuân muốn nạp Mã Liên Nhi về làm thiếp. Hôm nay Tất Xuân mời các vị quan lại trong vùng du xuân, chỉ đem theo mỗi một cô gái này, thật ra không chỉ có gã, đa số quan lại có mặt nơi đây cũng đã đoán được vài phần. Từ trong bụi cỏ phía trước một con hươu bào béo múp chợt nhảy ra, lao về phía sườn núi cách đó không xa. Quan Thụ Anh hô to lên: - Đại nhân, ngài mau nhìn kìa, có một con hươu bào! Những kẻ này ai nấy trên lưng đều đeo quân cung (Để phân biệt với cung dùng trong săn bắn – ND.), nghe thấy vậy đều vội vã lấy cung ra cầm trên tay. Nhưng đám quan viên thì không ai động thủ, những thân binh kia có bắn tên ra cũng chỉ để chặn đường chạy của con hươu, dọa nó phải chạy sang hướng khác mà thôi. Con mồi ư? Đương nhiên là để dành cho tướng quân đại nhân bắn rồi. Con hươu bào ngốc nghếch đáng thương đó bị những mũi tên chuẩn xác của đám thân binh dọa sợ hãi chạy loạn cả lên. Hai người Tất đô ty đứng đầu võ tướng và Trương huyện lệnh đứng đầu văn quan lúc này đều đã cầm cung, rút tên, nhưng lại không ai động thủ. Hai tên cứ ở đó khiêm tốn nhường nhau, toàn nói mấy câu khách sáo kiểu nhà quan như "mời đại nhân bắn trước mở màn, để bọn tôi được kiến thức một phen"… Mã Liên Nhi thấy bọn họ đi săn mà cũng giả tạo khách sáo như vậy, hoàn toàn không có cái lạc thú của việc dạo tiết thanh minh hay săn bắn, bèn thầm hừ một tiếng, khinh bỉ quay ngoắt đầu đi. Thị vệ tùy thân của Tất đô ty là Trịnh Đại Bằng thúc ngựa chạy lên phía trước thưa với Tất Xuân và Trương huyện lệnh: - Các vị đại nhân, hôm nay Mã tiểu thư là phụ nữ duy nhất trong nhóm chúng ta, theo ty chức thấy, mũi tên mở màn này chi bằng mời Mã tiểu thư ra tay. Mã tiểu thư vận quân trang, chắc hẳn thuật cưỡi ngựa bắn cung cũng bất phàm. Trương đại nhân được mệnh danh có thể giương được cung ba thạch, nội trong trăm bộ bách phát bách trúng, đối mặt với con hươu bào béo ú cách có mấy chục bộ đó thật sự cũng hơi lo, lo là mũi tên mở màn ấy nếu thật có trúng thì cũng sẽ phải nghe toàn những lời hoan hô ngược mà thôi. Cho nên khi nghe thấy lời của Trịnh Đại Bằng, hắn như được đại xá, lập tức vỗ tay cười nói ngay: - Hay lắm, hay lắm, bậc anh thư không thua gì trang nam tử mà. Vậy mời Mã tiểu thư bắn mũi tên mở màn này, chúng ta xin rửa mắt mà trông. Được gãi đúng chỗ ngứa, cặp mắt tam giác của Tất đô ty cũng trở nên hoà nhã hơn hẳn. Cuối cùng hắn cũng có cơ hội đường hoàng quay sang nói chuyện với Mã Liên Nhi mà không sợ kẻ khác dị nghị chê cười. Hắn lập tức nghiêng người sang phía Mã Liên Nhi, cười nói: - Mã tiểu thư, vậy mời cô thi triển thân thủ được không? Hắn vừa nói xong, mọi người lập tức dạt ra hai bên, nhường đường cho Mã Liên Nhi. Thật ra, do câu nói vô tình mời Mã Liên Nhi bắn phát tên đầu của Trịnh Đại Bằng mà lúc đó Tất đô ty mới nảy ra ý nghĩ lấy lòng nàng. Nhưng Mã Liên Nhi lại không biết nội tình, nàng cho là gã Tất đô ty thông đồng cùng thân binh sắp đặt từ trước, nên trong lòng càng thêm chán ghét gã. Nàng nheo đôi mắt lại thành hai đường cong vút, sau đó mỉm cười đáp: - Tất tướng quân thân kinh bách chiến, sát khí bức nhân, Trương đại nhân thiện xạ như thần, trăm phát trăm trúng. Tiểu nữ lưng đeo cung chẳng qua cũng chỉ là hư trương thanh thế, nào dám múa rìu trước mặt hai vị đại nhân? Tiểu nữ còn mong được kiến thức sự thần dũng của hai vị đại nhân một chút nữa cơ. Giọng nói nàng vô cùng mềm mại và ngọt ngào. Thật ra chẳng qua nàng chỉ cố ý nói bằng giọng trong trẻo hơn một chút, nhưng âm thanh như vậy phát ra từ miệng mỹ nhân, kẻ khác sẽ có cảm giác nũng nịu lả lơi, quyến rũ khôn tả. Mã Ngang vừa nghe liền biết không ổn. Hắn là người biết rõ tính khí của em gái mình nhất, hiểu rằng một khi cô em dùng giọng điệu như vậy để nói chuyện, chính là lúc nàng sắp hết kiên nhẫn, muốn nổi nóng rồi. Hắn vừa định chạy lên dàn xếp, không ngờ Giang Bân vừa nghe âm thanh hớp hồn của Mã Liên Nhi, xương cốt liền nhũn ra, thiếu chút nữa đã ngã cắm đầu xuống đất. Lúc ấy mọi người đều đang nghe Mã Liên Nhi nói, mà gã lại ở gần Mã Liên Nhi nhất, cho nên tức thời toàn bộ ánh mắt đều tập trung trên người gã. Tuy da mặt không phải là mỏng, nhưng Giang Bân cũng hơi xấu hổ ngượng ngùng. May là gã rất nhanh trí, vội vàng cười nói: - Ài, câu bậc anh thư không thua gì trang nam tử của Trương đại nhân làm ty chức lại nhớ đến phu nhân của Dương dịch thừa. Trên chiến trường nào đã từng cho phép đàn bà ra trận, nhưng ngày đó giặc Thát công thành, Dương phu nhân nữ cải nam trang, đã ở trên thành hiệp trợ quân ta anh dũng giết giặc, đó chẳng phải là Hoa Mộc Lan, bậc anh thư không thua gì trang nam tử hay sao? Dương phu nhân đã từng một tên bắn chết gã Thát Tử khiêu chiến dưới thành. Lúc ty chức đi thu dọn xác chết, thấy gã đó bị mũi tên cắm vào từ sau gáy, rồi xuyên hẳn ra ngoài ngay dưới cổ họng ba tấc, một tên trí mạng. Tiễn pháp ấy thật không tầm thường, ha ha ha, thật không tầm thường. Tất đô ty nghe xong bèn cười ha hả khen: - Dương dịch thừa trói gà không chặt, không ngờ Dương phu nhân lại giỏi võ nghệ như thế. Mã tiểu thư, cô cũng chớ nên khước từ nữa, chi bằng cô cũng thi triển tài nghệ đi được chăng? Thật ra thì tiễn thuật của Mã Liên Nhi ra sao hắn cũng chẳng để ý, chẳng qua là muốn dỗ dành cho nàng vui vẻ mà thôi, cho dù nàng có sẩy tay thì hắn cũng có thể cười xoà, nữ nhân mà! Tuy Mã Liên Nhi mang lòng cảm kích Hàn Ấu Nương, đã xem nàng là tỷ muội thân thiết nhất của mình, song nội tâm con người rất là kỳ lạ, trong tiềm thức nàng lại rất sợ mọi người nghĩ rằng Ấu Nương tài giỏi hơn mình. Địa vị của nàng sau này đã không thể bằng với Ấu Nương, nếu Ấu Nương lại còn xuất sắc hơn nàng ở mọi mặt, trong lòng nàng sẽ càng cảm thấy không an toàn. Cho nên vừa nghe Giang Bân nói tiễn thuật của Ấu Nương xuất sắc, Mã Liên Nhi liền nổi lòng háo thắng, lập tức thôi không khước từ nữa mà tháo cung tên xuống, tay phải đưa ra sau rút luôn năm mũi tên từ trong ống. Mọi người không khỏi kinh ngạc ồ lên một tiếng, không biết nàng muốn làm gì. Có vài gã quan văn không am tường võ nghệ còn cười thầm, cho là nàng căn bản không biết bắn cung. Mã Liên Nhi giật cương thúc ngựa phóng lên mấy bước, đoạn thả cương xuống, tay trái cầm cung, tay phải cầm ngược bốn mũi tên ở phần lông đuôi, chỉ đặt một mũi lên dây cung. Sau đó nàng hít sâu một hơi, kéo căng cây cung như trăng rằm rồi buông dây, một mũi tên lao vụt đi. Mọi người còn chưa kịp quay đầu xem mũi tên đó đã trúng hay chưa, Mã Liên Nhi đã như làm xiếc, tay phải phất khẽ, lại một mũi tên nữa được đặt lên dây, thủ pháp nhanh nhẹn vô cùng. Chỉ nghe tiếng dây cung "tạch, tạch " liên tiếp mấy tiếng, năm mũi tên lướt đi cực nhanh, tên này nối tiếp tên kia bay đi vun vút. Tên bắn ra liên tục liền trong một hơi, khiến mắt người không theo kịp. Bắn năm mũi tên xong, Mã Liên Nhi lật tay khoác chéo chiếc cung lên vai như cũ, rồi nàng quay đầu ngựa lại, khẽ mỉm cười nói: - Tiểu nữ đã sẩy tay rồi. Mọi người đang há hốc mồm kinh ngạc, nghe thấy vậy bèn ngẩng đầu nhìn ra phía xa, chỉ thấy năm mũi tên tạo thành hình ngũ giác nhốt con hươu bào đang run lẩy bẩy vì sợ kia vào giữa. Khoảng cách giữa các mũi tên gần như toàn bộ giống hệt nhau, như thể đã được đo đạc đàng hoàng. Sau một lúc lâu, một tay tướng lĩnh dưới trướng Tất đô ty kinh ngạc thốt lên: - Liên châu tiễn pháp! Đồn rằng thần tiễn Triết Biệt (1) của giặc Thát nhanh nhất cũng chỉ có thể bắn một lần chín tên, Mã tiểu thư không ngờ lại bắn được năm mũi liền lúc, thật là lợi hại, thật là lợi hại! Mọi người nghe xong, bất luận là hiểu hay không hiểu đều ca tụng không ngớt. Tất đô ty vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ, càng không tiếc lời ngợi khen. Đôi mắt to tròn đen láy của Mã Liên Nhi thoáng liếc về phía Giang Bân như để thị uy, trên mặt mang theo mấy phần đắc ý. Đúng vào lúc này, đằng xa có một người cưỡi ngựa phóng vội đến. Mọi người đều quay đầu nhìn, chỉ thấy kẻ đó càng lúc càng gần. Khi kẻ đó chạy đến gần mọi người mới thấy rõ trên người hắn vận áo số (Áo được đánh số, dùng cho các binh sỹ và nha dịch thời xưa – ND.) của dịch trạm, cưỡi một thớt dịch mã. Khi đến trước mặt mọi người hắn ghìm cương lại, vẻ mặt nôn nóng nhìn khắp đám người như đang tìm kiếm ai đó. Vừa thấy y Mã Liên Nhi liền nhận ra đó là đại ca Hàn Uy của Ấu Nương, bèn vội vàng thúc ngựa chạy lên mấy bước hỏi: - Hàn đại ca! Sao huynh lại đến đây? Hàn Uy mặt đầy mồ hôi, cũng không biết là vì đang nôn nóng hay vì mệt, y vừa đưa ống tay áo lên quệt mồ hồ trên mặt vừa nói: - Mã tiểu thư, tôi tìm cô đến khổ. Kinh thành đột nhiên cử một vị công công đến, ông ta phụng thánh chỉ của hoàng đế đến truyền lệnh Dương Lăng lập tức vào kinh. Em gái và em rể kêu ta báo với cô một tiếng, nhưng ta không biết các người đang săn bắn ở chỗ nào. Vừa rồi ta đã phải chạy khắp các nơi xung quanh một lượt đấy... Y còn chưa nói xong, Mã Liên Nhi đã cả kinh la lên một tiếng, hai chân thúc vào bụng ngựa, không hề quay đầu mà giục ngựa phi thẳng về trạm Kê Minh. Các quan viên ngơ ngác nhìn nhau, bọn quan viên ở nha huyện còn to nhỏ thì thầm, sắc mặt kỳ dị. Mã Liên Nhi vừa nghe nói Dương Lăng đã đi rồi, lập tức tỏ ra vô cùng nôn nóng, thậm chí còn không thèm gởi lại một câu chào cho phải phép. Nàng và Dương Lăng một là không thân không thích, hai là chẳng phải bạn bè, nếu nói hai người bọn họ không có tư tình, ai mà tin chứ? Tất đô ty mặt mày xám xịt, cặp mắt tam giác đỏ ngầu, cả người hơi run rẩy. Mã Ngang phi ngựa đến bên cạnh hắn, run rẩy gọi nhỏ: - Tất... Tất đại nhân... Tất đô ty cười gằn một tiếng, xoay người giương cung lắp tên. Sau tiếng kêu rền rĩ của dây cung, mũi tên sắc bén “chíu” một tiếng bay đi, bắn xuyên qua thân con hươu đang bị vây trong năm mũi tên không dám động đậy, khiến nó gục xuống đất. (1) Triết Biệt hay còn gọi là Giả Biệt (không rõ năm sinh - mất 1225) là một trong những viên đại tướng của Thành Cát Tư Hãn. Ông nổi tiếng với tài bắn tên bách phát bách trúng. Người ta cho rằng Triết Biệt không phải là tên thật của ông mà là do Thành Cát Tư Hãn đặt cho (trong tiếng Mông Cổ, Triết Biệt có nghĩa là thần tiễn) Khi Thành Cát Tư Hãn đem quân tấn công bộ lạc Tần Diệc Xích Ngột, Triết Biệt hăng hái chống cự. Trong lúc chiến đấu ông đã bắn bị thương Thành Cát Tư Hãn nhưng do quân địch quá đông, bộ lạc của ông thua. Triết Biết bị bắt, đầu hàng Thành Cát Tư Hãn và trở thành viên tướng dưới quyền. Sau này Triết Biệt đi theo Thành Cát Tư Hãn chinh chiến, lập được rất nhiều công lao. Triết Biệt đã từng cầm quân tấn công Trung Quốc, Trung Á và Đông u. Ông chưa bao giờ tỏ ra cậy công, luôn tỏ ra trung thành với Thành Cát Tư Hãn. Triết Biệt mất trên đường đánh Kievan Rus, một quốc gia có thủ đô là Kiev, lãnh thổ ngày nay trải dài trên Belarus, Ukraina và Liên Bang Nga. (theo wikipedia)

Chương 52: Lớ ngớ lên kinhDịch: TheJoker Biên dịch: Vo vong Biên tập: Ba_Van Hiệu đính: Nguồn: www.tangthuvien.com "Sợi tóc, sợi tình, ba mũi tên, ba năm chờ đợi. Nha đầu này sẽ không cố chấp như Ấu Nương đó chứ?" Quyển hai - Nhắm mắt lên kinh Chương 52 - Lớ ngớ lên kinh Mặt trời chói lọi đã lên cao, người đi đường bắt đầu đông dần, cổng thành bắc bỗng nhiên xuất hiện một đội ngũ kỳ dị: mười sáu gã cấm quân Đại Minh vận quân trang, đao dắt bên hông, đang hộ tống một chiếc xe ngựa được sơn sáng bóng chạy vào thành. Tuấn mã cao lớn tuyền một màu trắng, yên ngựa hoa lệ, khôi giáp những gã võ sĩ trên ngựa mặc tinh mỹ hơn trang phục của quân biên phòng gấp không biết bao nhiêu lần. Sau khi vào thành, xe ngựa không hề dừng lại, đội nghi trượng (1) tiến thẳng về phía sở Dịch thừa. Trong sở dịch, Dương Lăng đang uống trà tán gẫu cùng Liễu Bưu và Dương Nhất Thanh, nghĩ mọi cách hòng moi thêm tin tức về kinh thành và cẩm y vệ từ miệng bọn họ. Lúc này một gã dịch tốt vội vội vàng vàng chạy vào bẩm báo: - Đại nhân, có quan viên đi qua đây đến đưa thư trú giá (thư yêu cầu được ngụ lại tại sở dịch đương địa – ND.), đội xe đã sắp đến nơi rồi. Nghe xong, Dương Lăng cảm thấy rất đỗi kỳ lạ. Tuy rằng sở dịch chịu trách nhiệm tiếp đãi các quan viên qua lại, nhưng cách trạm Kê Minh này không xa chính là địa bàn của người Thát Đát, cho nên chưa từng có quan lớn ghé qua. Nếu như có quan viên đến đưa thư trú giá, vậy quy mô đội xe nhất định không nhỏ, là ai đến đây nhỉ? Liễu Bưu và Dương Nhất Thanh vội vã theo y ra ngoài đón khách. Trên con đường truyền tin trước mặt một chiếc xe ngựa đang chầm chậm đi tới, ở hai bên chiếc xe, mỗi bên có tám thớt tuấn mã được cưỡi bởi những kỵ sĩ đầu đội mũ thân mặc giáp, thập phần uy vũ. Vừa thấy lá hoàng kỳ cắm trên xe ngựa, Liễu Bưu mau chóng tiến lên một bước, ghé vào tai Dương Lăng nói nhỏ: - Đại nhân, đây là người ở kinh sư đến đó. Dương Lăng khẽ gật đầu, đứng trang nghiêm trước cửa. Chiếc xe ngựa tiến đến trước mặt y rồi dừng lại, rèm cửa vén lên, từ trong một người khom lưng bước ra. Trông lão tuổi độ hơn năm mươi, khuôn mặt gầy gò, mặc trang phục thái giám trong cung. Dương Lăng thất thanh kêu lên: - Lưu công công? Người đó đúng là giám quân Lưu công công. Lão bước xuống xe ngựa, toét miệng cười với Dương Lăng: - Dương dịch thừa, ta và cậu thật có duyên đó! Mới hơn một tháng mà chúng ta đã lại gặp nhau rồi. Dương Lăng mời Lưu công công vào trong đại sảnh, lòng vẫn chưa rõ mục đích đến đây của lão ta. Việc y được thăng chức làm một gã đồng tri ngũ phẩm trong cẩm y vệ đâu cần đến thái giám trong cung xuất hiện? Thông thường thái giám chỉ xuất cung khi phụng chỉ giám sát quân đội, thu thuế, hoặc mua sắm vật dụng cho hoàng cung; rất hiếm khi triệu kiến một gã quan viên dưới tam phẩm mà cần thái giám mang thánh chỉ đến tuyên chiếu. Mười sáu tay võ sĩ bước vào đại sảnh đứng sang hai bên, tay dằn cán đao bên hông, mắt nhìn thẳng. Lưu công công đi đến chính giữa đại sảnh rồi quay người lại, đằng hắng một tiếng, cất cao giọng: - Dịch thừa huyện Kê Minh Dương Lăng tiếp chỉ! Dương Lăng vẻ mặt lơ ngơ luống cuống, không biết phải làm sao. Nghe nói hoàng đế hạ thánh chỉ cho mình, y vô cùng ngạc nhiên; còn về phần tiếp chỉ, có phải làm giống như trong phim hay không, y cũng không rõ lắm. May mà Lưu công công cũng đã thấy nhiều người như vậy, thánh chỉ không phải là tờ rơi, có bao nhiêu quan viên thật sự được tiếp thánh chỉ chứ? Thậm chí ngay cả đại thần làm quan trong triều, có không ít người trong lần đầu tiếp thánh chỉ cũng đã gây ra những chuyện nực cười. Lão khẽ mỉm cười, hai tay cầm thánh chỉ, nhẹ giọng bảo: - Dương dịch thừa, quỳ xuống nghe tuyên chỉ là được! Dương Lăng đưa mắt ánh mắt cảm kích nhìn lão rồi vội vàng quỳ hai gối xuống, nói: - Thần Dương Lăng xin nghe. Lần đầu quỳ trước kẻ khác, trong lòng Dương Lăng vẫn hơi có chút không thoải mái, chỉ đành coi như là nhập gia tuỳ tục vậy, dù sao y cũng không có gan kháng cự. Lưu công công từ từ mở thánh chỉ ra, rồi cất cao giọng: - Phụng thiên thừa vận, hoàng đế chiếu viết: Trẫm nghe: Tam Đại (*) sở dĩ được thiên hạ, ấy là bởi tại lòng dân. Thế nên, dân chính là gốc rễ của quốc gia. Bậc Tiên hiền có nói: khi mà đại đạo được thực thi, thiên hạ sẽ thuộc về mọi người. ((*): tên chung chỉ ba triều đại cổ ở Trung Quốc - nhà Hạ do Vũ sáng lập, nhà Thương do Thành Thang dựng lên, và nhà Chu do Chu Văn Vương khởi thủy.) Lưu công công đọc du dương trầm bổng, đầu gật gù lắc lư. Dương Lăng nghe Lưu công công đọc mấy thứ cổ văn đó, mặc dù hiểu được ý nghĩa bên trong, nhưng cũng nghe đến trầy trật. Mãi một hồi lâu sau y mới thấy Lưu công công đi vào chủ đề chính: - Vì lẽ đó, dân chính là chủ của quốc gia, Thiên tử nhờ dân mà có thiên hạ. Đấng quân vương phải coi trọng chữ tín, giữ lấy thuận hoà, tuyển chọn hiền lương. Đương kim thái tử thông tuệ hiếu học, nghe có tú tài Tuyên phủ là Dương Lăng, có tài kiêm đức, rất tốt. Nay trẫm tuyên Dương Lăng vào kinh, nhậm chức thái tử thị độc (Chức quan chuyên hầu hạ thái tử đọc sách – ND.), sau khi nhận chiếu lập tức tiến kinh, không được chậm trễ. Khâm thử. Tháng hai năm Hoằng Trị thứ mười tám. Dương Lăng nghe mà ù ù cạc cạc. Thái tử thị độc? Không phải là cẩm y vệ đồng tri sao? Trong lòng y chợt nhớ đến lời Mã Liên Nhi đã nói đêm hôm ấy: “Thăng cấp trong quân đội nào phải trò đùa. Có câu nói 'quan lộ hiểm ác' huynh có biết không? Để muội suy nghĩ một chút, ừm... với 'công lao' mà huynh lập được, tuyệt không có lý nào thăng liền ba cấp, thẳng đến trung ương của Cẩm y vệ. Trong kinh lại càng không thể có ai tốt bụng mà vô duyên vô cớ thăng chức cho huynh như vậy. Chúng ta phải suy nghĩ thật kỹ xem sao, không thể để cho kẻ khác hãm hại được...” Dương Lăng đột nhiên bừng hiểu. Chẳng trách Cẩm y vệ lại vội vàng chạy đến thăng quan cho y, hoá ra là vì nghe nói hoàng đế muốn y làm thái tử thị độc, cho nên đến để thêu hoa trên gấm (ý làm cho chuyện đã tốt đẹp sẵn rồi càng tốt đẹp hơn nữa – ND.). Tuy rằng thái tử thị độc chỉ là quan lục phẩm, nhưng nói trắng ra đó chính là bạn học của thái tử, một khi thái tử đăng cơ, những kẻ thân cận và hiểu rõ thái tử nhất ấy có lẽ nào lại không được trọng dụng? Chức dịch thừa này của y vốn chỉ là một tiểu lại con con ở vòng ngoài của Cẩm y vệ, hôm nay một bước thăng quan liền đã trở thành nhân viên cộm cán ở trung ương. Ban cho một chức quan để lôi kéo tâm phúc của hoàng đế tương lai về bên phe mình, đương nhiên Cẩm y vệ chẳng thiệt thòi gì rồi. Thấy y vẫn ngỡ ngàng quỳ tại chỗ, Lưu công công bèn thấp giọng bảo: - Dương dịch thừa, sao còn chưa lĩnh chỉ tạ ân? Dương Lăng sực tỉnh, vội vàng hô to: - Thần lĩnh chỉ tạ ân! Hai tay y đón lấy thánh chỉ trong tay Lưu công công. Liếc thấy lão không có ý bắt mình thực hiện ba quỳ chín lạy, y bèn đứng lên. Giao thánh chỉ xong, Lưu công công lập tức thu lại vẻ cao cao tại thượng, ôn hoà nói với Dương Lăng: - Dương tướng công! Ta là Lưu Cẩn, nô tài bên cạnh thái tử gia, sau này Dương tướng công làm thái tử thị độc, chúng ta còn phải thân thiết với nhau nhiều mới được. Dương Lăng nghe xong giật mình đánh thót, thất thanh kêu lớn: - Lưu Cẩn? Ông là Lưu Cẩn sao? (2) Lưu công công chớp chớp mắt, lấy làm lạ hỏi: - Sao? Dương tướng công đã từng nghe nói về ta à? Dương Lăng gật gật, rồi lại lắc lắc đầu, cũng không biết nên nói gì cho phải. Lưu Cẩn, nguyên mẫu của vị xưởng công (3) trong "Tân Long Môn khách sạn", đại thái giám giết người không chớp mắt trong truyền thuyết, vậy mà lại là lão thái giám tướng mạo tầm thường này ư? Nhờ phước của tiểu thuyết và ti-vi nên cái đám Uông Trực, Vương Chấn, Lưu Cẩn, Ngụy Trung Hiền gì gì đó Dương Lăng đều rất quen thuộc. Trong đó những đại thái giám này kẻ nào kẻ nấy đều có một thân võ công quỷ dị tuyệt luân, tóc bạc phơ mặt hồng hào, tính cách quái gở. Bây giờ tận mắt nhìn thấy Lưu Cẩn thật sự lại có tướng mạo tầm thường, nhất thời Dương Lăng vẫn nghĩ là trùng họ trùng tên. Lưu Cẩn vui vẻ nói: - Ta hầu hạ bên cạnh thái tử gia, hiếm khi rời khỏi kinh thành, người biết được tên ta không có mấy, chẳng ngờ Dương tướng công lại đã nghe qua. Ha ha, quả nhiên là “tú tài không ra khỏi nhà mà vẫn rành chuyện thiên hạ”. Dương tướng công, giờ cậu đã nhận thánh chỉ, ta thấy chúng ta hãy lập tức khởi hành thôi. Đương kim thái tử đam mê võ thuật, thích nhất là múa gậy đánh thương, hành quân bố trận. Bức thư mà Dương tướng công trình lên cho Hà tham tướng ta đã mang về kinh, thái tử gia xem xong rất thích, muốn dùng phương pháp của cậu để thao luyện Thần Cơ doanh đấy, chớ để thái tử gia sốt ruột. Lúc này Lưu Cẩn xử lý công vụ khá là cẩn thận và nghiêm túc. Hiện lão đang cai quản Chung cổ ty, là cơ quan có quyền hạn nhỏ nhất trong Nhị thập tứ nha môn (4). Thái tử Chu Hậu Chiếu bướng bỉnh háo võ, tính tình sớm nắng chiều mưa, mà vạn tuế gia lại rất là cưng chiều đứa con bảo bối này, thế nên Lưu Cẩn nào dám chậm trễ. Dương Lăng chỉ đành gọi Ấu Nương tới, bắt đầu thu thập hành trang. Hai người Liễu, Dương nói với người ngoài rằng mình là người hầu của nhà họ Dương. Mặc dù người của sở dịch bản địa cảm thấy kỳ lạ, song vì Lưu công công không biết gia cảnh nhà họ Dương cho nên lão cũng chẳng để tâm. Chuẩn bị hết thảy xong xuôi mà Mã Liên Nhi vẫn chưa trở về, Dương Lăng bèn nói với Ấu Nương nhờ đại ca nàng ra ngoài thành báo tin, tránh để nàng ấy nghĩ rằng mình đi mà không lời từ biệt. Lúc này, ba cỗ xe ngựa đã đi vào khúc quanh trên sơn đạo. Đường núi chật hẹp, mười sáu tay vệ sĩ tám trước tám sau hộ tống, phía trước là cỗ xe ngựa sơn son của Lưu công công, hai cỗ xe ở phía sau được phái đi từ sở dịch, trước hai cỗ xe đều dựng thẳng một cây cột cao, trên viết một chữ "dịch". Xe đằng sau chở hành lý, Liễu Bưu và Dương Nhất Thanh ngồi trên xe đó. Hàn Ấu Nương lặng lẽ nhìn ra ngoài cửa sổ. Từ nhỏ nàng chưa từng xa cách người thân, một mình đi đến địa phương xa xôi như vậy. Mấy ngày trước cứ nghĩ đến việc được đi đến kinh thành là nàng lại hào hứng như một đứa trẻ, bây giờ thật sự ra đi, lòng nàng lại cảm thấy trống trải. Chà, cha đã là dịch sứ, bôn ba khắp nơi, lần này ra đi lại không thể gặp người để từ biệt, cũng không biết phải mất bao lâu nữa mới có thể gặp lại người thân nhỉ? Dương Lăng biết nàng không nỡ rời xa quê nhà, bèn nhẹ giọng an ủi: - Yên tâm đi, đợi khi chúng ta thu xếp ổn thoả mọi việc xong, ta sẽ nghĩ biện pháp đón nhạc phụ và mọi người vào kinh. Ấu Nương khẽ ưm một tiếng, nhẹ nhàng dựa trong lòng Dương Lăng, đôi mắt nhấp nháy, cũng không biết là đang nghĩ gì. Dương Lăng nhẹ nhàng vuốt ve lưng nàng, cũng chìm trong muôn vàn suy nghĩ. “Thái tử thị độc, cái chức này nó như thế nào nhỉ? Mình không hề được lưu lại ký ức của vị tú tài Tuyên phủ Dương Lăng đó, mấy cái thứ như là tứ thư ngũ kinh hay văn chương bát cổ, có thể nói là mình mù tịt chẳng biết gì. Mong rằng cái chức thị độc đó tên đúng như thật (Thị độc nghĩa là hầu đọc sách – ND.), chỉ cần cùng thái tử đọc sách là được rồi.” Lịch sử mà y còn nhớ được thật sự là quá ít. Ngoại trừ Chu Hồng Vũ, Thành Tổ và vị vua cuối cùng là Sùng Trinh, những hoàng đế triều Minh khác y thật sự biết rất ít. Lúc này đây chẳng hiểu sao y lại bị đẩy lên trung tâm vũ đài của lịch sử, bên cạnh toàn là những nhân vật quyền cao chức trọng của cái thời đại này, liệu y có thể ứng phó được không đây? Trước giờ Dương Lăng cũng chẳng có ước muốn gì cao sang, chỉ mong vợ con đầm ấm bên giường, sống khoái lạc qua hai năm là được, thế mà giờ đây phải đi làm chuyện con chó đi cày. Thường có câu làm bạn với vua như chơi với hổ, vì an toàn của bản thân, y không thể không nghiêm túc nghĩ ngợi, chủ động nhận thức và tìm hiểu về thời đại này. Dương Lăng sắp xếp các chuỗi suy nghĩ lại một chút, những tư liệu có liên quan đến thời đại này chầm chậm hiện lên trong đầu y. Bây giờ là năm Hoằng Trị thứ mười tám, hoàng đế là Hoằng Trị, họ Chu. Còn về tên của ông ta, vì học thức có hạn nên từ niên hiệu kia y không thể liên tưởng ra nổi, thế nên không rõ tên; cuộc đời của ông ta y cũng mù tịt nốt. Thái tử là Chu Hậu Chiếu, phong lưu, háo sắc, ngu đần, diện mạo rất tuấn tú, sự tích có liên quan: du long hí phượng (6), nhớ mang máng hình như y chết rất sớm. Lưu Cẩn là đại gian thần, thời gian phất: không rõ, chết ra làm sao: không rõ, nhưng tóm lại là chẳng được chết tử tế. “Ăn hại! Hoàn toàn là đồ ăn hại!” Dương Lăng chỉ có thể xấu hổ tự đánh giá bản thân như vậy. Chỉ dựa vào chút tư liệu ít ỏi này mà có thể thấu rõ tiên cơ, tìm lành lánh dữ, nắm bắt lịch sử được sao? Chán nản một hồi, Dương Lăng bỗng phấn chấn trở lại, ngồi thẳng lưng lên: “Để ý nhiều vậy làm gì? Hoàng đế Chính Đức cái gì chứ, gian thần Lưu Cẩn cái gì chứ?! Mạng mình ngắn ngủi chỉ như cỏ cây, mấy thứ đó không đến lượt mình bận tâm. Mục đích của mình chỉ là đi kinh sư, làm quan lớn, lăn lộn ở Bắc Kinh!” Điếc không sợ súng, Dương Lăng chuẩn bị nhắm mắt xông bừa lên kinh sư, trong lòng bắt đầu lạc quan một cách mù quáng. *** Như một cơn lốc, Mã Liên Nhi quất ngựa phi đến sở dịch thừa, sau chớp mắt lại phóng ngựa chạy thẳng đến thành bắc. Tiếng những chiếc vó ngựa to bằng cái bát gõ xuống nền đá vang lên dồn dập như mưa rơi. Khoái mã phi ra khỏi thành, trong đồng cỏ bát ngát đã không thấy bóng dáng cỗ xe đâu. Mã Liên Nhi cầm cương nấn ná dưới cổng thành trong chốc lát, sau đó không dùng con đường cái quan vòng qua sườn núi mà nàng phi ngựa theo đường tắt, thẳng qua giữa những thửa ruộng chưa được canh tác, phóng về phía trước. Chiếc áo choàng lụa màu xanh sẫm tung bay phần phật trong gió. Con tim nàng đập thình thịch. Dương đại ca thật nhẫn tâm, ngay cả thời gian gặp mặt mình một lần cũng không có sao? Tại sao lại đi vội vã đến vậy chứ? Cách biệt lần này, phải đến ba năm sau mới có thể gặp lại mà. Ngựa phi như bay, dưới kỹ thuật cưỡi ngựa cao siêu của nàng, bốn vó của con ngựa tía lao vút đi như mũi tên vừa rời dây cung. Chạy đến cuối khu ruộng là một con sông nhỏ, con ngựa tía phóng thẳng qua, những giọt nước bắn lên tung toé đầy trời như ngọc vỡ. Xa xa, nàng nhìn thấy vài cỗ xe ngựa đang đi dọc theo con đường trên núi. Mã Liên Nhi vui mừng khôn xiết, nàng quay đầu ngựa, chạy dọc theo dòng sông nhỏ dưới chân núi, không ngừng đuổi theo những cỗ xe ngựa trên sườn núi. Thế núi biến ảo, trước mắt là một khe núi hình bán nguyệt, đoàn xe ngựa rẽ vào được một nửa. Chếch ở phía bên này là vách núi giáp với vực sâu. Bọn giáp sĩ đi trên sườn núi và Liễu Bưu, Dương Nhất Thanh ngồi trên càng xe đang cảm thấy hết sức nhàm chán, bỗng thấy bóng một con ngựa tía đang đuổi nhanh dưới chân núi. Liễu Bưu bèn đứng dậy nhìn xuống rồi la lớn: - Dưới chân núi có một vị tiểu thư đang đuổi theo chúng ta! Dương Lăng và Ấu Nương nghe thế vội vàng nhô người ra ngoài thùng xe, nhìn thấy dưới chân núi một áng mây xanh cưỡi một thớt ngựa tía đang từ từ phi đến. Hàn Ấu Nương thất thanh la to: - Là Liên Nhi tỷ tỷ! Tướng công, Liên Nhi tỷ tỷ đến rồi. Dương Lăng vội vàng kêu xa phu dừng xe, rồi đứng trên càng xe nhìn xuống chân núi. Mã Liên Nhi cũng dừng ngựa, một người một ngựa đứng lặng im nơi đó. Ở giữa là một vách núi không thể trèo lên được, hai người chỉ có thể đứng nhìn nhau từ xa. Mã Liên Nhi ngẩn ngơ ngóng nhìn một hồi lâu. Thấy Dương Lăng vẫy tay với mình, sau đó ra hiệu cho xe ngựa tiếp tục khởi hành, nhưng vẫn đứng ở trước xe nhìn mình, lòng Mã Liên Nhi chợt kích động. Nàng rút thanh loan đao nhỏ bên hông ra, cắt một lọn tóc rồi vội vàng buộc vào một mũi tên. Xe ngựa từ từ di chuyển, chỉ cần rẽ khỏi con đường trên hẻm núi này thì sẽ biến mất khỏi tầm mắt của nàng. Mã Liên Nhi bất chợt giật cương, hai chân thúc vào bụng ngựa. Ngựa hí vang một tràng, vang vọng khắp vùng núi. Dương Lăng và đám võ sĩ đều hướng mắt nhìn xuống chân núi. Con ngựa tía đứng thẳng lên bằng hai chân, rồi sau khoảnh khắc, bốn vó nó cùng lúc tung lên, phi cực nhanh về phía trước, ước chừng chỉ ba mươi trượng ở đằng trước chính là vách núi dựng đứng. Ngựa phi nhanh như tên bắn, trong nháy mắt đã chỉ còn cách vách núi hai mươi trượng. Nếu cứ phi thẳng về phía trước với tốc độ như vậy, e rằng cả người lẫn ngựa đều sẽ va vào vách đá. Những người ở trên núi đều không khỏi kinh hãi la lên một tiếng. Chợt thấy khoái mã của Mã Liên Nhi bỗng nhiên quay ngoắt một góc gần chín mươi độ, nàng buông cương, lấy cung, xoay người, rút tên. Động tác của nàng liền mạch, gọn gàng đẹp mắt, khiến người ta nhìn thấy rồi không khỏi phải lắc đầu tán thưởng. Liễu Bưu, Dương Nhất Thanh và mấy gã giáp sĩ hộ vệ đã không thể nhịn được mà lớn tiếng reo hò ca ngợi. Trong nhà của các vị đại thần hiển quý trên kinh thành ít nhiều đều nuôi dưỡng vài gã Thát quan, đó là những dũng sĩ Mông Cổ được chiêu mộ về. Bọn họ từng chứng kiến những người này biễu diễn thứ công phu cưỡi ngựa bắn tên mà thiết kỵ nhà Nguyên năm xưa đã dùng để tung hoành thiên hạ. Thuật cưỡi ngựa bắn tên của người Mông Cổ đứng đầu trong thiên hạ. Công phu cưỡi ngựa rút tên của Mã Liên Nhi giống hệt như những dũng sĩ vừa giỏi cưỡi ngựa vừa giỏi bắn tên trong đám Thát quan này, và vì được phô diễn bởi một thiếu nữ nên nó càng toát lên vẻ đẹp không nói nên lời. Ngay trong khoảnh khắc cỗ xe ngựa của Dương Lăng sắp rẽ qua vách phía trước, rời khỏi tầm mắt của Mã Liên Nhi, thì nghe "tóc, tóc, tóc", ba mũi tên bay tới cắm ngay ngắn trên cột cờ cách Dương Lăng chỉ một sải tay, đuôi tên vẫn còn run lên bần bật. Xa phu đang an vị ở dưới cột cờ sợ run cầm cập, suýt nữa ngã lộn cổ xuống xe. Xe ngựa chầm chậm di chuyển, trước vách núi là một bụi cỏ xanh, đã không thể nhìn thấy Liên Nhi ở dưới chân núi nữa. Ba mũi tên nhọn cắm ngay ngắn trên cột cờ tạo thành hình chữ nhất (Chữ nhất: 一 ), trên đuôi tên ở chính giữa buộc một lọn tóc đen, vẫn đang chầm chậm phất phơ trong gió. Hàn Ấu Nương khẽ vuốt lọn tóc đen nhánh, giọng đau xót: - Tướng công! Liên Nhi tỷ tỷ cắt tóc để tỏ rõ tâm ý đó. Dương Lăng vuốt nhẹ mũi nàng, rồi quay đầu nhìn ba mũi tên nhọn và lọn tóc đen đang ghim chặt trên cột cờ, y không khỏi gượng cười, lòng thầm suy nghĩ: "Sợi tóc, sợi tình, ba mũi tên, ba năm chờ đợi. Nha đầu này sẽ không cố chấp như Ấu Nương đó chứ?" (1) Vũ khí, quạt kiệu, cờ xí... mà đội hộ vệ mang theo khi vua, quan tuần hành. (2) Lưu Cẩn: hoạn quan "nổi tiếng" dưới triều vua Minh Vũ Tông. Do hầu hạ Vũ Tông từ lúc còn chưa lên ngôi nên Lưu Cẩn rất được nhà vua quý chuộng, phong làm Tư lễ giám, chuyên phê duyệt sớ của các quan tấu trình. Với chức quan đó, Lưu Cẩn giả mệnh hoàng đế tự ý định đoạt mọi công việc trong nước. Dân gian khi đó gọi Lưu Cẩn là “Hoàng đế đứng”, ám chỉ quyền lực của y, để phân biệt với “Hoàng đế ngồi” là Vũ Tông. Lưu Cẩn nắm quyền trong hơn năm năm thì bị một số quan lại phối hợp lật đổ. (3) Thủ lĩnh của Đông xưởng (4) Nhị thập tứ nha môn là thể chế hoạn quan thời Minh, là cơ cấu hầu hạ hoàng đế và dòng dõi gia tộc của hoạn quan. Bên trong thiết lập mười hai giám, bốn ty, tám cục, gọi chung là Nhị thập tứ nha môn. (5) Điển tích: năm Chính Đức, khi trị quốc, vì để nắm rõ tình hình đất nước, hoàng đế Vũ Tông Chu Hậu Chiếu hay thích vi hành trong dân gian. Hoàng đế Chính Đức cải trang đi chơi đến Mai Long trấn, ngủ lại tại quán trọ Lý Long. Lý Long ở bên ngoài gác đêm, phân phó cho Phượng Thư trông nom quán trọ. Chu Hậu Chiếu bị vẻ đẹp hoa nhường nguyệt thẹn của Phượng Thư khuynh đảo, cố ý gọi rượu và đồ ăn để chọc ghẹo. Lúc đầu Phượng Thư chỉ đối đãi sơ sài, mà Chu Hậu Chiếu thần hồn càng lúc càng thêm điên đảo. Cuối cùng Chu Hậu Chiếu lộ ra thân phận chân long thiên tử của bản thân cùng bày tỏ tình cảm khao khát với Phượng Thư, hai người nên duyên. Khi Phượng Thư đòi ban tước, Chu Hậu Chiếu bèn phong thị làm "Hi Sái cung phi" (cung phi nô đùa).

Chương 53: Cẩm Y đề đốcDịch: TheJoker Biên dịch: Vo vong Biên tập: Ba_Van Hiệu đính: Nguồn: www.tangthuvien.com Trương Tú nghe vậy thì phá ra cười lớn, hết sức vui vẻ vỗ bàn đáp: - Lọt vào mắt xanh của bệ hạ? Nào chỉ là lọt vào mắt xanh của bệ hạ! Tuy ngươi ở nơi xa xôi hẻo lánh, thế nhưng ngươi có biết bây giờ bộ Binh, bộ Công, nha môn Tam Pháp ty, nha môn Nội Quan, giám sát viện, Ngũ Quân đô đốc phủ, tất cả đều đang quây lại đánh nhau, một nửa quan viên của thành Bắc Kinh bị cuốn vào, tất cả là do Dương đồng tri nhà ngươi mà ra đó! Chương 53 - Cẩm Y đề đốc - Mã ngoạ tào (1)! Ha ha ha, Dương tướng công, cậu lại thua rồi. Lưu Cẩn vỗ tay cười lớn ra vẻ cực kỳ đắc ý. Dọc đường nhàn rỗi, Lưu Cẩn thường xuyên mời Dương Lăng lên xe lão chơi cờ giết thời gian. Kỳ nghệ của lão không quá cao minh, nhưng khi phát hiện kỳ nghệ của Dương Lăng còn tệ hơn mình, lão lại bỗng trở thành kẻ mê cờ, hằng ngày lấy sự chà đạp Dương Lăng làm niềm vui. Dương Lăng hừm một tiếng, đáp: - Ván này không tính. Tôi ăn quân của ông, ông bèn chơi xấu hoãn lại một nước, bằng không chỉ còn một pháo một mã, bất kể thế nào cũng không phải là đối thủ của tôi. Không được, không được, chơi lại! Lưu Cẩn vội chặn tay y, đắc ý cười nói: - Phong độ, phải có phong độ chứ Dương tướng công! Hà hà, hôm nay bốn ván ta đã thắng ba rồi. Vị gian thần lộng quyền tương lai này khi chưa đắc thế lại giống hệt như một người bình thường, không ngừng gật gù đắc chí. Ở chung với lão lâu ngày, Dương Lăng đã vứt bỏ sự kiêng kỵ vốn có, hai người xem nhau như bạn chí thân. Lưu Cẩn vừa nói vừa vén rèm xe nhìn ra ngoài, đoạn vui vẻ bảo: - Đến rồi, sắp vào đến thành rồi! Dương Lăng nghe vậy cũng ló đầu ra ngoài quan sát. Dưới ánh hoàng hôn chập choạng, cổng thành trang nghiêm to lớn ở phía trước đã đập ngay vào mắt. Dương Lăng vén rèm trước bước ra ngoài, đứng trên càng xe quan sát. Có mười sáu tay thị vệ cấm quân mở đường, quan thủ thành hoàn toàn không dám ngăn trở, đội xe nghênh ngang chạy vào thành. Lưu Cẩn cũng bước ra ngoài đứng cạnh y, hai tay bỏ vào trong ống tay áo, cười tít mắt: - Dương tướng công, đây chính là kinh sư của Đại Minh chúng ta, cậu thấy thế nào? Dương Lăng chăm chú quan sát thành Bắc Kinh thời này. Mặc dù trong thành nhà cửa san sát, người đi đường đông đúc náo nhiệt, song ngoại trừ một vài quán rượu lác đác gần xa cùng với phủ đệ của các công thần công tướng, hết thảy nhà cửa dường như đều không cao quá hai trượng. Đưa mắt nhìn ra xa, hiển nhiên quần thể kiến trúc nguy nga lộng lẫy nằm thấp thoáng nơi ánh tà dương ấy chính là hoàng thành. Lưu Cẩn hỏi: - Dương tướng công, có cần tìm một khách sạn để trọ trước không? Bây giờ trời đã tối, ngày mai giờ dần ba khắc ta sẽ ở ngoài ngọ môn dẫn Dương tướng công vào kiến giá. Dương Lăng còn chưa trả lời, Liễu Bưu không biết tự lúc nào đã lặng lẽ đi tới trước mặt y dõng dạc báo: - Công tử, Dương lão thái gia đã sai người đi gấp tới kinh thành mua một khu nhà ở phố Hộ Quốc Tự để công tử ở rồi. Chúng ta có về thẳng nhà hay không? Dương Lăng và Lưu Cẩn đều hơi ngẩn người. Vẻ mặt Lưu Cẩn hơi khó coi, lão vốn cho rằng Dương Lăng là một gã dịch thừa nghèo nên lão không nghĩ đến việc vơ vét một ít từ y. Nhưng trông tình hình thế này, nhà họ Dương ở Kê Minh có vẻ còn là một tài chủ địa phương, thế mà Dương Lăng lại không có chút biểu hiện đối với mình, thật là không ra sao cả! Đi báo tin cho người đỗ đạt còn được chút tiền thưởng, mình đi báo tin cho Hoàng thượng, chẳng lẽ lại không đáng tiền hay sao? Lúc này Liễu Bưu lại tháo một bao vải trên vai xuống, đặt lên xe. Bao vải vừa chạm vào xe liền vang lên những tiếng "lách cách", xem ra đồ vật bên trong cũng không nhẹ. Liễu Bưu mỉm cười nói: - Lưu công công, đây là chút đặc sản địa phương mà lúc đi lão thái gia đã căn dặn mang theo biếu ngài, mời công công mang về nếm thử cho tươi ạ! Gia đình nông thôn chỉ có chút lễ vật nhỏ, thật không đủ để bày tỏ lòng thành. Lưu Cẩn nhìn cái bọc nặng trình trịch đó, ước chừng tối thiểu cũng phải hai trăm lạng bạc, liền lộ vẻ hớn hở, quay đầu sang cười nói với Dương Lăng: - Dương tướng công khách khí quá rồi! Trong cung thứ gì cũng không thiếu, nhưng mà những thổ sản nông thôn này thì… thật sự là không có nhiều. Ha ha ha, tấm lòng này của cậu thật đáng quý! Biết đây nhất định là do Cẩm Y vệ chuẩn bị sẵn, Dương Lăng vội cười, đở lời: - Đâu có, đâu có! Chỉ là chút vật mọn không đáng bày lên bàn tiệc, Lưu công công thích là tốt rồi. Lưu Cẩn cười tươi hơn hớn: - Thích chứ, thích chứ! Ta rất thích ăn mấy thứ đặc sản địa phương thế này. Nếu như Dương tướng công đã có chỗ ở, vậy ta sẽ trở về đại nội phục mệnh, sáng mai ta chờ đón Dương tướng công ở ngoài ngọ môn. Ngay sau đó, Lưu Cẩn hí hửng chỉ huy đội xe quay trở về hoàng thành, còn hai chiếc xe ngựa của Dương Lăng thì rẽ vào hướng phố Hộ Quốc Tự. Dương Lăng vừa trở về xe của mình, Ấu Nương đã nghe được loáng thoáng cuộc trò chuyện, bèn thích chí ôm lấy cánh tay y hỏi: - Tướng công, chúng ta đã có nhà ở kinh sư rồi sao? Dọc đường đi tiểu cô nương này cũng có tâm trạng riêng, nghĩ hiện giờ phu quân đã là quan ngũ phẩm của Cẩm Y vệ, lại là Thị độc bên cạnh thái tử gia, trong lúc ăn nói lẫn đi đứng mình không thể làm điều vượt quá khuôn phép khiến cho tướng công bị mất thể diện được. Vốn nghe nói các phu nhân hay tiểu thư con nhà danh gia vọng tộc ra khỏi nhà đều ngồi im trong xe, cho nên sau khi vào thành Bắc Kinh, nàng vẫn luôn ngồi im trong xe, thậm chí không dám vén rèm cửa xe. Hiện giờ cỗ xe đang đi trên con phố lớn phồn hoa, vậy mà nàng vẫn không biết thành Bắc Kinh ra như thế nào. Dương Lăng hôn phớt lên môi nàng rồi đáp: - Ừm! Hẳn là do Cẩm Y vệ thu xếp. Kế đó y lại ghé vào tai Ấu Nương bảo: - Hôm nay vừa mới vào thành, chúng ta không nấu cơm. Tối nay tướng công sẽ đưa nàng đi dạo phố. Ấu Nương nghe xong lập tức lộ vẻ vui mừng, gật đầu lia lịa: - Vâng vâng! Ấu Nương còn chưa được nhìn xem thành Bắc Kinh ra làm sao, thật muốn đi mở mang kiến thức một chút. Nếu không có tướng công đi cùng, Ấu Nương không dám ra ngoài đâu! Dương Lăng bật cười hỏi: - Ngay cả giặc Thát còn không sợ, thế mà Ấu Nương lại sợ đi dạo trên phố lớn ở kinh sư này à? Ấu Nương hồn nhiên đáp: - Tướng công! Chàng không dẫn thiếp đi, người ta là phụ nữ sao dám tự tiện la cà dạo phố chứ, sẽ khiến người ta chê cười đó. Dương Lăng nói: - Nàng thật! Nhà chúng ta không có mấy quy củ đó, thích ra ngoài thì cứ ra ngoài, dạo phố hay mua sắm gì cũng được. Nói rồi Dương Lăng nhìn vẻ xinh xắn của Ấu Nương, trong lòng thầm nghĩ: "Giờ mà là thời hiện đại, để cô bé này mặc áo thun với quần bò, tóc cột lại một túm, nhất định sẽ là một nữ sinh xinh đẹp tươi mát. Mình sẽ cùng nàng đi xem phim, uống cà phê, nếu nàng nhanh mồm nhanh miệng chút thì sẽ đi đến chỗ đám gian thương mà kỳ kèo trả giá, hề hề. Có điều nếu đặt vào thời đó thì mình làm gì tốt phúc có được nàng?!" Thấy ánh mắt sáng rực của Dương Lăng lom lom nhìn mình, khuôn mặt Ấu Nương càng thêm ửng đỏ. Nàng mắc cỡ cúi đầu bẽn lẽn: - Tướng công, chúng ta ở phố Hộ Quốc Tự, không biết chùa Hộ Quốc này có cao tăng có thể, có thể… Nói đến đây mặt nàng lập tức đỏ bừng, không nói tiếp được nữa. Dương Lăng lập tức chấn động, cả người cũng nóng lên. Đêm trước khi đi, Dương Lăng đã phải kỳ kèo rồi mềm mỏng khẩn cầu mãi cô bé này cuối cùng mới chịu học bài "thổi tiêu dưới trăng" trong tâm trạng vừa thấp thỏm lo sợ vừa xấu hổ. Cái mùi vị tiêu hồn lúc đó, dù có nói ra người ngoài cũng thật khó mà hiểu hết được. Lần này phải đi đường xa vất vả, chung quanh lại có nhiều người, cho nên y cũng không dám có cử chỉ thân mật với Ấu Nương. Giờ nghe nàng nói vậy, Dương Lăng lập tức ngứa ngáy trong lòng, "bích ngọc phá qua thời, tương vi tình điên đảo. Cảm lang bất tu noản, hồi thân tựu lang bão. (2)" Ấu Nương quả thật là một “tiểu gia bích ngọc” (xem 2) chân chính, thật không biết khi thật sự cùng nàng điên loan đảo phượng, một hồi xuân sắc vô biên đó sẽ nóng bỏng đến như thế nào? Dương Lăng cười gian manh nói: - Đúng! đúng! Tối nay chúng ta hãy đi tìm một vị đại hoà thượng để khai quang, sau đó để nàng gặp gỡ ”tiểu hoà thượng” của ta một chút mới được. Ấu Nương vội nói: - Không được, như vậy không được đâu tướng công! Chúng ta nhất định phải gặp đại hoà thượng, tiểu hoà thượng thì có mấy năm đạo hạnh chứ? Ấu Nương không dám đem tính mạng của chàng ra đùa đâu! Khoé miệng Dương Lăng hơi nhếch lên, vẻ mặt cổ quái, y đáp: - Nhất định phải gặp đại hoà thượng sao? Nhưng mà tiểu hoà thượng này của tướng công nếu chưa được nương tử mến yêu của ta khai quang gia trì (3), trải qua muôn vàn thử thách, làm sao có thể tu thành đại hoà thượng được? Tuy Ấu Nương ngây thơ thuần khiết, nhưng nàng không hề kém thông minh, thấy lời nói của tướng công có phần kỳ lạ, nàng chớp chớp đôi mắt ngọc nghi hoặc nhìn y. Dương Lăng mỉm cười ôm lấy Ấu Nương, ghé vào tai nàng thì thầm mấy câu. Ấu Nương khẽ kêu lên một tiếng, vừa giận vừa thẹn đấm nhẹ người tướng công mấy cái, rồi đỏ mặt cắn môi lườm y, giận dỗi nói: - Ngày mai tướng công phải gặp Hoàng đế rồi, cần phải nghỉ ngơi thật tốt! Tối nay Ấu Nương sẽ không gặp bất cứ hoà thượng nào hết. Dương Lăng cười trêu: - Như thế sao được? Để ta xem thử bên ngoài có chùa miếu nào hay không, tối nay nhất định phải để nương tử mở cửa đón khách, nghênh tiếp tiểu hoà thượng của ta vào nhà. Nghe tướng công nói mấy lời đáng xấu hổ đó, Ấu Nương nhũn cả người ra, ngả vào lòng y thở gấp, không dám lên tiếng đáp lời. Dương Lăng vén rèm kiệu lên nhìn ra bên ngoài. Người đi đường tới lui tấp nập, trên đường hàng quán san sát, xem ra con đường này cũng khá phồn hoa. Hàn Ấu Nương cũng tò mò ló đầu ra ngoài nhìn quanh. Nàng thấy Liễu Bưu, Dương Nhất Thanh đang cuốc bộ bên cạnh cỗ xe, bên góc đường ở đằng xa có một người đang đứng. Liễu Bưu nhìn về phía kẻ đó làm nhanh vài động tác tay, kẻ đó gật đầu, bỏ tay trái xuống bên người rồi cũng làm rất nhanh vài động tác đáp trả, sau đó xoay người bỏ đi. Động tác của hai người vừa nhanh lại vừa tự nhiên, nếu không phải Hàn Ấu Nương tinh mắt, tâm tư lại cẩn thận, nhất định sẽ không chú ý tới. Hàn Ấu Nương lấy làm lạ quay đầu gọi: - Tướng công! Chợt lúc này Dương Nhất Thanh ở bên ngoài hô lớn: - Đã đến nhà rồi, mời công tử và phu nhân xuống xe! Bị tiếng gọi của Dương Nhất Thanh cắt ngang, Hàn Ấu Nương bèn nuốt lời muốn nói vào. Dương Lăng vén rèm xe, thấy trước mặt là một khu nhà xây theo lối tứ hợp viện (4), trước cửa có một khoảnh đất trống, trồng hai hàng hoè Long Trảo, cửa vào khu nhà đang mở, có thể nhìn thấy bên trong ngăn nắp sạch sẽ, xem ra vừa mới được sửa sang không lâu. Hàn Ấu Nương cũng nhảy xuống xe, lòng đầy vui sướng quan sát ngôi nhà mới của mình. Trong sân, ngoại trừ một giếng nước, chính giữa còn có một vườn hoa, hai bên là chái nhà, ngay phía trước là ba gian nhà ngói xanh. Xem ra chủ cũ của khu nhà này khi trước cũng là một hộ giàu có neo người, không biết Cẩm Y vệ làm thế nào mà mua được? Liễu Bưu và Dương Nhất Thanh mang tất cả hành lý vào nhà. Khu nhà này tuy mới mua không lâu, song hết thảy dụng cụ sinh hoạt đều đã đầy đủ, tiết kiệm cho bọn họ không ít thời giờ mua sắm bày biện. Nhác thấy trời hãy còn sớm, Hàn Ấu Nương hăng hái xắn tay thực hiện quyền lợi bà chủ nhà, bố trí lại căn nhà mới của mình, rộn ràng trong niềm hạnh phúc. Chuyện ra phố ăn cơm và đi chùa gặp đại hoà thượng đã bị nàng dẹp sang một bên mất hút. Dương Nhất Thanh đến bên cạnh Dương Lăng, vẻ mặt bí hiểm bẩm: - Đại nhân! Đề đốc chỉ huy sứ Trương đại nhân nghe tin đại nhân đã vào kinh, muốn được gặp ngài, chúng ta có đi ngay bây giờ không? - Ồ! Dương Lăng lập tức đứng dậy. Thủ lĩnh tối cao của Cẩm Y vệ muốn tiếp kiến y, y làm sao dám chậm trễ? Sau khi nói vội với Ấu Nương một tiếng xong, y lập tức cùng Liễu Bưu và Dương Nhất Thanh đi ra ngoài. Dương Lăng đã nghe hai người Liễu Bưu và Nhất Thanh nói qua, nha môn của ty chỉ huy sứ Cẩm Y vệ không hề được đặt trong thành Bắc Kinh mà đặt tại Thiên Tân vệ (5), nhưng ty Bắc Trấn Phủ, bộ phận quan trọng nhất trong Cẩm Y vệ lại được đặt trong kinh thành. Thành thử một năm thì quá nửa thời gian đề đốc chỉ huy sứ Cẩm Y vệ không ở Thiên Tân vệ, mà công tác trong thành Bắc Kinh. Ty Bắc Trấn Phủ được đặt ở phía bắc thành Đông An, ngay sát cổng chính của Đông xưởng. Cái thành Bắc Kinh to như vậy, ngoại trừ hoàng thành, cũng chỉ có nơi này là yên tĩnh nhất. Vừa rẽ vào con đường đó, trên đường lập tức vắng tanh, không có lấy một bóng người. Lúc đi ngang qua "Đông Tập Sự xưởng" (tên đầy đủ của Đông Xưởng – ND.), Dương Lăng hiếu kỳ nhìn vào bên trong, không biết đám nha sai, đầu lĩnh, rồi còn cả xưởng công, đốc công trong đó có thân hoài tuyệt kỹ như trong phim hay không. Tiếc là mặt trời sắp lặn, ngoại trừ hai tên nha sai đứng ngoài canh gác ra, không thấy bất kỳ người nào. Đi tiếp về phía trước chính là nha môn của ty Bắc Trấn Phủ, cũng không có gì khác biệt với những nha môn bình thường khác, trước cổng đặt hai con sư tử đá lớn, còn có Đới Đao thị vệ của Cẩm Y vệ đứng canh gác bên ngoài. Được hai người Liễu, Dương dẫn vào trong nha môn của ty Bắc Trấn Phủ, Dương Lăng bước vào một đại sảnh. Trên bức tường màu trắng trên sảnh vẽ một con mãnh hổ hạ sơn. Mãnh hổ sống động như thật, nhe nanh múa vuốt, như thể chực vồ xuống. Bên trong đại sảnh yên tĩnh uy nghiêm, Liễu Bưu và Dương Nhất Thanh bước đến cửa thì không dám đi vào tiếp, cho nên tất nhiên phải có quan quân Cẩm Y vệ khác mời y đi vào. Dương Lăng đang đứng trong sảnh, khoanh tay ngắm nhìn con mãnh hổ chợt sau lưng có người cười rộ bảo: - Dương đồng tri đến rồi sao? Thật không may, Trấn phủ sứ đại nhân đã dẫn người đi Kim Lăng rồi. Hạ quan là Vu Vĩnh, thiên hộ Cẩm Y vệ, ở đây chờ đón Dương đại nhân. Dương Lăng vội vàng quay người, luôn miệng nói: - Không dám, không dám, chào đại nhân! Rồi y tròn xoe mắt nhìn, thoáng ngẩn ra, người đứng trước mặt y đích thực đang mặc một bộ phi ngư phục (6) của Cẩm Y vệ, hông đeo Tú Xuân đao, nhìn trang phục thì đúng thật là một thiên hộ. Vậy nhưng người này lại tóc vàng, mắt xanh, mũi lõ, da dẻ trắng một cách khác thường, không ngờ lại là người châu u. Gã thiên hộ tên Vu Vĩnh ấy thấy Dương Lăng ngẩn người ra thì mỉm cười, kế đó dùng khẩu âm Bắc Kinh nói: - Hạ quan Vu Vĩnh! Đại nhân vừa mới đến kinh thành, để hôm khác hạ quan sẽ thiết tiệc mời đại nhân. Ha ha ha, sau này cùng làm quan triều đình, rất mong được đại nhân dìu dắt nhiều hơn. À phải rồi, Đề đốc đại nhân chờ ngài đã lâu, mời đi theo hạ quan ra mắt đề đốc đại nhân trước! Dương Lăng chắp tay cảm tạ rồi đi theo vị Cẩm Y vệ người nước ngoài này vòng qua đại sảnh. Hai bên hành lang đều là những căn phòng nối tiếp nhau, Vu Vĩnh dẫn Dương Lăng đến trước cửa một căn phòng, mở cửa phòng rồi mỉm cười mời: - Đại nhân, mời vào! Dương Lăng gật đầu cảm tạ, đoạn sải chân bước vào. Chỉ thấy những cây nến to đặt trên đĩa treo cạnh bốn vách tường soi căn phòng sáng choang, một người đàn ông trung niên mặc y phục nho sĩ đang ngồi đằng sau chiếc bàn dài mỉm cười. Thấy y bước vào, người đó mới đặt quyển sách trong tay xuống. Biết chắc người này chính là Trương Tú Trương đại nhân, thủ lĩnh tối cao của Cẩm Y vệ, Dương Lăng bèn vội bước tới, quỳ một gối xuống, thực hiện quân lễ: - Hạ quan Dương Lăng tham kiến đề đốc đại nhân! Trương Tú nheo mắt đánh giá y một lượt, rồi hài lòng cười nói: - Tốt, quả nhiên là tuổi trẻ có triển vọng. Dương đồng tri ngồi đi, chớ nên khách khí! Dương Lăng cũng lén quan sát vị Trương đại nhân này, thấy ông ta tuổi trạc ngũ tuần, vẻ mặt ôn hoà, hào hoa phong nhã, bộ dạng không hề có khí thế của kẻ nắm giữ binh quyền lẫn sinh tử của người khác trong tay. Ở ngoài cửa, Vu Vĩnh vòng tay nói: - Đề đốc đại nhân, Dương đại nhân! Hạ quan xin được cáo lui trước! Nói đoạn hắn quay về phía Dương Lăng mỉm cười thân thiện, kế đó nhẹ nhàng khép cửa phòng. Thấy vẻ mặt đăm chiêu của y, Trương Tú cười lớn nói: - Vu Vĩnh là hậu duệ của người Sắc Mục (7), nghe nói quê quán ở xứ sông Ranh (8) gì đó, vốn dĩ còn là quý tộc vùng bản địa. Lúc đại quân triều Nguyên tây chinh đã bắt về hơn vạn nô lệ tóc vàng mắt xanh, trong đó có cả tổ tiên của y. Bây giờ trong kinh sư vẫn còn hơn một ngàn hộ gia đình như y đang cư trú. Đến lúc này Dương Lăng mới hiểu ra. Tựa hồ rất hài lòng với Dương Lăng, Trương Tú mỉm cười nói: - Dương đồng tri nhất biểu nhân tài, kiêm thêm học thức xuất chúng, vào Bách Hy Viên nhất định sẽ có thể được trọng dụng. Tốt lắm, tốt lắm! Dương Lăng kinh ngạc: - Bách Hy Viên? Đại nhân, đó là nơi nào vậy? Trương Tú thoáng sững người, rồi phá lên cười nói: - Ha ha, là bổn quan lỡ lời. Khục khục! Đương kim Thái tử còn nhỏ, ham thích mấy trò mới lạ trong chốn đông cung, ha ha,… Vương công đại thần trong triều thường gọi đông cung là Bách Hy Viên (nơi có nhiều trò vui chơi đùa nghịch – ND.), cho nên bản quan nhất thời cũng thuận miệng. Dương Lăng toát mồ hôi hột, vội khiêm tốn nói: - Đại nhân quá khen rồi, hạ quan chỉ là một tên tú tài, có thể làm Thái tử thị độc đã thấy được yêu quá mà sợ rồi, nào dám hy vọng xa vời! Trương Tú mỉm cười nói: - Anh hùng chẳng ngại xuất thân hèn, hơn nữa ngươi phải biết rằng Thái phó, Thị giảng của Thái tử hiện giờ đều có xuất thân đại học sỹ, học sỹ, nhưng khi thái tử đọc sách, trước giờ lại chưa từng có một Thị độc. Thế mà hôm nay Thái tử lại thích ngươi, cầu xin bệ hạ triệu ngươi vào kinh, đông cung ưu ái ngươi, bệ hạ lại ưu ái đông cung, tức là bệ hạ đã ưu ái ngươi rồi. Ngày mai yết kiến, bệ hạ sẽ ban cho ngươi xuất thân đồng tiến sỹ, sau này ngươi không thể coi mình là tú tài nữa. Dương Lăng lắp bắp: - Đại nhân! Hạ quan ngu muội, vẫn không hiểu vì lẽ gì mà một dịch thừa nho nhỏ ở Kê Minh như hạ quan lại có thể lọt vào mắt xanh của bệ hạ, được lên kinh làm Thị độc vậy? Trương Tú nghe vậy thì phá ra cười lớn, hết sức vui vẻ vỗ bàn đáp: - Lọt vào mắt xanh của bệ hạ? Nào chỉ là lọt vào mắt xanh của bệ hạ! Tuy ngươi ở nơi xa xôi hẻo lánh, thế nhưng ngươi có biết bây giờ bộ Binh, bộ Công, nha môn Tam Pháp ty (9), nha môn Nội Quan, giám sát viện, Ngũ Quân đô đốc phủ, tất cả đều đang quây lại đánh nhau, một nửa quan viên của thành Bắc Kinh bị cuốn vào, tất cả là do Dương đồng tri nhà ngươi mà ra đó! Dương Lăng nghe xong cả kinh, thất thanh: - Cái gì? (1) Thuật ngữ Cờ Tướng chỉ một nước cờ sát cuộc. (2) Hai câu thơ trên được trích trong tập thơ Nhạc Phủ (thơ ca trong dân gian và âm nhạc, soạn theo thể cách những khúc nhạc trong nội phủ) "Bích Ngọc Ca". Bích Ngọc, nhân vật chính trong thành ngữ "tiểu gia bích ngọc" (con gái cưng), là thiếp của Nhữ Nam Vương Tư Mã Nghĩa đời Tấn. Bích Ngọc họ Lưu, nàng không đẹp xuất sắc, nhưng qua sự sủng ái của Nhữ Nam Vương đối với nàng, đoán chừng nàng rất dễ nhìn, rất có ý vị, và còn hát rất hay. Đáp ứng lời thỉnh cầu của Tư Mã Nghĩa, Tôn Xước đã sáng tác hai bài "Bích Ngọc Ca". Bài thứ nhất: Bích ngọc tiểu gia nữ, bất cảm phàn quý đức. Cảm lang thiên kim ý, tàm vô khuynh thành sắc. Dịch thơ - Tiểu Phong: Bích Ngọc khuê nữ tiểu gia Biết lòng chẳng xứng người ta đức tài. Ngàn vàng một tấm tình ai Thẹn mình nhan sắc nhạt phai kém người Bài hai: Bích ngọc phá qua thời, tương vi tình điên đảo. Cảm lang bất tu noản, hồi thân tựu lang bão. Dịch thơ - Tiểu Phong: Bích Ngọc đôi tám vừa tròn, Vì tình điên đảo chẳng còn biết chi. Mến chàng thiếp có ngại gì Quay người nép dưới thân kia trong lòng. (3) Phạn ngữ, ý tăng thêm phật lực để bảo hộ và phù trợ cho chúng sinh. (4) Tứ Hợp Viện là một kiểu kiến trúc điển hình ở Bắc Kinh. Tòa nhà gồm bốn dãy phòng ở các phía đông tây nam bắc, ở giữa là sân trống, cửa vào thường đặt ở phía nam. (5) Vệ sở là biên chế quân đội thời Minh, chia làm hai cấp: vệ và sở. Một phủ lập thành sở, nhiều phủ lập thành vệ. Vệ lập chỉ huy sứ, thống lĩnh năm nghìn sáu trăm binh sĩ. Dưới vệ có Thiên hộ sở (thống lĩnh một nghìn một trăm hai mươi người), dưới Thiên hộ sở lập Bách hộ sở (lĩnh một trăm mười hai quân). Vệ sở ở mỗi huyện phủ sẽ do đô chỉ huy sứ của các chỉ huy sứ ty quản lý, các đô chỉ huy sứ sẽ lại được quản lý bởi trung ương ngũ quân đô đốc phủ. (6) Y phục cao quý của quan lại, có thêu hoa văn hình con cá chuồn. (7) Sắc Mục là tên gọi của một địa vị xã hội dưới thời Nguyên. Trái ngược với sự tin tưởng của số đông, cụm từ Sắc Mục (hiểu nghĩa đen là "mắt màu") không ám chỉ bọn họ có "mắt màu" so với những người Nguyên-Mông mắt đen, mà thật ra, nó có nghĩa là "các sắc danh mục" (各 色 名 目 , nghĩa là "các loại tên gọi, danh mục"), ám chỉ sự đa dạng sắc tộc của người Sắc Mục. (8) Sông Rhine (hay Rhein) dài 1.320 km, là một trong những con sông lớn và quan trọng nhất châu u. (9) Tam Pháp Ty là sự kết hợp của Bộ Hình (Tư Pháp), Đô Sát viện (viện Giám sát) và Đại Lý tự (tòa Phá án) nhằm thẩm định các vụ án lớn (còn gọi là “Tam ty hội thẩm”). Triều Nguyễn cũng áp dụng cơ cấu tổ chức này để có những hoạt động cụ thể nhằm giải quyết thỏa đáng những điều khiếu nại của nhân dân.

Chương 54: Duyên nơi cửa phậtDịch: TheJoker Biên dịch: Vo vong Biên tập: Ba_Van Hiệu đính: Nguồn: www.tangthuvien.com - Hôm nay tiểu đệ cùng huynh cũng xem như thoáng gặp gỡ, không biết vì sao kiếp trước huynh đài quay đầu nhìn ta nhiều lần như thế? Chương 54 - Duyên nơi cửa phật Đề đốc Cẩm Y vệ Trương Tú mỉm cười nói: - Tiểu vương tử Thát Đát tập kích biên giới nước ta, đại quân hai ngả Trác huyện, Xích huyện đều có chiến tích, chỉ riêng cánh quân ở Hoài Lai là hao binh tổn tướng, khiến cho một vị đô ty tử trận, Giám quân Ngự sử Diệp đại nhân cũng bị loạn quân giẫm chết. Tam Pháp Ty phụng thánh dụ xem xét, cân nhắc định tội Hà tham tướng, không ngờ sau khi bị giải vào kinh, Hà tham tướng lại đem hết thảy tội khinh địch, liều lĩnh tiến quân đổ lên người Giám quân Diệp đại nhân và Lưu công công. Hà tham tướng là tướng lĩnh do bộ Binh tiến cử, nếu như Hà tham tướng bị trị tội, tự nhiên bọn họ sẽ khó tránh bị chỉ trích không biết dùng người. Cho nên bộ Binh ra sức bảo vệ Hà tham tướng, chỉ trích Giám quân đã không rõ việc dùng binh, lại can thiệp sai bậy. Lúc này đám Ngự sử ở Đốc Sát viện và nha môn Nội Quan đều không khỏi cùng mang lòng thù địch với bộ Binh, từ đó hai phe công kích nhau không ngừng. Nha môn của ty Nội Quan chẳng qua chỉ toàn là một đám thái giám, vốn không có ý kiến gì về mặt quân sự, nhưng khi hồi kinh, Lưu công công lại mang về một phong thư. Nói đến đây, Trương Tú quay sang Dương Lăng cười bảo: - Đó chính là phong thư mà ngươi đã gửi cho Hà tham tướng. Dương Lăng nói: - Vâng, hạ quan từng có chút ý kiến nông cạn dâng cho Hà tham tướng, nhưng không biết phong thư đó tại sao lại rơi vào trong tay Lưu công công vậy ạ? Trương Tú lắc đầu: - Nội tình trong đó ta cũng không rõ. Lưu công công là người hầu hạ bên cạnh Thái tử, trong cung y có một người bạn tốt tên là Trương Vĩnh (1). Vị công công này cũng biết một chút về quân sự, xem xong phong thư của ngươi thì coi như vật chí bảo, lập tức xúi bẩy ty Nội Quan hạch tội bộ Binh, chỉ trích rằng: “Sức chiến đấu của binh sĩ trong quân không mạnh, năng lực trinh sát kém, bộ Binh không biết cách cầm quân, đó mới chính là nguyên nhân dẫn đến thất bại.” Ha ha, bộ Binh tuy phụ trách điều binh khiển tướng, thế nhưng thường ngày việc luyện binh và thống lĩnh quân đội thực chất lại do Ngũ Quân đô đốc phủ phụ trách. Thế là như trút được gánh nặng, bộ Binh liền lôi Ngũ Quân đô đốc phủ vốn không hề liên quan vào cuộc. Bốn nha môn bắt đầu đấu đá lòng vòng như đèn kéo quân. Dương Lăng lắp bắp: - Chuyện này... Chuyện này... Hạ quan thật không ngờ có thể xảy ra nhiều rắc rối như vậy. Chỉ là ban nãy đại nhân có nói bộ Công cũng xen vào cuộc tranh cãi này, không biết chuyện dùng binh thì có liên can gì tới bộ Công vậy? Trương Tú đáp: - Không liên can, thật ra không hề liên can. Có điều trong phong thư của ngươi lại đề cập đến cái hay khi vận dụng hỏa khí cùng với tác dụng quan trọng của nó đối với chiến sự sau này. Bộ Binh có một chủ sự tên là Vương Thủ Nhân (2), y xem xong thư thấy rất tâm đắc. Tính mọt sách nhất thời phát tác, y bèn dâng lên Hoàng thượng Vạn Ngôn Thư, lời lẽ lưu loát, bàn nhiều về đạo trị quân, lại đề cập tới súng hoả mai của bản triều, yêu cầu phải cải tiến ngay. Trong tờ điều trần y cũng tỏ ra không hài lòng về việc quân đội phương bắc được trang bị quá ít súng ống. Theo bản đốc thấy, nội dung mà y tấu lên cũng đánh trúng chỗ yếu đương thời, chỉ là chọn thời điểm có phần không thích hợp. Nghe đến ba chữ Vương Thủ Nhân, Dương Lăng có cảm giác hơi quen quen, song nhất thời lại không nhớ ra được ông ta là ai. Có điều nếu y đã có ấn tượng, chắc hẳn lúc trước khi xem sách sử đã gặp qua. Mặc dù bây giờ Vương Thủ Nhân chỉ là một chủ sự nhỏ nhoi của bộ Binh, nhưng rất có thể sau này ông ta cũng sẽ trở thành một vị quan đạt được nhiều thành tựu, cho nên y thầm ghi nhớ trong lòng. Trương Tú lại kể tiếp: - Trong tình hình ấy bộ Công đâm lo sẽ bị những nha môn đang đùn qua đẩy lại kia sẽ đẩy trách nhiệm bại trận lên người bọn họ, thế là bèn quay qua phía Hoàng thượng kể khổ, nào là ngân lượng trích cấp không đủ, tố chất quân đội kém, súng hoả mai chế tạo không dễ... Trương Tú vuốt cằm ra điều nghĩ ngợi một hồi, rồi lấy làm rất thú vị nói tiếp: - Ừ... Sổ sách của bộ Công mới vừa trình lên đại nội hôm qua. Bản đốc đoán chủ quản vấn đề tiền lương của bộ Hộ mà nhận được tin tức xong, chắc sẽ lại biện hộ cho sổ sách đây. Dương Lăng nghe mà dở khóc dở cười, y thốt lên: - Sao lại có thể như vậy chứ? Hạ quan thật không ngờ lại nổi lên hồi phong ba thế này, sớm biết như vậy... phong thư đó không viết thì hơn. Trương Tú vươn vai, uể oải nói: - Ngươi bắt cua bao giờ chưa? Bỏ một bầy cua vào trong sọt, không cần phải đậy nắp lại nhưng cua vẫn không thể bò ra. Bởi vì chỉ cần có một con muốn bò lên, những con cua khác liền sẽ nhao nhao bám lên người nó, kết quả là nó bị kéo xuống. Rốt cuộc không một con nào có thể bò ra. Ha ha, trên quan trường xưa nay đều là như vậy, chẳng có gì lạ cả. Cho dù không có phong thư của ngươi, bọn họ cũng sẽ tự tìm những cái cớ khác đề đùn đẩy trách nhiệm cho nhau thôi. Chẳng qua lần này ngươi nhờ thế mà vớ bẫm. Giờ đây Lục bộ đều biết đến đại danh của ngươi, Thái tử nghe chuyện như thế liền đòi xem thư của ngươi, xem xong bèn đến chỗ bệ hạ xin người, muốn ngươi vào kinh làm Thị độc. Ha ha ha... Cười đã, vẻ mặt nghiêm túc trở lại, Trương Tú nói tiếp: - Cuộc đấu đá lòng vòng ấy không hề có can hệ gì với Cẩm Y vệ của ta. Ngươi có biết vì sao hôm nay bản đốc đặc biệt triệu kiến ngươi không? Dương Lăng đáp: - Xin đại nhân mách cho! Trương Tú trầm ngâm: - Cẩm Y vệ của chúng ta chuyên điều tra xử phạt văn võ bá quan cùng dân chúng cả nước, nằm độc lập ngoài Tam Pháp ty, mà Đông xưởng thì phụ trách giám sát bá quan và cả Cẩm Y vệ. Mỗi khi ty Bắc Trấn Phủ của ta nhận chiếu xử trọng án, Đông xưởng đều sai người dự thẩm. Có thể nói, quyền hạn của Đông xưởng còn cao hơn cả Cẩm Y vệ của chúng ta. Dương Lăng không biết lão ta nói mấy chuyện này để làm gì, trong lòng không khỏi có chút tò mò, lắng nghe lão nói tiếp: - Nhưng trong Cẩm Y vệ có rất nhiều quan chức là hậu nhân của các vị công thần, hơn nữa có rất nhiều quan viên của Đông xưởng vốn là quan quân được chiêu nạp từ Cẩm Y vệ của chúng ta, cho nên có thể nói là Đông xưởng và Cẩm Y vệ có quan hệ rất mật thiết. Nếu thật sự phải xét về thực lực, Cẩm Y vệ chưa hẳn đã sợ gì Đông xưởng. Cũng may một xưởng một vệ chúng ta xưa nay vẫn luôn luôn thuận hòa, trước giờ chưa từng xảy ra khúc mắc. Trương Tú liếc y rồi nói: - Từ cuối năm ngoái đến nay, bệ hạ dần cảm thấy long thể bất an... Những ngày gần đây, bệ hạ có ý mở lại Tây xưởng để giám sát Đông xưởng và Cẩm Y vệ. Trước mắt ngài đang sai người bí mật gây quỹ, mà quan viên thì phần lớn là thu nạp từ trong quân đội, tự lập thành một hệ, hoàn toàn không liên can gì với Đông xưởng và Cẩm Y vệ. Dương Lăng nghe lão nói vậy thì chợt giật mình, suy nghĩ cẩn thận mới hiểu được ẩn ý trong lời của lão ta. Hoàng đế cảm thấy thân thể không tốt, đã bắt đầu lo tính cho người nối nghiệp. Tuy Đông xưởng và Cẩm Y vệ là hai tổ chức mà lão tin cậy nhất, nhưng quyền lực của họ lại quá lớn. Hơn nữa qua lời của Trương Tú, tuy xưởng có trách nhiệm giám sát vệ, song thật sự thì cả hai lại biểu hiện như người một nhà, cho nên Hoàng đế không yên tâm. Tây xưởng đang chuẩn bị được mở lại kia không điều một binh một tốt nào của Đông xưởng và Cẩm Y vệ, mục đích chính là nhằm hạn chế thế lực của hai tổ chức này, tránh cho tân đế đăng cơ sẽ bị mất quyền lực. Trương Tú lại nói: - Thái tử tuổi còn nhỏ, Cẩm Y vệ ta có trách nhiệm bảo vệ an toàn cho hoàng thất, sao có thể không để ý cẩn thận chứ? Nhưng bệ hạ đã có lòng nghi ngờ, giờ đây Đông xưởng và Cẩm Y vệ không thể không tránh được hiềm nghi, cho nên không tiện sắp đặt người bên cạnh Thái tử. Lúc này ngươi sắp được làm Thái tử Thị độc, tức là cận thần bên cạnh Thái tử, nên phải gánh lấy trách nhiệm này. Ngươi hiểu ý của bản đốc chứ? Dương Lăng làm gì mà còn chưa rõ dụng ý của lão? Cẩm Y vệ và Đông xưởng vui buồn có nhau, chung tay nắm quyền thế, giờ đây Tây xưởng sắp được thành lập, lấy việc giám sát cả hai làm nhiệm vụ, dĩ nhiên bọn họ sẽ không yên lòng để quyền lực bị tước mất. Hiện giờ những kẻ bên cạnh Thái tử chỉ là một đám thái giám, tuy rằng bọn chúng cũng là đối tượng có thể lôi kéo, nhưng những vị thái giám đang nắm quyền ở Đông xưởng đương nhiên không vui lòng bồi dưỡng ra một đám đồng loại mà sau này có thể sẽ tiếm đoạt quyền lực của mình. Dương Lăng lại chưa có gốc rễ trong triều, bồi dưỡng một người như y, cho dù sau này có lên như diều gặp gió thì y cũng sẽ không rời bỏ hai cây đại thụ Đông xưởng và Cẩm Y vệ. Hiển nhiên y là ứng viên thích hợp nhất. Nghĩ đến đây, Dương Lăng không khỏi nhấp nhổm không yên. Đối với một kẻ có tham vọng, loại cơ duyên cùng chỗ dựa vững chắc như vậy đương nhiên là trăm năm khó gặp một lần. Có điều trong tình hình ấy, một Thị độc nhỏ nhoi như y khó tránh sẽ trở thành cái gai trong mắt, cái dằm trong chân của một số kẻ khác, muốn an nhàn sống hết hai năm e chẳng dễ chút nào. Nghĩ được điểm mấu chốt trong đó, Dương Lăng không khỏi lo sợ bẩm: - Đa tạ đại nhân cất nhắc! Chỉ có điều, hạ quan... hạ quan tuổi còn trẻ, e rằng sẽ phụ sự tin cậy của đại nhân mất. Ánh mắt Trương Tú chằm chằm ghim vào người y một hồi lâu, đến khi trong lòng Dương Lăng nổi lên từng cơn ớn lạnh thì Trương Tú mới mỉm cười, đảo mắt thờ ơ nói: - Trên đời này, lớn nhất chính là Thiên tử, chỉ cần ở cạnh Thiên tử, không có chuyện gì là không thể. Đoạn lão mỉm cười, tiếp: - Nói đến Tây xưởng, ta lại nhớ đến một chuyện. Năm Thành Hoá thứ ba, Nam Man (3) nổi loạn, Bá tước Lý Cẩn và Thượng thư Trình Tín ở Tương Thành đốc quân thảo phạt, sau khi quét sạch loạn tặc đã bắt được vô số nam nữ. Bọn họ đưa đám nô lệ này về kinh thành chia tặng cho các vương hầu. Trong đám nô lệ này có một nam tử họ Uông và một bé gái họ Kỷ được đưa vào đại nội, nam tử bị thiến làm hoạn quan, bé gái được nạp làm cung nữ... Nói đến đây, lão nhìn qua phía Dương Lăng rồi cười khà khà hỏi: - Ngươi có biết hai người này về sau có tao ngộ như thế nào không? Rồi không đợi y trả lời, Trương Tú đã tự đáp luôn: - Mười năm sau, triều đình thiết lập Tây xưởng lần đầu tiên. Chỉ trong chốc lát, quyền lực của Tây xưởng đã khuynh đảo thiên hạ, vượt lên trên Đông xưởng và Cẩm Y vệ, mà xưởng công của Tây xưởng đó... họ Uông, tên Trực, chính là tên hoạn quan bị bắt nhập cung mười năm trước đó. Dương Lăng đã nghe nói về tên tuổi của Uông Trực, nghe vậy bèn "a" lên một tiếng. Trương Tú kể tiếp: - Còn bé gái họ Kỷ ban đầu làm cung nữ, rồi được thăng lên nữ quan, sau đó được phong làm Thục phi, về sau lại còn được phong làm Hoàng hậu, chính là thân mẫu của đương kim hoàng thượng hiện giờ. Lão vỗ tay, thở dài nói: - Tao ngộ như thế cũng thật là hiếm thấy! Nghĩ lại những tù binh bị bắt ở Đại Đằng Hạp (4) khi xưa, cho dù trên đường áp giải bị binh sỹ tuỳ ý đánh chết cũng không tính là gì. Ai có thể ngờ rằng trong đó có hai người đã đến được bên cạnh Thiên tử, có thể tạo nên câu chuyện oanh liệt về sau chứ? Lão mỉm cười rồi nói tiếp: - Ngươi xuất thân là kẻ đọc sách, đám quan văn đó coi ngươi như người của mình. Ty Nội Quan, Đốc sát viện và bộ Binh lại đều khá có hảo cảm với ngươi, sau lưng ngươi còn có Cẩm Y vệ và Đông xưởng cùng giúp đỡ, có thể nói là vô số cơ duyên. Chỉ cần có thêm được sự yêu thích của Thái tử, một khi Thái tử lên ngôi cửu ngũ, chính là lúc ngươi sẽ như rồng gặp mây, danh vang khắp gần xa! Dương đồng tri, ngươi còn muốn tự coi nhẹ mình không? Dương Lăng nhìn vào bộ mặt tươi cười "ân cần" đó của Trương Tú, dường như trông thấy cánh tay của Dương Bài Trường vung về phía trước, kêu lớn: - A Mễ Nhĩ, tiến lên! (5) **** "A Mễ Nhi" đã tiến lên, nhưng không phải tiến về phía tiền đồ xán lạn, mà là tiến về phía người vợ của y. Vừa rời khỏi ty Bắc Trấn Phủ của Cẩm Y vệ, thấy đèn sáng khắp nơi, Dương Lăng liền sực nhớ Ấu Nương vẫn còn ở nhà chờ mình, bèn lập tức nóng lòng trở về ngay. Mấy cái câu kiểu như "kim lân khởi thị trì trung vật, nhất ngộ phong vân tiện hóa long (6)" gì gì đó lập tức bị y dẹp qua một bên. Chỉ còn có hai năm nữa, thời gian quý báu biết bao nhiêu, cứ nên tập trung chăm sóc cho tiểu nương tử dễ thương của mình thì hơn. Kinh sư có hai hội chùa lớn, gọi là hội chùa đông và hội chùa tây. Hội chùa đông tổ chức tại chùa Long Phúc gần lầu Tứ Bài trên phố Đại Thị, được mở vào mùng chín và mùng mười hằng tháng. Hội chùa tây tổ chức tại chùa Đại Long Thiện Hộ Quốc (7) ở phố Hộ Quốc Tự, được mở vào mùng bảy và mùng tám hằng tháng. Hôm nay không phải là ngày hội chùa, nhưng hai con đường này bấy lâu đã hình thành nên khu thương nghiệp ổn định, quán trà, tiệm rượu, cửa hàng mọc lên san sát, vô cùng náo nhiệt. Sau khi ăn bữa cơm tối đầm ấm ở một quán ăn, Dương Lăng và Ấu Nương đi thẳng về phía chùa Hộ Quốc. Dĩ nhiên y không dẫn theo hai gã người ngoài Liễu Bưu và Dương Nhất Thanh. Kết quả là sau khi ăn xong bữa tối, từ trong ngõ đi ra , hai người lại đi nhầm lối, thế là đành phải hỏi thăm người đi đường. Những người đi đường nghe nói đôi phu thê trẻ này muốn đến chùa Hộ Quốc để dâng hương thì đều lộ vẻ ngạc nhiên, song vẫn chỉ đường cho bọn họ. Thì ra ngôi chùa mười gian rộng lớn rất có tiếng tăm này giờ đây đã biến thành một chùa Lạt-ma. Đối với những vị bồ tát hình dạng kỳ quái mà Lạt-ma thờ cúng, các vị nhân sĩ chốn kinh sư vốn vẫn luôn có suy nghĩ "kính quỷ thần nhi viễn chi" (7) nên cũng không dám lĩnh giáo lễ nghi dâng cúng của các vị Lạt-ma. Chỉ những khi có hội chùa, du khách mới vui vẻ bước vào bên trong ngoạn cảnh còn ngày thường rất ít người ghé thăm. Vì vậy hương quả trong ngôi chùa này rất lèo tèo, hoàn toàn không giống với cảnh hương quả hưng thịnh ở những chùa miếu khác. Nhưng người Hán không giống như những người phương Tây luôn vạch rõ giới hạn về tín ngưỡng tôn giáo. Đơn giản là anh có tín ngưỡng của anh, tôi có tín ngưỡng của tôi, tuyệt đối không vì anh thờ Nguyên Thủy Thiên Tôn, tôi thờ Phật Tổ Như Lai mà sẽ đánh nhau túi bụi, hay là cấm cản không cho con cái lấy nhau. Cho nên tuy người đi đường cảm thấy kỳ lạ khi cặp vợ chồng trẻ này muốn đi đến chùa Lạt-ma, nhưng cũng không ai làm khó bọn họ. Những năm gần đây, không ít nhà sư từ Thanh Khang Tạng (9), thậm chí từ ngoài sa mạc, đến tấn kiến triều đình Đại Minh. Bởi vì vùng đất của bọn họ được cai trị theo chế độ chính giáo hợp nhất (*), những Lạt-ma này vào chầu cũng giống như quan viên từ nơi đó vào triều yết kiến, rất được triều đình xem trọng. Cho nên Hoàng đề đã ban vài ngôi chùa cho những tăng lữ có lòng muốn ở lại Trung Nguyên, chùa Hộ Quốc là một trong số đó. (*): Chế độ cai trị mà nguyên thủ quốc gia và lãnh tụ tôn giáo cùng là một người, pháp luật được viết dựa theo giáo nghĩa của tôn giáo, dân chúng tôn thờ duy nhất một loại tôn giáo. Tuy rằng hương hoả không vượng, nhưng may nhờ triều đình cấp dưỡng, nhu yếu phẩm được cung cấp đúng hạn, cho nên cuộc sống của những vị Lạt-ma ở đây cũng không hề kham khổ. Bước vào cổng chính, Dương Lăng thấy trong chùa sáng choang. Mặc dù cũng có vài du khách, nhưng trông tuổi tác dường như phần lớn đều là những cụ già đi dạo mệt mỏi vào đây nghỉ chân, ngồi tán gẫu dưới hành lang. Còn ngay trước lối vào điện Kim Cương, tuy cửa điện rộng mở thế nhưng lại tĩnh mịch lạnh lẽo, không ai bước vào. Dương Lăng ngoái đầu nhìn, thấy Hàn Ấu Nương đang cách mình hơn ba thước, bẽn lẽn theo sau, trong lòng bất giác cảm thấy buồn cười, không nhịn được bèn trêu: - Nương tử, cùng đi trên phố mà cách xa như vậy để làm gì? Tướng công phải liên tục ngoái đầu nhìn nàng, sắp trẹo cổ rồi đây này. Hàn Ấu Nương xấu hổ đi đến bên cạnh y, khẽ trách: - Tướng công! Nói nhỏ chút đi mà, người ta nghe được sẽ cười cho đấy. Thiếp là nữ nhân, vốn không thể sóng vai bước ngang hàng với chàng mà. Dương Lăng cười lớn nói: - Được, vậy nàng cứ đi theo đằng sau đi. Phật dạy: “Kiếp trước ngoái đầu nhìn năm trăm lần mới có thể đổi được một lần thoáng gặp gỡ ở kiếp này.” Về sau nàng cứ đi theo tướng công mỗi ngày, tướng công không có gì làm sẽ ngoái đầu lại nhìn nàng một chút, nhìn đến năm ngàn, năm vạn lần, tranh thủ để kiếp sau vẫn làm phu thê. Ấu Nương cười thẹn lườm y, chưa kịp đáp lời thì một giọng cười "hắc hắc" khó nghe đột nhiên vọng lại, kế đó là tiếng nói: - Thuyết pháp này thật thú vị! Ta chỉ mới nghe nói rằng ”trăm năm tu duyên, nghìn năm tu phận, vạn năm tu duyên phận” mà thôi. Ngoái đầu lại nhìn, Dương Lăng trông thấy một thư sinh trẻ tuổi, mặt như thoa phấn, tay cầm một cây quạt thếp vàng đang nhìn y cười hì hì. Tiểu thư sinh này có vóc người cao hơn Ấu Nương một chút, mặt mày sáng láng, vận một bộ đạo bào (một loại trang phục áo dài chấm gót đời Minh - tác giả.), lưng buộc đai gấm, đầu đội mũ quả dưa (10), chóp mũ đính một viên thạch anh, trông thật khôi ngô tuấn tú. Tiểu thư sinh vừa mở miệng, cái tiếng vịt đực khó nghe trong thời kỳ bị vỡ giọng lại ồ ồ vang lên: - Có điều, không biết cái ”ngoái đầu nhìn năm trăm lần” của vị huynh đài đây là điển cố trong bộ kinh văn nào vậy? Là Tam Quy Ngũ Giới Từ Tâm Yếm Ly Công Đức kinh, A Di Đà Phật m Vương Đà La Ni kinh? Hay là Tứ Thập Nhị Chương kinh vậy? Nói đoạn y bung cây quạt thếp vàng dùng làm trang sức kia ra đánh xoạch, khẽ quạt quạt mấy lượt, dáng vẻ khá là tiêu sái. Kế đó y lại cảm thấy chán nên gấp quạt lại, rồi hỏi: - Hôm nay tiểu đệ cùng huynh cũng xem như thoáng gặp gỡ, không biết vì sao kiếp trước huynh đài quay đầu nhìn ta nhiều lần như thế? (1) Trương Vĩnh (1465 - 1529), Ngự dụng giám thái giám, tự là Đức Duyên, biệt hiệu "thủ am". Đầu những năm Hồng Vũ, ông cố nội của ông ta dời đến Tân Thành, Bảo Định (nay là huyện Tân Thành tỉnh Hà Bắc), trở thành người Tân Thành. Năm Thành Hoá thứ mười một (1475), ông ta được chọn vào cung, vào cung Càn Thanh hầu hạ cho vua Hiến Tông, năm đó ông ta gần mười tuổi. Sau đó ông ta được thăng chức làm Nội quan giám hữu giám thừa. Năm Thành Hoá thứ mười ba (1487), Hiến Tông qua đời, Hiếu Tông điều ông ta đến Mậu Lăng ty. Năm Hoằng Trị thứ chín (1496), ông ta được điều vào đông cung hầu hạ cho Thái tử Chu Hậu Chiếu, tức Vũ Tông sau này. Năm Hoằng Trị thứ mười tám (1505), Vũ Tông kế vị, điều chuyển Trương Vĩnh làm Ngự mã giám tả giám thừa, không lâu sau thăng làm Ngự dụng giám thái giám. Trương Vĩnh tấu sớ xin cố thái giám Ngô Trung nhượng lại điền trang rộng đến bảy dặm. Bộ Hộ chỉ trích ông ta vi phạm cấm lệnh, cần phải điều tra trừng trị, song Vũ Tông lại chiếu lệnh cho Trương Vĩnh quản lý tài sản. (2) Vương Thủ Nhân(1472-1529), người Dư Diêu, Chiết Giang, tự là Bá An, hiệu Dương Minh Tử, đời gọi là Dương Minh tiên sinh, học giả đồng liêu gọi là Vương Dương Minh. Ông là nhà tư tưởng, triết học, văn học và quân sự nổi tiếng nhất thời Minh, là người đã thu thập để viết nên tập Lục Vương Tâm Học. Chẳng những tinh thông Nho gia, Phật gia, Đạo gia, mà ông còn có thể lĩnh binh chinh chiến, là nhà thông thái toàn năng hiếm thấy trong lịch sử Trung Quốc. Ông được phong là "tiên Nho", pho tượng thờ thứ 58 trong miếu thờ Khổng Tử. (3) Nam Man (nghĩa là "người man rợ phương nam") là từ miệt thị trong lịch sử Trung Quốc để chỉ các bộ lạc nổi loạn phía tây nam của Trung Quốc. Từ này xuất hiện sau khi có vương quốc Tam Miêu hùng mạnh vào thế kỷ thứ ba trước Công nguyên do người Miêu dẫn đầu. Trong thời kỳ Tam Quốc, người Miêu dưới sự lãnh đạo của Mạnh Hoạch đã nhiều lần nổi lên chống lại Thục Hán, sau khi Mạnh Hoạch bị Gia Cát Lượng bắt và thả bảy lần đã quy phục Thục Hán. Nam Chiếu thường xuyên cống nộp thông qua Kiếm Nam Tiết Độ Sứ. (theo wikipedia) (4) Đại Đằng Hạp là hẻm núi (hạp cốc) rộng lớn và dài nhất trong phạm vi Quảng Tây, trở thành khu vực giao tranh của binh gia tự cổ chí kim. Cuộc khởi nghĩa nổi tiếng của dân tộc người Dao ở thời Minh đã bùng nổ ở nơi đây, kéo dài trên hai trăm năm. Từ đầu những năm Hồng Vũ (~1375) đến năm Thiên Khải (1621 - 1627), Vương triều nhà Minh lần lượt đưa trọng binh trấn thủ, trấn áp cuộc khởi nghĩa của người Dao. (5) nguyên văn "A Mễ Nhĩ, xung!" đây là câu nói thịnh hành lấy từ trong bộ phim truyền hình nổi tiếng Trung Quốc "Người khách lên Băng Sơn". Trong phim, khi A Mễ Nhĩ cùng Cổ Lan Đan Mỗ trùng phùng, y đã không dám chạy tới ôm cô. Thấy tình hình như vậy, Dương Bài Trường đã ra lệnh: "A Mễ Nhĩ, tiến lên!" Thời nay, nó được dùng như một câu khích lệ. Khi một thanh niên nhìn trúng một cô gái nào đó nhưng lại không đủ can đảm theo đuổi, bạn bè cậu ta sẽ đồng thanh cổ vũ bằng câu: "A Mễ Nhĩ, tiến lên!" (6) "Lân vàng há phải vật trong ao, nếu gặp phong vân sẽ hóa rồng" - trích câu nói nổi tiếng trong bộ phim Phong Vân. Nhưng thật ra câu "Kim lân khởi thị trì trung vật" lại bắt nguồn từ bài thơ trong tập "Tinh Học Đại Thành" của Vạn Dân Anh, thời Minh. Thơ rằng: Nguyệt không chi nhân diệc hãn phùng, (月空之人亦罕逢) Na kham quan quý tại kì trung; (那堪官贵在其中) Kim lân khởi thị trì trung vật, (金鳞岂是池中物) Bất nhật thiên thư hạ cửu trùng (不日天书下九重) (7) Chùa Hộ Quốc lấy tên đặt trong vùng vào thời Nguyên đặt cho. Năm Tuyên Đức thứ tư (1264-1295) đổi tên thành chùa Đại Long Thiện. Năm Thành Hóa thứ tám (1472) được ban tên chùa Đại Long Thiện Hộ Quốc. Vì chùa tọa lạc ở phía tây thành Bắc Kinh, cho nên người Bắc Kinh xưa còn gọi nó là "chùa Tây". (8) Thành ngữ này có nguồn gốc từ một câu nói của Khổng Tử trong "Luận ngữ - Ung dã" (論語•雍也): Vụ dân chi nghĩa, kính quỷ thần nhi viễn chi, khả vị tri hĩ ( 務民之義,敬鬼神而遠之,可謂知矣� � ) Tạm dịch như sau: Làm việc nghĩa, có ích cho dân, tuy phải kính trọng quỷ thần nhưng không cầu cạnh quỷ thần, mà nên tránh xa quỷ thần, đó là trí. Có thể nói rằng, "Kính nhi viễn chi" chính là cách nói rút gọn từ câu "Kính quỷ thần nhi viễn chi"( 敬鬼神而遠之). Ngày nay, trong tiếng Việt, thành ngữ "kính nhi viễn chi" thường được dùng trong các trường hợp: Bề ngoài tỏ ra kính nể, tôn trọng một đối tượng nào đó, nhưng trên thực tế không muốn tiếp cận, gần gũi với đối tượng đó; hoặc thường dùng trong các trường hợp mỉa mai, châm biếm khi mình không muốn tiếp cận với một đối tượng nào đó. (theo wikipedia) (9) Thanh Khang Tạng chỉ cao nguyên Thanh Tạng, vùng cao nguyên cao nhất thế giới ở châu Á. Vắt qua khu tự trị Tây Tạng, toàn bộ tỉnh Thanh Hải và khu tự trị Duy Ngô Nhĩ, Tân Cương, tỉnh Cam Túc và một phần tỉnh Tứ Xuyên và Vân Nam. (10) Tên thông dụng của "lục hơp nhất thống mạo", một loại mũ đội được người dân trong kinh thành dùng nhiều. Mũ hình bán nguyệt dùng sáu miếng vải lụa ghép thành. (xem hình http://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/2/2e/Ming_dynasty_man.jpg)

Chương 55: Giáo sỹ Tây DươngDịch: TheJoker Biên dịch: Vo vong Biên tập: Shandian Hiệu đính: Nguồn: www.tangthuvien.com - "Khắp dưới gầm trời, chẳng chỗ nào không phải đất của vua. Trong cả bốn bể, chẳng một ai không là bề tôi của vua." Chương 55 - Giáo sỹ Tây Dương Dương Lăng dời mắt, thấy bên cạnh tiểu công tử trắng ngần này là một vị trung niên đầu đội mũ mềm, vận quan phục ống tay rộng. Người này da dẻ trắng trẻo, khí chất ung dung, tướng mạo giống tiểu công tử kia đến bảy tám phần, có lẽ là một cặp cha con. Có điều vị văn sỹ trung niên này dáng người mập mạp hơn, tháng hai đầu xuân khí trời vẫn lạnh lẽo, ấy vậy mà trên da thịt nhẵn nhụi của ông ta lại lấm tấm mồ hôi. - Chuyện này... Dương Lăng có phần lúng túng. Thật tình thì y không hề biết câu nói đó có thật sự bắt nguồn từ kinh phật hay không, nhưng vừa nghe tiểu thư sinh kia một hơi kể ra mấy bộ kinh phật mà mình chưa hề nghe qua thì biết ngay người ta mới đúng là kẻ đọc sách, hơn nữa hiểu biết về phật học rất sâu. Y nào dám đối đáp bậy bạ, chỉ đành cười trừ nói: - Ờ... Chuyện này, hà hà, tại hạ thích đọc sách nhưng lại không ham mê tìm tòi nghiên cứu, thật sự không nhớ ra được đó là điển cố trong bộ kinh thư nào. Tiểu thư sinh nọ đảo cặp mắt đen tròn của mình, rồi đột nhiên cười ranh mãnh nói: - Ta hiểu rồi, vị huynh đài này vốn là thuận miệng nói bừa để chọc cho nương tử được vui, quả nhiên cơ trí! Bội phục! Bội phục! Người trung niên đứng cạnh bên cười lớn nói: - Con chớ có ăn nói lung tung! Tuy là mở miệng trách móc, nhưng giọng ông ta lại rất nhẹ nhàng, cả khuôn mặt toát lên vẻ hiền hậu của người cha, hiển nhiên là rất cưng chiều con mình. Tiểu thư sinh không phục nói: - Vốn dĩ là vậy mà. Tỷ tỷ, tướng công nhà tỷ có phải là thường hay nói bậy nói bạ để tỷ được vui không? Hàn Ấu Nương đỏ mặt, khẽ xì một tiếng, ánh mắt ngọt ngào liếc nhìn Dương Lăng, tình cảm dịu dàng muốn che giấu cũng không được. Người thiếu niên vỗ tay cười nói: - Trăng hoa đón gió vui xuân mới, hàng liễu bên cầu đắm khói sương (1), đẹp thì đẹp đấy, nhưng làm sao có thể sánh được với vẻ đẹp 'mày tựa núi xuân, mắt như thu thuỷ' của nữ tử khi chìm trong bể tình? Lúc tỷ tỷ nhìn tướng công nhà mình, nụ cười thật xinh, thật ngọt! Có điều đệ thấy tướng công nhà tỷ tướng mạo anh tuấn, tài hoa hơn người, nhất định là rất giỏi cưng nựng người khác. Tỷ tỷ phải trông chừng cẩn thận, kẻo không huynh ấy lại đi trêu hoa ghẹo nguyệt đấy! Hàn Ấu Nương hứ một tiếng, nhưng vừa định cất lời phản bác thì chợt nhớ đến Mã Liên Nhi. Người con gái xinh đẹp đó, mình là thiếu nữ mà nhìn còn thấy tim đập thình thịch, thế nhưng lại cam tâm tình nguyện đi theo Dương Lăng làm tiểu thiếp. Nói không chừng tướng công thật sự rất giỏi cưng nựng người khác, khiến cho con gái nhà người ta bị mê hoặc rồi trao tim cho chàng. Vừa nghĩ nàng vừa liếc nhìn Dương Lăng với vẻ ai oán. Người văn sỹ trung niên kia cười lớn, xoa đầu con mình rồi trách: - Nói xàm! Dứt lời ông ta quay sang Dương Lăng chắp tay cười nói: - Vị công tử này, con ta tính tình bướng bỉnh, mong công tử thứ lỗi cho! Dương Lăng vội đáp: - Không dám, không dám. Lệnh công tử thông minh lanh lợi, học thức hơn người, như ngọc trong đá, tương lai nhất định sẽ có tài làm Trạng Nguyên. Tiểu thư sinh nọ nghe xong, vẻ mặt như cười mà không phải cười, thần sắc hơi cổ quái. Dương Lăng thấy vị trung niên kia không xưng họ tên cũng không có ý trò chuyện với mình, bèn cáo từ: - Tại hạ phải cùng nương tử vào miếu dâng hương, thứ lỗi không hầu chuyện được! Văn sỹ trung niên cười nói: - Không sao cả, công tử xin cứ tự nhiên! Dương Lăng vừa mới kéo Ấu Nương bước dọc theo hành lang mấy bước, tiểu công tử nọ đột nhiên lại gọi với theo: - Này, huynh đài, huynh vẫn chưa nói vì sao kiếp trước lại quay đầu nhìn ta hơn năm trăm lần đó nhé. Dương Lăng quay đầu cười nói: - Chuyện này... Chỉ có hai loại người có thể khiến ta liên tục ngoái đầu lại nhìn: một là giai nhân tuyệt thế vô song, hai là loại vô lại nợ tiền không trả. Không biết tiểu huynh đệ ngươi là loại người nào? Nói xong y cười lớn rồi kéo Ấu Nương rảo bước bỏ đi. Tiểu thư sinh vỗ cây quạt nhỏ thếp vàng, nghiêm túc cân nhắc một hồi lâu: - Gì thế nhỉ... Tuyệt thế giai nhân? Không ổn. Vô lại nợ tiền... Hình như cũng không ổn. Ai da, tiểu tử này chơi mình! Ngẫm ra được ý xỏ xiên, tiểu thư sinh bèn hậm hực cất bước đuổi theo. Văn sỹ trung niên không kịp ngăn lại, chỉ đành lắc đầu cười, khẽ đưa tay vẫy một cái. Trong hành lang, hơn mười hán tử trước đó vốn trông như những du khách đứng ở xung quanh lần lượt hiện thân, lặng lẽ đi theo ông ta. Văn sỹ trung niên chậm rãi đi theo sau con trai. Một lão bộc ăn mặc như gia nhân bước đến bên cạnh dìu ông ta, nhỏ giọng nói: - Lão gia, sắc trời không còn sớm nữa, chúng ta hãy quay về thôi! Văn sỹ trung niên mỉm cười bảo: - Ha ha, đứa nhỏ này ngày thường ngay cả một người bạn chơi cùng cũng không có, hiếm khi có được người cãi vặt cùng thế này, cứ để nó chơi thêm một chút đi! Lão bộc gật đầu, khom lưng dìu vị trung niên hơi mập mạp này vất vả bước vào điện Kim Cương. Bỗng nhiên từ phía điện Thiên Vương ở gian sau vang đến những âm thanh huyên náo. Vẻ mặt người văn sỹ trung niên chợt trở nên căng thẳng, chân bước nhanh hơn, giọng lo lắng: - Mau đi xem, đã xảy ra chuyện gì vậy? Băng qua sảnh điện, chỉ thấy trước điện Thiên Vương có vài nhà sư Tây Tạng mặc hồng bào, đội mũ cao đang đứng trên nguyệt đài (*), phía dưới có năm người mặc trường bào đang đứng, còn một người nằm dưới đất, hai bên đang cãi nhau ầm ỹ. (*): bục có mặt chính nhô ra phía trước, ba mặt đều có bậc lên xuống. Tiểu thư sinh, Dương Lăng và Ấu Nương đứng cùng một chỗ ngóng cổ xem náo nhiệt. Sáu, bảy hán tử tráng kiện đứng chung quanh bọn họ, có vẻ như cũng là du khách xem náo nhiệt, song lại ngầm vây bọn họ vào giữa để bảo vệ. Trên đài, những nhà sư Tây Tạng bô lô ba la quát tháo. Dưới đài, những người mặc trường bào thân hình dong dỏng cao cũng vung tay múa chân, to tiếng biện hộ bằng một thứ ngôn ngữ kỳ lạ, bộ dạng trông cực kỳ giận dữ. Lúc Dương Lăng nhìn thấy trên nguyệt đài là mấy nhà sư Tây Tạng thì đã biết hôm nay vào nhầm cửa chùa, tiếp đó khi thấy mấy người đàn ông mặc trường bào đứng cạnh đỉnh đồng bên dưới bục đài đều là người Tây Dương mũi cao, mắt xanh, thì lại càng cảm thấy kỳ quái hơn. Hai tốp người nước ngoài "ông nói gà bà nói vịt", cãi lộn nhặng xị một hồi lâu, một người Tây Dương dáng cao gầy trong đám người ở dưới bục đài đột nhiên bước ra, mặt đỏ gay, căng họng la lên: - "Khắp dưới gầm trời, chẳng chỗ nào không phải đất của vua. Trong cả bốn bể, chẳng một ai không là bề tôi của vua." (2) Các người đuổi bọn ta đi là không đúng lý! Vị tiểu công tử kia cùng phụ thân đưa mắt nhìn nhau, không nhịn được bật cười. Nhà sư Tây Tạng trên bục cũng hầm hầm nói bằng tiếng Hán: - Không phải là bọn ta... không thu nhận các người. Nhưng đám hòa thượng Tây Dương các người ý đồ không tốt, đem người mắc bệnh đến đây, sẽ lây nhiễm. Người Tây Dương ở dưới bục đài lắc đầu lia lịa: - Không, không, không. Bệnh mà y mắc không phải là ôn dịch, sẽ không lây nhiễm đâu. Người hai bên đều dùng thứ tiếng Hán giả cầy của mình tranh cãi qua lại, mấy người Dương Lăng đứng ở cạnh bên lúc này mới lờ mờ đại khái hiểu ra được. Thì ra mấy người Tây Dương này là nhà truyền giáo đến từ Phật Lăng Cơ (tên gọi Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha ngày xưa), đã lăn lộn ba năm ở Đại Minh, mấy ngày trước vừa mới thành công thu được một tín đồ đầu tiên của bọn họ ở đất này, đó là một tên ăn mày mắc phải bệnh nan y, toàn thân lở loét, phập phù thoi thóp, thế là liền như đoạt được chí bảo mang y về chùa Hộ Quốc mà mình đang ở nhờ, một mặt chăm sóc y, mặt khác đem giáo lý Thiên Chúa giáo truyền bá. Những nhà sư Tây Tạng lo bệnh tật của kẻ này sẽ lây nhiễm, thương lượng mấy lần vẫn không có kết quả, bèn đuổi bọn họ ra khỏi cửa. Dương Lăng thấy người mà đám truyền giáo nước ngoài này cứu trợ là người Hán, tuy rằng có phần vì tư lợi, muốn phát triển giáo đồ, nhưng cũng tính là một việc thiện, liền bước lên giúp họ cãi lý. Nhưng mấy nhà sư Tây Tạng kia căn bản bất chấp lý lẽ, không hề có lòng từ bi của người cửa phật. Tiểu thư sinh cùng phụ thân thì thầm mấy câu, kế đó ngoắc tay gọi một người hầu lại nhỏ giọng căn dặn. Người hầu đó chạy lên nguyệt đài, nói mấy câu với một Lạt ma chấp sự. Vị Lạt ma chấp sự đó nghe nói vị thiện nhân dưới đài muốn quyên góp ba nghìn lạng bạc tiền hương hoả thì mặt mày lập tức tươi roi rói, ngay lập tức đáp ứng yêu cầu thu nhận mấy nhà truyền giáo Tây Dương kia. Ngôi chùa to lớn này có tới hơn mười gian, muốn an bài một khu phòng độc lập nho nhỏ cho mấy người kia đương nhiên không thành vấn đề. Hôm nay bọn họ chuyện bé xé ra to, muốn đuổi mấy người Tây Dương này đi, nguyên nhân thật sự là vì tuy trong con mắt người Hán thì đám sư sãi Lạt Ma cố nhiên là kỳ quái, nhưng trong mắt các nhà sư này thì những hòa thượng tóc vàng mắt xanh kia còn là những kẻ man di mọi rợ ăn thịt người chưa được khai hóa. Có được chỗ nương thân, đám truyền giáo vui sướng không thôi, nhao nhao hướng về vị đại thiện nhân và Dương Lăng - người đã lên tiếng cất lời chính nghĩa - tỏ lòng cảm ơn rối rít, rồi sau đó họ tới chỗ ở cũ đem chăn đệm, rương hòm đưa vào hậu viện. Người Tây Dương vóc dáng cao nhất có vẻ như thủ lĩnh của tốp giáo sỹ nọ không ngừng dùng thứ tiếng Hán hết sức kém cỏi của mình để tỏ lòng cảm tạ với Dương Lăng và tiểu thư sinh. Dương Lăng rất tò mò về những nhà truyền giáo này. Trong ấn tượng của y, các nhà truyền giáo Tây Dương đến Trung Quốc trong thời kỳ đầu vẫn khá văn minh và chính trực, thật sự xuất phát từ tín ngưỡng tôn giáo cuồng nhiệt nên mới không ngại gian khổ đến phương Đông xa xôi truyền đạo, cho nên khi trò chuyện với bọn họ y luôn rất khách sáo. Những nhà truyền giáo này nhận mệnh lệnh của Tòa thánh đến phương Đông truyền giáo, đi đến đâu cũng gặp trắc trở, có rất ít người chịu để ý đến bọn họ. Lúc này thấy Dương Lăng chủ động bắt chuyện, nhà truyền giáo đó rất hưng phấn, lập tức lắp bắp tự giới thiệu hành trình đến đây của mình. Thì ra nhà truyền giáo này tên là Sa Tư Các, y và mấy mươi vị giáo sỹ nhận chỉ lệnh của giáo hội Da-tô (Jesus) Phật Lăng Cơ tổ chức thành đoàn đến phương Đông truyền giáo. Ban đầu họ đến được Ấn Độ, nhưng ở đó truyền bá giáo lý lại rất khó khăn và nguy hiểm, một vài giáo sỹ còn vì bất đồng tôn giáo mà đã bị người dân bản xứ đánh chết. Sau đó bọn họ nghe nói đi tiếp về phía đông có một quốc gia còn hùng mạnh và văn minh hơn, thế là bọn họ rời khỏi Ấn Độ, xuôi theo đường biển để đến Đại Minh, kết quả khi đội thuyền đến Malacca (3) thì bị quân đội nơi đó bắt giữ. Về sau bọn họ mua chuộc lính canh, thông qua thương nhân bản xứ lén vượt biên đến Nhật Bản, sau khi lưu lại vài giáo sỹ ở đó, năm người còn lại đi thuyền tới vùng Giang Chiết, rốt cuộc đã đến được Đại Minh. Nhưng muốn truyền bá giáo lý Phúc m của Thiên Chúa giáo tại vùng đất của người Hán này rõ ràng là có chút khó khăn. Đối với dân chúng thì một vị thần bẻ xương đàn ông để tạo ra đàn bà hiển nhiên là không thần thông quảng đại bằng Nữ Oa nương nương nặn đất thành người. Hơn nữa vị thần Tây Dương kia còn không dạy cho đôi nam nữ đáng thương biết thế nào là liêm sỉ lễ nghĩa, cả ngày để cho bọn họ trần truồng lang thang trong vườn cây ăn quả. Thứ thần chẳng đâu vào đâu này hiển nhiên không có sức hấp dẫn như Phật Tổ Như Lai từ bi hoà nhã và Thái Thượng Lão Quân có thể hàng yêu phục ma rồi. Cho nên năm nhà truyền giáo này lăn lộn vất vưởng hơn hai năm ở vùng Giang Chiết mà không kiểm nổi một tín đồ, bất đắc dĩ đành phải đến kinh sư, hy vọng có thể được hoàng đế Đại Minh triệu kiến để có cơ hội truyền đạt giáo lý ở Đại Minh. Để người Hán có thể tiếp nhận dễ dàng hơn, giờ đây bọn họ đổi sang mặc trường bào, học Tứ thư Ngũ kinh. Để phù hợp với quan niệm "Trời tròn Đất vuông" (4) của người Trung Quốc, họ thậm chí đã vẽ lại một phần bản đồ thế giới mà mình mang theo, đặt vị trí của Trung Quốc ở chính giữa, có thể nói là đã dốc sạch vốn liếng ra rồi. Đáng tiếc quan viên bộ Lễ nghe nói bọn họ không phải là sứ giả đại diện cho tiểu bang dị quốc đến yết kiến thiên triều thì đã đuổi bọn họ đi ngay, đến giờ còn chưa gặp được Hoàng đế mà bọn họ đã sắp trở thành ăn mày rồi. Tiểu thư sinh nọ nghe xong cảm thấy khá thú vị, không nhịn được bèn chen miệng vào: - Quốc gia của các người ở đâu? Rộng chừng nào vậy? Sa Tư Các lắp bắp nói: - Ở phương Tây, rất xa rất xa, phải ngồi thuyền rất rất lâu. Quốc gia của chúng tôi vốn cực kỳ nhỏ, còn không lớn bằng vùng Giang Chiết, nhưng hai mươi năm trước nữ vương Castilla thành hôn cùng quốc vương Aragón (5) của chúng tôi, hai nước đã sát nhập lại. Đất nước của chúng tôi bây giờ đã lớn hơn rất nhiều, còn lớn hơn vùng Giang Chiết một chút. (1) Nguyên văn: Thiên địa gian hoa nguyệt xuân phong, họa kiều yên liễu "Thiên địa gian" là giữa trời đất, "hoa nguyệt xuân phong" là trăng hoa và gió xuân, "họa kiều" là một loại cầu được trang hoàng lộng lẫy, "yên liễu" là nhành liễu giữa làn sương sớm. HieuSol phỏng dịch : Gió xuân thắm đượm trăng hoa, Bên cầu tơ liễu sương nhòa mắt ai. (2) Nguyên văn "Phổ thiên chi hạ, mạc phi vương thổ. Suất thổ chi tân, mạc phi vương thần" trích từ bài "Bắc sơn", phần Tiểu nhã trong Kinh Thi. Kinh Thi gồm 311 thiên, chia làm ba phần lớn: Phong (Quốc phong), Nhã, và Tụng. Trong đó, Nhã, nghĩa là đính chính, gồm những bài hát nơi triều đình, được chia làm 2 phần: Tiểu nhã và Đại nhã. Tiểu nhã bao gồm những bài dùng trong trường hợp không quan trọng lắm như các buổi yến tiệc (74 thiên). (3) Malacca hay còn gọi là Malaka (phiên âm Mã Lục Giáp), là một cựu quốc gia tại Đông Nam Á, chịu ảnh hưởng Hồi giáo, được thành lập năm 1402, đến năm 1511 thì bị người Bồ Đào Nha chiếm. (4) Kỳ thực học thuyết cổ đại Trung Quốc “Trời tròn Đất vuông” tuyệt đối không phải là một khái niệm về mặt địa lý, mà nói về một loại Đạo, một loại quy luật, một loại văn hóa. Trời tròn biểu tượng cho "Đạo Trời viên dung", chính là sự hài hòa và quy luật tuần hoàn của vũ trụ. Đất vuông cũng giống như Đạo làm người, giảng rõ ra chính là đức tính ngay thẳng, trung dung, hành động có quy phạm, đây mới là giá trị chân chính mà câu nói: “Thiên viên Địa phương” hằng biểu hiện – “Thiên nhân hợp nhất”. (5) Aragón, Castilla, Leon và Navarre đã làm nên nền tảng của đất nước và đế chế Tây Ban Nha hiện nay. Năm 1469, ngai vàng của hai vương quốc đạo Cơ đốc là Aragón và Castilla đã được hợp nhất bởi lễ cưới giữa vua Fernando II của Aragón và nữ hoàng Isabel I của Castilla. Năm 1492, vương quốc hợp nhất đã chiếm đóng Granada, chấm dứt 781 năm cai trị của người Hồi giáo tại bán đảo Iberia. Vua Fernando và nữ hoàng Isabel đã củng cố vững chắc hệ thống quyền lực trung ương, đồng thời cái tên España (Tây Ban Nha) bắt đầu được dùng để chỉ vương quốc hợp nhất. Với những cải cách lớn về chính trị, pháp luật, tôn giáo và quân đội, Tây Ban Nha đã vươn lên trở thành một cường quốc trên thế giới. (theo wikipedia)

Chương 56: Đêm mê lyDịch: TheJoker Biên dịch: Vo vong Biên tập: Shandian Hiệu đính: Nguồn: www.tangthuvien.com Nhưng Dương Lăng không chút nghi ngờ rằng mặc dù Ấu Nương không biết và cũng sẽ không nói câu thề đó, nhưng không những nàng đang thực hiện nó, mà sẽ còn mãi tiếp tục làm như vậy. Chương 56 - Đêm mê ly Tiểu thư sinh không nhịn được bèn cười nói: - Phí hơi cả ngày trời, vẫn chỉ là một vùng Giang Chiết thôi mà. Làm sao ở đó các ngươi có thể để cho phụ nữ làm quốc vương được nhỉ? Bà ta cưới người khác thì lấy cả quốc gia đem làm của hồi môn à? Dương Lăng cười nói với y: - Quốc gia phương tây đúng là có thể để cho phụ nữ làm vua. Ngươi chớ thấy quốc gia Phật Lăng Cơ bé nhỏ mà lầm, hải quân của bọn họ rất hùng mạnh, hiện tại có thể nói là tung hoành bốn biển, gần như không có đối thủ. Ở nơi đó, bọn họ có một loại hoạt động nổi tiếng nhất gọi là đấu bò tót, thú vị hơn nhiều so với mấy trò đá gà chọi dế của bọn trẻ con Đại Minh chúng ta. Đấu sỹ bò tót tài giỏi có thể một kiếm đâm xuyên tim một con bò đực khổng lồ nặng cả nghìn cân. Sa Tư Các trở nên hưng phấn, vội nói: - Thật khó tin! Ngài đã đến quốc gia của chúng tôi sao? Ở Đại Minh có rất ít người biết tới chuyện ở nước chúng tôi. Lạy Chúa, thậm chí có người nói ở đó chúng tôi ăn thịt người nữa cơ. Y nhún nhún vai, vẻ mặt vô tội, nói tiếp: - Thượng đế chứng giám, trên đường đến phương đông, chúng tôi cũng sợ nhất là gặp phải tộc mọi ăn thịt người. Dương Lăng nghe thấy thế thì cười ầm lên. Vị văn sỹ trung niên nọ hứng thú quan sát y một chút, mỉm cười không nói gì. Tiểu thư sinh nghe Dương Lăng khen ngợi hải quân của Phật Lăng Cơ hùng mạnh thì lấy làm không phục, vốn định nhắc đến hạm đội khổng lồ dưới trướng Trịnh Hòa với bảy lần đến đại dương phía tây (1) của bản triều, bỗng nghe đến võ sỹ đấu bò gì đó, lập tức nảy sinh hứng thú, vội hỏi: - Võ sỹ đấu bò gì thế? Ngươi hãy mau nói cho ta nghe, chơi hay lắm sao? Đang định trả lời, Dương Lăng chợt nhìn thấy Ấu Nương đang đứng ở một bên hiếu kỳ nghe mình giảng giải, y không khỏi giật thót người. Y vốn là một tú tài nơi sơn thôn hẻo lánh, dựa vào cái gì mà biết tường tận những chuyện nơi đất khách quê người? Mặc dù không lo Ấu Nương sẽ vì vậy mà nghi ngờ gì, nhưng nếu để cho nàng hỏi tới thì sẽ không tránh khỏi phải tốn nhiều nước bọt giải thích một phen. Thế là y cười ha hả nói: - Đấu bò thật sự không phải là trò cho con nít chơi, rất là nguy hiểm đó. Nếu ngươi có hứng thú, ngày thường rảnh rỗi hãy đến thăm mấy vị hoà thượng Tây Dương đây, hỏi bọn họ một chút không phải sẽ biết ngay sao? Ta và nương tử còn có việc, không thể để chậm trễ quá lâu, phải cáo từ chư vị rồi. Tiểu thư sinh trợn mắt, miệng lẩm bẩm: - Đấu bò rất hay sao? Chờ ta lớn thêm một chút ta sẽ đấu một trận, không những đấu bò mà ta sẽ đấu cả hổ nữa! Hừ, dám xem thường ta sao? Sa Tư Các nghe Dương Lăng nói xong thì vội vàng cất tiếng: - Khách nhân tôn quý, xin hãy chờ một chút, tôi có vài món lễ vật nhỏ tặng cho các vị. Y vội vã cầm một chiếc rương nhỏ lên, lấy ra vài món đồ, cầm trên tay rồi nói: - Hôm nay đa tạ các vị đã giúp đỡ, ở đây có mấy món đồ nhỏ, xin tặng cho các vị làm lễ vật. Trong tay y cầm hai chiếc đồng hồ quả quýt và một cái lăng kính tam giác. Trong hai chiếc đồng hồ quả quýt bằng bạc đó, một cái trên vỏ khắc bộ xương khô, cái còn lại khắc cây thánh giá. Tiểu thư sinh rất hiếu kỳ, không hề khách sáo cầm lấy ngắm nghía. Vị văn sỹ trung niên nọ hiển nhiên cũng chưa từng thấy qua thứ này, mặt đầy vẻ tò mò, song lại chỉ mỉm cười đứng bên cạnh con mình xem y cầm chơi. Sa Tư Các miệng cười toe toét chỉ cho tiểu thư sinh đó cách sử dụng lăng kính tam giác và đồng hồ quả quýt. Tiểu thư sinh nghe xong liền cầm lăng kính tam giác chạy qua một bên soi lên ánh đèn quan sát, sau đó tíu tít nói với phụ thân về cảnh tượng mới lạ vừa nhìn thấy. Nhìn những món đồ của Sa Tư Các, Dương Lăng thầm nghĩ: "Những nhà truyền giáo này phần lớn đều tinh thông triết học, vật lý, hoá học, nếu triều đình nhà Minh có thể xem trọng bọn họ, để những nhà truyền giáo này làm môi giới, tăng cường giao lưu văn hoá và khoa học kỹ thuật giữa phương Đông và phương Tây, có lẽ chúng ta sẽ không gặp phải tình trạng bế quan tỏa cảng, mọi phương diện dậm chân tại chỗ, khiến cho sau này Mãn Thanh nhập quan, hàng trăm nghìn người Hán phải chết, càng sẽ không xuất hiện cục diện bốn trăm triệu đồng bào bị người ta ức hiếp mổ xẻ ở thời cận đại. Nếu Hoàng đế đã yêu thương thái tử, mà vị Hoàng đế Chính Đức tương lai này lại khá ham chơi, vậy mình có thể lợi dụng một chút, có lẽ ngày mai tiến cung nên dâng chút lời ’sàm ngôn’”. Nghĩ đến đây, y bèn thấp giọng nói với Sa Tư Các: - Sa Tư Các tiên sinh, tại hạ dày mặt muốn xin tiên sinh một cây thánh giá và một chiếc đồng hồ quả quýt. Đối với quý quốc và giáo lý của các vị, ta cũng có đôi chút hiểu biết, khi nào thuận tiện ta sẽ góp lời với triều đình, hy vọng có thể khơi dậy sự trọng thị của triều đình, cho phép các vị gây dựng giáo hội, tuyên truyền giáo lý. Sa Tư Các nghe vậy thì vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ, run giọng hỏi: - Ngài là quan viên hay là quý tộc triều đình? Ngài có thể gặp được Hoàng đế bệ hạ sao? Dương Lăng vội nói: - Nhỏ tiếng chút đi! Hà hà, Sa Tư Các tiên sinh không cần hoài nghi, ngày mai ta sẽ vào cung gặp Hoàng đế. Sa Tư Các mừng đến mặt mày rạng rỡ, vội vàng tháo cây thánh giá đeo trên cổ xuống, xong lại chạy đến chỗ một chiếc rương khác lấy ra thêm một chiếc đồng hồ quả quýt. Xem ra bọn họ cũng biết "mật ngọt chết ruồi" thì sẽ dễ được người ta tiếp nhận hơn là "Thượng đế yêu thương nhân loại", cho nên lúc đến phương Đông đã mang theo không ít lễ vật. Sa Tư Các trịnh trọng trao lễ vật vào tay Dương Lăng, nói: - Ngài là quý nhân của chúng tôi, rất hy vọng có thể nhận được sự giúp đỡ của ngài. Dương Lăng gật đầu mỉm cười, đoạn cất cao giọng nói với tiểu thư sinh: - Tiểu huynh đệ, sau này gặp lại! Tiểu thư sinh đó đang áp một chiếc đồng hồ quả quýt vào tai, tò mò lắng nghe tiếng tích tắc, tích tắc bên trong, nghe vậy bèn vẫy tay tiễn y. Xoay người đi được vài bước, Dương Lăng chợt quay đầu lại mỉm cười rồi nói với Sa Tư Các: - Đúng rồi, nếu giáo sỹ tiên sinh muốn tuyên truyền giáo lý, có thể thử truyện trò với các cụ bà láng giềng trước xem sao, có lẽ sẽ dễ thành công hơn đấy. Sa Tư Các lấy làm kỳ quái hỏi: - Tại sao? Dương Lăng bắt chước y nhún vai, cười nói: - Tình hình các nước bất đồng, những thứ mê tín của chế độ phong kiến này, à, những chuyện này, ở nơi này của chúng ta phụ nữ lúc nào cũng là những người thích tin theo trước. Ha ha ha, cáo từ! Dương Lăng và Ấu Nương rời khỏi chùa Hộ Quốc. Đi dọc theo con phố lớn được một lát, Hàn Ấu Nương đột nhiên kéo ống tay áo y, bẽn lẽn quay đầu nhìn về phía chùa Hộ Quốc, ấp úng nói: - Tướng công, chúng... chúng ta không xin tượng phật sao? Thấy nét mặt e thẹn của nàng lúc cố lấy can đảm nói ra những lời như vậy trông hết sức mê người, Dương Lăng nhịn không được bèn cố ý trêu: - Thôi, trời đã tối rồi, hôm khác chúng ta hẵng đi. Hàn Ấu Nương lại giật giật ống tay áo y, trề môi, cúi gằm mặt, chẳng nói chẳng rằng, tựa như cô bé đáng thương đang bị ức hiếp. Dương Lăng thấy vậy thì thầm ngứa ngáy trong lòng, không nhịn được bèn thấp giọng cười nói: - Nương tử bé bỏng, mong sớm bị tướng công ”hiếp đáp” đến thế cơ à? Ha ha, về nhà đi, tướng công đã xin được tượng phật rồi. *** Hàn Ấu Nương đặt chậu nước rửa chân bên cạnh Dương Lăng, ngồi xổm tháo giày cho y, sau đó hỏi: - Tướng công, mau nói cho thiếp đi, chàng xin được tượng phật lúc nào vậy? Hàn Ấu Nương ngâm chân Dương Lăng vào trong nước, vừa nhẹ nhàng chà chân cho phu quân, vừa ngước mắt nhìn y. Dương Lăng lấy từ trong ngực ra cây thánh giá nọ, tay cầm sợi dây, y vừa cười hề hề vừa lắc lư nó ở trước mặt nàng. Cặp mắt Ấu Nương sáng lên, vội vàng chùi tay vào vạt áo rồi cầm cây thánh giá lên xem. Chớp chớp hàng mi dài, nàng chăm chú nhìn một hồi lâu rồi nhíu mày tò mò hỏi: - Tướng công, đây là ông phật nào vậy? Thật là quái lạ, sao lại mặc ít đồ như thế chứ? Ánh mắt Dương Lăng đảo như rang lạc, tiện miệng đáp: - Thì cũng giống như mấy La Hán mà nàng thấy trong chùa đó, rất nhiều người đều để trần cánh tay. Ông Phật này thì để trần cả đùi. - Ưm! Ấu Nương lại nghiêng đầu xem xét một hồi, không yên tâm hỏi: - Tướng công, ông phật râu xồm đùi trần này có linh không vậy? Đã khai quang chưa? Dương Lăng đáp: - Quang rồi, sao lại không quang, quang nữa thì sẽ thành ở trần đó (2). Vị thần này tên là Cơ Đốc, nàng có thấy quan cao nhất trong Cẩm Y vệ chúng ta được gọi là Đề đốc không? Đề đốc tức là trông coi, giám sát, cai quản và dẫn dắt Cẩm Y vệ đó, đủ lợi hại chưa? Cơ... Đốc này à, đương nhiên là giám sát và cai quản… - Nói đến đây y chợt cười hề hề, không dám đùa giỡn lung tung nữa. (Chữ “Cơ” trong tiếng Trung phát âm là “ji”, mà “ji ji” là từ để chỉ dương vật của đàn ông, có lẽ Dương Lăng đang định nói tới cái này.) Trước kia y không hề tin vào thần thánh, nhưng từ lúc đầu thai chuyển thế đến nay, có vài chuyện y thật sự không dám đem ra bông đùa. Dương Lăng ngó xuống, thấy Hàn Ấu Nương đang cúi đầu chăm chú rửa chân cho mình, khuôn mặt xinh xắn toát lên vẻ hiền thục của người vợ đảm đang, cánh môi cong cong mỉm cười, mê người khôn tả. Cô bé xinh đẹp trẻ tuổi này bất kể nghèo khó khổ sở thế nào vẫn luôn theo sát bên y, xem y như bầu trời, như tính mạng của chính mình, chưa từng cất một lời oán thán. Y thì lúc nào cũng ngây ngây ngô ngô, gặp sao hay vậy, may mắn lắm mới có được vị trí như ngày hôm nay. Nhưng nếu không có bờ lưng non nớt của Ấu Nương ở phía sau gánh đỡ mà không hề oán trách một lời ấy, y không biết liệu mình có phải đã sớm biến thành một đống xương mục rồi hay không. Vân vê sợi dây chuyền bạc trong tay, nhìn cây thánh giá bằng bạc ròng đó, Dương Lăng bỗng nhớ tới câu thề mà rất nhiều người đã trang trọng cất lên lúc thành hôn: "Em bằng lòng làm vợ của anh. Suốt cuộc đời này, dù hạnh phúc hay đau buồn, dù giàu sang hay nghèo khổ, dù khỏe mạnh hay bệnh tật, em đều sẽ luôn hết lòng với anh, không xa rời anh, mãi mãi ở bên anh!" Trong những người từng nói câu nói này, không biết có bao nhiêu người đã thật sự thực hiện được nó? Nhưng Dương Lăng không chút nghi ngờ rằng mặc dù Ấu Nương không biết và cũng sẽ không nói câu thề đó, nhưng không những nàng đang thực hiện nó, mà sẽ còn mãi tiếp tục làm như vậy. Dương Lăng cũng âm thầm cất lời thề: “Ấu Nương, chúng mình đã từng đùm bọc lẫn nhau, sau này cũng sẽ không bỏ rơi nhau. Ấu Nương, nàng chính là của cải quý giá nhất của ta.” Lòng y nóng ran, bất thình lình rút chân ra xỏ vào giày, khom người bế Ấu Nương lên. Ấu Nương kêu lên một tiếng, giọng hoảng hốt: - Tướng công, chàng làm gì vậy? Dương Lăng đặt nàng lên đầu giường, khẽ bảo: - Ngồi ngay ngắn lên nào, nàng đã vì tướng công mà nếm biết bao cay đắng, chịu biết bao đau khổ, mãi cho đến hôm nay mới là đêm động phòng hoa chúc chân chính từ sau khi nàng được gả cho ta, nhưng tướng công lại không có rượu thơm nến đỏ, không có khách chúc đầy nhà. Lúc vừa mới đến nhà chồng, vì tướng công mà nàng đã phải uất ức tự mình kéo khăn đỏ trùm đầu(3). Đêm nay, hãy để tướng công rửa chân cho nàng, hầu hạ nàng để chuộc tội! - Gì cơ? Ấu Nương nghe xong, khuôn mặt tràn ngập sự hoảng sợ, giãy nãy nói: - Không thể được! Tướng công, chàng vạn vạn lần không thể làm thế được. Phụ nữ hầu hạ đàn ông của mình là điều nên làm, là bổn phận, nhưng tướng công mà rửa chân cho thiếp thì sẽ bị giảm phúc đó! Dương Lăng giữ chặt lấy hai chân nàng, ngâm chúng vào trong nước, giọng cương quyết bảo: - Ngồi yên nào! Chỉ được cái nói mò, chân Ấu Nương đẹp như vậy, tướng công có thể rửa chân cho nàng, đó là phúc khí của tướng công. Đấy không phải là giảm phúc, phải là thêm phúc mới đúng. Chân Ấu Nương co rúm, ngón chân khẽ gập lại, mặc cho y nhẹ nhàng xoa bóp. Đôi chân ngọc nhỏ bé thanh tú ấy mỹ lệ vô ngần, đường cong bàn chân mềm mại đẹp đẽ, gầy mà không để lộ xương. Trên đỉnh đầu khẽ vang lên tiếng nức nở, từng giọt từng giọt nước mắt nhỏ xuống chậu nước, Dương Lăng đành phải lên tiếng: - Ấu Nương, nàng khóc gì chứ? Hôm nay là ngày vui của chúng ta, phải vui lên, nếu không sẽ xui xẻo lắm đấy! - Ưm! Ấu Nương vội lau nước mắt, rưng rưng nói: - Tướng công, sớm mai canh mấy chàng lên triều vậy, để thiếp còn gọi chàng dậy. Dương Lăng nghĩ ngợi một chút rồi đáp: - Là canh ba giờ dần. Ha ha, nha đầu ngốc, giờ là lúc đêm xuân nghìn vàng của chúng mình, thế mà nàng lại còn nghĩ ngợi đến mấy chuyện đó. Ấu Nương cắn môi, cười thẹn thùng. Lòng bàn chân vừa bị Dương Lăng gãi nhẹ, nàng liền rụt chân về vì nhột, miệng khẽ rên rỉ một tiếng. Dương Lăng ngẩng đầu, chỉ thấy hàng mi nàng cong cong, bờ môi hơi vểnh, một vẻ tựa vui tựa hờn, quyến rũ đến thấu xương, khiến con tim y không kìm nổi phải xao động. Cuối cùng y đã biết được thế nào mới là điên đảo tâm hồn. Đêm, đã bắt đầu. (1) Trịnh Hoà (1371-1433), tên khai sinh là Mã Tam Bảo, là nhà hàng hải và nhà thám hiểm người Trung Quốc nổi tiếng nhất. Ông chính là người đã chỉ huy các chuyến thám hiểm được gọi chung là các chuyến đi của "Thái giám Tam Bảo hạ Tây dương" (三保太監下西洋) hay "Trịnh Hòa đến đại dương phía tây" từ năm 1405 đến năm 1433. Tạp chí Life Magazine xếp Trịnh Hòa đứng thứ 14 trong số những người quan trọng nhất trong thiên niên kỷ vừa qua. Số lượng chuyến đi của ông tới Tây dương tùy vào cách phân chia, nhưng ông và hạm đội đã "Tây dương" không dưới 7 lần. Ông đã đưa về Trung Quốc nhiều chiến lợi phẩm và các phái viên từ ít nhất 30 vương quốc - bao gồm cả vua Alagonakkara của Tích Lan (Ceylon) đến Trung Quốc để tạ lỗi các Hoàng đế Trung Hoa. (trích wikipedia) (2) Ở đây Dương Lăng chơi chữ: "quang" trong "khai quang" nghĩa là "lễ mở vải phủ tượng phật", nhưng cũng có nghĩa là "trần trụi". Ý Dương Lăng nói là chúa Jesus đã để trần đủ rồi, lột bớt thêm nữa thì sẽ không còn gì mặc nữa. (3) Đang nói đến tập tục chú rể kéo khăn trùm đầu màu đỏ của cô dâu trong đêm động phòng.

Chương 57: Đêm xuân ngắn ngủiDịch: TheJoker Biên dịch: Vo vong Biên tập: Meoxu Hiệu đính: Nguồn: www.tangthuvien.com - Tướng... tướng công, chàng... chàng làm gì vậy? - Không cần cái đó, rườm rà quá đi. Nương tử à, phải có hứng… thú, hiểu không? Chương 57 - Đêm xuân ngắn ngủi Thổi tắt đèn? Không được! Trốn vào trong chăn thoát y? Không được! Dưới sự cấm cản của đấng lang quân "bạo chúa", Hàn Ấu Nương đành phải nhắm mắt trút bỏ xiêm áo, để lộ một thân hình mịn màng mềm mại. Ngay trước mắt Dương Lăng bất chợt chói lòa, cái yếm đỏ tươi cùng chiếc quần lót màu hồng sen mỏng manh không cách nào che giấu được thân thể thanh cao thoát tục của nàng, tấm thân thiếu nữ gần như phơi trần trong ánh sáng lờ mờ càng khiến người ta phải hoa mắt. Trông thấy ánh mắt si dại của Dương Lăng, Ấu Nương ngượng ngùng "ưm" một tiếng rồi vội vàng xoay người, đưa tấm lưng trắng mịn về phía y. Dương Lăng nín thở sáp lại gần, nhẹ nhàng đẩy Ấu Nương xuống giường, rồi bất chợt đưa tay giật chiếc quần lót của nàng. Ấu Nương yêu kiều kêu lên “ối” một tiếng, bàn tay không kịp giữ lại, chiếc quần đã bị y kéo tuột xuống. Ấu Nương ngượng quá, vội ôm lấy gò má nóng hổi của mình, đôi chân liên tục đạp xuống chiếc đệm giường tỏ vẻ phản kháng, bờ mông tròn lẳn trắng phau lúc lên lúc xuống đập thẳng vào mắt Dương Lăng. Trông Ấu Nương lúc này tựa như một trái đào mật chín mọng và thơm ngát, từ eo trở xuống, đường cong mê người dọc hai bên thân nàng lượn xuống tạo nên một vẻ thanh nhã và gợi cảm vô cùng, lại thêm sự uốn lượn lên xuống nhịp nhàng trên làn da mịn màng nõn nà ấy thật khiến người ta không kìm nổi những ý nghĩ ám muội. Làn da nàng mịn màng như trứng gà bóc dưới ánh sáng lại lộ ra vẻ óng ánh lung linh, thực khiến người ta phải nuốt nước miếng ừng ực. Dương Lăng nuốt nước bọt, ngón tay vuốt nhẹ theo cặp chân thanh tú săn chắc của Ấu Nương mơn trớn lên trên. Đôi chân khả ái của Ấu Nương hơi co lại, hai mắt cá chân yêu kiều dính sát vào nhau, cặp đùi khép chặt đến nỗi một ngón tay cũng không chen được vào. Cảm giác được sự căng thẳng của nàng, Dương Lăng khẽ mỉm cười. Y từ tốn cởi bỏ áo quần rồi nhẹ nhàng trườn lên tấm thân non nớt láng mịn của Ấu Nương. Ấu Nương lập tức cảm nhận được thân thể trần trụi của tướng công, mặt nàng càng đỏ hơn, nhưng lại không dám giãy giụa nữa. Dương Lăng nhẹ nhàng đưa tay lần mò khám phá, khẽ thò vào trong chiếc yếm xoa nắn bầu ngực xinh xắn của nàng. Dưới sự vân vê của y, nhũ hoa nho nhỏ đã nhanh chóng săn cứng. Dần dần, hoà cùng sự âu yếm nhẹ nhàng mà điêu luyện của Dương Lăng, hơi thở dồn dập của Ấu Nương đã chuyển thành những tiếng rên rỉ đầy khêu gợi. Dưới những cái vuốt ve mơn trớn của y, thân thể nàng khẽ run lên từng chập, bên dưới đã bắt đầu ẩm ướt. Một cảm giác trước nay chưa từng đó lan tỏa khắp người Ấu Nương , vừa khiến nàng hoang mang, lại vừa đem đến cảm giác khoan khoái lạ kỳ khó mà diễn tả bằng lời. Nàng ngượng đến nỗi da thịt toàn thân đều ửng lên màu phấn hồng khêu gợi. Giọng run rẩy ngọt ngào, nàng cầu khẩn: - Tướng công, xin... xin chàng... tắt đèn đi! - Không! - Dương Lăng hôn phớt trên lưng nàng một cái rồi si mê nói: - Ta muốn nhìn nàng, nếu để cho vẻ mỹ lệ thế này lặng chìm trong bóng tối, ông trời sẽ không tha cho ta đâu. Ta muốn nhìn nàng, dù có qua một trăm, một nghìn năm nữa, ta cũng sẽ vẫn nhớ tới cái đêm mà Ấu Nương xinh đẹp đã dâng hiến tình yêu và thân thể của nàng ấy cho ta. Hàn Ấu Nương lấy tay che lấy khuôn mặt đỏ bừng, lời tán tụng vừa dịu dàng vừa chứa chan tình cảm của phu quân khiến nàng như ngây ngất. Ngón tay của Dương Lăng nhẹ nhàng tháo nút thắt trên chiếc yếm duy nhất còn lại trên người nàng rồi giật nhẹ ra. Sống lưng Ấu Nương thẳng tắp, xuôi theo đó xuống dưới là một khe trũng bí ẩn mà vô cùng đẹp đẽ. Nút thắt chiếc yếm vừa bị cởi ra, khi tấm thân mềm mại của nàng được lật lại, phần khuôn mặt lộ ra sau hai bàn tay đều đã đỏ bừng. Dương Lăng hài lòng chống người dậy, hai mắt loé lên ngọn lửa của tình yêu. Khi y vừa tính sáp lại mơn trớn cặp môi anh đào của Hàn Ấu Nương, nàng bỗng nhiên "a" lên một tiếng, thình lình bỏ hai tay ra, mở mắt căng thẳng hỏi: - Tướng công, chàng đã đeo tượng phật chưa? Chỉ thấy ngay trước tấm ngực trần của Dương Lăng, cây thánh giá nọ đang đung đưa chậm rãi. Ấu Nương ngượng chín người, vội vã nhắm mắt lại. Động tác ngây thơ cùng thân thể trẻ trung của nàng toát ra sức hấp dẫn mạnh mẽ, khiến cho hơi thở Dương Lăng lập tức trở nên gấp gáp hơn. Y không nhịn được nữa, lập tức cúi xuống hôn lên bầu ngực xinh xắn của Ấu Nương, một cánh tay mò xuống vuốt ve bờ eo thon thả của nàng, khiến cho vùng bụng phẳng lì kia căng cứng lại. Ngón tay y lướt qua nơi nào, da gà liền nổi lên nơi ấy. Dương Lăng chăm chú nhìn hàng mày liễu của nàng, khẽ lấy chân tách hai chân nàng ra, ngực đè lên thân thể nhỏ nhắn của nàng. Trực giác của phụ nữ khiến Ấu Nương bất giác trở nên yên lặng, cặp mắt đen láy mở ra đầy hoảng sợ. Hai cánh tay thon thả của nàng bấu chặt vào cánh tay Dương Lăng, cơ thể run rẩy đợi chờ thời khắc căng thẳng đó. Cặp mắt của Dương Lăng bỗng cũng trở nên đen tuyền, miệng nhẹ gọi tên Ấu Nương, lại hơi nâng người lên, rồi cuối cùng khẽ khàng cất tiếng: - Ấu Nương, tướng công đến đây. - Đừng! Khoan đã, tướng công! - Ấu Nương bỗng nhiên kêu lên. Dương Lăng vội vàng ghìm cương trước vực, giật mình hỏi: - Sao thế Ấu Nương? Nàng... Nàng không muốn...? Ấu Nương đỏ mặt đáp: - Không, không phải. Tướng công, chàng ngồi dậy đi, thiếp... thiếp quên khăn trắng... Vừa nói nàng vừa thẹn thùng quay đầu qua phía bên, cố vươn tay sang chỗ chiếc chăn vẫn còn xếp bên cạnh. Tối nay lúc trở về nàng đã đi tìm chiếc khăn trắng nghiệm hồng mà mẹ tặng khi xuất giá, sau đó lặng lẽ nhét dưới đáy chăn của mình. Trong thời khắc chỉ mành treo chuông, rốt cuộc nàng kịp nhớ ra, may mà chưa làm lỡ đại sự. Dương Lăng thấy nàng lôi tấm khăn trắng tinh ra, giống như là phất cờ trắng đầu hàng, thì không khỏi có cảm giác dở cười dở khóc. Nàng là người vợ mà y yêu thương nhất, trong lúc này đây y chỉ muốn nàng có thể ghi nhớ khoảnh khắc ngọt ngào và niềm hạnh phúc khi hai người thuộc về nhau trong lần đầu tiên này chứ không phải là nơm nớp lo sợ nằm lên chiếc khăn nhỏ xíu kia, mọi tâm tư đều tập trung chờ đợi y kiểm nghiệm sự trinh trắng của nàng. Y hy vọng Ấu Nương cũng có thể hưởng thụ khoái lạc cùng y chứ không phải chỉ một mực hiến dâng. Ấu Nương đang mím môi lúng túng muốn lót khăn trắng dưới mông mình, Dương Lăng chợt giật lấy nó vứt sang một bên. Nàng tròn xoe mắt sửng sốt, lắp bắp nói: - Tướng... tướng công, chàng... chàng làm gì vậy? - Không cần cái đó, rườm rà quá đi. Nương tử à, phải có hứng… thú, hiểu không? - Đi… Đi đâu? (Trong tiếng Trung chữ “thú”(qù) đọc giống chữ “đi”(qù), Ấu Nương nghe nhầm – ND.) Dương Lăng đưa hai tay lần xuống dưới mông Ấu Nương, xoa bóp hai bờ mông tròn lẳn của nàng, khoé miệng mang theo một nụ cười mỉm đầy mê hoặc. Y kề bên tai nàng khẽ nói: - Đi đến đây này. Tướng công không muốn cầm quân đối trận. Đêm nay tướng công muốn cướp trại công thành, để tiểu nương tử võ nghệ siêu quần của ta phải giơ tay đầu hàng... ... Toàn bộ thể xác và tâm hồn của hai người hoà quyện vào nhau, dư âm của cuộc mây mưa càng làm cho cả 2 cảm thấy tâm hồn dào dạt và vô cùng thỏa mãn. Trong lần đầu đón nhận "mưa móc" Ấu Nương đã "đầu hàng" tới ba lần, sau đó Dương Lăng mới được tận hứng trong cơn khoái cảm, rồi y ôm nàng chìm vào giấc ngủ say. Đang ngủ say sưa không biết trời trăng mây nước, Dương Lăng đột nhiên choàng tỉnh. Y mở mắt ra, chỉ thấy Ấu Nương đã mặc xiêm y, khoác áo dài, đang ngồi bên cạnh đẩy khẽ y: - Tướng công, nên thức dậy rồi. Tướng công, hôm nay phải lên triều đó. Dương Lăng lờ đờ ngó ra ngoài cửa sổ. Bên ngoài trời vẫn tối như bưng, quay đầu nhìn lại, dưới ánh đèn hắt sáng, Ấu Nương sau khi đón nhận mưa móc lúc này vẫn còn mặt mày ngây ngất, tóc mai rối loạn, vẻ thiếu phụ thướt tha ấy đẹp đến nỗi khiến người phải nín thở. Con tim Dương Lăng thoáng xao động, y đưa tay kéo nàng ôm vào lòng, hôn phớt lên môi nàng rồi cười nói: - Trời còn tối mà, gọi tướng công dậy sớm như vậy, có phải là muốn tướng công trò chuyện cùng nàng không? Đêm qua tướng công mệt quá, cho nên... gần gũi nàng xong thì đã ngủ luôn. Ấu Nương được y ôm vào lòng, con tim vui phơi phới, lại nghe y nhắc đến cái chuyện vừa xấu hổ vừa ngọt ngào kia, khuôn mặt càng đỏ ửng lên, nhất thời cả người mềm nhũn. Nàng vốn đang nũng nịu lay Dương Lăng dậy, nhưng giờ lại cảm thấy mình vừa bị tướng công ôm vào lòng thì ngay cả tay cũng đã mềm nhũn, không còn chút sức lực, thế là không kìm nổi vừa ngượng ngùng vừa quýnh quáng kêu lên: - Tướng công, chàng mau dậy đi! Không còn sớm nữa đâu, sắp đến giờ Dần rồi. Thiếp đã làm xong bữa sáng, hôm nay chàng phải đi diện kiến hoàng đế đó! - Hả? - Dương Lăng giật nảy mình. Y vốn chẳng có bao nhiêu ấn tượng với giờ Dần, giờ Mão gì gì đó của thời đại này, nhất thời không nghĩ rằng bây giờ bên ngoài mới chỉ có vẻ như hơn bốn giờ sáng mà đã đến giờ rồi. Lúc này thì Dương Lăng cũng quýnh quáng lên, vội vàng trở mình ngồi dậy. Vừa ngồi dậy, y bỗng phát hiện trên đệm có một miếng vá vuông vắn. Tấm đệm giường này là tấm đệm được hai người mang theo từ Dương Gia Bình, do họ tạm thời chưa có thời gian mua sắm vật dụng mới. Tuy rằng trên đệm có mấy vết vá, nhưng Dương Lăng nhớ là chỗ này không hề bị rách. Y lấy làm lạ hỏi: - Ấu Nương, chỗ này bị rách lúc nào vậy? Đừng có vá tới vá lui nữa, chi bằng hôm nào đó chúng ta đi mua ít vải bông làm lại giường đi! Ấu Nương cụp hàng mi xuống, mặt đỏ như vải điều. Nàng thẹn thùng lấy từ sau lưng ra một miếng vải đã được gấp lại ngay ngắn, bẽn lẽn nói: - Còn không phải đều là do chàng..., đây là... chuyện trọng đại của nữ nhi, thiếp lại không thể để lại ở chỗ đó, ngượng chết đi được. Dương Lăng dòm dòm, miếng vải đó rõ ràng là mới vừa được cắt từ tấm đệm ra, hơn nữa, tuy đã được gấp lại, nhưng bên trên vẫn thoáng lộ ra màu đỏ. - Ớ?... Ý? Ồ... *************************** Mặt trời đã lên cao được ba con sào, Dương Lăng đang đứng bên ngoài điện Trung Hoà, bụng đói lép kẹp. Cái lão Hoàng đế này cũng thật làm cao quá đi, nếu đã không muốn tiếp kiến sớm thì bắt người ta dậy sớm thế để làm cái quái gì cơ chứ? Lần đầu lên triều, hơn nữa lại không quen thuộc kinh thành, cho nên cơm sáng còn chưa kịp ăn thì Dương Lăng đã phải lật đật ba chân bốn cẳng chạy đến Tử Cấm Thành. Cũng phải nói là các quan viên trong triều đình này đều dậy rất sớm, lúc Dương Lăng đến nơi thì đã có rất đông đại thần đang chầu chực bên ngoài Ngọ môn. Lúc được Lưu Cẩn dẫn vào hoàng cung thông qua lối nhỏ, Dương Lăng còn tưởng là mình được đãi ngộ đặc biệt, không ngờ rằng lại bị đưa thẳng đến điện Trung Hoà, sau đó được cho hay rằng Hoàng đế đã lên dự buổi tảo triều (1), khi về mới gặp y. Chờ từ lúc trời còn tù mù cho đến tận hừng đông, rồi từ lúc hừng đông đến tận bây giờ, Dương Lăng uể oải nhìn cái bóng dưới chân mình, sau đó lại bắt đầu ngó nghiêng xung quanh. Lưu Cẩn dẫn y đến chỗ này xong thì không biết đã lặn đi đâu mất, để y đứng chờ một mình ở đây. Trước điện, thị vệ nghiêm mắt nhìn thẳng, không hề liếc y lấy một cái. Dương Lăng cũng không dám chủ động bắt chuyện. Những cung nữ thi thoảng ra vào điện thì dường như lại rất có hứng thú với y, lần nào cũng đưa mắt liếc nhìn. Dương Lăng cũng trộm ngắm bọn họ. Tuy có câu rằng "con gái mười tám không có ai là xấu", nhưng phần lớn những cung nữ này cũng chỉ là dung mạo đoan trang, vóc dáng cân đối, không được như trên ti vi, cung nữ người nào người nấy đều xinh đẹp mê người. Dương Lăng ngó một hồi rồi cũng bắt đầu “nghiêm mắt nhìn thẳng” luôn. Đang khi cái bụng lại "ùng ục" kháng nghị một hồi, Dương Lăng chợt trông thấy trước điện có một đội ngũ đang đi tới, phía trước là một vị tướng quân cao lớn dẫn đầu đội nghi trượng. Phía sau, bên dưới tán lọng màu vàng là một chiếc long liễn (*) được khiêng bởi tám gã thái giám đang đi về phía y. Tinh thần Dương Lăng lập tức trở nên phấn chấn. (*: nguyên văn là "bộ liễn", một loại kiệu tám người khiêng của vua) Vừa trông thấy long liễn, bọn cung nữ, thị vệ, thái giám gần xa lần lượt đều quỳ xuống đất. Vừa mới ưỡn lưng xong, Dương Lăng cũng vội vàng bắt chước quỳ theo. Đội ngũ đông đảo cuồn cuộn đi qua bên người y, tiến thẳng vào trong điện Trung Hoà, căn bản chẳng ghé mắt nhìn tới những người bên cạnh. Dương Lăng vừa quỳ dưới đất vừa thầm lắc đầu, hoàng đế bất quá làm việc ở ngay trong nhà, vậy thì kiếm nhiều kẻ rảnh rang như vậy để làm gì chứ? Nhưng mà quả thực y không biết, đội nghi trượng này vẫn còn là ít. Nếu như hôm nay là ngày cử hành hội triều lớn thì trong đội nghi trượng còn sẽ có hai con hổ, báo, bốn con voi, năm chiếc lễ xa, đội ngũ đó càng đông đảo và hoành tráng hơn thế này nhiều. Đế vương đương nhiên phải có phong phạm của đế vương, mà phong phạm chính là dựa vào sự hoành tráng Thấy một con kiến đang từ bên gối bò nhanh qua, Dương Lăng co ngón tay búng nó sang một bên. Con kiến lăn mấy vòng trên mặt đất rồi cuộn người lại giả chết. Một lát sau, phát hiện không có nguy hiểm gì, nó lại lật đật bò dậy rồi vội vã trốn đi. Khoé miệng Dương Lăng không khỏi hơi nhếch lên, thoáng lộ một nụ cười: trong mắt hoàng đế, mình chẳng phải cũng chỉ như là một con kiến thôi sao. Y hơi ngẩng đầu, đội nghi trượng vẫn đang đi về phía trước, những kẻ cầm cờ, cầm lọng, cầm kim qua (2), nườm nượp nối đuôi nhau không dứt. Thấp thoáng dưới những lá cờ, một góc trời xanh thẳm và cao vời vợi hiện ra. Dương Lăng nhìn đến ngơ ngẩn, trong lòng thầm nghĩ: “Hôm nay, có thể đi đến nơi trung tâm quyền lực của thiên hạ, mình đã không còn là một con kiến cỏn con nữa. Nếu cho mình thời gian và cơ hội, dưới bầu trời của trang lịch sử này, liệu mình sẽ là một lá cờ ngạo nghễ tung bay rồi tan biến theo năm tháng, hay là một toà lầu sừng sững mãi mãi không đổ sụp?” Đội nghi trượng chia ra đứng ở hai bên hành lang, im lìm bất động. Phỏng chừng hoàng đế lão gia cũng đã đói, thế nên phải uống chút trà, ăn chút điểm tâm. Mãi một hồi lâu rất lâu sau mới thấy một tên thái giám đi ra ngoài cửa điện Trung Hoà, vung phất trần lên, giọng the thé gọi: - Tuyên thị độc Dương Lăng tiếp kiến! Lúc đi Lưu Cẩn đã dạy y một số lễ nghi căn bản của cung đình, thế nên Dương Lăng nghe xong bèn vội vàng bước lên, cất cao giọng nói: - Thần Dương Lăng xin vâng mệnh. Tiểu thái giám đó hơi mỉm cười nói: - Dương thị độc, mời theo ta vào! - Nói đoạn hắn xoay người đi trước. Dương Lăng cúi đầu rảo bước vào theo. Ở tiền thế, lúc đi thăm Cố Cung y cũng đã đến điện Trung Hoà này, nhưng bố cục và cách bài trí bên trong hiện giờ rõ ràng có chỗ không giống. Dương Lăng cũng không dám ngó nghiêng lung tung, chỉ cố theo chân tên tiểu thái giám đó đi vào trong. Đi đến cuối tấm thảm đỏ tươi, tiểu thái giám chợt lánh sang một bên, cao giọng nói: - Thị độc Dương Lăng bái kiến hoàng thượng. Dương Lăng biết người ngồi bên trên nhất định là đương kim thiên tử - hoàng thượng Hoằng Trị. Y quỳ xuống đất, hai bàn tay hướng về phía trước và áp xuống tấm thảm, dập trán lên đầu ngón tay, lấy đủ hơi rồi cất cao giọng nói: - Vi thần Dương Lăng khấu kiến hoàng thượng. Phía trên, một giọng nói khoan thai thanh nhã cất lên: - Miễn lễ, bình thân! - Tạ ơn bệ hạ! - Dương Lăng đứng dậy, cung kính lui qua một bên, đầu hơi cúi, mắt nhìn qua mũi tới thẳng chỗ tim. Tuy rằng trong lòng y cũng muốn tận mắt nhìn diện mạo vị hoàng đế Hoằng Trị này một chút, nhưng con mắt lại không dám ngó lung tung. Ánh mắt y chỉ khẽ động đậy, trông thấy phía trước có một đôi giày thuộc loại dành cho quan lại, dường như còn có một vị quan viên khác đang ở đây. Giọng nói ung dung thanh nhã kia lại cất lên: - Lưu khanh, cứ như vậy đi. Khanh hãy soạn chỉ nói với quốc vương Triều Tiên rằng thái tử tuổi còn nhỏ, vốn không cần dâng nữ tử tới làm gì. Có điều trẫm vẫn niệm tình hắn có lòng, mặc dù những nữ tử đó ai nấy đều da dẻ thô ráp, vừa béo vừa lùn, không được tốt lắm, song trẫm đều đã phong làm nữ quan. Dương Lăng nghe mà méo mồm, thiếu chút nữa thì không nhịn được mà bật cười thành tiếng. Có lẽ lúc soạn chỉ vị Lưu đại nhân này sẽ không đưa nguyên lời nói thẳng như vậy vào, nhưng được chính tai nghe hoàng đế ban xuống thánh dụ thú vị như thế, quả thực cũng rất hiếm có. Chỉ nghe vị Lưu đại nhân đó cười ha hả nói: - Thần nghĩ quốc vương Triều Tiên cũng biết là thái tử nhỏ tuổi, cho dù có dâng lên nữ tử xinh đẹp thì cũng khó có thể được yêu thích, vậy nên đã lựa vài ả mà có cho đi cũng không tiếc để tống đến chỗ bệ hạ đấy. Hoàng đế Hoằng Trị nghe xong cũng không kìm nổi cười rộ, rồi lão hổn hển nói: - Vẫn là khanh mồm mép lanh lợi! Ha ha, hắn nhỏ mọn nhưng trẫm thì không thể hẹp hòi, lễ vật tặng lại không được làm mất khí phách của thiên triều ta. Đi đi, tự đi soạn chỉ là được. - Vâng, thần tuân chỉ. - Vị Lưu đại nhân đó đáp lời, sau đó khom người lui ra. Dương Lăng cũng nghe nói vị vua Hoằng Trị này chỉ yêu thương mỗi một mình đưong kim hoàng hậu, không lập thêm phi tần nào nữa. Hiện giờ thái tử lại nhỏ tuổi, nói không chừng quốc vương Triều Tiên lại thật sự có ý định này. Vị Lưu đại nhân kia ở trước mặt hoàng đế mà vẫn dám bông đùa, chắc hẳn là cận thần được sủng ái bên cạnh Hoằng Trị, nhưng không biết là vị nào. Lão ta có quyền soạn chỉ... Nghĩ đến đây, trong lòng Dương Lăng máy động, chợt nhớ ra người đương thời khi bình luận về ba vị đại học sỹ trong triều có nói "Lý Công mưu trí, Lưu Công quyết đoán, Tạ Công ngay thẳng", chẳng lẽ vị Lưu đại nhân này chính là đại học sỹ Lưu Kiện (3)? Lúc này chợt nghe Hoằng Trị nói: - Ngươi chính là Dương Lăng ư? Ồ, tuổi so với thái tử cũng không lớn hơn bao nhiêu, tốt lắm, tốt lắm... A, ngươi là..., Dương khanh, ngẩng đâu lên đi! (1) thời Minh hoàng đế có hai lần ngự triều, một là vào buổi sáng, gọi là "tảo triều" (lên triều sớm), hai là vào buổi trưa (giờ ngọ), gọi là "ngọ triều" (lên triều trưa). (2) những dụng cụ dùng trong đội nghi trượng: cờ, lọng, vũ khí (xem hình cây "kim qua": http://imgsrc.baidu.com/baike/pic/item/c9bdddcefd3e843393457e50.jpg) (3) Lưu Kiện (1433 - 1526), tự Hy Hiền, người Lạc Dương, Đại học sỹ trong triều thời kỳ Minh Vũ Tông. Cha là Lưu Lượng, chức Tam nguyên giáo dụ, có học hành. Thuở nhỏ lễ phép thận trọng, cùng giao du với đồng hương là Diêm Vũ Tích và Bạch Lương Phụ, được chân truyền của danh gia triết học duy tâm là Tiết Tuyên, người Hà Đông. Năm Thiên Thuận thứ tư đỗ tiến sỹ, được tuyển vào Hàn Lâm Viện làm biên tu. Đầu năm Thành Hoá, soạn ra "Anh Tông thật lục". Lưu Kiện giỏi về phán đoán, Tạ Thiên thiện về lập luận, Lí Đông Dương tính cách ôn hoà mà lại túc trí đa mưu. Thế nên đã có lời khen "Lý Công mưu trí, Lưu Công quyết đoán, Tạ Công ngay thẳng đĩnh đạc."

Chương 58: Đối đáp lung tungDịch: TheJoker Biên dịch: Vo vong Biên tập: Ba_Van Hiệu đính: Nguồn: www.tangthuvien.com Nếu trách phạt quá nặng, e sẽ khiến tướng sỹ tiền phương e ngại, sau này giao chiến với địch sẽ không dám liều mạng, chỉ mong không sơ sẩy, chẳng cầu có công lao. Chương 58 - Đối đáp lung tung Vốn Dương Lăng không hề có cảm giác kính sợ Thiên tử như những kẻ đọc sách đương thời, hơn nữa con người ta khi đói cũng rất thiếu kiên nhẫn cho nên y hoàn toàn chẳng có tâm tình để nói mấy câu của kẻ nô tài như kiểu "hạ thần sợ là…”, “hạ thần không dám…" gì gì đó, rồi còn phải đợi Hoàng đế cười vang mấy tiếng, phất tay phán cho một câu "Trẫm xá tội cho ngươi". Thế nên vừa nghe vua Hoằng Trị nói xong, y lập tức ngẩng đầu, đưa mắt nhìn ra đằng sau long án (bàn làm việc của vua). Vị Hoàng đế này dáng người hơi mập một chút, trông rất uy nghi. Đầu ông ta đội mũ Dực Thiện (*), người vận long bào cổ chật, ống tay áo rộng, mặt mũi trông hơi quen quen. Trông thấy tướng mạo của y, vua Hoằng Trị bỗng dưng đứng dậy, lông mày hơi nhướng lên, cười ha hả nói: - Hoá ra là ngươi! (*) Xem :http://www.cchmi.com/Portals/0/diancpic/41%E9%87%91%E7%BF%BC%E5%96%84%E5%86%A0.jpg) Dương Lăng "a" một tiếng, chợt nhớ tới cặp cha con mình đã gặp tối qua. Thì ra bọn họ là..., Dương Lăng vừa vui mừng vừa kinh ngạc thốt: - Thì ra Hoàng thượng là... Hoàng đế Hoằng Trị vội ho một tiếng, đưa mắt ra hiệu cho y. Dương Lăng lập tức tỉnh ngộ, vội vàng nuốt nửa câu còn lại vào bụng. Thời đó, Hoàng đế cải trang vi hành là một hành động đủ để khiến bá quan dâng sớ can ngăn. Tuy rằng hiện thời chung quanh đều là những kẻ hầu hạ cận kề Hoàng đế, chuyện Hoàng đế lén rời cung trong lòng bọn họ cũng biết rõ đến tám, chín phần, thế nhưng nói công khai trước đám đông thì lại là chuyện khác. Thấy y khá cơ trí, ánh mắt Hoằng Trị không khỏi lộ ra vẻ hài lòng. Ông ta từ tốn ngồi xuống, mỉm cười bảo: - Hoá ra là ngươi à, trẫm đọc đến tên của ngươi, mới sực nhớ ra thì ra ngươi chính là viên Dịch thừa ở Kê Minh đã chấp bút viết ra sự thật, chỉ rõ những thói xấu đương thời của bản triều đó. Ha ha ha, ngươi có biết chỉ vì một phong thư của ngươi mà giờ đây triều đình của trẫm đã cãi nhau ghê gớm lắm không? Vừa nói ông ta vừa vê vê hàng lông mày, khuôn mặt tuy tươi cười, song lại thoáng lộ ra vẻ mệt mỏi khó che giấu. Không nằm ngoài dự đoán của Cẩm Y đề đốc Trương Tú, hôm nay tảo triều, bộ Hộ đã dâng sổ sách lên để biện giải cho mình, rũ bỏ trách nhiệm. Lúc đầu Hoằng Trị vốn chỉ ra lệnh cho Tam Pháp ty thương nghị xử phạt Hà tham tướng, thế nhưng giờ đây Hà tham tướng đã ở trong đại lao của bộ Hình hơn nửa tháng, bá quan trong triều thì lại dẹp y sang một bên mà bắt đầu quay sang cãi vã nhau, những chuyện dù có liên quan hay không đều được lôi ra tất tần tật, khiến Hoằng Trị nhức đầu không chịu nổi. Thấy Hoàng thượng lộ vẻ mệt mỏi, một thái giám già chầu bên cạnh vội bước đến trước mặt, mở một chiếc hộp nhỏ. Dương Lăng ngửi thấy một mùi thơm nhàn nhạt, đưa mắt nhìn, chỉ thấy trên miếng gấm lót trong hộp có đặt một viên thuốc màu đỏ lớn bằng quả nhãn. Hoằng Trị nhón lấy viên thuốc đưa vào miệng rồi nhấp một hớp trà nuốt xuống. Trong lòng Dương Lăng thầm máy động. Trong ấn tượng của y, các Hoàng đế triều Minh phần lớn đều đoản thọ, dường như không mấy người sống quá bốn mươi, nguyên nhân chính là vì bọn họ luôn lấy Đạo giáo làm quốc giáo, cá đời Hoàng đế đều thích uống đan dược do đạo sỹ luyện ra. Những đan dược này tuy có thể làm đầu óc tỉnh táo, nâng cao tinh thần, nhưng phần lớn đều mang độc tố mãn tính. Chẳng lẽ thứ Hoằng Trị uống cũng là loại đan dược kiểu này hay sao? Thấy y ngẩn người, Hoằng Trị còn tưởng y bị lời mình vừa nói ban nãy làm cho hoảng sợ, bèn cười bảo: - Ha ha! Ngươi ở nơi thấp hèn nhưng vẫn không quên lo lắng cho đất nước, trẫm rất lấy làm mừng, Dương khanh chớ nên lo sợ! - Vâng! Dương Lăng nhân cơ hội cố lấy can đảm tâu: - Khải bẩm Hoàng Thượng, ở Kê Minh thần từng theo đại quân giao chiến cùng giặc Thát, cho nên đối với tình hình lúc bấy giờ cũng hiểu rõ được phần nào. Thần nghĩ, người Thát Đát tụ hợp hơn hai vạn quân xâm phạm Đại Minh ta, đại quân hai ngả Trác huyện và Xích huyện đều lập được công lao, cánh quân ở Hoài Lai tuy có phần tổn thất, nhưng công tội cũng đủ bù trừ. Thần mạo muội... nghĩ... Hà tham tướng quả không đến mức phải bị định tội. Trong lòng Dương Lăng thật ra cũng khá thông cảm với vị Hà tham tướng nọ. Tuy rằng ông ta cũng có tư tâm, không điều động bộ đội chủ công chính quy đi chiến đấu với địch trước, nhưng khi đối mặt với giặc Thát, quả thật cũng đã vắt sức lo nghĩ, không dám buông lơi. Nếu như lúc đó không phải do hai vị Giám quân ba lần bảy lượt thúc giục, chưa hẳn ông ta đã nóng vội tiến công như vậy. Giờ đây ông ta lại bị giam vào đại lao trở thành con dê thế tội, Dương Lăng cảm thấy có phần quá hà khắc. Cho nên y thừa dịp Hoàng đế đang cao hứng mà lấy can đảm tâu trình quan điểm của mình. Sau khi nói xong, tim y cũng đập thình thịch, trong lòng cực kỳ căng thẳng, chỉ lo vị Hoàng đế này cũng thuộc loại người buồn vui thất thường. Uống viên thuốc màu đỏ kia xong, tinh thần Hoằng Trị đã tốt hơn rất nhiều, nghe được lời của Dương Lăng, ông bèn liếc nhìn y, hứng thú hỏi: - Ngươi thử nói xem, vì lý do gì mà không nên trị tội hắn? Sớm nay lên triều, bộ Binh, bộ Công, bộ Hộ, Ngũ Quân đô đốc phủ lại cãi nhau loạn cả lên, Hoằng Trị đau đầu chính là bởi chuyện này. Thế nhưng lúc này ông ta đã ở thế cưỡi lưng cọp, nếu như Dương Lăng có thể đưa ra một lý do giúp Hà tham tướng thoát tội, vậy thì những kẻ đòi trừng trị hắn cũng sẽ bỏ qua, quan viên các bộ tự nhiên sẽ không kỳ kèo chuyện này mãi nữa. Đây chính là kết cục mà Hoằng Trị đang cần vào lúc này. Dương Lăng nghe Hoằng Trị nói bằng giọng ôn hoà, dũng khí vì thế cũng tăng lên, y sắp xếp lại dòng suy nghĩ một chút rồi tâu: - Hoàng Thượng! Người Thát Đát dùng năm nghìn kỵ binh tinh nhuệ tấn công Kê Minh, lúc ấy quân phòng thủ trong thành không tới bốn trăm, may nhờ thành lũy kiên cố, hoả pháo lợi hại mới có thể tạm thời giữ vững. Nhưng ngay khi cổng thành bị đại pháo của giặc Thát bắn vỡ, sinh mạng hơn vạn dân chúng trong thành đã như chỉ mành treo chuông. Nếu không nhờ có Hà tham tướng kịp thời dẫn quân kéo đến cứu, trăm họ toàn thành làm sao thoát được cảnh lầm than, thành Kê Minh cũng nhờ thế mà không rơi vào tay giặc. Đây là một công. Lúc tuyết lớn phủ dày trên núi, Hà tham tướng nóng lòng giết địch nên trúng phải mai phục. Đây là một tội. Như vậy là công tội có thể bù trừ. Sau khi quân ta sa vào mai phục của quân địch, Hà tham tướng có thể dứt khoát cho lui quân, khiến quân Thát không thể bày trận có sức sát thương lớn, giảm thương vong của quân ta đến mức thấp nhất, sau đó quả thật chiến trận diễn ra không khác mấy so với giao phong chính diện. Vì vậy tuy chuyện trúng kế là thật, nhưng tổn thất lại không hẳn đã đạt đến mức như bị trúng kế. Dương Lăng không hề đề cập đến những tổn thất về ngựa, chiến xa và quân nhu mà lúc quân Minh tranh nhau bỏ chạy trối chết ra khỏi cốc đã vứt bỏ lại, càng không đề cập đến sự can thiệp ngu xuẩn của hai vị Giám quân không hiểu gì về việc quân. Lúc này y vẫn còn thấp cổ bé họng, nếu nói ra chỉ e hiệu quả không lớn, ngược lại sẽ còn tự lôi mình vào cái vòng xoáy to lớn này. Kế đó y liền lái câu chuyện qua hướng khác: - Khải bẩm Hoàng Thượng! Vì thế nên thần cho rằng, binh sỹ Hà tham tướng không đông bằng đối phương nhưng lại đạt được kết quả chiến đấu như vậy, vẫn có thể xem là một viên lương tướng. Nếu trách phạt quá nặng, e sẽ khiến tướng sỹ tiền phương e ngại, sau này giao chiến với địch sẽ không dám liều mạng, chỉ mong không sơ sẩy, chẳng cầu có công lao. Đến lúc đó ai nấy lâm địch đều e dè chùn bước, chẳng phải khiến quân Thát càng thêm kiêu ngạo ư? - Ồ...! Hoằng Trị khẽ gật gù, như có điều nghĩ ngợi. Thoạt tiên nhận tin báo từ khoái mã của Lưu Cẩn, biết tiền phương hao binh tổn tướng, ông nổi cơn giận dữ nên mới lập tức lệnh cho Cẩm Y vệ giải Hà tham tướng về kinh luận tội. Từ xưa, chốn quan trường là nơi mà người ta chỉ quan tâm tới lợi ích của bản thân, kẻ làm quan trong triều chỉ lấy việc "đoán mò ý vua" làm mục tiêu hàng đầu. Nếu Hoàng thượng muốn trừng trị một người nào đó, bọn họ sẽ vắt óc suy nghĩ gán tội danh cho kẻ ấy để Hoàng thượng có thể trừng trị hắn một cách “công bằng chính trực”. Những người phẩm đức cao thượng một chút, chỉ cần không ném đá khi người ta rơi xuống giếng đã là tốt lắm rồi. Có mấy ai lại chịu vì kẻ đó mà nói ra sự thật? Những điều mà Dương Lăng vừa nói ra, đây là lần đầu tiên Hoằng Trị được nghe thấy, cho nên trong lòng lập tức máy động. Ông luôn tiếc nuối là mình không có tài như Thái tổ, Thành tổ, có thể vung roi nơi Tái Ngoại, khiến cho giặc Thát vừa nghe gió đã phải chạy dài. Nhưng là Thiên tử của Đại Minh, ông vẫn hy vọng ít nhất mình có thể khiến giặc Thát không dám tuỳ tiện xâm phạm biên giới, để cho con dân Đại Minh không đến nỗi bị quân man di chà đạp. Có trừng trị một Hà tham thướng hay không, đó không phải là vấn đề lớn, nhưng nếu hình phạt quá nghiêm khiến biên quân sau này cứ sợ bóng sợ gió trong chiến đấu, thật không phải là điều hoàng đế Hoằng Trị mong muốn. Xem ra hồi phong ba "luận tội" khiến cho kinh sư chao đảo lần này có thể lắng lại tại đây rồi. Hoằng Trị âm thầm tính toán trong lòng, chủ định đã có, song vẻ mặt vẫn thản nhiên như không, ông cười rồi hỏi tiếp: - Vương Thủ Nhân ở bộ Binh đã dâng lên một tấu chương, tỏ ra rất mực tôn sùng đạo luyện binh mà ngươi đề cập đến. Hôm nay ngươi cứ nói thoải mái, để trẫm xem thử nó có chỗ nào độc đáo nào! Dương Lăng có phần sầu não, trong bụng nhủ thầm: "Rốt cuộc Thị độc là làm cái gì đây? Chẳng lẽ không phải là làm bạn học với con trai ông sao? Sao lại giống như đang mời thầy về dạy thế này? Bộ còn muốn kiểm tra trước hay sao?" Thế nhưng y lại không rõ, Hoàng đế phải lo nghĩ rất nhiều việc, nếu ông có lòng muốn kiểm tra bản lãnh của một người nào thì chính là có ý quý tài muốn trọng dụng. Nếu đổi lại là một vị quan thành thạo quy tắc quan trường, lúc này nhất định sẽ phấn chấn tinh thần, hận không thể trổ hết thập bát ban võ nghệ ra lập tức để chiếm cảm tình của Hoàng đế. Dương Lăng suy nghĩ một lúc, thầm so sánh một số tình hình bản thân quan sát được và tình hình quân đội đời sau, rồi nói: - Khải bẩm Hoàng Thượng! Thần thấy tướng lĩnh trong quân đội năng lực không đồng đều, tuy có tướng quân dũng mãnh, nhưng phần nhiều chỉ coi trọng sức mạnh cá nhân, không hề có sở trường về trị quân. Hơn nữa, thiên hạ hiện giờ trọng đạo khinh khí (Đạo ở đây là đạo lý, lý luận, còn khí tức là những thứ kỹ thuật, dụng cụ - ND.), trọng văn khinh võ, quân công trăm trận không bằng một bài văn chương cẩm tú, khiến đa phần những người văn võ song toàn đều bỏ võ mà theo văn, thế nên lương tướng càng thêm khó cầu. Vả lại trong quân đội hiệu lệnh thì không đồng nhất, vũ khí giáp trụ thì không giống nhau, lương thảo cung ứng cũng không đồng đều, thường ngày huấn luyện cực ít, cho dù có sức chiến đấu cũng khó mà phát huy. Ở Kê Minh thần thường được thấy quân đội thao diễn, lúc ấy cờ xí rợp trời, áo quần rực rỡ, đao thương sáng loáng, chiên trống rền vang, trông rất oai nghiêm hùng tráng. Thế nhưng vì phần lớn thời gian binh sỹ chỉ diễn tập trên những trận hình như thế này, xem trọng bề ngoài mà không quan tâm đến hiệu quả thật, cho nên thật sự không có bao nhiêu tác dụng. Quân đội cần phải luyện tập hằng ngày, cho dù thế nào đi chăng nữa cũng phải bỏ ra một chút thời gian vào diễn tập dã chiến, như thế thì tân binh mới có thể trở thành binh sỹ lão luyện, binh sỹ lão luyện mới có thể trở thành tinh binh. Khi ấy quân đội Đại Minh ta với hoả khí được trang bị, nhất định sẽ là một mũi nhọn sắc bén. Nếu dùng tốt, giặc Thát sẽ không chịu nổi một đòn. Nhưng binh khí dù tốt thì cũng phải có người sử dụng, trong khi đó quân sỹ bây giờ kẻ biết dùng súng đạn đã là khó kiếm, đừng nói là thành thạo. Cho nên, thần nghĩ rằng luyện binh bằng thực chiến mới là cách hữu hiệu nhất để quân đội mạnh lên. Sắc mặt Hoằng Trị hơi sầm xuống. Cái tệ nạn "tướng không biết quân, quân không biết tướng" không phải là ông không biết, nhưng chia tách binh lực, hạn chế binh quyền là thủ đoạn quan trọng để đế vương nắm vững quân quyền. Nếu cho phép tướng lĩnh hoàn toàn khống chế quân đội, thao luyện diễn tập thường xuyên, vậy chẳng phải là trao quyền hành vào tay kẻ khác hay sao? Thoáng thấy sắc mặt của Hoằng Trị, Dương Lăng biết là hỏng bét rồi. "Từ xưa đến nay, đế vương lo nhất chính là chuyện soán ngôi đoạt quyền, những gì mình nói chẳng phải là phạm vào điều kiêng kỵ của lão ta sao?" Nghĩ thế y bèn vội vàng nói tiếp: - Cho nên thần nghĩ, có thể tuyển chọn lương tướng làm giáo đầu chuyên trách luyện binh, cứ nghìn người thì lập thành một đoàn, huấn luyện cho họ năng lực chủ động tác chiến và ứng biến khi lâm địch. Đến khi chiến sự nổ ra, người cầm quân chỉ cần đứng giữa điều khiển, cho dù chủ soái không có mặt, sự phối hợp giữa các đạo quân cùng lắm cũng chỉ bị sai lệch một chút, tuyệt đối sẽ không xuất hiện cục diện ‘tướng soái vắng mặt thì toàn quân tan vỡ’. Nói tóm lại, thần cho rằng từ xưa đến nay vua chúa các đời đều là trọng tướng không trọng binh, thường có câu rằng ‘ba quân dễ kiếm một tướng khó cầu’, nhưng dùng phép luyện binh này thì lại là trọng binh không trọng tướng. Hãy xem kỵ binh tinh nhuệ của Mông Cổ năm xưa, những tướng lĩnh cầm quân của họ có mấy ai đã từng đọc qua binh thư chiến sách, hiểu biết văn thao võ lược? Nếu toàn quân đều dũng mãnh thiện chiến, cho dù không có lương tướng thì cũng có ai có thể địch lại đây? Y phải cố nghĩ cách chuyển đổi một số thuật ngữ hiện đại thành lời mà Hoằng Trị có thể hiểu được rồi nói cho ông ta nghe, cho nên có chỗ diễn đạt không được trọn ý. Thật ra, điều mà y muốn nói chính là tăng cường năng lực chủ động tác chiến của các đơn vị cấp độ từ đoàn trở xuống trong quân đội, tướng lĩnh cao cấp chỉ phụ trách đứng giữa điều khiển mà không phải tự làm hết mọi việc. Làm như vậy mặc dù là trao quyền nhiều hơn cho quân đội, nhưng quyền lực thực chất của các tướng lĩnh cao cấp lại không có gì thay đổi, cho nên thực tế thì quyền kiểm soát của Hoàng đế lại càng tăng thêm. Hoằng Trị nghe đến phần sau, lờ mờ cảm thấy nội dung mà y nói dường như vừa có thể tránh xảy ra tình trạng thần tử nắm giữ binh quyền mà sinh lòng tạo phản, lại vừa có thể đề cao năng lực tác chiến của quân Minh, nhưng nhất thời lại không hiểu thấu được hoàn toàn. Ông đang định hỏi thêm, cụ thể hơn thì vị thái giám già bên cạnh khẽ bước lên thấp giọng nhắc: - Bệ hạ, ngọ triều sắp bắt đầu rồi, người xem... Hoằng Trị khẽ ồ một tiếng rồi bảo Dương Lăng: - Ừm, lời ái khanh rất có lý, trẫm sẽ cân nhắc. Người đâu, thưởng cho Dương Lăng ngự bài đi lại trong cung, ban cho xuất thân đồng tiến sỹ, bắt đầu nhậm chức Đông cung Thị độc ngay trong hôm nay. Hãy đưa Dương khanh đến Xuân Phường đi! - Tạ ơn Hoàng Thượng! Dương Lăng quỳ xuống tạ ơn, hai tay tiếp nhận một miếng ngọc bài cho phép ra vào cấm cung mà thái giám đưa cho, sau đó đi theo tên tiểu thái giám đã dẫn y đi vào lui ra ngoài. Dương Lăng đi theo tên tiểu thái giám qua cổng Càn Thanh, thẳng đến Xuân Phường, nơi thái tử ở. Sau khi bước vào một tòa cung điện, Dương Lăng đứng chờ ở ngoài cửa, còn tên tiểu thái giám vào trong bẩm báo. Một lúc sau, cửa cung điện mở ra, một viên quan trạc ngũ tuần bước ra, phất ống tay áo, hầm hầm bỏ đi, không thèm liếc Dương Lăng lấy một cái. Dương Lăng đang ngẩn người nhìn theo bóng lưng ông ta thì tên tiểu thái giám đưa tin cũng đã bước ra theo. Y nhìn về phía Dương Lăng nói: - Dương thị độc, giờ ngài hãy chờ ở đây đi! Cốc công công đã biết rồi, chờ một lát Thái tử gia sẽ triệu kiến ngài. Ta về trước đây. Dương Lăng đứng nguyên tại chỗ, chờ cho đến khi gót chân mỏi nhừ. Thấy trong cung này bốn bề tĩnh mịch, không hề có cung nữ, thậm chí thái giám cũng không thấy một ai, y nhân cơ hội khom lưng vận động thân thể đang mỏi nhừ một chút. Bỗng nhiên lưng y chợt trầm xuống, ngay sau đó vai như bị siết lại, tựa như có vật gì đó đang bò lên vai y, Dương Lăng sợ hãi giật nảy mình. Y vừa xoay đầu, một khuôn mặt Thiên Lôi lông lá vừa vặn đối diện với y. Trên khuôn mặt xấu xí đó, một cặp mắt nhỏ xíu xoay tròn đang trừng mắt nhìn y không chớp. Dương Lăng kinh hoảng la to một tiếng. Không đợi y tóm lấy, khuôn mặt Thiên Lôi kia còn bị tiếng la của y làm cho hoảng sợ hơn, lập tức rụt đầu lại, thoắt một cái đã phóng tót lên đầu y. Lúc này, từ nơi cửa điện phụ vọng lại giọng đùng đục bể tiếng của một thiếu niên: - Cốc Đại Dụng, Lý đại học sỹ đã đi chưa? Úi, ngươi là ai? Đừng có cử động lung tung kẻo tiểu hầu nhi của ta nổi nóng! Cẩn thận không nó cào khắp mặt ngươi đó!

Chương 59: Đào tạo cướp biểnDịch: 6300 Biên dịch: Vo vong Biên tập: Ba_Van Hiệu đính: Nguồn: www.tangthuvien.com Dương Lăng mỉm cười. Trước mặt y là một cậu nhóc chưa hiểu mấy về phải trái đúng sai, là một tờ giấy trắng có thể tô cũng có thể xóa. Lý học sỹ dạy cho y lễ nghĩa liêm sỉ, dạy cho y lối tự mãn của thiên triều; Cốc Đại Dụng lại dạy y ăn chơi hưởng lạc, hoang dâm vô độ; vậy thì phải để cho Dương Lăng ta dạy y nhìn ra thế giới, hướng lòng tham lam và dã tâm ra bốn bể! Giáo dục, phải bắt đầu từ bé... Chương 59 - Đào tạo cướp biển Dương Lăng quay đầu nhìn lại, thấy một cậu thiếu niên đứng ngay sau lưng mình đang vỗ tay cười lớn. Tiếng cười còn chưa dứt, cậu ta vừa thấy mặt y thì đột nhiên trợn mắt há mồm, ngớ người chăm chăm nhìn y, một lúc lâu sau mới phấn khích hô to: - Là ngươi à? Ngươi là thị độc của ta sao? Cái gã... gã Dương Lăng, dịch thừa ở Kê Minh chính là ngươi hả? Vừa rồi Dương Lăng được diện kiến Hoằng Trị nên đã sớm biết tiểu thư sinh mà mình gặp hôm qua chắc chắn là Chính Đức rồi, cho nên cũng không bị bất ngờ. Y cười gượng, cúi đầu trả lời: - Thái tử điện hạ! Vi thần chính là Dương Lăng, xin thứ cho vi thần không thể làm lễ với Thái tử được, vì... vì... Chu Hậu Chiếu cười hì hì, khoát tay nói: - Không cần hành lễ, không cần hành lễ! Ngày nào cũng làm lễ, phiền chết đi được! Lúc này, một gã thái giám béo ú đang dắt theo một con chó đen lớn cao bằng nửa thân người từ trong cung điện đi ra, hắn cười hì hì: - Thái tử gia! Vừa rồi nô tài thật sự là sợ chết khiếp đó. Con chó này trốn trong tủ chẳng chịu ngoan ngoãn gì cả, lão nô đã vứt mấy cục xương thịt vào trong rồi mà nó vẫn ư ử suốt, suýt chút nữa thì bị Lý học sỹ phát hiện. Dương Lăng cẩn thận quan sát Cốc Đại Dụng. Y thấy hắn vóc người mập lùn, mặt tròn, mày rắn, mắt lươn, khuôn mặt tươi tắn. Nếu không sớm biết sự tích về sau của kẻ này thì Dương Lăng thực sự cho rằng hắn rất hòa ái tốt bụng, khiến người khác cực kì yêu mến. Chu Hậu Chiếu cười như một đứa trẻ đắc ý, hỏi gã: - Đại Dụng! Lý thái phó đi rồi sao? Cốc Đại Dụng cười vuốt đuôi: - Chỉ trong hai canh giờ mà Thái tử gia chui ra chui vào nhà xí tới tám lần, Lý đại nhân sớm đã khó chịu rồi. Mặc dù hôm nay ngài ấy không phải chầu triều sớm nhưng phải tới dự ngọ triều, vừa nãy không chờ được nữa nên đã xin cáo lui trước rồi. Chu Hậu Chiếu cười ha hả, y nhón mũi chân bước đi, lắc lư người ba lần, vươn cổ thẳng đơ, giống như một con lật đật, nói chậm rì rì: - Quân tử cầu học đạo - không cầu ăn uống, quân tử lo không học được đạo - không lo nghèo. Kẻ làm quân vương - phải biết nhân từ, kẻ làm bề tôi - phải biết cung kính, kẻ làm con - phải biết hiếu thuận, kẻ làm cha - phải biết nhân từ, giao thiệp với người khác - phải biết giữ chữ tín.... Chu Hậu Chiếu đọc xong liền cau mày than thở: - Thánh nhân chỉ nói một câu về lễ, nghĩa, nhân, trí, tín, Lý đại học sĩ lại lôi ra một đống dẫn chứng, trích dẫn đủ thứ kinh thư điển tịch, đã giảng giải mất bảy ngày trời rồi. Ta thấy thật kỳ quặc, cái đầu của thánh nhân trông nó như thế nào nhỉ, lúc nói ra câu đó, ông ta có thực sự nghĩ nhiều và kỹ như vậy không? Muốn dạy ta trở thành quân vương thì phải giảng đạo trị quốc chứ, sao mà mỗi câu đều cứ phải lôi bằng được các bậc thánh nhân từ cả nghìn năm trước vào, như kiểu nếu không làm thế thì người khác sẽ không phục vậy. Thực sự là cực kỳ nhạt nhẽo, ta nghe mà chán muốn chết. Y phất tay, giống như vừa trút được gánh nặng: - Đi rồi thì tốt, đi rồi thì tốt! Ông ta đi rồi thì ta cũng trở vào trong thôi! Chu Hậu Chiếu đưa tay huýt gió gọi con khỉ đang ngồi chồm hỗm trên đầu Dương lăng nhưng nó vẫn nghìn ngang nhìn ngửa, không buồn để ý tới y. Chu Hậu Chiếu nhếch miệng cười: - Xem ra con khỉ của ta rất thích ngươi đó, đi thôi! Dương thị độc! Chúng ta vào trong nào! Dương Lăng méo mặt bám theo sau Chu Hậu Chiếu bước vào thư phòng dành cho Thái tử đọc sách. Tuy gọi là thư phòng nhưng lại giống một cung điện lớn, rất vắng vẻ, chỉ có hai gã tiểu thái giám phục dịch đứng ngay sát cửa. Thấy con khỉ ngồi chồm hỗm trên đầu Dương Lăng, hai tên này không nhịn được phải che miệng cười trộm. Chu Hậu Chiếu thoải mái ngồi xuống một cái ghế thấp được sơn sáng bóng, liếc nhìn Dương Lăng với vẻ vô cùng hứng thú, đoạn vui vẻ cười bảo: - Tới đây nào! Dương thị độc ngồi đi! Để ta bảo Đại Dụng cho ngươi xem trò khỉ cưỡi chó, còn có phi qua vòng lửa, rất hay đó. Dương Lăng cẩn thận ngồi xuống sau một cái bàn. Chu Hậu Chiếu lấy mấy trái cây trên đĩa ném xuống dưới đất, con khỉ đang trên đầu Dương Lăng liền lao xuống nhặt, ngồi xổm dưới đất gặm ăn. Chu Hậu Chiếu bảo Cốc Đại Dụng: - Ta đói rồi, mang tới đây cho ta chút đồ ăn đi! Cốc Đại Dụng đang buộc con chó vào cây cột trong điện, nghe xong liền bảo mấy câu với tên thái giám trước mặt, tên thái giám đó phóng đi như bay. Nơi Thái tử đọc sách chỉ có thái giám, không có cung nữ hầu hạ. Chỉ một lát sau, tám tên tiểu thái giám bưng mâm đi vào. Vốn Dương Lăng đang đói meo, ngửi thấy mùi thức ăn, bụng y liền sôi ùng ục. Tiểu Thái tử thính tai nghe được, thế là bèn vừa cười vừa chỉ về phía trước Dương Lăng nói: - Bày ở đó, bày ở đó! Nếu như trong cung của Thái tử ta mà có người chết đói thì đúng là chuyện khiến người ta cười đến rụng răng mất! Chu Hậu Chiếu nói xong liền cười hì hì đứng lên, tùy tiện bước tới ngồi xuống bên cạnh Dương Lăng, đưa cho y đôi đũa bạc, nói: - Ăn đi, nếm thử xem thức ăn trong cung của ta thế nào! Dương Lăng thấy vị hoàng đế Chính Đức trong truyền thuyết này chẳng hề có vẻ kiêu căng phách lối chút nào, cảm giác gò bó liền biến mất. Có Dương Lăng ngồi cùng, dường như Chu Hậu Chiếu ăn cũng ngon miệng hơn, y vừa ăn vừa nói với Dương Lăng: - Hôm nay ngươi không tới nghe Lý thái phó giảng bài cho nên buổi chiều cũng chẳng có gì để giảng giải cho ta cả nhỉ! Phải rồi, hôm qua ngươi có nói tới thứ gì đó gọi là đấu bò tót, mau kể cho ta nghe đi! Dương Lăng vốn cho rằng thị độc chỉ cần nghe giảng cùng với thái tử, không để cho Thái tử quá buồn chán là được, giờ nghe ý tứ của Chu Hậu Chiếu, dường như thị độc còn phải phụ trách giải đáp thắc mắc khi Thái tử tự học. Nếu như quả thật vị Thái tử này chuyên cần hiếu học, tên thị độc dốt nát mình đây chắc sẽ lộ tẩy ngay tại chỗ mất? Dương Lăng nghĩ tới đó không khỏi mừng thầm, y vừa nhấm nháp của ngon vật lạ do ngự trù nấu nướng vừa kể về môn thể thao đấu bò tót ở Tây Ban Nha cho Chu Hậu Chiếu nghe. Hiểu biết của Dương Lăng về môn thể thao này rất ít ỏi, thế nên y chỉ tập trung kể những chuyện cười về những đấu sĩ bò tót sẩy tay bị bò tót đuổi loạn khắp sân và bị húc văng khỏi đấu trường. Dương Lăng vốn giỏi mồm mép, lại cố ý thêm mắm thêm muối, không chỉ Chu Hậu Chiếu say mê mà ngay cả Cốc Đại Dụng và những tiểu thái giám dâng cơm đang đứng ở bên cạnh cũng nghe đến nhập thần. Dương Lăng thấy Cốc Đại Dụng đang cười ngặt nghẽo mà trong lòng thầm cảm thấy xấu hổ, trước mặt mình là những ai chứ? Một kẻ là hôn quân tương lai nổi tiếng dâm đãng, còn kẻ kia là tên đại gian đại ác lừng danh. Còn mình thì sao? Mang tiếng là thị độc nhưng lại đóng vai một tên lộng thần, một tên hề mua vui cho Thái tử. Không sai, y chẳng có dã tâm gì cả, thế nhưng đã tới cái thế giới này rồi, y không thể biến mình thành một khán giả thờ ơ với sự đời được. Về mặt tình cảm y cũng chẳng khác gì những người Hán hiện nay, trang bi thảm nhất trong lịch sử Trung Quốc đối với y vốn chỉ là lịch sử, là quá khứ đã qua, y chẳng thể làm gì được, nhưng bây giờ, hết thảy còn chưa diễn ra. Đế quốc Đại Minh lúc này vẫn là quốc gia giàu có nhất thế giới, vận mệnh đã sắp đặt y tới trước mặt quân vương của Đại Minh, lẽ nào y lại không bỏ ra một phần sức lực? Sự suy tàn của triều Minh chủ yếu là do tư duy của bọn họ quá bảo thủ. Kẻ thống trị, thậm chí cả giai cấp thống trị đều mù quáng tự cao tự đại, bế quan tỏa cảng. Bây giờ là thời điểm cả thế giới đang phát triển mạnh cùng chủ nghĩa tư bản đang chuyển mình, nếu như Trung Quốc có thể giữ mối liên hệ mật thiết với thế giới thì tư tưởng và nhận thức của cả giai cấp thống trị sẽ ngầm chịu ảnh hưởng, nhất định sẽ có thể phát triển theo hướng tích cực hơn. Người trước mặt mình là ai chứ? Là Hoàng đế Đại Minh tương lai đó! Đại Minh lúc này đang thiếu thứ gì? Chính là thiếu chí tiến thủ! Nếu như có thể khiến vị Thái tử trước mặt này nhìn xa trông rộng hơn, ở thời kỳ quân quyền tối cao này, một suy nghĩ của y cũng có thể sinh ra tác dụng không để đoán trước được với sự phát triển của lịch sử. Lịch sử... thực sự là không thể thay đổi sao? Dương Lăng nghĩ tới đó, trong lòng thầm thấy rộn ràng. Y cố giữ bình tĩnh, nói với Chu Hậu Chiếu: - Thái tử, nếu người thích nghe, vi thần có thể kể mấy chuyện khác cho người. Chu Hậu Chiếu vui mừng quá đỗi, bèn gật đầu liên tục. Mặc dù y là Thái tử nhưng đời sống tinh thần lại kém xa trẻ em thời hiện đại, dùng từ khô khan vô vị để hình dung cũng không quá đáng chút nào. Lúc này nghe Dương Lăng kể những chuyện mới lạ y mới biết trên thế giới này còn có rất nhiều thứ đặc sắc và hay ho như thế, cũng biết trời đất rộng lớn đến mức nào. Vốn đang nghe đến say mê nên Dương Lăng vừa đề nghị như vậy, cậu thiếu niên Chính Đức bèn vội vàng bảo với Cốc Đại Dụng: - Đại Dụng! Kêu người báo với Trí Vân thiền sư hôm nay không học Phạn văn nữa! Dương Lăng nghe vậy thì rất ngạc nhiên, không ngờ Chu Hậu Chiếu còn học cả ngoại ngữ nữa. Mà qua cách y tùy ý bảo thái giám hủy giờ học, rất hiển nhiên là môn học đó không phải do hoàng đế sắp xếp cho y. Hình tượng Chính Đức này khác rất xa kẻ hoang dâm vô độ, vô công rồi nghề mà Dương Lăng biết. Dương Lăng thong thả kể chuyện cướp biển Tây Ban Nha. Những nữ vương cướp biển tóc đỏ, thuyền trưởng cướp biển chột mắt được y gia công gộp lại thành một chuyện. Vẫn duy trì được sự thú vị cho câu chuyện, y còn kể thêm về việc tranh chấp bá quyền trên biển của các nước châu u đang diễn ra vào thời điểm hiện tại. Thậm chí y còn hư cấu thêm một nước tương tự với Đại Minh ở bờ kia đại dương, nằm cách Đại Minh còn xa hơn các nước Ả-Rập, y kể lại câu chuyện từ lúc nó hùng mạnh, giàu có, cho đến khi suy bại, chịu đủ sự lăng nhục. Chuyện cướp biển đầy hấp dẫn khiến Chu Hậu Chiếu vốn thích phiêu lưu nghe đến mê mẩn. Dương Lăng bắt đầu kể đến đoạn các nước châu u vì tranh giành quyền bá chủ trên biển, bề ngoài thì tuyên bố không đội trời chung với cướp biển nhưng lại ngấm ngầm nuôi dưỡng và sai chúng tấn công thuyền buôn nước khác. Cốc Đại Dụng ở bên hơi chau mày, tỏ ra khinh thường các nước nhỏ man di này không biết sĩ diện. Tiểu Chính Đức thì lại xoa tay, giọng say mê: - Hay quá, có triều đình chống lưng phía sau, lại không làm mất thể diện của triều đình, chuyện làm ăn lãi như vậy, cướp biển lại hay như vậy, ngay của ta cũng muốn thử một phen, há há há... Dương Lăng mỉm cười. Trước mặt y là một cậu nhóc chưa hiểu mấy về phải trái đúng sai, là một tờ giấy trắng có thể tô cũng có thể xóa. Lý học sỹ dạy cho y lễ nghĩa liêm sỉ, dạy cho y lối tự mãn của thiên triều; Cốc Đại Dụng lại dạy y ăn chơi hưởng lạc, hoang dâm vô độ; vậy thì phải để cho Dương Lăng ta dạy y nhìn ra thế giới, hướng lòng tham lam và dã tâm ra bốn bể! Giáo dục, phải bắt đầu từ bé...

Chương 60: Hải đồ Trịnh HòaDịch: 6300 Biên dịch: Ba_Van Biên tập: Shandian Hiệu đính: Nguồn: www.tangthuvien.com Dương Lăng tràn đầy tự tin, giả làm bộ dạng của một lão thần ung dung đáp: - Thái tử cứ yên tâm! Chỉ cần dùng kế này là nhất định có thể bịt được tai mắt của ngự y. Chương 60: Hải đồ Trịnh Hòa Nước Thiên Phương, quốc gia cổ có nền văn minh tự cung tự cấp, có quá nhiều điểm giống với triều Minh đến nỗi Chu Hậu Chiếu không biết tự lúc nào đã coi nó chính là quốc gia của mình, cảm tình với Thiên Phương quốc tự nhiên tăng lên. Khi y nghe tới đoạn quốc gia hùng mạnh này dần dần tụt hậu so với các nước phương tây, trong khi các nước phương tây bước vào thời kỳ Phục hưng, khoa học kỹ thuật phát triển, Thiên văn, Vật lí, Hóa học đều tiến bộ cực nhanh, đã mài đao xoèn xoẹt với ý đồ xâu xé chiếc bánh ngọt Thiên Phương, mà đất nước Thiên Phương lại mù quáng tự cao tự đại, không ngừng suy bại, khiến cho y tức đỏ mặt, căm hận đập bàn chửi: - Tên hoàng đế đó thực là cực kì ngu xuẩn, làm ta tức chết mất! Nghe tới quân đội tám nước dựa vào thuyền chắc pháo mạnh, chỉ vài nghìn người ít ỏi mà tấn công được vào kinh sư của Thiên Phương quốc, thiêu rụi cả một công trình vĩ đại có một không hai được xây dựng bởi sức lực của cả nước, ngay cả Cốc Đại Dụng cũng tức giận đến mặt nổi gân xanh, the thé nói: - Hoàng đế nước đó thật quá ngu xuẩn, mấy chục vạn đại quân mà lại không chặn nổi vài nghìn quân ít ỏi! Đáng thương! Đáng hận! Dương Lăng than thở: - Ban đầu những quốc gia đó so với nước Thiên Phương đều nghèo túng như ăn mày, nhưng bọn họ không hề tự đại, lại rất chú trọng giao lưu. Quốc gia này phát minh ra khoái thuyền, quốc gia khác liền lập tức học được. Quốc gia kia phát minh được đại pháo có tầm bắn xa và uy lực lớn hơn pháo Đại tướng quân, ngay lập tức có nuớc phái người tới học tập, sau đó phát minh ra đại pháo còn lợi hại hơn. Bọn họ phát triển không ngừng, còn nước lớn kia thì lại bế quan tỏa cảng, cho rằng mình đứng đầu thiên hạ, sao mà không bại cho được? Chu Hậu Chiếu lại đập bàn nói: - Cái loại thuyền cướp biển ba cột buồm với thuyền nhỏ có nhiều buồm đó thì lợi hại lắm hay sao? Ta thấy rằng chính nước Thiên Phương kia mới là kẻ vô dụng, nếu gặp phải đại chiến hạm của bổn triều thì... hừ hừ! Y quay sang hỏi Cốc Đại Dụng: - Đại Dụng, bản vẽ bảo thuyền đi Tây dương từ thời Vĩnh Lạc (1) để ở đâu rồi? Mang tới đây cho ta, để Dương thị độc xem xem, so với thuyền nhỏ của Tây phiên kia thì ai hơn ai? Cốc Đại Dụng khom lưng, khuôn mặt béo tròn tươi cười kèm theo sự kính cẩn, trả lời: - Bẩm thái tử gia, tất cả bản đồ biển, bản vẽ bảo thuyền của chuyến Trịnh công công tới Tây dương vốn giao cho bộ Công ở Nam Kinh, thời hoàng đế Anh Tông đã chuyển đến bộ Binh ở kinh sư, lúc ấy định dùng khi vượt biển đến phương Tây lần nữa. Nhưng thị lang Lưu Đại Hạ nghe được chuyện này, cảm thấy việc lưu thông với phương tây làm hao tài tốn của, chẳng có ích gì, bản đồ biển này quả là mầm họa quốc gia, cho nên y đã giấu nó đi. Nô tài phỏng đoán rằng, bây giờ nó vẫn còn bị quẳng trong đại khố của bộ Binh. Dương Lăng nghe xong người run lên, buột miệng nói: - Gì cơ? Tấm bản đồ kia vẫn chưa bị đốt đi sao? Y nói xong mới nhận ra là đã lỡ lời, trong lòng hối hận không thôi. Mặc dù y nhớ trong sách sử có nói rằng hải đồ kia đã bị Lưu Đại Hạ, một kẻ chính trực nhưng thiển cận, đốt mất rồi, nhưng lại không nhớ chuyện xảy ra khi nào, nếu như hiện tại vẫn chưa xảy ra việc này, há không phải khiến người ta nghi ngờ sao? Cốc Đại Dụng cười híp mắt lườm y, thầm nghĩ: "Quả nhiên tên Dương Lăng này là người của Cẩm Y vệ, vòi của bọn họ vươn rộng thiệt, ngay cả chuyện cực kỳ bí mật này mà cũng biết, hé hé! Tiếc là y có biết nhưng lại không kĩ càng tỉ mỉ như mình." Cốc Đại Dụng cố ý khoe khoang, đắc ý cười: - Dương thị độc có chỗ không biết rồi, chuyện đó chỉ là truyền bậy mà thôi. Lúc đó Lưu Đại Hạ chỉ là một thị lang nho nhỏ, mặc dù y không muốn cho hoàng đế thấy tấm hải đồ đó nhưng cũng không có gan đốt nó đâu. Những thứ đó chất đầy cả năm hòm lớn đó, nếu như y muốn đốt đi, há có thể che mắt người khác? Chẳng lẽ y không cần mạng nữa hay sao? Ha ha, lúc đó y thuyết phục thượng thư bộ Binh là đại nhân Hạng Trung. Hạng đại nhân cho rằng lời hắn nói có lí mới ngầm ưng thuận cho y giấu thứ đó đi, chỉ tâu dối với hoàng đế Anh Tông là công văn từ Nam Kinh chuyển đến quá nhiều, không tìm thấy tung tích, dự tính nếu như hoàng đế Anh Tông đòi gấp quá thì lại mang trình lên. Thực ra lúc đó hoàng đế Anh Tông cũng có nhớ đến chuyện này nhưng khi biết công văn đã bị thất lạc thì cũng không để tâm cho lắm, chính vì thế mà chuyện này đã được giấu đi. Dương Lăng bán tín bán nghi hỏi: - Lời Cốc công công nói là thật sao? Bản hải đồ đó .... đến bây giờ mà vẫn còn sao? Chu Hậu Chiếu cười ha hả: - Cốc Đại Dụng nghe nhiều nhớ lâu, đây chính là sở trường của y. Đại Dụng đọc sách không nhiều nhưng trí nhớ lại rất tốt, y nói còn tất nhiên là còn rồi. Y vốn phục vụ tại Đông Xưởng. Mũi của bọn Đông Xưởng còn thính hơn Đại Hắc của ta đó. Vốn tám năm trước, hoàng đế Hoằng Trị đã từng sủng tín đại thái giám Lý Quảng, một thời nịnh phật nịnh đạo, luyện đan luyện dược, khiến cho khắp triều đình tràn ngập khói đen khí độc. Lúc đó Cốc Đại Dụng được mấy tên gian hoạn Lý Quảng, Dương Bàng sủng ái nên được nghe không ít chuyện. Sau đó Lý Quảng thấy nhóm Lưu Đại Hạ dựa vào đám trung thần được Hoằng Trị tin tưởng mà liên tục dâng tấu phê bình, chỉ trích bọn chúng kéo bè kéo cánh che mắt chủ làm chuyện xấu, nên đã phái Cốc Đại Dụng điều động đội ngũ Đông Xưởng sưu tầm tư liệu của nhóm người này, muốn lật đổ bọn họ. Cho nên trong lòng Cốc Đại Dụng biết rất rõ những chuyện to nhỏ mà Lưu Đại Hạ đã làm. Thế nhưng thời vận của y không tốt, cả bộ tài liệu vừa mới thu thập xong thì Lý Quảng đã bị bệnh chết rồi. Hoàng đế Hoằng Trị vẫn tiếp tục u mê không tỉnh ngộ đã phái người tới nhà y tìm kiếm thiên thư. Kết quả là thiên thư không tìm được mà lại tra ra một lượng lớn vàng bạc châu báu, lúc này mới tin chuyện đám thần tử nói Lý Quảng làm việc tất trách, chuyên nhận hối lộ. Đến lúc này cả phe cánh của Lý Quảng mới hoàn toàn sụp đổ, cả đám thân tín bọn chúng bị thất sủng. Cốc Đại Dụng bị Vương Nhạc Vương công công, thủ lĩnh mới của Đông Xưởng, đuổi ra khỏi đó, phải chịu đựng biết bao năm, hao tổn biết bao tâm sức mới được làm kẻ hầu bên người thái tử. Nghe được lời khen của Chu Hậu Chiếu, Cốc Đại Dụng cười híp mắt, khom khom người, nói: - Tạ ơn Thái tử gia đã khen ngợi! Tuy nhiên thoáng cái đã qua bao nhiêu năm rồi, lão nô lo rằng đống giấy tờ đó không được bảo quản tốt, nếu như bị ẩm mốc, chuột gặm rồi thì có lẽ chẳng thể dùng được nữa. Dương Lăng vừa mừng vừa sợ, nói với Chu Hậu Chiếu: - Thái tử! Năm xưa những bản vẽ sơ đồ chế tạo thuyền này, không biết đã hao tốn tâm trí của biết bao nhiêu người thợ giỏi, tuy rằng bây giờ chưa chắc đã tái tạo được chiến hạm khổng lồ như hồi đó, nhưng để chế tạo ra những chiếc thuyền nhỏ hoàn mỹ thì chúng rất có giá trị tham khảo. Những tấm hải đồ kia mới là những thứ hiếm có hơn. Biển khơi rộng lớn hơn lục địa rất nhiều, mỗi tấm bản đồ đường biển đều phải hao tốn luợng lớn tiền bạc mới vẽ nên đuợc đó. Chu Hậu Chiếu không biết vì sao y lại xúc động như vậy, nhìn hắn một cách khó hiểu, trầm ngâm nói: - Ừm.... Lưu Đại Hạ? Lão già này bây giờ là thượng thư bộ Binh, muốn lấy được thứ này từ tay lão, sợ rằng.... - Sao? Ngay cả thái tử cũng không thể lấy được thứ này từ trong tay lão ư? Dương Lăng nghe xong liền vô cùng thất vọng. Chu Hậu Chiếu bị y kích động, liền ưỡn ngực lên nói: - Lưu Đại Hạ tuy là sủng thần bên cạnh phụ hoàng nhưng lão cũng không dám đắc tội với ta, chỉ là... dù sao lão cũng là quan nhất phẩm, người mà ta phái đi chỉ muốn làm lấy lệ thì không phải là tay trắng trở về sao? Dương Lăng đảo mắt, nói: - Nếu như vậy thì tự thân thái tử gia phải đi một chuyến hay sao? Chu Hậu Chiếu cười ha hả: - Nếu ta tự thân đi lấy thứ đó thì tin rằng lão cũng không dám không đưa cho ta, nhưng mà... Y nhăn nhó một hồi rồi nói tiếp: - Ta muốn xuất cung một chuyến, còn khó hơn lên trời. Một năm, chỉ có phụ hoàng dắt ta ra ngoài dăm ba lần đó thôi. Mấy ngày nữa kỳ thi Đình sẽ bắt đầu, các vị sư phụ của ta đều lo việc tuyển người cho kỳ thi mùa xuân nên không ai tới dạy cả. Phụ hoàng sợ ta bỏ bê việc học hành nên đã sắp xếp mấy thứ khỉ gió cho ta viết, còn ra lệnh cho tả hữu thứ tử của Xuân Phường luân phiên giám sát, thực sự là một tấc khó rời đó. Xuân Phường là nha môn trực thuộc thái tử cung, do hai quan Tả Xuân Phường tả thứ tử và Hữu Xuân Phường hữu thứ tử phụ trách quản lý việc học của thái tử. Những viên quan đảm nhiệm chức thứ tử này đều cương trực thẳng thắn, thậm chí trong đó còn có vài người thuộc đám hàn lâm học sĩ ngu dốt cổ hủ, trước giờ lục thân bất nhận, chí công vô tư. Có bọn họ đốc thúc, chính ra còn khủng khiếp hơn tự thân đại học sĩ giảng bài, Chu Hậu Chiếu nghĩ tới liền đau đầu không ngớt. Dương Lăng biết những bản thiết kế chiến hạm và tấm bản đồ hàng hải hiển thị phía Nam Hải và con đuờng sang phuơng Tây do rất nhiều thợ giỏi vẽ ra vẫn còn trong nhân gian, làm sao hắn có thể để yên cho nó bị tiêu hủy được, nhất thời trong lòng lập tức ngứa ngáy vô cùng. Y thấy Thái tử khó xử, liền vội vàng hỏi: - Thế trong tình huống thế nào thì quan viên Xuân phường mới không thể giám sát Thái tử đọc sách vậy? Cốc Đại Dụng trả lời thay: - Dương thị độc, nếu như thân thể Thái tử bất an thì mới có thể tạm dừng lớp học. Dương Lăng vui mừng: - Thế thì tốt rồi! Chỉ cần Thái tử giả vờ bệnh là xong, phải không? Chu Hậu Chiếu trợn mắt, gắt lên: - Nói dễ vậy à? Nếu ta bảo thân thể bất an thì chẳng phải cả đám Thái y viện sẽ xông ngay tới cuốn lấy ta mà khám bệnh sao? Đến lúc sự việc bị bại lộ, nhất định phụ hoàng sẽ trách móc ta đó. Xem ra, tình cảm của Chu Hậu Chiếu với phụ hoàng của y rất tốt. Hậu Chiếu vừa kính vừa sợ, không hề muốn chọc ông tức giận. Dương Lăng cười nói: - Thế thì có gì là khó? Thái tử chỉ cần nói bị đau đầu, mặc cho y thuật của ngự y thần thông đến đâu cũng chỉ có thể dặn Thái tử cố gắng tính dưỡng, tuyệt không có ai dám nói Thái tử không có bệnh. Chu Hậu Chiếu nửa tin nửa ngờ hỏi: - Quả thực là như vậy sao? Trong Thái y viện có mấy vị quốc y thánh thủ đáng gờm lắm đó. Dương Lăng tràn đầy tự tin, giả làm bộ dạng của một lão thần ung dung đáp: - Thái tử cứ yên tâm! Chỉ cần dùng kế này là nhất định có thể bịt được tai mắt của ngự y. Não bộ là bộ phận phức tạp nhất của con người, dù y học hiện đại phát triển đến đâu cũng không thể chẩn đoán hết bệnh tật của nó. Lúc y làm công tác bồi thường tại công ty bảo hiểm, nếu như gặp phải khách hàng là bạn học, thân thích của mình thì sẽ bày cho họ biện pháp này. Chỉ cần tới bệnh viện nói là bị đau đầu, kể cả là đang khỏe mạnh hoạt bát thì cũng không có máy móc nào có thể chứng minh y nói dối. Y không tin rằng thần y cổ đại dùng cách bắt mạch cũng dám nói rằng một người không có bệnh, trừ phi người đó một tên lang băm chuyên bốc phét. Trước mặt vị đương kim thái tử này, dù cho là lang băm có lòng lừa đảo cũng không dám bảo đảm y không có bệnh, lỡ ra y thực sự có bệnh mà làm chậm trễ việc điều trị thì liền phạm tội mất đầu ngay. Chu Hậu Chiếu nghe vậy vui mừng, nhảy lên cười nói: - Há há há! Như thế rất hay, ngày mốt là kỳ thi mùa xuân, quá trưa ngày mai ta sẽ bắt đầu đau đầu! Y uy phong lẫm lẫm chỉ Cốc Đại Dụng nói: - Đại Dụng, gọi Lưu Cẩn, Mã Vĩnh Thành, Cao Phượng, La Tường, Ngụy Bân, Khâu Tụ, Trương Vĩnh ra đây cho ta. Đám người thối tha các ngươi tụ tập lại rồi tính toán kế hoạch làm sao để ta lẻn được ra khỏi cung, ha ha ha ha..... Dương Lăng nghe Hậu Chiếu nhắc đến những cái tên quen thuộc trên, không khỏi cười khổ trong lòng. Xem ra hôm nay Kinh Sư Bát Hổ đều đã tề tựu tại Đông cung. Thế nhưng y đang muốn Chính Đức theo đường lối của mình vạch ra, tạm thời phải dựa vào tám kẻ này. Bởi vì Dương Lăng muốn tạo nên tất nhiên không phải là một tên "hoàng đế phóng đãng", cũng không phải là một vị vua như “Nghiêu Thuấn" trong mắt đám tiên sinh phẩm hạnh, sĩ tử đại phu. Những người thống trị Trung Quốc bị những lời bịa đặt "Trung Quốc là trung tâm của thiên hạ" mê hoặc quá lâu rồi do đó bọn họ đã chùn chân mỏi gối, rất thiếu dã tâm. Đám sĩ tử đó già cỗi cổ hủ, chăm chăm theo gia pháp tổ tông, gương cũ không đổi, tầm nhìn hạn hẹp. Đầm nước đọng này chỉ cần có một con suối mới chảy vào, hậu thế sẽ có một cục diện hoàn toàn khác. Thế nhưng hiện tại y cũng giống như đang chơi với lửa, nếu như dẫn đường không cẩn thận, Chính Đức khó thành ngọc báu; có dã tâm mà bất tài, hắn sẽ biến thành một tên bạo quân cực kỳ hiếu chiến, như vậy chi bằng cứ để cho hắn trở thành một thiên tử phong lưu chìm trong phụ nữ còn hơn. “Ta sẽ thành hay bại đây? Nếu như bại rồi, trăm năm sau, người đời sau sẽ bình luận thế nào.....?" Khóe miệng Dương Lăng nhếch một nụ cười khổ quái dị, dường như y nghe thấy lời thuyết minh hùng hồn mở đầu một bộ phim kiếm hiệp: "Thời Chính Đức, gian tặc Dương Lăng và Bát Hổ cấu kết với nhau hãm hại trung thần, làm cho triều cương đại loạn, dân chúng lầm than, nhân sĩ giang hồ hiệp nghĩa đồng loạt nổi lên phản kháng, tạo ra bao khúc ca tráng lệ..." (1) Nhắc tới việc Thái giám Tam Bảo hạ Tây Dương (三保太監下西洋) tức là những chuyến thám hiểm Đông Nam Á và Ấn độ dương của Trịnh Hòa (xem chú thích chương 56). Xem thêm http://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BB%8Bnh_H%C3%B2a

Chương 61 – Học sinh bất lươngDịch: VoVong Biên dịch: Biên tập: Ba_Van Hiệu đính: Nguồn: www.tangthuvien.com Tạ Thiên vừa thổi râu vừa trừng mắt một hồi lâu rồi cũng chỉ đành lắc đầu thở dài, thầm nghĩ: “Hôm qua Lý Đông Dương nói Thái tử một tiết học chạy đi nhà xí tới tám lần. Hôm nay mình lên lớp thấy y không đi nhà xí thì đã mừng thầm rồi, chẳng ngờ hôm nay đít y không sao thì cái đầu lại sinh bệnh. Chà, Thái tử lười học như thế, biết làm sao đây?” Chương 61 – Học sinh bất lương “Lứa tuổi thiếu niên nhi đồng là lúc mà thân thể đang phát triển, không được ngủ đủ sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng tới sự trưởng thành của cả tâm hồn và thể xác.” Dương Lăng vừa ngáp dài vừa thầm lầm bầm trong bụng, nếu không phải còn vài phần tự biết mình, nhất định lúc này y sẽ trịnh trọng đưa ra lời kháng nghị như thế với vị Thị giảng học sỹ Tạ Thiên đang thao thao bất tuyệt trước mặt. Mộc Trai tiên sinh đang giảng bài đến lúc hưng phấn, nước bọt bắn tứ tung. Lúc này Chu Hậu Chiếu đang ngồi nghiêm trang sau bàn, vai kề vai với Dương Lăng, vẻ mặt đờ đẫn, ánh mắt ngây ngốc, trạng thái hóa đá này đã kéo dài được gần một buổi sáng rồi. Nhưng từ nửa canh giờ trước Dương Lăng đã bắt đầu ngáp ngắn ngáp dài. Kể từ cái ngáp đầu tiên của y, như có bệnh truyền nhiễm, hai gã học sinh bất lương bắt đầu ngáp liên tục không ngừng. Sau khi ngáp xong, nước mắt trào ra khiến đôi mắt họ ươn ướt. Tạ Thiên nhìn thấy cảnh này thì lại cho rằng Thái tử và Dương thị độc bị nội dung đặc sắc và sinh động trong bài giảng của mình làm cho cảm động, nên lão càng giảng càng hăng. Dương Lăng lại chán nản ngáp thêm cái nữa, sau đó lặng lẽ bĩu môi khinh thường. Chưa nói tới chuyện phải học từ sáng sớm, những bài giảng của lão thư sinh cổ hủ này quả thực là quá mức khô khan vô vị. Nghe nói trong ba vị sư phụ của Chu Hậu Chiếu thì ông này giảng bài chán nhất, quả đúng không sai. Có lẽ những nội dung đó là tài liệu giảng dạy tiêu chuẩn của các vị Thái phó từ cổ tới kim, chúng được giảng cả ngàn năm rồi, biển cả cũng biến thành nương dâu, vậy mà chúng nó vẫn chẳng có gì thay đổi, vừa không liên quan tới thực thế, lại chẳng nói gì tới tương lai. Còn về cục diện thế giới ư? Chuyện đùa! Trong mắt Tạ đại học sỹ, ngoại trừ Đại Minh ra thì còn có thế giới gì nữa chứ? Càng đáng ghét hơn nữa là tay đại học sỹ này còn ỷ vào công phu đủ để thi đỗ Trạng Nguyên của bản thân, toàn bới móc nội dung trong những cuốn sách lạ hoắc đi cùng với những chữ hiếm gặp, dường như không làm như thế thì không đủ thể hiện sự bác học của ông ta vậy. Dương Lăng đưa tay lên bóp trán, giả bộ như đang cúi đầu trầm tư, rồi dựa vào sự yểm hộ của bàn tay y bắt đầu liếc mắt quan sát cái giá bày đồ cổ ở bên cạnh. Trên chiếc giá được làm bằng gỗ lim này bày một loạt những vật kỳ trân hiếm có, ánh mắt Dương Lăng dừng lại trên một chiếc hồ lô sáng bóng được làm bằng bạch ngọc. Chiếc hồ lô bạch ngọc này đẹp thật, vừa nhìn là biết giá tiền không thấp, đường cong mỹ lệ kia cứ tựa như… tựa như thân thể Ấu Nương vậy. Chất ngọc long lanh, đường cong mềm mại, hà hà, thường ngày ta cứ bị bờ vai thon gọn cùng với cái eo nhỏ như lưng ong của Ấu Nương lừa, tưởng rằng thân hình nàng chỗ nào cũng đều nhỏ nhắn lung linh như vậy. Khi nàng nằm sấp trên giường, mái tóc dài đen nhánh che đi một nửa khuôn mặt mỹ lệ đỏ bừng như lửa, cặp vai thon be bé và bờ eo nhỏ xinh xinh kia lại càng tôn lên cặp mông tròn xoe đẫy đà phía dưới cùng với đôi đào tiên vô cùng dụ người ở phía bên trên. Theo những động tác điên cuồng của mình, cặp đùi trắng nõn vừa mềm mại vừa đầy chất đàn hồi kia cứ đưa qua đưa lại, thật khiến người ta phải hoa mắt đắm say. Vào lúc mà Ấu Nương dường như không nhịn nổi nữa, nhưng lại vẫn nhẫn nhịn ngoan cường, tiếng rên rỉ kia mới thật hấp dẫn làm sao, đưa tay sờ vào chỗ nào cũng thấy mềm mại mịn màng như ngọc, sảng khoái vô cùng, thật khiến người ta phải tiêu hồn lạc phách. Sau khi điên đảo một trận xong, ôm thân thể mịn màng trần trụi của nàng trong lòng, để nàng ngồi lên gối, hai người cũng không nói năng gì, cứ để mặt kề sát mặt, lặng lẽ ngồi yên, nghe tiếng nàng thở, cảm nhận tim nàng đập, ôi chao, cảm giác đó mới thân thiết làm sao… Thật là yêu nàng chết mất! Ngày mai nhất định phải tranh thủ thời gian đi mua cho nàng bộ bàn trang điểm, gương soi, màn lưới, chăn lụa,… Mình phải dốc hết sức để nàng có thể sống thật vui vẻ; một nương tử tốt như thế, không thể bạc đãi nàng được! Một cô gái mới có mười sáu tuổi đầu, ở thời hiện đại thì vẫn còn được ba mẹ nuôi nấng và chăm sóc, vậy mà ngày ngày nàng đều phải giặt giũ quần áo nấu nướng cơm nước cho mình, lại lo hết việc nhà, sáng sớm canh tư đã phải dậy làm cơm. Ôi, trong mắt nàng, nàng là cây tầm gửi sống dựa vào mình, nhưng trong lòng mình, nàng mới là cái cây cao để mình dựa dẫm. Đang lúc Dương Lăng suy nghĩ vu vơ, chợt vạt áo y bị Chu Hậu Chiếu giật giật. Y sững người, bèn ngẩng đầu nhìn lên, trên chiếc bàn trước mặt đột nhiên nghe bộp một tiếng, thì ra Tạ Thiên vừa dùng chiếc thước trong tay gõ mạnh một cái xuống bàn, sau đó chắp tay sau lưng đi ra chỗ khác, lạnh lùng hỏi: - Dương thị độc thấy bài giảng của ta thế nào? - Dạ? À, tuyệt lắm, tuyệt lắm! Thật là nghe xong như tỉnh cơn mê, đề hồ quán đỉnh (1)! Dương Lăng giật nảy mình, lập tức rời khỏi cơn tưởng tượng. Gã huynh đệ chung hoạn nạn Chu Hậu Chiếu của y ở bên cạnh che miệng cười thầm trước tai họa mà y gặp phải, đồng thời hai tay linh hoạt kết thành một cái đại thủ ấn ở dưới bàn. Thật không nhìn ra Chu Hậu Chiếu học cái này nhanh như thế, chỉ thấy mấy cái kim cương ấn, sư tử ấn, trí quyền ấn, nhật luân ấn, bảo bình ấn (3) được mười ngón tay của hắn bắt liên tục, động tác vừa nhanh vừa khéo, khiến người ta nhìn mà hoa hết cả mắt, đồng thời trong miệng hắn còn khẽ lẩm bẩm: “Ta quán, ta quán, ta quán quán quán, bảo bình quán đỉnh, nhị lợi năng thành kim cương vương quảng đại phật ngữ quán đỉnh, mật tam thậm thâm quán đỉnh, vô nhị vô biệt đại lạc quán đỉnh…” (3) Đang khi Chu Hậu Chiếu quán đỉnh đến say mê, Tạ Thiên chợt hỏi: - Thái tử mặt mày rạng rỡ, nhất định là đã lĩnh ngộ được nhiều điều, xin Thái tử hãy giải thích một chút được chăng? - A! Dạ? Cái gì? Chu Hậu Chiếu chậm rãi ngẩng đầu lên, khuôn mặt lập tức trở nên giống như một thằng đần, ngây người nhìn Tạ Thiên. Dương Lăng nhìn hắn với vẻ đồng cảm, trong lòng cũng sinh ra nhiều cảm xúc. Đứa nhỏ này thực sự là học nhiều quá đến nỗi sắp trở thành thằng ngốc rồi.Thực ra, hắn cũng thật đáng thương. Học sinh thời hiện đại khi đi học còn có giờ thể dục, âm nhạc, mỹ thuật gì đó để tiêu khiển một chút, nhưng tiểu tử này thì cả ngày toàn phải nghe giảng bài về chính trị với văn học. Dương Lăng khẽ ho một tiếng, đưa ngón tay lên day day trán. Chu Hậu Chiếu thấy thế liền lập tức hiểu ý, nhăn mặt nói với Tạ Thiên: - Tạ đại học sỹ! Đầu ta hơi đau, ối chao, cứ hơi suy nghĩ một chút là lại đau. Dương Lăng lén giơ ngón tay cái lên bên dưới gầm bàn. Khóe miệng Chu Hậu Chiếu hơi mấp máy đoạn hắn cũng đáp lại y bởi động tác Giống hệt. Cốc Đại Dụng đứng hầu một bên đã lâu, lúc này nghe thấy vậy bèn lao nhanh ra, bộ dạng như một tên hán gian đang cầm theo khẩu súng mauser. Gã kiễng chân nhìn trái ngó phải, đoạn thất thanh kêu to như có cướp tới nhà: - Thái tử gia đau đầu sao? Người đâu, người đâu rồi, mau đi gọi thái y, chậm là ta lấy đầu ngươi đó! Tên tiểu thái giám đang đứng ở cửa bèn lao đi như một làn khói. Tạ Thiên vừa thổi râu vừa trừng mắt một hồi lâu rồi cũng chỉ đành lắc đầu thở dài, thầm nghĩ: “Hôm qua Lý Đông Dương nói Thái tử một tiết học chạy đi nhà xí tới tám lần. Hôm nay mình lên lớp thấy y không đi nhà xí thì đã mừng thầm rồi, chẳng ngờ hôm nay đít y không sao thì cái đầu lại sinh bệnh. Chà, Thái tử lười học như thế, biết làm sao đây?” Tạ Thiên lòng đầy phiền muộn rời khỏi cung Thái tử, trên đường còn gặp ba vị Thái y đang xắn quần chạy vội, đằng sau là một đám tiểu dược đồng lưng khoác hòm thuốc chạy theo. Tạ đại học sỹ đứng trong cung suy nghĩ hồi lâu: “Thái tử là Hoàng đế tương lai, y ham chơi không chú ý học tập như vậy thực không phải là chuyện nhỏ! Mình được bệ hạ tin cậy giao cho dạy dỗ Thái tử, nhất định phải cúc cung tận tụy, gan óc lầy đất cũng không nề hà. Hiện giờ Thái tử ham chơi như thế, cho dù có đắc tội với Thái tử cũng nhất định phải bẩm với Hoàng thượng mới được.” Tạ Thiên suy nghĩ xong xuôi bèn xoay người đi thẳng đến cung Càn Thanh. *** Tại Ngự Thư phòng trong cung Càn Thanh, lúc này Hoằng Trị đang nổi cơn lôi đình, lão ném mạnh phong thư cấp báo quân tình xuống bàn, tức giận nói: - Bọn Bắc Nguyên Thát Đát này thực quá ngông cuồng. Tiểu vương tử vừa mới cướp bóc quay về xong, Hỏa Sư lại mang ba ngàn quân đi vòng qua biên quân ở Hoài Lai, tập kích Diên Khánh từ con đường nhỏ trong núi. Nếu không nhờ có Trác Du Kích nhanh chóng tiếp viện, bọn chúng chẳng phải là sẽ tiến dần từng bước, đánh thẳng đến kinh sư hay sao? Gã thái giám Miêu Quỳ đứng hầu bên cạnh bèn khẽ cất tiếng: - Hoàng thượng chớ giận! Hỏa Sư chỉ có vẻn vẹn ba ngàn nhân mã, hắn xâm nhập Đại Minh ta tựa như một con cá trê bơi vào biển lớn, có thể gây ra sóng gió gì chứ? Đại Minh ta binh cường mã tráng, chỉ có điều quốc thổ của chúng ta quá rộng lớn, cần chia binh ra trấn thủ, chỗ nào cũng phải đề phòng. Một bên phòng thủ, một bên tấn công, quyền chủ động nằm trong tay địch thủ, chúng ta khó mà giữ được vẹn toàn, đám người hoang dã kia chẳng hề kiêng kị gì, do đó mới có thể thừa lúc chúng ta sơ suất mà xâm nhập. Lão nô chỉ cần năm ngàn binh mã, nhất định sẽ có thể đuổi Hỏa Sư ra khỏi biên cương, đánh cho hắn tơi bời tan tác, từ nay không dám tùy tiện khai chiến nữa. Lưu Kiện vừa mới phụng chiếu vào cung nghe thế bèn vội tâu: - Bệ hạ! Hiện giờ Trác Chí Kỳ và Lưu Anh đã dẫn quân đánh đuổi Hỏa Sư rồi. Người Mông Cổ thạo việc cưỡi ngựa cướp bóc, tới lui như gió, nếu tùy tiện xuất binh e rằng sẽ lao sư động chúng, hao tổn tiền tài, đồng thời cũng khó mà tìm được tung tích địch, xin bệ hạ suy nghĩ kỹ! Hoằng Trị nghe thế thì không khỏi do dự. Miêu Quỳ nghe nói Hỏa Sư chỉ có ba ngàn người, nóng lòng muốn lập công, vừa nghe Lưu Kiện khuyên can bèn vội tâu: - Bệ hạ! Hỏa Sư chỉ dẫn theo có ba ngàn quân mà dám xâm phạm Đại Minh, cướp bóc phá hoại như ở chỗ không người, nếu không trừng phạt thật nghiêm, chỉ e người Mông Cổ sẽ càng ngày càng ngông cuồng kiêu ngạo. Lý Đông Dương vội vàng can gián: - Bệ hạ, dẫn quân viễn chinh nào phải chuyện tầm thường, binh mã lương thảo đều phải chuẩn bị, khi chuẩn bị đủ xong thì Hỏa Sư đã ở xa ngoài ngàn dặm rồi. Huống chi thần nghe nói tên Hỏa Sư này mặt đỏ như lửa, vóc người to lớn, kiêu dũng thiện chiến, sức mạnh tuyệt luân, cho dù có đuổi kịp thì cũng chưa chắc đã làm gì được hắn. Hơn nữa Hỏa Sư chính là con rể của Khả hãn Bắc Nguyên Mãn Đô Cổ Lặc, hắn chỉ dẫn theo một cánh quân đơn lẻ ba ngàn người xâm nhập nước ta, lại trang bị gọn nhẹ như thế, một khi ra khỏi cửa quan nhất định sẽ có đại quân tiếp ứng. Nếu chúng ta chủ động xuất binh, e là cần có binh lực đông gấp năm lần địch, nếu không sẽ khó mà làm nên chuyện gì. - Chuyện này… Vốn trong lòng Hoằng Trị rất ngưỡng mộ Thái tổ và Thành tổ với thành tích văn trị võ công, nghe nói người Mông Cổ ngông nghênh như vậy, rất muốn xuất binh đánh một trận. Nhưng ông ta trước giờ rất coi trọng ý kiến của triều thần, huống chi giờ lại là hai trọng thần Lưu Kiện và Lý Đông Dương cùng tỏ ý phản đối, Hoằng Trị không khỏi cảm thấy do dự, khát vọng muốn xuất binh cũng nguội đi nhiều. Chính vào lúc này, một viên hoạn quan bước vào bẩm báo: - Hoàng thượng! Tạ đại học sỹ cầu kiến. Hoằng Trị vô cùng mừng rỡ, vội bảo: - Mau, mau triệu ông ta vào! Tạ Thiên bước nhanh vào trong Ngự Thư phòng, vừa định báo chuyện Thái tử ham chơi chợt phát hiện Lưu Kiện và Lý Đông Dương đều ở đây, ông bất giác ngẩn người, lời đã lên đến miệng cũng đành nuốt xuống. Ông và Lưu Kiện, Lý Đông Dương cùng làm quan trong triều, tuy giao tình không tệ nhưng cũng không muốn ở trước mặt bọn họ mà kể chuyện kia ra, như thế chẳng phải chứng tỏ bản thân bất tài, không dạy được học trò hay sao? Chú thích: 1. Đề hồ là chỉ phật pháp tối cao, quán đỉnh là nghi thức rưới nước xuống đầu trong Phật giáo. Câu này là để chỉ việc nghe được những lời cao minh và hiểu ra rất nhiều điều. 2. Mỗi một loại thủ ấn là một tư thế riêng của hai bàn tay. Theo phật giáo, việc kết ấn có thể đem đến những sức mạnh đặc thù cho ý niệm và thể xác. 3. Quán đỉnh có hai loại là ngoại thập lợi quán đỉnh và nội ngũ lực quán đỉnh. Ngoại thập lợi quán đỉnh cần có những pháp khí sau: Ngũ tinh hoa, quán miện, bảo bình, miện lưu, châu man, binh khí, tràng, tản cái, thủ ấn, ẩm thực. Nội ngũ lực quán đỉnh cần có các điều kiện sau: Thính văn quán đỉnh, tu tập quán đỉnh, thuyết pháp quán đỉnh, sự nghiệp quán đỉnh, nhị lợi năng thành kim cương vương quảng đại phật ngữ quán đỉnh. Chu Hậu Chiếu nói những lời trên nhằm trêu chọc Dương Lăng.

Chương 62 - Tam công nhất lãoDịch: TheJoker Biên dịch: VoVong Biên tập: Ba_Van Hiệu đính: Nguồn: www.tangthuvien.com Lão già bán tạp hoá trợn mắt nhìn gã đàn ông đầu bù, tóc hoa râm, dáng người gầy gò đen đúa, râu ria xồm xoàm đang quỳ gối dập đầu trước cửa nhà Dương Lăng. Sau khi cung kính dập đầu ba cái, gã đàn ông nhảy phóc lên ngựa, ra roi phóng vút đi. Chương 62 - Tam công nhất lão Thấy Tạ Thiên, Hoằng Trị mừng rỡ: - Ái khanh đến thật đúng lúc, trẫm đang định sai người đến Đông cung tìm khanh đây. Trông thấy hai vị đại học sỹ Lưu Kiện và Lý Đông Dương đều có mặt, Tạ Thiên ngạc nhiên hỏi: - Bệ hạ, đã xảy ra chuyện lớn gì sao? Đứng ở một bên, Lưu Kiện thuật lại cho Tạ Thiên biết tin tiểu vương tử Bá Nhan Khả Hãn của Bắc Nguyên vừa rút quân thì Hỏa Sư lại đi đường vòng đánh sâu vào trong biên giới để cướp bóc, sau đó lại nhắc lại những ý kiến bất đồng vừa rồi một lượt. Tạ Thiên nghe xong liền lắc đầu quầy quậy, sau đó tâu với hoàng đế Hoằng Trị: - Bệ hạ, việc binh đao là thứ hung khí của thiên hạ, cái dũng cũng là thứ hung đức trong thiên hạ, ấy đều không phải thứ mà người quân tử nên dùng! Dân Mông Cổ dã man, coi giết chóc như cầy cấy. Nếu thượng quốc thiên triều ta cũng bắt chước bọn chúng, lấy đạo người đối đãi người, khó tránh khỏi sẽ gây ra chiến tranh dồn dập, trăm họ lầm than, ruộng đồng bỏ hoang, cỏ gai mọc rậm, như thế há chẳng phải đã trái với đạo nhân nghĩa sao? Đại Minh ta là nước văn minh lễ nghĩa, vừa không cần cướp đoạt của cải của người khác, lại chẳng mong nô dịch bọn người hoang dã man di, cớ gì phải xuất binh viễn chinh chứ? Giờ đây thiên hạ thái bình, chính trị trong sạch, mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an, duy chỉ phải lo việc thiên tai nhân họa. Theo thần thấy, chúng ta chỉ cần phái tướng thủ cửu biên (*), canh phòng nghiêm ngặt, ngăn bọn man di ngoài biên cương là được rồi. Hỏa Sư đã có thể theo đường mòn tập kích Diên Khánh, rõ ràng là phòng tuyến biên thuỳ của ta đã có sơ hở. Thần cho rằng nên đắp thêm Trường Thành đoạn Bát Đạt Lĩnh ở Diên Khánh, xây dựng biên thành, đóng binh trấn giữ, đại sự tất sẽ ổn định. (*): Cửu biên bao gồm Liêu Đông, Tuyên Phủ, Đại Đồng, Duyên Tuy, Ninh Hạ, Cam Túc, Kế Châu, Thái Nguyên, Cố Nguyên. Nghe lý luận của lão, Hoằng Trị hơi cảm thấy không vui. Việc binh là thứ hung khí của thiên hạ ư? Không có thứ hung khí này, Đại Minh từ đâu mà có? Cái dũng là thứ hung đức trong thiên hạ ư? Thế nhưng mỗi một vị hoàng đế khai quốc, kể cả Thái Tổ, Thành Tổ, có ai mà không dùng binh đao để bình thiên hạ chứ? Chẳng lẽ phải đợi hoàng đế triều trước thoái vị hay sao? Nhưng những lời Tạ Thiên nói đều là câu chữ của các bậc Tiên hiền, tuy Hoằng Trị là đế vương nhưng cũng không thể phản bác thẳng thừng. Trong mắt của những kẻ có học trong thiên hạ, văn chương đạo đức của các bậc Tiên hiền chính là khuôn vàng thước ngọc, mãi mãi bất khả xâm phạm. Hết cách, Hoằng Trị đành buồn bực nói bằng giọng không vui: - Thôi, trẫm đã truyền Thượng thư bộ Binh Lưu Đại Hạ vào cung rồi, cứ chờ nghe ý kiến của ông ta rồi hãy quyết định chuyện này vậy. Một lát sau, bên ngoài ngự thư phòng vang tới một giọng nói sang sảng tựa chuông đồng: - Thần, Thượng thư bộ Binh Lưu Đại Hạ, phụng chiếu tấn kiến! Hoằng Trị nghe vậy bèn tức tốc triệu vào. Lưu Đại Hạ là một ông già đã bảy mươi, râu tóc bạc phơ nhưng tinh thần vẫn quắc thước, vóc người cao lớn, lời nói và cử chỉ đều toát ra vẻ dũng mãnh, rất có uy phong của một người cầm quân. Triều đại của Hoằng Trị có hai vị thượng tướng quân già như Hoàng Trung(*): một là Lưu Đại Hạ, vị kia là Vương Việt (1), đều là "gừng càng già càng cay". (*): Lão tướng nhà Thục trong Tam Quốc Chí Phẩm hàm và công trạng của Vương Việt thậm chí còn trên Lưu Đại Hạ. Năm xưa ông ta từng là Thượng thư bộ Binh, sau cai quản toàn bộ tam biên (*), năm bảy mươi tuổi còn đích thân cầm quân viễn chinh, ruổi ngựa đến dưới núi Hạ Lan, tập kích phá tan doanh trại dài mười dặm của tiểu vương tử, thu được được vô số lạc đà, ngựa, bò, dê và vũ khí. Ông ta lắm mưu nhiều kế, đánh cho tiểu vương tử vừa nghe thấy tiếng là bỏ chạy, được luận công tấn thăng hàm Thiếu bảo. Cai quản tam biên, nắm quyền đại tướng, cả triều đại nhà Minh cũng chỉ có một mình ông ta mà thôi. (*): Chỉ ba vùng Diên Tuy, Cam Túc, Ninh Hạ. Đáng tiếc khi ấy chính là giai đoạn mà đại gian thần thái giám Lý Quảng – kẻ cổ xuý cho phong trào trường sinh bất lão, thành tiên, thành đạo - nắm quyền. Vương Việt biết rõ mình làm tướng ở biên cương, phải viễn chinh Thát Đát xa mấy nghìn dặm, sợ nhất chính là có người trong triều cản trở ở sau lưng, bởi một khi lương thảo ngắt quãng, hậu cần gián đoạn, thì sẽ bị rơi vào tình trạng cô lập. Để được sự ủng hộ của Lý Quảng, không đến nỗi phải chịu đủ khó khăn trên đường viễn chinh, Vương Việt sai người kết giao mua lòng hắn ta, thậm chí còn chia cho hắn một phần chiến công. Được lợi ích, lại có cả chiến công, lúc ấy Lý Quảng mới tận tâm tận lực kiến nghị với hoàng đế khiến cho triều đình dốc sức ủng hộ Vương Việt. Nhưng sau khi Lý Quảng bị bệnh mất, trong nhà lục được vô số vàng bạc châu báu, bị định tội đại gian đại ác, không chỉ bè đảng bọn Lý Quảng bị sụp đổ, mà Vương Việt vì có quan hệ mật thiết với hắn nên cũng bị đám ngự sử ngôn quan dâng tấu hạch tội đủ điều, trách mắng là bè đảng gian thần. Trong mắt của những kẻ thư sinh đó, một khi gian thần lộng quyền, cho dù chỉ lo giữ thân mình thì cũng không được làm trái với lời dạy của các bậc Tiên hiền thuở xưa, dù cho có là "vờ thuận a dua để đạt mục đích" cũng tuyệt đối không được. Huống chi bất luận bây giờ ông nói lời vàng ngọc như thế nào, ai biết được lúc trước ông nghĩ gì chứ? Chẳng phải lúc nào ông cũng xoen xoét "ta không vào địa ngục thì còn ai vào địa ngục" ư? Vậy ông hãy xuống địa ngục đi! Vương Việt dẫn quân rong ruổi nghìn dặm, phá địch như chẻ tre, ở tuổi thất thập cổ lai hi mà còn đánh cho thiết kỵ Mông Cổ không còn manh giáp, rốt cuộc không những không được vùi thây nơi sa trường mà còn bị bọn ngôn quan của Đốc Sát Viện hết kẻ này đến kẻ khác dâng tấu mắng chửi, uất ức mà chết. Lưu Đại Hạ là trọng thần trong triều, lần lượt phò tá ba vị hoàng đế Anh Tông, Hiến Tông, Hiếu Tông, là nguyên lão tam triều đức cao vọng trọng. Lão là người làm việc quả quyết, giỏi việc binh đao, lại vô tư chính trực, cho nên dù bọn Lưu Kiện vẫn luôn xem thường võ tướng, nhưng lại khá kính trọng vị Lưu thượng thư này. Lưu Đại Hạ xem xong tấu báo quân tình liền trầm ngâm một hồi lâu, rồi sau đó khẽ lắc đầu nói: - Bệ hạ, thần cũng cho rằng... nên canh phòng nghiêm ngặt chứ không nên đưa quân ra biên ải! Lưu Kiện, Tạ Thiên, Lý Đông Dương nghe vậy đều thở phào nhẹ nhõm. Miêu Quỳ lại đưa mắt nhìn trời, vô cùng tức giận. Lão biết, tuy Lưu Đại Hạ nói vậy phần lớn là do việc công, nhưng trong đó chưa hẳn đã không có chút tư tâm nào. Lưu Đại Hạ cùng nội quan (thái giám) trong triều tranh đấu đã nhiều năm, coi hoạn quan như rắn rết, chỉ cần là kiến nghị mà do nội quan đưa ra, bất luận đúng sai trong lòng lão cũng đều phát sinh vài phần cảnh giác. Thuở Trịnh công công bảy lần đến đại dương phía Tây, thế lực hoạn quan đang hùng mạnh. Lưu Đại Hạ cho rằng viễn dương đến nước khác là sai lầm về mặt chính trị, là điều động binh lực một cách vô bổ, lại sợ thế lực hoạn quan mượn chuyện này để phát triển quyền lực, trở thành đại họa cho triều đình, do đó khi Anh Tông muốn tiếp tục viễn hành, lão liền bất chấp lý lẽ mà can ngăn. Nghe nói bản đồ hàng hải của Trịnh công công đã bị hủy trong tay lão. Năm Thành Hóa thứ mười bảy, An Nam (Việt Nam) xâm lấn Lào, thất bại. Khi ấy Uông công công Uông Trực muốn thừa cơ chiếm lại An Nam đã không còn ngoan ngoãn vâng lời Đại Minh, bèn nhờ bộ Binh tìm lại bản đồ của An Nam trước kia. Lưu Đại Hạ cho rằng một khi chiến sự nổ ra, thua thì tử thương thảm trọng, thắng thì thế lực hoạn quan mạnh lên, vì vậy lại đem bản đồ An Nam giấu mất, không chịu giao. Chính sách bế quan tỏa cảng, tự bảo vệ mình rất được bọn sỹ phu tán đồng, cho nên ngay cả kẻ quyền khuynh triều chính như Uông Trực cũng không có cách nào gây khó dễ cho lão. Giờ đây lão nói như vậy, chẳng lẽ là sợ hoạn quan sẽ lại đắc thế một lần nữa? Miêu Quỳ vừa nghĩ vừa lạnh lùng liếc nhìn lão, ánh mắt đầy vẻ oán hận. Nhưng Lưu Đại Hạ là thần tử được Hoằng Trị sủng ái nhất hiện nay, lão ta cai quản vùng Hoàng Hà, quét sạch phản tặc, đốc quản quân lương, làm quan thanh liêm, có thể nói là trên dưới triều đình ai nấy đều ca ngợi. Tuy rằng Miêu Quỳ cũng được sủng ái, nhưng cũng không dám khinh suất dây vào. Hoằng Trị nghe vị dũng tướng này cũng nói như vậy, trong lòng cảm thấy thất vọng vô cùng. Ông nói với giọng không phục: - Thái Tổ, Thành Tổ từng mấy lần xuất quân ra ngoài biên ải, đánh cho người Mông thất bại thảm hại, khiến người Mông về sau thấy cờ xí của Đại Minh ta liền phóng ngựa tránh xa, quân ta muốn đánh một trận mà cũng không được. Khi xưa đã oai phong như thế, cớ gì bây giờ lại không thể? Lưu Đại Hạ chắp tay thưa: - Bệ hạ thần vũ chẳng kém gì Thái Tổ, Thành Tổ, nhưng ngày nay binh mã kém xa khi trước, vả lại thuở ấy triều đình thường xuyên điều cả chục vạn đại quân ra sa mạc. Hiện nay quân binh Đại Minh ta chỉ giỏi thủ không giỏi công, việc chiến tranh không thể tùy tiện phát động. Trong tình thế hiện giờ, thủ là thượng sách, chiến là hạ sách. Ba vị đại học sỹ vuốt râu mỉm cười, tỏ ý tán thành. Hoằng Trị thở dài bảo: - Ái khanh hiểu rõ việc quân, khanh đã nói như vậy, tất là hữu lý. Nếu không có lời hay của mấy vị ái khanh, trẫm nhất thời giận dữ kích động, suýt nữa đã làm hỏng đại sự rồi. Lưu Kiện cúi đầu tán dương: - Bệ hạ lắng nghe lẽ phải, quả thật là minh quân trên đời. Hoằng Trị cười gượng khoát tay, kế đó lại hỏi Lưu Đại Hạ: - Theo ái khanh, trẫm nên xử trí chuyện này như thế nào đây? Lưu Đại Hạ thoáng ngẫm nghĩ một chút rồi đáp: - Lời của ba vị đại học sỹ rất có lý. Thần cũng nghĩ rằng nên hạ lệnh cho tướng lĩnh biên cương nghe ngóng địch tình, phòng thủ nghiêm ngặt, đề phòng quân địch xâm phạm. Ngoài ra nên xây đắp thêm một đoạn trường thành ở Bát Đạt Lĩnh, lập cửa ải để chống địch, đồng thời cho trọng binh đồn trú ở lân cận, xây dựng trạm canh và phong hỏa đài tại những con đường núi và đường giao thông quan trọng từ Quan Thành lên phía bắc. Nếu thi hành song song những kế sách này, kinh sư nhất định sẽ vững như bàn thạch. Hoằng Trị ung dung ngồi trên long ỷ, gật gù nói: - Cứ theo lời khanh vậy, Lưu đại học sỹ hãy soạn chỉ đi! - Vâng, thần xin cáo lui! Hoằng Trị khoát tay, nhìn mấy vị trọng thần bên người lần lượt cất bước lui ra, trong lòng thất vọng: "Tiểu vương tử tập kích biên giới trong đêm giao thừa, ba cánh đại quân ta đã dễ dàng giành lại đất đai bị mất trong nháy mắt. Chẳng lẽ vừa rời khỏi biên ải, mãnh hổ này thật sự sẽ biến thành con mèo hay sao? Ôi, có lẽ bọn họ đã đúng, chính trị và quân sự nửa do sức người, nửa do sức trời, gây dựng cơ nghiệp đã gian nan, bảo vệ cũng không phải dễ..." *** Thái y quả nhiên không dám phán bừa là Thái tử không bị bệnh, càng không dám tuỳ tiện bốc thuốc, chỉ dám kê đại mấy toa thuốc an thần, căn dặn Thái tử nghỉ ngơi nhiều một chút rồi lui ra. Dương Lăng mỉm cười nói với Thái tử: - Điện hạ, sáng ngày mai chúng ta cứ y kế mà làm, vi thần tạm xin cáo lui đây. - Được, sáng ngày mai ngươi hãy ở ngoài cửa hậu cung chờ ta! Chu Hậu Chiếu khoát tay, trong lòng thì đang nghĩ về chuyện khác. Tối hôm qua hắn được xem bọn La Tường, Cao Phượng biểu diễn kịch đèn chiếu (2) đến nửa đêm, giờ lại thấy thèm được xem tiếp. Tạ đại học sỹ đã đi, gã đang muốn gọi bọn họ đến diễn tiếp. Nhìn vẻ mặt hắn, Dương Lăng tỉnh bơ vái sâu một vái, xong quay sang gật đầu chào Cốc Đại Dụng ở cạnh, rồi chậm rãi lui ra. Qua hai ngày tiếp xúc, y cũng thấy được cái đám Bát hổ(*) hiện hoàn toàn chưa có dã tâm chính trị gì. Nhưng vì bọn chúng lựa ý hùa theo Thái tử, giúp cho hắn vui, cho nên các hành động và việc làm hiện tại lại khiến cho chúng khó tránh khỏi sẽ bước đi trên con đường ấy. (*): "Bát hổ" gồm: Lưu Cẩn, Mã Vĩnh Thành, Cao Phượng, La Tường, Nguỵ Bân, Khâu Tụ, Cốc Đại Dụng, Trương Vĩnh. Hiện giờ y mới vừa kết bạn với Thái tử, còn Bát hổ lại chăm sóc Chu Hậu Chiếu từ nhỏ cho đến lớn, luận cảm tình tuyệt đối y không thể bằng bọn chúng được. Nếu để Bát hổ nảy lòng nghi kỵ y, tuỳ tiện nói xấu mấy câu trước mặt Thái tử, đến lúc ấy cái chức thị độc này của y cũng khỏi cần làm tiếp nữa. Hơn nữa Thái tử đang ở trong thời kỳ tâm lý nổi loạn của tuổi teen, nếu y học theo các vị trung thần hết mực khuyên ngăn, e rằng chỉ tạo ra hiệu ứng ngược. Cho nên Dương Lăng không dám để lộ chút vẻ phản cảm nào trên mặt. Y chỉ hy vọng rằng với nỗ lực của bản thân sẽ có thể khiến cho vị hoàng đế mà theo quỹ đạo lịch sử ban đầu sẽ là một gã hôn quân này sẽ khác đi đôi chút so với lịch sử. Có điều... tuy nói tuổi thiếu niên là lúc dễ uốn nắn nhất, nhưng mà... vỏn vẹn chỉ có hai năm, ài, thời gian không chờ mình, đành cố hết sức thôi. *** Đường Hộ Quốc Tự, một kẻ áo vải đầu bù tóc rối cưỡi một thớt ngựa gầy. Hà tham tướng dò hỏi mãi mới tìm đến được cửa nhà Dương Lăng. Từ khi bị áp giải vào kinh nhốt vào đại lao bộ Hình đến nay đã được hơn nửa tháng, mãi đến hôm nay gã mới được phóng thích ra khỏi ngục, giáng làm Phó thiên tổng, phải đi đến vùng Quảng Tây xa xôi để nhậm chức. Hơn nửa tháng nay, rốt cuộc gã đã được biết thế nào gọi là thế sự vô thường, thế nào gọi là thói đời nóng lạnh. Đám bè bạn năm xưa cũng có vài kẻ đang làm quan trong kinh, nhưng không một kẻ nào dám ra mặt nói giúp gã một câu công đạo. Người nhà gã hay tin xấu, bèn bảo tam đệ gã mang rất nhiều vàng bạc vào kinh vận động, lo lót. Nhưng đây là vụ án do Thiên tử yêu cầu xét xử, lại cuốn bộ Binh, bộ Công, bộ Hộ, Ngũ Quân đô đốc phủ vào vòng tranh cãi, lúc này người ta tránh còn không kịp, ai dám đưa chân bước vào trung tâm cơn bão chứ? Vì vậy chỉ muốn tìm người nói giúp vài câu thôi mà cũng không được. Lúc đó gã lại nghe tin mẹ già tuổi gần bảy mươi vì hay tin gã phạm tội bị giam vào đại lao, có thể sẽ nguy tới tính mạng mà lòng lo lắng khiến bệnh ngày một nặng thêm, hiện giờ bệnh tình nghiêm trọng, thậm chí trong nhà đã chuẩn bị sẵn quan tài, áo liệm đầy đủ cả. Thế là lòng gã càng như có lửa đốt, bi phẫn khôn cùng. Chánh giám quân Diệp ngự sử là một gã quan văn, lại đã chết trên chiến trường. Không ai muốn bất chấp liêm sỉ, có thể khiến cho thân bại danh liệt mà đi tố cáo một thư sinh đã "chết trận" chốn sa trường, huống chi còn có gần trăm ngòi bút của Đốc Sát viện ra sức ủng hộ gã ta. Còn vị Lưu công công đó lại là hoạn quan trong đại nội, là tâm phúc bên cạnh Thái tử, tuy rằng hiện giờ không quyền không thế, nhưng rất được Thái tử coi trọng. Hơn nữa lão là giám quân do đích thân thánh thượng cắt cử, chỉ trích lão sẽ khó tránh có ý ngầm nói thánh thượng dùng người không sáng suốt, cho nên càng không có kẻ nào dám vạch lỗi của lão ta. Thế là người phải gánh chịu hết thảy mọi tội danh và trách nhiệm này không còn ai khác ngoài gã. Thoạt đầu Hà tham tướng nghĩ rằng cùng lắm mình sẽ chỉ bị phán tội tham công rơi vào bẫy địch, nặng nhất cũng chỉ là tước quan giáng chức mà thôi. Sau đó khi thấy quan cai ngục vốn lúc đầu còn có chút ý tốt với mình ngày càng trở nên lạnh nhạt, về sau thậm chí còn không cho phép gia quyến vào thăm, đến lúc đó gã mới cảm thấy không ổn. Đến khi tam đệ dùng tiền hối lộ cai ngục, lén vào thăm gã, gã mới hay non nửa quan viên kinh sư đều đang bị cuốn vào trong vụ luận tội này. Hà tham tướng lập tức ngã lòng nản chí. Gã ở trong quan trường lâu năm, sao lại không biết quy củ của quan trường chứ? Chuyện đã ầm ĩ lên đến mức này, kết quả của vụ luận tội tất nhiên sẽ đi vào ngõ cụt. Muốn tháo gỡ những mối rắc rối ấy, mười phần thì có tám, chín là sẽ bắt gã chết thay, phủi tay cho xong hết mọi chuyện. Hà tham tướng ngậm ngùi căn dặn tam đệ không cần lãng phí tiền bạc ở trong kinh thành vận động nữa, hãy tức tốc trở về quê chăm sóc mẹ già. Sau đó gã lại đau khổ nhờ em trai chuẩn bị thêm một cỗ áo quan, rồi buồn bã nói: - Mẹ già đau ốm liệt giường, ta thân là con trưởng lại không thể ở bên cạnh báo hiếu, chỉ đành xuống suối vàng tiếp tục phụng dưỡng mẹ mà thôi. Tam đệ của gã trào lệ mà đi, từ lúc đó Hà tham tướng chỉ ôm lòng chờ chết. Mấy ngày nay, tóc đen trên đầu gã đều đã biến thành hoa râm. Hôm nay khi Cẩm Y Vệ cầm thánh dụ đến đại lao bộ Hình, Hà tham tướng vẫn ngỡ rằng giờ chết đã tới, không ngờ nghe được lại là tin mình được thả ra khỏi ngục. Hà tham tướng vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ. Gã dò hỏi thị vệ Cẩm Y Vệ mới hay dịch thừa Kê Minh là Dương Lăng đã vào kinh làm thái tử thị độc. Không ngờ cái tên dịch thừa nhỏ nhoi mà vốn chưa từng được gã để vào mắt khi đó lại trượng nghĩa trực ngôn, liều chết khuyên can, bù công đắp tội cho gã ở trước mặt bệ hạ, nên giờ gã mới được sống sót rời khỏi đại lao. Tuy bộ Binh giáng gã xuống làm Phó thiên tổng, đày tới tận Quảng Tây xa xôi, nhưng so với tâm lý trông chờ cái chết, đây đã là kết cục không thể tốt hơn rồi. Đường dài mới biết ngựa hay, ở lâu mới thấu được thay lòng người. Hiện giờ trong lòng Hà tham tướng, Dương Lăng không khác gì cha mẹ tái sinh ra gã. Tuy loại võ tướng truyền thống như gã có rất nhiều tật xấu và khuyết điểm, nhưng tấm lòng trung nghĩa chính trực cùng với tâm lý có ơn tất mong được báo cũng là tiêu chuẩn đạo đức đã được gieo sâu vào lòng từ bé. Hà tham tướng cũng không cần phải đi Quảng Tây nhậm chức ngay, nhưng trong nhà mẹ già bệnh nặng khó qua, nếu trước khi mẹ chết không thể gặp mặt một lần thì gã thật sẽ hối hận vô cùng, cho nên nóng lòng muốn về quê. Vừa nhận văn thư bổ nhiệm của bộ Binh xong, gã lập tức chạy đến Dương phủ, định bụng bái tạ ân nhân cứu mạng xong là sẽ lập tức lên đường. Vừa đến trước cửa nhà Dương Lăng, thấy trên cửa treo chiếc khoá đồng, Hà tham tướng không khỏi ngẩn người. Theo lời người của Cẩm Y Vệ kể thì khi Dương thị độc vào kinh, phu nhân của y cũng đi theo cùng, sao trong nhà lại không có ai như thế này chứ? Một lão già bày sạp bán đế lót giầy, khăn thêu lẫn hạt dưa, táo tầu trong ngõ trông thấy gã bèn cất cao giọng hỏi: - Này, ngươi là ai thế? Là khách nhà Dương thị độc Dương đại nhân à? Hà tham tướng dắt ngựa bước qua, ôm quyền hỏi: - Vâng, lão ca quen người nhà họ Dương sao? Thế có biết người Dương phủ đi đâu rồi không? Lão già dương dương tự đắc đáp: - Biết chứ, sao không biết cho được!? Nhà ta ở sát bên nhà họ Dương đấy! Dương đại nhân là thị độc bên cạnh thái tử, là cận thần bên cạnh thiên tử, mỗi ngày đại nhân đều vào hoàng cung, ta sao lại không biết chứ? Ta đã cố ý dậy thật sớm mới thấy được hình dáng của Dương đại nhân khi đi chầu đấy! Chậc, chậc, ta thì chưa gặp thiên tử bao giờ, nhưng người bên cạnh thái tử đã là một nhân vật như vậy, có thể tưởng tượng được tướng mạo của vạn tuế gia sẽ như thế nào rồi đấy. Nếu không sao người ta lại nói hoàng đế là chân long, là Tử Vi Tinh Quân (*) trên trời xuống cõi phàm chứ... (*): Mỗi ngôi sao được đặt một tên riêng. Theo thần thoại Trung Quốc thì mỗi ngôi sao có một vị Tinh quân trông coi, mỗi vị Tinh quân đó lại có một tên riêng, sao Tử Vi đại diện cho bậc đế vương. Hà tham tướng nhíu mày nghĩ bụng: "Sao người ở nơi này lại nói lắm thế nhỉ? Vừa mở lời là đã là một tràng bất tận, đợi thêm lát nữa ai mà biết được lão ta sẽ nói đến tận đâu ." Gã vội ngắt lời lão già: - Vậy xin hỏi lão ca có biết người nhà Dương đại nhân đi đâu không? Bị ngắt ngang lời, lão già hơi cảm thấy khó chịu. Lão khoát tay nói: - Dương đại nhân đương nhiên là đang ở trong cung cùng với thái tử gia rồi, thế mà cũng phải hỏi? Còn Dương phu nhân thì đã ra ngoài mua đồ ăn rồi. Dương đại nhân đó là người bên cạnh thái tử gia cơ đấy, hê hê, vậy mà thanh liêm lắm đó, cả kiệu phu cũng không thuê, đến giờ mỗi ngày vẫn đi bộ đến Tử Cấm Thành, trong nhà thì một mình Dương phu nhân giải quyết mọi việc. Dương phu nhân này quả thật là người vợ xinh đẹp hiền thục, dáng người như hoa như ngọc, thật xứng với một nhân vật tuấn tú như Dương đại nhân... Hà tham tướng vái sâu, cảm tạ: - Đa tạ lão ca! Đoạn gã xoay người quay lại đi tới trước cửa nhà Dương Lăng, đứng lặng im hồi lâu, rồi đột nhiên buông cương ngựa, quỳ sụp gối dập đầu xuống đất. Lão già bán tạp hoá trợn mắt nhìn gã đàn ông đầu bù, tóc hoa râm, dáng người gầy gò đen đúa, râu ria xồm xoàm đang quỳ gối dập đầu trước cửa nhà Dương Lăng. Sau khi cung kính dập đầu ba cái, gã đàn ông nhảy phóc lên ngựa, ra roi phóng vút đi. Một lúc lâu sao lão già mới sực tỉnh, nhếch cái miệng đã rụng hết răng lên. Trăm nghìn câu chuyện bắt đầu được ấp ủ trong trí tưởng tượng phong phú của lão. *************** Chú thích: (1) Vương Việt, tự Thế Xương, người Tuấn huyện, tướng lĩnh vào giai đoạn giữa đời Minh. Theo sử sách, ông có vóc người cao lớn, khoẻ mạnh, thiện bắn cung, rất có mưu lược. Năm Cảnh Thái thứ hai đỗ tiến sỹ. (2) Loại kịch trong đó nhân vật biểu diễn được cắt hình từ da thú hoặc giấy các-tông.

Chương 63: Bát hổ dạo phốDịch: 6300 Biên dịch: TheJoker Biên tập: Ba_Van Hiệu đính: Nguồn: www.tangthuvien.com Chu Hậu Chiếu thấy trong chợ bán rất nhiều thứ không có trong cung nên rất thích thú. Ngộ tính của tên nhóc này rất tốt, thấy người khác mặc cả, trả giá quyết liệt đến không biết đường nào mà lần bèn ngứa ngáy trong lòng, thấy thích thứ nào cũng tới hỏi giá, sau đó học theo người ta mặc cả. Chương 63: Bát Hổ dạo phố Ngày hôm sau, do Thái tử "bị bệnh" không cần phải vào cung nên Dương Lăng được ngủ nướng, mãi đến tận giờ thìn hai khắc y mới từ trong mộng tỉnh dậy. Nắng xuân tươi thắm len qua song cửa trải xuống chăn, ánh sáng êm dịu sáng sủa. Con mèo nhỏ Ấu Nương đang rúc vào ngực y ngủ ngon lành. Mái tóc đen nhánh mềm mại che khuất nửa khuôn mặt thanh tú của nàng. Trên gương mặt xinh đẹp, hàng mi dài khép ngủ cong vút mê người đang khẽ rung rinh. Khuôn mặt trắng nõn thanh tú của nàng thật hấp dẫn, dù khóe mi vẫn toát ra vẻ ngây thơ và trong sáng, nhưng đã điểm xuyết hương vị của phụ nữ. Dương Lăng yêu mến nhìn cô gái nhỏ đang nằm trong lòng, nhẹ nhàng co tay gối đầu, không dám cử động mạnh sợ làm nàng tỉnh giấc. Mấy bữa qua phải vào cung sớm nên y cảm thấy khổ khôn tả. Hôm qua đã nói với nàng hôm nay không cần phải vào cung sớm, lúc này thấy nàng ngủ thoải mái, Dương Lăng mới giật mình nhận ra mỗi ngày nàng đều phải gọi mình dậy, mỗi lần tỉnh giấc thức ăn đã luôn được bày sẵn. Không những phải dậy sớm, trong lòng nàng lúc nào cũng phải lo tới những việc này nên lúc ngủ cũng không được ngon giấc, nhất định thân thể nàng càng thêm mệt mỏi. Dù mệt mỏi rã rời nhưng chỉ một chốc sau Ấu Nương đã tỉnh dậy. Mở mắt thấy phu quân đã tỉnh, nàng vội le chiếc lưỡi nhỏ xinh, xấu hổ hỏi: - Ơ kìa, tướng công đã tỉnh rồi à? Thật là... thiếp lại ngủ quên mất. Dương Lăng thấy nàng hốt hoảng định bò dậy, liền vươn tay giữ vai nàng lại, mỉm cười bảo: - Hai ngày nay nàng dậy sớm quá, tối... còn dọn dẹp tắm rửa, lại ngủ quá muộn. Dù sao hôm nay ta cũng không cần phải đi sớm, nghỉ ngơi thêm một lát nữa đi. Ấu Nương nghe y nói những lời yêu thương, mặt nàng hồng phơn phớt, vừa thẹn vừa vui, liếc mắt nhìn lại, vâng một tiếng rồi ngoan ngoãn rúc vào lòng y, thỏ thẻ làm nũng: - Ừm! Hai ngày nay, thiếp cũng không biết sao nữa. Nhất là hôm nay, thiếp cảm thấy các khớp xương đều ê ẩm, người mềm nhũn cả ra, lại chẳng muốn nhúc nhích gì nữa. Lúc còn ở nhà với bố mẹ, ngày nào thiếp cũng phải dậy sớm luyện võ, bây giờ thì càng ngày càng lười rồi. Dương Lăng thấy nàng kêu thân thể ê ẩm, chẳng muốn cử động thì vội hỏi: - Sao lại thế? Có phải là bị trúng gió rồi không? Vừa hỏi y vừa rờ trán nàng, chỉ thấy hơi ươn ướt nhưng lại mát, không nóng chút nào. Trước giờ thân thể Ấu Nương vẫn khỏe mạnh, từ bé chưa từng bị bệnh vặt, cho nên nàng cũng không để tâm lắm, còn tưởng là do hai ngày qua mới bị phá thân, tướng công đòi hỏi quá độ, việc xấu hổ này đâu thể nói ra được, vì thế nàng khẽ cười: - Không sao đâu, thiếp luyện võ từ nhỏ, thân thể khỏe mạnh lắm, nếu thực sự bị cảm mạo phong hàn thật, thiếp đi tìm thầy lang bốc vài thang thuốc là được. Dương Lăng sờ trán nàng không thấy bị sốt, nên cũng bớt lo, lại thấy bộ dáng yêu kiều nhõng nhẽo đáng yêu của nàng chan chứa phong tình của gái mới lấy chồng, sự quyến rũ này khác hẳn nét ngây thơ xinh tươi ngày trước, lửa lòng bỗng bùng lên. Ôm nàng sát hơn, y cười ranh mãnh: - Nào, để tướng công giúp Ấu Nương xoa bóp cho đỡ mệt. Trong chăn, bàn tay xấu xa đang "do thám" áo lót của Ấu Nương, lén lút lần mò tới bộ ngực mịn màng mềm mại của nàng, sờ nắn nhẹ nhàng. Ấu Nương khẽ lườm y, mặt nàng đỏ ửng lên thật mê người. Ấu Nương lặng im, ngây ngất, mặc cho Dương Lăng nghịch ngợm bộ ngực của mình. Bị y vuốt ve một lúc, thân thể bắt đầu không được tự nhiên, chỉ cảm thấy đê mê, thế nhưng cái cảm giác uể oải khó tả khiến nàng không muốn cục cựa. Nàng hổn hển mắng khẽ: - Tướng công đừng nghịch nữa! Chẳng phải chàng nói còn phải vào cung một chuyến sao? Chàng hãy mau dậy súc miệng thay đồ đi, thiếp chuẩn bị bữa sáng cho chàng. Dương Lăng thấy nàng e lệ rụt rè cũng không nỡ ép buộc, bèn thơm nhẹ lên má nàng, rồi cười hì hì nói: - Nếu nàng mệt thì cứ nghỉ ngơi đi! Tướng công ăn tạm thứ gì đó trên đường cũng được rồi. Nào chịu như vậy, Ấu Nương vừa gượng dậy mặc quần áo vừa hỏi: - Tướng công, hôm qua chàng vừa về Liễu Bưu lại mời chàng tới Bắc trấn phủ ty để làm gì thế? Chẳng phải bây giờ chàng đang làm việc ở chỗ Thái tử rồi sao? Nhân lúc nàng đứng dậy, Dương Lăng vỗ một phát vào cặp mông đẫy đà vênh vểnh của nàng, cười trả lời: - Dù sao đã khoác chức quan của Cẩm Y vệ thì cũng phải được cắt cử đi làm việc cho họ chứ. Trương đề đốc sợ ta chưa thể xử lý công vụ nên tạm thời phái ta làm mấy việc nhàn hạ, chuyên phụ trách công văn của Nam trấn phủ ty trình lên kinh sư. Ấu Nương nhanh nhẹn vấn tóc, khẽ ồ một tiếng, nghiêng đầu hỏi: - Tướng công, Nam trấn phủ ti quản lý những gì vậy? Dương Lăng đáp: - Nam trấn phủ ty quản lý hình danh trong vệ và những sự vụ của quân tượng. Hình danh chính là phụ trách việc xét xử, còn quân tượng thì là các thợ chế tạo khôi giáp, quân giới, hỏa tiễn, súng hoả mai, thậm chí cả chiến thuyền, chiến xa, tất cả đều do Nam trấn phủ ty quản lý. Hình danh trong vệ mà Dương Lăng nói chỉ phụ trách xét xử những người phạm tội bên trong Cẩm Y vệ. Còn bình thường quan lại và tướng lĩnh phạm tội đều giao cho Tam Pháp ty cai quản. Cho nên phạm vi phụ trách hình danh của Nam trấn phủ ty hơi giống một tòa án binh cỡ nhỏ. Còn như việc quản lý quân tượng, nếu như ở thời hiện đại tất nhiên là một ngành khá quan trọng, nhưng tại thời đại này thì việc trông nom công nhân kỹ thuật không được tính là một thứ gì to tát lắm. Ấu Nương đương nhiên không biết những điều này. Dương Lăng ăn xong bữa sáng, dặn dò Ấu Nương nếu thấy khó chịu thì cứ lên giường nghỉ, còn mình thì khoác bọc áo quần đã chuẩn bị từ trước, ung dung đi thẳng đến cổng sau của kinh thành. Lúc này trời còn sớm nhưng những cửa hàng lân cận kinh thành đã mở cửa kinh doanh rồi. Bấy giờ địa vị của thương nhân trong xã hội rất thấp, nhưng lợi nhuận cực lớn của buôn bán khiến nhiều người thèm thuồng. Do đó một số nhà dòng dõi công thần huân khanh bèn cử quản gia tới vùng phụ cận hoàng thành, lấy danh nghĩa cá nhân quản gia mở cửa hàng,kỳ thực việc đầu tư, kinh doanh, lợi nhuận đều nằm trong tay bọn họ. Dần dần tự phát hình thành nên một khu chợ bán hàng cao cấp tại nơi này. Dương Lăng tới một tiệm trà ở sát cửa hậu cung, gọi một bình trà và chút hạt dưa, vừa uống vừa chờ. Chờ được nửa canh giờ, y thấy cửa cung mở ra, hai mươi mấy tên thái giám đẩy mấy xe chở nước ra khỏi cửa cung. Nội cung thường thường cử người tới Ngọc Tuyền sơn múc nước suối hảo hạng dâng đế vương và đám phi tần uống. Tuy rằng thông thường lúc trời còn chưa sáng đã xuất phát rồi, nhưng rời cung vào lúc này cũng là chuyện bình thường, cho nên đám du khách và thương nhân đang nhốn nháo rộn ràng chung quanh cũng không chú ý lắm. Dương Lăng quan sát cẩn thận, thấy trong đám người đó có vài thái giám hơi cúi đầu liếc ngang liếc dọc. Trong đó có một tiểu thái giám nhỏ tuổi đi cạnh cái bánh xe to tướng của chiếc xe chở nước, nhìn ngó láo liên tứ phía. Dương Lăng vừa nhìn qua đã nhận ra người đó chính là Chu Hậu Chiếu, vội vàng chạy tới đón. Chu Hậu Chiếu mặc y phục của tiểu thái giám đang nhìn đông nhìn tây, Dương Lăng sáp đến níu lấy tay áo hắn, thấp giọng gọi: - Thái tử! Chu Hậu Chiếu giật mình, ngẩng đầu trông thấy y, nét mặt không khỏi lộ vẻ mừng rỡ. Dương Lăng vội vàng khoát tay ra hiệu đừng lên tiếng. Lưu Cẩn cũng đang đi bên cạnh Chu Hậu Chiếu, trông thấy Dương Lăng, lão liền mỉm cười chào. Dương Lăng vác gói đồ đi theo bọn họ một hồi tới một tiệm gỗ. Các loại gỗ thượng hạng trên khắp cả nước được chuyển tới tiệm này, họ còn mời rất nhiều thợ cả đến làm mộc, có thể chế tác tại chỗ các loại đồ dùng trong nhà với đủ kiểu dáng khác nhau thoả mãn yêu cầu của đám quan to quý tộc. Do đó bên cạnh cửa hàng có một lối nhỏ dẫn đến xưởng mộc riêng của tiệm. Dương Lăng kéo Chu Hậu Chiếu một cái, Chu Hậu Chiếu cũng hiểu ý, nhân lúc mọi người không chú ý, theo Dương Lăng rẽ vào ngõ nhỏ. Dương Lăng bước vội mấy bước, thấy xung quanh không có ai, quay người lại vừa định lên tiếng, liền thấy một đám người đi theo sau Chu Hậu Chiếu. Y mắt tròn mắt dẹt, hoảng hốt hỏi: - Sao.... sao mà... các vị công công đều tới vậy? Hôm qua bọn họ đã thỏa thuận Lưu Cẩn và Trương Vĩnh sẽ theo Chu Hậu Chiếu nhân cơ hội xe chở nước rời cung mà lẻn ra. Cốc Đại Dụng và Mã Vĩnh Thành thì ở lại Đông cung để che mắt; còn bọn Cao Phương, La Tường, Ngụy Bân, Khâu Tụ thì không được giao việc gì. Bởi vì đám Bát hổ không phải toàn là người trưởng thành, còn có những thái giám trẻ mới hai mươi tuổi, nếu như đều theo ra ngoài thì quá lộ liễu, hơn nữa y còn sợ bọn họ xúi giục Chu Hậu Chiếu gây chuyện. Còn Trương Vĩnh, Lưu Cẩn, một kẻ trưởng thành lão luyện, một kẻ cơ mưu thâm sâu, có bọn họ đi theo phối hợp là tương đối ổn thỏa. Dè đâu lúc này y nhìn lại thấy đủ cả tám người chẳng thiếu một ai đều theo ra khỏi cung. Ngụy Bân thấy Dương Lăng hoảng hốt, cười hề hề: - Dương tướng công không cần phải lo lắng! Tối qua hoàng thượng vừa mới tới thăm Thái tử, vả lại hôm nay bên quân đội có tin cấp báo, hoàng thượng và ba vị đại học sĩ cùng các vị thượng thư của bộ Binh, bộ Công đang nghị sự! Còn người của bộ Lễ, bộ Hộ đều đang phải tuần tra trường thi kỳ thi Xuân. Không có chuyện gì đâu! Dương Lăng cười khổ một tiếng, y biết rõ mấy kẻ này đời nào bỏ qua cơ hội lấy lòng thái tử. Dương Lăng đành phải nói: - Các vị công công nói cũng phải, chỉ là.... trước đó hạ quan không hiểu tình hình, cho nên chỉ chuẩn bị ba bộ quần áo... Khâu Tụ vội đáp: - Không sao cả, chúng ta đều đã tự chuẩn bị y phục rồi. Gã ngó quanh bốn phía, thấy ở giao lộ chỉ thỉnh thoảng có mấy người đi qua, cũng không quá để ý đến trong ngõ, liền vội vàng cởi áo bào thái giám, tháo nón xuống, trên người đã mặc sẵn một bộ quần áo sĩ tử bình thường, trên đầu đội một chiếc khăn thư sinh, cải trang rất nhanh chóng. Gã vốn là một hoạn quan, thiếu khí chất mạnh mẽ của đàn ông nên mặc bộ y phục này, tuy da hơi đen nhưng lại thật giống kẻ đọc sách yếu đuối. Chu Hậu Chiếu, Lưu Cẩn, Trương Vĩnh được Dương Lăng chuẩn bị đủ áo quần rồi nên không phải ăn mặc rườm rà như vậy. Mấy người kia đổi y phục xong liền đứng chắn phía trước, ba người còn lại cũng vội vã thay đổi áo quần, cả mười người đều ăn mặc kiểu văn nhân. May mắn là đúng dịp kỳ thi Xuân, sĩ tử văn nhân khắp nơi tụ tập tới kinh sư, khắp thành Bắc Kinh đều là người đọc sách, nên bọn họ cũng không khiến người khác nghi ngờ. Dương Lăng hỏi: - Thái tử, bây giờ chúng ta tới bộ Binh chứ? Chu Hậu Chiếu vừa rời khỏi hoàng cung, như chim xổ lồng, như cá gặp nước. Ngày trước hắn rời khỏi cung toàn do phụ hoàng đưa đi, có rất nhiều thị vệ ngầm bảo vệ nghiêm ngặt, chỉ đi tới những chốn ít người lai vãng; chưa bao giờ hắn được như hôm nay tự mình ra ngoài. Hắn như nhà quê lên phố, thấy cái gì cũng mới lạ. Nếu như bây giờ tới bộ Binh náo loạn một trận, rồi tới nơi khác dạo chơi thì chắc chắn không vui nữa, làm sao hắn chịu đi luôn bây giờ. Thế là Chu Hậu Chiếu vội vàng khoát tay đáp: - Đừng gấp, đừng gấp! Chúng ta đi dạo khắp nơi trước đã. Dương Lăng không biết làm sao, đành phải theo hắn đi lang thang trong chợ. Chu Hậu Chiếu thấy trong chợ bán rất nhiều thứ không có trong cung nên rất thích thú. Ngộ tính của tên nhóc này rất tốt, thấy người khác mặc cả, trả giá quyết liệt đến không biết đường nào mà lần bèn ngứa ngáy trong lòng, thấy thích thứ nào cũng tới hỏi giá, sau đó học theo người ta mặc cả. Mặc dù hắn không biết giá cả nhưng Bát hổ lại khá rành rẽ. Có bọn họ ở bên giúp đỡ, dù Chu Hậu Chiếu không đến nỗi tiêu tiền như nước, nhưng hễ đã mặc cả xong thứ gì thì phải mua luôn. Bấy giờ đa số bọn Bát hổ đều cười khổ vì chẳng có xu nào, duy có Mã Vĩnh Thành chuyên phụ trách mua sắm thường nhật trong cung, mặc dù không phải là thái giám chủ sự nhưng tiền bạc trong tay cũng đủ để dùng. Để lấy lòng thái tử, chỉ cần Chu Hậu Chiếu mặc cả xong thứ gì, gã liền lập tức rút tiền ra mua. Mấy người dạo quanh vùng ven hoàng thành chưa tới một canh giờ mà tám tên thái giám và cả Dương Lăng đều đã tay xách nách mang, khuân vác đủ thứ. Ngay bản thân Chu Hậu Chiếu cũng nghiêng vai cắp một quyển lụa, tay phải xách hai bao trà, trên cổ treo mấy hộp trân châu, tay trái cầm một chiếc đĩa lớn có tạo hình hoa sen cá vàng ở bên trong rất đẹp, trông rất buồn cười. Mặc dù thân phận của đám thương nhân đó thấp kém, nhưng đều là nhân viên quản gia được các thế gia vọng tộc phái ra nên cũng khá hiểu các mặt của xã hội. Nhìn tính cách của đám người này giống như bọn nhà giàu mới nổi, còn tưởng là tài chủ dưới nông thôn lên, nên cho dù ăn bạc của bọn họ xong mà trên mặt đám thương nhân vẫn không tránh khỏi vẻ khinh bỉ. Chu Hậu Chiếu chơi đùa rất vui vẻ, mặc kệ vẻ mặt của đám thương nhân đó. Đi dạo trong chợ đến chán chê rồi, hắn mới cảm thấy mấy thứ trong tay quá vướng víu. Quay đầu nhìn lại, thấy bộ dạng của đám người Lưu Cẩn và Dương Lăng còn nhếch nhác hơn mình nhiều, Chu Hậu Chiếu chợt cười ầm lên. Hắn nghĩ tám người kia đều ở trong cung hầu hạ mình, trong kinh cũng không có người thân nào nên bèn nói với Dương Lăng: - Hôm nay đi chơi thật là vui! Vốn ta muốn đi dạo phố thêm, nhưng mấy thứ này quá phiền phức. Không phải là ngươi mới tới kinh thành sao? Mấy thứ này tạm coi như quà chúng ta tặng ngươi. Chúng ta tới đầu phố thuê xe đi! Mang mấy thứ này tới nhà ngươi, sau đó tiếp tục dạo phố. Nghe xong, Dương Lăng trong lòng rất vui vẻ, không ngờ đi theo Thái tử dạo phố còn được cho quà. Chu Hậu Chiếu mua sắm toàn dựa vào ý thích của bản thân, cũng không màng giá cả ra sao, cho nên những món đồ này rất đa dạng, có những thứ chỉ hai chục văn tiền, có những thứ đắt tới vài ba trăm lạng. Đống đồ mấy người đang xách tính ra cũng phải hơn ngàn lạng bạc, trong đó còn có gương son các thứ, mình mang về sẽ giúp Ấu Nương tiết kiệm được thời gian đi mua sắm. Trong lòng phấn chấn, ngoài miệng y vẫn còn khách sáo một hồi, vội vã khiêm nhường: - Thái tử gia,việc này không ổn đâu, đây đều là những thứ người thích! Nếu như muốn ban thưởng cho thần, tám vị công công cũng phải có phần mới phải. Chu Hậu Chiếu nghe xong cười mắng: - Giả bộ vừa thôi, bọn họ ăn trong cung, dùng đồ trong cung, ngay cả nhà cũng không có, cho họ mấy thứ này về làm gì? Mau đi kiếm xe đi! Trương Vĩnh cũng nhăn nhó phụ họa: - Dương tướng công, cậu đừng từ chối nữa! Cái thân già của ta sắp không chịu nổi nữa rồi. Ui da, cái vò này khi nãy không cảm thấy nặng chút nào mà bây giờ sắp tuột xuống đất rồi đây này! Mấy người La Tường, Ngụy Bân, Khâu Tụ liên tục gật đầu hưởng ứng. Mặc dù cả bọn đều là nô tài để sai bảo nhưng chưa từng làm những việc lao lực. Vác đồ cả nửa ngày trời, vừa đừ vừa mệt, lại không dám tùy tiện bỏ mấy thứ Thái tử mua xuống, bây giờ bọn họ chỉ mong mấy thứ này mau mau rời khỏi tay, còn việc cho ai thì cũng chẳng quan trọng. Thế là Dương Lăng và Chu Hậu Chiếu sánh vai chen chúc khỏi đám đông đi ra đường cái. Do đông người, đám thái giám sợ Chính Đức bị lạc mất nên theo thói quen bốn trước bốn sau bảo hộ, lưng cũng hơi khom xuống, nhìn qua giống như đang hầu hạ một quý công tử xuất hành. Nhưng bọn họ đều mặc đồ thư sinh nên người qua đường thấy cũng hơi lạ. Đoàn người vẫn không phát hiện, cứ xếp thành hai "cánh quân" vác đống đồ lỉnh kỉnh kéo tới nhà Dương Lăng.

Chương 64: Thập đại ác nhânDịch: TheJoker Biên dịch: Biên tập: Ba_Van Hiệu đính: Nguồn: www.tangthuvien.com Sỹ tử ấy đứng dậy, nước mắt giàn giụa, ngoái đầu thấy Dương Lăng sắp rẽ qua góc màn che, liền vội cất cao giọng nghẹn ngào nói to: - Ơn giúp đỡ của Dương đại nhân, cả đời này học sinh Nghiêm Tung sẽ không bao giờ quên!" Vừa mới rẽ qua màn che, nghe được lời gã Dương Lăng liền vấp chân, thiếu chút nữa thì ngã lộn cổ xuống sông. Quyển hai - Nhắm mắt lên kinh Chương 64 Thập đại ác nhân Dương Lăng thuê một cỗ xe lớn, chất từng món đồ lên xe. Trương Vĩnh, Lưu Cẩn, Mã Vĩnh Thành, ba tên thái giám cao tuổi nhất lên ngồi trên xe cùng với Thái tử và thị độc, còn những tên trẻ tuổi hơn đành phải hạ mình theo sau xe, cùng đi thẳng đến đường Hộ Quốc Tự. Mặc dù Chu Hậu Chiếu gan to làm liều, nhưng y cũng lo chuyện Thái tử tự mình rời cung sẽ lan khắp mọi người, cho nên dọc đường căn dặn Dương Lăng và Bát hổ cùng nói bọn họ đều là thị độc của Thái tử, hôm nay đến nhà họ Dương là để chào đón đồng liêu tiến kinh, có lòng mua lễ vật biếu tặng. Mấy tên thái giám đều vâng vâng dạ dạ đáp lời, dù sao thì dân gian trăm họ cũng không biết bên cạnh thái tử gia có bao nhiêu văn nhân làm Thị độc. Sau khi Dương Lăng rời khỏi nhà, Ấu Nương cảm thấy trong người khó chịu, mới ăn qua loa một chút thì đã không thể nuốt thêm. Nàng bèn vào giường nằm nghỉ một chút, rồi lại ngồi dậy luyện hít thở một hồi, cảm thấy trong lòng thoải mái hơn nhiều. Vừa mới hồi phục tinh thần, nàng chợt nghe tiếng đập của vòng khoá bằng đồng trước cổng rồi có tiếng tướng công gọi: - Ấu Nương! Mau ra đón khách... Hàn Ấu Nương vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ: “sao hôm nay tướng công về sớm vậy?” Nàng vội xuống giường, bước ra cửa đón. Có tám, chín người diện đồ tú tài màu xanh đang đứng ngoài cửa, người nào người nấy tay xách nách mang không ít đồ lỉnh kỉnh. Dương Lăng bước lên, cười nói: - Ấu Nương, mấy vị này đều là Thị độc của Thái tử điện hạ trong Đông cung, là đồng liêu của ta. Nghe nói ta vừa mới đến kinh sư, các vị có lòng mua lễ vật đến đây thăm hỏi. Mấy người Lưu Cẩn, Cốc Đại Dụng nghe xong đều cố nặn ra một bộ mặt vui vẻ hoà nhã, lần lượt gật đầu, tươi cười đồng thanh nói: - Đúng vậy! Đúng vậy! Chúng tôi đều là đồng liêu của Dương tướng công. Hôm nay muốn đến quý phủ để thăm viếng. Trình độ văn hoá tám người này có cao, có thấp, tên thì gọi nàng là “Dương phu nhân”, kẻ thì gọi nàng là “tiểu nương tử”. Khâu Tụ, Nguỵ Bân trẻ tuổi, lại ở trong cung từ bé nên càng không biết phải xưng hô với Ấu Nương như thế nào, thế là cũng bất kể mình lớn hay nhỏ tuổi hơn Dương Lăng cứ gọi nàng là "chị nhà Dương" luôn (Dương gia tẩu). Nghe nói là đồng liêu cùng làm việc chung với tướng công, Ấu Nương không dám chậm trễ, vội vàng mời bọn họ vào nhà. Mấy tên này vừa bước vào nhà liền vội tranh thủ chất hết các thứ mà Chu Hậu Chiếu đã mua xuống khắp nhà rồi tìm chỗ ngồi đấm tay bóp chân. Lễ vật mà những tên này xách rất đa dạng, thậm chí còn có riềm giấy đính thạch anh, hũ dưa muối, hồ lô Bát Tiên, đủ cả. Sau khi chất cả vào nhà, trên giường dưới đất khắp nơi đều là lễ vật. Chính Đức đi sau lưng mọi người, bước vào nhà sau cùng. Y cũng ăn mặc như một tiểu thư sinh, người mặc áo xanh, đầu đội khăn vải, tay cầm "bánh Hồ lô đường" gặm được một nửa. Y nhảy mấy bước đến bên cạnh Ấu Nương, thảy ba xâu trân châu và một bao giấy Tuyên Thành thượng hạng lên giường rồi cười hề hề với Ấu Nương: - Ấu Nương tỷ tỷ, đệ cũng đến nè. Ấu Nương hơi ngẩn người. Thấy y còn nhỏ tuổi, nàng không khỏi vừa cảm thấy ngạc nhiên vừa cảm thấy kỳ lạ: "Thư sinh nhỏ tuổi thế này mà cũng là người bên cạnh thái tử à?" Nàng thấy thư sinh này hơi quen, nhưng lại không nhớ nổi đã từng gặp mặt lúc nào. Dương Lăng vội bước tới giới thiệu: - Vị này... a hèm, cũng là đồng liêu của ta. Nương tử còn nhớ tiểu công tử mà chúng ta đã gặp ở Hộ Quốc tự ngày đó không? Hàn Ấu Nương "a" lên một tiếng, vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ đáp: - Nhớ rồi, thiếp nhớ rồi! Thì ra tiểu công tử cũng là “bạn độc” (bạn đọc sách, khác với thái giám) bên cạnh thái tử gia. Mời vào, mời vào! Ấu Nương thấy tuổi tác của vị tiểu thư sinh này xấp xỉ với tam đệ Mãn Thương của mình, cảm thấy rất đỗi thân thiết. Nàng cười nói với y: - Mau vào nhà ngồi đi! Đệ là đồng liêu của tướng công, phải gọi tỷ là tẩu(*) mới đúng. (*) Tỷ dùng chung để xưng chị, còn tẩu là tiếng kính xưng đối với vợ của của anh, vợ của người lớn tuổi hơn hoặc đối với phụ nữ có chồng nói chung. Chính Đức chỉ có một đệ đệ đã chết yểu lúc nhỏ, con cháu họ Chu tuy nhiều, song tất cả đều bị đuổi ra khỏi kinh hết, nên ngày thường y thật sự chưa từng gọi người khác là tẩu. Nghiêng đầu nghĩ ngợi một lát, cảm thấy có người chị như Ấu Nương cũng không tệ, thế là y bèn vui vẻ sửa đổi cách gọi. Ấu Nương cười đáp lại một tiếng, đang chuẩn bị đun nước pha trà, Trương Vĩnh vội ngăn lại, cười ha hả nói: - Phu nhân không cần khách sáo đâu. Chốc nữa Dương thị độc sẽ mời các vị đồng liêu đến tửu lâu uống rượu, chúng tôi đến nhà ngồi một chút rồi sẽ đi thôi. Những kẻ này đang thật sự rất mệt, nhưng Chính Đức thì vẫn dồi dào sức lực, chạy loạn khắp trong nhà ngoài sân, hễ thấy thứ gì mà chưa gặp bao giờ thì y liền tò mò căng cái họng vịt đực ra gọi "tẩu" tới. Từ khi đến kinh thành, Ấu Nương cũng hơi nhớ đến người thân ở quê nhà. Chính Đức mày đen mắt đẹp, nghịch ngợm khoẻ khoắn rất giống với đệ đệ Hàn Mãn Thương của nàng, vì vậy Ấu Nương cũng rất thích y, cho nên hết lần này đến lần khác kiên nhẫn giải thích một phen. Một hồi sau, Chu Hậu Chiếu lại nhìn thấy cái giếng trong sân. Thấy buộc dây thừng vào bánh xe gỗ, kéo thùng gỗ lên thì có thể múc được nước giếng ngon ngọt và mát rượi, thế là tính ham chơi của y lập tức phát tác. Sau khi nghe Ấu Nương giải thích cách dùng, thấy nước trong lu chỉ còn non nửa, y lập tức nổi hứng hăm hở kéo từng thùng nước đổ vào trong lu. Bọn Lưu Cẩn, Trương Vĩnh thấy Thái tử làm công việc nặng nhọc như vậy, cũng bất chấp thân thể còn đang rã rời, ồ ạt tranh nhau chạy ra đòi giúp. Chu Hậu Chiếu đang chơi hăng đâu chịu buông tay, đổ đầy cả lu nước rồi mới tiếc nuối dừng tay. Vừa rồi đứng ở bên giếng, mấy tên thái giám cứ thon thót lo Thái tử sẽ gặp bất trắc, rốt cuộc thấy y đã dừng tay, sợ y lại nghĩ ra thêm trò chơi mới mẻ gì nữa, liền vội thừa dịp cáo từ Ấu Nương. Hàng người rời khỏi sân nhà, Dương Lăng cố ý tụt lại ở phía sau, chờ bọn họ đi xa một chút rồi quay đầu nói với Ấu Nương: - Ấu Nương, sắc mặt nàng tệ lắm, má đỏ bừng rồi. Có phải cảm thấy không được khoẻ không? Nếu không thì... Khi nào về ta dẫn nàng đi gặp lang trung nhé? Hàn Ấu Nương phấn chấn tinh thần cười nói: - Thân thể thiếp nào quý giá như vậy? Tướng công yên tâm đi, có lẽ là do lạnh bụng cho nên hơi khó chịu, thiếp nghỉ ngơi một chút thì sẽ đỡ thôi. Chàng hãy đi tiếp khách đi, chớ để thất lễ. Nàng vừa phủi bụi bặm bám trên vai Dương Lăng do khiêng đồ khi nãy, vừa mỉm cười nói: - Thái tử gia thật là một người kỳ lạ. Thị độc có người sắp làm ông người ta, có người thì lại là trẻ con chưa lớn, chắc bọn họ cũng là những nhân vật lớn trong triều nhỉ? Có điều thiếp cảm thấy bọn họ không oai phong bằng tướng công đâu. - Dĩ nhiên! Dương Lăng ưỡn ngực đáp. Y ngoái đầu nhìn: tám tên đại thái giám, một thằng nhóc con. Phẩm chất của "cửu đại ác nhân" trong lịch sử này hãy tạm chưa nhắc đến mình, cho nên nếu chỉ nhìn vào tướng mạo thì trông thế nào mình cũng đúng là người oai phong nhất. Y cười với ái thê một cách rất uy nghi rồi nói: - Nàng trở về đi, không khỏe thì nghỉ ngơi, đừng dọn dẹp đồ đạc trước. Chờ thêm mấy ngày nữa tướng công mua nha hoàn về hầu hạ nàng. Ấu Nương của ta cũng nên được hưởng phúc một tý rồi. ***************** Kỳ thi Hội thường được cử hành vào tháng Hai năm kế tiếp của kỳ thi Hương, xưa gọi là "kỳ thi Xuân"*. Đến lúc đó sỹ tử toàn quốc tụ tập về kinh thành quyết trận sống mái. Tính bi tráng của nó còn khốc liệt hơn cả những kỳ thi đại học một chọi trăm, một chọi nghìn ngày nay. Do năm ngoái vua Hoằng Trị bị một cơn bệnh nặng, qua năm lại gặp phải chuyện Thát Đát tập kích biên giới, cho nên kỳ thi Xuân năm nay trì hoãn lại đến giờ mới khai mạc, trễ trọn một tháng. (*): Vì kỳ thi Hội diễn ra vào mùa xuân kế tiếp của kỳ thi Hương, trong các năm Sửu, Thìn, Mùi, Tuất, do bộ Lễ tiến hành, nên còn gọi là “lễ vi”, hay “xuân vi” Hôm nay là ngày thi đầu tiên. Bộ Lễ phải xin thánh dụ, cúng trời xanh, bái Khổng Tử, thực hiện rất nhiều lễ nghi hết sức rườm rà, cho nên lúc bắt đầu thi trời đã không còn sớm nữa. Bây giờ trên đường vẫn còn từng đám sỹ tử hối ha hối hả chạy đến Văn Miếu để thi. Chu Hậu Chiếu nhìn những thí sinh lưng đeo vải bọc, tay ôm bút nghiêng, nảy lòng tò mò, cũng chạy tới miếu Khổng Tử để xem náo nhiệt. Dương Lăng biết y mà chưa chơi thỏa thì nhất định không có lòng dạ nào đi làm đại sự, thế là đành phải cùng với bọn Lưu Cẩn cuống quýt đuổi theo đến Văn Miếu. Những thành thị có chút quy mô ở Đại Minh đều xây dựng “học cung” (nhà học). Học cung chính là nơi khổ học của sỹ tử đồng thời cũng là chốn thờ Khổng tử. Miếu Khổng tử của kinh sư đương nhiên là học cung lớn nhất toàn quốc. Đám người Chu Hậu Chiếu đến trước học cung, thấy bức hoành treo cao cao trên cạnh cửa viết bốn chữ vàng "Vạn Thế Sư Biểu"(1). Dựng ngay trước cây cầu bên ngoài ao miếu là một tấm bia cấm cao hai mét: "Quan viên văn võ đến đây phải xuống ngựa". Không cần biết quan lớn cỡ nào, đã đến học cung đều phải hạ kiệu, xuống ngựa mà bước bộ vào. Những văn nhân được phong làm đại quan đều trở về cúng bái Khổng lão phu tử, xem như là đã "áo gấm về làng", khoe khoang với những kẻ tầm thường. Còn võ tướng, cho dù là quan đến nhất phẩm, quyền khuynh triều chính, từ rất xa mà nhìn thấy hai chữ Học Cung thì cũng phải đi vòng. Đành thế thôi, đám hủ nho già một mực tin rằng "bán bộ Luận Ngữ trị thiên hạ, Đạo Đức văn chương thế vô song"(2), người học võ bước vào là muốn nhận lấy sự kỳ thị rồi. Học cung tuy lớn, nhưng vẫn không đủ chứa thí sinh của cả nước nên đã dựng thêm ba dãy chòi gỗ sát tường cung để bổ sung thêm điểm thi. Chung quanh màn vải giăng kín, binh sỹ canh gác nghiêm ngặt. Lúc Chu Hậu Chiếu rì rì chạy đến nơi thì "chuông vang trống dội", kỳ thi đã bắt đầu. Trước cửa, ngoài người nhà, gia bộc của đám sỹ tử và một vài tiểu thương bán nước trà, điểm tâm ra, thì chẳng còn sỹ tử nào nữa. Chu Hậu Chiếu bỗng cảm thấy vô vị. Thấy dưới gốc cây hoè to có sạp trà, y liền qua đó ngồi. Lưu Cẩn vội kêu tiểu nhị lại, gọi trà, điểm tâm, hạt dưa rồi cùng Chu Hậu Chiếu tán gẫu dưới gốc cây. Dương Lăng nhìn trời, ước chừng khoảng hơn mười giờ sáng, vẫn còn dư thời gian để đến bộ Binh, lúc này mới yên tâm. Y báo với Chu Hậu Chiếu một tiếng, rồi men theo ao nước trước học cung chậm rãi đi về hướng Tây, định ngó bộ dáng của những sỹ tử dự thi mớ văn Bát Cổ này. Có điều màn vải giăng thật quá kín, cách vài bước lại có một quan binh canh gác, đến gần một chút là bị bọn họ lớn tiếng quát nạt ngay. Đi dạo một hồi, cảm thấy chán, Dương Lăng đang định quay người trở về thì đột nhiên một sỹ tử tay kẹp bao vải hối hả chạy lướt qua người y, thẳng tới cửa trường thi do màn vải giăng. Sỹ tử ấy đầu mướt mồ hôi, giơ thẻ thi lên sốt sắng báo: - Binh đại ca, học sinh vì đến muộn, lại đến nhầm trường thi, chậm trễ chút thời gian. Xin quan binh đại ca hãy châm chước một chút, cho ta vào đi. Dương Lăng dừng bước lại, quay người tò mò nhìn. Đứng gác ở cửa có bốn tên lính, một tên tiểu kỳ (lính đeo cờ) xua tay bảo: - Chuyện lớn như thi Hội này mà cũng nhầm lẫn được à? Đã muộn thì đợi thêm ba năm đi. Chúng ta cũng không dám tự quyết định cho ngươi vào đâu. Vị sỹ tử đó nôn nóng đến toát mồ hôi đầm đìa, vừa quỵ luỵ khẩn cầu, vừa chắp tay vái lia lịa: - Các vị quan binh đại ca, học sinh cực khổ đọc sách học hành mười năm không nghỉ, chính là vì một khắc này đây. Không dám giấu các vị quan binh đại ca, đêm qua học sinh còn cố thức học đến tận canh ba. Chỉ hận trên đường đụng phải một tên vô lại, bị hắn quấn lấy quấy rầy mãi, cho nên lỡ mất thời giờ. Xin các vị hãy giúp đỡ một chút! Dương Lăng quan sát tên sỹ tử này, thấy gã tuổi trạc hai mươi lăm, hai mươi sáu, mày rậm mắt to, nước da ngăm ngăm, vóc người vừa cao vừa gầy, người mặc một bộ thanh sam, trông như cây sậy. Gã vừa van vỉ vừa đưa tay vào ngực lấy tất cả ngân lượng cất trong người nhét vào tay của tên lính nọ, kèm theo một nụ cười nói: - Các vị binh đại ca hãy châm chước giúp một chút, đại ân đại đức học sinh suốt đời sẽ không quên. Tên lính thấy y nhét chừng hơn chục lượng bạc ròng, ánh mắt tức thời lộ ra vẻ tham lam. Có điều bên trong trường thi này là trọng địa, cửa ải trùng trùng, qua được ải này của hắn cũng không vào được đến trường thi. Tuy hắn là một quan binh lớn nhưng cũng không có quyền đưa người vào, đành phải ngậm ngùi đẩy số bạc lại vào trong ngực sỹ tử nọ, lắc đầu, không nói gì thêm. Thấy tình cảnh đến nước này, sỹ tử đó quýnh quáng đến độ mồ hôi trên trán chảy xuống ròng ròng. Bản thân gã lại như không cảm nhận được, thậm chí không lau chúng đi, mà vẫn níu kéo tên tiểu kỳ nọ khẩn nài không ngớt. Mấy tên lính khác thấy gã cứ đứng lỳ không chịu đi thì cùng bắt đầu lớn tiếng nạt nộ. Một quan viên bộ Lễ bên trong nghe tiếng ồn bước ra, phất ống tay áo, lạnh lùng gắt: - Kẻ nào làm ồn ở ngoài cửa đó? Quan viên Bộ Lễ đó chỉ là viên ngoại lang(3) bộ Lễ, nhưng dưới tình thế quẫn bách sỹ tử này đã hết cách đành sụp gối xuống đất đánh "cộp" một tiếng, cất cao giọng khẩn khoản: - Xin đại nhân hãy cứu ta! Xin đại nhân hãy cứu ta! Học sinh vì trễ một khắc, không kịp vào trường thi, xin đại nhân nghìn vạn lần khai ân, hãy để cho ta vào. Năn nỉ dứt lời, sỹ tử đó dập đầu như giã tỏi. Dương Lăng vốn chẳng để ý gì mấy, đến khi nghe tiếng đầu gã nện "bồm bộp" xuống đất, mới thót mình lo lắng, lập tức đồng cảm. Viên ngoại lang bộ Lễ đảo mắt kinh bỉ, lạnh lùng nói: - Triều đình mở khoa chọn sỹ là muốn tuyển lựa nhân tài, vì nước dốc sức. Thi Hội là chuyện lớn như vậy mà ngươi còn có thể đến trễ, loại người như ngươi cũng có thể vào triều làm quan ư? Trở về đọc sách Thánh Hiền thêm mấy năm nữa đi! Tên sỹ tử nghe xong cảm thấy nghẹn ngào, càng không đứng dậy mà nằm phục tại chỗ dập đầu không ngừng, lời khẩn cầu thậm chí cũng không thể thốt ra. Dương Lăng thấy vậy không đành lòng, không nén được bèn xin hộ: - Vị đại nhân này! Y đến trễ cùng lắm chỉ một khắc mà thôi, tuyệt đối sẽ không thể có chuyện lộ đề dối trá gì, chi bằng để cho y vào đi. Đại nhân cũng là kẻ đọc sách, hẳn phải biết khổ học không dễ mà. Viên ngoại lang bộ Lễ cười khẩy, vừa liếc xéo y vừa khinh khỉnh hỏi: - Ngươi là kẻ nào? Dương Lăng đáp: - Tại hạ Dương Lăng, cũng là một kẻ đọc sách. Người đọc sách vất vả nửa đời, đường công danh chỉ có một đường khoa cử. Quan hệ đến tiền đồ cả đời của người ta, đại nhân hãy khai ân giúp y một chút đi! Viên ngoại lang cười nhạt, đáp với giọng quái gở: - Khoa trường là nơi nào chứ? Khoa cử là đại sự như thế nào chứ? Việc trang nghiêm thiêng liêng như vậy, há có thể cho phép người ta tự làm theo ý mình ư? Dương Lăng thấy vẻ mặt khinh người của gã, chợt nhớ câu chuyện Nguỵ Trung Hiền của Đông xưởng sai người đưa Trương Hiếu Cổ (Hiếu Cổ nghĩa là ham thích đồ cổ - ND) vào trường thi trong tác phẩm "Liên Thăng Tam Cấp", trong lòng bèn máy động. Ai cũng nói Xưởng - Vệ hoành hành, kẻ nào cũng nhìn người bằng nửa con mắt, không biết lệnh bài của mình có dùng được hay không. Thấy chung quanh không có người quen, y bèn thò tay vào ngực lấy ra tấm ngọc bài, giơ lên trước mặt viên ngoại lang bộ Lễ, mỉm cười nói: - Đại nhân! Chính vì khoa cử là đại sự hàng đầu của đời người, vẫn mong đại nhân châm chước một chút, thật sẽ công đức vô lượng. Viên ngoại lang nhìn thấy lệnh bài Phi Ngư trong tay Dương Lăng, lập tức giật thót mình. Cẩm Y Vệ ung dung tự tại trong kinh sư, mười người thì hết tám, chín kẻ là ma đầu uống máu của Bắc trấn phủ ty. Chỉ cần đưa một hiệu uý của nha môn này ra cũng đủ bóp chết viên ngoại lang cỏn con như hắn rồi, huống hồ nhìn vào ngọc bài trong tay người này thì y nhất định phải là quan quân cao cấp trong Cẩm Y vệ. Từ khi nào Cẩm Y vệ quản luôn cả chuyện khoa cử vậy? Bọn họ cũng xem như là người thuộc hệ quân đội, bình thường ghét nhất là đến mấy chốn học cung này. Chẳng lẽ... là hoàng thượng ra lệnh Cẩm Y vệ đến âm thầm giám sát? Không lẽ chậm trễ một chút thì không tính là chuyện to tát không thể châm chước hay sao? Nếu như kẻ này thêm mắm thêm muối gièm pha mình ở trước mặt hoàng thượng, nói mình cố ý làm khó sỹ tử, vậy thì... Thế là trong chớp mắt, mồ hôi chảy ròng ròng khắp mặt viên ngoại lang. Gã lắp bắp đáp: - Dương đại nhân! Vừa nãy hạ quan không biết thân phận Dương đại nhân nên đã thất lễ, thật sự đã thất lễ. Có một câu này của đại nhân, vậy có gì là không thể chứ! Hạ quan sẽ lập tức tự mình đưa sỹ tử này vào trường thi ngay. Xin đại nhân cứ yên tâm! Gã sỹ tử cao gầy vẫn luôn quỳ ngước mặt ở cửa nghe hai người nói chuyện, vừa nghe xong liền lộ ngay vẻ mừng rỡ. Y vội vàng khấu đầu làm lễ, nói: - Đa tạ Dương đại nhân, đa tạ khảo quan đại nhân! Tuy y không biết ngọc bài Dương Lăng cầm là lệnh bài gì, nhưng thấy y tuổi hãy còn trẻ, lại có thể khiến cho vị khảo quan đó phải biến sắc, nhất định là vị quan to chức lớn rồi. Dương Lăng chắp tay nói với khảo quan: - Nếu đã vậy, đa tạ! Rồi quay sang sỹ tử nọ cười lớn bảo: - Đưa huynh vào khó, đề danh Kim Bảng còn khó hơn. Có thể vượt long môn hay không, tất cả đều sẽ trông cậy vào bản lĩnh của huynh đó! Làm xong được một chuyện tốt, lòng y cảm thấy rất vui vẻ. Bước chân lâng lâng, y nhắm thẳng về phía cổng chính của học cung mà tiến. Vị viên ngoại lang bộ Lễ thở phào nhẹ nhõm, vẫn còn chút khiếp vía, nói với gã sỹ tử: - Mau đứng dậy đi, để ta đưa ngươi vào trường thi! - Vâng! Vâng! Đa tạ khảo quan đại nhân! Sỹ tử ấy đứng dậy, nước mắt giàn giụa, ngoái đầu thấy Dương Lăng sắp rẽ qua góc màn che, liền vội cất cao giọng nghẹn ngào nói to: - Ơn giúp đỡ của Dương đại nhân, cả đời này học sinh Nghiêm Tung(*) sẽ không bao giờ quên! (*): xem chú thích 8 ở chương 2 về nhân vật "nổi tiếng" này Vừa mới rẽ qua màn che, nghe được lời gã Dương Lăng liền vấp chân, thiếu chút nữa thì ngã lộn cổ xuống sông. *************** Chú thích: (1) Vạn thế sư biểu: vị thầy mẫu mực của muôn đời. Người đời sau tôn tặng Đức Khổng Tử là: Vạn thế sư biểu, là vị thầy đúng nghĩa nhất, không ai có thể so sánh được với Ngài, làm kiểu mẫu muôn đời về sau. (theo Cao Đài) (2) Dịch nghĩa: nửa bộ Luận Ngữ đủ trị vì thiên hạ, bài Đạo Đức Kinh trên thế gian chỉ một không hai. Đạo Đức Kinh tác phẩm kinh điển của Đạo giáo do Lão Tử soạn còn Luận Ngữ là sách sưu tập ghi chép lại những lời dạy của Khổng Tử và những lời nói của người đương thời. Câu này cho thấy những nhà hủ nho trọng văn như thế nào. (3) Chỉ chức quan lang nằm ngoài nhóm quan chính (chính viên) trong bộ Lễ.

Chương 65: Lại sinh chuyện phiền phứcDịch: |YanYan* Biên dịch: TheJoker Biên tập: Ba_Van Hiệu đính: Nguồn: www.tangthuvien.com Chu Hậu Chiếu nghe vậy cảm thấy thú vị, y hứng chí vỗ bàn đánh bộp, hạ lệnh: - Đi! Chúng ta đi xem thử rốt cuộc ba nàng nhạc kỹ này có chỗ nào xuất chúng. Đã post đến chương 66 Chương 65 - Lại sinh chuyện phiền phức Ngồi được một lúc, Chu Hậu Chiếu cảm thấy hơi chán. Mặt trời càng lúc càng lên cao, trong bụng cũng cảm thấy đói, y đang định kêu người đi tìm Dương Lăng về thì thấy một đội bộ khoái của Ngũ Thành Binh Mã ty[1] đang vội vội vàng vàng chạy lại, không cầm đao thương mà cầm chổi và xẻng hót. Vài tên lại mục (viên chức nhỏ, không có phẩm cấp, chỉ huy một số viên tiểu lại) diễu võ dương oai quát lớn: - Những người không liên quan mau lánh đi mau! Đương kim thánh thượng sắp đến tuần thị trường thi đây. Chu Hậu Chiếu nghe nói lão tử của y sắp đến, giật nảy cả người, vội vàng đứng dậy. Bọn bộ khoái vung chổi quét tứ tung, bụi đất mù mịt. Không cần bọn chúng đuổi, những người dân đứng chờ ở ngoài trường thi cũng phải vội vàng lánh vào trong rừng cây đối diện bên đường. Người bán trà rong hô xui xẻo, cũng vội gọi bà vợ bê bàn ghế, những bộ trà nhanh chóng chuyển chỗ, cũng lúc này Dương Lăng mặt mày hầm hầm từ góc bên kia của mành vải quẹo ra. Chu Hậu Chiếu mừng rỡ, vội vàng nói: - Ngươi về thật đúng lúc! Mã Vĩnh Thành! Ngươi thường xuất cung mua sắm, mau giới thiệu một quán rượu kha khá, chúng ta đi ăn một bữa no nê đi! Thấy giọng của y tương đối lớn, Cốc Đại Dụng giật mình, vội thấp giọng bẩm: - Thái tử gia cẩn thận, đừng để người khác nghe thấy. Quen nhìn sắc mặt người khác, bọn Lưu Cẩn, Trương Vĩnh đều nhận ra vẻ không vui của Dương Lăng, có điều chúng nghĩ đến nát óc cũng không biết y gặp phải chuyện gì. Dương Lăng không ngờ vì nhất thời hảo tâm mình đã giúp đỡ một tên đại gian thần có tiếng trong lịch sử, lúc này lại nghe Chu Hậu Chiếu đòi đi ăn uống, càng cảm thấy đau đầu. Y vội tiến sát đến bên cạnh Châu Hậu Chiếu, thấp giọng nói: - Thái tử! Chúng ta rời cung đã lâu, kéo dài thời gian e rằng bệ hạ sẽ phát giác. Theo vi thần thấy, chúng ta hãy đi ăn chút cơm rồi mau chóng đến bộ Binh thôi! Chu Hậu Chiếu cũng thấp giọng cười nói: - Dương thị độc không cần phải lo lắng! Một lát nữa phụ hoàng sẽ đi tuần thị trường thi, trong thời gian ngắn sẽ chưa về cung đâu. Chúng ta đi tìm chỗ ăn uống một chút, đợi ta ăn no bụng rồi sẽ thuê xe đến bộ Binh lấy đồ. Chu Hậu Chiếu nghĩ đường đường thái tử ra mặt, Lưu Đại Hạ thế nào cũng phải nể mặt, đòi một ít đồ há không dễ như trở bàn tay ư? Mã Vĩnh Thành nghe lệnh của Chu Hậu Chiếu, vội dẫn cả bọn quay lại đường lớn, mười người thuê hai cỗ xe ngựa. Biết phụ hoàng của y muốn đến học cung, Chu Hậu Chiếu sợ sẽ bị ông ta phát hiện nên dặn dò Mã Vĩnh Thành đi càng xa càng tốt. Xe ngựa đi khắp đường to lối nhỏ được một lúc, Chu Hậu Chiếu từ trong xe nhìn thấy một con hẻm nhỏ bên đường vô cùng phồn hoa, đầu hẻm có một quán rượu, cờ bay phất phới, thật là vô cùng náo nhiệt. Y gõ vào thành xe, gọi Mã Vĩnh Thành dừng lại. Mã Vĩnh Trinh đưa mắt nhìn, thì ra hẻm nhỏ này chính là hẻm Bách Thuận, là một nơi phong nguyệt nổi tiếng của kinh thành, lòng không khỏi thầm kêu khổ. Hoàng đế Hoằng Trì chỉ có một đứa con trai, có thể nói ông vô cùng sủng ái Chu Hậu Chiếu, thêm vào đó bản thân hoàng thượng cũng thường lén rời cung nên cho dù có biết Thái tử tự ý xuất cung, cùng lắm ông cũng sẽ cho đánh bọn gã vài gậy lấy lệ. Vì vậy đám thái giám này mới dám xúi Thái tử xuất cung, nhưng nếu hoàng thượng biết bọn hắn dẫn tiểu thái tử đến chốn trăng hoa, vậy tội không nhẹ rồi. Nhưng gã lại không dám nói rõ với Chu Hậu Chiếu. Tính tò mò của vị Thái tử này quá lớn, càng là nơi không cho y đến, y càng muốn đến. May mà y chỉ vừa ý với tòa tửu lầu đầu hẻm kia, vậy đi vào mau chóng ăn uống một chút rồi nhanh chân rời khỏi là được. Mã Vĩnh Thành dừng xe rồi trả tiền, tranh thủ dặn bọn người Lưu Cẩn, Trương Vĩnh vài câu. Mấy tên thái giám già gật đầu lia lịa, mau chóng bước lên bảo hộ Chu Hậu Chiếu vào tửu lầu, chỉ sợ "con ngựa hoang" này lại nhất thời nổi hứng đi dạo lung tung trong hẻm này. Cả bọn bước lên lầu. Mã Vĩnh Thành chọn những món ngon nhất dọn lên đầy một bàn, mười người bắt đầu ăn uống trong gian phòng nhỏ yên tĩnh gần cửa sổ. Chu Hậu Chiếu còn nhỏ nhưng lại thích uống rượu, song vì y còn ít tuổi, tửu lượng còn thấp, uống được vài chén thì mặt đã đỏ bừng, bèn kêu Ngụy Bân mở cửa sổ cho thoáng khí. Tiết tháng ba, ánh mặt trời rạng rỡ, không khí cũng vô cùng mát mẻ, gió xuân hây hây. Chu Hậu Chiếu bỗng cảm thấy phấn chấn tinh thần, y nổi hứng đứng dậy rót rượu cho bọn Dương Lăng, ép bọn họ cũng uống vài ly. Chu Hậu Chiếu đang uống vui vẻ, bỗng nghe có tiếng đàn sáo từ ngoài cửa sổ loáng thoáng vẳng lại. Vốn yêu thích âm nhạc, y bất giác dừng chén tập trung lắng nghe. Y hoàn toàn không hứng thú với âm nhạc truyền thống trong cung đình, nhưng lại rất thích những khúc ca dân gian, kỳ âm của dị vực, lúc này nghe khúc nhạc kỳ diệu êm tai từ phía xa vẳng lại, tuy nhạc khí sử dụng vẫn là đàn sáo, nhưng phong tình lại không giống với phong cách âm nhạc trong cung đình.Y bất giác đứng dậy dựa vào lan can nhìn ra xa, hứng thú chỉ xuống một dãy nhà tứ hợp viện hai tầng ở phía dưới hỏi: - Đại Thành, đó là nơi nào? Mã Vĩnh Thành và Lưu Cẩn đưa mắt nhìn nhau, lắp ba lắp bắp đáp: - Ồ… lão nô cũng không biết, chắc là nhạc kỹ[2] do bọn lái thương mời đến đang ca hát. Chu Hậu Chiếu vỗ tay nói: - Có rượu mà không có nhạc sao được? Mau đi gọi một người lên đây, ta cũng muốn nghe đàn hát. Mã Vĩnh Thành mặt mày khổ sở chần chừ không muốn động đậy. Vừa vặn lúc này ông chủ quán rượu thấy những người khách bàn này hào phóng nên đích thân bưng thêm một con cá chép lớn vào phòng, Chu Hậu Chiếu quay lại gọi ông ta: - Chủ quán, ta nghe có tiếng đàn sáo ở bên kia rất thú vị. Mau đi gọi cho ta một người đến, ta muốn nghe nhạc. Thấy y ngồi ở vị trí chủ trì, chủ quán biết tiểu công tử này tuy nhỏ tuổi nhưng lại là người cầm đầu đám thư sinh này. Ông ta nhìn ra cửa sổ một cái, cười đáp: - Khách quan, nhạc kỹ ở bên kia không biểu diễn ở bên ngoài, khách quan muốn nghe nhạc, thì phải đến tận nơi để nghe. Chính Đức nghe vậy thì lấy làm tò mò, hỏi: - Ơ, phải nhạc kỹ không vậy? Sao lại tự cao tự đại như vậy, đâu phải là không trả tiền, tại sao lại tự đại như vậy? Chủ quán thấy y nhỏ tuổi, đoán rằng y vẫn còn chưa hiểu cho lắm, nhưng mấy tay thư sinh bên cạnh, ai ai cũng lộ vẻ quái dị, nói không chừng là khách thường xuyên trong chốn phong lưu. Ông ta cười đáp: - Khách quan có điều không biết! Các cô nương trong hẻm này đều là người có thân phận, thường ngày chỉ tiếp quan lại quyền quý, phú gia công tử, bình thường không dễ gì xuất đầu lộ diện. Nơi vọng lại tiếng nhã nhạc đàn sáo kia là Thì Hoa Quán, càng là nơi nổi danh trong hẻm Bách Thuận này của chúng tôi. Cô nương xinh đẹp trong quán cũng là nhiều nhất, các cô nương do tú bà Nhất Xứng Kim ở đó dạy dỗ ai ai cũng tinh thông cầm kỳ thi họa. Thường ngày ra vào nơi đó đại đa số đều là những danh sĩ phong lưu, quan lại quyền quý có danh phận, quán rượu này của tôi còn nhỏ, không mời được cô nương bọn họ. Châu Hậu Chiếu phong lưu hoang đường được lưu truyền hậu thế lúc này vẫn chỉ là một thằng nhóc chưa biết gì, hoàn toàn không có hứng thú với nữ sắc, chỉ muốn kêu người đến ca hát mà thôi, nghe nói nhạc kỹ ở đó không diễn ở bên ngoài, lập tức không còn chút hứng thú. Chủ quán lại nói: - Tiểu công tử nếu muốn đi xem cho mở tầm mắt, Thì Hoa Quán cũng thât là một nơi tốt để đi. Nơi đó những cô nương đang nổi tiếng như Hương Bảo Nhi, Khả Liễu Nhi đều xinh đẹp vô cùng, tiểu công tử nhân phẩm tuấn tú như vậy, bọn họ nhất định sẽ rất thích đó. Trong Thì Hoa Quán còn có ba tiểu cô nương xinh đẹp hơn nữa, vẫn còn chưa tiếp khách, đều là những thanh quan nhân[3]. Ba cô nương này tuy còn ít tuổi, nhưng đều là những mỹ nữ có vẻ đẹp trời cho. Một người tên là Tuyết Lý Mai, giỏi thổi tiêu; một người tên là Đường Nhất Tiên, giỏi gảy đàn; còn một người nữa là Ngọc Tỷ Nhi, ca múa đều giỏi. Ba người này tài nghệ và tướng mạo đều thập phần xuất chúng, tuổi tác cũng tương đương với công tử đây. Nghe mấy cái tên Tuyết Lý Mai, Đường Nhất Tiên, Dương Lăng lờ mờ cảm thấy quen tai, tựa như đã đừng nghe qua. Nhớ trong chín kiếp luân hồi của y, kiếp cuối cùng nhập vào xác một ca sĩ nổi tiếng, từng đóng một vai trong một bộ phim liên quan đến triều Minh, dường như lúc đó đã nghe qua mấy cái tên này. Dương Lăng nghĩ thầm: “Những nhạc kỹ này có thể lưu danh đến hậu thế, chắc cũng là danh kỹ đương thời, lẽ nào bởi vì qua tay Chính Đức, cho nên mới nổi danh? Thế nhưng trong lịch sử trước đây Chính Đức không có lần xuất cung này, phải tranh thủ tên tiểu tử này còn chưa hiểu gì về nữ sắc, lái chuyện này đi, không để cho y sa vào con đường đó.” Dương Lăng bèn không thèm suy nghĩ đến mấy cái tên nghe quen tai này nữa, vội gắt chủ quán: - Đi đi đi! Bớt huyên thuyên đi, mấy người chúng ta có gì mà chưa từng thấy! Vị tiểu công tử này của chúng ta tôn quý vô cùng, làm gì có việc hạ thấp thân phận đi gặp một ca kỹ chứ? Mau lui xuống! Y vốn muốn thổi Chu Hậu Chiếu một tí để y tự thị thân phận bỏ ý muốn nghe nhạc đi, nhưng Chu Hậu Chiếu lại cười tít mắt, dễ dãi : - Không sao, không sao! Ngươi nói một người giỏi thổi tiêu, một người giỏi gảy đàn, một người giỏi ca múa, vậy ba người này quả là tuyệt phối. Thế nhưng khúc nhạc ta nghe thử này nếu như là do bọn họ biểu diễn thì nhạc lý của họ cũng bình thường thôi. Bọn người Lưu Cẩn lo lắng phập phồng sợ Chu Hậu Chiếu nhất thời hứng lên, đòi đến đó nghe ca hát. Nghe thấy y nói vậy mới yên tâm, nhao nhao phụ họa: - Đúng vậy, đúng vậy! Công tử có gì mà chưa từng thấy chứ? Thôi đừng để ý, chúng ta uống rượu nào. Chủ quán thấy Chu Hậu Chiếu hiền hòa, liền giả lả: - Lúc này tấu nhạc chưa hẳn đã là các cô nương đó! Mấy vị khách quan không đi xem tài nghệ của bọn họ một lần, về sau muốn đi xem thì thiếu mất một vị rồi. Chu Hậu Chiếu hiếu kỳ hỏi: - Tại sao lại thiếu một người? Chủ quán đáp: - Nghe nói vị thương nhân họ Nghiêm để ý đến Ngọc Tỷ Nhi cô nương, bỏ ra nhiều tiền mua nàng ta về làm thiếp. Mấy ngày nay Ngọc Tỷ Nhi cô nương đều lấy nước mắt để rửa mặt, rất là đau buồn. Dương Lăng nghe vậy lấy làm lạ vô cùng, bất giác hỏi: - Cái gì? Làm gì có chuyện đó? Gả cho người khác làm thiếp cũng tốt hơn cái nghề bán tiếng cười cho người không quen biết, nàng ta có gì mà không vui chứ? Chủ quán đáp: - Khách quan chắc rằng ít khi đi lại chốn phong nguyệt, cho nên không biết tập tục nơi đó. Nếu là một cô nương bình thường, có người chuộc thân thoát khỏi bể lửa cho nàng ta, tất nhiên là điều mong mà không được. Nhưng Ngọc Tỷ Nhi cô nương còn trẻ, đã là thanh quan nhân có tiếng tại đây, về sau nhất định sẽ nổi danh. Danh kỹ đều lấy việc gả cho quan gia và văn nhân làm điều vinh dự, nếu ai bị thương nhân mua về làm thiếp thì đó là kết cục tồi tệ vô cùng, làm sao nàng ta cam tâm chứ? Chu Hậu Chiếu nghe vậy cảm thấy thú vị, y hứng chí vỗ bàn đánh bộp, hạ lệnh: - Đi! Chúng ta đi xem thử rốt cuộc ba nàng nhạc kỹ này có chỗ nào xuất chúng. *************** Chú thích: [1] Ngũ Thành Binh Mã ty: Năm Vĩnh Nhạc thứ hai (1404) nhà Minh thiết lập Bắc Kinh binh mã chỉ huy ty, sau khi định đô tại Bắc Kinh lập thành Ngũ thành binh mã ty, tức Trung, Đông, Tây, Nam, Bắc thành binh mã chỉ huy ty, là nha môn hàm Chánh lục phẩm. Mỗi ty lập ra một chỉ huy, bốn phó chỉ huy, một lại mục phụ trách trị an, phòng cháy và khai thông sửa chữa đường phố, vân vân, tương đương với Khu cảnh vệ Bắc Kinh và Cục công an ngày nay. [2] Nhạc kỹ: Trung Quốc xưa gọi chung những nghệ nhân theo nghiệp âm nhạc, ca hát là Nhạc kỹ. [3] Thanh quan nhân chỉ những phụ nữ chỉ bán nghề không bán thân, còn Hồng quan nhân chỉ những phụ nữ vừa bán nghề lại bán thân trong chốn hoan trường.

Chương 66: Chọc vào một gậyDịch: Bé Thy Biên dịch: TheJoker Biên tập: Ba_Van Hiệu đính: Nguồn: www.tangthuvien.com - Nghiêm đại gia, mong ông nói chuyện khách sáo cho! Tuy ông có tiền nhưng chẳng là gì đối với tỉ muội chúng tôi cả. Ông muốn mua mèo mua chó gì tùy ông, nhưng tỷ tỷ tôi không trông mong được vào nhà ông đâu. Huỷ ước chẳng phải là đền gấp đôi thôi sao? Tiền này chúng tôi sẽ trả. Chương 66 Chọc vào một gậy ------------------------ Chu Hậu Chiếu vừa dứt lời, cả chín người còn lại đều nhất tề kêu khổ. Lưu Cẩn vội khuyên: - Muộn…muộn lắm rồi, công tử! Hãy để hôm khác đi đi, đừng quên là lát nữa chúng ta còn có việc quan trọng cần làm đó. Dương Lăng cũng vội tiếp lời: - Đúng vậy, công tử! Những nơi đó tốt hơn hết là không nên đi, nếu để lệnh tôn biết được, chắc chắn sẽ bị trách phạt đó. Trong những người này, suy cho cùng đám Lưu Cẩn và Cốc Đại Dụng cũng chỉ là nô tài, nhưng y lại là Thái tử thị độc, chịu trách nhiệm dạy dỗ thái tử, nay thành ra xúi giục Thái tử đi thanh lâu kĩ viện, tội ấy thực sẽ không nhẹ. Cho dù Hoằng Trị lo cho sĩ diện của hoàng gia, không dám hé lộ chuyện Thái tử trốn ra ngoài, gán bừa cho y một tội danh nào đó cũng đều có thể khiến cho y chết dễ như trở bàn tay. Mặc dù từ những năm đầu lập nước Đại Minh đã lập ra một “Giáo Phường Ty“ to lớn, quan lại không những tự mình mua bán phụ nữ, mở kĩ viện, mà còn đưa cả vợ và con gái của những quan viên phạm tội vào làm kĩ nữ miễn phí, có thể nói là đã làm đủ chuyện thất đức. Nhưng trong pháp điển lại công khai quy định một điều là: ”nghiêm cấm quan lại quan hệ với kĩ nữ, ai trái lệnh sẽ bị phạt sáu mươi trượng”. Tuy rằng điều luật này vốn chưa từng được ai tuân thủ theo, trên dưới Đại Minh đều mắt nhắm mắt mở làm ngơ, nhưng không có nghĩa là điều luật này đã đi mất hiệu lực. Chỉ cần Hoàng đế lấy danh nghĩa này để trừng trị y, bọn tướng quân đại hán sẽ dốc toàn lực “giúp cho” mông của y được “tiếp xúc thân mật” với sáu mươi trượng, lúc đó y không chết cũng thành tàn tật. Chu Hậu Chiếu thấy bọn họ hết người này đến người khác nhảy ra khuyên ngăn, còn đưa cả phụ hoàng ra doạ mình, đành nói với vẻ không vui: - Thôi, không đi thì thôi! Cái này không được, cái kia cũng không xong, thật là mất hứng. Bọn người Dương Lăng sợ lát nữa Chu Hậu Chiếu sẽ lại đổi ý nên cũng không còn tâm trạng nhâm nhi thưởng thức mà vội vã ăn cho xong. Mã Vĩnh Thành nhanh chóng trả tiền rồi đưa Thái tử xuống lầu. Cả bọn đang đứng trước cửa quán định gọi xe thì thấy một người đàn ông mặt ngựa trạc tứ tuần dẫn theo vài tên đầy tớ to khỏe bước đến, vừa đi vừa đùng đùng quát mắng: - Chẳng phải đã nói sau ba ngày sẽ đến đưa người đi sao? Sao tên Tô Hoài chó má đó lại đổi ý rồi? Cạnh bên, một gã đàn ông nhỏ thó, dáng nhanh nhẹn đang chạy chậm theo hắn cười xiểm nịnh nói: - Nghiêm đại gia! Nghe nói có tên lại mục ở Ngũ Thành Binh Mã Ty cũng để mắt tới Ngọc Tỷ Nhi, chi tiền nhiều hơn ngài. Hai vợ chồng Nhất Xứng Kim suy nghĩ lại rồi nổi lòng tham, nói rằng Nghiêm đại gia ngài vàng bạc châu báu đầy nhà, chắc không ngại bỏ ra thêm ít tiền. Nhưng mà công việc ngày thường của ngài là xây dựng, nếu như đắc tội với người của Ngũ Thành Binh Mã ty… Ngừơi đàn ông mặt ngựa được gọi là Nghiêm đại gia bỗng nhiên dừng bước, lạnh lùng liếc mắt nhìn gã, giọng âm u: - Tề Phương! Người nhận được bao nhiêu quà cáp của Tô Hòai mà nói giúp hắn trước mặt lão tử? Tề Phương biến sắc, vội đáp: - Đại gia! Xem ngài nói kìa, ai lạ ai thân chẳng lẽ tôi còn không biết sao? Sao tôi có thể nói giúp cho Tô Hoài được? Nghiêm đại gia hừ một tiếng, mắng: - Ai lạ ai thân? Tên chó má nhà ngươi chỉ thân với tiền bạc thôi, lão tử bỏ năm ngàn lạng bạc trắng ra chuộc thân cho Ngọc Tỷ Nhi, hắn còn muốn bao nhiêu nữa, hả? Đó là năm ngàn lạng bạc trắng bóng đó. Người của Ngọc Tỷ Nhi được khảm vàng hay nạm ngọc hay sao mà đáng giá đó? Ta khinh, hắn nằm mơ đi. Văn tự cũng đã viết rồi, hắn dám nuốt lời sao? Đi, hôm nay ta sẽ đến cửa đòi người, xem ai dám cản ta! Chu Hậu Chiếu vừa nghe sắp có tiết mục cướp dâu để xem, tâm tư buồn bực khi nãy bỗng chốc trở nên phấn chấn, y hứng thú kéo Dương Lăng, gọi: - Đi mau, đi theo xem náo nhiệt! - Ơ kìa…! Dương Lăng chưa kịp kéo lại, Chu Hậu Chiếu đã nhanh như chớp đi theo sau mấy người kia. Dương Lăng giậm chân, rồi cùng đám người Lưu Cẩn vội vã đuổi theo. Khắp con phố này đều là tường thấp, hoa nở rực rỡ, trên cánh cửa trước một lạc viện trang nhã có treo tấm biển đen sơn vàng đề: “Thì Hoa Quán”. Vị Nghiêm lão gia kia đã dẫn người xông vào. Chu Hậu Chiếu dẫn đầu cả bọn cũng hứng chí đi theo vào trong. Vừa bước vào cửa chính là một giếng trời rộng lớn, dưới những cây cột dựa dọc hành lang là những chiếc bàn nhỏ nhắn vuông vức, khách làng chơi thường ngồi đây uống trà, tuyển chọn các cô nương. Vì trời vẫn còn sớm nên dưới hành lang không hề có khách. Lầu hai phía trên giếng trời là một dãy những căn phòng nhỏ, trước cửa đều có treo biển. Đây là phòng của những kỹ nữ bình thường nhất của kĩ viện. Đi sâu vào gian lạc viện thứ hai mới là nơi ở của các hồng cô nương*, đẳng cấp rõ ràng chênh lệch nhau xa. (*: xem chú thích về Hồng quan nhân ở chương trước) Bọn người Dương Lăng vội vàng đuổi theo vào cửa, chỉ thấy cánh cửa nhỏ trong lạc viện thông ra hậu viện đang mở, vị thương gia họ Nghiêm cùng người đi theo đã vào gian thứ ba, Chu Hậu Chiếu khấp khởi theo sau bọn họ. Dương Lăng sợ y gặp bất trắc, vội dẫn tám tên thái giám đuổi theo. Chu Hậu Chiếu muốn xem náo nhiệt, làm sao nỡ bỏ đi, thế là bèn vừa trừng mắt vừa cầu khẩn bọn người Dương Lăng và Lưu Cẩn đang bám riết không buông. Vừa nhìn thấy người kia dẫn bốn tên gia nhân khỏe mạnh xông vào hậu viện, y cũng vội vàng đuổi theo. Đuổi tới gian lạc viện thứ ba, một người đàn ông yếu ớt nghe tiếng động chạy ra đón đã bị họ Nghiêm túm lấy cổ áo lớn tiếng chửi mắng. Bọn Dương Lăng vội kéo Chu Hậu Chiếu định rời khỏi, Chu Hậu Chiếu đang xem náo nhiệt, làm sao chịu đi. Y lại trơ mặt ra vừa cầu khẩn vừa trừng mắt, vừa đánh vừa xoa chứ nhất quyết không chịu bỏ đi. Người đàn ông yếu ớt đó chính là tú ông Tô Hoài, hắn vừa cười nịnh bợ Nghiêm Khoan vừa nói: - Nghiêm lão gia, cần gì phải tức giận như vậy chứ? Tôi đã nhận tiền của ngài, đương nhiên là sẽ không nuốt lời. Chỉ là Ngọc Tỷ Nhi đã theo vợ chồng tôi từ lúc năm tuổi,nhất thời không nỡ rời xa, vì đau lòng mà cơ thể cũng đã mang chút bệnh. Nghiêm gia hãy nương cho một khoảng thời gian nữa được không? Cùng lắm chỉ phải đợi thêm mấy ngày nữa thôi. Nốt ruồi đen có lông trên má của Nghiêm Khoan rung lên, hắn nhe răng cười gằn đáp: - Khốn kiếp, kỹ nữ vô tình, con hát vô nghĩa, người như cô ta sao có thể không nỡ rời bỏ Tú ông,Tú bà như các ngươi chứ? Nghe nói các ngươi đang tìm một người mua khác, còn là một tên quan bé như hạt mè nữa, hê hê, phô trương thanh thế để dọa lão tử đây sao? Nhưng mà ta đã trả tiền rồi, có văn tự trên tay, có gặp quan ta cũng không sợ. Một người phụ nữ trung niên mặc đồ tím nhạt từ sương phòng bên trái vội vàng đi ra, từ xa đã cười hì hì, nói: - Ồ,Nghiêm đại gia, xem lời ngài nói kìa! Ngọc Tỷ Nhi là con nuôi của tôi, sau này nó theo ngài rồi thì ngài sẽ là con rể của tôi mà, sao có thể tổn hại hòa khí được? Thân phận kĩ nữ so với người thường thấp hơn một bậc, thuộc về tầng lớp hạ lưu, nhưng thương nhân cũng là tiện dân, chẳng tốt hơn nàng ta bao nhiêu. Hơn nữa, vị Nghiêm lão gia này lại là khách quen của Thì Hoa Quán, đều quen nhau cả, cho nên Nhất Xứng Kim mới dám trêu hắn mấy câu thô tục. Nhất Xứng Kim tuổi ngoài tứ tuần, nước da trắng mịn, tuy trên mặt có vài nếp nhăn nhưng làn thu ba dập dờn xinh đẹp và sắc sảo, dáng vẻ thướt tha vẫn rung động lòng người. Nghe lời nói chêm chọc cười này của bà ta, ông chủ Nghiêm không xụ mặt nữa, hắn buông Tô Hoài ra cười nhạt: - Năm ngàn lạng bạc, làm đứa con rể này không rẻ đâu à! Nhất Xứng Kim! Bớt giở trò trêu chọc ta đi, ngươi nói không nuốt lời? Được, coi như ta nghe nhầm, dù sao bây giờ nàng ấy là thiếp của ta, ba ngày sau vẫn là của ta. Vậy chọn ngày không bằng ngẫu nhiên, hôm nay ta muốn thành thân cùng nàng, ngươi thấy thế nào? Nhất Xứng Kim biến sắc, gượng cười nói: - Nghiêm đại gia! Tuy hứa gả Ngọc Tỷ Nhi cho ngài, nhưng suy cho cùng vợ chồng tôi đã nuôi nấng nó đến chừng này, sao có thể không có chút tình cảm nào chứ? Nay đứa con này không khỏe, yếu ớt sợ hãi, vợ chồng chúng tôi cũng rất đau lòng, sau này nó sẽ là người chung chăn gối với ngài rồi, chẳng lẽ ngài không đau lòng sao? Nhất Xứng Kim vừa nói vừa liếc nhìn tướng công của mình, Tô Hoài nhún nhún vai, không nói tiếng nào. Thì ra vị Nghiêm lão gia này tên là Nghiêm Khoan, là khách quen của Thì Hoa Quán. Hôm đó ngủ thân mật với một hồng cô nương tại gian lạc viện thứ hai, nên đã qua đêm ở đây. Sáng dậy mở cửa sổ, đúng lúc nhìn thấy Ngọc Tỷ Nhi từ hậu viện đi ngang qua, thế là lập tức hồn siêu phách lạc Nghiêm Khoan là một thương gia ham tiền, vốn không ưa trò ngắm trăng vịnh cảnh, nghe nhạc làm thơ, chỉ vì học đòi nho nhã để lấy lòng thanh quan nhân này nên cũng đứt ruột tốn một đống bạc giả làm người nho nhã vài ngày. Nhưng cả mấy lần ngay đến bàn tay nhỏ bé của người ta cũng chưa được đụng đến. Hắn nghĩ thay vì lấy dao cùn cắt thịt, chi bằng tốn một đống bạc lớn đưa tiểu mỹ nhân đẹp mê hồn này về nhà thưởng thức cho đã. Hôm đó đúng lúc Nhất Xứng Kim đang bệnh, tướng công của bà ta lo việc làm ăn, tuy thanh lâu là mỏ vàng, năm ngàn lượng đối với ông ta mà nói cũng không phải là một con số tầm thường. Hắn tính từ lúc mua Ngọc Tỷ Nhi ở Đại Đồng Sơn Tây về chỉ tốn tám trăm văn tiền, nay nuôi được tám năm thì đã có thể đổi lấy năm nghìn lạng bạc, nên đã lập tức nhận lời ngay, còn lăn cả dấu vân tay lên văn tự nữa. Khi Nhất Xứng Kim nghe được việc chồng mình tự ý quyết định, liền mắng hắn té tát. Mụ ta lăn lộn bao nhiêu năm trong chốn phong nguyệt nên Ngọc Tỷ Nhi sau này kiếm được bao nhiêu tiền trong lòng mụ ta rất rõ. Hơn nữa sau khi cô nàng nghe nói mình bị Tô Hoài bán cho một thương nhân thì đau đớn thương tâm, khóc lóc om sòm mấy trận, khiến Tô Hoài cũng có chút hối hận. Nhưng văn tự đã ký làm sao nuốt lời được? Hai người bọn họ tính đi tính lại,cố gắng tạo ra tin đồn rằng tên lại mục ở Ngũ Thành Tư Mã ty cũng để ý Ngọc Tỷ Nhi, định dùng chức quan để chèn ép hắn. Kì thực Ngũ Thành Binh Mã ty không phải là nha môn to tát gì, chỉ là một nơi quản lí trị an bình thường ở kinh thành (không kể Hoàng thành và Tử Cấm Thành). Lại mục lại càng không được xem như một chức quan, chỉ là cầm đầu của một nhóm tiểu lại, bình thường theo phía sau tuần thành ngự sử đi dạo phố phường, đợi nghe sai khiến, phất cờ hò reo, là một tên sai vặt không hơn không kém. Kì thực tiểu lại của Ngũ Thành Tư Mã ty rất tội nghiệp, ngoài việc bắt mấy tên trộm, sai dân chúng quét dọn đường phố, dọn dẹp cống ngầm, kiểm tra cân đong của thương buôn có chính xác không và đánh đập những tên dân ngu xuẩn phóng uế bừa bãi, thì vốn không có quyền quản lí hoặc chấp pháp. Khắp kinh thành đều là người quyền quý, bọn họ còn có thể quản lí ai? Nhưng một tiểu lại như vậy muốn áp chế thương nhân cũng rất dễ dàng. Nghiêm Khoan ở kinh thành làm ăn chẳng phải thường sợ nha môn quản lí trị an, thành quản, vệ sinh phòng dịch ở đây nắm thóp sao? Không ngờ lời này thông qua Tề Phương đến tai hắn, Nghiêm Khoan này lại không để tâm, vẫn tìm đến tận cửa. Hai vợ chồng bọn họ nhất thời không biết hắn có bối cảnh lớn cỡ nào. Nghiêm Khoan nghe xong lời Nhất Xứng Kim vừa nói liền cười ha hả, đáp bằng giọng quái gỡ: - Đau lòng? Để những cô nương yểu điệu xinh đẹp ở trong kĩ viện này của ngươi bị người này người kia chọc vào, ta mới đau lòng đó. Sao? Một kĩ nữ như ả mà dám chê thân phận ta thấp hèn sao? Đừng vuốt mặt mà không biết nể mũi, chỉ có người ta chọn ả thôi, làm gì tới lượt ả chọn khác. Ta có tiền, ta chính là đại gia! Cửa phòng đối diện đang đóng chặt bỗng mở toang, một tiểu cô nương với khuôn mặt trang điểm nhẹ, khoác áo lụa thêu hoa mẫu đơn, mặc váy xếp nếp màu xanh lá mạ từ trong bước ra rất nhanh. Nàng đứng ở cửa, nhướng mày, vẻ mặt lạnh lùng nói: - Nghiêm đại gia, mong ông nói chuyện khách sáo cho! Tuy ông có tiền nhưng chẳng là gì đối với tỉ muội chúng tôi cả. Ông muốn mua mèo mua chó gì tùy ông, nhưng tỷ tỷ tôi không trông mong được vào nhà ông đâu. Huỷ ước chẳng phải là đền gấp đôi sao? Tiền này chúng tôi sẽ trả. Cô nương mặc váy xanh này tư thế yểu điệu, nước da trắng ngần, phía dưới hàng chân mày nhạt là một đôi mắt xinh đẹp và vô cùng sắc sảo, âm thanh khi nói chuyện vừa giòn vừa gấp, giống như rang đậu vậy. Chu Hậu Chiếu không nhịn được, tấm tắc cười khen: - Cô nương này lợi hại thật, hơn kẻ bất lực kia nhiều. Dương Lăng và Cốc Đại Dụng nghe xong nhìn nhau cười một cách khổ sở. Nghiêm Khoan chau mày nói: - Tuyết Lý Mai cô nương, cô nói thật dễ, muốn hủy ước cũng phải được sự đồng ý của ta mới được. Tiền? Ta đây không thiếu, chỉ thiếu mỗi con mèo con chó làm ấm giường. Ngọc Tỷ Nhi này, lão tử quyết lấy rồi! Hắn rút từ trong ngực áo ra một tờ văn tự, lạnh lùng đưa trước mặt Tô Hoài nói: - Trên văn tự này của ta còn có dấu vân tay của ngươi đó. Sao, chúng ta có cần lên nha môn gặp nhau không? Lại thêm một vị tiểu cô nương từ bên trong tú lâu đó bước ra, đi thẳng đến trước mặt Nghiêm Khoan rồi nói với giọng cầu khẩn nhẹ nhàng: - Nghiêm đại gia! Thường có câu cố hái dưa dưa sẽ không ngon, những chuyện như vậy đôi bên phải tình nguyện mới được. Ngài hãy rủ lòng khai ân, buông tha Ngọc Tỷ Nhi đi. Nghiêm Khoan cười ha hả, híp mắt nói: - Vẫn là Nhất Tiên cô nương ăn nói ngọt ngào, làm cho người khác thích thú, đâu như thứ đàn bà miệng mồm đanh đá kia, ha ha ha. Dương Lăng nghe giọng nói nàng ngọt ngào, cũng không khỏi liếc nhìn một cái. Vị cô nương Đường Nhất Tiên này cũng chỉ khỏang mười ba mười bốn tuổi, dáng người nhỏ nhắn, khuôn mặt xinh đẹp rực rỡ, trên khóe môi có một nốt ruồi son, toát lên vài phần hoạt bát. Nàng liếc Nghiêm Khoan cười thẹn thùng, nũng nịu nói: - Vậy là Nghiêm đại gia đã đáp ứng? Nghiêm Khoan thấy thế xương cốt liền nhũn ra, hắn híp mắt nói: - Đáp ứng ư? Ta đáp ứng gì chứ? Vàng bạc mua nụ cười, người đẹp đón niềm vui, mua bán công bằng mà. Hề hề, cô bé có dáng vẻ động lòng người, vài năm nữa cũng sẽ thành tiểu yêu tinh. Đừng vội, đừng vội! Cuối năm nay ta sẽ kiếm thêm được một món tiền kha khá nữa, đến lúc đó ta cũng sẽ mua cô về bầu bạn với Ngọc Tỷ Nhi. Chúng ta một giường ba người, cô thấy thế nào? Hiện nay Đường Nhất Tiên, Ngọc Tỷ Nhi và Tuyết Lý Mai đều có thân phận thanh cao, khách nhân bọn họ tiếp đãi thường ngày đều tương đối nho nhã, nào ăn nói thô tục như hắn. Nàng nghe xong vừa giận vừa thẹn, nhưng nhất thời lại không dám phát tác. Nghiêm Khoan phe phẩy văn tự trên tay,đang dương dương tự đắc, bỗng tay chợt hẫng đi, một giọng vịt đực ồm ồm cất lên bên tai: - Cầm lông gà mà tưởng là thẻ lệnh, thô bỉ hết chỗ nói, tục tằn không chịu nổi! Để ta xem là cái giống gì. Nghiêm Khoan thất kinh, ngoái đầu lại nhìn, thì thấy một tiểu thư sinh đang cầm văn tự trên tay, mở hết cở cổ họng vịt đực đọc to: - Bản ty lạc hộ(1) Tô Hoài, hiện có con gái nuôi Ngọc Đường Xuân, tên thật là Tô Tam, vốn mong tiếp khách dưỡng lão. Nay có thương nhân Nghiêm Khoan phải lòng tiểu nữ, Tô Hoài đã nhận năm nghìn lạng bạc làm lễ vật chuộc thân. Từ nay về sau… *************** Chú thích: (1) Lạc hộ là kỹ viện, nhà chứa

Chương 67: Không lo việc chínhDịch: Vo Vong Biên dịch: Biên tập: Ba_Van Hiệu đính: Nguồn: www.tangthuvien.com Chu Hậu Chiếu thường ngày ở trong cung cũng không thiếu gì những cung nữ trẻ tuổi hầu hạ. Thế nhưng những nàng đó cho dù tướng mạo không tồi thì khi đứng trước mặt y cũng luôn tỏ vẻ nghiêm túc e dè, ngay cả thở mạnh một hơi cũng không dám, nào bình dị dễ gần như cô gái này. Đã thế nàng ta lại còn dám dạy bảo y, có điều lời dạy bảo lại nghe rất ngọt ngào, khiến người ta không kìm được lòng yêu mến. Chương 67 – Không lo việc chính ----------------- Thấy thiếu niên mặc đồ nho sỹ, đằng sau còn có bảy tám tên tú tài bộ dạng èo uột yếu ớt bám theo như lũ chim cun cút, Nghiêm Khoan cho rằng y chỉ là một kẻ đọc sách tới chốn lầu xanh uống rượu vui chơi. Vốn hắn cũng không muốn vô lễ, thế nhưng tờ văn tự đã bị cướp mất, trong lòng cũng thầm sợ sẽ xảy ra điều gì lầm lỡ, lại nghe Chu Hậu Chiếu cứ đọc ầm lên như chỗ không người nên hắn chẳng màng khách sáo nữa, lập tức bước tới đưa tay giật lại. Chu Hậu Chiếu thấy hắn đưa tay ra cướp thì bèn vội tránh sang bên cạnh, bàn tay Nghiêm Khoan liền vỗ trúng vào cánh tay y. Tay Chu Hậu Chiếu chợt trầm xuống, roạt một tiếng vang lên, lập tức tờ văn tự chuộc thân rách thành hai nửa. Chu Hậu Chiếu cả mừng, bèn dùng cái giọng vịt đực của mình cười nói: - Mọi người đều thấy rồi đó nhé! Chính hắn ta tự xé tờ giấy này, không liên quan gì tới ta hết. Nghiêm Khoan cuống lên, lập tức bước tới tung ra một quyền, miệng mắng: - Đồ tiểu súc sinh, cút con mẹ mày đi! Quyền của hắn đánh trúng ngay vào sống mũi của Chu Hậu Chiếu. Ngay lập tức Chu Hậu Chiếu choáng váng đầu óc, máu mũi chảy dài, không kìm được kêu ầm lên. Chu Hậu Chiếu vốn luyện võ từ nhỏ, khi ở trong cung cũng theo mấy thị vệ đại nội vốn là cao thủ được mời tới từ phái Võ Đang để luyện tập một số môn võ nghệ cao minh. Tuy nhiên một là y hoàn toàn không có kinh nghiệm thực chiến, hai là trước nay chưa bị người khác đánh bao giờ, do đó khi thấy mũi mình vừa đau vừa tê dại, đưa tay lên sờ thì thấy toàn là máu, trong lòng lập tức hoảng hốt, chẳng hề nghĩ tới chuyện đánh trả. Nghiêm Khoan giật lấy hai mảnh giấy từ trong tay y rồi ghép lại, cũng may, ghép lại vẫn liền lạc, không có vấn đề gì cả. Trông thấy Thái tử bị đánh, tám con “chim cun cút” liền như bị đào mất mộ tổ, lập tức đều lo lắng vô cùng, kẻ nào kẻ nấy mặt mũi đỏ bừng xông lên. Tuy rằng thường thì thể lực của thái giám vẫn yếu hơn của người bình thường một chút, thế nhưng trước khi vào cung Trương Vĩnh đã từng đọc qua binh thư, luyện qua võ nghệ, nên quyền hắn đấm ra cũng khá có uy lực. Nghiêm Khoan vừa mới nhét tờ văn tự vào trong ngực thì Trương Vĩnh đã vung quyền đấm trúng hắn, hắn loạng choạng lùi về sau mấy bước, tiếp đất bằng mông. Nghiêm Khoan cả giận, lập tức quát tháo bốn tên thủ hạ khỏe mạnh của mình: - Đánh cho ta! Bốn tên tráng hán lập tức xông lên đánh nhau lộn tùng phèo với tám gã thái giám. Tuy rằng bốn tên tráng hán thấy đối phương đều là người đọc sách nên không dám nặng tay, thế nhưng tám kẻ yếu xìu như bún thiu kia làm sao là đối thủ của người ta cho được? Tuy là tám người đánh bốn, thế nhưng ngoại trừ Trương Vĩnh còn có công có thủ một chút ra, đám người còn lại đều chỉ có thể vừa lùi về phía sau vừa ăn đòn. Nhìn cuộc đánh đấm “thê thảm đến không nỡ nhìn” ngay trước mắt, Dương Lăng thầm tính cho dù mình có tham gia thì cũng chỉ là thêm cái bia thịt cho người ta đánh mà thôi. Y bèn dứt khoát đi tới đỡ Thái tử dậy, đồng thời cất giọng thân thiết hỏi: - Công tử, cậu thế nào rồi? Có sao không? Chu Hậu Chiếu đang dùng tay che mũi, máu tươi không ngừng chảy ra qua kẽ ngón tay, miệng ú ớ không nói được câu nào. Bỗng có một bàn tay be bé xinh xinh từ bên cạnh đưa tới cho y một chiếc khăn tay tràn đầy hương thơm mê người kèm giọng nói ngọt ngào: - Tiểu công tử, cậu hãy lau đi! Chu Hậu Chiếu không khỏi ngẩn người, bất giác đưa tay nhận chiếc khăn. Ngón tay y chạm vào tay người ấy, chỉ cảm thấy nó vừa mềm mại vừa láng mịn vô cùng, trong lòng chợt trào lên một cảm giác khác lạ trước nay chưa từng có. Ngay trước mắt y xuất hiện một đôi mắt như biết nói, bên trong ẩn chứa sự dịu dàng khó có thể miêu tả bằng lời, còn có cả sự quan tâm và thông cảm trong nụ cười nhè nhẹ kia nữa, thật khiến lòng người phải rung động. Chu Hậu Chiếu đưa chiếc khăn của Đường Nhất Tiên lên bịt mũi, lập tức ngửi thấy một mùi hương thoang thoảng ngập tràn. Y nhất thời như ngây ngốc, ngay cả lời Dương Lăng vừa nói cũng không nghe thấy. Tô Hoài, Nhất Xứng Kim cùng với một vài tên quy công nghe ồn ào chạy đến nhìn thấy trước mắt có hơn chục người đang đánh nhau lộn tùng bậy, cũng chẳng biết là nên khuyên can hay nên giúp bên nào, nhất thời lúng ta lúng túng chẳng biết nên làm sao mới phải. Chợt nghe một tiếng hô yêu kiều trong trẻo vang lên: - Đừng đánh nữa! Giọng nói của thiếu nữ này cực kỳ dễ nghe. Bất giác mười hai người đang đánh nhau đều dừng tay lại, nhất tề nhìn về hướng phát ra âm thanh. Trong lầu có một thiếu nữ vận bộ áo trắng như tuyết đang đứng, mái tóc dài buông xõa sau lưng, thân hình thon thả tuyệt vời. Thiếu nữ đó lạnh nhạt nói: - Nghiêm đại gia, việc gì phải làm tổn thương người vô tội chứ? Xin ngài trở về đi, ba ngày sau Tô Tam sẽ đi theo ngài là được rồi! Tuyết Lý Mai - thiếu nữ vận bộ áo xanh biếc đứng bên cạnh vội can: - Chị Ngọc Tỷ Nhi, người như thế mà chị cũng muốn đi theo hay sao chứ? Tới gặp quan thì sao nào, muội quen người ở bộ Lễ… Thiếu nữ áo trắng ngắt lời nàng, cất giọng buồn bã: - Muội muội ngốc nghếch, nói những chuyện đó làm gì? Những lão gia đó ngâm thơ, vẽ tranh, bàn chuyện trăng gió với chúng ta chẳng qua chỉ là để tiêu khiển mà thôi. Người ta đã phải bỏ tiền ra, lại không nợ gì chúng ta cả, nếu thật sự phải đến chỗ quan phủ, chỉ sợ người ta còn không dám nhận đã từng quen biết chúng ta nữa kìa! Nàng thở dài một hơi buồn bã, sau đó lại tiếp: - Đừng nói gì thêm nữa, những người như chúng ta đều không nhà không cửa, tựa như là bông liễu bay trong gió, nhánh bèo trôi trong nước. Gió thổi bay tới đâu thì chúng ta bay tới đó, sóng cuốn tới đất nào thì chúng ta cũng chỉ có thể tới đất đó mà thôi. Nghiêm Khoan phá lên cười ha hả, mắt liếc nhìn khắp xung quanh. Nhận thấy lúc này mấy tên thư sinh kia đã bị thủ hạ của mình đánh cho mặt mũi tím bầm, đang hậm hực nhìn về phía mình, có vẻ cũng không muốn gây sự thêm nữa, thế là hắn bèn dương dương đắc ý bảo: - Được rồi! Sớm biết điều như thế này có phải là thoải mái hơn không, lúc ấy ông đây sao lại nổi giận chứ? Ha ha, chúng ta đi thôi! Nhất Xứng Kim, ba ngày sau ta sẽ tới mang người đi đó, nếu ngươi còn dám lằng nhằng đùn đẩy, hừ! Hắn khẽ khoát tay, dẫn theo bốn tên tráng hán to khỏe nghênh ngang bỏ đi. Dương Lăng đưa mắt nhìn về phía trong lầu, thấy một thiếu nữ đẹp như người trong tranh. Nàng ta vận bộ váy áo trắng như tuyết, trang điểm giản đơn, tuy bị vướng bởi bóng râm của tòa lầu nên không thể nhìn rõ dung mạo, thế nhưng chỉ nhìn thân hình cùng với cử chỉ lễ độ kia thôi cũng đủ thấy không hề thua kém vầng trăng rạng rỡ trên trời cao rồi. Lúc này nàng lại đứng ngay cạnh Tuyết Lý Mai đẹp tựa nhành mai trong tuyết, mỗi một động tác của các nàng đều nhã nhặn nhẹ nhàng, vẻ đẹp của cả hai càng tăng lên gấp bội. Mỹ nữ này quả nhiên không thẹn với lời đồn, chỉ riêng cử chỉ cùng với khí chất kia thôi đã là không tầm thường rồi. Bát hổ tuy từng là đàn ông nhưng lại đã tu luyện đến cảnh giới tối cao “bản lai vô nhất vật, hà xứ lạc trần ai” (Vốn là hư vô chẳng có vật gì, cớ nào lại nhiễm bụi trần cho được, hai câu trong bài kệ của Lục Tổ Huệ Năng - ND.), đẹp cũng được, xấu cũng đành, chẳng liên quan gì tới bọn họ hết, lúc này cả tám khuôn mặt chỗ xanh chỗ tím đều ghé đến chỗ Chu Hậu Chiếu để khoe công. Chu Hậu Chiếu cũng chẳng để ý tới đám “xú bát quái” hàng thực giá thực kia (Xú bát quái là từ để chỉ người xấu xí, trong đó xú nghĩa là xấu xí, bát là tám, quái là quái dị. Trong đoạn này xú bát quái là chỉ tám tên thái giám lúc này đã bị đánh cho mặt mũi sưng vù - ND.). Y vội lau dòng máu tươi chảy xuống tới bên miệng, sau đó lại chùi chùi mũi, thấy không còn máu chảy nữa. Y bớt lo hẳn, lập tức bỏ tay xuống, nói với Đường Nhất Tiên: - Đa tạ cô nương, ta không sao rồi! Đường Nhất Tiên nở nụ cười ngọt ngào nói: - Vậy thì tốt! Những kẻ đó đều là người thô tục, ỷ mình có chút tiền thối tha mà đi ức hiếp người khác. Cậu là một thư sinh yếu đuối, cứ đọc sách thánh hiền của cậu là được rồi, sao lại đi đối đầu với đám vô lại ấy chứ? Sau này phải tự biết mình, đừng có cố quá mà rước họa vào thân! Chu Hậu Chiếu thường ngày ở trong cung cũng không thiếu gì những cung nữ trẻ tuổi hầu hạ. Thế nhưng những nàng đó cho dù tướng mạo không tồi thì khi đứng trước mặt y cũng luôn tỏ vẻ nghiêm túc e dè, ngay cả thở mạnh một hơi cũng không dám, nào bình dị dễ gần như cô gái này. Đã thế nàng ta lại còn dám dạy bảo y, có điều lời dạy bảo lại nghe rất ngọt ngào, khiến người ta không kìm được lòng yêu mến. Một sợi tơ tình mông lung chợt sinh ra nơi đáy lòng Chu Hậu Chiếu, tiểu cô nương dáng người nhỏ nhắn xinh xắn có giọng nói làm say lòng người này đã lặng lẽ đặt một dấu ấn vào trong trái tim y. Cho dù thân là Thái tử cao quý, thế nhưng y cũng là đàn ông, những người vừa mới biết đến chuyện ái tình chắc cũng hiểu được điều này, mỗi một lời nói tiếng cười, mỗi một hành vi cử chỉ của đối phương đều được y quan tâm để ý. Chu Hậu Chiếu nghe nàng bảo mình là một thư sinh yếu ớt vô dụng thì cảm thấy hơi khó chịu, không kìm được đỏ bừng mặt nói: - Ai nói là ta không đánh lại được hắn chứ? Với công phu Thập Đoạn Cẩm (Một loại võ công – ND.) của ta, cho dù là năm ba tên đại hán cũng không tới gần được, muốn dạy dỗ mấy tên nhãi nhép ấy còn chẳng phải là dễ như trở bàn tay sao? Có điều vừa rồi… vừa rồi ta mới lần đầu động thủ với người khác, nhất thời ngây ra mà thôi. Đường Nhất Tiên nghe y bốc phét rằng năm ba người cũng không thể tới gần mình, thế nhưng sau lại nói là chưa từng động thủ với người khác, nào biết được y nói thực, còn cho rằng gã tiểu thư sinh này khoe mẽ, không kìm được khẽ cười khúc khích đáp: - Được rồi, được rồi! Công tử công phu lợi hại, tôi tin là được rồi chứ gì? Mũi cậu ổn rồi chứ? Không có việc gì thì về nhà sớm một chút đi, nơi như thế này ít tới một chút là tốt nhất! Chu Hậu Chiếu thấy nàng cho rằng mình bốc phét, lập tức giận dữ đến đỏ bừng cả mặt. Đứng trước mặt người con gái lần đầu khiến trái tim y rung động, lại bị người ta coi là trẻ con, y làm sao có thể chịu đựng cho nổi? Chu Hậu Chiếu giậm chân hậm hực nói: - Nàng không tin sao? Ta muốn trừng trị tên vô lại đó thực dễ như trở bàn tay, còn cả tờ văn tự chuộc thân rắm chó gì đó nữa, trông hắn cầm cứ như cầm bảo bối vậy. Hừ hừ, ta muốn lấy lại nó chẳng qua cũng chỉ cần một câu nói mà thôi. Hai mắt Đường Nhất Tiên lập tức sáng lên, nhưng ngay sau đó lại thở dài một hơi với vẻ thất vọng. Vị tiểu công tử này chắc hẳn là công tử của nhà giàu nào đó, vì không biết trời cao đất dày nên mới dám nói lời ngông cuồng như vậy. Năm ngàn lượng bạc chẳng phải là con số nhỏ, cho dù y xuất thân từ gia đình giàu có, nhưng trưởng bối trong nhà y đời nào lại chịu để cho y lấy bạc ra tiêu xài hoang phí thế được? Chu Hậu Chiếu thấy nàng không tin thì không khỏi cuống lên, y đưa mắt nhìn bọn thuộc hạ. Lúc này bọn Lưu Cẩn đều tay áo rách toang, mũ rơi ra ngoài, tóc tai tán loạn, mặt mũi sưng vù, bất luận là lôi tên nào ra cũng đều không có sức thuyết phục, thế là đành chỉ tay vào Dương Lăng nói: - Nàng không tin sao? Không tin hãy hỏi y xem ta làm có được không nào! Đôi mắt long lanh của tiểu cô nương đó nhìn chăm chăm vào Dương Lăng, ngay cả hai vị cô nương Tô Tam và Tuyết Lý Mai ở đằng sau cánh cửa tuy tỏ vẻ không để ý nhưng thực ra đều đang dỏng tai lên nghe. Dương Lăng hết cách nên đành gật đầu đáp: - Không sai, lời của vị công tử này không phải là giả. Đừng nói là chỉ dạy dỗ cho tên vô lại kia một trận, cho dù là chuộc lại tờ văn tự kia cũng chẳng phải chuyện gì khó khăn. Dương Lăng tướng mạo tuấn tú, phong thái hiên ngang, hiện giờ ngoài sáng y là Thái tử thị độc, trong tối là quan cao trong Cẩm Ỷ vệ, sự từng trải về tâm lý cùng với kinh nghiệm sống còn vượt xa tuổi tác hiện giờ, những lời y nói toát ra một sự uy nghiêm khiến người ta khó mà không tin. Tô Tam vốn đứng đằng sau bậc cửa lặng lẽ nhìn y, giờ nghe thế lập tức thở phào một hơi, Đường Nhất Tiên thì dùng giọng hoài nghi hỏi: - Lời của công tử… là thật sao? Trong suy nghĩ của nàng, vị công tử này dù rất có thân phận, đủ sức bức ép được Nghiêm Khoan phải trả lại tờ giấy chuộc người, thế nhưng nếu không phải vì y cũng đã động lòng với Ngọc Tỷ Nhi, việc gì lại phải bỏ ra một số tiền như thế chứ? Nhìn dáng vẻ y như cây ngọc đón gió, quần áo chỉnh tề, lại là một người đọc sách có thân phận, nếu y cũng muốn chuộc thân cho Ngọc Tỷ Nhi, nói không chừng tỷ ấy còn vô cùng mừng rỡ ấy chứ. Lúc này trong lòng nàng vừa mừng cho Ngọc Tỷ Nhi, lại vừa có mấy phần ngưỡng mộ và tự thương cho số phận mình. Chu Hậu Chiếu đắc ý: - Đương nhiên là thật rồi! Y nghênh ngang chỉ tay vào Dương Lăng nói: - Dương… Dương đại ca, chuyện này giao cho huynh đó. Hãy dạy dỗ cho tên khốn nạn kia một trận, sau đó thì đòi tờ văn tự chuộc người về! Trong suy nghĩ của y, y là vua, Dương Lăng là bầy tôi, chuyện mà y giao cho Dương Lăng đi làm thì cũng giống như là y đã làm chuyện đó cho người khác. Nhưng trong suy nghĩ của Ngọc Đường Xuân, Tuyết Lý Mai, Đường Nhất Tiên và đám người bọn Nhất Xứng Kim thì lại hoàn toàn khác. Sau khi nghe xong, cả bọn đều như giật mình hiểu ra, thảo nào tiểu thư sinh này lại tỏ vẻ chắc chắn như vậy, e là người bạn lớn tuổi hơn y một chút kia mới là nhân vật có lai lịch và chỗ dựa. Ngọc Đường Xuân ở sau bậc cửa nhìn Dương Lăng chăm chú một hồi, nhận thấy lúc này y có vẻ như hơi sửng sốt. Vốn là một cô gái cực kỳ nhanh trí, nàng lập tức dịu dàng khom người cảm tạ: - Vậy Tô Tam xin tạ ơn Dương công tử! Thế này tức là sắt đã được rèn khi còn nóng, ván đã đóng thuyền. Chu Hậu Chiếu nghi hoặc hỏi: - Hả? Người giúp đỡ là ta cơ mà, tại sao nàng lại đi cảm ơn y vậy? Đường Nhất Tiên bật cười đáp: - Ai nói là không cảm ơn cậu chứ? Nếu hai vị công tử chịu giúp đỡ, tiểu nữ sẽ bày tiệc cảm ơn cả hai. - Được! Chu Hậu Chiếu nghe nói nàng sẽ bày tiệc để cảm tạ, trong lòng không khỏi mừng rơn, lập tức nói ngay: - Chúng ta đi đây, các nàng cứ đợi tin tốt của chúng ta nhé! Muộn nhất là ba ngày, chuyện này nhất định sẽ được giải quyết xong! Lúc này trong lòng y, trong mắt y chỉ có một nàng Đường Nhất Tiên yêu kiều xinh đẹp, y chỉ hận không thể làm xong chuyện này ngay lập tức để lấy lòng nàng, bèn vội vàng chạy ngay ra ngoài cửa Thì Hoa Quán. Thấy Nghiêm Khoan đã dẫn người sắp ra đến ngoài đường lớn, Chu Hậu Chiếu lập tức ra lệnh: - Cao Phượng, La Tường! Mau bám theo hắn, đừng để hắn chạy mất! Rồi y bảo Dương Lăng: - Ngươi mau tới Ngũ Thành Binh Mã ty điều quân đến đây bắt người cho ta! Tám gã thái giám và Dương Lăng nghe vậy đều giật nảy mình. Lần này thì lớn chuyện rồi, Thái tử đến thanh lâu đánh nhau với một tay khách làng chơi, sau đó điều động người của Ngũ Thành Binh Mã ty đến đàn áp đối phương, chuyện này mà loan truyền khắp nơi thì còn ra thể thống gì nữa? Cả bọn đều vội bước tới cố sức khuyên can. Chu Hậu Chiếu cả giận nói: - Hắn dám đánh ta, nay có giết hắn thì cũng chẳng phải chuyện ghê gớm gì! Các ngươi dám chống lệnh sao? Bình thường chuyện gì Chu Hậu Chiếu cũng tùy tiện, chẳng hề có chút uy nghiêm nào. Nhưng lúc này trong cơn giận dữ, cái khí thế được bồi dưỡng từ bé khi chuyên môn sai khiến người khác, muốn gì được nấy của y lập tức thể hiện ra, Bát hổ đều không khỏi run lên cầm cập, Dương Lăng cũng thầm chấn động toàn thân. Cao Phượng, La Tường thấy mấy người thân cận nhất của Thái tử như Dương Lăng, Lưu Cẩn, Trương Vĩnh đều không dám nói gì thêm, cũng chỉ đành liều mình đuổi theo Nghiêm Khoan mà thôi. Cốc Đại Dụng biết rằng chuyện gì Chu Hậu Chiếu đã hạ quyết tâm thì khó mà khuyên nổi, nên cũng chỉ đành khẽ đẩy Dương Lăng, ý bảo y mau đi tìm người của Ngũ Thành Binh Mã ty tới. Dương Lăng đành gượng cười rời đi. Vốn y cho rằng vị Thái tử nhỏ tuổi này dễ đối phó, mình chỉ cần dùng một chút kế sách nho nhỏ là có thể khiến Chu Hậu Chiếu cam tâm tình nguyện nghe lời ngay, kế đó mượn danh nghĩa Thái tử để đi lấy bức bản đồ đi biển của Trịnh Hòa về. Trong lòng y vốn đã có chút đắc ý, nào ngờ đến lúc này mới biết mình đã tính nhầm một chuyện, đó là cho dù Chu Hậu Chiếu có tính tình tùy tiện và hay suy nghĩ linh tinh, thế nhưng những thứ đó thì người khác tuyệt đối không thể dự đoán được và cũng không thể nào ngăn cản nổi. Y không dám rời đi quá xa, chỉ đành đi tìm người của Ngũ Thành Binh Mã ty ở xung quanh khu vực đó. Vốn thì người của Ngũ Thành Binh Mã ty không ngừng tuần tra trên đường, nhưng lúc này chẳng biết có phải là vì đã bị kéo đến học cung để tham gia “hoạt động tổng vệ sinh vì tình yêu tổ quốc” hết cả rồi không mà chẳng thấy một ai cả. Vốn Dương Lăng định thừa cơ trở về báo cáo với Thái tử luôn để tránh lớn chuyện, nào ngờ từ tửu lầu trước mặt chợt có mấy gã Cẩm Y vệ bận bộ quần áo Phi Ngư bước ra ngoài. Dương Lăng cả mừng, những người này có thể nói là chuyên gia dọa nạt bắt bí người ta, để bọn họ ra mặt là ổn thỏa nhất. Cẩm Y vệ bắt người còn cần phải có lý do hay sao chứ? Như vậy thì không phải lo thân phận của Thái tử bị bại lộ rồi. Dương Lăng vội bước lên trước cản đường của bọn họ, rồi đưa thẻ bài ra yêu cầu bọn họ trợ giúp bắt người. Mấy tên Cẩm Y vệ lúc này đều đã hơi say, họ đưa bắt nhìn nhau, nhưng đều chẳng hề có vẻ muốn hành động gì cả. Dương Lăng nhìn phẩm hàm của họ, thấy phần lớn là Hiệu úy, Lực sỹ, trong đó cũng chỉ có hai viên Tiểu kỳ, quan chức không lớn, biết rằng mình có quyền điều động chúng, bèn không kìm nổi quát to: - Còn ngây ra đó làm gì? Phạm nhân sắp chạy mất rồi, có chuyện gì ta sẽ hỏi tội các ngươi đó! Phía sau đám người có một giọng nói uể oải vang lên: - Chuyện gì vậy? Vị đại nhân nào đang công cán thế, muốn điều người của ta tới giúp đỡ sao? Nghe thấy thế mấy tên Cẩm Y vệ bèn rẽ sang hai bên, dành lối đi cho một hán tử mặc thường phục áo gấm dẫn theo sáu bảy người từ trong tửu lầu bước ra. Người đó tuổi hơn ba mươi, thân hình cao lớn khỏe mạnh, dáng vẻ dũng mãnh tựa như một con báo đang uể oải dạo chơi. Hắn đi tới bên cạnh Dương Lăng, hai người đưa mắt nhìn nhau dò xét, trong lòng thầm đoán thân phận của đối phương. Hồi lâu sau người đó chợt mở miệng cười, chắp tay chào: - Ta là Chưởng hình thiên hộ (Thiên hộ chuyên quản việc hình phạt – ND.) Tiền Ninh của Bắc Trấn Phủ ty, huynh đệ là… Dương Lăng lúc này mới giật mình hiểu chuyện. Thảo nào khi nãy bọn kia không hề có hành động gì, thì ra không những cấp trên của bọn họ có mặt ở đây, mà phẩm cấp của y cũng không thấp. Nghe Tiền Ninh xưng phẩm bậc, Dương Lăng vội đáp: - Tại hạ Đồng tri Dương Lăng của Nam Trấn Phủ ty. Tiền Ninh nghe nói là người của Nam Trấn Phủ ty, cũng có thể coi là một bộ phận quan trọng trong Cẩm Ỷ vệ, tuy rằng quyền thế không được mạnh bằng Bắc Trấn Phủ ty, thế nhưng phẩm hàm của người ta lại cao hơn hắn nửa bậc, thế nên bèn khách khí nói: - Thì ra là Dương đại nhân! Không biết vì sao Dương đại nhân lại muốn nhờ các huynh đệ của ta giúp đỡ vậy? Tuy rằng Cẩm Y vệ chúng ta bắt người không cần phải có chiếu chỉ, thế nhưng dưới chân thiên tử dù gì cũng phải kiêng dè một chút mới được… Dương Lăng kéo hắn qua một bên, thấp giọng nói: - Tiền huynh! Không giấu gì huynh, ta và mấy người bạn vừa đi tới ngõ Bách Thuận đằng trước… Hà hà, kết quả là có gây gỗ với một gã thương nhân, quyền qua cước lại một hồi thì mấy người bạn của ta đã bị thương. Do đó ta muốn mời các vị huynh đệ tới giúp ta dạy dỗ cho bọn chúng một trận. Vốn đang buồn vì cứ ngồi uống rượu trong kia mãi mà chẳng có việc gì để vận động tay chân, lúc này Tiền Ninh nghe nói chỉ là chuyện nhỏ, vả lại dù gì cũng không thể không nể mặt người ta được, bèn lập tức khoát tay ra lệnh với thủ hạ: - Đi nào! Hăng hái lên một chút, có việc để làm rồi! *************** Chú thích:

Chương 68: Lục soát khắp kinh sưDịch: Vo Vong Biên dịch: Biên tập: Ba_Van Hiệu đính: Nguồn: www.tangthuvien.com Chu Hậu Chiếu đỏ bừng mặt đáp: - Không được, lời ta nói ra như bát nước đã hắt đi! Sao có thể để cô nương nhà người ta chê cười được, nhất định phải đòi lại tờ văn tự đó về cho ta. Chương 68 – Lục soát khắp kinh sư Dương Lăng dẫn theo đám Cẩm Y vệ như lang như sói chẳng mấy chốc đã đuổi kịp Chu Hậu Chiếu, Lưu Cẩn và đám người còn lại. Lúc này Chu Hậu Chiếu đang bám theo Cao Phượng và La Tường đuổi theo Nghiêm Tung từ xa, ngoảnh đầu lại thấy có hơn mười Cẩm Y vệ, y không kìm được cất tiếng khen: - Vị Dương thị độc này thật có bản lĩnh, không ngờ chỉ dựa vào thân phận thị độc mà có để điều động được cả một đội Cẩm Y vệ. Có điều không biết y đã tiết lộ thân phận của ta chưa nhỉ? Vừa đuổi kịp, nhìn thấy Chu Hậu Chiếu thì Tiền Ninh cả kinh, tròng mắt như sắp rớt ra ngoài. Chu Hậu Chiếu không biết hắn nhưng hắn lại biết Chu Hậu Chiếu, đây là đương kim Thái tử cơ mà, vì sao Thái tử lại rời cung vậy? Tiền Ninh thầm kinh hãi trong lòng nhưng lại không dám để lộ ra ngoài mặt. Đôi mắt hắn liếc nhìn xung quanh, lập tức nhận ra mấy gã thư sinh ẻo lả bên cạnh Thái tử đều là thái giám giả trang, hắn càng thêm tin chắc. Đã thường nghe kể chuyện Hoàng thượng hay dẫn Thái tử ra ngoài cung vui chơi, chẳng ngờ chính bản thân Thái tử cũng có lúc lén trốn ra ngoài thế này! Nhìn hình dáng bầm dập của những người bên cạnh Thái tử thì có vẻ như là không dám tiết lộ thân phận nên đã phải chịu thiệt thòi lớn gì đó. Hà hà, trèo được lên cái cây lớn như Thái tử đây, đó là một cơ hội cho dù muốn tìm cũng chẳng thể tìm được ấy chứ! Hắn cũng không dám làm lộ thân phận của Chu Hậu Chiếu, chỉ tỏ vẻ vô cùng cung kính hỏi: - Công tử chính là bạn của Dương huynh đệ sao? Mọi người yêu tâm, chuyện này cứ giao cho ta, ta nhất định sẽ thay mọi người dạy dỗ cho tên thương gia giàu có mà bất nhân ấy một trận. Hắn liếm liếm môi, trong lòng thầm tiếc nuối: “Vốn định giúp vị Dương đồng tri này dạy cho mấy tên thương gia kia một trận, sau đó thì xin đẹp của bọn chúng một ít. Bây giờ thì không tiện ra tay ngay trước mặt Thái tử rồi.” Chu Hậu Chiếu đưa mắt nhìn hắn với vẻ tán thưởng, sau đó khen: - Tốt, những người ta mang theo đều là kẻ nhát gan sợ chuyện… ừm… không nhát gan thì cũng không làm được việc. Chuyện này xin nhờ ngươi đó, hãy đuổi theo rồi dạy dỗ bọn chúng một trận cho ta đi! Tiền Ninh cười hà hà đáp: - Chuyện này thì dễ thôi! Tại hạ sẽ đưa chúng vào một con hẻm, sau đó thì công tử muốn làm thế nào cũng được. Thế nhưng sau khi đuổi theo được một lát, Tiền Ninh dần chau mày lại, thần sắc bắt đầu có chút bất an. Hắn đưa mắt nhìn khắp xung quanh, chỉ thấy những bức tường cao được lát bằng gạch xanh càng lúc càng nhiều, bên trong còn toàn là đình đài lầu các. Tiền Ninh không kìm được thầm lẩm bẩm: “Kẻ dây vào Thái tử thật sự chỉ là một tên thương nhân sao? Xung quanh đây… Xung quanh đây đều là nơi ở của vương hầu quý tộc cơ mà!” Tại một con hẻm rất hẹp và dài ở phía trước, Cao Phượng đang đứng dưới một cổng chào ở trước ngõ vào hẻm vẫy tay gọi bọn họ. Khi mấy người bọn họ tới gần, Cao Phượng báo: - Công tử! Con hẻm này vừa dài vừa hẹp, La Tường đã bám theo vào trong đó rồi, chúng ta có đuổi theo không đây? - Đuổi chứ! Tại sao lại không đuổi nào? Chu Hậu Chiếu trừng mắt giận dữ: - Chẳng lẽ ta lại sợ bọn chúng chắc? Vốn hơi e ngại trong lòng, nhưng ngay khi nghe Chu Hậu Chiếu nói vậy Tiền Ninh liền lập tức tỉnh ngộ. Người trước mặt là ai nào? Là đương kim Thái tử, là Hoàng đế tương lai đó, đắc tội với một vương hầu thì có là gì ghê gớm chứ? Chỉ cần được lòng Thái tử, muốn có vinh hoa phú quý thực dễ như trở bàn tay. Thường có câu rằng “phú quý hiểm trung cầu” (muốn tìm vinh hoa phú quý thì phải xông vào chốn hiểm nguy), nay chỉ là mối nguy hiểm nho nhỏ mà cũng không dám thử, làm sao có thể thăng quan tiến chức được cơ chứ? Hơn nữa mình là người của ty Bắc Trấn Phủ trong Cẩm Y vệ, cho dù là công hầu quý tộc đi nữa thì cũng có mấy ai lại không chịu nể mặt đây? Nghĩ vậy Tiền Ninh liền can đảm hơn nhiều, thậm chí còn hận không thật sự gặp phải một vị quyền thần nào đó, để bản thân phải nếm chút đau khổ, như thế ấn tượng của Chu Hậu Chiếu về hắn chắc chắn là sẽ càng sâu đậm hơn nhiều. Cả đám người bước nhanh vào trong con hẻm, khu vực này toàn là những tòa nhà cao vút của các vị đại thần quý tộc, nhưng cũng đã đến nơi giáp giới với khu nhà ở của bá tánh bình dân. La Tường ngoảnh đầu nhìn lại thấy bọn họ đã tới gần, bèn chỉ tay vào một khu nhà cực lớn ở phía trước, lắp bắp nói: - Công tử! Kẻ đó… kẻ đó đã vào trong cánh cửa này. Mọi người nhìn về phía cánh cửa thì thấy một khu nhà lớn vô cùng, ngoài cùng là một cánh cửa lớn được sơn màu đỏ, chiếc vòng đập cửa được làm bằng đồng, hai bên cạnh của bậc thềm đá khá cao là một đôi sư tử rất đẹp, cao đến hai thân người. Vừa thấy vậy, ngoại trừ Chu Hậu Chiếu và Dương Lăng ra, những người còn lại đều kinh hãi vô cùng. Tiền Ninh không kìm được buột miệng: - Phủ của Thọ Ninh hầu sao? Dương Lăng cũng nhìn thấy bốn chữ lớn mạ vàng “Thọ Ninh Hầu Phủ” trên bức biển treo trước cổng, có điều y cũng chẳng để tâm tới chuyện này cho lắm. Tên Nghiêm Khoan kia ăn nói thô tục, quyết chẳng phải là hầu gia gì cả, nhiều lắm cũng chỉ là một gã quản gia trong hầu phủ mà thôi. Trong những người ở đây có Thái tử, có Cẩm Y vệ, còn có cả tám đại gian thần tương lai, chẳng lẽ lại sợ gã hay sao chứ? Nhưng vừa đưa mắt nhìn mấy người xung quanh, y bèn lập tức cảm thấy có điều không ổn. Mấy người Lưu Cẩn, Trương Vĩnh bên cạnh đều tỏ vẻ sợ hãi, ngay cả khuôn mặt tươi tắn với nụ cười trời sinh của Cốc Đại Dụng cũng trở nên gượng gạo. Chẳng lẽ vị hầu gia này rất có quyền thế hay sao? Trong ấn tượng của y… dường như y chưa từng nghe nói triều Minh có vị hầu gia nào ghê gớm như vậy thì phải. Đang lúc Dương Lăng cảm thấy lạ, Lưu Cẩn đã lên tiếng nói với Chu Hậu Chiếu: - Công tử, đây là phủ đệ của quốc cữu gia, không nể tăng thì cũng nên nể phật. Chúng ta… có nên thôi đi không? Khi nhắc tới ba chữ “quốc cữu gia”, hắn còn đặc biệt nhấn mạnh thêm. Dương Lăng nghe vậy liền giật mình chợt hiểu. Đương kim hoàng thượng chỉ có một vị hoàng hậu, hậu cung rộng lớn như thế mà ngay cả một phi tử cũng không có, sự sủng ái của lão ta với hoàng hậu chắc chắn không phải tầm thường. Tòa hầu phủ này không ngờ lại là phủ đệ của một người anh em ruột của hoàng hậu, thảo nào bọn họ lại sợ sệt như thế. Vị thái tử Chu Hậu Chiếu này vốn tính hiền lành dễ gần, tuy rằng y thân phận cao quý, thế nhưng sau khi bị một gã tiện dân đấm cho một cú trong lòng cũng chẳng suy nghĩ gì nhiều. Sở dĩ y nhất quyết không chịu bỏ qua chuyện này chủ yếu là vì muốn lấy lòng vị Đường Nhất Tiên cô nương kia mà thôi. Thế nhưng lúc này khi nhìn thấy phủ đệ của Thọ Ninh hầu, biết rằng có khả năng gã Nghiêm Khoan đó là người làm trong phủ, y lại càng không chịu bỏ qua. Đó là nhà của cậu y, người làm trong nhà của cậu y lẽ nào không phải là tôi tớ của y hay sao chứ? Bị người làm nhà mình đấm cho một cú thì dù y hiền lành đến đâu đi nữa cũng không nhịn được. Hơn nữa tuy y là con đẻ của hoàng hậu, thế nhưng lại chẳng có bao nhiêu tình cảm với Trương hoàng hậu. Trong cung ngoài cung trước giờ vốn có tin đồn rằng y là do một vị cung nữ sinh ra sau một lần được Hoằng Trị ban ơn mưa móc, sau đó thì bị Trương hoàng hậu vốn không có con đoạt lấy. Chuyện này y cũng chỉ loáng thoáng nghe qua, tuy rằng không tin tưởng lắm, thế nhưng chuyện Trương hoàng hậu và y trước giờ không thân thiết với nhau lắm lại là sự thực, do đó quan hệ của y với hai người cậu Thọ Ninh hầu Trương Hạc Ninh và Kiến Xương hầu Trương Diên Ninh cũng chẳng tốt đẹp gì. Chu Hậu Chiếu cười lạnh hai tiếng, trong bụng nhủ thầm: “Nếu đã là người trong phủ Thọ Ninh hầu, vậy ta cứ xông vào bắt người là xong. Tên Trương Hạc Linh đó chắc cũng chẳng dám nói câu nào đâu, ta mất mặt không phải cũng là hoàng hậu mất mặt hay sao chứ?” Y cắn chặt răng, định hạ lệnh cho bọn Lưu Cẩn xông vào phủ, chợt cánh cửa lớn màu đỏ lại được mở ra. Mọi người vội tránh vào sâu trong hẻm, nhìn thấy tên Nghiêm Khoan vừa rồi dẫn theo một đám người ra ngoài, đi về hướng bên trái dọc theo dãy tường cao được xây bằng gạch xanh. Chu Hậu Chiếu mừng thầm, thấp giọng bảo: - Bám theo nào! Đợi hắn đi vòng qua góc tường kia, các ngươi hãy nện cho hắn một trận, cướp tờ văn tự rồi chuồn luôn! Lưu Cẩn thấy Thái tử đã quyết tâm phải trừng trị tên Nghiêm Khoan, đành nói: - Vậy cũng được, có điều mấy người bạn mà Dương tướng công mời tới thực bắt mắt quá. Chi bằng để chúng tôi đổi quần áo với họ, như thế tên tiểu tử kia bị đánh một trận xong cũng chẳng biết do ai làm, tránh sinh chuyện thị phi. Chu Hậu Chiếu bực mình đáp: - Vậy thì nhanh lên một chút, đừng để hắn chạy mất đấy! Tiền Ninh đang so sánh thực lực của Thái tử và quốc cữu, đồng thời suy tính đến chuyện được mất nếu đi nhầm nước cờ, ngay khi nghe được cách lưỡng toàn kỳ mỹ như vậy thì không khỏi mừng rỡ vô cùng. Hắn lập tức gọi bọn Lưu Cẩn mau cởi áo ngoài ra, sau đó lựa lấy mấy tên thủ hạ đắc lực, sai khoác mấy chiếc áo thư sinh ra bên ngoài bộ quần áo Phi Ngư, xong xuôi lặng lẽ bám theo mấy kẻ kia. Chu Hậu Chiếu không muốn ở yên một chỗ, lập tức kéo Dương Lăng theo cùng. Cả bọn lặng lẽ đi vòng qua góc tường, nhận ra nơi đây cũng là một góc của phủ Thọ Ninh hầu, có điều tường ngoài đều đã bị dỡ đi, dường như đang được mở rộng. Phía bên trái có một con đường, cạnh đường toàn là nhà của dân thường, phủ Thọ Ninh hầu sau khi dỡ bỏ tường ngoài thì mở rộng về hướng đó. Cây bên đường đã bị chặt hết, cả con đường đều bị quây vào trong phủ, mấy chiếc mái cong của những tòa lầu các mới được xây trong phủ đều thò cả vào phần sân của những nhà dân thấp bé xung quanh. Hơn trăm thợ thủ công đang hí húi làm việc, trên bức tường thấp có mấy người mặc trang phục gia đinh của hầu phủ đang quát tháo mấy chục người có già có trẻ có nam có nữ ở bên đường: - Hầu gia của chúng ta là người biết lý lẽ nhất đó, hãy nhìn cái móng nhà này xem, có chiếm tí đất nào của các ngươi không hả? Không chứ gì? Con đường này không đi được thì các ngươi cứ đi đường vòng là ổn thôi, sao nào? Lầu các của hầu gia chúng ta thò vào sân nhà các ngươi thì sao? Có giỏi thì các ngươi cứ đi kiện, bọn ta cũng chẳng chiếm tí đất nào của các ngươi, phần trên không trung thì vương pháp không hề ghi là thuộc về nhà các ngươi mà! Định vu cáo Hầu gia sao? Xem các ngươi có gan không nào? Nghiêm Khoan dẫn người hùng hùng hổ hổ xông tới quát tháo: - Chuyện gì vậy? Lũ đểu cáng các ngươi lại tới gây chuyện hay sao? Thọ Ninh hầu gia vốn tính từ bi, các ngươi đã được voi rồi lại còn đòi tiên hả? Mẹ kiếp, ta nói cho các ngươi biết, ông đây sắp tới phải đi Bát Đạt Lĩnh nhận một vụ làm ăn lớn, là Trường Thành đó! Biết không hả? Các ngươi mà cứ tới lằng nhằng làm lỡ thời gian hoàn thành công trình của ta, chỗ bạc đó các ngươi trả cho ta nhé! Một ông lão chống gậy run rẩy trả lời: - Nghiêm đại gia! Cây táo nhà chúng tôi đã bị người của ngài cưa mất rồi, mái hiên của các ngài cũng đè xuống bệ cửa sổ phía đông nhà chúng tôi, trong nhà lúc này tối đen như mực! Đại gia… Một tên tay chân của Nghiêm Khoan vung roi da quật vút xuống vai ông lão, rồi như một con chó dựa oai chủ cao giọng quát: - Trong kinh sư có vô số phủ đệ của các vương hầu quý tộc đều do lão gia nhà chúng ta xây đó, còn chưa thấy có người nào nói chúng ta chèn ép trăm họ đâu! Lão già kia, con mắt nào của ngươi nhìn thấy bọn ta cưa cây táo nhà ngươi hả? Sao ngươi không nói là mình khuyết đức nên bị sét đánh đổ cây táo đó đi? Đám nô bộc của hầu phủ đứng cạnh đó nghe vậy đều phá lên cười ha hả, ông lão giận đến đỏ bừng cả mặt, toàn thân run lên. Chu Hậu Chiếu ghé đến gần nói với Tiền Ninh: - Đánh! Đánh xong rồi rút! Hừm, nhất định phải cướp lấy tờ văn tự trong người hắn về đây! Đánh xong rồi chạy rất hợp ý Tiền Ninh, hắn lập tức đưa mắt ra hiệu với thủ hạ, đoạn gằn giọng: - Lên! Mấy tên Cẩm Y vệ nghe mệnh lệnh liền lập tức hung hăng xông đến. Cả bọn đều sở trường về những môn chiến đấu tay không, đánh người thì chuyên chọn những chỗ yếu hại như khớp xương mạng sườn mà tẩn, trước giờ vẫn ra tay độc ác vô cùng, không hề kiêng dè gì cả. Tiền Ninh biết những người này có quan hệ mật thiết với phủ Thọ Ninh hầu, vốn thầm kiêng kị trong lòng nên ra tay còn chừng mực một chút. Nhưng mấy tên Hiệu úy, Lực sỹ kia thì chỉ phụng lệnh hành sự, chẳng cần biết ba bảy hai mươi mốt gì cả, ra tay tàn độc vô cùng, chẳng khác gì giã gạo. Chỉ trong khoảnh khắc họ đã đánh gục bảy tám tên, khiến đối phương phải che vai ôm sườn lăn lộn khắp đất kêu gào thảm thiết. Tiền Ninh giữ chặt lấy Nghiêm Khoan, trước tiên tặng cho vài cái tát khiến đầu óc gã choáng váng, sau đó thì xé tung vạt áo trước ngực của gã lục soát một hồi. Chu Hậu Chiếu khoái trá chạy tới, đá hai cái thật mạnh vào mông Nghiêm Khoan, cười ha hả. Tiền Ninh mò mẫm trong ngực Nghiêm Khoan một lúc, sau đó ngẩng đầu lên nói với Chu Hậu Chiếu: - Thái… Công tử, sao trong ngực hắn không có thứ gì hết vậy? - Không có ư? Chu Hậu Chiếu ngẩn người, lập tức nổi giận đùng đùng đá một nhát vào đùi Nghiêm Khoan, mắng lớn: - Có phải là vừa rồi ngươi đã giấu vào trong hầu phủ rồi không hả? Nghiêm Khoan đưa tay ôm đùi kêu la đau đớn, rên rỉ: - Tiểu… súc sinh, ngươi là ai? Đã biết ta là người của hầu phủ mà còn… còn dám đánh ta sao? Chu Hậu Chiếu thấy hắn mắng mình là tiểu súc sinh thì giận dữ định co chân đá tiếp, Dương Lăng vội giữ y lại, ghé miệng đến sát tai y báo: - Công tử! Trước tiên hãy rời khỏi đây đã, sau này tìm cơ hội đòi lại tờ giấy đó là được, bọn chúng đã trở về gọi người rồi. Chu Hậu Chiếu đỏ bừng mặt đáp: - Không được, lời ta nói ra như bát nước đã hắt đi! Sao có thể để cô nương nhà người ta chê cười được, nhất định phải đòi lại tờ văn tự đó về cho ta. Dương Lăng hết cách chỉ đành vỗ ngực đảm bảo: - Chuyện này cứ giao cho tại hạ, trong vòng ba ngày tại hạ nhất định sẽ lấy được tờ văn tự đó về! Tuyệt đối sẽ không để công tử phải thất hứa đâu! Chu Hậu Chiếu nghe vậy bèn đá mạnh lên người Nghiêm Khoan một cái nữa, rồi mới chịu để cho Tiền Ninh và Dương Lăng kéo chạy trốn như bay. Người ta thường nói “quý nhân ra khỏi cửa thì lắm mưa nhiều gió”, có điều mưa gió hôm nay hình như là nhiều quá thể! Dương Lăng vừa kéo Chu Hậu Chiếu chạy đi, trong lòng vừa nghĩ hôm nay bận rộn cả ngày trời mà vẫn chẳng nhìn thấy bức bản đồ đi biển của Trịnh Hòa đâu cả, thật là đau đầu mà! Phủ của hầu gia thật đúng như câu “nhất nhập hầu môn thâm tự hải” (Vừa vào cửa nhà quan hầu tước liền thấy nó sâu như biển – ND.), đợi đến khi kẻ báo tin tập hợp đủ người theo quản gia thống lĩnh xông ra ngoài thì bọn Dương Lăng đã chạy mất hút từ lâu rồi. Thọ Ninh hầu hay tin nổi giận đùng đùng. Tuy Nghiêm Khoan chỉ là một người làm trong phủ nhưng em gái hắn ta lại là thiếp yêu của Thọ Ninh hầu, nói cách khác, Nghiêm Khoan chính là anh vợ của anh vợ của đương kim hoàng thượng. Đánh chó cũng phải ngó mặt chủ, huống hồ còn là đánh anh vợ của hắn. Hơn nữa người anh vợ này đã tự lập môn hộ ở bên ngoài, dùng nghề xây dựng đã kiếm về cho hắn rất nhiều bạc. Hôm qua hắn vừa mới kiếm cho gã anh vợ này một công việc béo bở là xây dựng Trường Thành đoạn Bát Đạt Lĩnh, nếu gã ta bị thương nặng thì tổn thất to rồi. Trong cơn giận dữ Trương Hạc Linh phái người cầm thư tay của hắn tới thẳng Ngũ Thành Binh Mã ty. Ngũ Thành Binh Mã ty hay tin liền giật nảy mình, không ngờ lại có người dám chạy đến phủ của Thọ Ninh hầu gây chuyện, thế này thì gay thật rồi! Hoàng thượng còn đang tuần sát ở học cung, nếu đám người xấu này dám cả gan làm kinh động thánh giá nữa, vậy chẳng phải là bọn họ bị tội rơi đầu hay sao? Ngự sử tuần thành tựa như gặp phải đại địch, lập tức đích thân lùng sục, đi đằng trước là hai tên lính cầm roi mở đường quất đen đét liên tục. Đám lưu manh kẻ cắp trên đường đều ôm đầu lủi như chuột, những người bày sạp bán hàng trên đường im bặt như ve sầu mua đông, cả thành Bắc Kinh trở nên hỗn loạn. Đám bộ khoái, mã khoái tràn ra khắp nơi, ngay cả lính của doanh trại binh mã trong kinh sư cũng bị điều động. Bọn Chu Hậu Chiếu được Tiền Ninh kéo lên một tửu lầu quen của hắn. Cho dù nhìn thấy Cẩm Y vệ ở trên đó, đám binh mã không ngờ vẫn dám phái người lên lục soát. Chu Hậu Chiếu không khỏi chau mày cười lạnh: - Ghê thật, chẳng qua chỉ là một tên người làm trong hầu phủ bị đánh mà hiện giờ thì quả đúng là gần đến mức phải phong tỏa toàn thành rồi. Lý thái phó kể chuyện sử sách với ta, thường nói ngoại thích chuyên quyền, thế lực vượt cả thiên tử. Hà hà, ta thấy tên Thọ Ninh hầu này quả là còn oai phong hơn cả thiên tử ấy chứ! ***************

Chương 69: Dùng trí đấu vương hầu quyền thếDịch: TheJoker Biên dịch: Ba_Van Biên tập: Ba_Van Hiệu đính: Nguồn: www.tangthuvien.com Tiền Ninh cười khì khì đáp: - Thật ra Tiền mỗ cũng muốn bịa đặt thêm một chút thị phi, tiếc là đã bận rộn cả đêm. Thật ra mấy vụ án không phải chỉ có bấy nhiêu, bọn ta cũng chẳng dư thời gian thêu dệt thêm lỗi cho Trương hầu gia. Những hồ sơ vụ án này có nhân chứng, có vật chứng, có cái còn là của khổ chủ gởi tới nha môn tố cáo nữa, có điều không ai dám xử lý nên vẫn còn xếp đống mà thôi. Đại nhân xem thử có thứ nào dùng được thì cứ việc cầm lấy. Yên tâm, toàn bộ những tư liệu này đều do Tiền mỗ sai thủ hạ chép lại, không phải là thư từ công văn của Cẩm Y vệ chúng ta, sẽ không dẫn lửa cháy đến chúng ta đâu. Chương 69 - Trí đấu quyền hầu (Dùng trí đấu vương hầu quyền thế) Thấy lính canh tuần đi lại liên miên không ngớt dưới lầu, Tiền Ninh chợt đảo mắt, ra lệnh cho đám hiệu uý Cẩm Y vệ dưới trướng: - Xuống lầu hết cho ta! Canh chừng cửa, không cho ai lên quấy nhiễu! Thủ hạ vừa ra khỏi nhã phòng, Tiền Ninh lập tức quỳ sụp xuống đất, cung kính thưa: - Thần Tiền Ninh tham kiến Thái tử điện hạ! Chu Hậu Chiếu "ý" kinh ngạc, ngước mắt nhìn Dương Lăng, Dương Lăng khẽ lắc đầu. Thấy vậy Tiền Ninh bèn cung kính bẩm rõ: - Vi thần từng nhậm chức thống lĩnh thị vệ trong cung nên đã may mắn được gặp Thái tử điện hạ. Hôm nay điện hạ cải trang vi hành, thần vốn không dám làm lộ thân phận của ngài, nhưng hiện giờ binh lính lùng sục khắp kinh sư, vi thần chỉ còn cách dựa vào thân phận Cẩm Y vệ đích thân hộ tống điện hạ hồi cung. Vì thế vi thần mạo muội chào điện hạ, mong điện hạ thứ tội. Chu Hậu Chiếu nghe xong bừng tỉnh, cười ha hả nói: - Đứng dậy đi, không cần mấy quy củ thối đó. Ta cũng không ngờ đánh một tên vô lại lại kéo vô lại cả thành đến. Cái tên nhà ngươi cũng giảo hoạt lắm, bằng không, sao ngươi còn phải giả vờ không quen biết ta chứ? Lúc này Dương Lăng cũng thở dài một hơi, thất vọng nhìn xuống dưới lầu, biết rằng hôm nay đừng hòng đi đến bộ Binh lấy tấm hải đồ của Trịnh Hoà. Lưu Cẩn ghé tai y thấp giọng bảo: - Dương thị độc chớ nên sốt ruột! Tấm hải đồ đó để ở bộ Binh lâu năm như vậy, nếu muốn vứt thì đã sớm vứt từ lâu, nếu chưa vứt thì cũng sẽ không rời nơi đó một khắc. Ngày khác lại tìm cơ hội lấy về cũng được. Dương Lăng sửng sốt nhìn lão. Lưu Cẩn mỉm cười nói: - Tấm hải đồ đó là bảo vật Trịnh công công tốn bao tâm huyết lưu lại. Câu chuyện vô cùng ấn tượng, vạn nước truyền tụng đó là công lao do những người thuộc nội cung bọn ta tạo nên, bọn ta cũng không nỡ để nó bị huỷ bỏ đâu. Dương Lăng rất đỗi kinh ngạc, nhìn nụ cười an ủi của "đồng chí" thái giám, cặp mắt của y không hẹn mà đã ươn ướt... Được Tiền Ninh dẫn hơn chục tên Cẩm Y vệ "áp giải", dĩ nhiên đám quỷ sứ đầu trâu mặt ngựa đụng phải bọn họ trên đường đều không dám chặn hỏi. Chu Hậu Chiếu suông sẻ trở về Đông Cung từ cổng sau Tử Cấm Thành. Vừa trở về Xuân Phường an toàn, y liền vỗ bàn cái bộp, nói với Dương Lăng: - Hôm nay chuyện đã ầm ỹ lên cả rồi, nhưng ta đã nhận lời của cô nương người ta, không thể thất hứa. Chính ta đã bảo nội trong ba ngày dứt khoát sẽ trả lại văn tự mua thiếp cho nàng ấy, ngươi xem làm sao để cướp tờ giấy đó về? Dương Lăng chau mày. Khi đó để gạt Chu Hậu Chiếu rời khỏi “chiến trường”, y đã thuận miệng hứa bừa mấy câu. Nay xem ra gã Nghiêm Khoan chính là người của Thọ Ninh hầu. Ngay cả chuyện xây công sự Bát Đạt Lĩnh mà Trương Hạc Linh cũng có thể giao cho gã, chứng tỏ quan hệ bọn họ thật không tầm thường, căn bản chính là "quan thương một nhà". Lấy tiền mua chuộc chỉ sợ không đưa được cái giá khiến gã động lòng, hơn nữa chuyện bấm bụng nhẫn nhịn như vậy nhất định Thái tử sẽ không chịu. Còn như muốn dùng quan uy bức bách thì đương kim thánh thượng sủng ái mỗi chính cung; chỉ cần nhìn khí thế các loại đội ngũ lùng sục kinh sư hôm nay là đủ rõ, vị quốc cữu gia này há dễ trêu vào sao? Trừ khi chính vua Hoằng Trị đích thân ra mặt, bằng không còn ai áp chế được hắn chứ. Dương Lăng chau mày suy nghĩ một hồi, thật sự không nghĩ ra được biện pháp gì, y ngẩng đầu nhìn tám "thiên tài" chuyên trị người mà nghe nói là cả khi nằm mơ cũng có thể nghĩ ra biện pháp hại người, lại thấy tám cặp mắt cũng đang dòm y lom lom. Dương Lăng khổ sở cười một tiếng, đành phải cân nhắc từng lời: - Tên Nghiêm Khoan đó chỉ là người làm, vốn không đáng lo, có điều Thọ Ninh hầu lại làm chủ cho gã... Muốn đụng đến gã, thì phải khuất phục Thọ Ninh hầu trước mới được. Chu Hậu Chiếu đáp ngay: - Không cần úy kỵ! Tuy Trương Hạc Linh là quốc cữu, nhưng thái độ kiêu căng của ông ta thật khó ưa, nếu có thể dập bớt oai phong của ông ta cũng là điều tốt. Ngươi có biện pháp gì cứ nói đi. Dương Lăng trầm ngâm một hồi rồi nói: - Người có thể khiến cho Thọ Ninh hầu bớt kiêu căng, chỉ còn có đương kim bệ hạ. Nhưng nếu muốn bệ hạ khiển trách ông ấy thì cần phải có chứng cớ tội trạng đủ nghiêm trọng khiến cho bệ hạ phải nổi giận... Cốc Đại Dụng nghe vậy bèn xen vào: - Việc này dễ thôi! Chỉ những việc xâm phạm quyền lợi của dân lành, lấn chiếm đường phố, tự ý giao công trình cho kẻ khác cũng đủ để dâng sớ hạch tội ông ta rồi, huống hồ e rằng Thọ Ninh hầu không chỉ... hà hà! Lưu Cẩn nhíu mày nói: - Có được chứng cớ còn phải có người đắc lực trình cho bệ hạ mới được. Nếu như chúng ta ra mặt, nhất định bệ hạ sẽ sinh nghi. Chuyện này... Chu Hậu Chiếu mất kiên nhẫn: - Sao mà phiền quá vậy! Nếu làm vậy không được thì nhân dịp mấy ngày này đang thi Hội, các Thái phó ít đến trông coi ta, ta tranh thủ rời cung một chuyến nữa đi thẳng đến tìm quốc cữu đòi vậy. Ta không tin ông ấy sẽ vì một tên người làm mà dám đắc tội với ta. Nghe đến hai chữ "Thái phó", Dương Lăng không khỏi sáng rỡ hai mắt, hỏi ngay: - Điện hạ! Mấy ngày nay các vị đại học sỹ đều không đến giảng bài cho người sao? Chu Hậu Chiếu đưa mắt nhìn Cốc Đại Dụng, Cốc Đại Dụng đáp thay: - Bắt đầu từ ngày mai, hằng ngày ba vị đại học sỹ sẽ luân phiên tham gia trông coi thi cử thi tại trường thi, hai vị còn lại sẽ ở trong cung xử lý chính vụ. Vì thế thay vì mỗi ngày do ba vị đại học sỹ luân phiên lên lớp, hiện đổi lại thành mỗi ngày một vị đại học sỹ đến dạy, vả lại thời gian cũng giảm xuống còn một canh giờ. Dương Lăng vỗ đùi nói: - Tốt! Thần đã có biện pháp rồi. Ngày mai sẽ do vị đại học sỹ nào phụ trách giảng dạy? Cốc Đại Dụng quả nhiên là kẻ "thính tai", thuộc làu làu thời khoá biểu lẫn lão sư giảng dạy mà phủ Chiêm Sỹ thu xếp cho Thái tử, hắn đáp không chút suy nghĩ: - Ngày mai hẳn sẽ do đại học sỹ Lý Đông Dương giảng dạy. Dương Lăng cười khà khà, ghé vào tai Chu Hậu Chiếu thì thầm một hồi. Chu Hậu Chiếu nghe xong bán tín bán nghi hỏi lại: - Biện... biện pháp này thật sự hiệu quả sao? Dương Lăng cười nói: - Nếu làm khéo, Thọ Ninh hầu gia sẽ chỉ còn nước bỏ quân giữ soái. Đến lúc đó, thứ nhất điện hạ không phải thất tín với người. Thứ hai, tên Nghiêm Khoan đó vô lễ với Thái tử, ta có thể trị gã thân bại danh liệt khiến gã từ nay không thể cựa quậy gì được. Thứ ba, điện hạ còn có thể giành được sự tán thưởng của các vị thái phó. - Ồ? Chu Hậu Chiếu phấn chấn tinh thần: - Sẵn lúc trời còn sớm, ngươi hãy mau đi thu xếp đi! Nhất thiết phải chuẩn bị đầy đủ trước khi Lý thái phó đến vào ngày mai cho ta. - Dạ, vi thần tuân mệnh! Dương Lăng mỉm cười vái chào, quay sang khẽ gật đầu với Bát Hổ rồi nghiêng mình lui ra. *** *** *** *** *** *** *** *** *** *** Rạng sáng hôm sau, khi ánh dương còn chưa nhô cao, một chiếc xe nhỏ chạy nhanh đến một góc bên ngoài Ngọ môn. Chờ sẵn đằng sau góc cổng, Dương Lăng lách mình lên xe. Tiền Ninh ngồi ngay ngắn ở trong xe, đưa cho y một bọc giấy dầu dầy cộm, cười nói: - Hôm qua nhận lệnh của Dương đại nhân, Tiền mỗ đã phân phó tuỳ tùng bận rộn một đêm, cuối cùng đã có thu hoạch, may mắn không làm nhục mệnh. Ha ha, đây là những thứ mà đại nhân yêu cầu, đại nhân xem thử có dùng được hay không? Dương Lăng khách khí vài ba câu, rồi ngồi xuống cạnh y, mở bao lấy ra một chồng giấy dầy cộm, vén rèm mượn ánh nắng ban mai vội vã xem. Sau một hồi y líu lưỡi hỏi: - Tiền huynh! Ta chỉ nhờ huynh thu thập một số việc Thọ Ninh hầu cấu kết thương nhân tự ý giao công trình với lại xâm phạm lợi ích của dân. Nếu không đủ nghiêm trọng mới tuỳ tiện sắp đặt thêm một chút sai phạm để tăng thêm trọng lượng. Nhưng những tài liệu này của huynh thậm chí còn có cả án giết người nữa, nếu thật sự bệ hạ cho tra xét, há không phải là lấy đá tự đập vào chân mình à? Tiền Ninh cười khì khì đáp: - Thật ra Tiền mỗ cũng muốn bịa đặt thêm một chút thị phi, tiếc là đã bận rộn cả đêm. Thật ra mấy vụ án không phải chỉ có bấy nhiêu, bọn ta cũng chẳng dư thời gian thêu dệt thêm lỗi cho Trương hầu gia. Những hồ sơ vụ án này có nhân chứng, có vật chứng, có cái còn là của khổ chủ gởi tới nha môn tố cáo nữa, có điều không ai dám xử lý nên vẫn còn xếp đống mà thôi. Đại nhân xem thử có thứ nào dùng được thì cứ việc cầm lấy. Yên tâm, toàn bộ những tư liệu này đều do Tiền mỗ sai thủ hạ chép lại, không phải là thư từ công văn của Cẩm Y vệ chúng ta, sẽ không dẫn lửa cháy đến chúng ta đâu. Dương Lăng kinh ngạc hỏi lại: - Những thứ này đều là thật ư? Tình Ninh gật đầu nói: - Đều là thật! Đoạn y cười nhạt, ngạo nghễ nói: - Bất kể là ai, chỉ cần Cẩm Y vệ chúng ta muốn xử lý hắn, sẽ không có bí mật gì có thể che giấu chúng ta được. Có điều... Thọ Ninh hầu được mấy "gốc cây to" trong cung che bóng, những thứ này chưa hẳn đã lật đổ được hắn. Đại nhân nhất thiết phải cẩn thận, đừng để mình cũng rơi vào hố bẫy đó. Dương Lăng gật đầu nói: - Tiền huynh yên tâm, chuyện này tự có người xung phong xông trận. Ha ha, ta phải chạy gấp vào trong cung rồi. Lần này đã phiền Tiền huynh, tấm lòng của Tiền huynh ta sẽ bẩm cho điện hạ biết. Tiền Ninh hớn hở ra mặt, liền vội chắp tay đáp: - Đều là huynh đệ hà tất nói lời khách khí như vậy. Cổng Ngọ môn có nhiều triều thần, Tiền mỗ không tiện lộ diện, đành cung tiễn Dương đại nhân tại đây. Chúc đại nhân kỳ khai đắc thắng, mã đáo thành công! *** *** - Khổng Tử nói: “Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử”. Ý muốn nói bậc làm vua phải theo đúng đạo làm vua, kẻ bầy tôi phải theo đúng với đạo bề tôi, người làm cha phải theo đúng đạo làm cha, kẻ làm con phải theo đúng đạo làm con. Lý Đông Dương vừa giảng vừa vui vẻ liếc nhìn Thái tử. Hôm nay Thái tử rất lanh lợi, ngồi nghiêm chỉnh sau bàn, dường như rất chăm chú nghe giảng, khiến trái tim già của lão rất yên lòng. Lý Đông Dương mỉm cười giảng tiếp: - Con người hay thưởng cho người mình thích, phạt kẻ mình ghét. Bậc minh quân thì lại không như vậy, thưởng tất thưởng cho người có công, phạt tất phán cho kẻ có tội. Bậc minh quân giỏi trị nước, trong phải củng cố quyền uy, ngoài phải tăng cường quyền bính. Như vậy mới có thể chinh phạt kẻ địch, không ai dám không nghe. Lão đưa chén trà lên môi nhấp một ngụm thấm giọng, đang định giảng kỹ hơn, chợt nghe Thái tử hỏi: - Thái phó à, làm bậc minh quân phải thưởng phạt phân minh. Nhưng nếu như kẻ có tội là cận thần của Thiên tử hoặc thậm chí là họ hàng thân thích, phải chăng có thể khoan hồng? Lý Đông Dương nghiêm mặt đáp: - Không được! Vương tử phạm pháp cũng chịu tội như thứ dân, vì sao? Bởi lẽ vua không phải là chủ một nhà, mà là chủ một nước. Đối với vua, khắp cả nước đều là con dân, cớ sao lại phân chia xa gần? Vua thánh tôi hiền, ấy là phước của thiên hạ; vua minh thần trung, ấy là phước của quốc gia. Nếu như dung túng bênh vực cận thần làm ác, đấy không phải là phước của đất nước. Dương Lăng ho khan một tiếng, Chu Hậu Chiếu liền lôi dưới gầm bàn ra một bọc giấy, thở dài một hơi, thưa: - Thái phó dạy rất phải! Hôm nay Dương thị độc vào cung, nhặt được một cái bọc ở ngay cửa cung, bên trong không ngờ lại những tội chứng tố giác quốc cữu Trương Hạc Linh dung túng gia nhân gây hại dân lành. Mỗi việc, mỗi vụ đều khiến người ta nhìn thấy mà đau lòng. Chao ôi! Sau khi ta xem xong vốn nghĩ Trương Hạc Linh là cậu, hay là cứ gấp chuyện này lại không đề cập đến, nhưng nghe xong lời dạy dỗ của Thái phó, ta thật cảm thấy xấu hổ. Nếu như cứ che giấu không đưa, vậy thật đã phụ lời thánh nhân rồi. Lý Đông Dương nghe xong rúng động hỏi: - Là tội chứng gì? Thái tử có thể cho thần xem một chút hay không? Chu Hậu Chiếu thừa cơ vừa đưa bao giấy cho lão vừa lắc đầu hổ thẹn: - Một bên là cậu ta, bên khác là bá tánh lê dân chịu đựng ức hiếp, không chốn khẩn cầu. Tuy ta không nỡ thưa bẩm phụ hoàng để tổn thương hoà khí trong nhà, nhưng sau khi nghe lời dạy dỗ của Thái phó lại thật sự không đành lòng ngoảnh mặt làm ngơ. Lý Đông Dương vội vã lật xem đống đơn kiện tố cáo tội trạng Thọ Ninh hầu Trương Hạc Linh. Chỉ đưa mắt vài lượt, lão đã giận không kiềm chế được, vẻ mặt phẫn nộ: - Vương hầu quý thích, không ngờ lại xâm hại lợi ích của dân một cách trắng trợn đến mức thế này. Điện hạ không cần phải hổ thẹn, người làm rất phải! Vua là thuyền, thứ dân là nước. Dân do trời sinh, không phải là vua; trời lập ra vua, cũng là vì dân. Điện hạ có thể kết nối lòng mình với lê dân, đó là phước của xã tắc. Rồi ông lại liếc sang Dương Lăng, nói đầy thâm ý: - Những hành vi này của Thọ Ninh hầu khiến cho bá tánh lê dân cất tiếng than oán dậy trời, mà lại không chốn cầu khẩn, cho nên mới có người bất đắc dĩ làm vậy. Điện hạ! Mời Dương thị độc hãy cùng điện hạ tự ôn lại bài học trước, lão thần phải ra ngoài thôi. Trước hết cần kiểm chứng một lượt, ví như là thật, nhất định lão thần sẽ bẩm báo với thánh thượng. Dương Lăng nghe xong liền nhướng mày. Trong lời của lão già này có ẩn ý, rõ ràng không hẳn đã tin mình nhặt được gói giấy trên đường vào cung. Có điều người này ghét ác như thù, biết rõ bị người ta lợi dụng nhưng vẫn không chịu làm ngơ. Hơn nữa, tất cả các vụ án Tiền Ninh đưa đến đều là thật cho nên y cũng không sợ lão kiểm chứng. Lý Đông Dương cáo từ rời cung. Trong ngày này, so với trước kia rõ ràng Chu Hậu Chiếu ngoan hơn rất nhiều. Thái tử chỉ ngoan ngoãn ở trong Xuân Phường cùng Dương Lăng bàn chuyện trên trời dưới đất, không dám chơi đùa gây rối nữa. Lý Đông Dương vội vã chạy về điện Cẩn Thân, lập tức ra lệnh cho Hữu ty nha môn điều tra báo cáo. Những vụ án này phần lớn đều đang được khiếu kiện tại nha môn, chỉ là bị người đùn đẩy lần lữa mãi nên không thể xử lý mà thôi, cho nên vừa cho điều tra liền biết là đúng, chỉ hơn một canh giờ đã kiểm chứng được bảy tám phần. Lý Đông Dương nghe xong những tội ác khiến người phẫn nộ đó không khỏi giận tím tái mặt mày, lập tức cầm bút viết lưu loát bài sớ vạn ngôn, rồi phất ống tay áo đi dự Ngọ triều. Trong Đông cung, Chu Hậu Chiếu đang nghe Dương Lăng kể về phong tình các nước, mở rộng tầm nhìn. Đang nghe đến hồi say sưa, chợt y nghe giọng the thé của Cốc Đại Dụng từ bên ngoài: - Ối chao! Hai vị công chúa điện hạ, sao hai người đến Đông cung vậy? Một giọng thiếu nữ yêu kiều cất lên: - Thái tử đâu? Mau dẫn ta đi gặp huynh ấy. Cốc Đại Dụng ấp úng: - Công chúa điện hạ, Thái tử đang ôn bài, người xem... Một giọng nói ngây thơ thuần khiết của một thiếu nữ khác cất lên: - Hừ! Có phải là các người lại dùng mấy trò đá gà dạy chó lừa để Thái tử ca ca chơi đùa phải không? Tỷ tỷ, chúng ta tự vào đi. Chu Hậu Chiếu "a" lên một tiếng, vội nói: - Vĩnh Phúc và Vĩnh Thuần đến rồi. Ngươi trốn đằng sau bình phong một lúc đi. Trong cung có nhiều quy củ thối lắm, ngươi không thể tùy tiện thấy mặt bọn họ đâu! Nghe vậy, Dương Lăng vội vàng đứng dậy trốn vào sau bức bình phong bằng gỗ tử đàn lâu năm. Y nghe Chu Hậu Chiếu cất cao giọng gọi: - Đại Dụng! Mời hai vị công chúa vào đi! Tiếp theo đó là tiếng một thiếu nữ cười khúc khích nói: - Lạ quá, lạ quá! Không ngờ hôm nay hoàng huynh lại ngồi yên ở nơi này, không chơi mấy trò chó mèo nữa nhỉ, chẳng lẽ huynh đổi tính rồi? ***************

Chương 70: Nhốn nháo ở hậu cung

Dịch: workman Biên dịch: |YanYan* Biên tập: Ba_Van Hiệu đính: Nguồn: www.tangthuvien.com Công chúa Vĩnh Phúc cũng đang dán tai vào bình phong nghe lén phụ hoàng và Thái tử nói chuyện, nghe đến đây trong lòng khẽ động, nghiêng đầu nhìn Dương Lăng. Nào ngờ nàng vừa quay đầu thì trâm ngọc vạch vào tấm bình phong phát ra tiếng “két”. Trong phòng chỉ có cha con Hoằng Trị nói chuyện, vô cùng yên tĩnh, vừa nghe thanh âm đó Hoằng Trị lập tức lạnh giọng quát: - Ai? Dám nghe lén trẫm và Thái tử nói chuyện! Ra đây cho trẫm! Chương bảy mươi - Nhốn nháo ở hậu cung ------------------------ Chỉ nghe Chu Hậu Chiếu hừ một tiếng, giọng khá uy nghiêm: - Vĩnh Thuần, chẳng có chút quy củ nào cả! Gặp ta mà cũng không biết làm lễ à? Thiếu nữ có giọng ngây thơ đáp: - Thôi đi! Nếu hoàng huynh chịu nói quy củ thì mẫu hậu đã bớt lo lắng. Huynh suốt ngày cứ ta ta, có từng xưng “Cô gia”, “Quả nhân” đâu, muội làm lễ cái gì chứ? Dương Lăng đứng sau bình phong, nghe Chu Hậu Chiếu gọi nàng là Vĩnh Thuần, thầm nghĩ: “Hiện giờ hoàng đế Hoằng Trị có một trai hai gái, cô nương này chính là con gái nhỏ nhất của Hoằng Trị - công chúa Vĩnh Thuần. Nghe nói nàng ta mới mười một tuổi, chẳng trách nghịch ngợm như thế, người kia đương nhiên là công chúa Vĩnh Phúc rồi. Hai tiểu cô nương tới đây làm gì nhỉ?” Công chúa Vĩnh Phúc năm nay mười ba tuổi, nhỏ hơn Chu Hậu Chiếu hai tuổi, nhưng lại đoan trang ôn nhu, hết sức biết lễ. Dù tiểu muội nghịch ngợm nhưng nàng cũng chỉ mỉm cười chứ không trách, vẫn sửa vạt áo ngay ngắn thi lễ theo đúng lễ tiết chính thức của cung đình: - Hoàng muội Vĩnh Phúc ra mắt thái tử điện hạ. Điện hạ thiên tuế thiên thiên tuế! Trước nay Chu Hậu Chiếu vẫn không thích lễ nghi cung đình, mặc dù vừa rồi y giáo huấn tiểu muội, nhưng kỳ thật lại rất thích thái độ thoải mái như vậy của nàng. Lúc này thấy công chúa Vĩnh Phúc quả thật làm đại lễ, y đành phải ngồi nghiêm chỉnh nhận lễ, sau đó nhấc cánh tay phải lên như một con rối gỗ, cất giọng nhạt nhẽo: - Hoàng muội miễn lễ, bình thân! Các muội xưa nay không đến Xuân Phường, hôm nay tới đây...? Công chúa Vĩnh Thuần cướp lời: - Thái tử ca ca, hậu cung bây giờ nhốn nháo vô cùng, huynh mau đi... Công chúa Vĩnh Phúc đột nhiên ho khan một tiếng, cắt ngang: - Các ngươi đều lui ra đi, ta có chuyện muốn nói với thái tử điện hạ. - Dạ! Cốc Đại Dụng vốn rất lanh lợi, vội vàng vâng lệnh rồi khoát tay, dắt hai tên tiểu thái giám rời khỏi, nhè nhẹ khép cửa cung. Công chúa Vĩnh Phúc ngồi dựa vào sạp (giường hẹp) mềm, lộ vẻ lo lắng: - Hoàng huynh, huynh mau đi hậu cung một chuyến đi! Phụ hoàng trước nay vẫn thương yêu huynh nhất, huynh ra mặt có lẽ có thể dập tắt cơn giận lôi đình của phụ hoàng. Chu Hậu Chiếu nhất thời không hiểu, nghi hoặc hỏi: - Phụ hoàng tức giận vì chuyện gì? Công chúa Vĩnh Phúc đáp: - Lúc Ngọ triều khi nãy, Lý đại học sĩ hạch tội Thọ Ninh Hầu, nói ông ta lừa gạt, chiếm lấy tư điền, ngoài bốn ngàn mẫu (nguyên văn: công khoảnh, bằng một hecta. NB) ruộng tốt do hoàng gia ban tặng gần đây, còn bá chiếm gần một ngàn tám trăm khoảnh (mỗi khoảnh #6,667 hecta. NB); tranh giành lợi ích với dân lại càng khỏi nói, vừa dung túng gia nhân mua bán muối ở tám mươi vạn dặm ven bờ Lưỡng Hoài, lại vừa bức chiếm nhà dân, cưỡng bức kỹ nữ thanh lâu làm thiếp. Kết quả là cãi nhau to với Thọ Ninh Hầu ngay giữa triều, phụ hoàng nhất thời giận dữ giam cả hai người vào đại lao. Việc này... chà...! - A?! Chu Hậu Chiếu tròn mắt, sao lại tới nông nỗi này? Y ngây người một lát, đảo mắt hỏi: - Hai người... Hai người đều bị giam à! Dường như trước kia cũng có người hạch tội Thọ Ninh Hầu, phụ hoàng đâu có tức giận như thế, lần này làm sao vậy? Công chúa Vĩnh Thuần cười khì, rồi nhảy lên níu vào cánh tay hắn nói: - Lý đại học sĩ khi chỉ trích Thọ Ninh Hầu là ngoại thích chuyên quyền nhất thời lỡ lời, nói đến họ Trương của mẫu hậu – một người vinh cả họ vinh, Thọ Ninh Hầu thừa cơ chỉ trích lão là hạ thần mà dám gọi hoàng hậu là “Trương thị”, là đại bất kính, tội đáng xử trảm. Lý đại học sĩ nổi giận đùng đùng, đoạt lấy cây ngọa qua trùy của Kim Qua võ sĩ trong cung đuổi đánh Thọ Ninh Hầu. Lão là một lão già gần sáu mươi, làm sao đánh nổi Thọ Ninh Hầu, trái lại còn bị Thọ Ninh Hầu đoạt kim qua đạp cho hai đạp. Phụ hoàng giận dữ, bảo bọn họ thất lễ trước mặt quân thượng nên tống cả hai vào ngục. Chu Hậu Chiếu nghe vậy muốn bật cười, y nhếch miệng nói: - Sao lại như thế? Ha ha, khục khục, việc này... Y vừa nói, khóe mắt vừa hơi liếc về phía bình phong, nhưng bên ngoài có hai công chúa ngồi đó, Dương Lăng nào dám lên tiếng. Công chúa Vĩnh Phúc lườm tiểu muội đang hả hê, rồi lo lắng: - Hoàng huynh! Thân thể phụ hoàng không được khỏe, bây giờ Lý Đông Dương bị hạ ngục, cả đám Tạ Thiên, Lưu Kiện, Lưu Đại Hạ dẫn theo bá quan văn võ cả triều quỳ gối trước đại điện xin tha. Phụ hoàng giận dữ lánh vào hậu cung, nhưng mẫu hậu nghe nói Thọ Ninh Hầu bị bắt, lại khóc lóc không ngừng với phụ hoàng, muội cùng hoàng muội thấy tình thế không ổn, mới đến gặp huynh... Mặc dù nghịch ngợm, nhưng Chu Hậu Chiếu lại rất kính trọng cha, nghe thế y lập tức đứng dậy nói: - Ta nói mà, phụ hoàng không cho bất kỳ phụ nữ nào tự ý đến chỗ dạy học ở Đông Cung, chả trách các muội hôm nay lại đến đây. Ta sẽ đến hậu cung, các muội... Y mới nói tới đây, từ xa xa đã có người hô to: - Bệ hạ giá lâm đông cung, Thái tử mau đón! Đây là thái giám chuyên môn phụ trách việc xướng lễ trong cung, giọng nói thanh cao vang xa. Công chúa Vĩnh Phúc nghe thế đứng bật dậy, hoảng hốt: - Nguy rồi, phụ hoàng đang nổi nóng, nếu thấy chúng ta không tuân ý chỉ, e rằng càng tức giận hơn, việc này... Vĩnh Thuần công chúa kéo hoàng tỷ, nói: - Nhanh, lánh đi trước đã! Không biết chừng phụ hoàng tới kiểm tra hoàng huynh học hành, đợi phụ hoàng đi rồi chúng ta lại ra. Nói rồi tiểu công chúa Vĩnh Thuần kéo hoàng tỷ trốn vào sau bình phong. Chu Hậu Chiếu chưa kịp cản thì hai người đã ẩn vào sau bình phong rồi. Một lát sau, không thấy phía sau bình phong vọng ra tiếng kêu kinh ngạc nào nên Chu Hậu Chiếu cũng cảm thấy hơi bồn chồn. Cửa cung mở ra, hoàng đế Hoằng Trị đã đến nơi, Chu Hậu Chiếu thấy vậy vội vàng khom người thưa: - Nhi thần tham kiến phụ hoàng! - Đứng lên đi! Hoằng Trị phất tay áo, ra hiệu cho Miêu Quỳ. Miêu Quỳ dẫn người rón ra rón rén lui ra ngoài, nhè nhẹ đóng cửa cung lại. Chu Hậu Chiếu đứng dậy, lẳng lặng nhìn sắc mặt phụ hoàng. Y thấy thần sắc phụ hoàng bình thản, trong mắt tựa hồ còn có nét cười, không giống dáng vẻ nổi giận đùng đùng, lúc này mới yên lòng, đồng thời lại hơi ngạc nhiên. Cửa điện vừa đóng, Hoằng Trị cũng không còn làm ra vẻ hoàng đế nữa, mà tự nhiên ngồi cạnh án thư, vỗ vỗ sạp gấm bảo: - Hoàng nhi, ngồi đi! Chu Hậu Chiếu ngồi xuống cạnh phụ hoàng, y không tiện nhắc tới việc vừa mới phát sinh ở hậu cung, đành phải hỏi: - Ngọ triều vừa xong, sao phụ hoàng không nghỉ ngơi một chút. Xem người kìa, lại đổ mồ hôi rồi! Hoằng Trị hiền lành nhìn y, mỉm cười nói: - Mẫu hậu con đang cằn nhằn phụ hoàng, phụ hoàng tới chỗ con trốn, ha ha! Hai ngày nay mấy đại học sĩ đều bận rộn cho kỳ thi Hội, việc học của con có bị ảnh hưởng không? Chu Hậu Chiếu làm vẻ kỳ lạ, ngạc nhiên hỏi: - Mẫu hậu cằn nhằn cha ư? Tại sao lại thế chứ? Hoằng Trị buồn cười liếc nhìn y, rồi đột nhiên nghiêm mặt hỏi: - Hoàng nhi, con không biết thật sao? Chu Hậu Chiếu rúng động trong lòng, nhìn thấy ánh mắt như rọi vào tận tim gan của phụ hoàng, trên trán bất giác tuôn đầy mồ hôi hột. ****************************** Dương Lăng phía sau bình phong nghe hoàng tử, công chúa thảo luận quốc sự như chuyện trong nhà. Thì ra nhà của đế vương, hoàng hậu mẫu nghi thiên hạ cũng giống như những đôi vợ chồng nhà bình thường. Y đang nghe rất thú vị, chợt nghe bên ngoài có tiếng báo Hoàng Thượng giá đáo. Ngay sau đó một làn hương phất tới, hai tiểu giai nhân mặc cung trang vội vàng vọt vào sau tấm bình phong, Dương Lăng không khỏi kinh ngạc đến ngây người. Vội vàng nhìn thoáng qua, y thấy một thiếu nữ mặc áo quần màu vàng, dung mạo xinh đẹp tuyệt trần, thần khí cao quí, vào khoảng mười ba mười bốn tuổi, trên đầu búi một búi tóc cao vút đen huyền, dưới mái tóc mây là một gương mặt nhỏ nhắn trắng như tuyết rất kiều mỵ, mi như trăng non, mắt như thu thủy. Vừa thấy y, nàng lập tức cả kinh đến nỗi đôi môi anh đào há thành hình chữ O, suýt nữa kêu lên thành tiếng. Tiểu cô nương kia vẫn là một cô bé, mặc một bộ quần áo trong cung màu đỏ tía, mặt trái xoan nhỏ xinh, tuổi tuy nhỏ nhưng đã có bộ dáng rất động lòng người, vóc người nhỏ nhắn xinh xắn như một cánh hoa nhỏ. Nàng vừa nhìn thấy Dương Lăng cũng không khỏi tròn mắt nhìn, nhưng thấy tỷ tỷ sắp kêu lên, vội vàng vươn tay bịt lấy đôi môi anh đào của tỷ, nhè nhẹ lắc đầu. Công chúa Vĩnh Phúc bị muội muội bịt miệng, chỉ lộ ra đôi mắt to lúng liếng đen nhánh, nàng chớp chớp mắt, ra hiệu cho muội muội. Vĩnh Thuần lúc này mới buông tay ra, hai người quay đầu, hai đôi mắt đen lay láy trừng lên nhìn Dương Lăng. Dương Lăng mặt mày rầu rĩ, trước tiên cúi chào làm lễ, rồi chỉ chỉ ra phía ngoài, rồi chỉ vào mình, cuối cùng lại chắp tay, mặt mày rầu rĩ như đang diễn kịch câm. Công chúa Vĩnh Thuần không khỏi phì cười, vội vàng bịt miệng, đôi mắt to cười cười liếc nhìn y. Nhìn thấy bộ dáng này của y, trong mắt công chúa Vĩnh Phúc cũng không khỏi lộ vẻ buồn cười. Lúc này Hoằng Trị hoàng đế đã vào phòng, hai người sợ bị phụ hoàng phát hiện, vội vàng lùi vào trong, như vậy càng gần Dương Lăng hơn. Dương Lăng và Vĩnh Thuần đều không để ý gì, nhưng công chúa Vĩnh Phúc đã là cô nương mười ba tuổi rồi, lần đầu đứng sát một nam nhân đến thế nên trong lòng không khỏi hơi bồn chồn. Lúc này lễ giáo rất được xem trọng, là một thời kỳ đáng xấu hổ. Đối với việc nam nữ, một số nhà nho lớn không còn yêu cầu hà khắc như đời Tống trước đây nữa, nhưng một số khác lại muốn phục cổ, yêu cầu đối với lễ giáo càng lúc càng hà khắc. Ví như Hải Thụy, chỉ vì cô con gái năm tuổi nhận một cái bánh từ tay một người con trai khác, hắn cũng cho là đã vượt qua vòng lễ giáo, buộc con gái phải nhịn đói tới chết để bảo toàn danh tiết, thật đã tới mức tẩu hỏa nhập ma rồi. Công chúa Vĩnh Phúc là con cháu hoàng gia, tuy tính tình thoải mái phóng khoáng, nhưng lánh mình cùng một chỗ với một thanh niên trai tráng như vậy, nàng cũng không lấy làm tự nhiên cho lắm, huống hồ vì ở trong cung, số đàn ông con trai mà nàng gặp cũng ít vô cùng. Lúc này nhìn trộm lên, nhìn thấy người này ăn mặc giống như thị độc bên cạnh Thái tử, trông cao lớn khôi ngô, mũi thẳng miệng vuông, thập phần anh tuấn, khuôn mặt yêu kiều của nàng bất giác ửng hồng, rồi mơ mơ hồ hồ không nghe rõ bên ngoài đang nói gì. Tuy bên cạnh Dương Lăng có hai tiểu mỹ nữ, nhưng với nhãn quang từng trãi qua mấy kiếp của mình, y không hề bị điên đảo thần hồn. Hơn nữa đến cả Hoàng đế và Thái tử cũng đã gặp qua, thân phận các nàng vị tất đã có thể làm chấn động được y. Y ra hiệu đắc tội với hai công chúa, thấy các nàng cũng không dám lên tiếng, lúc này y mới yên lòng, vểnh tai nghe động tĩnh bên ngoài. Chỉ nghe bên ngoài thấp giọng nói chuyện một lát, sau đó Hoằng Trị đế ha ha cười lớn, còn Hoàng đế và Thái tử nói gì thì y không nghe được. Thì ra Thái tử đang thẳng thắn nhận với Hoằng Trị rằng chính mình thu nhận chứng cớ, gợi ý cho Lý Đông Dương hạch tội quốc cữu với hoàng đế. Y vẫn còn có chút nghĩa khí, không khai Dương Lăng ra. Hoằng Trị nghe xong cười ha ha, rồi mỉm cười nói: - Hoàng nhi! Lý Đông Dương là đại học sĩ đương triều, là người rất nhạy bén, mấy chiêu nho nhỏ của con há có thể giấu được hắn? Có một số việc dù cả hai bên đều biết thực hư như thế nào, nhưng làm như thế cũng không sai. Hoàng đế ha ha cười nói tiếp: - Có một số việc mình không tiện mở miệng thì cứ để thần tử ra mặt nói rõ. Hoàng nhi này, quý thích vương tộc trong triều xâm phạm lợi ích dân chúng ngày càng nghiêm trọng, đâu chỉ có một nhà Thọ Ninh Hầu. Phụ hoàng và vài vị đại học sĩ đang chuẩn bị trừ bỏ một số chính sách có hại, tiến hành hạn chế một số hành vi như việc nhận đất đai do cống hiến, xâm phạm lợi ích nhân dân của hoàng thân quốc thích. Hoằng Trị nhìn Thái tử vẻ khen ngợi, nói: - Chỉ là trước đây phụ hoàng vẫn chưa tìm được thời điểm thích hợp để có thể ban hành chính sách mới, tránh việc bị cả hoàng tộc và công thần huân khanh phản đối; phụ hoàng cũng đang phiền lòng vì việc này. Ha ha, nếu không phải có phụ hoàng... Lý Đông Dương tuy là trung thần, cũng vị tất dám đoạt kim qua, thi triển quyền cước trên kim điện. Trẫm chỉ là mượn tay lão cho Thọ Ninh Hầu một bài học thôi. Hoằng Trị nhíu mày than: - Ta đối với hoàng thích luôn luôn hậu đãi rộng lượng. Nhưng đúng là gần đây hai anh em Thọ Ninh Hầu vô cùng hỗn xược, giam hắn vài ngày, mài bớt nhuệ khí của hắn cũng hay. Chu Hậu Chiếu trố mắt: - Thì ra phụ hoàng... Phụ hoàng đã sớm có ý trừng phạt hắn. Hài nhi nói mà, Lý Đông Dương sao lại trở nên to gan như vậy, thì ra là do ý của phụ hoàng. Chỉ là... chỉ là sao phụ hoàng lại bắt giam luôn cả Lý đại học sĩ thế? Dương Lăng ở phía sau nghe thế cũng thầm giật mình. Bản thân mình quả thật đã coi thường Lý Đông Dương, càng coi thường vị hoàng đế hơi mập béo ụt ịt này. Bây giờ xem ra, còn không biết là ai bị ai điều khiển. Hoằng Trị vỗ tay con, mỉm cười nói: - Hài tử ngốc, nếu không như thế, mẫu hậu của con lại càng không chịu bỏ qua hay sao? Việc quốc gia dễ giải quyết, còn như mẫu hậu con cứ không tuân không chịu, trẫm cũng có chút đau đầu đây! Hoằng Trì nói rồi lại cười khẽ: - Nhưng hoàng nhi trước nay luôn ham chơi, chưa từng quan tâm tới quốc sự. Bọn Cốc Đại Dụng lại chỉ biết làm cho con vui lòng, gọi vài người diễn xiếc vào gây ồn trong đông cung, không phải là trẫm không biết. Lần này, con đột nhiên quan tâm tới khó khăn của nhân dân, lao tâm khổ tứ bày trò nhờ người can gián, đó có phải là chủ ý của Dương thị độc kia không? Công chúa Vĩnh Phúc cũng đang dán tai vào bình phong nghe lén phụ hoàng và Thái tử nói chuyện, nghe đến đây trong lòng khẽ động, nghiêng đầu nhìn Dương Lăng. Nào ngờ nàng vừa quay đầu thì trâm ngọc vạch vào tấm bình phong phát ra tiếng “két”. Trong phòng chỉ có cha con Hoằng Trị nói chuyện, vô cùng yên tĩnh, vừa nghe thanh âm đó Hoằng Trị lập tức lạnh giọng quát: - Ai? Dám nghe lén trẫm và Thái tử nói chuyện! Ra đây cho trẫm! Dương Lăng nhìn hai công chúa. Chỉ thấy khuôn mặt nhỏ nhắn của công chúa Vĩnh Phúc đỏ rực lên nhìn hắn. Đôi mắt to tròn của công chúa Vĩnh Thuần đảo một vòng, thò ra một ngón tay nhỏ nhắn, chỉ chỉ vào Dương Lăng, lại chỉ chỉ ra bên ngoài. Dương Lăng rầu rĩ chỉ chỉ vào mũi mình, tiểu công chúa gật đầu vô cùng tao nhã, cười vô cùng đắc ý. Dương Lăng chỉ còn biết nhìn công chúa Vĩnh Phúc, y thấy mặt nàng tỏ vẻ có lỗi, nhưng trong mắt cũng đầy vẻ cầu khẩn. Y đành cười khổ, thầm nghĩ: “Hai vị tiểu công chúa này cũng thiệt là… nghe lén cha nói chuyện đâu phải là việc lớn chứ! Nhiều lắm cũng chỉ bị trách mắng vài câu là cùng, hà tất bắt ta phải gánh tội thay?” Hắn không biết Hoằng Trị đối với Thái tử vô cùng rộng lượng, nhưng quản thúc hai công chúa lại rất nghiêm khắc. Trong mắt một đứa trẻ sợ cha, bị cha la rầy đương nhiên là sự trừng phạt rất nặng. Dương Lăng bất đắc dĩ, đành phải lấy hết can đảm đi ra ngoài. Y không dám ngẩng đầu, bước vội lên vài bước, quỳ sụp xuống đất bẩm: - Thần Dương Lăng ra mắt Hoàng Thượng! Hoàng Thượng giá đáo, vi thần tránh không kịp, đành phải vội vàng lánh vào sau bình phong, không nghĩ kinh động tới thánh giá, mong Hoàng Thượng thứ tội! ***************

Chương 71: DỌA KHỈ, LUYỆN ƯNGDịch: workman Biên dịch: |YanYan* Biên tập: Ba_Van Hiệu đính: Nguồn: www.tangthuvien.com Hoàng Thượng càng nói càng giận, vỗ mạnh một cái lên án thư. Dương Lăng bất giác lạnh cả người. Kẻ làm vua kỵ nhất là bầy tôi ép chủ thượng, hận nhất là dám bày mưu tính kế trước mặt vua. Tuy Hoằng Trị cũng hiểu mình thấy quyền thần xâm hại lợi ích của dân lành nên muốn giúp đỡ dân chúng, nhưng ông lại cho rằng mình xem thường Thái tử còn ít tuổi, sử dụng mưu kế để lợi dụng Thái tử, rõ ràng mình đã phạm vào điều kiêng kị của thiên tử. ------------------------ CHƯƠNG 71: DỌA KHỈ, LUYỆN ƯNG ------------------------ Hoàng đế Hoằng Trị vừa kinh vừa giận, đứng bật dậy, chỉa ngón tay vào Dương Lăng, tức giận đến nổi một hồi lâu mà vẫn không nói thành lời. Kỳ thật ông rất tán thưởng Dương Lăng. Hoằng Trị đã từng bàn với Lưu Đại Hạ về những kiến giải quân sự của Dương Lăng mấy ngày trước đây, Lưu Đại Hạ tuy cảm thấy trong đó còn có rất nhiều chi tiết cần phải cân nhắc thương thảo, nhưng ông ta cũng khẳng định những ý kiến của Dương Lăng là cao kiến, đích xác rất độc đáo, nên cũng rất khen ngợi y. Dương Lăng là thị độc của Thái tử nhưng không giảng về tứ thư ngũ kinh, chỉ giảng về non nước núi sông, phong tục tập quán, thậm chí cả những chuyện ở các nước xa xôi khác. Đương nhiên được tai mắt thông báo, Hoằng Trị cũng đã sớm biết những việc này rồi. Nhưng bản thân Hoằng Trị lại thích âm nhạc và hội họa, đám thần tử cũng vì chuyện này mà thường nhiều lần khuyên can, lo Hoàng đế sẽ chỉ ham mê những thú vui này mà bỏ bê việc nước. Mỗi lần nghe vậy Hoằng Trị cũng chỉ cười trừ, cho rằng đó là kiến giải của đám cùng nho, nên ông cũng không quan tâm đến việc ép Thái tử phải nghe nhiều, học lắm. Theo Hoằng Trị suy đoán, Dương Lăng là đệ nhất tú tài Tuyên Phủ nên kiến thức tất nhiên là không kém, nhưng bây giờ y không giảng những lời của thánh nhân, lại bắt đầu giảng dạy từ bàng môn tà đạo, chắc là y cũng biết tính khí của Thái tử, cho nên mới bỏ phương pháp ”đọc vạn quyển sách” mà dùng phương pháp ”đi vạn dặm đường” để dạy Thái tử. Như vậy Dương Lăng đã khổ tâm suy tính để chọn phương án giảng dạy tốt nhất, nên ông rất tán thưởng y. Nhưng hôm nay ông đang dạy cho Thái tử đạo làm vua, có một vài chiêu thức không muốn cho người ngoài biết lại bị Dương Lăng trốn ở gần đó nghe được. Cho dù Hoằng Trị luôn luôn cư xử rộng lượng, cũng bất giác thẹn quá hóa giận. Ông nhìn Dương Lăng lạnh lẽo, cố nén giận hỏi: - Dương thị độc, ngươi chỉ kinh động thánh giá sao? Dương Lăng lắp bắp: - Hoàng Thượng! Thần... thần không rõ ý của bệ hạ. Hoằng Trị vỗ án thư, gằn từng tiếng: - Dương Lăng! Hôm qua Thái tử đã xuất cung đi những đâu? Bản tấu hạch tội Trương Hạc Linh của Lý Đông Dương hôm nay có phải là chủ ý của ngươi? Dương Lăng ớn lạnh trong lòng: “Việc này mình làm bí mật như vậy, Hoàng Thượng sao biết được? Chẳng lẽ trong Bát Hổ có tai mắt của Hoàng Thượng? Không, không phải vậy! Nếu do Bát Hổ rò rỉ tin tức, Hoàng Thượng sớm đã ngăn cản Thái tử tự ý xuất cung rồi, không đợi mọi việc đã rồi mới hay biết. Vậy là ai đã tiết lộ tin tức chứ? Đông Xưởng? Cẩm Y Vệ? Bọn họ chắc không đến nỗi tự vả vào mặt mình, vậy là ai chứ?” Dương Lăng nghĩ một lát rồi rùng mình. Y đột nhiên nhớ tới Tây Xưởng nghe nói đã bí mật được thành lập, chẳng lẽ là do mật thám có mặt ở khắp nơi của Tây xưởng dò biết được? Việc thành lập lại Tây Xưởng vô cùng bí mật, bây giờ vẫn chưa chính thức công khai, Đốc Chủ của Tây Xưởng là ai cũng chưa rõ, phần lớn thành viên của Tây Xưởng cũng có thân phận bí hiểm. Là người của Tây Xưởng sao? Y quỳ ở dưới mà nghĩ ngợi lung tung, Hoằng Trị tức giận quát: - Ngươi thật to gan lớn mật, dám xúi giục Thái tử xuất cung, ghé chốn trăng hoa, đánh nhau với người của hầu phủ. Điều này thôi thì bỏ qua cũng được, nhưng thân là thần tử, hạch tội người khác mà không dám quang minh chính đại bẩm thẳng cho quân thượng, lại âm thầm thi hành quỷ kế sai khiến đại thần, lợi dụng quân thượng, thực là đáng chém! Hoàng Thượng càng nói càng giận, vỗ mạnh một cái lên án thư. Dương Lăng bất giác lạnh cả người. Kẻ làm vua kỵ nhất là bầy tôi ép chủ thượng, hận nhất là dám bày mưu tính kế trước mặt vua. Tuy Hoằng Trị cũng hiểu mình thấy quyền thần xâm hại lợi ích của dân lành nên muốn giúp đỡ dân chúng, nhưng ông lại cho rằng mình xem thường Thái tử còn ít tuổi, sử dụng mưu kế để lợi dụng Thái tử, rõ ràng mình đã phạm vào điều kiêng kị của thiên tử. Có câu “bạn quân như bạn hổ“ (làm bạn với vua như làm bạn với hổ). Nếu như Hoằng Trị nổi giận, xử trảm một tên thị độc nho nhỏ như mình thì có đáng gì? Dương Lăng càng nghĩ càng sợ, chỉ biết quì rạp dưới đất, chẳng biết phải giải thích như thế nào. Chu Hậu Chiếu có ý muốn xin xỏ cho y, nhưng thấy phụ hoàng giận dữ hầm hầm, nhất thời cũng không dám tùy tiện mở miệng. Ngay lúc này, có giọng nói của Miêu Quỳ từ ngoài cửa vang lên: - Kim phu nhân! Hoàng Thượng đang kiểm tra việc học hành của Thái tử, phu nhân hay đến hậu cung đợi đã. Đến khi Hoàng Thượng hồi cung, nhất định sẽ gặp mặt bà. Sau đó lại nghe một giọng nữ cao ngạo vang lên: - Cút ngay! Ta muốn gặp Hoàng Thượng bây giờ. Hoàng Thượng, thần thiếp oan uổng quá! Hoàng Thượng, nhờ ngài làm chủ cho thần thiếp! Hoằng Trị cả giận quát: - Chuyện gì? Miêu Quỳ mở cửa điện, hết sức lo sợ tâu: - Hoàng Thượng! Kim phu nhân… Hắn còn chưa dứt lời đã bị đẩy ra, một quý phụ khoảng năm mươi tuổi xông vào. Vừa thấy Hoằng Trị, bà ta lập tức quì sụp xuống, khóc sướt mướt van vỉ: - Hoàng Thượng! Thần thiếp oan uổng quá! Hạc Linh luôn luôn an phận thủ thường, không dám làm xằng làm bậy, sao lại có thể cưỡng chiếm nhà dân, tùy tiện mua bán muối của triều đình, cưỡng bức con gái thanh lâu chứ? Đều là do Lý Đông Dương ghen ghét Hoàng Thượng sủng ái, tin tưởng Hạc Linh nên mới vu khống. Xin Hoàng Thượng làm chủ cho thần thiếp, hu hu... Đứa nhỏ đó từ bé tới lớn chưa bao giờ ở lao ngục cả, Hoàng Thượng... Hoằng Trị khẽ nhíu mày, giọng hòa nhã: - Kim phu nhân, mời đứng lên! Thọ Ninh Hầu thất lễ trên kim điện, trẫm chỉ trừng phạt hắn một chút. Lúc nãy trẫm đã nói với Hoàng hậu rồi, mấy ngày nữa sẽ tha hắn ra, chớ có kinh hoảng! Dương Lăng nhìn người đàn bà quì bên cạnh mình, nghĩ thầm: “Đây là mẹ vợ của đương kim hoàng thượng sao? Thật may, chỉ mong bị bà này chen ngang, Hoàng Thượng quên béng việc trừng trị ta mới là hay.” Kim phu nhân vẫn không thôi, tiếp tục khóc lóc: - Hoàng Thượng! Lý Đông Dương đuổi đánh Hạc Linh trên kim điện, Hạc Linh không nhịn được, mới đoạt chùy đánh người. Tính ra không thể trách được Hạc Linh, đứa trẻ đấy nào có lỗi gì? Hoàng Thượng muốn trừng trị, thì nên nghiêm trị Lý Đông Dương mới đúng, xin ngài tha cho Hạc Linh. Hoằng Trị tái xanh mặt mày, thân thể mập mạp bị kích động đến thở dốc. Chu Hậu Chiếu thấy vậy vội đỡ lấy cha, lo lắng can: - Phụ hoàng! Người thư dãn một chút, đừng kích động quá. Thấy Kim phu nhân vẫn khóc lóc không ngừng, lòng Hoằng Trị càng thêm phẫn nộ. Đưa mắt qua thấy Dương Lăng quì ở đó, trước cửa Cốc Đại Dụng cũng thò đầu vào, ông không khỏi căm giận chỉa tay vào Cốc Đại Dụng, mắng to: - Đồ khốn, lăn vào đây cho ta! Kim phu nhân đang lải nhải khóc lóc, bị tiếng quát lớn nghiêm nghị của ông làm kinh sợ tới mức sững sờ, nín bặt. Cốc Đại Dụng vội bò vào trong, quì trên mặt đất. Hoằng Trị mặt nặng như chì, lạnh lùng buộc tội: - Các ngươi thật to gan, dám xúi giục Thái tử xuất cung, để gia nhân của Thọ Ninh Hầu phủ đánh Thái tử bị thương, Trẫm đã có ý muốn lăng trì các ngươi. Nếu Thái tử có mệnh hệ gì, trẫm sẽ diệt chín họ các ngươi!. Cốc Đại Dụng dập đầu như giã gạo, luôn mồm van xin: - Hoàng Thượng tha mạng! Hoàng Thượng tha mạng! Thái tử xuất cung là để khảo sát dân tình, nào ngờ có tên gia nhân to gan như vậy... Lão nô đáng chết, lão nô vì bảo vệ Thái tử, liều chết xông lên cũng bị gia nhân của hầu phủ đánh mà, Hoàng Thượng! Hắn ngẩng mặt lên cho Hoàng Thượng thấy vết thương tím bầm trên mặt. Kim phu nhân vừa nghe nói Thái tử bị gia đinh trong phủ con trai mình đánh, cũng sợ tới mức không dám lên tiếng, đờ người quỳ rạp một bên, sững sờ nhìn. Thấy Kim phu nhân không còn ồn ào, Hoằng Trị thầm thở phào. Ông trừng mắt nhìn Cốc Đại Dụng bảo: - Hừ! Nếu không do các ngươi xúi Thái tử cải trang rời cung, sao lại xảy ra chuyện như vậy? Nếu trẫm không trừng phạt các ngươi, không biết chừng sau này các người còn gây ra lắm chuyện lớn gì khác. Miêu Quỳ, tổng cộng có mấy người xúi giục Thái tử xuất cung? Miêu Quỳ vội vàng bước lên một bước, khom người tâu: - Khải bẩm Hoàng Thượng! Có thị độc Dương Lăng, nội giám Lưu Cẩn, Trương Vĩnh, Cốc Đại Dụng, Mã Vĩnh Thành, Ngụy Bân, La Tường, Cao Phượng, Khâu Tụ, tất cả chín người hôm qua cùng Thái tử rời cung, đến tối mới về! Hoằng Trị quát: - Đem chín tên này ra Ngọ môn... Dương Lăng nghe thế giật mình, lại nghe Hoằng Trị nghỉ lấy hơi, phán tiếp: - Đánh mỗi người ba mươi gậy để cảnh cáo! Miêu Quỳ vội đáp: - Tuân chỉ! Hắn vẫy tay, vài tên tiểu thái giám đi vào lôi Dương Lăng, Cốc Đại Dụng ra ngoài. Cốc Đại Dụng gào khóc như mẹ chết: - Hoàng Thượng tha mạng! Hoàng Thượng tha mạng! Nô tài không dám nữa, xin Hoàng Thượng tha mạng! Thái tử cứu nô tài với! Dương Lăng hơi hoang mang. Đánh thì đánh chứ sao, cũng chỉ là ba mươi gậy chứ mấy? Cùng lắm là nghỉ ngơi hai ngày. Hoàng Thượng không chém đầu y, y đã thở phào rồi. Nhưng Cốc Đại Dụng từng làm trong Đông Xưởng nên biết rõ công phu dùng gậy của quan coi ngục Cẩm Y Vệ không giống như công phu dùng gậy của công sai ở nha môn. Đám người đó đều kinh qua huấn luyện nghiêm khắc, chỉ khi nào luyện đến độ đặt trên hòn đá một tờ giấy mỏng, đánh một gậy xuống mà gạch nát bấy nhưng giấy không rách mới có quyền thi hành án. Do đó họ thi hành hình phạt đều dựa xem ý của Hoàng Thượng. Nếu như Hoàng Thượng không muốn người ta chết, vài chục gậy sẽ đánh đến mức máu thịt tung tóe, xem ra thì thê thảm vô cùng, nhưng kỳ thật chỉ cần bôi chút kim sang, nghỉ ngơi vài ngày là không việc gì. Còn nếu Hoàng Thượng không muốn cho kẻ thụ hình được sống, lúc hạ trượng thoạt nhìn rất nhẹ, da cũng không trầy, nhưng đánh rồi thì đau tới tim phổi, chỉ ba mươi trượng mà những mạch máu dưới da đã đứt từng khúc, bắp thịt nát bấy khó lành, không lâu sau chắc chắn phải chết, tuyệt nhiên không thuốc nào cứu được. Cốc Đại Dụng không biết tâm ý Hoàng Thượng, hắn chỉ nhìn thấy mặt Hoằng Trị tái xanh, cho rằng lần này hẳn phải chết chắc nên khóc lóc van xin rất thảm thiết. Chu Hậu Chiếu hơi bứt rứt, y vẫn cho rằng việc xuất cung hay không là chỉ theo ý của mình, đám Dương Lăng, Cốc Đại Dụng chỉ nghe lệnh làm theo thôi. Bây giờ mình thì vô sự, bọn họ lại bị đánh tơi bời, trong lòng y cũng hơi day dứt. Y ấp úng: - Phụ hoàng, bọn họ... Hoằng Trị phất ống tay áo, cắt ngang: - Hoàng nhi là Thái tử của một nước, bọn chúng dám dắt hoàng nhi tự ý rời cung khiến cho hoàng nhi bị thương. Việc đại nghịch bất đạo như vậy mà không giết họ đã là thi ân rồi, hoàng nhi không cần nhiều lời! Kim phu nhân nghe xong trong lòng run sợ, cũng không dám nhắc đến yêu cầu lập tức phóng thích Trương Hạc Linh, nghiêm trị Lý Đông Dương nữa. Nếu việc tự tiện đưa Thái tử rời cung đã bị xem là đại nghịch bất đạo, vậy gia đinh trong phủ con trai mình đánh Thái tử thì sẽ là tội gì? Việc này chưa từng nghe gia nhân nói tới, bọn chúng đánh Thái tử khi nào vậy? Kim Phu nhân đang nghĩ ngợi miên man, Hoằng Trị lại nói: - Kim phu nhân, xin đứng lên! Đừng quì nữa, ý trẫm đã quyết. Người đâu, truyền chỉ: Lý Đông Dương không giữ trật tự ở kim điện, phạt ba tháng lương bổng để khiển trách, tha khỏi tù; Thọ Ninh Hầu xâm phạm lợi ích của dân, chứng cớ vô cùng xác thực, giam giữ ba ngày, phạt nửa năm bổng lộc, sau này phải ước thúc gia nhân, trả lại tài sản phạm pháp. Khâm thử! - Về chuyện Thái tử bị đánh... Ông trừng trừng nhìn Kim phu nhân. Lúc này khí thế kiêu ngạo của Kim phu nhân đã bị dập tắt hoàn toàn, không dám cậy vào việc con gái mình được sủng ái mà lảm nhảm nữa. Bà thấp thỏm không yên nhìn Hoàng Thượng, chỉ nghe Hoằng Trị nói chầm chậm: - Thọ Ninh Hầu trước đó cũng không biết chuyện, nếu không cũng sẽ không xẩy ra việc như vậy. Việc này cũng bỏ qua đi. Những việc xấu hổ của hoàng gia cũng không nên nói ra ngoài... Kim phu nhân vội dạ dạ vâng vâng: - Dạ, đúng! Hoàng Thượng thánh minh, Hoàng Thượng khai ân! Hoằng Trị hừ khẽ, bảo: - Nếu không có chuyện gì khác, Kim phu nhân có thể đến hậu cung gặp Hoàng hậu an ủi Hoàng hậu một chút. Trẫm phải kiểm tra việc học hành của Thái tử. Kim phu nhân vội đáp: - Dạ! Thần thiếp xin cáo lui, thần thiếp không quấy rầy Hoàng Thượng nữa. Vị phu nhân này vội vàng lau những vệt nước mắt trên mặt, rầu rĩ lui ra ngoài. Bà thấy Hoằng Trị vốn tính tình luôn rất tốt mà lúc này lại nổi cơn lôi đình, trong lòng cũng hơi sợ hãi. Vốn định lập tức rời cung, nhưng bà lại sợ Hoàng hậu vẫn tiếp tục mè nheo khiến cho Hoàng Thượng tức giận nên vội vàng đi về phía hậu cung. Chu Hậu Chiếu thấy mọi người đã lui ra, không kìm được kéo cánh tay Hoằng Trị, khẩn cầu: - Phụ hoàng! Việc xuất cung hôm qua là chủ ý của nhi thần. Dương Lăng và Đại Dụng đều chỉ là người của hài nhi, phụ hoàng đánh tàn phế bọn họ, sau này ai còn dám theo hài nhi nữa? Hoằng Trị nghe vậy cười hà hà, từ từ ngồi xuống, trừng mắt nhìn con trai hỏi: - Cũng biết bảo vệ người rồi à? Hừ! Trẫm còn không biết con quậy phá cỡ nào sao? Nếu không có đám người này xúi giục, trẫm chắc con cũng không nghĩ ra được nhiều trò quậy phá như vậy. Đám Cốc Đại Dụng, Lưu Cẩn chỉ biết lấy lòng con, chỉ biết bày vài trò nhí nhố để chơi đùa, dạy dỗ bọn chúng một chút cũng đáng. Chu Hậu Chiếu thấy giọng nói của phụ hoàng bình thản, biết mới rồi ông chỉ diễn kịch cho Kim phu nhân xem, nên không khỏi cười hì hì yên tâm. Y cũng ngồi xuống bên cạnh, bóp vai cho vua cha, hỏi: - Vậy... Dương thị độc thì sao? Hắn ta là một thư sinh chân yếu tay mềm, cái mông trắng nõn không chịu được đòn đâu. Phụ hoàng đánh hắn tàn phế thì phải làm sao bây giờ? Công chúa Vĩnh Phúc đứng sau bình phong nghe thấy hoàng huynh nói cái gì mà cái mông trắng nõn, không khỏi mặt ngọc đỏ bừng, nhè nhẹ thở “phì” một tiếng. Công chúa Vĩnh Thuần ít tuổi không biết gì nên không khỏi nhìn nàng kỳ dị. Công chúa Vĩnh Phúc thấy hoàng muội nhìn mình, không khỏi vừa thẹn vừa giận, bực tức trừng mắt nhìn lại hoàng muội. Công chúa Vĩnh Thuần lè lưỡi, không biết tại sao tỷ tỷ lại có dáng vẻ là lạ, hoàn toàn khác với mọi khi. Dương Lăng nói đủ những chuyện trên trời dưới đất, quả có lực hấp dẫn Chu Hậu Chiếu không thua gì mớ ảo thuật, xiếc thú của bọn Lưu Cẩn. Đó là thế giới mà y chưa từng tiếp xúc, cho dù nằm mơ y cũng không nghĩ tới ngoại trừ Đại Minh, trên đời còn có nhiều nơi đẹp đẽ đến thế. Mặc dù quen biết không lâu, nhưng y cũng rất có cảm tình với Dương Lăng, không muốn Dương Lăng bị thương, bởi vậy nhân cơ hội này cũng cầu xin cho Dương Lăng. Hoằng Trị giảng giải: - Dương Lăng hả... Người này cũng là một nhân tài giỏi cả văn lẫn võ. Con đừng xem thường hắn chỉ là một thư sinh. Người thật sự có tài làm đại tướng, không cần phải đích thần cầm đao ra chiến trường. Những kiến giải về việc binh của hắn, đến cả lão tướng như Lưu Đại Hạ cũng rất tán thưởng. Ông cười lớn: - Người này chỉ là thị độc nho nhỏ lại dám đối nghịch với vương hầu, thật ra là một bề tôi trung thành. Hơn nữa, hắn biết mình thấp cổ bé họng, biết dựa vào Lý Đông Dương và Đông Cung Thái Tử ngươi để tấu lên trên, nên hắn không phải chỉ là một tên nhóc lỗ mãng. Trẫm rất thích hắn. Hiện giờ thượng thư sáu bộ trong triều đều đã già rồi, các vị đại học sĩ lại càng cao tuổi hơn. Phụ hoàng cảm thấy nếu người này được rèn luyện tốt, trong tương lai tất sẽ là cánh tay đắc lực của con. Thấy Thái tử còn có vẻ không hiểu, Hoằng Trị không khỏi bất đắc dĩ cười nói: - Con lấy làm lạ là tại sao trẫm muốn trừng trị hắn ư? Ha ha, người này còn ít tuổi lỗ mãng, còn quá trẻ nên quậy phá, làm việc bất kể hậu quả, nếu không trải qua một phen rèn luyện, tuổi trẻ tự đắc, khó tránh khỏi việc không coi ai ra gì. Lúc đó thay vì là một cột trụ của triều đình, hắn lại trở thành một quyền thần ngang ngược kiêu ngạo, con hiểu chưa? Chu Hậu Chiếu “A” một tiếng, nửa hiểu nửa không nói: - Thì ra... Phụ hoàng muốn rèn giũa hắn, cũng như... cũng như nhi thần sai người luyện ưng vậy, càng muốn dùng hắn, càng phải giày vò hắn. Ha ha ha, chỉ là... việc rèn luyện này lại trước tiên bắt đầu từ mông, nên nhi thần có chút ngạc nhiên. Hoằng Trị nghe ví dụ của Thái tử rất lấy làm hài lòng, đến khi nghe câu sau của y lại không khỏi bật cười. Đứa con trai này vẫn còn chưa biết việc. Do bản thân mình gây tiếng động khiến cho Dương Lăng đành phải ra ngoài chịu tội, trong lòng công chúa Vĩnh Phúc cũng rất áy náy. Nghe xong những lời giải thích của phụ hoàng, nàng mới thở phào một hơi. Công chúa Vĩnh Thuần giơ ngón cái với tỷ tỷ, nháy mắt. Hai chị em nhìn nhau mỉm cười.

Chương 72: Phạt gậy mười kẻ gianDịch: workman Biên dịch: Kiếp Nô Biên tập: Shandian Hiệu đính: Nguồn: www.tangthuvien.com Dương Lăng buông tay, ngồi phịch xuống ghế, ngây người hồi lâu, rồi y đột nhiên nhảy dựng lên hét lớn: - Ta không tin, ta không tin! Không được, ta còn chưa chết, sao Ấu Nương có thể chết được? ------------------------ Chương bảy mươi hai Thập Gian Đình Trượng (Phạt gậy mười kẻ gian) ------------------------ Dương Lăng thường nghe trong tuồng hát có câu "lôi ra ngọ môn chém đầu", vừa rồi nghe xong câu nói hổn hển của Hoằng Trị thì sợ đến giật thót. Kỳ thật ngọ môn là cửa chính ở ngoài hoàng cung, cũng là nơi triều đình cử hành những lễ lớn trọng yếu. Triều đình mà xử trảm phạm nhân thì không chấp hình ngoài ngọ môn. Nhưng cũng không có nghĩa là nơi đó không thể giết người được. Vì đó cũng là nơi triều đình sử phạt đình trượng (*), dưới đình trượng trước đây và tương lai chẳng biết sẽ còn bao nhiêu người phải chết nữa. Hơn nữa những người đó đều bị đánh chết tươi, so với chém người giữa chợ thì còn thê thảm hơn nhiều. (*): đình trượng là hình thức phạt đòn đối với quan lại trong triều. Dương Lăng và Cốc Đại Dụng bị thái giám giao cho thị vệ trong cung trói lại đem ra ngoài ngọ môn. Ngoài ngọ môn sớm đã có một đám người đang đứng, viên thái giám nội quan giám hình (chấp pháp hình phạt) ngồi ngay ngắn trên ghế thủ vị. Phía sau hắn bên trái có ba mươi tiểu hoạn quan, bên phải có ba mươi Cẩm Y Vệ, phía trước là năm mươi tên ngục quan hành hình tay cầm gậy gỗ sơn son, nhìn tư thế cũng đủ cho người ta hoảng sợ, đến lúc này cả Dương Lăng cũng kinh hãi vạn phần. Trông hình dạng viên quan thái giám giám hình ngồi xa xa, Cốc Đại Dụng không khỏi mặt mày tái nhợt, hắn nức nở nói: - Không ổn rồi, là Ty Lễ Giám Phạm Đình Phạm công công giám hình, Dương đại nhân, chúng ta hôm nay e rằng khó mà toàn mạng. Dương Lăng hỏi: - Phạm Đình? Lão lợi hại lắm à? Cốc Đại Dụng run run nói: - Phạm công công là Ty Lễ Giám, thủ hạ đắc lực của Vương Nhạc Vương công công, nắm giữ Đông Xưởng. Lão trước nay là kẻ lòng dạ ác độc bậc nhất, chúng ta lần này toi rồi, ngươi hãy chờ xem, quy củ trong cung, phàm mũi giầy của công công giám hình thu lại vào phía trong thì dụng ý là đánh cho đến chết, ba mươi côn đủ để phạm nhân mất mạng rồi. Dương Lăng mới nghe thì nhíu mày, vừa nghe đến xưởng công Đông Xưởng đốc hình, trong lòng đột nhiên có thêm vài phần hy vọng. Bản thân mình là người của Đông Xưởng và Cẩm Y Vệ phái đến bên cạnh Thái tử, chỉ mong vị quý nhân xưởng công này không quên việc đó, còn nhớ mình là ai, vậy lúc đánh có lẽ sẽ hạ thủ lưu tình. Hai người bị áp giải tới trước mặt Phạm Đình, chỉ thấy trên đất sớm đã có một người đang quì dài trên đất, trên người bị vải bố quấn rất chặt, chỉ lộ ra cái đầu và bả vai, muốn động cũng không động được. Nhìn thấy hai người vừa tới, người nọ cười khổ nói: - Dương đại nhân, Cốc công công, các ngươi cũng tới rồi à? Cốc Đại Dụng nhìn thấy hắn, không khỏi vừa sợ vừa giận, cất giọng the thé hỏi: - Tiền Ninh, là ngươi tố giác với Hoàng Thượng à? Tiền Ninh cả người nằm thẳng đơ như xác ướp, hắn cố gắng rướn cổ lườm Cốc Đại Dụng, bất đắc dĩ cười gượng đáp: - Nếu là ta tố giác, ta còn nằm ở đây à? Hắn khổ sở rên rỉ nói: - Ở ngoài Thọ Ninh Hầu phủ, thủ hạ ta vô ý để rơi một tấm yêu bài (*), kết quả bị Tam Pháp Ti tra ra nguồn gốc, bắt ta tới đây. (*) thẻ bài giắt ngang lưng) Tên tiểu thái giám đứng bên cạnh cao giọng hét: - Im lặng, phạm nhân không được huyên náo! Chỉ trong khoảnh khắc, bọn Lưu Cẩn, Mã Vĩnh Thành cũng mặt xám mày tro bị áp ra ngoài ngọ môn. Phạm Đình từ từ đứng dậy, tên tiểu thái giám đứng cạnh vội đưa lên một cái khay sơn son trên đặt tấm lụa vàng, Phạm Đình từ trong khay lấy ra một chiếu thư, cao giọng tuyên đọc ý chỉ của hoàng đế: - Phụng thiên thừa vận hoàng đế chiếu viết: Dương Lăng... Lão đọc tới tên này thì ngừng lại một chút, mắt lướt nhanh tới Dương Lăng, thấy y cũng đang nhìn mình vẻ mong chờ tha thiết, khóe miệng lão không nhịn được liền nhếch lên một nụ cười không dễ bị phát hiện. Phạm Đình tiếp tục đọc, nhất nhất đọc đủ tên mười người, tuyên đọc xong thánh chỉ, lão lại phất tay, đám người Dương Lăng đồng loạt bị đè nằm sấp xuống đất, mỗi người đều bị một tấm vải bố quấn chặt thân thể không thể động đậy, hai chân cũng bị người ta dùng dây thừng trói chặt. Dương Lăng thấy mình chỉ bị kéo vạt áo khoác, chứ không lột trần mông, cũng hơi yên lòng. Tiền Ninh nằm bên cạnh y, nói nhỏ: - Yên tâm, hiệu úy chấp pháp đều là thủ hạ của ta, họ sẽ không đánh thật đâu. Chỉ là cú cuối cùng sẽ không làm giả được, đến lúc đó ráng nhịn đừng có chửi bới là được rồi. Dương Lăng hồi hộp nói: - Đa tạ Tiền huynh chỉ điểm, nãy giờ ta thật sự cũng hơi lo lắng. Y nằm dài ở đó cố ngẩng đầu nhìn Phạm Đình, muốn xem mũi chân hắn đang ở thế ngoại bát tự (chĩa ra ngoài) hay nội bát tự (chĩa vào trong)(chữ bát: 八). Không ngờ từ những kẽ chân của mấy tên đại hán hành hình, chỉ thấy Phạm Đình giơ chén trà ngửa mặt nhìn trời, đôi chân bắt chéo rung rung rất thoải mái, không khỏi ngẩn người ra. Y đảo mắt nhìn mấy người Cốc Đại Dụng, chỉ thấy mấy người này cũng mở mắt to mắt nhỏ. Đám người này đều biết quy củ đánh người của nội giám trong cung, do đó hôm nay lại thấy Phạm Đình chẳng theo sách vở gì cả, ai nấy đều không hiểu ra làm sao. Chỉ thấy một tên tiểu thái giám tới bên người Phạm Đình, cúi xuống lắng nghe lão dặn dò vài câu, rồi đứng lên cao giọng quát: - Hành hình! Mười tên tiểu kỳ quan Cẩm Y vệ tay cầm gậy gỗ đi đến sau đám người Dương Lăng, giơ gậy gỗ lên cao, hét lớn một tiếng, quất xuống vù vù. Tiếng gió từ cây gậy lạnh thấu xương, nhìn lên thấy uy thế cũng đủ kinh hãi, nhưng khi gậy quất vào mông, Dương Lăng chỉ cảm thấy hơi nhồn nhột, chứ không thấy cảm giác đau đớn bao nhiêu. Y đang kỳ quái, bên cạnh bỗng nghe tiếng gào như núi lở đá nhào, thật sự khiến cho người người rơi lệ, kẻ kẻ thương tâm. Dương Lăng giật bắn cả người, quay đầu lại nhìn Tiền Ninh, thấy hắn méo cả miệng, mặt nhăn nhó, tiếng gào thảm còn hơn cả tiếng giết heo, nhưng đôi mắt thì dường như đang trộm nhìn y nháy mắt, ánh mắt giảo hoạt vô cùng. Dương Lăng giật mình, vội vàng cũng lớn tiếng kêu gào thảm thiết theo. Mười tên tiểu kỳ, mỗi người đánh xong ba gậy liền lui xuống. Tên tiểu thái giám ra lệnh kia lại quát lên rất uy phong: - Luân hình! Năm mươi tên lính nghe vậy, năm người một tổ cầm bổng thành hàng, luân phiên tiến lên chấp hành hình phạt. Họ hô theo nhịp, kêu một tiếng: “Đánh hết sức”, rồi một gậy nện xuống, người tiếp theo lại hô: “Chú tâm đánh”, rồi gậy tiếp theo đánh xuống. Tuy Dương Lăng thấy tên lính đó tựa hồ hạ thủ lưu tình, nhưng ngoại trừ tên tiểu kỳ lúc đầu đánh ba gậy mở màn thật là nhẹ, bây giờ mấy gậy này cũng hơi đau đớn, do đó y cất kêu gào thảm thiết nửa thật nửa giả, cũng không phải là hoàn toàn giả mạo. Bên cạnh y chợt nghe đám Cốc Đại Dụng gào lên thật thê thảm, còn cho rằng những người này quả có công phu giả vờ, nhưng khi quay đầu lại nhìn, thấy bên trái mình La Tường đầu như dập xuống đất, một gậy đánh xuống là rú thảm một tiếng, bị vải quấn chặt nên thân thể không ngừng vặn vẹo co quắp, cong lên ưỡn xuống như một con giòi, đau đến mức nước mắt giàn giụa, không thể không khiếp đảm kinh ngạc: “Bọn họ có vẻ không được đối đãi như mình, xem ra là bị đánh thật”. Y ngẩng đầu nhìn Phạm Đình, chỉ thấy Phạm công công đang nâng chén nhấm nháp, vẻ thản nhiên tự đắc, cặp chân bắt chéo rung rung, chẳng thèm để ý tới mình. Dương Lăng thầm kêu may mắn. Xem ra Phạm Đình cũng nhớ mình là ai, nếu không phải lão hạ lệnh, mình mà chịu đủ ba mươi trượng, e rằng thật sự không chết cũng tàn phế. Ba mươi trượng đánh xong, đám lính chống gậy gỗ, gỡ bốn góc của tấm vải bố đang trói trên người họ ra, giật xoạt một cái. Dương Lăng thấy Tiền Ninh hai mắt trợn tròn, mũi nín thở, lập tức không dám chậm trễ, cũng hít sâu vào một hơi, chỉ thấy bốn gã lính đồng loạt phát lực, quát to một tiếng, nâng cao người lên “Bịch” một tiếng thân thể đã sóng soài ra đất. Trước mắt Dương Lăng chợt tối sầm, cơ hồ không thở được nữa. Y cố nén đau, nằm dài trên mặt đất hồi lâu thở hổn hển. Cả buổi sau y mới hồi tỉnh lại, chỉ nghe thấy hai bên vang đầy những tiếng rên rỉ, nhìn trộm qua, thấy đám Cao Phượng, La Tường ai nấy sắc mặt trắng bệch, chiếc quần trong trắng tinh thấm máu đỏ lòm, người đã ngất đi rồi. Phạm Đình chầm chậm đứng lên, phất tay áo nói: - Chấp hình xong, chúng ta phải trở lại cung báo cáo rồi, đi thôi! Phạm Đình dẫn đám Cẩm Y vệ chấp hình ly khai, chỉ còn lại đám người Dương Lăng nằm ngoài ngọ môn không thể động đậy. Cả buổi sau, mới có mấy tên tiểu thái giám của Đông Cung bước ra đỡ đám người Lưu Cẩn dậy. Tiền Ninh nãy giờ vẫn nằm dài trên đất liền thừa cơ xoay người ngồi lên. Bọn người Cốc Đại Dụng bị đánh cho bủn rủn tay chân, sớm không còn sức đâu mà chào hỏi họ nữa, được vài tiểu thái giám dìu trở về cung. Tiền Ninh lấy từ trong lòng ra hai bình nhỏ, đưa cho Dương Lăng một bình, nói: - Uống hết cái này, đây là thuốc chữa thương tốt nhất, cam đoan sẽ không để lại di chứng. Dương Lăng khó khăn ngồi xuống, tên thủ hạ Cẩm Y Vệ mặc dù cũng lưu tình, nhưng ba mươi gậy đánh xuống, đương nhiên là phải đau rát vô cùng, phỏng chừng mông đã sưng vù lên, hơn nữa còn rách tóet ra. Thủ hạ của Tiền Ninh chạy tới nâng hắn và Dương Lăng dậy, dìu đi một đoạn cho khí huyết lưu thông. Đi tới khi hai người cảm thấy tê đi không biết đau nữa, lúc này mới đỡ hai người lên xe ngựa. Trước khi Tiền Ninh chịu phạt sớm đã có chuẩn bị, trên xe trải tấm nệm dày, còn có cả thầy lang của Cẩm Y vệ ở trong xe, lập tức lột quần hai người xuống bôi thuốc. Hai người cứ thế để mông trần nằm cạnh nhau, Tiền Ninh nói: - Dương đại nhân, ta trước hết đưa ngươi về nhà, sau đó trở về dưỡng thương. Ối, bôi nhẹ một chút đi, mông ta đau quá. Tiền Ninh phân phó tên lang trung một tiếng, lại hỏi: - Dương đại nhân, thủ hạ của ta đánh mất yêu bài, bị người ta dò ra là Cẩm Y Vệ. Mẹ kiếp, Thọ Ninh Hầu quả nhiên ghê gớm. Ta đường đường là thiên hộ chưởng hình của Cẩm Y vệ đánh một tên gia đinh nho nhỏ của nhà hắn, không ngờ lại động đến thánh chỉ, bị phạt đình trượng. Nhưng việc Thái tử xuất cung thì ta chẳng nói ra lấy một chữ, các ngươi sao cũng bị giải tới đây thụ hình thế? Dương Lăng biết Hoằng Trị nhất định có một ban nhân mã khác phụ trách việc nghe ngóng tất cả động tĩnh trong ngoài cung, mười phần thì hết tám chín là mật thám Tây Xưởng trong truyền thuyết đã bí mật được thành lập. Y không dám tùy ý nói toạc ra, chỉ bảo: - Chúng ta hồi cung bị người ta thấy được, bẩm báo lại Hoàng Thượng, cho nên mới bắt chúng ta tới đây chịu đòn, chỉ là... liên luỵ tới Tiền đại nhân, tại hạ thật sự áy náy. Tiền Ninh ra vẻ hào khí nói: - Huynh đệ của mình, vốn phải là có rượu cùng uống, bị đánh cùng chịu. Một chút đau đớn da thịt đã là gì? Vì thái tử gia, có chịu chút đau khổ nữa cũng đáng giá mà. Hắn ghé tai gần Dương Lăng, thấp giọng cười nói: - Nghe nói buổi triều hôm nay, Lý đại học sĩ và Trương Hạc Linh đã đánh nhau trên điện Kim Loan. Hoàng Thượng trong cơn giận dữ đã hạ ngục cả lũ, ha ha, có thể làm hắn ngồi tù, trong lòng ta cũng vô cùng khoan khoái, con mẹ nó, nợ nần phải tính cho đủ, quân tử báo thù mười năm không muộn, chúng ta cứ chờ xem, ha ha ha... ối chà! Hắn cười làm động vết thương, nụ cười không kìm được thành ra méo xệch, thực là khó coi không thể tả. Xe tới trước cửa Dương gia tại phố Hộ Quốc Tự, Dương Lăng ngại thương thế mình bị Ấu Nương trông thấy mà lo lắng, do đó cự tuyệt hảo ý của Tiền Ninh phái người hộ tống, một mình xuống xe, cố chịu đau đi vào trong viện. Lúc này trời chiều ngả về tây, ánh mặt trời lúc chiều tà rọi vào trong viện, đập vào mắt một mảng vàng óng. Dương Lăng phỏng chừng Ấu Nương đang ở trong nhà làm cơm, do đó khi y đi đến cửa, liền vươn thẳng người, nhìn xem không có gì sơ hở, lúc này mới yên tâm đẩy cửa đi vào. Trên bếp ngọn lửa đã dịu đi, trên đó có một ấm đất màu đen đang sôi ầm ầm, một mùi thuốc bắc nồng nặc đập vào mũi, nhưng lại không thấy bóng dáng Ấu Nương đâu. Dương Lăng thấy thế không khỏi cả kinh, y thất thanh gọi: - Ấu Nương, Ấu Nương? Gọi vài tiếng mà không thấy ai trả lời, Dương Lăng vội vàng nhịn đau nhào vào phòng. Trong phòng ánh sáng mù mờ, chỉ thấy Ấu Nương đang cuộn tròn trên giường, đắp chăn không nhúc nhích. Dương Lăng hấp tấp lao tới, nắm lấy bờ vai gầy yếu của nàng gọi: - Ấu Nương, Ấu Nương? Y sờ trán Ấu Nương, thấy nóng bỏng cả tay, thân thể Hàn Ấu Nương run lên nhè nhẹ, nàng nghe thấy tiếng tướng công gọi, cố gắng mở to mắt muốn nói chuyện, nhưng răng chỉ va vào nhau lập cập, đến một chữ cũng nói không nên lời. Dương Lăng cõi lòng đau thắt, y hoảng sợ ôm lấy Ấu Nương, trong lòng vừa đau vừa hối hận. Đã nhiều ngày nay y cũng thấy Ấu Nương ăn không ngon, thần sắc rất tệ, nhưng y lại cho rằng Ấu Nương là người luyện võ, thân thể luôn luôn cường tráng, hẳn là cảm mạo bình thường, do đó không quá để ý. Lúc này thấy nàng bộ dáng tiều tụy, trái tim Dương Lăng như bị cào xé, hoảng hốt nóng ruột vô cùng. Ấu Nương hơi giãy dụa trong lòng y, rên rỉ nói: - Lạnh quá, tướng... công, Ấu Nương lạnh quá, ta... Thiếp khát nước quá... Thiếp muốn uống nước... Dương Lăng vội hỏi: - Ta đi, ta đi, đợi nhé, ta đi lấy nước cho nàng. Y vội vội vàng vàng chạy ra gian ngoài, lục lọi cả buổi mới tìm ra cái chén, lại ngó nghiêng một lát không thấy nước để ở đâu. Trước giờ y không cần quan tâm đến việc nhà, lúc y khát, nước trà ấm lập tức được đưa đến trước mặt, lúc y đói, thức ăn nóng bốc khói nghi ngút lập tức dọn lên bàn cho y, tất cả đều vô cùng tự nhiên. Bây giờ phải chiếu cố cho Ấu Nương, y lại không tìm thấy cái gì, nhớ tới Ấu Nương chăm sóc y tận tình, trong lòng y càng thêm khó chịu. Ấu Nương bệnh nặng thế, chẳng lẽ cho nàng uống nước lạnh ư? Dương Lăng múc một gáo nước, lại đổ vào thùng, y chạy đến trước bếp nhấc ấm sắc thuốc qua một bên, tay cầm nóng bỏng làm y phải buông tay vứt ấm đi. Dương Lăng vội vàng hứng nửa nồi nước, để lên bếp, cho vào lò bảy tám thanh củi, thấy lửa cháy bùng lên, y mới yên tâm chạy về phòng, châm đèn lên, đem tới trước mặt Ấu Nương, sau đó ôm Ấu Nương ôm vào ngực, nhẹ giọng nói: - Ấu Nương, ta đang nấu nước, trong chốc lát là xong, đợi một lát là có ngay. Ngọn đèn trước mắt rập rờn. Ấu Nương khẽ nhắm mắt, nàng liếm liếm đôi môi nứt nẻ, mở mắt thất thần, ho khan một trận, mỉm cười e thẹn, nói: - Tướng công, chàng về rồi, Ấu Nương quả là vô dụng, thiếp... đi... gặp thầy lang rồi. Ông ấy nói ta nhiễm lạnh, đem thuốc về rồi nhưng khi đang sắc thì không... không chịu được nữa. Dương Lăng thấy nàng vừa nói tới đây, thân thể nàng lại không chịu được phải rùng mình, sắc mặt ửng đỏ, dưới ánh sáng ngọn đèn, thấy cổ nàng nổi lên những chấm đỏ lấm tấm, bộ dáng căn bản không giống cảm mạo, không khỏi kinh hoảng nói: - Cái gì mà nhiễm lạnh. Tên lang trung chó má. Ta dẫn nàng đi gặp đại phu, tìm đại phu tốt nhất. Y không nói gì thêm, bất chấp Ấu Nương giãy dụa yếu ớt, ôm lấy thân thể nàng lên rồi phóng ra ngoài. Cụ già gần nhà y đang chuẩn bị dọn hàng, kinh ngạc nhìn vị hàng xóm Dương đại nhân vọt tới trước mặt mình, hỏi vẻ vô cùng hoảng loạn: - Cụ ông, xung quanh nơi này có y sĩ không? Không, không, không phải mà là có thầy lang, có đại phu không? Ta muốn tìm đại phu tốt nhất! Cụ già lắm mồm này nghe y gọi mình là cụ ông, không khỏi được khen mà thấy sợ, nói: - Đại nhân, thầy lang tốt nhất phố là Lưu tiên sinh ở Dã Cúc Trai, là Kim Châm Lưu nổi tiếng kinh thành. Nhưng phí chẩn trị của hắn cũng hơi …… Nhìn thấy Dương Lăng mắt như muốn phun lửa, ông lão vội sửa lời nói - - Đi hết phố, đến nhà thứ ba cuối đường là nó đó. Đại nhân... trong nhà lão có một chiếc xe đẩy, đại nhân muốn dùng nó đưa phu nhân đi không, đường đi cũng không gần lắm đâu. Dương Lăng gật đầu lia lịa, cụ già vội vàng chạy về nhà lấy chiếc xe đẩy hai bánh đem ra, Dương Lăng thấy chiếc xe đẩy xưa nay chỉ dùng để đẩy hàng, hơi dơ bẩn, vội về nhà lấy đệm chăn trải lên, xong mới đặt Ấu Nương lên trên, đắp cho nàng một tấm chăn. Sau một hồi lăng xăng, nhịp hô hấp của Ấu Nương càng thêm dồn dập, hai mắt đã nhắm chặt, cả người bất tỉnh rồi. Dương Lăng lòng như lửa đốt, kéo chiếc xe đẩy chạy một mạch về phía Dã Cúc Trai. Chỉ là bây giờ bản thân y cũng đi đứng khó khăn, cất bước lảo đảo, nhưng lại liều mạng dùng sức chạy thật nhanh, nhìn bóng hình thê lương dưới ánh trời chiều ấy khiến cho người ta thương xót không nói nên lời. [CENTER]*** - Phu nhân tuổi còn trẻ, lại luôn luôn tập luyện, vì vậy chống chọi đến giờ mới phát bệnh. Nói ra thì việc này cũng chẳng phải là một chuyện tốt, hàn tà trong cơ thể ứ đọng quá lâu, một khi phát tác, như nhà nghiêng sắp đổ ấy, lại muốn chữa trị, ài.... Kim Châm Lưu tay vuốt chòm râu khe khẽ lắc lắc đầu. Vị Dương đại nhân này vừa rồi thế như hổ dữ, lôi xe đến xô cửa xông thẳng vào nhà lão, lại móc ra thẻ bài Cẩm Y Vệ cưỡng ép lão tống cổ tên phú ông đang yêu cầu chữa trị việc không có con của hắn và ả tiểu thiếp thứ mười hai, rồi kéo tay lão vội tới xem bệnh cho nương tử mình. Thấy người vừa đến là người của Cẩm Y vệ, Lưu đại phu ban đầu còn hơi sờ sợ, nhưng sau khi xem bệnh và nói về bệnh lý, bệnh nghề nghiệp phát tác, lão bắt đầu rung đùi đắc ý. Dương Lăng suốt ruột tới mức mồ hôi trên trán nhỏ xuống ròng ròng, y nuốt khan, lo lắng nhìn Ấu Nương đang hôn mê bất tỉnh, khẩn cầu nói: - Tiên sinh! Cầu ngài xem lại biện pháp, nương tử ta phải trị liệu sao mới khỏi được? Tiên sinh yên tâm, bất luận thuốc quí ra sao, mất bao nhiêu bạc, ta đều có thể tìm được, tiên sinh không cần phải lo. Kim Châm Lưu cau đôi lông mày trắng nói: - Phu nhân bị bệnh thời gian đã lâu, dương khí bảo vệ nhân thể đã hư tổn, rất dễ mắc phải hàn tà, bệnh phân chia thành ngoại hàn và nội hàn. Ta thấy tuy thân thể phu nhân cường tráng... Nhưng e rằng từng trải qua quá trình nghèo khổ lâu dài, ngoại hàn xâm nhập vào thân thể dai dẳng không tan, bây giờ nội hàn phát sinh, hàn tà là âm tà, âm thắng sẽ kết hàn. Cho nên khí huyết đông cứng, cản trở làm cho kinh lạc tắc nghẽn, không lưu thông được... Dương Lăng nghe đến đó, nhớ tới ngày đó mình ở Dương Gia Bình, mùa đông khắc nghiệt, Ấu Nương mỗi khi đêm đến chỉ khoác chiếc áo mỏng, ngày ngày chịu lạnh chịu buốt, chẳng lẽ bệnh của nàng đã phát sinh từ lúc đó? Dương Lăng nghĩ đến những ngày tháng Ấu Nương chịu khổ sở, không khỏi lòng đau như cắt, lệ rơi lã chã, lúc này y thấy Kim Châm Lưu nói ra nguyên nhân phát bệnh, trong lòng hiện lên một chút hy vọng, vội vàng truy vấn: - Tiên sinh, vậy xin hỏi phải làm sao mới trị liệu được? Kim Châm Lưu cau mày trầm ngâm nói: - Hàn khí ở lâu trong cơ thể phu nhân, gây cản trở kinh lạc, khí huyết không lưu thông, vốn thân thể từ từ cũng quen dần. Nhưng gần đây phu nhân lại ở một nơi nóng bức, khí dương oi ả quá nhiều, làm cho âm dương xung khắc, đem khí hàn tà nhanh chóng đẩy vào tỳ thận, dẫn đến tỳ không thể vận chuyển, tiêu hóa chất dinh dưỡng tạo ra sức sống và máu huyết cho cơ thể. Thận không nạp được khí làm thông suốt niệu đạo để sinh ra tủy và hơi ấm nuôi dưỡng toàn thân. Dịch thể buộc phải hòa cùng máu huyết... - ... Dương Lăng nghe hắn còn kể lể về âm dương ngũ hành, không thể không rùng mình, y đứng bật dật, chụp lấy áo của Kim Châm Lưu, mặt mày dữ tợn, rốt cuộc không còn chút lịch sự nào nữa, lớn tiếng gào to: - Đừng có giảng bệnh lý với ta, ta chỉ hỏi ngươi, phải làm sao mới trị liệu được? Phải dùng thuốc như thế nào?! Kim Châm Lưu cũng không tức giận, lão nhìn Dương Lăng vẻ thông cảm, khẽ lắc đầu nói: - Bệnh đã lan khắp nơi, khó có thể chữa trị. Dương Lăng buông tay, ngồi phịch xuống ghế, ngây người hồi lâu, rồi y đột nhiên nhảy dựng lên hét lớn: - Ta không tin, ta không tin! Không được, ta còn chưa chết, sao Ấu Nương có thể chết được? Y ôm lấy Hàn Ấu Nương hôn mê bất tỉnh, rơi lệ nói: - Thành Bắc Kinh to như vậy, ta không tin không tìm thấy một người có thể trị liệu cho Ấu Nương! Y vô cùng cẩn thận đặt Ấu Nương lên xe rồi đẩy đi. Vì nãy giờ y chạy một mạch nên làm rách miệng vết thương, vết máu thấm ra ngoài áo sau của y. Dương Lăng vừa đẩy xe vừa thầm nói: - Ông trời có mắt, quyết không cho Ấu Nương chết được, quyết không chết được! Kim Châm Lưu khẽ lắc đầu, tuy biết người trước mắt là người của Cẩm Y vệ, không thể đắc tội với y được, nhưng ảnh hưởng tới tôn nghiêm của danh y, nên đợi y ra khỏi cửa, lão len lén mắng theo: - Trong thành Bắc Kinh, y thuật Lưu mỗ ta không dám xưng đệ nhất, nhưng bệnh mà ta trị không được... e rằng cũng không ai khác trị được. Nếu ngươi tin ta, còn có thể dùng vài thứ thuốc hồi sức, để nàng tạm thời tỉnh lại mà trăn trối, còn bây giờ... Hà hà!

Chương 73: Tìm Thầy Khắp Kinh Sư

Dịch: workman Biên dịch: Kiếp Nô Biên tập: Ba_Van Hiệu đính: Nguồn: www.tangthuvien.com Dương Lăng khẽ gật đầu, từ từ ôm Ấu Nương đứng lên, nói với Điền thần y: - Xin thần y cho ta mượn xe ngựa! Ta phải đi khắp kinh thành tìm danh y, chỉ cần Ấu Nương còn một hơi thở, ta vẫn sẽ còn đi tìm danh y, tìm một phương thuốc cứu sống nàng! ------------------------ Chương bảy mươi ba: Tìm Thầy Khắp Kinh Sư ------------------------ Dương Lăng đẩy Ấu Nương đi trên đường lớn như kẻ mất hồn. Lúc Ấu Nương còn khỏe, nàng luôn ôn hoà thuần hậu đứng sau lưng y, giống như một cơn mưa xuân ấm áp mềm mại âm thầm, chẳng những dần dà khiến người ta quên mất sự tồn tại của nàng mà ngay cả Dương Lăng cũng gần như quen với những hiến dâng lặng lẽ của nàng. Song bây giờ đột nhiên ý thức được nàng không thể vĩnh viễn như cái bóng đi theo mình, chiếu cố cho mình, làm bạn với mình, Ấu Nương cũng có ngày rời xa mình thì Dương Lăng mới giật mình phát giác sự đáng sợ của loại mất mát này. Lúc này Dương Lăng vừa vội vừa sợ, mồ hôi thấm đẫm lớp áo dày, gió thổi ớn lạnh cả người. Máu tươi chảy đầm đìa từ mông nhưng y hoàn toàn không bận tâm. Những gì Lưu Thần Châm nói, y nghe cũng hiểu đại khái, vừa nghĩ tới lại đau lòng như cắt. Mình chỉ cảm thấy Ấu Nương tài giỏi kiên cường, sao không nghĩ tới nàng còn nhỏ tuổi, tấm vai non nớt có thể chống chọi được bao nhiêu áp lực chứ? Một tiểu cô nương năm mười lăm tuổi gả vào nhà họ Dương, một mình khổ sở chống đỡ, không người trợ giúp, không niềm hy vọng. Áp lực tâm lý trầm trọng, cuộc sống gian khổ cơ cực, ngày tiếp ngày vất vả lo toan khiến thân thể nàng ngày càng sa sút, chỉ có thể dựa vào tinh thần cố gắng chống chọi mới giúp nàng chưa ngã gục. Mùa đông rét lạnh mà mỗi đêm nàng chỉ đắp một cái chăn rất mỏng, không lâu sau lại tới ở trong tòa nhà của Sở Dịch, giường đất từ chỗ rất lạnh biến thành cực nóng. Hàn khí vốn đã xâm nhập tận phế phủ của nàng hoàn toàn không thích ứng được với loại biến hóa đột ngột này, lúc đó nàng đã mang mầm mống bệnh hoạn trong mình, chỉ do nàng có sức khỏe nên cố chống đỡ đến giờ mới phát bệnh. Lúc này Dương Lăng khóc không ra nước mắt. Vừa rồi y dựa vào toàn bộ sức lực trong lúc kinh hãi đẩy Ấu Nương chạy lâu như vậy, bây giờ vừa mệt vừa đói, thật sự không còn moi ra chút khí lực nào để đi nữa. Vừa chật vật rẽ qua một ngã tư, một chiếc xe ngựa đang từ xa lướt nhanh đến vội vội vàng vàng khựng lại trước mặt y. Người trên xe ngựa gò cương chửi ầm lên: - Mẹ, ngươi không muốn sống nữa à? Sao đi mà không nhìn đường, nếu kinh động lão gia nhà ta, ta đưa ngươi vào nha môn ăn đòn đó! Dương Lăng lạnh lùng nhìn gã, gằn từng tiếng: - Ta vừa mới ăn hèo đây, chính là hèo do đương kim hoàng đế ban tặng. Ngươi có bản lãnh thì tới đây thử xem! Gã kia làm sao tin y được, gã cười khẩy một tiếng đang muốn nói gì, Dương Lăng đã lấy ngọc bài từ trong ngực ra xỉa trước mặt gã, trầm giọng: - Bảo lão gia nhà ngươi xuống xe! Ta là Đồng Tri Cẩm Y vệ, bây giờ cần dùng xe của ngươi! Tên đánh xe kinh hãi biến sắc. Gã nhìn nhìn một hồi vẫn không nhận biết được thẻ bài Cẩm Y Vệ, nhưng đã liên quan tới Xưởng Vệ thì thà tin còn hơn không. Gã chần chừ một lúc rồi quay đầu lại nói với người trong xe: - Lão gia! Ngài xem... Rèm kiệu vén lên, một người đàn ông trung niên áo xanh râu ngắn ló đầu ra. Nhờ ánh đèn lồng treo trên khách sạn bên ngã tư quan sát rõ tấm yêu bài của Dương Lăng, hắn không khỏi thầm giật mình kinh hãi. Đã gặp qua không ít đại quan cùng quý nhân, đương nhiên hắn nhận biết yêu bài của Cẩm Y Vệ, đến cả tổ tông hắn cũng không dám trêu vào. Thầm kêu xui xẻo, hắn ngoan ngoãn bước ra khỏi xe, chắp tay chào: - Ra mắt đại nhân! Không biết đại nhân xưng hô ra sao? Dương Lăng ôm lấy thân thể mềm mại của Ấu Nương đặt lên xe ngựa, thở hào hển đáp: - Ta không có thời gian nói chuyện với ngươi. Bây giờ ta cần xe của ngươi cùng với mã phu của ngươi, khi quay lại ta sẽ thả hắn về nhà. Y nói xong tự mình trèo lên xe, đặt Ấu Nương cẩn thận trên ghế kiệu, nhè nhẹ hôn lên gương mặt nóng hổi của Ấu Nương, nghẹn ngào: - Ấu Nương! Có tướng công ở đây, nàng sẽ không chết được đâu. Nếu nàng không sống nữa, tướng công sẽ cùng nàng đi đại náo âm tào địa phủ một trận, kiếp sau chúng ta lại làm vợ chồng. Nói xong, quay đầu lại thấy tên đánh xe vẫn còn đờ đẫn, y không khỏi giận dữ hét lớn: - Ngươi còn chưa đi? Tên đánh xe giật bắn cả người, vội vàng đáp: - Đi... Đi đâu chứ? Đại nhân ngài còn chưa bảo mà. Dương Lăng yếu ớt xua tay, khuỵu gối bên cạnh Ấu Nương, ôm lấy thân thể nàng nói: - Đi tìm lang trung! Ngươi là người đánh xe, hẳn biết trong kinh sư này ai là danh y, nhà cửa ở đâu. Nhanh! Gã đánh xe ngần ngừ chỉ người đàn ông vừa bước xuống khỏi xe, nói: - Lão gia nhà ta chính là danh y, hơn nữa lại là ngự y. - Cái gì? Dương Lăng vừa mừng vừa sợ, vội vàng nhảy xuống xe, gần như nằm rạp trước mặt người đàn ông trung niên kia, y kéo áo người nọ la lên: - Tiên sinh họ gì? Xin tiên sinh chữa cho nương tử nhà ta, nàng... Nàng... Dương Lăng cảm thấy phấn khởi, vừa muốn khóc lại vừa muốn cười, nói không ra lời. Người nọ tuy là ngự y nhưng cũng không dám đắc tội với Cẩm Y vệ, mới vừa rồi phải nhẫn nhịn xuống xe, bây giờ thấy y từ hống hách trở nên nhún nhường, trong lòng bất giác có chút khoái chí. Hắn cười nói rất tự đắc: - Tại hạ họ Điền, là y sĩ của thái y viện, chẳng biết tôn phu nhân khó ở thế nào? Nhưng nơi này không tiện bắt mạch, đại nhân nên theo ta về nhà, để ta có thể chẩn đoán rõ ràng hơn. - Được được! Dương Lăng rối rít đồng ý. Ngẫm lại mình vừa mới buộc người ta xuống xe, y chẳng biết có nên đi chiếc xe này tới nhà của người ta nữa hay không. Vị Điền đại phu lại cười nói: - Thôi đi! Tôn phu nhân đang bị bệnh, không cần phải xuống xe. Hàn xá ở ngay phía trước, chúng ta đi bộ về nhà cũng được. Dương Lăng cũng chẳng cần khách sáo chi nữa, cùng cẩn thận theo vị Điền ngự y tới nhà hắn. Nhà của Điền ngự y nhìn qua có vẻ sang trọng, cạnh cửa treo cao một tấm biển vàng chóe “Hạnh Lâm Cư”. Vừa tới nơi, Dương Lăng bế Ấu Nương theo hắn đi qua sân rồi vào thẳng trong đại sảnh. Thấy trong đó treo vô số những thẻ bài to nhỏ “Y Đạo Thánh Thủ”, ”Tái Hoa Đà”, ”Đương Thời Danh Y”, Dương Lăng càng thấy an tâm hơn nhiều. Điền ngự y rửa tay bằng nước ấm, một mặt dùng khăn tay trắng như tuyết lau sạch tay, một mặt đến gần quan sát kỹ Ấu Nương đang hôn mê trong lòng Dương Lăng. Hắn chau mày hỏi: - Tôn phu nhân dường như bị nóng lạnh trong người, chân lông bí nghẽn, sốt cao không hạ thì phải! Dương Lăng vội vàng gật đầu, run giọng đáp: - Đúng, đúng, đúng! Thần y có biện pháp cứu nàng chứ? Điền ngự y khe khẽ lắc đầu, bắt mạch Ấu Nương một lát, rồi mặt mày trầm trọng nói: - Bệnh nóng lạnh không phải là sở trường của ta. Trong mười ba khoa của Thái Y viện thì tại hạ chuyên về bệnh trẻ em, không thạo về lãnh vực này, chỉ là... theo ta thấy... dù là thần y đúng chuyên khoa cũng khó lắm! Dương Lăng không biết Thái Y viện Đại Minh chia làm mười ba khoa là Tim Mạch, Nhi Đồng, Phụ Khoa, Thương Hàn, Chấn Thương, Châm Cứu, Răng Miệng, Họng Hầu, Xoa Bóp, Nối Xương, Kim Thốc, Nhãn Khoa, Bùa ngãi, y còn tưởng rằng phàm là thái y đều là có thể chữa được bách bệnh. Tuy không hiểu bệnh trẻ em là cái gì, nhưng nghe lão nói không biết chữa, y không khỏi thất vọng: - Thần châm họ Lưu cũng nói không có thuốc nào trị được, không ai có thể trị. Chẳng lẽ... chẳng lẽ ta phải mất Ấu Nương thật sao? Vốn vẻ mặt đang ngượng ngùng, nghe y nói thế, Điền ngự y không khỏi bật thốt: - Ngươi đã gặp Kim Châm Lưu rồi à? Hắn nói không trị được là không trị được sao? Tuy ta không giỏi ngành này, nhưng cả thành Bắc Kinh người trị bệnh nóng lạnh giỏi nhất, ngoại trừ Ngô tiên sinh Ngô Thanh Viễn đã qua đời thì chỉ còn anh của ta thôi. Nếu anh của ta ở đây, chưa chắc không trị được! Tinh thần Dương Lăng chấn động, y vội hỏi dồn: - Lệnh huynh ở đâu? Mau mau mời lệnh huynh xem bệnh cho nàng, chỉ cần chữa được, Dương Lăng nguyện dốc toàn bộ sự sản để cảm tạ. Điền ngự y nhậm chức trong cung nên không được tự mình mở phòng khám bệnh, nhưng ca ca hắn vì bị què một chân, mặt mũi lại xấu xí nên không thể vào triều nhậm chức ngự y, do đó mới mở Hạnh Lâm cư này. Phòng mạch này cách Dã Cúc Trai cũng không xa, hai nhà luôn là đối thủ cạnh tranh. Nghe thần châm họ Lưu đoan chắc người bệnh không thể trị được, Điền ngự y tự nhiên không chịu phục. Lão họ Lưu đã không trị được, chỉ cần nhà mình chữa được thì việc này lan truyền ra, Thần Châm Lưu sau này đừng hòng mơ tưởng cạnh tranh với Điền gia nữa. Vì lẽ đó, tinh thần Điền ngự y trở nên hăng hái, hắn nói với Dương Lăng: - Đại nhân chớ sốt ruột! Anh của ta về quê ở Tam Hà thăm người thân rồi, cũng không xa đây lắm. Hắn xoay người hạ lệnh cho gã đánh xe: - Thiệu Đường! Ngươi lập tức đánh xe về quê Tam Hà, đón Đại lão gia nhanh nhanh trở về. Nói trong kinh có quý nhân mời người khám chữa bệnh. - Dạ, lão gia! Tên đánh xe vâng lệnh. Cũng may ngựa còn chưa tháo khỏi xe, gã vội vàng dắt ra khỏi cổng lớn, vung roi lên, ào ào phóng đi mất. [CENTER]************************************ Hôm sau vào buổi triều sớm, Hoằng Trị tinh thần vui vẻ, thập phần vừa ý. Hôm qua dựa vào việc chỉnh lý bọn Dương Lăng, ông đã áp chế được sự kiêu ngạo của Kim phu nhân; cũng không biết bà ta nói với Hoàng hậu thế nào mà khi ông trở lại cung, tuy Hoàng hậu vẫn còn u sầu buồn bã, nhưng đã không dám khóc dầm khóc dề như trước nữa. Ông có ý định phổ biến chính sách mới về hạn chế quyền lợi của hoàng thân quốc thích đã lâu, nhưng cản trở lớn nhất vẫn đến từ gia đình Hoàng hậu, hơn nữa đám quí tộc vì ích lợi có thể bị hao tổn, nhất định cũng dán mắt vào Trương gia. Một khi Trương gia không tuân theo pháp lệnh, đương nhiên người ngoài cũng sẽ học theo. Bây giờ Thọ Ninh Hầu đã bị trừng trị, lực cản đối với việc thúc đẩy cải cách nhất định sẽ giảm mạnh. Không ngoài dự đoán của Hoằng Trị, nhân thời cơ chín muồi, vào buổi triều sớm ông đề xuất lại việc cải cách, để cho đám người Lý Đông Dương vừa được phóng thích khỏi ngục cùng Lưu Kiện và Tạ Thiên Kỷ bên xướng bên họa, thuận lợi ban bố luôn. Văn võ cả triều đều thức thời, không ai dám lên tiếng phản đối. Hoằng Trị cảm thấy mừng rỡ, xem ra hôm nay không có việc gì quan trọng khác phải xử lý, đang muốn tuyên bố bãi triều thì lễ bộ thượng thư Vương Quỳnh bước khỏi hàng tấu: - Thần khải bẩm Hoàng Thượng! Thần nghe nói mấy tên nội quan ở Đông cung chuyên phụng dưỡng Thái tử hay bày ra mấy trò chó ngựa mua vui, cản trở Chiêm Sĩ Phủ dạy thái tử đọc sách. Gần đây lại nghe thị độc của thái tử là Dương Lăng cũng hòa mình với bọn chúng, cấu kết nhau làm việc xấu. Hoàng Thượng, Thái tử là người kế vị của quốc gia, bản thân quan hệ tới cả thiên hạ. Dương Lăng vốn xuất thân tú tài, được bệ hạ ân sủng, phá lệ ban danh hiệu Đồng tiến sĩ xuất thân, cho làm Đông cung thị độc. Hắn không nghĩ tới việc báo đáp hoàng ân, mà lại cùng nịnh thần cấu kết, gây náo loạn Đông cung. Thần xin bệ hạ bãi chức thị độc Đông cung, đuổi khỏi triều đình. Hoằng Trị ngẩn người, nói vẻ không vui: - Đó là do Ái khanh nghe nói Dương khanh hôm qua bị phạt trượng ở ngọ môn phải không? Hắn tuy cũng bị phạt trượng, trẫm cũng chỉ khiển trách nhẹ vì hắn chưa làm tròn trách nhiệm thị độc, không thể ngăn cản nội quan rủ rê Thái tử chơi bời trì hoãn việc đọc sách thôi. Hôm qua trẫm đến Đông cung khảo sát bài vở Thái tử, thấy tri thức cùng kiến thức của Thái tử đều tăng lên, việc này đương nhiên là công lao của ba vị thái phó, nhưng cũng không phải không có công phụ tá của thị độc. Lão Vương Quỳnh không đồng ý, bẩm: - Bệ hạ! Thị độc vốn có trách nhiệm giám sát Thái tử đọc sách, chưa tròn trách nhiệm, cũng khó xứng với chức vụ. Thần cho rằng nên tuyển một vị thị độc Đông cung có đức có tài khác. Sau khi dán thông báo vào kỳ thi mùa xuân, Hoàng Thượng tự mình tuyển một vị hiền tài tới Đông cung. Thần nắm giữ Lễ Bộ, đây là chức trách phạm vi của thần, việc này không dám không tấu. Hoằng Trị mỉm cười nói: - Trẫm biết sự trung trực của ái khanh, nhưng Dương Lăng làm việc ở Đông cung luôn luôn khá tận tâm, hôm qua trẫm cũng đã tiến hành khiển trách hắn rồi, cũng không cần phải... Vương Quỳnh lập tức phục xuống đất khóc lớn: - Hoàng Thượng nhân từ vô cùng, nhưng việc Thái tử là việc xã tắc, không thể sơ ý chút nào được. Thái giám nội cung chỉ hầu hạ thái tử sinh hoạt thường ngày, cho dù bọn chúng có hơi phi lý cũng còn có thể khoan dung. Nhưng đã là thị độc mà không thể hoàn thành chức trách thì vạn lần không thể tha thứ. Thần chưởng quản Lễ Bộ, sao có thể thấy mà không nói? Thấy mà không can? Thấy mà không gián được chứ? Hoằng Trị chịu không nổi những tiếng gào khóc của Vương Quỳnh. Văn võ cả triều, lão là kẻ nhiều nước mắt nhất, hơi một tí là khóc lóc can gián, nhưng vị lão thần này luận về đạo đức văn chương đều thập phần xuất chúng, làm quan cũng luôn luôn thanh liêm. Hoằng Trị cũng không có biện pháp phạt lão. Thấy lão lại khóc lóc, Hoằng Trị bất lực nhìn Lưu Kiện. Lưu đại học sĩ thông minh sắc sảo, ánh mắt Hoằng Trị đế vừa nhìn mình, lập tức bước ra nói: - Hoàng Thượng! Thần tán thành đề nghị tuyển người làm thị độc Đông cung vào kỳ thi mùa xuân này của Vương Đại nhân. Dương thị độc thấp cổ bé miệng, tuy không phải không muốn ngăn cản nội quan bày trò, nhưng hắn cũng không thể làm được. Về phần Dương Lăng, người này năm mười sáu tuổi đã là tú tài đầu bảng Tuyên Phủ, tài viết văn nhất định bất phàm. Mấy bữa trước hắn viết báo cáo về những thay đổi chế độ chính sách của quân đội cùng với việc cầm binh, luyện quân cũng rất là không tệ, đầy ý tưởng mới. Thần nghĩ rằng, có thể miễn chức thị độc của Dương Lăng, nhưng triều đình nên đề bạt bổ nhiệm nhân tài giỏi cả văn lẫn võ này. Không bằng Hoàng Thượng bảo hắn lên điện, tấu trình ngay trên cung đình, nếu hợp ý Thánh Thượng, có thể cho hắn nhậm chức tại triều, hoặc ra ngoài làm quan. Một khi hắn có kinh nghiệm, không chừng sẽ trở thành bầy tôi trụ cột của triều đình. Hoằng Trị nghe vậy rất mừng. Ông vốn có ý lưu Dương Lăng lại chờ hoàng nhi đăng cơ sẽ sử dụng. Nhưng từ năm trước ông bị bệnh nặng, thân thể ngày càng sa sút. Do đó hôm nay cũng phải suy nghĩ rất nhiều để chuẩn bị cho hoàng nhi. Đám cựu thần trong triều tuy trung thành hết mực, nhưng bảo thủ cũng có thừa, thiếu chí tiến thủ, hơn nữa bọn họ đã già thế rồi cũng không biết gắng gượng được bao nhiêu năm nữa. Nếu không thể tìm được bầy tôi tốt phụ tá cho hoàng nhi, chỉ vài năm sau đám cựu thần sẽ tàn lụi, làm sao ông yên tâm được? Do đó nghe thấy Vương Quỳnh luôn miệng thỉnh cầu thôi chức thị độc của Dương Lăng, ông liền động tâm. Được lắm, ngươi nói hắn không xứng giữ chức thị độc, không phải là không xứng làm quan trong triều. Ta cho hắn làm quan, cũng không xem như bộ Lễ các ngươi không làm tròn bổn phận phải không? May mà Lưu Kiện có thể quan sát được ý ta, nghĩ ra biện pháp vẹn cả đôi bề như vậy. Hoằng Trị sợ Vương Quỳnh lại phản đối gì nữa nên lập tức vui vẻ trỏ tiểu thái giám trực giấy mực bên cạnh ngự thư án, hạ lệnh: - Ngươi đi truyền khẩu dụ của trẫm, bảo Dương Lăng lập tức lên điện. Tên tiểu thái giám giật bắn cả người. Xưa nay việc truyền dụ đều do nhân viên của Sở biên tập phụ trách việc chấp bút rồi sai người truyền chỉ, hắn chưa bao giờ ra khỏi cung. Bị phái đi như vậy, tên tiểu thái giám hoảng hốt vâng dạ, vội vàng bước xuống một bên ngự đài. Hắn chỉ cảm thấy lâng lâng, hưng phấn tới suýt nữa hụt chân ngã tòm. Tên tiểu thái giám vừa mới bước xuống được mấy bậc bệ ngự, Hoằng Trị đột nhiên gọi: - Chậm đã! Tên tiểu thái giám vội vàng xoay người. Hoằng Trị trầm ngâm một chút, mỉm cười nói: - Lấy xe gấm trong cung mà đi. Ha ha! E rằng bây giờ hắn chẳng đi nổi nữa đâu. Đám văn võ bá quan nhất thời ồ lên, xe gấm đón à? Đây là vinh dự như thế nào! Chỉ có mấy vị đại học sĩ và nguyên lão trong triều đôi khi tiến cung mới được đối đãi như vậy. Xem ra Vương thượng thư mờ mắt đã hớ to rồi, hoàng đế Hoằng Trị nói trắng ra mình muốn trọng dụng Dương Lăng mà. ****************************** Lúc này Dương Lăng đang mượn xe của ngự y, giục ngựa chạy như điên. Thần sắc Ấu Nương càng lúc càng kém, môi khô nứt nẻ, khí tức yếu ớt, sắc mặt xám xịt làm cho người ta vô cùng đau lòng, trái tim Dương Lăng cũng theo đó chìm xuống tận vực thẳm. Nguyên y khổ sở đợi một đêm, tên đánh xe Điền phủ mới đem vị Hạnh Lâm cao thủ sắp mất vía trở về. Vị Điền thần y này quả nhiên cao minh hơn em mình nhiều, ông vừa tiến vào y đường, vọng (nhìn), văn (nghe), vấn (hỏi), thiết (thăm mạch) một hồi, lập tức cả quyết phán: - Đúng là Tôn phu nhân bị bệnh thương hàn. Bệnh này đã tiềm ẩn lâu ngày đáng ra phải sớm phát tác rồi. Chỉ là tôn phu nhân khí lực cường tráng vượt xa người thường, nên luôn cố chống chọi đến giờ. Mắt Dương Lăng đầy tơ máu, y trừng đôi mắt đỏ rực, hỏi vẻ lo sợ: - Có thể... có thể... Có thể còn biện pháp chữa trị không? Người này đã là hy vọng cuối cùng của y. Trong thời khắc sinh tử, khi y hỏi, khớp hàm cũng va vào nhau lập cập, thân hình cũng run lẩy bẩy. Điền thần y khẽ cau mày nói: - Vốn có biện pháp, “Thông Chân Cứu Khổ Đan” của ta chuyên trị thương hàn trong ngoài, là phương pháp kỳ diệu có thể làm cho thoát ngược mồ hôi, chỉ là... chà! Ông nhìn Dương Lăng với vẻ có lỗi, nói tiếp: - Tôn phu nhân chạy chữa quá muộn. Thuốc men thì có thể lấy Đương Quy, Xích Thược Dược, mỗi loại một phần năm lạng; Cam Thảo, Ma Hoàng Thảo, mỗi thứ bốn lạng, thêm vào nửa lạng Quan Quế, nghiền nát, lấy rượu nóng đun lên, ba ngày sau lập tức phục hồi, phối với một vài phương thuốc khác là có thể trị dứt, nhưng bây giờ... Thứ cho Điền mỗ mạo muội nói thẳng, tôn phu nhân quyết không qua hỏi hôm nay. Dương Lăng đầu váng mắt hoa, trời đất tối sầm, y ôm thân thể Ấu Nương mà lảo đảo như sắp ngã khỏi ghế. Điền thần y thấy vậy chấn động, vội ấy trong tay áo ra một thanh ngân châm, thoáng cái đâm vào đỉnh đầu Dương Lăng. Dương Lăng mở to hai mắt, thì thầm gì đó trong họng, hồi lâu mới hít thở được. Y định thần, cười sầu thảm: - Không... Không cứu được à? Huynh đệ họ Điền thấy vợ chồng y tình thâm nghĩa trọng như thế, cũng bất giác thầm cảm động. Điền thần y lặng lẽ rút ngân châm về, đồng tình nói: - Đại nhân! Về nhà chuẩn bị hậu sự cho phu nhân đi, Điền mỗ vô năng... Chà! Kinh thành to như vậy nhưng có lẽ chỉ có viện trưởng viện Thái Y mấy năm trước là Ngô Thanh Viễn tiên sinh mới có thể có biện pháp, đáng tiếc... bảy năm trước Ngô tiên sinh đã qua đời. Ta hiểu rõ danh y kinh sư như lòng bàn tay, trừ ông ta ra e rằng không ai... không ai khác có thể ra tay cải tử hoàn sinh, trị được bệnh bộc phát tới mức này đâu. Dương Lăng ngẩn người như khúc gỗ thật lâu. Điền thần y thấy thế kinh ngạc vô cùng, chuẩn bị đâm cho y một châm nữa, con ngươi Dương Lăng mới động đậy, hỏi một câu si ngốc: - Không cứu được nữa sao? Điền thần y đáp: - Không... Vừa thấy đôi tròng mắt đờ đẫn của y, Điền thần y bất giác chấn động mạnh, nín lặng không nói thêm gì. Dương Lăng khẽ gật đầu, từ từ ôm Ấu Nương đứng lên, nói với Điền thần y: - Xin thần y cho ta mượn xe ngựa! Ta phải đi khắp kinh thành tìm danh y, chỉ cần Ấu Nương còn một hơi thở, ta vẫn sẽ còn đi tìm danh y, tìm một phương thuốc cứu sống nàng! Vốn thứ mà danh y kiêng kị nhất là bước khỏi cửa nhà hắn tìm đến thầy thuốc khác chữa trị. Nhưng huynh đệ Điền thần y lúc này không hề buồn lòng chút nào, họ vội vàng đổi tên đánh xe, giúp Dương Lăng đưa Ấu Nương lên xe. Dương Lăng mang Ấu Nương chạy loanh quanh vài vòng trên phố không mục tiêu, đầu óc rối loạn, rồi y đột nhiên nhớ đến đám hòa thượng Tây dương ở Hộ Quốc tự, cả người chợt run lên. Thần y, ngự y đều chẳng làm gì được, còn Tây y thì sao? Trái tim Dương Lăng như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, y vội hạ lệnh: - Nhanh! Mau tới Hộ Quốc tự, càng nhanh càng tốt!

Chương 74: Thiên Tử Gọi Dịch: workman Biên dịch: Kiếp Nô Biên tập: Ba_Van Hiệu đính: Nguồn: www.tangthuvien.com Dương Lăng cười thê lương: - Gặp Hoàng Thượng làm gì? Thăng quan phát tài à? Ngươi hồi cung phúc chỉ đi, ta phải đưa Ấu Nương về nhà. Y chua xót nhìn Ấu Nương nói tiếp: - Từ khi đến kinh thành tới nay, ta vẫn chưa hề chăm sóc nàng, hằng ngày vẫn để nàng thui thủi một mình ở nhà. Bây giờ ta phải về nhà chăm sóc nàng, trở về cùng nàng. ------------------------ Chương bảy mươi bốn: Thiên Tử Gọi ------------------------ Xa phu dạ một tiếng, quay ngoặt đầu ngựa. Dương Lăng cúi đầu nhìn Ấu Nương trong lòng mình sắc mặt đã trở nên trắng bệch, áp má vào gương mặt lạnh buốt của nàng, rơi lệ nói: - Ấu Nương! Cố kiên trì một chút, đừng bỏ tướng công, tướng công sẽ cùng nàng đi tìm thầy thuốc, nàng nhất định phải kiên trì chịu đựng! Ấu Nương! Nàng đã hứa theo ta cả đời mà... Tuy là một hán tử hào sảng nhưng vừa nghe thế tên xa phu cũng cảm thấy đau xót, gần như rơi lệ. Hắn chớp mắt, quất mạnh roi lên lưng ngựa, quát to “Giá!”, vội vàng thúc xe phóng như bay về Hộ Quốc tự. Lúc này tên ngự tiền tiểu thái giám lần đầu phụng thánh chỉ xuất cung làm việc dẫn theo bốn Tiểu Hoàng Môn (*), tám tên Cẩm Y vệ, lại có hai đại hán kéo xe gấm trong cung chạy theo, cực kỳ cao hứng chạy tới nhà Dương Lăng. Vừa tới, cả bọn lại thấy cổng đang khoá, đó là lão hàng xóm giúp Dương Lăng khóa cửa. (*): một chức quan của thái giám. Tên tiểu thái giám ngẩn người, vậy thì phải làm sao bây giờ? Hồi cung nộp chỉ à? Tiểu thái giám chưa biết làm gì, đành gõ cửa nhè nhẹ lắng nghe. Khi xe ngựa Dương Lăng vội vàng chạy về ngang phố này, hai tên Cẩm Y Vệ thấy xe phóng ào ào bèn cao giọng quát mắng: - Đứng lại! Nội quan đang phụng chỉ làm việc, người phương nào dám giục ngựa chạy ẩu như vậy? Dương Lăng đang vô cùng lo lắng, đầu óc mụ mị, chỉ nghĩ tới việc chạy nhanh đi tìm thầy thuốc, vừa thấy có người cản đường, y buột miệng la lên: - Ai cản xe ta? Lúc này, tên tiểu thái giám đã dò biết được Dương Lăng mang người thân đi cầu thầy thuốc không có ở nhà. Hắn vừa hậm hực bước ra khỏi cửa nhà lão hàng xóm nọ đã liếc mắt nhìn thấy Dương Lăng, lòng vô cùng mừng rỡ. Hôm qua hắn theo Hoàng Thượng đi đến Đông cung đã từng gặp Dương Thị Độc rồi nên đương nhiên biết mặt mũi y. Tên tiểu thái giám vội vàng hô to: - Dương Thị Độc! Hoàng Thượng có chỉ, truyền ngài lập tức lên điện yết kiến. Dương Lăng quýnh tới mức đổ mồ hôi, chẳng suy nghĩ gì đáp luôn: - Không không! Mau tránh ra. Ta muốn đưa Ấu Nương đi xem bệnh! Nói rồi y phất tay bảo xa phu: - Đi mau, đi mau! Lập tức đi Hộ Quốc tự! Tên xa phu líu cả lưỡi. Thánh chỉ mà cũng dám không tuân, tuy Cẩm Y vệ rất oai phong nhưng đâu có oai phong đến như vậy? Hắn không dám chậm trễ, vội vàng vung roi lên, xe ngựa xuyên qua đám thị vệ đại nội lao thẳng về phía Hộ Quốc tự. Nhìn xe ngựa lướt đi, dân chúng đang vây quanh ngẩn cả người ra. Tám tên Cẩm Y vệ, bốn tên Tiểu Hoàng Môn đều trơ mắt nhìn tên thái giám truyền chỉ. Bây giờ hắn chính là khâm sai, đương nhiên cả bọn đều phải nghe lệnh hắn. Tên tiểu thái giám mới mười bốn mười lăm tuổi, tuy niên kỉ còn nhỏ, nhưng hôm nay lại bất chợt bị Hoàng đế phái đi tuyên chỉ. Chuyện gì hắn cũng đã nghĩ qua, chỉ là không ngờ lại gặp phải tình huống này. Ý chỉ truyền tới nơi mà người ta không phụng chỉ, vậy phải làm gì? Việc này dường như... Dường như xưa nay chưa bao giờ nghe nói tới việc như thế này, ta nên hỏi ai đây? Tên tiểu thái giám truyền chỉ luống cuống muốn khóc. Bây giờ Hoàng Thượng cùng bá quan cả triều đều đang ở kim điện chờ y, mình báo cáo kết quả công tác làm sao được? Nếu là thái giám lâu năm gặp phải việc ngàn năm khó gặp như thế này thì hoặc vung phất trần lên, quay đầu hồi cung phúc chỉ để hoàng đế nổi trận lôi đình, kể cả trong chốc lát ngài có trừng trị hay diệt cả nhà y cũng không liên quan tới mình. Nếu đụng phải tên nào lòng dạ độc ác, không biết chừng hắn còn ra lệnh một tiếng, lập tức đám Cẩm Y vệ sẽ giết ngay tên bầy tôi dám kháng chỉ tại chỗ. Nhưng tên tiểu thái giám này hoàn toàn không có chủ định, hắn chỉ nghĩ tới việc bắt Dương Lăng mang về, bằng không hoàng đế nổi giận, chưa biết chừng cái mông của hắn còn bị đánh đòn. Hắn lượn hai vòng tại chỗ, vung tay lên nói vẻ nghẹn ngào bi phẫn, tiếng kêu the thé: - Đi! Đuổi theo Dương thị độc! - Dạ! Nghe khâm sai lên tiếng, đám Tiểu Hoàng Môn, Cẩm Y Vệ cùng giật cương ngựa, hai đại hán kéo xe gấm chạy theo tên thái giám truyền chỉ đuổi theo Dương Lăng. Khắp con đường lớn, người đi đường đang lui tới tấp nập. Đám sĩ tử vừa mới thi xong kỳ đầu chuẩn bị thi tiếp buổi chiều thấy cảnh lạ lùng này đều chạy theo hỏi han những người đang bám theo sau tên tiểu thái giám xem náo nhiệt. Hiểu chuyện, bọn họ không khỏi vừa sợ hãi vừa buồn cười, thấy việc kháng chỉ của Dương Lăng thật sự quá hoang đường, nhưng đáy lòng cũng thầm bội phục dũng khí của y. Một vài đại cô nương, tiểu cô nương càng cảm động tới nước mắt lưng tròng. Đàn ông si tình như vậy, dù trên sân khấu kịch cũng không tìm thấy được. Chỉ trong chốc lát, tin lạ về việc lục phẩm thị độc ôm vợ cầu thầy, ngay cả thiên tử hạ chiếu mà cũng dám kháng chỉ lan truyền khắp kinh thành với tốc độ kinh người. Tên tiểu thái giám đuổi tới Hộ Quốc tự, vừa kịp nhìn thấy Dương Lăng bế người lảo đảo đá tung cửa bước ra, vài người nước ngoài mũi cao mắt lam thập thò ở phía sau, ngón tay đang múa loạn trước ngực và trên trán (BT: ý là làm dấu thánh). Thì ra lúc đó y thuật Tây Dương chỉ khá là sở trường về ngoại khoa phẫu thuật. Vì những thứ dụng cụ như kính hiển vi, ống nghe bệnh đều chưa được phát minh nên y học về nội khoa thua xa so với ngoại khoa. Đám thầy thuốc này sở trường thuật mổ sọ, trích huyết, rửa ruột, chứ những thứ sốt cao đột ngột như Ấu Nương thì hoàn toàn bó tay. Đám thầy tu này cũng đem theo vài dược vật trị cảm mạo của Tây Dương tới đây. Nhưng kỳ thật hiệu quả của thuốc cũng không tốt, hơn nữa vài năm qua cũng đã dùng hết rồi, do đó cũng lực bất tòng tâm với bệnh của Ấu Nương. Tiểu thái giám đuổi kịp Dương Lăng, hưng phấn tới mức khuôn mặt đỏ rực lên, hắn vội vàng chạy tới vươn tay giữ chặt Dương Lăng cầu khẩn: - Dương đại nhân! Hoàng Thượng đang ở kim điện chờ ngài. Ngài... ngài trước hết đưa quý nương tử đến lang trung để người ta chăm sóc còn chúng ta đi gặp Hoàng Thượng sớm đi. Dương Lăng cười thê lương: - Gặp Hoàng Thượng làm gì? Thăng quan phát tài à? Ngươi hồi cung phúc chỉ đi, ta phải đưa Ấu Nương về nhà. Y chua xót nhìn Ấu Nương nói tiếp: - Từ khi đến kinh thành tới nay, ta vẫn chưa hề chăm sóc nàng, hằng ngày vẫn để nàng thui thủi một mình ở nhà. Bây giờ ta phải về nhà chăm sóc nàng, trở về cùng nàng. Bây giờ Dương Lăng đã không còn tiếc gì nữa. Đừng nói sinh mạng y căn bản không còn lâu nữa, cho dù có thể sống lâu trăm tuổi nhưng không có Ấu Nương bên người thì còn ý nghĩa gì nữa? Lúc này mặt trời đã lên cao, nhưng lòng y lại lạnh tới xương tủy. Tiểu thái giám chỉ ngây người đứng đực ở cửa, ngẫm nghĩ một lát rồi lại muốn đuổi theo. Mấy tên Cẩm Y thị vệ trong cung thấy đám người vây xem quá nhiều, không kìm được vội tới bên cạnh tên tiểu thái giám thấp giọng khuyên: - Công công, hồi cung phúc mệnh đi! Nếu cứ tiếp tục đuổi theo như vậy thì còn gì thể diện hoàng gia chứ? Tiểu thái giám hoang mang lo sợ, nhìn trời thấy đã gần trưa, sợ hoàng đế đợi lâu sốt ruột nên hắn bèn giậm chân, hổn hển: - Đi, hồi cung! Lập tức hồi cung phúc mệnh! Hắn để chiếc xe gấm trống không cho hai tên vạm vỡ từ từ kéo về, còn mình cùng những người khác quất ngựa như bay, lao nhanh về phía hoàng thành. *************************************** Vua Hoằng Trị cùng bầy tôi lại tiếp tục bàn luận việc nước. Thấy thời gian triều sớm cũng sắp hết, ông cho văn võ bá quan trở về, chỉ lưu lại đại học sĩ Cẩn Thiên điện Lý Đông Dương, đại học sĩ Hoa Cái điện Tạ Thiên, đại học sĩ Vũ Anh điện Lưu Kiện, thượng thư bộ Lễ Vương Quỳnh và Kiến Xương hầu Trương Duyên Linh dùng bữa trong cung. Hoằng Trị muốn mượn cơ hội ăn chung để làm dịu hiềm khích giữa đám hoàng thích và mấy vị đại học sĩ. Dù sao nếu để đám cựu thần rất được nể trọng này cứ tranh tranh đấu đấu mãi với đám hoàng thân thì quả là một việc khiến cho người ta đau đầu. Ông đã thầm bày mưu đặt kế để lát nữa Lưu Kiện, Lý Đông Dương cầu tình cho Trương Hạc Linh trong bữa tiệc, sau đó trước mặt Trương Duyên Linh ông sẽ phóng thích Thọ Ninh Hầu, đồng thời mời họ cùng khảo sát học vấn của Dương Lăng. Có được mấy vị này đồng ý, ông sẽ ban một chức quan cho Dương Lăng, lúc đó sẽ không còn ai dám phản đối nữa. Vì là tiệc nhà, Hoằng Trị lưu tâm gọi cả hoàng hậu cùng em trai của nàng ra dùng bữa. Hôm nay thượng triều, Trương Duyên Linh nơm nớp lo sợ trong lòng. Thấy thái độ Hoàng Thượng hiền hoà, còn mời cả hoàng hậu tỷ tỷ ra ăn cùng, lúc này hắn mới định thần. Hôm qua mẹ của hắn là Kim phu nhân về đến nhà lập tức kinh hoàng tìm hắn, nói cho hắn biết việc Thái tử bị đánh. Trương Duyên Linh nghe xong cũng giật bắn cả người. Không dám chậm trễ, hắn lập tức chạy tới phủ của ca ca truy vấn xem nguyên do của vụ ẩu đả ngày ấy. Lúc đó Nghiêm Khoan đang gục trên giường giả chết, nghe báo Nhị Hầu gia tới, tưởng là người cùng phe nên vội vàng khom lưng, nhảy tưng tưng như tôm tới trước mặt Hầu gia kêu khóc, kể lại toàn bộ sự tình diễn ra, cầu hắn phân xử cho mình. Kiến Xương hầu nghe gã nói xong, liền biết tên tiểu thư sinh bị hắn đánh chính là Thái tử chẳng sai. Trương Duyên Linh không khỏi ngứa cả răng, ca ca vào tù hoàn toàn là vì tên tặc tử này sinh chuyện. Gã còn dám xúi giục mình ra mặt, nếu bởi vậy mà Trương gia mất thánh quyến thì chém đầu gã cũng chẳng oan. Trương Nhị lão gia nghe Nghiêm Khoan khóc lóc kể lể xong, không nói hai lời tung một cú thỏ đá ưng. Nghiêm Khoan lập tức kêu thảm một tiếng, bò lăn ra đất giãy dụa. Người ta nói cháu ngoại trai giống cậu, hôm nay cậu cũng học theo cháu ngoại trai. Cú đá của Kiến Xương hầu chuẩn vô cùng, đá thẳng vào nơi mà lần trước Chu Hậu Chiếu đạp trúng. Gân đùi Nghiêm Khoan lại bị trúng thêm một cước, lập tức gã kêu thảm một tiếng, lăn lộn trên mặt đất, đau đến mức nghẹn thở, ngất đi. Tiểu muội của gã thấy thế lao tới khóc sướt mướt như mưa, cũng không biết một cước này của Kiến Xương hầu đã cắt mất hương hỏa của Nghiêm gia hay chưa. Trương Duyên Linh xanh mặt, chỉ vào sủng thiếp của ca ca hắn lạnh lẽo nói: - Khóc gì mà khóc? Nếu đồ khốn đó mà chết đi thì cuộn cho gã một chiếc chiếu rồi ném ra vùng hoang dã cho chó ăn! Nếu gã mạng lớn, bảo gã sau này nhún nhường lại một chút cho ta. Buộc cái đuôi vào mông cho chặt, đừng để gã ra ngoài gây chuyện nữa. Còn nữa, tống tờ văn tự gây rắc rối đó về tay cô ả kia càng sớm càng tốt! Mẹ nó! Dám đoạt nữ nhân của Thái tử, cụ nội nó, ngươi hiềm mình sống quá lâu à! Hắn trợn mắt, quay về đám gia nhân đang câm như hến đứng ở đầu sân lớn tiếng quát: - Câm miệng hết cho ta, kẻ nào đem việc này hé ra ngoài nửa lời, ta cắt lưỡi kẻ đó! Trương Duyên Linh đánh Nghiêm Khoan xong, lại ra lệnh cho đám thợ suốt đêm gấp rút dỡ bỏ mấy căn nhà vừa mở rộng chiếm dụng đường đi và nhà dân, để miễn bị kẻ khác bưới móc. Phải làm xong ngay trong sáng sớm mới có hiệu quả. Lúc này hắn thấy Hoằng Trị nói nói cười cười, cũng chưa dám đề cập tới việc huynh trưởng bị giam. Dần dần hắn yên tâm, cũng bắt đầu theo ý mà nói theo, nhất thời khách chủ vui vẻ, không khí dần dần ấm lên. Đang lúc bọn họ trò chuyện, tên tiểu thái giám vội vàng chạy về, quỳ sụp xuống đất, khóc thút thít, bẩm: - Hoàng Thượng! Nô tài có tội, nô tài làm việc không xong. Hoằng Trị nghi hoặc hỏi: - Chuyện gì mà làm không xong? Ngươi nói lại xem nào! Tên tiểu thái giám không dám đứng dậy, vẫn quì tại chỗ bẩm: - Nô tài đi truyền chỉ. Dương Thị Độc nghe xong ý chỉ, lại nói là phu nhân trúng phải bệnh nặng, phải đưa nàng đi khắp nơi cầu thầy, bảo nô tài về cung bẩm báo trước. Hắn... hắn kháng chỉ không tuân, nô tài không có biện pháp, đành phải trở lại một mình. Đám thần tử trong bữa tiệc nghe vậy cùng biến sắc. Dương Lăng ăn tim gấu mật beo à? Đừng nói thê tử y bị bệnh nặng, cho dù lúc đó trời có sụp xuống, tiếp được thánh chỉ cũng phải lập tức đi yết kiến ngay. Việc hôm nay quả thực là chưa từng thấy, há Hoằng Trị có thể không nổi giận? Cho dù rộng lượng vị tha, nhưng nghe xong những lời này sắc mặt Hoằng Trị cũng sa sầm xuống. Ông đặt mạnh đôi đũa ngà voi xuống bàn đánh cộp một tiếng, mấy vị đại thần thấy thế hấp tấp đứng dậy sụp lạy, quì dài trên mặt đất, không dám thở mạnh. Hoằng Trị cả giận bảo: - Giỏi cho Dương Lăng! Lá gan gã to lắm, dám can đảm kháng chiếu! ********************************* Về đến nhà, Dương Lăng ôm Ấu Nương xuống xe. Vừa mới đi đến cửa, y chợt nghe một thanh âm trầm bổng: - Dương thị độc! Quả là vừa khéo, tại hạ vừa mới tiến kinh, đang muốn đăng môn bái phỏng, không nghĩ tới... Ủa? Đây là... A! Tôn phu nhân làm sao vậy? Dương Lăng quay đầu nhìn lại. Y thấy một lão nhân khuôn mặt quắc thước đi tới trước mặt, kinh ngạc nhìn Ấu Nương trong lòng mình. Dương Lăng ngơ ngác nhìn hắn hồi lâu, nhất thời thần trí vẫn chưa tỉnh lại. Lão nhân đó thấy y tinh thần hốt hoảng, vội nhắc: - Tại hạ là thương gia mua bán thuốc Ngô Kiệt ở Kê Minh đây mà, đại nhân còn nhớ chứ? Vì gần đó còn có một số dân chúng đang đi theo Dương Lăng xem náo nhiệt, nên Ngô Kiệt không dám nói tới thân phận chính thức của mình, chỉ dùng thân phận nhà buôn nhắc nhở y. Dương Lăng nghe xong, chợt cảm thấy rất quen thuộc, y bất giác gật đầu nói: - Nhớ, ngươi là Ngô Kiệt. Ngô Kiệt tần ngần nhìn Hàn Ấu Nương, hỏi: - Dương đại nhân, tôn phu nhân bị... làm sao vậy? Dương Lăng cười buồn bã, đáp: - Ấu Nương bị bệnh thương hàn, bệnh nặng không thể chữa được. - A? Thiên hộ Cẩm Y Vệ Ngô Kiệt giật mình nói: - Bệnh thương hàn ư? Nhưng thật ra tại hạ có một phương thuốc, đại nhân có muốn thử... Dương Lăng khanh khách cười, thần sắc kỳ dị hỏi lại: - Ta đã chữa chạy khắp các danh y trong kinh thành. Ai cũng bó tay, ngươi trị được sao? Ngô Kiệt đỏ mặt, đáp: - Tại hạ chỉ biết sơ về dược lý, nói đến chữa bệnh... Thật sự là xấu hổ, nhưng phương thuốc là do bá phụ Ngô Thanh Viễn truyền xuống, nghe nói chữa bệnh thương hàn rất tốt... Vừa nghe nói tới mấy chữ “Ngô-Thanh-Viễn”, bảy hồn sáu phách của Dương Lăng đột nhiên trở về cơ thể. Y sải bước chặn ngay trước mặt Ngô Kiệt, trợn tròn mắt quát: - Ngươi nói ai? Ngô Thanh Viễn sao? Viện trưởng Thái Y viện Ngô Thanh Viễn à? Ngô Kiệt giật bắn cả người, lui lại một bước, lập cập đáp: - Chính... Chính là ông ấy! Đúng là bá phụ ta từng giữ chức viện trưởng Thái Y viện, chỉ là bảy năm trước đã qua đời. Đại nhân nghe nói về ông ta rồi à? Dương Lăng hớn hở, y ngửa mặt lên trời hét to một tiếng, rồi vội vàng bảo Ngô Kiệt: - Mau mau, mau vào phòng! Nói cho ta biết phương thuốc của ngươi! ... Cửa sổ phòng Dương Lăng đóng chặt. Ngô Kiệt và huynh đệ họ Điền đều đang đứng trong gian nhà chính, thần sắc khẩn trương đợi chờ tin tức trong phòng. Ngô Kiệt chép lại phương thuốc xong, lập tức gọi tên xa phu đi lấy thuốc, xa phu bèn chạy về Hạnh Lâm Cư. Anh em họ Điền nghe nói phương thuốc này do diệu thủ thần y Ngô Thanh Viễn ngày xưa lưu lại, có thể trị được bệnh thương hàn cấp tính bèn lập tức tự mình hốt dược liệu tốt nhất, rồi cùng đến xem kết quả ra sao. Phương thuốc trị bệnh thương hàn của Ngô Kiệt gọi là ”Hợp Chưởng Cao”, chuyên trị bệnh thương hàn cấp tính dẫn tới bất tỉnh nhân sự. Thuốc này không được uống, chỉ dùng Xuyên Ô, Thảo Ô, Ban Mao, Ba Đậu, Tế Tân, Hồ Tiêu, Phèn Chua, Can Khương, Ma Hoàng theo phân lượng nhất định mà điều chế, nghiền thành bột. Dùng dấm quết thành viên, cặp vào nách, khoeo chân, đốt tay người bệnh. Mặt khác, cho một người nằm phủ lên trên, hai đôi bàn tay đặt áp vào nhau, tứ chi tương hợp, đắp chăn thật dày, cho đến lúc cả người đẫm mồ hôi, lại dùng nước nê hoàng tẩy sạch là khỏi. Trên người Dương Lăng đắp ba tầng chăn bông dày, hai tay nắm lấy đôi bàn tay lạnh buốt của Ấu Nương. Nóng quá, y đổ mồ hôi dầm dề, vì đang áp vào má Ấu Nương nên những giọt mồ hôi to tướng từ trên đầu y lăn xuống, rơi lên trán Ấu Nương. Cảm thụ nhịp hô hấp của nàng rất khẽ, trong lòng Dương Lăng không ngừng thầm gọi: - Ấu Nương, tỉnh lại! Ấu Nương, nàng nghe được chứ? Nhất định phải sống lại, nàng hứa sẽ theo tướng công cả đời mà... Bên dưới, dường như Ấu Nương nghe được tiếng thầm thì trong lòng hắn, rất lâu sau đó, nàng chợt phát ra một tiếng rên rỉ như có như không... ********************************* Trong hoàng cung, Hoằng Trị đang chắp tay đi đi lại lại, hồi lâu vẫn chưa nói lời nào. Trương Duyên Linh không nhịn được, cả giận bẩm: - Hoàng Thượng ân sủng với Dương Lăng đến thế, y lại càn quấy như vậy, không xem vua ra gì, đại nghịch bất đạo, thật là trái đạo lý. Hoàng Thượng, phải lập tức chém đầu y, làm gương cho thiên hạ! Thượng thư Vương Quỳnh cũng giận đến tóc bạc dựng cả lên, tâu: - Thiên địa quân thân sư (trời - đất – vua - cha - thầy)! Uổng cho Dương Lăng đọc rất nhiều sách thánh nhân, đến cả loại đạo lý này cũng không hiểu. Không giết người này, uy nghiêm triều đình còn đâu nữa. Bệ hạ, xin hạ chỉ đi. Bọn người Lưu Kiện tuy có lòng tiếc rẻ nhân tài, nhưng lần này Dương Lăng gây chuyện thật quá lớn. Thiên tử có chiếu mà không phụng, đó là tội giết cả cửu tộc. Ngay cả giết một mình y cũng xem như là nhẹ nhàng cho y rồi, họ còn làm sao mở miệng xin bệ hạ khai ân chứ? Lý Đông Dương thấy bước chân hoàng đế Hoằng Trị càng lúc càng chậm lại, hai hàng lông mày từ từ nhíu chặt hệt như muốn hạ chỉ. Trong lòng lão vô cùng căng thẳng, chợt nhanh trí nghĩ ra một cách, lúc này lão cũng chẳng còn tâm trí xem xét liệu cách đó có hữu hiệu hay không, lập tức quì sụp xuống, vô cùng phẫn nộ bẩm: - Hoàng Thượng! Đừng do dự nữa, thần cũng nghĩ rằng Dương Lăng đáng chết. Bệ hạ triệu hắn tiến cung, thánh chiếu đã ban, đó là thứ trọng yếu nhất trên đời này. Đừng nói thê tử hắn đang mắc bệnh nặng, cho dù nhà y có cháy cũng phải lập tức tiến cung, sao dám trái lẽ cương thường, không phân nặng nhẹ như thế? Lý Đông Dương lại chầm chậm thốt từng từ: - Hơn nữa, nếu người bị bệnh là cha mẹ y thì còn châm chước được, ít nhất còn được xem là có hiếu. Nhưng thê tử là cái quái gì? Thê tử mà mất đi, cưới một người khác là được, đại trượng phu kiến công lập nghiệp, lo gì không có vợ đẹp thiếp xinh. Tên Dương Lăng này có vợ thì quên cha, có cha lại quên vua, người ta nói: thê tử như y phục... Lưu Kiện, Tạ Thiên nhất thời nghe mà ngơ ngác chẳng hiểu gì. Lý Đông Dương chính là một đại gia nổi tiếng của văn học đương thời, sao hôm nay nói chuyện lại thô lỗ, ngang ngược như thế? Lại nữa, rõ ràng bệ hạ có ý yêu tài, do chuộng tài nên ngài mới chần chừ, khó ra quyết định xử trảm; ngươi không thương tiếc kẻ hậu bối thì thôi, sao lại hùa theo bỏ đá xuống giếng? Hai người bọn họ còn chưa hiểu được thâm ý của lão thì Lý Đông Dương đã đứng thẳng người lên, mồm miệng leo lẻo, nước bọt bắn bay tung tóe, chê bai thê tử đến mức đừng nói là y phục, ngay cả quần lót cũng không bằng. Lão đang mắng chửi hăng say thì Trương hoàng hậu - bậc mẫu nghi đã mặt ngọc đỏ bừng, đùng đùng nổi-thiên hạ, người đứng đầu lục cung- giận. Bà vỗ bộp lên bàn, mày liễu dựng ngược, mắt phượng tròn xoe, cất giọng trong trẻo mắng: - Lý Đông Dương! Ngươi câm mồm cho ta!

Chương 75: n Uy Đều Dùng Dịch: workman Biên dịch: Kiếp Nô Biên tập: Ba_Van Hiệu đính: Nguồn: www.tangthuvien.com Hừ, các ngươi mà cũng hiểu được “thiên địa quân thân sư” sao! Một kẻ không rèn luyện đạo đức, bất kính với thiên địa, không xem nặng tình ý lại có thể là người quân tử trung hiếu nhân nghĩa được ư? Lúc đó mà hắn thượng triều gặp vua, là hắn kính sợ quân vương hay tham vinh hoa phú quý? ------------------------ Chương bảy mươi lăm: n Uy Đều Dùng ------------------------ Hoàng đế Hoằng Trị có phần sợ vợ, tuy nói rằng việc đại sự không thể hồ đồ nhưng xưa nay ông rất sủng ái hoàng hậu; lúc này thấy bà nổi giận, ông cũng không khỏi giật bắn cả người. Trương hoàng hậu căm tức nhìn Lý Đông Dương, thù mới hận cũ dâng lên trong lòng, cặp mắt như sắp phun lửa. Ngày xưa khi mình chưa sinh hoàng tử, đám người này bèn cả ngày lên triều yêu cầu hoàng đế nạp phi. Hôm qua Lý Đông Dương còn dâng sớ hạch tội anh mình khiến anh ấy phải vào ngục. Hôm nay lão lại dám nhân chuyện của Dương Lăng mà ở trước mặt mình chỉ gà mắng chó, như thế còn thể thống gì nữa? Trương hoàng hậu cất giọng lạnh như băng: - Hoàng Thượng tuyển hiền tài cần chú trọng người có đức hạnh. Vợ kết tóc của Dương Lăng đang lâm trọng bệnh, tính mệnh nguy trong sáng tối, nếu lúc này Dương Lăng tiếp thánh chỉ, vứt bỏ thê tử mà vào triều gặp vua thì hắn là người như thế nào? Đó là kẻ táng tận lương tâm, thiên địa không dung! “Thiên địa quân thân sư” hử? Hừ, các ngươi mà cũng hiểu được “thiên địa quân thân sư” sao! Một kẻ không rèn luyện đạo đức, bất kính với thiên địa, không xem nặng tình ý lại có thể là người quân tử trung hiếu nhân nghĩa được ư? Lúc đó mà hắn thượng triều gặp vua, là hắn kính sợ quân vương hay tham vinh hoa phú quý? Trương hoàng hậu vừa nói vừa không khỏi quắc mắt nhìn tên đệ đệ bảo bối. Tên tiểu đệ thật sự hồ đồ, đám đại học sĩ quen trò ném đá giấu tay, thế mà hắn lại không nhìn ra, còn nhắm mắt hùa theo. Trương hoàng hậu đổi giọng, quay sang Hoằng Trị đế dịu dàng nói: - Bệ hạ! Thần thiếp biết bệ hạ tức giận Dương Lăng dám không tuân thánh chỉ. Nhưng điều này cũng nói rằng bệ hạ có tuệ nhãn tinh tường đã nhận biết được nhân tài. Từ xưa tới nay, có mấy hiền thần mà không xúc phạm tới long nhan chứ? Dương Lăng không tham quyền, không màng lợi, trọng tình trọng nghĩa, rất có phong phạm của bậc hiền giả ngày xưa. Thưở xưa, Tống Hoằng thời Hán Quang Vũ Đế không phải cũng lấy lý do là “Tào khang chi thê bất hạ đường” (1) mà trái thánh ý sao? Thời Đường Thái tông có vợ của Phòng Huyền Linh (2) dám kháng chỉ ngay giữa triều đình, hai vị minh quân này cũng không hề bắt tội. Có thể thấy được chỉ có vua thánh ra đời, mới có bực hiền thần như vậy xuất hiện thôi. Lý Đông Dương khẽ nhúc nhích cái chân đang quì ê ẩm, miệng chép chép như đang nếm một món ngon: “Ừm! Ta rất thích nghe những lời này của Hoàng hậu nương nương. Xem ra phụ nữ vẫn có người đọc sách, bằng không làm sao nói được những lời như thế này.” Trương Duyên Linh bị tỷ tỷ trợn mắt một hồi, nhất thời mù tịt mãi lúc này mới hiểu được: “Ôi, hóa ra mấy lão gia hỏa đang mắng chửi bóng gió, ngầm khuyên Hoàng Thượng đừng có sủng ái chánh cung. Hừm, đám đọc sách này thật đúng là lòng dạ ngoằn ngoèo quá mà!” Thông suốt vấn đề, Trương Duyên Linh lập tức hắng giọng bẩm: - Hoàng Thượng! Hoàng hậu nương nương nói rất đúng, không nên giết Dương Lăng! Hoằng Trị bị lời nói hoàng hậu lay động, ngẫm lại hoàng hậu nói cũng có lý. Nếu Dương Lăng thật sự bỏ cả người vợ kết tóc, bất chấp sinh tử của nàng mà vào triều yết kiến mình thì sau này mình còn dám dùng người như vậy không? Đang suy nghĩ bỗng nghe quốc cữu hô lớn như vậy, ông không khỏi lấy làm lạ hỏi: - Chẳng phải Kiến Xương hầu mới rồi đề nghị xử phạt hắn ở mức cao nhất, thông báo cho cả thiên hạ biết ư? Sao giờ lại nói là không giết nữa? Kiến Xương hầu đỏ mặt, đáp: - Việc này... việc này..., vi thần cũng vừa mới hiểu ra việc có nặng có nhẹ. Đương nhiên việc vua quan trọng, việc nhà không bằng; nhưng gặp vua cũng không phải là việc gấp, cứu người mới là việc không thể trì hoãn được, việc này... Lưu Kiện nghe hắn vất vả nói mãi mà không ra lời, không kìm được vội xen vào: - Hoàng hậu nương nương nói đúng! Hoàng Thượng là vua nhân ái mới có hiền thần tài đức xuất hiện. Dương Lăng làm được như vậy chính là nhờ công bệ hạ giáo hoá, thật là may mắn! Lời ngọt bùi tai, tuy Hoằng Trị biết tâm tư của đám cựu thần nhưng vẫn không kìm được phải cười khẽ. Ông về ngồi lại trên án suy tư một lát, rồi cười ha ha phán: - Đứng lên đi, đứng lên đi! Bị tên Dương Lăng náo loạn làm mất cả hứng thú của trẫm và các ái khanh. Tới đây, tiếp tục uống rượu! Việc của Dương Lăng... tạm thời gác lại, ngày mai bàn sau đi. Hoàng đế muốn gác lại bàn sau, bằng vào tài nghiêng theo chiều gió của đám thần tử, nếu không phải kẻ mù, có ai mà không hiểu rõ ý hoàng đế chứ? Không lập tức bắt ngay mà lại bảo là ngày khác bàn sau, bàn cái gì bây giờ? Là bàn xem nên đem xe gấm đi bắt hắn hay là vác gông xiềng đi bắt hắn ư? Bọn Lưu Kiện yên tâm, vui mừng vô kể. Lúc này Trương hoàng hậu thấy mình đánh hòa được với Lý Đông Dương một ván nên cũng dương dương tự đắc. Mọi người ăn uống vui vẻ, nhất thời xuất hiện một cục diện tốt đẹp. ********************************* Dương Lăng ôm chặt thân thể mềm oặt gần như không chút sức sống của Ấu Nương. Đang lúc y lo âu vạn phần lại chợt nghe tiếng Ấu Nương rên rỉ, lập tức cảm thấy như nghe được nhạc tiên. Y phấn khởi tới mức tiếng gọi cũng run run: - Ấu Nương, nương tử? Qua hồi lâu, Ấu Nương mới cố lên tiếng đáp lời. Dương Lăng mừng rỡ, xiết thật chặt bàn tay đầy mồ hôi của nàng. Thấy Ấu Nương mỏi mệt không chịu nổi, vẫn chưa mở mắt được, y sợ nàng lại mê đi như cũ, vội ghé vào sát tai Ấu Nương gọi nhỏ: - Ấu Nương, nàng mau tỉnh lại nhanh lên! Nàng thích tướng công ôm nàng nói chuyện, chờ khi nàng khỏe hơn, mỗi tối tướng công đều ôm nàng, đều nói chuyện với nàng, được không? Nương tử yêu dấu của ta, tướng công không nỡ xa nàng đâu. Không phải hai ngày trước nàng từng nói là muốn mua táo để trồng trong viện hay sao? Hôm nào hai ta cùng đi mua, cùng trồng táo trong viện. Nàng nói muốn nuôi gà, vậy chúng ta nuôi gà. Đúng rồi, còn nuôi thêm con chó giữ cửa nữa, có gà bay chó nhảy mới đủ náo nhiệt chứ! Ấu Nương, kinh thành không so được với nông thôn. Nàng chỉ một mình ở nhà, lại không có gì tiêu khiển. Đợi khi nàng khỏe mạnh, ta sẽ cùng nàng sớm sinh một... à không, sinh ra một đám tiểu bảo bối, để nàng chẳng thể rảnh rỗi nữa, nàng thích không? Nàng phải sống mới có thể giúp tướng công làm những việc này, bằng không tướng công sẽ cưới một cô vợ tuyệt đẹp khác, cùng cô ta nói chuyện phiếm, cùng cô ta trồng cây, cùng cô ta nuôi... - Không... Không được... Thân thể Hàn Ấu Nương bỗng nhúc nhích, rồi đột nhiên nàng rên rỉ thốt. Dương Lăng khựng lại, y đờ đẫn hồi lâu mới nhấc đầu lên khỏi mái tóc ẩm ướt của Ấu Nương, dán mắt hớn hở nhìn nàng. Dưới ngọn đèn, hai má Ấu Nương vẫn đỏ ửng màu bệnh tật, chóp mũi lấm tấm những giọt mồ hôi nhỏ, nhưng những đốm đỏ nơi cổ đã hoàn toàn biến mất. Loại thần sắc nhợt nhạt cũng không còn thấy nữa. Đôi mi thật dài của nàng rung rung hồi lâu, khẽ mở mắt ra rồi lại mệt mỏi nhắm chặt, rên rỉ nói: - Tướng công, người ta... mệt quá, không muốn mở mắt. Dương Lăng luôn miệng an ủi: - Được được, không mở mắt thì không mở mắt! Nàng được như vậy là tốt rồi, như vậy là tốt rồi. Trong phòng vô cùng yên tĩnh, chỉ nghe tiếng tim đập thình thịch của hai người. Dương Lăng cảm thấy bàn tay nhỏ bé của Ấu Nương dần dần ấm lên, áp mặt vào trán nàng đã cảm thấy hơi nóng. Y không khỏi thở phào một hơi. Qua hồi lâu, Ấu Nương mới thở mạnh một chút, nàng nhúc nhích thân thể mềm mại, yết ớt nói: - Tướng công, nóng quá... Dương Lăng vội đáp: - Đừng nhúc nhích, cẩn thận không lại trúng gió. Mớ thuốc còn chưa tan hết mà. Ấu Nương ôn thuận ừm một tiếng, thở hào hển nói: - Tướng công... Có thể nhẹ một chút không, Ấu Nương thở... thở không nổi. Dương Lăng nhìn lại, mới biết Ấu Nương bị mình đè tới mức thở không nổi, vốn y còn tưởng Ấu Nương vẫn chưa đủ khí lực để nói chuyện. Dương Lăng vội vàng chống cùi chỏ xuống, khẽ khàng nhướn người lên, Hàn Ấu Nương thở gấp một lát, từ từ mở mắt. Nàng ngắm nhìn gương mặt đầy mồ hôi của Dương Lăng một lúc rồi âu yếm bảo: - Tướng công, Ấu Nương cảm thấy khỏe nhiều rồi, chàng... chàng nghỉ ngơi đi. Dương Lăng ừm một tiếng, nghiêng người qua một bên nằm dựa vào nàng. Ấu Nương nhắm mắt lại, một chút sau lại nói khẽ: - Tướng công, Ấu Nương muốn nghe chàng nói chuyện nữa. - Ừm!... Nói... Nói gì nhỉ? Thường khi đều là lúc ta ngủ, nàng ghé tai ta nói chuyện mà. Dương Lăng ngơ ngẩn đáp. Ấu Nương hơi thẹn thùng giục: - Nói như... vừa rồi ấy. Ấu Nương chưa từng nghe... Tướng công nói như thế đi, thiếp thích nghe lắm... *************************** Câu chuyện Dương Lăng kháng chỉ cứu vợ vừa lan truyền khắp thành Bắc Kinh, trong toàn kinh thành vô luận cao thấp giàu nghèo, tất cả đám ”Y phục” (ý nói phụ nữ như y phục) đều đứng về phía Dương Lăng, nhao nhao ủng hộ. Những quan chức trong kinh cũng chia thành hai phái, tranh luận mặt đỏ tía tai mãi vẫn không phân thắng bại. Kết quả là sau buổi thiết triều cùng ngày, gã đại thần nào ở nhà có con gái thì lập tức bị oanh tạc đến mệt lả, tối đến lại bị thê thiếp ném gối vào mặt tới tấp, kẻ nào lập trường không kiên định thì lập tức phất cờ trắng, quyết định giả câm giả điếc về việc này. Phe chống đối họ Dương lập tức trở nên người đơn thế cô. Tin tức Hoàng Thượng không lập tức hạ chỉ truy bắt Dương Lăng lại được lan truyền. Một vài vị ngôn quan có giác quan thứ sáu bắt đầu đứng về phía Dương Lăng, tra cứu lệ cũ, tham khảo hồ sơ, bắt đầu luyện võ mài thương, tìm những lý lẽ để biện minh cho hành vi của Dương Lăng. Đám sĩ tử trong kinh cũng thảo luận ồn ào. Có tên sĩ tử Giang Tây là Nghiêm Tung còn viết một bài phú dài lan truyền khắp nơi. Trước hết gã tô vẽ hoàng đế Hoằng Trị rực rỡ như Nghiêu Thuấn tái thế, lại trích dẫn kinh điển, trắng trợn tán dương Dương Lăng đã được bệ hạ giáo hoá, vua sáng tôi hiền. Đám người khác hùa theo, như thể vua mà không thế thì không phải là minh quân, thần mà chẳng vậy thì chẳng phải trung thần. Bản thân Dương Lăng cũng bận tới mức không thể dứt ra được. Y chỉ có thể viết một phong thư, bảo Ngô Kiệt mang về Kê Minh mời phụ tử họ Hàn lập tức tiến kinh. Y nghĩ lần kháng chỉ này không chết cũng phải ngồi tù. Bệnh Ấu Nương nặng như thế, làm sao chịu được đả kích này nên y hoàn toàn không dám kể với nàng, chỉ mong sao cha con họ Hàn có thể sớm tới kinh thành, Ấu Nương sẽ được chăm sóc chu đáo. Thấy Ấu Nương vừa bệnh xong, thân thể còn suy yếu, Dương Lăng bèn đi mua một nha hoàn trẻ tuổi về chăm sóc nàng. Khi y tới chỗ quan phủ đăng ký giấy tờ chủ tớ thì đám người nha môn từ chủ bộ tới nha dịch đều chạy ra cửa vây tròn nhìn ngắm y. Nhiều ánh mắt kiểu “Phong tiêu tiêu hề Dịch thủy hàn” (3) nhìn y đầy vẻ luyến tiếc. Sáng sớm hôm sau, lần đầu không cần Ấu Nương đánh thức, Dương Lăng đầy bụng tâm sự đã dậy rất sớm. Y thu dọn xong xuôi, lưu luyến nhìn thoáng qua Ấu Nương còn đang ngủ say, lặng lẽ gọi tiểu nha đầu Vân Nhi đến dặn dò một hồi, rồi chạy tới Tử Cấm thành. Vết thương trên mông Dương Lăng vẫn chưa lành, sợ tới muộn nên y phải đi xe. Như thường lệ khi đi tới cửa hông, thị vệ Cấm Cung xét yêu bài của y, rồi cười lạnh nhạt bảo: - Dương đại nhân! Nội cung truyền ý chỉ, nếu Dương đại nhân tới thì không cần phải đi Đông cung thị độc mà quì ngoài ngọ môn chờ thánh dụ là được. Dương Lăng tim đập thình thịch, chắp tay đáp: - Dạ, đa tạ tướng quân! Y tập tễnh đến trước cửa cung. Một đám văn võ đại thần người mặc triều phục, tay cầm hốt ngà đang đứng chờ cửa cung mở để vào. Thấy một tên quan hàm lục phẩm đi tới, cả bọn không khỏi lộ vẻ kinh ngạc, đều đưa mắt tò mò nhìn y. Dương Lăng nhìn thẳng phía trước, đi đến cửa cung nghiêm chỉnh quỳ xuống, cúi đầu không nói gì. Đá phiến bằng phẳng, khi vừa quỳ thì không sao, nhưng quì lâu thì đầu gối lại ê ẩm. Ở cửa cung có quan chức phụ trách việc theo dõi dung nhan của văn võ bá quan. Bây giờ Dương Lăng là tội thần, không dám hành động thiếu suy nghĩ khiến cho người khác có cớ luận tội nên y đành phải cố mà nhẫn nại. Không lâu sau, tiếng chuông du dương từ xa xa vọng đến. Ánh nắng đầu tiên trên không trung rọi lên cửa cung màu son. Cửa cung vừa mở, đủ loại quan lại bắt đầu thượng triều. Dương Lăng cúi gục đầu, chỉ nhìn thấy những đôi ủng quan lại đi qua trước người mình, phát ra âm thanh sàn sạt. Buổi triều sớm bắt đầu rồi. Thời gian trôi qua từng giây. Hai tay Dương Lăng chống đất, đầu gối ê ẩm không còn tri giác; vì phải giữ mãi một tư thế nên cổ cũng trở nên mỏi nhừ không chịu nổi, mồ hôi từ trên trán nhỏ xuống từng giọt. Tiếng chuông lại vang lên, một đám quan lại bãi triều nối đuôi nhau trở ra, đi qua trước mặt y. Tinh thần Dương Lăng rung lên: buổi triều sớm tan rồi, hoàng đế cũng nên gặp mình chứ. Nhưng y đợi hồi lâu mà trong cung vẫn im ắng. Dương Lăng không khỏi tuyệt vọng. Chẳng lẽ hoàng đế muốn mình quì đến chết tại nơi này sao? Y đã chịu không nổi sự giày vò phải giữ mãi một tư thế lâu như thế này rồi. Hai tay Dương Lăng cố gắng chỏi đất, trước mắt sao bay loạn xạ, bắp thịt cổ giật giật. Dương Lăng cũng chẳng biết làm sao mà mình có thể chống đỡ được tới khi buổi ngọ triều chấm dứt, mãi đến khi một tên tiểu thái giám đi đến trước người y cao giọng hô: “Dương đại nhân! Bệ hạ gọi ngài tiến cung!“ thì y mới tỉnh người... Dương Lăng cố gắng một hồi mới loạng choạng đứng lên được, lom khom theo sau tên tiểu thái giám đi vào cung. Qua cầu Kim Thủy, vượt cổng Thái Hòa, qua điện Thái Hòa, điện Trung Hòa, điện Bảo Hòa, xuyên qua cổng Kiền Thanh, cuối cùng Dương Lăng được tên tiểu thái giám dẫn thẳng vào nội đình. Lúc này y đã dần dần bình tĩnh lại: “Hoàng đế gặp mình trong nội điện, ít ra mình cũng không bị họa mất đầu.” Dương Lăng được dẫn tới trước điện, tên tiểu hoàng môn khom người xướng to: - Bẩm Hoàng Thượng, Dương Lăng cầu kiến. Từ trong, có một lão thái giám cất cao giọng nói: - Bệ hạ có chỉ, tuyên hắn yết kiến! Dương Lăng vừa bước vào cửa đã thấy hoàng đế Hoằng Trị mặc thường phục màu vàng sáng ngồi sau án đang múa bút vẽ tranh, bên cạnh là tên Đại thái giám có tên Miêu Quỳ mài mực hầu hạ. Trong ngự thư phòng ngoại trừ bọn họ ra thì không còn bất kỳ người nào khác. Dương Lăng vội vàng tiến lên vài bước, quỳ xuống đất bẩm: - Tội thần Dương Lăng khấu kiến Hoàng Thượng, tội thần vạn lần đáng chết! Hoằng Trị làm như không nghe y bẩm. Ông vẫn chú tâm vào giấy vẽ, múa bút phác họa rất nhanh một hồi, sau đó hạ bút cười hỏi: - Thế nào? Miêu Quỳ tán thưởng: - Nét vẽ của bệ hạ rất có lực, thần thái sống động, thực là tác phẩm của đại gia. Hoằng Trị cười ha ha, nói: - Ngươi thì biết gì! Ha ha! Dương thị độc! Ngươi đến xem trẫm vẽ bức này như thế nào? Dương Lăng thấy ông cười nói an nhàn, xem ra cũng không đề cập gì tới chuyện mình kháng chỉ, không khỏi cảm thấy kỳ lạ. Y thấp thỏm không yên, đứng dậy tới trước mặt Hoằng Trị, nhìn lên ngự thư án, thấy trên giấy có vẽ một ngọn núi, trên núi cây cối rậm rạp, đỉnh núi có một cây tùng xanh thẳng tắp như muốn chọc thẳng vào mây, xa xa mờ ảo có những dãy núi chập chùng. Cả bức họa mặc dù đơn giản, nhưng tài vẽ quả nhiên bất tục. Dương Lăng không hiểu hội họa, nhưng kiếp trước hắn giỏi thư pháp, thơ cổ nhớ rất nhiều. Mắt thấy những dòng vẽ non nước đậm nhạt thích hợp, nhưng lại không có cách nào đánh giá được, y liền khéo léo tâu: - Bệ hạ công lực hùng hậu, càng khó hơn chính là bức tranh này ngụ ý thâm sâu, chí trùm thiên hạ. Nhìn cây tùng um tùm ở nơi cao ngàn trượng này, tuy sần sùi không vuông vức, nhưng vẫn có thể dùng để dựng nhà lớn, tất phải là trụ cột đây (4). Trong mắt Hoằng Trị hiện lên chút dị sắc, ông cười khẽ: - Chẳng lẽ Dương khanh chỉ nhìn một gốc tùng đơn độc này thôi sao! Ngươi phải nhìn cây cối trên cả quả núi này, có những cây mọc thẳng tắp có thể làm đòn xà, lại có những cây tráng kiện có thể làm rường cột, nhưng cũng có rất nhiều cây cong queo hình thù kỳ dị, đành phải chặt xuống làm củi đun thôi. Ông ung dung cười, khóe môi lại mang chút lãnh ý: - Dương khanh! Ngươi nguyện làm rường cột, làm đòn xà hay làm củi đun đây? Dương Lăng không chút nghĩ ngợi liền quỳ xuống, lớn tiếng tâu: - Thần nguyện làm gỗ xà ạ! Miêu Quỳ hơi lạng người, chút nữa thì lật úp cả nghiên mực Đoan Khê trong tay. Còn Hoằng Trị tưởng rằng y sẽ phơi gan trải mật, hùng hồn trần tình một hồi, không nghĩ tới y vừa mở miệng lại phun một câu như vậy. Hoằng Trị ngẩn người hồi lâu mới kinh ngạc hỏi: - Cái gì? Ngươi nguyện làm gỗ xà à? Dương Lăng cúi đầu đáp: - Dạ, thần văn không thể được như tam công Lưu, Tạ, Lý để có thể trợ giúp bệ hạ trị quốc an thiên hạ, võ không thể chỉ huy thiên quân vạn mã, chinh chiến chốn thảo nguyên hoang mạc, dương oai tứ hải. Thế nên thần xin nguyện làm gỗ xà, có thể vì bệ hạ mà giữ một làng một huyện, tạo phúc cho dân chúng một phương là thần thoả mãn rồi. Hoằng Trị nghe xong phì cười, cảm thấy tên bầy tôi này tuy mưu lược, nhưng tính tình lại ngay thẳng đáng yêu, căn bản là một tên nông nổi. Ông thoáng nhìn thấy Dương Lăng thưa chuyện mà cặp đầu gối còn khẽ run run, cũng không biết là vì sợ quá hay vì quì lâu ngoài ngọ môn. Trong lòng ông không khỏi thông cảm: “Thôi, hôm nay cho y quì ở ngọ môn một lần trước mặt văn võ bá quan coi như là khiển trách rồi. Ta vẫn cần người này, nếu dọa y sợ hãi quá thì từ nay y làm việc sẽ ngại đầu ngán đuôi, e rằng lợi bất cập hại.” Ông cười ha ha, bảo: - Đứng lên đi! Ngươi cố tình so mình với các ái khanh Lưu Tạ Lý, như vậy lòng dạ cũng đã cực cao rồi. Khi họ cùng tuổi ngươi, cũng cùng thân phận như ngươi mà lên thôi. Lúc còn bình thường như ngươi, họ còn chưa có được hùng tâm như ngươi bây giờ đâu, do đó ngươi cũng không cần phải tự ti. Ông nói rồi đi vòng qua thư án, đề bút vẽ trên bức họa một hàng chữ to như rồng bay phượng múa: ”Sâm sâm thiên trượng tùng, tuy lỗi kha đa tiết mục, dụng chi đại hạ, chung thị đống lương chi tài” (xem chú thích (4)), đưa cho Dương Lăng, bảo: - Bức họa này trẫm ban cho ngươi, hi vọng ngươi nhớ những gì nói ngày hôm nay, luôn luôn nhắc nhở bản thân. Ha ha, ngươi lui ra đi! Dương Lăng ngơ ngác tiếp nhận bức họa báu của Hoằng Trị, vẻ mặt hoang mang. Hoàng Thượng để mình quì ở ngoài cửa cung tới tận giờ ngọ, khi mình vào lại ban cho một bức họa, sau đó đuổi về nhà? Việc này chứng tỏ thiên uy quả thật không lường được. Y bẩm như trút được gánh nặng: - Dạ, thần cáo lui! Nói rồi hai tay nâng bức họa lên khỏi đầu, y khép nép lui xuống. Hoằng Trị đế nhìn y rời khỏi ngự thư phòng, ánh mắt lộ nét cười. Ông khẽ gục gặt đầu: - Không tự thị, tất rạng danh; không tự phụ, tất có công; không khoe khoang, tất sống lâu. Ừm, tuổi nhỏ mà có thể có được kiến giải như vậy, không uổng công trẫm một phen bồi dưỡng. Miêu Quỳ! Truyền chỉ bãi chức Dương Lăng không làm thị độc Đông cung nữa, chuyển sang làm quan trung quân ở Thần Cơ doanh. Miêu Quỳ kinh hãi biến sắc, vội hỏi: - Bệ hạ! Dương Lăng vừa mới bị phạt đã thăng lên chức quan trung quân, e rằng đám triều thần sẽ lại dị nghị. Hoàng Thượng, có khi nào nên cho y nhậm chức phó đô tư trước, sau này mới từ từ lên chức? Hoằng Trị cười khổ một tiếng, lòng thầm nghĩ: “Chẳng phải trẫm không nghĩ tới việc từ từ huấn luyện, chỉ là trẫm sợ thiên mạng đã tận, không có thời gian nữa rồi. Bây giờ lục bộ trong triều, tam công nội các đều là cựu thần, chủ yếu là lão thần, già cả hết rồi. Tuy nói họ cũng rất trung thành, nhưng dù sao nếu không xây dựng bầy tôi thành một lực lượng riêng cho con ta, cân đối công thần trong ngoài, làm sao con ta cai quản vạn dặm giang sơn, văn võ cả triều cho được?” Hoằng Trị nghĩ ngợi một lát rồi khoát tay bảo: - Thôi, ý chỉ của ta chỉ nói bố trí y nhậm chức ở Thần Cơ doanh, còn về phần chức vụ cụ thể... Vương Nhạc quản lý mười hai đoàn doanh, luôn luôn làm việc rất ổn thoả, cứ để lão thu xếp đi. Đúng rồi, ban thêm cho y hai bình thuốc trị thương. Ngày hôm qua Dương Lăng kháng chỉ, ôm vợ cầu thầy, hôm nay trẫm cho vợ Dương Lăng phụng chỉ rịt thuốc cho chồng, ha ha ha! Chú thích: (1) Câu nói trích từ điển cố Tống Hoằng thời Đông Hán. Năm ấy hoàng đế Lưu Tú muốn gả tỷ tỷ của mình cho Tống Hoằng, nên dọ ý Tống Hoằng về chuyện “Quý dịch giao, phú dịch thê” (giàu đổi bạn, sang đổi vợ) nhưng Tống Hoằng đáp: “Bần tiện chi giao bất khả vong, tào khang chi thê bất hạ đường.”, nghĩa là: “Không thể quên những người bạn từ thuở còn hèn mọn, không thể bỏ người vợ từ thuở còn nghèo khổ”. Lưu Tú nghe xong, cảm hắn tình thâm nghĩa trọng, chẳng những không trách phạt mà còn quý trọng Tống Hoằng hơn. Điển cố “Tào khang chi thê bất hạ đường” từ đó được lưu truyền đến ngày nay. Cũng từ đó, “Tào khang” (cám bã, người nghèo khó dùng làm thức ăn) có nghĩa bóng là “vợ cả”. Xin xem thêm: http://baike.baidu.com/view/488922.htm (2) Vợ của tể tướng Phòng Huyền Linh đời Đường nổi tiếng ghen tuông, ngang ngạnh, thẳng tay đuổi cổ hai vị mỹ nhân mà hoàng thượng đích thân ban tặng Phòng Huyền Linh trong một buổi tiệc rượu. Hoàng thượng biết chuyện, triệu hai vợ chồng Phòng Huyền Linh vào cung hỏi tội, bảo rằng: một là dẫn hai vị mỹ nhân về nhà, hai là ban cho rượu độc. Vợ của Phòng Huyền Linh ngạo khí ngất trời, thà chọn rượu độc chứ quyết không để chồng nạp thiếp, một hơi uống cạn chung rượu vua ban. Thế nhưng, đó thật ra là giấm chứ chẳng phải rượu độc, vua xét lại thấy người phụ nữ này kháng lệnh cũng vì quá yêu chồng nên quyết định xá tội. Từ đó, cụm từ “uống giấm” có nghĩa bóng là các bà vợ hay ghen tuông. Xin tham khảo thêm: http://blog.yume.vn/xem-blog/chuyen-tinh-noi-tieng-trong-lich-su.minhtruc88.35A6AAEF.html (3) Trích từ bài hát của Kinh Kha khi qua sông Dịch đến đất Tần để hành thích Tần Thủy Hoàng: “风萧萧兮易水寒, 壮士一去兮不复还" "Phong tiêu tiêu hề dịch thủy hàn, tráng sĩ nhất khứ hề bất phục hoàn". Dịch nghĩa: Gió hiu hắt hề, nước sông lạnh; Tráng sĩ một đi hề, chẳng trở về. (4) Nguyên văn ”Sâm sâm thiên trượng tùng, tuy lỗi kha đa tiết mục, dụng chi đại hạ, chung thị đống lương chi tài” Nghĩa bóng: người có tài trác việt tuy có vài khiếm khuyết, nhưng tựu chung vẫn có thể gánh vác trách nhiệm trọng đại, làm bầy tôi trụ cột. (TheJoker)

Chương 76: Nhiệm Vụ Mơ HồDịch: workman Biên dịch: Kiếp Nô Biên tập: Ba_Van Hiệu đính: Nguồn: www.tangthuvien.com Dương Lăng nghiến răng, giậm chân nói: - Hay lắm! Ta cũng không tin trên một vạn lượng bạc mà vẫn không chuộc được người!... À!... Đúng rồi, rốt cuộc thái tử gia thích cô nào nhỉ? ------------------------ Chương bảy mươi sáu: Nhiệm Vụ Mơ Hồ ------------------------ Dương Lăng ôm bức tranh quý chưa bồi lưng của hoàng đế, ngồi xe thuê về nhà. Xuống xe, y cất bước đủng đỉnh nghênh ngang vào nhà, uy nghi chẳng kém các đại thần thượng triều. Phiền một nỗi là tiểu nha hoàn Vân nhi lanh mồm lanh miệng đã sớm cao hứng đem hành động vĩ đại của lão gia bị phạt trượng rồi kháng thánh chỉ kể cho Ấu Nương nghe, nên dù hắn làm bộ như thế vẫn không thể giấu được ai. Nghe kể xong, Hàn Ấu Nương đã lập tức đứng ngồi không yên ngóng đợi tin tức phu quân. Vừa nghe thấy tiếng của tướng công, nàng vội vàng nhảy ra khỏi phòng ôm chặt cổ y, mắt đầy lệ, vui mừng lắp bắp: - Tướng công! Chàng đã về, … Ấu Nương lo muốn chết. Nàng vẫn chưa chải đầu, mặt không son phấn, tóc xõa ngang vai giống hệt kiểu tóc lúc ở nhà của phụ nữ thời Hán Đường và những cô gái xõa tóc thời hiện đại, phối hợp với chiếc váy màu xanh nhạt mộc mạc càng tôn dáng người mềm mại yếu đuối. Dương Lăng thấy gương mặt vợ yêu vừa khỏi bệnh vẫn đầy vẻ nhợt nhạt nên không khỏi lo lắng: - Nàng vừa khỏi bệnh, không phải Điền thần y đã bảo nàng phải nằm nghỉ sao! Sao lại ra đây, mau vào nằm đi! Phải rồi, nàng đã uống thuốc điều hoà thân thể mà Điền thần y cho chưa? Tiểu nha hoàn Vân nhi bên cạnh sợ hãi thốt: - Lão gia, nô tỳ sắc rồi, nhưng phu nhân ngại đắng không chịu uống. Người nói ngồi trên giường hít thở là được, đã hít thở hết một lúc rồi. Dương Lăng đã thấy Ấu Nương luyện khí công, nay nghe tiểu nha đầu nói rất thú vị không khỏi phì cười. Ấu Nương lo lắng hỏi: - Tướng công, hoàng đế không trách tội chàng chứ? Ấu Nương nghe nói chàng bị đánh ba mươi côn, vết thương có nặng không? Hoàng Thượng đã không phạt tội nên bây giờ Dương Lăng cũng không lo Ấu Nương biết chuyện. Y cười khà khà đáp: - Không việc gì, nàng không thấy ta khỏe lắm à? Nàng hãy chóng khỏe lại, đừng làm cho tướng công lo lắng là tốt rồi. Nói xong, y ghé lại gần Ấu Nương thấp giọng: - Đừng lo! Đánh không đau, chỉ như tướng công phát vào mông nàng thôi. Vừa nghe xong Hàn Ấu Nương mặt đỏ bừng, sẵng giọng: - Coi kìa! Còn ăn nói hàm hồ như thế nữa, có người nghe đó. Dương Lăng chợt tỉnh ngộ trong nhà đã có thêm người mới, đâu thể so với lúc chỉ có hai người. Y ho khan một tiếng, lấy trong lòng ra một đồng tiền đưa cho Vân nhi, bảo: - Vân nhi! Ra chợ mua vài miếng đường trắng về pha vào thuốc cho phu nhân, mau đi đi. Vân Nhi dạ lớn một tiếng giòn tan, nhận lấy tiền rồi vội vàng đi ngay. Dương Lăng cùng Ấu Nương dìu nhau vào trong phòng. Dương Lăng thấy Ấu Nương mặc váy xanh nhạt, tay áo bó chặt, đáy quần thùng thình lộ ra thân thể gầy ốm, không khỏi lo lắng: - Dù nàng tập luyện thân thể tốt đến mấy nhưng hôm qua mới ra mồ hôi đầm đìa, không chịu được lạnh đâu. Ấu Nương dìu y tới giường lò, đáp: - Bây giờ đã tháng tư rồi, mặc nhiều đồ khó chịu lắm. Tướng công! Chàng mau nằm xuống để thiếp xem thương thế cho chàng. Hai người sớm đã gió mưa vài lần, Dương Lăng cũng không ngại phơi thân thể trước mặt nàng. Y nằm dài trên giường lò cho Ấu Nương cởi áo ra. Cũng may lúc đó còn chưa phát minh ra quần xịp, mảnh quần lót này vừa thoáng vừa rộng, cởi bỏ cũng dễ dàng. Ấu Nương dịu dàng cởi quần lót hắn ra, nhìn thấy có một phần quần bị dính vào mông, nàng lại không dám động mạnh. Dương Lăng đành phải nhịn đau tự kéo mạnh ra. Tuy mông Dương Lăng bị đánh cho rách da thịt nhưng kỳ thật không phạm vào gân cốt, chỉ cần điều dưỡng tốt là phỏng chừng đến cả sẹo cũng chẳng có. Nhưng hai ngày nay y bôn ba nơi nơi, vết thương đã rách lại càng thêm rách, bây giờ có vài chỗ còn rỉ chút máu loãng. Vốn mông y bóng bẩy trơn mịn, mềm mại vô cùng, bây giờ đã trở nên vằn vện mất rồi. Hàn Ấu Nương bịt miệng, nước mắt tuôn chảy. Dương Lăng cảm thấy mông hơi mát, quay đầu nhìn thấy bộ dạng của Ấu Nương rất thương tâm, y không khỏi ngạc nhiên hỏi: - Sao vậyẤu Nương ? Tuy ta đi đường thấy cũng hơi đau, nhưng không phải là bị thương tới gân cốt đâu. Hàn Ấu Nương sụt sịt, đau lòng nói: - Vết thương của tướng công đã lâu chưa lành, dù chữa khỏi cũng sẽ có sẹo. Dương Lăng buồn cười, trêu: - Thì sao? Đâu phải là mông của nương tử ta bị thương đâu. Ha ha! Trong nhà có thuốc chứ? Trát thuốc mau lên cho chồng nào, chỉ cần không đau là được. Hàn Ấu Nương vừa thẹn vừa tức, nàng lườm Dương Lăng, sẵng giọng: - Tướng công miệng như bôi mỡ cả ngày, không nói lời nào dễ nghe cả. Dương Lăng thay đổi tư thế nằm cho thoải mái, cười hềnh hệch đáp: - Tướng công nói không dễ nghe à? Hôm qua chẳng biết là ai nằm trong lòng ta nghe đến mặt đỏ tim rộn, thần hồn điên đảo nữa. Hàn Ấu Nương “í” một tiếng, mắc cỡ đỏ bừng mặt. Nàng vừa dứt bệnh, tim đập mạnh quá lại loạn nhịp khiến nàng khẽ thở hổn hển. Ấu Nương không chịu nổi phải nhảy xuống đất, nói: - Tướng công, chàng nghỉ trước đi, Ấu Nương đi ra phố mua thuốc. Vừa mới kéo cửa phòng ra, Hàn Ấu Nương chợt thấy hai tên nô bộc lực lưỡng khiêng một chiếc cáng mềm tiến vào sân, trên cáng là một người hơn ba mươi tuổi đang nằm. Phía sau còn có hai gia nhân đi theo, mang vác đồ vật lỉnh kỉnh. Hàn Ấu Nương hỏi vẻ nghi hoặc: - Xin hỏi ngài tìm ai? Tiền Ninh nằm trên cáng mềm, nhìn thấy một tiểu mỹ nhân thuần khiết đáng yêu như sương mai, mái tóc xõa tung, mặt đẹp như vẽ, nhưng lại không có vẻ chững chạc của người đàn bà đã lập gia đình, y cho là nha hoàn Dương Lăng vừa mua, không khỏi ngứa ngáy cả người: “Tiểu tử này thật là may mắn. Tìm được nha hoàn quá đẹp làm cho người ta phải tim đập thình thịch. Nếu mà là ta á, ta đã sớm kéo lên giường lò rồi, sao lại để nàng mời trà dâng nước chứ. Không biết hắn có chịu nhượng lại không, sau này ta phải nói chuyện với hắn, ta sẽ đem bốn nha đầu đổi lấy một người của hắn.” Tiền Ninh ngẫm nghĩ, lộ một nụ cười hơi đê tiện, quan sát hình dáng yểu điệu động lòng người của nàng rồi cười nói: - Lão gia Dương Lăng Dương đại nhân của nhà ngươi có ở nhà không? Ta đến thăm y đây. Nghe thế, Hàn Ấu Nương hơi tự ti: “Ta... Ta trông giống tiểu nha hoàn như vậy sao?” Nàng cúi đầu nhìn lại trang phục, hơi có vẻ không vui, hậm hực: - Thì ra là bạn tướng công ta, kính mời ngài vào! Tiền Ninh kinh hãi biến sắc. Hắn lập tức thu hồi nụ cười dâm, vội hỏi: - Thì ra là Dương phu nhân! Thất lễ thất lễ, tại hạ Tiền Ninh, là bằng hữu của Dương đại nhân. Trong phòng, Dương Lăng nghe thế bèn cao giọng gọi: - Ấu Nương, là Tiền đại nhân tới à? Mau mời ngài vào đi. Tiền Ninh giữ chức chưởng hình thiên hộ của Cẩm Y vệ, dù thi hành đủ loại thủ đoạn tàn khốc hành hạ phạm nhân đến chết nhưng mắt hắn vẫn không nháy, đã từng gặp không biết bao nhiêu cảnh tượng máu me đầm đìa rồi. Thế nhưng, loại người như vậy luôn yêu quí thân thể mình tới cực điểm, ta có thể thấy được sự thật này qua sự thu xếp của hắn trước khi chịu trượng hình. Hắn vừa về nhà liền lập tức nằm trên giường điều dưỡng. Để mông không lưu lại vết sẹo, hắn còn hoàn toàn không dám cử động. Hôm sau nghe tin Dương Lăng kháng chỉ, Tiền Ninh cho rằng lần này Dương Lăng chắc chắn sẽ chết, âm thầm tiếc hận mình vất vả mới cài được một đường dây vào Đông cung thì bây giờ lại đứt mất. Hôm nay sau buổi triều sớm, Tiền Ninh nghe nói Dương Lăng phụng chỉ quỳ đợi ở ngọ môn. Vốn hiểu sâu sắc chuện quan trường, hắn lập tức ngửi ngay được một việc bất bình thường, tức khắc phái người tìm vị bằng hữu đảm nhiệm chức thống lĩnh cấm quân trong cung hỏi tin tức. Hắn không ngờ lại nghe được tin hoàng đế ban tặng cho Dương Lăng một bức họa. Đã rõ Hoàng đế muốn bảo vệ cho Dương Lăng, Tiền Ninh quyết đoán ngay: dệt hoa trên gấm không bằng giúp người khi gặp nạn. Không còn thời gian chú tâm lựa chọn lễ vật, hắn vội cho người mua rất nhiều đồ vật, cũng chẳng kịp gói ghém gì, ngựa không dừng vó lập tức chạy đến nhà Dương Lăng. Tiền Ninh được đám lính khiêng vào phòng ngủ Dương Lăng, ngồi vào ghế mềm cạnh giường lò, thấy Dương Lăng nằm trên giường lò, trên thân đắp một tấm chăn, bèn cười nói: - Dương đại nhân! Hôm qua tại hạ sai người đến thăm hỏi, nhưng đại nhân không ở nhà. Hôm nay cũng đỡ một chút, nên ta tự mình tới đây. Dương Lăng cười nói: - Đa tạ Tiền đại nhân! Kể ra vẫn là ta làm liên lụy đại nhân, thế mà còn làm phiền đại nhân đến thăm ta, thật là áy náy. Tiền Ninh cười ha ha đáp: - Đại nhân và ta đều là đồng liêu Cẩm Y, lại cùng bị đòn trước cung, duyên phận có phải ít đâu, đừng nói loại khách khí này nữa. Hắn nói mà ánh mắt gian tà liếc dọc liếc ngang. Thấy Dương Lăng vứt cuộn giấy Hoàng thượng ban cho trên đầu giường, hắn không khỏi thầm giật mình: “Tên Dương Lăng này có quan hệ gì với bệ hạ nhỉ? Hắn đưa Thái tử xuất cung, không tuân thánh chỉ trước mặt mọi người, chẳng những Hoàng Thượng không giận mà còn ban cho hắn một bức họa do ngài vẽ. Vô luận là Hoàng Thượng ban cho thứ gì, bất kỳ vương công đại thần nào cũng lập tức đem về nhà, nếu không lập tức gói lại bằng vải vàng, thì cũng thắp ba nén hương mà cung phụng. Đó là ân sủng và tín nhiệm của hoàng đế. Riêng hắn lại xem thường… Chà, tranh quý của hoàng đế tự tay đề bút”. Tiền Ninh hơi đau lòng nhìn bức tranh. Hắn ra vẻ lơ đễnh nói: - Ở trên đầu giường là... Ha ha, Dương đại nhân quả nhiên không hổ là văn nhân, ở nhà dưỡng thương cũng muốn ngâm thơ vẽ họa sao? Dương Lăng vỗ đầu. Y vẫn luôn không mang tư tưởng quân quyền tối cao, nên vẫn thường xuyên quên mất những việc mà người khác xem là đương nhiên. Vừa rồi về nhà, y lại vui đùa với tiểu giai nhân nên quen béng mất bức họa của Hoàng đế, cứ tiện tay bỏ qua một bên. Nhưng đây là tiền chứ bộ. Chẳng những là cổ họa, hơn nữa là tranh quý của Hoàng đế, phải lưu cho con cháu đời sau của ta và Ấu Nương, tương lai sẽ giá trị biết bao nhiêu mà kể. Dương Lăng vội vàng dặn Ấu Nương: - Nương tử! Mau đưa bức họa này cất kỹ lên trên tủ. Ha ha, đây là vật do đương kim hoàng thượng ban tặng đó, không thể làm hư được. Hàn Ấu Nương vừa mới bưng chén trà vào cho Tiền Ninh, nghe nói cái cuộn giấy trên đầu giường lò lại là của Hoàng đế ban tặng, nàng vội vàng cầm lấy, tìm kiếm khắp nơi, thực không biết phải đặt ở chỗ nào cho an toàn. Dù sao Hàn Ấu Nương cũng đến từ vùng thôn núi xa xôi, trong lòng nàng thì thiên tử thực sự như nhân vật trong thần thoại. Bây giờ lại thấy được thứ mà thiên tử ban tặng, cũng khó trách nàng hết sức lo sợ. Dương Lăng cười nói: - Gác trên tủ đi, sau này tìm người bồi lưng, làm một cái khung bọc lại sẽ không sợ trầy xước. Tiền Ninh hỏi với vẻ cực kỳ hâm mộ: - Hoàng Thượng ban thưởng? Ha ha, bây giờ ta an tâm rồi, nghe nói đại nhân hôm qua kháng thánh chỉ, vi huynh lo lắng lắm. Hắn ra vẻ vô ý lại lôi kéo quan hệ. Dương Lăng cũng có ý muốn thân cận với vị Chưởng hình thiên hộ nắm trọng quyền trong tay này. Nghe hắn nói thế, y cũng cười nói: - Tiền huynh quá lo lắng. Lời này cũng không thể lan ra ngoài được. Dương Lăng nào dám kháng lại thánh chỉ, chỉ là ái thê bị bệnh cấp tính, lúc đó đã xin công công truyền chỉ khoan dung trong khoảnh khắc mà thôi. Dân chúng ngoài phố đều nghe nhầm đồn bậy, nói năng linh tinh, rõ là chỉ sợ thiên hạ không loạn. Tiền Ninh cười gượng hai tiếng, đang muốn tâng bốc vài câu thì có thái giám trong cung tới truyền chỉ. May mà lần này tên thái giám truyền chỉ biết quy củ, mặt nam lưng bắc, đứng trong viện mà truyền chỉ, căn bản chưa vào nhà. Dương Lăng vội vàng mặc lại quần áo, cùng với Ấu Nương đi ra, quì tiếp thánh chỉ. Đợi Dương Lăng tiễn vị khâm sai quay vào, Tiền Ninh lại tâng bốc một hồi nữa. Thấy Ấu Nương đang cầm hai bình thuốc trị thương của vua ban chuẩn bị bôi cho tướng công, hắn liền chắp tay ngoan ngoãn cáo từ. Vừa về nhà còn chưa thay quần áo đã được người ta đưa tới một mớ lễ vật, nên để đáp lại thịnh tình của hắn, Dương Lăng tiễn ra tận cửa. Song phương đang sắp chắp tay từ biệt, bỗng thấy một cái chóp kiệu nhỏ từ xa nhấp nhô đi tới trước mặt. Rèm kiệu vén lên, một gương mặt tái nhợt từ trong kiệu thò ra dò xét. Thấy Dương Lăng đang đứng ở cửa, người nọ không khỏi vui mùng, run giọng: - Dương đại nhân! Chúng ta đang sợ không tìm được ngài. Ông trời thương ta rồi, ôi, rốt cuộc cũng gặp được đại nhân rồi. Dương Lăng, Tiền Ninh chú tâm nhìn kỹ, thấy người nọ tóc hoa râm, sắc mặt nửa trắng nửa xanh, chính là Mã Vĩnh Thành, vị thái giám lo việc mua bán trong cung. Tiền Ninh thất thanh hỏi: - Mã công công, ngài sao lại... hình dạng như vậy mà còn muốn xuất cung để mua bán? Mã Vĩnh Thành lườm hắn với vẻ không vui, đáp: - Mua sắm cái gì, bộ dáng ta như thế này còn có thể làm việc công được à? Mau mau, chúng ta vào trong viện nói chuyện, kẻo người ngoài nhìn thấy không tốt. Dương Lăng và Tiền Ninh liếc nhìn nhau, mù mờ chẳng hiểu gì, cùng đi vào sân. Mã Vĩnh Thành vẻ mặt đau khổ nhìn Dương Lăng nói: - Đại nhân tới gần đây, chúng ta thất lễ rồi. Vất vả lắm mới khiêng kiệu tới đây, nhưng ta không dám thay đổi vị trí chút nào cả. Khắp mông bị đánh nát cả rồi, mạng già của ta... Dương Lăng biết tám vị thái giám trong cung đã chịu đòn nặng hơn mình nhiều. Thấy lão nói mà nước mắt như muốn tuôn rơi, y liền lập tức tiến lên đáp: - Công công phải điều dưỡng cho tốt mới được, sao còn xuất cung ra đây? Mã Vĩnh Thành cười khổ nói: - Ai nói không muốn. Chỉ là thái tử gia..., Lão nói tới đây liền thoáng liếc nhìn xung quanh. Tiền Ninh hiểu ý, vội bước lên muốn ra ngoài. Mã Vĩnh Thành vội cản: - Chậm đã chậm đã, không vội đi! Bảo bọn hạ nhân ra ngoài, Tiền đại nhân có thể lưu lại. Việc này không chừng còn cần đến ngài. Vừa nghe Thái tử có việc muốn hắn đi làm, Tiền Ninh cảm thấy da đầu ngứa ngáy, lập tức đuổi đám hạ nhân ra ngoài, rồi tiến đến gần kiệu. Mã Vĩnh Thành ho khù khụ nói: - Dương đại nhân, hôm nay là ngày thứ ba rồi! Lúc trước ngài khoe khoang đủ điều, thái tử gia đều tin là thật cả. Bây giờ cũng không có người ngoài, chúng ta nói thẳng với ngài. Thái tử gia để mắt đến cô nương nhà người ta rồi, đám gia môn trong cung thật sự đang bị thái tử hành hạ. Nhưng người của Giáo Phường Tư lại là thủ hạ của Miêu Quỳ Miêu công công, chúng ta cũng không dám nhờ vả. Việc này còn phải nhờ tới ngài. Chỗ này là toàn bộ gia sản của ta, một vạn bốn ngàn lượng bạc, bất luận ngài dùng biện pháp gì cũng phải chuộc được người ra, sau đó thu xếp ngụ ở chỗ của ngài đi. Nói rồi, Mã Vĩnh Thành đau lòng móc ra một xấp ngân phiếu đưa tận tay Dương Lăng, lại tiếp: - Chiêm Sĩ phủ (lo việc giáo dục Thái tử) đã nhận thánh ý, bây giờ bọn họ rất chú tâm chăm sóc đặc biệt đám chúng ta, ta phải mau mau hồi cung thôi. Việc này cứ thế mà làm. Ngài giải quyết ổn thỏa rồi, ngày mai tới cửa hậu cung sẽ có tiểu thái giám gánh nước hỏi tin tức của ngài. Xong rồi, chúng ta hồi cung thôi. Mã Vĩnh Thành bảo hai nô bộc khiêng lão ra cửa, đi nhanh như chớp. Dương Lăng nắm xấp ngân phiếu mà ngây người hồi lâu, mãi y mới quay sang Tiền Ninh nhờ vả: - Tiền huynh! Huynh xem việc này... Tiền Ninh vẫn chưa biết việc Nghiêm Khoan bị Trương Duyên Linh đá cho một cước gần chết, sớm không dám có chủ ý gì về việc Ngọc Đường Xuân, nên hắn cũng cho rằng sự việc có chút nhức đầu. Nhưng không dám biểu hiện ra ngoài, hắn đành phải nói: - Việc này... Thái tử gia đã lên tiếng, có gì cần đến Tiền mỗ, Dương đại nhân cứ việc nói ra, hay là... Ta cứ cương quyết chuộc người? Dương Lăng nghiến răng, giậm chân nói: - Hay lắm! Ta cũng không tin trên một vạn lượng bạc mà vẫn không chuộc được người!... À!... Đúng rồi, rốt cuộc thái tử gia thích cô nào nhỉ?

Chương 77: Ba Mỹ Nhân Tới NhàDịch: workman Biên dịch: lht Biên tập: Ba_Van Hiệu đính: Nguồn: www.tangthuvien.com Ngày hôm sau, Dương Lăng dậy sớm ra cửa sau cung thành chờ người đưa tin. Đợi một lúc lâu y mới được Thái tử đáp: - Biết rồi, không bỏ sót người của ta là tốt rồi. Thay ta chiếu cố cho Đường cô nương, có cơ hội ta sẽ đi thăm nàng. Phụ hoàng bây giờ canh ta gắt gao lắm, luôn luôn có sáu thị độc bên mình. Con mẹ nó, Vương Quỳnh rõ là lão thất phu! ------------------------ Chương bảy mươi bảy Ba Mỹ Nhân Tới Nhà ------------------------ Dương Lăng mời Tiền Ninh vào phòng cùng thương lượng đối sách. Tuy y đúng là Cẩm Y vệ, nhưng đề đốc Trương Tú thu xếp cho y nhận nhiệm vụ ở Nam Trấn Phủ. Tại kinh sư y chỉ có hai người hầu cận là Liễu Bưu, Dương Nhất Thanh nên muốn xử án cũng không có bao nhiêu người để giao việc. Hơn nữa Tiền Ninh là một nhân vật ngoan độc, có sự hỗ trợ của đám địa đầu xà này, công việc coi như đã thành công một nửa rồi. Nếu không có người của phủ Thọ Ninh Hầu xen vào, Tiền Ninh xử lý việc này cũng dễ như trở bàn tay, không phải chỉ là đám kỹ nữ lầu xanh còn chưa bán thân tiếp khách thôi sao? Cho dù là danh kỹ nổi tiếng cả kinh sư, quan to quan bé cũng chỉ lén lút làm ân khách. Hắn muốn đòi người, ai dám đưa việc này thành công khai để chống lại hắn? Nhưng bây giờ việc này lại dính tới triều đình. Muốn đòi người phải tính toán một chút. Điểm chết người chính là Thái tử gia đến giờ cũng chẳng thèm nói ra tên của người này, rốt cuộc phải đi chuộc ai đây chứ? Ấu Nương nghe hai người bàn tán um sùm, cũng biết tướng công muốn giúp Thái tử đem một kỹ nữ thanh lâu về. Nàng thấy tướng công và Tiễn đại nhân nhăn mày nhíu mắt bàn chuyện, liền nhắc nhở: - Tướng công! Thái tử thích ai thì ta theo đó mà lần đầu dây mối nhợ. Chàng kể lại tình hình lúc đó xem, có lẽ Ấu Nương có thể đoán được gì chăng. Dương Lăng hồi tưởng một lát, rồi kể: - Tên Nghiêm Khoan đó cưỡng ép lấy người của Nhất Xứng Kim. Lúc đó Thái tử đuổi theo xem náo nhiệt, lúc Nghiêm Khoan nói năng lỗ mãng, có một vị cô nương tên gọi là Tuyết Lý Mai mắng cho gã một trận, Thái tử rất tán thưởng nàng. Tiền Ninh vỗ mạnh vào ghế băng mềm bên cạnh. Chiếc ghế lắc lư vài cái xém nữa lật nhào, hắn vội vàng chộp lại, sau đó cười khà khà nói: - Đúng rồi! Tài tử giai nhân, nhất kiến chung tình, chắc chắn là nàng. Dương Lăng cười khổ nói: - Dường như không phải. Sau đó Thái tử bị Nghiêm Khoan đánh một quyền, máu chảy ròng ròng. Có một vị tiểu cô nương tên là Đường Nhất Tiên đưa cho người một cái khăn gấm lau máu, ta thấy ánh mắt Thái tử nhìn người ta đầy tình ý. Tiền Ninh giật mình nói: - Thế à! Mỹ nhân tình thâm, thép luyện trăm lần cũng chảy, điện hạ chưa hề trải qua những tràng diện phong nguyệt, lại có giai nhân che chở, khăn gấm đưa tình, thể nào lại không điên đảo? Vậy nhất định chính là vị Đường Nhất Tiên cô nương này rồi. Ấu Nương hỏi chen: - Tướng công! Thái tử bảo chàng trong vòng ba ngày phải đòi lại văn tự mua thiếp của Nghiêm Khoan. Văn tự mua bán đó là nói về Đường cô nương này à? Dương Lăng lắc đầu đáp: - Không phải! Người Nghiêm Khoan muốn mua là Ngọc Đường Xuân cô nương. Khi vừa nói tới tên này, y không khỏi nhớ tới vị mỹ nữ trong hí khúc có cuộc đời bi thảm, tưởng chừng như thấy lại tình cảnh thiếu nữ tóc dài áo trắng như tuyết, uyển chuyển đứng lặng trong căn lầu như một bức tranh cung nữ cổ điển. Dương Lăng nói tiếp: - Trong ba vị cô nương thì Ngọc Đường Xuân cô nương có vẻ phong tình nhất, Thái tử luôn nhớ tới việc chuộc nàng ra. Bây giờ lại muốn ta chuộc người mà Nghiêm Khoan cướp, vậy ai là người mà ngài thích đây? Ấu Nương nghe xong cũng không khỏi cười khổ: - Nói như thế, nhiệm vụ mơ hồ này chẳng có gì rõ ràng cả! Chẳng lẽ đem cả ba cô nương về nhà ? Vừa nghe, Tiền Ninh bật thốt: - Ý hay lắm! Trong ba người đó chỉ có một người bị Hầu phủ và Đông cung tranh giành, hai người khác vốn không liên quan gì. Bằng vào chức danh đứng đầu Cẩm Y vệ, ta muốn lấy ai cũng dễ như trở bàn tay. Dù sao cũng đều là người đẹp, một hay ba cũng không khác gì nhau. Mang về cả ba người thì vô luận làm sao cũng bị không lầm lẫn gì. Ha ha, đi thôi! Ta bây giờ phải đi gọi người, đại nhân cứ việc ra mặt nhận người thôi. Rốt cuộc Tiền Ninh cũng hơi kiêng kỵ Thọ Ninh Hầu. Dù sao Dương Lăng cũng được Hoàng thượng để mắt, chỉ cần thức thời một chút, Thọ Ninh Hầu sẽ không dám đắc tội với y. Nay phải để y ra mặt mới tốt, người đứng ra nói chuyện phải là y. Lập tức Tiền Ninh gọi gia nhân dặn dò vài câu.Tên gia nhân nghe lệnh vội vội vàng vàng đi ngay. Một lúc sau, có hơn mười người từ Bắc Trấn Phủ Ty tới, đều mặc thường phục. Những người này đang hành hạ phạm nhân trong lao, nghe nói thiên hộ đại nhân có lệnh bèn vội thay đổi thường phục tới ngay, trên người còn mùi máu tươi, ai ai cũng sát khí bức người. Tiền Ninh ra lệnh mang đến một cái sạp gấm, trải cho thật mềm mại, mời Dương Lăng ngồi lên. Hai người được trên mười tên giáo úy mặc thường phục hộ tống cùng đến ngõ Bách Thuận. Trời cũng sắp hoàng hôn, ngõ Bách Thuận đã có nhiều tiệm mở cửa đón khách. Để bịt tai mắt người khác, Tiền Ninh còn cho một tấm vải che trên sạp gấm, trông như một cái kiệu có nóc. Khi tới những chốn tìm hoa, ta vẫn thường bắt gặp một vài lão gia e dè che đầu che mặt đi chơi kỹ viện. Nhưng bây giờ còn sớm như vậy, làm gì có ai ở đây mà thấy. Tên đón khách vội vàng đi tới cười nói: - Mấy vị lão gia, có cô nương quen không? Muốn tôi gọi tới cho ngài vài cô ưa nhìn một chút không? Người đi đầu chính là tâm phúc của Tiền Ninh, một vị bách gia Cẩm Y vệ tên là Quan Long. Hắn thản nhiên nói: - Tránh ra! Lão gia muốn vào hậu viện. Bảo Nhất Xứng Kim tới gặp lão gia! Nói rồi gã khoát tay, đoàn người nghênh ngang đi thẳng vào hậu viện. Trong hậu viện, ba chị em Tô Tam, Đường Nhất Tiên, Tuyết Lý Mai đang ở trong phòng ngồi chơi. Vì những khách uống rượu có kỹ nữ hầu đều tới khá muộn, nên ba người đang lười nhác vẽ mày thoa mặt. Tuyết Lý Mai thấy Tô Tam có vẻ uể oải, không khỏi hé miệng cười trộm nói: - Hì hì! Họ Nghiêm đã ngoan ngoãn đem văn tự trả về rồi. Tam tỷ vẫn sầu muộn không vui, chẳng lẽ... nhớ vị công tử kia à? Tô Tam vừa nghe xong mặt đỏ lên, liếc mắt lườm nàng sẵng giọng: - Ngươi đó, nói bậy ít thôi! Nàng cau mày, rồi chợt thở dài nói tiếp: - Vị công tử đó rõ là người đáng tin cậy, quả nhiên khiến cho Nghiêm Khoan phải trả lại văn tự, nhất định là một đại nhân vật có quyền có thế. Chà, sao người ta lại có thể coi trọng một nữ tử khổ sở như ta? Ta chỉ... Chỉ là thân thể hơi mệt, cho nên tinh thần mới xấu như vậy. Đường Nhất Tiên cười, nói vẻ châm chọc: - Có thể nói như thế này, lo lắng hãi hùng cả ba ngày rồi, bây giờ không cần lo lắng về con đại tinh tinh đó nữa. Bây giờ lại lo là lo tên ngọc diện công tử kia sao nỡ lòng không tới thăm tỷ, làm cho tâm hồn thiếu nữ đứt ra từng khúc, thể xác tinh thần đều bần thần? Đến lúc này Tuyết Lý Mai cũng cảm thấy hứng thú hừng hực, vội xen vào nói: - Vị công tử đó thật là tuấn dật. Đến cả muội mà cũng hơi động tâm, hắn tuy còn trẻ tuổi, nhưng ánh mắt hơn hẳn những đứa trẻ ranh khác. Làm người ta nhìn thấy là thèm được ngả vào lòng hắn. Đường Nhất Tiên hừ một tiếng, chun mũi lại nói: - Hai nha đầu mắt trên trán kia, động tình với trai rồi à! Chỉ nghĩ tới mấy chàng trai tuấn tú. Nếu là ta, ta chỉ nguyện được gả cho đương triều thị độc Dương Lăng Dương đại nhân thôi. Mắt nàng sáng lên, hào hứng nói tiếp: - Dịch cầu vô giới bảo, nan đắc hữu tình lang (bảo vật vô giá dễ cầu, nhưng rất khó tìm được tình lang). Hắn vì người yêu mà đến cả ý chỉ của Hoàng Thượng cũng dám cãi lại. Nam nhân như vậy, nếu được gả cho hắn làm thiếp thôi, thì ta ngay cả nằm mơ cũng phải cười mà tỉnh lại. Tô Tam và Tuyết Lý Mai nhìn nàng đang mơ màng si mê, không khỏi phá lên cười. Tuyết Lý Mai nói trêu: - Cũng chỉ có tỷ dám mơ thôi. Chúng ta là người như thế này, nếu được gả cho vị công tử tuấn tú ngày ấy đã xem như phải đốt hương cúng tạ rồi. Dương Lăng đại nhân... Muội nghe Lễ Bộ viên ngoại lang Ninh đại nhân kể, sau khi hắn kháng chỉ, mấy trăm đại thần quì xin Hoàng Thượng giết hắn, nhưng hoàng đế lại không chịu. Sau đó Vương đại nhân, thượng thư bộ Lễ, cùng với tam công nội các chạy tới hậu cung. Mấy lão già thúi đó, hắc! Kết quả là Hoàng hậu nương nương chửi cho mấy lão già cổ hủ ấy một trận ê mặt rồi đuổi ra ngoài. - Đó là cận thần của thiên tử mà. Đương kim hoàng thượng rất sủng ái hắn, chúng ta nào có phúc khí mà gặp được đại nhân vật như vậy? Khi đề cập tới Dương Lăng, trong ánh mắt Tuyết Lý Mai lại dâng sóng dập dềnh, tựa như đang say đang mê. Tô Tam nghe mà si ngốc, hồi lâu mới thở dài một tiếng nói: - Thôi, hai vị hảo muội muội còn mơ mộng hơn cả ta nữa, mau chuẩn bị trang điểm đi, kẻo lát nữa lại bị mẹ nuôi mắng. Đường Nhất Tiên lắc đầu không còn chìm vào mộng xuân nữa. Nàng cầm một chung rượu nhỏ uống cạn, sau đó cầm lấy tờ giấy son đỏ bôi vào môi. Tô Tam thấy nàng lại uống cái thứ nước đó, lo lắng nói: - Nhất Tiên, sao lại uống thạch tín? Loại này dù chỉ dùng một chút cũng ảnh hưởng thân thể đó. Đường Nhất Tiên không đồng ý, trả lời: - Rất nhiều người đều dùng mà. Một chút thôi, không hại đâu. Nàng vuốt ve gương mặt tuyệt đẹp, tư lự: - Tỷ nhìn thấy hai má muội có phải đã trắng ra rất nhiều không? Khách nhân đều nói muội bây giờ có làn da trắng như ngọc, vừa bước vào là cả phòng đều như mùa xuân. Hì hì, đợi muội đoạt lấy hạng đầu của Ngọc Đường Xuân tỷ, tỷ tỷ không được tức giận đó nha. Tô Tam đang muốn trả lời, lại nghe trong viện vang lên thanh âm ngọt như mía lùi của Nhất Xứng Kim: - Ủa! Mấy vị đại gia, đây là chỗ nào chứ. Mau mời các ngài lên nhà trên ngồi, chẳng biết các vị muốn gặp vị cô nương nào đây. Tuyết Lý Mai vội hỏi: - Mau mau thay đồ đi, có khách tới. Nhất Xứng Kim thấy những người vừa tới đều có ánh mắt và vẻ mặt khiến người ta phải sợ hãi liền vội dẫn vào nhà trong. Bà thấy mười mấy đại hán đứng hai bên cửa, hai khách nhân trong kiệu mềm cũng không xuống kiệu mà được khiêng thẳng vào nhà. Nhất Xứng Kim mi mắt giật giật, chỉ cảm thấy kẻ đến không phải người hiền, nhìn bộ dáng những người này thì không giống người tới đây ăn vụng. Nhất Xứng Kim do dự trong khoảnh khắc, nhìn thấy ánh mắt ăn thịt người của đám đại hán, đành phải cắn răng theo vào. Ba người Đường Nhất Tiên đã trang điểm xong xuôi, đợi hồi lâu vẫn không thấy Nhất Xứng Kim gọi các nàng ra gặp khách, đang cảm thấy kỳ lạ, chợt nghe Nhất Xứng Kim khóc gào như cha chết: - Ba chị em đều ra cả đi, có khách chuộc thân cho các ngươi này! Ba người Đường Nhất Tiên nghe xong chấn động, vội vàng đi ra khỏi phòng. Ba nàng thấy trong viện có hơn mười đại hán diện mục âm trầm, hai tay khoanh lại, đứng một hàng thẳng tắp, không khỏi sợ tới mức mặt mày thất sắc. Đám đại hán này cả người lộ ra những luồng khí tức âm lãnh khát máu, làm cho người nhìn thấy rởn cả tóc gáy. Ba tiểu mỹ nữ chẳng biết sắp sửa phải hầu hạ lão gia đáng sợ nào, dựa sát vào nhau như đàn dê con đợi mổ, đứng nép vào Nhất Xứng Kim trong gian chính. Tiền Ninh nửa nằm nửa ngồi dựa vào kiệu gấm mềm mại, nhìn lên thấy ba mỹ nữ đẹp tuyệt trần, không khỏi hai mắt tỏa sáng. Ánh mắt tham lam của hắn cứ lướt loạn xạ trên người ba người, mãi mới thu hồi vẻ lưu luyến, rồi quay sang nói với Nhất Xứng Kim đang buồn bã: - Được rồi, lão bản nương là người hiểu biết. Ha ha ha, không cần khóc lóc như vậy, ngươi nên cảm tạ huynh đệ ta. Bằng không... Hừ hừ, sau này có chuyện gì cứ tìm đến ta, ta thay ngươi nói một câu, đó là thứ mà ngươi bỏ bao nhiêu tiền cũng không có được. Nhất Xứng Kim đúng là ngàn lần không, vạn lần không cam tâm. Khi vừa nhận ra Dương Lăng, mụ lập tức nịnh nọt ngàn ân vạn tạ, khen y thần thông quảng đại, sáng sớm hôm qua Nghiêm Khoan đã sai người trả giấy về, lấy bạc đi rồi. Tiền Ninh vừa nghe Thọ Ninh Hầu chịu thua, lập tức trở nên cứng rắn. Hắn liền công khai thân phận, muốn diễu võ dương oai chỉ bỏ ra chút tiền mà chuộc cả ba cô về. Dương Lăng thấy Nhất Xứng Kim khóc lóc quá thảm thương, nghe mụ kể lể phải giáo dưỡng mấy người này từ bé, gian khó vô kể nên mềm lòng. Bất chấp Tiền Ninh cản trở, y giao cho mụ một vạn lượng bạc. Tô Tam vừa vào cửa đã thấy Dương Lăng đang ngồi trên ghế băng mềm, trong lòng đang lo sợ lập tức hóa thành vui như mở hội, vui tới mức hai má đỏ lên, ánh mắt rốt cuộc không dời y ra được. Tiền Ninh đợi Nhất Xứng Kim ấn ngón tay vào văn tự xong, cười hì hì nói với tên thị vệ: - Đi tìm ba cỗ kiệu, đưa ba vị cô nương này đến phủ của Dương đại nhân! Ha ha ha, việc này xong rồi, chúng ta đi thôi. Văn tự đã kí kết, sau này ba người Ngọc Đường Xuân là thiếp hay thị tỳ, hoàn toàn phụ thuộc vào người mua, chẳng liên quan gì tới Nhất Xứng Kim nữa. Nhất Xứng Kim nhìn thấy ba cây tiền cây bạc bay đi như vậy, trong lòng cảm thấy khó chịu nói không nên lời. Ba người Đường Nhất Tiên được đưa tới phủ của Dương Lăng mới biết y chính là Dương Lăng lừng danh kinh sư. Lúc này cả ba cô đều vui mừng khôn xiết. Các nàng xuất thân như vậy, căn bản không trông mong được làm chính thê, nếu được một văn sĩ hoặc một vị quan to mua làm thiếp đã là tốt lắm rồi. Còn gặp phải ông quan hoặc văn sĩ già xấu, thì đành theo số phận thôi. Bây giờ Dương Lăng có công có danh, muốn quan chức có quan chức, trẻ tuổi anh tuấn, vừa là loại người có tình danh chấn thiên hạ, quả thực thành thịt Đường tăng trong mắt các nàng rồi, cho dù nằm mơ cũng mơ không đến một kết quả tốt như vậy. Nếu được làm thiếp cho y, các nàng đã cảm ơn trời đất rồi. Nhưng sau khi Dương Lăng thu xếp ba người ở sương phòng, lại chẳng hề đề cập gì tới thân phận tương lai của các nàng, việc này khiến ba nàng không hiểu ra sao cả. Kỳ thật Dương Lăng cũng rất khó xử. Chút thông tin ít ỏi từ Thái tử không nói rõ muốn chuộc ai, lại không nói chuộc xong thì làm gì. Thái tử cứ nhét cho y một việc như vậy, y còn có thể làm gì bây giờ? Nếu tạm thời thu xếp các nàng làm nô tỳ, trong đó lại có người mà Thái tử thích, lẽ nào lại để cho nàng hầu hạ mình? Hơn nữa bây giờ việc này cũng chưa thể nói thẳng với các nàng, nên Dương Lăng đành phải giả ngu làm cho ba thiếu nữ thông minh tuyệt đỉnh cũng phải mù mờ không hiểu đầu đuôi. Các nàng trong lòng đầy nghi ngờ, tuy nói là xuất thân thanh lâu, nhưng dù sao đều là thiếu nữ, chẳng lẽ các nàng có thể trơ mặt chủ động hỏi y khi nào thì nạp mình làm thiếp sao? Vì vậy ba cô nương cứ ở lại nhà Dương Lăng như vậy, không chủ không tớ, không thê không thiếp gì cả. Ngày hôm sau, Dương Lăng dậy sớm ra cửa sau cung thành chờ người đưa tin. Đợi một lúc lâu y mới được Thái tử đáp: - Biết rồi, không bỏ sót người của ta là tốt rồi. Thay ta chiếu cố cho Đường cô nương, có cơ hội ta sẽ đi thăm nàng. Phụ hoàng bây giờ canh ta gắt gao lắm, luôn luôn có sáu thị độc bên mình. Con mẹ nó, Vương Quỳnh rõ là lão thất phu! Nghe xong ý chỉ hồ đồ của Thái tử, Dương Lăng lại dở khóc dở cười đi về nhà. Y vuốt cằm suy nghĩ cả buổi cũng không nghĩ được biện pháp nào đuổi hai cô còn lại đi. Khẳng định là không có cái khúc “Ngọc Đường Xuân” trong kinh kịch đời sau rồi, do đó Tô Tam gả cho ai, vận mệnh sau này ra sao, đến cả y cũng không biết. Suy nghĩ cả buổi, y đột nhiên nhớ tới bố con họ Hàn sắp tới kinh sư. Cũng không biết hai người này đã cưới vợ chưa, nếu còn chưa... Tục ngữ nói nước phù sa không để chảy ra ruộng người ngoài mà... Dương Lăng không khỏi cười to lên rất đắc ý, đến khi thấy Ấu Nương đứng một bên đang hồ nghi nhìn mình, y mới nhớ mình còn chưa bảo cho nàng hay việc mình mời cha con họ Hàn tiến kinh. Dù sao họ cũng sắp đến, cứ giấu hai ngày nữa đã, đến lúc đó sẽ cho Ấu Nương một niềm vui bất ngờ. Dương Lăng nghĩ vậy nên chỉ cười đểu vài tiếng, nói với Ấu Nương: - Ta hỏi Tiền Ninh rồi, bất tất vội vã đi Thần Cơ doanh trình diện. Hai ngày này ở nhà dưỡng thương. Bảo Tiểu Vân chiếu cố cho ba vị cô nương trong sương phòng một chút, ngàn vạn lần không được đắc tội với người ta. Ấu Nương lên tiếng đồng ý, ngẫm lại dù sao đi nữa những cô nương đó đều có thể là người của Thái Tử. Hiện tướng công đang làm quan trong triều, việc giữ quan hệ tốt với các nàng rất trọng yếu. Vì vậy nàng cũng dặn dò Tiểu Vân phải cẩn thận trong việc phục vụ ăn uống cho mấy vị cô nương này. Mọi người đều ngụ trong viện, lại đều là những tiểu cô nương mười bốn lăm tuổi, sao lại có thể ru rú cả ngày ở trong phòng chứ? Thường xuyên qua lại thăm hỏi nhau, dần dà Ấu Nương hiểu rõ các nàng hơn. Lúc này Ấu Nương mới phát hiện các nàng khác với những điều mình đã tưởng tượng rất nhiều. Chẳng những không phải là những cô gái đầy quyến rũ, cử chỉ ướt át, mà ba người này lại có lời nói cử chỉ tự nhiên hào phóng, nhất cử nhất động đều lộ vẻ cao quý trang nhã, thập phần hấp dẫn. Khi đó con gái nhà giàu cũng không được giáo dưỡng nhiều như kỹ nữ thanh lâu. Chỉ cần các nàng có cấp bậc cao trong thanh lâu thì chắc chắn cầm kỳ thư họa, ca múa dáng vẻ đều đã phải được dạy dỗ từ tấm bé. Phải như thế mới đào tạo được những cô gái sắc nghệ đều giỏi, mới khiến đám danh sĩ tài tử thường tới chỗ phong lưu tìm hồng nhan tri kỷ. Ấu Nương nghe nói các nàng từ nhỏ bị cha mẹ bán vào thanh lâu, thân thế khiến người ta thương tâm, trong lòng rất cảm thông. Ba cô đều tin Ấu Nương là vợ cả của người mà mình sẽ hầu hạ nên càng cố ý phụng thị, cố ý kết giao. Qua hai ba ngày, ba người đối xử với Ấu Nương cực kỳ hoà hợp, giống như chị em. Dương Lăng ở nhà nghỉ ba ngày, thương thế cũng gần lành cả rồi, định đến sáng sớm hôm sau đi Thần Cơ doanh trình diện. Sáng sớm, Ấu Nương hầm cho tướng công một con gà mái ghẹ. Thấy tướng công còn đang ngủ say, nàng bèn tới phòng chái tây thăm ba cô. Ba chị em Tuyết Lý Mai quen rèn luyện vào sáng sớm, tuy bây giờ không cần mỗi ngày đều phải thổi tiêu đánh đàn, luyện tập ca múa, nhưng vẫn thức dậy rất sớm. Ấu Nương vừa vào cửa đã nhìn thấy Tô Tam vấn cao mái tóc đen huyền, đang luyện bước múa. Tuyết Lý Mai ngồi trước kính, tóc đen mặt hồng, đang trang điểm trước gương, động tác cũng xinh đẹp vô cùng, trong lòng nhất thời cảm thấy rất hâm mộ. Lúc trước khi còn ở Kê Minh dịch, nàng từng ở cùng Mã Liên Nhi mấy ngày, khi Mã Liên Nhi trang điểm buổi sáng cũng có dáng vẻ động lòng người như vậy. Lúc đó Ấu Nương ngắm nhìn, tuy mình cũng là con gái mà vẫn thấy động tâm, cảm thấy rất hâm mộ. Bây giờ nhìn ba người có bộ dáng giống như những tiểu thư khuê các, Ấu Nương đột nhiên nhớ tới hôm kia Tiền Ninh đến nhà đã lầm mình là nha hoàn. Nàng biết tướng công càng làm quan to, thì càng kết bạn với những người quyền quí hơn, mình dù sao cũng xuất thân từ một thôn xóm nhỏ, mặc dù xưa nay rất chú ý nhưng lời nói cử chỉ vẫn không khỏi mang chút quê mùa. Nếu có thể lãnh giáo các nàng về dáng vẻ hành động, ăn nói học vấn... Nghĩ vậy, Ấu Nương hơi thẹn hồng mặt, cười nói: - Ba vị muội muội đa tài, dáng vẻ đoan trang. Tỷ tỷ lại chỉ biết múa thương đánh bổng, thấy các muội như vậy cảm thấy rất hâm mộ. Đang điều phối thạch tín, nghe Hàn Ấu Nương nói vậy, Đường Nhất Tiên bèn quăng lọ thạch tín, chạy tới giữ chặt tay Ấu Nương cười nói: - Múa thương đánh bổng mới tốt! Tên phóng đãng nào dám khi dễ bèn cho hắn một gậy vào đầu ngay. Hay là tỷ tỷ dạy muội võ nghệ, muội đem công phu sở trường nhất dạy cho tỷ tỷ, được không? Ấu Nương vui vẻ nói: - Tốt lắm, muội muội sở trường nhất là gì? Đường Nhất Tiên đắc ý nói: - Muội muội sở trường nhất là thổi tiêu. Ấu Nương nói: - Ừm, chỉ là tỷ tỷ rất vụng về, không hiểu có thể học được không. Muội muội đem tiêu ra cho tỷ coi, đợi tướng công tỉnh ngủ sẽ học cũng không muộn. Đường Nhất Tiên cười khanh khách, ôm bả vai Ấu Nương nhìn vào mặt nàng, lắc lắc đầu nói: - Tiêu kỹ của muội lại không cần tiêu, toàn bằng vào cái miệng thôi. Tỷ tỷ muốn học, phải xem thiên phú về công phu mồm miệng của tỷ rồi. Hàn Ấu Nương ngẩn người, tiêu kỹ không cần tiêu à? Trong lòng nàng đột nhiên nhớ tới việc tướng công muốn mình ”thổi tiêu”, cảm thấy rất khó xử, mặt đỏ bừng lên, trong lòng xấu hổ muốn chết, thầm nghĩ: ”Cái con bé này! Cái con bé này! Quả nhiên là từ thanh lâu ra! Sao việc như thế này mà cũng có thể nói ra miệng được chứ, còn... còn nói kỹ xảo cái gì, quả thật mắc cở chết người.” Hàn Ấu Nương che gương mặt nóng bừng, vừa thẹn vừa giận, giậm chân nói: - Đáng chết! Đáng chết! Đường gia muội tử, muội... muội... Muội ăn nói khùng điên gì thế, việc này... việc này cũng có thể nói ra được, có thể học được sao? Đường Nhất Tiên sửng sốt. Nàng mờ mịt, kỳ lạ hỏi: - Sao cơ? Sao lại không học được ? Bao nhiêu người đều ca ngợi muội có công phu tuyệt vời mà! Đang soi gương chải đầu, chợt tay Tuyết Lý Mai khựng lại một chút, rồi vứt mạnh lược xuống bàn, phá ra cười ha ha. Còn Tô Tam vốn hai má trắng như tuyết lại trở nên đỏ bừng, nàng run rẩy hai vai, chảy nước mắt hồi lâu rồi đột nhiên nhào lên giường, kéo chăn trùm kín đầu, một tràng cười trong vắt từ trong chăn vọng ra. Đường Nhất Tiên nhìn trái nhìn phải rồi đột nhiên bừng hiểu. Lúc này mặt nàng cũng nóng lên như lửa, không kìm được thẹn thùng xấu hổ kêu lên: - Trời ạ! Ấu Nương tỷ tỷ, tỷ đang nói gì thế? Người ta không muốn sống nữa!

Quyển 3: Vừa lên ngôi báu

Chương 78: Tham Kiến Tham Tướng Dịch: workman Biên dịch: lht Biên tập: Shandian Hiệu đính: Nguồn: www.tangthuvien.com Bào Tận Thẩm mắt vẫn nhìn thẳng, quì một chân, hai tay ôm quyền, hành đại lễ tiêu chuẩn trong quân, nói lanh lảnh: - Ty chức nghe ý chỉ Thánh Thượng nói là Dương đại nhân cung mã thành thạo, lại văn võ song toàn, trong khi vị kia rất yếu đuối, rõ ràng là sư gia của đại nhân, còn thiếu niên anh hùng này không phải chính là Dương Lăng Dương đại nhân sao? ------------------------ Chương bảy mươi tám Tham Kiến Tham Tướng ------------------------ Một tràng tiếng tiêu khoan thai vang lên, lúc thì trau chuốt nhẹ nhàng, ngọt ngào u nhã, lúc thì phiêu dật, thê lương mà lại gần gũi, làm cho người ta như say như mê. Khuôn mặt Hàn Ấu Nương nóng bừng lên, hận không thể tìm cái lỗ nẻ mà chui vào. Ai biết nha đầu đáng chết đó nói kỹ thuật thổi tiêu không có tiêu thật ra là khẩu kỹ. Một câu vô tình vừa rồi vốn đã đem việc khuê phòng giữa mình và tướng công nói hết cho người ta nghe, sau này làm sao không xấu hổ khi gặp lại các nàng chứ? Tô Tam ngồi trên đầu giường, hai tay chống mép giường, đầu hơi cúi, môi cong lại, còn đang cố nín cười. Tuyết Lý Mai ngồi bên cạnh, dùng bả vai thúc khẽ vào người nàng một cái, nói nhỏ: - Đừng cười, cẩn thận Ấu Nương tỷ ngượng quá hóa giận. Hơn nữa, việc của người đi trước, làm gương cho người đi sau... Hừ hừ, Ngọc Tỷ sắc nghệ song tuyệt, không biết có phải là càng giỏi việc thổi tiêu ngắm trăng không nữa? Ngọc Tỷ Nhi nhất thời đỏ mặt. Các nàng mặc dù chưa tiếp khách, nhưng ở lâu nơi chốn tìm vui đó thì mấy thứ ẩn dụ này sao lại không rõ. Nàng ngẩng đầu liếc nhìn Ấu Nương, thấy nàng không chú ý, liền oán hận nhéo vào đùi Tuyết Lý Mai. Đường Nhất Tiên quay sang thấy Ấu Nương tỏ vẻ bội phục, không khỏi rất đắc ý. Nàng đem hết sức ra khoe, tiếng tiêu lên xuống rồi chợt im bặt, rồi đột nhiên lại có tiếng hót của chim bách linh vang lên, thanh âm chợt xa chợt gần, giống như một con chim đang nhảy nhót ở đâu đây, đang cao giọng hót vang. Nhiều khi có tới hàng trăm tiếng chim xa xa gần gần, nghe như bốn phương tám hướng tràn ngập âm thanh đủ các loài chim. Rồi nghe tiếng hót lộn xộn như trăm loài chim ồn ào bay đi, rồi tiếng tiêu linh hoạt kỳ ảo thâm trầm lại vang lên như cũ. Dương Lăng thấy tiếng tiêu dễ nghe, lặng lẽ đứng dậy mặc y phục tiến vào trong viện, lặng người lắng nghe một hồi. Mãi đến khi tiếng tiêu dứt hẳn, y mới vỗ tay khen rằng: - Thổi tiêu hay lắm! Ngọc nhi giỏi múa, Tuyết nhi giỏi đàn. Đây nhất định là Tiên nhi cô nương thổi tiêu rồi? Chỉ nghe trong phòng có tiếng cười híc híc, cũng không biết là ai đang cười trộm, sau đó một trận ồn ào nho nhỏ. Lập tức Tuyết Lý Mai, Đường Nhất Tiên và Tô Tam ôm lấy Ấu Nương đi ra khỏi phòng, trên mặt mấy người đều đỏ bừng, vừa nhìn thấy y đều phải cố nén cười, trong mắt hiện ra vẻ rất bối rối. Dương Lăng nhìn thần sắc các nàng hơi cổ quái, không biết mình nói sai việc gì, lại cảm thấy hơi bồn chồn. Nha hoàn tiểu Vân từ ngoài viện đi vào, vừa thấy Đường Nhất Tiên đang đứng trong viện, vội hỏi: - Đường tiểu thư, người muốn ta mua thạch tín, nhưng hiệu thuốc không chịu bán, nói phải có toa thuốc của đại phu, còn muốn có người ký tên mới được. Dương Lăng nghe xong giật bắn cả người, nghi hoặc hỏi: - Mua thạch tín làm gì? Tô Tam xen vào nói: - Đại nhân, Tiên nhi xin người ta viết cho một phương thuốc làm đẹp da. Phương thuốc đó chỉ dùng thạch tín để dưỡng da, nên rất có hại với thân thể đã dùng hơn nửa năm rồi, khuyên bảo kiểu gì cũng không nghe. Đường Nhất Tiên lườm nàng, nói: - Tỷ tỷ nhiều chuyện làm gì, muội thấy không ít người dùng phương thuốc này, cũng không thấy có hại gì cho thân thể, muội cẩn thận một chút cũng không sao đâu. Dương Lăng nghe xong lắc đầu lia lịa, vội nói: - Dùng độc dược dù ít tới đâu cũng là độc dược. Độc tố tích lũy lâu dài trong cơ thể, vài chục năm sau sẽ làm rụng hết răng, hai má hõm sâu, trông như bà lão, hơn nữa đầu óc cũng sẽ không bình thường, trở nên ngây ngốc, cô nương nói có đáng không? Kỳ thật có rất nhiều phương pháp có thể làm da trắng hồng tự nhiên, hà tất phải dùng độc dược nguy hại đó? Đường Nhất Tiên chu miệng ra nói: - Người ta biết mà. Dùng đông quả tử, quất bì, hoa đào, nghiền nhỏ thoa lên mặt, dùng tang diệp tiên rửa mặt có thể làm trắng da. Nhưng hiệu dụng không tốt lắm. Nghe nói dùng long não, đàn hương, cao ngọc trai là hữu hiệu nhất, nhưng mấy thứ đó đắt lắm. Trước kia muội thuê mấy người tiều phu ở nông thôn giúp muội bắt dơi. Máu dơi thật ra dùng tốt, nhưng vừa tanh vừa dính, rửa lại rất mất công... Dương Lăng ngẫm nghĩ một lát rồi nói: - Cô nương thử qua lòng trắng trứng, mật ong chưa? Nếu không có thể dùng mướp đắng (khổ qua) hay dùng dưa chuột thái mỏng phủ lên mặt, rất nhiều... à, ta nghe nói rất nhiều người dùng đó, hiệu quả tốt lắm. Đường Nhất Tiên ngạc nhiên nói: - Chưa từng nghe nói về biện pháp này, dùng được chứ ? Người ta sẽ thử xem. Dương Lăng nói: - Đương nhiên hữu hiệu, nhưng thạch tín thì phải bỏ ngay lập tức, sau này không được dùng nữa. Những thứ đồ vật ấy thập phần hại người, cô nương vốn quốc sắc thiên hương, tội gì tự làm tổn hại mình để thay đổi dung nhan. Đường Nhất Tiên nghe y khen mình xinh đẹp, trong lòng vui như hội, không khỏi gật lấy gật để, cười ngọt ngào hứa ngay. Dương Lăng cũng không biết nàng thật sự đã nghe lời hay chưa, chỉ còn nước sau này phải chú ý đến nàng. Y mỉm cười, nói: - Như vậy mới tốt, được rồi. À cô nương vừa rồi thổi tiêu động lòng người, nhưng sao lại còn có cả tiếng chim hót nữa ? Đôi mày liễu của Đường Nhất Tiên khẽ nhướng lên, đắc ý khoe ngay: - Dương đại nhân, tiêu của người ta là không cần tiêu... Nàng còn chưa dứt lời, Hàn Ấu Nương đột nhiên “A” một tiếng, vươn tay kéo Dương Lăng nói: - Tướng công, muội hâm cho chàng canh gà rồi, chàng nên nhân lúc còn nóng uống một chén đi. Một người mắc cỡ là đủ rồi, nếu hai vợ chồng cùng mắc cỡ, sau này đành phải trốn không dám gặp người khác nữa. Hàn Ấu Nương thấy mình lỡ lời, không khỏi nơm nớp lo sợ, quên mất Đường Nhất Tiên vừa mới thổi một khúc tiêu, tướng công dù ngu tới mấy, cũng không thể nghĩ ra cái thứ kia được . Ba tỷ muội thấy Ấu Nương vội vàng lôi kéo tướng công đi nhanh vào phòng, đợi nàng đóng cửa phòng, lại không kìm được cười phá lên. ****************** Hôm sau, Tiền Ninh phái một chiếckiệu tới đón Dương Lăng, đưa y đi Đông Tập Sự Xưởng ở bắc Đông An Thành gặp Vương Nhạc. Bây giờ trong đám nội quan, đề đốc Đông Xưởng Phạm Đình, có cùng quyền thế với Cẩm Y Vệ. Miêu Quỳ giữ chức Ngự Mã Giám, chỉ huy bốn vệ doanh hộ vệ hoàng cung là Võ Tương, Đằng Tương, Tả Vệ Và Hữu Vệ. Trong tam đại doanh Đề đốc kinh sư, Vương Nhạc, thái giám giữ ấn Nội Lễ Giám, là nội quan duy nhất có địa vị cao hơn hai người kia. Vương Nhạc làm người thẳng thắn trung hậu, không có dã tâm gì nên rất được Hoằng Trị tín nhiệm. Lần này nhận được ý chỉ của Hoằng Trị đế, Vương Nhạc cũng thực sự phải mất khá nhiều tâm tư. Chức vị của Dương Lăng mà thấp quá thì không hợp thánh ý, cao quá thì triều thần lại bất mãn. Cuối cùng vẫn là nhờ Phạm Đình giúp lão bày mưu tính kế, khẩn cấp điều một tên tham tướng đi nhận chức phó tổng binh ở Đại Đồng, cử Dương Lăng làm tham tướng. Loại hoạt động nội bộ này không thông qua bộ Binh, bộ Lại, Nội Các, đợi bổ nhiệm xong, họ có muốn phản đối cũng đã muộn rồi. Dương Lăng vào cửa Đông Xưởng, được một trưởng ban dẫn dắt đi vào đại sảnh phủ nha. Trên sảnh treo một tấm biển ”Bạch Thế Lưu Danh” trên cao, trên tường trái được xây làm bình phong có khắc câu chuyện về Di Thức Thổ Án(*). Đi vòng qua bức bình phong là từ đường của Đông Xưởng, thờ phụng bài vị của những Xưởng Chủ tiền nhiệm của Đông Xưởng, gian nhà nhỏ bên trái là nơi Xưởng Đốc hằng ngày xử lý công vụ. *( năm Minh Hiến Tông Thành Hoá, trong kinh thành chợt xuất hiện một án kiện thần bí gọi là ‘Yêu Hồ Dạ Xuất’, sau đó có một yêu đạo Lý Tử Long dùng tà thuyết đầu độc lòng người, thậm chí lôi kéo rất nhiều thái giám, có ý đồ làm loạn) Dương Lăng chầm chậm đi vào gian nhà nhỏ. Y thấy một lão thái giám hơn bảy mươi tuổi ngồi trên ghế, gầy trơ cả xương, mặt đầy nếp nhăn, thoạt nhìn chẳng có gì đáng chú ý. Bên cạnh lão có một thái giám khác đang ngồi, Dương Lăng nhận ra đây là Phạm Đình Phạm công công ngày ấy giám sát việc đánh trượng ngoài ngọ môn. Trên tường phía đông có một hương án, bên trên thờ phụng pho tượng trông có vẻ là một chân nhân, hoành phi câu đối bốn chữ là ‘Tinh Trung Báo Quốc’ (hết lòng vì nước), không cần nhìn cũng biết người được thờ phụng là Nhạc Vũ Mục (Nhạc Phi - ND) rồi. Dương Lăng vào phòng đang muốn nghiêng người thi lễ, Phạm Đình cười ha ha nói: - Miễn lễ miễn lễ, biết thân thể ngươi không khỏe, không cần hành đại lễ. Vị này chính là Vương công công của chúng ta, hai vị lần đầu gặp nhau, làm quen đi, sau này còn phải giao tiếp thường xuyên. Lão thái giám cười ha ha, thanh âm hơi khàn: - Ngươi chính là Dương Lăng à ? Ừm, xem ra cũng là một nhân vật tầm cỡ, việc này được Hoàng Thượng giao cho ta rồi. Ở hoàng cung chúng ta không tiện triệu ngươi đến, do đó phải bảo ngươi tới chỗ Phạm công công gặp mặt. Lát nữa để Phạm công công đi với ngươi tới doanh trại một chuyến. Ta già rồi, đi tới đi lui không nổi. Ngươi mới vào trong quân, cũng phải có người giúp đỡ. Phạm công công còn điều thêm hai người khác theo ngươi vào quân để sử dụng nữa. Phạm công công vẻ mặt tươi cười vô hại, tiếp lời nói: - Ngươi đã quen biết bọn họ, bọn họ vừa khôn ngoan, lại giỏi võ nghệ. Ngươi mang theo làm thân binh cũng vừa lòng hơn.. Dương Lăng vội hỏi: - Đúng đúng, đa tạ công công. Trong lòng y âm thầm tự nhủ phải cẩn thận một chút. Vị Phạm công công này cố tình giúp ta thật, hay sắp đặt cơ sở ngầm bên người ta? Hai người Liễu Bưu là Cẩm Y Vệ, hắn nói điều là tới ngay, xem ra vị Phạm công công này có quan hệ không bình thường với Trương đề đốc rồi. Dương Lăng cẩn thận ngồi xuống chiếc ghế đối diện, ngẩng đầu nhìn lão thái giám. Vương Nhạc đang khom lưng, hốc mắt trũng sâu, khi nói chuyện với hắn thường có nước ứa ra khóe mắt, chắc là đã bị bệnh khô mắt hay gì đó. Một đại nhân vật giậm chân một cái làm cả thành Bắc Kinh phải rung lên, thật ra là một lão già gió thổi cũng bay tầm thường như vậy, thật sự khác hẳn những gì Dương Lăng dự liệu. Lòng sợ hãi cũng bay đi mất. Lão Vương Nhạc nói chuyện hơi lắp bắp, nói cả buổi cũng chỉ là mấy lời nói khách sáo đại loại như Hoàng thượng đã tin tưởng, phải tận trung với cương vị công tác, đừng phụ thánh ý. May thay, Phạm Đình thấy lão công công cứ nhai đi nhai lại mà không có gì mới, thừa dịp lão uống ngụm trà, lập tức giới thiệu cho Dương Lăng tình hình trong doanh. Đợi Vương Nhạc được hai tiểu thái giám dìu đi, Phạm Đình liền triệu hai cái quan kiệu, lính trên trăm tên, cùng Dương Lăng đi tới Thần Cơ doanh. Trong kinh sư có năm quân doanh, ba thiên doanh và cả Thần Cơ doanh, cộng lại có gần mười vạn người, lần lượt đóng quân ở bốn phía thành Bắc Kinh. Thần Cơ doanh đóng quân ở Nam Uyển, có một doanh quan (quan chỉ huy), hai phó tướng. Trong doanh có năm quân là Trung Quân, Tả Dịch (cánh trái), Hữu Dịch (cánh phải), Tả Tiêu (bên trái ngoài cùng), Hữu Tiêu (bên phải ngoài cùng). Toàn doanh tổng cộng có hai vạn năm ngàn người. Doanh quan của Thần Cơ doanh xưa nay do vương công trong kinh đảm nhiệm, nhưng doanh quan này xem như một hư chức, có chức không có quyền, hoàn toàn không có quyền tham dự quân vụ, đại sự trong quân lại do hai vị phó tướng xử lý. Hai phó tướng Thần Cơ doanh là Trương Xuân, Lục Thiệu Hồng sớm đã nghe nói về vị tham tướng thiếu niên đắc chí này vốn là người tâm phúc của Hoàng thượng. Hai người sành sỏi, sớm bày hương án, long trọng nghênh đón vị đốc chủ Đông Xưởng và vị tâm phúc của Hoàng thượng, chờ tuyên thánh chỉ, nhận thủ ấn. Lúc này trên giáo trường Tả Tiêu doanh cờ bay phấp phới, toàn quân đứng trang nghiêm, tướng sĩ mỗi người đều giáp trụ sáng loáng. Trước trận có hơn mười tướng quân cưỡi chiến mã, đứng cạnh cửa đang lẳng lặng chờ đợi. Một con hắc mã thần tuấn phát ra tiếng phì phì trong mũi, đầu lắc lắc, tên tướng quân lập tức vỗ vỗ đầu nó, an ủi vài câu. Sau đó gã ưỡn ngực, uể oải nói với vị tướng quân mặc hắc giáp đứng ở giữa nhóm: oải, : - Bào tham tướng, nói xem chúng ta bày đại trận như vậy làm cái gì? Vị tướng quân này toàn thân mặc giáp trụ màu đen, trông như một bức tượng bằng sắt, Gã hừ một tiếng đáp: - Là Bào phó tham tướng, Lưu đô ty đừng vượt quy củ! Lưu đô ty chớp mắt, cười hì hì nói: - Bào đại ca! Tề tham tướng thăng chức, trong Tả Tiêu doanh chúng ta ngoại trừ đại ca thì ai có thể làm thống lĩnh năm ngàn binh sĩ chứ? Nghe nói vị tham tướng tân nhậm này là một thư sinh, râu còn chưa dài nữa cơ, chúng ta làm gì phải tôn trọng hắn như vậy? Vị tướng quân mắt hổ râu đen uy phong lẫm liệt, giáp trụ oai phong, đến cả nửa bên mặt gã cũng che kín, do đó cũng không thấy rõ thần sắc. Nghe Lưu đô ty nói thế, mí mắt gã bỗng nhích động, vẫn là im lặng không nói gì. Ở một bên kia, một tướng quân vóc người cường tráng dùng roi ngựa gạt khẽ mũ trụ che mặt, lộ ra cái trán mồ hôi ròng ròng, nôn nóng nói: - Đúng thế, giáp trụ đầy đủ, cứ như Thánh thượng đích thân tới vậy, sắp nóng chết người ta rồi. Tôi nói Bào đại nhân nghe, tiểu tử đó dù có lai lịch gì cũng không cần nể tình như vậy đâu. - Hắc hắc! Một tướng quân mặt rỗ vóc người gầy đét lắc lắc đầu, mấy tua đỏ trên mũ trụ theo gió bay lật phật, hắn nhếch miệng cười nói: - Lai lịch gì chứ? Mấy người các ngươi chẳng biết gì sao? Ta sớm đã nghe rồi. Vị tân tham tướng đại nhân này lúc trước là thị độc của thái tử. Nghe nói có quan hệ rất tốt với Thọ Ninh Hầu Trương gia nữa. Hai ngày trước y vì đi tìm đại phu cứu nương tử đến cả thánh chỉ của Hoàng Thượng cũng không tiếp. Thế mà khi y bị đương kim Thánh Thượng kêu lên kim điện lại không sao. Người của ta trong cung nói Hoàng hậu nương nương đã ra sức bảo vệ y. Chà, người so với người sao lại bất công thế. Chúng ta chinh chiến sa trường, chịu khổ nửa đời, người ta vừa chui ra khỏi bụng mẹ, đã một cước đạp lên đầu chúng ta rồi. Tướng quân giáp đen gương mặt co lại một chút, quát khẽ: - Liên đô ty, ngươi câm miệng cho ta! Liên đô ty nghe gã giáo huấn, phẫn nộ ngoặt đầu ngựa tới cửa, cười lạnh với tâm phúc mình nói: - Tề tham tướng lên chức, lão Bào còn tưởng rằng mình có thể lên chỗ khuyết này. Bây giờ hy vọng tan vỡ, lại lập tức quay sang nịnh nọt người ta, đúng là hèn. Tên phó đô ty nhìn nhìn mọi nơi, nói: - Đại nhân, việc này cũng chưa chắc. Người nhìn hình dáng Bào tướng quân kìa, có chỗ nào giống như đang hoan nghênh không? Ty chức thấy hình như không ổn, hắn định ra oai, đánh phủ đầu vị tham tướng tân nhậm này rồi. Liên đô tư sáng mắt lên, cười nói: - Nếu thực như vậy thì sắp có trò vui xem rồi. Ta nghe nói tuy Dương Lăng là một thư sinh, nhưng Lưu Đại Hạ Lưu thượng thư cũng khen y đó. Chắc cũng giống như Triệu Quát, loại thiếu niên đắc chí này không thể chịu được người khác đả kích. Y lại là người tâm phúc của Hoàng Thượng, lão Bào lại muốn đối đầu trực tiếp với y, hắc hắc hắc hắc... Gương mặt rỗ của hắn đã đỏ ửng lên. Mấy ngày nay hắn chạy quanh chuẩn bị, xài tiền khá nhiều, nguyên đang trông chờ lão Bảo thăng chức tham tướng là hắn có thể lên chức phó tham tướng, không nghĩ tới từ đâu lại xuất hiện tên Dương Lăng. Mất trắng toàn bộ, trong lòng hắn đang rất xót xa. Nếu Bào Tận Thẩm và vị tham tướng mới được phong đối đầu nhau, bất luận là ai phải ra đi thì hắn cũng vẫn có cơ hội. Một tràng tiếng vó ngựa vang lên. Hai vị phó tướng Trương Xuân, Lưu Thiệu Hồng mang theo vài chục thân binh, cùng Dương Lăng phi nhanh đến. Dương Lăng không dám ngồi thẳng, hai chân y cặp vào bụng ngựa, mông hơi nghiêng. Nhìn thấy tư thế y cưỡi ngựa giống như người không biết cưỡi, đám quan tướng ở cửa không khỏi khinh bỉ. Vài chục người cưỡi ngựa cuồn cuộn tiến đến trước cửa. Trên giáo trường đã có mấy ngàn nhân mã đứng trang nghiêm, không ai dám nói gì, ngựa không hí, yên lặng không một tiếng động, cho thấy bình thường được huấn luyện cực tốt, quân kỷ nghiêm minh. Mục quang Dương Lăng lướt qua, ánh mặt trời chiếu xuống giáp trụ của binh lính lóe sáng, quân sỹ kinh sư được trang bị cực tốt, cả năm ngàn quân đều mặc chiến giáp. Trương Xuân, Lưu Thiệu Hồng cùng Dương Lăng giục ngựa lướt nhanh qua đám tướng lĩnh trên đài, rồi quay ngựa hướng về phía toàn quân. Trương Xuân chỉ roi ngựa trong tay, dương dương tự đắc ngạo nghễ hỏi: - Dương tham tướng, ngươi xem quân ta thế nào? Dương Lăng thấy ba quân tướng sĩ đứng thẳng tắp, hàng lối như dệt sợi, nhìn ngang nhìn dọc đều tăm tắp, quả thực không thua gì duyệt binh ở đời sau. Y vui vẻ tán thưởng: - Đại nhân trị quân rất đúng cách, thần binh như thế, ty chức quả chưa thấy qua ở biên quân bao giờ. Trương Xuân nghe xong cười ha ha. Hắn xoay người xuống ngựa, lộp cộp đi lên đài Điểm Tướng, ngạo nghễ đứng thẳng. Bọn người Bào Tận Thẩm đã sớm theo tới trước trận, thấy thế lập tức xoay người xuống ngựa, giáp trụ gạt xuống đi đến trước đài Điểm Tướng quỳ xuống ôm quyền nói: - Phó tham tướng Tả Tiêu quân Thần Cơ doanh Bào Tận Thẩm, suất lĩnh toàn quân tướng sĩ sở thuộc khấu kiến tướng quân! Trương Xuân chỉ tay vào Dương Lăng nói: - Bản tướng vừa tiếp chỉ ý của Thánh Thượng, Đông cung thị độc Dương Lăng cung mã thành thạo, văn hay võ giỏi, đáng được trọng dụng. Lúc này y giữ chức tham tướng Tả Tiêu quân ở Thần Cơ doanh, các ngươi cũng nên ra mắt hắn đi. Bào Tận Thẩm ôm quyền đáp: - Dạ! Hắn phẩy ống tay áo đứng lên, khẽ xoay người nhìn Dương Lăng một chút, rồi dẫn theo ba tên đô ty, sáu phó đô ty, một quan ở trung quân đi đến chỗ Dương Lăng. Dương Nhất Thanh giữ ngựa của cả ba người đứng cạnh đài Điểm Tướng, Liễu Bưu theo sau Dương Lăng đứng ở trước đài Điểm Tướng. Lúc này thấy đám lính ở Tả Tiêu quân sắp sửa tham kiến thượng quan, Liễu Bưu không dám vô lễ, vội vàng tránh qua bên cạnh vài bước. Bào Tận Thẩm đi đến trước mặt Dương Lăng chừng một trượng, chợt dừng cước bộ, hai tay ôm quyền trầm giọng nói: - Tả Tiêu quân phó tham tướng Bào Tận Thẩm suất lĩnh toàn quân tướng sĩ bái kiến tham tướng đại nhân. Dương Lăng mỉm cười đưa tay muốn đỡ lấy gã. Còn chưa mở lời nói gì thì nụ cười y đột nhiên đông cứng lại. Y đưa tay đỡ nhưng trống không, Bào Tận Thẩm hơi chần chờ một chút, rồi thân hình chợt nghiêng sang một bên, đường đường chính chính quay sang Liễu Bưu cúi đầu bái dài. Đám sĩ tốt năm ngàn quân phía dưới lại không nhận ra ai là tân nhậm tham tướng. Các đô ty còn đang do dự, bọn họ thấy phó tham tướng Bào Tận Thẩm đã bái rồi, không chút nghĩ ngợi gì liền quì một gối chào theo. Năm ngàn người động tác đồng loạt, giáp trụ vang động, chỉ nghe “roạt” một tiếng, sau đó đồng thanh hô lớn: - Bái kiến tham tướng đại nhân! Trương Xuân trợn ngược cả mắt lên, hắn giật mình nói: - Bào Tận Thẩm, ngươi bái người nào thế? Bào Tận Thẩm làm bộ giật mình, đáp: - Ty chức phụng lệnh của đại nhân, bái kiến tân nhậm tham tướng Dương Lăng Dương đại nhân mà! Trương Xuân nghe xong vừa sợ lại vừa giận, lạnh lùng nói: - Sao ngươi biết người đó là Dương tham tướng? Bào Tận Thẩm mắt vẫn nhìn thẳng, quì một chân, hai tay ôm quyền, hành đại lễ tiêu chuẩn trong quân, nói lanh lảnh: - Ty chức nghe ý chỉ Thánh Thượng nói là Dương đại nhân cung mã thành thạo, lại văn võ song toàn, trong khi vị kia rất yếu đuối, rõ ràng là sư gia của đại nhân, còn thiếu niên anh hùng này không phải chính là Dương Lăng Dương đại nhân sao? Trương Xuân nghe xong tức giận đến nhất thời nói không nên lời, tay Dương Lăng vẫn đưa lên cao, ngạc nhiên nhìn Bào Tận Thẩm. Thấy gã đảo con ngươi, nhìn mình vẻ coi thường, trong mắt tràn đầy ý châm biếm, Dương Lăng lập tức tỉnh ngộ. Y nhìn Bào Tận Thẩm một lát, chờ nét kinh ngạc và giận dữ trên mặt mình bớt đi, thần sắc khôi phục lại vẻ bình tĩnh, đột nhiên cười phá lên...

Chương 79: Lại Thua Một VánDịch: workman Biên dịch: lht Biên tập: Ba_Van Hiệu đính: Nguồn: www.tangthuvien.com Trương Xuân nhìn theo bóng lưng gã rồi khẽ lắc đầu: “Tham tướng Dương Lăng được Hoàng đế chấm, tiền đồ tuyệt không phải chỉ là chức tham tướng. Đến cả một chút nhãn lực cũng không có, ngươi còn vọng tưởng ngồi trên ghế chủ tướng sao? Chỉ là... Bào Tận Thẩm ở lâu trong quân, cũng có vài sĩ quan quân đội cúi đầu nghe lệnh gã, xem ra gã thật sự muốn chống lại Dương Lăng rồi. Hai người này một là lão tướng trong quân, là niềm tin của mọi người, một người là sủng thần của vua, không thể đắc tội được. Mình lại bị kẹp ở giữa, sau này chắc phải đau đầu rồi.” ------------------------ Chương bảy mươi chín Lại Thua Một Ván ------------------------ Dương Lăng cười hà hà rụt tay về, bước từng bước đến trước mặt Bào tham tướng, không hề có ý giận dữ. Mới vừa rồi đột nhiên bị Bào Tận Thẩm trêu chọc một phen, đúng là trong lòng Dương Lăng vừa thẹn vừa giận. Nhưng y cũng hiểu loại cấp trên được chỉ định từ trên trời rơi xuống rất dễ bị người cũ phản đối. Huống hồ nếu Dương Lăng không phải là người được Hoằng Trị nhắm thì y cũng không thể được thăng chức nhanh như tên bắn, ngồi ngay lên đầu vị tướng quân này. Nghĩ vậy, Dương Lăng lại trở nên bình tĩnh, thông cảm cho vị tướng quân khôi ngô trông như tháp sắt đang tràn ngập địch ý này. Y cười khà khà tiến lên nâng Bào tham tướng dậy, cầm cánh tay gã chậm rãi đi lên đài Điểm Tướng, vừa đi vừa nói với Trương phó tướng: - Đại nhân, chẳng trách Bào tướng quân hiểu lầm. Thánh Thượng ân sủng nên có nhiều lời khen ngợi ty chức. Dương Lăng còn nhỏ tuổi, khí chất phong độ không thể so được với Bào tham tướng vốn uy phong nửa đời trên lưng ngựa. Trương Xuân thấy y có ý hòa giải, âm thầm thở phào nhẹ nhõm. Hắn trừng mắt nhìn Bào Tận Thẩm, rồi quay sang cố cười gượng vài tiếng nói với Dương Lăng: - Tên này quả là lỗ mãng. Về việc xông pha chiến đấu, chiến trường giết địch thì gã thật đúng là một hảo hán, nhưng không có cái nhìn tinh tường nên mới ngộ nhận như vậy. Sau này Dương tham tướng cũng nên xem gã là đồng đội, cần phải châm chước nhiều hơn. Bào Tận Thẩm thấy mình chọc tức Dương Lăng mà y không làm gì được mình nên đang đắc ý trong lòng, nay nghe Trương phó tướng nói thế lại rất bực mình. Gã luôn tự đánh giá mình rất cao, tuy biết Trương phó tướng có ý tốt muốn gỡ tội cho mình nhưng gã vẫn không kìm được hừ lạnh một tiếng, bả vai run lên, vùng khỏi tay Dương Lăng. Trương Xuân thấy gã mê mẩn quan chức đến nổi mất khôn không thông tình lý như thế, không khỏi biến sắc, có vẻ hơi tức giận. Dương Lăng thấy vị Bào tham tướng này không biết điều như vậy, ngay trước mọi người mà vẫn không biết nể mặt mình, trong lòng cũng hơi giận dữ. Y phất ống tay áo, hừ lạnh một tiếng, xoay người đi đến cạnh, đứng kề vai với Trương phó tướng. Lúc này, Bào Tận Thẩm một mình đứng phía sau ba bước, giáp trụ đầy đủ, sững sờ đứng đó, trông lại như một thân binh hộ vệ. Dương Lăng chắp tay vái chào Trương phó tướng, sau đó nhìn xuống dưới đài. Trên quãng trường có năm ngàn quân lính khôi giáp sáng choang đang đứng nghiêm, không một tiếng động, chỉ nghe tiếng gió thổi tinh kỳ phần phật. Dương Lăng đảo mắt qua toàn trường, cảm thấy đám lính mặc dù đội ngũ chỉnh tề, khôi giáp sáng chói, thoạt nhìn có vẻ vô cùng uy vũ, nhưng nhìn kỹ lại thì thấy thiếu phần khí thế. Y đột nhiên nhớ tới biên quân đóng ở Kê Minh dịch, những người này mặc dù trông có vẻ xơ xác du côn một chút, nhưng một khi xếp thành hàng chiến đấu lại có sát khí ngút trời. Khí khái tung hoành ngang dọc không để thiên hạ trong mắt này chính là do việc chiến đấu trên chiến trường rèn dũa thành. Còn những binh sỹ ở đây mặc dù xếp hàng thẳng tắp, đội ngũ vô cùng chỉnh tề, nhưng rõ ràng lại thiếu loại uy vũ hiên ngang như vậy. Dương Lăng mỉm cười, đưa mắt nhìn qua Liễu Bưu, nói: - Liễu Bưu, Dương Nhất Thanh, lên trước đài nghe lệnh! Dương Nhất Thanh liền đưa cương ngựa cho thân binh của Trương phó tướng, vội vàng đi đến trước đài, cùng Liễu Bưu quỳ một gối. Dương Lăng nói: - Hai người vốn là người hầu cận của ta, bản tướng hôm nay nhậm chức chủ tướng Tả Tiêu quân Thần Cơ doanh, từ nay hai người các ngươi cũng gia nhập quân đội, làm thân binh cho ta! Hai người ôm quyền thi lễ: - Ty chức tuân lệnh tham tướng! Dương Lăng khẽ gật đầu, sải bước lên một bước, mặt nhìn xuống toàn quân tướng sĩ, nhưng lại không cho hai người đứng lên. Để lấy lí do biện bạch cho việc làm nhục Dương Lăng, vừa rồi Bào Tận Thẩm cố ý làm ra vẻ nhận lầm người, dẫn tướng sĩ toàn quân quì làm đại lễ trước mặt Liễu Bưu. Nhưng lúc này mấy ngàn người đang đứng nghiêm trong giáo trường, người gã vừa mới bái lại quỳ gối không nhúc nhích trước mặt Dương Lăng. Gã thấy vậy trong lòng vừa thẹn vừa giận, chỉ cảm thấy Dương Lăng có ý làm nhục mình, không khỏi xiết chặt hai nắm đấm, nhìn Dương Lăng trừng trừng. Dương Lăng đứng hiên ngang, trường sam (áo dài nam) lất phất, chắp tay cất cao giọng nói: - Chư vị huynh đệ Tả Tiêu quân. Bản tướng vừa mới tới, chưa quen với mọi người, nói gì cho tốt đây? Ừm... nếu cứ đứng đây ra vẻ thân thiết với mọi người bàn về việc nhà việc cửa, Dương mỗ có vẻ trẻ con giả làm người lớn rồi. Quan binh dưới đài không ngờ vị tướng quân xuất thân văn nhân này ngay câu nói đầu tiên lại đùa cợt như vậy, không thể không cười phá lên. Không khí khẩn trương ước thúc ban đầu đã hoàn toàn biến mất. Dương Lăng cười khà khà đứng đó, đợi thanh âm ồn ảo giảm xuống, giơ hai tay ra hiệu ổn định, tiếp tục nói: - Làm phiền tướng sĩ toàn quân phải vất vả như vậy, mặc dù là các vị hoan nghênh bản tướng, nhưng Dương mỗ vẫn cảm thấy được quá yêu mà ái ngại. Cũng nên nói mấy câu đơn giản để hiểu biết nhau một chút. Ta xin tự giới thiệu qua, ta họ Dương, tên là Dương Lăng, từng nhậm chức dịch thừa Kê Minh huyện, sau đó làm thị độc phủ Chiêm Sĩ. Bây giờ, tất cả mọi người đều biết ta là chủ tướng Tả Tiêu quân Thần Cơ doanh. Lần đầu gặp mặt, Dương mỗ xin được vấn an tướng sĩ toàn quân! Dương Lăng nói rồi hai tay ôm quyền vái chào. Năm ngàn quan binh thấy Đại tướng quân ôm quyền hành lễ, tức thì giáp trụ loảng xoảng, lập tức quỳ gối, tới tấp đáp tạ: - Bái kiến tham tướng đại nhân! Dương Lăng hai tay ôm quyền, ánh mắt lẫm lẫm nhìn vào mặt mấy tên đô ty. Đô ty mặt rỗ Liên Đắc Lộc thấy vậy cũng không khỏi thấp người xuống, quỳ gối. Bành đô ty tráng kiện mập mạp nhìn phải nhìn trái, thấy Liên Đắc Lộc đã quỳ cũng vội quỳ xuống, ôm quyền thi lễ: - Mạt tướng tham kiến Dương tướng quân! Lưu đô ty thấy hai người bọn họ đều quì rồi, do dự nhìn Bào tham tướng một lúc, rồi cũng quỳ xuống theo nốt. Ba vị đô ty đã cúi đầu, mấy sĩ quan cấp cao phía sau nào dám chậm trễ, tất cả đều quỳ xuống đất. Đứng cạnh Dương Lăng, Trương Xuân trừng mắt lạnh lùng nhìn Bào tham tướng. Mặc dầu Bào Tận Thẩm đã dám cậy già lên mặt, giả ngu giả dại phá Dương Lăng, nhưng dù sao lúc đó gã vẫn còn có thể viện cớ là mình nhận lầm. Lúc này mọi người đều đang chăm chú nhìn gã, lại có hai vị phó tướng đại doanh ở đây, gã cũng không dám trắng trợn chống lệnh. Hơi ngần ngừ một lúc, Bào Tận Thẩm đành phải nghiến răng, lẳng lặng quỳ xuống. Dương Lăng xem như chưa biết động tĩnh gì phía sau, y hít sâu một hơi, nói sang sảng: - Các vị, làm tướng phải quản binh, luyện binh. Việc quản binh chính là một khi xuất lệnh, thì lệnh hạ xuống như núi. Việc luyện binh, ngoài việc luyện cung mã võ nghệ, cũng phải luyện quân kỷ hiệu lệnh. Bản tướng mới nhậm chức, đây là tướng lệnh đầu tiên muốn hiểu dụ toàn quân! Y ngừng lại một chút đoạn cao giọng: - Sĩ quan cấp cao trong ba ty của Tả Tiêu doanh đâu? Liên đô ty nghe ngữ khí quả quyết khi nói chuyện của vị thị độc tiến sĩ Đông cung này, cảm thấy y cũng không phải là loại mọt sách, trong lòng cũng đã hơi sợ, nghe thế vội đáp lời: - Đệ nhất ty Tả Tiêu quân Liên Đắc Lộc nghe lệnh! Mấy sĩ quan cấp cao khác cũng lần lượt báo quan hàm và danh tính. Sau khi nghe xong Dương Lăng vung tay lên, lớn tiếng: - Ba vị đô ty lĩnh quân, giờ Thìn canh ba ngày mai tập hợp ở giáo trường. Bản tướng sẽ ở đây điểm binh! Quan quân của Trung quân lưu lại, những người còn lại có thể giải tán! Lưu đô ty hơi chần chờ nhìn thoáng lên đài Điểm Tướng. Bào tham tướng vẫn đang ôm quyền quỳ dưới đất, hoàn toàn không thể nhìn thấy sắc mặt gã. Ba vị đô ty nhìn nhau, chỉ biết lục tục dẫn quân bản bộ rời khỏi giáo trường. Chỉ trong chốc lát cả giáo trường đã trống rỗng. Ban đầu, vốn Bào tham tướng muốn trước mặt ba quân ra oai phủ đầu Dương Lăng, không nghĩ tới Dương Lăng lại sử dụng chiêu này khiến gã phải quỳ gối mãi, y thì nói mấy câu linh tinh rồi đuổi mọi người đi. Nhất thời gã nghiến chặt hàm răng, mặt xạm lại. Dương Lăng xoay người, dường như lúc này mới nhìn thấy gã, vội vàng nâng gã dậy, rồi hớn hở phân phó đám sĩ quan chuẩn bị rượu tiệc, muốn cùng các phó tham tướng khoản đãi hai vị đại nhân Trương Xuân, Lưu Thiệu Đường để trọn tình chủ khách. Nghe thế, rốt cuộc Bào Tận Thẩm không kìm được nữa, gã liền hầm hầm ôm quyền, lớn tiếng nói: - Chư vị đại nhân, ty chức cảm thấy không khỏe. Hôm nay Dương tham tướng nhậm chức, ty chức không thể không cố ôm bệnh mà ra nghênh đón. Tiệc rượu thì chắc không có phúc hưởng rồi, Bảo mỗ xin được cáo lui, thất lễ! Nói xong gã cũng không đợi Dương Lăng trả lời, ôm quyền lui về phía sau ba bước, rồi quay lưng, lộp cộp đi xuống đài. Trương Xuân nhìn theo bóng lưng gã rồi khẽ lắc đầu: “Tham tướng Dương Lăng được Hoàng đế chấm, tiền đồ tuyệt không phải chỉ là chức tham tướng. Đến cả một chút nhãn lực cũng không có, ngươi còn vọng tưởng ngồi trên ghế chủ tướng sao? Chỉ là... Bào Tận Thẩm ở lâu trong quân, cũng có vài sĩ quan quân đội cúi đầu nghe lệnh gã, xem ra gã thật sự muốn chống lại Dương Lăng rồi. Hai người này một là lão tướng trong quân, là niềm tin của mọi người, một người là sủng thần của vua, không thể đắc tội được. Mình lại bị kẹp ở giữa, sau này chắc phải đau đầu rồi.” Hắn nghĩ vậy, không khỏi lo lắng nhìn Lưu Thiệu Đường, vị phó tướng thứ hai này cũng nhìn hắn với vẻ mặt đau khổ. Ánh mắt hai người gặp nhau, cùng nhìn nhau thở dài, đồng thời lắc lắc đầu. ********************************* Giờ Thìn một khắc, Dương Lăng dưới sự trợ giúp của Liễu Bưu đã đội mũ trụ, sườn đeo huyền kiếm, rời khỏi đại trướng của tham tướng. Dương Lăng nghe Tiền Ninh cho biết mấy năm nay quốc gia yên ổn, ngoại trừ bắc cương, còn lại thì chiến sự không nhiều. Tam đại doanh trong kinh sư gần như không được dùng binh. Vì vậy quân kỷ cũng thoải mái, nếu chủ tướng có gia quyến ở kinh thì cũng không cần phải trú trong doanh trại. Dù sao thì mã trình khứ hồi giữa nhà trong thành và Nam Uyển cũng không xa lắm, y vốn định buổi tối sẽ về nhà. Nhưng hôm nay vừa vào đại doanh, Bào tham tướng đã ra mặt muốn áp đảo y nên Dương Lăng không thể về được. Do đó tối hôm qua y đã sai Dương Nhất Thanh về thành một chuyến, đem việc mình ở lại trong quân doanh thông báo cho Ấu Nương. Dù sao lúc này Dương Lăng vẫn chưa để bụng sự vô lễ của Bào tham tướng. Quan uy cần phải qua quá trình lâu dài, dù sao mình cũng là chủ tướng mới trong quân. Lâu dần thì uy danh tự nhiên sẽ quật khởi, ảnh hưởng của Bào Tận Thẩm sẽ từ từ yếu bớt. Chỉ cần bây giờ gã không tìm đến làm phiền mình thì việc này coi như chỉ cười khẩy cho qua luôn. Hai người cùng cai quản Tả Tiêu doanh chứ không nên chống đối nhau, chẳng việc gì phải láo nháo với gã. Lúc này trên giáo trường, đệ nhất ty của Liên Đắc Lộc đã xếp hàng chỉnh tề đợi tham tướng đại nhân duyệt binh. Tên mặt rỗ này hết lòng theo đuổi hoạn lộ, bất luận quan lại bé to gì đó, hắn đều có thể nịnh nọt được. Chỉ là lúc tặng lễ vật thì hắn chỉ tặng vượt cấp. Hắn cho rằng đối với các vị quan chỉ lớn hơn mình một cấp, cho dù mình bỏ tiền ra thì ông ta cũng sẽ không đem chiếc ghế đang ngồi tặng cho mình, do đó mình có tặng cũng chỉ là mất trắng. Nhưng giao tình miễn phí thì mình chẳng ngại gì mà cứ tặng cho ông ta. Do đó hắn đã sớm đưa một ngàn năm trăm quan binh thuộc đệ nhất ty mặc áo giáp chỉnh tề xếp hàng sẵn ở giáo trường rồi. Quân lính đệ nhị ty của Bành Kế Tổ đang chầm chập đi vào giáo trường tập hợp. Một vài binh sĩ đang rì rầm bàn tán, thấy tham tướng đại nhân mặc áo giáp đội mũ trụ dẫn bốn mươi thân binh mặc giáp trụ màu đồng thau tiến vào giáo trường, không khỏi im lặng, vội vàng đi vào hàng ngũ. Dương Lăng đứng uy nghi trên đài. Y mặc bộ giáp sáng choang, thật sự cũng tăng thêm vài phần oai hùng. Chỉ là mấy thứ mũ trụ đồng, chiến bào, hộ kính, quần chiến, giày chiến tạo thành vẻ oai vệ này lại nặng đến bốn mươi cân, làm Dương Đại tướng quân tuy uy vũ thì có uy vũ, nhưng nếu không nhờ có Liễu Bưu, Dương Nhất Thanh giúp đỡ, việc y lên ngựa xuống ngựa cũng rất tốn sức. Dương Lăng nhìn chung quanh, lại ngẩng đầu nhìn trời, xoay qua Liễu Bưu thấp giọng hỏi: - Bây giờ là giờ nào? Liễu Bưu thấp giọng trả lời: - Đại nhân! Đã qua giờ Thìn hai khắc rồi, còn một lát nữa là tới giờ Thìn ba khắc. Dương Lăng khẽ gật đầu, ánh mắt nhìn vào góc giáo trường, nơi đó vốn phải có quân binh của đệ tam ty, nhưng bây giờ không có lấy một bóng người. Bành Kế Tục và Liên Đức Lộc dưới đài cũng chú ý tới tình hình này. Hai người đến gần nhau khe khẽ nói chuyện, len lén quan sát phản ứng của Dương Lăng. Vị tham tướng đại nhân này hôm qua đã từng nói một khi ra lệnh thì lệnh hạ như núi. Lúc này cũng đã sắp giờ Thìn ba khắc, không ngờ đội quân đệ tam ty chuyên dùng pháo của Lưu Sĩ Dung lại không hề có người nào, thử xem tham tướng đại nhân này xuống đài ra sao. Dương Lăng nổi giận thật sự. Y nắm chặt chuôi kiếm, đôi mày kiếm cũng cau lại. Lưu Sĩ Dung cũng không phải là người có gan, cũng không cần phải đắc tội với y. Chắc chắn là do Bào Tận Thẩm xúi giục. Hôm qua y đã nhìn thấy biểu hiện của mấy tên sĩ quan cấp cao. Y thấy Lưu đô ty không ít lần đưa mắt nhìn Bào tham tướng. Không nghĩ tới tên Bào tham tướng hôm qua vừa xúc phạm mình một phen trước mặt hai vị phó tướng Thần Cơ doanh, mới hôm nay đã muốn làm lại lần nữa. Dương Lăng nén giận, khóe mắt liếc xuống đội trưởng đội thân binh đứng dưới đài Điểm Tướng, chẳng biết người nọ có phải là cũng cùng một đảng với Bào tham tướng không. Nếu đợi qua canh giờ này, ta sẽ phái hắn chấp hành quân pháp, bắt Lưu Sĩ Dung tới gặp ta. Hắn có nghe lệnh không? Hiện nay Dương Lăng chỉ chắc chắn có thể sai bảo được hai người Dương, Liễu thôi. Muốn trùng chấn quân uy mà không đủ tự tin, trong lòng y không khỏi thấp thỏm. Một lát sau, Dương Nhất Thanh nói nhỏ: - Đại nhân! Tới giờ Thìn ba khắc rồi. Dương Lăng hít một hơi, thả lỏng vai nhìn xuống dưới đài, chỉ thấy ba ngàn nhân mã của đệ nhất ty, đệ nhị ty đều đứng nghiêm trang, vô số cặp mắt đổ dồn vào hắn. Mí mắt Dương Lăng giật giật, từ từ nhìn về phía cửa. Đang muốn hạ lệnh cho đội trưởng thân binh chấp hành quân pháp, chợt y nghe xa xa có tiếng người gọi ngựa hí. Một lát sau có một con ngựa trắng xông vào cửa, viên kỵ mã hò hét om sòm: - Mau lên cho ta, lập tức xếp thành đội ngũ! Vừa thấy hắn, Dương Lăng không khỏi lửa giận sôi lên, không kìm được quát lớn: - Lưu Sĩ Dung! Bản tướng muốn ngươi giờ Thìn ba khắc tập hợp ở giáo trường, cớ gì tới trễ như vậy? Lưu Sĩ Dung xoay người xuống ngựa, sải bước đi đến trước đài rồi ôm quyền thi lễ: - Hồi bẩm tham tướng đại nhân. Đại nhân hạ lệnh giờ Thìn ba khắc tới giáo trường tập hợp, ty chức không dám tới trễ, bây giờ chính là giờ Thìn ba khắc đó! Hắn cũng không ngẩng đầu lên, cao giọng nói sang sảng: - Nhân mã đệ tam ty gồm một ngàn năm trăm người, trừ ba người bệnh ra, còn lại toàn bộ đã tới. Mời đại nhân duyệt! Nhân mã đệ nhất ty, đệ nhị ty sớm đã đứng nghiêm dưới đài. Nhân mã đệ tam ty vừa ào vào, người kêu ngựa hí tạo nên tình cảnh hỗn loạn, nhất thời khiến cho giáo trường vốn nửa tháng không mưa tung bụi lên mù mịt bốn phía. Dương Lăng nhìn đám quân lính đang chạy tán loạn lung tung tựa như chưa tìm được vị trí, tức giận đến mức thân thể khẽ run lên: quan binh mỗi ngày đều điểm binh thao diễn, lí gì mà không tìm thấy chỗ của mình. Rõ ràng là có người sai sử mấy tên binh lính càn quấy, cố ý bày trò. Thấy quang cảnh như thế, Dương Lăng lập tức biến hẳn sắc mặt!

Chương 80: Phật Cũng Nổi GiậnDịch: workman Biên dịch: lht Biên tập: Shandian Hiệu đính: Nguồn: www.tangthuvien.com Bào Tận Thẩm vội đáp: - Đại nhân có thể được Hoàng Thượng ân sủng xem trọng thì làm sao đến cả chút việc như thế mà cũng không xử lý ổn chứ? Ha ha, ngài quá khiêm tốn rồi. Hai ngày trước trong quân không có tướng, ty chức đành phải cố chống đỡ thôi. Bây giờ Dương đại nhân tới rồi, ty chức cuối cùng cũng có thể nghỉ ngơi, trong quân nhiều việc còn phải nhờ Dương đại nhân quan tâm tới. Dương Lăng lập tức đứng dậy nói: - Cũng nên thế, nên thế. Bào tướng quân chưa lành bệnh vậy rất cần nghỉ ngơi. Chuyện trong quân hà tất phải lo lắng, bản quan xin được cáo từ… ------------------------ Chương tám mươi Phật Cũng Nổi Giận ------------------------ Dương Lăng ngửa mặt lên trời cười ha hả, rồi lạnh lùng nói: - Lưu đô ty dùng binh hay thật, quả nhiên giờ Thìn ba khắc đã tới tập hợp. Lưu đô ty tỏ vẻ bướng bỉnh bất tuân nói: - Quân lệnh của đại nhân như núi, đã nói giờ Thìn ba khắc tập hợp, mạt tướng tự nhiên là không dám muộn, mà cũng không dám sớm. Dương Lăng nhìn vào ánh mắt khiêu khích của hắn một lát, trong lòng đột nhiên chấn động, lập tức thanh tỉnh. Lưu Sĩ Dung vẻ mặt không hề sợ sệt, rõ ràng là đã lợi dụng kẽ hở trong lời nói của mình, nếu hôm nay muốn dùng quân pháp trị tội hắn thì hắn tất sẽ dùng việc chấp pháp bất công mà kiện lên cấp trên. Nếu làm như vậy, kiện cáo sẽ rất lôi thôi, toàn quân cao thấp còn có ai thèm kính sợ mình? Chẳng phải sẽ theo ý đồ của chúng sao? Dương Lăng ấn chuôi kiếm, vội hít vài hơi, ổn định tâm tình, đứng trên đài chẳng nói chẳng rằng gì. Lưu Sĩ Dung thấy hắn nghẹn lời, không khỏi hiện lên nụ cười đắc ý, hắn đứng dậy nói: - Đại nhân, những binh sĩ này không có quy củ, để mạt tướng về bản trận chỉnh lại đội ngũ! Hắn xoay người lên ngựa chạy về đê tam ty, roi ngựa trong tay vung lên, tiếng rít vun vút, rồi trầm giọng quát: - Tham tướng đại nhân có lệnh, lập tức tập hợp, mau mau về vị trí, chậm trễ coi chừng ăn roi. Còn lại quân binh hai ty thấy hắn đuổi lính như đuổi dê, không khỏi phá lên cười. Dương Lăng cười lạnh nhìn giáo trường hỗn loạn, tùy ý để Lưu Sĩ Dung náo loạn. Lưu Sĩ Dung dương dương tự đắc, nhìn thấy uy phong của tham tướng đại nhân đã bị hạ xuống, thể diện chẳng còn gì, lúc này mới ước thúc đội ngũ đàng hoàng, nghiêm trang nói: - Khải bẩm tham tướng đại nhân, đệ tam ty Tả Tiêu quân đã tập hợp xong, xin đại nhân hạ lệnh! Dương Lăng làm như không nghe, nhìn quan phụ trách trung quân dưới đài hỏi: - Trung quân, Bào tham tướng đâu? Lưu Sĩ Dung cướp lời: - Ty chức đang muốn khải bẩm đại nhân, Bào tham tướng hôm qua thân thể không thoải mái, hôm nay lại bị nặng lên, nhờ ty chức xin đại nhân cho nghỉ. Dương Lăng liếc nhìn hắn, cười mà như không. Lưu Sĩ Dung nhìn thấy thế trong lòng cả kinh, thầm nghĩ: “Có phải là ta đang đùa với lửa không, tiểu tử này nếu nhẫn tâm kêu người đánh giết, thật sự làm lớn chuyện này để gỡ lại thể diện thì sao đây?” Hắn đang vô cùng cẩn thận, nhưng chỉ nghe Dương Lăng điềm nhiên như không nói: - Vậy à! Hôm qua nghe nói Bào tham tướng có bệnh mà bản tướng vừa mới đến nhận chức, công việc bộn bề, còn chưa kịp đi thăm hắn. Lát nữa diễn võ xong, Lưu đô ty theo ta đến thăm Bào tham tướng nhé. Y ngừng lại một chút, rồi nói: - Hôm nay diễn võ, tướng sĩ trong quân giáp trụ thì đầy đủ nhưng tại sao trong tay lại không có binh khí? Các ngươi ngày thường luyện tập võ nghệ đều là như thế sao? Liên Đắc Lộc trên ngựa chắp tay nói: - Bẩm đại nhân, Thần Cơ doanh rất gần hoàng thành trọng địa, e rằng kinh động trong cung và dân chúng, do đó xưa nay luyện tập hỏa khí thì một lần mỗi tháng, kéo cả đội ngũ vào núi tập dượt, còn bình thường thì chỉ diễn luyện trận pháp, đội ngũ thôi. Dương Lăng ngày xưa đã từng gặp qua đội hỏa súng biên quân. Cách đánh của đạo quân ô hợp đó quả là vô cùng thảm hại. Từ khi biết được mình được điều tới Thần Cơ doanh, y đã khổ công suy nghĩ rất lâu về phương pháp luyện binh, cùng với cấp bậc kỹ thuật hỏa khí bây giờ, làm sao đề cao được tốc độ xạ kích của hỏa khí. Khắc tinh lớn nhất của hỏa khí thời đại này là là kỵ binh của địch nhân. Nếu có thể truyền phương pháp xạ kích ba quãng ba hàng cho binh sĩ, phối hợp hàng lá chắn tay và kỵ binh, tất sẽ thành một chi kỳ quân. Lúc này nghe Liên Đắc Lộc nói thế, y không khỏi nhíu mày nói: - Thần Cơ doanh sở trường hỏa khí mà mỗi tháng chỉ luyện tập một lần, vậy binh sĩ làm sao có thể thuần thục sử dụng súng ống được? Tư Khố Quan, đi lấy súng ống hỏa pháo ra đây, toàn doanh xuất phát, bản tướng muốn vào núi huấn luyện!. Tư Khố Quan khom người nói: - Đại nhân, súng và hỏa pháo phải có đại nhân đóng dấu của ngài mới có thể lấy ra. Xin đại nhân ban lệnh. Còn nữa, những thứ như hỏa dược và đạn pháo do Bào phó tham tướng giữ, không có lệnh phù của ông ta cũng không động vào được, ngài xem... Dương Lăng nghe xong từ từ lui về phía sau vài bước, ngồi vào ghế soái do thân quân thu xếp, dựa vào lưng ghế, nói: - Nếu đã như vậy, hôm nay tạm không vào núi luyện tập nữa. Ba ty sở thuộc xưa nay huấn luyện ra sao thì cứ làm như cũ. Trên mặt Lưu Sĩ Dung hiện lên nụ cười đắc ý, còn ánh mắt của chư tướng khi nhìn về phía Dương Lăng đều có vẻ không còn kính sợ như trước lại thêm chút khinh thường. Dương Lăng điềm nhiên như không, chỉ dụng tâm quan sát từng thuộc hạ của ba ty đang tập luyện. Việc huấn luyện Thần Cơ doanh xưa nay chủ yếu là duyệt binh đội ngũ, tập trận pháp, những thứ này sớm đã luyện đến thuộc làu rồi. Đội ngũ đi đứng gọn gàng răm rắp, trận pháp diễn luyện ngươi công ta thủ, ngươi thủ ta công, lui lui tới tới, khiến người xem hoa cả mắt, nhưng sợ rằng chỉ để đẹp mắt mà thôi. Đội hình quan binh mặc trọng giáp đi đứng tuyệt đẹp. Các loại chuyển đổi trận thức càng xảo diệu vô cùng, hơn nữa lại có thêm giáp tốt, bước chân mạnh mẽ, cử chỉ hài hòa với nhau, di chuyển trên giáo trường nhanh như chớp, làm bụi mù mịt nổi lên bốn phía. Người xem nhiệt huyết sôi trào, liếc mắt vừa nhìn quả thật đây là một quân đội hổ lang. Dương Lăng nhìn cảnh này, so với cảnh loạn quân chém giết khi xưa ở Kê Minh Dịch và trong Hồ Lô cốc, càng khiến cho y có cảm giác như có hoa mà không có quả, chỉ dùng để biểu diễn duyệt binh thì cố nhiên rất đẹp, nhưng thật sự không có lực sát thương gì. Y thấy việc diễn luyện như thế quả thật rất chán, nhưng thân là chủ tướng không thể rời đi, chỉ đành ngồi đó kiên nhẫn đợi ba ty luyện tập xong. Diễn võ chấm dứt, Dương Lăng lập tức dẫn thân binh theo Lưu Sĩ Dung cùng tới doanh trướng của Bào phó tham tướng. Lưu Sĩ Dung thấy y thần sắc hiền lành, còn cho là y bị mình hành hạ đã mềm đi rồi nên mới tới chỗ Bào đại ca làm hoà, trong lòng không còn cảnh giác nữa. Doanh trướng Bào phó tham tướng ở giữa đại doanh, được thiết kế dựa vào núi, ở cửa có bốn thân binh gác. Dương Lăng theo Lưu Sĩ Dung vào phòng ngủ của Bào Tận Thẩm, chỉ thấy Bào phó tham tướng đang đắp chăn nửa nằm nửa ngồi, dựa vào giường lò, trên đầu để một cái khăn. Lưu Sĩ Dung nói: - Bào đại nhân, Dương tham tướng nghe nói ngài ốm liệt giường, nên đặc biệt tới đây thăm. Bào phó tham tướng thấy Dương Lăng, vội vàng làm bộ muốn đứng dậy, miệng nói không ngớt: - Một chút bệnh nhỏ thôi, sao dám để đại nhân cực nhọc. Ty chức đã nhiều ngày qua bị bệnh thấp khớp ở tuổi già tái phát, thật sự không đi được nên đành phải xin nghỉ. Đại nhân hôm nay điểm binh luyện tập, xem quân uy của doanh ta như thế nào? Dương Lăng đỡ lấy thân thể sắp rời khỏi giường lò của hắn, đắp chiếc chăn lại cho hắn xong, mỉm cười nói: - Ninh đại nhân và Bào đại nhân dạy binh đúng cách, quân uy nghiêm chỉnh, bản tướng đã đại khai nhãn giới rồi. Ha ha! Bản tướng nghe nói Bào đại nhân bệnh nặng, vốn nên lập tức tới thăm, nhưng ba quân đã tụ tập đầy đủ ở giáo trường cho nên không tiện bỏ việc, do đó tới chậm, Bào tướng quân đừng trách. Bào phó tham tướng thừa cơ nằm lại trên giường, cười mà như không, nói: - Không sao, việc quân vẫn quan trọng hơn. Đại nhân còn trẻ lại đầy hứa hẹn, Tả tiêu doanh chúng ta được đại nhân quản lí, nhất định ngày càng lớn mạnh. Mạt tướng chỉ bị bệnh già thôi, thật sự là không sao cả. Dương Lăng cười nhạt, liếc mắt nhìn Lưu Sĩ Dung nói: - Bản tướng dù sao cũng xuất thân văn nhân cho nên chẳng biết quy củ trong quân, còn cần phải xin lão tướng quân chỉ dạy nhiều. Lấy chuyện hôm nay làm ví dụ, hôm qua ta dặn ba ty giờ Thìn ba khắc hôm nay phải tới giáo trường đợi lệnh, kết quả nhất thời sai sót, nói thành giờ Thìn ba khắc tới giáo trường tập hợp; Lưu đô ty đến đúng giờ nhưng bị ta hiểu lầm, giáo huấn hắn một lát, bản tướng bây giờ nhớ tới vẫn còn xấu hổ. Bào Tận Thẩm cười khẩy, liếc nhìn Lưu Sĩ Dung, vui tươi hớn hở nói: - Đại nhân nói như vậy cũng không tính là nói sai. Ha ha, nhưng... Diễn võ cũng không phải là đại sự gì, tới muộn thì thôi, người ta nói quan mới vừa nhậm chức đốt ba đống lửa (tân quan thượng nhiệm tam bả hỏa (1)), thật ra chỉ sơ sơ là được rồi. Đám binh sĩ lưu manh này cũng không cần phải làm quá. Dương Lăng mỉm cười nói: - Bản quan nếu có lão tướng đức cao vọng trọng như Bào đại nhân giúp đỡ, trong quân trên dưới đồng lòng thì cần gì phải đốt ba đống lửa chứ? Do đó lão tướng quân phải mau khỏi bệnh đi thôi. Tuy nói trong quân không có chiến sự phát sinh nhưng những thứ tạp vụ thường ngày thì bản quan nhất thời xử lý tới sứt đầu mẻ trán. Bào Tận Thẩm vội đáp: - Đại nhân có thể được Hoàng Thượng ân sủng xem trọng thì làm sao đến cả chút việc như thế mà cũng không xử lý ổn chứ? Ha ha, đại nhân quá khiêm tốn rồi. Hai ngày trước trong quân không có tướng, ty chức đành phải cố chống đỡ thôi. Bây giờ Dương đại nhân tới rồi, ty chức cuối cùng cũng có thể nghỉ ngơi, trong quân nhiều việc còn phải nhờ Dương đại nhân quan tâm tới. Dương Lăng lập tức đứng dậy nói: - Cũng nên thế, nên thế. Bào tướng quân chưa lành bệnh vậy rất cần nghỉ ngơi. Chuyện trong quân hà tất phải lo lắng, bản quan xin được cáo từ… Dương Lăng đi đến cửa, hít hít mũi, ngửi thấy trong phòng có mùi rượu liền cười lạnh rồi ngang nhiên đi ra ngoài, bỏ lại Bào Tận Thẩm và Lưu Sĩ Dung ngạc nhiên nhìn nhau. ********************************* - Liễu Bưu, ngươi chạy về Cẩm Y Vệ ngay lập tức. Nếu Trương đại nhân về Thiên Tân vệ rồi thì tới ngay chỗ Tiền Ninh Tiền đại nhân, ngoài ra tới Đông Xưởng gặp Phạm công công mời Xưởng Vệ ra mặt. Cho dù phải đào sâu ba thước thành Bắc Kinh cũng phải tìm cho ra mấy thứ gia vị mà Bào phó tham tướng thích ăn. Nhất Thanh, đi! Chúng ta đi tìm quan Trung quân tâm sự! - Hồ trung quân, bản tướng vừa mới nhậm chức, cũng không hiểu lắm về vai trò của chánh phó tham tướng, ngươi mau nói lại cho ta nghe. ... - Hay lắm! Bản quan hiểu rồi. Bào phó tham tướng ốm liệt giường không thể làm việc nặng cho nên bản tướng không dám trách ai. Thầy ký, nhớ kỹ rằng từ hôm nay trở đi mọi việc trong quân đều do bản quan tiếp quản. Việc lương thảo, quân tư trọng yếu nếu không có bản quan đóng dấu thì không được chi dụng. Phát lương bổng, những chi phí đi lại nếu không có bản quan kí tên, bất luận là ai cũng không được xài. Ngoài ra, ngày mai chính là ngày phát lương phải không? Lương bổng của Đệ tam ty tạm thời không phát. Đêm qua bản quan nhận được khiếu nại nói là đệ tam ty có mấy sáo trưởng, bả tổng giả mạo lĩnh lương, để ta điều tra rõ rồi trả lời. - Mấy tên tiểu lại cấp dưới giả mạo ăn lương khống, làm bại hoại quân kỷ, phải trừng phạt nghiêm. Sau này, việc lên chức điều động sĩ quan cỡ thập trưởng trở lên phải có bản quan gật đầu, nếu không sẽ không có hiệu lực. Dương Lăng cười lạnh đi đến cửa, rồi quay đầu lại dặn dò: - Giữa trưa hôm nay chuẩn bị một mâm cỗ to, ta phải mở tiệc chiêu đãi Liên đô ty. “Tên Bành mập không phải thích làm cỏ đầu tường sao? Được, vậy trước tiên cứ ở trên đầu tường đi, đỡ phải vướng tay vướng chân.” Quan trung quân len lén lau mồ hôi. Vị tham tướng đại nhân hào hoa phong nhã này lợi hại thật, vừa cười cợt vừa lấy sạch quyền của Bào phó tham tướng. Trước kia cũng từng thấy tướng lĩnh trong quân lục đục với nhau nhưng đều chỉ chạy loanh quanh mua chuộc lòng người, còn thường thì chỉ đọ sức võ công một phen, đâu có ai dùng chiêu nham hiểm như vậy. Quan trung quân là chức quan phụ trách nội vụ trong quân đội. Phụ trách nội vụ vốn là công việc béo bở, hôm nay thấy thủ đoạn của Dương Lăng, Hồ trung quân sợ Dương Lăng đại nhân tận trung vì nước, cúc cung tận tụy không ngại vất vả cực nhọc lấy béng luôn cả việc của mình bèn cười nịnh, nói: - Dạ dạ dạ, đại nhân yên tâm, ty chức lập tức thông báo cho Bào đại nhân, giữa trưa chuẩn bị một mâm cỗ tốt nhất. Dương Lăng nghe xong nhướng mày, lạnh lùng nói: - Không phải nói là Bào đại nhân nằm liệt giường, mọi việc không phải xin chỉ thị của hắn sao? Bản quan nói mà ngươi cũng không nghe à? Hồ trung quân luống cuống, vội vàng nói: - Đại nhân hiểu lầm, ty chức nói Bào đại nhân đây không phải là Bào đại nhân, không phải đâu. Ý ty chức nói là Bào đại nhân, không phải Bào phó tham tướng, là đường đệ của hắn mà. Đây là, quan phụ trách mua sắm cho Tả tiêu quân, Bào Tận Trung Bào đại nhân. - Hả? Dương Lăng sáng mắt lên, đập đập chiếc roi ngựa trong lòng bàn tay, trầm ngâm hồi lâu rồi mới cười khà khà nói: - Quan mua sắm à? Vậy năm ngàn quan binh trong đại doanh chúng ta ăn tiêu, chi phí đều là do hắn phụ trách phải không? Hôm sau, Tả Tiêu quân được phát lương, quan binh đệ tam ty một xu cũng chẳng có, tìm đến quan quân nhu hỏi thì được hắn nói là: Nửa đêm hôm qua có binh lính dùng giấy bọc đá ném vào phòng ngủ tham tướng đại nhân, báo là đệ tam ty có mấy người quản lý báo cáo láo, giả mạo lĩnh quân lương, do đó tiền lương của đệ tam ty phải đợi Tổng binh đại nhân tra ra chân tướng mới có thể phát được. Quan quân nhu bị Lưu Sĩ Dung chửi cho một trận, lại chạy tới truy vấn tham tướng đại nhân khi nào thì mới có thể tra ra... thân binh tham tướng là Liễu Bưu trịnh trọng nói cho hắn một chuyện lạ: Tham tướng đại nhân trước mắt bận quá, đang chỉnh đốn doanh vụ, nhân vì sáng sớm hôm nay khi tham tướng đại nhân ăn điểm tâm, không ngờ ăn phải một con gián chết, tham tướng đại nhân vì thế nổi trận lôi đình, đến thức ăn của sĩ quan đã như vậy, thứ mà binh sĩ bình thường ăn còn là đồ cho người ăn sao? Do đó tham tướng đại nhân yêu binh như con đang xét xử quan mua sắm. Về phần tra có ra việc có lương khống không thì cứ về đợi tin tức đi. Dương Lăng đã nổi giận thật sự. Dưới ánh mắt của năm ngàn quân binh dám hết lần này tới lần khác trêu vào chủ tướng ba quân, có là phật tổ thì cũng phải tức giận. Hắn nếu đã dám coi khinh đắc tội thượng quan thì phải chuẩn bị gánh chịu mọi trách nhiệm. Dương Lăng chưa từng lãnh binh nhưng y biết khi bắt tay vào chuyện gì cũng cần nắm hai việc, một là quyền quản lý nhân sự, hai là quyền quản lý tài sản, kinh nghiệm, uy vọng, đức cao vọng trọng gì thì cũng đều chỉ do mình dựng nên. Binh lính không có lương, hắn còn kính trọng ngươi nữa không? Đi theo ngươi một tên quan không tiền đồ, dù ngu tới đâu cũng không theo mãi được. Trong ty mua bán ,Bào Tận Trung cười lạnh nói: - Tham tướng đại nhân, năm ngàn tráng hán một mùa đông ăn bao nhiêu rau củ? Làm sao mà tính rõ được? Hơn nữa tính đến thịt cá, mấy đại nhân cũng phải ăn uống, đúng không! Hắn quơ lấy một bao tải, chỉ vào đống sổ sách hỗn độn bên trong nói: - Hạ quan phải mua bán hàng ngày chạy đi chạy về rất mệt mà bên người lại thiếu người giúp đỡ, biết ghi sổ đóng dấu cũng chẳng có ai thì nói gì đến tính toán rõ ràng. Mấy chuyện thu chi này ai mà tính cho rõ được chứ? Dù sao hạ quan cũng không có tham ô, đại nhân không tin thì cứ việc đi mà kiểm tra. Dương Lăng nhìn một đống sổ sách để chật ba bao tải cũng không khỏi đau đầu. Việc tước lấy quyền quản lí, nắm quyền điều động nhân sự tất nhiên có thể áp chế được Bào Tận Thẩm nhưng không thể cướp đoạt quyền chưởng quản quân giới, súng, thuốc nổ, đây là thủ đoạn kiềm chế lẫn nhau của hoàng gia. Nếu muốn làm hắn ngoan ngoãn chịu thua để từ đó nói gì nghe nấy, phối hợp với kế hoạch luyện binh tất phải nắm được đuôi của hắn. Nếu nắm được chứng cớ chính xác hắn tham ô quân lương, chẳng phải hắn sẽ ngoan ngoãn phục tùng sao? Nhưng tìm đâu ra trợ thủ có thể tìm ra khoản này đây? Dương Lăng đang ưu sầu bỗng có tên lính hổn hển chạy vào, kêu lên: - Đại nhân, huynh đệ của ngài tới thăm, hạ quan không nhìn ra được thân phận nên không dám tự tiện cho vào doanh, xin đại nhân tự mình đến xem. - Huynh đệ ta à? Dương Lăng giật mình, chẳng lẽ là Đông Xưởng hoặc Cẩm Y Vệ lại phái một tên đao phủ chỉ biết đánh giết tới giúp mình sao? Yliếc nhìn Dương Nhất Thanh thì hắn cũng khẽ lắc lắc đầu, tỏ vẻ không biết gì. Dương Lăng đá vào đống sổ, nói: - Bào thu mua, ngươi không cần mạnh miệng, bản quan vị tất đã không tra được ba bao này. Nhất Thanh, ngươi ở lại đây canh chừng, bản quan ra cửa doanh xem một chút. Bên trong hàng rào cửa doanh cao nửa người có vài tên lính đang đứng ngó nghiêng bảy tám người bên ngoài. Dương Lăng từ xa đã thấy đại hán vóc người khôi ngô chắc khỏe chính là nhạc phụ Hàn Lâm. Nhạc phụ cũng đã tới nơi này rồi vậy Ấu Nương nhất định cũng tới đây. Dương Lăng mừng quá quất một roi vào mông ngựa, giục ngựa đến cửa doanh mới ghìm cương, cao giọng quát: - Mau mau mở cửa doanh. Vài tên lính quay đầu lại thấy tham tướng đại nhân tới vội vàng xoay người khúm núm, cùng kêu lên: - Tham kiến đại nhân. Lúc này chỉ nghe ở ngoài hàng rào có một tiếng hô yêu kiều thanh thoát: - A! Một vị tướng quân thiếu niên anh tuấn quá! Dương Lăng nhìn lên, thấy người vừa nói chuyện chính là một tiểu thư sinh cầm quạt giấy cũng chỉ khoảng mười ba mười bốn tuổi, mặc một bộ áo dài xanh, đầu đội khăn công tử, khóe môi có một nốt ruồi mỹ nhân, bộ dáng còn yêu kiều hơn cả nữ tử tuyệt đẹp ba phần. Dương Lăng chỉ cảm thấy bộ dáng của thiếu niên thập phần quen mắt, lại nhìn chăm chú một lát, đột nhiên kêu lên một tiếng kinh hãi: - Là ngươi?! Tiểu thư sinh đó mới vừa rồi chỉ nhìn một bên, thấy vị tướng quân thiếu niên này mặc giáp đội mũ oai hùng bất phàm, đang mở to đôi mắt như hoa đào thích thú, nhưng vừa thấy y quay mặt lại cũng không khỏi kinh hỉ chỉ vào y gọi nói: - A! Là... là y! Dương Lăng lúc này mới nhìn thấy bên cạnh tiểu thư sinh đó còn có ba công tử đang đứng. Một người có vẻ tuấn tú, một người hơi mập mặc áo thư sinh màu tím nhạt, người còn lại đầu đội mũ quả dưa, mặc áo bó lưng tay hẹp, mặt mày tươi rói, đoan trang yêu kiều, chính là Hàn Ấu Nương... Chú thích: (1) Ý là quan viên mới lên chức thường dùng những biện pháp cải cách hay những chính sách mới. Điển cố: Thời Tam Quốc khi Gia Cát Lượng làm quân sư cho Lưu Bị, trong một thời gian ngắn đã ba lần dùng hỏa công đánh Tào Tháo. Lần đầu hỏa thiêu sườn núi Bác Vọng làm mười vạn quân Tào của Hạ Hầu Đôn còn được vài người. Lần thứ hai ở Tân Dã dùng hỏa công, thủy yểm diệt sạch mười vạn quân của Tào Nhân, Tào Hồng. Lần thứ ba hỏa thiêu Xích Bích trăm vạn quân Tào thảm bại, rốt cuộc chỉ còn 27 người theo Tào Tháo chạy thoát. Bấy giờ người ta gọi ba lần đốt lửa này là “Gia Cát lượng mới nhậm chức đốt ba đống lửa”. Về sau thì thành “Quan mới lên nhậm chức đốt ba đống lửa” Nguồn http://baike.baidu.com/view/350204.htm

Chương 81: Mưu MôDịch: workman Biên dịch: lht Biên tập: Ba_Van Hiệu đính: Nguồn: www.tangthuvien.com - Tận Trung! Chọn những huynh đệ tuyệt đối tin cẩn cho cải trang, nạy hàng rào phía sau núi, giả làm cường đạo vào trại quân ăn trộm, sau đó chạy thẳng tới phủ tham tướng giết quách bốn con đàn bà đó, đốt sạch sổ sách cho ta! ------------------------ Chương tám mươi mốt Mưu Mô ------------------------ Dương Lăng nhìn thấy ánh mắt hâm mộ của ái thê và ba thiếu nữ, máu anh hùng nổi lên ầm ầm. Y không vội xuống ngựa, mà vẫn hiên ngang ngồi ngay ngắn trên yên, đợi đám binh sĩ mở cửa rào ra mới hai tay chống yên, lắc mình uy phong lẫm liệt nhảy xuống ngựa, trông rất tiêu sái. Đáng tiếc thay, chiến bào hắn đang mặc toàn bằng lá sắt, nặng trên bốn mươi cân, đã nhảy lên rồi cộng thêm đà rơi xuống nên càng nặng hơn. Cả người Dương Lăng lảo đảo, chút nữa ngã nhào xuống đất, may mà có hai tiểu tốt đứng cạnh vội vàng chạy tới đỡ. Dương Lăng giơ tay chộp chiếc mũ trụ sắp rơi, cười gượng nói: - Ắc... Vết thương trên người chưa lành hẳn. Ha ha, chưa lành hẳn. Ngọc Đường Xuân thấy y cố sĩ diện, không kìm được phì cười, rồi vội vàng bịt miệng lại. Mặt nóng bừng, Dương Lăng không dám nhìn mặt mấy vị cô nương, luống cuống bước lên phía trước thi lễ với Hàn Lâm: - Nhạc phụ! Tiểu tế đang mong các vị đến kinh, xin mau mau vào doanh trại ngồi chơi. Cha con Hàn Lâm nghe Ngô Kiệt báo tin Dương Lăng không tuân thánh chỉ, đưa Ấu Nương đi khắp chín cửa thành tìm thầy thuốc, chỉ sợ vào đến Bắc Kinh thì cả nhặt xác cũng không kịp, nên lòng nóng như lửa đốt chạy cả ngày đêm, trên đường không dám nghỉ một chút nào. Vừa vào phạm vi kinh sư, bọn họ liền nghe dân chúng loan truyền đủ loại sự tích về việc Dương Lăng kháng chỉ cứu vợ, nhưng kết cục đều như nhau: thị độc Dương Lăng có nghĩa có tình, đương kim thiên tử anh minh vô cùng. Chỉ tiếc gần đây thành Bắc Kinh vẫn chưa có mưa, nếu không việc Dương Lăng cứu vợ cảm thiên động địa nhất định cũng sẽ được dựng thành kịch trình diễn mất rồi. Bốn cha con tới nhà Dương Lăng, lại thấy mấy cô oanh yến líu lo, e thẹn vào ra làm cho lão Hàn Lâm thật thà cả kinh chết lặng người, tưởng rằng chỉ chưa đến vài tháng mà con rể đã một hơi nạp tới bốn phòng thiếp rồi, tốc độ thật khiến cho người ta hết hồn. Mãi đến khi Ấu Nương rỉ tai lão kể lại thân phận và lai lịch của nhóm Đường Nhất Tiên, Hàn Lâm mới tỉnh ngộ. Ba người Tuyết Lý Mai ở nhà rất buồn chán, thấy người trong gia đình Ấu Nương muốn đi thăm Dương Lăng, cũng cực kỳ hứng thú đi theo. Phụ nữ ra khỏi cửa cũng có nhiều thứ không tiện, huống chi bốn cô thiếu nữ xinh đẹp như tiên này. Ba cô từng lẻn lên phố chơi, mua mấy bộ áo công tử, áo võ sĩ, nay bèn thi nhau mặc. Đường Nhất Tiên và Ấu Nương vóc người xấp xỉ nên mặc áo công tử, đưa áo võ sĩ cho những người kia. Tám người chỉ để nha hoàn Tiểu Vân giữ nhà, còn đều tới trại quân cả. Thấy Dương Lăng bảo họ vào doanh, Tuyết Lý Mai lặng lẽ giật giật vạt áo y, lo lắng hỏi: - Dương đại nhân, quân đội không cho phụ nữ vào doanh trại đâu. Bọn tôi đi vào... có tiện không? Dương Lăng không để ý lắm tới tiểu tiết. Đã là gia thuộc vào thăm thì có gì mà không cho, huống chi các nàng mặc quần áo nam nhân, cũng có thể bịt mắt thiên hạ. Dương Lăng khoát tay nói: - Có gì đâu, có khi nào mọi người trong doanh trại lại nói chứ? Huống hồ... ha ha, các cô tới rất đúng lúc, ta đang có việc định nhờ các cô hỗ trợ. Tới đây, xin mời vào trong, chúng ta từ từ bàn lại. Mùi son phấn của các vị cô nương quá nồng, mấy tên tiểu tốt gác cổng sớm đã biết rõ rồi, chỉ là không dám nói gì. Dương Lăng dẫn mọi người vào, đưa đến trướng tham tướng, bày rượu khoản đãi. Nói chuyện một lát y mới biết Hàn Uy đã cưới cô nương Trương gia ở Kê Minh làm vợ hơn một tháng rồi. Vốn Dương Lăng có ý định khi anh em Hàn gia tiến kinh thì ở nhà mình chơi vài ngày. Một bên là nam nhi anh tuấn, một bên là giai nhân xinh đẹp, không biết chừng có thể lâu ngày sinh tình, ai ngờ Hàn Uy đã thành thân rồi. Hàn Võ tuy mười tám mười chín tuổi nhưng vẫn chỉ là một chàng thiếu niên to xác. Cả ba mỹ nhân như hoa tự ngọc, cả người thơm phức, thế mà hắn cũng chẳng thèm nhìn lại mò vào đống binh khí giáp trụ trong trướng Dương Lăng, thích tới không buông tay ra được, cứ loay hoay mãi, đến cả cơm cũng chẳng ăn cho xong. Xem bộ hai bên cũng không thể phát triển được. Ba người Ngọc Đường Xuân nghe Dương Lăng kể với Hàn Lâm về những việc phát sinh sau hai ngày vào trại nhậm chức, cũng sinh ra mối thù chung. Hơn nữa, việc đóng vai Thanh Thiên Đại lão gia quyết toán sổ sách, bắt bọn tham quan rất thú vị, nên vừa ăn cơm xong các cô liền giục Dương Lăng mau mau đem sổ sách tới, muốn thể hiện tay nghề ngay lập tức. Dương Lăng ra lệnh thân binh dẫn người đi Thải Bạn Ty (bộ phận phụ trách mua sắm) cùng Dương Nhất Thanh đem tất cả sổ sách về soái trướng. Nơi Dương Lăng ở soái phủ dành cho tham tướng, đó là một tòa nhà dựa vào sườn núi thoai thoải, gồm ba viện nhỏ, mỗi viện đều phải leo mười bậc thang. Sổ sách mang đến được khiêng thẳng vào viện thứ ba, mang vào trong gian chính, đặt xuống nền nhà, rồi đem giấy mực mời mấy vị cô nương kiểm tra. Ba người Ngọc Đường Xuân đã từng học về việc tính sổ. Nhìn qua là biết những sổ thu chi hỗn loạn không chịu nổi rồi, hơn nữa Dương Lăng thấy các nàng kiểm kê theo thứ tự, rồi dùng phương pháp ghi sổ liên tục. Như thế, muốn có được kết quả phân loại, thống kê, tăng giảm thu chi thì vô cùng phiền toái. Dương Lăng bèn lấy một mảnh giấy, vẽ một cái bảng ba cột đơn giản. Muốn vài lời ngắn gọn mà giải thích rõ ràng về những nguyên lí Nợ Có cho các cô nương này là việc không thể làm được. Do đó, Dương Lăng dùng phương pháp ghi sổ thu chi đơn giản nhất, rồi làm thử một cái trên bảng, sau đó giảng giải cho các nàng một lượt. Loại phương pháp ghi sổ này rất đơn giản dễ hiểu, ghi chép cũng rất rành mạch, hơn nữa cuối cùng lại có thể ghi số tổng cộng. Mấy vị cô nương đã có căn bản, người lại vô cùng thông minh, nghe y giảng giải một chút là thấy rõ ưu điểm của phương pháp ghi sổ này. Chỉ là Dương Lăng khi giảng còn ghi vào trong giấy những kí hiệu ngoằn ngoèo quái dị, bốn vị cô nương không ai biết được cả. Chỉ cần nói vài lời đơn giản mà các nàng có thể nghe hiểu phương pháp ghi sổ của Dương Lăng nhưng việc dạy số Ả rập lại không dễ dàng. Không ngờ các cô nương không quen với mấy con số 12345 nên mỗi lần kết xuất một con số, các nàng luôn theo thói quen tính rồi viết bằng chữ Hán trước, sau đó mới so sánh rồi phiên dịch thành ra cái thứ số trông như gà bới đó. Qua một lúc lâu, sau khi mỗi người kiểm tra xong một quyển, các cô mới dần dần thích ứng với loại con số đơn giản mà tân kỳ này. Tốc độ làm việc cũng nhanh hơn. Bốn kế toán thu chi này bận mù mịt, đến cả Ấu Nương cũng hứng thú hừng hực làm việc rất hăng say, hoàn toàn không có thời gian để ý đến Dương Lăng. Sực nhớ vẫn còn để cha vợ bơ vơ ở trong đại sảnh, y liền vội vàng chạy ra tiền sảnh. Vừa vào cửa, Hàn Mãn Thương đã hào hứng nhảy tới, níu chặt cánh tay y nói: - Tỷ phu! Đệ và ca ca thương lượng rồi, muốn gia nhập đội quân của tỷ phu, huynh là Đại tướng quân, có thể làm được việc này không? Hàn Võ đang kéo bảo kiếm của Dương Lăng ra thưởng thức, thích tới không buông tay ra được, lúc này cũng đưa ánh mắt nóng rực nhìn y. Dương Lăng hơi trầm ngâm, nhìn Hàn Lâm hỏi: - Nhạc phụ! Ý cha …. Hàn Lâm cười nói: - Chúng đã thích, ta cũng không ngăn cản. Chỉ là chẳng biết Lăng nhi có khó xử gì không? Lúc này Dương Lăng mới gật đầu đáp: - Con có quyền tuyển quân nhập ngũ. Huống hồ con phải lập tức thanh lý đám ăn không ngồi rồi, phỏng chừng trong quân sẽ có không ít chỗ trống. Mãn Thương vui vẻ: - Vậy thì thật tốt quá. Tỷ phu là Đại tướng quân, vậy cho đệ làm sĩ quan nhé. Lúc đệ ở Kê Minh Dịch, thấy Giang bá tổng mang binh đi rất uy phong, đệ hâm mộ muốn chết luôn. Hàn Lâm nghe thế lập tức nói: - Việc này không được! Lăng nhi, không thể làm theo lời chúng được! Mãn Thương trợn tròn mắt hỏi: - Tại sao không được? Tỷ phu cai quản nhiều binh như vậy, phân cho con khoảng một trăm người để quản thì sợ cái gì? Con cũng không tin bằng vào võ nghệ của con, mấy tên lính đó dám không phục! Hàn Lâm nói với Dương Lăng: - Lăng nhi! Ngươi để cho chúng gia nhập quân đội thì ta không phản đối, nhưng phải đi từ binh sĩ mà lên, muốn thăng quan phải bằng vào tài năng của chính mình. Nếu chỉ dùng người thân thì chẳng phải sẽ ảnh hưởng tới ngươi sao? Dương Lăng cười đáp: - Lăng nhi cũng có ý như vậy. Mãn Thương, đệ nhìn tỷ phu vừa thăng quan thì chẳng biết trong quân đã có bao nhiêu tướng quân không phục rồi. Từ lính từ từ lên quan mới có thể khiến cho mọi người kính phục, mới có thể học được nhiều kiến thức, bản lãnh mới. Trong quân có rất nhiều sĩ quan không biết chữ. Đệ và hai vị huynh trưởng võ nghệ xuất sắc, lại từng đọc sách, nếu làm tốt thì tự mình có thể thăng quan. Nếu bây giờ ta lại cho đệ một chức quan, thì có gì mà vinh quang chứ? Hàn Võ, Hàn Mãn Thương nghe y nói có lý, đều khẽ gật đầu. Dương Lăng lại nói: - Trước mắt khi hai người vừa vào trong quân, ta thấy... trước hết quan hệ giữa chúng ta đừng để lộ ra ra ngoài. Tuy bảo rằng tiến cử cũng không ngại người thân, ta tin vào bản lãnh của các người, nhưng dù sao cũng có lắm kẻ nhiều chuyện. Còn nữa, nhạc phụ, con thấy người cũng đừng trở về Kê Minh, nhạc phụ một thân võ nghệ, không bằng cũng gia nhập quân đội. Người thấy thế nào? Hàn Uy xen vào: - Cha, muội phu nói có lý. Bây giờ nhị đệ tam đệ đều nhập ngũ, tiểu muội cũng ở kinh sư, người ở lại đây cũng đỡ phải lo lắng. Hàn Lâm hơi động tâm, ngần ngừ một lúc rồi hỏi: - Vậy... chẳng lẽ con trở về Kê Minh một mình sao? Hàn Uy liếc mắt nhìn Dương Lăng, khuôn mặt hơi đỏ lên: - Tuy con từng đọc sách, nhưng không có công danh. Lần này trở về cũng chỉ cả đời làm dịch tốt thôi. Nếu được nhập ngũ, không biết chừng con có thể kiến công lập nghiệp, quang vinh về quê, nhưng... thoáng cái mà bắt muội phu phải thu xếp cho nhiều người như vậy, có thể không tiện. Dương Lăng vui vẻ đáp: - Tiện! Sao mà không tiện? Hôm qua đệ đọc danh sách binh lính thấy có rất nhiều cặp cha con, anh em cùng đội ngũ lắm. Cứ như vậy đi! Ấu Nương một mình ở nhà, đệ cũng sợ nàng buồn. Có chị dâu tới ở với nàng, vậy cũng tốt! Ha ha, bây giờ thì chúng ta quả thật là anh em cùng chiến đấu, cha con cùng ra trận rồi. Có các vị giúp, tú tài như ta lãnh binh cũng có thể tự tin hơn nhiều! ********************************* Bào tham tướng ngồi trước giường lò uống rượu, mày cau tít lại. Bào Tận Trung ngồi đối diện, lo lắng nói: - Đại ca! Tên mặt trắng này rất âm hiểm. Thủ đoạn mềm dẻo cười cợt vui vẻ mà xuống tay thật nặng. Bây giờ hắn đem ba bao tải sổ sách đi rồi. Tuy vốn đệ không nhớ được đầy đủ trong đống hỗn độn đó có gì nhưng lỡ xui xẻo bị hắn tìm thấy chút đầu dây mối nhợ gì đó thì chúng ta làm sao bây giờ? Bào tham tướng nghe thế rất phiền lòng. Hắn nhấc chén rượu lên uống cạn một hơi, cười lạnh nói: - Cho hắn kiểm tra, có gì mà lo. Nếu thật sự điều tra ra thì cũng không phải chuyện lớn. Chẳng qua ngươi chỉ bị đánh vài côn rồi đuổi ra khỏi quân doanh, ta sau đó nhờ người đổi chỗ khác cho ngươi. Hừ! Mấy việc nhỏ như vậy, hai tên phó tướng họ Trương, họ Lưu còn không mở một mắt nhắm một mắt à? Ngươi cho rằng mông bọn chúng sạch sẽ lắm sao. Bảo Tận Trung khiếp vía thốt: - Nhưng... nhưng... Nhưng mà đệ sợ hắn tra được sự kiện đó. Nếu việc đó bị tra ra, chắc là đứt đầu đó! Bào tham tướng nghe xong cũng chấn động. Hắn phẫn nộ hỏi: - Cái gì! Tên ngu xuẩn này đem vật kia ghi cả vào sổ à? Bảo Tận Trung vẻ mặt đau khổ, sợ hãi rụt rè đáp: - Đại ca, mấy đồ vật đó... Mỗi lần chỉ có thể trộm ra từng nhóm nhỏ đưa ra ngoài, hơn nữa người giao nhận cũng rất kỹ, hàng vào tay mới chịu đưa bạc. Đệ không ghi lại vào sổ thì làm sao nhớ được? - Khốn kiếp! Ngươi không biết lập riêng một quyển sổ cho mình à? Sao đến cả thứ đó cũng giao ra...? Bào tham tướng nóng ruột thật sự. Nếu không phải tên em họ này luôn luôn trung thành, hắn sớm đã tát gã một cái rồi. Bảo Tận Trung thở dài: - Đệ chỉ định ghi để một mình mình xem thôi, nào ai biết mấy tên thân binh của Dương Lăng quả thực là đại hành gia xét nhà. Cặp mắt chúng quá độc, phòng trong phòng ngoài đi vài vòng, thứ gì có thể giấu đều bị móc ra cả. Nhưng... trong sổ đệ chỉ ghi than củi, vị tất hắn đã hiểu. Lưu Sĩ Dung đứng lên, đi lại trong phòng vài bước, thần sắc không yên, nói: - Bào đại ca! Nếu cứ tiếp tục như vậy, chúng ta sẽ bất lợi rồi. Bây giờ chúng ta không phát được lương, đám binh sĩ vô cùng bực tức. Ngày hôm qua hắn lại nói là muốn điều tra việc lương khống. Bây giờ một vài sĩ quan cấp cao cũng hoang mang rối loạn. Hay là chúng ta chịu thua thôi. Tiểu tử này sau lưng có thế lực, mà hắn cũng không phải loại hiền lành gì, cũng không nên trêu vào. Bào tham tướng mặt tái nhợt, gằn giọng: - Ngươi sợ à? Hừ, ta lăn lộn ba mươi năm trong quân, còn phải sợ một tên tiểu tử chưa ráo máu đầu như hắn à? Đấu không lại một tên non nớt như hắn sao? Hắn điều tra hả, có gì mà điều tra? Những sổ sách ấy cho dù hắn có hiểu, cũng phải tới Tết sang năm. Hơn nữa những đồ vật ấy... Bào tham tướng cắn răng cười lạnh: - Lượng dùng những thứ đó căn bản không có cách nào phỏng chừng. Ai biết chúng ta xưa nay luyện tập đã hao phí bao nhiêu? Cho dù hắn phát giác được số lượng sử dụng không đúng đi nữa, dù hoài nghi trong lòng thì cũng không nhân chứng, lại không vật chứng. Dựa vào vài điều nghi ngờ vu vơ, hắn có thể làm gì được một tướng quân tòng tam phẩm như ta? Lưu Sĩ Dung do dự một chút, rồi từ từ lắc đầu đáp: - Đại nhân! Người không chú ý sao? Hắn vừa tới đã dẫn theo hai thân binh, hiện bên người chỉ có một. Người kia chẳng biết đã ly khai khi nào. Chà, chúng ta cũng đã nghe nhiều về hắn. Ty chức bây giờ mới nhớ tới lúc hắn vừa tới, chính Phạm đốc công của Đông Xưởng tự mình đưa hắn tới. Vụ này có liên quan gì tới Đông Xưởng không? Bào Tận Trung nghe thế hít mạnh một hơi lãnh khí. Mắt Bào tham tướng cũng không khỏi chớp lia lịa. Lúc này một tên thân binh vội vàng chạy vào, báo: - Đại nhân, thuộc hạ vừa tìm hiểu được. Dương tham tướng lấy sổ sách không phải để tự mình kiểm tra, mà là đưa cho bốn sư gia từ ngoài vào trong doanh, bây giờ bọn họ đang làm việc trong phủ đó. - A! Bào tham tướng vịn án đứng dậy, mắt lóe hung quang, gằn giọng: - Khá lắm Dương Lăng! Ngươi thật sự bỏ lắm vốn vào đây. Khinh lão Bào ta là thiện nam tín nữ à? Thân binh lại báo tiếp: - Đại nhân! Thật ra bốn sư gia đó là nữ cải nam trang. Mấy huynh đệ giữ cửa doanh trại đều tận mắt thấy rõ. Chắc hẳn Dương tham tướng cũng sợ nhiều người nhìn vào, nên đưa các nàng vào trong phủ tham tướng, ở tận trong viện cuối cùng lận. Bào Tận Trung vui vẻ: - Tốt lắm! Hắn là chủ tướng, lại đem phụ nữ vào trại quân. Ta lập tức tham tấu hắn, dẫn Trương phó tướng tới bắt hắn tại trận, xem hắn còn có gì để nói không. Bào tham tướng nhướng mắt trả lời: - Dám tự tiện đưa phụ nữ vào trại binh cũng không phải lỗi lớn gì, chỉ đánh hai mươi quân côn thôi. Tên tiểu súc sinh đó da mềm thịt non, vừa bị đánh ba mươi côn của Cẩm Y Vệ mà sau hai ngày đã có thể cưỡi ngựa được, rõ ràng là có người nương cho. Ngươi nghĩ rằng hai tên Trương Xuân, Lưu Thiệu Trung toàn là là đồ ngu à. Họ không biết cách thả cho hắn sao? Với lại, đánh hắn hai mươi quân côn cũng có thể hả giận một chút, nhưng chúng ta vẫn còn bị hắn khống chế. Bây giờ hắn chuyên quyền độc đoán, lại nắm lấy đuôi của chúng ta không rời, không cho tên tiểu tử hung dữ ngạo mạn này ăn một cú thật ác, sau này hắn sẽ ngoan ngoãn được sao? - Vậy … vậy phải làm sao bây giờ? Bào Tận Trung nghe xong càng không có chủ kiến gì. Bào tham tướng đưa mắt lạnh lùng nhìn hắn, phất phất tay. Mấy tên thân binh hiểu ý vội rời khỏi phòng, đóng chặt cửa lại. Bào tham tướng từ từ ngồi xuống, hai tay tựa án bảo: - Các ngươi tới gần đây! Đợi hai người tới gần, da mặt Bào tham tướng co rút lại, âm hiểm nói: - Theo ý ta, một là không làm, hai là làm tới cùng. Cho hắn cá chết lưới rách luôn! Lưu Sĩ Dung bỗng khựng người, đụng phải chén rượu ngã lăn, rượu đổ tung tóe khắp bàn. Hắn biến sắc, run giọng nói: - Vạn lần không thể được! Đại ca, kế này không thể được. Đường đường một vị tham tướng bị ám sát trong đại doanh, nhất định mọi người sẽ chấn động, tính mạng chúng ta cũng tiêu luôn. Bào tham tướng âm trầm cười, nói: - Ai nói ta muốn giết hắn? Ta muốn giết bốn tên giả sư gia tới kiểm toán đó! Hắn chỉ vào Lưu Sĩ Dung nói: - Ngươi đêm nay mời tên họ Dương, nói là bản quan muốn giảng hoà với hắn. Ta đi dự tiệc, hắn nhất định sẽ cho là chúng ta cúi đầu chịu thua. - Tận Trung, chọn những huynh đệ tuyệt đối tin cẩn cho cải trang, nạy hàng rào phía sau núi, giả vờ là cường đạo vào trại quân ăn trộm, sau đó chạy thẳng tới phủ tham tướng giết quách bốn con đàn bà đó, đốt sạch sổ sách cho ta! Bào tham tướng mở to đôi mắt đỏ như máu, cười gằn nói: - Bốn cô gái trẻ đẹp chết trong lều của hắn, dù hắn biết chính là ta làm, hắn cũng không lộ ra được. Hừ hừ, cho dù giết gà dọa khỉ vẫn không làm gì được hắn thì bấy giờ không còn sổ sách, hắn cũng không thể kiểm tra được mấy quyển sổ rối mù đó, đến lúc đó ta xem hắn có thể làm khó dễ được ta nữa không? Ha ha ha ha... ********************************* Hàn Mãn Thương tuổi còn nhỏ nên Dương Lăng cho làm thân binh tùy tùng, sau đó cùng Hàn Lâm và hai anh vợ ra khỏi trướng soái. Trước hết y đưa họ tới đệ nhất ty. Liên Đắc Lộc thấy Dương Lăng tước binh quyền, đánh tham ô, tra lương khống, đủ mọi thủ đoạn ghê gớm, nên cũng cảm thấy kính sợ vị tham tướng trẻ tuổi này, vì vậy tự nhiên không dám chậm trễ, giải quyết ngay cho những người do y đưa tới. Sau khi thu xếp ổn thỏa, Dương Lăng cùng Hàn Uy ra khỏi viên môn. Hai người đi dọc theo hàng liễu xanh, Dương Lăng rốt cục không kìm được nói: - Đại ca! Sau khi trở lại xin thay đệ thăm hỏi Hoàng huyện thừa, Vương chủ bộ, Giang quản lý,...còn... Mã Liên Nhi cô nương có khỏe không? Trong mắt Hàn Uy lóe ánh cười: “Muội phu cũng không nhịn được rồi, bây giờ y mới nhắc tới việc này.” Hắn che miệng ho nhẹ một tiếng, đáp: - Hoàng huyện thừa mấy hôm trước đã thu xếp cho khách thương về nam chiếu cố Mã cô nương rồi. Hiện Mã cô nương đã theo thương đội trở về Kim Lăng rồi. Chuyện Mã Liên Nhi, trong lòng cha con anh em họ đều đã đồng ý rồi. Từ khi biết Dương Lăng vì tiểu muội mà không tuân thánh chỉ, trong lòng Hàn Uy lại càng không có chút hiềm khích nào, càng cảm thấy tình cảnh vị Mã cô nương đó rất đáng thương. Hắn nhân tiện kể: - Nghe nói Mã Ngang hứa gả em gái cho Tất đô ty làm thiếp. Ngày ấy Mã cô nương phi ngựa tiễn ngươi, Tất đô ty cảm thấy mất mặt, đã từ chối việc hôn nhân này. Mã Ngang thất sủng, trong quân không được như ý, ngươi vừa đi, hôm sau hắn đã tới dịch thự cãi nhau với Mã cô nương một trận. Anh em bất hoà, rốt cuộc ta chưa thấy Mã Ngang gặp lại nàng. Dương Lăng bùi ngùi thở dài. Trước mặt anh vợ cũng không tiện có biểu hiện gì, y chỉ cắm cúi bước đi. Hàn Uy liếc nhìn y, nói đầy thâm ý: - Từ sau khi ngươi đi, Mã cô nương không mặc áo hoa, dùng lụa trắng che mặt, cũng không xuất hiện trước mặt người khác. Ta ở dịch thự cũng chỉ khi đưa rau gạo mới có thể gặp nàng. Hắn nói rồi ngừng lại một chút, lấy từ trong lòng ra một vật nói: - Trước khi Liên Nhi cô nương về Kim Lăng, đặc biệt có tới tìm ta, trao lại thứ này, nói là... nếu ngươi có thư về, xin tiện tay đưa cho ngươi. Ta vừa mới nhận được cách đây vài ngày, lần này có cơ hội tới kinh thành, ta mang đến cho ngươi luôn. Dương Lăng dừng chân, nhận lấy vật. Đây là một cái túi gấm màu xanh sẫm thêu chim uyên ương, miệng túi được khâu kín bằng sợi tơ nhỏ. Hàn Uy thở dài, liên tục vỗ nhẹ lên vai y, trêu: - Đại tướng quân quả là đa tình. Ngươi đã vì tiểu muội mà dám kháng chỉ, đại ca cũng không có ý kiến gì về việc này. Liên Nhi cô nương cũng yêu ngươi thắm thiết, nếu lúc nào tiện, ngươi nên sai người tới Kim Lăng thăm nàng, ta đi đây. Dương Lăng nhìn theo Hàn Uy đi xa, lại cúi đầu nhìn túi thêu trong tay, mờ mịt ngồi lên tảng đá lớn ven đường. Gió xuân thổi vi vu, những cành liễu rủ phất phơ quệt nhẹ vào vai y cũng làm rối loạn cả trái tim y. Cảm tình với Ấu Nương giống như nước sữa hoà nhau. Mối tình khắc cốt ghi tâm này bất luận kẻ nào cũng không thay thế được. Y luôn luôn cho rằng yêu là phải chuyên nhất, phải yêu hoàn toàn. Đối với Liên Nhi tựa hồ y vừa cảm thông vừa có trách nhiệm. Nhưng khi ly khai Kê Minh dịch, y mới biết được, cô thiếu nữ đó cũng đã chiếm mất một phần tình cảm của mình. Thế giới này, quan niệm tình yêu của mọi người khác với thời đại mình rất xa. Ở chỗ này lâu, có khi y cũng suy nghĩ không ra, rốt cuộc loại quan niệm tình yêu nào mới là chính xác. Rốt cuộc có phải bản chất tình yêu phải là chuyên nhất không? Hay vì từ bé đã được giáo dục như thế mà y có quan niệm như vậy? Trong các loại tình cảm, loại tình cảm sâu sắc vĩ đại nhất hẳn là tình thân. Tình thân so với tình yêu lại càng có khả năng chịu đựng thử thách nhiều hơn, lại càng lúc càng sâu hơn. Nhưng tình thân có thể chia đều cho vài thân nhân, cũng không vì mình yêu quý một người mà lại làm nhạt đi tình thân với người khác, vậy tình yêu thì sao? Y không biết. Y không biết thật. Y dám thề y rất yêu Ấu Nương. Có phải chết vì nàng y cũng sẽ không nhíu mày. Nhưng tại sao có khi trong lòng y lại hiện lên hình ảnh của một thiếu nữ khác? Dường như Dương Lăng lại thấy thiếu nữ bạch y trắng hơn tuyết, toàn thân không chỗ nào không yêu mị đang nhẹ nhàng đi dọc theo sơn đạo tới gần mình, giống như một cây thược dược yểu điệu mông lung, yếu đuối vô cùng, đang mỉm cười ngọt ngào với y. Y cúi đầu, lại nhìn xuống túi gấm trong tay, rút sợi tơ ra khỏi miệng túi, lấy từ trong túi gấm một cái khăn tay trắng, nhè nhẹ trải rộng. Những chữ viết đẹp đẽ, mềm mại như người đập vào mắt y: Quân tự minh nguyệt ngã tự vụ. Vụ tùy nguyệt ẩn không lưu lộ. Chích duyến cảm quân nhất hồi cố. Sử ngã tư quân triêu dữ mộ. Hồn tùy quân khứ thiên nhai lộ. Y đái tiệm khoan bất giác khổ. Tích thán niên hoa như triêu lộ. Hà thì hàm nê sào quân ốc? Tam thập lục luân minh nguyệt hậu. Đương vi quân tác nghê thường vũ. Dịch nghĩa: Chàng như trăng sáng, thiếp như sương mù Mù theo trăng lặn mất, chỉ lưu sương lại Cảm kích chàng từng quay đầu nhìn lại Nên thiếp nhớ chàng suốt ngày đêm Hồn theo chàng đi khắp muôn nơi Y phục dần rộng, chưa thấy khổ Chỉ tiếc tuổi trẻ dần trôi mất Bao giờ mới xây tổ ấm (*) cùng chàng? Sau ba mươi sáu mùa trăng nữa Vì chàng thiếp múa khúc nghê thường! (*): trích từ tích chim yến ngậm bùn xây tổ, ở đây ví chuyện nên vợ nên chồng (TheJoker) Dịch thơ: Thiếp tựa mù giăng chàng tựa trăng Trăng lặn mù tan, đọng sương lan Cảm lòng chàng một phen ngóng lại Tim này nhớ ai bao ngày sang Hồn theo chàng đến cuối chân trời Thân gầy áo rộng lệ tuôn rơi Xuân xanh tàn tận dường sương sớm Khi nao hội ngộ hỡi người ơi Ba sáu mùa trăng tỏ sẽ qua Sẽ múa chàng khúc Nghê Thường ca... (Hieusol) Chú thích:

Chương 82: Gạo Vàng Gạo TrắngDịch: workman Biên dịch: TheJoker Biên tập: Ba_Van Hiệu đính: Nguồn: www.tangthuvien.com Ngọc Đường Xuân nhìn qua rồi nói: - Đúng là hơi kỳ lạ, hơn nữa những thứ linh tinh khác đều ghi vào một quyển sổ to, tại sao chỉ có những than củi này lại được ghi riêng ở đây? Nhưng... số tiền chi tiêu ghi trên sổ cũng không lớn, mấy văn tiền này có đáng gì đâu chứ? Đường Nhất Tiên ngồi trên ghế, rung đùi đắc ý hỏi: - Tỷ chưa nghe chuyện “Gạo Trắng Gạo Vàng” à? ------------------------ Chương tám mươi hai Gạo Vàng Gạo Trắng ------------------------ Trước đại trướng của đệ nhất ty thuộc Tả Tiêu quân Thần Cơ doanh, sáu chiếc lồng đèn đỏ treo trên những cây trụ lớn chiếu sáng trưng mọi vật chung quanh. Bào tham tướng và Lưu đô ty mặc giáp đội mũ đứng trước trướng, phía sau là vài tên thủ bị (*) và thiên tổng của Đệ nhất ty. Thấy xa xa có một đám người từ đại doanh phi ngựa đến, Bào tham tướng cùng Lưu đô ty lập tức ra đón, mặt nở nụ cười kính cẩn. Thấy vậy đám sĩ quan cấp cao phía sau bèn lộ vẻ hậm hực: sớm biết có ngày hôm nay, sao trước đây ngạo mạn chi vậy để sau lại phải cung kính? ((*): một chức võ quan thời Minh, là quan chánh ngũ phẩm; còn thiên tổng là quan chánh lục phẩm) Bào tham tướng mặt mày hớn hở, không để ý gì tới ánh mắt người khác. Gã là kẻ kiêu dũng thiện chiến, nhờ công lao mà thăng chức, nhưng bụng dạ rất hẹp hòi, có thù tất báo, sao có thể chịu được việc người ngoài đối nghịch với hắn? Vừa nghĩ tới vẻ mặt khóc không ra nước mắt của Dương Lăng sau đêm nay gã cảm thấy vui sướng vô cùng, nên lúc này phải làm bộ làm tịch vẫn không lấy làm nhục. Dương Lăng dẫn theo Dương Nhất Thanh, Mãn Thương cùng hai mươi thân binh hộ vệ chạy thẳng tới trước trướng mới nhảy xuống ngựa. Bào tham tướng nhìn trang phục Dương Lăng cũng hơi giật mình. Hai ngày vừa qua, Dương Lăng đi khắp doanh trại, đi đến chỗ nào cũng mặc trọng giáp. Lần này gã đón ý Dương Lăng nên lúc này đám tướng lĩnh trong doanh ai cũng mặc giáp đội mũ như sắp xung phong ra trận vậy. Thế nhưng bây giờ Dương Lăng lại mặc áo dài nho sỹ, đến cả thanh bội kiếm cũng chẳng đeo, nhẹ bước tới gần, chân không nhiễm bụi, hai dải băng của mũ nho phấp phới, anh tuấn khôn tả. Còn Bào Tận Thẩm dẫn hơn mười tướng quân mặc trọng giáp nặng nề, chiến bào giáp trụ khom người nghênh đón, giống như đang đón vương hầu tới giáo trường kiểm duyệt tam quân, khí thế đột nhiên thấp đi ba phần. Bào tham tướng cho rằng Dương Lăng cố tình chọc gã, trong lòng càng không kìm được giận. Dương Lăng nhìn thấy đám tướng lĩnh giáp trụ đầy người, cũng hơi lấy làm lạ: ”trong quân ăn tiệc uống rượu mà phải long trọng như vậy sao! Sao không mặc thường phục nhỉ?” Y không kịp nghĩ nhiều, Bào tham tướng và Lưu đô ty đã nhanh chân bước lên chắp tay muốn bái. Dương Lăng vội bước lên một bước đở lấy, nói: - Các vị đồng liêu, xin hãy đứng dậy! Đều là huynh đệ một nhà, ngày ngày gặp nhau, hà tất làm đại lễ như vậy? Bào tham tướng tươi cười đáp: - Đại nhân nhậm chức, mạt tướng cùng tướng tá trong doanh còn chưa được thiết rượu tẩy trần cho đại nhân. Đêm nay trăng thanh gió mát, đúng là thời điểm rất tốt, Lưu đô ty thiết rượu mở tiệc chiêu đãi đại nhân, chúng ta phải không say không về đó. Dương Lăng mỉm cười, mắt thoáng nhìn Lưu đô ty. Thấy hắn thần sắc khẩn trương, cố rặn nụ cười, đôi mắt lại không ngừng nhìn Bào tham tướng, y không khỏi thầm cẩn thận vài phần. Qua hai ngày tiếp xúc ngắn ngủi, y biết Bào tham tướng bảo thủ cố chấp, không coi ai ra gì. Bây giờ tuy thần thái Lưu đô ty mất tự nhiên, nhưng cũng phù hợp với tâm tính hắn lúc này. Còn vì sao Bào tham tướng lại nhiệt tình, bình thản, không hề bị ép mà lại cúi đầu như thế? Xem ra bữa tiệc tối nay vị tất đơn giản như vậy. Dương Lăng quay đầu lại nhìn Dương Nhất Thanh đầy thâm ý. Dương Nhất Thanh ngầm khẽ gật đầu, vung tay lên. Hai mươi tên thân binh đứng dưới trướng, tay cầm cương ngựa, nửa bước không dời. Dương Lăng lúc này mới mỉm cười, cùng Bào tham tướng cầm tay vào trong. ************** Trong phủ tham tướng, Ấu Nương và ba người Ngọc Đường Xuân đã kiểm kê được nửa túi sổ sách. Tuyết Lý Mai nhìn sang đống sổ sách đã xem xong, hạ bút lông xuống, xoa cổ tay cười nói: - Ấu Nương tỷ tỷ, chúng ta nghỉ một chút đi. Xem tình hình này, sợ phải mất ba hai ngày mới xong, cũng không nóng vội làm gì. Hàn Ấu Nương đang lục lọi đống sổ sách, nghe vậy đứng thẳng người dậy, tay đấm nhẹ vào lưng, nói: - Thật tình, vừa mới ăn cơm xong đã làm phiền ba muội muội tới đây kiểm kê sổ sách. Tướng công nhà ta không được tinh tế, cũng không thèm đến thăm các muội, lại chạy tới chỗ Bào đại tướng quân ăn tiệc rồi. Thành thật xin lỗi! Ngọc Đường Xuân nhanh nhẹn bày ra bốn chén trà, rót trà vào chén, không hề đổ một giọt nào. Nàng châm đầy một chén đưa cho Ấu Nương trước, rồi nửa đùa nửa thật nói: - Muội thấy Dương đại nhân rất sợ ở cùng chỗ với chúng ta. Y đường đường là Đại tướng quân, chẳng lẽ còn sợ phụ nữ chúng ta sao? Hàn Ấu Nương thấy nàng khẽ nhíu mày ngài, vẻ do dự băn khoăn lộ thêm vài phần u oán, trong lòng không khỏi thở dài: “E rằng ba vị cô nương này hiểu lầm rồi. Họ đối đãi với mình thường ngày hệt như tiểu thiếp đối với bà chủ, làm sao mà mình không cảm thấy chứ? Đều do Thái tử ra lệnh không rõ ràng, bây giờ tạm thu xếp cho ba đại cô nương ở nhà mình, cũng không biết khi nào thì Thái tử mới có thể đưa cô nương Nhất Tiên vào cung. Tới lúc đó sẽ thu xếp cho hai cô nương kia như thế nào đây?” Nàng nhận chén trà, thấy dưới ánh đèn những ngón tay nõn nà như ngó sen của Ngọc Đường Xuân mịn màng trong suốt như ngà, chẳng những da dẻ trắng mịn như ngọc, mà vẻ trí thức u nhã ấy càng làm tôn lên vẻ thanh lệ thoát tục ở nàng, khiến nàng giống như tiên tử hạ phàm. Ấu Nương bất giác hơi lấy làm lạ. Trong ba vị cô nương, nếu luận về tướng mạo, rõ ràng vị Ngọc Tỷ Nhi này hơn hẳn Tuyết Lý Mai và Đường Nhất Tiên một bậc, hơn nữa nàng có tính cách điềm đạm nho nhã, phong tư khá quý phái, sao mà Thái tử lại chỉ có tình ý với duy nhất mỗi Đường cô nương thôi nhỉ? Thấy đôi mắt hờn trách của Ngọc Đường Xuân đang nhìn mình chằm chằm, Tuyết Lý Mai bên cạnh cũng ngóng tai lên lắng nghe, Ấu Nương đành phải lập lờ: - Mấy vị muội muội đẹp như thiên tiên, bất kỳ nam tử nào tới gần cũng sẽ không tự chủ được. Đừng nói là tướng công nhà ta, muội không thấy nhị ca ta hôm nay đi cùng các muội tới đây, cũng không dám nhìn các muội lâu à? Tuyết Lý Mai không nén được đỏ mặt nói: - Bọn muội đều là nữ tử phận bạc như vôi, sao so được với tỷ tỷ có phước tốt. Dương đại nhân chưa tròn hai mươi đã là quan lớn tam phẩm của triều đình, tương lai xây dựng phủ đệ, kiến tạo nha môn, thậm chí cấp đất phong hầu cũng không phải là việc khó, đến lúc đó tỷ tỷ sẽ là nhất phẩm Cáo Mệnh rồi. Đại nhân chuộc thân cho tỷ muội chúng tôi, cứu bọn muội thoát khỏi hầm lửa, bọn muội cảm kích tự đáy lòng, tình nguyện làm tỳ nữ nha hoàn. Nhưng đại nhân bây giờ cũng không nói gì, danh phận chủ tớ này mà không xác định sớm một chút thì bọn muội gặp đại nhân cũng không biết nên xưng hô thế nào cho phải nữa. Nghe giọng nói của nàng rõ ràng rất muốn Ấu Nương minh xác thân phận của các nàng. Hàn Ấu Nương vừa bực mình vừa buồn cười, nàng liếc mắt nhìn tiểu nha đầu này, gắt giọng: - Muội đó, nói thật dễ nghe, nếu không phải tướng công phụng... à thấy các người bị người ta bắt nạt, làm sao mà rước ba người về đây chứ. Làm nha hoàn gì chứ? Nhà tỷ nhiều tiền lắm à, bỏ ra một vạn lượng bạc chỉ để mua nha hoàn sao? Bỏ số tiền lớn không phải mua nha hoàn, vậy là mua cái gì? Hàn Ấu Nương nói như vậy, Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai nghe mà vui sướng ra mặt. Hai cô nương lặng lẽ nhìn nhau, đều cảm thấy vui mừng: hôm nay cuối cùng cũng được tin chính xác của Ấu Nương, rốt cuộc không cần nửa đêm nằm trên giường thấp thỏm không yên, đoán mò xem tâm tư đại nhân nữa rồi. Trong lòng Dương đại nhân, lời nói của Ấu Nương tỷ tỷ còn hiệu nghiệm hơn cả thánh chỉ nữa đó. Tuyết Lý Mai nâng chén trà lên, vội vàng uống cạn một hơi, rồi lập tức xắn tay áo, lộ ra cổ tay trắng ngần đầy đặn, vừa hăng hái mài mực vừa nói: - Tỷ tỷ! Chúng ta hãy cố thêm, tranh thủ đêm nay kiểm kê luôn một bao đi. Có tìm được chứng cớ sớm thì lão gia chúng ta mới có thể trị cái lão Bào không biết điều đó. Ngọc Đường Xuân uống nhanh ly trà, rồi nhanh nhẹn chạy tới đống sổ để trên mặt đất như một con bướm. Hàn Ấu Nương không hiểu toan tính của bọn họ, thấy chỉ có Đường Nhất Tiên vẫn không hề nhúc nhích, vội đảo mắt nhìn nàng. Chỉ thấy cô nàng ngồi trước bàn, hai hàng lông mày thanh tú nhíu lại cong vút, đang nhìn chằm chằm vào cuốn sổ trong tay với vẻ trầm tư, dường như không hề nghe các nàng nói chuyện. Cô nàng cầm cán bút chốc chốc lại chọc vào gò má mịn màng của mình, rồi đột nhiên lắc đầu lẩm bẩm: - Không đúng, nhất định quyển sổ này có vấn đề. Ấu Nương nghe được vội ghé qua hỏi: - Tiên nhi! Muội đã phát hiện ra điều gì rồi à? Đường Nhất Tiên chỉ vào quyển sổ nói: - Tỷ tỷ, tỷ xem quyển sổ này có gì bất bình thường không? Hàn Ấu Nương nhìn chăm chú một chút, lấy làm lạ nói: - Không phải là một quyển sổ ghi lại việc mua than củi à... Ồ! Đúng là không bình thường, quân doanh ở gần núi đã có củi gỗ để dùng, còn mua than củi làm gì? Đường Nhất Tiên ”cười gian” vài tiếng, dương dương tự đắc đáp: - Đây không phải là vấn đề. Trong doanh có những tướng tá cấp cao, việc sưởi ấm, ăn uống và nấu nướng trong trướng chắc chắn cũng cần phải có than củi. Tỷ tỷ đoán lại đi! Nhìn kỹ một chút, Ấu Nương cũng phát hiện ra vấn đề, không khỏi hào hứng nói: - Không bình thường, quả thật là không bình thường, quyển sổ này nhất định có vấn đề. Ngọc Đường Xuân, Tuyết Lý Mai nghe vậy vội vàng sáp lại hỏi: - Phát hiện được điều gì rồi sao? Cho muội xem một chút. Hàn Ấu Nương chỉ lên trang giấy nói: - Các muội xem, trên sổ ghi là tháng năm năm ngoái, mua năm trăm cân than củi, bên dưới là tình hình chi tiêu. Lại nhìn đây, mười bốn tháng tám, lại mua bảy trăm cân than củi.... Tại sao mùa đông mới dùng tới than củi để sưởi mà mùa xuân và hạ lại dùng nhiều như vậy? Ngọc Đường Xuân nhìn qua rồi nói: - Đúng là hơi kỳ lạ, hơn nữa những thứ linh tinh khác đều ghi vào một quyển sổ to, tại sao chỉ có những than củi này lại được ghi riêng ở đây? Nhưng... số tiền chi tiêu ghi trên sổ cũng không lớn, mấy văn tiền này có đáng gì đâu chứ? Đường Nhất Tiên ngồi trên ghế, rung đùi đắc ý hỏi: - Tỷ chưa nghe chuyện “Gạo Trắng Gạo Vàng” à? Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai nghe xong nhất tề ồ một tiếng rồi thốt lên: - Không sai, chuyện này cũng rất có thể. Vụ án “Gạo Trắng Gạo Vàng” là chuyện xảy ra vài năm trước. Chuyện này chấn động kinh sư, nhà nhà đều biết. Ấu Nương không hay, nhưng ba người Ngọc Đường Xuân thì đều biết rõ. Khi ấy tên đại hoạn quan Lý Nghiễm được vua Hoằng Trị tin yêu bị bệnh chết. Hoằng Trị mê tín thuật trường sinh bất lão của lão, cho Cẩm Y vệ tới phủ của lão tìm kiếm, lại tìm ra một quyển sổ, ghi lại số lượng gạo vàng gạo trắng trong nhà. Lúc đó hoàng đế Hoằng Trị không rõ ngụ ý của nó, còn không hiểu vì sao Lý Nghiễm cũng không có nhiều gia nhân lắm, mà lão lại cần mua nhiều gạo đến thế. Sau được đại thần giải thích, Hoàng đế mới biết số lượng đó để chỉ vàng và bạc, thế là trong lúc giận dữ đã ra lệnh cho người tịch biên gia sản của lão. Tuyết Lý Mai phấn khởi nói: - Không sai, không thể dùng giá tiền làm chuẩn! Một lạng cũng có thể chỉ một trăm lạng, một ngàn lạng. Nhưng than củi này rốt cuộc chỉ cái gì đây? Đường Nhất Tiên giật quyển sổ lại, nhét vào trong lòng như bảo bối , hào hứng tới nỗi hai má đỏ bừng: - Việc này để muội báo với Dương đại nhân! Đương nhiên đại nhân có thể điều tra được. Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai thấy nàng giống như sợ người khác đoạt lấy công lao mình, không khỏi nhìn nhau bật cười. Ngay lúc này, một giọng nói lạnh lẽo vang lên: - Chỉ sợ Dương đại nhân cũng không điều tra được chuyện này đâu!

Chương 83: m Mưu Rồi Hành ĐộngDịch: workman Biên dịch: TheJoker Biên tập: Ba_Van Hiệu đính: Nguồn: www.tangthuvien.com Hừ! Lần này ta sẽ không lỗ mãng nữa, đánh rắn phải đánh giập đầu. Bào Tận Thẩm làm quan lâu như vậy, sẽ có không ít quan hệ cá nhân. Không nắm chắc hoàn toàn, ta sẽ không động tới hắn. Không nắm chắc hoàn toàn, sau này ta sẽ không gây thù chuốc oán với ai nữa! ------------------------ Chương tám mươi ba m Mưu Rồi Hành Động ------------------------ Theo giọng nói, rèm trúc chợt vén lên, một gã đàn ông mặc đồ đen, tay cầm đao thép bước vào. Trên đầu hắn quấn khăn đen che kín cả miệng mũi, chỉ lộ ra một cặp mắt hung ác. Tuyết Lý Mai hoảng sợ thất sắc la lên: - Ngươi là ai? Lại dám xông vào phủ tham tướng, không sợ mất đầu à! Tên hắc y nghe vậy phá ra cười ha ha, đồng thời hai tiếng răng rắc vang lên, một cánh cửa sổ bị vỡ tan tành, lại có mấy tên cũng mặc áo đen cầm đao nhảy vào, vây các nàng vào giữa. Ánh trăng rót vào cửa sổ, xa xa bọ kêu chim hót, gần đấy cây cối đong đưa, yên tĩnh vô cùng, nhưng trong bóng đêm im ắng này, sát khí lại tràn ngập khắp phòng. Lại có thêm vài tên mặc áo đen lực lưỡng bước vào cửa. Tên vào trước tiên cất tiếng cười cuồng vọng, nói: - Ta là ai, việc này chỉ sợ các ngươi cũng không biết được, cứ làm vài con quỉ hồ đồ trên đường xuống suối vàng đi. Hắn nhìn lướt qua đống sổ sách đầy đất, trong mắt lóe lên vẻ ác độc, rồi đột nhiên xoay người ngông nghênh bước lên, chỉ vào Đường Nhất Tiên bảo: - Đem cuốn sổ trong người ngươi giao ra đây! Ngọc Đường Xuân thấy hắn tới gần, không chút nghĩ ngợi, vội cầm nghiên mực ném về phía hắn. Hắn lắc người né nghiên mực, bước nhanh đến gần Đường Nhất Tiên. Thấy mấy nữ tử yêu kiều nhu nhược, hắn đâu thèm để vào mắt, nên chẳng hề uý kỵ xông đến trước mặt ba người Ngọc Đường Xuân. Lúc này Hàn Ấu Nương bất chợt áp sát lại gần, vung tay như đao chém mạnh vào cổ tay hắn. Hắn ta chỉ cảm thấy như bị sét đánh, cả cánh tay ê ẩm, đau đớn. Hàn Ấu Nương lắc mình bám theo, bàn tay nhỏ bé bóp chặt cổ tay kẻ địch, tung một cước vào mặt bên đầu gối, hắn kêu thảm một tiếng rồi khuỵu xuống đất. Hàn Ấu Nương vốn định nhanh chóng bắt hắn làm con tin, không ngờ mấy tên sát thủ phía sau lại phản ứng cực kỳ mau lẹ. Mặc dù trong bốn cô có người biết võ nghệ là việc chúng hoàn toàn không ngờ tới, nhưng chúng vẫn phản ứng tinh nhạy, hét lớn một tiếng, vung đao chém ngay. Bốn bóng người cậy vào ánh đao mù mịt khiếp người, mang theo tiếng gió rít vù vù, vừa loé lên thì đã chém tới, thế như chớp giật. Hàn Ấu Nương thấy ánh đao chém vào người mình, bèn không bắt tù nhân nữa mà lập tức vặn lưng, ngửa người ra sau, chân phải tung ra, vung cước đá bắn tên áo đen đó bay đi, đâm sầm vào bốn gã đại hán đang xông tới. Cùng lúc đó, vù một tiếng, một thanh đao thép lướt qua chóp mũi Ấu Nương, vút qua trước ngực. Nếu cô nàng không nhỏ con thì đã đổ máu ngay rồi. Hàn Ấu Nương cả người toát đầy mồ hôi lạnh. Thanh đao thép chém choang một tiếng vào chiếc án thư, làm Đường Nhất Tiên sợ giật nảy người. Hàn Ấu Nương chớp thời cơ đứng thẳng dậy, đấm thẳng một quyền vào nách tên đang vung đao. Tên nọ lập tức đánh rơi đao thép, lảo đảo lùi lại vài bước, cánh tay phải xụi lơ, không cử động được nữa. Vóc người Hàn Ấu Nương nhỏ nhắn xinh xinh, thể lực vốn không bằng nam nhân, do đó công phu mà Hàn Lâm dạy nàng đều nhằm công kích vào những chỗ yếu nhược của kẻ địch. Tên kia vừa lùi lại, Hàn Ấu Nương lập tức nhặt cây đơn đao bản hẹp, nhoáng người lao lên, đao thép mãnh liệt đỡ lấy lưỡi đao của hai tên hắc y đang chém tới. ‘Keng keng!‘ tiếng kim loại vang lên, đao của nàng chém trái bổ phải đã rất chuẩn xác ngăn chặn đao thép của đối phương. Hàn Ấu Nương không đủ lực cổ tay, hôm nay lại không dùng Phong Hỏa côn, nên vừa đối kình với mấy tên thích khách võ nghệ xuất chúng này, hai cánh tay nàng cũng bị chấn động đến tê rần. Hàn Ấu Nương thầm giật mình, dựa vào công phu của nàng, nếu tự mình đào tẩu thì đương nhiên những kẻ này không thể ngăn cản được. Nhưng mang theo ba cô nương không biết võ nghệ gì cả thì làm sao nàng có thể cam đoan các nàng không tổn hao một cọng lông sợi tóc gì được? Hàn Ấu Nương quýnh lên, lập tức hét dài một tiếng, vung thanh đao thép trong tay múa che kín mít, rồi sốt ruột gọi ba cô nương: - Nhanh! Theo ta xuống phía dưới, quan binh ở tiền viện sẽ lập tức tới ngay. Người bị Ấu Nương đá trúng chính là Bào Tận Trung. Khi Hàn Ấu Nương nằm trong vòng tay Dương Lăng thì như một đóa phù dung ngượng ngùng, e ấp yêu kiều, thật sự đáng yêu khôn tả, nhưng khi nàng đá vào ngực Bào Tận Trung lại như một quả cân nặng chịch nện vào người hắn. Bào Tận Trung phải lăn ra thật xa, cúi gập người xuống, mãi hồi lâu sau mới thở được. Hắn phun ra một bụm máu, gầm lên: - Không chừa lại đứa nào, chém hết! Cả căn nhà cũng đốt cho ta! Mặc dù ba người Ngọc Đường Xuân mặt hoa thất sắc nhưng không hề đánh mất dũng khí. Mắt thấy Ấu Nương trông như cọp điên, đánh giết mở một con đường máu, các nàng vội vàng thu hết dũng khí bám sát sau lưng nàng, cùng vọt tới cửa. Hàn Ấu Nương vung một đao chém nát vụn tấm rèm, quát: - Đi mau! Rồi lập tức tiện tay vơ lấy đôi đũa chưa kịp cất trên chiếc bàn cạnh cửa, vung tay phất một cái, hai cây đũa tre phóng đi như chớp. Hai tên đuổi theo phía sau vừa thấy nàng vung tay, không chút nghĩ ngợi gì liền lập tức né người. Một thanh trúc bắn vào khoảng không, cây khác bắn sượt qua chiếc khăn đen của một gã hắc y, làm xước một vết máu. Bào Tận Trung thấy ba cô gái ôm quyển sổ quan trọng nhất chạy trốn ra khỏi phòng, trong lòng quýnh lên, lảo đảo vịn cánh cửa, cố trằn mình đứng lên đuổi theo. Hàn Ấu Nương bị mấy tên đại hán cuốn lấy, chỉ cần nàng vụt xoay người, lưỡi đao thép lập tức liếm vào người ngay. Vì vậy tuy trong lòng sốt ruột nhưng lại không nghĩ được biện pháp cứu trợ, nàng chỉ biết vung đao khổ chiến, thầm mong đám binh sĩ trong phủ có thể nghe tiếng kêu mà chạy tới kịp. Ba người Ngọc Đường Xuân chạy ra khỏi phòng, luống cuống kinh hoàng không thấy rõ dưới chân. Tuyết Lý Mai hổng chân một bước, hét lớn một tiếng ”ui chà” rồi lăn thẳng từ trên thềm đá xuống dưới. Ngọc Đường Xuân thấy thế vội vàng đuổi theo. Đường Nhất Tiên chạy phía sau, nhìn thấy một tên thích khách đang đuổi theo, vội vàng quơ một chậu hoa bày trước phòng ném mạnh ra sau, đồng thời hét lớn với Ngọc Đường Xuân: - Ngọc Tỷ Nhi, mau mau dìu Tiểu Mai đi! Đi gọi người tới giúp Ấu Nương. Không dám dẫn tên áo đen chạy về phía Ngọc Đường Xuân, Đường Nhất Tiên vòng qua hướng cửa Nguyệt Lượng* mà chạy, vừa chạy vừa không ngừng chộp những chậu hoa ném về phía Bào Tận Trung. Quyển sổ chết người đó vẫn đang được Đường Nhất Tiên giữ trong người nên Bào Tận Trung cứ như một con lừa vươn mõm về phía trước cố đớp lấy bụi cỏ, không chút nghĩ ngợi gì cứ cố bám đuổi theo nàng. (*: cổng tròn; cổng vòm) Ngoài cửa Nguyệt Lượng là rừng núi hoang vu. Vị Ninh tham tướng tiền nhiệm mỗi sáng đều vào rừng tản bộ luyện tập, sớm đã giẫm thành một con đường mòn. Đường Nhất Tiên như một con nai nhỏ cùng đường, liều mạng chạy như điên trong rừng, may mà hôm nay nàng cải nam trang, nếu không sớm đã bị vấp ngã rồi. Dù thế, những cành lá và dây gai bên con đường mòn cũng đã cào nát quần áo của nàng, trên mặt cũng đã xuất hiện vài vệt máu. Vì ngực bị thương nên Bào Tận Trung chạy không nhanh. Thấy nàng càng chạy càng xa, tai nghe thấy phía sau tiếng người huyên náo, đoán rằng đã bị thân binh của Dương Lăng phát hiện, lòng hắn không khỏi lo lắng. Hắn vừa truy đuổi vừa gầm lên: - Tiểu nha đầu, giao cuốn sổ ra đây, ta tha chết cho ngươi, có nghe không? Ngươi không chạy thoát đâu. Đường Nhất Tiên sờ quyển sổ trong lòng, tâm hồn thiếu nữ lại càng mừng vui khôn xiết. Hắn đã quan tâm đến quyển sổ như vậy, xem ra quyển sổ này thật sự có chuyện rồi. Mấy ngày nay vào nhà họ Dương, Dương đại nhân chưa hề vào phòng các nàng, cũng chẳng nói chuyện gì nhiều với hai tỷ tỷ. Nhưng đại nhân lại luôn tươi cười chào hỏi có vẻ rất khách khí với nàng, Dương đại nhân nhất định là thích nàng rồi. Nếu đem quyển sổ này giao cho y, chẳng phải càng được y thích hơn sao? Vừa nghĩ thế, Đường Nhất Tiên lại cảm thấy vui như trẩy hội, người như có thêm sức mạnh, càng chạy nhanh thêm. Cây cối xung quanh trại quân được bọn quan binh chặt phá khoảng trăm trượng để phòng hỏa hoạn, bởi vậy tất cả đều là một bãi đất bằng phẳng. Dưới ánh trăng sáng, cảnh vật hiện lên rất rõ, tiểu nha đầu không thể nào chạy thoát được. Bào Tận Trung thấy phía trước là cuối sơn đạo, chỗ có thể trốn được cũng không nhiều nữa, không khỏi mừng rỡ trong lòng. Đường Nhất Tiên chạy đến thở không ra hơi, quay đầu lại thoáng nhìn, thấy đã chạy cách tên đại hán áo đen một đoạn khá xa, nhìn về phía trước thấy xuất hiện hai tảng đá to, trong bóng đêm đen kịt trông chúng như con quái vật muốn nuốt chửng người. Đường Nhất Tiên vội vàng chạy tới, vừa tới gần tảng đá, phía trước đột nhiên là khoảng không. Nàng hốt hoảng vung vẫy hai tay, hồi lâu mới đứng vững. Nàng nhìn kỹ, phía trước là một cái vực, dưới vực có ánh sáng lập lòe, dường như là một con sông. Trước không còn đường, sau có truy binh, còn có thể chạy trốn nơi nào chứ? Đường Nhất Tiên vẫn nuôi một tia hy vọng, vội quay đầu lại nhìn, trong bóng đêm dày đặc chỉ thấy bóng đen đó đang vội vã men theo con đường nhỏ trong rừng đuổi đến. Nàng liền trở nên tuyệt vọng. Lần đầu tiên thích Dương Lăng, nàng còn không biết y là ai! Chỉ nghe những tỷ muội trong kỷ viện kể về người thư sinh có tình có nghĩa, vì người con gái mình yêu đã dám đắc tội với cả người có sức mạnh cường đại nhất trên đời này. Trong tâm linh nho nhỏ của nàng đã khắc ghi một cái tên khiến nàng vô cùng sùng bái. Ngọc Đường Xuân, Tuyết Lý Mai, Đường Nhất Tiên, trong ba người con gái, nàng là người lanh lợi và ngọt ngào nhất, thường ngày cũng là người có nhiều nhân duyên* nhất. Tất cả mọi người đều nghĩ rằng nàng vui vẻ và tinh nghịch nhất, ai biết kỳ thật trong ba người, người có tâm lý trưởng thành, tính cách kiên cường nhất cũng chính là nàng? *(nhân duyên có nhiều nghĩa, ở đây chỉ sự "được lòng" của khách đến kỹ viện) Thiếu nữ ôm ấp tình cảm, ai mà không có giấc mộng giống nhau? Nam nhân dám vì người mình yêu quí mà đối kháng với cả thiên tử, chính là người trong mộng của nàng. Nàng lặng lẽ vẽ một bức họa, người thanh niên trong bức họa có vẻ mặt từng trải, khí phách ngút trời. Y đứng trên đỉnh núi cao cao, những trận gió thốc tung tấm áo bào xanh của y, nhưng chẳng mảy may lay chuyển được y. Đó là hình tượng Dương đại nhân mà nàng tưởng tượng trong lòng. Hẳn là y có bờ vai kiên cường nhất, có thể chống đỡ cho nàng cả bầu trời, hẳn là y có một đôi mắt sâu thẳm, khiến cho con tim nàng kích động vì y. Khi nàng chính thức gặp được Dương Lăng, lại chẳng thấy y giống như người trong mộng đó của mình. Tướng mạo y cũng khá đẹp trai, nhưng hơi yếu ớt, cả ngày cứ nằm trong phòng dưỡng thương, thỉnh thoảng ra ngoài phơi nắng thì cũng là một bộ dạng uể oải. Bộ dáng đó thực khác quá xa so với người trong mộng của nàng. Mãi đến hôm nay, y cưỡi ngựa cao vọt, thân vận một bộ khôi giáp oai vệ nhất, nhìn từ ngoài viên môn(1) vào, bóng dáng uy vũ oai phong của y dường như che lấp cả đất trời, sau lưng chỉ còn một bầu trời xanh thẳm. Cái bóng dáng đó chính là người trong giấc mộng của nàng. Một khắc nhìn thấy người đại tướng quân anh tuấn oai phong đó đã khiến trái tim nàng thật sự rung động, đập nhanh như chưa từng nhanh như vậy. Cái tên Dương Lăng cùng hình tượng Dương Lăng bắt đầu so khớp lên nhau trong đầu nàng, tạo thành một hình ảnh rõ rệt. Nàng mong mỏi có ngày có được y, được người anh hùng trong tâm trí của nàng, vị tướng quân thiếu niên anh tuấn này ôm vào lòng, rồi cứ ôm mình như thế mà giục ngựa phi nhanh, dù là phi đến chân trời góc biển, dù là phi đến mãi mãi. Nhưng bây giờ, giấc mộng vẫn chỉ là giấc mộng, không còn có thể thực hiện được nữa. Hơn nữa, tình cảm này y vĩnh viễn sẽ không bao giờ biết được. Có lẽ không bao lâu nữa, y sẽ quên mất mình thôi? Mũi Đường Nhất Tiên cay xè, cố nén lệ trong lòng, nàng lôi quyển sổ ra nhét vào kẽ đá. Ngẫm nghĩ một lát, nàng bỗng rút quyển sổ lại, chạy về sau vài bước, rồi dấu nó vào mặt khuất ánh trăng của một tảng đá cao bằng đầu gối, sau đó nhặt một cục đá lên, nấp vào sau tảng đá to. Bào Tận Trung thấy cái bóng của nàng từ xa, không khỏi cả mừng. Thấy nàng xuất hiện ở cạnh tảng đá to rồi biến mất, hắn vội vàng chạy tới gần. Vừa mới vòng qua tảng đá lớn, Đường Nhất Tiên đã dốc hết sức ném cục đá tới. Bào Tận Trung hoảng hốt, hấp tấp né qua một bên, tảng đá nện vào vai hắn, dường như đập trúng vào tai. Bào Tận Trung đau đến nỗi hét thảm một tiếng, chỉ cảm thấy nửa bên mặt nóng rát, màng nhĩ lùng bùng, nhất thời không nghe được gì cả. Bào Tận Trung phẫn nộ điên cuồng gầm lên, vung đao bổ ra, thế đao như hổ dữ có thể chém người thành hai nửa. Nhưng hắn bị trọng thương, nên độ chính xác không đủ, hơn nữa màng nhĩ lại bị ném trúng, đầu hơi choáng, nhát đao này chỉ bổ xéo vào tảng đá kêu lên một tiếng "choang". Đường Nhất Tiên tự biết mình khó lòng toàn mạng, nên chủ tâm lôi hắn chết chung, cục đá vừa nện xuống là lập tức nhào tới ôm chặt lấy hắn, kéo mạnh về phía sau. Bào Tận Trung đứng không vững, bị người con gái nhỏ con hơn hắn nhiều kéo tới vách núi. Nhìn tới thấy vực sậu hun hút dưới vách núi, Bào Tận Trung sợ tới mức hồn phi phách tán. Hắn vội buông cánh tay đang ôm tai trái, gót chân ghì chặt vào đá, dùng vòng sắt ở chuôi đao đập vào vai Đường Nhất Tiên. Đường Nhất Tiên đau đến độ rên lên một tiếng, nhưng vẫn nghiến răng, ra sức lôi hắn tới vách núi, muốn kéo hắn xuống vực đồng quy vu tận. Một lần, hai lần, bả vai non nớt bị cái vòng sắt có tua đỏ gắn ở chuôi đao đập vào đến sắp gãy cả xương, máu chảy ướt đẫm cả áo. Đường Nhất Tiên đau đớn không chịu được, đột nhiên quát to một tiếng, cắn chặt vào cái áo trước ngực Bào Tận Trung. Bào Tận Trung bị nàng kéo dần tới gần vách núi, sợ tới sắp phát điên, hắn hét lớn: - Mụ đàn bà điên, buông ta ra, đồ...! Bào Tận Trung hung tợn vung cánh tay lên, dùng chuôi đao nện thẳng vào đầu Đường Nhất Tiên. "Ong" một tiếng, mắt Đường Nhất Tiên chợt thấy tối sầm, một dòng nước tanh mằn mặn xuôi xuống gò má chảy vào trong miệng nàng. Nàng ngẩng đầu lên, căm giận nhìn Bào Tận Trung. Thấy ánh mắt khiến cho người ta sợ hãi đó, Bào Tận Trung lại đập thêm một cú lên đầu nàng. Máu trào ra ướt đầu ướt trán, che mờ cả mắt nàng. Đường Nhất Tiên như đằng vân giá vũ, đầu óc choáng váng, buông tay lảo đảo vài bước, chân đạp vào khoảng không rồi rơi xuống. Thân hình cuốn vào không trung, vầng trăng mờ đo đỏ dưới trời đó là cảnh tượng cuối cùng mà nàng nhìn thấy, bên trong vầng trăng đỏ tươi đó, dường như nàng lại thấy được người tướng quân trẻ tuổi anh tuấn, giáp trụ trắng toát đang phi ngựa về phía nàng, chiếc tua đỏ trên mũ trụ phất phơ trong gió. “Chàng... chắc chắn... sẽ báo thù cho ta! Chắc chắn sẽ như thế!” Đường Nhất Tiên mỉm cười thầm nghĩ, thân thể mềm nhũn rơi thẳng xuống sông. ************************ Sắc trời đã sáng, cả phủ đệ tham tướng đã bị đốt thành đất bằng, vài làn khói đen lượn lờ bốc lên. Dương Lăng ngây người nhìn đống hoang tàn hồi lâu. Ấu Nương cầm một cái áo choàng nhè nhẹ bước tới, kiễng chân mặc vào cho y, ôn nhu an ủi: - Tướng công! Chàng đã đứng cả nửa đêm rồi, như vậy cũng không phải là biện pháp, hay là trở về nghỉ ngơi một chút đi. Dương Lăng nhìn thấy chiếc áo cổ tròn của nàng dính đầy bùn đất lem luốc, còn bị rách vài nơi, không khỏi áy náy cầm tay nàng, đáp: - Trở về? May mà nàng không sao, bằng không... ta sẽ sẵn sàng nhảy vào đám cháy. Ôi, nàng bệnh vừa khỏi, lại lên núi xuống núi tìm người, bôn ba nửa đêm rồi, cũng nên đi nghỉ đi. Hai vị cô nương Ngọc Tỷ Nhi đang rất đau lòng, nàng cũng đi khuyên giải hai nàng một chút đi. Ấu Nương khẽ ngả vào vai Dương Lăng, thầm thì: - Ấu Nương vừa mới gặp các nàng rồi. Tướng công, thiếp biết trong lòng chàng khó chịu. Hôm qua chàng phi ngựa chạy về, trông như sắp phát điên vậy, cặp mắt đỏ ngầu rất đáng sợ. Ấu Nương cũng sợ gần chết. Dương Lăng thở dài một tiếng, nói: - Trong bữa tiệc rượu ta đã cảm thấy không bình thường. Bào Tận Thẩm không phải là kẻ độ lượng, cho dù có chịu thua, cũng sẽ không có thần thái vui vẻ như thế. Còn nữa, tên Lưu Sĩ Dung có tâm trạng rất bồn chồn. Ta đã sớm cáo từ ly khai. Trên đường trở về, nhìn thấy trên núi bốc lửa, ta sợ nàng..., Ôi, nàng đi theo ta, đến cả vào kinh đô mà cũng phải chém giết! Biết khi nào mới có thể không khiến nàng phải chịu khổ nữa đây? Hàn Ấu Nương cảm động: - Tướng công..., chàng đừng tự trách mình. Ấu Nương gả cho chàng thì đã là người của chàng rồi. Cả đời phú quý cũng tốt, bần cùng cũng tốt, còn có thể rời bỏ chàng sao chứ? Cho dù bây giờ chúng ta ở Dương Gia Bình, chẳng phải cũng phải ăn uống khổ sở, vẫn phải chịu cảnh khổ sao? Vẫn phải đề phòng dã thú trên núi, giặc Thát ở tái ngoại, còn phải lo lắng về thu hoạch... Những gì tướng công làm cho thiếp đã gấp trăm lần so với những gì mà thiếp bỏ ra. Trong thiên hạ có mấy người đàn ông vì vợ mà không tuân mệnh lệnh hoàng đế? Cho dù phải chết vì chàng, dù chết một vạn lần thiếp cũng không oán trách. Hàn Ấu Nương lau nước mắt, nói: - Chỉ là... Liên lụy tới các cô Tiên Nhi. Ấu Nương không thể bảo vệ các muội ấy chu toàn, trong lòng rất áy náy. Bây giờ lại để tướng công khó xử trước mặt Thái tử, thiếp... thiếp... Dương Lăng xoa tay nàng, an ủi: - Không phải tướng công đang lo lắng về Thái tử điện hạ Ta chỉ nghĩ, nếu không phải vì ta nhờ các nàng ấy hỗ trợ, cũng sẽ không khiến họ rước lấy họa sát thân. Bây giờ cô nương Tiên Nhi mất tích, e rằng là lành ít dữ nhiều, ta... Y mới nói được tới đây chợt nghe tiếng bước chân, quay đầu lại thì thấy Dương Nhất Thanh đi tới ôm quyền chào: - Ty chức ra mắt đại nhân, ra mắt phu nhân. Dương Lăng lo lắng hỏi: - Thế nào rồi? Có tìm được Đường cô nương chưa? Dương Nhất Thanh thưa: - Đại nhân! Ty chức dẫn người tìm suốt hai mươi dặm dọc con sông dưới chân núi , không thấy tung tích Đường cô nương đâu cả. Ngoài mười dặm hạ du đã là vùng dân chúng sinh sống. Nhưng ty chức đi hỏi dân chúng ven đường, lại không ai biết tin tức. Bây giờ huynh đệ Mãn Thương vẫn còn đang dẫn người tiếp tục tìm kiếm, ty chức lo đại nhân đợi lâu, nên trở về báo tin. Nghe báo không tìm thấy thi thể của Nhất Tiên, Dương Lăng không khỏi dấy lên một tia hy vọng, ra lệnh: - Tiếp tục tìm! Nếu cần thì cầm lấy lệnh bài của ta buộc quan phủ địa phương hiệp trợ. Sống phải thấy người, chết phải thấy xác. - Dạ, đại nhân! Dương Nhất Thanh ôm quyền thi lễ. Dương Lăng lại hỏi: - Bào Tận Trung như thế nào rồi? Trên mặt Dương Nhất Thanh lộ ra một nụ cười giảo quyệt, hắn đáp: - Ty chức đánh hắn ngất đi, cho hắn mặc y phục thân binh. Khi bọn người Bào Tận Thẩm giả vờ tới cứu hoả thì ty chức đã dẫn hơn trăm thân binh ngay trước mặt chúng công khai đưa người ra khỏi thành, hiện đã giam vào đại lao của Cẩm Y vệ. Dương Nhất Thanh ngừng lại một chút, rồi tiếp: - Đại nhân, người nào đã vào Cẩm Y vệ của chúng ta thì trong bụng hắn có cái gì là phải phun ra hết, cho dù bụng không có gì, muốn hắn nói gì hắn cũng phải nói theo. Tiền đại nhân nghe nói là người do đại nhân đưa tới, bèn bảo người khiêng tới tận nơi xem xét, rất hy vọng giúp được cho ngài chút việc đó. Tuy Dương Lăng đang tràn ngập phẫn nộ và lo lắng, nghe xong những lời này cũng không kìm được nở một nụ cười, hỏi: - Ta đã có thể cưỡi ngựa, vậy mà mông Tiền đại nhân vẫn chưa khỏi hay sao? Dương Nhất Thanh cười gượng đáp: - Tiền đại nhân thấy người tới tặng quà nườm nượp, sợ một khi mông khỏi, sẽ làm cho người ta không còn cơ hội biểu lộ tâm ý, do đó ông ta cũng định bệnh thêm vài ngày nữa. Lúc này Dương Lăng mới tỉnh ngộ. Y còn tưởng rằng Tiền Ninh quí cái mông của mình, thì ra là có dụng ý khác. Y gật đầu nói: - Ừm, việc khảo cung phải nhờ tới y, chứng cớ cũng phải tìm cho ra. Bào Tận Thẩm đường đường là một tên quan lớn tòng tam phẩm, ta không giết được hắn, Trương phó tướng cũng không giết được hắn. Ta muốn tìm chứng cứ đủ để có thể giết hắn, rồi trình lên cho người có thể giết hắn! Dương Lăng sờ quyển sách trong người, buông từng chữ một: - Xin nhờ Tiền đại nhân làm ơn tiếp đãi hắn thật kỹ. Một ngày chưa tìm được Đường cô nương, thì không được đánh chết hắn. Hừ! Lần này ta sẽ không lỗ mãng nữa, đánh rắn phải đánh giập đầu. Bào Tận Thẩm làm quan lâu như vậy, sẽ có không ít quan hệ cá nhân. Không nắm chắc hoàn toàn, ta sẽ không động tới hắn. Không nắm chắc hoàn toàn, sau này ta sẽ không gây thù chuốc oán với ai nữa! Y nắm chặt bàn tay Ấu Nương, khẽ nói: - Ta không muốn lại để người của ta phải vì ta mà nơm nớp lo sợ. Cũng không muốn lại làm cho người của ta vì ta mà bị thương. Về phần Bào Đại tướng quân, ta sẽ cho hắn tiếp tục tiêu dao mấy ngày nữa! ****************************************** Một đoàn ngựa xe rầm rộ đi trên đại lộ. Nhìn đội nghi trượng rợp bóng cờ xí, hẳn phải là thuộc loại vương hầu phô trương vào bậc nhất. Trời đã gần trưa, ánh dương gay gắt, rèm kiệu của một chiếc xe ngựa được vén lên, có tiếng người nói với tên trung quan cưỡi ngựa bên cạnh: - Bách Thuận à! Tới gốc cây kia nghỉ một chút đi. Ta mệt rồi, muốn xuống kiệu đi lại một chút. - Dạ, Vương phi nương nương! Tên quan đó vội vàng cao giọng hô: - Cho đoàn xe đỗ dưới bóng cây! Đoàn xe từ từ dừng lại bên dưới cánh rừng bạch dương. Rèm kiệu được vén lên, một phụ nữ chừng bốn mươi, tóc đen tuyền, mặc áo dài chấm gót, khoác khăn quàng vai và mũ phượng cùng màu, bước xuống xe. Nàng nhè nhẹ vặn eo, nhìn đồng ruộng xanh mượt bên đường, nói: - Ừm, vừa ra ngoài một chút đã thấy thoải mái hơn nhiều rồi. Lát nữa gỡ mũ phượng và khăn quàng vai cho ta đi, đường còn xa lắm, đội rất mệt. Hai thị nữ sau lưng cúi người đáp: - Dạ, nương nương! Vương phi nghe thấy tiếng chim hót trên ngọn cây, không khỏi vui vẻ nói: - Tiếng chim này rất dễ nghe! Mang Phi Nhi của ta ra, nó cũng chán lắm rồi. Một tên thái giám cầm một cái lồng bằng tơ vàng vội vàng chạy tới. Vương phi cầm lấy lồng chim, lấy mồi chim từ tay tên thái giám dụ con chim hoạ mi, bộ dạng trông rất vui vẻ. Lúc này một lão già lưng hơi còng đi tới. Vương phi nhìn thấy lão bèn cười nói: - Lưu Lương, mấy con chim sáo của ta mua trong kinh thành sao rồi? Vẫn chưa nói à? Về đến nhà lão phải chăm sóc chu đáo. Lúc lột lưỡi lão phải cẩn thận một chút, đừng để chúng chết đó. Lão Lưu Lương cười nịnh: - Nương nương yên tâm! Nương nương thiện tâm như Quan m Bồ Tát, những con chim này theo bà, cũng coi như là có phước rồi. Vương phi vừa nghe liền không khỏi cười lớn. Lưu Lương nhân cơ hội báo: - Nương nương, cô nương mà chúng ta cứu được dọc đường giờ đã tỉnh lại rồi. Nhưng hình như bị đần độn, hỏi cô ta cái gì cũng không nhớ được, nương nương xem chúng ta nên làm sao đây? Vương phi nghe xong khẽ chau mày, hỏi: - Cô nương đó trông rất thông minh, sao lại đần độn được chứ? Đi, đi xem thử! Mấy người trung quan, thị nữ và Lưu Lương cùng đi theo Vương phi đến bên cạnh một chiếc xe ngựa phía sau. Trên xe có một cô nương đang ngồi, hai tay ôm đầu gối hoảng sợ nhìn đám người đang đi tới. Trên đầu nàng băng trắng xóa, rỉ ra chút máu, khuôn mặt xinh xắn vì mất máu quá nhiều nên hơi tái nhợt. Vương phi hỏi: - Cô nương! Cô tên là gì, người ở nơi nào, sao lại mặc y phục nam nhân, đã gặp phải trộm cướp trên đường à? Cô nương kinh hoảng nhìn bà ta, hỏi lại: - Bà là ai, ta không biết bà, tại sao ta ở chỗ này? Lưu Lương đáp: - Đây là Lý nương nương của Vương phủ cai quản Sơn Tây. Nương nương thiện tâm, nhìn thấy cô ngất xỉu bên bờ sông, nên đã bảo ta cứu cô. Cô còn nhớ được tên mình không, là người ở đâu? - Tên à? Cô nương thốt lên ngây ngô, rồi đột nhiên bật khóc: - Không nhớ! Ta chẳng nhớ rõ gì cả, ta là ai, sao ta ở chỗ này? Vương phi khẽ nhíu mày, Lưu Lương thấp giọng nói: - Nương nương, đầu cô nương này bị thương, bây giờ lại chẳng nhớ gì cả. Nương nương xem, có nên tới thị trấn phía trước, giao cô ta cho quan phủ không? Vương phi ái ngại nhìn người con gái mặt đầy vẻ hoảng sợ, khom người nhỏ nhẹ hỏi: - Cô nương! Cô cố nhớ lại đi, có thể nhớ được mình tên gì, nhà ở đâu không? - Ta... Ta... Cô gái chớp chớp mắt, đầu óc choáng váng, tựa hồ thấy một tướng quân thiếu niên anh tuấn bất phàm, cưỡi con ngựa trắng đang lướt tới, nét mặt nàng không khỏi lộ ra chút mừng rỡ, trong ý thức dường như bắt được một cái tên rất quan trọng. Nàng vừa muốn mở miệng gọi y, trong đầu đột nhiên lại trở nên trống rỗng, chẳng nhớ gì nữa. Cô nương lại lắc lắc đầu, phiền muộn đáp: - Ta không nhớ nổi, không nhớ nổi đâu... Nàng lắc đầu lia lịa, làm động đến vết thương trên đầu, không kìm được đau đớn kêu lên một tiếng rồi ôm lấy đầu, nước mắt rơi lã chã. Vương phi thấy cô nương này xinh đẹp vô cùng, cặp mắt đen láy như chim hoạ mi đang nhìn mình, không thể không mềm lòng, bèn nói: - Trông cô nương này như thế, nhất định vốn là một nha đầu xinh đẹp đáng yêu, cũng không biết bị ai gây ra tai họa thành ra nông nỗi này. Chà! Nàng ta đã không nhớ nổi điều gì, giao cho quan phủ, những người đó làm được gì chứ? Gặp kẻ táng tận lương tâm, có khi còn hại cả đời cô nương nhà người ta. Cứu người phải cứu tới cùng, tiễn phật thì tiễn đến Tây Thiên. Cô nương này chẳng nhớ được gì, vậy đưa nàng về Đại Đồng đi. Nha đầu nhỏ tuổi như vậy, ta vẫn còn nuôi được. Đám người bên người dạ một tiếng, tên trung quan vẫn còn hỏi: - Nương nương! Cô nương này thương thế lành rồi thì sẽ làm người hầu ở ngoại phủ hay đưa vào nội phủ? Vương phi cầm lồng chim đưa cho Lưu Lương, đáp vẻ không vui: - Phủ của ta còn thiếu a hoàn sai bảo à? Ta cứu người còn muốn người ta bán mình trả nợ là làm sao? Nàng liếc mắt nhìn Lưu Lương, không khỏi vui vẻ: - Lưu Lương! Không phải hai vợ chồng già các ngươi không có con sao? Vậy nhận cô nương này làm nghĩa nữ đi, thường ngày sẽ giúp ngươi chăm sóc cho đám bảo bối đó của ta. Không chừng khi chơi với đám tiểu gia hỏa lanh lợi đó của ta, đầu óc cô ta có thể nhớ lại một chút gì đó. Nàng cười ha ha đi vài bước, rồi quay lại bảo: - Cô nương xinh đẹp này, đến cả tên cũng không nhớ được, đáng thương quá. Trở về vương phủ, cần tìm lang trung giỏi khám bệnh kỹ lưỡng cho cô nương đó. Được rồi, cô ta vẫn chưa có tên, cũng không thể cứ gọi cô nương này cô nương nọ như vậy. Đã đưa vào nhà ngươi rồi, vậy gọi là... Lưu Lương Nữ* đi. (*: con gái của Lưu Lương, cũng có nghĩa cô gái ngoan họ Lưu) Chú thích: (1) Ngày xưa vua đi tuần ở ngoài, đến chỗ nào nghỉ thì xếp xe vòng xung quanh làm hàng rào, để một chỗ ra vào, hai bên để xe dốc xuống càng xe ngỏng lên để làm dấu hiệu, nên gọi là viên môn. Về sau cũng gọi ngoài cửa các dinh các sở là viên môn, có khi cũng gọi các dinh các sở quan là viên nữa. Các nhà trạm khi các quan đi công cán qua nghỉ chân gọi là hành viên.

Chương 84: Ngày hai mươi tám tháng tưDịch: workman Biên dịch: TheJoker Biên tập: X1999_vn Hiệu đính: Nguồn: www.tangthuvien.com Dương Lăng nhìn vẻ mặt hưng phấn tin phục của họ, không khỏi thầm tiếc: “Đáng tiếc mình không ở trong quân đội, nếu không viết quyển ‘Luận ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng cơ sở quân đội', tương lai không chừng có thể truyền lại thành bản ‘Dương Tử binh pháp’ chứ chẳng chơi.” ------------------------ Chương tám mươi bốn - Ngày hai mươi tám tháng tư ------------------------ Mồng bảy tháng tư, năm Hoằng Trị thứ mười tám, quan Đề đốc Vương Nhạc của mười hai đoàn doanh và Anh Quốc công Quách Huân tới kiểm tra Thần Cơ doanh, tra ra phó Tham tướng Tả Tiêu quân Bào Tận Thẩm của Thần Cơ doanh , quan Đô ty Lưu Sĩ Dung của đệ tam ty và các tướng tá lớn nhỏ, tổng cộng mười ba người tham ô lương bổng cùng lương thực của quân đội, đút vào túi riêng, còn có những chuyện phạm pháp khác đang điều tra. Hoàng đế tức giận, sai Cẩm Y Vệ bắt chúng vào kinh chờ xét xử. Mồng tám tháng tư, Giám sát Ngự sử Vương Lương Thần của Giám Sát viện, Cấp sự trung Trần Đình của Binh khoa tố cáo Tham tướng Tả Tiêu quân Dương Lăng của Thần Cơ doanh đem đàn bà vào trong doanh, trọ lại trong quân. Vua hạ chiếu, Dương Lăng bị phạt hai mươi quân côn, giáng một phẩm nhưng vẫn giữ nguyên chức, phạt nửa năm bổng lộc. Ngày sau, cho vời Dương Lăng vào cung, dùng lời lẽ nghiêm khắc để dạy dỗ và khiển trách, rồi lệnh cho Đề đốc Vương Nhạc chỉnh đốn quân kỷ, ban cho Dương Lăng Song Hổ phù, dẫn quân vào núi luyện tập võ nghệ. Dưới sườn núi, những đội sĩ binh chia thành tổ tiến hành huấn luyện bắn khi di chuyển và bắn tại chỗ trong sơn cốc phía trước. Tiếng súng đì đùng, khói thuốc súng bốc lên mịt mù. Đến hôm nay, Dương Lăng đã dẫn đại quân vào núi huấn luyện khổ cực trên hai mươi ngày. Binh lực của ba ty Tả Tiêu doanh có tổng cộng bốn ngàn năm trăm người, cộng với số thân binh và đội Đốc chiến trực thuộc Tham tướng, tổng cộng năm ngàn người. Trong đó bộ binh là ba ngàn sáu trăm người, một nhánh nhân thủ là bộ binh sử dụng súng hoả mai; pháo binh là bốn trăm người, được trang bị một trăm sáu mươi khẩu đại bác Đại Tướng Quân dã chiến, đồng thời mỗi người còn được cấp một khẩu súng tay phòng thân; năm trăm người khác được trang bị khá nhiều súng hoả mai. Dương Lăng được vua ban lệnh tiễn, giao cho đặc quyền toàn quyền xử lý việc diễn binh tập võ, huấn luyện toàn quân dùng hỏa khí đạn dược. Lúc chỉ bảo huấn luyện nhóm binh sỹ này, y có cảm giác dường như mình đã vượt thời không quay về thời hiện đại. Ngoại trừ đội Đốc chiến thân binh của Dương Lăng là dùng khoái mã trường đao, có thể nói là toàn bộ quân đội hoàn toàn dùng súng ống. “Đây là quân đội của triều nhà Đại Minh sao?” Nhất là khi đã từng thấy thời Mãn Thanh với những đại đao trường mâu hoàn toàn vô tác dụng, cảm giác kích động của Dương Lăng càng mãnh liệt hơn. Dẫu rằng súng ống bây giờ tốc độ bắn chậm, tầm bắn gần, vẫn còn có khuyết điểm chí mạng nếu đơn độc chiến đấu với một đội kỵ binh lớn, nhưng nếu có thể bảo trì được cái thế này, tương lai không lâu sau khi thời đại hỏa khí phát triển mạnh, chúng ta sẽ không tụt hậu sau thế giới. Một quốc gia tiên tiến nhất, văn minh nhất, sẽ không trở thành chủng tộc ngu muội lạc hậu trong mắt người Tây phương, mặc cho người khi dễ chèn ép. Cho dù có những khuyết điểm này, nhưng khi chiến đấu trong thành thị và rừng núi, loại súng này cũng vẫn phát huy uy lực vượt xa đại đao và trường mâu như thường. Nó căn bản không phải thứ mà thân thể bằng da, bằng thịt và võ nghệ cá nhân có thể chống lại được. Khi ở Kê Minh dịch, Dương Lăng đã từng chứng kiến uy lực của pháo Đại Tướng Quân. Mặc dù thua xa vũ khí hiện đại, nhưng vì hệ thống phòng ngự lúc đó cũng rất bạc nhược, do đó sức tàn phá và lực sát thương của nó cũng không kém gì đại pháo bây giờ. Hơn nữa, với rất nhiều khẩu súng hoả mai, cũng đủ để tạo thành sát thương rất lớn trong nháy mắt khi hai quân giao phong. Loại quân đội toàn bộ được trang bị hỏa khí này trước mắt tuy không phải là lợi khí tốt nhất để hành quân xa tác chiến, nhưng lại là trợ thủ đắc lực nhất để phòng thủ và dẹp loạn kinh sư. Dương Lăng biết, dựa vào quyền lực của y bây giờ và sự bố trí quân đội này, y cũng không cần phải lo lắng về những việc lâu dài. Việc bây giờ y muốn làm là trong thời gian ngắn nhất làm cho đội quân này trở thành quân tinh nhuệ nhất trong năm đại doanh của Thần Cơ doanh, thậm chí là lực lượng cường đại nhất trong số mười vạn đại quân của mười hai đoàn doanh ở kinh sư. Muốn làm được điểm này quả cũng khá dễ dàng. Trải qua hơn mười ngày luyện tập đội ngũ chay, bây giờ bọn lính có thể chấp hành thuần thục phương pháp ba đội đối chiến và bắn theo ba hàng (*). Tốc độ và mật độ bắn cũng nhiều hơn gấp ba lần trước đây. Đến lúc này, sức chiến đấu của Tả Tiêu quân lập tức tăng lên rất nhiều. (*: trong những đoạn cuối chương 26 có giải thích về hai phương pháp này - ND) Thế là, những tướng lĩnh trong quân vốn còn ôm thái độ nghi ngờ về năng lực của y nhất thời hoàn toàn bái phục. Đến cả ánh mắt của Bành mập và Liên mặt rỗ khi nhìn y cũng tràn ngập kính phục. Dương Lăng cho đến lúc này mới làm rõ chế độ thăng chức và thưởng phạt trong quân. Huấn luyện năng lực tác chiến độc lập của Đội, Tiếu, Hỏa, những binh sỹ có biểu hiện năng lực xuất sắc có thể được đặc cách đề bạt, và cách chức tại chỗ đám quan quân lười nhác vô năng. Vì thế, sĩ khí quân đội lập tức dâng cao. Binh lính vốn lười nhác đều thay da đổi thịt, như beo như cọp, tinh thần hừng hực. Dương Lăng đứng trên sườn núi quan sát đám sĩ binh diễn luyện. Hơn mười ngày huấn luyện, khuôn mặt vốn trắng trẻo của y bị sạm lại, nhưng tinh thần và khí chất lại kiên nghị và quả quyết hơn vài phần. Dương Lăng gật đầu nhè nhẹ tỏ vẻ hài lòng. Sau khi y ra lệnh bỏ đi giáp trụ nặng khoảng bốn mươi cân, tốc độ tiến lên và năng lực ứng biến của đám binh sĩ rõ ràng đã được nâng cao lên rất nhiều. Đám tướng lĩnh vốn rất bất mãn với việc bỏ mũ cởi giáp, nhưng khi thấy đám sĩ binh phản ứng nhanh gấp đôi so với lúc đầu, cũng không thể không thừa nhận năng lực tự vệ của bọn lính tuy nhìn hơi yếu bớt, nhưng lực sát thương quân địch và cơ hội tránh né thương tổn ngược lại thực đã tăng lên không ít. - Con mẹ nó, ta cũng theo binh nghiệp nửa đời người rồi, nhưng không nghĩ tới có thể cho binh lính xếp thành ba hàng đứng, quì, nằm? Còn lập đội ba người, một tên nạp thuốc, một tên châm lửa, một tên phụ trách bắn? Ba người một khẩu hoả mai, bắn tới mưa gió cũng không lọt, so với kiểu bắn cứ như ong vỡ tổ trước kia mạnh hơn gấp trăm lần! Bành Kế Tổ bội phục liếc nhìn Dương Lăng, nói với y: - Đại nhân, nắng gắt rồi, vào lều nghỉ ngơi một chút đi. Dương Lăng khẽ gật đầu. Hai người quay về chỗ tán cây mọc ở sườn núi. Liên Đắc Lộc xoa tay nói: - Đại nhân, hai ngày qua nhìn đám thủ hạ luyện binh, ty chức cũng hơi dằn lòng không đặng. Người làm tướng phải làm gương cho binh sĩ, tại sao đại nhân không cho chúng ta xuống dưới chỉ huy sĩ binh luyện tập hành quân đánh nhau vậy? Dương Lăng nâng chén uống một ngụm trà, nhìn đám tướng quân ngồi trong lều, cười hỏi: - Ồ, vậy ngươi nói cho ta hay, người làm tướng phải làm sao mới làm gương cho binh sĩ được? Liên Đắc Lộc đáp: - Cái đó còn phải nói sao? Muốn tăng sĩ khí, khi đánh nhau ở chiến trường, thân là quan tướng phải xung phong lên phía trước. Tướng lĩnh của một đội quân, là linh hồn của toàn quân, tướng dũng binh tất dũng. Hắc hắc, không phải trước mặt đại nhân khoe khoang, chứ mạt tướng đánh trận rất dũng mãnh. Lúc dẹp loạn Miêu Cương, mạt tướng nhậm chức Bách hộ, tự mình dẫn ba trăm binh sĩ trong đêm đánh lên núi, liên tục đánh ba trại lớn, thừa dịp hỗn loạn còn giết được động chủ Miêu Cương vốn được bọn chúng xưng là Vạn Nhân Địch đó. Dương Lăng gật đầu cười nói: - Không tệ, quả nhiên dũng mãnh, đủ để làm chức Bách hộ. Liên mặt rỗ nghe xong phấn khích cười ha hả, dương dương đắc ý liếc mắt nhìn các tướng khác. Lại nghe Dương Lăng nói: - Nếu ngươi bây giờ vẫn có ý nghĩ như thế, cả đời ngươi cũng chỉ có thể làm Bách hộ, không có cơ hội lên chức. Tiếng cười của Liên mặt rỗ bất chợt nghẹn lại. Bành Kế Tổ cười phì một tiếng, giảo quyệt liếc gã một cái, trong lòng thầm nghĩ: - Ta biết ngay đại nhân nhất định có ý khác, nên không chõ vào, quả nhiên là đúng. Liên mặt rỗ lẩm bẩm: - Sao lại... Đại nhân cảm thấy mạt tướng dũng cảm xông lên là không đúng sao? Dương Lăng nghiêm mặt nói: - Đúng, có điều là đúng khi ngươi đang giữ chức Bách hộ. Tướng quân xung phong xông lên phía trước, quả có thể nâng cao sĩ khí toàn quân, khiến cho ai ai cũng dũng cảm giết giặc. Nhưng bây giờ ngươi đã là quan Đô ty, thủ hạ có một ngàn năm trăm quân binh. Ta hỏi ngươi, đao thương không có mắt, nếu ngươi xung phong lên phía trước, trong loạn quân bị địch nhân giết mất, thử hỏi một ngàn năm trăm huynh đệ của ngươi sẽ do ai chỉ huy? Khi rắn đã mất đầu, toàn quân có bị tiêu diệt không? Liên mặt rỗ tuy thấy Dương Lăng hỏi có lý, nhưng người làm tướng chẳng lẽ vì vậy mà khi lâm trận lại sợ hãi sao? Trên mặt gã không khỏi hiện lên thần sắc không phục. Đám tướng cũng phần lớn lộ vẻ mặt kì lạ, chỉ có hai ba người xem ra có điều ngộ ra, có vẻ trầm tư. Dương Lăng chỉ vào đám dũng sĩ dưới chân núi dưới sự chỉ huy của Bả tổng (Bả tổng còn được gọi là Bách tổng), Sáo trưởng, Thập trưởng lúc thì hợp, lúc lại tách ra, và nói: - Đây là lí do ta không cho phép các vị xuống núi, mạnh tay để quan tá cấp dưới lĩnh binh độc lập. Trước tới nay, trong mắt các ngươi, đám sĩ quan chỉ là một đám hò hét, phụ trách truyền đạt mệnh lệnh của các ngươi, chứ không có năng lực chỉ huy tác chiến độc lập, cũng không có can đảm chỉ huy tác chiến độc lập. Do đó, nhân vật từ Đại tướng trở lên cực kỳ trọng yếu trong quân đội, vì vậy mới có câu như “lâm trận không thể đổi tướng” hay “ba quân không thể mất soái”. Ta lại nghĩ rằng, một tướng quân chỉ dựa vào danh vọng và dũng khí cá nhân để cổ vũ sĩ khí toàn quân, là tướng quân thất bại nhất. Ngươi xem, ở trên này, liếc qua là có thể thấy hành tung, tiến thoái của các đội ngũ ngay. Ngươi thân là tướng quân, bất cứ lúc nào cũng có thể biết quân mình đang ở đâu, chỗ nào chiến thắng, chỗ nào chiến bại; bất cứ lúc nào cũng có thể phát lệnh, điều khiển hoặc điều chỉnh, phân phối sức mạnh toàn quân. Nếu ngươi tự mình xông lên phía trước, đừng nói thân là người trong cuộc ngươi không thấy được biến hóa của cuộc chiến giữa hai phe địch ta, mà ngay cả thủ hạ của ngươi muốn xin ngươi đứng ra chỉ huy cũng không tìm thấy ngươi đâu. Một khi ngươi chết trận sa trường, toàn quân sẽ chia năm xẻ bảy, cho dù đông gấp mười lần địch quân, cũng chỉ có thể mặc cho người ta xâu xé. Đấy là do binh sĩ vô năng, hay là lỗi của tướng lĩnh? Liên mặt rỗ lập tức nghẹn lời. Dương Lăng lại nói: - Người làm Đại tướng, ta không cần ngươi phải “thiên nhân trảm, vạn nhân địch” (chém ngàn người, địch nổi vạn người). Chỉ cần ngươi có thể đứng giữa chỉ huy, biết cách điều động, ngươi có bản lĩnh bồi dưỡng quan tá, tiểu hiệu dưới quyền của ngươi ai nấy đều trở thành ”thiên nhân trảm, vạn nhân địch” thì đó mới là cái tài của thượng tướng, đó mới là một đội quân bách chiến bách thắng. Những đạo lý lẽ ra rất đơn giản này lọt vào tai đám tướng lĩnh vốn chưa từng ý thức được tác dụng của bọn tiểu tốt, thật sự đã trở thành thứ đạo lý mới mẻ vô cùng. Có mấy người từ lính trơn đi lên tướng quân lĩnh hội nhanh nhất, nghe xong không ngừng gật đầu lia lịa. Dương Lăng nhìn vẻ mặt hưng phấn tin phục của họ, không khỏi thầm tiếc: “Đáng tiếc mình không ở trong quân đội, nếu không viết quyển ‘Luận ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng cơ sở quân đội ‘, tương lai không chừng có thể truyền lại thành bản ‘Dương Tử binh pháp’ chứ chẳng chơi.” Hắn uống ngụm trà, nheo mắt lại nhìn một mảnh rừng cây bên sườn núi đối diện. Nơi đó địa thế khá là thấp, cây cối trong rừng cũng không rậm rạp, nhưng nhìn hồi lâu lại chẳng thấy trong rừng có một bóng người nào, Dương Lăng không khỏi nở nụ cười hài lòng. Dương Lăng điều ra ba trăm người trong đám thân quân và đội Đốc Chiến của mình, sai đám Dương Nhất Thanh, Hàn Lâm, Hàn Vũ dẫn những người này vào rừng huấn luyện. Trải qua hơn mười ngày huấn luyện khổ cực, xem ra đã có hiệu quả rồi. Bản lĩnh lục soát, ám sát, và bố trí mai phục của Dương Nhất Thanh thuộc loại nhất lưu. Cha con nhà họ Hàn võ nghệ còn cao minh hơn Dương Nhất Thanh, hơn nữa quanh năm săn bắn trong núi, quả thực chính là cao thủ trời sinh để chiến đấu ở vùng núi cây cối. Bản lĩnh làm cơ quan mai phục, lần theo dấu vết quả là xuất thần nhập hóa. Có ba người bọn họ dạy, tin rằng không được bao lâu, có thể huấn luyện ra một đội tinh binh đặc chủng. Dương Lăng đã yêu cầu Nam Trấn Phủ ty đặc biệt cung cấp một mớ quân giới chuyên dụng của Cẩm Y Vệ dùng để lùng bắt và ám sát. Hắn dụng tâm nhìn vào vùng núi, tiếp tục nói: - Để quân sĩ luyện tập thêm hai ngày nữa, chờ bọn họ thuần thục thêm một chút, sẽ đến lượt các vị ra tay. Đến lúc đó, các vị lĩnh một đội, dùng đối phương làm quân địch giả, luyện tập hành quân bày trận như thế nào, điều binh khiển tướng ra làm sao, để bọn họ có kinh nghiệm chiến đấu thực tế nhiều hơn một chút. Các vị tướng quân, muốn điều binh khiển tướng, chẳng những cần quen với binh tướng thủ hạ ngươi, còn phải hiểu rõ thực lực của quân địch và bản thân. Chiến đấu chính thức trên chiến trường không thấy được rõ ràng như chỗ này đâu. Do đó, tác dụng của trinh sát là không nhỏ chút nào. Y nhớ tới trận đại hỗn chiến tại Hồ Lô Cốc ở Kê Minh Dịch, lần đó toàn quân suýt nữa bị tiêu diệt, không khỏi vô cùng cảm khái nói: - Một trinh sát tốt, có khi có thể đáng giá cả thiên quân vạn mã, một tin tức của họ có thể quyết định thắng bại của một trận chiến. Trên đời, loại người liệu sự như thần, nhìn thấu tiên cơ như Gia Cát Lượng cũng chỉ có thể ngộ chứ không thể cầu được. Quan thủ bị cười nói: - Đại nhân nói rất đúng. Huống hồ, cho dù là Khổng Minh tiên sinh, cả đời cũng có lúc tính sai. Mấy người dốt nát như chúng ta lại càng kém hơn nhiều. Các tướng nghe xong đều cười ha hả. Lúc này, một tên binh lính lao vào. Dương Lăng quay đầu nhìn, thấy đó là anh vợ Hàn Uy của mình. Y lập tức khẽ gật đầu với mấy vị tướng tá rồi đi theo Hàn Uy ra ngoài. Hàn Uy sau khi đưa thê tử hồi kinh cũng gia nhập quân đội. Tuy nói thời này “trai tốt không đi lính”, nhưng dù sao so với việc săn bắn hoặc làm dịch tốt thì địa vị vẫn cao hơn. Huống hồ, quân lương của doanh trại kinh sư chẳng những là cao nhất trong quân đội Đại Minh, mà chủ soái quân đội còn là em rể của y. Dương Lăng đi theo y đến dưới một tàng cây, rồi hỏi: - Đại ca, huynh đã nghe ngóng được gì rồi? Hàn Uy nói: - Chuyện này rất ư kỳ quái. Chứng cứ mà muội phu tra được có ghi Bào Tận Thẩm bán trộm súng và hỏa dược, thậm chí bán cho nhà nào, bán bao nhiêu cân lượng cũng đều ghi rõ rành rành. Rõ ràng đã trình vào cung rồi, nhưng bây giờ Bào Tham tướng và Lưu Đô ty bị giam vào ngục cũng chỉ công khai tội danh là tham ô, bọn chúng vẫn sống yên lành. Người Dương Lăng thoáng run lên, vừa ngạc nhiên vừa phẫn nộ, nói: - Cái gì? Chúng vẫn còn sống sao? Rốt cuộc bọn chúng đã chạy chọt cửa nào mà đến cả tội danh này cũng có thể che đậy thế? Hàn Uy lắc đầu, nói: - Tấu chương của muội phu là trình cho Hoàng Thượng, nhưng Ngự sử của Giám Sát viện Thập Tam Đạo và Cấp sự trung của Lục khoa chẳng biết dùng phương pháp gì mà biết được nội dung. Thế là ngươi một quyển ta một quyển, mỗi ngày đều dâng sớ, Hoàng Thượng cũng không có phản ứng gì. Dương Lăng trầm tư hồi lâu, rồi quả quyết nói: - Không được, ta phải hồi kinh xem sao. Đường cô nương sống chết chưa rõ, ta không thể nhìn hung thủ nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật! Hàn Uy giật mình nói: - Lúc này mà về kinh, muội phu lại là chủ soái, tự tiện ly khai đại doanh nếu lại để người ta biết được, coi chừng sẽ bị hạch tội đó. Dương Lăng nói: - Không sao, hai ngày qua cũng sắp dùng hết đạn dược rồi. Hoàng Thượng ban cho đệ Song Hổ phù, muốn điều động đạn dược là có ngay, đệ tiện đường đi tới bộ Binh là được. *** Đêm ngày hai mươi tám tháng tư, kinh sư chìm trong cơn mưa lớn. Đây là cơn mưa lớn đầu tiên sau đợt hạn hán kéo dài, từ buổi trưa kéo đến tận lúc màn đêm phủ xuống. Mưa như trút nước. Trên đường mù mịt không một bóng người, những tảng đá lót đường được nước mưa rửa sạch bong, phản chiếu ánh sáng lờ mờ của những ngọn đèn lồng chập chờn dưới vài ba căn gác. Hai thớt thiết kỵ chạy nhanh như gió lốc, xuyên qua màn mưa vào kinh thành. Hai kỵ sĩ trên lưng ngựa khoác áo tơi, khẽ cúi người né làn mưa như trút, con tuấn mã khoẻ mạnh xuyên qua làn mưa lướt trên đại lộ. Những gợn sóng nước do những chiếc vó ngựa to bằng cái bát bắn lên trong nháy mắt đã bị cơn mưa lớn xóa nhòa, rào rào chảy xuống, chẳng lưu lại chút dấu vết nào. Đông An môn, Bắc Trấn Phủ ty, Thiên hộ Vu Vĩnh đang ngồi trên ghế uống trà, cười tủm tỉm nhìn chăm chú nước mưa xâu lại thành từng dòng trút xuống mái hiên, trông như một tấm rèm. Đầu năm nay gã đã mua được ba khoảnh ruộng tốt ở gần kinh thành. Năm nay mãi mà chưa có mưa to, còn tưởng rằng lúc này muốn thất thu rồi. Ông trời quả có mắt, nhìn trận mưa dầm dề này, mặt đất khô nứt nẻ được giải khát rồi. Hắn đang cười tủm tỉm trầm ngâm tính toán, đột nhiên hai nam tử khoác áo tơi xuyên qua màn mưa vội vã xông vào đại sảnh. Nước mưa từ người hai người chảy xuống ròng ròng, thành một dòng suối nhỏ. Vu Vĩnh ngước mắt nhìn, thờ ơ hỏi: - Chuyện gì mà gấp vậy? Trời mưa như trút nước mà cũng không được yên à? Dương Lăng ngẩng đầu, nhìn thấy tên Thiên hộ mặc cẩm y cầu kỳ, chân bắt chéo chính là tên hậu duệ quí tộc tóc vàng người Đức mà mình gặp lần trước. Y vừa cởi áo tơi xuống vừa cười, nói: - Hóa ra là Vu đại nhân. Ha ha, sao hôm nay lại là đại nhân trực thế? Vu Vĩnh thấy người vừa cởi áo tơi xuống mặc một thân y phục của binh sĩ bình thường, khuôn mặt anh tuấn gầy gò, mấy lọn tóc còn dính nước mưa, khuôn mặt bị nước mưa làm ướt nhẹp, nhưng lại nhất thời không nhớ nổi y là ai, không khỏi nghi hoặc hỏi: - Ngươi là người của bộ Binh à? Chuyện gì mà tự tiện xông vào Trấn Phủ ty nha môn của ta vậy? Dương Lăng cười nói: - Vu đại nhân đúng là quý nhân hay quên mà. Huynh đệ là Dương Lăng, đại nhân còn nhớ chứ? Vu Vĩnh “a“ lên một tiếng, thoáng cái đã nhớ ra. Nhân vật một thời phong vân gần đây, gã sao mà không nhớ chứ. Vu Vĩnh cười bồi, nói: - Nguyên lai là Dương đại nhân. Thất lễ, thất lễ. Sao... sao đại nhân lại mặc trang phục như thế này? Dương Lăng cười khà khà nói: - Mặc bộ y phục này hồi kinh tiện hơn. Phải rồi, Mưu đại nhân có ở đây không? Y hỏi chính là Bắc Trấn Phủ ty Trấn Phủ sứ Mâu Bân. Vu Vĩnh là người quen biết luồn cúi, biết người mặc trang phục binh sĩ Cẩm Y Vệ ở trước mặt là tâm phúc của Trương Đề đốc, Mâu đại nhân và chưởng hình Thiên hộ Tiền đại nhân cũng phải kính lễ ba phần, vội hỏi: - Không may, sáng sớm Mâu đại nhân đã dẫn theo Tiền đại nhân ra ngoài, đến giờ vẫn chưa trở về. Chẳng biết đại nhân có chuyện gì sai phái, có lẽ ty chức có thể cống hiến sức lực. Dương Lăng nghe xong hơi thất vọng. Việc này hắn không tiện nói với Vu Vĩnh, đành phải thuận miệng nói: - À, cũng không có gì. Bản quan hồi kinh xử lý công vụ, thuận đường đến thăm hai vị đại nhân. Vu Vĩnh cười hì hì nói: - Đại nhân đã có lòng. Bây giờ mưa còn chưa dứt, hay là đại nhân ngồi xuống uống chén trà nóng, không biết chừng trong chốc lát hai vị đại nhân sẽ... Ồ, thật khéo, đại nhân đã trở về rồi. Dương Lăng quay đầu lại, chỉ thấy hai chiếc kiệu đang được khiêng vào sân, mãi đến tận hành lang mới dừng lại. Hai người mặc trang phục Phi Ngư (cá chuồn) từ trong kiệu vội vã chui ra, bước nhanh vào sảnh. Dương Lăng vội tiến lên phía trước hành lễ: - Ty chức Dương Lăng, ra mắt đại nhân. Trấn Phủ sứ Mâu Bân thần sắc nghiêm trọng, căng thẳng sải bước đi vào, trông thấy Dương Lăng thì không khỏi ngẩn người, ngạc nhiên hỏi: - Ngươi sao lại hồi kinh? - Rồi không đợi y trả lời, lập tức bảo: - Về đúng lúc lắm, mau theo ta vào phòng nói chuyện. Dương Lăng thấy Tiền Ninh đi theo phía sau Mưu Bân cũng lộ thần sắc kinh hoàng, thậm chí quên cả chào hỏi y, không biết đã xảy ra chuyện lớn gì, tâm tình cũng vì vậy trở nên khẩn trương, liền vội khoát tay bảo Hàn Uy tạm thời nán lại, rồi đi theo Mâu Bân vào thẳng thư phòng. Mâu Bân vừa vào thư phòng lập tức cầm lấy bút đặt trên án thư vội vàng viết vài hàng chữ, lấy ấn ra đóng lên, rồi đưa cho Tiền Ninh, nói: - Nhanh, ngươi lập tức sai người dùng khoái mã chạy tới Thiên Tân vệ, mời Trương đại nhân lập tức hồi kinh! Tiền Ninh dạ một tiếng, tiếp nhận tờ giấy rồi vội vàng chạy ra ngoài. Dương Lăng không khỏi vội kêu lên: - Đại nhân, rốt cuộc xảy ra chuyện gì, sao vẻ mặt lại căng thẳng như vậy? Mâu Bân bồn chồn, lo lắng nói: - Dương Đồng tri, tình hình cụ thể một hồi nữa sẽ nói sau. Đêm nay ngươi cần phải chạy suốt đêm về quân doanh, e rằng ý chỉ sai ngươi phải dẫn quân về kinh sẽ đến ngay đó. Hoàng Thượng... Trong lúc tảo triều, Hoàng Thượng đã ngất ngay trên triều, đến giờ mới tỉnh. Ta luôn chờ ở trong cung, xem tình hình. Lần này Hoàng Thượng người... người sợ là không hay rồi.

Chương 85: Đưa quân vào cungDịch: workman Biên dịch: TheJoker Biên tập: Shandian Hiệu đính: Nguồn: www.tangthuvien.com Nàng mở to hai mắt nhìn nhìn Dương Lăng, đột nhiên mừng rỡ lao tới, nắm lấy cánh tay y kêu lên đầy hưng phấn: - Hóa ra là Dương tướng quân! Nhanh, nhanh, nhanh theo ta đi cứu người. Hoàng huynh đang đuổi giết quốc cữu gia đó! ------------------------ Chương tám mươi lăm - Đưa quân vào cung ------------------------ Trong triều phòng*, ba vị lão thần Nội các, thượng thư sáu bộ và các đại thần túc trực đang lo lắng ngóng đợi tin tức từ Đông Noãn Các. Mưa lớn quật xuống đất ào ào như đang xát muối vào trái tim bọn họ. (*: phòng nghỉ cho quan lại trước khi thiết triều) Đám lão thần này phần lớn tóc đã bạc trắng, ai nấy đều im lặng không nói gì, chỉ nhìn đăm đăm về phía cung Càn Thanh, mặt đầy vẻ lo âu, trong triều phòng chỉ còn tiếng mưa to gió lớn sấm vang chớp giật bên ngoài. Đột nhiên một tiếng sấm vang nghiêng trời lệch đất, mấy vị đại nhân già cả không kịp đề phòng bị chấn động đến run rẩy cả người; lại một tia chớp nữa lóe lên rồi một bóng người chợt xuất hiện, cao giọng tuyên: - Thánh Thượng có khẩu dụ! Mấy vị lão thần nghe vậy cùng bật đứng lên, thượng thư bộ Lại Mã Văn Thăng kích động tới mức râu tóc run lên, hỏi dồn: - Trương công công, Hoàng Thượng tỉnh rồi à? Hoàng Thượng sao rồi? Đám người Lưu Kiện cũng rất kích động. Thân là người đứng đầu Nội các nên Lưu Kiện cố đè nén tâm tình, vái thái giám Ty lễ Trương công công rồi nói: - Chúng thần tiếp chỉ . Đám đại nhân lúc này mới tỉnh ngộ, cùng nhau vái theo. Trương công công cất giọng đọc: - Hoàng Thượng khẩu dụ, thân thể trẫm không sao, các vị ái khanh chớ nên lo lắng. Các vị ái khanh là trụ cột của quốc gia nên không thể lao lực quá mức, phải quay về phủ nghỉ ngơi ngay, Ngự Mã Giám trong cung sẽ đánh xe đưa về. Ngày mai nghỉ chầu, mọi việc trong triều hết thảy sẽ do ba vị đại học sĩ quyết định. Truyền ý chỉ xong, Trương công công xoay người định đi, Lưu Đại Hạ sốt ruột liền nhảy dựng lên ngăn Trương công công lại, nói: - Trương công công, rốt cuộc long thể Thánh Thượng ra sao, thái y nói thế nào? Lưu Đại Hạ là sủng thần của vua Hoằng Trị, Trương công công tuy là một trong bốn đại thủ lĩnh của Ty Lễ Giám nhưng cũng không dám đắc tội với ông ấy. Dù vậy, đây nào phải chuyện mà lão có thể nói tùy tiện, đành nói: - Lưu Đại nhân, xin đừng làm khó ta, ông còn không biết những quy củ này sao? Lưu Đại Hạ ngẩn người thất vọng, đành buông tay áo Trương công công ra, xem ra bệnh tình Hoàng Thượng không nhẹ, nếu không thì sao lại không gặp họ mà bảo về phủ nghỉ ngơi, lại phong tỏa tin tức nghiêm mật như thế? Thấy Trương công công đã ra khỏi triều phòng, Mã Văn Thăng giậm mạnh chân, nói với hữu thị lang bộ Lại túc trực là Tiêu Phương: - Lão Tiêu à, tối nay ông phải thường trực chờ tin tức từ Đông Noãn Các, nếu như Hoàng Thượng... Hoàng Thượng có việc gấp triệu kiến, ngàn vạn lần không thể để lỡ việc đâu đó. Hoằng Trị đế thích dùng lão thần. Vị hữu thị lang bộ Lại Tiêu Phương này cũng là một ông già trên bảy mươi tuổi đầu tóc bạc phơ, có điều tinh thần quắc thước, thân thể rất cường tráng. Ông hiểu ý Mã thượng thư và cũng biết rõ tầm quan trọng của việc này. Nghe ông ta căn dặn xong, ông vội chắp tay đáp: - Dạ, đại nhân cứ việc yên tâm, hạ quan sẽ luôn túc trực chờ đợi, không dám chậm trễ . Mã Văn Thăng khẽ gật đầu, lúc này xa giá của Ngự Mã Giám đã đến trước cửa. Hoàng đế cho xe đưa về là ân sủng mà ngay cả những lão thần này trước kia cũng chưa từng có, song lúc này bọn họ nhìn thấy mà trong lòng lại chẳng vui sướng gì. Đội mưa lên xe, Lý Đông Dương đứng trên xe ngẩng đầu dõi mắt nhìn về phía cung Càn Thanh, chỉ thấy xa xa, những cung nữ, thái giám ra vào liên tục, không khí thập phần khẩn trương, ông không khỏi thở dài một tiếng. Trương hoàng hậu, thái tử Chu Hậu Chiếu và hai công chúa Vĩnh Phúc, Vĩnh Thuần đều ở ngoài Đông Noãn Các, tuy chỉ cách một cánh cửa nhưng tình hình của người thân bọn họ, người quan trọng nhất trong lòng bọn họ như thế nào thì họ chỉ có thể thông qua thái giám và ngự y mới có được một chút tin tức, chưa được Hoằng Trị cho vào thì đến cả bọn họ cũng không được phép vào. Trong Đông Noãn Các, Hoằng Trị đang dựa trên gối dựa, đờ đẫn nghe tiếng mưa trút rào rào bên tai không dứt. Ba người Vương Nhạc, Miêu Quỳ và Phạm Đình đang quỳ ở trước mặt, trán dán chặt trên nền đất, thở cũng không dám thở mạnh. Năm ngoái Hoằng Trị đã gặp một cơn bệnh nặng phải dưỡng bệnh hơn một tháng mới khỏi. Còn lần này đột nhiên ngất xỉu ngay giữa triều đường, cứu trị suốt một ngày mới tỉnh. Ông tự biết thân thể của mình đã như đèn dầu sắp cạn, qua lần này thì đại hạn cũng không xa nữa. Ông là người cực kỳ mê tín, sau cơn hạn lớn thì giờ đây ở kinh sư trời đột nhiên đổ mưa to và còn là ngay sau khi ông ngất đi không lâu cho nên ông đoán, đây là điềm báo rõ ràng nhất của ông trời dành cho ông: Trẫm là thiên tử, ông trời rơi lệ, mưa gió bão bùng, chẳng phải chính là muốn trẫm về chầu trời sao? Ông thở dài một tiếng, trong lòng nghĩ đến đứa con luôn khiến ông không thể yên tâm. Thuở ông kế vị tuổi tác cũng không lớn hơn con ông là bao, thế nhưng bây giờ mặc dù đã mười lăm mười sáu rồi mà tính tình của đứa con ông vẫn láu táu khinh suất, lại không đủ thận trọng, quyết không phải là hình tượng quân vương hợp cách trong cảm thụ của các triều thần. Đứa con này tinh lực dồi dào, thông minh hơn người, nhưng lại như một con ngựa hoang không chịu nổi chút câu thúc. Vốn tưởng rằng con mình lớn hơn chút nữa thì sẽ trở nên chín chắn, nhưng giờ đã đến lúc giao cả thiên hạ cho nó, nó... có thể làm được không? Ông nhìn lướt qua ba nội quan tin yêu nhất đang run rẩy sợ hãi quỳ gối trước mặt. "Bọn họ đều trung thành với chính mình, tuyệt không dám gian dối, nhưng nếu đổi lại là thái tử tuổi còn nhỏ thì bọn họ còn trung thành được như vậy không? Hay sẽ dần dần cậy vào quyền cao chức trọng mà lấn ép chủ thượng? Trong tay bọn họ nắm ba đại doanh kinh sư tinh nhuệ nhất và tổ chức mật thám lớn nhất Đại Minh đấy." Hoằng Trị không thể không lo lắng, Phiên Vương các nơi mặc dù sớm bị tước Tam Vệ nhưng vị tất không có dã tâm. Sổ sách tố giác Bào phó tham tướng tham ô mà Dương Lăng trình lên cho ông vài ngày trước càng làm cho ông cảm thấy phải cảnh giác. Trong triều cực kỳ hậu đãi các tướng lĩnh trong doanh trại kinh sư, một tên quan tam phẩm có thể vì chút lợi nhỏ nhoi mà cam lòng phạm vào quân pháp, vậy nếu Phiên Vương các nơi dùng châu báu mỹ nữ, chẳng lẽ không mua chuộc được ai sao? Huống hồ việc chế tạo đạn dược và súng hỏa mai cho doanh trại kinh sư là chuyện cực kỳ cơ mật trong quân, tuyệt không phải thợ thuyền nào ở thời đại này cũng có thể tùy ý chế tạo ra được loại hỏa khí và đạn dược tinh xảo nhất. Những cường hào địa phương lấy danh nghĩa mua hỏa dược để diệt trừ giặc cướp, tự bảo vệ mình nhưng khi Cẩm Y Vệ tra ra thì tất cả đều là giả dối cả, rốt cuộc không rõ mớ đạn dược ấy đã đi đến nơi nào. Thật ra với số lượng vài hỏa khí như vậy thì không đáng lo, cái lo là lo có người tìm thợ thủ công để phỏng chế lại. Súng hỏa mai tuy không địch lại kỵ binh phương bắc, nhưng ở phương nam nơi ruộng nước, cây cối, sơn dã thì lại là vũ khí cực tốt, và càng là sự lựa chọn tốt nhất cho những Vương gia bị tước đi Tam Vệ không thể công khai luyện binh để có thể nhanh chóng xây dựng một đội quân. Vậy kẻ mua hỏa khí có thể là ai đây? Là Sở vương, Ninh vương, hay Ngô vương? Những kẻ này đều không thể không đề phòng. Hoằng Trị nghĩ tới xuất thần, hồi lâu mới thở dài, mệt mỏi nói: - Soạn chỉ . Thái giám chấp bút thuộc Ty Lễ Giám đứng chầu sau chiếc bàn dài làm bằng gỗ tử đàn vội đáp một tiếng rồi cầm cây bút lông sói lên. Chỉ nghe Hoằng Trị ho dồn dập một trận rồi mới nói: - Ý chỉ thứ nhất, Ngụy quốc công Từ Phủ chưởng quản Thần Cơ doanh hai mươi năm song trị quân không nghiêm, quân kỷ bê bối, quan lại trong quân tham nhũng, bại hoại kỷ cương, nay cách chức quan doanh Thần Cơ doanh, hai phó tướng Thần Cơ doanh chờ hặc tội, tạm cử Anh quốc công Quách Huân chưởng lý quân vụ. Ông ngừng một lát rồi nói tiếp: - Ý chỉ thứ hai, bốn doanh Vũ tương, Đằng tương*, Tả vệ, Hữu vệ của Ngự Mã Giám điều ra ngoài hoàng cung, đóng giữ Cửu Thành. Tam Thiên doanh tuần tra canh gác kinh sư, Ngũ quân doanh, Thần Cơ doanh chia ra đồn trú hai bên kinh sư, điều Tả tiêu quân của Thần Cơ doanh vào đóng giữ trong cung. (*: ngựa ngẩng cao đầu phi nhanh gọi Đằng tương, ngựa ngẩng cao đầu phi nước kiệu gọi Vũ tương, ở đây chỉ tên riêng doanh trại kinh sư) Miêu Quỳ cơ trí nghe xong liền rùng mình, thân thể càng quì thấp hơn nữa. Hoàng Thượng đột nhiên đổi nơi đóng quân, chắc chắn vì bốn doanh của Ngự Mã Giám đóng giữ cấm cung đã lâu nên đã có điều phòng bị, nhưng Hoàng Thượng lại hạ chỉ ngay trước mặt mình, hiển nhiên vẫn đang rất tín nhiệm mình, nhất thời Miêu Quỳ cảm thấy ngổn ngang trăm mối, cảm động nói không nên lời. Hoằng Trị cảm thấy đầu óc choáng váng như thể muốn nôn, ông cố gắng gượng nói tiếp: - Ý chỉ thứ ba, hiểu dụ cho Vệ Sở đóng quân các nơi, giữ nghiêm quan ải, toàn quân đề phòng, tất cả Phiên Vương không được tự mình ra khỏi đất phong, không được tiến kinh mà chưa có lệnh, bằng không sẽ xử theo tội mưu nghịch! Mỗi khi ông truyền xong một ý chỉ thì tên thái giám chấp bút lại khấu đầu một cái, sau đó cầm bút lên vội vã chép lại. Hoằng Trị nghe thái giám chấp bút viết xong, đọc lướt lại một lần, ừm một tiếng rồi nói: - Cứ như vậy đã, đi đóng dấu vào . Nói rồi Hoằng Trị khoát tay bảo: - Các ngươi đều lui xuống trước đi rồi gọi thái tử vào, trẫm muốn nói chuyện với nó một chút. ****************************** Dương Lăng bước vào triều phòng. Triều đường là một căn phòng rất dài, bên trong ánh sáng lờ mờ. Vì hoàng đế bệnh tình nguy kịch phải bãi bỏ họp triều, nên giờ triều phòng lạnh tanh, chỉ có một quan văn dáng vẻ lừ đừ đang nằm trên bàn quay lưng về phía y ngủ gà ngủ gật. Dương Lăng cũng không kinh động người nọ mà đi đến một cái ghế ở góc tường ngồi xuống, dựa vào lưng ghế, chỉ cảm thấy lưng đau ê ẩm. Ngày ấy sau khi ra khỏi Cẩm Y Vệ, Dương Lăng vốn định về thăm nhà trước một cái, nhưng khi ngựa đến phố Hộ Quốc Tự thì thấy trong viện đã tắt đèn, vì không muốn phiền nhiễu Ấu Nương nên y chạy trở vào núi suốt đêm. Cũng may là y không trì hoãn nên không lỡ ý chỉ của triều đình, y vừa vào soái trướng thì thánh chỉ đã tới ngay. Dương Lăng lập tức dẫn đại quân về kinh, căn bản không hề được nghỉ một chút nào. Một chặng đường trở về này cực khổ và chậm hơn nhiều so với y cưỡi ngựa phi nước đại một mình. Năm ngàn quan binh đi đủ ba ngày hai đêm, đến hôm nay mới về tới kinh sư. Dương Lăng phục thánh chỉ ở ngoài triều phòng, nhưng đợi mãi mà thái giám truyền chỉ vẫn chưa triệu y tiến kiến, y nghĩ bây giờ Hoàng Thượng đang có bệnh và xem ra chẳng biết khi nào thì mới có thể gặp mình, nên định trốn vào triều phòng nghỉ ngơi một lát trước. Y duỗi hai chân, thở phào một hơi rồi khép hai mắt bắt đầu lim dim ngủ. Chẳng biết khi nào bỗng nghe một loạt những tiếng bước chân vang lên, Dương Lăng nửa mê nửa tỉnh mở mắt ra thấy có mấy người mình không quen biết đang đi đến. Có chừng năm sáu người đều là quan văn tam tứ phẩm, Dương Lăng thấy chẳng có ai quen nên lại nhắm mắt ngủ tiếp. Mấy ngày qua ba vị đại học sĩ vẫn ở trong cung xử lý công vụ, các ty khi có việc cần quyết định sẽ trình vào cung. Mấy quan văn đó vừa mới trình công văn lên cho các đại học sĩ, vì trong đó có vài thứ cần chờ ý kiến phúc đáp cho nên bọn họ tạm tới triều phòng đợi. Cặp mắt của các vị đại nhân này đều hơi kém cho nên không ai thấy ở trong góc tường mờ tối đó còn có một võ quan đang ngồi, bèn ngồi xuống băng ghế dài bàn tán công việc. Tả thị lang bộ Lại Vương Ngao lo lắng lên tiếng: - Hoàng Thượng long thể bất an, mọi người cũng vì chuyện này mà chấn động. Đã mấy ngày rồi mà vẫn không thấy long thể tốt lên, trong khi đang có rất nhiều việc ba vị đại học sĩ lại không thể tự quyết, vậy biết phải làm sao bây giờ? Chiêm sự Dương Phương an ủi nói: - Vương Đại nhân chớ sốt ruột, nghe nói Hoàng Thượng đã hạ chỉ cho vời Đông cung cùng Tam công thảo luận chính sự. Thái tử là người kế vị, lúc này đây đã có thể thay bệ hạ làm chủ một số việc rồi. Vương Ngao thở dài nói: - Thái tử tuổi nhỏ, hãy còn chưa thấu hiểu nỗi khổi của dân gian, nếu chậm trễ một chút mới phê duyệt thì chẳng biết sẽ có bao nhiêu nạn dân gặp họa nữa . Vị quan trực ban nghe tiếng đã tỉnh dậy, xoay người nhìn thì thấy đó là Vương Ngao, không khỏi cười nói: - Nguyên lai là Tế Chi*, thảo nào nghe tiếng thấy quen tai . (*: Tên tự của Vương Ngao) Vương Ngao lúc này mới thấy rõ vị quan trực ban ngủ gật trên bàn đó là Hữu thị lang Tiêu Phương, bèn vội chắp tay chào hỏi: - Nguyên lai Tiêu đại nhân đang trực ban, long thể Hoàng Thượng thế nào rồi? Tiêu Phương lắc đầu thở dài, vừa mở mồm định nói, chợt một thái giám già ôm một chồng sớ đi vào. Vị thái giám này chính là Lưu Cẩn - thái giám Chung Cổ ty hầu hạ Đông cung. Thái tử được lệnh thay cha phụ trách thảo luận chính sự cùng Tam công liền dẫn theo hết mấy thái giám đắc lực bên người. Đương nhiên công việc của bọn họ bất quá cũng chỉ là đưa tấu chương để ký duyệt, truyền gọi quan viên cần hỏi xin ý kiến chứ không phải là việc to tát gì. Nhưng Lưu Cẩn vốn chỉ ở Chung Cổ Ty đánh chuông Cảnh Dương, gióng trống Ty Thần, là một thái giám vô danh, thế mà giờ đây trong tay lão lại cầm lệnh dụ của triều đình, truyền gọi đều là các đại thần trong triều, tuy chỉ làm một chân tiểu nhị sai vặt, nhưng vì những người mà lão tiếp xúc đều là những nhân vật nhất đẳng cho nên không khỏi cảm thấy đắc ý rằng ‘trời đã sinh ra ta, tất sẽ có chỗ dùng’. Đặc biệt lúc này đây Hoàng Thượng bệnh tình nguy kịch, Đông cung đăng cơ đã là chuyện sớm muộn, Lưu Cẩn lại là người được thái tử tín nhiệm, tiền đồ tương lai của lão tất sáng sủa vô cùng. Vừa nghĩ đến đây, lòng nhiệt tình trong công việc của Lưu Cẩn nhất thời tăng vọt, chạy tới chạy lui giữa điện Cẩn Thân, điện Văn Hoa nơi ba vị đại học sĩ xử lý công vụ và triều phòng suốt ngày mà lão cũng không cảm thấy khổ cực. Lúc này lão ôm tới chính là tấu chương của hai quan viên bộ Công và bộ Hình. Hai người kiểm nhận xong rồi mở lời cảm tạ. Lưu Cẩn cười hì hì nhận lấy như thể lão chính là người ra phê duyệt, vẻ mặt rất đỗi vinh quang. Vương Ngao hỏi: - Công công, Tín Dương bị lũ lụt, tấu chương xin viện trợ vẫn chưa được phê chuẩn à? Lưu Cẩn đáp: - Ta chỉ nhận được tấu chương của bộ Công và bộ Hình, có lẽ là ba vị đại học sĩ vẫn chưa duyệt tới tấu chương đó. Vương Ngao giậm chân nói: - Ta đang sốt hết cả ruột mà sao vẫn chưa phê chuẩn chứ. Tín Dương ngập lụt, dân chúng không có áo cơm thì triều đình nên lập tức miễn thuế, cứu trợ thiên tai mới phải. Nếu chậm trễ khiến dân nổi loạn thì biết phải làm sao? Lưu Cẩn nhớ tới lần mình nghe vài đại thái giám trong cung thảo luận về những báo cáo láo về thiên tai hàng năm để thoái thác việc nộp thuế, không khỏi cười huênh hoang nói: - Đại nhân chớ sốt ruột. Bây giờ vừa mới vào tháng năm, làm gì mà có công văn cứu trợ sớm như vậy? Có khi là được mùa mà báo sằng là mất đó, nói không chừng những quan lại địa phương câu kết với triều thần quê ở Tín Dương trong triều để lấy lòng với địa phương nhằm tranh thủ kiếm chác thanh danh cho mình. Đại nhân phải tra xét cho kỹ lại mới được . Vừa khéo Thị lang Vương Ngao chính là người Tín Dương, nghe Lưu Cẩn nói như thế lão làm sao có thể nhẫn nhịn, nhất thời lão giận tím mặt, vỗ bàn bộp một cái, đoạn mắng: - Công công chớ ngậm máu phun người, lũ ở vùng Tín Dương sớm đã bẩm báo, chẳng lẽ chuyện thiên tai này còn giả được sao? Đại sự trong triều, ngươi biết cái gì? Đừng ăn nói bừa bãi! Lưu Cẩn bị lão ta mắng cho đỏ bừng mặt đã hơi nổi cáu, không khỏi vừa thẹn vừa giận cười nhạt nói: - Ta nói cũng chỉ là nói đến mấy thủ đoạn mà đám tham quan vô lại hay sử dụng, phải thì phải, không phải thì thôi. Đại nhân không cấu kết với kẻ gian làm việc xấu hà tất giận dữ như vậy, làm người ngoài nhìn vào còn bảo là đại nhân chột dạ nữa đó . Chiêm sự Dương Phương bên cạnh cũng là tài tử xuất thân từ Tín Dương, nghe vậy lập tức cười khẩy nói: - Nếu làm bậy thì phải đưa ra chứng cứ xác đáng, lẽ nào chỉ dựa vào ba tấc lưỡi bẩn thỉu của ngươi mà có thể vu tội được à? Lưu Cẩn nổi giận: - Hừ! Ta chỉ có lòng tốt nhắc nhở các ngươi đừng bị đám quan lại địa phương lừa bịp. Các ngươi ai nấy cũng đều già gần xuống lỗ rồi, lại lớn hơn ta không biết bao nhiêu tuổi sao đều như một đám con nít lỗ mãng thế, ta đã trêu chọc gì ngươi sao? Nhất thời lão quên mất tôn ti cao thấp, lại tức giận nói: - Nếu sai ta đi tìm chứng cứ vậy triều đình còn cần mấy người các ngươi làm gì? Ta chỉ nói có lẽ là quan chức cấu kết chứ có nói là nhất định đâu, nếu ngươi không chột dạ thì sao lại cuống lên như bị đạp nhầm đuôi thế? Ngươi nghĩ mình là cái thá gì? Ông già Dương Phương cả giận, đứng lên mắng to: - Ta đường đường là quan tam phẩm của triều đình, cái tên hoạn đến cả sách thánh nhân cũng chưa đọc như ngươi là cái thá gì mà cũng dám nói chuyện với chúng ta ở triều phòng chứ hả? Lưu Cẩn bị người ta chửi thẳng vào mặt là ”tên hoạn”, chính là phạm vào chỗ cấm kỵ trong lòng lão nên nhất thời mặt đỏ bừng, rồi lão cũng bất chấp lợi hại tiến lên vung tay, tát thẳng vào mặt ông già họ Dương. Dương Phương rú lên một tiếng, thoắt người xông lên vung tay tát lại Lưu Cẩn, trên mặt Lưu Cẩn lập tức in dấu năm ngón tay. Một thư sinh già, một thái giám già gào rú xông vào đánh nhau túi bụi. Đám hảo hữu Vương Ngao thấy hoạn quan dám ở trong triều phòng ẩu đả với mệnh quan triều đình liền lập tức xông tới đánh hôi, cũng có mấy người không quen với Dương Phương nhưng lại là quan văn nên không khỏi cùng chung mối thù bèn tiến đến giả vờ khuyên bảo, kỳ thật hai tay lại giữ chặt lấy tay Lưu Cẩn. Dương Phương được thể đánh tới làm Lưu Cẩn lại chịu thêm vài quả đấm. Dương Lăng ngồi ở chỗ tối sớm đã bị cuộc tranh cãi của bọn họ làm bừng tỉnh. Y cũng thấy rõ tình hình tranh cãi, tuy rằng Lưu Cẩn trong lịch sử là một đại ác nhân không thể xấu hơn được nữa nhưng hôm nay trong việc này lão vốn cũng không nói gì quá đáng. Tín Dương có thể xảy ra lũ lụt thật, nhưng việc báo cáo láo mất mùa, lấy lòng địa phương để làm vốn mưu cầu thăng quan cho mình cũng không phải là không có. Nếu nói không đúng thì không để ý tới lão ta là được rồi, hà tất phải giận dữ như thế. Vì chút chuyện nhỏ này mà bao nhiêu lão già hiếu chiến lại bu vào đấm đá như vậy, kể ra cũng thật rảnh quá đi. Dương Lăng vừa bực mình vừa buồn cười, xông lên kéo Lưu Cẩn ra khỏi đám người. Các vị đại nhân nhìn thấy một võ quan xông ra cứu người, không khỏi cả giận nói: - Ngươi là ai? Tên hoạn này dụng tâm hiểm ác, ăn nói bừa bãi, phỉ báng đại thần triều đình, ngươi lại dám nhúng tay vào cứu hắn à? Dương Lăng nghe xong hơi giận, y nhíu mày nói: - Các vị đại nhân, việc nhỏ như vậy không cần phải chụp mũ đến thế chứ? Chuyện hôm nay chẳng qua là bởi một câu vô tâm của Lưu công công mà thôi, mọi người lui một bước nhường nhịn nhau là xong, cớ chi hùng hổ dọa người thế? Lưu Cẩn được kéo ra, tóc tai bù xù, lúc này mới nhìn rõ người cứu lão là Dương Lăng, thế là liền như thấy thân nhân, nức nở nói: - Dương đại nhân, đại nhân nhìn xem, đại nhân nhìn xem, làm như vậy là sao? Ta có nói gì sai đâu, bọn họ thật khinh người quá đi. Trong lúc bên này đang ồn ào, một tên tiểu thái giám tới cửa kêu to: - Vị nào là Dương Lăng Dương đại nhân, Hoàng Thượng triệu kiến! Nói xong nhìn vào triều phòng, trông thấy tình cảnh này tên tiểu thái giám cũng chết lặng. Bọn người Dương Phương nghe tên Dương Lăng đã lâu nhưng lại không nhận ra y. Lúc này vừa nghe người này chính là Dương Lăng cho nên không khỏi giật mình lui lại. Dương Lăng nhân cơ hội này kéo Lưu Cẩn với vết bàn tay đỏ lựng in trên khuôn mặt ra khỏi triều phòng, an ủi lão một chút, Lưu Cẩn mới khóc thút thít cáo từ đi tìm Chu Hậu Chiếu để tố cáo. Dương Lăng đi theo tên tiểu thái giám vào cổng Càn Thanh tới thẳng hậu cung. Vừa mới đi qua một khúc quanh ở cổng Nguyệt Lượng, một thiếu nữ đang dẫn theo đám thị nữ vội vàng từ phía sau cửa chạy tới. Hai bên không kịp tránh nên thiếu nữ đó lỡ đà lao vào lòng y. Dương Lăng vội vàng đỡ lấy nàng. Thiếu nữ đó úi lên một tiếng, mặt đỏ bừng nhảy ra khỏi lòng Dương Lăng, xoa nhẹ cái mũi đau của mình, khi mắt vừa chạm với ánh mắt của nam nhân trước mắt thì thiếu nữ dung mạo xinh đẹp tuyệt trần đó đột nhiên sửng sốt. Nàng mở to hai mắt nhìn nhìn Dương Lăng, đột nhiên mừng rỡ lao tới, nắm lấy cánh tay y kêu lên đầy hưng phấn: - Hóa ra là Dương tướng quân! Nhanh, nhanh, nhanh theo ta đi cứu người. Hoàng huynh đang đuổi giết quốc cữu gia đó!

Chương 86: Hoằng Trị băng hàDịch: workman Biên dịch: Ba_Van Biên tập: Ba_Van Hiệu đính: Nguồn: www.tangthuvien.com Dương Lăng khiếp đảm bừng tỉnh, hấp tấp quỳ phục xuống đất, rốt cục y đã hiểu chuyện gì vừa xảy ra: “Hoàng đế... băng hà rồi!” ------------------------ Chương tám mươi sáu: Hoằng Trị băng hà ------------------------ Chương tám mươi sáu Hoằng Trị băng hà. Dương Lăng nhận ra thiếu nữ đó chính là công chúa Vĩnh Phúc. Vừa nghe Thái tử đang đuổi giết quốc cữu, y cũng không kịp thi lễ với công chúa, vội vàng hỏi ngay: - Thái tử ở đâu? Xin điện hạ mau dẫn thần đi. Công chúa Vĩnh Phúc dẫn Dương Lăng vội vàng đi vòng qua cái giá bằng gỗ tử đằng ra ngoài. Tên tiểu thái giám truyền chỉ thấy Dương Lăng lại bỏ chạy đi, không khỏi choáng váng: “Sao vị đại nhân này khoái kháng chỉ vậy ta?” Nhưng công chúa điện hạ dẫn y ly khai rồi, nhất thời hắn cũng không biết phải làm gì, đành cũng chạy theo. Xuyên qua một hành lang, Dương Lăng thấy trên mười thái giám lẫn cung nữ đang đứng với vẻ mặt kinh hoàng. Khuôn mặt tuấn tú của Chu Hậu Chiếu đỏ bừng bừng, tay hắn cầm một thanh kiếm sắc bén đứng trước một hòn giả sơn. Bên kia hòn giả sơn là một gã đàn ông trên ba mươi tuổi đang theo dõi hành vi của Chu Hậu Chiếu qua khe hở của cái núi đá. Chu Hậu Chiếu vừa đuổi theo là gã liền chạy vòng quanh ngọn ‘núi’ đó, cực kỳ buồn cười. Công chúa Vĩnh Phúc vội la lên: - Dương tướng quân mau ngăn Hoàng huynh lại. Thọ Ninh Hầu vừa tới thăm phụ hoàng, Hoàng huynh liền đoạt lấy bảo kiếm của thị vệ đuổi một mạch tới tận đây. Nghe xong, Dương Lăng sốt ruột bước lên phía trước gọi: - Thái tử điện hạ! Không nên kích động. Chu Hậu Chiếu quay người, quát: - Ai dám lắm chuyện, ta giết luôn... Hắn liếc mắt nhìn thấy Dương Lăng, bất giác giật mình, thần sắc lập tức dịu lại, vui vẻ nói: - Dương Thị Độc! Ngươi tới đúng lúc lắm, mau giúp ta bắt tên loạn thần tặc tử này! Thọ Ninh Hầu đứng ở phía đối diện, nghe nói y là Dương Thị Độc cũng không khỏi mừng rỡ, đây là người mà Hoàng hậu nương nương từng cứu, dù sao y cũng nên trả ân tình cho ta chứ. Gã vội vàng hô to: - Vi thần oan uổng! Dương Thị Độc cứu ta, ta là Thọ Ninh Hầu Trương Hạc Linh. Chu Hậu Chiếu phì một tiếng, mắng: - Tên tặc tử, dù ai cũng không thể nào cứu được ngươi. Ngoan ngoãn để ta trảm một kiếm là xong, nếu không bản thái tử sẽ giết cả nhà ngươi! Dương Lăng khẽ kéo áo Chu Hậu Chiếu, nghi hoặc hỏi: - Thái tử! Đường đường một Hầu gia mà bị người cầm kiếm đuổi theo, việc này mà lan truyền ra ngoài, e rằng đám triều thần sẽ không cam tâm đâu. Rốt cuộc Thọ Ninh Hầu đã phạm phải chuyện gì? Chu Hậu Chiếu oán hận đáp: - Dương Thị Độc! Mới vừa rồi ta lo cho an nguy của phụ hoàng, chạy tới thăm ngài. Tên súc sinh này vẫn không thèm để tâm tới phụ hoàng, đúng là gian tặc gan lớn! Phụ hoàng ta đang mê man trên giường, hắn dám đứng ở góc điện cười đùa láo lếu với Trương Duyên Linh. Như vậy cũng thôi đi, nhưng trong lúc nói cười hắn lại dám cầm vương miện tự đội lên đầu. Hắn dám làm việc đại nghịch bất đạo như vậy, ngươi nói xem ta có nên giết không? Dương Lăng cũng giật bắn cả người. Tuy nói chỉ là đội cái mũ lên đầu, nhưng trong thời đại hoàng quyền là tối cao, vương miện chính là một biểu tượng. Chỉ bằng việc này, nếu gán cho Thọ Ninh Hầu cái tội mưu nghịch thì cũng không quá đáng. Dương Lăng liếc nhìn Thọ Ninh Hầu, thấy gã sắc mặt tái nhợt, hai tay vẫn còn run rẩy, liền nói với Thái tử: - Điện hạ! Nếu luận tội thì hắn quả là đáng chết, nhưng cũng nên xử phạt theo pháp luật của triều đình mới đúng. Nếu người ở ngay trong cung mà đuổi giết một vị Hầu gia như vậy, người ngoài không biết tất nhiên sẽ đồn đại linh tinh. Huống hồ bệ hạ vẫn bênh vực Hầu gia, nếu vì vậy mà ảnh hưởng tới bệnh tình bệ hạ, thì điện hạ phải tính sao? Hiện tại nên lấy bệnh của Hoàng Thượng làm trọng chứ! Nghe y đề cập tới hoàng đế, Chu Hậu Chiếu đột nhiên tỉnh ngộ, nói: - Đúng rồi! Hắn thấy ta thì lập tức bỏ chạy rồi, không biết chừng việc ta đuổi theo hắn đã làm phụ hoàng kinh động. Mau mau, về thăm phụ hoàng, để phụ hoàng khỏi phải lo lắng! Chu Hậu Chiếu nói gió là gió, nói mưa là mưa. Hắn bỏ qua Thọ Ninh Hầu đang sợ tới mức gần chết, một tay cầm bảo kiếm, một tay kéo Dương Lăng, vội vàng chạy về Càn Thanh cung. Thọ Ninh Hầu chẳng biết Thái tử và Dương Lăng nhỏ to cái gì, thấy Dương Lăng chỉ nói vài lời linh tinh mà đã khuyên Thái tử bỏ đi, xem ra mình vốn là cậu của Thái tử mà lại không được hắn coi trọng bằng ngoại nhân. Gã ngẫm nghĩ một lát rồi phất tay áo, lao về phía Khôn Ninh cung. ******** Lúc này Thái tử làm giám quốc, không cần phải thông báo mới được yết kiến. Dương Lăng bị hắn kéo một mạch, vội vội vàng vàng xông bừa vào Đông Noãn Các. Hoàng đế Hoằng Trị đang dựa vào gối nhìn ra cửa. Dương Lăng không dám nhìn nhiều, vội vàng quỳ xuống đất, cao giọng bẩm: - Thần Dương Lăng khấu kiến Hoàng Thượng! Hoằng Trị vừa tỉnh lại, đúng lúc thấy Thọ Ninh Hầu và Thái tử vội vội vàng vàng ly khai. Lúc này thấy Dương Lăng yết kiến, ông cũng không vội hỏi chuyện Thái tử, mà nhìn nhìn đánh giá Dương Lăng vài lần, rồi mỉm cười nói: - Bình thân! Dương khanh chỉ tham gia quân đội một thời gian ngắn thôi nhưng lại đã có khí phách oai hùng rồi, trẫm rất vui. Dương Lăng khom người đáp: - Tạ ơn bệ hạ khích lệ, thần phụng chỉ luyện binh, không dám lười biếng, chỉ là mãi đến hôm nay vẫn chưa có công trạng gì, phụ lòng thánh thượng kỳ vọng, thần thật sự xấu hổ. Hoằng Trị cười khà khà nói: - Dương khanh bất tất quá khiêm tốn, phương pháp luyện binh của ngươi rất hiệu quả. Chỉ trong một thời gian ngắn ngủn mà đã có hiệu quả như vậy, trẫm rất lấy làm hài lòng. Ngươi đã đến đây thì tốt rồi, Miêu Quỳ, đưa Dương khanh tiếp nhận Cấm cung đi. Dương Lăng hơi bất ngờ. Y vốn tưởng rằng Hoằng Trị nhất định còn phải kiểm tra y một hồi, do đó trên đường đã chuẩn bị tâm lý, không ngờ hoàng đế Hoằng Trị chẳng hỏi han gì đã cho y đi luôn. Dương Lăng thấy Miêu Quỳ tới cửa rồi, liền thi lễ cáo lui, theo Miêu Quỳ đi tới Cấm cung. Chu Hậu Chiếu đứng bên cạnh giường Hoằng Trị kỳ lạ hỏi: - Phụ hoàng! Người nói phải đối xử với bề tôi thật tốt, còn nói Dương Thị Độc có thể làm cánh tay đắc lực của con, vì sao chỉ nói vài lời linh tinh rồi đuổi y ra ngoài? Hoằng Trị vỗ vỗ cái sạp, ra ý bảo con ngồi xuống, rồi nói với hắn: - Hoàng nhi! Thưởng phạt phải chừng mực thôi, thưởng quá thì họ không biết ân, trừng trị nhiều quá thì chẳng biết sợ. Dương Lăng thăng chức nhanh chóng, đã khiến trăm quan phải tròn mắt; nếu ân sủng y nhiều quá thì cũng không phải là chuyện tốt đâu. Ông cầm tay con trai, cười khà khà nói: - Y là cựu thần Đông cung, bây giờ là thị vệ hoàng cung, sau khi hoàng nhi đăng cơ, lại có công theo phù tá, chẳng lẽ trẫm còn phải phong y làm bầy tôi được uỷ thác giúp tân vương sao? Ha ha, y là bầy tôi của con, phần ân huệ này cứ do con ban cho y đi. Chu Hậu Chiếu nghe phụ hoàng nói thế, không khỏi lo sợ nói: - Phụ hoàng! Làm gì phải nói những lời ấy, thân thể của cha... Hoằng Trị thấy hắn đau lòng, vội ngắt lời: - Hoàng nhi! Vừa rồi trẫm tỉnh lại, thấy con vội vội vàng vàng đuổi theo quốc cữu, có chuyện gì thế? Chu Hậu Chiếu vừa nghe thế, mặt giận tới đỏ bừng, oán hận đem việc vừa xảy ra thuật lại. Hoằng Trị nghe xong không khỏi phì cười, ông khẽ lắc đầu, nói: - Một việc nhỏ, hoàng nhi hà tất phải để ý! Thọ Ninh Hầu nói năng tuỳ tiện như thế, có thể là người làm được đại sự sao? Họa lớn, chà, không phải ở trong triều đâu. ******** Nghe Trương Duyên Linh chạy tới báo tin, Trương hoàng hậu vội dẫn đám cung nữ lật đật chạy đi cứu người, nhưng lại thấy Trương Hạc Linh mất hết hồn vía chạy về cung, lúc này mới yên lòng. Bà về ngồi lại trên chiếc đôn gấm, bảo các cung nữ: - Tất cả lui ra! Trương hoàng hậu đã trên ba mươi tuổi, nhưng vốn là một mỹ nhân mặt đẹp như hoa, hơn nữa lại chăm sóc nhan sắc rất chu đáo nên tuy đã sinh hạ vài người con nhưng nhìn vẫn như hai mươi, thần thái đoan trang, dung mạo kiều mỵ. Nếu bà đứng cạnh công chúa Vĩnh Phúc thì giống như một cặp chị em. Hoàng hậu có tình vợ chồng với Hoằng Trị gần hai mươi năm, phu thê tình thâm. Thấy Hoàng Thượng không còn sống bao lâu nữa, mấy ngày nay trong lòng bà cũng bi thương vạn phần. Bây giờ hai người anh không biết điều còn gây thêm chuyện, trong lòng bà cũng hơi giận. Kỳ thật việc này nếu xảy ra ở nhà một người bình thường thì cũng không phải là việc lớn, chẳng phải chỉ là việc anh trai đội mũ của em vợ sao? Nhưng đối phương là Hoàng Thượng, việc này phải xem ngươi giải thích như thế nào đây. Hai người bọn họ vốn được muội muội chỉ điểm, nên tới thăm bệnh tình hoàng đế Hoằng Trị nhằm biểu hiện mình là bầy tôi trung thành. Nhưng tinh thần Hoằng Trị rất tệ, cùng bọn họ trò chuyện một hồi liền ngủ gật. Hai người không dám gọi hoàng đế tỉnh lại, nhưng nếu chẳng nói một tiếng mà đã lui ra thì không hay, nên đành đứng ở góc cung chờ đợi, nói chuyện phiếm với nhau . Trương Duyên Linh tới nơi thấy bệnh tình Hoằng Trị ngày càng nghiêm trọng, lo lắng sau khi ông ta băng hà, quyền thế của Trương gia sẽ bị ảnh hưởng. Trương Hạc Linh lại không thèm để ý. Hắn cho rằng cho dù hoàng đế băng hà, tân hoàng đế vẫn là cháu trai của mình. Cháu trai là hoàng đế, muội muội là Hoàng thái hậu, vậy thì có gì phải lo lắng? Hắn cười nói với Trương Duyên Linh: - Nhị đệ bất tất lo lắng. Nếu như Hoàng Thượng băng hà, quyền lực của anh em ta chỉ sợ sẽ lớn hơn nữa cơ. Vua nào triều thần nấy. Tân đế đăng cơ đều phải phong tước rộng rãi cho quần thần, đến lúc đó để muội muội lấy danh nghĩa Thái hậu ban cho chúng ta một chức. Không phải Thần Cơ doanh vẫn còn chưa có quan chưởng quản chính thức sao? Chúng ta sẽ đi chưởng quản Thần Cơ doanh, ta làm doanh quan, ngươi làm phó tướng, vậy là có vài vạn hùng binh trong tay ấy chứ! Hơn nữa Thần Cơ doanh luôn luôn do vương công nắm giữ, ta từ Thọ Ninh bá thăng lên thành Thọ Ninh hầu đã vài năm rồi, chẳng phải lúc đó sẽ lên chức Thọ Ninh công sao? Trương Hạc Linh nói với vẻ hí hửng. Nhìn thấy y phục của Hoằng Trị đặt trên án, hắn thuận tay lấy vương miện đội lên đầu, cười hì hì nói: - Đến lúc đó, trước mắt thiên hạ, ngoại trừ hoàng đế thì còn lại là ngươi và ta. Lời nói của anh em chúng ta khác gì với lời của hoàng đế chứ? Thật khéo làm sao, đúng lúc đó thái tử Chu Hậu Chiếu vừa tới Đông Noãn Các. Thái tử thấy hai vị quốc cữu đứng ở góc điện cười nói, trong lòng đã cảm thấy không vui, lại thấy hắn đội đế miện của cha mình, lập tức nổi giận. Thái tử thấy hắn mặt mày xám xịt chạy khỏi đại điện liền lập tức rút ngay bảo kiếm của tên thị vệ đuổi theo. Trương hoàng hậu thấy ca ca không việc gì, không khỏi oán hận bảo: - Hai vị ca ca thật không biết cao thấp. Các người nói năng tuỳ tiện không đâu vào đâu cả, tại sao dám đội vương miện chứ? Nếu bệ hạ phát hiện nổi giận, đến cả muội cũng không thể gỡ tội cho hai người. Thọ Ninh Hầu mặt méo xẹo đáp: - Là ca ca không đúng! Nhưng Thái tử là con ruột của muội, thế mà dám xuống tay với cậu ruột của hắn, đến lúc hắn kế tục sự nghiệp cha mình, huynh đệ chúng ta còn có đường sống không? Trương hoàng hậu hậm hực nói: - Hoàng gia không có tình cảm. Loại thiên tử nhân hậu như Hoàng Thượng quả là từ cổ chí kim cũng không được mấy người đâu. Các ca... chà, bây giờ Hoàng Thượng sắp đi rồi, các ca ca sau này phải cẩn thận một chút, đừng để bị đám đại học sĩ nắm đuôi, ai sẽ là chỗ dựa cho các người đây? Bà nói rồi lại nhớ tới bệnh tình của Hoàng Thượng, không khỏi đau lòng rớm lệ. Thọ Ninh Hầu vội la lên: - Hoàng hậu! Đó chẳng khác nào bảo ta phải nhón gót mà đi sao, có vương hầu nào mà không oai phong cơ chứ? Mấy ca ca phải làm người cụp đuôi, muội làm hoàng hậu còn gì là oai phong nữa? Muội tử, muội không biết Thái tử lúc đó ác độc như thế nào đâu, chẳng còn chút thân tình nào với ca ca cả, nếu không nhờ có Dương Thị Độc cứu, ca ca bây giờ đã đầu một nơi mình một nẻo rồi. Gã nói rồi không kìm được khóc lóc kể lể: - Hoàng hậu! Lúc này Hoàng Thượng bệnh tình nguy kịch, chỗ dựa vững chắc của Trương gia cũng sắp đổ. Thái tử từ bé đã xa cách chúng ta, đến cả với em, nó cũng không tỏ vẻ là một đứa con hiếu thảo. Đợi khi Thái tử làm hoàng đế, có thể cả nhà họ Trương chúng ta lâm vào cảnh dao treo trên đầu, chẳng biết khi nào thì rơi xuống cả. Trương hoàng hậu nghe hắn nói thế mà rối loạn tâm thần. Ngẫm lại đứa con của mình quả thật từ bé cũng không thân cận gì với mình, đặc biệt là sau khi có lời đồn nghi ngờ mình không phải là mẹ ruột của nó, cảm tình càng ngày càng ít đi. Trong lòng bà vô cùng đau khổ, cũng không khỏi châu lệ chảy ròng ròng, thương tâm nói: - Phúc lộc của Trương gia chúng ta đã hết rồi à? Muội chỉ có một con trai, thế mà nó lại chẳng hề hiếu thảo gì với muội cả. Nếu hắn thật sự muốn chỉnh lý Trương gia, bản cung có thể làm gì được chứ? Con ngươi Trương Duyên Linh đảo lia lịa, hắn vỗ đầu nói: - Muội tử! Trương gia chúng ta dựa vào gì mà phát đạt? Là vì quan hệ thông gia: muội được gả cho Hoàng Thượng, Trương gia chúng ta mới có được vinh hoa phú quý bực này. Muốn tiếp tục thân cận với hoàng đế, chúng ta phải lập quan hệ thông gia. Hoàng hậu giật mình, nghi hoặc nói: - Quan hệ thông gia với Thái tử? Thái hậu vẫn còn tại thế, việc chọn lựa hoàng hậu không phải do muội làm chủ đâu. Trương Duyên Linh đáp: - Muội tử hiểu lầm rồi! Quan hệ thông gia mà ca ca nói không phải là quan hệ thông gia với Thái tử, mà là với đại thần rất được Thái tử tin yêu. Hoàng hậu kinh ngạc hỏi: - Với ai cơ? Lưu Kiện? Lý Đông Dương? Hay là... Nhưng cháu của mấy tên đại học sĩ mới thích hợp chứ nhỉ? Trương Duyên Linh bĩu môi, khinh thường nói: - Thái tử không muốn nhìn ta, cũng chẳng thèm quan tâm tới bọn họ, quan hệ thông gia với bọn họ thì ăn thua gì? Mới vừa rồi Thái tử đuổi giết ca ca, ta vốn định khuyên giải, Thái tử lại xoay tay đâm một kiếm, suýt nữa đâm thủng tim ta. Nghe ca ca kể lại, tên Dương Lăng chỉ nói vài lời linh tinh đã có thể khuyên can được Thái tử, không phải là sủng thần của Thái tử sao? Muội muội có ân cứu mạng hắn, lôi kéo hắn cũng rất dễ. Trương hoàng hậu nghe xong sầm mặt xuống, phất tay áo đáp: - Lẽ nào lại như vậy! Dương Lăng đã có vợ, đường đường là công chúa, há có thể làm thiếp người khác? Cho dù là làm vợ như nhau, công chúa cũng không thể làm cái việc chia sẻ chồng chung với người khác, quả thực là chuyện cười của hoàng gia! Trương Duyên Linh vội vàng chỉ vào mũi mình nói: - Là ta, là ta! Ai nói là phải gả công chúa chứ? Muội là người trong gia đình nên chúng ta không khách khí, nói thật nhé, làm Phò mã Đại Minh rất là khó chịu, ai mà thèm sắm vai đó? Y bây giờ đang rất vẻ vang, muội muội đem công chúa gả cho y, chưa chắc y đã nhận. Ta vừa nói là con gái của ta cơ. Trương hoàng hậu ngạc nhiên nói: - Chuyện gì? Con gái của ca ca? Vậy ca gả con cho ai thì tùy, cần gì phải hỏi muội? Nhưng... con gái của ca tốt xấu gì cũng là thiên kim hầu phủ, chẳng lẽ lại gả cho y, không sợ người ta cười à? Trương Duyên Linh cười nói: - Con gái ta nói là con do thiếp sinh ra, đâu có chuyện gì đâu. Tuy nhiên vẫn phải giữ thể diện của Hầu gia ta mà, nếu nghe chừng không ổn, vậy bảo là Hoàng hậu nương nương ban hôn đi, thế thì trở thành một câu chuyện mọi người ca tụng. Đã có ý chỉ, không ai còn nói ra nói vào, y cũng phải đối xử như vợ (*). Việc này sẽ thể hiện được sự tín nhiệm của Hoàng hậu với Dương Lăng, mà vẫn giữ được thể diện của chúng ta, chẳng phải hai bên đều vui sao? (*: bình thê: người vợ cưới sau, nhưng được đối đãi như vợ cả) Trương Hạc Linh nghi ngờ nhìn người em vốn chưa chín chắn. Nhìn qua thì biện pháp này quả là một trò hay. Lôi kéo sủng thần bên người của tân đế đương nhiên là biện pháp tự bảo vệ rất tốt. Hơn nữa vừa rồi y chỉ nói nhỏ vài câu, Thái tử đã theo lời đi ngay. Ngoại trừ hoàng đế Hoằng Trị ra, chẳng có mấy ai có thể chi phối Thái tử như vậy, nhưng... Chỉ nhét cho người ta một đứa con gái là có thể khiến y bán mạng cho họ Trương được sao? Mánh lới kết giao kiểu này đã được bày ra cả ngàn năm nay, thật ra có mấy người khẳng định là thành công chứ? Trương hoàng hậu có vẻ không vui nói: - Thôi đi! Con trai của muội sẽ làm hoàng đế lại khiến hai ca ca kinh hãi đến nổi phải đem con gái mua vui cho sủng thần của hắn, bản cung quả thật nản lòng. Ca ca tự nguyện làm như vậy, muội cũng chẳng quản được ca ca, chỉ là việc mất mặt như vậy thì muội không thể ra mặt cho ca, ca ca muốn nói thì tự mình đi đi. Nếu y đồng ý thì bản cung ra mặt ban hôn cũng được, chỉ là... tên Dương Lăng đó rất yêu vợ, dám kháng cả thánh chỉ vì vợ, nếu con gái của ca ca không phải quốc sắc thiên hương thì việc này... Trương Duyên Linh cười nói: - Hoàng hậu yên tâm, tuy Dương Lăng nặng tình với vợ, nhưng y vẫn còn trẻ tuổi háo sắc. Ca nghe nói y vừa nạp vài cô thiếp xinh đẹp nữa. Tuy con gái ca không phải quốc sắc thiên hương, nhưng bộ dáng cũng rất xinh đẹp. Muội đồng ý làm như vậy là tốt rồi, ca ca sẽ tìm cơ hội nói với y, nhất định mã đáo thành công. Trương Hạc Linh âm thầm lắc đầu, thất vọng thầm nghĩ: “Nhìn tình hình này, thì tất cả đều sẽ thành công cốc thôi. Đến cả hoàng hậu mà cũng chẳng nắm chắc đối với Thái tử, vậy ai có thể làm cho hắn phải kiêng kỵ đây? Muốn giữ gìn được cơ nghiệp Trương gia, không thể dựa vào người em không có đầu óc này được, còn có cây đại thụ nào khác có thể dựa vào đây? Có lẽ... “ ******** Quản một đội quân rất lạ. Ai cũng biết cường quân nhất định phải có quân kỷ nghiêm minh, còn quân kinh thành là một thứ quái thai. Họ được trang bị tốt hơn biên quân nhưng chiến lực yếu hơn biên quân, song quân kỷ nghiêm minh lại trên hẳn biên quân. Dương Lăng bố phòng binh mã ba ty của Thần Cơ doanh chung quanh các nơi hiểm yếu quanh cung, rồi mỗi ngày đều tự mình tuần phòng qua các các con đường trong cung điện, không hề dám lười biếng chút nào. Y sợ đám quan binh vừa vào Tử Cấm thành sẽ gây nên mấy vụ trộm lặt vặt, dụ dỗ cung nữ. May mà việc này cũng chỉ là lo xa. Đám Liên Đắc Lộc, Bành Kế Tổ bây giờ y nói gì nghe nấy. Đô ty của Đệ tam ty là người được Dương Lăng đề bạt từ phó đô ti của Đệ tam ty ngày trước. Người này tuy không giỏi lắm, nhưng lại là người rất trầm ổn kiên định, thừa hành quân lệnh không hề cẩu thả, nên tuân thủ quân lệnh của Dương Lăng, ước thúc thuộc hạ cực nghiêm. Hơn nữa sĩ quan quân đội cấp dưới trong quân cũng cực kỳ ủng hộ Dương Lăng, do đó quân lệnh của Dương Lăng hiểu dụ ba quân khi suất binh tiến cung đều được mọi quân sĩ quán triệt, không ai dám vi phạm. Liên tiếp tuần tra hai ngày thấy bọn quan binh dưới sự ước thúc của những tướng tá đó đều rất tận tâm, theo đúng qui tắc tuần tra, bố phòng, lúc này Dương Lăng mới cảm thấy thoải mái hơn nhiều. Ngoại trừ vấn đề quân kỷ, y cũng không phải lo lắng gì nhiều. Hoàng đế Hoằng Trị chỉ có một con trai, đám hoàng tử hoàng tôn của họ Chu sớm đã bị đuổi ra khỏi kinh rồi. Việc thái tử đăng cơ cũng không có gì phải lo lắng, hoàn toàn không xảy ra tình huống các Vương đoạt ngôi. Hoằng Trị hoán đổi binh lính cũng chỉ là thủ đoạn dự phòng bình thường khi thay đổi giữa hai đời vua thôi. Quân kỷ không vấn đề gì, nhiệm vụ đóng giữ hoàng cung cũng đã hoàn thành hơn phân nửa rồi. Chỉ là bệnh của Hoằng Trị một ngày chưa khỏi hoặc Thái tử một ngày chưa đăng cơ, thì trách nhiệm đóng giữ vẫn chưa được giải trừ. Các cửa cung thành đều phong bế, việc đại thần dâng và nhận bản sớ đều là do những người đặc trách đứng ở cửa bên xử lý, lúc này, y là chủ soái tam quân nên tuyệt đối không ly khai được. Dương Lăng tới cửa ngọ môn, đám quan binh đóng ở đây thấy tướng quân tới, đều tới tấp thi lễ với y. Dương Lăng gật đầu ra hiệu chào họ, đến gần cửa cung, nghe thấy bên ngoài có tiếng lao xao, trong lòng y hơi cảm khái: rõ ràng hoàng đế Hoằng Trị rất được bầy tôi kính yêu. Từ khi ông bệnh nặng đóng cửa cung tới nay, mỗi ngày đều có hàng loạt quan chức tụ ở ngoài ngọ môn chờ tin tức Hoàng Thượng, mỗi khi có một thần tử lấy bản sớ ra ngoài, đều có một đám quan viên ùa lên hỏi đông hỏi tây, hơn nủa canh giờ mới đi được. Y lắc lắc đầu, quay người đi về phía Kim Thủy kiều. Vừa mới đi ra cửa cung thành, y thấy Kiến Xương Hầu Trương Duyên Linh được một tiểu thái giám dẫn đường tới đón, cười rộng miệng: - Dương đại nhân? Bản hầu là Kiến Xương Hầu Trương Duyên Linh, muốn tìm đại nhân có một việc muốn nói. Thấy tướng mạo vị Hầu gia này hơi giống Thọ Ninh Hầu, Dương Lăng cũng chắp tay chào, kinh ngạc hỏi: - Hầu gia tìm hạ quan có chuyện gì thế? Kiến Xương Hầu cười khà khà: - Một việc vui! Tới đây, mời Dương đại nhân sang đây vài bước nói chuyện. Kiến Xương lôi Dương Lăng sang bên cạnh vài bước, rồi mỉm cười nói: - Đại nhân tuổi trẻ đầy hứa hẹn, thanh danh chấn động cả kinh sư, tiểu nữ cũng rất hâm mộ nhân phẩm học thức của đại nhân. Vì vậy bản hầu xin được trèo cao, muốn mai mối cho cuộc nhân duyên này, hai nhà chúng ta kết làm tần tấn, vậy không phải là đại hỷ sự sao? Dương Lăng nghe thế ngạc nhiên, bật cười ha ha: - Hầu gia lỗ mãng rồi. Dương Lăng sớm đã có vợ, sao có phúc khí để cưới thiên kim nhà Hầu gia chứ? Kiến Xương hầu ha ha cười đáp: - Đương nhiên ta biết việc này chứ! Dương đại nhân đưa vợ tìm thầy thuốc đã rất nổi tiếng mà. Nhưng cũng chính là vì như thế nên tiểu nữ mới hâm mộ đại nhân. Đại trượng phu ba vợ bốn nàng hầu rất bình thường, cả hai người đều làm vợ cả là chuyện tốt xưa nay, có gì sai đâu? Dương Lăng mỉm cười lắc đầu nói: - Cảm ơn ý tốt Hầu gia, Dương Lăng cả đời này chỉ có một vợ. Ý tốt của Hầu gia Dương Lăng chỉ biết tâm lĩnh thôi. Kiến Xương hầu có vẻ không vui nói: - Dương đại nhân! Hoàng hậu nương nương cũng đã gật đầu đồng ý về việc này. Nương nương rất hâm mộ ngài. Chúng ta hai nhà kết thông gia, sau này có Hoàng hậu nương nương đỡ đầu, tiền đồ của ngài không cần nói cũng biết. Nếu không theo, ta thì không sao, chỉ sợ Hoàng hậu nương nương sẽ không vui đó. Dương Lăng khẽ nhăn mày, hỏi: - Hả? Đây có thể xem là ý chỉ của Hoàng hậu nương nương sao? Trương Duyên Linh nghe ngữ khí của y, trong lòng không khỏi giận dữ: “Tiểu tử này thật không biết điều. Ngươi khoe khoang dám kháng thánh chỉ nên không để ý chỉ của nương nương vào mắt nữa à?” Trương Duyên Linh đỏ mặt đang muốn chống chế, chợt nghe tiếng chuông trống thong thả cất lên, âm thanh vang vọng khắp hoàng thành. Tiếng chuông trống đầu tiên vừa vang lên, lập tức hắn đã phát giác có điều không ổn. Lúc này không phải lúc thượng triều, tại sao lại có tiếng chuông trống, hơn nữa tiếng chuông trống không đánh lần lượt mà là đồng thời cùng đánh? Trong lòng hắn dâng lên cảm giác có điềm xấu, không khỏi ngẩng đầu nhìn về Càn Thanh cung, chỉ nghe tiếng chuông trống liên tục không ngừng, đánh chín lần, thanh âm truyền khắp trong ngoài cấm cung. Tất cả đám quan binh, cung nữ, thái giám đang đi lại đều lặng im, quay người về phía hậu cung. Dừng lại một lát, cả hoàng cung vắng lặng không một tiếng động, đến cả những triều thần đang ầm ĩ ngoài cửa cung cũng lập tức nín im phăng phắc. Tiếng chuông trống ngừng lại, chỉ dừng trong khoảnh khắc, rồi tiếng chuông trống lại vang lên. Đầu tiên là một người, kế tiếp là vài người, sau đó tất cả mọi người đều quay về phía Càn Thanh cung, cúi người dập đầu. Kiến Xương hầu hơi tròn miệng, nhất thời nói không ra tiếng, rốt cuộc hai gối mềm nhũn, hoảng sợ quỵ xuống. Dương Lăng đang không biết chuyện gì xảy ra, chợt nghe từ sâu trong hậu cung sau lưng có âm thanh như tiếng mưa rào, rồi cũng không biết có bao nhiêu người như đang phát điên đập vào cánh cửa cung dày nặng, tiếng gào khóc từ ngoài xuyên qua ngọ môn vọng vào. Dương Lăng khiếp đảm bừng tỉnh, hấp tấp quỳ phục xuống đất, rốt cục y đã hiểu chuyện gì vừa xảy ra: “Hoàng đế... băng hà rồi!”

Chương 87: Chính Đức Ban ChiếuDịch: workman Biên dịch: TheJoker Biên tập: X1999_vn Hiệu đính: Nguồn: www.tangthuvien.com Chính Đức Hoàng đế hơi khựng lại, thấy các quan vẫn không thuận theo, cuối cùng hắn nổi giận đùng đùng, đứng bật dậy nhảy ra khỏi ghế nói: - Chức Hoàng đế này là ta làm hay các ngươi làm, việc này không được, việc kia cũng không được, vậy làm Hoàng đế cũng như không. Chu Hậu Chiếu nói rồi tháo đai ngọc xuống, muốn cởi long bào, làm hai Đại thái giám Vương Nhạc và Trương Thọ vội vàng chạy lên ôm lấy hắn. Văn võ bá quan đang khóc lóc ầm ĩ, Chính Đức vừa làm như vậy, khiến cả đám đều ngẩn người. ------------------------ Chương tám mươi bảy - Chính Đức Ban Chiếu ------------------------ Dương Lăng chạy tới Đông Noãn các, đám cận thần bên cạnh Hoàng đế đã thay quần áo màu trắng. Nhìn thấy Dương Lăng tới, Trương Vĩnh vội vàng ra đón. Trận đòn của Hoằng Trị Hoàng đế trong lần đình trượng đó, mấy người này đều bị đánh thật, phải nằm cả nửa tháng mới dám xuống giường đi lại. Do đó, bọn họ mấy hôm rồi không gặp Dương Lăng. Hôm nay Hoằng Trị đế uống xong thuốc do thái y dâng lên thì đột nhiên chảy máu mũi, dùng mọi biện pháp cũng không cầm được. Máu chảy ướt đẫm trên mười chiếc khăn, không lâu sau thì đột ngột qua đời. Chu Hậu Chiếu nằm trên thi thể nức nở, ai khuyên cũng không nghe. Lưu Cẩn, Trương Vĩnh và mấy tên nội thị đang rất sốt ruột. Cuối cùng, Hoàng hậu cũng phải lên tiếng, nhưng Thái tử vẫn không nghe, khăng khăng không cho phép bất cứ kẻ nào chạm tới di thể của Hoàng đế. Đám thái giám ở ngoài cung đợi lau chùi thay áo cho thi thể Hoàng thượng, nhưng do không có ai dám nghịch ý Thái tử, nên bọn họ đều đang đứng chờ. Lúc này thấy Dương Lăng tới, Trương Vĩnh như gặp được cứu tinh, vội vàng cầm theo mớ đồ tang ra đón. Dương Lăng vừa mặc, vừa nghe Trương Vĩnh lo lắng nói: - Dương đại nhân, điện hạ thương tâm khóc mãi, lại không cho đám nội thị được động tới thân thể của Hoàng thượng. Ta đợi mãi cũng sốt ruột, lại nghĩ không ra lời nào có thể an ủi được Thái tử, ngươi mau đi xem một chút đi. Dương Lăng đeo xong băng tang, cầm bảo kiếm đưa cho thị vệ đứng ở cửa cung, vội vàng đi vào Đông Noãn các. Chu Hậu Chiếu ngồi quỳ trước giường, vẫn đang lặng lẽ khóc. Trương Hoàng hậu, hai Công chúa Vĩnh Phúc, Vĩnh Thuần đều mặc đồ trắng, như ba đóa hoa lê dưới mưa, rơi lệ lã chã đứng ở phía sau. Dương Lăng nhìn thấy Hoàng hậu và hai Công chúa, vội vàng khom người xuống. Trương Hoàng hậu phất tay, sau đó đưa mắt nhìn hắn, rồi quay đầu nhìn Thái tử một cái, khe khẽ thở dài, lôi hai Công chúa rời khỏi tẩm điện. Dương Lăng thấy Hoàng hậu và Công chúa đã đi, liền lặng lẽ đi đến bên người Chu Hậu Chiếu quỳ xuống. Chu Hậu Chiếu vẫn ngây ngốc kéo bàn tay lạnh lẽo của Hoằng Trị, chỉ im lặng khóc, không hề nhìn người bên cạnh. Dương Lăng thấp giọng an ủi vài câu, Chu Hậu Chiếu vẫn chẳng ừ hử gì. Dương Lăng thấy hắn thần sắc ngây ngốc, coi như không nhìn thấy người khác, nghĩ thầm mời tướng không bằng khích tướng. Tiểu Thái tử tuổi còn nhỏ, bảo rằng phải nén bi thương thì cũng không ăn thua gì, không bằng để hắn phấn chấn tinh thần lên một chút. Dương Lăng ngẫm nghĩ một lát rồi nói: - Điện hạ, thần nhớ có giảng cho ngươi câu chuyện kể về một vị Hoàng đế rồi mà? Một đời đế vương tựa như mặt trời mọc và mặt trời lặn. Một ngày nào đó, mặt trời sẽ theo một vị đế vương vừa mất đi mà lặn xuống, nhưng lại theo tân thiên tử mà mọc lên. Quân vương mất đi hóa thành tinh tú trên bầu trời, ở trên trời nhìn người thừa kế mà chính mình lựa chọn, xem hắn có phụ lòng với sự phó thác của mình không. Điện hạ, Hoàng thượng là một vị minh quân từ cổ chí kim khó tìm được. Ngươi là nhi tử duy nhất của Hoàng thượng, sắp trở thành đế vương của Đại Minh, trở thành tân thái dương, ngươi sẽ phụ lòng hi vọng của bệ hạ không? Chu Hậu Chiếu nghe xong giật mình, hắn hít mạnh, nắm chặt tay Hoằng Trị, trên khuôn mặt ngây thơ hiện lên vẻ nghiêm túc, tuyên thệ nói: - Ta quyết không phụ lòng kỳ vọng của phụ hoàng. Ta sẽ như phụ hoàng, trở thành một minh quân có đạo, một thiên tử đầy hứa hẹn. Dương Lăng nói: - Thần tin mỗi một triều đại, mỗi một vị Thái tử, khi hắn lên đế vị, lúc ngồi trên ngai vàng, đều sẽ nghĩ như vậy, đều từ trong tâm muốn làm một Hoàng đế tốt. Nhưng có người làm được, có người lại thành vua bình thường. Thậm chí, có người là hôn quân, là vua mất nước. Chu Hậu Chiếu bỗng nhiên quay đầu lại, trừng mắt, phẫn nộ nói: - Ngươi hoài nghi ta à? Ngươi nói ta không làm được sao? Dương Lăng bình tĩnh nói: - Thần tin lời điện hạ nói là phát ra từ bản tâm, tin rằng Thái tử không phải nhất thời tâm huyết dâng trào. Nhưng có hùng tâm tráng chí là chưa đủ, minh quân không phải chỉ nói, mà là phải làm. Dân chúng khắp thiên hạ vừa nghe mất đi một vị vua nhân hậu, đều đang trông mong để thấy tân hoàng sẽ làm gì. Nếu hắn chỉ biết khóc sướt mướt tại đây, hắn có thể trở thành một vị minh quân sao? Chu Hậu Chiếu nghe xong sắc mặt vừa xanh lại vừa đỏ, đỏ rồi lại xanh. Hắn còn nhỏ, sao chịu được Dương Lăng kích thích như vậy, giận dữ một lát, rồi đột nhiên đứng bật dậy quát to: - Người đâu, tẩm liệm thay đồ cho phụ hoàng. Dương Lăng nhếch miệng, một chút tiếu ý khó nhận ra hiện lên. Đám nội quan thái giám thiết lập linh đường, bố trí trong cung. Hỗn Đường ti (*) thì rửa ráy thay đồ cho Hoằng Trị đế, làm khăn tang, may đồ tang, nhuộm vải tang, chuẩn bị đủ thứ đồ tang cho các vương hầu công khanh, các quan chức các bộ. (*: một trong bốn ti của nhà Minh - ND) Tướng sĩ Thần Cơ doanh trấn thủ cửa cung ở ngoài giáp trụ mặc thêm một kiện áo bào trắng, đến cả hỏa súng trong tay cũng phủ một tầng vải trắng. Đợi trong cung bố trí xong tất cả thì đã là đêm khuya, sương mù như lụa, khắp nơi trong cung điện treo cao những đèn lồng giấy trắng, đâu đâu cũng mang không khí buồn rầu thê thảm. Linh đường dựng tại chính điện Càn Thanh cung. Trong điện nến trắng màn trắng, khói bốc lượn lờ, thập phần trang trọng. Giữa điện, bài vị Hoằng Trị đế được dựng thật cao. Khi Hoàng đế bệnh tình nguy kịch, Lễ bộ đã sớm định ra các hạng lễ nghi trình tự thiết thực cho tân hoàng. Quá trình nghe thì đơn giản, cũng chỉ là trước mặc đồ tang, rồi ban di chiếu, sau đó cử hành đại lễ đăng cơ, nhưng trong đó có đủ loại lễ nghi tạp nhạp rườm rà, làm cho người ta nghe mà hoa cả mắt. Dương Lăng mù tịt về loại lễ nghi mai táng trong cung này, nhưng hắn cũng không cần phải lo lắng mình làm sai. Hắn tuy được tân cựu hai Hoàng thượng sủng ái, nhưng kỳ thật đến bây giờ cả những vỏ ngoài của triều đình cũng chưa được động tới, căn bản không có tư cách vào điện hành lễ khóc tang, chỉ đứng ở ngoài khống chế các ban thị vệ, duy trì cung điện là được. Đám quan chức các bộ các đường đều lũ lượt vào Càn Thanh cung, ngay cả rất nhiều công hầu huân khanh rất ít bước vào cửa cung lúc này cũng đều lộ mặt. Dương Lăng đứng dưới điện, thấy Lục bộ Cửu khanh, ba vị Đại học sĩ từ trong cung đi ra, nhìn ra xa. Một lát sau, hai hàng thái giám vây quanh một cỗ kiệu, có người cao giọng hô: - Hoàng Thái tử tới! Trên mười vị cựu thần trong triều vội vàng chạy xuống đài, vén áo quỳ xuống. Lưu Kiện khóc, nói: - Xin mời Hoàng Thái tử vào điện làm lễ! Chu Hậu Chiếu không hiểu nhiều quy củ. Hai thủ lĩnh thái giám Tư Lễ giám là Vương Nhạc và Trương Thọ một trái một phải đỡ hắn, thỉnh thoảng nói nhỏ vài câu bên tai hắn, cách bước đi ra sao, hành lễ như thế nào, nói năng thế nào. Hoàng Thái tử Chu Hậu Chiếu thần sắc hốt hoảng, hoàn toàn không còn vẻ nghịch ngợm xưa nay, chỉ như một bức tượng gỗ, nhất nhất làm theo. Dương Lăng đợi họ đều tiến lên điện, lúc này mới đứng lên. Một lát sau, đột nhiên nghe một tiếng khóc lóc ầm ĩ. Hàn Lâm đi đến bên người y, khẽ thở dài: - Những đại nhân này khóc nhiều quá, nhóm quan chức không được tiến vào cửa cung tụ tập ngoài Ngọ Môn khóc nức nở. Lúc này không thể xuất hiện rắc rối, tướng quân có lẽ nên đi xem xét một chút. Hàn Lâm dựa vào võ nghệ và thành tích tốt mà được thăng chức. Hắn làm người rất quy củ, tuy xưng hô Dương Lăng là Lăng nhi, nhưng việc công thì vẫn dùng thân phận thuộc hạ, tuyệt không vượt qua giới hạn. Dương Lăng khuyên mãi, nhưng Hàn Lâm vẫn khăng khăng không nghe, y cũng mặc kệ nhạc phụ. Hôm nay Hoằng Trị đế băng hà, đủ loại quan lại khóc tang, túc trực bên linh cữu. Dương Lăng sợ xảy ra sơ xuất gì, do đó chỉ điều người được tín nhiệm nhất như phụ tử Hàn gia và Dương Nhất Thanh, Liễu Bưu dẫn theo trăm tên thân quân mang súng cài đao vây chặt Càn Thanh cung, phòng thủ không lọt một giọt nước. Nghe nhạc phụ nhắc nhở, Dương Lăng cũng khẽ gật đầu, thấp giọng nói: - Nơi này nhờ nhạc phụ, Lăng nhi đi quanh thành một chút. Trong Càn Thanh cung, xướng lễ quan của Hồng Lư tự hô xướng nghi thức. Ba đại thần được uỷ thác là Lưu Kiện, Lý Đông Dương, Tạ Thiên dìu Chu Hậu Chiếu ngồi trên ghế, các quan lại tiến lên, rồi quỳ lạy vua mới, những tiếng hô ‘Hoàng thượng vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế’ rung cả mái ngói. Trong những tiếng hô đưa cũ nghênh mới, Dương Lăng đã rời khỏi Càn Thanh cung, hai thân vệ cầm đèn lồng đi dò xét quanh cung, chẳng biết trên đại điện đang tiến hành những lễ nghi bao đời về việc tuyên đọc di chiếu của tiên đế, tân đế hạ ân chỉ. Quy củ lễ nghi không hề thay đổi, không ngờ hôm nay lại lần đầu tiên xảy ra việc khác thường. Hắn còn chưa ra tới Ngọ Môn, trong Càn Thanh cung đã ầm ĩ như một cái chợ rồi. Hoằng Trị biết thân thể mình khó qua nên đã an bài những việc về sau. Lúc này, chưởng ấn thái giám Tư Lễ giám Vương Nhạc đang cố cầm nước mắt đưa lên di chiếu của Hoằng Trị đế, giao cho Đại học sĩ Lưu Kiện truyền dụ di chiếu giáng đế, ban bố hỉ chiếu về tân đế đăng cơ, sau đó tuyên bố tân đế đại xá thiên hạ, khen thưởng thần tử có công. Lưu Kiện cũng biết đương kim Thái tử khá là ngoan cố, ai biết được vị nhân huynh này chính là tổ sư của phái tùy ý sáng tạo chuyển thế, căn bản không dựa vào sách vở gì. Vị cựu thần này gạt nước mắt, trước hết tuyên bố di chiếu của tiên đế, sau đó định ra Chính Đức nguyên niên, rồi dẫn đầu văn võ bá quan ba quì chín lạy bái tân đế. Việc này vốn đã được an bài rất tốt, nhất là ân chỉ của tân đế. Có Thái tử nào trước lúc chưa đăng lên hoàng vị mà dám bắt đầu lựa chọn những nhà lãnh đạo kế nhiệm chứ, thật ra thì cũng do Hoàng đế trước đó đã có chủ ý cho hắn rồi. Từ trước tới nay, khi thái tử đăng cơ đều theo lối như vậy cả. Sau đó, lão mở thánh chỉ, lấy danh nghĩa tân đế đại xá thiên hạ: người nào không đáng tội chết, hết thảy những người đang đợi tra hỏi đều được đặc xá ra tù, chiếu lệnh miễn trừ nợ thuế ba năm cho nông phu, chiếu lệnh bãi bỏ những thứ dầu cá đặc biệt ngư dân phải cống nộp mà ba năm chưa nộp. Sau khi ý chỉ biểu thị lòng nhân từ và sự sáng suốt của tân đế được tuyên xong, ân chỉ gia phong hậu cung và khao thưởng cho những thần tử đã ủng hộ và yêu mến tân đế lên ngôi - ân chỉ thứ ba - liền được ban xuống: gia phong cho ba người Lưu Kiện, Tạ Thiên và Lí Đông Dương làm Thái sư, Thái phó và Thượng quốc trụ, Thái hậu Kỷ thị tấn phong làm Thái Hoàng Thái hậu, Hoàng hậu Trương thị tấn phong làm Thái hậu, Thái Kỷ Vương thị làm Thái Hoàng Thánh phi; Kim phi, Đới phi làm Thái phi; các Mã phi, Thường phi cũng tấn phong làm Thái Hoàng phi. Phàm là tân đế đăng cơ, những cựu thần đắc lực đều được ban thưởng như vậy, đám thần tử cũng quen rồi. Dù chức vụ rất hay, nhưng đều là những hư chức có lộc không quyền thôi, cũng không ảnh hưởng gì tới việc phân bố quyền lực của triều đình hiện nay, do đó văn võ bá quan chỉ rửa tai lắng nghe, không ai lên tiếng. Trong đại điện, trên dưới một trăm người đều lặng như tờ. Nhưng Chính Đức Hoàng đế Chu Hậu Chiếu bị Dương Lăng kích động, một lòng một dạ muốn có biểu hiện thật tốt, mặc dù chỉ nhiệt tình ba phút thôi, nhưng ba phút cũng còn chưa qua. Hắn lắng tai nghe rất chăm chú. Hắn nghĩ thánh chỉ này được ban ra dưới danh nghĩa của mình, nên càng nghe kỹ hơn. Khi hắn nghe tới ban cho Thọ Ninh Hầu, Kiến Xương ngàn khoảnh hoàng điền, thụ song lộc thì hầu, lập tức từ trên ghế đứng lên, hầm hầm quát: - Lưu Đại học sĩ từ từ, hai Hầu gia Thọ Ninh, Kiến Xương tước lộc đã cao rồi, không cần thưởng thêm! Hai vị Hầu gia Thọ Ninh, Kiến Xương đang quỳ gối phía dưới, nghe Chính Đức nói thế, mặt xanh lè rồi trắng bệch. Vẻ mặt sợ hãi, xấu hổ, phẫn nộ, đủ loại thay đổi như bị nhuộm. Bác bỏ ân chỉ trước mọi người như vậy, quả thực làm cho người ta muối mặt, sau này hai người còn làm sao thấy mặt người khác chứ. Tiểu Hoàng thượng này làm việc quả là không chừa đường cho người ta đi. Lưu Đại học sĩ cầm thánh chỉ cũng ngẩn người. Vị Đại học sĩ thông kim bác cổ này phụng dưỡng mấy đời đế vương, chưa bao giờ nghe nói qua là khi tân hoàng đăng cơ thì ngay đương trường nuốt lời hứa, triệt bỏ ân chỉ. Sao lại bỏ chỉ của mình được, việc này quả thực là một trò đùa, cũng là đại bất kính với Hoằng Trị đế. Nếu không đáp ứng, khẩu dụ đầu tiên của tân đế mà Đại học sĩ lại cự tuyệt, vậy thì còn gì mặt mũi Hoàng đế chứ. Lý Đông Dương thấy lão đứng lặng người, vội vàng quì một chân, tâu rằng: - Hai vị Hầu gia Thọ Ninh, Kiến Xương là đương kim Quốc cữu, là chí thân của Hoàng thượng. Hoàng thượng hậu đãi người ngoài mà không quản người thân, không làm gương tốt cho mọi người, đám thần tử sao dám theo? Hôm nay là ngày quan trọng, ý chỉ đã hạ rồi, có rút về cũng hơi không ổn. Theo thần thấy, hai vị Hầu gia chỉ dâng biểu xin không nhận ân là hay nhất. Hai huynh đệ Trương Hạc Linh, Trương Duyên Linh trong lòng thầm hận, bị tân hoàng ở trước mọi người làm mất mặt, còn phải chủ động xin không nhận ơn. Hoàng thượng thì có được thanh danh đối người khoan hậu, luật pháp nghiêm minh, tên Lý Đông Dương quả là biết cách nịnh nọt. Nhưng tình thế yếu hơn người, hai huynh đệ không thể làm gì được, đành phải theo ý mà làm. Chính Đức rất kính Hoằng Trị cha mình, mắt thấy hai cậu chẳng hề bi thương trong lúc phụ hoàng sắp chết, còn cầm vương miện chơi đùa. Loại người này khiến hắn cảm giác người thân cận nhất cũng lừa mình, làm hắn căm thù hai người đến tận xương tuỷ, do đó lúc này mới ngăn cản, tước bỏ những gì ban cho họ ngay tại chỗ. Nghe Lý Đại học sĩ an bài xong, Chính Đức cảm thấy chỉ cần không cho họ chút tiện nghi nào là được, làm gì khác cũng không quá để ý, vì vậy gật đầu nhận lời, về ngồi lại trên ghế. Các quan lại đang quỳ thấy vị tân thiên tử đưa ra ý chỉ ly kỳ, đều lộ vẻ kinh dị. Chính Đức Hoàng đế không biết là làm như vậy có gì không ổn. Cái gì kim khẩu ngọc nha, vua không nói đùa, chỉ cần cảm thấy không đúng là sửa, chẳng lẽ cứ phải giả vờ giả vịt mới là thể diện hoàng gia sao. Lưu Đại học sĩ thấy tân hoàng sau khi có hành động kinh người đã về ghế ngồi, mới nơm nớp lo sợ đọc tiếp. Văn võ bá quan lúc này cũng đều căng thẳng, chẳng ai biết Chính Đức đế lại khai đao với ai nữa. Tiểu Hoàng đế Chính Đức nghe đọc đến cuối lại không phản đối gì nữa. Lưu Kiện đọc xong thánh chỉ, trộm đưa tay áo lên lau mồ hôi trên trán, rồi thở phào một hơi. Chính Đức đế lại lên tiếng. Hắn cau mày, kỳ quái hỏi: - Lưu Đại học sĩ, có phải là thiếu mất một người không? Lưu Kiện giật mình, vội vàng trải thánh chỉ ra, đọc nhanh một lần; rồi quay đầu nhìn về phía hai thái giám của Tư Lễ giám là Vương Nhạc, Trương Thọ hỏi lại một lần, như trút được gánh nặng nói: - Khải tấu bệ hạ, thần không thấy có chút sơ hở nào. Chính Đức cảm thấy kỳ quái, nhớ tới phụ hoàng có nói Dương Lăng là thần tử đắc lực cho hắn, còn nói những ân huệ phải do hắn ban cho. Sao mà ân chỉ với danh nghĩa của mình ban xuống lại không có tên Dương Lăng? Hoằng Trị đế đáng thương nếu thật sự có linh thiêng trên trời, lúc này nhất định sẽ hối hận khi mình dặn dò nhi tử về hậu sự đã không giải thích cụ thể lúc nào thì chấp hành. Chính Đức ngẫm nghĩ một lát rồi nói: - Không đúng, đúng là bỏ sót một người. Hắn là Dương Lăng, nguyên là Thị độc Đông cung, bây giờ là Tham tướng Thần Cơ doanh, trẻ tuổi đầy hứa hẹn, có tài lương đống. Đã là ý chỉ sót mất, vậy bổ sung thêm một ý chỉ, cho hắn là... ừm... cho hắn vào Lại bộ nhậm chức Thị lang đi. Lưu Kiện nghe Chính Đức nói thế, chút nữa ngã lộn nhào từ trên đài xuống đất. Đưa một Tham tướng võ quan, một Đồng tiến sĩ chưa tới hai mươi tuổi vào Lục bộ làm chức Thị lang chủ nhiệm? Lưu Kiện vội vàng quì xuống, hô to: - Hoàng thượng, vạn lần không thể! Hai vị Đại học sĩ Tạ Thiên, Lý Đông Dương, Hộ bộ Hàn Văn, Lễ bộ Vương Quỳnh, cùng với Lưu Đại Hạ, Mã Văn Thăng và đám Thượng thư sáu bộ đồng loạt quỳ xuống. Lại bộ Thượng thư Mã Văn Thăng vội la lên: - Hoàng thượng, thăng chức quan xưa nay là do thế tập, nạp tư, quân công, tiến cử, lang tuyển, cho tới phương pháp khoa cử. Cho dù là mặt nào Dương Tham tướng đều không đủ đức vọng, năng lực, lý lịch, đâu thể nhận chức bộ Thị lang chứ. Xin Hoàng thượng nghĩ lại! Tả Thị lang Vương Ngao, Chiêm sự Dương Phương là mấy đại thần vài ngày trước đã gây gổ với Lưu Cẩn, nên cũng không có hảo cảm gì với Dương Lăng. Vừa nghe hắn còn trẻ tuổi mà đưa vào Lại bộ, ghế chỉ sau chỗ của Thượng thư, nhất thời đều la lên phản đối, đủ loại quan lại đều ồ lên xì xào. Chính Đức rốt cuộc vừa mới làm vua, thấy đám thần tử phía dưới quỳ xuống hơn phân nửa, trong lòng cũng có chút luống cuống, nhưng nếu rút lại lời thì còn gì là thể diện. Chính Đức Hoàng đế đành phải nói với sắc mặt khó coi: - Đã thế thì, ta... trẫm sẽ thu hồi đạo ý chỉ này, sửa cho Dương Lăng làm Uy Vũ Bá đi. Lưu Kiện vừa nghe thấy Hoàng đế không phong quan cho Dương Lăng, nhưng lại sửa thành tấn tước, sao có thể đáp ứng chứ, lập tức cùng các quan quỳ xuống, liên tục dập đầu. Vương Quỳnh Vương Thượng thư đang nước mắt nhòe nhoẹt lại càng gào khóc lớn lên, đấm ngực giậm chân, liên tục nói thiên tử lạm dụng ân thưởng, sẽ làm mọi người bất mãn, các quan lại sẽ không phục. Chính Đức Hoàng đế hơi khựng lại, thấy các quan vẫn không thuận theo, cuối cùng hắn nổi giận đùng đùng, đứng bật dậy nhảy ra khỏi ghế nói: - Chức Hoàng đế này là ta làm hay các ngươi làm, việc này không được, việc kia cũng không được, vậy làm Hoàng đế cũng như không. Chu Hậu Chiếu nói rồi tháo đai ngọc xuống, muốn cởi long bào, làm hai Đại thái giám Vương Nhạc và Trương Thọ vội vàng chạy lên ôm lấy hắn. Văn võ bá quan đang khóc lóc ầm ĩ, Chính Đức vừa làm như vậy, khiến cả đám đều ngẩn người. Lý Đông Dương thấy thế vội vàng nghĩ: “Dương Lăng còn trẻ, tài cán phẩm đức cũng còn cần quan sát. Hắn làm võ tướng thì không nguy hại gì tới triều chính, phẩm trật có cao một chút cũng không có gì. Nhưng bây giờ nếu tới Lại bộ đảm nhiệm chức vụ quan trọng, với đức vọng của hắn thì há có thể làm các quan tâm phục chứ? Về phần phong tước, mặc dù qua loa một chút, nhưng cũng không phải làm hỏng tổ chế.” Vì vậy, Lý Đông Dương vội vàng cao giọng nói: - Dạ, thần tuân chỉ. Thần nghĩ rằng, có thể phong Dương Tham tướng làm bất thế (*) Uy Vũ Bá, ban cho cáo sách, bệ hạ nghĩ được không? (*: không truyền cho đời sau - ND) Chính Đức thấy có đại thần ủng hộ, vội nói: - Được lắm, được lắm, để Lý Đại học sĩ thảo chiếu. Chúng thần nghe Lý Đông Dương nói thế, lập tức hiểu ý lão, cũng không phản đối nữa, chỉ có Vương Quỳnh nức nở mãi không dừng được. Hóa ra Đại Minh phong tước có mấy loại như thế tập, quân công, ơn trạch, ngoại thích. Dương Lăng thuộc loại ơn trạch. Vừa rồi Lý Đông Dương lớn tiếng bảo là Dương Lăng làm bất thế Uy Vũ Bá, ban cho cáo sách, chứng tỏ Dương Lăng được tước lộc không kế thừa, hơn nữa chỉ ban cáo sách, không ban khoán sách. Nhưng cái chính là có được tước hào dễ nghe, có thêm một chút bổng lộc. Việc này không đáng để đối nghịch với Hoàng đế, vì vậy thanh âm phản đối cũng yếu đi nhiều. Trái tim Lưu Kiện thật sự không chịu nổi mấy trò của Chính Đức, cũng may bây giờ đã gần xong việc cử hành buổi lễ rồi. Vì vậy, Lưu Kiện vội vàng an bài văn võ bá quan túc trực bên linh cữu ở Càn Thanh cung, sắp xếp người đốt vàng mã, đảm bảo không còn sai sót gì nữa. Nội quan Vương Nhạc thấy việc tân đế đăng cơ đã xong, vội sai người đi tới Khôn Ninh cung mời Thái hậu và hai Công chúa tới Càn Thanh cung cùng túc trực bên linh cữu. Hiện tại, Dương Lăng còn chưa biết việc gì xảy ra, chỉ đi quanh một vòng, lập tức đã thành Bá gia rồi. Y nghênh ngang tuần sát các cửa cung, tùy tiện ăn cơm với những tướng sĩ trong cung cho no bụng, lúc này đã tới canh ba. Đi quanh hoàng thành một vòng lớn như vậy xong, Dương Lăng đau chân muốn chết, nhưng trong cung lại không thể cưỡi ngựa, y rất vất vả lết từng bước về lại Càn Thanh cung, chân gần như muốn đứt. Bây giờ, thấy Đông Noãn các hoàn toàn yên tĩnh không còn bóng người nào liền đuổi hai thân binh đi, còn mình thì vào trong sảnh ngồi xuống, cởi ủng xoa chân. Dương Lăng mở ủng ra, xoa chân cho lưu thông máu huyết, vừa định xỏ ủng vào, đột nhiên thấy vai mình bị người vỗ một cái. Vào nửa đêm, tuy nói trong cung đèn sáng trưng, nhưng cũng sợ hết hồn nhảy dựng lên. Dương Lăng khôn ngoan lắc người qua một chút. Nhìn người đó, y càng giật mình, không thể không kêu lên một tiếng.

Chương 88: Bốn Bề Gặp ĐịchDịch: workman Biên dịch: lht Biên tập: Shandian Hiệu đính: Nguồn: www.tangthuvien.com - Tên nịnh thần ngươi câm miệng. Lão thần bất kính với Hoàng Thượng nên chịu sự trừng phạt của Hoàng Thượng. Ngươi dựa vào sự sủng ái mà kiêu căng lại không theo lễ bầy tôi, đầu độc đế quân, sớm muộn gì cũng sẽ bị nghiêm trị! ------------------------ Chương tám mươi tám Bốn bề gặp địch ------------------------ Dương Lăng bị vỗ vai giật thót cả người, y liền quay phắt đầu lại thì thấy Chu Hậu Chiếu mặc áo trắng mũ rơm đứng sau lưng. Dương Lăng ai chà một tiếng rồi vội vàng xỏ ủng vào đứng lên, vừa mới định quì thì Chính Đức đỡ vai hắn rồi nói: - Nhìn bộ dáng ngươi xem ra cũng mệt mỏi lắm rồi, thôi đừng quì nữa, hôm nay ta bị người ta quì lạy mệt lắm rồi, ngay bản thân cũng quì tới ê ẩm cả lưng. Hắn uốn lưng vặn eo vài cái rồi bày ra vẻ mày ủ mày ê, Dương Lăng ở cạnh vị thái tử bình dị gần gũi, chưa từng có quan niệm tôn ti này tùy tiện quen rồi. Nhưng bây giờ Chu Hậu Chiếu đã là hoàng đế, thấy hoàng đế mà không thi lễ như vậy thì trong lòng y cũng thật sự hơi lo sợ bất an, chỉ là tay Chu Hậu Chiếu vẫn còn đặt trên vai hắn, Dương Lăng cũng không tiện tránh ra. Dương Lăng đành phải cười khổ nói: - Thần vừa đi tuần tra các cung điện xong. Hoàng Thượng, bây giờ ngài đã là cửu ngũ chí tôn, cách xưng hô cũng nên sửa lại đi thôi. Chu Hậu Chiếu cười khổ một chút nói: - Ta... trẫm còn chưa quen lắm, dù sao không có các loại quan lại trước mặt, ngươi và ta vẫn nên xưng hô như hồi ở Đông cung mới tốt. Dương Lăng hỏi: - Hoàng Thượng, ngài không phải ở chính điện Càn Thanh Cung để túc trực bên linh cữu tiên đế sao? Sao lại một mình tới đây? Chu Hậu Chiếu khoát tay nói: - Bị mấy người ở đó làm cho phiền muốn chết. Cả đám giống như đã thương lượng trước cùng nhau đóng kịch, cứ cách một lúc thì khóc lóc một hồi. Hoàn toàn là bắt ta tới chịu khổ, ta nhân dịp đi ngoài tranh thủ trốn tới đây. Hắn hít mạnh một hơi, lưu luyến nhìn những vật trang trí quen thuộc trong Đông Noãn Các, nhẹ giọng thở dài nói: - Nhớ phụ hoàng quá. Lúc vừa vào phòng, ta cảm giác phụ hoàng như vẫn còn ở đây, đang ở trong phòng phê tấu sớ, nhìn thấy ta đến liền vui vẻ bảo nội thị đem mứt trà, hoa quả tới... Hắn vừa nói vừa rơm rớm nước mắt: - Lúc còn bé, phụ hoàng ôm ta chính ở chỗ này, tự mình dạy ta viết chữ, dạy ta vẽ tranh, có khi người bận phê duyệt tấu sớ, bảo ta ở một bên luyện viết chữ. Nhớ có một lần ta thừa dịp ngài xuất cung liền cầm bút vẽ loạn xạ vào tấu sớ. Khi phụ hoàng trở về thấy thế đành phải cố ý lật cả nghiên mực, làm nhoè hết cả những bản sớ ấy mới giấu được triều thần. Tuy vậy cấp sự của sáu khoa cũng dâng mười mấy đạo tấu chương phê phán phụ hoàng. Chu Hậu Chiếu nói đến xuất thần: - Có một lần, ta làm phụ hoàng cực kỳ tức giận, người phạt ta chép Tam Tự kinh ba mươi lần. Ta chỉ chép được hai lần đã chán chết, sau đó bảo mấy tên thái giám biết chữ như Lưu Cẩn, Trương Vĩnh giúp ta. Họ kiên trì giúp ta chép phạt, tuy ta biết phụ hoàng nhất định nhìn ra được nhưng ngài vẫn ra vẻ chẳng biết gì cả mà tha cho ta. Bây giờ nhớ tới việc này ta thấy rất bứt rứt, ta chỉ mong phụ hoàng phạt ta thêm một lần, khi đó ta sẽ ngồi ngoan ngoãn bên cạnh ngài, chăm chú chép lại cho ngài xem. Chu Hậu Chiếu nói mà lệ lã chã rơi, Dương Lăng nghe xong thầm cảm động. Từ xưa tới nay, cha con anh em trong hoàng thất luôn lục đục với nhau, có được tình cảm cha con sâu nặng như vậy liệu được mấy người? Chu Hậu Chiếu nói đến đây thì nhếch miệng cười: - Ta quỳ trên đại điện làm theo chỉ bảo của nội thị như một con rối, lúc cần thắp hương thì thắp hương, lúc cần dập đầu thì dập đầu, cần khóc thì mới có thể khóc. Ta cũng không biết đấy là tưởng niệm tiên đế hay là diễn cho ai xem, làm cho ta chóng mặt nhức đầu, cả người lờ đờ, đã thế có kẻ còn ra vẻ khóc thương tâm hơn người khác, làm ta bực mình muốn chết. Dương Lăng thầm nghĩ mấy lễ nghi phô trương như vậy vốn chính là để cho người khác nhìn, nói lại thì cũng khó trách tiểu hoàng đế luôn luôn miệt thị lễ nghi này không quen chứng kiến. Y động tâm nói: - Hoàng Thượng, ngài muốn tưởng niệm tiên đế mà lại không thích những lễ nghi phiền phức ấy vậy không bằng tối nay ở chỗ này chép sách, chép Tam Tự kinh thành ba mươi bản để tiên đế ở trên trời có linh thiêng chứng giám cho lòng ngài. Dùng cách này để thương tiếc tiên đế chẳng phải còn hơn ở trên đại điện ba quì chín lạy sao. Chu Hậu Chiếu nghe vậy rất vui vẻ, khen rằng: - Nói rất đúng, ta chép lại những bản sách do phụ hoàng mấy năm trước phạt chép, phụ hoàng trên trời có linh, thấy ta thật tình ăn năn thì người nhất định sẽ rất vui. Lập tức Chu Hậu Chiếu xoa tay xoa chân, ngồi vào long án, lúc này trên long án cũng trải một tầng khăn trắng. Dương Lăng lấy từ chiếc bình sứ bên cạnh chiếc án ra một tờ giấy trải ra, dùng cái chặn giấy bằng thuý ngọc đè xuống, nhè nhẹ mài nghiên mực. Chu Hậu Chiếu vừa đặt bút xuống lại nhìn thấy Dương Lăng đứng cạnh án, nhân tiện nói: - Ngươi cũng lấy ghế ngồi xuống đi. Ta biết ngươi đi tuần các cung điện nhất định còn mệt hơn ta nhiều. Thấy Dương Lăng lắc đầu không chịu, Chu Hậu Chiếu lại nói: - Ngồi đi, bất tất phải câu nệ lễ thần tử. Bây giờ phụ hoàng đã đi rồi, người mà trẫm có thể nói những lời tri kỷ cũng chỉ có mình ngươi thôi. Từ lần đầu thấy ngươi thì ta đã cảm giác ngươi khác hẳn người thường. Khi ngươi nhìn ta, ngươi không có ý sợ hãi, không có ánh mắt lấy lòng như người khác. Ta thích loại cảm giác như người bình thường này. Ngươi nên ngồi đi, vừa mài mực vừa nói chuyện với ta. Dương Lăng nghe hắn nói như vậy liền nhìn một vòng quanh điện không có ai khác thì lúc này mới đáp ứng, kéo ghế ngồi bên cạnh Chính Đức. Chính Đức chăm chú viết những chữ bách gia chư tử, Dương Lăng đứng một bên mài mực, cẩn thận vô cùng. Chính Đức xem ra viết chữ cũng rất đẹp. Chu Hậu Chiếu bốn chữ một câu, viết tới ‘Phong bảo sử đường’ thì đột nhiên dừng lại. Hắn nhìn lại một chút, rồi dường như nhớ tới việc gì, ngẩng đầu nói với Dương Lăng: - À, đến bây giờ ta mới nhớ, Đường cô nương ở trong phủ của ngươi có vui không? Dương Lăng thấy hắn nhìn chữ Đường rồi ngẩn người ra thì đã cảm thấy không ổn, lúc này lại nghe hắn hỏi, trong lòng không khỏi loạn lên. Đã nhiều ngày nay Chính Đức vẫn không hỏi gì y, tuy nhiên bây giờ xem ra không thể gạt được rồi. Dương Lăng đành phải kiên trì đem việc Bào phó tướng giết người diệt khẩu, rồi việc Đường Nhất Tiên sinh tử chưa rõ nói với Chính Đức. Chính Đức nghe xong thất vọng nhìn chữ Đường hồi lâu mà không nói gì, ánh mắt mờ đi, xem ra rất buồn khổ. Dương Lăng nhớ tới cảnh ngày đó mình suất binh tìm tới vách núi chỉ thấy chuôi đao đầy máu tươi, lại nhớ tới mới đầu ở hoa quán gặp được nữ hài nhi khéo léo, có nụ cười ngọt ngào tươi tắn, nhất thời trong lòng cũng đau lòng đến nói không nên lời. Hai người cứ như vậy ngây ngốc ngồi đó, chỉ nghe tiếng hoa đèn nổ lách tách. Chu Hậu Chiếu chỉ là thiếu niên mười lăm tuổi, khi gặp Đường Nhất Tiên lần đầu thì sinh ra hảo cảm và tình cảm mông lung nhưng vẫn chưa tới mức sâu sắc không thể dứt bỏ. Cho dù vậy thì đó cũng là cô gái đầu tiên mà hắn thích. Hôm nay hoàng đế Hoằng Trị băng hà, tâm tình hắn vốn đã bi thương tới cực điểm lại nghe được tin tức này, trong lòng càng thêm mất mát. Hắn cũng không hề giận cá chém thớt lên Dương Lăng, chỉ ngây ngốc suy nghĩ hồi lâu. Nét mặt Chu Hậu Chiếu đột nhiên hiện lên một sát khí lạnh lùng, cười lạnh nói: - Đường cô nương trọng thương rơi xuống vách núi! Bào Tận Thẩm... Lưu Sĩ Dung... Bào… Tận… Thẩm, được, tốt lắm, ta nhớ rồi.... Chu Hậu Chiếu cầm bút thật chặt, dùng sức nhấn xuống, cây bút lông sói cán gỗ lim được cung cấp đặc biệt cho hoàng cung nhấn thẳng xuống giấy. Ngay lúc này, cánh cửa điện chợt kêu rầm một tiếng, một đám người tràn vào, lập tức một thanh âm già nua khàn khàn lớn tiếng kêu lên: - Hoàng Thượng..., ngươi... ngươi lớn mật! Dương Lăng giật bắn cả người,tự hỏi người nào lớn mật dám mắng Hoàng Thượng như vậy? Y nhảy dựng lên nhìn ra ngoài, đã thấy tám chín đại thần mặc đồ tang đứng trước mặt. Ba vị đại học sĩ Lưu Kiện, Tạ Thiên, Lý Đông Dương cũng có trong đó, dẫn đầu là vị lão đại nhân tóc bạc râu trắng, tuổi già sức yếu, mặt đỏ rực đang trợn mắt nhìn y. Dương Lăng lúc này mới giật mình. Vừa rồi y cùng với Chính Đức ngồi sóng vai, Chu Hậu Chiếu không quan tâm gì tới tôn ty thì không sao, nhưng các thần tử khác mà thấy sẽ nghĩ gì? Chính Đức ngẩng đầu lên nhìn thấy vẻ mặt Vương Quỳnh, vô tình nói: - Vương thượng thư hà tất phải kinh sợ, là ta... là trẫm muốn y ngồi cạnh. Tiên đế kính trọng chư vị cựu thần, lúc trò chuyện riêng cũng cho ngồi, cho hầu trà thì trẫm sao không thể đối xử với thần tử như thế? Chư vị đại thần Lục Bộ Cửu Khanh thấy Dương Lăng vô lễ như thế, dám kề vai ngồi cạnh hoàng đế thì ai nấy vừa sợ vừa giận. Chu Hậu Chiếu tuy dựa vào mấy việc trước kia của tiên đế mà muốn bịt miệng họ nhưng Dương Lăng thì sao có thể so được với cựu thần của Hoằng Trị chứ. Huống hồ những cựu thần ấy dù được ban cho ghế ngồi, cũng không ai dám kề vai ngồi cạnh Hoằng Trị. Vương Quỳnh bình sinh rất trọng lễ giáo, vẫn phẫn nộ nói: - Hoàng Thượng ban ghế, đó là long ân của Hoàng Thượng. Nhưng làm thần tử mà sóng vai ngồi ngang hàng với Hoàng Thượng thì đó là tội khi quân phạm thuợng, làm trái cương thường, quả thật như cầm thú! Sao chỉ nói vài câu mà ta đã biến thành cầm thú rồi? Dương Lăng nghe thế không hiểu ra sao cả, trong lòng cũng hơi giận. Nhưng nhìn vị lão đại nhân tóc trắng xoá, tuổi đủ để làm ông nội y nên y đành phải nén giận nhẫn nhịn. Hoàng đế Chính Đức bực mình hỏi: - Vương thượng thư, ngươi rốt cuộc có chuyện gì mà tới đây tìm trẫm? Hắn vừa hỏi, lập tức nhắc Vương Quỳnh nhớ ra. Vương thượng thư trừng mắt nhìn Dương Lăng, xoay người bái Chính Đức nói: - Hoàng Thượng, lão thần xin mời Hoàng Thượng di giá tới chính điện Càn Thanh Cung để túc trực bên linh cữu bệ hạ. Chính Đức chau mày nói: - Chính điện Càn Thanh Cung nhiều người ầm ĩ, trẫm thật sự rất khó chịu. Mấy năm trước tiên đế từng ở đây tự mình dạy trẫm đọc sách viết chữ. Đêm nay trẫm muốn ở đây soạn văn chương, để tỏ lòng thương tiếc tiên đế. Vương Quỳnh nghe xong giật mình biến sắc, bối rối nói: - Hoàng Thượng, làm con phải tận hiếu. Vô luận là thiên tử hay thứ dân, đều phải tận tâm tận lễ. Đại sự của tiên đế, Hoàng Thượng phải dẫn đầu văn võ bá quan túc trực bên linh cữu tiên đế, đây là di chế của thánh nhân, gia pháp của tổ tông, sao có thể bỏ được? Hoàng Thượng ở đây nghĩ tới tiên đế, tuy thật sự có dụng tâm, nhưng không hợp lễ. Thần xin Hoàng Thượng lập tức tới Càn Thanh Cung túc trực bên linh cữu, thái hậu, công hầu và các quan lại đều chờ Hoàng Thượng tới. Chính Đức cả giận nói: - Việc trẫm thương tiếc tiên đế, tự sẽ có chủ ý của trẫm. Các ngươi đi trước đi. Vương Quỳnh giận dữ đứng dậy, sải bước già lên vài bước, chắp tay thi lễ nói: - Hoàng Thượng là thiên tử, một lời sẽ làm gương cho người trong thiên hạ, sao có thể tự mình sửa lễ chế chứ? Lão liếc mắt nhìn thấy mấy chữ Chính Đức viết, tuy đã được che đi, vẫn nhận ra là thiên Bách Gia Tính, trong lòng càng giận dữ. Lão chỉ vào tấm giấy còn ướt mực nói: - Những văn tự này mà liên quan gì tới thương tiếc tiên đế à? Những gì liên quan tới thánh nhân lễ chế, Vương Quỳnh nhất định sẽ không chịu thỏa hiệp với Chính Đức, ngữ khí lập tức trở nên hùng hổ. Lão là thượng thư bộ Lễ, chủ trì lo việc đại lễ tang ma Hoằng Trị. Những gì về chuyện này, dù là ba vị đại học sĩ như Lưu Kiện cũng phải nghe lão. Đám Lục Bộ Cửu Khanh đứng bên cạnh tuy không nói một lời, nhưng thần thái sắc mặt hiển nhiên cùng ý kiến với lão. Dương Lăng thấy cựu thần hùng hổ như vậy, khiến cho Chính Đức thập phần khó chịu, lại muốn phát tác cơn giận của tiểu hài tử, vội hỏi: - Vương Đại nhân, Hoàng Thượng tưởng niệm tiên đế, bởi vậy mới đến nơi tiên đế sống. Nhìn vật nghĩ tới người, cũng không có gì phạm vào hiếu tâm với người đã khuất. Đại nhân nên về đại điện trước, đợi Hoàng Thượng viết xong thiên văn chương này, sẽ lên điện túc trực bên linh cữu thôi. Vương Quỳnh nghe xong những lời đại nghịch bất đạo với tiên đế như vậy, không khỏi giận tím mặt. Lão chụp lấy nghiên mực trên bàn ném về phía Dương Lăng, miệng phẫn nộ quát: - Ngươi là nịnh thần tặc tử, trước dám ngồi với hoàng đế, mục vô quân thượng. Bây giờ thân là thần tử mà không tận tâm tận lực khuyên can Hoàng Thượng, còn muốn nói lời gièm pha, ở đây đâu tới lượt ngươi vung tay múa chân chứ? Vương thượng thư chụp xuống, lôi cả xấp giấy ném lên, quẹt vào mặt Chính Đức. Tờ giấy chưa khô mực lập tức lưu lại trên mặt Chính Đức hai vệt màu đen. Dương Lăng lắc người né qua, nghiên mực đánh bộp vào cây trụ trên điện vỡ tan, mực bắn ra bốn phía. Hoàng đế Chính Đức thấy Vương Quỳnh luôn mồm vua tôi phụ tử, nhưng bản thân lão lại làm vẻ như thế trước mặt hoàng đế, còn gì là giữ gìn lễ nghi vua tôi, hung dữ ngạo mạn hơn bất kỳ ai, không khỏi tức giận đến run cả người. Hoằng Trị đối xử với thần tử rất dung túng hậu đãi. Ông khi nhỏ đã bơ vơ, làm người lại hơi mềm yếu. Thời gian lâm chính dài, đám cựu thần cũng quen rồi. Chỉ cần nói có lí, thì có thể trước mặt ông nói rất hùng hồn, trước giờ đều là nói thẳng không nể mặt. Huống chi bây giờ lại đối mặt với Chính Đức tiểu hoàng đế? Tạ Thiên thấy Hoàng đế Chính Đức mặt tái nhợt, xem ra sắp phát tác rồi, vội vàng quỳ xuống nói: - Xin Hoàng Thượng tuân thủ lễ nghi di chế, lập tức di giá tới Càn Thanh Cung. Lão vừa quỳ, đám thần tử khác đều quỳ xuống, trăm miệng một lời nói: - Xin Hoàng Thượng lập tức di giá! Lục Bộ Cửu Khanh vừa quỳ xuống, thanh thế nhất thời ép cả Chính Đức, hắn cố nén tức giận, chỉ nói: - Chúng khanh bình thân, trẫm... trẫm đi là được rồi. Lưu Kiện thấy hắn chịu thua, trong lòng thầm thở phào nhẹ nhõm, không ngờ Chính Đức lập tức chỉ tay vào Vương Quỳnh, hỏi: - Vương thượng thư, ngươi luôn mồm giảng cái gì vua tôi cha con vậy mà lúc này lại kiêu ngạo ngang bướng trước mặt trẫm như thế, có tính là thất lễ không? Vương Quỳnh giật mình, nhìn thấy vết mực trên mặt Chính Đức, tự thấy vừa rồi mình vô cùng càn rỡ, đã thất lễ nghi quân thần rồi, lão liền quỳ xuống nói: - Thần muôn lần đáng chết, nhất thời xúc động phẫn nộ, dám thất lễ trước mặt Hoàng Thượng, xin Hoàng Thượng trị tội. Chính Đức cười lạnh một tiếng nói: - Chỉ thất lễ số thôi à. Mực quẹt cả vào mặt trẫm, còn không phải là lỗi đại bất kính sao? Vương Quỳnh ngẩng cao đầu, hiên ngang nói: - Thần có tội, nguyện chịu sự trừng phạt của Hoàng Thượng, chỉ cần Hoàng Thượng lập tức di giá về Càn Thanh Cung, thần muôn lần chết cũng không dám chối từ! Hoàng Đế Chính Đức lớn tiếng nói: - Được, được lắm! Ngươi nhận tội là được rồi. Dương Lăng, lập tức bắt Vương Quỳnh vào thiên lao! Các vị đại thần nghe thế tới tấp quỳ xuống cầu tình: - Hoàng Thượng thứ tội, Vương thượng thư vô cùng trung thành, nhất thời nói năng vô lễ, xin bệ hạ khoan dung. Dương Lăng cũng khuyên: - Hoàng Thượng! Ngày đăng cơ là quan trọng, sao lại bắt giam đại thần trong triều chứ? Xin Hoàng Thượng đặc xá cho Vương đại nhân đi. Vương Quỳnh nghe xong cười lạnh nói: - Tên nịnh thần ngươi câm miệng. Lão thần bất kính với Hoàng Thượng nên chịu sự trừng phạt của Hoàng Thượng. Ngươi dựa vào sự sủng ái mà kiêu căng lại không theo lễ bầy tôi, đầu độc đế quân, sớm muộn gì cũng sẽ bị nghiêm trị! Chính Đức nghe thế ngượng quá hóa giận, hắn đỏ mặt chỉ vào Dương Lăng giận dữ nói: - Ngươi cũng không tuân ý chỉ của trẫm sao? Dương Lăng thấy hắn giận dữ, không dám tiếp tục khuyên giải nữa, chỉ có nước quay sang sai mấy tên thị vệ áp giải Vương Quỳnh xuống dưới. Chính Đức lúc này mới hừ lạnh một tiếng, cũng không để ý tới quần thần, phất tay áo đi ra ngoài cửa phòng. Chúng thần tới tấp đứng dậy, ánh mắt nhìn về phía Dương Lăng có rất nhiều vẻ phẫn nộ. Lý Đông Dương nhìn Dương Lăng, trong lòng thầm nghĩ: “Lúc người này thân là thị độc nho nhỏ mà đã dám vạch trần việc quyền thần ngoại thích của tiên đế phạm pháp, hẳn phải là thần tử trung thành thẳng thắn mới đúng. Tại sao khi thiên tử càn rỡ như vậy, y thân là cận thần được Hoàng Thượng sủng tín mà không mở lời khuyên can, ngược lại lại dung túng như thế? Nếu nói y tham quyền thế mà a dua theo Hoàng Thượng thì chỉ bằng vào việc y vì thê tử mà chịu tội kháng chỉ chém đầu cho thấy y cũng không phải người như vậy, rốt cuộc thì người này có tâm tư gì đây?” Lão cố ý chầm chập đứng dậy đi cuối cùng, đợi những quần thần khác đều đi hết, mới nói với Dương Lăng vẻ thâm trầm: - Người làm quan phải cẩn thân tu đức, phải yêu dân, thường thường tự xét lại những việc đã qua. Ngươi được đế ân rất dày, phải nghĩ đến việc trung quân đền nợ nước, chớ có kiêu ngạo tuỳ hứng mà làm hỏng tiền đồ. Dương Lăng bất lực nói: - Lý Đại nhân, hạ quan nào dám làm vua mê hoặc? Chà! Bây giờ Hoàng Thượng đang nổi nóng, đợi sau khi hết nóng, tìm được cơ hội, hạ quan nhất định sẽ nói vài lời cho Vương Đại nhân. Đại nhân bất tất phải lo lắng. Chẳng lẽ đại nhân đã quên đại học sĩ cầm chùy truy đánh Thọ Ninh Hầu ở kim điện rồi sao? Có lệ này từ trước, việc Vương thượng thư ở tẩm cung cầm nghiên mực ném Dương tham tướng thì đã sao? Lý Đông Dương nghe y nhắc tới việc mình cùng Thọ Ninh Hầu đại náo kim điện, không khỏi mỉm cười, liếc nhìn y thật sâu nói: - Như thế là tốt! Thiếu niên đắc chí, càng nên cẩn thận khiêm nhường, trung quân đền nợ nước. Dương đại nhân ngàn vạn lần phải tránh mình khỏi cùng bọn với Thọ Ninh Hầu mới tốt. Lý Đông Dương dứt lời xoay người bỏ đi. Dương Lăng ngó theo lão, nhớ tới vừa rồi chư vị đại nhân lục bộ cửu khanh nhìn mình phẫn nộ, không khỏi cười khổ một tiếng: - Hôm nay hoàng đế Hoằng Trị băng hà, quả là thời gian xui xẻo với ta, đầu tiên là đắc tội với với bên ngoại của vua, bây giờ lại đắc tội với Nội Các. Ngoại trừ Hoàng Thượng Chính Đức thì chỉ sợ là mình gây thù hằn khắp nơi rồi, nguy cơ trùng điệp! Dương Lăng đang muốn bỏ đi, thì có bóng người thoáng qua ở cửa, một người lao vào trong. Vừa vào cửa đã cười nịnh y: - Dương đại nhân thật có bản lĩnh. Lão thất phu Vương Quỳnh cậy già lên mặt, khắp nơi vung tay múa chân. Lúc chúng ta còn hầu hạ Đông cung thì lão nhiều lần dâng tấu chương cho Hoàng Thượng nói chúng ta dụ dỗ Thái tử chơi đùa, làm hại chúng ta và bọn người Trương Vĩnh, Đại Dụng bị tiên đế trách mắng. Lúc này lão lại bị bắt vào đại lao, quả thật là hả lòng hả dạ rồi! Dương Lăng chăm chú nhìn người đứng trước mắt mặt mày hớn hở, chính là Lưu Cẩn.

Chương 89: Lưu Cẩn thảo luận chính sựDịch: workman Biên dịch: Ba_Van Biên tập: Ba_Van Hiệu đính: Nguồn: www.tangthuvien.com - Nếu gạo này thật sự hiệu quả, vậy là tuệ nhãn của Hoàng Thượng rất cao. Lúc đó thần xin dùng niên hiệu của Hoàng Thượng mà đặt tên, gọi là ”gạo Chính Đức”, như thế sẽ thiên thu muôn đời ai ai cũng đều nhớ tới Hoàng Thượng. ------------------------ Chương tám mươi chín Lưu Cẩn thảo luận chính sự ------------------------ Ngày mười tám tháng năm, hoàng đế Chính Đức thân chinh lên Thừa An Môn (tức Thiên An Môn) hạ chiếu thông báo khắp thiên hạ: tân đế lên ngôi. Hoàng đế đặt chiếu chỉ tuyên bố nắm giữ triều chính vào miệng một con phượng hoàng ánh vàng rực rỡ, tự tay thắt dây lụa vàng vào lưng kim phượng. Chính tay thái giám thủ lĩnh Lễ Giám ty dòng kim phượng từ đầu thành xuống, những quan chức bộ Lễ quì trên mặt đất trước cổng thành, hai tay nâng quá đầu một chiếc khay vàng có trang trí đám mây tiếp chỉ. Sau đó các quan viên phóng ngựa đưa đến bộ Lễ sao chép rồi đóng dấu, bố cáo khắp thiên hạ. Chính Đức chính thức trở thành thiên tử Đại Minh. Thủ tục ban chiếu đó gọi là ”Kim phượng ban chiếu”. Sau đó hoàng đế Chính Đức được bá quan vây quanh trở về điện Kim Loan, ngồi lên ngai vàng để các quan bái lạy. Lúc này hạ sử (sứ giả đến chúc mừng) và hạ nghi (lễ vật) của các Phiên Vương cùng bốn nước chư hầu vẫn còn trên đường đi. Chính Đức vừa lên ngôi nắm triều chính, lập tức tuyên bố ba đạo thánh chỉ. Các bộ, các địa phương phải lập tức chấp hành tuyệt đối. Đạo thánh chỉ thứ nhất đã được chuẩn bị từ trước bởi Vương Quỳnh, thượng thư bộ Lễ, tổng chỉ huy nghi thức tang lễ, người mà vua cũ mới mất một ngày đã bị giam vào đại lao: ”Đạt thiên minh đạo thuần thành trung chính thánh văn thần vũ chí nhân đại đức kính hoàng đế (nghĩa là vị hoàng đế đại nhân đại đức, thánh văn thần võ, thuần thành trung chính sáng rõ như trời) Hiếu Tông đã về trời, tổ chức quốc tang trên cả nước.” Toàn thể thần dân phải để tang, mũ viền vải trắng. Sau khi dự đại lễ tân đế lên ngôi, các quan vẫn phải để tang, không được đi ủng mà phải đi giầy rơm, bỏ hai cái cánh chuồn ở mũ sa để treo hai dải băng trắng rủ xuống. Các chùa chiền to nhỏ cùng đánh vạn tiếng chuông, ngày đêm không dứt. Trong vòng ba ngày, các quan viên từ tứ phẩm trở lên phải từng nhóm một tiến về Càn Thanh Cung cử hành việc đưa linh, ai ai cũng phải khóc than mười lăm lần, do viên ngoại lang bộ Lễ chỉ huy. Cùng một lúc tất cả người tham gia phải than lạy nhịp nhàng theo lệnh, khóc cùng khóc, dừng cùng dừng, khiến cho Càn Thanh Cung trở nên như đang diễn tấu nhạc giao hưởng. Đạo thánh chỉ thứ hai là do hoàng đế Chính Đức và ba vị đại học sĩ cùng Cửu Khanh của sáu Bộ trao đổi mặc cả khá lâu, cuối cùng trong tình huống không chống nổi sự uy hiếp của Hoàng đế mới thông qua. Chiếu chỉ hạ lệnh cho tả thị lang bộ Lễ Lý Kiệt, giám phó của Khâm Thiên Giám là Nghê Khiêm, thái giám của Lễ Giám ty là Đái Nghĩa, tả thị lang bộ Công Lý Đạc, tham tướng Tả Tiêu quân của Thần Cơ doanh Dương Lăng cùng đôn đốc giám sát xây dựng Thái Lăng cho hoàng đế Hoằng Trị. Mặc dù bị hoàng đế Chính Đức ép nên đám nội các đại học sĩ phải đưa Dương Lăng vào nhóm các quan viên phụ trách đôn đốc xây Đế Lăng, nhưng bọn họ lại cố ý nhét y vào cuối danh sách. Ngược lại, vốn chẳng có chí khí gì lớn (thật sự rất có lỗi với rất nhiều khổ tâm thu vén cho y của hoàng đế Chính Đức), Dương Lăng hoàn toàn chẳng để tâm đến việc này. Đối với người khác thì việc đôn đốc xây Đế Lăng chẳng những là một công việc vô cùng quang vinh mà còn sẽ mang lại nhiều thuận lợi cho con đường làm quan sau này. Nhưng Dương Lăng lại chỉ ước gì mình được chỉ huy chút đỉnh gì đó, chỉ cần chạy loanh quanh dãn chân, dãn cẳng là tốt nhất. Muốn y mỗi ngày phải chủ trì đại lễ, phải bôn ba trong nghĩa trang, không nói y không có năng lực làm việc này, mà chính từ đáy lòng y cũng chẳng hứng thú gì. Đám Đại học sĩ muốn làm khó dễ y nhưng lại thành ra giúp đỡ y. Bây giờ Dương Lăng chỉ chịu trách nhiệm chỉ huy trên vạn quan binh cung dịch từ tam đại doanh trong Ngũ Quân Đô Đốc Phủ điều tới. Khi đám nhân viên này vừa đến, bộ Lễ, bộ Công, Khâm Thiên Giám đã bắt đầu vung tay múa chân, Dương Lăng gần như thành người thừa. Người ta không muốn gặp y, y cũng không cần phải có mặt mỗi ngày, thành ra lại tiêu diêu tự tại vô cùng vui vẻ. Đạo chiếu chỉ thứ ba của hoàng đế Chính Đức là vung đao giết người. Hắn mang hết toàn bộ uất ức với đám quan văn giáng xuống một đám quỉ xui xẻo. Vì hoàng đế Hiếu Tông vừa uống thuốc xong lại đột nhiên chảy máu không ngừng rồi thăng luôn, những người hầu hạ hoàng đế Hiếu Tông uống thuốc là thái giám Trương Du, Viện phán của Thái Y viện Lưu Văn Thái, ngự y Cao Đình Hòa đều bị xử trảm. Cách chức Thái Y viện của Sứ Thi Khâm, còn thiếu khanh Thái Thường Tự là Lý Tông Chu và các quan chức liên quan đều bị biếm ra quan ngoại. Một việc khiến quần thần không hiểu ra sao cả chính là việc phó tham tướng Thần Cơ doanh Bào Tận Thẩm, quan đô ty Lưu Sĩ Dung, Thải Bạn quan (quan thu mua) Bào Tận Trung và trên mười tên võ tướng lớn nhỏ liên quan cũng bị lôi ra trước chợ chém đầu. Bào tham tướng và Lưu đô ty bị áp giải từ thiên lao, còn Bào Tận Trung thì lại được người của Cẩm Y Vệ đưa tới. Khi Giám Trảm quan kiểm tra, chứng thực nhân thân của hắn thì lão vô cùng kinh hãi. Quả thực Tiền Ninh rất quan tâm tới Bào Tận Trung nên gã không dùng những hình phạt như kéo ruột, tôi luyện, huyền tích (treo xương sống lên), oan tất (đục vỡ đầu gối), xoát tẩy (cọ rửa) với hắn, nhưng hắn cũng đã bị đánh đập thê thảm tới mức không còn nhân dạng, ngay cả đường huynh Bào tham tướng cũng không nhận ra được hắn. Đến lúc chém, những phạm nhân trên pháp trường ai nấy đều mặt cắt không còn chút máu, chỉ có Bào thải bạn thì lại vô cùng khẳng khái nhanh chóng đưa cổ chờ đao, lập tức được dân chúng vây xem ồ lên ủng hộ. Miêu Quỳ phụng mật chỉ của tiên đế bí mật tra tìm những kẻ mua súng ống cùng đạn dược, xem rốt cuộc đó là vị Phiên Vương nào. Việc này quan hệ trọng đại, hoàng đế Hoằng Trị dặn lão nếu chưa điều tra được rõ ràng thì đừng vội thông báo với Chu Hậu Chiếu, do đó Chính Đức hoàn toàn không biết gì về việc này. Đến khi Miêu Quỳ nghe thấy chiếu chỉ của hoàng đế Chính Đức được ban bố một cách đột ngột thì lập tức phi ngựa tới pháp trường muốn hô to ”Đao hạ lưu nhân”. Đáng tiếc khi lão tới nơi thì chỉ kịp nhìn thấy thân quyến của những người chết đang khâm liệm thi thể, chuẩn bị đem đi mai táng rồi. ******** Vua mới lên ngôi, quốc sự nặng nề, ba vị đại học sĩ bận tới mức không thể giải quyết hết việc. Họ cũng không hề quên đồng liêu đang bị giam ở thiên lao, nhưng dù họ nhiều lần cầu khẩn hoàng đế Chính Đức đặc xá tội bất kính cho Vương Quỳnh, nhưng Chính Đức lại hoàn toàn không thèm để ý. Có chư vị đại nhân Lục Bộ Cửu Khanh chiếu cố, Vương lão thượng thư không hề chịu khổ sở gì trong ngục tối, nhưng một vị cựu thần mà bị giam trong ngục hơn mười ngày như vậy, khó tránh khỏi việc đám triều thần cũng nhao nhao bàn luận. Họ không dám phỉ báng hoàng đế nhưng không khỏi giận chó đánh mèo, căm ghét Dương Lăng ra mặt. Phần lớn đám quan văn gặp Dương Lăng đều lạnh mặt làm ngơ, khiến cho Dương Lăng cảm thấy rất xấu hổ. Thật ra Dương Lăng cũng có nói giúp cho Vương Quỳnh nhiều lần. Chỉ là Chính Đức vừa nghĩ tới việc lão gia hỏa đó hung hăng trước mặt mình, phun cả nước bọt vào mặt mình, điệu bộ cực kỳ kiêu ngạo làm cho hắn cực kỳ căm hận, nên hắn rắp tâm muốn dạy cho lão một bài học. Vì vậy, cho dù Dương Lăng cầu xin cũng không được hắn xem xét. Lúc này, Ngự Mã Giám vừa mới phụng chỉ tiếp quản hoàng cung, Dương Lăng cùng Miêu Quỳ bàn giao cung cấm. Sau khi để năm trăm thân vệ tạm ở lại hoàng cung, những quan binh khác lập tức được cử tới Thái Lăng đôn đốc việc xây dựng hoàng lăng. Tất cả mọi việc xử lý xong xuôi, Dương Lăng chạy về Càn Thanh Cung. Vừa mới đi đến cửa điện, y đã thấy hai vị đại nhân Vương Ngao, Dương Phương từ trong cung mặt mũi nặng chịch đi tới. Dương Lăng thấy vậy vội dừng chân chắp tay thi lễ. Hai người thấy Dương Lăng làm vậy cũng không thèm để ý tới, chỉ cười lạnh một tiếng rồi phẩy tay áo bỏ đi. Dương Lăng biết những người đối xử với mình như vậy đều là những đại thần thẳng thắn trung trinh, do ma xui quỷ khiến thế nào mà họ lại cho mình là kẻ gian nịnh. Y chỉ có thể lắc đầu cười khổ, bước vào đại điện. Tiểu hoàng đế đang lẩm bẩm đọc, phê các bản sớ, duyệt xong là tiện tay vứt sang một bên. Lưu Cẩn cắp phất trần đứng hầu bên cạnh. Lão vừa nhìn thấy Dương Lăng liền khẽ cười, đưa tay lên muốn chào hỏi. Mấy ngày nay ở gần với nhau đã quen, Dương Lăng cũng biết tiểu hoàng đế cực kỳ hiền hoà, bởi vậy y ra hiệu cho Lưu Cẩn im lặng, rồi lặng lẽ đi tới bên người Chính Đức. Trong những bản tấu đã được phê đang được đặt ở trên bàn, Dương Lăng thấy một bản phê rằng: - Tiền khuyến học cũng cần thiết. Thế nhưng muốn sao chép mọi thứ từ thời Tam Hoàng Ngũ Đế tới nay à? Nếu e thừa quá nhiều giấy mực, cứ đưa bớt cho trẫm. Một bản khác thì viết: - Những việc nhỏ như thế này thì quan viên địa phương có thể làm. Nếu cái gì cũng cần trẫm phê duyệt, vậy các ngươi để làm gì? Dương Lăng nhìn bản tấu chương này thấy đầy những chữ cực nhỏ dày đặc. Y đã biết cho dù là tấu chương của ai viết đi nữa, những dòng đầu cũng đều chỉ nói vài lời vấn an ca ngợi khách sáo, gần như có thể bỏ qua không cần xem nên y vội liếc xuống phía dưới. Trong bản tấu chương viết đại ý là ở khu Bách Việt, có dân chúng lấy lúa nước của An Nam lai tạo với lúa của ta, sản xuất ra một loại gạo mới, có thể chịu hạn, chống côn trùng tốt hơn, sản lượng cũng tăng lên, xin Hoàng Thượng cho nhân giống, phát triển. Dương Lăng đọc xong tấu chương đó, vội hỏi: - Hoàng Thượng! Dân lấy ăn mặc là quan trọng, nếu giống gạo mới có thể tăng sản lượng, dù chỉ là một mẫu tăng mười cân, thì phần tăng thêm trên đồng ruộng cả nước đâu chỉ là ức vạn? Hoàng Thượng không nên xem thường. Chính Đức vừa quay đầu lại, nhìn thấy là y bèn vui vẻ nói: - Ngươi trở lại rồi à! Trẫm đang muốn bảo người đi tìm ngươi. Trẫm muốn lưu Tả Tiêu quân của ngươi ở kinh sư, đám đại học sĩ không chịu. Lưu Cẩn đưa ra một ý rất hay: xung quanh kinh sư qui hoạch một ngự trang bảy tòa, nhân mã của ngươi nhậm chức thị vệ thân quân cho trẫm, đóng quân trong ngự trang. Ha ha, sau đó họ không dám nói gì nữa. Dương Lăng nghe xong không khỏi cả kinh. Chẳng phải làm như vậy thì mình sẽ càng trở thành mục tiêu công kích sao? Quy hoạch ngự trang, dân chúng trong ngự trang sẽ nộp thuế ruộng cao hơn dân chúng bình thường vài phần. Dân chúng khổ không nói ra được, phần tội lỗi này cũng sẽ đổ lên đầu mình rồi. Y không khỏi tức giận liếc mắt nhìn Lưu Cẩn. Lưu Cẩn đứng bên cạnh Chính Đức với vẻ mặt vô cùng đắc ý, còn cảm thấy mình đã làm một việc rất tốt cho Dương Lăng. Lão vui vẻ xem cái liếc mắt của Dương Lăng là cái nhìn cảm ơn của Uy Vũ Bá. Dương Lăng không khỏi thở dài, bỏ qua không nói về việc này nữa, y quay sang bản tấu chương: - Hoàng Thượng! Hẳn là nên giao bản tấu chương này cho ba vị đại học sĩ bàn bạc một chút. Gạo đã kháng côn trùng, chống hạn tốt lại có thể tăng sản lượng, thật rất có lợi cho dân chúng Đại Minh. Bệ hạ nên giao cho một địa phương nào đó trồng thí nghiệm, nếu thật sự hiệu quả như vậy, sẽ nhân rộng ra. Dân chúng nhận được ơn huệ, ai mà không cảm động ân đức của Hoàng Thượng chứ? Y thấy Chính Đức nghe mà không để tâm lắm, không khỏi linh cơ máy động, nói luôn: - Nếu gạo này thật sự hiệu quả, vậy là tuệ nhãn của Hoàng Thượng rất cao. Lúc đó thần xin dùng niên hiệu của Hoàng Thượng mà đặt tên, gọi là ”gạo Chính Đức”, như thế sẽ thiên thu muôn đời ai ai cũng đều nhớ tới Hoàng Thượng. Y vừa nói như vậy, quả nhiên khiến Chính Đức cao hứng. Hắn vui vẻ phán: - Dương khanh nói có lý. Cứ như vậy đi! Những quan lại địa phương tự mình thí nghiệm loại này. Mỗi nhà không được ít hơn hai mẫu. Khi có kết quả khả quan sẽ nhân rộng ra. Hắn vội vàng lấy lại bản tấu chương đó, viết lại ý kiến phúc đáp lên, rồi bảo tên tiểu thái giám bên cạnh: - Lập tức đưa cho đại học sĩ duyệt rồi làm việc. Chuyện này đã gợi lại chuyện vẫn trĩu nặng trong lòng Dương Lăng. Y nhớ lúc mình còn ở Kê Minh dịch, Hàn Lâm từng có mấy củ khoai lạ, người phương bắc đều rất quí trọng nó. Bây giờ đã là tháng năm rồi, rốt cuộc hiệu quả của giống lúa mới như thế nào, e rằng phải qua năm sau mới biết được. Trong khi đó mình biết mấy thứ khoai lạ nhất định sẽ cho sản lượng lớn. Lưu Cẩn khuyên hoàng đế mở ngự trang tuy là một chuyện xấu, nhưng nếu ta có thể thuyết phục Hoàng đế đồng ý nhân giống loại cây đó bên trong ngự trang thì khi mọi người đều biết chỗ tốt của nó, đương nhiên dân chúng sẽ tích cực ủng hộ. Kinh sư là căn bản của thiên hạ, dân chúng nơi đây đã trồng loại lương thực này thì chẳng bao lâu loại cây này sẽ được phổ biến khắp cả thiên hạ. Dương Lăng càng nghĩ càng cao hứng, nhưng tính toán mãi mà chưa biết làm sao mở lời. Lưu Cẩn cười nói: - Dương đại nhân! Đội quân của ngài cư trú ở kinh thành, chúng ta có thể thường xuyên gặp nhau trước mặt bệ hạ rồi. Ha ha, vừa rồi hai người Dương Phương, Vương Ngao cầm tấu chương về việc Tín Dương lũ lụt tới gặp Hoàng Thượng, nghe nói Hoàng Thượng muốn qui hoạch một ngự trang để cho ngài đóng ở kinh thành, cả hai còn đưa lời gièm pha ngăn cản nữa. Dương Lăng biết đây là Lưu Cẩn muốn tốt cho mình, nhưng vừa nghe chuyện Tín Dương lũ lụt, còn có người dâng lên tấu chương, y không khỏi giật mình. Đã bao nhiêu ngày qua rồi mà triều đình vẫn còn chưa xử lý, nếu có người chết đói thật, chẳng phải dồn ép dân chúng tạo phản sao? Y vội vàng truy vấn: - Sao vẫn còn chưa phát chẩn lương thực cứu trợ nạn nhân ở Tín Dương thế? Chính Đức trả lời: - Lưu đại học sĩ đã hạ lệnh phân phối thuế ruộng để cứu tế rồi, nhưng bọn hắn lòng tham không đáy, còn muốn trẫm miễn thêm cho Tín Dương ba năm thuế ruộng. Lũ lụt thôi, là đại nạn nhất thời thôi, lũ lui thì đâu có sao, cũng chẳng có gì to tát, cần gì phải miễn ba năm thuế ruộng chứ? Ta vừa rồi suýt nữa bị đám đó khóc lóc nỉ non lừa bịp, may mà có Lưu Cẩn nhắc nhở, mới không mắc bẫy họ. Dương Lăng cảm thấy hơi không ổn, vội tâu: - Hoàng Thượng! Hà Nam lắm tai nhiều nạn, dân chúng phần lớn không còn lương thực dư thừa, việc cứu tế chỉ giải quyết việc đói lạnh nhất thời cho họ mà thôi. Huống hồ sau lũ tất có ôn dịch, dân chúng đã túng lại nghèo, rất vất vả mới qua khỏi. Nếu có thể giảm miễn một vài thứ thuế ruộng để dân chúng còn tia hi vọng, nghỉ ngơi lấy lại sức, với nước với dân đều là chuyện tốt mà. Mặt Lưu Cẩn hơi lộ vẻ bực bội, lão đáp: - Dương đại nhân có lòng nhân hậu, thương cho dân chúng. Nhưng những quan chức làm tổn hại triều đình, lấy lòng địa phương thật sự không ít đâu. Một khi đã làm một lần, sau này chẳng biết sẽ có bao nhiêu quan chức nhân dịp thiên tai tới xin Hoàng Thượng miễn này miễn kia, như vậy triều đình chẳng còn thuế má gì cả à? Chính Đức vừa nghe xong gật đầu nói ngay: - Đúng rồi, đúng rồi! Lưu Cẩn nói có lý. Ta thấy bọn hắn báo cáo rất quá đáng, một lần lũ lụt là lũ lụt cả ngàn dặm được sao? Không thể dung túng cho bọn họ. Lưu Cẩn lại nói tiếp: - Trước giờ vẫn không có một quy chế nào về việc triều đình kiểm tra thuế ruộng tại địa phương, việc điều tra cũng không cẩn thận. Trong kho của phủ họ có tiền có lương thực, họ cũng vẫn cứ lên triều đình khóc than. Hoàng Thượng tuổi nhỏ, không thể nào để đám bầy tôi đó che mắt. Lão nô đề nghị Hoàng Thượng thiết lập quy định, hàng năm đều phải phái người tuần tra việc thu thuế ruộng các nơi, tự mình phải có tính toán mới không bị các quan lừa. Dương Lăng kinh ngạc liếc nhìn lão, y không nghĩ tới tên Lưu Cẩn dốt nát, chỉ biết hại người này còn có cả những ý kiến sâu sắc như thế. Đời nay thông tin phát triển, quy định kiện toàn mà còn phải có những cơ quan kiểm toán hàng năm đi thẩm tra các nơi. Đại Minh lúc này giao thông không tiện, tin tức tắc nghẽn, nếu không tăng cường quản lý tài chính các nơi thì rất bất lợi cho triều đình. Nhưng chuyện tốt này nếu chỉ cắt cử bọn thái giám nội quan đi chấp hành, chỉ sợ bọn họ ngoài mặt lấy lòng hoàng đế, bên trong thì trung gian kiếm lời bỏ phần lớn vào túi riêng. Lúc đó lại xuất hiện một đám chuyên lột da, vơ vét, chuyện tốt cũng thành chuyện xấu. Dương Lăng vội bổ sung: - Chủ ý này rất tốt, phải tăng cường việc khống chế của triều đình với địa phương mới có lợi. Hoàng Thượng nên bảo bộ Hộ định ra quy tắc, để họ hàng năm phái người đi chấp hành. Lưu Cẩn thấy y đồng ý với mình, lập tức mặt đỏ lên. Lúc này lão còn chưa nghĩ tới việc mưu tìm lợi lộc gì, chỉ muốn đứng trước mặt hoàng thượng khoe khoang bản lĩnh một chút. Dương Lăng là cận thần thiên tử, là Uy Vũ Bá, thi thư giỏi hơn lão vốn chỉ vò vè vài chữ không biết bao nhiêu lần. Thấy Dương Lăng tán thành quan điểm của mình, Lưu Cẩn chợt phát hiện mình không phải chỉ là người hầu hạ kẻ khác, hóa ra mình cũng có bản lĩnh thực sự. Lão nhất thời cao hứng, lập tức đĩnh đạc tâu: - Nô tài còn nghĩ rằng Dương Phương, Vương Ngao tỏ vẻ tận tâm cho Tín Dương như thế, là bởi vì bọn họ là quan chức gốc Tín Dương nên thiên vị quê nhà. Quan chức trong triều mà còn như thế, chắc chắn quan viên địa phương còn quá đáng hơn nhiều. Để phòng ngừa quan hệ ràng buộc, hoà hiếu kết giao rồi nhận hối lộ, quan viên địa phương cả nước không được nhậm chức ở tỉnh của mình. Cũng cùng lý do như thế, Ngự sử thủy vận không thể để cho người Giang Nam đảm nhiệm. Dương Lăng nhướng mày, thầm nghĩ: “Lưu Cẩn không phải là người tốt, lão dùng tâm tiểu nhân để đo lòng quân tử, xem mọi người đều nghĩ như lão. Đâu phải các người làm quan đều là một lũ mưu lợi riêng làm rối kỉ cương chứ?” Nhưng y nghĩ lại, loại phương pháp này thật sự có thể phòng ngừa việc tư thông ở một mức độ nhất định. Dương Lăng bèn tâu: - Lưu công công tâu rất có lý. Nhưng phần lớn người có học trong thiên hạ đều tập trung ở vài nơi. Nếu khi cử quan chức mà không cho phép nhậm chức tại tỉnh của mình, sẽ có nhiều quan chức không thể phân bổ được. Không bằng quy định để tránh hiềm nghi, quan chức tỉnh giàu có không được nhậm chức tại tỉnh của mình, như vậy mới có thể còn rộng đường lựa chọn cắt cử hơn. Sau khi lên ngôi, Chính Đức chưa nghĩ được cao kiến gì để có thể tuyên bố chiếu thư hiển thị bản lĩnh của tân đế. Vừa nghe Lưu Cẩn đề ra hai điều mà Dương Lăng đều đồng ý cả, còn bổ sung cho hoàn thiện, hắn liền cảm thấy hứng thú. Hắn nhấc bút lên chăm chú ghi lại, đem nó trở thành hai chính sách mới được ban bố ngay khi mình vừa nắm triều chính. *************** Chính Đức vừa làm hoàng đế nên còn khá là chăm chỉ, nhưng những bản sớ ấy viết vừa xấu lại vừa dài, nội dung lại cực kỳ khô khan vô vị. Hắn phê một lát thì cảm thấy bực mình, bảo Lưu Cẩn cùng hắn đi chơi. Dương Lăng một mình đi ra khỏi Càn Thanh Cung, dừng chân chốc lát dưới mái đình trước cửa cung. Bây giờ, nhân mã tứ vệ Ngự Mã Giám đã hồi cung, y không cần phải ở lại trong cung nữa. Nhưng mới vừa rồi Hoàng Thượng chưa có ý cho y rời đi, mà y cũng chưa tìm được cơ hội mở lời. Ngẫm lại từ khi y lãnh binh vào núi cho tới lúc vào đóng quân trong hoàng cung, nay đã hơn một tháng rồi. Y và Ấu Nương có thể nói là gần nhau trong gang tấc mà cách mặt cả biển trời. Cùng ở trong thành Bắc Kinh, đường đi cũng chẳng bao xa, nhưng lại không được gặp lại nhau, thật sự trong lòng y rất nhớ nhung. Hôm nay không tiện đi, đợi vài ngày nữa là có thể về nhà rồi. Tiểu nha đầu đó có nhớ ta không, có gầy đi không? Dương Lăng nghĩ đến bé con yêu kiều đáng yêu, thân thể không khỏi nóng lên, hận không thể lập tức bay về, ôm lấy Tiểu nương tử yêu dấu đầy xinh xắn, đầy hiểu biết vào lòng hôn hít một phen. Đầy tình ý phấp phới, y ngẩn người nhìn vào viện. Một vị quan văn đang đi vào cung, bắt gặp y đứng đờ người trước cửa cung vội băn khoăn bước tới. Người nọ liếc nhìn y, gương mặt dày như vỏ quít mang theo nụ cười khiêm tốn, chắp tay thi lễ: - Vị này có phải là Uy Vũ bá Dương đại nhân không? Hà hà, quả nhiên là Dương đại nhân! Dương Lăng đang ngơ ngẩn, quay đầu lại thấy đó là một vị quan văn hơi quen mặt. Tuổi người này sợ cũng phải bảy mươi rồi, trên quan phục có thêu một con gà, xem ra là quan nhị phẩm. Dương Lăng vội chắp tay chào: - Hạ quan thất lễ, đại nhân là... Lão đại nhân cười khà khà: - Lão phu là Tiêu Phương, thị lang bộ Lại. Dương Lăng vội đáp: - Thì ra là Tiêu đại nhân! Tiêu đại nhân... muốn vào gặp Hoàng Thượng à?

Chương 90: Tiêu Phương Dùng Kế Dịch: workman Biên dịch: TheJoker Biên tập: Ba_Van Hiệu đính: Nguồn: www.tangthuvien.com Chính Đức nghe xong, không dám tin bật thốt: - Hà Nam là nơi cằn cỗi như thế sao? Những bảo vật nơi ấy chỉ là ... chỉ là bò cạp, ve sầu, xâu tiền sao? Đáng thương! Thật là đáng thương! ------------------------ Chương chín mươi Tiêu Phương Dùng Kế ------------------------ Tiêu Phương cười nhẹ: - Đúng vậy! Chỉ là... hai vị đại nhân Vương Ngao và Lưu Phương vừa mới bị hoàng thượng từ chối thẳng thừng, lão phu sợ mình cũng sẽ bị đuổi cổ ra thôi. Dương đại nhân là bầy tôi đắc lực trước mặt Hoàng Thượng, có chuyện này lão phu muốn nhờ đại nhân hỗ trợ dâng lời. Dương Lăng chợt máy động trong lòng, giật mình hỏi: - Đại nhân cũng là vì việc Tín Dương mà tới à? Không dối đại nhân, khi nãy hạ quan cũng đã khuyên Hoàng Thượng rồi... Dương Lăng kể lại từ đầu chí cuối việc vừa rồi cho lão nghe, rồi khẽ thở dài: - Hoàng Thượng ít tuổi, hãy còn chưa hiểu chuyện dân gian, có một số việc chưa chắc có thể trình bày rõ ràng được với Hoàng Thượng. Hiện nay hạ quan cũng chẳng còn biện pháp gì nữa! Tiêu Phương không giống bọn người Vương Ngao, Dương Phương chú trọng đến khí phách thư sinh. Mặc dù tuổi quá thất tuần, râu tóc bạc phơ nhưng tấm lòng nhiệt tình mưu cầu danh lợi của lão lại chẳng hề giảm bớt. Bây giờ Dương Lăng đang là nhân vật được Chính Đức coi trọng nên lão đã có ý muốn kết giao, vì vậy tuy quan chức cao hơn Dương Lăng, nhưng lão lại có thái độ cực kỳ khiêm tốn với y. Nghe Dương Lăng nói xong, Tiêu Phương cau đôi mày bạc trắng, suy nghĩ rất lâu rồi cẩn thận nói: - Hoàng Thượng từ bé đã ở trong cung, chẳng biết nỗi khổ của dân gian cũng là lẽ thường. Không giấu gì Dương đại nhân, lão phu là người Bí Dương, Hà Nam, quê nhà cũng đang chịu phải tai ương, khắp chốn Hà Nam lúc này nạn dân kêu khóc đòi ăn, người bị nạn nào chỉ có ở một nơi. Bạn bè thân hữu ở Bí Dương và Tín Dương đều lên kinh nhờ vả, dù thế nào lão phu cũng phải cố gắng nói một lời trước mặt hoàng thượng. Nếu đã không thể can gián trực tiếp thì lão phu nghĩ nên đi đường vòng. Có điều việc này vẫn phải nhờ Dương đại nhân giúp đỡ, mong rằng Dương đại nhân sẽ tương trợ. - Ồ! Nếu có thể giúp đỡ cho người dân đang khốn khó, Dương Lăng sẽ không chối từ. Không biết lão đại nhân có cao kiến gì? Dương Lăng vội hỏi. Tiêu Phương nghe y đồng ý, lập tức vui vẻ kề tai nói nhỏ với y một hồi. Dương Lăng nghe xong ngạc nhiên nhìn lão, thầm nghĩ: “Tuy rằng hoàng đế trẻ người non dạ, nhưng cũng đã là thiếu niên mười lăm sáu tuổi rồi; tuy y rất ham chơi, nhưng liệu y lại khoái mấy thứ trò chơi con nít này sao?” Nhưng vị lão đại nhân này đã nói thế, mình cũng không ngại giúp lão một tay, nếu có thể thành công thì quả là công đức vô lượng rồi. Dương Lăng bèn gật đầu đáp: - Cứ như vậy đi, ty chức đi đây. Ngày mai đại nhân chuẩn bị sẵn đồ vật cho tốt chờ Hoàng Thượng triệu kiến là được. ************************** Kết thúc buổi triều sớm, hoàng đế Chính Đức bãi giá về điện Trung Hoà. Vừa vào cửa điện, hắn đã ngáp một cái rõ to, càu nhàu với Dương Lăng đang đứng đợi: - Ngày nào cũng khởi giá sớm như vậy, thực mệt chết đi được. Đáng ghét nhất là cái ngai vàng. Ta có thể nói kẻ chế ra cái ngai vàng này nhất định có thù oán với hoàng đế. Cái bản ghế quá cứng, ngồi rất khó chịu; lưng ghế quá sâu, không dựa lưng được; tay vịn hai bên lại quá xa, muốn dựa vào một chút cũng không xong. Rõ là muốn người ngồi trên đó mệt bao nhiêu là cho mệt bấy nhiêu. Dương Lăng nghe xong cảm thấy hơi buồn cười, chợt nhớ Đại Minh từng có vị hoàng đế làm thợ mộc, nhưng theo trí nhớ thì dường như không phải là hắn. Nghe hắn nói rõ ràng mạch lạc như vậy, chẳng lẽ con cháu họ Chu đều có thiên phú làm thợ mộc à? Cốc Đại Dụng thấy hoàng đế nói về mấy chuyện này bèn vội đuổi đám cung nữ thái giám ra ngoài hết. Tuy Lưu Cẩn là người tâm phúc của hoàng đế Chính Đức, nhưng chức vụ hiện nay của lão vẫn còn chưa thay đổi, vẫn là thái giám thủ lĩnh của Chung Cổ ty. Khi bên này bãi triều, lão phải chỉ huy gõ chuông giống trống ở bên kia, bận rộn vô cùng, cho nên lúc này không có thời gian chạy tới hầu hạ hoàng thượng. Còn bọn Mã Vĩnh Thành và Trương Vĩnh thì ai nấy đều có công việc riêng, do đó bên cạnh hoàng đế chỉ có mỗi mình Cốc Đại Dụng hầu hạ mà thôi. Chính Đức ngồi xuống sau long án, lấy từ trong hộp gấm trên bàn ra một chiếc bánh ngọt xốp giòn, vừa ăn nhồm nhoàm, vừa lúng búng nói: - Được rồi! Ngươi nói Hà Nam có nhiều bảo vật, hôm nay muốn cho người đến tiến cống vài món đồ hiếm lạ. Vậy mau lấy ra cho ta coi. Dương Lăng mỉm cười đưa mắt ra hiệu cho Cốc Đại Dụng. Sớm được y dặn dò, Cốc Đại Dụng vội đi ra trước điện, cao giọng gọi: - Tuyên thị lang bộ Lại Tiêu Phương vào yết kiến! Chỉ lát sau, Tiêu Phương đầu tóc tóc bạc phơ, tay tuồn vào trong ống tay áo, chạy chầm chậm từ trước điện lại. Đến cửa điện lão thở phì phò một hồi rồi mới rảo bước qua bậc cửa, quỳ sụp xuống, hô to: - Thần Tiêu Phương ra mắt hoàng thượng! Chính Đức uống một ngụm trà, cười toe toét bảo: - Tiêu ái khanh hãy đứng lên! Trẫm nghe nói Hà Nam có nhiều bảo vật, khanh có đem theo không, mau lấy ra cho ta xem thử. Tiêu Phương dập đầu tâu: - Khải bẩm Hoàng Thượng, vùng Hà Nam không có vàng, không có bạc, không có ngọc ngà châu báu. Cái gọi là bảo vật chẳng qua là những sinh vật hiếm khi thấy được ở những vùng khác, thần sợ sẽ làm kinh động thánh giá. Chính Đức vừa nghe lập tức mừng rỡ. Mấy thứ vàng bạc châu báu thì có gì mà xem? Vừa nghe lão nói là có những sinh vật hiếm lạ, khó thấy được nơi khác, trong lòng y càng ngứa ngáy hơn, tâm tính thiếu niên cũng lập tức nổi lên, Y bất chấp uy nghi hoàng thượng, vỗ bàn cười, sốt ruột giục: - Mau lên! Mau lấy ra cho trẫm xem một chút, trẫm thích mấy thứ này lắm. - Dạ, vi thần tuân chỉ! Tiêu Phương ngẩng đầu liếc mắt nhìn Dương Lăng. Dương Lăng mỉm cười, khẽ kín đáo gật đầu với lão, lúc này Tiêu Phương mới yên tâm. Hôm nay lão lên đây hiến lời ngay, thực sự cũng rất phiêu lưu mạo hiểm. Nếu hoàng thượng nhìn thấy vật do lão trình lên, chẳng những không thích mà còn nổi giận, lão sẽ thành ra trộm gà không được mà còn bị ăn mất nắm gạo, không khéo phải vào thiên lao bầu bạn với Vương Quỳnh Vương đại nhân chứ chẳng chơi. Bây giờ có Dương Lăng gật đầu nhận hỗ trợ, nếu lát nữa chẳng may hoàng thượng phát hoả, có y bảo kê hẳn sẽ không sao. Tiêu Phương lấy từ trong tay áo ra ba hộp nhỏ, cung kính dâng lên, nói: - Quê nhà của thần không sản sinh ra bảo vật gì khác, chỉ có mấy thứ hiếm lạ này, mời hoàng thượng ngự lãm. Chính Đức sốt ruột: - Đưa lên đi! Mau đem qua cho trẫm xem. Tiêu Phương đứng dậy bước tới trước, đặt ba chiếc hộp trên long án trước mặt Chính Đức rồi cẩn thận mở một hộp ra, nhè nhẹ đẩy tới trước mặt Chính Đức. Chính Đức mở to hai mắt chăm chú nhìn. Hắn thấy trong hộp có một con vật có mấy cái chân màu vàng óng, gần như trong suốt, trên lưng là một lớp vỏ đen xì, dày cứng, cái đuôi giương cao quắp lại thành móc câu, trông như đại tướng quân uy vũ. Hắn không khỏi ngạc nhiên cười hỏi: - Đây là con gì vậy? Trông thật thú vị! Hắn vừa nói vừa thò tay vào định sờ, Dương Lăng vội giữ tay hắn lại, can: - Hoàng Thượng cẩn thận! Con vật này gọi là bò cạp, là độc vật. Nếu bị cái móc trên đuôi nó chích trúng sẽ đau đớn không chịu được, chớ có đụng vào nó. Chính Đức thích chí: - Thì ra con vật đáng yêu này chính là bò cạp à, trông thật đẹp và oai vệ. Trẫm có nghe qua về 'Ngũ Độc'*, đáng tiếc lại chưa được thấy. Hôm nào tập hợp những độc vật này lại cùng một chỗ, cho chúng đánh nhau xem thử con nào độc hơn. Trong hộp đó còn có cái gì nữa, đem cả ra đây xem nào! (*:gồm bò cạp, rắn, rết, thạch sùng và cóc) Cốc Đại Dụng cầm nắp đậy cái hộp đó lại, rồi mở một cái khác ra. Trong hộp có một con gì đó trông mềm mềm, đen thui, bò tới bò lui trong hộp rất nhanh. Chính Đức thấy vậy không thích, nhíu mày hỏi: - Đây là con gì? Tiêu Phương đáp: - Hồi bẩm Hoàng Thượng, con vật này tên là con xâu tiền*. Cuộc sống của dân chúng Hà Nam nghèo khổ, trên người không có tiền, nhìn thấy con vật này giống như một dây để xâu tiền, bèn dùng nó để trêu đùa, mong có ngày gia cảnh sung túc hơn. (*: hay còn gọi là du diên, tên khoa học là Thereuonema tuberculata) Chính Đức ờ một tiếng, nhạt nhẽo phán: - Con xâu tiền trông chán chết! Còn hộp thứ ba là gì? Tiêu Phương mở hộp cuối cùng. Nắp hộp vừa mở ra, chỉ nghe một tiếng vù, một con vật từ trong hộp bay ra, bay vòng quanh điện vài vòng, rồi kêu lên một tiếng bay vụt ra khỏi cửa điện. Hoàng đế Chính Đức nhìn mà há hốc mồm, ngạc nhiên thích thú hỏi: - Đây là vật gì, là chim à? Sao lại bay đi rồi? Dương Lăng thấy mấy con vật bình thường như vậy mà hoàng đế Chính Đức đều chưa thấy qua, xem ra thật là đáng thương. Nhưng ngẫm lại có những đứa trẻ đô thị tới nông thôn, ngay cả cây ngô (bắp) non cũng không nhận ra, còn lấy làm lạ là tại sao lại có thứ cỏ dại trông thẳng tắp như vậy. Cho nên vị hoàng đế này không biết mấy thứ nọ cũng không có gì là lạ. Dương Lăng bèn cười đáp: - Hoàng Thượng! Con vật đó gọi là con ve, cũng được gọi là ve sầu. Vì tiếng kêu của nó như hai chữ 've sầu' (nguyên văn “tri liễu”). Con vật này ăn gió uống sương, lấy nhựa cây làm thức ăn. Tuy Tiêu Phương đọc rất nhiều sách, nhưng xưa nay mọi người đều cho rằng con ve uống sương mà lớn, còn có người chuyên làm thơ phú để ca ngợi sự cao thượng của con ve. Đây là lần đầu lão nghe nói con ve hút nhựa cây nên không khỏi liếc mắt nhìn Dương Lăng, nhưng rồi lập tức phụ họa: - Dương đại nhân nói đúng đó! Mấy năm nay Hà Nam nếu không hạn hán thì là lụt lội, đất đai không trồng trọt được lương thực, đến cả chim chóc cũng sắp chết đói, chỉ có những con vật không cần ăn gì thì mới có thể sống được. Chính Đức nghe xong, không dám tin bật thốt: - Hà Nam là nơi cằn cỗi như thế sao? Những bảo vật nơi ấy chỉ là ... chỉ là bò cạp, ve sầu, xâu tiền sao? Đáng thương! Thật là đáng thương! Nhân cơ hội, Tiêu Phương bèn quỳ xuống tâu: - Hoàng Thượng từ bi, dưới sự trị vì của tiên đế và hoàng thượng, vốn là quốc thái dân an, dân chúng an cư lạc nghiệp. Thế nhưng không hiểu sao mà mấy năm nay Hà Nam liên tiếp bị thiên tai, do đó đời sống dân chúng rất khổ cực, mặc dù chưa tới nỗi ”đổi con cho nhau để ăn”, nhưng có rất nhiều người dân không kiếm được ba bữa. Hai ngày trước, thần gặp vài người đồng hương chạy nạn tới đây, thần mới biết mức độ nghiêm trọng của tình hình thiên tai ở cố hương. Thần là người Hà Nam, nhưng đồng thời cũng là bề tôi của Hoàng Thượng, do đó không dám thổi phồng việc này, e làm rác tai bệ hạ, đồng thời cũng không dám không báo cho Hoàng Thượng. Do đó thần mạo muội tâu lên, xin Hoàng Thượng làm chủ cho dân chúng Hà Nam. Chính Đức lúc này mới rõ ý lão. Hắn nhìn các hộp gỗ trên bàn một lúc, rồi bật cười: - Tiêu thị lang rất có thủ đoạn! Thôi được, trẫm sẽ chuẩn những tấu chương của những quan viên Hà Nam các ngươi, miễn thuế ruộng cho Hà Nam. Đã ban ân đức, phải ban nhiều một chút, vậy trẫm sẽ miễn... cho Hà Nam năm năm thuế khóa, khanh thấy thế nào? Tiêu Phương vừa nghe liền mừng như điên. Lão quỳ sụp xuống đất, dập đầu lia lịa, liên thanh ca ngợi Hoàng Thượng thánh minh, rồi một loạt những từ ngữ ca ngợi thao thao bất tuyệt được tuôn ra như nước lũ tràn bờ, khiến cho cả Chính Đức nghe xong cũng chịu không nổi. Hắn bụm miệng cười ha hả rồi bảo: - Đủ rồi! Đủ rồi! Khanh hãy lui xuống đi, lát nữa ngọ triều trẫm sẽ hạ chỉ là được. Chính Đức đảo mắt nhìn thấy Dương Lăng đang đứng một bên cười tủm tỉm, không khỏi mỉm cười, giả vờ giận dữ trừng mắt nhìn y, nói: - Khanh chớ đắc ý! Hôm nay trẫm tưởng có vật hiếm lạ để chơi, nhưng lại rất thất vọng. Chuyện này vẫn ở trên người khanh! Trong vòng ba ngày, khanh phải tìm mấy thứ đồ chơi thật tốt cho trẫm xem! Dương Lăng cười hì hì vâng lệnh, rồi cùng thị lang bộ Lại Tiêu Phương dập đầu tạ ơn, cùng nhau lui ra khỏi đại điện. Tiêu Phương kéo tay Dương Lăng liên tục cảm ơn, cao hứng tới mức nói năng lộn xộn. Dương Lăng nghe lão nói người Hà Nam nhất định sẽ đội ơn y lần này, bèn không khỏi cười nói: - Việc này cũng không hẳn! Đại thần trong triều nhiều người hiểu lầm với hạ quan, e rằng... ngay cả hai vị đại nhân Dương Phương và Vương Ngao là người Hà Nam cũng vẫn xem tại hạ như giặc. Tiêu Phương khoát tay khinh thường nói: - Chớ để ý đến đám người đó. Dân chúng chỉ biết ai cho họ cơm ăn, ai cứu mạng sống của họ. Còn đám người chỉ biết lễ giáo, chẳng biết thực hành đó, đại nhân đừng để ý tới họ. Tiêu Phương là tiến sĩ năm Thiên Thuận thứ tám. Đầu năm Hoằng Trị được điều tới Hoắc Châu làm Tri phủ, được đề bạt làm Đề học phó sứ ở Tứ Xuyên , rồi được điều tới Hồ Quảng, không lâu sau, lại thăng làm Hữu thông chánh ở Nam Kinh, sau lại được thăng làm Hữu thị lang bộ Lễ, cho đến giờ thì ngồi vào vị trí thị lang bộ Lại . Để hiển thị tài hoa của mình, lão thường xuyên dâng thư tấu sự, đưa ra những kiến giải của mình đối với sự việc trong triều đình và địa phương, hy vọng có thể khiến cho hoàng đế Hoằng Trị coi trọng và trọng dụng. Đáng tiếc quan viên khi ấy hoặc nhiều hoặc ít đều có địa bàn của mình. Lão lần lượt nhậm chức bộ Lễ và bộ Lại, hai thượng thư Vương Quỳnh và Mã Văn Sinh tuy rất trung thành với triều đình, nhưng về mặt đạo đức cá nhân cũng không thể thập toàn thập mỹ được: bản sớ của Tiêu Phương thường bị bọn họ gạt bỏ không trả lời. Vì phần lớn những quan viên này là người phương nam nên Tiêu Phương rất oán hận đám quan viên phương nam. Lúc này trong triều ngoại trừ đại học sĩ Lưu Kiện, những người nắm quyền phần lớn là tài tử vùng Chiết Giang, Hồ Nam và Giang Tây. Do đó quan viên trong triều mà lão nhìn vừa mắt cũng chẳng có mấy ai. Dương Lăng đến từ Kê Minh, là đồng hương phương bắc, lại là cận thần của thiên tử, hơn nữa vừa rồi lại giúp đỡ nhiệt tình khiến lão có thể ăn nói với các phụ lão ở quê nhà, trong lòng Tiêu Phương tự nhiên cảm kích tới rơi nước mắt. Nghe Dương Lăng nói y bị triều thần kỳ thị, Tiêu Phương nhớ tới những bản sớ của mình bị gạt bỏ, không khỏi dâng lên mối đồng cảm, lập tức chắp tay: - Việc thiện hôm nay của Dương đại nhân sẽ cứu sống mấy chục vạn dân chúng Hà Nam. Sau này nếu đại nhân có gì sai khiến, chỉ cần nói một tiếng, lão phu nếu có khả năng, quyết sẽ không chối từ. Dương Lăng cười cười cám ơn, rồi chắp tay tiễn vị đại nhân này đi. Lúc này y chỉ nghĩ mạng mình có hạn, cố sống sao cho vui vẻ một chút, nếu có thể tiện tay làm chuyện tốt thì cứ làm một ít. Mặc dù đây là cơ duyên người khác cầu cả đời cũng không được, nhưng y lại không có chí lớn gì, do đó y hoàn toàn không để tâm đến lời hứa của vị “phó bộ trưởng bộ khen thưởng“ này. Ngọ triều đã tan, Chính Đức thở phào nhẹ nhõm. Y trở lại Càn Thanh cung bỏ nghi trượng, vừa ăn chút đồ ăn vặt vừa bảo tên tiểu thái giám đi gọi mấy người Mã Vĩnh Thành tới, tìm tiếp mấy trò chơi mới mẻ giải buồn. Lúc này bên ngoài chợt có người cao giọng hô: - Đại học sĩ Lưu Kiện của Vũ Anh điện, đại học sĩ Lý Đông Dương của Cẩn Thân điện và đại học sĩ Tạ Thiên của Hoa Cái điện cầu kiến Hoàng Thượng. Hoàng Đế Chính Đức “a” lên một tiếng, lật đật kéo ngăn kéo, đút hộp mứt hoa quả vào. Lần trước hắn không để ý, lúc tiếp kiến Lưu Kiện vẫn còn bày trên bàn một hộp trái cây khô. Lưu Kiện trông thấy liền tức thì hùng hồn buông lời răn bảo một phen, phê phán Hoàng Thượng không quan tâm đến long thể, ăn uống lung tung, cơm nước không đúng giờ, làm cho Chính Đức lúc đó phải thề thốt đã biết lỗi, rằng sau này sẽ không ăn bậy uống bạ nữa, lúc đó Lưu Kiện mới bỏ qua. Nếu hôm nay lại bị bọn họ bắt gặp, ba vị đại học sĩ đồng loạt mở miệng thì làm sao hắn sống cho nổi? Chính Đức giấu kỹ hộp mứt hoa quả rồi mới ngồi thẳng người dậy, bảo: - Mời ba vị đại học sĩ vào điện! Ngoài cửa điện, ba ông già cất tiếng đáp lời rồi đi vào điện. Hôm nay ba vị đại học sĩ cùng dắt tay nhau tới đây là vì một chuyện lớn. Tân vương kế vị, lục cung vô chủ, tuy hoàng đế tuổi tác còn nhỏ, nhưng việc này cũng phải thu xếp càng nhanh càng tốt. Đương nhiên, việc nạp hậu là việc mà Chính Đức không tự làm chủ được. Bọn họ đến đây, cũng chỉ là theo lễ tiết xin sự đồng ý của hoàng đế, chỉ cần hắn gật đầu lập tức có người lo liệu toàn bộ, hoàng đế chỉ cần chờ vào động phòng là xong. Việc tuyển lập hoàng hậu, sẽ là người trung cung* mẫu mực, tuân thủ điển lễ, là một việc to lớn vô cùng. Tuy tầm quan trọng không bằng việc hoàng đế tuyển chọn người thừa kế, nhưng tính công khai lại rất cao. Bậc mẫu nghi thiên hạ đứng đầu chánh cung phải do phủ Nội Vụ lựa chọn cẩn thận; sau khi chọn được ứng cử viên, nội quan, nội các cùng với Thái Hoàng thái hậu, Thái hậu tiến hành thương thảo quyết định. Diện mạo của người được chọn chỉ là thứ yếu, người đó nhất thiết phải là con nhà quan lại, thân thế trong sạch, hiền lương thục đức mới có thể làm mẫu nghi thiên hạ. (*: cách gọi khác của hoàng hậu) Lúc này ngoại trừ chút tình cảm mơ hồ về Đường Nhất Tiên, đối với tình yêu nam nữ thì Chính Đức hoàn toàn không biết gì hết, những chuyện giường chiếu thì càng mù tịt. Do đó điều làm ba vị đại học sĩ mừng rỡ vô cùng chính là hoàng đế Chính Đức mấy ngày nay luôn luôn làm bọn họ đau đầu khi thương lượng bất kỳ chuyện gì, không ngờ hôm nay lại tỏ ra ăn ý vô cùng, không đưa ra bất cứ ý kiến phản bác gì cả. Vốn ba vị đại học sĩ đang thẳng lưng vác một bộ mặt sẵn sàng chiến đấu, chỉ cần Chính Đức phản đối, lập tức họ sẽ phát động cuộc đại chiến nước bọt. Nay thấy hoàng đế Chính Đức đồng ý mọi thứ như vậy, ba lão thần liền vui vẻ cáo từ, lao tới phủ Nội Vụ bàn việc tuyển hoàng hậu. Hoàng đế Chính Đức vẫn chưa hiểu việc tuyển vợ cho mình có ý nghĩa gì cho lắm. Hắn lôi hộp mứt hoa quả dưới bàn ra, nhón lấy một miếng cắn vài cái, rồi nằm dài bên cạnh bàn suy nghĩ một hồi, song vẫn không cảm thấy việc này có gì quan hệ gì với mình. Ngẩng đầu lên, thấy Dương Lăng đang đứng trước mặt, hắn đột nhiên vỗ trán nói: - Trẫm mới nhớ ra, hình như ngươi lâu lắm rồi chưa về nhà thì phải? Hôm nay cũng không cần phải tuần thủ trong cung, về nhà đi! Dù sao ngươi cũng không phải tảo triều, mai cũng không cần tới sớm như vậy đâu. Ha ha, trẫm nhớ lúc phụ hoàng bãi triều đều tới thăm mẫu hậu, lần nào không đi là mẫu hậu không vui. Ngươi đi lâu như vậy rồi, Ấu Nương tỷ tỷ nhất định cũng sẽ không vui, bảo nàng không được trách trẫm đó. Này, ngươi cầm hộp mứt hoa quả này về đi, làm lễ vật ta bồi tặng cho Ấu Nương tỷ tỷ. Dương Lăng vừa nghe Chính Đức thả y về nhà, vui tới cả người lâng lâng bay bổng. Y cũng không cần khách sáo với hoàng đế Chính Đức, vội vàng cám ơn rối rít rồi vui vẻ cất hộp mứt hoa quả. Đầu tiên y chạy đi gặp Liễu Bưu dặn dò gã quản thúc quan binh cho tốt, ít ngày nữa sẽ phải dời quân vào đóng trong ngự trang. Sau đó y xin một thớt khoái mã, vừa ra khỏi hoàng cung là xoay người phóng lên ngựa, lao đi như tên bắn về phía Hộ Quốc Tự. Lúc này dân chúng toàn thành vẫn sinh hoạt như thường, chỉ có điều quần áo mặc trên người đều đổi thành màu trắng, trên đầu quấn khăn tang. Dọc đường đi y loáng thoáng nghe tiếng chuông trầm bổng trong các chùa chiền bồng bềnh vọng lại. Theo quy định do Vương Quỳnh soạn, các chùa chiền lớn nhỏ đều phải đánh ba vạn tiếng chuông, ngày đêm không nghỉ. Đến hôm nay đã là ngày thứ ba, phỏng chừng số lần đánh cũng không còn nhiều. Mặc dù không ai đếm, nhưng người đánh chuông cũng phải tận tâm, không ai dám qua loa tắc trách, nghe nói có một số chùa chiền đã đánh hỏng mất vài cái chuông rồi. Dương Lăng phi ngựa chạy vội về phố Hộ Quốc Tự. Vừa vào ngõ, y đã thấy một chiếc kiệu đang đi về phía mình. Hai gia nhân áo xanh đi bên cạnh kiệu lướt sát qua người y. Dương Lăng xoay người xuống ngựa, phấn khởi dắt ngựa đến trước cửa nhà, đưa tay đẩy. Cửa nhà không khóa, Dương Lăng lập tức đẩy rộng cửa sân rồi dắt ngựa vào. Y vừa vào sân, liền nhìn thấy Tuyết Lý Mai đang khom lưng đứng ở góc sân, cần cổ thanh mảnh, da thịt trắng như ngọc. Bóng dáng xinh đẹp ấy chỉ nhìn từ phía trắc diện mà đã tao nhã mê người không nói nên lời. Chỉ là mỹ nhân khí chất bất tục này lại đang mặc áo vải, đeo tạp dề xanh, trên đầu quấn một dải lụa trắng, trên chiếc eo giắt một cái gàu nhỏ, đang lụi cụi rắc thức ăn vào một cái chuồng nhỏ được dựng bằng củi ở góc sân. Nghe thấy tiếng động, Tuyết Lý Mai liền quay đầu lại. Vừa nhìn thấy kẻ bước vào là y, nàng lập tức vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ, đặt chiếc gàu xuống, phấn khởi chạy ra đón, mở miệng gọi: - Đại... , Dương Lăng lập tức ra hiệu cho nàng im lặng, khẽ giọng cười: - Đừng kêu! Ấu Nương có ở trong nhà không? Ta sẽ len lén đi vào. Trên gương mặt vui mừng của Tuyết Lý Mai hiện lên chút hâm mộ. Nàng vội gật đầu lia lịa, dịu dàng đáp: - Ừm! Tỷ tỷ ở trong đó. Vừa rồi có người tới gặp đại nhân, mà đại nhân không có ở nhà, hắn còn nói là hai ngày qua đại lễ tân đế đăng cơ đã xong, đại nhân sắp về thôi. Ấu Nương tỷ tỷ và chúng tôi nghe thế đều rất vui. Hì hì, không ngờ hắn vừa mới đi, đại nhân đã về thật rồi. - Ồ? Dương Lăng vừa cột cương ngựa vào gốc hòe to, vừa thuận miệng hỏi: - Ai tìm ta vậy? Tìm ta có chuyện gì? Tuyết Lý Mai ngoan ngoãn theo tới bên cạnh gốc cây, vuốt những sợi tóc mai vương trên trán, hé miệng cười đáp: - Vị công tử đó tựa hồ có tâm sự trong lòng, nhưng lại không kể với chúng tôi. Hắn chỉ nói hắn là tam công tử của thượng thư bộ Lễ, tên là Vương Cảnh Long, còn nói ngày mai sẽ lại tới tiếp kiến. - Vương Cảnh Long? Tên người này nghe rất quen. Dương Lăng đột nhiên nhớ ra “chẳng phải Vương Cảnh Long chính là chân mệnh thiên tử trong lòng Ngọc Đường Xuân trong lịch sử sao?” Vương Cảnh Long đến thăm, không cần phải hỏi cũng biết, chính là vì lão Vương Quỳnh bị giam hơn mười ngày rồi, ba vị đại học sĩ xin tha cho mà hoàng đế vẫn không chịu. Nhà họ Vương bồn chồn lo lắng nên đã gõ cửa nhà y nhờ vả. Không nghĩ tới Vương Cảnh Long và các nàng Ngọc Đường Xuân rốt cuộc vẫn gặp nhau. Nếu nói đây là số mạng, không biết đôi tình nhân vốn được định sẵn từ trước này, sẽ vẫn có duyên đến với nhau hay không? Dương Lăng nhớ trong câu chuyện nọ cuối cùng cả Tô Tam lẫn Tuyết Lý Mai đều gả cho Vương Cảnh Long, trở thành sủng thiếp của hắn. Dương Lăng vừa nghĩ thầm, vừa dùng ánh mắt quái dị đánh giá Tuyết Lý Mai vài lần. Tuyết Lý Mai không biết suy nghĩ của y, chỉ nhận thấy ánh mắt Dương tướng công cứ nhìn mình chằm chằm. Lần này quan sát cẩn thận, Dương tướng công mà nàng đã nhiều ngày không gặp đã trưởng thành thêm vài phần, có vẻ nam nhân uy vũ, làm tâm hồn thiếu nữ của nàng không khỏi rộn lên, trong mắt bất chợt dâng lên chút ngượng ngùng, khuôn mặt ngọc ngà ửng lên một lớp phấn hồng. Dương Lăng sực tỉnh lại, việc này có suy tính cũng vô dụng. Dù sao ngày mai Vương Cảnh Long vẫn sẽ tới, nếu như Tô Tam và Tuyết Lý Mai đúng là có duyên với hắn thì y cũng không ngại chu toàn chuyện này cho họ. Nhà họ Vương là quan lại thế gia, dòng dõi Nho học, cũng sẽ không làm khó mấy người Tuyết Lý Mai. Nghĩ thông suốt xong, Dương Lăng liền dứt bỏ tâm sự, đưa roi ngựa cho Tuyết Lý Mai, mỉm cười với nàng, rồi rón ra rón rén đi về phía cửa phòng mình. Cửa phòng khép hờ, xộc vào mũi y là mùi thịt kho thơm phức, trong lòng Dương Lăng tràn đầy cảm giác hạnh phúc được gặp lại người mình yêu. Y lặng lẽ thò đầu vào nhìn, thấy Hàn Ấu Nương đang quay lưng về phía mình. Nàng ngồi ở trước bếp, mặc một chiếc váy màu xanh lơ, lớp vải lót bên trong chắc hẳn đã sờn, do đó bộ đồ đơn bạc làm cho thân thể nhỏ nhắn xinh xắn trông gầy hơn so với trước, eo thon uyển chuyển uốn lượn, cặp mông nhỏ vẫn săn chắc đẫy đà. Trong lòng Dương Lăng nóng hầm hập, y liền sải bước đi vào vươn tay ôm ngang eo Ấu Nương, vỗ mạnh vào mông nàng, rồi cất tiếng cười vang trong tiếng kêu kinh hãi của nàng: - Tướng công về nhà mà không ra đón! Vi phu phải chấp hành gia pháp, trước hết sẽ phát vào mông ba mươi cái.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: