Ngược về thời minh 205 - 224
Quyển 5 - Quần ma loạn vũ
Chương 206 Quyết Theo Đại Soái
Dương Lăng trở về chỗ ngồi, trầm ngâm một lúc rồi hỏi:
- Hai điều kiện thế nào? Ha ha! Mời sứ giả Nặc Mộc Đồ nói rõ!
Nặc Mộc Đồ khẽ mỉm cười, ánh mắt lập loè:
- Đoá Nhan Tam Vệ đội ân sủng của Hoàng đế bệ hạ cho phép lập Hãn xưng vương. Đương nhiên, cho dù đại thủ lĩnh của chúng tôi được xưng là Hãn cũng không dám đứng ngang hàng ngang vế cùng Hoàng đế bệ hạ Đại Minh, mà vẫn giữ vai vế theo lệ là chư hầu phiên vương của Đại Minh.
Dương Lăng cười nói:
- Ấy là lẽ đương nhiên. Tuy nhiên đến khi đó Hoa Đáng Khả Hãn nắm giữ thảo nguyên rộng lớn, cả đất đai lẫn dê bò, lại chỉ phải triều cống mà không phải nộp thuế, sưu dịch. Làm sao phiên vương Đại Minh ta có thể so bì?
Động lòng bởi viễn cảnh tươi đẹp do Dương Lăng vẽ ra, khoé mắt Nặc Mộc Đồ thoáng hiện vẻ mừng rỡ. Hắn cố trấn tĩnh lại rồi mới ra vẻ dè dặt nói tiếp:
- Chỉ có điều, Ngoã Lạt và Đại Hãn Thát Đát đều từng nhận được chỉ sắc phong của chính Hoàng đế bệ hạ, cho nên chúng tôi hy vọng cũng có thể nhận được sắc chỉ của Hoàng đế bệ hạ, cùng được ban kim ấn, phù tiết.
Dương Lăng sực tỉnh, thì ra vị đặc sứ này lo ngại Đại Minh chỉ chấp thuận ngoài miệng. Giữa ba bộ lạc Ngoã Lạt, Thát Đát và Ngột Lương Cáp của Mông Cổ thì bọn họ có sức ảnh hưởng bé nhất. Nếu như không được triều đình nhà Minh ủng hộ công khai, bọn họ sẽ không thể nào có được danh xưng Đại Hãn một cách danh chính ngôn thuận, ít nhất là trước khi bọn họ có đủ thế lực để áp chế hai bộ lạc kia.
Dương Lăng thoáng trầm ngâm, rồi gật đầu đồng ý:
- Lo nghĩ của ngài cũng có lý, ta sẽ tự bẩm báo chuyện này với Hoàng thượng. Chuyện thứ hai là gì?
Thấy Dương Lăng đồng ý, Nặc Mộc Đồ mừng rỡ ra mặt. Hắn trở về chỗ ngồi, suy nghĩ một chút rồi mới cẩn thận nói tiếp:
- Năm xưa do Đoá Nhan Tam Vệ chúng tôi theo phò dẹp loạn có công, hoàng đế Vĩnh Lạc đã ban thưởng cho chúng tôi Đại Ninh vệ (nay chính là Thừa Đức Thị, huyện Bình Tuyền, huyện Kiến Xương và lưu vực sông Lão Cáp).
Nhưng mà... chắc hẳn Dương đại nhân cũng biết, Tam Vệ chúng tôi sống bằng nghề du mục; dê bò là tất cả những gì chúng tôi có, song hoàng đế Vĩnh Lạc lại không cho phép chúng tôi nuôi thả ở địa khu Đại Ninh. Uổng cho mảng thảo nguyên rộng lớn mà lại không được chăn thả dê bò, cho nên hy vọng Hoàng thượng cho phép chúng tôi chăn thả ở khu vực Đại Ninh vệ.
Dương Lăng vừa nghe xong tim liền nhảy đánh thịch. Lúc suy đoán điều kiện mà Đoá Nhan Tam Vệ có khả năng sẽ đưa ra y liền nghĩ Đoá Nhan Tam Vệ có thể sẽ đưa điều kiện này ra, quả nhiên là vậy. Thật ra mấy chục năm trước Đoá Nhan Tam Vệ dưới sự hỗ trợ của bộ lạc Khoa Nhĩ Thấm có quan hệ thông gia với bọn họ đã đem quân tiến vào thành Đại Ninh, còn vượt Hội Châu (nay là huyện Bình Tuyền tỉnh Hà Bắc) thẳng tiến Khoan Hà (nay là xã Bộc Hà tỉnh Hà Bắc), không ngừng lấn đẩy xuống phía nam.
Nay, Đoá Nhan Tam Vệ trải dài từ thành Đại Ninh thẳng đến Hỉ Phong khẩu, cách Tuyên Hoá Hà Bắc một ngọn núi; thế lực của Thái Ninh vệ từ Cẩm Châu, Nghĩa Châu qua Quảng Ninh vệ đến tận Liêu Hà, thế lực của Phúc Dư vệ từ Hoàng Nê Oa qua Thẩm Dương, Thiết Lĩnh thẳng đến Khai Nguyên vệ. Trên thực tế dải đất rộng lớn lấy nam và đông dòng Tây Lạp Mộc Luân và Liêu Hà làm nơi khởi nguồn, tây kề Tuyên Phủ, đã nằm trong tay Đoá Nhan Tam Vệ.
Để Đoá Nhan Tam Vệ cùng Đại Minh liên binh đối phó Thát Đát mà chỉ cần triều đình Đại Minh công khai sắc phong một chức vị và thừa nhận quyền sở hữu một khu vực mà trên thực tế đã nằm dưới sự khống chế của bọn họ! Thoạt trông dường như Đại Minh không hề chịu phải tổn thất nào, thế nhưng Dương Lăng lại không khỏi do dự.
Đại Minh không cách nào khống chế những nơi này, trên thực tế bảo chúng đã rơi vào tay Đoá Nhan Tam Vệ cũng không sai. Thế nhưng công khai thừa nhận quyền sở hữu của bọn họ lại là cắt nhường quốc thổ, điều này thật sự sẽ để lại mối nguy hại vô cùng cho đời sau.
Năm xưa đại đế Vĩnh Lạc ban thưởng đất đai cho Đoá Nhan Tam Vệ là đã phạm phải một sai lầm trí mạng. Vệ sở Đại Minh nằm ngoài quan ngoại gắn liền một thể, giữa các vệ sở đã có sự tương hỗ cho nhau, vừa mất một mảng vào tay Đoá Nhan Tam Vệ thì cả hệ thống chiến lược này lập tức sụp đổ, giữa các vệ sở đã mất đi sự gắn kết hữu hiệu. Thậm chí một mình vệ sở Liêu Đông sẽ không đủ sức ngăn chặn sự tiến công của một bộ lạc nhỏ.
Những địa khu này đều là những yếu địa chiến lược quan trọng. Dương Lăng đang mưu tính châm ngòi nội loạn Thát Đát, rồi kéo Đoá Nhan Tam Vệ vào trong vũng bùn, sau đó tăng quân cho Liêu Đông, củng cố sự khống chế địa khu này thì sao y sẽ chịu tạo danh chính ngôn thuận cho người ta?
Thế là y bèn lắc đầu quả quyết:
- Sứ giả Nặc Mộc Đồ, ông phải biết rằng tuy các ông gặp phải nguy hiểm to lớn, nhưng lợi ích đạt được lại lớn hơn. Một khi khiến được Thát Đát thần phục các vị, các vị sẽ có thể chọn ra đồng cỏ và nguồn nước tươi đẹp nhất để chăn thả dê bò. Cho dù có thất bại, các vị lui về cố thủ Đoá Nhan Tam Vệ, có Đại Minh kiềm chế Thát Đát, bọn chúng cũng sẽ không làm gì được các vị. Liêu Đông là hàng rào chắn của kinh sư Đại Minh, chúng ta không thể bỏ nó.
Nặc Mộc Đồ vừa mới mở miệng định thuyết phục, Dương Lăng đã đưa tay lên ngăn:
- Sứ giả Nặc Mộc Đồ, chuyện này ta không cần phải xin ý chỉ của Hoàng đế bệ hạ, tuyệt đối không cần phải thương lượng. Liêu Đông, không thể được dùng để mặc cả!
Nặc Mộc Đồ cầm chén trà sữa lên uống một ngụm, rồi vuốt chòm râu dày đen như sắt nghĩ ngợi, một chốc sau hắn mới nói:
- Nếu công khai quyết liệt với Thát Đát, chúng tôi phải đương đầu với nguy hiểm rất lớn. Nếu như không có gì bảo đảm, toàn thể bộ lạc làm sao có thể yên tâm đây? Nếu đại nhân đã nói như vậy..., không biêt có thể bẩm với Hoàng đế bệ hạ rằng, để tỏ thành ý, Đoá Nhan Tam Vệ chúng tôi muốn cùng triều đình hoà thân(1) được không?
Dương Lăng thoáng sững người, y không ngờ Nặc Mộc Đồ lại dám yêu cầu hoà thân, lẽ nào là thực! Hoa Đáng còn chưa làm Đại Hãn, Đoá Nhan Tam Vệ đã cho rằng mình là triều đình Bắc Nguyên năm xưa dưới trướng có tứ đại Hãn quốc (vương quốc của Khan - ND) ư? Lại dám đòi hoà hiếu kết giao với triều đình nhà Minh!
Nặc Mộc Đồ thấy sắc mặt y sầm xuống, liền vội đính chính:
- Đại thủ lĩnh Hoa Đáng có một vị ái nữ tên Ngân Kỳ cô nương, là đoá hoa mỹ lệ nhất trên thảo nguyên Khoa Lâm Thấm,năm nay mới được 15 xuân xanh. Nếu như Hoàng đế bệ hạ không ghét bỏ, thủ lĩnh Hoa Đáng nguyện ý dâng cho Chính Đức hoàng đế bệ hạ làm phi...
Mặt Dương Lăng liền hết vẻ giận: thì ra là muốn tiến dâng mỹ nữ, hề hề, như vậy cũng tốt. Dù sao cũng là thông gia chính trị, xấu chút cũng không sao, dâng vào trong cung là được rồi. Dù sao thì ngay cả Hoàng hậu và hai vị quý phi hiện giờ đều là vật trang trí, Tử Cấm Thành còn ngại thêm một miệng cơm nữa sao? Hơn nữa... Khoa Lâm Thấm? Đệ nhất mỹ nữ Đại Ngọc Nhi của Mãn Châu hình như là một cô nương vùng thảo nguyên Khoa Lâm Thấm thì phải, tướng mạo vị tiểu thư Ngân Kỳ này chắc cũng không kém.
Nghĩ đến đây, Dương Lăng bèn mỉm cười định đồng ý rồi quay về bẩm báo với Chính Đức, nào ngờ Nặc Mộc Đồ lại thay đổi ngữ điệu, nói tiếp:
- Được biết Hoàng đế bệ hạ có hai vị ngự muội là Vĩnh Phúc công chúa và Vĩnh Thuần công chúa, thủ lĩnh Hoa Đáng nguyện ý nghênh cưới một vị trong đó, cũng đưa lên làm chánh thất phu nhân, cùng Đại Minh kết làm Tần Tấn, nhất định hợp tác khắng khít với nhau.
Dương Lăng vừa nghe xong liền thoáng chau mày, liền đó thầm rủa: "Ngươi gả con thì cứ gả con đi, sao còn đòi chúng ta bù thêm một người nữa?... Không đúng à, con gái Hoa Đáng gả cho Chính Đức, vậy Chính Đức là con rể hắn, hắn lại muốn cưới em gái của con rể mình... vậy sẽ loạn thành một đống gì đây?”
“Nghe nói Hoa Đáng đã có năm trai ba gái, chắc là một lão già râu xồm gần năm chục rồi thì phải? Bảo tiểu công chúa Vĩnh Phúc thùy mị đáng yêu gả cho lão già Hoa Đáng đó?” Vừa nghĩ đến đây, trong lòng Dương Lăng chợt cảm thấy không thoải mái.
Bằng không thì đổi thành tiểu nha đầu Vĩnh Thuần đó vậy? Ý nghĩ này vừa mới nhen nhóm trong đầu, Dương Lăng liền đã rùng mình, cả người rét lạnh. Y mà dám đồng ý, khi trở về bảo đảm Chính Đức sẽ xách bảo kiếm truy sát y khắp Đại Đồng giống như năm đó hắn truy sát cậu em vợ của ông già hắn vậy.
Dương Lăng hít vào một hơi, rồi thầm cảnh tỉnh mình: "Mình đến là để hoà đàm, là đàm phán về việc ký kết đồng minh, cho dù không đồng ý cũng có thể từ chối khéo một chút, như thế mới có thể đạt được mục đích. Vạn lần đừng học ông Quan Công mà phán câu ‘Con gái ta anh thư lỗi lạc há có thể gả cho thằng con yếu hèn nhà ngươi sao?’”
Thế là y bèn dằn lửa giận trong lòng, làm ra vẻ phản đối mà bật cười to. Nạc Mộc Đồ ngạc nhiên hỏi:
- Cớ sao Dương đại nhân lại cười?
Dương Lăng phất tay áo, cả cười bảo:
- Sứ giả Nặc Mộc Đồ tin là đại sự liên can đến vận mệnh mấy chục vạn người, liên can đến sự sống còn của một bộ tộc lại thật sự có thể gắn liền với một người con gái ư? Đại Minh cùng Đoá Nhan Tam Vệ liên kết đồng minh, giao dịch thông thương, cùng liên minh chống ngoại xâm mới là thành tâm cao nhất.
Tự lâu đã nghe đại thủ lĩnh Hoa Đáng là một trong ba đại anh hùng tái ngoại, hùng tài đại lược, tầm mắt cao xa, không thua kém Bá Nhan, Hỏa Sư, sao có thể ký thác việc liên minh vào việc hoà thân? Chẳng lẽ là sứ giả Nặc Mộc Đồ tự ý làm chủ? Ha ha... khi về đến nơi sứ giả Nặc Mộc Đồ chớ mà nhắc tới việc này với thủ lĩnh Hoa Đáng, nếu không sẽ khiến thủ lĩnh Hoa Đáng hổ thẹn đó.
Khuôn mặt Nặc Mộc Đồ đỏ bừng, trông thành ra hơi sẫm hơn. Hắn hậm hực bảo:
- Hoà thân là chuyện từ xưa đã có. Đời Hán, Đường đều có công chúa gả ra tái ngoại, trở thành câu chuyện được mọi người ca tụng nghìn đời. Nếu như việc hoà thân còn không thể biểu
thị được sự thành tâm, vậy Dương đại nhân sẽ lấy gì để chứng minh lòng thành hợp tác đây?
Dương Lăng đáp ngay không chút do dự:
- Lợi ích! Chỉ có lợi ích chung mới có thể khiến đôi bên hợp tác khắng khít cùng nhau.
Đoạn y vung tay áo đứng lên, bước đến trước mặt sứ giả của Hải Tây Nữ Chân là Hồ Xích nói:
- Mấy năm gần đây Đại Minh cùng Nữ Chân giao dịch ngày càng phồn thịnh. Bản quan lấy một ví dụ, chỉ với một món là nhân sâm. Do nhân sâm ngâm nước không giữ được lâu nên thương nhân người Hán mặc sức ép giá, mỗi năm các người tổn thất phải đến mấy chục vạn lạng bạc đúng không?
Vừa nhắc đến chuyện này, bụng Hồ Xích liền đầy lửa giận. Bọn họ tuyệt không sản xuất thứ gì, hoàn toàn dựa vào việc lên núi đào sâm và săn bắn để đổi lấy muối, lấy trà, lấy vải vóc nồi sắt với người Hán. Mà chỉ có người Hán mới biết dùng thứ nhân sâm này, đem đến những chỗ khác bán không được giá và cũng không có mấy ai mua. Nhưng thương nhân người Hán ép giá quá đáng quả thật đã hại bọn họ đến khổ. Hồ Xích vội đứng dậy cung kính đáp:
- Đại nhân minh giám, tệ bộ lạc lần này đến đây nguyện ý gia nhập đồng minh, chỉ hy vọng triều đình có thể đối xử công bằng với người Nữ Chân.
Dương Lăng gật đầu bảo:
- Bản quan đã biết! Chỉ với một thứ là nhân sâm của một bộ lạc Hải Tây Nữ Chân các vị, mỗi năm đã phải thông qua chợ buôn ngựa(2) mà chuyển vận hơn năm vạn cân nhân sâm. Mấy năm trước đôi bên xích mích, triều đình ta từng ra lệnh cấm, không cho giao dịch suốt hai năm; số nhân sâm bị vữa nát của các vị hẳn phải hơn mười vạn cân, đúng không? Do đó dân lành Nữ Chân nghèo khốn mà chết nhiều vô số kể. Nếu cùng bản triều liên minh, chúng ta sẽ không cấm chợ, hơn nữa còn tình nguyện định giá chính thức, giảm bớt thuế khoá hỗ trợ thương nhân người Hán. Đây có thể xem là điều biểu lộ thành tâm lớn nhất chưa?
Hồ Xích mừng như bắt được vàng, gật đầu lia lịa như gà mổ thóc, luôn miệng đáp:
- Đương nhiên, đương nhiên! Đa tạ Dương đại nhân, đa tạ Hoàng thượng! Chúng tôi bằng lòng... bằng lòng cùng Đại Minh kết minh trọn đời.
Dương Lăng gật đầu, mỉm cười bước đến trước mặt sứ giả Kiến Châu Nữ Chân là Lý Đậu Lý, nói:
- Kiến Châu Nữ Chân vốn lấy chuyên nghề chăn nuôi súc vật, lấy thịt ăn lấy da mặc, còn Đại Minh ta thì chuyên cày ruộng ăn gạo mà sống.
Nhưng mấy năm gần đây, các vị dần dần khai thác đất ruộng, thu mua trâu cày, lưỡi cày từ Đại Minh, mời người Hán dạy cách cày bừa trồng trọt. Các vị ăn mặc giống như người Hán, giàu có sung túc nhất trong Nữ Chân Tam Bộ. Trong hai năm cấm chợ, bộ lạc các vị nam thì không xẻng liềm, nữ thì không kim kéo, nấu thì không có nồi, ăn thì không có muối. Thiết nghĩ Lý Đậu Lý sứ giả là người nhận thức rõ sự việc đó nhất đúng không?
Giả như chúng ta mở thêm chợ buôn ngựa, đổi chợ phiên chỉ giao dịch buôn bán vào mồng một và mười lăm mỗi tháng thành giao dịch buôn bán hằng ngày, mở rộng phạm vi vật phẩm buôn bán thì ngài cho rằng đây mới tỏ rõ lòng thành của Đại Minh, hay đưa một vị công chúa đi hoà thân mang theo mười vạn lạng bạc trắng mới là có lòng thành?
Lý Đậu Lý nghe vậy liền sáng rỡ hai mắt. Chỉ cần Đại Minh chịu đổi từ chợ phiên mỗi tháng hai lần thành chợ thường xuyên, mở rộng vật phẩm giao dịch đối với ba khu chợ lúc trước thì đã đủ khiến bọn họ có đang nằm mơ cũng phải bật cười tỉnh dậy rồi, chứ đừng nói gì đến mở thêm chợ? Chuyện này thật nằm ngoài dự liệu của bọn họ, Lý Đậu Lý không hề nghĩ ngợi gì lập tức "trở giáo" đáp ngay:
- Đương nhiên là mở chợ buôn bán là tỏ rõ lòng thành rồi! Chúng tôi không cần gì nhiều, chỉ cần triều đình Đại Minh chịu buôn bán cùng chúng tôi, Kiến Châu Nữ Chân sẽ là phiên thuộc và bằng hữu vĩnh viễn của Đại Minh!
Bọn sứ giả của các bộ lạc Đoá Nhan kích động vô cùng, đã có mấy kẻ đứng ngồi không yên. Nhưng rất có lẽ vì Nặc Mộc Đồ của Đoá Nhan Vệ là thủ lĩnh sứ giả của Đoá Nhan Tam Vệ, cho nên bọn họ đều hướng ánh mắt về phía Nặc Mộc Đồ. Trông thấy tình hình như vậy, Nặc Mộc Đồ không khỏi trầm ngâm nói:
- Lời ấy của Đại Nhân rất phải. Nhưng nếu như vậy, chúng tôi làm thế nào để tin vào thành tâm của triều đình Đại Minh đây?
Dương Lăng giơ từng ngón tay lên đếm:
- Thứ nhất cũng là công khai giao dịch, tin rằng quý bộ sẽ được lợi không ít từ trong đó.
Thứ nhì là hợp tác quân sự; một khi dụng binh, Đại Minh sẽ xuất binh từ hai lộ là Tuyên Hoá Đại Đồng và Liêu Đông, tạo thành thế tam giác, giữa là trung lộ. Nếu như không thành tâm hợp tác, trọng binh của chúng ta ở Liêu Đông sẽ nguy khốn trùng trùng, như vậy hẳn đã có thể bày tỏ lòng thành của chúng ta rồi chứ?
Thứ ba, tựa như năm đó Dã Tiên thái sư của Ngõa Lạt tiến đánh Yến Kinh bị ngăn trở, lần này Bá Nhan tấn công bị đánh bại; sau khi hắn trở về ắt Thát Đát sẽ xảy ra nội loạn. Chúng ta không cần các vị xuất binh ngay bây giờ, song phương có thể khai trương chợ, buôn bán trước, chờ khi quân giỏi lương đủ, Thát Đát đại loạn rồi mới thừa thế tóm gọn bọn chúng. Các vị có thể lựa xem tình thế mà hành động, nắm quyền chủ động. Tất cả những thứ vừa nêu trên đã đủ để tỏ rõ lòng thành của chúng ta chưa, thưa sứ giả Nặc Mộc Đồ?
Nặc Mộc Đồ nghe nói đến đây thì lông mày nhướng cao, bèn đứng dậy nắm tay đặt lên ngực, trịnh trọng đáp:
- Chúng tôi tin vào thành tâm của Hoàng đế bệ hạ, tin lời của Dương đại nhân. Tôi sẽ mau chóng bẩm báo cho đại thủ lĩnh Hoa Đáng được hay.
Dương Lăng mỉm cười vui vẻ, đáp:
- Tốt, vậy ta sẽ ở trong thành Đại Đồng chờ tin tốt của các vị.
Đoạn y bước trở về bàn mình bưng bát trà sữa lên uống cạn một hơi, rồi cười sang sảng nói:
- Lần tới sẽ do bản quan chiêu đãi các vị sứ giả ở Đại Đồng, hy vọng đến lúc đó các vị sẽ có thể mang đến tin tốt từ đại thủ lĩnh Hoa Đáng. Các vị, xin cáo từ!
Sứ thần của các bộ vẫn đứng ngoài khe núi mà dõi mắt trông theo hơn trăm khinh kỵ khuất dần trong khe núi. Sứ giả của bộ lạc Ông Ngưu Đặc là Cách Nhật Lặc Đài bước tới bên cạnh Nặc Mộc Đồ đang trầm tư suy nghĩ cung kính thưa:
- Hoa Đáng đại nhân, ngài thấy lời của vị sứ thần nhà Minh này có đáng tin không?
Cặp mắt mang hơi hướm con buôn của Hoa Đáng đang giả danh là Nặc Mộc Đồ nhoáng cái đã biến thành cặp mắt sắc bén lanh lợi như chim ưng. Hắn vuốt râu cười nhẹ rồi bảo:
- Nếu như bọn họ chỉ muốn lợi dụng chúng ta, ắt sẽ không quan tâm đến việc hứa hẹn. Do đó chúng ta có hét giá trên trời, bọn họ cũng sẽ đáp ứng hoàn toàn. Nếu như ký kết liên minh là giả, vậy thì còn để ý đến việc giả kết thân và giả cắt đất sao? Vị sứ thần Đại Minh này thận trọng như vậy, xem ra đích thực là bọn họ thành tâm rồi.
Các Nhật Lặc Đài thở phào nhẹ nhõm, rồi nhoẻn miệng cười nói:
- Thành tâm là tốt rồi. Nói thật, khi đối địch với Thát Đát bộ lạc chúng ta sẽ chết rất nhiều, nhưng đối địch với nhà Minh không những chết chóc mà còn bần cùng; so với cái chết càng đáng sợ hơn nhiều.
Nếu như Hoàng đế nhà Minh thật sự không phải là một ông vua nhu nhược mà cũng vĩ đại như Hồng Vũ Thiên Khả Hãn hay Vĩnh Lạc Thiên Khả Hãn năm xưa, thì đối với chúng ta, có lẽ thuận theo ý chí của vị Chính Đức Thiên Khả Hãn này cũng sẽ là một sự lựa chọn hết sức chính xác.
Hoa Đáng cười xảo quyệt, đáp:
- Nếu Bá Nhan thật sự dễ đối phó như vậy thì liệu nhà Minh sẽ đưa ra điều kiện ưu đãi như vậy ư? Đừng thấy Bá Nhan đang ăn phải trái đắng ngoài thành Đại Đồng mà tưởng bở; một khi con chim ưng này trở về thảo nguyên, nó sẽ rất mau chóng liếm lành vết thương thôi.
Có tấm chiêu bài chữ vàng là hậu duệ trực hệ hoàng gia, hắn sẽ nhanh chóng bổ sung đội ngũ và chiến sĩ thôi. Trừ phi... thật sự như vị Dương đại nhân này nói Thát Đát sẽ xảy ra nội loạn. Nhưng mà danh vọng của Bá Nhan như mặt trời ban trưa, trong nội bộ của Thát Đát thật sự sẽ có kẻ dám đối đầu với hắn sao?
Đừng vội tự cột mình vào cái gốc cây là nhà Minh này. Lúc trời nắng nóng hầm, ta có thể mượn nó để trú mát; khi nó không thể che mưa chắn gió cho chúng ta nữa thì chúng ta sẽ cưỡi ngựa cao chạy xa bay. Ha ha ha...
Một cặp mắt sáng như sao Mai trừng hắn, đó là của một "đứa con trai" anh tuấn khôi ngô. Nhưng lạ là con trai trên thảo nguyên, cho dù tuổi có nhỏ đi nữa, mà hắn vẫn trông có vẻ hơi yếu đuối quá, ngũ quan cũng xinh xắn và tao nhã qúa.
Một chiếc áo da gấu ngắn lưng, đôi giày da cổ cao, cặp mày đen như mực dưới chiếc mũ da màu nâu nhạt, cánh môi xinh xắn mà đầy đặn dưới cánh mũi hếch cao, khuôn mặt trái xoan sáng sủa không tì vết. "Hắn" hừ một tiếng, nói với vẻ không vui:
- Nếu đã vậy, cớ sao phụ thân còn muốn gả con cho Hoàng đế nhà Minh? Ngộ nhỡ lúc nãy cái tên đại thần nhà Minh đó đồng ý thì làm sao?
Đó là một trong số tám tay thị vệ ở trong lều, khi nãy “hắn” đứng trong bóng khuất nên không ai để ý đến, lúc này nghe “hắn” mở miệng nói chuyện mới nhận ra là con gái. Hoa Đáng hơi ngẩn người, rồi bật cười ha hả ôm lấy vai cô nàng nói:
- Ngân Kỳ, gả con cho triều đình nhà Minh không tốt hay sao? Căn nhà của một tên Bách phu trưởng của bọn bọn còn hoa lệ và rộng rãi hơn đại trướng của chúng ta, tiền bạc của một tên tài chủ bình thường cũng có thể mua hết toàn bộ dê bò của chúng ta. Nếu là Hoàng phi, con thật sự sẽ có một cuộc sống như trên chốn thiên đường đó!
Thiếu nữ hừ một tiếng ra vẻ xem thường rồi đáp:
- Con vẫn không thèm! Chồng của con phải cưỡi được khoái mã, bắn được lợi tiễn, phải là anh hùng tài ba nhất trên thảo nguyên; cho dù phải theo hắn đến tận chân trời góc biển, cực khổ bao nhiêu con cũng không sợ.Nghe nói Hoàng đế nhà Minh muốn đi từ một căn phòng này sang căn phòng khác cũng cần phải có một đám người khiêng đi. Trời ạ, mới chỉ tưởng tượng một chút mà con đã muốn phát điên rồi!
Hoa Đáng và đám người Cách Nhật Lặc Đài, A Khất Mãi nghe thế thì đều cùng cười phá lên...
*****
- Lúc nãy nghe thấy đại nhân phát ra tiếng cười lớn mạt tướng mới yên tâm. Bằng không thì phải chờ lâu như vậy mà không có động tĩnh gì, mạt tướng đã nhịn không được định mang người xông vào rồi.
Hứa Thái vừa vụt roi lên mông ngựa vừa cười ha hả nói.
- Đại nhân, có phải là đã đạt được hiệp nghị với sứ giả của Đoá Nhan Tam Vệ không?
Liễu Bưu cũng phi ngựa lại gần, hào hứng hỏi.
Chiến mã mới vừa vượt qua một triền núi nhỏ. Dương Lăng ghìm ngựa dừng cương, đưa mắt nhìn núi tuyết chói lòa bạc trắng dưới ánh mặt trời sáng rực ở xa xa, rồi đáp:
- Vẫn khó nói! Những kẻ này đều mang tâm lý đầu cơ rất nặng. Mặc dù chúng đã động lòng với những điều kiện do chúng ta hứa hẹn, nhưng nếu muốn bọn chúng dốc lòng làm việc cho chúng ta, e rằng sẽ không dễ dàng như vậy.
Chợt y bật cười nói tiếp:
- Cũng may, mục đích của chúng ta chỉ là muốn bọn chúng trói chân Ngoã Lạt, lại lấy giao dịch buôn bán mà trói chân chúng. Quyết định thắng thua trên chiến trường không thể đặt vào mấy kẻ trở cờ theo gió này, ha ha ha... Khi nãy bản quan bật cười, là bởi vì sứ giả của Hoa Đáng đề nghị hoán thân(3) cùng Đại Minh ta, muốn gả con gái của Hoa Đáng cho Hoàng thượng, sau đó đòi gả ngự muội của đương kim hoàng đế cho Hoa Đáng. Hừ! Đoá Nhan Tam Vệ càng lúc càng không coi ai ra gì rồi!
Đoạn y quay đầu lại, dõi mắt nhìn dãy núi trùng trùng điệp điệp xa xa, ánh mắt loé lên, nghĩ bụng: "Đoá Nhan Tam Vệ sớm đã ôm lòng bất kính, xem ra dụ bọn chúng dính vào vũng nước đục này với Thát Đát là việc làm chính xác. Theo thái độ của Nữ Chân Tam Bộ, xem chừng ra vẫn có thể lợi dụng bọn họ một chút. Nếu mà trận đấu quyền anh không cân sức thì phải giúp bên yếu thế hơn một tay, lúc đó trận đấu mới đặc sắc.”
Hứa Thái nghe xong cũng không nén được giận mà mắng to:
- Hừ! Hoa Đáng là thứ gì mà cũng đòi cưới công chúa Đại Minh ta. Nếu là cung nữ như Vương Chiêu Quân hoặc một người con gái hoàng tộc tầm thường thì còn được. Đại nhân ắt hẳn đã cự tuyệt rồi phải không?
Dương Lăng quay đầu lại, nghiêm mặt răn:
- Hứa Thái, ngươi sai rồi! Đừng nói là công chúa dòng dõi hoàng tộc, cho dù là một dân nữ người Hán hèn mọn nhất, thậm chí là nha hoàn, hầu gái, chúng ta cũng không thể lấy bọn họ ra để mà hoà thân, làm chuyện xỉ nhục quốc thể như vậy được.
Y thúc ngựa, đi tới mấy bước trên triền núi, đón lấy cơn gió núi rít gào cuốn theo bông tuyết lùa tới, hét lớn:
- Hòa thân! Hòa thân! Đó là chuyện xấu hổ nhất trên đời! Cho dù từ xưa đến nay dị tộc có hòa thân, có giao hảo cùng dân Hán ta, thật ra cũng bởi vì thực lực người Hán ta không thể khinh nhờn. Bọn chúng há sẽ vì một nữ nhân mà từ bỏ lòng tham của chính mình?
Tự lừa mình dối người mà đem sự an nguy của giang sơn xã tắc đặt lên trên sự hy sinh hạnh phúc của một người con gái, mặc cho người ta bị phiên bang dị tộc chà đạp, thậm chí làm những việc trái với phong tục Trung Nguyên ta, để cha con anh em luân phiên chà đạp, anh em con cái khác giống đối đãi như súc sinh, còn khéo gọi bằng cái tên mỹ miều là "hoà thân", ăn thì không bằng heo chó, quả thực là nhu nhược đớn hèn chỉ biết nhịn nhục!
Đoạn y quay người, nghiêm mặt lẫm liệt nói với bọn Hứa Thái, Kinh Phật Nhi, Liễu Bưu và Ngũ Hán Siêu rằng:
- Nam nhân nào không biết bảo vệ tôn nghiêm của người phụ nữ của mình là kẻ không có tiền đồ, dân tộc nào không biết bảo vệ tôn nghiêm của phụ nữ mình đó là dân tộc không có tương lai.
Chúng ta không chỉ không chấp thuận hoà thân, mà có một ngày sẽ còn đánh vào đại mạc, cướp lại những người phụ nữ người Hán đã bị chúng cướp đi, khiến cho những kẻ rợ tác oai tác quái ức hiếp người Hán đó phải thần phục dưới chân chúng ta! Các ngươi đều là nam nhi anh hùng của người Hán ta, phải biết bảo vệ tôn nghiêm của đàn ông người Hán chúng ta. Các người có làm được không?
Bọn Ngũ Hán Siêu nghe vậy thì sắc mặt tức thì trở nên nghiêm nghị. Hứa Thái nghiêm mặt ngồi thẳng lưng lên, vừa định mở miệng đáp lời ai dè Lưu Đại Bổng Chùy ở bên cạnh nghe xong máu nóng dâng trào, lập tức vung tay rống lên bằng giọng Lai Dương:
- Đại soại, chụng tôi làm được! Chúng tôi sẹ theo đại soại đạnh giắc Thát, cượp đàn bà, chợi mụ nội nọ! Cạc anh em, cạc người nọi có phại không?
Hơn trăm viên hiệu úy nghe vậy nhất tề vung tay soàn soạt, sát khí đằng đằng hô lớn:
- Đúng! Theo đại soái, đánh giặc Thát, cướp đàn bà, chơi mụ nội nó!
Rặng núi rú gào, tiếng vang ầm ầm vọng lại, tuyết đọng đang tan trên đỉnh đổ xuống ào ào, đập vào trong sơn cốc ùn ùn như tuyết lở.
Dương Lăng nghe xong thiếu chút nữa thì thổ huyết ngã ngựa: "Mụ nội nó, câu này từ miệng Lưu Đại Bổng Chùy thốt ra sao nghe khác quá vậy?"
*****
Hai vạn đại quân của Thái Nguyên trung vệ và Thái Nguyên tả vệ cờ quạt tung bay, chiến mã hí vang, đang cuồn cuộn tiến vào ranh giới huyện Sơn Âm. Lúc này sắc trời đã tối, đương lúc đại quân đang chọn nơi trú đóng, chôn nồi nấu cơm, thì hai viên tiểu hiệu lưng đeo cờ hiệu tín sứ (lính đưa tin - ND) của quân dịch chạy vội chạy vàng vào trong đại trướng (lều lớn) trong quân.
Chỉ huy sứ vệ Thái Nguyên là Trương Dần mỉm cười ôn tồn bảo:
- Hai vị tín sứ đi đường cực khổ, hãy uống tạm chén trà nóng trước đã.
Hai viên tiểu hiệu cung kính thưa:
- Quân vụ trên người, ti chức không dám trì hoãn! Đây là thư hàm về quân tình của Tam quan tổng chế Dương đại nhân, xin chỉ huy sứ đại nhân ký nhận.
Trương Dần liền vội tiếp lấy thư hàm, kiểm tra thấy dấu xi còn nguyên, bèn lấy tướng ấn đóng nhận vào sổ của hai người. Hai người tiểu hiệu cũng không hề uống đến một hớp trà mà lập tức vội vã cáo từ, rời khỏi lều soái rồi lên ngựa đi luôn.
Trương Dần trở về trong lều, bóc thư hàm ra xem dưới ánh đèn. Chính là Dương Nhất Thanh muốn đại quân của hắn dời trại đến đóng ở Quảng Vũ bảo cũ, ở đó đợi lệnh. Trương Dần búng ngón tay lên thư mấy cái, rồi khẽ mỉm cười, căn dặn quan thư ký ghi chép sắp xếp thư hàm lại, sau đó gọi quan trung quân lại bảo:
- Truyền lệnh đêm nay đóng trại ở đây, sáng sớm ngày mai khởi hành đến Quảng Vũ bảo cũ.
Quảng Vũ bảo trong huyện Sơn Âm chia làm hai thành mới và cũ. Thành mới được xây vào năm Hồng Vũ thứ bảy, nằm sát Trường Thành, do một vệ binh mã trú đóng. Quảng Vũ bảo cũ nằm về mé tây thành mới, nằm bên trong Trường Thành, vốn là nơi đóng quân. Quan trung quân nghe xong liền vội lui xuống truyền lệnh, Trương Dần khoát tay cho thân binh lui ra hết, rồi nhón lấy chén trà nhíu mày trầm tư.
Màn sau của lều được vén lên, một viên quan trung quân lặng lẽ bước vào. Trương Dần không hề quay đầu lại, chỉ trầm ngâm thật lâu rồi mới khẽ thở dài nói:
- Bao năm khổ tâm tổ chức, thành bại ở ngay trước mắt, trong lòng ta lại bồn chồn.
Gã quan trung quân nọ ngước đầu lên, không ngờ hắn chính là người áo xanh từng ngồi đối diện uống rượu với Du hộ pháp trên "Thái Bạch cư" ngày đó. Hắn cung kính thưa:
- Giáo chủ! Bản giáo hồng phúc ngang trời, nay Chính Đức thân rơi vào tuyệt cảnh mà không tự biết. Đệ tử thấy lần này hắn có lắp cánh cũng khó mà thoát được.
Trương Dần khẽ lắc đầu, đáp:
- Nghe nói hắn muốn dời đến Báo phòng, lão phu mới kêu người dụ đại đạo Dương Hổ vào kinh, ai ngờ lại uổng mạng Lưu hộ pháp, hai trăm tên đạo tặc cũng bị Dương Lăng hốt trọn một mẻ, Chính Đức lại chẳng hao tổn cọng lông sợi tóc nào. Lúc đến Đại Đồng, Vương Long lại bị y tra ra, hại cho Vương Hổ cùng bị chém đầu...
Hắn mệt mỏi nằm nửa người ra ghế, cười khẽ nói:
- Ngay cả bản giáo chủ cũng đã hơi tin mấy lời hoang đường nọ rồi, chẳng lẽ Dương Lăng này là khắc tinh của bản giáo hay sao? Trong kế hoạch lần này, Vương Hổ có tác dụng cực kỳ quan trọng, hắn mà chết thì sẽ không xong việc. Không có hắn, sợ rằng Chính Đức sẽ an toàn hồi kinh thôi. Ôi!
Ta đã phải trải qua bao trắc trở, tốn biết bao tiền bạc mới đưa hắn lên vị trí tham tướng thủ thành của thành tây, nhằm trông mong có ngày có thể trọng dụng. Nếu như có hắn làm nội ứng ở thành tây, chúng ta dẫn Bá Nhan bất ngờ tập kích nơi hội họp kết minh là núi Bạch Đăng, lại dụ Hỏa Sư đánh vào Đại Đồng, hai bút cùng vẽ, khiến Dương Nhất Thanh giữ chỗ này thì mất chỗ kia, không thể cứu viện kịp thời, ít nhất sẽ có bảy thành thắng lợi. Nay Đại Đồng vững như thành đồng, vậy chỉ có...
Đoạn hắn cười giảo quyệt nói tiếp:
- Cho dù thất bại đi nữa thì hao binh tổn tướng cũng không phải là nhân mã của bản giáo. Chỉ có điều cơ hội tốt đến như vậy mà cứ lãng phí thì thật là đáng tiếc.
Hắn chợt ngước mắt lên, ánh mắt như điện xẹt, bắn thẳng về phía gã quan trung quân nọ, hỏi:
- Con cờ bí mật đó vẫn chưa hấp dẫn sự chú ý của bọn chúng chứ?
Quan trung quân sợ hãi đáp:
- Dạ chưa! Giáo chủ yên tâm, vì để giữ bí mật, ngoài thuộc hạ ra, người của bản giáo ở Đại Đồng không ai biết được thân phận của hắn cả.
Đan mười ngón tay vào nhau, Trương Dần hài lòng nói:
- Ừ! Dương Nhất Thanh ra lệnh cho ta đóng quân tại chỗ, hẳn là vì Chính Đức đã liên hệ được với Hoa Đáng. Theo kế hôm nay, chỉ có thể lặng lẽ mà quan sát tình hình. Khi nào hai bên gặp mặt ký kết minh ước, vị Dương tổng chế này nhất định sẽ lập tức đưa tin đến cho ta ngay. Trăm sự đủ cả, chỉ thiếu gió Đông mà thôi(4)...
Chú thích:
(1) lệ xưa quân chủ phong kiến Trung Quốc muốn tránh chiến tranh xung đột nên gả con gái cho kẻ cầm đầu các bộ tộc ngoài biên giới để thông hôn hoà hiếu, gọi là "hoà thân".
(2) gọi chung nơi giao dịch với của dân Hán với dân các bộ lạc khác ở biên giới
(3) hai họ cưới con gái nhau làm dâu gọi là "hoán thân".
(4) nguyên văn là “mười tám cái lạy cũng đã lạy cả rồi, giờ chỉ còn thiếu mỗi cái vái sau cùng này thôi”. Đây là ngạn ngữ dân gian Trung Quốc.
Quyển 5 - Quần ma loạn vũ
Chương 207 Dưới Chân Núi Bạch Đăng
Trở lại hành dinh khâm sai, Dương Lăng kể lại quá trình thương thảo cùng sứ thần Hoa Đáng cho Chính Đức nghe. Nghe kể xong, Chính Đức khẽ nhướng cao đôi lông mày lưỡi kiếm, cười lạnh:
- Hoa Đáng rốt cuộc vẫn là hậu duệ của Bắc Nguyên, tuy nghèo rớt mồng tơi nhưng dã tâm vẫn không nhỏ. Lâu nay bị kẹp giữa Đại Minh, Thát Đát, NgõaThứ thì hắn vẫn an phận, bây giờ vừa mới nghe nói có thể áp đảo hai bộ còn lại đã lập tức muốn xây dựng lại đế quốc Mông Cổ trong mộng.
Hắn rũ áo đứng dậy, nói tiếp:
- Hôm nay ngươi cùng Đóa Nhan Tam Vệ thương thảo rất tốt! Những yêu cầu vô lễ phải cự tuyệt ngay, Đại Minh ta há để cho người áp chế? Từ xưa, Đại Minh ta là nước có thế lực lớn nhất, chế ngự Bắc Lỗ, xua đuổi Tây phiên; không dùng thói tệ hòa thân nhằm hòa hiếu kết giao của Hán Đường, không như Đại Tống xưng thần cắt đất, cũng không lấy lễ nghi huynh đệ đối đãi với nước địch. Hoa Đáng nho nhỏ mà muốn kết hôn với ngự muội...... Hừ!
Cùng chung giường chung gối với người mình không thích thật là những ngày tháng cực kỳ khổ sở! Trẫm đã cảm nhận sâu sắc cái nạn này rồi, há lại chịu để cho chính bản thân ngự muội cũng phải gánh chịu nỗi khổ này sao? Trẫm là đàn ông nên còn có thể tìm được cô gái mình thật lòng thật dạ yêu thích, còn Vĩnh Phúc thì không thể làm chủ chính mình, nàng sẽ phải làm sao?
Tuy trẫm là một vị hoàng đế ẩu tả nhưng cũng biết thương yêu em gái. Nếu như chính Vĩnh Phúc muốn lấy chồng, chỉ cần hai người tình đồng ý hợp là tốt rồi, trẫm bất kể hắn là vương hầu công khanh hay là dân thường áo vải. Còn nếu như nàng không muốn xuất giá, cho dù Hoa Đáng chắp tay dâng đất đai cả ba vệ, trẫm cũng không mang em gái đi đổi!
Dương Lăng mỉm cười tâu:
- Hoàng Thượng! Dã tâm của con người luôn luôn không ngừng tăng trưởng theo sự lớn mạnh của quyền lực. Ban đầu Hoa Đáng chỉ có tham vọng là một góc Liêu Đông, bây giờ nghe nói có thể thống nhất được thảo nguyên, khi đã có thể đứng trên cao, tự nhiên ánh mắt tham lam của hắn cũng nhìn ra xa hơn.
Về dã tâm của người Man, Hoàng Thượng nói rất đúng. Mặc dù bọn họ không phải dân tộc du mục, đã xoay sang học tập người Hán làm ruộng dệt vải nhưng cũng không thay đổi được bản tính thích xâm chiếm đất đai của bọn họ. Bọn họ ở lệch một bên thảo nguyên, trên có các nước La Sát, còn ba mặt trái, dưới, phải lại bị các vệ Đại Minh ta bao vây. Một khi thống nhất thảo nguyên sẽ không có cách nào cung cấp đủ nhu yếu phẩm cho dân số gia tăng, lúc đó nhất định họ phải xâm chiếm bên ngoài. Cho nên thần mới khuyên Hoàng Thượng thừa dịp ba liên minh bộ lạc đang lục đục, hãy mau chóng bình định biên giới phía Bắc, thâu tóm toàn bộ thảo nguyên vào lãnh thổ quốc gia Đại Minh, lưu lại cho con cháu đời sau một giang sơn vững chắc như sắt thép.
Hào khí nổi lên bừng bừng, Chính Đức gật gù tán thưởng, cười nói:
- Đúng lắm! Trẫm muốn lưu lại cho thế hệ mai sau một giang sơn vững chắc như sắt thép...
Chợt nhớ đến chuyện khác, hắn không nén nổi nói bằng giọng hâm mộ:
- Được rồi, Dương thị độc! Nghe nói Ấu Nương tỷ tỷ đã có mang, không biết tháng mấy sẽ sinh?
Nghe nhắc tới việc này Dương Lăng cũng đầy vẻ vui mừng, y mỉm cười đáp:
- Ước chừng giữa tháng tám, vào lúc hoa quế tỏa hương.
Chính Đức ha ha cười to, nháy nháy mắt, vỗ đùi nói:
- Tốt! Nếu như là bé trai ta sẽ nhận làm nghĩa tử, nếu như là con gái ta sẽ nhận làm nghĩa nữ. Chuyện này phải theo lệ ai dành trước là được, không cho người nào được phép tranh cướp với trẫm!
Hắn vỗ tay cười nói tiếp:
- Thật muốn biết khi nghe tiểu hài tử kêu bằng phụ thân sẽ có cảm giác gì nhỉ? Nhất định phải rất vui vẻ!
Dương Lăng giật mình, Hoàng Thượng muốn đích thân làm cha nuôi đứa bé? Ngẫm nghĩ lại, y thấy dường như cũng không có gì xấu, hơn nữa Chính Đức đã mở miệng, ai lại dám xem nhẹ mặt mũi của hắn?
Dương Lăng khẽ cười đáp:
- Trẻ em chưa được tròn trèm một tuổi thì làm sao mở miệng gọi cha được? Hoàng Thượng thân thể cường tráng, tuổi lại như mặt trời mới mọc ở phương đông, tương lai nhất định cũng sẽ con cháu đầy đàn.
Chính Đức mặt mày hớn hở:
- Ha ha! Chỉ hy vọng như thế.
Hắn khoát tay nói tiếp:
- Tạm không nói chuyện này nữa! Đến đây, chúng ta bàn bạc qua chuyện ký kết hiệp ước với Hoa Đáng. Ngươi nghĩ rằng Hoa Đáng có thể đồng ý với những điều kiện do chúng ta đưa ra hay không?
Dương Lăng đáp ngay không chút do dự:
- Nhất định sẽ chấp thuận! Trước tiên, vốn Hoa Đáng và Bá Nhan đã phân tranh không ngừng. Bá Nhan đánh nhau với chúng ta ở nơi này đã gánh chịu tổn thất, nhất định hắn có thể sẽ cướp đoạt lương thực Hoa Đáng để bổ sung cho mình. Thêm nữa, ba bộ Nữ Chân rất phụ thuộcvào Đại Minh, bọn họ thành tâm nương nhờ vào Đại Minh. Lực khống chế của Hoa Đáng bên trong Đóa Nhan Tam Vệ cũng không bằng lực khống chế của Bá Nhan đối với các bộ lạc Thát Đát. Những điều kiện hậu hỉ của chúng ta nhất định khiến cho thủ lĩnh các bộ lạc động tâm, Hoa Đáng không thể không suy nghĩ đến những thực tế này.
Miêu Quỳ cũng đã đến dịch quán. Cũng như Trương Vĩnh, lão cũng thuộc nhóm những người biết rõ chiến sự, lại từng thâm nhập đại mạc, có kiến thức rộng về ba bộ của Mông Cổ. Nghe vậy, lão bèn tham gia:
- Hoàng Thượng! Theo nô tài biết, ngày xưa đế quốc nhà Nguyên phân chia thành ba bộ. Thát Đát là trực hệ hoàng gia, thời gian qua không xem hai bộ khác ra gì. Ngõa Thứ là đại thế lực gần gũi với hoàng tộc vào hàng thứ hai, với lại lúc trước cũng từng nhận chức Thái Sư, từng hùng cứ Thát Đát, dã tâm thực ra cũng không nhỏ.
Mãn Đô Hải từng chinh phạt Ngõa Thứ. Sau khi đánh bại bọn họ, bà ta bèn ra lệnh tòa nhà của thủ lĩnh bọn hắn không được xưng là cung điện, ở trong nhà chỉ được quỳ chứ không được phép ngồi, các quý tộc ăn thịt đều chỉ cho lấy tay xé, không cho phép sử dụng dao nhỏ. Loại sỉ nhục này khiến cho bọn hắn thù hận tộc Thát Đát còn hơn xa việc thù địch Đại Minh.
Cho nên theo ý nô tài, đợi đến khi Bá Nhan, Hỏa Sư xảy ra nội loạn ta liền tụ tập trọng binh từ vệ Ha Mi (thuộc Tân Cương, Trung Quốc) công kích Ngõa Thứ, xua con hổ nhọc mệt này vào thảo nguyên Thát Đát. Vì bãi chăn nuôi và trâu dê, bọn họ sẽ không bỏ qua cơ hội tốt Thát Đát đang nội loạn này, nhất định sẽ không chút do dự tham gia vào cuộc chiến đó. Có thể bọn họ tạo thành thế chân vạc vững chắc, có thể gia nhập vào một phe tấn công phe kia. Theo nô tài phỏng đoán, rất có khả năng bọn họ sẽ chọn Hỏa Sư làm đồng minh. Nếu thế thì sẽ có thể giảm nhẹ áp lực phía đông rất nhiều, giúp cho quân ta ung dung bố trí. Dựa theo kế hoạch của Dương đại nhân, chúng ta sẽ xuất binh thu dọn tàn cuộc, lại thuận thế chiếm hết Đóa Nhan Tam Vệ.
Chính Đức sáng mắt lên, hào hứng hỏi:
- Dương khanh nghĩ như thế nào?
Dương Lăng nhìn lướt qua Miêu Quỳ với vẻ khâm phục, cung tay khen:
- Thực là diệu kế! Chỉ là không biết Ngõa Thứ có còn thực lực đánh với Thát Đát một trận hay không?
Miêu Quỳ vui vẻ tâu với Chính Đức:
- Khi nô tài thâm nhập đại mạc, từng theo hướng tây tiến vào địa bàn Ngõa Thứ. Đội quân của nô tài đã từng giao chiến một trận nhỏ với bọn chúng, ngay lúc đó đã phát hiện bên trong bộ lạc của bọn hắn còn tráng đinh rất nhiều. Hiển nhiên lần này Bá Nhan triệu tập các bộ lạc tấn công Đại Đồng, nhưng người Ngõa Thứ chỉ phái tới những kẻ già yếu, căn bản là chỉ nhằm phất cờ hò reo cho Bá Nhan. Thực lực của bọn hắn mặc dù hãy còn không đủ để đối phó với Bá Nhan, nhưng nếu như Hỏa Sư làm phản, vệ Ha Mi lại gia tăng áp lực, khi đó tình hình chiến sự liền không tránh khỏi triển khai theo hướng chúng ta dự đoán.
Chính Đức cười to, vỗ án bảo:
- Hay lắm! Các khanh mưu lược không hẳn sâu sắc hơn lớp đại thần trong triều, nhưng mà bọn họ chỉ biết gìn giữ cái đã có, không biết sự quan trọng của việc đi ra ngoài. Chỉ cần nhìn điểm này, các khanh đã cao minh hơn bọn họ nhiều lắm đấy.
***
Đàm phán thật sự chính là tiến hành ở bên ngoài, còn đến khi bưng lên mặt bàn cho hai bên thủ lãnh gặp mặt thì cả hai chỉ thực hiện nghi thức ký tên vào văn kiện thôi. Công cuộc đàm phán bí mật giữa Đại Minh cùng Đóa Nhan Tam Vệ đang tiến hành cấp tập, sứ giả hai bên qua lại cửa Đắc Thắng như thoi đưa.
Vào thời Tần Hán Tùy Đường, nơi sản sinh tuấn mã là vùng Hà Sáo, Kỳ Liên, Trương Gia Khẩu, Hô Luân Bối Nhĩ (nay là thị trấn ở Nội Mông). Bây giờ chỉ có Trương Gia Khẩu vẫn còn luôn luôn ở trong tay khống chế của Đại Minh. Đất đai nơi đây rất thích hợp để nuôi dưỡng ngựa tốt, nhưng do Thát Đát thường xuyên đến cướp bóc cho nên mã chính (chính sách dân nuôi ngựa cho quân binh) đã bỏ phế nhiều năm.
Trong thời buổi chiến tranh bằng vũ khí lạnh như hiện nay, ngựa có tác dụng cực kỳ quan trọng, tuyệt đối không thể thay thế được. Tốc độ và sức tấn công của bộ binh khó mà bằng được của kỵ binh. Nếu như hai bên có thực lực tương đương, bên kỵ binh không đợi bộ binh tập kết thành đội hình chiến đấu mà ngay khi đối phương chưa hình thành sức phòng ngự đã tung chiến mã thọc sâu vào đội hình kẻ địch thì chỉ cần một lần xung kích là đã đánh bộ binh tan tác.
Còn nếu như bên bộ binh người đông thế mạnh, bên kỵ binh có thể ngày ẩn nấp đêm xuất hiện tập kích quấy rối, kéo dãn đội hình của đối phương khiến đường tiếp tế của phe bộ binh bị kéo dài, sau đó ung dung cắt đường vận chuyển lương thảo của địch. Khi bộ binh đối phương đã suy sụp trầm trọng vì lương thảo bị cắt đứt thì kỵ binh sẽ chia cắt, bao vây tiêu diệt. Cho dù bộ binh phòng thủ phản kích giành thắng lợi đi chăng nữa, kỵ binh cũng có thể tùy ý chạy xa bất kỳ lúc nào, bộ binh hoàn toàn không có cách nào truy kích.
Cho nên bộ binh đấu với kỵ binh, nếu thắng thì chỉ có thể thắng nhỏ mà bại thì nhất định toàn quân bị diệt; quả thực ở vùng đồng bằng khó mà cùng kỵ binh giáp chiến. Thông thường quân đội Trung Nguyên thiện về xa chiến, phiền một nỗi tuy sức xung kích của chiến xa rất mạnh nhưng nếu phải hành quân cấp tốc trên một quãng đường dài thì lại dễ bị hư hao. Với lại đoàn xe đông đúc ở trên chiến trường khó mà chuyển hướng lẫn quay đầu thoải mái nên tính linh hoạt thua xa kỵ binh. Do đó chiến xa chỉ có thể được sử dụng trong những trận tấn công quyết chiến và dùng để tạo chiến lũy phòng thủ khi địch phản công.
Bây giờ vũ khí nóng vẫn chưa thể hoàn toàn thay thế vị trí của vũ khí lạnh. Dương Lăng ước tính thời gian cần thiết để kiểu súng mới của Nội xưởng đạt tới hiệu quả hoàn mỹ, được sản xuất hàng loạt, rồi trang bị tương đới đầy đủ cho quân đội và huấn luyện sĩ tốt sử dụng thuần thục thì ít nhất cũng phải tốn năm năm. Những việc này có nóng ruột cũng chẳng thể làm được gì. Cho dù bây giờ lập tức có đủ binh khí hiện đại nhất đi chăng nữa thì thời gian bỏ ra để đào tạo sĩ quan huấn luyện, sau đó bọn họ lại huấn luyện đại trà cho binh sĩ không mất đứt một năm rưỡi không xong.
Ngay bây giờ, khi chưa có hàng loạt hỏa pháo tiên tiến, nhẹ nhàng trang bị cho quân đội, khi chưa có thiết bị vận chuyển hiện đại xuất hiện, nếu muốn chiến đấu với dân phương bắc, nhất là khi muốn chủ động tấn công, thì ngựa có tác dụng quyết định. Dương Lăng biết rõ điều này cho nên tiêu điểm đàm phán của Đại Minh đã một mực tập trung vào hạng mục này.
Ngoài da và lông thú thì vật phẩm Đóa Nhan Tam Vệ có thể cung cấp chủ yếu chính là chiến mã, nên không cần phải lo lắng bọn họ sẽ để ý tới điểm đặc biệt này. Nhưng sứ giả Đóa Nhan lại đề xuất người khá giả của tam vệ chỉ chiếm một, hai phần mười, dân thường chiếm hơn bảy tám phần nên yêu cầu phía Đại Minh xuất cảng nhiều gạo cùng mì muối trà hơn, giảm bớt những món xa xỉ phẩm như đồ sứ, lụa là.
Dương Lăng đồng ý. Nhân cơ hội y đưa đề nghị Đại Minh có thể xuất khẩu lương thảo, muối ăn thậm chí tiền đồng cùng dụng cụ bằng sắt và lưu huỳnh diêm tiêu, nhưng bên Đại Minh muốn mua ngựa tốt, lại do Đóa Nhan Tam Vệ phái người dạy cách nuôi dưỡng ngựa và mở thêm khu vực chăn nuôi cho ba vệ tại vùng đất của Đại Minh.
Thông qua buôn bán thu được ngựa cùng các loại vật tư quân sự, hơn nữa mở khu chăn thả trên đất Hán thì càng thuận tiện, vả lại chi phí thực tế sẽ càng tiết giảm. Ở địa bàn Đóa Nhan Tam Vệ xác định vài khu vực nuôi dưỡng ngựa, vừa có thể dùng để bồi dưỡng dân chăn nuôi xuất sắc người Hán, vừa đề phòng một khi Đóa Nhan Tam Vệ bỏ không cung cấp nữa, việc cung ứng ngựa cũng sẽ không đến mức phát sinh vấn đề quá lớn. Đóa Nhan Tam Vệ nhịn không được điều kiện hậu đãi của triều đình nhà Minh dành cho, cuối cùng cũng đồng ý giúp đỡ việc này.
Lượng xuất khẩu lưu huỳnh và diêm tiêu có hạn, với lại chúng chính là vật phẩm tiêu hao, hễ dùng là hết. Người Mông Cổ đã không có bao nhiêu vũ khí tương ứng, cũng không có phương cách phối chế thuốc nổ tối ưu. Xuất khẩu một ít đạn dược cho Đóa Nhan Tam Vệ nhằm một mặt biểu hiện Đại Minh thành tâm liên kết, mặt khác là trên thực tế, triều đình nhà Minh cũng nắm trọn công cụ điều tiết sức phát triển quân sự của Đóa Nhan Tam Vệ vào trong tay. Những vấn đề như thế này đã bày ra ngay trước mắt những thủ lãnh Đóa Nhan Tam Vệ, nhưng hiển nhiên ngay bây giờ bọn họ khó mà phát hiện được mối họa trong đó.
Triều Minh nhập khẩu lông lạc đà, da chồn, nhân sâm, ngựa; xuất khẩu lưỡi cày, xẻng, trâu cày, hạt giống, gạo muối, vải vóc, chảo sắt… Sau một hồi cò kè mặc cả, bớt một thêm hai, rốt cuộc hai bên cũng đạt được thỏa thuận song phương đều vừa lòng. Sau cùng, hai bên bắt đầu thảo luận địa điểm mở những chợ ngựa.
Lần này, triều đình nhà Minh lại vô cùng hào hiệp. Ngoài ba chợ ngựa được mở từ thời Vĩnh Lạc ở ba vệ Nam Quan, Đông Quan, Quảng Ninh, bọn họ lại tăng thêm ở năm cửa quan Phủ Thuận, Bạch Thổ Hán, Khoan Điện, Ái Dương, Thanh Hà. Thời gian họp chợ là hằng ngày thay vì là chợ phiên; nhà Minh sẽ phái binh trú đóng, ấn định giá cả, thu thuế giao thương.
Việc đàm phán đều lấy bàn bạc thảo luận mà quyết, đã kéo dài hết bảy ngày. Lúc này quân của Hỏa Sư vẫn quấy rối ở quan ngoại, nhưng thế công càng lúc càng yếu, đã không hề có chiến ý. Đại quân Bá Nhan đã từ vùng Bắc Bình Thuận trở về nhưng không tụ họp cùng lực lượng của Hỏa Sư, hình như có ý định cuốn cờ xếp trống trở về đại mạc.
Ngày mai chính là ngày thiên tử Đại Minh gặp mặt Đóa Nhan Tam Vệ, đích thân ký kết hiệp ước đồng minh, cả hai bên cùng công cùng thủ. Mặc dù quân Thát ở quan ngoại không có hoạt động gì lạ nhưng Dương Nhất Thanh vẫn như gặp đại địch, tự mình trấn giữ Đắc Thắng bảo, đồng thời ra lệnh dọc tuyến Sơn Tây hơn hai trăm quan ải, phong hỏa đài, vệ sở đề phòng toàn diện, tụ tập tinh binh. Vương Thủ Nhân tự mình dẫn hai vị du kích tướng quân canh giữ ở quan ngoại, cơ động chiến đấu, theo dõi hoạt động của lực lượng Hỏa Sư.
Hai vạn binh mã của Thái Nguyên vệ Trương Dần được giữ làm quân dự bị, cố thủ ở Quảng Vũ bảo huyện Âm Sơn, sẵn sàng nhận mệnh lệnh bất kỳ lúc nào. Đỗ Nhân Quốc trấn giữ thành Đại Đồng; còn Hứa Thái dẫn bảy ngàn kỵ binh phục ở bên trong Đại Đồng, một khi núi Bạch Đăng báo động thì lập tức phóng ngựa gấp rút tiếp viện.
Trên núi Bạch Đăng đã xây xong đình đón khách, lều lớn để tổ chức hội nghị, khắp bốn mặt sườn núi đã ẩn giấu bảy mươi khẩu độc hỏa pháo.
Những độc hỏa pháo này có thể bắn lựu đạn cũng có thể bắn đạn ria. Một phát có thể bắn ra hơn trăm miếng sắt nhỏ, tầm bắn không xa nhưng khi phát xạ, cả trăm viên đạn lớn nhỏ cùng bay ra ngoài. Ầm một tiếng như sấm, lực sát thương với phạm vi sát thương đều rất lớn, thích hợp sử dụng ở trận địa trống trải nhằm oanh kích đội hình chiến đấu dày đặt của đối phương. Loại pháo này áp chế thế công điên cuồng của địch rất hiệu quả.
Đại quân Bá Nhan vẫn ở ngoài Trường Thành, ở giữa còn có vài vạn đại quân ngăn cản, do chính Dương Nhất Thanh thống lĩnh. Do đó Dương Lăng không lo lắng Thát Đát hợp sức cùng tiến công mà chỉ lo Di Lặc giáo thần thông quảng đại. Ngay trong thành Bắc Kinh mà bọn họ đã có thể tập trung hơn hai trăm tay tội phạm tập kích Cao Lão trang vào ban đêm nên bây giờ Dương Lăng cũng không biết bọn họ có thể tụ tập mấy ngàn giáo đồ cuồng tín bất ngờ tập kích núi Bạch Đăng hay không. Bởi vậy ở đồng ruộng chung quanh chốn ký kết hiệp ước y đã cho chôn hơn năm trăm quả địa lôi có thể chủ động kích hoạt được. Trước đó những địa điểm chôn địa lôi đều đã được đánh dấu, một khi không sử dụng tới, những quả mìn này phải được lấy ra nguyên vẹn, tránh vào đầu xuân gây rủi ro khiến dân lành đi làm ruộng bị dính thương vong.
Theo ước định trước, đội ngũ Hoa Đáng sẽ được nghênh đón tại cửa khẩu Phi Hồ độ. Đây là một quan ải nhỏ, từ ngoài vào trong khá nguy hiểm khó vượt qua, nhưng từ bên trong xông ra bên ngoài lại không có gì khó khăn, một khi xông ra sẽ phá được đội hình quân ngăn trở nên rất dễ thoát thân. Y lựa chọn nơi này cho sứ giả Đóa Nhan Tam Vệ nhập quan là đã xóa bỏ được lòng nghi ngại của Hoa Đáng.
Hai bên quan ải Phi Hồ độ là những rặng núi cao hiểm trở, chim bay khó lọt, phía trên là vách đá trơ trụi khó mai phục binh sĩ. Dãy núi kéo dài như rồng, cùng Đại Đồng phía tây ngăn cách thảo nguyên, trở thành rãnh trời cắt đứt khả năng đại quân Bá Nhan trèo đèo lội suối từ nơi đó nhập quan. Còn nếu như bọn chúng vòng qua hơn mười dặm từ phần cuối dãy núi đánh giết vào, những phong hỏa đài thiết lập tại phương xa liền có thể báo động ngay lập tức, quân Minh sẽ đóng kín quan ải. Nhưng để cho an toàn, tuy ở quan ải này đã có sẵn quan binh cơ sở trú đóng, Dương Lăng vẫn điều thêm Kinh Phật Nhi cùng một ngàn binh mã đến tăng cường.
Đã chuẩn bị kỹ lưỡng đến như thế, quả thực có thể nói là không còn sơ hở gì, nhưng Dương Lăng cùng Hồ Toản, Dương Nhất Thanh, Trương Vĩnh, Miêu Quỳ vẫn lo lắng không yên. Đã rất khuya mà bọn họ vẫn tụ tập trong thư phòng cân lui nhắc tới, suy diễn tất cả các cạm bẫy có thể xuất hiện.
Hồ Toản nói:
- Quan ải, Đại Đồng, núi Bạch Đăng cách nhau không xa, chỉ trong phút chốc có thể kéo quân đến ngay lập tức. Quanh chỗ đó trên mười dặm đều là đồng bằng không có gì nguy hiểm, không chỗ có thể ẩn nấp để thực sự gây bất lợi cho Hoàng Thượng. Bọn họ chỉ có thể dùng sức tấn công mà thôi, nhưng mà trừ phi Di Lặc giáo có bản lĩnh rải đậu thành binh, bằng không những binh mã này từ đâu mà xuất hiện? Theo ý bản quan, nên đề phòng chăng là khi địch đến thì tên bay đạn lạc lỡ làm tổn thương Hoàng Thượng.
Dương Lăng cười cười, tiết lộ:
- Tuần phủ đại nhân yên tâm! Trên núi có một cái hang động sâu đến hơn bốn mươi trượng. Ta đã phái người san bằng đỉnh núi, sau đó chỉnh sửa, xén phẳng hang núi kia, cũng đào rộng bề ngang, đẽo thêm bậc thang đá. Lều lớn để hội họp đã được dựng ngay trên cửa động, một khi có chuyện, lập tức có thể mời Hoàng Thượng tạm lánh vào trong động.
Trương Vĩnh bàn:
- Di Lặc giáo dẫn một đám dân làng đến hại được Hoàng Thượng ư? Không thể tưởng tượng được! Bọn họ đã không có đại quân, một đám dân lành không biết gì thì không thể làm nên việc lớn được. Theo cha gia thấy, khả năng bọn chúng sử dụng thích khách còn lớn hơn nữa. Liệu trong quân, thậm chí trong nhóm Đóa Nhan Tam Vệ, có thể có người bị chúng mua chuộc trở thành thích khách liều chết hay không? Ít ra Hoàng Thượng phải mặc hai lớp giáp mềm, còn phải chọn lựa những người võ nghệ giỏi nhất trong thị vệ đại nội theo hầu chung quanh, không rời người nửa bước.
Thấy những thần tử này vì an toàn của mình mà như gặp đại địch, thảo luận không ngừng, Chính Đức không nén nổi lắc lắc đầu, đột nhiên xen vào chế nhạo:
- Không biết Hoa Đáng bây giờ đang làm cái gì nhỉ? Phải chăng các thủ lĩnh bộ lạc của Đóa Nhan Tam Vệ cũng đang trắng đêm không ngủ cân nhắc làm như thế nào để bảo vệ được tính mạng của Hoa Đáng?!
Mọi người nghe xong đang ngẩn người, Chính Đức đã đứng dậy bảo:
- Các vị ái khanh cứ tiếp tục! Ta đây là người bằng gốm sứ nên phải về phòng nghỉ ngơi đã.
Các quan chức còn chưa kịp quỳ xuống thi lễ, Chính Đức đã vén màn cửa, thản nhiên bước thẳng ra ngoài.
Đêm đen như mực, sao trời lấp lánh. Hai hàng thị vệ ngoài cửa nhìn thấy Hoàng Thượng bước ra lập tức có hai gã thị vệ vội vã tháo đèn lồng xuống định đưa nhà vua trở về. Đúng lúc đó, một bóng người yểu điệu chợt tiến vào sân nhỏ trước thư phòng. Mắt sáng lên, Chính Đức vội lén ra hiệu với thị vệ rồi lập tức bước ra nghênh đón.
Hắn vẫn mặc bộ đồ hiệu úy nên Đường Nhất Tiên cứ ngỡ hắn đang làm thị vệ canh cửa. Nàng khẽ nhón chân nhìn vào thư phòng, ánh đèn qua song cửa sổ chiếu ra vài bóng người còn đang huơ tay nói chuyện với nhau.
Đường Nhất Tiên khẽ nhíu mày:
- Hai ngày này biểu ca quá bận rộn, không rảnh để gặp mặt ta. Trong phòng dường như có thật nhiều người, bọn họ đang bận rộn cái gì vậy?
Chính Đức nhẹ nhàng khẽ giật ống tay áo Đường Nhất Tiên, đánh mắt ra phía trước rồi im lặng bước ra ngoài. Đường Nhất Tiên kinh ngạc bước theo ra hắn khỏi sân. Nàng thấy Chính Đức hai tay thu vào tay áo, ngửa mặt nhìn sao trên trời lẩm bẩm:
- Mỗi một vị quân vương đều có thể hóa thành một ngôi sao trên bầu trời. Sao dày dặc khắp trời, ngôi sao sáng nhất chắc chắn là vị quân vương xứng đáng nhất.
Đường Nhất Tiên bĩu môi:
- Ngươi đừng xạo nữa, gọi ta ra đây làm gì?
Chính Đức liếc mắt nhìn nàng, mỉm cười nói:
- Ngày mai Hoàng đế sẽ cùng thủ lĩnh Đóa Nhan Tam Vệ của quan ngoại ký kết hiệp ước. Mấy ngày nay đại nhân có rất nhiều chuyện nên rất bận rộn, cô khoan vào đã.
Đường Nhất Tiên gật gật đầu, chợt nói:
- Ôi! Ta thấy lạ lạ, hóa ra là Hoàng đế..., - nàng đột nhiên mở to mắt, thất thanh - Hoàng đế? Hoàng đế ở Đại Đồng?
Chính Đức đưa một ngón tay lên miệng, khẽ “suỵt” rồi cười nhẹ:
- Nói nhỏ một tí! Ngày mai ký kết hiệp ước thì tất nhiên cả thiên hạ phải biết, nhưng mà tối nay lại chưa thể tung tin ra được.
Đường Nhất Tiên trợn mắt nhìn hắn, nhưng vẫn hạ giọng hỏi:
- Vậy ngươi nói cho ta biết làm gì?
Nàng ngẫm nghĩ một lúc, lại hỏi:
- Ký kết hiệp ước hẳn là không có gì nguy hiểm. Ngươi cũng phải đi hay sao?
Thấy Chính Đức gật đầu, nàng bước đến gần rồi như một người chị lớn nghiêm trang giúp hắn sửa sang lại y phục, dặn dò:
- Đi theo Hoàng Đế ra ngoài nhất định là rất vinh dự. Nhưng mà ngươi tuổi còn nhỏ, không thông suốt việc thế sự, phải hiểu cách tự chăm sóc mình, chớ để thất lễ trước mắt quân vương. Không những như thế là đã đánh mất mặt mũi anh của ta mà cũng ảnh hưởng đến tương lai chính mình.
Chính Đức gật gật đầu, bỗng nhiên cười nói:
- Bản thân cô tuổi không lớn lắm mà lại rành rẽ cách chăm sóc người khác. Trước kia cũng giống như vậy, đến bây giờ ta vẫn còn nhớ rõ ánh mắt ân cần, đồng tình của cô lần nọ.
Mắt sáng rỡ, Đường Nhất Tiên hứng thú bừng bừng hỏi:
- Chuyện trước kia của ta? Ta chẳng nhớ chuyện gì cả. Biểu ca lại bận quá nhiều việc nên, ta cũng không tiện hỏi anh ấy. Ta đã ân cần đồng tình với ngươi như thế nào? Kể cho ta nghe với!
Chính Đức thầm hối hận mình đã lỡ lời. Nhưng chỉ trong chốc lát, hắn ta đành phải kiên trì nói dối đến cùng:
- Có...... Có một lần, cô và...... Nhị phu nhân, Tam phu nhân của Đại nhân đang đi trên đường phố, bị một tên vô lại quấy rối. Ta bắt gặp được nên tiến lên ngăn cản, nhưng bất ngờ không kịp đề phòng bị tên du côn kia tống một quyền trúng mũi chảy máu không ngừng. Cô đã đưa một cái khăn tay cho ta...
Đường Nhất Tiên phì cười, nheo mũi:
- Ngươi thật là ngốc! Điều đó mà coi như ân cần đồng tình cái gì? Cho dù người qua đường trọng nghĩa nói giúp vài câu, ta cũng vẫn cảm kích người ta vài phần đấy nha. Ngươi thật! Người khác giúp đỡ ngươi thì nên nhớ ở trong lòng, nhưng mà cũng không cần tự cam lòng nhỏ bé, tự cảm thấy mình thân phận thấp kém, làm cho người khác cái gì cũng đều là điều cần phải làm.
Chính Đức gật gật đầu, thầm nghĩ: "Nếu không phải Dương thị độc dẫn ta ra khỏi cung, làm sao ta có thể gặp được cô? Nói như vậy, đúng ra ta nên cảm kích Dương Lăng mới đúng. Tuy nhiên, nói đi thì phải nói lại, nếu không phải ta xông vào ‘Hoa quán', thì làm sao Dương khanh có thể gặp được hai cô ái thiếp, còn được ta chuộc ra ban cho hắn? Chẳng lẽ đúng là một miếng ăn, một chén nước đều do tiền định cả sao? Lần này gặp lại được cô thực là khó khăn trăm bề, ta nhất định phải rất quý trọng, cả đời này ta sẽ không để cho cô rời khỏi tầm mắt của ta.”
***
Mấy ngàn thiết kỵ trùng trùng điệp điệp trên đường. Hôm nay là ngày chính thức ký kết hiệp ước đồng minh, không cần che giấu việc Hoàng đế đã vào tới Đại Đồng nữa. Không lý nào quân vương một đại quốc tổ chức ký kết hiệp ước cùng một tiểu bộ lạc ngay trên quốc thổ của mình mà lại còn phải giấu giấu giếm giếm! Cho nên Dương Lăng mượn của phủ Đại Vương nguyên bộ nghi trượng, rồi lại bố trí thêm cờ quạt lọng tán mới tinh.
Đại Vương và Tuần phủ Đại Đồng Hồ Toản ruổi ngựa đi trước, tiễn vua ra khỏi thành. Trên đường cái năm bước một chòi gác, mười bước một trạm canh, những đường phố loan giá đi qua đều được phong bế chặt chẽ. Đứng ở bên ngoài lằn ranh do quan binh thiết lập cảnh giới, dân chúng ngạc nhiên trố mắt nhìn nghi trượng Hoàng đế mà có lẽ suốt đời chỉ có cơ hội này họ mới được nhìn thấy.
Ở góc đường, Thôi Oanh Nhi bình tĩnh đánh giá đại đội nhân mã đi qua không dứt. Chiếc ngự kiệu che lụa vàng tươi vừa tiến đến. Trước sau, trái phải, mỗi bên có ba mươi hai thị vệ đại nội mặc áo thêu hình cá chuồn, đeo đao tú xuân vây kín chung quanh chiếc đại kiệu tới mưa gió không lọt, chỉ còn có thể thấy được cờ quạt lọng tán trên đỉnh kiệu từ từ lướt qua.
Hoắc Ngũ thúc lặng lẽ chen đến gần ra hiệu cho nàng lui lại về phía sau mấy bước, nói nhỏ:
- Vừa mới thấy có cả chục cờ mặt trời, cờ mặt trăng, cờ phi hổ trong đoàn nghi trượng, chính là Dương Lăng và Đại Vương, Hồ Tuần phủ. Thị vệ trùng trùng điệp điệp, hoàn toàn không có cách nào ra tay.
Thôi Oanh Nhi ngẩn người, hỏi ngược lại:
- Ngũ thúc, không phải thúc vừa mới nói đi tiểu tiện một chút hay sao? Sao mà thúc lại đi theo nghi trượng được một lúc rồi?
Thầm hối hận mình lỡ lời, Hoắc Ngũ thúc vội vàng giải thích:
- Vừa mới đi ngoài trở về là đã nhìn thấy nghi trượng đi qua, ta không kịp tìm con bèn đi theo một đoạn. Nhìn tình hình thế này, một khi bọn họ ra khỏi thành bọn ta càng không có cách nào ra tay. Sau khi ký kết hiệp ước xong, Hoàng Đế sẽ trở về kinh, có thể bọn ta cũng lại không có cơ hội rồi.
Thôi Oanh Nhi hồ nghi nhìn lão, ngần ngừ:
- Đã là chuyện không thể làm, chúng ta...... Lúc đó dừng tay thì sao? Hoàng Đế cùng Đóa Nhan Tam Vệ ký kết hiệp ước, giao thương buôn bán cả hai đều lợi. Dân chúng biên ải hiện đang rất cao hứng, nếu như chúng ta quấy rối việc này thì không biết phải chịu đựng sự chửi rủa của biết bao nhiêu người.
Hoắc Ngũ thúc nhìn lướt chung quanh, đáp:
- Không vội! Hoàng Đế thân chinh đến Đại Đồng tất nhiên rất coi trọng lần ký kết đồng minh này. Việc này vừa xong, quan chức Đại Đồng nhất định bày rượu thiết yến chúc mừng Hoàng Đế thành công. Việc thù tạc của Dương Lăng cũng nhất định không ít, chúng ta vẫn còn cơ hội.
Thôi Oanh Nhi thầm than nhẹ trong lòng, lông mày vương chút sầu muộn. Hoắc Ngũ thúc tận tình như thế, nàng còn có thể nói được gì?
Bộ dạng mệt mỏi, nàng lười biếng:
- Ừm! Chúng ta về chỗ ẩn thân trước đi. Hôm nay trong thành phong tỏa càng nghiêm ngặt hơn, Hoàng Đế từ ngoài thành trở về cũng phải có cả ngàn quân binh bảo vệ. Dương Lăng lại ở bên cạnh của hắn. Hôm nay cho dù có bản lĩnh tày trời cũng không thể đến gần cận thần của Hoàng đế được!
Dưới sự bảo vệ của năm nghìn tinh binh, đoàn nghi trượng của Hoàng đế chậm rãi tiến lên núi Bạch Đăng. Thám mã đi lại không ngừng như đèn kéo quân. Cứ theo báo cáo hành trình Hoa Đáng nhập quan, Dương Lăng lại điều chỉnh tốc độ của đoàn quân.
Hoàng Đế không thể tới trước Hoa Đáng, nhất định phải để cho Hoa Đáng kính cẩn chờ đợi rồi Hoàng đế mới tới. Nhưng Đại Minh là chủ, Đóa Nhan Tam Vệ là khách nên không thể để cho bọn họ phản khách vi chủ (biến bị động thành chủ động) ở chân núi Bạch Đăng đợi quá lâu. Lúc này việc đắn đo, cân nhắc thời gian rất quan trọng.
Trên núi Bạch Đăng cắm đầy cờ quạt lộng lẫy, hai hàng quan binh xếp từ chân đến đỉnh núi. Các thủ lĩnh Đóa Nhan Tam Vệ và các bộ Nữ Chân vừa mới bày xong đội ngũ chỉnh tề ở chân núi thì đoàn quân Dương Lăng cũng vừa đến nơi.
Đại quân Đóa Nhan Tam Vệ không thống nhất trang phục lẫn cờ hiệu, ngay cả vũ khí cũng là đủ loại, nhưng mà cái khí phách hiên ngang ngút trời của cả bọn lại biểu lộ hết sự dũng cảm oai hùng. Từ xa, ngồi trong kiệu lớn nhìn thấy sắc diện bọn họ, Chính Đức không khỏi tán thưởng:
- Năm xưa Đóa Nhan Tam Vệ theo hoàng đế Vĩnh Lạc tấn công Kim Lăng, mỗi khi gặp nam quân đều lấy ba vệ binh ngựa làm tiên phong. Ba nghìn người ngựa đấu với ba vạn người ngựa nhưng chỉ cần xung kích một lần là đánh bại kẻ địch. Bây giờ chiến lực bọn họ còn thua xa năm xưa nhưng mà nhìn khí phách bây giờ đã như vậy, các ngươi có thể tưởng tượng được lúc trước các binh sĩ Đóa Nhan Tam Vệ oai phong như thế nào!
Trương Vĩnh cùng cười nói:
- Hoàng Thượng! Quân uy Đại Minh của ta cũng không kém đâu. Lúc trước thần đã lấy làm lạ khi Dương đại nhân chọn lựa lính khỏe từ mười hai đoàn doanh gồm hơn mười vạn đại quân, tại sao đại nhân lại bỏ qua không tuyển một ít binh lính võ nghệ tinh thông có tướng mạo xinh đẹp, lại chuyên chọn những người lực lưỡng võ nghệ cao cường mà tướng mạo nhất định phải rắn rỏi. Bây giờ thần mới hiểu được dụng ý trong đó.
Nghe xong, Chính Đức chỉ cười không đáp.
Quân Đại Minh quả nhiên cũng không kém Đóa Nhan Tam Vệ. Năm nghìn kỵ binh, người nào cũng cao lớn vạm vỡ, tuấn mã oai phong, giáp trụ lóng lánh chói mắt, thương kích uy nghiêm hướng lên trời như rừng, quả nhiên phong cách đội quân này cũng khá dọa người.
Tiếng ngựa hí cùng tiếng bội đao va chạm lách cách vang lên. Sấp sỉ chừng một nén hương, đại kiệu của Chính Đức mới coi như đã đến hẻm núi Bạch Đăng. Đại thủ lĩnh Hoa Đáng đã dẫn đầu những quý tộc thủ lĩnh Tam vệ và tù trưởng ba bộ Nữ Chân kính cẩn chờ đợi ở đầu hẻm núi.
Nghi trượng Hoàng đế tách ra hai bên, Dương Lăng ghìm cương ngựa, ngẩng đầu đưa mắt nhìn thẳng về phía trước. Dẫn đầu đoàn sứ giả chính một người đàn ông lực lưỡng, trên gương mặt chữ điền đỏ thẫm lộ rõ một khí thế uy mãnh khó cưỡng.
Ánh mắt Dương Lăng giống như tia chớp tập trung ở trên người của hắn, ”Tại sao lại là Nhạ Mộc Đồ? Hoa Đáng đâu?” Dương Lăng giật mình kinh hãi, bất giác nắm chặt thanh kiếm đeo bên hông. Y đang định lớn tiếng quát hỏi, Nhạ Mộc Đồ đã cởi thanh bội đao xuống ném cho một người hầu đứng phía sau, tay không tấc sắt ngang nhiên tiến đến giữa hai hàng đao thương uy nghiêm đáng sợ của thị vệ đại nội.
Hắn đi nhanh như bay, tiến thẳng đến trước đại kiệu mới dừng lại. Hắn chợt đảo người sụp xuống lạy, từ bên trong cổ họng bắn ra những âm thanh to như sấm:
- Chỉ huy Đóa Nhan Tam Vệ, Đồng tri Hoa Đáng, khấu kiến Đại Minh hoàng đế vạn tuế, vạn vạn tuế!
Chương 208 - Điều Quân Khiển Tướng Như Chơi
Chương 208 - Điều Quân Khiển Tướng Như Chơi
Mùi máu tanh tràn ngập không khí. Tuy trời đang rét lạnh song mùi tanh vẫn nồng nặc không tan.
Bá Nhan đứng sừng sững trước lều lớn của Khả Hãn, trợn trừng cặp mắt đỏ lừ màu máu như một con thú dữ. Mấy trăm thớt chiến mã bị giết trải đầy trên cánh đồng tuyết, máu tươi xổ ra ồng ộc, nhuộm đỏ cả mặt đất.
Của cải cướp bọc được trong lần xuất binh này đã hao tổn không còn gì, vốn nên sớm kịp thời rút lui nhưng vì đợi Hoàng đế nhà Minh rời thành để đánh một đòn chí mạng mà mấy vạn đại quân Thát Đát vẫn trù trừ không đi. Nay quân nhu lương thực đã dùng hết sạch, sĩ tốt chỉ có thể dựa vào cây cỏ đào bới trên đồng tuyết cùng chuột, sói, thỏ hoang mà duy trì sự sống.
Mấy vạn đại quân xới tung núi đồi sơn dã lùng bắt hết những chú chuột đồng vừa to vừa béo, lấy dao lóc thịt, lấy nước rửa sạch, triển khai cuộc vận động "toàn dân diệt chuột gây hại" hết sức oanh liệt. Chuột đồng thảo nguyên đào hang sống thành đàn, sau mùa đông một con chuột cỡ lớn phải tích trữ đến mấy chục cân cỏ khô. Những nơi bị nạn chuột phá hoại, đất đai bị chúng cày bới khắp nơi để đào hang nên đất màu bị trôi xói nghiêm trọng. Có nơi thậm chí còn hình thành cái gọi là "đất hoang của chuột": không còn một cành cây, một ngọn cỏ. Xem tình hình hiện nay, nạn chuột gây hại sẽ vì thế mà bị quét sạch, sang xuân mảnh thảo nguyên ngoài thành Đại Đồng này nhất định sẽ xanh mởn cỏ cây...
Nay binh sĩ đều áo quần rách rưới, ăn không đủ no. Nếu như tù trưởng các bộ lạc không biết cách một dãy Trường Thành là Hoàng đế Đại Minh mà nghiêm khắc quản thúc bộ hạ của mình thì chỉ e sớm đã có người nổi loạn.
Tái Lý Mộc Trác Nhĩ, mày đen như núi xa, mắt trong như thu thủy, khẽ khàng đi đến trước mặt Bá Nhan, lo lắng gọi:
- Đại hãn...
Hơi thở nặng nề lập tức ổn định lại, Bá Nhan nhìn cô nàng mỉm cười, cặp mắt khôi phục lại vẻ bình tĩnh và sắc sảo thông minh khi trước. Hắn hiên ngang cả tiếng nói với các thủ lĩnh và bọn sĩ tốt trước mặt:
- Chúng ta ở ngoài thành Đại Đồng khổ chiến gần sáu mươi ngày, quân mệt ngựa mỏi, lương thảo thiếu hụt. Thế thì tại sao không trở về thảo nguyên của chúng ta?
Ánh mắt sắc bén quét khắp một lượt, rồi hắn chỉ tay về phía Đại Đồng, cười to nói tiếp:
- Bởi vì Hoàng đế của Đại Minh đang ở ngay sau ngọn núi này. Trường thành trên núi này là bức tường vững chắc che chở cho người Hán, mà Hoàng đế Đại Minh lại là một bức Trường Thành trong lòng người Hán. Hoàng đế mà chết, thiên hạ tất đại loạn.
Nay cơ hội đã đến! Nội ứng của chúng ta sẽ mở cổng Cự Lỗ khẩu, ta sẽ đích thân dẫn binh mã đại quân không ngừng nghỉ mà tập kích núi Bạch Đăng, còn tướng quân Hỏa Sư anh hùng thì tấn công Đại Đồng. Thành lũy Đại Đồng không gì phá nổi cũng có người của chúng ta, bọn họ sẽ mở cổng thành tây nghênh tiếp đại quân chúng ta tiến vào. Rượu mạnh ngon nhất, đàn bà da thịt mịn màng xinh đẹp nhất, tất cả đều sẽ ở đó đón chờ chúng ta hưởng thụ!
Hỡi các chiến sĩ thảo nguyên! Chiếm được toà thành lớn này rồi, nam đánh Thái Nguyên, bắc dẹp Tuyên Hoá, một nửa giang sơn sẽ nằm trong tầm tay chúng ta. Đại Đô sẽ lại trở về trong vòng tay của chúng ta; Trung Nguyên sẽ lại hoá thành bãi cỏ của chúng ta. Hãy tiến lên! Mỗi một thằng đàn ông người Hán đều sẽ trở thành nô lệ gác bên lều ngủ của các ngươi. Mỗi một con đàn bà người Hán sẽ cung kính hiến dâng cái đêm đầu tiên của mình cho các ngươi. Tất cả tài sản và đàn bà của người Hán đều sẽ mặc cho các người sử dụng!
Được Bá Nhan kích động, những tiếng hú gào như sói tru nối nhau hết đợt này đến đợt khác, dục vọng chinh phục và cướp đoạt lại một lần nữa nổi lên trong lòng mỗi một chiến sĩ Thát Đát. Hài lòng nhìn những chiến sĩ đã lấy lại sát khí đằng đằng, ý chí chiến đấu sôi sục, Bá Nhan vung tay quát lớn:
- Uống nước tuyết, ăn thịt ngựa, tất cả các chiến sĩ hãy ăn no một bữa! Lúc mặt trời lên đến đỉnh, chúng ta sẽ đánh vào quan ải!
Đám chiến sĩ khát máu đã phấn chấn hùng tâm, cả cánh đồng tuyết vì một trận chiến cuối cùng này mà đã sôi trào, từng miếng thịt ngựa to đùng vẫn còn hồng hồng đã liền bị bọn binh sĩ vớt ra khỏi nồi mà nhai nuốt như cọp đói. Tù trưởng các bộ lạc khua chiêng gióng trống chuẩn bị chiến tranh. Lều bạt và một ít xe ngựa thì giao cho đám lính già yếu bệnh tật trông coi, chỉ tập trung khinh kỵ và khoái mã chuẩn bị tập kích quan ải.
Ý chí chiến đấu tràn ngập doanh trại. Ngay cả những tên Thát Đát bị thương, bị bệnh, già yếu tàn tật cũng đều đến trước mặt thủ lĩnh của mình cố gắng tranh giành cơ hội xông lên quan ải, chém giết, cướp bóc, chiếm đoạt đàn bà. Không cần phải động viên gì thêm, mỗi một tên đều biết giang sơn người Hán giàu có và sung túc như thế nào, đàn bà con gái người Hán xinh đẹp ra làm sao. Sự tham lam đã khiến cho những binh sĩ yếu đuối nhất cũng hoá thành những con mãnh hổ.
Một người ăn mặc theo lối người Mông Cổ được dẫn nhanh vào lều Khả Hãn của Bá Nhan. Nghe gã nọ báo tin tức từ quan ải do Di Lặc giáo đưa tới xong thì Bá Nhan không khỏi biến sắc. Hắn trầm ngâm một lúc lâu rồi mới nhoẻn miệng cười, bảo với kẻ đưa tin:
- Tốt lắm, ta biết rồi. Ngươi hãy trở về sơn khẩu tiếp tục chờ tin tức kế tiếp.
Kẻ nọ đưa tay lên ngực làm lễ:
- Tuân lệnh! Bây giờ tôi sẽ trở về Cự Lỗ khẩu ngay.
Song gã ta vừa mới quay lưng, Bá Nhan liền rút nhanh thanh loan đao bóng loáng như tuyết đâm vào giữa sống lưng hắn. Kẻ nọ kinh ngạc quay đầu, sợ hãi nhìn chằm chằm vào Bá Nhan.
Bá Nhan mỉm cười ác độc. Đao rời thân, máu phun ra, kẻ nọ ngã sấp xuống mặt đất. Trác Nhĩ kinh hãi bụm miệng, đến khi kẻ nọ tắt thở, cô nàng mới hoảng sợ hỏi:
- Đại Hãn, sao ngài lại giết hắn?
Sắc mặt Bá Nhan xám xịt. Thấy trong lều không có người ngoài, hắn mới trầm giọng đáp:
- Mới vừa nhận được tin nội ứng tại thành tây Đại Đồng của Di Lặc giáo đã bị khâm sai nhà Minh chém chết rồi. Vốn định tiến thẳng đoạt lấy Đại Đồng, bắc ngăn quân Minh về ải tiếp viện, nam chặn đường lui của Chính Đức, sau đó...
Trác Nhĩ lo lắng hỏi:
- Vậy giờ phải làm sao?
Bá Nhan lắc đầu bảo:
- Không còn đường lui nữa rồi. Không thể để lộ tin này được. Tên thám tử này là người của Thổ Mặc Đặc thuộc bộ lạc Quách Lặc Tân, là người trong tộc của Hỏa Sư. Không thể để bộ lạc của Hỏa Sư biết ta đã nhận được tin tức này. - Đoạn hắn liếc cái xác nằm trên mặt đất rồi thờ ơ nói tiếp, - Để Hỏa Sư tiếp tục đi gặp cục xương cứng đó đi, chúng ta giết Hoàng đế trước, sau đó lại quay về cùng chiếm lấy Đại Đồng!
*****
Cự Lỗ khẩu chỉ là một thành lũy bằng đất. Do nó bị kẹp giữa hai quả núi, địa thế hiểm trở, trước mặt là một lòng chảo chật hẹp, Thát Đạt lại không có vũ khí công thành quá lợi hại nên không thể đánh chiếm thành nhanh chóng. Vì vậy, một khi phát hiện bị địch tiến công thì nơi đây bèn nổi lửa khói phong hỏa đài, các quan ải chung quanh liền có thể mau chóng thông qua Trường Thành mà điều quân đến tiếp viện, cho nên bình thường nơi đây chỉ có binh lực của hai bách hộ trú đóng, do một vị Phó thiên tổng cai quản, kiêm quản một Bách hộ sở (gồm 112 người - xem chú thích chương 43).
Sau khi đại quân của Bá Nhan Khả Hãn tiến vào trong ranh giới Sơn Tây, nơi này được điều động thêm một trăm tăng binh (quân đội hoà thượng - ND) từ Ngũ Đài Sơn. Thời đó nghĩa dũng và tăng binh thường được điều động tham gia chiến đấu mỗi khi có chiến sự, sau chiến tranh lại trở về địa phương cũ.
Vị Phó thiên tổng này tuổi hơn hai mươi, họ Lý tên Nghĩa, mới vừa nhậm chức được hơn một năm. Người này anh tuấn bất phàm nhưng võ nghệ rất cao siêu, tính tình lại điềm đạm. Hắn không hề truy cứu chuyện sĩ tốt thỉnh thoảng lén mua bán nồi sắt, lọ sành với dân du mục Thát Đát, cho nên rất được bọn tướng sĩ ủng hộ và yêu mến.
Hôm nay, bình minh vừa ló dạng hắn đã bồn chồn leo lên trạm quan sát liên tục ngóng nhìn về phía khe núi ngoài quan ải. Sĩ tốt gác trạm trông thấy Phó thiên tổng đại nhân mặt mày căng thẳng liền cười nói:
- Đại nhân, tuy Dương tổng chế đã hạ lệnh trong những ngày này toàn bộ quan ải, vệ sở, phong hỏa đài phải cảnh giới toàn diện, nhưng nghe nói rằng đại quân Bá Nhan thiếu thốn lương thảo, không phải đã chuẩn bị trở về đại mạc rồi sao? Đại nhân hà tất phải lo lắng như vậy! Hơn nữa từ lúc nổ ra chiến sự đến nay, quan ải này của chúng ta vẫn chỉ bị vài tốp giặc Thát tới quấy phá, lúc này càng sẽ không có đại quân đến tập kích đâu.
Lý Nghĩa cười lớn bảo:
- Nói đúng lắm! Có điều quân lệnh của Tổng chế đại nhân nghiêm minh, cái gì nên kiểm tra thì vẫn phải kiểm tra thôi.
Đoạn hắn đảo tròng mắt, nhìn ngó chung quanh, sau đó thân thiết vỗ vai sĩ tốt nọ, nhỏ giọng nói tiếp:
- Biết cuộc sống nhà ngươi hơi vất vả, bản quan sẽ không để ý đến việc ngươi mua bán vài cái nồi niêu chậu chảo đâu. Có điều mấy ngày nay bên trên tra xét ngặt nghèo, đừng để xảy ra chuyện gì đó nhé.
Tiểu binh nọ cảm kích thưa:
- Đa tạ đại nhân! Tiểu nhân biết chừng ạ! Sẽ không mang phiền phức đến cho ngài đâu. Hề hề, đợi mấy ngày nữa đại quân Bá Nhan rút đi rồi hẵng tiếp vậy.
Lý Nghĩa gật gù, cười nói:
- Đứng suốt buổi sáng, các ngươi cũng đã mệt rồi, lui xuống nghỉ ngơi cả đi. Ta sẽ điều đám tăng binh nọ lên thủ thành. Chúng ta lăn lộn mưa gió quanh năm suốt tháng, bọn chúng tên nào tên nấy được nuôi dưỡng kỹ trong chùa thành ra tai to mặt lớn, phương phi tốt tướng; đến lúc bọn chúng phải bỏ ra chút sức rồi.
Binh lính thủ thành cả mừng, mấy người bọn họ liền khúm núm lấy lòng:
- Đa tạ đại nhân quan tâm! Để tiểu nhân đi gọi bọn chúng lên đây.
Chỉ một chốc sau, bốn mươi gã tăng binh đã trèo lên lầu thành, mấy chục quan binh thủ thành cùng chen nhau đi xuống. Lý Nghĩa trông thấy vị tăng quan (chỉ huy tăng binh - ND) tuổi gần ngũ tuần bước đi có phần chậm chạp, ánh mắt không khỏi ngưng tụ. Đợi lão đến gần, hắn mới nhỏ giọng hỏi:
- Sao vậy, vết thương vẫn chưa lành à?
Tăng quan nọ múa cây thuyền trượng "lẻng xẻng" vài đường, rồi cười đáp:
- Nhị thiếu chủ, thủ hạ đã khỏi nhiều rồi. Lần này không dám động tay động chân nhiều cho nên thân thể được tịnh dưỡng đến mức béo núc. Khà! Phải nói cái con lừa trọc trên Ngũ Đài Sơn đó thật là lợi hại, cái xẻng nọ suýt nữa đã xén đùi thủ hạ làm đôi rồi. Khôi phục được đến như thế này đã là may mắn lắm rồi.
Đoạn hắn nhìn ra ngoài quan ải nói tiếp:
- Vừa nãy thiếu chủ sai người của Phương bách hộ đi chuyển cây lăn và dầu tung. Cớ này có phần khiên cưỡng, tại hạ trông thấy Phương bách hộ có vẻ ấm ức lắm, chốc nữa không chừng hắn sẽ bẩm báo với cấp trên là Tề tham tướng đây. Thiếu chủ nên cẩn thận một chút.
Lý Nghĩa cười nhạt, vỗ vỗ lên lỗ châu mai đáp:
- Cha đã bí mật đưa ta vào trong quân đội, vốn là muốn nắm vững binh quyền trước rồi mới từ từ mà tính kế. Nay Hoàng đế đến Đại Đồng là cơ hội nghìn năm khó gặp, chức quan này ta cũng không thể tiếp tục làm nữa rồi. Chốc nửa cửa ải mở ra, Lý tham tướng này cũng sẽ biến mất khỏi thế gian, mặc hắn có thích thì cứ đi mà hặc tội. Không giữ hắn lại đây chờ chết là đã tận tình tận nghĩa với hắn lắm rồi. Ha ha ha!!!
Vừa dứt tiếng cười, hắn lại hỏi:
- Dưới thành đã chuẩn bị xong hết chưa?
Gã tăng quan đầu tròn tai béo, mặt mũi hồng hào gật đầu đáp:
- Thiếu chủ yên tâm, chúng tôi là tăng nhân, không ngồi chung mâm cùng quan binh. Vừa nãy đã sai người bỏ thuốc vào trong đồ ăn của chúng rồi, chốc nữa sẽ có thể giết chúng như giết heo thôi...
Hắn vừa nói đến đây, dưới lầu thành đã vọng lại tiếng rú thảm thiết. Hai người không khỏi đưa mắt nhìn nhau cả cười.
Từ xa, tên rít xuyên mây, âm thanh chói tai từ trong hẻm núi rì rầm vọng lại; tên bay xé gió, vó ngựa như sấm. Một đội kỵ mã đông nghìn nghịt như kiến ùn ùn kéo tới, trông như một tấm thảm đen kịt được trải dài, trong chớp mắt đã bao phủ khắp mặt đất.
Chỉ trong khoảng một nén nhang, ngoài quan ải đã đầy đặc người la ngựa hí, phủ kín cả mặt đất...
*****
Đến dưới chân núi, Dương Lăng mới biết rằng vị sứ giả Nặc Mộc Đồ nọ chính là Hoa Đáng. Người Hán có thói quen hai quân giao chiến không chém sứ giả. Ngoại tộc biết rõ điểm này nên từ xưa thường có Khả Hãn đích thân cải trang làm sứ thần đến viếng đất Hán, tận mắt ngắm nhìn giang sơn người Hán. Sự tình trọng đại như vậy khó trách Hoa Đáng muốn tự thân xuất mã đàm phán cùng triều đình nhà Minh.
Lúc này, trong căn lều lớn trên đỉnh núi Bạch Đăng, khách và chủ đều đang vui vẻ. Chính Đức tự tay viết quốc thư, đóng thêm ngự ấn, chấp thuận việc hợp tác và buôn bán song phương, đồng thời phong Hoa Đáng làm Thuận Minh vương, nhảy một bước từ một viên quan chỉ huy quân sự của Đại Minh có chức Đồng tri thành Khả Hãn Thuận Minh. Cương vị phiên quốc và thuộc quốc đương nhiên khác biệt, Hoa Đáng cảm thấy lưng mình đã thẳng lên không ít.
Dương Lăng mỉm cười bước ra cửa lều, hô to:
- Người đâu, dâng bữa!
Hai nhóm tiểu thái giám đến từ phủ Đại vương nối đuôi nhau tiến vào, những mâm đĩa tinh mỹ óng ánh như ngọc chứa đầy những món ăn tinh xảo lần lượt được mang đặt trên bàn Chính Đức và thủ lĩnh các bộ lạc.
Mặc dù trên núi điều kiện sơ sài, nhưng màu sắc và hương vị các loại món ăn được các vị ngự trù và đầu bếp vương phủ do Dương Lăng đưa tới chuyên tâm chế biến đều rất tuyệt vời, thể hiện rõ khí phách quốc gia, khiến cho thủ lĩnh các bộ lạc nọ khen ngợi không thôi. Bọn họ tròn mắt cầm dao mà thấy lúng túng, dùng tay bốc lấy thì lại ngượng ngùng, chỉ biết thở dài tán thưởng mà thôi.
Cha được phong làm Khả Hãn, thân phận của Ngân Kỳ cô nương đã là công chúa, tuy nhiên lúc này cô nàng vẫn vận nam trang. Trong lều phần lớn đều là những nhân vật hét ra lửa hùng cứ một phương, không ai để ý đến một tiểu thị vệ đứng sau lưng Hoa Đáng như cô nàng.
Thấy Dương Lăng gọi người dâng món, Ngân Kỳ bèn liếc xéo y rồi cũng bước ra ngoài lều, vỗ tay ba cái. Bốn gã Mông Cổ cao to khiêng vào trong lều một chiếc bàn sơn son, trên đặt một con dê béo nướng sẵn quấn bằng lụa đỏ. Bọn chúng quay về phía Chính Đức quỳ một gối xuống đất, đặt nắm tay lên ngực làm lễ rồi mới lặng lẽ lui ra.
Con dê thiến hai tuổi béo ục, da vàng óng ánh, da giòn thịt thơm, được quay nguyên khối nên thịt rất thơm ngon, trong lều tức thì tỏa ra mùi thịt dê nướng thơm lừng. Hoa Đáng đứng dậy đi đến trước chiếc bàn sơn son, rút từ trong thắt lưng ra thanh loan đao nhỏ bằng bạc, thoăn thoắt xẻ phần xương vai, cắm trên đầu mũi dao.
Nữ Chân Tam Bộ thì đề cử thủ lĩnh Chúc Khổng Cách của Hải Tây Nữ Chân tiến lên. Trên chiếc bàn son bày sẵn một cái chén bằng bạc, một cái bình bằng bạc. Chúc Khổng Cách lấy đao cẩn thận rọc bụng dê, đổ nước canh dê thơm phức từ trong bụng ra nửa chén, rồi lại rót thứ nước trong vắt từ trong chiếc bình bạc ra nửa chén, khuấy đều. Sau đó hai người cùng bước đến trước mặt Chính Đức.
Tức thì thị vệ đứng sau lưng Chính Đức đứng bật dậy, tay dằn bội đao. Ngũ Hán Siêu đứng bên cạnh sải tới một bước, ngón tay kẹp chặt hai chiếc phi tiêu kim tiền. Dù biết hai vị thủ lĩnh này không thể hành thích Hoàng đế vào lúc này nhưng bọn họ vẫn không dám lơ là chút nào.
Cũng may Hoa Đáng và Chúc Khổng Cách cũng biết rõ lễ nghi. Hai người bước tới trước mặt Chính Đức cách ba bước thì dừng lại, khuỵu một gối xuống đất. Hoa Đáng mở miệng hát:
- Thiên Khả Hãn tôn quý trên cao, xin hãy cho phép thần dâng trọn con dê béo mềm này. Sống lưng của nó to lớn như vòm trời rộng khoát, bốn chân của nó to béo như đất đai phì nhiêu, cái đầu của nó ngẩng cao như núi cao hùng vĩ, ống xương của nó chắc khoẻ như cây đàn hương trên núi. Thiên Khả Hãn được ban nhiều lộc phước, xin ngài hãy hưởng dụng nó...
Một đại hán to cao vạm vỡ như vậy lại quỳ ở đó hát một cách hết sức nghiêm túc khiến Chính Đức vừa thấy lạ vừa thấy buồn cười. Trương Vĩnh và Miêu Quỳ đứng ở hai bên bước lên định nhận lấy lễ vật do hai vị thủ lĩnh cung phụng. Dựa theo nghi thức thì phải do Chính Đức tự tay nhận lấy nên Hoa Đáng chỉ liếc xéo bọn họ mà không chịu buông tay. Không khí trong lều ngay lập tức hơi căng thẳng.
Chính Đức cười ha hả bảo:
- Các ngươi lui xuống đi! Mời Thuận Minh vương và thủ lĩnh Chúc Khổng Cách tiến lên!
Hai người Trương Vĩnh đành phải lui về. Hai người Hoa Đáng bước đến trước bàn của Chính Đức, khom lưng dâng đặt lễ vật lên bàn. Tuy Hoa Đáng cố tình chĩa mũi cây đao bạc nọ về phía mình, nhưng nếu thuận tay đâm tới, góc độ này có thể vừa vặn đâm ngay vào cổ họng Chính Đức. Thế nhưng Chính Đức mặt không đổi sắc thản nhiên cầm lấy cây đao bạc cắm miếng thịt dê béo nọ từ tay Hoa Đáng rồi đặt xuống bàn, gật đầu mỉm cười với hắn, rồi lại đón lấy chiếc bát bạc từ trong tay Chúc Khổng Cách, đặt sang một bên.
Trong mắt Hoa Đáng thoáng hiện lên vẻ khâm phục, hắn lại quỳ xuống trước bàn Chính Đức, cầm lấy bình ngọc trên bàn, rót đầy một chén, dâng hai tay lên cho Chính Đức. Chính Đức đón lấy rồi uống cạn một hơi. Thân là Thiên Khả Hãn, Chính Đức chịu uống cạn rượu mời của bọn họ không chừa một giọt là biểu hiện rất tôn trọng bọn họ. Hoa Đáng và Chúc Khổng Cách và thậm chí là tất cả thủ lĩnh các bộ lạc thấy vậy đều lộ vẻ mừng rỡ.
Chính Đức cũng tự tay cầm lấy bình rượu, rót một chén cho Hoa Đáng và Chúc Khổng Cách, sau đó lại rót cho mình một chén, đứng dậy cười nói:
- Nào, chúng ta hãy uống cạn chén này!
Hoa Đáng và Chúc Khổng Cách hai tay nâng lấy chén, lui về sau mấy bước, đứng phía trước thủ lĩnh các bộ lạc, dẫn đầu các thủ lĩnh đồng thanh hưởng ứng:
- Tạ ơn Thiên Khả Hãn, mọi người cùng uống nào!
Tất cả mọi người trong lều lớn lần lượt nâng chén uống cạn.
Tiệc rượu mừng lễ kết minh chính thức được bắt đầu. Thủ lĩnh các bộ lạc thay phiên nhau kính rượu Thiên tử và sứ thần Đại Minh. Dương Lăng biết được khi những người Mông Cổ này kính rượu mà mình không uống hết thì rất phi lễ, cho nên trước đó y sớm đã kiếm mấy chén rượu bằng bạc nhìn thì khá bề thế nhưng đáy thì nông tẹt, vậy mà y vẫn bị ép uống đến ngà ngà say.
Dương Lăng đứng dậy mời lại thủ lĩnh các bộ lạc. Đang lúc không khí trong lều hết sức chan hòa, chợt mọi người nghe thấy có tiếng pháo hiệu. Tiếng cười nói trong lều tức thì ngưng bặt. Dương Lăng kinh ngạc, lập tức chạy ào ra ngoài, mấy viên thị vệ vội nhanh chóng che chắn trước mặt Chính Đức.
Dương Lăng vừa chạy vội ra ngoài, thủ lĩnh các bộ lạc cũng căng thẳng lục tục kéo nhau ra xem. Cả bọn thấy từ trên đỉnh ngọn núi đằng xa, khói lửa đang bốc lên dày đặc, binh sĩ dưới núi náo loạn. Phía Đại Đồng có một đội nhân mã đang phóng nhanh tới.
Dương Lăng kinh hãi:
- Đã xảy ra chuyện gì vậy?
Tiếc rằng thời này chưa có điện thoại điện báo, tuy thấy khói hiệu truyền tin nên y biết đã xảy ra biến cố quân sự trọng đại, song bên cạnh lại không ai biết rõ rốt cuộc là đã xảy ra chuyện gì.
Thủ lĩnh bộ lạc Ông Ngưu Đặc là Ô Lạp Nhĩ vừa giận dữ vừa khiếp sợ, trông thấy đằng xa có đại đội nhân mã đang chạy lại, trực giác mách gã rằng Dương Lăng muốn mượn việc kết minh mà bắt sạch bọn họ.
Không chút nghĩ ngợi, Ô Lạp Nhĩ rút nhanh loan đao, phóng người qua gác đao lên cổ Dương Lăng, giận dữ quát:
- Bọn Hán chúng mày gạt tao! Đại thủ lĩnh, hãy mau dẫn người xông xuống núi. Cướp ngựa rời khỏi quan ải!
Ngũ Hán Siêu được Dương Lăng năm lần bảy lượt dặn dò, bảo hắn nhất định phải bảo hộ Hoàng đế được chu toàn, cho nên vừa nãy khi Dương Lăng chạy ra khỏi lều chàng ta hơi do dự một chút, nay chỉ trong nháy mắt Dương Lăng đã bị Ô Lạp Nhĩ chế ngự. Thấy đã có bọn thị vệ bảo vệ Chính Đức, Ngũ Hán Siêu bèn phóng người lại, tay phải cầm kiếm, tay trái kẹp ám khí, định giết chết Ô Lạp Nhĩ cứu đại nhân ra.
Dương Lăng trông thấy thủ lĩnh các bộ lạc Đoá Nhan đều cầm chắc đao trên tay, đang căng thẳng đến cực độ, ngay cả thủ lĩnh của Nữ Chân Tam Bộ và thị vệ của bọn họ cũng đã cầm lấy binh khí, căng thẳng đề phòng động tĩnh từ phía thị vệ quân Minh. Y biết rõ nếu như Ngũ Hán Siêu giết chết Ô Lạp Nhĩ cứu mình về, cuộc chiến toàn diện giữa Đại Minh và Đoá Nhan Tam Vệ nhất định sẽ nổ ra khắp cả trên lẫn dưới núi, khi đó sẽ chẳng còn bất kỳ cơ hội nào để mà giải thích nữa. Thế là không chút nghĩ ngợi gì, y lập tức trừng mắt quát:
- Ngũ Hán Siêu, dừng tay!
Ngũ Hán Siêu thoáng sững lại, thân hình đang chực phóng vọt đột nhiên dừng lại tại chỗ. Lúc này Chính Đức cũng đã bước ra khỏi lều dưới sự bảo vệ của các thị vệ, hắn đẩy thị vệ che chắn trước mặt ra, bước mấy bước về phía trước quát lớn:
- To gan! Trẫm đường đường là thiên tử, là Thiên Khả Hãn của Đại Minh, há sẽ làm chuyện bẩn thỉu lấy kết minh làm mồi, dụ thủ lĩnh các bộ lạc ra để giết hay sao? Thả người của trẫm ra!
Tuy Chính Đức còn nhỏ tuổi, mặc long bào vào người vẫn trông như thằng bé mới lớn, nhưng lúc này lời quát lẫm liệt lại không cần giận dữ mà vẫn oai nghiêm, khiến tên Ô Lạp Nhi thân thể như gấu nọ cảm thấy khiếp sợ, không khỏi đưa mắt nhìn về phía Hoa Đáng dò hỏi.
Đương lúc Hoa Đáng còn do dự không biết có nên tin lời của Chính Đức hay không, Ngân Kỳ đã bước ra phía trước, nói lớn:
- Đừng có hoảng sợ, người Minh không có ác ý với chúng ta đâu.
Nói đoạn xoay người về phía thủ lĩnh các bộ lạc và thị vệ đang cầm đao cầm kiếm, cô nàng giơ cao hai tay, trấn an:
- Người Minh nổi lửa khói báo động tức là thông báo có ngoại địch xâm nhập. Giả như Hoàng đế Đại Minh muốn giết chúng ta, hắn sẽ ‘giương cờ gióng trống’, lặng lẽ điều binh, thừa lúc chúng ta xuống núi mà động thủ, chứ làm gì mà ‘ngưng trống dẹp cờ’, làm chuyện ai ai cũng có thể thấy, ai ai cũng có thể nghe như thế này?
(Cô nương Ngân Kỳ sử dụng nhầm thành ngữ, lẫn lộn “giương cờ giống trống” với “ngưng trống dẹp cờ” - Ba_Van)
Rồi nàng quay lại nói với Ô Lạp Nhĩ:
- Ô Lạp Nhĩ thúc thúc, hãy thả đại thần nhà Minh đó ra đi. Con tin hắn sẽ giải thích rõ cho chúng ta.
Ô Lạp Nhĩ hơi ngần ngừ. Trông thấy mọi người đều đã lặng lẽ buông bỏ đao thương, Hoàng đế Chính Đức cũng vung tay ra lệnh cho thị vệ quân Minh lui ra sau, hắn bèn buông đao xuống, đẩy Dương Lăng về phía trước.
Dương Lăng bước tới trước hai bước, đứng ngay cạnh cô nương Ngân Kỳ mới biết viên thị vệ này là con gái. Y kinh ngạc liếc người con gái thanh tú có đôi mày kiếm dài và đen như mực, mắt vừa to lại đẹp này, sau đó giũ giũ chiếc mãng bào dệt vàng, sửa ngay ngắn chiếc khăn chít đầu bằng lụa đen hơi bị lệch, rồi nhoẻn miệng cười nói:
- Cô nương thuộc thành ngữ thật giỏi!
Ngân Kỳ cô nương hừ một tiếng yêu kiều, hếch chiếc mũi thon lên, có phần đắc ý bảo:
- Vẫn mong đại nhân hãy mau chóng nắm rõ tình hình, cho chúng tôi một câu trả lời thoả đáng.
Dương Lăng khẽ gật đầu, thưa với Chính Đức:
- Hoàng thượng, ngài có nên vào trong lều...
Chính Đức lắc đầu bảo:
- Thủ lĩnh các bộ lạc đều ở ngoài này, trẫm cũng sẽ ở ngoài này. Dương khanh, khanh hãy mau chóng tra rõ tình hình!
Dương Lăng cung kính đáp:
- Dạ!
Rồi y dẫn theo vài thị vệ chạy nhanh về phía sơn khẩu. Đội quân từ phía Đại Đồng đã phi tới dưới chân núi, Dương Lăng chưa nghe thấy có tiếng địa lôi kích nổ, nên nghĩ ắt là quân đội Đại Minh, cho nên hơi yên tâm. Khi đến sơn khẩu, y thấy có khoảng trên vạn nhân mã xông tới dưới chân núi đã hội họp cùng mấy nghìn quân Minh trên núi. Trên ngọn cờ cao chót vót thêu rõ chữ "Hứa".
Dương Lăng rất đỗi kinh ngạc, thầm nghĩ: "Ra là Hứa Thái! Vốn đã thương lượng rằng nếu trên núi có biến thì sẽ nổi lửa hiệu truyền tin triệu hắn tới ngay. Nay trên Trường Thành lửa hiệu nhóm lên khắp nơi, rõ ràng là giặc Thát lại tấn công quan ải, hơn nữa thế công ắt rất khốc liệt. Đại quân của hắn sao không cố thủ Đại Đồng đợi lệnh mà chạy đến nơi đây để làm gì?"
*****
Sau khi đại quân của Chính Đức rời khỏi thành, bảy nghìn kỵ binh của Hứa Thái liền tạm dừng ở phụ cận thành đông, người không rời ngựa, ngựa không rời yên, sẵn sàng nhận lệnh bất cứ lúc nào, Đỗ Nhân Quốc thì toạ trấn phủ Tổng binh. Tuy kế hoạch đã được bàn tính kỹ càng, suy đi nghĩ lại trên núi Bạch Đăng khó lòng xảy ra chuyện gì ngoài ý muốn, nhưng thiên tử ở nơi nào thì nơi ấy là trọng tâm của thiên hạ thế nên Đỗ Nhân Quốc không hề dám lơ là chút nào.
Mấy quan ải gần Cự Lỗ khẩu liên tiếp nổi lửa hiệu, tin tức truyền khắp chín ải, tất cả mọi quan ải lập tức bước vào tình trạng chuẩn bị chiến đấu cấp một (giống như DEFCON1 haha- TheJoker), vệ sở lân cận liền tăng binh. Đỗ Nhân Quốc nhận được bẩm báo liền lập tức chạy lên thành lũy phía tây, phái mấy lộ thám mã chạy về hướng Cự Lỗ khẩu tra xét tình hình.
Thám mã vừa rời thành đã phóng băng băng theo quan lộ. Mới vừa vượt qua một cái đồi nhỏ, chợt hai viên thám mã thấy mặt đất rung chuyển, đập vào tầm mắt là vô vàn quân mạnh tướng dữ người Thát Đát đầy khắp núi đồi, người và ngựa nhập lại thành một trông như sói như cọp, đang lao nhanh về phía thành Đại Đồng.
Thám mã hãi hùng khiếp vía. Hai năm trước Thát Đát cũng đã từng công phá quan ải, thành Đại Đồng thiếu điều thất thủ, thiết kỵ Thát Đạt đánh thẳng đến Cư Dung Quan thì mới bị chận mà phải lui về. Không ngờ hôm nay lại tái diễn chuyện xưa, lang sói thảo nguyên đã xâm nhập Trung Nguyên một lần nữa.
Hai tay thám tử lập tức quay đầu ngựa chạy về, người nép sát trên lưng ngựa mà vút roi vù vù, chiến mã tung vó như bay. Sau lưng bọn họ, tên bay phủ kín mít cả bầu trời, trông hệt như đàn châu chấu đang ùa tới. Cả người lẫn ngựa Hai viên thám tử bị bắn thành bốn con nhím. Vó ngựa ào ào như mưa gió, thiết kỵ của Thát Đát quét qua, đạp mặt đất thành một mảng mơ hồ, không còn thấy chút dấu vết gì của người lẫn ngựa.
Tốp thám mã thứ tư vừa chạy tới con đường giữa khe núi trên bình nguyên, mặc dù từ xa có thể thấy được tình thế không ổn nên kịp thời quay ngựa phi về nhưng mông ngựa và lưng người vẫn dính phải một đám tên. Có điều khoảng cách hơi xa, sức tên đã hết nên bọn họ không bị bắn chết.
Hai tay thám tử phi vào trong thành như một cơn lốc, hét lạc cả giọng:
- Thu cầu treo! Khóa cổng thành lại! Giặc Thát xông vào quan ải rồi!
Đỗ Nhân Quốc đứng trên đầu thành nghe vậy thì cả kinh. Ông ta cũng không rảnh để đi truy cứu xem chỗ quan ải nào đã bị đánh chiếm mà lập tức ra lệnh cho người phi ngựa cấp tốc truyền báo Hứa Thái đang ở thành đông chạy đi cứu viện núi Bạch Đăng gấp, đồng thời cho đóng chặt bốn cổng thành, toàn bộ quan quân trèo lên lỗ châu mai, cùng quân Nghĩa Dũng và Khoái Thủ hỗ trợ thủ thành.
Hồ Toản hay tin cũng tức tốc chạy từ nha môn tuần phủ tới cổng thành. Trông thấy giặc Thát đang phóng băng băng, thế như đập trời vỗ đất thì kinh hồn hãi vía, chỉ mong cho giặc Thát không biết Hoàng đế đang ký kết hiệp ước với Đóa Nhan Tam Vệ trên núi Bạch Đăng. Nếu đại quân địch công thành thì Hoàng đế sẽ có thể kịp nhận được tin tức mà mau chóng lui về một quan ải nào đó.
Nào ngờ đại quân giặc Thát chỉ hò hét mà lại không công thành, đại quân vòng qua tường thành rồi không chút chần chừ mà lao nhanh về phía đông. Đội ngũ giặc hung hãn như hồng thủy mang theo khí thế như muốn chôn vùi hết thảy.
Trông thấy thế, Hổ Toản lạnh ngắt trong lòng, đờ đẫn nhìn theo đoàn thiết kỵ Thát Đạt đang tràn qua như hồng thủy. Lão quay sang nhìn Đỗ Nhân Quốc thì thấy vị tướng quân đội được xưng là chiến thần Đỗ phong tử không sợ chết cũng đã xám nghoét mặt mày.
Lá cờ lớn vẽ hình con sói xanh tung bay phất phới trong gió, như thể đang giễu cợt bọn họ. Khi thấy đại quân sắp biến mất, Hồ Toản mới giật mình tỉnh lại, la to:
- Đỗ tổng binh, mau, mau cứu viện núi Bạch Đăng! Giặc Thát phá được quan ải mau như vậy, đại quân của Dương tổng chế vẫn còn đang tập trung ở Trường Thành, phần lớn lại đều là lính bộ, đợi hắn dẫn quân trở về thì đại sự đã xong rồi!
Đỗ Nhân Quốc cũng như vừa tỉnh cơn mê, giật mình đánh thót. Phần lớn kỵ binh đều đã bị Hứa Thái mang đi, trong thành chỉ còn lính bộ. Đối diện với đội quân Thát Đát thanh thế cuồn cuộn như thế, nếu dựa vào thành mà thủ thì có lẽ còn giữ được Đại Đồng. Đại quân mà rời khỏi thành, e rằng không chỉ toàn quân bị diệt sạch, mà nếu như giặc Thát lợi dụng đặc điểm mau lẹ và cơ động của kỵ binh mà cho khoái mã quay lại phản công thì ngay cả Đại Đồng cũng sẽ bị mất. Song chỉ cần có thể kéo dài thời gian thêm một chút, để Hoàng đế bình an lui về quan nội, thì tổn thất có lớn cỡ nào cũng đáng.
Đỗ Nhân Quốc chụp lấy đại đao của mình, đang định tập trung quân thủ thành trong thành xuất phát về phía núi Bạch Đăng, thì từ đằng xa một lá cờ thêu hình chim ưng đỏ rực đã lừng lững tiến tới. Đại quân của Hỏa Sư kéo đến rồi!
***
Nghe Hứa Thái hớt ha hớt hả kể xong, Dương Lăng không khỏi sởn gai ốc. Có nghĩ đến vỡ đầu y cũng không tài nào hiểu nổi làm thế nào mà suốt hai tháng trời giặc Thát đại chiến ngoài thành vẫn không phá được Trường Thành, giờ lại nhanh như vậy, khéo như vậy, mà nhằm đúng ngay lúc bọn chúng thế cùng lực tận như vậy mà vẫn có thể trong nháy mắt phá được một quan ải để xông vào.
Giặc ngoài dễ tránh, trộm nhà khó phòng. Dương Nhất Thanh đến Đại Đồng mới được hai tháng, vừa mới đến liền phải tập trung hoàn toàn tinh thần vào trận đại chiến với giặc Thát, vốn không có thời gian chỉnh đốn quân đội.
Mấy ngày trước, đột nhiên xảy ra chuyện Vương Long, Vương Hổ tư thông Thát Đát, mà thực tế là gian tế do Di Lặc giáo dùng vàng to bạc lớn thu xếp trà trộn vào quân Minh, toàn bộ quan viên có quan hệ mật thiết đến họ Vương đều bị thuyên chuyển khỏi chức vụ cũ. Thế nhưng đại quân Thát Đát đang giương cặp mắt hổ nhìn chằm chằm ngoài quan ải, lúc này không thể gây nên ảnh hưởng quá rộng mà thanh trừng khắp nơi, để tránh làm tổn hại tới căn cơ của biên quân. Cho nên không chỉ Dương Lăng không có manh mối gì, mà ngay cả Dương Nhất Thanh ngay vào lúc này cũng chưa nhận được tin tức Lý Nghĩa phản bội mở cửa thành Cự Lỗ Khẩu dẫn giặc Thát vào quan ải.
Đằng xa người ngựa tung bụi mịt mù, bóng giặc vừa hiện, Dương Lăng liền quyết đoán, lập tức hạ lệnh:
- Hứa Thái, Liễu Bưu, lập tức điều đại quân bảo vệ núi, cố thủ, chờ viện binh.
"Cố thủ", chỉ hai chữ, song lại hàm chứa trong đó biết bao sự chém giết đẫm máu. Ngửi thấy được mùi máu tanh trong đó, Hứa Thái và Liễu Bưu bèn nghiêm nghị nghe lệnh. Nghe xong Liễu Bưu liền hỏi:
- Đại nhân, vậy chúng ta làm gì với năm nghìn thiết kỵ của Đóa Nhan Tam Vệ?
Dương Lăng nhìn xuống dưới núi, nơi đại quân Đóa Nhan Tam Vệ tập kết. Trên và dưới núi có tổng cộng hơn một vạn hai nghìn quân Minh, cộng thêm đội quân Đóa Nhan Tam Vệ tràn trề sinh lực thành gần hai vạn nhân mã, như thế ít nhất có thể thủ ngọn núi này được một ngày. Giặc Thát tuy kiêu dũng, song không có quân số gấp mấy lần thì làm sao có thể đánh tràn lên núi được?
Dương Lăng thầm tính toán: "Toàn bộ binh lực của Bá Nhan Khả Hãn có khoảng hơn bảy vạn. Trải qua gần hai tháng chiến trận tiêu hao cũng bộn, kẻ còn năng lực chiến đấu chưa tới sáu vạn. Bá Nhan có không tiếc hết thảy mà dốc toàn bộ binh lực đánh lên núi không? Cho dù sáu vạn đại quân cùng tấn công lên núi Bạch Đăng, bọn ta cũng có thể thủ được một lúc. Chỉ cần giữ vững không đổ, Dương Nhất Thanh và Đỗ Nhân Quốc sẽ kịp kéo quân đến cứu viện.
Có điều... hiệp ước đồng minh mới vừa được ký kết, Đóa Nhan Tam Vệ vẫn chưa mò vớt được lợi ích gì, cái tên chuyên trờ cờ theo gió Hoa Đáng có sẽ chịu dốc toàn lực đối địch với Bá Nhan không? Có sẽ gặp tình thế không ổn liền lâm trận trở giáo không? Không được! Trước khi thắng bại chưa phân, quyết không thể dùng người của Đoá Nhan Tam Vệ!”
Nghĩ đến đây, Dương Lăng bèn bảo:
- Trước mắt, chỉ cần giữ được ngọn núi này là chúng ta sẽ thắng, không cần cùng Bá Nhan so đo thiệt hơn nhất thời. Hãy cho điều đại quân lên núi, chia đóng ở khắp nơi để ngăn địch, dưới núi chỉ để lại ba nghìn binh mã và mọi súng pháo để kiềm chế nhuệ khí quân giặc, coi thế giặc mạnh yếu mà rút lên núi khi có thể. Còn về phần Đoá Nhan Tam Vệ... bản quan sẽ bảo Hoa Đáng điều bọn họ lên núi. Liễu Bưu, người của ngươi đứng chắn ở giữa, không thể để bọn chúng đến gần lều lớn.
Nhận lệnh xong hai người xuống núi, Dương Lăng trèo lên một tảng đá to, nhìn về nơi xa. Đội kỵ binh đen kịt không ngừng hiện ra ở phía chân trời, ùn ùn kéo tới như thủy triều, khí thế lẫm liệt ngất trời. Dương Lăng chỉ cảm thấy trong miệng đắng nghét...
Đứng trong ngôi đình nhỏ vừa được xây trên đỉnh Bạch Đăng, Chính Đức và đám người Hoa Đáng phóng mắt nhìn ra xa cũng đã phát hiện đại quân bất tận đang dần kéo đến, nhất thời lại không rõ đã xảy ra chuyện gì. Mặc dù không hiện lên trên mặt song ai nấy đều đã nổi trống trong lòng.
Đúng vào lúc này, thấy Dương Lăng dẫn sáu tay thân binh khoan thai trở về từ sơn khẩu, Chính Đức lập tức tranh hỏi trước:
- Dương khanh, đã xảy ra chuyện gì vậy?
Bọn người Hoa Đáng cũng dỏng tai lên nghe câu trả lời của y. Dương Lăng điềm tĩnh mỉm cười đáp:
- Hoàng thượng trù tính thật không sai! Quả nhiên Bá Nhan trúng kế, đã dẫn đại quân đến tấn công núi Bạch Đăng!
Thoạt tiên Chính Đức thấy lạ, nhưng hắn cùng Dương Lăng vốn là đôi bạn học sinh xấu từng cùng nhau lừa gạt Thái phó ngày xưa, có thể nói là ăn ý vô cùng, nên chỉ hơi thoáng kinh ngạc liền vỗ tay cười bảo:
- Hay lắm! Đến thật hay!
Bọn Hoa Đáng nghe nói Bá Nhan dẫn đại quân đến tấn công thì sợ đến nhảy dựng. Khoảng một vạn người ở đây có thể là đối thủ của Bá Nhan sao? Nhưng nghe hai người một vua một tôi này trò chuyện, mặt đầy vẻ mừng rỡ như cố ý dụ hắn đến vậy. Hoa Đáng bèn nén lo lắng trong lòng, nghi hoặc hỏi:
- Thiên Khả Hãn, đằng xa kia... là quân đội của Bá Nhan ư? Bọn chúng... sao bọn chúng đã vào được quan ải rồi?
Chính Đức thoáng ngừng lại, cười khan mấy tiếng, rồi cố làm ra vẻ thần bí bảo:
- Dương khanh, khanh hãy nói cho Thuận Minh vương hay đi.
- Thần tuân chỉ! - Dương Lăng vái một vái rồi đứng thẳng người lại, mỉm cười nói với Hoa Đáng - Khả Hãn Thuận Minh, ngài nghìn dặm xa xôi đến gặp Hoàng thượng, Hoàng thượng liền muốn tặng một lễ vật lớn đến cho ngài. Tuy nhiên vốn chúng ta không biết Bá Nhan có mắc lừa hay không cho nên khi nãy đã không báo trước cho ngài hay.
Rồi y nâng vạt mãng bào bước lên bậc thềm, đứng trong đình đưa mắt nhìn về phía đoàn người ngựa đang cuồn cuộn kéo đến mỗi lúc một gần. Y chỉa tay trỏ vào chúng thản nhiên cười nói tiếp:
- Ngài xem! Bá Nhan xâm phạm biên cương Đại Minh ta, tuy bị hao binh tổn tướng khá nhiều nhưng vẫn chưa bị thương tổn đến gốc rễ. Hắn vẫn còn binh cường mã tráng, thêm sức hiệu triệu từ xuất thân hoàng tộc không ai sánh bằng, một khi hắn trở về được thảo nguyên thì cho dù có nội loạn đi chăng nữa, cũng vẫn sẽ không dễ đối phó. Tuy nhiên, nếu khiến cho mười phần nhân mã của hắn hao tổn hết sáu bảy phần, thì Khả Hãn Thuận Minh vừa được khâm phong sẽ có thể đứng vững. Vì vậy...
Dương Lăng xoay người lại, rất tự nhiên chìa tay mời mọi người vào lều, đoạn dẫn Chính Đức và các vị thủ lĩnh vừa nghe y nói vừa theo y rời khỏi đình bước vào trong lều.
Dương Lăng đi đầu, nhân cơ hội nghiêm mắt ra hiệu cho Ngũ Hán Siêu. Ngũ Hán Siêu hiểu ý, bắt đầu lặng lẽ bố trí đám đại nội thị vệ khống chế cả căn lều.
Đợi mọi người ngồi vào chỗ, Dương Lăng bước ra sau bàn thoải mái nói tiếp:
- Vì vậy, Hoàng thượng cố ý tung tin tức về việc ký kết hiệp ước đồng minh khắp phố thị Đại Đồng, để gian tế Thát Đát truyền ra ngoài quan ải. Quả nhiên Bá Nhan không cưỡng được cám dỗ nên dốc hết binh lực mưu đồ tấn công núi Bạch Đăng, hòng hốt trọn Hoàng thượng và các vị thủ lĩnh một mẻ.
Ha ha, Khả Hãn dâng biếu đức vua trọn con dê nướng tươi ngon, đây hẳn là lễ tiết cao quý nhất của các vị đúng không? Hôm nay đức vua vạn tuế của chúng tôi sẽ thưởng lại cả một con sói nướng, mong Khả hãn Thuận Minh và các vị thủ lĩnh vui lòng nhận cho!
Trong lều liền ồn ào một hồi. Dương Lăng ngồi xuống nghiêm chỉnh, bình tĩnh như không, phất tay áo cả cười:
- Bá Nhan được xưng là kẻ dũng mãnh của thảo nguyên, nay xem ra cũng chỉ là phường thất phu sính dũng, có gì mà đáng nói chứ? Chúng ta chỉ cần cười nói chuyện trò liền khiến hắn tan thành mây khói!
"Ầm... ầm ầm..." mấy quả địa lôi bị giẫm phải phát nổ rất đúng lúc. Tiếng nổ đinh tai, cùng tiếng người la ngựa hí như chứng minh lời nói của Dương Lăng.
Trong mắt Ngân Kỳ lóe lên vẻ kỳ dị. Đây là lần đầu tiên nàng có dịp nhìn thẳng vào anh chàng người Hán hào hoa phong nhã không thèm đặt cả đệ nhất anh hùng thảo nguyên vào mắt này.
Ánh mắt Hoa Đáng lập loè, giọng bán tín bán nghi:
- Nói như vậy, Thiên Khả Hãn đã sớm bày bố trọng binh, đặt bẫy nhằm dụ Bá Nhan vào tròng rồi?
Chính Đức nổi doá trong bụng: "Bá Nhan đã vào quan ải rồi sao? Dương Nhất Thanh đánh trận kiểu gì vậy? Trở về trẫm sẽ tìm hắn tính sổ tiếp! Có điều... may mà Dương thị độc giữ được bình tĩnh, giữ mặt mũi cho trẫm. Nếu mà y hoang mang lúng túng, bối rối chạy vào bẩm báo, chẳng những trẫm sẽ mất sạch mặt mũi oai phong, mà ngay cả lão cáo già Hoa Đáng này nữa; nếu lão không trở giáo ngay lập tức thì cũng sẽ sợ đến mất mật, không bao giờ còn dám thiết lập đồng minh với một láng giềng yếu đuối như trẫm nữa.”
Tiếng nổ do người ngựa đạp phải địa lôi không ngừng vọng lại, Hoàng đế Chính Đức cũng nhoẻn miệng tươi cười, ra vẻ đắc ý nói:
- Dĩ nhiên rồi!
Ánh mắt hắn chạm ánh mắt Dương Lăng, cả hai đều đọc và hiểu được ý tứ của nhau: "Trận đánh này đã đổ xuống đầu rồi, vậy thì bắt buộc phải đánh thôi, mà còn phải đánh cho thắng trận. Bằng không, chẳng những về sau đừng mong nói đến việc thiết lập đồng minh diệt trừ mối họa Bá Nhan, mà ngay trước mắt cái mạng của mình cũng sẽ khó giữ.”
Vẫn còn do dự lẫn nghi ngờ, Hoa Đáng bèn dò hỏi thử:
- Vậy... Binh mã tiểu vương mang theo tuy không nhiều, nhưng vẫn có thể tham gia chiến đấu. Hoàng thượng có cần tiểu vương dốc chút sức để chống đỡ không?
Dương Lăng đã thu hết vẻ mặt của hắn vào trong mắt, thừa cơ hội này y đứng dậy bảo:
- Chúng ta đã là đồng minh, cùng dùng binh chung sẽ là chuyện sớm hay muộn thôi. Hôm nay kề vai tác chiến đúng là có thể bày tỏ thành tâm liên kết đồng minh của đôi bên. Tuy nhiên đại quân của Khả Hãn còn phải bảo hộ ngài trở về Đoá Nhan Tam Vệ nên không thể để hao tổn quá nhiều, xin Khả Hãn hãy sai người thông tri thuộc hạ tạm thời lên núi. Đợi đến khi quân Đại Minh của ta đã bao vây, chuẩn bị tiêu diệt kẻ địch mới hãy cho thấy oai phong của Đoá Nhan Tam Vệ!
Nói đoạn y bước tới trước bàn rồng của Chính Đức, giở thảm lên, kéo một cái móc sắt mở tấm cửa sắt lớn ra, lộ một cái hang bí mật. Trong hang đuốc tỏ sáng trưng, hiển nhiên là được thông gió từ một mặt khác.
Dương Lăng quay lại bảo:
- Trên chiến trường, tên lạc bay khắp bốn phía. Nhằm phòng ngừa bất trắc, xin mời Hoàng thượng và thủ lĩnh các bộ lạc vào trong lánh tạm.
Y nghĩ rằng khống chế được thủ lĩnh các bộ lạc vào trong tay thì mới có thể đảm bảo bất luận xảy ra nguy cấp như thế nào đi nữa, Đoá Nhan Tam Vệ cũng vẫn không dám trở mặt. Nếu thật sự đã đến lúc lửa xém chân mày thì y cũng sẽ không cần để ý đến thể diện cái con mẹ gì nữa hết, có phải kề đao lên cổ Hoa Đáng đi nữa cũng sẽ bắt Đoá Nhan Tam Vệ mang binh tham chiến.
Khi thấy Dương Lăng nói không cần binh sĩ của mình tham chiến thì Hoa Đáng đã tin được tám phần, lại thấy nơi này còn xây sẵn hang động đề phòng bất trắc thì tin hết mười phần. Lúc này không theo Thiên Khả Hãn đánh chó đang rớt xuống nước(*)... không, nướng cả con sói, thì còn lúc nào tốt hơn để mà biểu lộ lòng thành đây? Xem ra lần này sẽ không đứng nhầm phe rồi. Thật là may quá! Thật là may quá!
(*: ý là hùa vào đánh hôi kẻ đang yếu thế)
Hoa Đáng lập tức đứng dậy, khẳng khái lựa lời chối từ:
- Thiên Khả Hãn! Tiểu vương may được Thiên Khả Hãn ban tước vẫn chưa lập được tấc công lao nào. Đôi bên đã kết làm đồng minh thì phải nên cùng chung kẻ thù, cùng nhau sống chết!
Tuy rằng Thiên Khả Hãn dụng binh như thần, sớm đã chuẩn bị sẵn, không để mắt tới năm nghìn binh mã của Tiểu vương, nhưng Tiểu vương há có thể không tận chức trách của bầy tôi? Xin Thiên Khả Hãn ân chuẩn cho đại tướng Mã Cáp Lư dưới trướng Tiểu vương dẫn quân hiệp lực tác chiến. Tiểu vương và thủ lĩnh các bộ lạc sẽ ở đây bầu bạn cùng Thiên Khả Hãn, chậm rãi chờ đợi thần binh thiên triều diệt sạch kỵ binh cọp sói của Bá Nhan!
Chính Đức che miệng ho khan một tiếng, rồi hơi nhíu mày, ra vẻ "bất đắc dĩ":
- Nếu đã như vậy... Dương khanh, vậy cứ theo ý tốt của Thuận Minh vương! Năm nghìn binh mã này, khanh sẽ chỉ huy luôn vậy!
Nói xong hắn bèn quay sang Hoa Đáng, cười nói:
- Năm xưa Đoá Nhan Tam Vệ phò vua dẹp loạn, lập được công trạng lẫy lừng. Hôm nay vua tôi chúng ta một lần nữa lại tay nắm tay, cũng có thể xem là một giai thoại đó. Ha! Ha! Ha!...
Nhận được sự động viên to lớn, Hoa Đáng bèn đứng dậy quát:
- Mã Cáp Lư!
Từ trong đám tướng lĩnh thị vệ đứng trước lều, một tay tráng niên mắt cọp râu rồng dạ một tiếng rồi bước ra, quỳ một gối thưa:
- Xin đại thủ lĩnh dặn bảo!
Hoa Đáng lớn giọng ra lệnh:
- Lập tức điều động binh mã! Mọi hành động tiến lui, tác chiến giết giặc đều nghe theo lệnh dụ của Dương Lăng Dương đại nhân!
Chương 209 - Vũ Khí Hóa Học
------------------------
Dương Lăng ung dung dẫn Mã Cáp Lư rời khỏi lều lớn, nhưng vừa khuất tầm mắt của những người trong lều y đã vội tăng tốc, bước nhanh đến sườn núi. Chủ lực quân Minh đã rải ra đến nửa ngọn núi, phòng ngự bốn phía, chỉ còn lại một ít quân binh dưới chân núi chấp hành kế sách bắn hết hỏa pháo là lui, nhằm kiềm chế nhuệ khí giặc, cố thủ chờ cứu viện của Dương Lăng.
Chiến mã hí vang, ánh lửa nổi lên bốn bề, một mớ bùn đất mang theo tuyết trắng bắn tung lên trời, trong làn khói mịt mù không ngừng có chiến mã đạp phải mìn ngã gục kéo theo cả người cưỡi. Thế nhưng dòng nước lũ xung phong vẫn không mảy may ngưng nghỉ. Cho dù có chiến mã chệch hướng vì sợ hãi thì kỵ sĩ trên ngựa cũng lập tức cố sức điều chỉnh cho nó xông về phương hướng chính xác.
Theo quán tính được tạo nên bởi hàng trăm hàng nghìn chiến mã cùng lao đi như tên bắn, tất cả mọi thứ trước mặt chúng đều trở thành mục tiêu bị san phẳng. Lúc này cho dù là kỵ sĩ cưỡi ngựa cao siêu đến cỡ nào cũng không thể ghìm cương chiến mã của chính mình. Bất kỳ chiến mã nào dừng lại sẽ lập tức trở thành một chướng ngại không đáng kể, chỉ trong khoảnh khắc sẽ bị giẫm thành bùn nhão, không chút lưu tình.
Cờ sói tung bay, vô số chiến mã giẫm tuyết đạp bùn, cuồn cuộn ào tới. Giáo kích dày đặc như rừng, đao thép sáng bóng như tuyết để lộ mũi đao sắc lạnh đến thấu xương, tiếng vó ngựa như sấm, đinh tai nhức óc. Hứa Thái mặt xám nghoét, trán vồng gân xanh, hai tay nắm chặt thanh đao nhìn chằm chằm vào đội kỵ binh Mông Cổ đang không ngừng tiến sát tới gần. Những kỵ binh xông tới gần nhất đã rút cung lắp tên, Hứa Thái vẫn chưa hạ lệnh khai hỏa.
"Vù", như một đám ong vàng bay vút lên trên cao, lang nha tiễn mang theo tiếng rít khát máu lao tới. Tất cả binh sĩ đều cấp tốc tránh ra đằng sau những tấm cự thuẫn to cao bằng đầu người, đồng thời giơ tấm chắn tròn lên bảo vệ đỉnh đầu.
"Cộp... cộp cộp cộp...", trên mặt thuẫn phủ đầy một lớp tên, có một ít tên xuyên qua khe hở cự thuẫn bắn trúng người binh sĩ, có kẻ rú lên ngã xuống. Chỉ sau khoảnh khắc, lại có tiếng "cộp cộp cộp…" vang lên. Loạt tên thứ hai đã tới.
Cưỡi ngựa bắn tên là bản lĩnh sở trường của kỵ binh Mông Cổ, có khá nhiều chiến sĩ có thể bắn được hơn mười mũi tên trong vòng một hơi thở. Nếu như một đại đội kỵ binh Mông Cổ đang hùng hổ xông tới, bọn họ có thể bắn khoái tiễn dày đặc vừa xa vừa chính xác ngay trong giây phút tiếp cận địch đầu tiên, lợi hại vô cùng. Nếu phe địch cũng dùng cung tên đối đầu thì lập tức sẽ phải rơi ngựa quá nửa.
Hứa Thái kiêu dũng thiện chiến, đã từng xâm nhập vào đại mạc nên đã quen thuộc chiến thuật này của địch. Hơn nữa, tuy Độc Hỏa pháo rất thích hợp để đối phó với kiểu xung phong nghìn nghịt người ngựa như thế này nhưng tầm bắn không xa. Nếu như khai hỏa khi đại đội kỵ binh của giặc chưa xông vào tầm sát thương, tuy có thể khiến một số chiến mã địch trong vùng đạn pháo phải hoảng sợ, nhưng trong khi quân ta nạp lại đạn, kỵ binh Mông Cổ mau lẹ như gió đã có thể xông tới trước mặt rồi. Chỉ cần nắm bắt thời cơ không chuẩn thì thứ được gọi là "vũ khí sắc bén" đó sẽ biến thành que cời lò, không còn đất dụng võ.
Loạt tên thứ ba như mưa trút xuống cự thuẫn, lại có một ít sĩ tốt không kịp đề phòng bị trúng tên ngã xuống. Lúc này Hứa Thái mới gằng giọng rống to:
- Bắn!
Kỵ binh Mông Cổ đã xông qua khỏi vùng gài mìn dần dần xông đến, chỉ cách khoảng ba mươi trượng. Từng họng pháo đen ngòm phun ra những ngọn lửa tử thần. Trong một loạt tiếng gầm đinh tai nhức óc đầy giận dữ, hàng nghìn hàng vạn viên đạn chì, đá, đinh sắt đã bắn trả lại với tốc độ còn nhanh hơn cả tên sắc, quét ngang qua luồng đại quân Thát Đát đang ồ ạt xông đến gần.
Dưới nhát quét ngang của cơn mưa sắt thép, những chiến sĩ Mông Cổ kiêu dũng và chiến mã mạnh mẽ như rồng đã không thể dùng thân thể xương thịt của mình để ngăn đỡ. Lập tức những kẻ đương đầu đều bị thổi tung! Người ngã ngựa đổ, thuẫn gỗ nát tan, thuẫn sắt cũng biến thành cái sàng, tuột tay bay lên không trung. Dưới uy lực khủng bố như đất rung núi lở của hỏa pháo dày đặc, những binh sĩ Mông Cổ chỉ mặc áo da, giáp da biến thành một đống lá quay cuồng trong bão táp, tức thì bị cuốn phăng xuống đất bụi.
Đòn phản kích này thực ác liệt, hỏa pháo bắn thẳng vào giữa đội hình xung phong dày đặc đã tạo nên tổn thất khủng khiếp: có gần một nghìn dũng sĩ ngã ngựa, hơn năm trăm thớt ngựa bị mù, toàn thân đẫm máu đang la hí giãy giụa. Khí thế không thể ngăn trở của kỵ binh Mông Cổ vì thế mà khựng lại.
Nhân thời cơ này Hứa Thái ra lệnh lắp tiếp đạn dược vào hỏa pháo. Đồng thời hắn vẫn còn hai mươi khẩu vẫn chưa khai hỏa đang sẵn sàng đón địch, điều này nhằm tránh cho khoảng thời gian giữa hai loạt bắn quá lâu.
Bá Nhan cũng hạ lệnh quyết tử. Hắn quát tháo ra lệnh cho đại tướng thân tín của mình là Bác Đạt Nhĩ Mô lập tức tổ chức xung phong, nội trong khoảng thời gian ngắn nhất phải công phá được phòng ngự dưới chân núi.
Trận đánh hôm nay không dùng đến bất cứ mưu lược gì, mục tiêu duy nhất của hai phe công và thủ đều là ngọn núi này. Quân Thát Đát chỉ cần đánh chiếm được ngọn núi này thì sẽ thành công toàn diện, bằng không mọi thứ sẽ kết thúc. Bản thân là đại tướng tâm phúc của Bá Nhan, Bác Đạt Nhĩ Mô biết rõ tầm quan trọng của thời gian. Hắn lập tức cùng phó tướng là Hất Lâm Đạt Đạt mỗi người dẫn hai nghìn kỵ binh, bày trận hình cánh nhạn từ hai bên đánh thốc vào chân núi. Được đại tướng dẫn đầu làm gương xung phong lên trước, đám binh sĩ vừa la hét vừa liều chết xông lên, hai mắt đỏ ngầu.
Hứa Thái cười nhạt, chờ cho bọn chúng đến gần, độc hỏa pháo vốn không cần nhắm chuẩn chỉ hơi quay nòng, một loạt đinh sắt, đạn chì tròn dày đặc lại được bắn ra. Kỵ binh Mông Cổ không chỗ náu thân, thuẫn sắt và áo giáp đều không hề có tác dụng gì, người ngựa lại ngã rạp một mảng lớn.
Trong đợt xung phong này, phó tướng Hất Lâm Đạt Đạt bỏ mạng tại chỗ, Bát Đạt Nhĩ Mô mù một mắt, miệng sứt một miếng to lộ rõ hàm răng trắng hếu, song hắn vẫn dẫn đám binh sĩ còn lại liều mạng xông lên.
Trận địa quân Minh cũng có hơn trăm binh sĩ bỏ mạng dưới mũi tên của kỵ binh Mông Cổ, không kịp nạp thêm đạn dược. Trong khói thuốc mịt mù, số binh sĩ Mông Cổ chưa chết lại được hai mươi khẩu đại pháo gầm thét khạc lửa đón tiếp, chỉ kịp bắn được hai loạt tên liền bị quét rơi rụng.
Nhân cơ hội này, Hất Khắc Nông liền tập kết ba nghìn tinh kỵ lại chia làm ba cánh trái giữa phải, tức tốc xông lên. Bá Nhan rỉ máu trong lòng, đây đều là bộ hạ chính quy của hắn. Nhưng lúc này không phải là lúc bo bo giữ riêng quân cho mình, bất kể phải trả cái giá lớn như thế nào, hắn nhất định phải đánh chiếm cho được núi Bạch Đăng.
Chuyến này hắn điều động tinh binh các bộ lạc với quy mô lớn để cướp bóc biên quan, đương nhiên trước tiên là để báo thù cho con của hắn, nhưng nguyên nhân quan trọng hơn đó là: Hoàng đế nhà Minh vừa mới băng hà, thiên tử mới lên ngôi là một thằng nhóc chỉ mười sáu tuổi; chúa còn nhỏ tuổi thì lòng nước chưa an, đây vốn là cơ hội tốt nhất để xâm chiếm đất đai trung thổ. Nhưng hắn không hề ngờ tên tiểu hoàng đế này không hề yếu kém chút nào, thậm chí còn hiếu chiến hơn cả vua Hoằng Trị cha nó.
Chẳng những tiểu hoàng đế mau chóng điều động trọng binh đến biên quan phòng ngự mà tướng lĩnh được phái đi còn hữu dũng hữu mưu, đại quân Thát Đát bị kiềm chân khó thoát, đã hao sạch quân nhu. Càng khiến hắn bất ngờ chính là quân Minh xưa nay chỉ thủ không công, từ sau trận chiến Thổ Mộc Bảo đã coi đại mạc là chốn vô cùng nguy hiểm, mà nay lại dám mạo hiểm phái một nhánh kỳ binh quét ngang qua đại mạc đang trống trải.
Bởi vì ba trăm thân vệ đảm trách việc giam lỏng Mãn Đô Hãi đều bị diệt sạch, cho nên hiện tại hắn vẫn chưa biết hoàng hậu Mãn Đô Hải uy danh khắp đại mạc đã rơi vào trong tay Đại Minh. Nhưng trước lúc xuất binh hắn đã âm thầm cài thám mã giám thị hành vi các bộ lạc. Tin tức các bộ lạc bị tập kích, dê bò bị giết sạch, cỏ khô tích trữ bị đốt trụi đã lặng lẽ được đưa tới. Tin tức này chẳng khác nào là muối xát vào vết thương vừa mới chiến bại của Bá Nhan.
Hiện tại hắn vừa mới dùng vũ lực đàn áp, thống nhất đại mạc. Một khi hắn phải chịu áp lực nặng nề như thế này, ắt các bộ lạc có dã tâm sẽ rục rịch ngóc đầu dậy, cục diện đại mạc mới vừa thống nhất ắt sẽ lại sụp đổ tan tành. Con đường thoát duy nhất chính là giết chết Hoàng đế nhà Minh. Thắng lợi trọng đại về mặt quân sự này có thể thay đổi toàn bộ những vấn đề đang tồn tại trên thảo nguyên, khiến uy vọng cá nhân hắn đạt tới một đỉnh cao chưa từng có. Tất cả mọi chất vấn và chỉ trích sẽ do chiến công lẫy lừng này mà tan thành mây khói.
Gặp thời cơ Di Lặc giáo chủ động hợp tác, trao cơ hội cho hắn nên vốn bị dồn đến bước đường cùng, Bá Nhan lập tức giấu nhẹm tin tức bên trong đại mạc bị càn quét, dồn sức dốc sạch vốn liếng đánh núi Bạch Đăng. Công phá quan ải chớp nhoáng, kỳ binh xuất hiện đột ngột, ai sẽ có thể ngờ được bọn họ sẽ từ trên trời rơi xuống? Năm xưa, cũng chỉ với năm vạn nhân mã mà Thát Đát đã đánh bại năm mươi vạn quân Minh, bắt sống Hoàng đế nhà Minh. Hắn là con cháu của Thành Cát Tư Hãn dũng mãnh, chẳng lẽ nắm gần năm vạn nhân mã còn không giết được Chính Đức chỉ có hơn vạn nhân mã hộ vệ sao?
Chỉ cần giết được Chính Đức, triều đình nhà Minh sẽ như rắn mất đầu. Hiện tại các đại thần thân tín nắm quyền của Chính Đức và những bá quan thất thế muốn chất vấn phản công đang đấu đá nhau túi bụi. Đến khi Chính Dức bị giết, các vương gia tranh giành thừa kế ngai vàng sẽ khiến triều đình nhà Minh đã loạn càng thêm loạn. Lúc đó, cho dù chiếm không được Đại Đồng, không thể thừa cơ kiếm chác chén canh thì hắn cũng vẫn có thể ung dung trở về đại mạc nghỉ ngơi dưỡng sức.
Còn về phần gần mười vạn đại quân của Dương Nhất Thanh, hắn không thèm để mắt tới. Quân của Dương Nhất Thanh chia ra trú đóng tại các quan ải, vệ sở và thành lũy rải rác khắp Trường Thành, tổng binh lực tuy hơn hắn, nhưng binh lực có thể cấp tốc tập trung ở lân cận Đại Đồng không thể hơn. Hơn nữa hoàng đế Đại Minh đang ở đây, quân Minh không có thời gian để thong thả bố trí, binh mã các lộ ắt sẽ không tiếc tất thảy mà kéo tới xả thân cứu giá. Khắp quan ải Trường Thành sẽ đầy chỗ hở.
Cho nên chỉ cần hắn có thể tranh thủ giết được Chính Đức trước khi Dương Nhất Thanh tập trung được binh mã, thì hắn sẽ có thể lợi dụng ưu thế cơ động của kỵ binh mà ung dung nhảy ra khỏi vòng vây của quân Minh mà cao chạy xa bay. Hiện tại hắn phải cần tranh thủ thời gian, bởi vì hắn chỉ có cơ hội đánh một trận này. Cho dù lúc này chính là lúc dùng tấm thân máu thịt để giành đường sống, hắn cũng không nuối tiếc.
Đại quân của Hất Khắc Nông xông tới, đại pháo vừa được vội vàng lắp đạn lại khai hỏa, mặt đất rung chuyển, để lại một đống xác chết. Dưới nghiêm lệnh của Bá Nhan, quân Thát vẫn như thủy triều tràn tới, hết đợt sóng này đến đợt sóng khác. Hứa Thái lập tức quát ra lệnh cho nhân mã rút lui lên núi. Đám binh sĩ bắt đầu di chuyển lên núi dưới sự yểm trợ của lính cầm thuẫn và hỏa súng. Pháo thủ kéo ngòi nổ thật dài vào trong đống đạn dược, rồi rút lui khỏi trận địa sau cùng.
Giặc Thát kéo đến xông lên núi như sói như cọp. Đội quân tiên phong mới vừa ruổi ngựa lấy đà phi như bay xông lên đến lưng chừng núi thì thuốc súng chôn dưới núi đã nổ tung. Chân gãy tay cụt, máu bắn như mưa, một cái đầu ngựa to đùng bắn tung lên giữa lưng chừng núi rồi rơi bộp xuống đất, cặp mắt ngựa trợn trừng khiến người ta trông thấy phải rét run.
Thiên phu trưởng Ô Châu Mục Sấm ghìm ngựa quay đầu nhìn, đội hình xung phong bị nổ tung thành một cái hố máu rộng đến chục trượng, bên cạnh mình còn khoảng hơn ba trăm người. Chỉ cần xông lên được tới đỉnh, cho dù chỉ chiếm cứ trong khoảng thời gian một chén trà, bộ đội theo sau sẽ có thể không ngừng ùn ùn xông lên núi. Hắn bèn rống to một tiếng, quát bằng tiếng Mông Cổ:
- Tiến lên! Hãy giết sạch người Hán như giết dê mổ bò!
Liên tiếp những tiếng reo hò trợ oai vừa mới cất lên, kỵ binh xông lên đầu đã nghiêng trái đổ phải, ngã rạp xuống ngựa. Trên sườn núi được đặt nhiều hố bẫy ngựa, chôn chông sắt, con đường chính giữa vốn được lót ván gỗ đã bị rút đi, mặc dù khi xông lên sườn núi tốc độ đã giảm bớt, nhưng chân ngựa bất chợt sa vào hố vẫn bị gãy ngang. Chiến mã bị chông sắt đâm bị thương cũng giãy giụa khó mà khống chế.
Ngay vào lúc này, một đội quân Minh giáp trụ sáng choang chợt xuất hiện trên đỉnh núi, Ô Châu Mục Sấm trông thấy sau lưng bọn họ đeo một lô những cây giáo có đuôi thì không kềm được hít một hơi dài, lập tức la to:
- Xuống ngựa! Nấp sau chiến mã!
Song đã không kịp nữa. Mấy trăm quân Minh đứng trên cao phóng những cây giáo dài một mét xuống, tạo thành những đường vòng cung tuyệt đẹp. Những cây giáo mang theo đà phóng mạnh mẽ thậm chí có thể xuyên qua cả đầu ngựa không chút khó khăn đã cắm xuyên vào thân thể người. Một loạt những tiếng "phập phập" vang lên, hàng loạt người vừa còn sống mạnh khỏe chỉ trong nháy mắt đã biến thành những thây ma lạnh ngắt.
A Lặc Thái dẫn đại quân xông lên. Mệnh lệnh hắn nhận được chỉ có một: "Bằng mọi giá phải mau chóng chiếm lấy ngọn núi, cho dù toàn quân bị diệt sạch." Sự phản kích của quân Minh mãnh liệt và thảm khốc không kém. Bọn họ cũng không có đường lui, nếu để giặc Thát xông được lên núi, thứ chờ đợi bọn họ chỉ là cái chết.
Súng tay của quân Dương Lăng và những tay thần tiễn người Đóa Nhan của Mã Cáp Lô tạo thành một sự kết hợp hoàn hảo. "Đoàng đoàng đoàng", một loạt đạn bắn ra, những tay súng lập tức lui về sau lắp đạn, nhường cung tiễn thủ của Đóa Nhan Tam Vệ và quân Thát Đát cùng sử dụng kỹ xảo thành thạo mà bắn lẫn nhau. Tên bay vun vút như mưa, có sĩ tốt bị súng bắn lủng lỗ chỗ như cái nia, cũng có người bị tên nỏ ghim thành con nhím. Song phương lấy sườn núi làm trận địa, thây chất thành tường, tiếng kêu rên vang khắp núi.
Dương Lăng đứng trên mỏm núi cao quan sát tình hình chiến sự. Chỗ này thế núi dốc đứng, giặc Thát không có cách nào tấn công lên đây, rất thích hợp để theo dõi cuộc chiến. Căn cứ vào tình huống binh lực tấn công lên núi của Thát Đát, Dương Lăng không ngừng đưa ra từng chỉ thị một: điều động chiến sĩ sử dụng vũ khí tầm xa như lính bắn súng và cung tiễn thủ, đồng thời cho đao thuẫn thủ, lính cầm thương và cầm côn chuẩn bị đánh giáp lá cà.
Giặc Thát tấn công như cọp điên, quân Minh đứng vững không lùi, hai bên trông hệt như hai con mãnh thú đang tranh ăn. Giành giật, giằng co, kẻ trước ngã xuống, người sau tiếp bước, thây chất mỗi lúc một nhiều khắp mặt đất, tiếng la hét gào thét vang tận mù xa.
Mã Cáp Lư căng thẳng nhìn quanh, cất giọng nghi hoặc:
- Dương đại nhân! Bá Nhan bất chấp thương vong, thế tấn công rất rát, Thiên khả hãn và thủ lĩnh các bộ lạc đều đang ở trên núi, như vậy thật quá nguy hiểm. Tại sao phục binh còn chưa xuất hiện?
Dương Lăng cười ha hả đáp:
- Mã Cáp Lư tướng quân không cần phải nóng ruột. Ngài hãy xem, nhân mã Bá Nhan tuy điên cuồng, nhưng trước sau vẫn khó mà vượt qua một bước. Hắn không ngờ trên núi chúng ta lại có đến hai vạn tinh binh, cứ tiếp tục cố thủ sẽ không thành vấn đề.
Nơi này đồng không mông quạnh, nếu bố trí phục binh quá gần thì sẽ bị Bá Nhan phát hiện ra ngay. Hiện đại quân của chúng tôi cần phải mất một thời gian nữa mới có thể kéo tới được. Đến lúc đó quân Bá Nhan đều người mệt ngựa mỏi, quân của chúng tôi sẽ quét sạch bọn chúng như lá khô, khiến hắn không thể trốn tránh ở bất cứ chỗ nào nữa!
Mã Cáp Lư nghe vậy thì hơi yên lòng. Hắn trông thấy sườn núi mé trái đang bị quân Bá Nhan tấn công rất rát, song phương đã bắt đầu đánh giáp lá cà giữa lưng chừng núi. Trong đám đông, tiếng gào thét điên cuồng như sấm dậy, theo sau mỗi tiếng gầm, đao quang lóe lên, bóng thương vun vút, thỉnh thoảng lại có người bị đâm, bị chém, trong chớp mắt nơi đó đã biến thành một lò mổ đầy máu thịt. Cung tiễn thủ trên núi vẫn đang bắn tên ngăn trở dòng quân Thát Đát cuồn cuộn xông lên.
Mã Cáp Lư không kiềm được bèn nói:
- Ta qua bên đó xem một chút. Cứu binh chưa tới, nhất định không thể để bọn chúng lên núi.
Không hề cảm thấy yên tâm, khi nãy Ngân Kỳ cũng đi theo ra khỏi lều soái. Nàng đang mặc trang phục thị vệ, lại thêm hiện tại Đóa Nhan Tam Vệ đang cùng quân Minh kề vai tác chiến cho nên Ngũ Hán Siêu không tiện ngăn cản, bèn để mặc nàng đi theo Dương Lăng ra ngoài.
Ngân Kỳ đứng một bên liếc mắt sang, cẩn thận quan sát vẻ mặt Dương Lăng rồi chợt mở miệng hỏi:
- Nghe nói tướng quân nhà Minh càng ở xa Hoàng đế thì đánh càng hăng, càng có Hoàng đế bên cạnh thì càng sợ bóng sợ gió, sợ này sợ nọ.
Thiết kỵ Thát Đát lui tới như bay, các người muốn bắt được cái bóng của hắn cũng khó. Hiện các người lấy Hoàng đế làm mồi dụ đại quân của hắn lại, rồi lại bao vây từ bên ngoài. Thoạt nghe thì thấy kế rất hay, nhưng nếu như viện quân chậm trễ không đến kịp, bản thân các người sẽ bị người ta tiêu diệt mà theo tình hình hiện nay cũng sẽ liên lụy đến cả chúng ta, cũng sẽ bị quân Thát tiêu diệt chung với các người.
Làm sao mà Dương Lăng chẳng khẩn trương cho được? Vốn ước định cùng nhau nếu núi Bạch Đăng gặp nguy hiểm thì liền nổi khói hiệu để Đại Đồng phái quân cứu viện. Hiện tại tổng binh Đại Đồng nhận được tin đã phái Hứa Thái đến hộ giá, thì không có lý do gì không có quân đội tiếp tục đến chi viện, trừ khi thành Đại Đồng cũng đã bị tấn công.
Nếu quả là như vậy, chỗ y có thể gởi gắm vào cũng sẽ chỉ còn có nhân mã của Dương Nhất Thanh. Nhưng binh mã Dương Nhất Thanh chuyên phòng thủ biên giới, kỵ binh rất ít. Cho dù hắn ta cố sức thúc quân chạy về cứu viện thì cũng phải cần đến hơn một canh giờ; đến lúc đó quân lính đã thành nỏ mạnh hết đà, còn lại bao nhiêu chiến lực thật không thể nói trước được.
Sợ nói nhiều sẽ lỡ lời, Dương Lăng không dám trả lời thẳng vấn đề thứ hai. Y cố ý cười nói:
- Câu bình luận tướng quân càng ở xa Hoàng đế thì đánh càng hăng của cô nương hình như hoàn toàn không liên hệ gì tới sự lo lắng của cô nương trong câu thứ nhì thì phải. Không biết cô nói vậy là có ý gì?
Ngân Kỳ trợn tròn cặp mắt to đẹp nhìn y, hoài nghi:
- Bởi vì nó không giống như là ngài đang thực hiện theo mệnh lệnh Hoàng đế. Ngược lại... có vẻ như Hoàng đế không hề có bất kỳ ý tưởng gì, tất cả mọi thứ đều do ngài chỉ huy vậy. Các vị đã thật sự thương lượng phương cách dụ Bá Nhan đến thật sao? Không phải là đã trúng kế của Bá Nhan chứ?
Dương Lăng giật thót trong lòng, gượng cười hỏi lại:
- Sao cô nương lại nói như vậy?
Ngân Kỳ trề môi, đáp:
- Người Minh các người hết lòng bảo vệ Hoàng đế vô cùng, sẽ chịu mạo hiểm như vậy ư? Ta càng nghĩ càng thấy không hợp lý. Ngài xem đi, dưới núi thế công rất rát, các vị lợi dụng dịp ký kết hiệp ước để dụ Bá Nhan tới, song lại lung lay sắp đổ như thế này...
Vừa nói cô ta vừa bước tới cạnh vách núi, khom người nhìn xuống tình hình chiến đấu bên dưới.
Nghe vậy, Dương Lăng chợt nảy ý định giết người. Đóa Nhan Tam Vệ nổi tiếng là kẻ trở cờ theo gió, một khi biết được sự thật, quả thật không ai đoán được bọn họ sẽ đâm lao theo lao hay lâm trận trở giáo. Tiểu cô nương này luôn đứng bên cạnh Hoa Đáng, nhất định là người được hắn ta tin tưởng vô cùng, nếu để cô nàng quay về bẻm mép thì hơn vạn sinh mạng trên núi này rất có thể sẽ chôn vùi trong tay cô ả. Thậm chí giang sơn Đại Minh, còn cả những người thân của mình...
Chung quanh đều là thân binh của mình, tình hình chiến sự đang căng thẳng, sẽ không ai để ý đến bên này, chỉ cần mình đưa tay đẩy một cái...
Dương Lăng đấu tranh dữ dội trong lòng, một tay đã giơ lên cao nhưng không thể hạ quyết tâm giết người. Ngay lúc đó Ngân Kỳ đã xoay người lại. Vừa trông thấy ánh mắt của Dương Lăng, nàng đột nhiên cảnh giác bước tránh sang một bước, tay vịn vào loan đao giắt lưng, quát:
- Ta đã nói đúng rồi? Ngươi muốn giết ta?
Dương Lăng thoáng ngẩn người, gượng cười chống chế:
- Sao cô nương lại nói như vậy? Vô duyên vô cớ, tại sao tôi lại muốn giết cô?
Cặp mắt to tròn xinh đẹp vẫn nhìn chằm chằm vào y khiến Dương Lăng cảm thấy mặt mình nóng rực. Từ trước đến nay đây là lần đầu tiên y nảy ý định giết một người vô tội, mặc dù là để bảo vệ cho nhiều tính mạng, nhưng chẳng lẽ không phải y đang lợi dụng Đóa Nhan Tam Vệ ư? Trong lòng y dâng lên một nỗi hổ thẹn khó tả.
Ngân Kỳ hừ nhạt một tiếng, đáp:
- Bởi vì ngươi sợ chúng ta lật lọng, lâm trận trở giáo. Dương tướng quân, đừng coi chúng ta quá quắt như vậy. Phụ thân ta tuy đôi lúc ngả về phía Bá Nhan, song đó cũng là vì sự sống còn của cả bộ lạc mà thôi.
Đoạn nàng lắc đầu, thở dài rồi nói tiếp:
- Ngài yên tâm, hiện tại tôi đã lỡ trèo lên thuyền giặc của ngài, chỉ còn cách kiên trì tiếp tục theo ngài đến cùng. Lúc này mà trở giáo sẽ phải trả cái giá quá đắt, thế nên cho dù cha tôi có nghi ngờ, tôi cũng sẽ giúp ngài che giấu. Nhưng... chỉ mong đại quân của ngài thật sự có thể kéo tới kịp thời, bằng không ngài sẽ hại cả bộ tộc chúng tôi đấy.
Dương Lăng nghe mà thấy hổ thẹn không thôi. Y chợt quát lớn:
- Người đâu!
Thoáng chấn động cả người, Ngân Kỳ rút soạt thanh loan đao ra khỏi bao, mũi đao chĩa thẳng vào cổ họng Dương Lăng. Thị vệ nghe gọi xông đến gần trông thấy vậy lập tức bạt đao chĩa về phía Ngân Kỳ.
Dương Lăng thành khẩn nói:
- Trước kia Đóa Nhan Tam Vệ luôn dao động giữa Đại Minh và Thát Đát, không rõ chọn lưa bên nào, cho nên bản quan mới không yên tâm. Tuy nhiên cô nương nói đúng. Đại địch ngay trước mắt, chúng ta nên tin tưởng lẫn nhau, bắt tay nhau cùng vượt qua ải khó. Nếu như lúc này còn nghi ngờ lẫn nhau, vậy thật sự sẽ đồng quy vu tận thôi.
Ngân Kỳ nhìn y thật lâu không chớp mắt, cổ tay thoắt lật, thanh loan đao lại tra soạt vào trong vỏ. Nàng cười mỉm:
- Người Hán các người thật sự rất giảo quyệt, lời đại nhân vừa nói nghe thật xuôi tai. Thực ra nói đi nói lại chẳng qua là đại nhân cho tôi biết rằng nếu các người chết sạch thì chúng tôi cũng sẽ không sống nổi mà thôi.
Hừ! Tôi nói cho ngài biết! Bá Nhan đã từng xin phép cha tôi được cầu hôn, chỉ cần tôi đồng ý gả cho Bá Nhan, Đóa Nhan Tam Vệ cũng quy thuận Thát Đát thì chúng tôi còn có đường sống. Cho nên chúng tôi sẽ cố sức giúp đỡ ngài, nhưng nếu như người của các ngài không kịp thời kéo đến tiếp viện, nếu như toàn bộ thủ lĩnh các bộ lạc đều bị giết, tộc nhân chúng tôi sẽ bị thôn tính, sẽ bị giáng làm nô lệ.
Cho nên, khi mà núi này bị đánh đổ, nếu phải chọn giữa sự diệt vong của toàn tộc và quy thuận cầu sinh chúng tôi nhất định sẽ lựa chọn cái sau; còn tôi, tôi cũng sẽ tình nguyện vì tộc nhân mà dâng hiến thân mình!
Nàng nói một cách hết sức thản nhiên, ánh mắt trong veo như dòng suối. Lấy trinh tiết của chính mình để đổi lấy sự sống còn cho người trong tộc, điều mà những phụ nữ người Hán được hun đúc bởi tư tưởng coi trinh tiết to như trời cho dù có thực hiện được cũng ngượng miệng khi nhắc đến ấy, lại được nàng phát biểu một cách vô cùng thánh thiện.
Dương Lăng thoáng nghĩ ngợi, rồi trang trọng đáp:
- Được! Chúng ta cùng thỏa thuận một hiệp nghị quân tử. Nếu như có thể giữ được núi này, chúng ta sẽ dốc hết toàn lực cùng nhau giữ lấy. Khi đỉnh núi bị đánh chiếm, bản quan sẽ lấy thân đền nợ nước, mọi hành động của quý tộc sẽ do các người tự mình quyết định!
Ngân Kỳ đưa mắt chăm chú nhìn y, rồi cũng nghiêm túc gật đầu.
Dương Lăng quay sang bảo thị vệ:
- Đi nổi khói hiệu, cấp báo cho toàn bộ quan ải phụ cận biết!
Quân tiên phong Thát Đát giống như dùi đục đóng về phía trước, khí thế như thủy triều, sắc bén không gì cản nổi, chiến đấu quyết liệt với quân Minh ở khắp sườn núi. Giặc Thát không thể phát huy ưu thế của khoái mã, nhưng lại hơn ở chỗ đông người, ai nấy đều hung hãn; quân Minh đứng ở trên cao, chiếm được địa lợi, ai nấy cũng liều mạng, thề chết không lui.
Rừng giáo mưa tên, gươm sắc đầy trời, mấy vạn người quên sống mặc chết hò hét vang dội, cả chiến trường giết chóc sôi sục. Quân Thát đã xông được tới lưng chừng núi nhưng muốn bước thêm nửa bước đều phải đánh đổi bởi vô số máu tươi và tử thi chất đống. Với tình hình này, không quá một canh giờ thì bọn chúng cũng đừng hòng tấn công lên đến đỉnh núi, đến lúc đó ắt thế nào cũng sẽ có mấy đạo viện quân nhà Minh kéo tới.
"Vù", tiếng tên bay vút. Khi tiếng thét đập vào tai, một mũi tên nanh sói đã xuyên qua ngực một viên lính nhà Minh như một tia chớp. Mũi tên lộ ra sau lưng mang theo một đám hoa máu, lực bắn mãnh liệt vô cùng.
Tên giặc Thát vừa bắn trộm mới vừa lắp mũi tên thứ hai lên cung thì đã bị một tay hỏa súng bắn vỡ đầu. Hứa Thái và Lưu Đại Bổng Chùy, người cầm thương, kẻ cầm côn, thủ ở trước núi, binh khí ngầm mang theo tiếng sấm sét, như rồng độc quay cuồng, quét, đâm, khua... bên cạnh không ngừng có binh sĩ Thát Đát hung tợn và dũng mãnh ngã xuống. Chỉ hai người bọn họ đã đủ sức khống chế một vùng có bán kính mười lăm mười sáu bước, không kẻ nào có thể tiến lên. Sự oai hùng của hai ngưởi khiến sĩ tốt chung quanh nức lòng chiến đấu. Đao thuẫn thủ đã vứt thuẫn, hai tay cầm chắc thanh đao cùng giặc Thát quyết chiến.
Đây là một trận đánh ác liệt, thắng thua cuối cùng sẽ chỉ được quyết định bởi binh lực mạnh yếu, khí thế cao thấp của hai bên, mà không liên quan lắm đến việc điều bình khiển tướng trên chiến trường có hợp lý hay không, sự phối hợp giữa các tổ đội thuần thục nhiều hay ít, cùng với khí giới hay cách vận dụng mưu lược. Cho tới hiện tại, vẫn là phe thủ núi chiếm ưu thế.
Người chết chất thành gò trên sườn núi, chân tàn tay cụt khắp nơi, máu nhuộm khắp mặt đất, mùi máu tanh xộc vào mũi kích thích sát khí của mọi binh sĩ. Cung, đao, thuẫn, súng cùng triển khai, đao chém tên bắn như sóng vỗ; máu vấy giáp y cũng vẫn mặc kệ. Tất cả mọi người như trở nên điên rồ, không ngừng vung vũ khí, quên hết sinh tử, quên cả sợ hãi.
Dưới chân núi, Bá Nhan thúc ngựa chạy qua chạy lại, cổ vũ binh sĩ dũng cảm xông lên phía trước. Lúc này, mỗi khắc trôi qua thì hy vọng thành công của hắn càng nhỏ đi một phần, làm sao hắn không sốt ruột như lửa đốt trong lòng?
Lúc này, một tướng lĩnh Thát Đát hổn hển chạy lại bẩm:
- Đại Hãn, đã lắp xong bốn mươi khẩu pháo. Có dùng chúng để công phá núi không?
Bá Nhan nghe vậy liền cả mừng, lập tức gò ngựa hạ lệnh:
- Mau lên! Lập tức vận chuyển tới trước núi, dùng pháo công núi, phía sau tiếp tục lắp ráp. Dùng hết cả một trăm hai mươi khẩu đại pháo cho ta, để ta xem Chính Đức còn có thể trốn ở chỗ nào. Ha ha ha...
Một loạt kèn lệnh cất lên, giặc Thát đang công núi ào ào rút lui. Quâm Minh lấy làm ngạc nhiên:
- Giặc Thát lui rồi? Bọn chúng không tấn công nữa mà bỏ chạy sao?
Nhưng ngay sau đó bọn họ liền phát hiện quân địch đang đẩy mấy chục chiếc giá gỗ cao lớn về phía dưới chân núi, đằng sau mỗi chiếc giá là mấy trăm tên lính Thát Đát cầm dây thừng dài thật dài. Đó là thứ gì vậy? Đám quan binh đến từ Kinh doanh lấy làm lạ, nhưng quan binh dưới trướng Hứa Thái và chiến sĩ Đóa Nhan Tam Vệ lại lần lượt hét lên hoảng sợ:
- Pháo Hồi Hồi! Bọn chúng đã vận chuyển pháo Hồi Hồi tới!
Hứa Thái đanh giọng quát:
- Sợ cái gì! Nơi đây bốn mặt là bình nguyên, toàn là đất cát, bọn chúng lấy đá ở đâu mà bắn lên núi chứ?
Binh sĩ chung quanh nghe vậy mới cảm thấy hơi yên tâm.
"Pháo Hồi Hồi"(1) được tạo bởi những thanh gỗ lớn làm giá, kết nối với nhau bởi đai riềng kim loại. Trên giá đặt một trục pháo có thể chuyển động, trên trục là một thanh gỗ dài được bắt cố định làm "nòng pháo". Trên thực tế đây là một loại máy bắn đá, dùng để ném đạn đá, bên dưới hệ thống buộc hơn trăm sợi dây thừng, mỗi sợi do hai người cùng kéo, tầm bắn có thể đạt tới mấy trăm bước.
Sau khi quân Mông Cổ sử dụng pháo Hồi Hồi ném cự thạch phá hủy tường thành Tương Dương chỉ sau một loạt bắn, thì cuộc đại chiến Tương Dương kéo dài suốt ba năm mới tới hồi kết thúc. Loại máy bắn đá tương tự đã từng sớm xuất hiện vào thời Xuân Thu. Loại pháo Hồi Hồi này rất dễ lắp ráp, vào năm Tĩnh Khanh thời Bắc Tống, lúc tấn công Biện Lương, quân Kim đã từng lắp hơn năm nghìn khẩu pháo chỉ trong một đêm. Không ngờ để đánh chiếm núi thành công, Bá Nhan đã cho xe thồ vận chuyển một số lượng lớn khí giới đến lắp ngay gần chân núi.
Có điều không cách nào bọn chúng kiếm được “đạn” là đá tảng to lớn ngay tại chỗ để “bắn”. Chiến mã Mông Cổ cho dù có khỏe cỡ nào cũng không thể kéo những tảng đá lớn nặng mấy trăm cân đi mấy chục dặm để tập kích bất ngờ như vậy. Rốt cuộc bọn chúng sẽ dùng thứ gì để công phá núi?
"Pháo Hồi Hồi" dừng lại dưới chân núi, khoảng cách này đã quá tầm nỏ mạnh, không thể gây thương tổn cho chúng. Quan binh trên núi chỉ có thể nắm chặt binh khí yên lặng chờ đợi.
Bá Nhan nhếch mép cười gằn. Hắn vốn không ngờ quân số trên núi lại sai lệch so với tin tình báo, hình như không chỉ nhiều hơn gấp đôi, cho nên thế công gặp phải trở ngại. Nhưng hắn có món lợi khí này, quân Minh lại chỉ dùng vũ khí thủ núi đơn giản thì sẽ còn có thể giữ được bao lâu?
Tuy máy bắn đá chủ yếu được dùng để ném những tảng đá lớn phá hủy tường thành, đè chết binh sĩ, nhưng lúc đại quân Mông Cổ tây chinh, trong trận chiến Vác-xa-va, bọn chúng lại chợt nảy ra diệu kế, khơi mào cho thời đại chiến tranh hóa học. Bọn chúng đã sử dụng pháo Hồi Hồi bắn một lượng lớn bong bóng có chứa khói độc vào thành, khiến cho toàn thành Vác-xa-va chìm trong thạch tín và khói độc.
Thấy được hiệu quả mới của thứ vũ khí này, lúc đại quân Mông Cổ tấn công Con-xì-tan-ti-nô-pô-li (nay là thủ đô Istanbul của Thổ Nhĩ Kỳ), nhằm lúc dịch hạch hoành hành trong quân đội, quân Mông Cổ bèn dùng pháo ném luôn thi thể của quân sĩ mắc bệnh vào thành, khiến trong thành bùng phát bệnh dịch. Nghe nói thương nhân nhiễm dịch trong thành chèo thuyền trốn ra ngoài, mang theo khuẩn bệnh dịch hạch Châu Á này tới Châu Âu, dẫn đến việc gây ra cơn đại dịch "Cái chết Đen" mà người dân Châu Âu nghe đến là khiếp sợ. Trận đại dịch này đã cướp mất tính mạng một phần ba dân số Châu Âu lúc bấy giờ.
Sau khi nhà Bắc Nguyên tan rã, giặc cướp cưỡi ngựa tập kích biên giới chủ yếu chỉ nhằm cướp bóc. Ngoại trừ năm trước, lúc đánh chiếm Đại Đồng bọn chúng có sử dụng "pháo Hồi Hồi" để ném đá, còn lại rất ít khi dùng, cho nên ngay cả Hứa Thái cũng không nghĩ ra được ý đồ sử dụng vũ khí hóa học.
Dưới núi, những khẩu "pháo Hồi Hồi" đã được lắp đặt chu đáo. Một quả bóng lửa khổng lồ bay thẳng lên mỏm núi, rớt ầm xuống đất, một đám khói cay xè tức thì lan ra. Không biết bên trong bọn chúng nhét thêm những thứ gì mà quả bóng vỡ tan rồi lại vẫn cháy phừng phừng, bốc ra mùi cay đến sặc người.
Dưới núi, từng quả bóng khói lửa lại được ném lên núi như những ngôi sao băng..
Chương 210: Có Quân Đến Cứu
Dù chiến sự thành Đại Đồng quyết liệt nhưng cũng không gian nan, nguy hiểm bằng ở núi Bạch Đăng. Tổng binh Đại Đồng Đỗ Nhân Quốc, kiêm giữ ấn Chinh tây Tiền tướng quân, thống lĩnh năm vệ, bảy sở, nhưng giờ đây phần lớn đại quân của ông ta lại trú đóng bên ngoài Trường Thành. Thành Đại Đồng lại có tường cao vững chắc nên trong thành chỉ có hai vệ quân coi giữ. Hứa Thái mang bảy ngàn người ngựa đi, trong thành chỉ còn lại hơn năm ngàn người.
Vốn Hỏa Sư nhận được mệnh lệnh là nội ứng sẽ mở cửa thành phía tây cho đại quân tràn vào. Với mười lăm ngàn quân tinh nhuệ của hắn thì cả tòa thành Đại Đồng lập tức sẽ trở thành món đồ trong túi, vì vậy ngay cả khí giới công thành hắn cũng không thèm mang theo. Nhưng khi quân khinh kị của hắn hào hứng chạy đến dưới thành phía tây lại bất ngờ bị quân coi giữ Đại Đồng bắn cho một trận mưa tên phải thối lui, Hỏa Sư tức giận đến mức chửi thầm trong bụng.
Khi thấy Bá Nhan tự mình dẫn đại quân đánh úp núi Bạch Đăng, Hỏa Sư cũng ghét chuyện tranh cướp công đầu của Khả Hãn, nhưng suy đi nghĩ lại hắn nhận định cho dù thị vệ bên người Hoàng đế không quá mười ngàn nhưng chắc chắn toàn là tinh binh, trận chiến đó nhất định sẽ rất khó khăn. Trong khi đó, quân của mình không cần tốn bao nhiêu công sức cũng hạ được Đại Đồng, thoải mái đốt giết cướp bóc có thể giúp đám sĩ tốt từng chịu đựng nhiều nỗi gian nan vất vả này kiếm được một mớ, tính ra cũng lời chán. Nào ngờ việc phòng ngự trên thành Đại Đồng rất nghiêm, chờ mãi vẫn không thấy nội ứng mở cửa thành, Hỏa Sư cho rằng Bá Nhan cố ý lừa mình, tuy nổi giận trong lòng nhưng phải ngậm bồ hòn làm ngọt. Lúc này lại không thể một mình lui quân làm hỏng đại cục, hắn đành phải cố gắng cho quân khổ chiến.
Chặt cây tại chỗ đóng thành thang dài, đám binh lính cuồng nhiệt trong mắt chỉ có rượu mạnh, gái đẹp, vàng bạc lẫn tiền của ra sức leo lên không hề sợ hãi. Quân Minh coi giữ trên tường thành sớm đã bày trận chờ địch, dù gặp đại chiến mà vẫn ung dung kéo cung bắn tên, vác đá ném xuống, hàng loạt câu liêm vô tình đẩy những chiếc thang ra khỏi tường thành cao mấy trượng. Tiếng kêu thảm của binh lính Thát Đát vang lên, những khúc gỗ đóng đầy đinh sắt dài cả thước lại được lăn xuống dưới thành.
Thành Đại Đồng được xây dựng rất hùng vĩ, tường thành vừa chắc chắn vừa hiểm trở, các loại thiết bị phòng ngự đều đầy đủ, thân tường thành được xây bằng gạch, bên trong đổ vữa rồi đầm từng đoạn từng lớp. Tường thành cao khoảng năm trượng, mặt trên tường thành cũng rộng năm trượng, đủ chỗ cho đại đội nhân mã di chuyển nhanh chóng. Lỗ châu mai, lầu thành, vọng lâu, vọng canh đan xen nhau, có thể quan sát địch từ xa, ẩn nấp, bắn tên, tiếp ứng, khống chế điểm cao, tạo thành một phòng tuyến nhiều tầng nhiều lớp hoàn chỉnh.
Độc hỏa pháo, Oanh thiên phích lịch pháo không ngừng bắn những viên đạn vô tình xuống dưới thành thu hoạch mạng người. Vô số binh lính qua lại trên tường thành lăn gỗ, lăn đá, đổ dầu, bắn tên tạo thành một phòng tuyến không thể phá vỡ. Còn quân Thát thì như từng đợt sóng không ngừng điên cuồng lao vào thành trì. Tên giặc bắn như mưa, cũng không ngừng gặt hái tính mạng quân Minh.
Xác chất như núi, máu chảy khắp nơi, tiếng chém giết rung trời. Thi thể của đồng đội bị chà đạp vô tình như những miếng giẻ rách; không ngừng có người ngã xuống, trở thành một trong những xác chết bị giẫm đạp. Mặc dù thành trì vẫn sừng sững bất động dưới những đợt sóng tiến công của giặc Thát nhưng trong lòng Hồ Toản và Đỗ Nhân Quốc lại như lửa đốt, gần như cả hai sắp hộc máu đến nơi.
Núi Bạch Đăng mới là chốn bọn họ thật sự bận tâm lo lắng. Nếu như chỗ đó có bất trắc gì thì trời mới biết Đại Minh sẽ gặp phải một tương lai u ám như thế nào. Nhìn thấy một sợi khói đặc quánh bay lên xa xa từ núi Bạch Đăng, Hồ Toản và Đỗ Nhân Quốc vừa cảm thấy vui mừng lại lập tức sắc mặt trở thành xanh mét.
Núi Bạch Đăng báo tin Hoàng đế không việc gì, đỉnh núi còn chưa bị giặc Thát chiếm đóng. Nhưng đồng thời cũng cho biết tình thế hết sức ngặt nghèo, nếu như viện binh không đến kịp thì đỉnh núi có thể sẽ bị đánh chiếm trong chốc lát.
Hồ Toản giậm mạnh chân, hai mắt đỏ ngầu nhìn Đỗ Nhân Quốc quát:
- Đỗ đại nhân! Ta phải tập hợp toàn bộ người ngựa, bỏ thành đi tiếp viện núi Bạch Đăng. Hoàng thượng ở đó, nhất định phải bảo vệ Hoàng thượng cho được! Chỉ cần giữ được đỉnh núi, đại quân của Dương Nhất Thanh kéo tới là chúng ta còn có thể đoạt lại Đại Đồng!
Ý kiến này thật sự ngu xuẩn. Quân chính quy trong thành không quá năm nghìn, cho dù cộng thêm binh nghĩa dũng và tráng đinh thì toàn bộ quân binh vẫn không đông bằng quân công thành. Hơn nữa giặc Thát ở ngoài thành là kỵ binh, nếu bọn họ thật sự tập hợp binh lính lao ra khỏi thành thì chẳng những thành sẽ bị mất mà chỉ trong nửa canh giờ toàn bộ binh mã cũng sẽ bị đối phương chia cắt rồi lần lượt tiêu diệt.
Đỗ Nhân Quốc gian nan nuốt nước bọt. Hắn còn chưa kịp trả lời thì đã nghe một tiếng gầm giận dữ vang lên:
- Ngu không ai bằng! Quân ta ra thành là trúng gian kế của giặc Thát, nếu Hoàng thượng gặp nạn mà tòa thành vững chắc này rơi vào tay địch thì còn ai có thể địch được quân Thát? Toàn bộ Sơn Tây, thậm chí cả kinh thành cũng sẽ gặp nguy trong sớm tối!
Hai người quay phắt lại, nhận thấy một đội giáp sĩ vây quanh Đại vương điện hạ đi vào vọng lâu. Tiếng chém giết vẫn vang lên khắp nơi, Đỗ Nhân Quốc và Hồ Toản vội vàng tiến lên bái kiến. Hồ Toản khóc lóc báo:
- Điện hạ! Núi Bạch Đăng truyền tin báo động, Hoàng thượng gặp nguy hiểm rồi!
Đại vương cũng biết hắn nói có lý, chỉ riêng chuyện thấy nguy không cứu và những lời hôm nay, một khi Hoàng đế vị quốc vong thân thì đã đủ để trở thành lý do vạch tội bọn họ. Ngay cả hắn là dòng dõi hoàng tộc cũng khó tránh khỏi trở thành vật hi sinh chính trị, nếu chỉ bị tù chung thân thì chắc chắn đó cũng là hình phạt nhẹ nhất rồi.
Nhưng cội rễ của hắn ở đây, tất cả con cháu hắn đều ở trong thành. Dòng dõi Đại vương đã sống ở đây hơn trăm năm, trừ năm trước vào kinh còn những lúc khác thậm chí hắn còn chưa bao giờ rời khỏi Đại Đồng một bước. Hồ Toản có thể mở thành chịu chết, không tiếc tính mạng nhằm mưu đồ một hư danh nhưng hắn lại không thể.
Sắc mặt Đại vương xám như tro tàn, hắn than thở:
- Cô(*) biết! Nhưng quân coi giữ Đại Đồng quá ít, mở cửa thành đánh địch sẽ vô dụng, ngược lại sẽ đánh mất trọng trấn biên cương này vào tay giặc.
(*: tiếng tự xưng của Vương hầu thời phong kiến)
Hắn đột nhiên xoay người, rút trường kiếm của thị vệ bên cạnh ra đặt ngang trước ngực rồi quát to:
- Dòng dõi Đại vương thụ phong Đại Đồng, mang trọng trách giữ biên cương bảo vệ xã tắc. Quân coi giữ Đại Đồng đều phải nghe theo hiệu lệnh của bản vương!
Đỗ tổng binh, Hồ tuần phủ! Toàn lực thủ thành, không được để một binh một lính giặc Thát công được lên thành. Cô vương ở đây đốc thúc, nếu Hoàng thượng tuẫn quốc thì là do bản vương không thể cứu viện, cô vương sẽ tự vẫn tạ tội, không quan hệ gì với các vị đại nhân!
Còn không mau đi!
Đỗ Nhân Quốc và Hồ Toản lộ vẻ xúc động, buột miệng:
- Đại vương gia, ngài...
Đại vương trợn mắt hét lớn:
- Còn không mau đi?
Hai người giậm chân liên hồi ra vẻ chẳng đặng đừng, rồi cũng đành vội vã rời khỏi vọng lâu, chạy lên lầu thành chỉ huy việc thủ thành. Đại vương đi tới cửa ngách, chống kiếm quay về hướng đông nhìn núi Bạch Đăng xa xa, lặng lẽ cầu khẩn:
- Hoàng thượng! Người tốt sẽ được ông trời cứu giúp, nhất định phải giữ vững cho được nghe!
***
Những khẩu pháo Hồi Hồi to lớn cao tới ba trượng, có thể ném những tảng đá lớn nặng hai trăm cân ra xa một trăm trượng. Núi Bạch Đăng chỉ cao hơn năm mươi trượng, đạn bắn ra lại là các loại đạn tạo khói lửa đựng trong chum vò gốm nặng có sáu bảy cân, cho nên pháo Hồi Hồi được biến đổi rất nhiều, chủ yếu chỉ dùng máy ném đá cao chưa đến hai trượng, dùng mười một cây gỗ dài ngắn khác nhau kết lại thành một cái giá đỡ giản dị. Hơn nữa bởi vì phải tập kích thần tốc nên bọn chúng không thể mang theo những quả tạ làm đối trọng nặng mấy ngàn cân nên đành chỉ dùng sức người để kéo dây chằng.
Phân trâu, phân sói, các loại cỏ độc ngâm thạch tín bốc cháy phát ra mùi cay thối sặc sụa làm mọi người buồn nôn. Trên núi có gió nhưng người Thát không ngừng ném đồ dẫn hỏa lên núi từ phía đầu gió, sau khi rơi xuống đất vỡ tan, những viên đạn “hóa học” vẫn không ngừng tỏa khói đặc. Khói độc không ngừng bay về phía cuối gió, rất nhiều sĩ tốt bị hun đến không cầm được nước mắt, không thể mở mắt ra được.
Còn may đây là một hòn núi đất, không phải tường thành toàn đá hộc. Chúng tướng lập tức ra lệnh cho binh lính đào đất chôn các bãi chất cháy. Từ trên trời những quầng lửa liên tục bay xuống, còn tất cả sĩ tốt trên đỉnh núi thì ra sức đào đất để chôn. Mặc dù rất nhiều sĩ tốt bị hun đến mức hai mắt sưng đỏ, không ngừng chảy nước mắt nhưng vẫn chưa đến mức không thể chịu được.
Đám người Chính Đức đang ở trong lều lớn cũng không ngờ tới giặc Thát sẽ dùng tới chiêu này. Dương Lăng vội vã chạy về doanh trướng nhắc Hoàng thượng và các vị thủ lĩnh chui xuống hang ngầm tạm lánh, nhưng lúc này chính là thời khắc nguy cấp, đứng trên núi có thể thấy tình thế công thủ địch ta nên còn đỡ sốt ruột. Nếu chui xuống hang, mặc dù không bị khói độc hun nữa nhưng ngọn lửa trong lòng thì dập tắt bằng kiểu gì?
Thấy đám người Chính Đức và Hoa Đương đều không muốn xuống hang tránh né, Dương Lăng đành phải gọi người lột khăn trải bàn xuống nhúng nước sạch rồi đưa cho mọi người che lên mặt. Đôi mắt to xinh đẹp của Ngân Kì cũng đã bị khói hun sưng húp, nước mắt lưng tròng, ngay cả chiếc mũi nhỏ nhắn cũng đỏ ửng. Đã giao ước ngầm với cô ta nên Dương Lăng cũng yên tâm hơn với vị cô nương không biết rõ này. Y đã dặn hai thị vệ đại nội chú ý đến mọi hành vi của cô ta; nay thấy cô ta chạy qua chạy lại chỉ lo giúp đỡ mọi người kể cả cha cô ta che khói độc, không có hiện tượng gì khác lạ nên y cũng yên lòng.
Mười mấy khúc gỗ, mấy chục người lắp ráp là đã thành một cái giá ném “đạn hóa học”, tốc độ cực nhanh. Từng chiếc máy ném đá đơn sơ không ngừng được đưa đến dưới chân núi, càng lúc càng nhiều quả bóng chứa chất cháy độc được ném lên trên núi. Bá Nhan cũng đã ước đoán trên núi có thể đào đất chôn vật cháy. Cho dù ông trời phù hộ không có gió, không có tuyết nhưng không thể chỉ dựa vào mấy ngàn quả đạn khí độc mang theo mà có thể đánh hạ được quân Minh. Mục đích của hắn chỉ là muốn khiến cho quân Minh bị đau mắt, giảm sức chiến đấu để quân mình tấn công dễ dàng hơn mà thôi.
Hơn ba trăm quả đạn khói lửa khí độc đã được ném lên núi, khói mù che khắp đỉnh núi. Bá Nhan vừa sai người tiếp tục ném vừa tổ chức đại quân tiến công núi lần nữa. Mùi thạch tín cháy quá khó chịu, cung thủ quân Minh và binh lính của Đóa Nhan Tam Vệ đang không ngừng phải chảy nước mắt, ảnh hưởng rất lớn đến sức phòng ngự từ xa. Quân Thát nhanh chóng tấn công lên đến lưng chừng núi và bắt đầu giáp lá cà với quân Minh.
Số lượng máy ném đá không ngừng tăng, càng ngày càng nhiều đạn khói được ném lên núi. Trong khi đó đa số quân Minh đã băng xuống lưng chừng núi chặn đánh quân Thát, số lượng quân sĩ đào đất chôn chất cháy càng lúc càng ít. Kết quả là khói trên núi cũng càng lúc càng nhiều, sức chiến đấu của quân Minh càng trở nên suy yếu.
Mọi người đều thầm biết rõ việc đỉnh núi bị đánh hạ chỉ còn là vấn đề thời gian. Hi vọng duy nhất trong lòng bọn họ nằm ở chỗ nơi này là địa bàn của Đại Minh, quân Minh có mấy chục ngàn đại quân đóng ở quan ải Trường Thành gần đó; giờ đây bọn họ chỉ có thể cố gắng giết địch, cố gắng kéo dài thời gian.
Viện quân mà đến thì có thể hình thành thế trận bao vây quân giặc cả bốn phía và bọn họ sẽ từ giữa bung ra. Nếu như không thể vây diệt toàn bộ đội kỵ binh tác chiến của quân Thát tại đây thì cũng có thể khiến Bá Nhan thảm bại, thực lực tổn thương nghiêm trọng, do đó triều Minh sẽ đạt được một thắng lợi mang tính quyết định. Nếu như viện quân đến muộn thì chỉ có thể nhặt xác cho mọi người mà thôi.
Đám người Hoa Đáng không hề ngu. Đến lúc này bọn họ cũng đã thấy được cái gọi là mưu kế lấy chính mình làm mồi dụ dỗ Bá Nhan vào bẫy có đến tám chín phần mười là giả. Chỉ có điều lúc này chiến sự đã nổ ra kịch liệt bốn bề núi Bạch Đăng, tất cả binh lính đều chen chúc liều mình chém giết. Cho dù bọn họ có hối hận cũng không có cách nào tập kết quân đội của mình để chống lại quân Minh hay bỏ chạy thoát thân.
Quân đội cố thủ núi Bạch Đăng đã tới đường cùng, hỏa mai đã bắn hết, tên cũng không còn, chỉ có thể dùng đao thương chém giết. Quân Thát đang dần dần lấn lên đỉnh núi, ép quân Minh vào giữa. Dương Lăng chỉ chia một ngàn đao thuẫn thủ và hai trăm thị vệ đại nội bảo vệ lều lớn, còn lại tất cả quan quân đều được phái ra bốn phía chống địch, ngay cả đội dự bị cũng không có.
Quân Minh đang từng bước lui lại, nói chính xác là đám Thát Đát hung hãn liều mạng đang vừa chém giết vừa giẫm đạp thi thể tiến lên đỉnh núi từng tấc một. Giữa lúc đỉnh núi đang trong thế chỉ mành treo chuông, bỗng có tiếng vó ngựa từ xa xa vọng đến. Từ trên cao, những quan binh đang chặn đánh địch ở bên mé tây đã có thể thấy rõ một đại đội kỵ binh đang phi đến như bay. Áo giáp sáng lòa, cờ bay phần phật, rõ ràng là quan binh Đại Minh.
Giống như được tiêm một mũi thuốc trợ tim, đám quan binh sức cùng lực kiệt lập tức reo hò, đao thương mãnh liệt vung lên, càng đánh càng hăng. Cuối cùng cũng đợi được viện quân đến rồi, còn viện quân có bao nhiêu thì bây giờ còn chưa ước lượng được. Nhưng sự kiện viện quân đã đến này lại khiến cho nhuệ khí hai bên thay đổi rất rõ ràng. Cho dù binh lính Thát Đát cực kỳ dũng mãnh cũng không khỏi cảm thấy chán nản, toàn quân đều bắt đầu nhụt chí.
Nhận được tin, Bá Nhan thầm rợn người, chuyện hắn lo lắng nhất rốt cục đã xảy ra. Nếu như đại đội nhân mã quân Minh chạy tới bao vây toàn bộ đội quân của hắn thì chẳng những nước cờ được ăn cả ngã về không này khó thể thành công, mà nếu như không kịp thời phá vòng vây, khiến cho bị trong ngoài giáp công thì có thể toàn quân bị diệt, tất cả đi đời nhà ma.
Chỉ kém một bước, chỉ cần khoảng non nửa canh giờ nữa Chính Đức sẽ trở thành đồ trong túi của mình. Cứ như vậy mà lui về đại mạc hay sao? Mũi Bá Nhan cay cay, hắn điên cuồng rống to:
- Cáp Đan Ba Đặc Nhĩ, dẫn người của ngươi ngăn cản viện quân Minh triều. Ta chỉ cần nửa canh giờ, chỉ cần nửa canh giờ nữa thôi!
Tiếng gào thảm thiết của hắn làm đám tùy tùng và thủ lĩnh các bộ lạc xung quanh rối loạn. Đội dự bị có sáu ngàn người, do hai anh em kết nghĩa với Bá Nhan là Cáp Đan Ba Đặc Nhĩ và Húc Nhật Cán chỉ huy. Hai người này đã đi theo Bá Nhan tung hoành thảo nguyên đại mạc không gì cản nổi, là một trong những tướng quân anh dũng thiện chiến nhất.
Cáp Đan Ba Đặc Nhĩ cũng biết kéo dài nửa canh giờ có ý nghĩa gì đối với cả thảo nguyên. Hắn rút thành cương đao sáng như tuyết ra, quát lớn:
- Theo ta chặn địch! Cho dù quân Minh là một trận bão cát cũng phải chặn đứng bọn chúng. Xông lên!
Ba nghìn tinh kỵ cùng hò hét vang dội, rút loan đao (đao cong) sáng như tuyết ra, không hề chùn bước xông lên chặn đánh đám quân Minh đang phi đến như bay. Đối với đại đội quân Minh đang phi nhanh đến, ba nghìn tinh kỵ Mông Cổ giống như một mũi dao nhọn sắc bén. Nếu như hai quân lao vào nhau, tinh kỵ Thát Đát lấy khỏe đánh mệt, quyết tâm tử chiến đến cùng sẽ có thể xé đội hình rời rạc của quân Minh ra một vệt dài, có thể đột nhập thẳng vào sâu nửa dặm, từ giữa tách đôi đội hình địch ra, tiến hành chém giết.
Tuy nhiên quân Minh lại như không nhận thấy dụng ý của Cáp Đan Ba Đặc Nhĩ, vẫn lao tới với đội hình rời rạc. Dương Lăng, Chính Đức và đám người Hoa Đáng trên đỉnh núi nhìn thấy đại đội nhân mã quân Minh kéo đến đều cảm thấy tinh thần phấn chấn. Làm cho bọn họ vui mừng nhất là, đây là một đội ngũ toàn kỵ binh, hơn nữa từ trên núi có thể thấy rõ nhân số của họ nhiều hơn ba nghìn kỵ binh quân Thát chặn đánh gấp mấy lần. Đây là đội thiên binh từ đâu xuất hiện?
Một cây soái kỳ trong tay tên lính cầm cờ cường tráng đang bay phần phật do cuồng phong do đàn tuấn mã phi nhanh tạo nên. Hắn điều khiển ngựa bằng hai chân, hai tay gồng lên nắm chặt cán cờ được giữ chắc chân bằng một cái vòng cài bên cạnh yên ngựa. Trên lá cờ chỉ có một chữ rõ to: “Vương”!
Người tiên phong đi trước soái kỳ chữ Vương bỗng nhiên giương cung, một phát ba mũi tên, lập tức trong đám kỵ binh Thát Đát chạy như bay đối diện có ba kẻ rơi xuống ngựa. Ba mũi tên này như là hiệu lệnh, tinh binh Mông Cổ cũng lập tức giương cung đặt tên, một cơn mưa tên rợp trời ngập đất bay tới.
Đại soái của cánh tinh binh này chính là Phó tướng Tam Quan Vương Thủ Nhân, người dẫn hai vị tướng quân du kích chơi trốn tìm với Hỏa Sư ở quan ngoại. Bởi vì hắn dẫn quân ra ngoài Trường Thành, không ngừng giằng co với Hỏa Sư, nếu sức cơ động không đủ thì chắc chắn sẽ thất bại, cho nên Dương Nhất Thanh tập hợp đại bộ phận kỵ binh của các lộ quân trong tay mình, tạm thời tạo nên một đội quân toàn kỵ binh giao cho Vương Thủ Nhân chỉ huy.
Tổng binh lực của Vương Thủ Nhân ước chừng hai mươi ngàn người, đông hơn quân Hỏa Sư, nhưng hắn rất ít khi tiếp chiến chính diện với Hỏa Sư. Dù sao cưỡi ngựa bắn cung cũng không phải chuyện thành thục trong một sớm một chiều, chiến lực của quân đội hắn còn chênh lệch so với bộ đội sở thuộc của Hỏa Sư. Có điều khiến Hỏa Sư đau đầu là vị tướng quân Đại Minh này vẫn bám sát hắn không rời, bất kể hắn muốn tấn công quấy rối nơi nào cánh quân này cũng luôn đi theo phía sau cháy nhà hôi của.
Hỏa Sư giận dữ muốn tìm hắn quyết chiến nhưng đối phương lại tránh không tiếp chiêu, bất đắc dĩ đành dẫn hắn vào khe núi định sử dụng địa lợi chống lại.
Trong lần duy nhất tác chiến ở đồng bằng này, Hỏa Sư vốn định một đòn đánh tan đội kỵ binh chủ lực của quân Minh, không ngờ Vương Thủ Nhân đã đào hố bẫy ngựa, đặt ván chông, thậm chí còn đặt cả những cây gỗ tròn phía trước vót nhọn, phía sau đóng ván ngang, bên dưới ván ngang đào hố trên đường xung phong của quân Hỏa Sư.
Chiến mã chạy trước đạp lên ván gỗ, đầu nhọn phía sau sẽ chống lên đâm xuyên qua chiến mã phía sau. Hai quân chưa gặp nhau, quân Hỏa Sư đã tổn thương nặng nề, hơn nữa kỵ binh không dám chạy nhanh nữa. Người Mông Cổ vô địch thiên hạ không phải dựa vào đao thương mà là tên nhọn và khoái mã. Quả thực khoái mã bị mất ưu thế chính là quân Thát tự phế một nửa sức lực. Sau trận này, chỉ cần nhìn thấy đại kỳ chữ Vương thì Hỏa Sư đã đau đầu, dứt khoát chuyển sang chơi trò trốn tìm với hắn.
Hôm nay đang bám theo đại quân của Hỏa Sư đi tới gần Cự Lỗ môn, đột nhiên Vương Thủ Nhân phát hiện quân địch lại biến mất. Vùng này nhiều núi, lúc đầu Vương Thủ Nhân cho rằng Hỏa Sư cũng bắt chước mai phục lại mình, nên liền ra lệnh cho đại quân hạ trại men núi, lưng dựa vào Kháng Hồ Bảo, phái thám mã truy tìm hành tung của Hỏa Sư.
Một lát sau khói lửa nổi lên, liền sau đó thám mã báo dấu chân ngựa biến mất trong khe núi hẹp ở Cự Lỗ môn, hoàn toàn không còn bóng dáng, nhưng trên quan ải Cự Lỗ môn vẫn cắm cờ Đại Minh. Vương Thủ Nhân chợt nghi ngờ: Dù Hỏa Sư vẫn quanh quẩn gần các quan ải nhưng hắn xảo trá như cáo, nếu muốn mai phục thì hắn sẽ không mạo hiểm mai phục hàng vạn người ở gần quan ải của Đại Minh. Hơn nữa, hai bên khe núi kia rất hiểm trở, không thể giấu được đông người, người của Hỏa Sư bay lên trời hoặc chui xuống đất rồi hay sao?
Nghĩ đến đây, Vương Thủ Nhân lập tức từ bỏ nhiệm vụ bám theo Hỏa Sư, nhổ trại trở về quan ải, vào quan ải qua Kháng Hồ Bảo cách cửa Cự Lỗ vài dặm. Hỏi quân canh giữ phong hỏa đài, bọn họ cũng chỉ biết có khói lửa dấy lên nên tăng cường đề phòng ở quan ải này, nhưng không hề biết quân Thát đang tấn công ở nơi nào.
Vương Thủ Nhân nghe tin lập tức chạy như bay đến Đại Đồng, còn tiện tay lấy vài món lợi khí mang theo. Hắn cũng biết hôm nay Hoàng đế cùng Đóa Nhan Tam Vệ bàn bạc kết minh ở núi Bạch Đăng, tuy rằng phỏng đoán quân Thát đã dễ dàng lọt vào quan ải và đang đánh úp núi Bạch Đăng đúng là quá lớn mật, nhưng chuyện này quá quan trọng, luôn phải đề phòng cho yên tâm. Cùng lắm xem như là mình lui quân về nghỉ ngơi là xong.
Đại quân vừa chạy tới Thủy Thanh Sách, còn cách thành Đại Đồng vài dặm, bọn hắn đã nghe thấy tiếng chém giết rung trời từ xa xa, đúng lúc này trên núi Bạch Đăng cũng dấy lên khói lửa. Hiểu rõ địa hình bản địa, Vương Thủ Nhân lập tức ra lệnh đại quân bỏ đường lớn đi đường tắt chạy đến núi Bạch Đăng, vừa kịp chạy tới đúng lúc núi sắp bị công chiếm.
Xa xa nhìn thấy quân lính rợp núi, không biết bây giờ Hoàng đế còn sống hay đã chết, Vương Thủ Nhân sợ đến mức tái mặt. Vì vậy, hắn lập tức thúc ngựa đi đầu, dẫn quân lao tới. Cơn mưa tên của giặc Thát bay tới, các binh sĩ đều cầm lá chắn tròn bên cạnh yên ngựa lên che chắn. Vương Thủ Nhân tay trái cầm cung, tay phải cầm lá chắn, ngồi trên ngựa hét lớn: "Bắn thần hỏa tiễn!"
Đám binh lính xông lên đầu tiên đều mang những loại vũ khí có hình thù khá kỳ lạ. Tất cả các loại vũ khí lấy từ Kháng Hồ Bảo này đều là các loại tên lửa gọn nhẹ. Có tên tổ ong (nhất oa phong tiễn), tên đàn ưng đuổi thỏ (quần ưng trục thố tiễn), tên lửa sao băng (hỏa nỗ lưu tinh tiễn), tên trường xà phá địch (trường xà phá địch tiễn). Chỉ trừ hai loại tên phi liêm bốn mươi chín mũi (tứ thập cửu thỉ phi liêm tiễn) khá nặng nề và loại tên trăm hổ cùng chạy (bách hổ tề bôn tiễn) phải dùng xe đẩy hoặc phải hai người mới bắn được, còn lại hắn đều vơ vét sạch sẽ. Các binh sĩ dùng dây đeo buộc trước ngực, có khoảng hai mươi mấy hòm.
Đám binh lính xông lên đầu tiên đội mưa tên đánh đá lửa, trong tiếng xé gió, từng mũi tên lửa bay vụt ra ngoài. Độ chính xác của tên lửa thì không có gì đáng chờ mong, nhất là ngồi trên khoái mã mà bắn thì càng khỏi phải nói.
May là kỵ binh Thát Đát phía trước xếp thành đội hình đao nhọn tập trung, quả thực chính là bia ngắm sống. Danh tướng Thích Kế Quang đời sau có một cách nói rất thú vị để hình dung về tên lửa, đại để là: “Bắn tên lửa giữa vạn kỵ binh, hoàn toàn không cần ngắm ai, châm lửa rồi mặc cho số phận. Phương hướng bắn chúng ta không đoán được, địch cũng không đoán được, thật sự vừa thú vị lại vừa kỳ diệu.”
Những mũi tên này chủ yếu là nhanh, bắn liên tục, còn nhanh gấp mấy lần những xạ thủ cao minh nhất của quân Thát. Vô số mũi tên bay ngang bay dọc, còn có mũi vừa bay vừa uốn lượn. Hai đội quân càng ngày càng gần, quân Minh ngã xuống mười mấy tên, quân Thát lại bị bắn chết gần trăm người. Làm mọi người khó hiểu nhất chính là những mũi tên bay xiêu xiêu vẹo vẹo đó, có mũi còn tránh qua tên địch phía trước rồi bắn trúng tên chạy phía sau.
Hơn trăm con chiến mã mất người cưỡi lập tức khiến đội hình xung phong sắc bén của Cáp Đan Ba Đặc Nhĩ bị lộn xộn. Khí thế phá núi mở đường biến mất, lập tức hai luồng nước lũ đan xen vào nhau, tiếng hét đinh tai nhức óc, tiếng vũ khí va chạm không dứt bên tai. Binh lính hai bên điên cuồng mượn đà xông của khoái mã liều mạng chém giết.
Trong trận chém giết giữa hai đội kị binh lao ngược chiều này không có chuyện chiến đấu một chọi một. Thường thường kỵ sĩ hai bên vừa chém được một đao thì hai con ngựa đã lướt qua nhau, họ lại giao thủ với đối thủ mới, giao đối thủ vừa rồi cho đồng đội đằng sau.
Trong giờ khắc này chỉ có giết người mới có thể tránh cho mình khỏi bị giết. Những binh lính thường ngày rất nhỏ bé này, bất kể trước kia là ti tiện hay là gian manh, cương nghị hay là hèn nhát, âm hiểm hay là quang minh, bây giờ tất cả đều hò hét với khí thế ngất trời, tạo thành một làn sóng xung kích làm mọi người sôi trào nhiệt huyết đưa mình trong chiến trường xay thịt, nghe thấy từng tiếng ma sát chói tai ghê răng.
Bởi vì thuật cưỡi ngựa của quân Minh không bằng quân Thát, mà mã đao muốn phát huy hết ưu thế tấn công thì phải mượn lực cánh tay, lực vặn eo và sức lao của chiến mã; người cưỡi ngựa kém thì cả ba yếu tố này đều kém theo. Vương Thủ Nhân tạm thời không thể nâng cao kỹ năng cá nhân của đội quân tổ hợp tạm thời này nên đành phải giở trò ở binh khí.
Gần năm nghìn kỵ binh đi đầu đều dùng lang nha bổng, lực cánh tay của bọn họ không đủ để sử dụng lang nha bổng bằng sắt thật sự, cho nên tất cả đều dùng những khúc gỗ lê trên to dưới nhỏ vừa cứng vừa nặng, trên đầu đóng rất nhiều đinh sắt to bằng ngón út dài nửa thước. Lang nha bổng va chạm với mã đao sắc bén của đối phương, tiếng ken két vang lên không dứt, còn có thể lợi dụng những móc câu trên đinh sắt để giảm tốc độ vung đao của đối phương.
Lang nha bổng nhẹ nhàng vẫy trái cản phải, đâm trước đập sau, triệt tiêu nhược điểm kỹ năng cá nhân của chiến sĩ. Ưu thế tuyệt đối về nhân số áp đảo sự dũng mãnh thiện chiến của đội quân Cáp Đan Ba Đặc Nhĩ tinh nhuệ. Một cơn sóng cuồn cuộn tràn tới, ba nghìn tinh kỵ Thát Đát rơi vào giữa biển quân gần hai mươi ngàn người của quân Minh.
Từ đỉnh núi nhìn xuống, đội quân tiên phong và hai cánh quân Minh vẫn đang xung phong, còn chính giữa đội ngũ lại như xoáy nước cuồn cuộn không ngừng. Ba nghìn kỵ binh của Húc Nhật Can cũng đã xông lên, sử dụng mưa tên ngăn cản thế công của quân Minh chỉ trong chốc lát rồi sau đó cũng rơi vào vòng vây của quân Minh.
Lại là một trận hỗn chiến.
Vương Thủ Nhân chỉ mang mấy trăm người lao ra khỏi đội hình của Húc Nhật Can, cùng mấy ngàn binh mã hai cánh lao thẳng tới chiếc lều lông cừu phía trước.
Trong lều lông cừu là Đại Hãn Thát Đát và thủ lĩnh các bộ đã không còn đại quân bảo vệ.
Bắt giặc phải bắt vua trước!
Muốn cứu chỗ phải cứu của ta thì hãy tấn công chỗ phải cứu của địch trước!
Nếu như Vương Thủ Nhân thúc ngựa lên núi thì hắn sẽ không phát huy được ưu thế của kỵ binh, xông đến lưng chừng núi tất nhiên sẽ phải xuống ngựa khổ chiến với quân Thát đang tấn công núi. Cho dù rốt cuộc có đuổi tận giết tuyệt được toàn bộ quân Thát Đát đi chăng nữa thì việc có thể bảo đảm được an toàn của Hoàng đế trong đám loạn quân hay không lại là một vấn đề khác. Chiêu vây Ngụy cứu Triệu của hắn nhắm khiến cho quân Thát sắp đánh chiếm đỉnh núi không thể không lập tức quay lại cứu người, hiểm cảnh trên núi sẽ lập tức được giải khai.
Quả nhiên ngay từ lúc đội kị binh cứu viện của quân Minh lao tới, các đầu lĩnh quân Thát đang chỉ huy công núi đã phải chú ý theo dõi. Nay vừa thấy tình hình nguy hiểm, bọn họ liền lập tức tập kết đại quân lao ngay trở lại.
Tất cả thân binh bên người Bá Nhan và các thủ lĩnh cộng lại cũng chỉ được hơn một ngàn người, nhưng đều là những chiến sĩ dũng cảm. Bọn họ lập tức vung binh khí chặn trước mặt các thủ lĩnh, bắt đầu chém giết với quân Minh.
Xác người xác ngựa ngổn ngang, tay cụt chân gãy vô cùng thê thảm, máu tươi trộn lẫn bùn đất, mặt đất vốn phủ tuyết trắng tinh sớm đã đổi màu, không khí tràn đầy mùi máu tanh khiến mọi người buồn nôn.
Quan sát tình hình trước mắt, Dương Lăng lập tức bảo với Hứa Thái và Mã Cáp Lư đang máu nhiễm chiến bào:
- Thắng bại là ở lần này! Lập tức tập hợp toàn quân, tấn công quân địch chính diện, đón binh mã của Vương tướng quân tới gần!
Hứa Thái nhận lệnh, lập tức tập hợp đám quan binh còn chưa thở dốc xong. Trừ bộ binh, toàn bộ lên ngựa lao xuống núi. Tay cầm cây gậy sắt nặng nề, Mã Cáp Lư cũng gọi đám binh sĩ ba vệ còn sống sót lại, rồi cùng gào thét lao xuống núi. Hai luồng đại quân trang phục khác màu, đan xen vào nhau lao xuống, khói bụi bay lên cuồn cuộn. Trường thương, cương đao lấp lánh đầy sát khí bức người.
Bị Vương Thủ Nhân vây quanh tạo thành hai nửa vòng tròn một lớn một nhỏ là sáu ngàn thiết kỵ quân hậu bị Thát Đát và một ngàn tinh binh của Khả Hãn Bá Nhan và các thủ lĩnh bộ minh. Bên ngoài là binh lính Mông Cổ lũ lượt kéo về cứu viện, theo sát là hơn tám ngàn kỵ binh Đại Minh và Đóa Nhan Tam Vệ lao xuống, cố gắng thừa dịp trận hình phản bao vây của quân Thát chưa kịp hình thành để mở một lối đón viện quân lên núi.
Vó ngựa rầm rập, mặt đất rung động, các kỵ sĩ xung phong gào thét điên cuồng, trước sau trái phải khắp nơi đều là chiến sĩ địch ta lẫn lộn. Ngôn ngữ bất đồng nhưng tiếng gào thét như dã thú lại tương tự nhau.
Chính Đức trên đỉnh núi nhìn mà máu nóng sôi trào, vô cùng háo hức. Có điều, trừ phi Dương Lăng phơi thây tại chỗ, bằng không, dù chỉ còn một hơi thở y cũng không bao giờ chịu để hắn lên ngựa tham chiến.
Đúng lúc này tiếng sấm rền vang, tiếng hô xung phong rung trời, từ phía Phi Hồ Độ xuất hiện một cánh quân điên cuồng đạp tuyết chạy đến. Đội kỵ binh này giáp trụ sáng ngời, tất cả đều là đại đao cán dài, người như hổ, ngựa như rồng, bốn vó chiến mã tung bay, bụng ngựa gần như dán sát mặt đất.
Đội kỵ binh này quân số không nhiều, cùng lắm chỉ hơn ngàn người. Đội hình lại kéo rất dài, chỉ phi như bay chứ không hề quan tâm đến phối hợp, hơn nữa ngay cả chiến kỳ cũng không có, tỏ ra là một đội quân rời rạc. Nhưng đối với binh lính Thát Đát đã mất niềm tin tất thắng thì cánh quân xuất hiện đột ngột này đã triệt để đánh sập chiến ý của họ: Quân đội tiếp viện của quân Minh đã bắt đầu ùn ùn xuất hiện!
Dưới sự bảo vệ của hơn ngàn thân binh quyết tử, Bá Nhan cùng các đầu lĩnh đột phá vòng vây hội hợp với một chi hơn năm ngàn người ngựa từ trên núi kéo về tiếp viện, lúc này đội thân binh đã tổn thất hơn ba trăm người. Lòng đau như dao cắt, Bá Nhan biết trận tất tay này đã thất bại triệt để, lúc này còn không rút đi thì sợ rằng toàn quân đều phải bỏ mạng tại đây.
Tiếng kèn thê lương vang lên, đó là tín hiệu phá vòng vây rút lui của quân Thát..
Quyển năm - Quần ma loạn vũ - Chương 211 Công phu trốn chạy vô địch
------------------------
Mấy vạn quân Thát Đát liều mạng tập kết về phía Bá Nhan Khả Hãn. Quân số bọn chúng quá lớn, ý chí liều chết chiến đấu cũng trở nên ngoan cường dị thường. Quân Minh không thể ngăn trở quân đội Thát Đát tập kết, đành thừa lúc đội hình bọn chúng đang bị chia cắt mà ra sức đâm chém, cố giết được càng nhiều kẻ địch càng tốt.
Đội kỵ binh quân Minh vừa phi vội tới cũng đã tham gia vào chiến trường đẫm máu. "Keng" một tiếng, cây thác thiên xoa trong tay một tên giặc Thát bị thanh đại đao trong tay viên kỵ sĩ phóng nhanh đến thuận thế choảng trúng, một sức mạnh không thể chống nổi hất tung thanh xoa bay xa hơn hai trượng.
Kỵ sĩ thứ hai đã đến. Lưỡi đao chĩa nghiêng về phía trước, mượn sức xông tới của khoái mã, dễ dàng vót lấy đầu tên Thát Đát đã mất binh khí. Thi thể không đầu vẫn đứng sững một lúc rồi mới phun máu ào ào, ngã oặt xuống đất.
Đang ở tư thế gò ngựa nghênh chiến, giặc Thát tự biết không thể đấu sức với kỵ mã quân Minh đang mượn sức ngựa lao tới. Dưới tình thế cấp bách, có mấy tên Thát Đát bèn phóng thương và kích trong tay phóng lao, mấy tên đứng xa hơn thì vội vã giương cung lắp tên bắn liên tục mấy mũi tên nhằm ngăn trở bớt thế xung phong của quân Minh.
Song bọn chúng còn chưa vững vị trí, thì kỵ binh đằng sau lại ùn ùn kéo qua, dẫn đầu là một viên tướng lĩnh mặt thanh mày tú, chính là Kinh Phật Nhi. Vốn hắn phụng mệnh thủ ở Phi Hồ Độ phòng ngừa có người bám theo Đoá Nhan Tam Vệ lén xông qua ải, nay trông thấy trên Trường Thành có khói lửa truyền tin, hắn bèn lập tức ra lệnh quân bảo vệ Phi Hồ Độ cảnh giới toàn diện, đề phòng giặc ngoài xâm nhập. Nhưng sau đó lại thấy trên đỉnh Bạch Đăng đốt lửa hiệu, hắn mới phát hiện có điều không ổn.
Tuy trên núi Bạch Đăng có trang bị lửa hiệu, nhưng vốn không có cơ hội dùng đến, trang bị chẳng qua cho có mà thôi. Cho dù binh mã Bá Nhan có mạnh cỡ nào cũng không thể trong khoảng thời gian ngắn như vậy mà có thể xông qua quan ải Trường Thành, ùa tới núi Bạch Đăng. Còn nếu Di Lặc giáo tụ tập dân chúng làm loạn, vây công núi Bạch Đăng, thì chỉ cần năm nghìn nhân mã trên núi và bảy nghìn phục binh cất giấu trong thành Đại Đồng là đủ để tiêu diệt bọn chúng cả chục lần.
Vậy, đã xảy ra chuyện gì khiến núi Bạch Đăng phải nổi lửa hiệu báo nguy? Phản ứng đầu tiên của Kinh Phật Nhi chính là "Đoá Nhan Tam Vệ giả trá!". Bọn chúng dẫn quân lên núi ký kết minh ước là giả, thí vua giết chúa mới là thật. Ngoài năm nghìn tinh binh của Đoá Nhan Tam Vệ ra, còn ai có thể nhanh chóng uy hiếp đám quân Minh cố thủ trên đỉnh núi đến như vậy? Thế là Kinh Phật Nhi không cần nghĩ ngợi gì, tức tốc dẫn hơn nghìn huynh đệ của hắn điên cuồng chạy về cứu giá.
Khi đến chân núi trông thấy trận chiến thảm liệt đang xảy ra trước mặt, Kinh Phật Nhi cũng giật nảy người. Ở đâu ra mà nhiều quân Thát Đát như vậy? Song lúc này hắn cũng không có thời gian đi hỏi nhiều đến thế; nếu hai bên đang chém giết, mình cũng đừng khách sáo gì hết mà xông lên giết người mới là chính đạo.
Trong tay Kinh Phật Nhi là một thanh đại khảm đao sống dày. Hắn đâm mạnh thanh đao tới trước, đại đao lướt qua ngực một tên tướng lĩnh Thát Đát vận giáp sắt hộ thân, tia lửa bắn lên, áo giáp hộ thân thủng một lỗ lớn kinh người, tức thì thịt bong máu vãi.
Nhát đao này vẫn chưa trí mạng, nhưng viên tướng lĩnh đó bị đâm ngã xuống ngựa, đang lăn mấy vòng trên đất. Không đợi hắn kịp bò dậy, vó ngựa cất lên rầm rầm đã đạp lên người hắn phóng qua. Tiếng la thét lẫn thân người giãy giụa chỉ kéo dài trong nháy mắt, khi một chiếc vó ngựa to bằng chiếc bát khác đạp lên lưng hắn, hắn đã không còn chút phản ứng.
Từng thanh đại đao điên cuồng vung chém, như bổ dưa thái rau, tước đi máu thịt một cách vô tình, mỗi khi ánh đao loé xuống, liền có máu tươi bắn lên.
Cuộc đại hỗn chiến đã bắt đầu. Khắp trên mảnh bình nguyên dưới núi Bạch Đăng là người với người. Toàn bộ vũ khí công kích tầm xa như cung tên, thương giáo, đều đã mất tác dụng, tất cả mọi người chỉ có thể nhặt lấy đao kiếm, đoản kích tìm lấy đối thủ mà đánh tay đôi. Đầu người lăn lông lốc, tay cụt bay tứ tung. Tiếng rên la rợn óc, tiếng vó ngựa hãi hùng, y hệt như chốn Tu La địa ngục.
Đến tận lúc này, Dương Lăng mới có thể thở phào nhẹ nhõm. Y lật đật chạy tới trước mặt Chính Đức, sụp người quỳ xuống, vui sướng bẩm:
- Chúc mừng Hoàng thượng! Hoàng thượng ngồi trong màn trướng bày kế, điềm tĩnh chỉ huy, khiến cho Bá Nhan không trộm được gà. Lần này quả thực hắn đã lỗ vốn lớn rồi!
Khuôn mặt tuấn tú trắng trẻo của Chính Đức cũng bị khói hun như vẽ bùa, hai con mắt đỏ ngầu, nhưng lại trông rất vui vẻ. Hắn vội bước tới đỡ Dương Lăng dậy, hớn hở:
- Dương ái khanh mau đứng lên đi. Dưới núi là hai lộ viện binh nào vậy? Bọn họ đến kịp thời như vậy, trẫm nhất định sẽ ban thưởng hậu hĩnh!
Không bỏ qua cơ hội tốt, Trương Vĩnh và Miêu Quỳ cũng lật đật bước lên ra sức nịnh hót Hoàng thượng một hồi.
Vừa rồi đám người Hoa Đáng thấy đỉnh núi suýt bị công chiếm, tim cả bọn đã nhảy lên tới cuống họng. Bọn họ thừa biết đã trúng kế hoãn binh của Dương Lăng, bị dụ dốc hết tinh binh giúp y giữ núi đợi đại quân tới bao vây Bá Nhan. Thực ra là Hoàng đế Đại Minh bị người ta lén tập kích, chẳng qua gặp được vận may mới chuyển nguy thành an mà thôi.
Song dưới tình thế này, hiện tại Chính Đức là bên thắng lớn, ai dám bước ra nói toạc sự thật để rước họa vào thân chứ? Hai bên đều biết rõ điều này, không cần phải nói ra.
Dù sao thì ván bài này Hoa Đáng cũng đã đặt đúng cửa, hắn bèn vội dẫn các thủ lĩnh bước tới nịnh hót Thiên Khả Hãn một lúc.
Ngân Kỳ nguýt Dương Lăng, thấp giọng:
- Số ngài thật tốt đấy!
Vòng vây trùng điệp đã được giải, Dương Lăng như vứt được đá tảng trong lòng, cảm thấy nhẹ nhõm cả người. Nghe vậy, y không khỏi cười nói:
- Số của bản quan lúc nào cũng tốt cả! Chỉ hại cô nương không thể trở thành Khả Đôn của Đại Hãn, thật là áy náy quá!
- Ngân Kỳ, lại đây ra mắt Thiên Khả Hãn!- Hoa Đáng cất tiếng gọi nàng, rồi khom người vỗ ngực bẩm với Chính Đức - Thưa Thiên Khả Hãn tôn quý, đây là đứa con gái Ngân Kỳ Kỳ Kỳ Cách của thần. Nó đòi đi theo tiểu thần để được yết kiến Thiên Khả Hãn, thần lo nó thất lễ trước mặt ngài, cho nên mới để nó cải trang làm thị vệ cận thân.
Nghe cha gọi mình, Ngân Kỳ quay sang hừ với Dương Lăng một cái vô thưởng vô phạt rồi rảo bước tới trước mặt Chính Đức thi lễ.
Sau một trận hỗn chiến, quân Minh đã xông tới dưới chân núi tụ tập thành một bước tường người, quân Thát Đát đối diện cũng dần co cụm lại, hai phe phòng thủ nghiêm ngặt. Dương Lăng bèn bẩm:
- Hoàng thượng, thần xin được xuống núi gặp gỡ tướng soái lĩnh binh một chốc.
Chính Đức gật đầu đồng ý, Dương Lăng lập tức dẫn hơn trăm tên thị vệ chạy xuống núi. Lúc này đại quân Thát Đát đã tập kết xong, quân số vẫn còn đông hơn quân Minh hơn một vạn. Vương Thủ Nhân bày nghiêm thế trận đối địch, đề phòng Bá Nhan tấn công. Còn bên phía đại kỳ của Bá Nhan, trong làn sóng la hò quái dị, đại quân Thát Đát cấp tốc rời khỏi chiến trường, chạy như điên về phía Đại Đồng.
Dương Lăng chạy tới bên Vương Thủ Nhân. Trong kinh hai người đã từng quen biết, lúc này cũng không có thời gian chào hỏi. Vương Thủ Nhân chỉ vội gật đầu tỏ ý chào, rồi liền tức tốc ra lệnh cho trung quân vẫy cờ truyền lệnh cho đại quân đuổi theo đánh giết những kẻ địch chậm chân.
Vương Thủ Nhân biết Hoàng đế còn ở trên núi, nên không dám xuất hết kỵ binh. Hơn nữa cho dù có xuất hết binh lực đi chăng nữa thì quân số vẫn còn thua xa đối phương, không thể tiêu diệt Bá Nhan hoàn toàn. Mà ngoài thành Đại Đồng còn có người Thát Đát, hai nhóm quân đó tụ hợp lại thì sẽ càng mạnh không thể chống nổi. Do đó, hắn chỉ hạ lệnh cho hai vị du kích tướng quân bày thế "đuổi sói ra khỏi ải" từ xa, giữ lại ba nghìn kỵ binh hộ giá dưới chân núi, còn mình đi theo Dương Lăng lên núi.
Trông thấy giặc Thát bỏ chạy, Kinh Phật Nhi bèn dẫn quân của mình reo hò đuổi theo chém địch, muốn gọi hắn trở lại cũng không kịp. Vương Thủ Nhân cũng không thấy mặt hắn trong đám loạn quân nên cũng không rõ đó là đội viện binh nào.
Bá Nhan đang tháo chạy, theo lý luận bình thường, truy sát bại binh là cơ hội hiếm có. Lúc giáp chiến với giặc Thát, quân của Vương Thủ Nhân hung hãn vô cùng, sao đến khi giặc Thát bỏ chạy hắn lại trở nên cẩn thận như vậy? Dương Lăng bụng đầy nghi vấn, rất khó hiểu sự thu xếp của Vương Thủ Nhân, cho nên giữa đường lên núi bèn hỏi luôn.
Vốn Vương Thủ Nhân rất có cảm tình với Dương Lăng. Hắn và Dương Nhất Thanh thì một an nhàn tại nhà, một bị nhốt trong đại lao, nay được tín nhiệm giao cho trọng trách như thế này là đều nhờ vào Dương Lăng đứng giữa hoà giải. Đại học sĩ Vương Hoa đã nhắc tới những chuyện này với con mình, vì vậy khi hắn càng có hảo cảm với Dương Lăng hơn.
Nghe Dương Lăng hỏi vậy, Vương Thủ Nhân mới cười khó xử đáp:
- Nếu như ti chức đoán không lầm, Cự Lỗ Môn đã lọt vào tay quân Thát Đát. Với tốc độ của kỵ binh bọn chúng, nếu muốn xông qua ải đột phá vòng vây, không ai sẽ có thể ngăn cản chúng được. Ưu thế của chúng ta là dựa vào binh lực chiến đấu trực diện, truy kích địch ở xa hậu phương không phải là sở trường của quân ta. Vả lại, cung đánh trận của giặc Thát bắn xa hơn trăm trượng, đặc biệt là tinh thông “Mông Cổ đãi xạ pháp”...
Trông thấy Dương Lăng nhíu mày nghi hoặc, hắn bèn giải thích:
- Ý là nói thuật cưỡi ngựa của chúng cao siêu, có thể vừa chạy vừa bắn tên ra phía sau. Đại nhân, tầm bắn của cung tên chúng ta không bằng giặc Thát, hơn nữa nếu chúng ta đuổi lên, vừa vặn hứng trọn tên bắn của giặc Thát; còn giặc Thát lại chạy lên phía trước, vừa khớp tránh được tên của quân ta. Chạy đi chạy lại như vậy, rốt cuộc bên trốn chạy sẽ giành được thắng lợi, ngược lại bên truy sát sẽ bị tổn thất lớn. Năm xưa thiết kỵ Mông Cổ viễn chinh các nước, nhờ vào phương pháp giả vờ trốn chạy này mà đã đánh thắng không biết bao nhiêu trận rồi.
Hơn nữa, ngựa Mông Cổ trông thì thấp bé như vậy, song lại dẻo dai vô cùng. Nó có thể chạy cự ly xa không cần phải nghỉ ngơi, hơn nữa bất kể giá rét hay nóng bức thế nào nó vẫn có thể sống được nơi dã ngoại. Kỵ binh chúng ta mới vừa đuổi tới, giờ đã mệt lử, bất luận là so về nhân số hay chiến lực đều kém hơn địch rất nhiều. Chẳng qua chúng ta chiếm được địa lợi và nhân hoà, cho nên Bá Nhan mới không còn lòng dạ nào ham chiến mà thôi.
Vả lại ngựa Mông Cổ cũng không đòi hỏi cao về thức ăn, chốn ở. Bất kể cao nguyên hoang mạc hay là đồng cỏ đất bằng, ngựa Mông Cổ cũng đều có thể tự tìm thấy thức ăn. Quân Mông Cổ đánh trận không bao giờ mang theo quân nhu. Một là bởi chúng dựa vào cướp bóc, dùng phương thức lấy chiến tranh nuôi chiến tranh; hai là bởi ngựa chúng phần lớn là ngựa cái, có thể cung cấp sữa ngựa để duy trì cuộc sống.
Người đời chỉ biết binh sĩ Mông Cổ cưỡi ngựa bắn cung đều giỏi, mà không biết rằng thuật trốn chạy của chúng càng đứng đầu thiên hạ. Giỏi nhất là giết địch trong lúc bỏ chạy, tiêu hao quân địch mà giành lấy thắng lợi. Bởi vậy cho nên trừ phi nắm chắc có thể ép chúng quyết chiến trực diện; bằng không bất cứ lúc nào, bất luận ở đâu binh lực chiến đấu cũng sẽ không bằng bọn chúng. Khi không thể ép chúng quyết chiến trực diện thì vạn lần không thể đuổi theo.
Dương Lăng nghe mà ấn đường chau lại, chợt bảo:
- Nghe Vương đại nhân nói vậy, bản quan khiếp sợ vô cùng. Thảo nguyên sa mạc là bãi săn thiên nhiên của bọn chúng. Nếu như không khiến chúng tự tàn sát làm hao mòn thực lực của nhau, thì cho dù quân ta gấp mấy lần quân địch, việc đối phó với mấy vạn thậm chí mấy chục vạn quân Thát Đát cũng đều phải bỏ ra cái giá không biết sẽ lớn đến dường nào.
Vương Thủ Nhân mỉm cười:
- Chính là như vậy! Cho nên nếu đã không thể tận diệt Bá Nhan và Hỏa Sư trong biên cảnh Đại Minh ta, chi bằng để chúng cùng nhau chạy về thảo nguyên. Chờ diệu kế của đại nhân phát huy hiệu quả, chúng ta lại mời chúng quay lại cũng không muộn.
Hai người đưa mắt nhìn nhau cùng cười, có cảm giác đồng cảm lẫn mến mộ giữa những người hiểu biết.
Giữa Đoá Nhan Tam Vệ cùng Thát Đát và quân Minh thường xuyên xảy ra chiến tranh, cho nên bọn họ hiểu rõ chiến lực và tính cơ động của đôi bên. Vì vậy khi thấy Bá Nhan dẫn quân đột phá vòng vây, quân Minh đang đuổi theo sau lại có binh lực thua kém Thát Đát thấy rõ thì Bá Nhan đoán rằng trận này khó mà tận diệt Thát Đát tại đây.
Có điều quân tinh nhuệ Thát Đát có bốn năm vạn quân, nay cả chết lẫn bị thương nằm lại đây gần một vạn người. Đối với triều đình nhà Minh thì con số một vạn người này chẳng là gì, song đối với những bộ lạc thảo nguyên, con số này có ý nghĩa lớn đến thế nào bọn họ đều biết rõ rành rành. Huống hồ phía trước còn có quân đội Đại Minh trở về cứu viện, nên đến khi quân Thát Đát thực sự xông được qua quan ải thì không biết sẽ còn tổn thất biết bao nhiêu người ngựa nữa.
Bên này yếu đi thì bên kia mạnh lên. Được Đại Minh chống lưng, Hoa Đáng dường như thấy được ngôi báu Đại Hãn Mông Cổ đã vẫy tay gọi mình.
Thế là Hoa Đáng mừng rỡ cáo từ Chính Đức. Bá Nhan rời khỏi quan ải ắt sẽ chạy không ngừng nghỉ trở về đại mạc, vừa vặn chắn ngay trên đường bọn họ trở về Đoá Nhan Tam Vệ, cho nên bọn họ phải mau chóng ly khai. Ngoài ra cũng cần phải trở về để sớm chuẩn bị phòng ngừa Thát Đát lại quay sang cướp đoạt lương thảo của bọn họ.
Chính Đức đồng ý ngay, sai người lấy năm nghìn lạng vàng ròng, năm mươi rương tơ lụa và bánh trà được chuẩn bị sẵn trong hang ra tặng cho Đoá Nhan Tam Vệ. Ba nghìn kỵ binh còn lại của Đoá Nhan mang theo giấc mơ trở thành vì vua của đại mạc phóng ngựa về phía Phi Hồ Độ dưới sự hướng dẫn của kỵ binh quân Minh.
Sau khi bọn họ đi rồi, Chính Đức bèn gọi Vương Thủ Nhân lại, hỏi rõ nhân thân của hắn. Khi biết được hắn là con của đại học sĩ Vương Hoa, Thái phó của phụ hoàng mình, thì Chính Đức không khỏi mừng rỡ bảo:
- Tốt lắm! Quả nhiên hổ phụ không sinh khuyển tử. Ái khanh cứu giá kịp thời, vây hãm Thát Đát, giúp đỡ xã tắc, sau khi hồi kinh trẫm nhất định sẽ luận công ban thưởng.
Đoạn hắn sa sầm nét mặt, nghiêm giọng:
- Trẫm cùng Dương khanh bày diệu kế diệt trừ cái hoạ trăm năm. Nay mục đích phân hoá hai đại thủ lĩnh của Thát Đát đã đạt được; mục đích lập minh hữu cùng Đoá Nhan Tam Vệ, xua sói đấu cọp cũng đã đạt được. Thế nhưng Tam biên tổng chế Dương Nhất Thanh đang làm gì chứ?
Trẫm có rãnh trời Trường Thành chống giữ, trẫm bày binh mười vạn cho quan ải! Thế mà ngay ngoài thành Đại Đồng này, Bá Nhan lại có thể lùa toàn bộ đại quân xâm nhập biên cảnh, suýt nữa lấy đầu của trẫm! Dương Nhất Thanh tội không thể tha! Trẫm nhất định sẽ xử hắn thật nặng!
Thấy tiểu hoàng đế toát sát khí lẫm liệt, Vương Thủ Nhân rùng mình, thầm nhủ Dương Nhất Thanh tiêu rồi.
Suy nghĩ một lúc, hắn từ tốn thưa:
- Vi thần vốn dĩ bám theo sau đuôi Hỏa Sư, trông thấy khói hiệu nổi lên liền chạy vội tới cứu giá, cho nên vẫn không rõ tường tận Bá Nhan xâm nhập quan ải thế nào, vốn không tiện xen vào...
Nhưng trong lúc lùng đuổi Bá Nhan, thấy đại quân của hắn không hề có dấu hiệu gì là vừa trải qua chiến đấu gian khổ mà lại có vẻ dễ dàng tiến thẳng vào trong quan ải. Thần nghi ngờ trong tướng lĩnh canh giữ biên giới đã có người tư thông Thát Đát. Dương tổng chế mới vừa nhậm chức liền đã phải lĩnh quân tác chiến, cho nên quả thật không kịp chỉnh đốn tướng lĩnh phòng thủ các quan ải. Nếu... nếu như có người mở cửa dâng ải cho giặc, ấy không phải là tội của Dương tổng chế vậy...
Chỉ huy tác chiến bất lực, gây tổn thương lớn là đủ bị tống vào trong đại lao. Nay Hoàng đế gặp mặt Đoá Nhan Tam Vệ trên núi Bạch Đăng, đã thông báo cho Dương Nhất Thanh từ trước, chỉ sử dụng năm nghìn tinh binh thuộc Kinh doanh nhằm đề phòng giặc trong là Di Lặc giáo, còn hắn thì phòng bị giặc ngoài. Thế mà đại quân của Bá Nha lại vẫn dễ dàng chọc thủng khu vực phòng thủ của hắn, xuất hiện dưới chân núi Bạch Đăng một cách đường hoàng, suýt nữa đẩy Hoàng đế vào chỗ chết, chỉ bị chém đầu đã là xử nhẹ tội lắm rồi.
Không dám trực tiếp ra mặt gỡ tội cho ông ta, Vương Thủ Nhân chỉ giải thích qua rồi nhìn sang Dương Lăng với ánh mắt khẩn cầu. Hiện tại người có thể thuyết phục được Hoàng đế đại khái chỉ có Trương Vĩnh và Dương Lăng. Hắn không quen biết Trương Vĩnh, cho nên chỉ có thể trông mong Dương Lăng ra mặt nói hộ.
Ngụ ý của hắn là, đúng là Dương Nhất Thanh là Tam biên tổng chế phụ trách việc phòng ngự khu vực này, nhưng lần này Bá Nhan xông qua quan ải không phải là vì Dương Nhất Thanh chỉ huy không giỏi mà là vì có nội gián tiếp ứng; cho dù Gia Cát Vũ Hầu sống lại cũng không thể sắp xếp đề phòng chu toàn. Chẳng lẽ lại đem thay hết toàn bộ tướng lĩnh tam quan bằng tâm phúc của ông ta? Nếu thật sự muốn truy cứu... có lẽ nên truy cứu kẻ đã đề bạt nội gián đi nhậm chức ở biên ải hiểm yếu mới phải.
Hiểu được ý trong lời của Thủ Nhân, Dương Lăng bèn vội bước tới rỉ tai Chính Đức:
- Hoàng thượng mới vừa kế vị liền đã lên núi Bạch Đăng thương thảo với Đoá Nhan Tam Vệ, kết minh tương trợ lẫn nhau, giúp yên ổn Liêu Đông, ấy là công tích văn trị to lớn vậy. Tương kế tựu kế, lấy thân làm mồi, dụ giặc vào tròng, lấy ít thắng nhiều, giết địch hơn vạn, lập nên chiến tích lẫy lừng nhất từ thuở Vĩnh Lạc đại đế xua quân bắc phạt, ấy là thành tựu võ công vĩ đại vậy.
Dương tổng chế vừa đến biên thùy liền đã kềm chặt Bá Nhan, lại tách một đạo kỳ binh tập kích sau lưng địch, giúp Hoàng thượng phân hoá Thát Đát, lập được công trạng lẫy lừng, thật sự là tướng tài khó được. Bá Nhan vượt ải không phải là tội Dương tổng chế thua trận. Nếu trách phạt quá nặng, khó tránh tổn thương đến lòng tướng sĩ biên cương, lại khó tránh bá quan trong triều nảy lòng nghi ngờ. Vả lại bọn họ vốn phản đối Hoàng thượng đích thân tuần thú, nếu làm vậy chẳng phải sẽ tạo thêm cơ hội cho bọn họ ư?
"Văn trị, võ công"? "Chiến tích lẫy lừng nhất từ thuở Vĩnh Lạc đại đế xua quân bắc phạt"? Nghe xong hai câu này, Chính Đức vốn thích được nịnh bợ liền hớn hở mặt mày, vội bảo:
- Ái khanh nói rất phải, suýt nữa thì trẫm đã tự hủy chiến công... à không... tự hủy trường thành (ý là Dương Nhất Thanh – Ba_Van) của mình rồi. Dương Nhất Thanh vẫn là tướng tài canh giữ biên cương hiếm có. Có điều chuyện này tuy không thể làm lớn, song vẫn phải điều tra biên quân tận tường, phàm là kẻ khả nghi đều phải thay mới hết. Chuyện này trẫm sẽ giao cho khanh làm. Tướng lĩnh canh giữ biên quan có nhiều gian tế trà trộn vào như vậy, có trời mới biết lúc nào lúc nào sẽ trở thành đại họa?
Dương Lăng vội gật đầu khen phải. Vương Thủ Nhân nhìn y đầy cảm kích, rồi xin phép Hoàng đế quay trở xuống núi. Hắn bắt đầu chỉ huy sĩ tốt kiểm kê thương vong, quét dọn chiến trường, giam giữ tù binh, đồng thời sai người chạy về Đại Đồng theo dõi tình hình cuộc chiến để quyết định hành động kế tiếp của Hoàng đế.
...
Khi trông thấy lửa hiệu từ phía Đại Đồng, Trung vệ chỉ huy sứ của Thái Nguyên vệ là Đặng Học Anh liền lập tức chạy vào trong lều soái của Trương Dần bẩm báo, tiếp đó Tả chỉ huy sứ cùng các tướng lĩnh cao cấp đưới trướng đều giáp trụ chỉnh tề lần lượt kéo đến lều soái.
Trương Dần thầm cao hứng trong lòng. Đã mấy ngày rồi mà Bá Nhan vẫn chưa thực hiện cuộc tấn công quan ải có quy mô nào, nay lửa hiệu được đốt lên, tám chín phần mười là đã tập kích quan ải thành công. Khổ tâm sắp đặt bao năm, rốt cuộc hôm nay đã có kết quả, bảo sao mà hắn không mừng như điên cho được?
Ý định ban đầu của Trương Dần là đóng quân tại chỗ, lẳng lặng ngồi chờ xem kết quả cuộc chiến. Dương Nhất Thanh điều đại quân của hắn tới, vốn để đề phòng Bá Nhan tiến đánh quan ải trong lúc Hoàng đế liên kết đồng minh, cho nên chỉ ra lệnh cho hắn chi viện thành lũy bị tập kích. Nhưng Dương Nhất Thanh không ngờ đại quân Bá Nhan lại có nội ứng từ trước, dễ dàng đột nhập vào quan ải tiến thẳng đến núi Bạch Đăng.
Nếu như hai bên quyết chiến giằng co trên quan ải, thì còn kịp phái người thông tri cho Trương Dần. Đằng này đã Bá Nhan lao thẳng tới chân núi Bạch Đăng rồi thì Dương Nhất Thanh mới được bẩm báo, thế là ông ta hồn phi phách tán, lập tức điều động đại quân từ quan ải lại, đồng thời phái quân dịch trạm điều động gấp Trương Dần về cứu viện. Còn về phần đại quân hắn có đến kịp để cứu giá hay không thì ông ta cũng chẳng còn thời gian để mà quan tâm nữa.
Khoái mã trạm dịch mang lệnh tiễn của Dương tổng chế còn chưa tới, nội bộ tướng lĩnh đội quân của Thái Nguyên vệ đã cãi nhau ỏm tỏi. Trương Dần thì cho rằng cứ nên tuân theo mệnh lệnh của Dương Nhất Thanh, đóng quân tại chỗ chờ lệnh rồi mới quyết định hành động kế tiếp. Trung vệ chỉ huy sứ Đặng Học Anh thì lại cho rằng nên làm theo thông lệ, khi có lửa hiệu nổi lên, quân trú đóng lân cận phải tức tốc tiếp viện quan ải. Tả vệ chỉ huy sứ Quan Dũng thì lại khăng khăng rằng "tướng ở ngoài trận không nhất thiết phải tuân quân lệnh", nếu lửa hiệu đã nổi thì nên lập tức chạy về Đại Đồng để phòng bất trắc.
Trương Dần cố ý kéo dài thời gian, dung túng cho hai tướng tranh chấp, còn mình thì ngồi ngoài xem, chỉ phái thám mã sử dụng khoái mã đi Đại Đồng dò sát quân tình. Mãi đến lúc tranh cãi gần được một canh giờ, nhận định cho dù bây giờ có nhổ trại ngay lập tức thì cũng không kịp tiếp viện núi Bạch Đăng, hắn mới bèn "quyết đoán" làm theo ý kiến của Quan Dũng, khởi binh tiến về Đại Đồng.
Đại quân đi được nửa đường thì gặp được quân dịch trạm do Dương Nhất Thanh cử đến. Các tướng nghe báo Bá Nhan đã công phá quan ải, đang đánh về hướng núi Bạch Đăng thì hoảng hốt thất kinh, liền gấp rút chỉ huy đại quân chi viện.
Khi đi qua Kháng Hồ Bảo nơi Vương Thủ Nhân tiến vào quan ải, thám mã của hắn cũng đã đưa tin báo Đại Đồng và núi Bạch Đăng cùng đang bị bao vây, Vương Thủ Nhân mang tinh kỵ gấp rút tiếp viện núi Bạch Đăng, đại quân của Dương Nhất Thanh cũng đang trên đường trở về tiếp viện.
Vốn Trương Dần dự liệu rằng quân giữ ải đều là lính bộ nên không thể chi viện Bạch Đăng kịp thời, giờ hắn nghe nói đội quân chuyên tìm giặc tác chiến ngoài quan ải của Vương Thủ Nhân đi sau mà tới trước, không ngờ đã chạy tới núi Bạch Đăng, thì không khỏi cảm thấy bất an trong lòng. Toàn bộ quân sỹ của Vương Thủ Nhân đều là kỵ binh. Một vạn sáu, vạn bảy kỵ mã tuy thua xa binh mã Bá Nhan về số lượng, nhưng nếu dùng để giữ núi thì lại dư giả đến thừa. Nếu như bọn họ chạy đến kịp, diệu kế tìm thắng lợi trong nguy hiểm của hắn nhất định sẽ thất bại trong gang tấc.
Thấy Trương Dần bồn chồn lo lắng ra mặt, Tả và Trung chỉ huy sứ lại tưởng đại nhân trung thành tận tụy, lo lắng cho an nguy của Hoàng thượng nên bèn giục binh mã vứt bỏ quân trang nặng nề, chỉ đeo hành trang gọn nhẹ chạy nhanh tới Đại Đồng.
Đại quân mới vừa tới con đường chính dẫn tới Cự Lỗ Môn, mọi người đã nghe thấy tiếng vó ngựa như sấm vọng lại từ xa, dường như muôn ngựa rong ruổi. Đại quân của Bá Nhan Khả Hãn ra sức tháo chạy về Đại Đồng, tụ họp với đội binh mã của Hỏa Sư đang công thành trong vô vọng đã cùng trốn chạy đến...
Chương 212: Một Chiến Thành Danh
Lúc này, chúng ta chỉ có thể hình dung tâm tình của Trương Dần bằng câu không biết nên khóc hay nên cười. Vì sao đúng vào lúc này đại quân của Bá Nhan lại trốn về quan ải? Kế hoạch ám sát hoàng đế Đại Minh đã thành công rồi hay sao?
Bất kể thế nào đi nữa, muốn tiếp tục ẩn giấu trước mắt bao người thì mình cũng chỉ có thể cố gắng ngăn chặn đại quân của Bá Nhan lại. Nếu như Hoàng đế còn sống thì Bá Nhan chẳng qua chỉ là một con chó săn đã không còn giá trị sử dụng giống như Dương Hổ, đội quân của hắn bị tống lên thiên đình chính là đại công của mình, giúp mình che giấu được triều đình càng tốt hơn nữa.
Nếu như Hoàng đế đã chết thì nhân cơ hội này mình chặn giết một mớ quân Bá Nhan khiến Thát Đát suy yếu, nâng đỡ Ninh vương lên ngôi. Sau đó dựa vào chiến công và công phò tá để nắm giữ binh quyền, dần dần mình liền có thể ung dung giành lấy giang sơn. Thật sự cho rằng ta sẽ cắt nhường Cam Túc, Thanh Hải và Liêu Đông cho thằng ngu như ngươi sao?
Trương Dần cười lạnh lùng, không đợi tướng lĩnh dưới quyền hỏi lệnh đã lập tức hạ lệnh:
- Đặng chỉ huy nhanh chóng bố trận bán nguyệt cản địch. Quan chỉ huy dẫn quân chiếm giữ điểm cao bên cạnh khe núi hẹp. Tướng sĩ bản bộ xếp thành phương trận!
Lúc này quân Thát cũng đã phát hiện cửa quan ải có đại đội quân Minh ngăn chặn. Đây là lối thoát duy nhất để bọn chúng chạy ra tái ngoại, vượt qua được thì chính là lên thiên đường, bị chặn lại thì sẽ có nguy cơ toàn quân bị diệt. Giữa ranh giới sống chết, đám quân Thát Đát đang liều mạng chạy trốn lại nổi lên bản tính hung hãn, kỵ binh vừa xông lên vừa bắt đầu nhanh chóng tụ tập lại tạo nên trận hình xung phong quyết chiến "đầu lợn rừng".
Loại trận hình này tương tự như trận hình tấn công mũi dùi của Trung Nguyên nhưng đội hình tập trung hơn, gần như ném bừa một hòn đá vào là có thể trúng ngay một tên lính hoặc một con ngựa. Đàn khoái mã đồng loạt phi nhanh nhằm mượn xung lực mạnh mẽ phá tan đội hình của quân ngăn chặn chỉ trong một lần xung phong.
Nhìn thấy uy thế dũng mãnh của địch đến mức này, Đặng Học Anh cũng không khỏi thầm hoảng sợ, nhưng lúc này cũng không thể lo nghĩ được nhiều nữa. Dưới sự chỉ huy của hắn, trường thương binh lập tức lao tới cửa khe núi vội vã lập thành một trận hình chặn đánh có dạng nửa vòng tròn lồi, sâu chín lớp.
Đối phó với làn sóng xung phong điên cuồng của kỵ binh như vậy, biện pháp tốt nhất của bộ binh là đứng phía sau chiến xa để ứng chiến. Nhưng nhiệm vụ cánh quân này khi hộc tốc chạy tới Đại Đồng là tiếp viện cho quan ải bị tấn công, hoàn toàn không mang theo chiến xa để tác chiến trên đất bằng.
Nếu như chỉ dùng bộ binh được trang bị nặng với trường thương cản địch thì phải lập ba nhóm quân hình tròn cách xa nhau năm sáu trượng, mỗi nhóm xếp thành mười sáu lớp chiều sâu, mới có thể chặn được đại đội kỵ binh xung phong. Nhưng lúc này có muốn cũng không còn kịp nữa.
Đội quân Thát Đát đánh úp núi Bạch Đăng vốn định một trận là thành công nên đều mang theo rất nhiều tên, mỗi người co cả sáu mươi mũi tên nanh sói, bây giờ trong túi của mỗi người cũng còn lại hơn mười mũi. Còn cách xa, bọn chúng đã đồng loạt giương cung bắn như vũ bảo, hàng vạn mũi tên bay lên không, khí thế cực kì đáng sợ.
Đội trường thương binh cùng hô lên một tiếng, lũ lượt cúi sát xuống đất, tay phải cầm cán thương dài đến hai trượng buộc tua đỏ, đầu cán chống chắc xuống đất, tay trái cầm lá chắn tròn che đầu. Lá chắn tròn không lớn nhưng binh lính đều cúi sát xuống đất nên cũng đủ để bảo vệ các phần yếu hại trên người.
Nhưng loạt tên của quân Thát quá mức dày đặc. Hàng loạt tiếng soạt soạt vang lên, dương như mặt đất trắng xóa bởi tuyết đột nhiên mọc đầy một mảng cỏ dại, những mũi tên có góc độ xảo quyệt vẫn bắn trúng một vài binh lính. Ngay tiếp đó đoàn thiết kỵ Thát Đát sải vó như rồng phi đã đến nơi.
Loại thương tua đỏ dài đến hai trượng này có sáp ong làm lõi, thân trúc làm cán, lại quấn thêm nhiều lớp sợi tơ, các lớp tơ này được kết dính bởi nhiều lớp sơn, cuối cùng lại sơn đen toàn thân. Cán thương kết hợp cương nhu vô cùng chắc chắn, đao búa tầm thường khó thể làm sức mẻ, có thể chịu được sức mạnh mà không gãy, không hề thua kém cán thương bằng sắt thép mà lại hơi nhẹ nhàng hơn.
Thiết kỵ Thát đát đã lao tới. Tuy bọn chúng biết rõ là sẽ phải chết thảm nhưng cũng không còn con đường thứ hai để chọn, thậm chí chỉ cần hơi chần chừ do dự thì sẽ lập tức bị đại quân cuồn cuộn không ngừng phía sau đụng ngã, giẫm đạp đến chết. Bọn chúng chỉ có thể xông lên, bất kể trong lòng có sợ hãi, có thật lòng muốn vậy hay không.
Mũi thương sắc lạnh lấp lánh chói mắt san sát như rừng đâm chếch lên một góc khoảng 35 độ. Chiến mã còn chưa chạm đến mũi thương thì kỵ sĩ trên ngựa đã tuyệt vọng hét điên cuồng, dướn mình lên vung đại đao mãnh liệt bổ xuống.
Tiếng “phụp phụp” , “răng rắc” vang lên không dứt bên tai. Đó là âm thanh trường thương xuyên vào thân thể máu thịt của người lẫn ngựa cùng với tiếng vũ khí bị sức mạnh khủng khiếp bẻ gẫy. Kị mã trên ngựa rú thảm, lính trường thương dưới đất chặn đánh kẻ dịch cũng kêu thảm, người ngã ngựa đổ, hoa máu tung tóe.
Tiếng vó ngựa như sấm, đợt kỵ binh thứ hai đã ùa tới trong nháy mắt. Máu tươi trên không trung còn chưa rơi xuống đất, vó ngựa của bọn chúng đã giẫm đạp không lưu tình lên thân xác chiến mã và đồng đội vừa ngã xuống. Lại là âm thanh nặng nề khi trường thương xuyên vào cơ thể và tiếng kêu thảm tuyệt vọng của binh lính.
Đoàn ngựa đạp đội quân. Nếu như đội quân này là rừng rậm do thương dài, kích bén tạo thành thì sao?
Quân Thát tràn tới như thủy triều, các chiến sĩ xông vào trước tiên giống như sóng nước vỗ vào tảng đá, đột nhiên tung lên không trong tiếng gầm giận dữ rồi nặng nề ngã xuống tan xương nát thịt. Làn sóng sau lại tiếp tục quyết đoán tràn tới.
Trận địa trường thương dày chín lớp không thể ngăn cản đại quân Thát Đát liều mạng xung phong. Rốt cục "đầu lợn rừng" cũng phá vỡ được đội hình ngăn chặn rồi tiếp tục chạy trối chết vào trong khe núi. Xác người xác ngựa ngổn ngang ngoài cửa khe khiến tốc độ tháo chạy của đại quân Thát Đát hơi chậm lại.
Lúc này quan binh bản bộ của Trương Dần đã chia ra lập thành bốn phương trận thật lớn ngoài khe núi không ngừng bắn tên vào đám kỵ binh Tatar đông nghìn nghịt đang tràn tới. Đây là cửa khe núi, Bá Nhan và Hỏa Sư biết rõ nếu như ham chiến ở đây thì quân Minh đã chiếm được điểm cao ngoài cửa khe núi sẽ có thể ung dung bố trí, lúc ấy tình hình không thể vãn hồi được nữa. Các đội truy binh cùng kéo đến thì chắc chắn phía trước Cự Lỗ Môn sẽ biến thành Diệt Lỗ Cốc. Vì vậy bọn họ không còn lòng dạ nào ham chiến mà chỉ nghiêm lệnh đại quân tăng tốc, cố gắng vượt qua rừng thương mưa tên càng nhanh càng tốt để xông qua khe núi, rồi hợp quân với đội quân đang vất vả phòng thủ Cự Lỗ Môn.
"Soạt! Soạt" Lông trắng đầy trời gào thét ào tới. "A! A!" Tiếng kêu thảm thiết thê lương vang lên từ trong đội ngũ, thân hình những kẻ trúng tên lộ ra nửa mũi tên với đuôi lông tới tấp ngã xuống ngựa. Kỵ binh phía sau dựa vào lực quán tính tiếp tục lao mạnh về phía trước.
Binh lính Thát Đát chưa bao giờ phải tham gia một trận đánh hèn nhát như vậy. Nếu như tác chiến chính diện thì bốn phương trận quân Minh sắp xếp ngoài cửa khe núi kia hoàn toàn không chống đỡ nổi thế xung phong của kỵ binh. Một khi đã bị bọn chúng chia cắt, chém gãy soái kỳ và cờ lệnh thì đám quân Minh không còn tổ chức và chỉ huy chắc chắn sẽ không đủ để chúng tàn sát trong một canh giờ.
Tuy nhiên ai biết triều đình nhà Minh còn có bao nhiêu viện quân đang lần lượt chạy tới? Ăn gỏi được đám quân này cũng đồng nghĩa với toàn quân bên mình sẽ phải chôn vùi ở đây. Khoái mã lao nhanh, người ngựa chen chúc, bọn chúng thậm chí không thể bắn tên phản kích mà chỉ có thể không ngừng xông, xông, xông lên dưới làn mưa tên và lửa đạn! Liên tiếp có người rơi xuống ngựa, liên tục có người mất mạng.
Đám quân Thát Đát xông được vào khe núi đã nhìn thấy quan ải Trường Thành xa xa trong tầm mắt. Nhưng vẻ mừng rỡ còn chưa kịp hiện lên mặt thì cơn mưa tên trí mạng từ đội quân của Đặng Học Anh trên điểm cao đã dội xuống đầu bọn chúng.
- Dựng lá chắn! Dựng lá chắn!
Có người hô to bằng tiếng Mông.
Nhưng quân Minh từ trên cao bắn xuống, cho dù một số kẻ đang phi nhanh vẫn còn kịp lấy lá chắn gỗ hoặc lá chắn bằng thép ra che chắn thì cũng chỉ bảo vệ được người chứ không bảo vệ được ngựa. Chỉ trong chốc lát, khu vực mưa tên rải xuống đã máu chảy thành sông.
- Chia quân công núi, đoạt điểm cao đó!
Có người lớn tiếng ra lệnh.
Hai tướng lĩnh Thát Đát gào thét dẫn mấy ngàn binh mã điên cuồng xông lên sườn núi. Bọn chúng không mong thật sự có thể đoạt được điểm cao này mà chỉ cần kiềm chế được quân Minh để che chở cho đội quân chủ lực thuận lợi vượt qua khe núi.
Cưỡi ngựa trên sườn núi bất lợi nhưng chiến sĩ Mông Cổ nhảy xuống ngựa vẫn thành thạo cung tên. Bọn họ bắn tên nhanh hơn, tầm bắn xa hơn quânMinh, đội quân của Đặng chỉ huy tạm thời bị ngăn chặn. Đã dùng mạng người tranh thủ được chút thời gian quý giá, quân Thát không ngừng xông vào khe núi, lao tới Cự Lỗ Môn như nước lũ.
Quân Thát đã xông vào hơn nửa. Dưới những đợt tấn công không ngừng của quân Minh, khắp trong và ngoài khe núi đầy xác chết. Truy binh quân Minh phía sau cũng đã rượt đến. Trương Dần cưỡi ngựa đứng trên một con dốc nhỏ quan sát tình thế chiến trường, trong tay là một cây trường thương dài trượng tám, cán thương chống xuống đất. Đột nhiên nhìn thấy cờ xí quân Minh xa xa, Trương Dần chăm chú nhìn kỹ,một lúc sau trong mắt hắn không khỏi thoáng qua một tia thất vọng.
Kinh Phật Nhi thúc quân rượt sát theo quân Thát Đát để kiếm chác, nhưng đuổi được tới Đại Đồng thì ngựa đã đuối. Hắn dùng thanh đại đao sáu mươi cân, thật sự là quá mức nặng nề, chiến mã không chịu nổi sức nặng của hắn lẫn vũ khí trên cả quảng đường dài. Hơn nữa hắn dốc toàn lực chạy một hơi từ Phi Hồ độ về núi Bạch Đăng, chưa hề ngơi nghỉ, nay thực sự không thể đuổi theo giặc được nữa. Vừa thấy thành Đại Đồng đã được giải vây, hắn liền xuống ngựa vào thành ra mắt bố nuôi trước. Lúc này đuổi ở phía sau quân Thát chính là binh mã của hai vị thiên tướng dưới quyền Vương Thủ Nhân.
Truy binh Đại Minh xa xa đã uể oải dừng lại cách một tầm tên giống như vui vẻ đưa tiễn tàn binh Thát Đát ra khỏi bờ cõi, đâu có vẻ nào nóng lòng báo thù cho chúa? Nếu bảo ngựa bọn họ đã đuối sức thì sao khi thấy phía trước có quân đội bạn chặn địch thì họ lại đột nhiên thúc ngựa nhanh chóng chạy tới? Chỉ cần xem tình hình này, Trương Dần đã biết Bá Nhan thất bại.
Hắn nặng nề thở dài một hơi trong lòng rồi mới lấy lại tinh thần, giơ trường thương trượng tám lên, mũi thương chỉa về phía trước lẫm liệt quát:
- Ba quân ra hết! Chặt đứt đội quân đoạn hậu của giặc Thát!Giết!
Ra lệnh xong, hắn thúc ngựa dẫn dội thân binh của mình lao ra.
Tuy Trương Dần được xem như một viên nho tướng nhưng tài cỡi ngựa của hắn quả thực rất tuyệt. Cây trường thương trượng tám như rắn độc phun lưỡi, gạt trái đâm phải tung hoành giữa trận địa địch, xuyên qua xuyên lại như con thoi, gạt, đâm, quét, chọc. Thế thương của hắn loang loáng qua lại khó thấy bóng dáng, trong khoảnh khắc đã đâm ngã năm sáu binh sĩ Thát Đát rơi xuống ngựa.
Mấy trăm thân binh của hắn theo sát phía sau như một thanh kiếm sắc cắt đứt đường đi của hơn một ngàn quân Thát đi cuối cùng. Chỉ bị trì hoãn một chút thôi, đại đội quân Minh đã phong tỏa cửa khe núi. Tiếng vó ngựa phía sau dồn dập vang lên, hai vị tướng quân du kích cũng dẫn hàng vạn kỵ binh nhanh chóng tràn tới.
Phía trước là rừng thương um tùm bày trận chờ địch, cung thủ đã giương cung tên cùng các tay súng hỏa mai ở hai cánh lạnh lùng nhìn bọn chúng chằm chằm. Chỉ cần vị tướng lĩnh quân Minh đang hoành thương ngăn ở phía trước kia ra lệnh một tiếng thì tên súng sẽ cùng bắn.
Lúc này tiếng vó ngựa như sấm nổ phía sau cũng càng lúc càng gần.
Thiên phu trưởng Thát Đát Khoát Khoát Đài giật cương cho ngựa chồm lên, cất cao hai vó trước, khua loạn trên không. Hắn đưa mắt nhìn quanh, đột nhiên không cam lòng giơ cao mã đao lên, bi phẫn hát to:
- Trời sao xoay tròn, các nước chinh chiến, đến thời gian lên giường ngủ một giấc cũng không có.
Giành giật cướp bóc lẫn nhau, thế giới quay vòng, các nước công phạt, ngay cả thời gian chui vào chăn ngủ một giấc cũng không còn.
Tranh đoạt, sát phạt lẫn nhau, không có thời gian mà suy ngẫm, chỉ có dốc lòng làm việc.
Không có nơi trốn tránh, chỉ có xung phong đánh trận.
(Tinh thiên toàn chuyển, chư quốc chinh chiến, liên thượng sàng phô thụy giác đích công phu dã một hữu. Hỗ tương thưởng đoạt, lỗ lược. Thế giới phiên chuyển, chư quốc công phạt, liên tiến bị oa thụy giác đích công phu dã một hữu. Hỗ tương tranh đoạt, sát phạt, một hữu tư khảo dư hạ, chỉ hữu tận lực hành sự. Một hữu đào tị địa phương, chỉ hữu xung phong đả trượng ).
Hơn ngàn kỵ binh Thát Đát đầy người vấy máu tươi cùng giơ binh khí lên cao đồng loạt hát theo, âm thanh thê lương hùng tráng vang vọng trong khe núi mãi không thôi.
Mặc dù nghe không hiểu lời nhưng qua vẻ mặt và âm thanh của bọn chúng, toàn bộ binh lính quân Minh đều hiểu được, đều biết rõ hơn ngàn kỵ binh Thát Đát này đã quyết tâm tử chiến với mấy vạn quân Minh, thề chết không hàng.
- Đã đến nơi ta nói sẽ đến, đập vỡ tan từng tảng đá cứng, đã công nơi ta nói sẽ công, phá hủy từng tảng đá cứng. Chém vỡ núi cao, cắt đứt nước sâu; dũng cảm như vậy để giết địch, làm cho cả mặt đất biến thành bãi cỏ của người Mông Cổ!
Không có người phát hiệu lệnh. Câu cuối cùng vừa hát xong, tất cả kỵ binh Mông Cổ không hẹn mà cùng ghìm cương xoay ngựa trở lại; dương đao, đạp chân, hơi chồm người lên xông tới kỵ binh Đại Minh vừa đuổi tới nơi! Bọn chúng dĩ nhiên tàn khốc, khát máu, tham lam, nhưng đồng thời cũng đầy tâm huyết, dũng cảm và cao ngạo. Bọn chúng thà làm anh hùng trên ngựa quyết chiến đến cùng với đội kỵ binh của một dân tộc khác!
"Đoàng! Đoàng! Đoàng!" Tiếng súng hỏa mai vang lên. Khoát Khoát Đài vừa xoay người đã bị bốn năm mũi tên đâm sâu vào lưng, máu phun ra theo thân tên, cùng lúc đó tấm áo choàng bằng da thuộc cũng bị đạn bắn tan nát.
Hắn không nén được giận trợn tròn mắt:
- Vì sao... Vì sao không cho ta chết trận một cách anh hùng?
Khoát Khoát Đài muốn xoay người lại chất vấn quân Minh, nhưng cánh tay lực lưỡng của hắn không còn sức mạnh để nắm chắc cương ngựa nữa. Thân thể chỉ hơi lay động rồi hắn trợn trừng mắt, ngã cắm đầu xuống đất...
- Cường đạo chính là cường đạo, cho dù hắn rất dũng cảm... thì chẳng qua cũng chỉ là một cường đạo dũng cảm. Ngươi đã bao giờ thấy quan binh giết cường đạo còn phải tuân thủ luật lệ, qui tắc với chúng chưa?
Hai năm sau, tay lính hỏa súng Lỗ Nhị Ngưu đã thăng đến Bách hộ, nghiêm khắc giảng giải cho tiểu binh dưới quyền về trận chiến này.
* * *
Hoàng đế đã khởi giá trở về Đại Đồng. Dân chúng toàn thành đều đã nghe đến sự tích anh hùng của thiên tử thiếu niên định ra diệu kế đại thắng thiết kỵ Thát Đát. Nếu như lúc chen chúc nhìn lọng vàng rời khỏi thành đến núi Bạch Đăng, dân chúng chỉ tràn ngập tò mò với vị thiên tử sống tại Tử Cấm thành kia thì nay, bọn họ xếp hàng hoan nghênh lại hoàn toàn xuất phát từ nội tâm.
Hoàng đế là đại biểu của người Hán, quang vinh của hắn chính là quang vinh của tất cả mọi người Hán. Ai không muốn lãnh tụ của mình là một anh hùng có thể khiến cho mình tự hào và kiêu ngạo?
Quân Thát đã gây ra bao nhiêu tội ác ở vùng biên giới, bao nhiêu người cửa nát nhà tan, vợ con ly tán vì chúng, bao nhiêu người phải rời xa quê quán, lo lắng hãi hùng vì chúng?
Đủ loại tin đồn lan truyền rất nhanh trên phố, mặc dù đều rất ly kỳ, thậm chí hoang đường không hợp logic. Quân số giặc Thát bị giết chết được tăng lên gấp mấy lần, thậm chí đã vượt qua tổng dân số của cả đại mạc thảo nguyên nhưng trăm họ đều tình nguyện truyền bá nó, sẵn sàng tin tưởng nó. Ai dám nghi ngờ một câu sẽ lập tức bị một đám người mắng nhiếc nước bọt văng tung tóe đành ôm đầu chạy trốn.
Tốc độ Dương Nhất Thanh kéo quân về cứu viện đã tới cực hạn của bộ binh nhưng chung quy hai chân vẫn không thể chạy nhanh bằng bốn chân. Đến nửa đường, mấy vạn đại quân đã nhận được tin Hoàng thượng về thành, bộ đội sở thuộc của ông ta lập tức tới trước cửa thành Đại Đồng nghênh giá.
Đội quân của ông ta cuồn cuộn kéo đến dưới thành Đại Đồng. Vừa nhìn qua đã thấy quân uy nghiêm chỉnh, giáp trụ sáng ngời, đâu có chút dáng vẻ gì vừa trải qua một trận huyết chiến? Dân chúng thấy vậy càng tin tưởng lời đồn Hoàng Đế thân chinh khiến tướng sĩ dũng cãm như hổ như rồng, lấy một địch trăm, lấy một cản ngàn, Bá Nhan Khả Hãn quăng mũ cởi giáp,vừa nghe thấy tiếng đã bỏ chạy.
Đại vương, Hồ Toản, Dương Nhất Thanh, Đỗ Nhân Quốc cung nghênh thánh giá tại cửa thành Đại Đồng. Hoàng đế Chính Đức vừa đến nơi, cả bọn lập tức đồng loạt quỳ rạp xuống đất không dám ngóc đầu. Trên đường đi, lòng Dương Nhất Thanh tràn đầy tâm sự nặng nề. Ông ta là Tổng chế tam quan, có trách nhiệm phòng ngự cả chiến khu. Giờ đây Hoàng đế không bị thích khách ám sát mà là toàn bộ đội quân chủ lực của hoàng đế Thát Đát đàng hoàng tiến vào quan nội đánh giết lên núi Bạch Đăng. Thật sự ông ta không nghĩ ra được bất kỳ lý do gì để bào chữa cho mình.
Loan giá dừng lại, hoàng đế Chính Đức bước tới trước mặt bọn họ. Gương mặt nhà vua đã được lau rửa sạch sẽ, đương nhiên dáng vẻ chật vật của Hoàng đế vẫn không thể để cho bề tôi nhìn thấy.
Hai tay được chăm sóc rất tốt của Đại vương chống trên mặt đất trộn lẫn tuyết bùn dơ bẩn, lão run giọng tâu:
- Hoàng thượng bị tấn công! Hạ thần khó có thể chối tội, xin Hoàng thượng nghiêm trị!
Hồ Toản, Dương Nhất Thanh, Đỗ Nhân Quốc đồng loạt dập đầu:
- Tội thần đáng chết vạn lần, xin Hoàng thượng trị tội!
Các nhóm tướng lĩnh và quan chức đến nghênh tiếp cùng đồng loạt quỳ xuống. Mấy vạn đại quân cũng lũ lượt quỳ xuống kính cẩn, không một tiếng động.
Trong đó thật sự lo sợ chỉ có ba người Đại vương, Hồ Toản và Dương Nhất Thanh.
Không cần phải nói đến Dương Nhất Thanh hiện đang là Tổng chế tam quan.
Hồ Toản là tuần phủ Đại Đồng. Trước khi Dương Nhất Thanh nhận lệnh thống lĩnh ba quân, việc quân sự lẫn chính trị Đại Đồng đều nằm trong tay lão, quan chức cấp dưới thiên tổng đều do lão ký lệnh bổ nhiệm. Tuy lão là quan văn, không rành quân vụ, hai tên phản tặc Vương Hổ, Lý Nghĩa đều do các lão tướng trong quân đội tiến cử rồi lão mới bổ nhiệm; nhưng lý lẽ này mang ra phân trần với ai được đây?
Còn Đại vương thân là biên vương trấn thủ Đại Đồng. Dù thường ngày không can thiệp vào việc quân sự lẫn chính trị quá nhiều, nhưng trên danh nghĩa ông ta cũng là quan chức có cấp bậc cao nhất, hơn nữa vào thời chiến lại có quyền nắm tướng, điều binh. Trong quân xuất hiện gian tế thì ông phạm tội tắc trách, Hoàng đế gặp nạn lại đóng cửa thành không cứu càng là tội lớn, làm sao không sợ hãi cho được?
Lúc bước xuống kiệu, Chính Đức đang cực kì vui vẻ. Vừa nghe mấy lời thỉnh tội, hắn chợt nhớ lại nỗi nguy hiểm trên núi Bạch Đăng, lập tức sa sầm nét mặt.
Trên đường về, ngồi trong kiệu hắn càng nghĩ càng thấy vui vẻ. Trận này đánh cho Bá Nhan thảm bại chạy trốn, địa vị Đại Hãn của hắn khó lòng yên ổn được nữa, ngọn lửa nội chiến dấy lên trên thảo nguyên cũng ít nhất có thể đổi lấy mười năm an bình cho chốn biên thùy. Hơn nữa có sự hợp tác của Đóa Nhan Tam Vệ, có sự phân liệt bên trong Thát Đát, nếu như mọi việc phát triển theo đúng trù liệu của Dương Lăng thì thậm chí ngay trong lúc hắn thống trị giang sơn đã có khả năng nhất thống đại mạc, đó chính là diện tích của mấy tỉnh cơ đấy!
Chính Đức tuy nhỏ tuổi nhưng cũng biết điều đó có ý nghĩa gì: “khai cương thác thổ” “mở mang bờ cõi”! Địa vị của hắn trong Tông miếu sẽ vượt qua ông cha trở thành thánh quân chỉ thua hoàng đế khai quốc! Công nghiệp lớn lao bao nhiêu đế vương cẩn trọng cầm quyền cả đời cũng không đạt được, còn hắn vừa mới đổi niên hiệu Chính Đức, trở thành hoàng đế Đại Minh đã làm được rồi.
Tính khí trẻ con, vừa mới hết sợ hắn đã nghĩ đến chuyện hay: không phải Nhất Tiên rất thích anh hùng hay sao? Không phải cô ấy nói phu quân tương lai của mình phải là một đại anh hùng đội trời đạp đất, phải có bản lãnh bảo vệ cô ấy, có bản lãnh bảo vệ trăm họ Đại Minh không bị người khác bắt nạt hay sao? Không phải Trẫm đã làm được rồi sao?
Ha! Ban đầu cùng Dương Lăng đến Thì Hoa quán, bị đánh một trận được quen biết Đường Nhất Tiên. Lần này cùng hắn đến núi Bạch Đăng, bị dây đậu với thạch tín hun nhem nhuốc một hồi lại thu được công lao hiếm có. Y đúng là phúc tướng của Trẫm. Loại chuyện thua thiệt chút ít mà lợi lộc vô biên như thế này phải nên xảy ra càng nhiều càng tốt.
Chính Đức càng nghĩ càng thích, lúc xuống kiệu mặt mày vẫn còn hớn hở, nay vừa nghe đám người Đại vương này thỉnh tội thì nộ khí của hắn chợt bốc lên. Hắn vừa định phát tác, đột nhiên Lưu Đại Bổng Chùy lớn giọng hô to:
- Hoàng thượng bày mưu tính kế anh minh thần võ, đánh bại Khả Hãn Bá Nhan, kết minh Đóa Nhan Tam vệ, thực là minh quân đương thời, thiên cổ hiếm có! Ngô hoàng vạn tuế! Vạn tuế! Vạn vạn tuế!
- Ngô hoàng vạn tuế! Vạn tuế! Vạn vạn tuế!
Mấy vạn đại quân đang quỳ gối cùng hô to. Âm thanh chấn động nhà cửa, quả thực có thể làm chim trên cây phải rơi xuống đất. Tiếng hô chưa dứt, trăm họ xếp hàng chào đón trong thành cũng nô nức hoan hô theo.
Dương Lăng tiến lên một bước, khẽ ho một tiếng rồi tâu nhỏ:
- Hoàng thượng, toàn thể tướng sĩ biên quân và trăm họ đều đang khen ngợi công đức của bệ hạ.
Nói xong, y lướt nhìn Đại Bổng Chùy với vẻ khen ngợi. Tuy gã này không biết chữ nhưng trí nhớ lại tốt. Chỉ cần dạy gã một lần, bất kể có hiểu ý gì hay không thì gã cũng có thể nhắc lại y chang, không sai chữ nào.
Vừa nghe Dương Lăng nói vậy Chính Đức lập tức hết giận. Chuyện trong quân xuất hiện gian tế vốn đã không nên để lộ ra ngoài, tránh cho bá tánh hoang mang, huống chi nếu để mọi người biết công lao này của mình là do đánh bậy đánh bạ mà thu được thì còn đâu là vinh quang nữa? Không chừng mấy lão già trong kinh lại lợi dụng việc này mà rêu rao can gián. Tốt nhất vẫn nên xử trí nhẹ nhàng việc này là hơn.
Nghĩ tới đây, Chính Đức liền đổi qua gương mặt hớn hở, mỉm cười nói:
- Các vị ái khanh đại thắng Thát Đát, có công với xã tắc, nào có tội gì? Nếu không có Đại vương đốc thúc tử thủ Đại Đồng, không trúng kế dẫn quân ra thành để tránh bị địch lợi dụng, thì chẳng những Đại Đồng rơi vào tay giặc làm muôn vàn dân lành gặp nạn mà Trẫm cũng đành phải vội vàng bỏ trốn về kinh.
Còn các tướng như Dương khanh, Trẫm sẽ thưởng phạt phân minh. Cái gọi là khuyết điểm không che lấp được ưu điểm, công không che lấp được tội. Nào nào! Các vị ái khanh hãy bình thân. Trước hết theo trẫm về thành đã.Tư thông kẻ địch phản bội tổ quốc đương nhiên phải nghiêm trị, nhưng giờ đây chính là lúc quân dân toàn thành cùng vui, trước hết cứ gác việc này lại một bên.
Hồ Toản nghe Hoàng thượng chỉ nhắc tới Dương Nhất Thanh và Đại vương, còn mình thì ngài không hề đề cập tới chữ nào liền biết tám chín phần mười là mình sẽ phải gánh chịu án oan này rồi. Nhưng hai tướng lĩnh gian tế đó quả thật là do mình bổ nhiệm khi làm Tuần phủ giám sát quân vụ Đại Đồng, giờ đây Hoàng thượng chỉ bị kinh sợ chứ không bị nguy hiểm. Quân đội đã đánh bại giặc Thát, mình được thơm lây nên chỉ bị bãi quan chứ không bị chém đầu đã là ân đức lắm rồi, còn có gì để nói nữa? Cho nên lão đành lặng lẽ đứng lên không nói một lời.
Tiếng Dương Lăng thì thầm với Chính Đức rất nhỏ, Trương Dần quỳ ở phía sau không hề nghe thấy, nhưng hắn lại quan sát vẻ mặt của hai người cực kì tỉ mỉ. Thoạt tiên Chính Đức bất chợt lộ vẻ giận dữ rồi lại lập tức có thể thản nhiên bỏ qua đại tội lơ là phòng bị khiến cho Hoàng đế gặp nguy hiểm, tất nhiên là vì nghe lời Dương Lăng. Tầm ảnh hưởng của người này đối với Hoàng đế thật sự là quá lớn.
Kế hoạch mượn tay Dương Hổ ám sát Hoàng đế đã thất bại, kế hoạch mượn tay Bá Nhan diệt trừ Hoàng đế cũng thất bại nốt. Lần nào trong kế hoạch cũng chỉ xuất hiện một điều bất ngờ, nhưng chính do một sơ suất này đã làm cho mình thua thiệt dưới tay người khác, từng bước bị dồn vào thế bị động. Kế hoạch đã được tính toán tinh vi lại không thể không năm lần bảy lượt sửa đi đổi lại, đúng là không cam lòng.
Là số mệnh của Chính Đức vẫn chưa hết hay là vận may của ta quá kém? Mấy vạn đại quân của Bá Nhan cũng không thể ám sát được Hoàng đế, xem ra ta phải thay cung đổi tên rồi. Không thể giải quyết Chính Đức để phò trợ Ninh vương thuận lợi kế vị thì ta sẽ khơi dậy dã tâm của Ninh vương, khiến cho thời Đại Minh lại diễn màn kịch chú đoạt quyền cháu lần nữa.
Nghĩ tới đây, Trương Dần lặng lẽ đánh giá Dương Lăng. Hắn thầm nghĩ: "Người này rất được Hoàng đế tin cậy, có uy tín với Hoàng thượng. Thay vì hao hết tâm tư diệt trừ y mà không được thì tại sao ta lại không thể lợi dụng y? Dương Hổ là đệ nhất hảo hán Bá Châu, Bá Nhan là tay kiêu hùng đại mạc mà ta còn có thể lợi dụng lòng tham của chúng để đùa bỡn chúng trong lòng bàn tay, chẳng lẽ ta lại không lợi dụng nổi Dương Lăng? Người có ưu điểm sẽ có nhược điểm! Y thích quyền, thích lợi, thích danh hay là thích sắc?"
Trương Dần cẩn thận suy tính các thông tin đã biết về Dương Lăng. Hắn khẽ gật gù: "Người này tuổi trẻ đã được quyền cao chức trọng, chắc chắn những điều y thích không ngoài quyền, sắc! Y có thể cõng vợ tìm thầy thuốc, kháng cự thánh chỉ, hiển nhiên là tính khí thiếu niên, hết lòng yêu mến phụ nữ, người như vậy lại không khó đối phó. Có lẽ ta có thể sắp đặt một tai mắt đáng tin cậy bên cạnh y. Cho dù không thể có ảnh hưởng đối với y thì cũng nhất định có thể giúp cho ta nắm giữ những việc cơ mật của triều đình."
Mặt không đổi sắc, Trương Dần ngẫm nghĩ: "Thạch lựu quần hà túy an miên, tỉnh thời do ức tiểu man yêu. (Rượu say ngủ dưới chân nàng, thức thời tưởng đến chiếc eo thon mềm). Hoàng đế có thể cho y quyền lợi, còn bản giáo lại có đầy mĩ cơ tuyệt sắc. Đối phó với tay quyền thần trẻ tuổi như vậy thì lấy sắc đẹp dụ dỗ làm nước cờ đầu là thỏa đáng nhất!"
Chương 213: Đụng độ quyết liệt
Quân Thát Đát lúc đến hùng hổ bao nhiêu thì lúc rời đi lại tàn tạ thê thảm bấy nhiêu. Quân của Bá Nhan bị thiệt hại nặng nhất, tổn thất quá nửa. Vốn Bá Nhan tưởng rằng Hỏa Sư sẽ làm ầm lên vì lúc hắn tấn công Đại Đồng không hề được ai tiếp ứng, nào ngờ chẳng những Hỏa Sư không một lời oán thán mà còn giúp Bá Nhan vận chuyển thương binh. Ngoài ra hắn còn chủ động cung cấp thịt chiến mã đông lạnh cho quân của Bá Nhan và những bộ lạc khác, lại tích cực đề nghị để quân bản bộ của mình đoạn hậu. Hàng loạt cư xử rất biết điều như vậy khiến Bá Nhan cảm thấy rất phiền muộn.
Chủ tướng Dương Nhất Thanh và phó tướng Vương Thủ Nhân đều nhất trí với nhau rằng tuy giặc Thát đại bại nhưng cũng không thể đuổi tận giết tuyệt. Tuy nhiên, thừa cơ phần lớn quân lính Thát Đát đều bị thương, lại không còn lương thảo dự trữ, nếu điều một đội quân hung hậu truy kích, khiến chúng phải gấp rút lui quân, không cho chúng thong dong thu binh, thì quân số của địch bị suy giảm do thương tật và đói khát sẽ gia tăng gấp bội.
Vì vậy Dương Nhất Thanh bèn phái vài đạo quân, di chuyển cách nhau vài dặm để dễ tiếp ứng lẫn nhau, truy đuổi theo tiêu diệt những đám tàn binh nhỏ. Nếu bắt gặp chủ lực quân Thát Đát thì các đạo quân này cùng tiến hành bao vây, khiến quân địch không thể không lặn lội hành quân trong tiết trời giá lạnh suốt ngày đêm gấp gáp rút về sa mạc. Dọc đường xác người chết đói rải rác khắp nơi, binh lính Thát Đát bị thương không được nghỉ ngơi chữa chạy cũng ngã lăn ra chết vô số.
Toàn thành Đại Đồng đầy hoan lạc. Hoặc thân sĩ nổi danh thết tiệc mời tướng lĩnh đóng quân, hoặc phủ Đại vương đãi tiệc khoản đãi các đạo viện quân, hoặc các tướng lĩnh tác chiến có công mời tiệc lẫn nhau, hoặc nhà dân tổ chức ăn mừng. Mọi quán rượu lớn nhỏ trong thành đều đông nghẹt tửu khách.
Tất cả những hoạt động chúc mừng này, đương nhiên mục tiêu hướng đến cuối cùng chính là đương kim hoàng đế. Nhưng lúc trở về thành, ở nha môn tuần phủ đón nhận Đại Vương và đám quan lại chúc mừng xong, tiểu hoàng đế liền lập tức quay trở lại dịch quán rồi đóng cửa không ra. Ngay cả Đại Vương tự mình đến mời dự tiệc cũng bị từ chối, thử hỏi còn ai có đủ tư cách mời Hoàng đế đến dự tiệc nữa?
Hoàng đế không đến, nhưng cũng phải khéo léo báo cho thiên tử biết lòng thành của mình chứ! Thế là ba vị "sủng thần trước mặt hoàng thượng" là Dương Lăng, Trương Vĩnh và Miêu Quỳ liền trở thành đại biểu của Hoàng đế, phải "đi sớm về muộn", uống đến khi mặt trắng như Tào Tháo cũng thành mặt đỏ như Quan Công mới có thể trở về.
Danh tiếng Dương Lăng trong quân đội không nhỏ, y lại không hề cậy thế khâm sai mà kiêu ngạo. Trên bàn tiệc lúc nào y cũng khiêm tốn lĩnh giáo bản lĩnh đánh trận và tìm hiểu quân tình Thát Đát. Nhờ thế đám tướng lĩnh tay nắm binh quyền nhưng văn hóa kém được cơ hội hiếm hoi thỏa mãn thói hư vinh trước mặt thượng quan, nên bọn họ lại càng có cảm tình với Dương Lăng.
Dương Lăng học hỏi được không ít kinh nghiệm từ các lão tướng cầm quân phòng thủ biên ải nhiều năm này. Nhất là việc trao đổi cũng giúp y hiểu rõ hơn phần nào về thái độ và tính tình của những vị tướng lĩnh tại đây. Tương lai khi nắm binh đánh dẹp sa mạc, ít ra y cũng hiểu được tướng lĩnh nào có thể dùng, tướng lĩnh nào không, như thế đã có lợi không ít.
Bấy giờ đã sẩm tối, Dương Lăng vừa mới vội vã trở về dịch quán. Hôm nay tổ chức thết tiệc đãi khách là ba vị tổng binh tam trấn do Đỗ Nhân Quốc cầm đầu. Lúc chiến tranh, bọn họ cùng đóng quân nơi quan ải tiền tuyến Đại Đồng. Nay Đại Đồng đã được giải vây, ít hôm nữa hai vị tổng binh sẽ phải trở về nơi trú đóng của mình, vì vậy cả ba cùng đứng tên thết tiệc khoản đãi các vị khâm sai tuần biên.
Bọn họ có ý muốn kết giao với vị Tổng đốc Nội xưởng, viên quan tâm phúc của Hoàng đế. Vì vậy ngay sau khi tan tiệc rượu, cả ba phái hơn trăm binh mã đưa y trở về dịch quán. Loại nghi lễ nghênh đón long trọng như thế này, trước kia cũng chỉ có Binh bộ thượng thư, lão tướng Lưu Đại Hạ mới được hưởng thụ.
Dương Lăng dừng trước phủ, khách sáo chào hỏi mấy câu với đội trưởng đội quân của ba vị Tổng binh xong rồi mới quay vào dịch quán. Qua khỏi cửa chính, y liền dồn bước tiến thẳng vào phòng sau. Vừa vén rèm cửa lên, mùi nhang thơm pha lẫn với mùi thuốc bắc nồng đậm xộc vào mũi, Dương Lăng khẽ nhíu mày bước vào. Y thấy Đường Nhất Tiên đang nằm trên giường, trên người đắp một chiếc chăn bông dày. Hai cung nữ được vương phủ tạm thời đưa đến phục dịch thấy y bước vào vội vàng quỳ xuống làm lễ:
- Xin ra mắt đại nhân!
Chính Đức vẫn cải trang làm hiệu úy, đang nhúng ướt một tấm khăn mặt, cẩn thận vắt sạch nước. Nhìn thấy Dương Lăng đi vào, hắn chần chừ một lúc rồi cũng khom người thi lễ:
- Xin ra mắt đại nhân!
Dương Lăng gật nhẹ đầu, hỏi:
- Hôm nay Nhất Tiên có đỡ hơn chút nào không?
- Ưm… Biểu ca tới rồi sao?
Hai má Đường Nhất Tiên nóng đỏ rực, nghe tiếng Dương Lăng nàng bèn mơ mơ màng màng ngồi dậy. Hai cung nữ vội vàng chạy đến nâng đỡ, khoác một tấm áo lên vai nàng.
Đang lóng ngóng định chườm khăn ướt lên trán nàng, Chính Đức thấy Đường Nhất Tiên đã ngồi dậy đành phải đặt khăn vào tay nàng. Đường Nhất Tiên cầm lấy khăn lau qua khuôn mặt rồi ngồi dựa vào đầu giường, vẻ mặt mệt mỏi khiến mọi người nhìn thấy đều đau lòng.
Nàng thở nặng nề vài hơi, trông thấy rõ sắc mặt Dương Lăng bèn hỏi:
- Hôm nay biểu ca lại uống… say ư? Đã không thích thù tạc thì anh không nên đi nữa.
Dương Lăng đưa mắt liếc nhìn Chính Đức. Lâu nay, khi xuất hiện trước mặt Đường Nhất Tiên hắn vẫn đóng vai hiệu úy nên Dương Lăng không thể mời hắn ngồi, y đành phải tự mình kéo ghế ngồi xuống, cười đáp:
- Đã là người ở trong giang hồ thì không thể theo ý mình được nữa. Có một số việc dù thích cũng không thể làm, lại có một số việc dù không thích cũng phải làm, không thể chỉ làm theo ý mình được.
Y rờ thử trán Đường Nhất Tiên, nhíu mày:
- Tại sao vẫn nóng hầm hập như vậy? Không phải đã mời danh y của phủ Đại vương tới chữa trị rồi sao?
Thừa cơ, Chính Đức bèn tố cáo:
- Cô ấy... cô ấy không chịu uống thuốc! Ti chức đã sắc ba lần rồi, còn bỏ đường vào nữa, nhưng cô ấy vẫn không chịu uống!
Đường Nhất Tiên lườm hắn, sẵng giọng:
- Lắm chuyện, ngươi còn lải nhải nhiều hơn cả ta. Còn không phải tại thuốc ngươi sắc quá đắng hay sao?
-…Tôi… !
Chính Đức đảo tròn mắt. Làm sao hắn dám thú thực chính hắn sắc ấm thuốc đầu cạn khô, hai lần sau đành phải nhờ người khác sắc hộ?
Dương Lăng cười nói:
- Thuốc đắng đã tật! Muội không chịu uống thuốc, cứ để sốt mãi như vậy thì chịu sao được?
Đường Nhất Tiên ngọt ngào cười đáp:
- Chỉ cảm mạo sơ sơ thôi, anh đừng lo! Chẳng qua em cảm thấy đầu hơi váng vất, hơi hơi chóng mặt mà thôi, không khác khi uống rượu là mấy; còn cả người đau nhức nữa. Em chỉ cần ngủ nhiều hơn một chút thì sẽ khỏe thôi.
Dương Lăng lắc đầu. Ngồi đây y nhận thấy mùi hương trầm càng lúc càng nồng, thậm chí ngột ngạt. Lúc này mới để ý trên bàn có một vòng Tạng hương, Dương Lăng buột miệng hỏi:
- Tại sao lại đốt nhang trong này?
Chính Đức ngượng ngập đáp:
- Cô nương Tiên Nhi chê phòng nồng mùi thuốc quá, nên ti chức mới đốt ít nhang xua bớt mùi thuốc.
Dương Lăng dở khóc dở cười, giải thích:
- Đừng có chuyện gì cũng chiều con bé như vậy! Tiên Nhi bị cảm lạnh, còn bị nặng như vậy, trong phòng phải để không khí trong lành thoáng đãng mới tốt. Không phải cứ ngửi mùi nhang nhiều là tốt cho sức khỏe đâu.
Đoạn y nhẹ nhàng nói với Đường Nhất Tiên:
- Tiên Nhi! Em mau nằm xuống nghỉ ngơi đi, không uống thuốc thì uống nhiều nước chút, bọn anh ra ngoài đây.
Rồi y quay lại dặn dò hai cô cung nữ:
- Hai vị cô nương, xin thu dọn chén thuốc và lư nhang giúp; mở rèm để không khí trong phòng được thông thoáng một tí. Sau đó hai cô đặt thêm hai lò than.
Nói chuyện một hồi cũng mỏi mệt, Đường Nhất Tiên liền nghe lời nằm xuống. Dương Lăng đưa mắt ra hiệu cho Chính Đức, hai người cùng rời khỏi phòng.
Vừa về tới thư phòng, Chính Đức xụ mặt, chán nản:
- Dương thị độc, Nhất Tiên cô nương rất yếu, mà cả ngày vẫn trách ta chẳng làm được chuyện gì ra hồn. Có phải thật sự trẫm quá ngu ngốc hay không? Ngoài danh vị hoàng đế này, trẫm chẳng có cái gì để khoe với nàng… Chà! Giá như nàng đối xử với trẫm chỉ bằng một nửa đối với người anh họ là khanh, không biết trẫm sẽ vui sướng biết nhường nào!
Dương Lăng bất ngờ, không khỏi lắc đầu cười đáp:
- Tuy Hoàng thượng có một hậu, hai phi nhưng xem ra vẫn không hiểu về tâm tư phụ nữ cho lắm. Nhất Tiên luôn đối xử rất khách sáo với các thuộc hạ khác của thần, chưa bao giờ ra vẻ đại tiểu thư, nhưng chỉ riêng đối với ngài… Ha ha, đối với một mình Hoàng hiệu úy ngài, nàng lại gọi đến quát đi; ốm đến mức không mở mắt ra được mà vẫn còn thích trò chuyện với ngài. Hoàng thượng không thấy lạ sao?
Ánh mắt Chính Đức sáng lên, hắn vỗ tay khen ngợi:
- Đúng rồi! Lời của Dương thị độc khiến trẫm vỡ lẽ. Đúng, đúng, đúng rồi! Trẫm còn cứ tưởng cô nương Tiên nhi rất ghét trẫm thật, nhưng trưa nay trẫm kể chuyện nữ hoàng hải tặc cho nàng nghe, nàng lại nghe rất say sưa, còn lôi kéo đòi ta kể mãi nữa. Ha ha ha…
Chính Đức cười ngây ngô một hồi, bỗng lại buồn bực:
- Đều tại hai tên Bá Nhan và Hỏa Sư chết tiệt, đã tấn công thành trì lại còn kéo quân vây núi. Bọn chúng hại cô nương Tiên nhi lo lắng ngóng trông trên lầu chờ chúng ta trở về thành, mới khiến nàng lâm bệnh. Hừ! Truy binh của Dương Nhất Thanh đã trở về chưa?
Dương Lăng đáp:
- Bẩm chưa! Nhưng lần truy kích này cũng chỉ làm cho ra vẻ mà thôi, nếu tiếp tục truy đuổi đến cùng thì vấn đề lương thảo sẽ rất khó khăn. Thần sẽ lưu ý để mấy ngày nữa rồi cho đại quân rút trở về thôi.
Chính Đức còn định nói tiếp thì Lưu Đại Bổng Chùy vội vã chạy ùa vào. Thấy Hoàng thượng và Dương Lăng đều ở đó, hắn vội vàng quỳ bẩm:
- Ti chức… thần ra mắt Hoàng thượng, ra mắt đại soái…
Chính Đức bật cười hỏi:
- Ngươi là thần gì?
Lưu Đại Bổng Chùy đỏ bừng mặt. Hắn gãi gãi đầu rồi ngây ngô cười nói:
- Dạ… Dạ.. Tiểu nhân ra mắt Hoàng thượng, ra mắt đại soái.
Bị hắn chọc cuời, Chính Đức vỗ vỗ bả vai hắn, bảo:
- Đứng lên đi! Không được xưng hô loạn như vậy nữa! Chịu khó đánh mấy trận thật giỏi cho trẫm, rồi sẽ có ngày ngươi được xưng thần với trẫm! Phải rồi, ngươi vào đây làm gì thế?
- A! - Lưu Đại Bổng Chùy vỗ đầu, vội đứng dậy gào to: - Có hai vị đại nhân từ kinh thành tới. Một người là Cốc Đại Dụng, người còn lại là Dương Phương, xin phép được gặp hoàng thượng!
- Cái gì?
Chính Đức và Dương Lăng đưa mắt nhìn nhau, đều hơi giật mình. Cốc Đại Dụng đến đây cũng không có gì bất ngờ lắm, nhưng Dương Phương… Chẳng lẽ bá quan trong kinh thành đều đã biết Hoàng thượng rời kinh?
Lấy lại bình tĩnh, Chính Đức nghĩ bụng lần này mình vi hành đến Đại Đồng, chính trị quân công đều thu hoạch lớn, đủ để kiêu ngạo với quần thần. Huống hồ chuyện này náo động đến mức cả thành đều biết, vốn không thể giấu được nữa, bọn họ biết sớm hay trễ một tí thì cũng vậy thôi.
Nghĩ vậy, Chính Đức thờ ơ hạ lệnh:
- Đi gọi bọn họ vào đây!
Chỉ một lát sau Cốc Đại Dụng và Dương Phương đã vội vã bước vào. Vừa trông thấy Chính Đức, cả hai vui mừng phủ phục xuống đất, khóc không thành tiếng:
- Thần (lão nô) tham kiến Hoàng thượng, Hoàng thượng bình an vô sự, thật đáng mừng. Dọc đường bọn thần nghe nói Bá Nhan điều quân bao vây núi Bạch Đăng, thực hoảng sợ đến hồn bay phách tán.
Chính Đức giang hai tay ra vẻ bất đắc dĩ, đoạn hắn đảo mắt, cười khổ rồi đáp với giọng châm chọc:
- Trẫm còn chưa thăng thiên đâu, các ngươi khóc cái gì chứ? Vả lại, khi các ngươi nghe chuyện trẫm bị Bá Nhan bao vây trên núi Bạch Đăng thì ắt hẳn đồng thời cũng nghe tin trẫm đại phá Thát Đát, khiến Bá Nhan chạy trối chết rồi chứ? Cứ hồn bay phách tán thế này, các ngươi có thể luyện đến nguyên thần xuất khiếu đấy.
Đang khóc lóc nỉ non thể hiện lòng trung thành nào ngờ lại bị Chính Đức châm chọc, cả hai nhất thời khóc không được mà cười cũng chẳng xong, cứ đờ người tại chỗ. Chính Đức ngồi xuống ghế dựa, vắt chéo chân vênh váo hỏi:
- Sao các ngươi lại tới đây? Do Thái hoàng Thái Hậu cùng Hoàng thái hậu bắt hay là ba Đại học sĩ kia ép các người tới đây?
Tuy trước đây Chính Đức hay làm loạn, nhưng dẫu sao hắn cũng đã được lễ nghi cung đình hun đúc dạy dỗ từ nhỏ, chưa từng có cái tật xấu đứng không ra đứng ngồi không ra ngồi thế này. Tật xấu hắn học được từ đám binh lính lúc giả làm hiệu úy khiến cho Dương Phương (vốn xuất thân từ phủ Chiêm Sĩ, phụ trách việc dạy dỗ thái tử từ nhỏ) trông thấy mà trợn mắt há hốc mồm.
Thấy lão vẫn cứ thô lố mắt không trả lời câu hỏi của Hoàng thượng, Cốc Đại Dụng liền trả lời thay:
- Hoàng thượng! Sau khi Hoàng thượng rời kinh, nội cung và ba vị Đại học sĩ đều muốn giấu diếm việc này, nhưng nhiều ngày liên tục Hoàng thượng không thiết triều khiến cho trong kinh bắt đầu xuất hiện nhiều lời đồn đại hoang đường.
Lúc đầu ba vị Đại học sĩ cũng không để ý tới, nhưng về sau lời đồn đại càng ngày càng nhiều, lại còn có người đồn rằng… À, đồn rằng Hoàng thượng tin lời thêu dệt phía Tây có nhiều mỹ nữ nên cải trang chạy đến Đại Đồng nhằm vơ vét mỹ nhân, bỏ bê việc triều chánh cùng giang sơn xã tắc. Ngay cả bá quan trong triều cũng đã bắt đầu hoang mang. Ba vị Đại học sĩ bèn xin chỉ thị của Thái hoàng Thái hậu phái lão nô và Dương đại nhân tới đây nghênh đón Hoàng thượng. Xin Hoàng thượng nhanh chóng hồi kinh nhằm ổn định lòng dân.
Chính Đức đứng phắt dậy, khuôn mặt tuấn tú đỏ bừng. Không nén được giận, hắn mắng lớn:
- Khốn kiếp! Trẫm đến Đại Đồng là để vơ vét mỹ nữ sao?
Vừa mới định thần lại sau khi chứng kiến tư thế ngồi vô lại của Chính Đức, chiêm sự Dương Phương còn chưa kịp mở miệng đã lại nghe thấy Chính Đức bồi thêm một câu thô tục như vậy khiến lão khiếp đảm đến nổi hồn vía lên mây.
Mắng xong, chợt Chính Đức nhớ đến Đường Nhất Tiên. Mặc dù bản thân mình vì chuyện quốc gia đại sự mới mạo hiểm đến chốn biên thùy đang xảy ra chiến trận quyết liệt này, nhưng còn tiểu mỹ nhân này… Chà! Thật ra lời đồn đãi cũng không phải hoàn toàn là bịa đặt. Nghĩ vậy, Chính Đức cũng hơi nhụt chí.
Nhíu mày suy nghĩ hồi lâu, đột nhiên Dương Lăng xen vào:
- Hai ngày trước Hoàng thượng mới khởi hành lên núi Bạch Đăng, lúc đó dân chúng Đại Đồng mới biết chuyện thiên tử tới đây. Tại sao khi Hoàng thượng mới rời kinh có mười ngày mà trong kinh đã bắt đầu xuất hiện lời đồn? Lời đồn này do kẻ nào tung ra? Lời đồn nửa thật nửa giả, không dễ để người ta phân trần, chắc chắn là do kẻ nào đó cố tình nhiễu loạn nhân tâm rồi!
Nghe y nhắc nhở, Chính Đức giật mình:
- Đúng vậy! Chuyện trẫm rời kinh đã sớm bị mật thám Di Lặc giáo dọ biết, chắc chắn là do bọn chúng tung tin đồn nhảm! Đại Dụng, trẫm đã ra lệnh cho ngươi điều tra Di Lặc giáo, có tiến triển gì mới không?
Cốc Đại Dụng vội vàng cung kính tâu:
- Bẩm Hoàng thượng! Lão nô phụng thánh chỉ, không dám chần chừ, lập tức ra lệnh đến khắp cả nước để thám mã Đông Xưởng điều tra khắp nơi tìm tàn dư của đám Di Lặc giáo. Ở Cam Túc, Thiểm Tây, Sơn Đông và kinh thành đều tra ra một ít phản nghịch gia nhập Bạch Liên giáo, đa số đều là hương thân địa chủ. Dường như Di Lặc giáo đã thay đổi cách thức thu hút giáo chúng, không còn chỉ nhằm dụ dỗ những người trong cảnh khốn khổ gia nhập nữa. Lão nô đang tìm hiểu nguồn gốc…
Không muốn nghe lão tiếp tục khoe khoang, Chính Đức không kiên nhẫn phất tay bảo:
- Trẫm biết rồi! Cứ tiếp tục điều tra, các ngươi hãy ở lại đây đã. Hai ngày nữa, trẫm sẽ theo các ngươi hồi kinh. Hiện giờ…
Hắn đảo mắt nói tiếp:
- Tướng Vương Hổ trấn thủ phía tây thành Đại Đồng, tướng Lý Nghĩa trấn thủ tại Cự Lỗ Môn đều là gian tế của Di Lặc giáo. Trẫm thấy bọn chúng không chỉ dụ dỗ đám hương thân địa chủ đâu mà đã bắt đầu nhắm vào đám quan binh rồi. Trẫm suýt nữa gặp nạn cũng chính là do đám nội gian này quấy phá. Trẫm thấy thành Đại Đồng này đã thối nát lắm rồi! Ngươi đến rất đúng lúc, trẫm ra lệnh cho ngươi toàn quyền phụ trách việc này, lùng bắt hết gian tế cho trẫm!
Phán xong, Chính Đức vội xoay người chuồn đi rất nhanh. Hắn chạy ra khỏi phòng rồi Dương Phương mới kịp bừng tỉnh. Lão cũng không biết người quan trọng nhất trong lòng Hoàng đế hiện nay chính là cô gái đang đau ốm nằm trên giường. Lúc này mà muốn hắn bỏ lại Đường Nhất Tiên để lên đường ngay lập tức hoặc để Đường Nhất Tiên chưa lành bệnh phải tròng trành ngựa xe về kinh, chắc chắn hắn không đời nào chấp nhận.
Ngẫm lại lời nói hành vi của Hoàng thượng vừa rồi không hề có phong độ đế vương, hơn nữa trong kinh thành lòng dân đang hoang mang mà hoàng thượng vẫn lưu luyến bên ngoài, kiếm cớ không chịu hồi kinh, Dương Phương giận dữ bừng bừng đổ hết trách nhiệm lên đầu Dương Lăng.
Lão đứng phắt dậy, trợn mắt, chỉa tay vào mắt Dương Lăng quát:
- Dương Lăng! Hoàng thượng bị ngươi dụ dỗ nên mới rời kinh phải không? Ngươi… Ngươi… Ngươi chẳng qua chỉ là một Đô Thống Nội Xưởng, bầy tôi của Hoàng thượng, lại dám cả gan xúi bẩy người đánh què chân ngựa của ba đại học sĩ!
Đẩy Hoàng Thượng vào tình thế nguy hiểm trên núi Bạch Đăng, mặc dù ngươi cũng không phải là tướng trấn thủ biên ải, nhưng người khởi xướng không phải ngươi thì là ai?!
Ngươi chỉ chăm chăm giúp Hoàng Thượng mua vui, xúi giục Hoàng Thượng lưu luyến bên ngoài, không để ý đến giang sơn xã tắc, không làm tròn bổn phận của thần tử, tội không thể tha!
Cố dằn cơn giận, Dương Lăng nhẫn nại giải thích:
- Dương đại nhân! Bản quan biết ngài có thành kiến với tôi, nhưng tội lỗi ngài vừa nêu, thứ cho bản quan không thể nhận. Hiện giờ tôi cũng không ngại nói cho ngài biết Hoàng thượng lên núi Bạch Đăng là vì muốn liên minh với Đóa Nhan Tam Vệ. Nhờ bọn họ kiềm chế Bá Nhan, chúng ta mới có thể chỉnh đốn binh lực, tích tụ lực lượng, tìm kiếm cơ hội ra tay giải quyết đại họa này…
Nghe vậy, Dương Phương cười lạnh, khịt mũi coi thường:
- Bọn man di phương Bắc lấy thảo nguyên sa mạc rộng lớn làm nhà, bọn họ về đến thảo nguyên giống như rồng về biển lớn. Hoàng đế Hồng Vũ hùng tài đại lược còn không diệt được Bắc Nguyên, hoàng đế Vĩnh Lạc năm lần xuất quân ra biên cương không diệt được Ngõa Lạt(1). Còn ngươi tuổi còn nhỏ, văn còn chưa từng thi đình, võ chưa từng lĩnh ấn cầm binh, chỉ là lộng thần giỏi a dua nịnh hót mà thôi! Nay ngươi dám xúi giục Hoàng Thượng vi hành phương Bắc, muốn học tên thái giám gian thần Vương Chấn(2) hay sao?
Dương Lăng đã nhịn lão không chỉ một hai lần, lần này rốt cuộc y không thể kiềm chế được nữa. Lửa giận ngùn ngụt vượt quá giới hạn, Dương Lăng bèn mượn hơi rượu, giận tím mặt đốp chát:
- Thôi đi! Côn trùng mùa hè sao biết gì về băng tuyết? Ông chỉ luôn mồm lấy chuyện xưa để xét việc nay, không hề có sáng kiến, chẳng qua chỉ là một lão hủ nho mà thôi. Đúng là thừa hơi tôi mới giải thích với ông.
Theo ý kiến của Dương đại nhân ngài thì ta chỉ cần ngồi đó xem giặc Thát Đát gây họa là được chứ gì?!
Dương Phương cả giận. Từ trước tới giờ Dương Lăng vẫn luôn ẩn nhẫn, cho dù lão chủ động gây hấn y cũng không bao giờ tiếp chiêu, không ngờ lúc này lại ngang ngược chống đối lại như vậy.
Nay hai người đã không nể mặt nhau, lão cũng chẳng cần kiêng dè gì nữa, lên giọng trách mắng:
- Ngươi có bản lĩnh gì mà dám mạnh miệng nói vậy? Liên minh với Đóa Nhan Tam Vệ gì chứ? Ngu xuẩn!
Trên đường tới đây, bản quan đã nghe tin ngươi xúi bẩy Hoàng Thượng phong một gã chỉ huy nho nhỏ của Đóa Nhan Tam Vệ làm Khả Hãn, ngươi để thể diện triều đình ở đâu? Ngươi còn ra sức mở chợ buôn nơi biên ải! Hừ! Người Man có cái gì? Ngoài ngựa ra, toàn là áo lông cáo, nhân sâm,... Toàn là những thứ đắt đỏ, nào phải là những vật dụng quan trọng cần cho phát triển đất nước? Có chợ buôn qua bán lại như vậy rồi thì chẳng lẽ ngươi định dùng thương mãi để làm giàu cho đất nước hay sao? Chỗ bạc bị tiêu phí ấy, thà để bổ sung quân lương, cho đại quân ta khống chế Thát Đát, giương cao uy vũ quân ta, khiến cho bọn chúng không dám tới xâm phạm bờ cõi còn hơn!
- Vớ vẩn, lý luận suông! Không thực tế, ánh mắt thiển cận! - Không hề nể mặt lão thần, Dương Lăng mỉa mai đáp trả - Ngài nói bạc ư? Đó là tài sản của những con dân Đại Minh giàu có của ta. Họ không bỏ ra chi tiêu, chẳng lẽ ngài lại đến cướp để tăng thêm quân lương?
Bọn họ có nhu cầu, dù ngài không mở chợ, bọn họ cũng sẽ mua bán với giá cao. Mở rộng thông thương, một là để bày tỏ thiện ý với Ngột Lương Cáp, tăng cường liên minh; hai là do bọn họ ngoài thiên tài địa bảo ra, không biết tự sản xuất gì nhiều. Bạc kiếm được vào tay, chủ yếu bọn chúng lại dùng để mua đồ dân dụng của Trung Nguyên ta; những nông dân bình thường, chủ những xưởng nhỏ có thể thu được món lãi từ đó. Đây chẳng qua chỉ là mượn tay quân Đóa Nhan đem mớ bạc sắp mốc meo trong hầm chứa của những hương thân địa chủ rót vào tay dân chúng mà thôi.
Cốc Đại Dụng thấy hai người thi nhau nổi điên, nhất thời không chen miệng vào được chỉ đành ngẩn người đứng một bên.
- Gì?
Dương Phương hơi bất ngờ. Tuy lão thẹn quá hóa giận, nhưng đúng là loại buôn bán sản xuất thấp hèn này thì quả thật lão chưa từng đặt chân vào nên cũng chẳng biết phải đối đáp như thế nào, chỉ đành trợn mắt há hốc mồm.
Dương Lăng mượn hơi rượu, hăng hái dấn tới:
- Xuất binh, xuất binh! Còn cần bao nhiêu binh nữa? Ông chỉ nhìn thấy nhiều tiền trước mắt, nhưng mà số bạc đó không trực tiếp ném thẳng vào túi tiền Đại Minh ta. Ông có biết muốn xuất binh cần phải tốn biết bao nhiêu tiền bạc hay không? Không đủ hai mươi vạn kỵ binh mà hòng tiêu diệt được đám thiết kỵ Thát Đát lẩn trốn khắp thảo nguyên hay sao?
Ngựa từ đâu ra? Mất bao nhiêu bạc mới mua được? Chỉ cần mười vạn kỵ binh tiến vào đại mạc, đội quân vận chuyển lương thảo quân nhu cũng phải đến ba mươi vạn người. Vừa đi vừa ăn, ba mươi thạch (120 cân gọi là một thạch) lương thực vận chuyển đến nơi chỉ còn lại khoảng một thạch, cái động không đáy này Đại Minh lấp nổi được sao? Nay có thể khiến Thát Đát nội loạn, Đại Minh ta có thể bốn lạng bạt thiên cân, tọa sơn quan hổ đấu. Việc tốt như vậy cớ sao lại không làm?
- Hả?
Dương Phương cứng họng, lời đầy bụng mà không thể nói ra nổi. Nếu bảo giảng sách thánh hiền thì lão có thể giảng thao thao bất tuyệt ba ngày ba đêm không hề trùng lắp, nhưng mà quân sự…
Dương Lăng phất tay áo:
- Bản quan vừa mới dự tiệc tiễn biệt hai vị tổng binh đại nhân sắp phải quay về nơi trú đóng, tửu lượng yếu kém nên không thể phụng bồi. Lão Lưu, tiễn khách!
- Dạ!
Đang đứng gác bên ngoài dỏng tai say sưa nghe đại soái mắng người, chợt nghe sai bảo Lưu Đại Bổng Chùy liền vội chạy ào vào, hô lớn:
- Tuân lệnh dụ của đại soái, cung tiễn đại nhân!
- Ngươi... nhà ngươi...!
Chòm râu bạc của Dương Phương vểnh ngược, lời mắng chửi nho nhã còn chưa kịp thốt ra khỏi miệng, Lưu Đại Bổng Chùy đã xốc nách "dìu" lão ra ngoài.
* * *
Dương Lăng và Trương Vĩnh theo hầu thánh giá, công lao lần này cũng không thể thiếu phần hai vị khâm sai đại thần. Miêu Quỳ lại có công dẫn năm ngàn binh tung hoành đại mạc, vào sinh ra tử. Hôm nay thấy về phương diện tình cảm tuy Hoàng thượng đối đãi với Miêu Quỳ không bằng mình, nhưng rõ ràng Hoàng thượng cũng rất coi trọng tài năng của lão. Nếu mình đến Đại Đồng mà không dốc sức một phen thì khác nào làm xấu mặt tấm mãng bào ngự ban đang khoác trên người đây?
Cốc Đại Dụng chấn chỉnh tinh thần, tức tốc ra tay điều tra án phản nghịch ở Đại Đồng ngay lập tức. Từng buôn bán với Vương Long ư? Bắt hết cả lại! Không nhận tội ư? Đánh đến chết mới thôi! Từng uống rượu hay đi nhà thổ cùng Vương Hổ ư? Bắt cả lại!
Người tiến cử Lý Nghĩa chính là Chu Tử Nghĩa, phó tướng trấn thủ biên ải Đại Đồng. Nay lão đã gần bảy mươi, là người hào sảng, có nhiều bạn thân trong quân doanh. Lý Nghĩa văn võ song toàn, làu thông binh thư, ở giữa đám tướng lĩnh biên ải không biết chữ chẳng khác nào hạc trong bầy gà. Vốn Chu Tử Nghĩa còn tưởng rằng mình có mắt nhìn người, đã tiến cử lên triều đình được một thiếu niên hiền tài, rốt cuộc bị liên lụy phải lê xích vào tù; cả nhà cũng mang tội phản nghịch, bị giam vào ngục chờ xét xử. Những quan viên có quan hệ mật thiết với lão, cùng những tướng lãnh từng được lão tiến cử đều bị điều tra.
Tuyên phủ Lý gia ham lợi nhỏ, nhận của đút ghi tên Lý Nghĩa vào gia phả giúp hắn thuận lợi lẫn vào trong quân, cũng bị sai nha bắt trói, trị tội cả nhà.
Cốc Đại Dụng lại tiếp tục dùng phương cách sưu tra dây mơ rễ má, chẳng những các tướng lĩnh là bạn thân của phạm nhân đều lần lượt bị nhốt vào ngục đợi điều tra, mà bạn thân của bạn thân họ cũng bị cách chức điều tra. Yến tiệc mừng công ở Đại Đồng còn chưa ngơi thì cuộc điều tra rầm rộ diễn ra, một loạt quan lại bị thanh trừng, bắt bớ.
Lập tức lòng dân chấn động, người người cảm thấy bất an, rất nhiều tướng lãnh vốn chẳng hề quen biết hai người này, cũng vẫn bị liên lụy. Dương Nhất Thanh biết rõ cuộc điều tra này thật sự quá phóng đại, nhưng tuy rằng ông được lời của Hoàng Thượng bảo vệ cho, nhưng tội lỗi vẫn còn đấy không bỏ được, đâu còn mặt mũi nào đi nói giúp người khác. Huống hồ Cốc Đại Dụng cũng chẳng nợ nần gì ông ta.
Những thập trưởng và bả tổng thủ hạ của những tướng lĩnh bị cách chức hoặc hoán chuyển này có ai không phải là hảo huynh đệ từng vào sinh ra tử với bậc chỉ huy? Mặc dù bọn họ không dám công khai thể hiện sự bất mãn, nhưng tỏ ra tiêu cực đình công tập thể thì vẫn được. Thế nên tinh thần toàn quân thấp đến mức thảm hại.
Tướng lĩnh mới có thể được đề bạt ngay tại chỗ, có khi là đổi cho nhau; đổi nhanh đến nổi quân còn chưa kịp quen mặt tướng. Quan tướng cũ bị cách chức đột ngột, rất nhiều sự việc không kịp bàn giao nên mọi việc đều bị bê trễ. Người được đề bạt tại chỗ thì lại bổ nhiệm người của mình, gây khó dễ với đồng liêu từng có hiềm khích khiến cho tiếng oán than vang dội.
Hiệu suất chỉnh người của Cốc Đại Dụng thật sự rất cao. Chỉ sau ba ngày, từ hai nhóm lãnh đạo quân sự, chính trị của Đại Đồng lão đã đào ra được rất nhiều “giáo đồ Di Lặc giáo”. Ngày điều tra đầu tiên, Dương Lăng còn chưa để ý. Đến ngày thứ ba, nhận được nhiều tình báo do tai mắt đưa tới, y mới hoảng hốt.
Cùng lúc đó, những tướng lĩnh trong quân doanh quen biết với y trong mấy ngày qua cũng đều lần lượt tới cầu xin y biện hộ cứu giúp, lúc này Dương Lăng mới cảm thấy tình hình không ổn. Các tướng lĩnh đều bị liên lụy, cứ thà giết nhầm còn hơn bỏ sót thế này chắc chắn nguyên khí đại quân bị tổn thương nặng nề.
Y nhanh chóng đi tìm Cốc Đại Dụng trịnh trọng đề xuất việc này. Ngoài miệng Cốc Đại Dụng khách sáo đồng ý với y, nhưng trong lòng lại cho rằng Dương Lăng sợ công lao của chính mình vượt qua y, thế là lão càng làm mạnh tay hơn.
Ngày hôm sau, Dương Lăng thấy lão vẫn tiếp tục việc thanh trừng. Thậm chí trong đám tướng lĩnh truy kích Bá Nhan chưa thu quân cũng có người bị lão phái bộ hạ phi ngựa đến áp tải trở về, y không khỏi nổi giận. Lúc này đại quân Bá Nhan đã lui, việc Cốc Đại Dụng tùy ý làm bậy mặc dù không đến mức gây nên mối tai họa cực lớn nhưng nếu để dẫn đến binh biến cũng gây nhiễu loạn không nhỏ.
Đến thời điểm này, dù có bất hòa với Cốc Đại Dụng cũng đành chịu, Dương Lăng lập tức đi gặp hoàng đế Chính Đức tâu báo mọi việc. Vốn Chính Đức cho rằng Cốc Đại Dụng đang tận tụy làm việc, nào ngờ lão lại gây ra hậu quả nặng nề như vậy. Nghe xong, hắn mới cảm thấy tình thế quá nghiêm trọng, vội vàng đồng ý lập tức hạ lệnh cho Cốc Đại Dụng ngừng việc bắt bớ, những ai không có bằng chứng rõ rệt đều được thả, quan viên được khôi phục chức cũ.
Lúc này Dương Lăng mới thấy yên tâm. Vừa về đến thư phòng y đã thấy Ngũ Hán Siêu cầm một tấm thiệp mời bước vào. Nhiều ngày nay đại quân bị thanh trừng quyết liệt, các tướng lĩnh đều cảm thấy bất an nên không ai mời dự yến tiệc nữa. Dương Lăng hơi tò mò, buột miệng hỏi:
- Ai mời vậy?
Ngũ Hán Siêu đáp:
- Bẩm đại nhân, là thiếp mời của chỉ huy sứ Thái Nguyên vệ Trương Dần, mời đại nhân xem qua!
Vừa mở thiếp ra xem, Dương Lăng đã tròn xoe hai mắt. Trên tấm thiệp chỉ có vài dòng chữ ít ỏi, do Chỉ huy sứ Thái Nguyên vệ Trương Dần làm chủ, mời y đêm đó tới dự tiệc mà thôi. Nhưng danh sách quan viên tiếp khách lại dài giống như tấu chương đám quan văn trong kinh dâng lên cho hoàng đế, vừa thối lại vừa dài. Trên danh sách kia, dường như đã bao gồm toàn bộ đám quan viên trước mắt còn chưa bị bắt giam chờ tra hỏi, quan lớn quan bé khoảng chừng hơn một trăm người.
Trương Dần là tướng lĩnh từ Thái Nguyên điều đến, gian tế xuất hiện trong quân doanh Đại Đồng không liên quan gì đến hắn. Hơn nữa hắn còn đem binh tới cứu, ở ngoài cửa Cự Lỗ bắn chết hơn ba ngàn quân Thát Đát, lập được đại công, bất kể thế nào thì việc gian tế thông đồng với địch cũng không ảnh hưởng đến hắn. Cho nên hiện tại trong đám tướng lĩnh ở Đại Đồng, danh phận của hắn vô cùng cao vời. Đây cũng là lý do tướng lĩnh trong biên quân nhờ hắn ra mặt mời Dương Lăng, lấy cớ hắn sắp rời khỏi Đại Đồng.
Dương Lăng khẽ vuốt danh sách, cười khổ trong lòng: “Cốc Đại Dụng sốt ruột lập công khiến quan binh trong thành Đại Đồng người người đều như chim sợ cành cong. Chỉ cần nhìn vào danh sách này há lại không biết yến tiệc đêm nay có dụng ý gì sao?”
Dương Lăng thầm than rồi quay sang bảo Ngũ Hán Siêu:
- Ra cổng trả lời với người nhà của Trương đại nhân rằng bản quan nhất định sẽ tới dự tiệc đêm nay!
(1) Bộ tộc Ngoã Lạt (thời Minh chỉ các bộ tộc ở Tây Mông Cổ, bao gồm phía bắc Tân Cương, Trung Quốc và phía Tây nước Mông Cổ ngày nay)
(2) Vương Chấn (?-1449) là hoạn quan, đại thần nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông đã thao túng chính trường nhà Minh trong những năm đầu thời Minh Anh Tông và được coi là người chịu trách nhiệm trong sự biến Thổ Mộc bảo khiến vua Minh Anh Tông bị bộ tộc Ngõa Thích bắt làm tù binh.
Chương 214: Đêm Khuya Văng Vẳng Tiếng Gió Mưa (phần 1)
Trương Dần ngồi thẳng lưng, mặt đăm chiêu. Dưới ánh đèn bàn, khuôn mặt góc cạnh của hắn nửa mờ nửa tỏ, ánh mắt hơi lập loè sau ánh nến. Đứng bên cạnh bàn là người áo xanh từng xuất hiện trên "Thái Bạch Cư" đang bận trang phục Trung quân.
Mãi một lúc sau, gả áo xanh chợt mở miệng:
- Giáo chủ liệu tính như thần, chẳng những không bị liên đới mà còn lập được công to, càng có vốn liếng để làm quan trong triều đình. Có điều... nay Cốc Đại Dụng truy lùng gắt gao, mấy tay thân hào mà bản giáo đang phát triển đều bị bắt cả rồi.
May là bọn họ tuy truy cầu trường sinh bất lão nhưng lại không bứt thiết một lòng nhập giáo, cho nên người của bản giáo chưa từng biểu lộ nhân thân thực sự với bọn họ. Bằng không dưới nhục hình tra khảo của Đông xưởng, những mật thám do bản giáo cực khổ sắp đặt khó tránh sẽ bị moi ra hết.
Trương Dần cười lớn, giọng đầy đắc ý:
- Vậy thì đã sao? Tranh giang sơn, đoạt thiên hạ làm sao tránh được hy sinh? Nếu khởi binh tạo phản, chúng ta sẽ phải tổn thất bao nhiêu nhân mã mới có thể xử lý được bấy nhiêu tướng lĩnh? Bại lộ một hai tay nằm vùng mà có thể khiến cho triều đình tự hủy đi trường thành của bọn chúng, đáng giá lắm chứ!
Như nay Cốc Đại Dụng gần như hốt sạch tướng lĩnh đóng quân tại Đại Đồng. Nếu không nhờ lão ta nhiệt tình xử án như vậy, ta thật muốn tặng mấy người đã được thu nạp vào giáo cho hắn để khuấy cho đục thêm, khiến cho cả Đại Đồng loạn đến long trời lở đất.
Nói xong hắn thu lại nụ cười, thở dài tiếc hận:
- Do thời thế, do số mệnh cả! Tiếc là lão ta tới quá muộn. Nếu lão có thể chạy tới Đại Đồng khi Bá Nhan còn đang bày binh bố trận ở ngoài thành, rồi làm thành một tuồng hay như vậy, khi ấy lòng quân tan tác, nhuệ khí sĩ tốt sụt giảm, vị tất Bá Nhan đã thua.
Gã "Quan trung quân" ngạc nhiên hỏi:
- Nếu đã vậy, vì sao giáo chủ còn đồng ý với mấy tay tướng lĩnh Đại Đồng ra mặt hộ bọn họ mà bày rượu đãi tiệc, nhờ vả Dương Lăng ngăn trở việc này? Cứ để lão họ Cốc tiếp tục gây loạn khiến tướng lĩnh Đại Đồng càng oán hận triều đình hơn nữa, há chẳng càng có lợi cho bản giáo ư?
Trương Dần mỉm cười đáp:
- Không thể được! Ngươi cho rằng Dương Lăng sẽ ngồi yên nhìn Cốc Đại Dụng tiếp tục làm xằng, gây họa như vậy à? Nếu như ta đoán không lầm, dăm ba ngày nữa y sẽ ra mặt ngăn cản việc này. Huống hồ cho dù ta không ra mặt thì Dương Nhất Thanh, Vương Thủ Nhân hoặc Đỗ Nhân Quốc, những tướng lĩnh có quan hệ mật thiết với y, cũng bị bức bách phải chạy đến gõ cửa cậy nhờ y thôi. Thay vì đợi đến lúc đó mới thêu hoa trên gấm, sao bằng ta đưa than sưởi ấm ngay lúc này?
Trương Dần nói xong lại hỏi:
- Đại pháp sư, Nghĩa nhi đã rời khỏi đây chưa? Đi đường an toàn chứ?
“Quan Trung quân” vội đáp:
- Giáo chủ yên tâm! Người của Bá Nhan vừa tiến vào quan ải, nhị công tử và giáo chúng bản giáo ngụy trang làm hoà thượng Ngũ Đài Sơn đã chia nhau trốn khỏi rồi. Nhị công tử đồ gọn xe nhẹ, thay dung đổi mạo, đã chạy thẳng đến Giang Nam. Lúc quân đội phát lệnh truy nã thì công tử đã sớm ở ngoài trăm dặm.
- Vậy thì tốt! - Gò má Trương Dần hơi giần giật, chợt hắn lắc đầu cười khổ - Nghe nói thằng nhỏ Tử Hào phải lòng tiểu thư nhà họ Liễu. Nếu nó vẫn còn ở lại đây, biết được ta sai phái Liễu cô nương hiến thân cho Dương Lăng, nhất định nó sẽ gây rắc rối với ta.
Tử Hào là tên tự của Lý Đại Nghĩa, đại pháp sư áo xanh là nghiệp sư của hắn, cho nên tình cảm có phần sâu đậm. Nghe vậy, trong mắt liền thoáng hiện lên vẻ không đành lòng, hắn khẽ thưa:
- Nay Liễu Quang là quan viên khá quan trọng duy nhất của bản giáo ở Đại Đồng. Chẳng qua lão ta chỉ là một quan Chiếu Ma nho nhỏ của sở Chiếu Ma, không liên quan đến quân sự. Lão bị dính líu do có người tố cáo, khai nhận lúc Nhị thiếu chủ còn giữ chức Phó Thiên hộ đã từng đến nhà lão viếng thăm mà thôi.
Nhà họ Liễu có cô con gái dung mạo xuất chúng nên quanh vùng có rất nhiều thanh niên anh tuấn tài giỏi tới nhà viếng thăm, quan phủ cũng không thể vịn vào cớ đó mà phán Liễu Quang là người trong bản giáo được. Nếu chắc chắn Dương Lăng sắp nhúng tay ngăn trở, như vậy chẳng mấy hôm nữa Liễu Quang sẽ được thả ra, sẽ có thể tiếp tục ở lại Đại Đồng dốc sức cho bản giáo. Nhị thiếu chủ có cảm tình với đứa con gái Liễu Phi Vũ của lão ấy, nếu giáo chủ làm như vậy, sau này nhị thiếu chủ biết được, khó tránh sẽ ôm lòng oán hận. Giáo chủ có thể tìm một thánh nữ khác dâng hiến cho Dương Lăng được không?
Trương Dần đưa ánh mắt sắc bén quét ngang qua khuôn mặt của đại pháp sư khiến hắn khẽ rùng mình. Trương Dần lạnh lùng bảo:
- Sắc đẹp yêu kiều là mồ chôn anh hùng. Nghiệp lớn của bản giáo chưa thành, há có thể lưu luyến tư tình nhi nữ? Nó có bao nhiêu đàn bà con gái đi chăng nữa, miễn là chỉ chơi bời qua đường thì ta đều không quan tâm, song nặng tình như vậy chính là đại kị!
Ánh mắt Trương Dần lập loè, hắn chậm rãi nói tiếp:
- Cốc Đại Dụng và Dương Phương đã đến đây, chắc hẳn chỉ dăm bữa nữa Hoàng đế sẽ phải hồi kinh. Hiện ta cũng không còn đủ thời gian tìm một đứa con gái khác có tư sắc và danh phận thích hợp để chậm rãi mà hành động nữa. Phu nhân của Dương Lăng xuất thân thợ săn, hai ả thiếp thất lại là thanh quan được chuộc về từ kỹ viện. Phi Vũ tốt xấu gì cũng là con gái nhà quan lại, nhân thân có không tôn quý thì vẫn hơn ba ả đó gấp mười lần. Chỉ cần chiếm được lòng yêu mến của Dương Lăng, không lo Phi Vũ không giành được sự sủng ái riêng của y.
Vả lại, Dương Lăng là do ta mời. Tuy rằng biên tái chinh chiến quanh năm, rượu chè, gái gú đã quen thành nếp, nhưng nếu để cho y hợp hoan cùng gái tân trong cơn mê, sáng mai tỉnh lại ắt sẽ nghi ngờ. Với nhân thân hiện tại của cô nương nhà họ Liễu, nếu lấy lý do là vì muốn cứu phụ thân khỏi chốn ngục tù nên đút lót tú bà để lấy thân chuộc mạng cho cha, ấy là hiếu nữ do tình thế ép buộc phải làm như thế. Lý do có thể chấp nhận được, lúc đó Dương Lăng mới sẽ không nghi ngờ chúng ta. Hơn nữa có làm như vậy thì toàn bộ chuyện này mới hoàn toàn không can hệ gì với ta. Cho dù Liễu cô nương ngày sau bị lộ đi chăng nữa, với công lao của ta và sự bảo hộ của Vũ Định Hầu, không có chứng cứ xác thực y sẽ không thể động được vào ta.
Đại pháp sư thở dài, nín lặng. Trương Dần giả như không nghe thấy, trầm ngâm một hồi lâu rồi chợt nhướng mày hỏi:
- Ngươi đã thu xếp ổn thỏa cho cô nương nhà họ Liễu rồi chứ?
Đại pháp sư cung kính đáp:
- Dạ rồi! Đệ tử đã sai người truyền đạt ý chỉ của giáo chủ cho cô ta. Có điều..., - đại pháp sư hơi thoáng chần chừ rồi nói tiếp, - Dù sao thì cô ta cũng là một thiếu nữ khuê các, muốn cô ta tự mình tình nguyện chung giường với một gã đàn ông xa lạ…, thật sự là làm khó cho cô ta. Theo hồi báo của người của chúng ta, tuy bị giáo lệnh ép buộc nên không dám kháng cự, song vẻ mặt cô ta có phần khác thường.
Trương Dần cười nhạt, vung tay áo bảo:
- Hừ! Hiến thân cho thánh giáo có gì mà phải do dự? Căn dặn người tiếp ứng tùy cơ mà hành sự, nếu ả không đồng ý thì bỏ thuốc vào trà của ả, đến lúc đó ván đã đóng thành thuyền, ta xem ả còn phản kháng thế nào!
Đại pháp sư kinh hãi can ngăn:
- Giáo chủ! Do thời gian gấp gáp nên không thể để cô ả và Dương Lăng gặp gỡ một cách tự nhiên, nay cưỡng ép cô ả đã rất không ổn, nếu lại bỏ thuốc vào sẽ càng khiến cô ả vì chuyện này mà sinh lòng oán hận. Đệ tử sợ rằng cho dù cô ả được gả vào nhà họ Dương đi nữa, e cũng sẽ không chịu hết lòng làm việc cho thánh giáo. Vậy há chẳng phải...?
- Ồ...
Trương Dần nghe xong bèn vuốt râu gật gù, cho rằng rất phải. Yên lặng trầm tư một chốc sau, mắt vụt loé lên vẻ ác độc, hắn hỏi:
- Cha của ả, Liễu Quang, hiện đang bị nhốt ở chỗ nào?
Tuy là tâm phúc của hắn song Đại pháp sư cũng không rõ ý tứ của Giáo chủ, bèn vội đáp:
- Phiên tử do Đông xưởng điều đến nơi này không nhiều, quan viên bị bắt lại nhốt chật lao ngục, tra khảo không xiết. Còn loại tiểu nhân vật như Liễu Quang thì bị nhốt trong đại lao của nha phủ, sai năm sáu phiên tử chỉ huy đám ngục tốt tra khảo.
Trương Dần cười thâm trầm hỏi tiếp:
- Trong đại lao của nha phủ có người của chúng ta không?
Đại pháp sư nghi hoặc đáp:
- Đại lao... nha phủ có mấy tên ngục tốt nho nhỏ đã được bản giáo thu nạp làm tín đồ, có điều chức vị thấp hèn, bình thường cũng không dùng được vào việc gì.
Trương Dần bật cười ha hả:
- Bình thường không dùng được vào việc gì, vậy bây giờ sẽ dùng chúng vào việc. Bảo bọn chúng ra tay giải quyết Liễu Quang. Một khi Liễu Quang chết trong tay quan phủ, ngươi còn lo Liễu Phi Vũ không tận tâm tận lực làm việc cho bản giáo hay sao?
Lúc này đại pháp sư mới hiểu rõ dụng ý của Giáo chủ. Đón lấy ánh mắt như ngọn lửa dữ dội của Trương Dần, lòng hắn không khỏi rét lạnh, liền vội hoảng sợ vâng dạ, không dám nói thêm câu gì.
Để mê hoặc dân chúng, giáo phái Bạch Liên không từ bất kỳ một thủ đoạn nào: tà thuật, bùa chú, kỳ tích, thầy mo, cầu tài, cầu tiên, đủ loại thủ đoạn. Để khống chế tín đồ, ban đầu phần lớn kỹ thuật được bọn chúng sử dụng là hù dọa dân đen về nghiệp chướng gì gì đó để dọa dẫm và đe nẹt. Song bây giờ đã bắt đầu vươn vòi đến tầng lớp trung thượng, thủ đoạn mỹ sắc cũng được bọn chúng sử dụng ngày một nhiều hơn.
Di Lặc giáo khổ tâm gầy dựng lâu năm. Mỗi khi có thiên tai, nhân họa khiến xuất hiện dân chạy nạn, bọn chúng đều tuyển chọn và thu nạp nam nữ thiếu niên đang chạy loạn gia nhập vào giáo phái, ra sức bồi dưỡng, còn tạo vỏ bọc chính đáng cho chúng. Những đứa trẻ này lớn lên đều hết sức trung thành với Di Lặc giáo. Nam thì tham gia vào mọi ngành mọi nghề, bán mạng cho giáo chủ, nữ thì dùng ra những cô gái có nhan sắc xuất chúng để quyến rũ thân hào địa chủ, rồi sau đó khống chế bọn họ.
Cách làm của Trương Dần tuy chậm chạm, phải mất mấy mươi năm mới có thể thấy hiệu quả, nhưng lại rất vững chắc. So với cách ban phát chút ơn huệ rồi lợi dụng thiên tai để lừa gạt dân chạy nạn tạo phản của bọn phản tặc Đường Tái Nhi và Từ Hồng Nho của Bạch Liên giáo năm xưa, thì thế lực ngầm mà phương pháp này đem đến lại lợi hại hơn gấp nhiều lần, và càng khiến quan phủ khó diệt trừ hơn.
Nếu không phải do Dương Lăng sắp phải hồi kinh khiến hắn không kịp điều những nữ pháp sư, tiên cơ hay thánh nữ được huấn luyện tự nhỏ chuyên dùng để mê hoặc đàn ông, thì hắn cũng sẽ không cần trưng dụng đến nữ tín đồ vẫn còn lòng tự trọng và không đáng quá tin cậy như Liễu Phi Vũ.
Thấy tâm phúc của mình cũng hơi lộ vẻ bất nhẫn và chùn lòng, Trương Dần mở miệng định an ủi nhưng không biết phải nói gì, bèn khoát tay bảo hắn lui xuống truyền lệnh. Hắn vừa đi khuất, Trương Dần mới uể oải ngả lưng ra sau, dựa người vào tấm tựa lưng ấm áp bằng vải nhung lạc đà, nhắm mắt thở dài.
Hắn nào muốn khiến con mình sinh lòng phẫn uất, nào muốn khiến cho tín đồ tâm phúc theo mình lâu năm sinh lòng cảnh giác và dè chừng! Nhưng không ngồi ở vị trí của hắn, bọn họ làm sao biết được vị giáo chủ trông như thần thông quảng đại không gì không thể làm mấy năm qua đã phải dốc hết tâm huyết, trút cạn tinh lực ra sao, chịu phải biết bao áp lực nặng nề như thế nào?
Lúc Bạch Liên giáo bị tan rã, cha hắn bị người phe mình chém đầu, cậu thì bị quan phủ thiêu sống, toàn bộ anh em và vợ con đều bị xử trảm. Bao lần gặp phải trắc trở, thất bại, bao lần bị đàn áp đẫm máu, lòng hắn đã sớm trở nên sắt đá.
Là quân tử thì không câu nệ tiểu tiết, không tàn nhẫn thì không phải là trượng phu (“Lượng tiểu phi quân tử, vô độc bất trượng phu”). Công việc mình làm nguy hiểm mất mạng như chơi, sao mình có thể không cẩn thận từng li từng tí như đang đi trên lớp băng mỏng chứ? Cứ lòng dạ đàn bà thì sao có thể làm được việc lớn? Khổ tâm gầy dựng lâu năm, nay thế lực đã phát triển lớn đến như vậy, cho dù cả đời mình không thể thay đổi triều đại, mình tin rằng triều đình cũng không thể thanh trừ hết giáo chúng trung thành của mình rải khắp từ nam ra bắc. Rốt cuộc sẽ có một ngày con cháu mình có thể trở thành hoàng đế, thiên hạ rồi sẽ trở thành thiên hạ của nhà họ Lý. Vì ngày đó, cho dù có phải thí bỏ nhiều mạng người hơn nữa mình cũng sẽ không nuối tiếc; huống chi chỉ là một ả đàn bà thì có xá gì?
Nghĩ đến đây, một nụ cười ác độc thoáng hiện bên khóe mép Trương Dần. Hắn ngồi thẳng lưng lại, ánh mắt khôi phục vẻ tinh khôn, lãnh đạm, chỉ còn sự đam mê quyền lực cháy bỏng. Hắn nhất định phải phấn chấn tinh thần. Nhờ Cốc Đại Dụng, đêm nay hắn sẽ chiếm được lòng hàm ơn của hơn trăm vị quan viên lớn nhỏ, đồng thời sắp đặt được một nữ thần báo tin bên cạnh kẻ bầy tôi được tin yêu nhất của hoàng thượng.
Hắn chợt mỉm cười, một nụ cười vui sướng: trước kia mình thật ngốc xiết bao, tại sao lại tìm cách giết y chứ? Chỉ cần một câu nói của y liền có thể cứu vớt an nguy cho vạn giáo chúng của mình, đẩy mấy vạn quân Minh vào địa ngục. Có một kẻ như vậy, tại sao không khéo lợi dụng cho tốt?
*****
Bên trong trạch viện rộng lớn của Vương Long, bụi bám khắp nơi, âm u lạnh lẽo. Trước đây, nơi này vốn là cơ ngơi của đệ nhất phú hào Đại Đồng, hàng đêm vang tiếng sênh ca, rượu gái tràn trề, thế mà chưa tới một tháng đã trông như bị bỏ hoang phế lâu năm.
Ánh trăng từ ngoài cửa sổ chiếu vào phòng, phảng phất như một dải sương trong.
Thôi Oanh Nhi nhẹ bước đi lại trong căn phòng rộng rãi trống trải như một âm hồn trong bóng tối...
Vinh hoa phú quý chẳng qua là mây khói thoảng qua, thanh danh hiển hách cũng chỉ là đầu đề câu chuyện trong miệng người ta sau khi chết đi. Hoàng đế đánh bại Bá Nhan dưới núi Bạch Đăng, Cốc Đại Dụng lục soát khắp doanh trại, bắt giam quan viên vô số. Những chuyện này được bá tánh truyền tụng, thêm thắt say sưa, còn chuyện của Vương Long như thể đã quá trăm năm, thậm chí tửu khách quen trong "Hâm Thịnh Lâu" và "Thái Bạch Cư" cũng đã lười nhắc tới.
Nghe nói sắp tới Hoàng thượng sẽ cho mở chợ buôn bán toàn diện, như vậy triều đình sẽ không cần ép buộc bá tánh Bá Châu phải nhà nhà đều nuôi ngựa nữa. Bá tánh sẽ có thể trồng trọt, có thể buôn bán với người dân quan ngoại để kiếm tiền. Loại hoa màu mới mà Dương Lăng nói đó nếu thật sự có thể nhân giống trồng trọt, cuộc sống của bá tánh sẽ tốt hơn nhiều. Dương Hổ cứ mãi u mê không chịu giác ngộ, rốt cuộc là muốn làm gì? Ôi, chỉ mong lần này hắn có thể thật sự chuyển ý hồi tâm...
Thôi Oanh Nhi đang khẽ thở dài, bỗng chợt xoay người. Một tiếng "cheng" ngân lên, trường kiếm giắt hông nàng đã đâm thẳng về phía cửa sổ.
Hoắc Ngũ Gia nhảy vào nhẹ nhàng như một con báo, thấp giọng gọi:
- Oanh Nhi! Ta đây!
- Ngũ thúc!
Thôi Oanh Nhi vội vàng thu kiếm, bước tới chào đón.
Hoắc Ngũ Gia hớn hở:
- Oanh Nhi, cơ hội đến rồi. Hôm nay Trương Dần, chỉ huy sứ Thái Nguyên, đãi tiệc mời Dương Lăng, đã bao cả “Diễm Vân Lâu”, có hơn trăm quan viên văn võ tham dự.
Thôi Oanh Nhi thoáng ngẩn người, hỏi lại:
- Thế sao lại là cơ hội được? Mấy ngày nay Dương Lăng thù tạc các nơi, những nơi mà y đến dự đều có hộ vệ như mây. Nay có hơn trăm viên quan tụ tập, phòng vệ há chẳng càng thêm nghiêm ngặt sao?
Hoắc Ngũ Gia cười đáp:
- Với hơn trăm thân binh và hộ vệ bảo vệ nơi ấy, nào ai ngờ được sau bấy lâu yên tĩnh sẽ có người vào đúng lúc này, ngay chốn tụ tập đông đảo thị vệ như vậy lại dám xông vào giết người? Cho nên nhân số tuy đông, nhưng phòng vệ ắt sẽ lơi lỏng. Vả lại, chính bởi có hơn trăm tên quan viên, tùy tùng của các bên rồng rắn lẫn lộn, không ai biết ai, chúng ta mới dễ lợi dụng cơ hội.
Danh kỹ trong “Diễm Vân Lâu” rất đông đảo. Đêm nay ăn uống lại có kỹ nữ hầu rượu, phần đông bọn chúng sẽ ngủ lại qua đêm, đến lúc đó, nha hoàn, tì nữ và thị vệ nô bộc lui tới như thoi đưa. Bên ngoài tửu lâu có lẽ còn hơi khó vượt qua, song một khi đã trà trộn được vào trong tửu lâu, chúng ta cứ nghênh ngang mà đi, ai biết chúng ta vào làm gì chứ?
Thôi Oanh Nhi thoáng giật mình, một nỗi lo lắng mơ hồ dâng lên trong lòng. Giữa nơi hỗn loạn đó không chừng sẽ thật sự có cơ hội thể hành thích được y. Khi ấy nếu lại nói dối là mình sẩy tay, Ngũ thúc tuy già nhưng mắt chưa mờ, há sẽ không nhìn ra được hay sao?
Nàng bèn ấp úng phản bác:
- Ngũ thúc! Lúc này đang là lúc đêm, cửa thành đang có cấm lệnh, trên thành binh lính đi tuần không ít, một khi động thủ chúng ta sẽ khó bề chạy trốn. Hay là... hay là chờ tìm cơ hội khác vậy.
Nói xong cảm thấy hai má mình hơi nong nóng, nàng bèn vội đánh lảng sang chuyện khác:
- Thúc đã mua đồ ăn về chưa? Oanh Nhi hơi đói rồi.
Hoắc Ngũ Gia liếc nhìn nàng với vẻ nghi hoặc. Lợi dụng kẽ hở giữa đám tuần binh mà lặng lẽ trốn lên tường thành, với thân thủ hai ta há có thể bị bọn lính đó phát hiện? Sau đó lại dùng móc câu để trốn ra khỏi thành, bọn chúng biết tìm bắt chúng ta ở đâu? Xưa nay Oanh Nhi làm việc luôn rất lớn mật, sao giờ lại...
Lão thấy nghi hoặc trong lòng song không tiện hỏi. Nghe bảo đói bụng, lão bèn lôi từ trong ngực ra một bọc gói lá sen, bên trong là tấm bánh bao nhân thịt vẫn còn nóng hôi hổi, đưa cho Thôi Oanh Nhi. Thôi Oanh Nhi vờ như đang rất đói, vội vã bước qua một bên, mở bọc lá ra ăn.
Khi quan phủ niêm phong Vương phủ, mọi đồ vật quý giá đều bị dọn sạch nhưng chăn mền và vật dụng thông thường vẫn chưa bị xử lý, do đó việc nghỉ ngơi buổi tối của hai người cũng không thành vấn đề. Bầu trời chìm sâu vào trong bóng tối, Thôi Oanh Nhi ngồi xếp bằng trên đầu giường, nhớ lại ánh mắt nhìn mình một cách kỳ dị của Ngũ thúc, nàng chợt có cảm giác như ngồi phải bàn chông. Khó trách Dương Hổ nói bậy nói bạ, hóa ra Ngũ thúc cũng thấy mình như vậy...
Nàng mím môi ngưng vận công, bó gối mơ màng nhìn ánh trăng mờ xuyên qua song cửa sổ, ngơ ngẩn: " Chẳng qua mình chỉ không muốn giết lầm một viên quan tốt mà thôi. Hơn nữa hiện nay các giống lương thực mới vừa được đưa vào sử dụng lẫn việc thông thương mở chợ đều nhờ Dương Lăng dốc sức thúc đẩy. Người này quả thực là chân quân tử bụng nghĩ sao miệng nói vậy. Nếu như bá tánh đã có đường sống, chúng ta còn phải tạo phản làm gì? Ôi! Mình nào... nào có tư tình gì với hắn?"
Đêm khuya tĩnh lặng, ánh trăng như nước, khiến người ta dễ chìm vào suy nghĩ mông lung. Thôi Oanh Nhi bất chợt nhớ lại cảnh tượng bị Dương Lăng ôm choàng, bám chặt vào mông trong hang động trên núi Bạch Đăng, chợt thấy mông hơi ngưa ngứa; nụ hôn thoáng qua môi nọ, cái cảm giác tê dại đó dường như vẫn còn vương vấn trong lòng...
Thôi Oanh Nhi chợt giật mình tỉnh lại, thầm tự mắng một hơi, cảm thấy gò má nóng bừng, xấu hổ không chịu nổi, bèn nằm xuống kéo chăn trùm kín mặt lại. Nhưng càng không muốn nghĩ đến, hình ảnh thân mật nọ lại cứ hiện lên, lòng càng bồi hồi. Nàng bèn thở dốc, bực bội ngồi dậy, ngẩn ngơ một hồi rồi lặng lẽ khoác quần áo vào, định ra ngoài hành lang dạo bộ một chút.
Hoắc Ngũ Gia ở trong phòng kế bên. Sợ đánh thức lão, Thôi Oanh Nhi rón rén bước ra khỏi phòng, đi tới bóng khuất nơi cây cột hành lang to tầm một người ôm. Đang ngắm trăng đến xuất thần, chợt qua khoé mắt nàng cảm giác như có một bóng đen từ đầu tường đằng xa vụt lướt qua như chim ó.
Thôi Oanh Nhi vụt liếc sang, bóng đen đó vừa vặn biến mất ngoài bức tường, nhưng nàng cũng kịp nhận được một bóng người vừa vượt tường nhảy ra ngoài. Thôi Oanh Nhi giật mình thất kinh: "Thám tử? Có người đã phát hiện ra chỗ ở của chúng ta?"
Nàng tức tốc xoay người, gõ nhẹ cửa sổ phòng Hoắc Ngũ Gia, giọng cấp bách:
- Ngũ thúc! Ngũ thúc! Con Oanh Nhi đây, mau mở cửa!
Trong phòng vẫn lặng ngắt như tờ, Thôi Oanh Nhi cả kinh: "Ngũ thúc là người từng trải, sao lại ngủ say đến vậy? Chẳng lẽ..."
Nàng phóng tới trước cửa phòng, một tay che mũi, nín thở, tay kia chụm lại như đao chém nhẹ xuống cửa. Một chưởng ẩn chứa nội lực này vốn có thể bổ gãy chốt chắn cửa mà không gây nên tiếng động quá lớn, nào ngờ cửa chỉ khép hờ, hai cánh cửa bung sầm sang hai bên khiến Thôi Oanh Nhi hơi giật mình.
May mà lạc viện này khá lớn, chung quanh không có hàng xóm nào bị kinh động. Khẽ ngửi nhẹ, thấy trong phòng thoang thoảng hương hoa mai song lại không giống mê hương, nàng bèn lập tức lắc người vút vào, đứng ở một nơi khuất bóng, nín thở cảnh giác. Một lúc sau, thích nghi với bóng đêm trong phòng, thấy trong phòng không có người, nàng khẽ gọi:
- Ngũ thúc?
Không có tiếng trả lời, Thôi Oanh Nhi lần mò tới trước giường Hoắc Ngũ Thúc. Dưới ánh sáng lờ mờ phát hiện thấy trên giường không có người, nàng bèn tìm nến đốt lên, lấy tay che ánh sáng bước tới trước giường quan sát. Chăn mền vẫn chỉnh tề, trên giường đốt một cây nhang vòng khá lớn, cuối đuôi nhang buộc một sợi dây lụa bắt chéo qua tấm màn quấn lên nóc giường.
Thôi Oanh ngước đầu nhìn, trên nóc màn bắt nghiêng một chiếc ghế, một chân ghế chống trên nóc màn, phần còn lại treo lơ lửng trên không trung bởi sợi dây lụa nọ. Khi nhang cháy hết, sợi dây lụa dễ cháy sẽ bén lửa, đứt ngang; chiếc ghế ắt sẽ rơi xuống đất.
Nàng búng người lên, tháo ghế xuống, trên mặt ghế vạch nghuệch ngoạc mấy nét. Đó là một hình vẽ cổ quái do ngón tay khắc nên, là ám hiệu của sơn tặc dùng để báo tin. Vừa liếc nhìn Thôi Oanh Nhi liền biết Ngũ thúc bảo nàng trông thấy ám hiệu thì cứ ẩn náu tại chỗ hoặc lập tức rời thành. Thôi Oanh Nhi tức giận giậm chân: Ngũ thúc đi giết Dương Lăng rồi!
Giờ phải làm sao đây? Thôi Oanh Nhi mím môi, cảm thấy tiến thoái lưỡng nan, lòng dạ rối bời. Ngũ thúc đơn thương độc mã xông vào tửu lâu, liệu sẽ có thể an toàn rút lui được hay không? Nếu như Dương Lăng được bảo vệ không chu đáo, thật sự bị thúc ấy giết chết thì biết làm thế nào? Một kẻ là người mà nàng không hề muốn giết, một kẻ lại là người mà nàng tuyệt đối không muốn chết. Bực bội trong lòng, Thôi Oanh Nhi bèn giậm mạnh chân phóng ra khỏi phòng, đuổi theo hướng bóng đen biến mất vừa rồi.
*****
Bầu trời trên cánh đồng tuyết dày đặc những ngôi sao li ti. Trời đêm đã trở nên rét buốt nhưng tất cả binh sĩ trong doanh trại vẫn đứng nghiêm, bất động trong tuyết. Thân binh chấp pháp cầm đuốc đứng vây quanh viên quan đô ty, ánh lửa đỏ rần.
- Bà mẹ nó! Các ngươi muốn ra oai phủ đầu với bản quan à?
Tay cầm roi ngựa vấy máu, Mã đô ty sải chân tới trước đội ngũ quát mắng. Trên chiếc giá gỗ giữa hai đống lửa dựng đằng trước đám quân binh hàng ngũ chỉnh tề có sáu binh sĩ mình trần trùng trục đang bị treo lơ lửng. Máu tươi đông lại trên thân bọn họ thành từng vệt thâm sì, môi tím ngắt vì lạnh.
- Sao hả? Mạnh đô ty có quan hệ mật thiết với gian tế Lý Nghĩa của Di Lặc giáo, rất có thể cũng là phản tặc, chẳng lẽ các ngươi cũng là đồng lõa của hắn hay sao? Hừ! Bản quan mới vừa nhậm chức, các ngươi đã dám khinh nhờn, còn tung tin đồn nhảm, bôi nhọ thượng quan! Ai nói ông đây là lính hậu phương chưa từng đánh trận, không có bản lĩnh chỉ huy đám hùng binh các ngươi hả? Ông khinh! Các ngươi có biết quân pháp hay không?
Tên đô ty họ Mã mới nhậm chức ngạo nghễ chỉ tay vào một tên sĩ tốt đang lạnh run bần bật quát:
- Ngươi! Bước ra khỏi hàng! Trong quân có mười bảy lệnh cấm, năm mươi tư điều chém, mỗi một điều đều là tội lớn phải chém đầu. Nói ông đây không biết cầm binh hả? Ông đây thuộc làu binh pháp, sao lại không biết cầm binh? Ngươi nói đi, điều thứ mười bảy trong mười bảy lệnh cấm là gì?
Tay lính trơn nọ choáng váng cả người, ấp a ấp úng:
- Đại... đại... đại nhân! Tiểu nhân... Cái đó...
Mã đô ty quất vèo một roi, tên tiểu binh bị roi quất trúng giật nảy người, trên gò má liền xuất hiện một vệt máu. Mã đô ty lại quát lớn:
- Bản tướng gọi ngươi bước ra khỏi hàng, tại sao không báo danh với bản tướng? Điều thứ mười bảy trong mười bảy điều luật lớn là thấy địch mà không xét rõ, dò thám mà không kỹ càng, đến mà không báo là đến, có nhiều mà bảo là ít, có ít lại bảo là nhiều, chém! Biết chưa?
Đến mà không báo là đủ để bản tướng chém đầu ngươi rồi, cút về đi!
Tay tiểu binh lảo đảo chạy về hàng, máu chảy ròng ròng trên má song lại không dám lau. Mã đô ty trông thấy một tay lính trọng tuổi hơi bĩu môi bèn gọi:
- Ngươi, bước ra!
- Dạ! Ti chức Phùng Đại Phú, xin đô ty ban bảo!
Tay lính từng trải nọ dửng dưng bước ra khỏi hàng, ngang nhiên báo cáo.
- Ồ! - Mã đô ty mỉm cười, gật đầu chế giễu - Ừm, là bả tổng à? Nghe nói lần này ngươi truy đuổi quân địch rất ư là dũng cảm, một tay chém đầu mười bảy thủ lĩnh quân địch đem về nộp, mới vừa được Mạnh đô ty đề bạt làm bả tổng phải không? Bản quan hỏi ngươi, điều bốn trong mười bảy điều lệnh là gì?
Tay lính nọ thoáng do dự, rồi ngang ngạnh đáp:
- Ti chức chỉ biết ra trận giết giặc, anh dũng xông pha! Ti chức không biết chữ nghĩa, không nhớ nổi quân luật!
- Vút!
Lại một roi nữa được quất ra. Tay lính cả giận, trừng mắt quát lại:
- Ông đây ra trận giết giặc, có thể đổ máu, có thể bán mạng! Ta chưa từng vi phạm quân pháp, cớ gì đánh ta?
Mã đô ty lại vụt tiếp một roi, song bị tay lính chụp lấy đầu roi. Mã đô ty cố sức giật lại nhưng giật không nổi, gã bèn cười gằn bảo:
- Điều thứ tư trong mười bảy điều là: buông lời oán thán, căm hận chủ tướng mình, bất tuân quân lệnh, thay đổi giáo điều, chất vấn pháp chế, đó gọi là chia rẽ lòng quân, kẻ nào vi phạm, chém! Ngươi dám nói những lời như vậy với bản quan? Người đâu, bắt lại cho ta, đánh cho mạnh vào!
Mấy tay thân quân xông lên đè viên bả tổng nọ xuống, lôi hắn trói lại treo lên giá gỗ, quất roi vùn vụt lên người. Trên thân thể tráng kiện vốn đã chi chít sẹo của tay lính lão làng giờ lại có thêm những vết thương mới, máu tươi chảy ròng.
Trút giận xong, Mã đô ty quay lại cười lạnh với đám binh sĩ đang đứng im như thóc, đe nẹt:
- Ông đây sớm biết cái đám lính lười nhác các ngươi chuyên bắt gà trộm chó, không việc xấu nào không làm. Toàn bộ đều là một đám lưu manh vô lại. Hừ! Bản quan mới tới nhậm chức, muốn phủ đầu bản quan để ra oai phải không?
Bản quan là thượng cấp trực tiếp của các ngươi. Muốn đối chọi với bản quan ư, để xem ai trị được ai?
Cút về ngủ hết cho ta, hôm nay bỏ cơm tối. Sáng sớm mai bản quan ra lệnh tập trung sớm, nếu không còn gây sự, xoi mói nữa thì mới có cơm ăn. Giải tán!
Đám binh sĩ lẳng lặng không nói gì, từng tốp một kiềm nén lửa giận trong lòng kéo nhau trở về lều trại. Mã đô ty cười khà khà, liếc xéo mấy tay lính vô lễ bị treo trên giá, cả tiếng dặn dò:
- Người đâu, nấu cho bản quan con gà! Đem vào trong lều coi!
Nói đoạn, gã xoay người bước vào trong lều.
- Cẩu quan!
Đằng xa có người thừa lúc tối trời mắng nhỏ một tiếng, liền đó gã bị chiến hữu đưa tay bịt miệng, kéo vội vào trong lều.
- Cẩu quan!
Vào lúc này, Liễu Phi Vũ cũng đang mắng chửi:
- Đồ vô sỉ! Đã bắt cha ta lại còn muốn ta phải hầu hạ mới chịu... mới chịu thả người. Triều đình này thật đáng bị diệt vong!
Tiểu thư nhà họ Liễu mặc một chiếc áo bông nhỏ nhắn sát thân màu xanh lông vẹt, bên ngoài khoác một áo chẽn da cá đuối màu đen, lưng thắt một dải lụa hồng, dưới mặc một chiếc váy màu xanh nhạt, trang điểm tuy nhạt mà nền nhã, nước da trắng mịn, trên môi phơn phớt lông măng, rõ ràng vẫn còn là một thiếu nữ trong trắng mười sáu mười bảy. Thêm vào mày đậm khẽ nhíu, sóng mắt nhìn nghiêng, trông đẹp đến say đắm lòng người.
Chương 214: Đêm Khuya Văng Vẳng Tiếng Gió Mưa (phần 2)
- Nói nhỏ một chút! - Nữ pháp sư Hồng Cô, người thấp béo như quả bóng bằng thịt, đang cải trang làm mụ hầu gái già, cười giả lả, - Cho nên cha cô mới gia nhập thánh giáo của chúng ta, muốn lật đổ triều đình nhằm xây dựng lại một thế giới trong sạch đấy.
Mụ lấy ngón tay béo ục như củ cải của mình nhón lấy cây trâm vàng cài lên búi tóc được tết cao của Liễu Phi Vũ, rồi vỗ tay khen:
- Đẹp, thật là đẹp! Chậc! Giống hệt như hồi ta còn trẻ vậy!
Chà! Phi Vũ cô nương! Đừng có xị mặt u sầu nữa. Hiện tại thánh giáo không có cách nào cứu cha cô ra được cả. Cô cũng biết đấy, rất nhiều người không liên quan gì với thánh giáo chúng ta nhưng vẫn bị cái đám gian thần Dương Lăng và Cốc Đại Dụng đó bắt bớ, doạ dẫm đe nẹt, làm tan cửa nát nhà, huống hồ cha cô thật sự là người của bản giáo! Chỉ hơi sơ suất liền sẽ bị tịch biên tài sàn, xử trảm cả nhà ngay.
Mụ thủ thỉ:
- Cho nên đại pháp sư mới quyết định kêu cô tương kế tựu kế, giả vờ đón tiếp y. Một có thể cứu cha cô ra, hai là có thể giành được sự tin yêu và tín nhiệm của y. Lúc đó cô còn có thể giúp thêm một ít việc cho thánh giáo rồi sau này sẽ trừng trị thích đáng bọn chúng.
Người Liễu Phi Vũ hơi run lên, lệ viền quanh mi, nàng van nài:
- Hồng Cô, tôi... tôi hơi sợ, tôi vẫn còn là hoàng hoa khuê nữ, sao có thể làm được chuyện khiến cho gia môn hổ thẹn chứ? Bảo tôi... bảo tôi hiến thân cho y, còn phải nhoẻn miệng tươi cười, cả ngày hầu hạ bên người tên cẩu quan đó. Tôi... tôi thật sự làm không được...
Nàng chợt nắm lấy tay Hồng Cô, khẩn cầu:
- Tôi... tôi có thể giết y, nhân lúc y say rượu mà giết y. Hồng Cô, đại pháp sư thần thông quảng đại, cầu xin lão nhân gia người cứu cha tôi ra có được không? Tôi tình nguyện giết tên cẩu quan đó, cùng y đồng quy vu tận để báo đáp thánh giáo!
- Hoang đường!
Hồng Cô đanh mặt lại, giật mạnh tay ra khỏi tay cô gái. Liền đó ý thức được mình hơi thất thố, mụ ta bèn vội khoác lại lên bộ mặt tươi cười, an ủi:
- Phi Vũ cô nương, ta biết rằng cô chung tình với Nhị thiếu chủ. Đàn ông ấy mà, tam thê tứ thiếp là thường! Đàn bà bên cạnh Nhị thiếu chủ còn ít hay sao? Thiếu chủ nào để ý tới việc cô có còn là xử nữ hay không. Cô vì thánh giáo mà hy sinh nhiều như vậy, tận tình làm tròn bổn phận thánh nữ, hiến thân cho thánh giáo tới chết không sờn, Nhị thiếu chủ sẽ chỉ càng yêu cô hơn.
Thôi đừng ngẩn người ra đó nữa, nghe lời Hồng Cô đi!
Ánh mắt Hồng Cô thoáng loé lên, mụ ta lặng lẽ mân mê gói giấy nhỏ trong ống tay áo, rồi nói với giọng nhẹ nhàng nhưng hết sức lạnh lẽo:
- Cô nên nhớ, nếu Dương Lăng mà chết, cha cô, mẹ cô, cả nhà cô đều sẽ chết hết!
Liễu Phi Vũ thoáng run lên, cả người đờ đẫn. Hồng Cô thấy lời doạ nạt của mình đã hiệu quả, không nén được cười mỉm. Ngẫm nghĩ lại, mụ thấy nha đầu này lâm trận chùn chân, nao lòng dao động, mình lại không tiện xía vào, biết làm thế nào cho phải? Suy tính một lúc mụ thấy vẫn cho cô nàng uống nhuyễn cốt tán là tốt nhất.
Nghĩ vậy, mụ ta bèn dịu giọng khuyên nhủ:
- Cô đừng có làm chuyện ngu ngốc nữa. Nè, Hồng Cô đã chuẩn bị ít thuốc có thể tránh thai, cô có thể tránh phải hoài thai nghiệt chủng của tên gian tặc đó.
Mụ đưa một chén trà không tới trước mặt Phi Vũ, xé gói giấy trút bột thuốc vào, sau đó châm trà, bảo:
- Uống đi! Hồng Cô cũng chỉ có thể giúp được cô bấy nhiêu thôi.
Tiểu thư nhà họ Liễu hoảng sợ:
- Hồng Cô. Tôi... tôi...
Nhác thấy ánh mắt trở nên nghiêm lạnh của Hồng Cô, Liễu Phi Vũ không khỏi sợ hãi, miễn cưỡng cầm chén trà lên khẽ hớp một ngụm.
Một ngụm trà xanh thoảng thoảng hương thơm, uống vào trong miệng lại như uống phải chén rượu đắng. Nghĩ đến tình cảnh của chính mình, trong lòng Liễu Phi Vũ chợt dấy lên nỗi bi thương, nàng bèn đặt chén trà xuống, gục xuống bàn khóc nức nở.
Đối với loại thuốc "Nhuyễn Cốt" đặc chế bởi Di Lặc giáo này, uống một ngụm với uống cả chén cũng đều như nhau. Sau nửa nén nhang sẽ tay rẩy chân run, tứ chi mềm nhũn, có muốn giãy dụa cũng không cách nào thoát được, mà kháng cự yếu ớt sẽ chỉ càng kích thích dục vọng chinh phục của đàn ông.
Thấy nàng đã uống trà, Hồng Cô khẽ mỉm cười, lấy nắp chén trà đậy lại. Mụ vừa định mở miệng nói chuyện thì bên ngoài chợt có tiếng người cười to nói lớn:
- Ha ha! Hôm nay trong quân lão tướng như mây, uống thật thoả thích. Dương đại nhân hình như hơi quá chén rồi thì phải?
Tiếng bước chân ngừng lại trước cửa, liền đó cả hai nghe một giọng đàn ông lè nhè cười khổ:
- Sớm... sớm biết mấy tay tướng ở biên ải này uống rượu như uống nước lã như thế này, bản quan thật sự đã không dám phụng bồi rồi. Mấy ngày trước đám Đỗ tổng binh coi như là còn nhã nhặn đi, ai ngờ... ợ... Chúng ta đang đi đâu.... vậy? Bản quan phải về... về nghỉ ngơi, quả thực... quá chén mất rồi!
Người nọ lại cười bảo:
- Mọi người nghe nói đại nhân đã thỉnh được thánh dụ giúp bọn họ tránh bị bức hại, đương nhiên cảm kích khôn thôi. Vui sướng như vậy sao có thể không uống cho thỏa thích chứ? Đại nhân đã uống say tít cung thang rồi, giờ mà trở về lỡ nhiễm phong hàn, Trương chỉ huy sứ đại nhân và chúng tướng Đại Động sẽ trách tội ti chức đó. Ha ha, Dương đại nhân, đêm nay hãy nghỉ lại ở Diễm Vân Lâu đi! Tuy Diễm Vân Lâu không lớn bằng Trạng Nguyên Lâu, song nếu luận về danh kỹ phong lưu lại có thể nói là đệ nhất của Đại Đồng ấy.
- Cái gì? - Dương Lăng loạng choạng vùng ra khỏi tay quan chỉ huy Thái Nguyên, trợn tròn mắt - Khi nãy... khi nãy đám phụ nữ hầu rượu trong tiệc suồng sã như vậy đã làm nhơ nhuốc quan thể (quy chế quan lại phải tuân theo - ND) rồi. Triều đình vốn dĩ cấm tiệt quan viên chơi gái, làm... làm như vậy sao được?
- Dào! Bây giờ có rượu cứ say, có hoa cứ hái chứ rày đâu lo! - Quan Dũng không đồng ý, - Quy định trong kinh không thể áp dụng vào nơi chinh chiến quanh năm như Đại Đồng này đâu! Nhập gia tùy tục mà! Đại nhân rời kinh đã lâu, thi thoảng mới thỏa thích một lần, cùng lắm chỉ là chuyện gối chăn, có gì nghiêm trọng đâu chứ? Nghe nói vị cô nương được thu xếp bồi tiếp đại nhân còn là thanh quan nhân, là mỹ nhân có tiếng ở Diễm Vân Lâu này đó, đây là tấm lòng của các vị đồng liêu tại hạ. Bọn tướng quân ngủ lại Diễm Vân Lâu đêm nay rất nhiều, nếu như đại nhân cứ khăng khăng đòi về, khó trách sẽ khiến mấy vị tướng lĩnh sinh lòng kiêng kị, chẳng phải sẽ khiến mọi người mất hứng sao?
Dương Lăng đang còn do dự, cửa phòng chợt được đẩy ra, Quan Dũng dìu y vào phòng. Hồng Cô vội vã phe phẩy khăn tay, tươi cười xởi lởi:
- Ui chao, nô tì xin ra mắt đại nhân! Thúy Vân cô nương, còn không mau hầu hạ đại nhân nghỉ ngơi!
Liễu Phi Vũ len lén lau khô nước mắt, lật đật đứng dậy cố nặn bộ mặt tươi cười. Dương Lăng chỉ cảm thấy đầu nặng chân nhẹ, đứng không muốn vững, Hồng Cô vội vàng niềm nở vừa dìu y vừa trộm nháy mắt với Liễu Phi Vũ. Liễu Phi Vũ vội lấy hết can đảm bước đến gần, cùng Hồng Cô mỗi người một bên đỡ lấy Dương Lăng từ tay Quan Dũng, dìu y đến ngồi trước bàn.
Hồng Cô lại cầm lấy một tách trà, rót đầy cho hắn một chén trà nóng, cười nịnh nọt:
- Đại nhân! Vị cô nương này mới vừa gia nhập Diễm Vân Lâu, tướng mạo dịu dàng xinh đẹp, khí chất bất phàm, cho nên nô tì mới bảo cô nương đến hầu hạ đại nhân. Có điều cô nương này vẫn chưa biết cách hầu hạ người khác, nếu có chỗ nào thất lễ, vẫn mong đại nhân lượng thứ cho!
Nói đoạn mụ cúi đầu khom lưng lui ra. Quan Dũng thấy Dương Lăng đã ngồi, bèn cười khùng khục như con gà mái, nháy mắt nói:
- Mạt tướng đã ghé thăm Diễm Vân Lâu mấy lần, không ngờ ở đây còn giấu một vị cô nương bất phàm như vậy. Chậc! Đúng là đến sớm không bằng đến đúng lúc! Dương đại nhân đêm nay cứ thỏa sức phong lưu, mạt tướng thực không dám hầu tiếp chuyện này rồi. Ha ha ha, mạt tướng đi đây!
Quan Dũng lách mình ra khỏi phòng, đóng cửa lại. Ngẫm nghĩ thấy mình cũng đã có một mỹ nhân xinh đẹp mê người đang nằm trên giường chờ mình ân ái, thế là gã hào hứng xoa tay, miệng ngâm nga một điệu hát dân gian tục tĩu, chân nam đá chân chiêu rời đi.
*****
- Trương đại nhân, sao đại nhân nhà chúng tôi vẫn còn chưa ra?
Ngũ Hán Siêu đứng dưới hành lang chắp tay hỏi Trương Dần.
Trương Dần mặt say lướt khướt, chân bước liêu xiêu, dường như đã uống quá chén, cười đáp:
- Ồ! Chắc ngươi là bộ hạ của Dương đại nhân hả? Đêm nay đại nhân ngủ lại Diễm Vân Lâu rồi. Ha ha! Rượu ngon gái đẹp! Ấy là diễm phúc tề thiên đấy. Theo ta thấy các ngươi cũng không cần phải chờ bên ngoài nữa. Sáng sớm ngày mai đến đón đại nhân là được. Híc....
Nói rồi hắn nấc rượu một hồi.
- Vậy...
Nghe thế, Ngũ Hán Siêu thoáng chần chừ. Đại nhân đã ngủ lại trong tửu lâu, nói không chừng còn đang điên loan đảo phượng với một cô gái nào đó, một thị vệ như mình biết thỉnh giá mời đại nhân về như thế nào? Nhưng chưa có lệnh từ chính miệng đại nhân, làm sao mình có thể tự tiện ly khai?
Trương Dần thấy vẻ mặt khó xử của chàng ta thì không khỏi lấy làm buồn cười. Tên thanh niên xuất thân từ núi Võ Đang này có một thân võ nghệ không tệ, không thua gì ba đứa con mình. Dương Lăng có thể thu nạp được nhân tài như vậy, cũng thực là có mắt nhìn người. Nếu hắn biết Trương tướng quân mà hắn đang chắp tay cung kính chính là giáo chủ Di Lặc giáo đầu tóc bù xù đi truyền giáo đã từng giao đấu với hắn, không biết hắn sẽ có vẻ mặt thế nào??
Trương Dần đang định chọc ghẹo thêm mấy câu, một tướng lĩnh trong quân mới đi giải về từ xa trông thấy liền cười gọi:
- Trương đại nhân, ngài thật là gian xảo! Lúc bản quan kính rượu thì ngài lại chạy đi đâu mất. Đi thôi, chúng ta quay lại uống tiếp nào.
Trông thấy Ngũ Hán Siêu đang đứng dưới hành lang, hắn ngẩn người ra hỏi:
- Sao vậy? Trong quân của ngài có chuyện à?
Trương Dần cười đáp:
- Không phải! Đây là thân binh của Dương Lăng Dương đại nhân. Chàng ta trung thành tận tụy, không chịu rời đi.
Tướng quân nọ trừng cặp mắt say lờ đờ lên, bắn tiếng dọa nạt:
- Chỗ này là chỗ nào chứ? Hử? Có thể xảy ra chuyện gì? Ngươi lui xuống đi, Dương đại nhân đang nằm trong màn sen tiêu dao khoái lạc đó! Y say đến độ đi không nổi, đã dặn ta chuyển lời dùm, bản quan nhất thời quên thôi. Đi đi, đi đi! Dương đại nhân bảo ngươi ngày may tới đón, đừng đến sớm quá. Khà khà, đại nhân hiện đang “tập luyện thể lực” đó, ha ha ha ha...
Đoạn bỏ mặc Ngũ Hán Siêu đứng tại chỗ cười khổ, hắn ta ôm vai Trương Dần cả cười đi vào sảnh...
Hành lang khúc khuỷu, khắp chốn đầy tiếng sênh ca, có điều lúc này ngoại trừ một ít tướng quân tham chén vẫn còn trong sảnh la hò cược rượu, phần lớn đã ôm người đẹp tự đi tìm khoái lạc. Bóng người đi lại trong sân không nhiều, Trương Dần cùng vị tướng quân nọ sánh vai song hành. Lúc đi qua một ngọn giả sơn, đằng sau ngọn giả sơn lờ mờ phát ra tiếng tuyết kêu lộp rộp, như bị ai đó giẫm lên. Trương Dần thoáng sững người, dừng chân, rồi cười mập mờ nói:
- Lão Lưu, khi nãy lão ngắt lời làm ta quên mất. Ta cũng phải đi giải một chút, lão vào trước đi.
- Ha ha! Được, ta sẽ đợi đại nhân trong sảnh. Ông, ông... ông không được lén trốn đi đâu đấy.
Lưu tướng quân vừa cười đồng ý vừa đi vào trong sảnh.
Đợi hắn đi khuất rồi, vẻ mặt ngà say của Trương Dần tức thì biến mất. Nhòm trước ngó sau không thấy có ai, hắn liền vụt nhảy ngang qua khỏi lan can, đáp xuống mặt tuyết, động tác mau lẹ như báo, liền đó đề khí bước vòng quanh ngọn giả sơn, trầm giọng hỏi:
- Ai đó?
Do còn ngại đó là một tướng quân vô phép tắc nào đó đã uống quá chén, không thèm để ý đến danh phận mà chạy ra sau ngọn giả sơn đi giải, cho nên hắn không dám làm to chuyện. Không ngờ đằng sau giả sơn chợt phát ra tiếng lộp rộp, một loạt tiếng bước chân di chuyển rất nhanh.
Kẻ bỏ đi có thuật phi thân rất khá, đáng tiếc ở đây toàn tuyết, không ai xóa dấu chân cho, thế nên bất kể động tác hắn có nhanh nhẹn thế nào cũng đừng hòng đạp tuyết chạy đi mà không lưu lại dấu vết. Vừa thấy kẻ đó bỏ chạy, Trương Dần liền sinh nghi, thế là không thèm che dấu nhân thân, lập tức phi thân đuổi theo.
Đằng sau ngọn giả sơn là cỏ cây ao nước, nay tuyết đọng khắp nơi, ánh trăng trong vắt như nước, bóng người ấy tuy nhanh nhẹn nhưng khó thoát khỏi tai mắt Trương Dần. Đuổi đến sau mấy gốc cây hoa bị tuyết phủ trĩu cành, trong bóng tối chợt có một giọng hiểm ác khẽ mắng vọng ra:
- Cái tên cẩu quan không thức thời này! Vốn ta định tha mạng cho, ngươi lại cứ không biết sống chết. Vậy lão phu sẽ tiễn ngươi về trời như ngươi mong muốn.
Dứt lời một bóng người nhẹ nhàng phóng ra, tay xòe ra năm ngón bổ xuống, mạnh mẽ mà hiểm độc, như chim ưng vồ mồi. Trương Dần đứng nguyên tại chỗ, không tránh không né, ngước nhìn "ưng trảo" có thể phá bia vỡ đá đang bổ từ trên không xuống, sắc mặt bình tĩnh như thường.
Quả như Hoắc Ngũ Gia đã dự đoán. Bá quan vào tửu lâu uống rượu, hơn nữa còn là uống rượu có kỹ nữ hầu hạ, thoạt trông nơi này hộ vệ đông đảo, trùng trùng lớp lớp, song muốn trà trộn vào thì lại dễ vô cùng, quả thực bọn họ khó mà phòng bị cho đặng.
Thử hỏi những đại nhân đó sao có thể để bọn thị vệ nhìn thấy cảnh mình trên bàn yến tiệc miệng thì cười đùa cợt nhả, tay thì ôm ấp lần mò khắp người mỹ nữ chứ? Gần trăm tốp thị vệ, tùy tùng và hầu kiệu không quen biết nhau, ai có bản lĩnh và quyền hạn đi chất vấn từng người mà mình thấy lạ mắt chứ?
Do đó Hoắc Ngũ Gia đã có thể dễ dàng trà trộn vào tửu lâu. Thế nhưng muốn tìm người thì lại khó, lão chỉ đành phục một chỗ, đợi một nô bộc nào đi ngang mà hỏi thăm nơi ở của Dương Lăng, không ngờ lại bị người khác nghe thấy. Hoắc Ngũ Gia vồ từ trên không xuống, hệt như một con chim ó, năm ngón tay sắc bén nhắm chộp lấy thủ cấp của viên quan tướng mặc quân phục nọ. Chỉ cần bị lão chộp được và thuận thế vặn nhẹ, cổ hắn nhất định sẽ bị vặn gãy ngay.
Thế nhưng lúc này gã tướng quân nọ cũng đã ngẩng đầu lên, ánh trăng rọi lên khuôn mặt của hắn, soi tỏ một khuôn mặt hết sức bình thản song cặp mắt lại lộ ra vẻ sắc bén vô cùng. Hoắc Ngũ Gia cả kinh. Một vẻ mặt không chút sợ hãi, một vẻ mặt tràn đầy tự tin và khinh miệt như vậy, kẻ này không đơn giản chút nào!
Lão định thay đổi chiêu thức, thế nhưng võ lâm so tài kị nhất là nhảy lên không trung để đả thương người, bởi một khi thân ở trên không, mà võ công đối phương lại tương đương, khi ấy rất khó có thể đổi công thành thủ. Lão đã quá coi thường gã tướng quân này rồi.
Bóng của lão che lấp ánh trăng, khuôn mặt của Trương Dần tức thì khuất vào trong bóng tối. Ngay vào lúc này, hai chân Trương Dần thoáng khuỳnh xuống rồi búng lên. Hắn đã xuất thủ!
*****
Dương Lăng ngồi đối diện với Liễu Phi Vũ, cả hai đều thấp thỏm bất an. Bởi lẽ... đây đều là lần đầu tiên của bọn họ. Một người là lần đầu tiên "làm gái", còn một người là lần đầu tiên "chơi gái".
Y quan sát vị cô nương ngồi đối diện đã được trang điểm kỹ càng. Có điều với nhan sắc của nàng ta thì rõ ràng cho dù không trang điểm cũng vẫn có thể hấp dẫn bất kỳ gã đàn ông có giới tính bình thường nào.... Có lẽ ngoại trừ cái tên Vương Long có mắt như mù nọ.
Dáng người e thẹn yêu kiều, dịu dàng như liễu, khuôn mặt xinh đẹp hơn người, da trắng hơn tuyết, cặp mắt long lanh nửa khép nửa mở cố tránh ánh nhìn của y, nửa như thẹn thùng, nửa như khiếp sợ. Nhớ lại tú bà nói nàng gia nhập Diễm Vân Lâu mới được mấy ngày, y liền có thể lý giải vẻ mặt không giống như đang giả vờ ấy.
Chao ôi, mình đã ôm vợ xinh thiếp đẹp, so với cái thời đại nọ vốn đã trụy lạc sa đọa lắm rồi, chẳng lẽ còn phải gánh thêm tội, ngay cả người con gái đáng thương như vậy mà cũng muốn ức hiếp? Nhưng mà... trong lòng rõ ràng đang rục rịch muốn làm bậy. Tại sao hôm nay mình lại muốn gái đến như vậy chứ. Là bởi rời kinh quá lâu, hay là do đã uống quá nhiều?
Dương Lăng không biết rằng mấy ả con gái hầu rượu đã lén cho thuốc kích dục vào chén, hiện tại thuốc đã bắt đầu phát tán dược lực. Y còn tưởng rằng ý chí của mình không vững, bèn thầm tự trách mình: "Ấu Nương và Liên Nhi đã mang thai con mày. Bọn họ đều khổ sở ở nhà ngóng trông mày sớm ngày trở về, sao mày lại có thể phong lưu khoái lạc bên ngoài như vậy được?
Nhưng mà.. vị cô nương này đẹp thật, nếu như cô ta đã gia nhập lầu xanh, hôm nay mình bỏ qua cô ta, ngày mai chẳng phải cô ta sẽ vẫn phải trải qua cuộc sống “một đôi tay trắng bao người gác, nửa cánh môi son vạn kẻ hôn” ư. Cô ta là kỹ nữ, mình lại không phải chịu bất cứ trách nhiệm gì, ngày mai đi rồi, ai còn nhớ được là ai chứ?
Không... không được..., mình không thể bị người xưa đồng hóa như vậy. Loại chuyện này giống như thuốc phiện vậy, nếu không có ai ngăn cấm, không có ai khiển trách, hôm nay bước một bước này, sau này mình há sẽ chẳng càng phóng túng hơn trong chuyện tửu sắc ư?”
Ngọn lửa dục trong lòng Dương Lăng dâng lên theo men rượu, dần dần không thể kiểm soát được. Lúc này cho dù chỉ là một thiếu nữ bình thường e rằng cũng sẽ biến thành giai nhân tuyệt sắc trong mắt y, huống hồ trước mặt lại là mỹ nhân xinh đẹp động lòng người như vậy. Ý chí của y dần dần tan vỡ.
Y cầm lấy chén trà, uống cạn một hơi, ho khan một tiếng rồi khẽ gọi:
- Cô nương...
Trong lòng Liễu Phi Vũ lúc này cũng đang tranh đấu dữ dội. Nàng từng được Lý Đại Nghĩa chỉ bảo võ nghệ, cũng võ vẽ học được mấy ngày, trong lòng chỉ muốn rút cây trâm cài đầu xuống đâm chết tên gian thần này, tránh cho tấm thân trong sạch khỏi bị ô nhục. Song nhớ tới lời Hồng Cô đã nói, nghĩ tới cảnh tượng đáng sợ của kẻ phản bội thánh giáo bị hàng vạn con kiến đục khoét khắp người, nàng lại không rét mà run.
Thấy Dương Lăng ngồi yên thật lâu không có động tác gì, nàng đang mong y sẽ ngồi vậy hết đêm, đợi sang ngày mai rồi tính tiếp. Chợt nghe Dương Lăng cất tiếng gọi, nàng liền sợ giật nảy người, trừng mắt cảnh giác hỏi:
- Chuyện... chuyện gì?
Dương Lăng cũng không biết phải nói gì. Tâm thì muốn bảo nàng lui ra, tránh bị mình say rượu không nhịn được mà dâm nhục, nhưng lửa dục từ từ bốc lên xui khiến thân dưới của y “phất cờ nổi dậy” lại không ngừng cản lời y lại. Y liếm môi, đang không biết nên làm thế nào cho phải, đột nhiên cửa phòng mở ra, một bóng người bỗng lách vào.
Nghe thấy tiếng cửa mở, theo phản xạ Liễu Phi Vũ liền đưa mắt nhìn, chỉ kịp liếc thấy bóng đen nơi khóe mắt, cổ đã bị đánh cho một chưởng, ngã ngục xuống đất.
Thôi Oanh Nhi đỡ lấy người nàng, nhẹ nhàng đặt ngồi lên một chiếc ghế dựa tường, rồi quay đầu lại cười nhạt bảo Dương Lăng:
- Hóa ra ngươi cũng chỉ là hạng người như vậy, tham hoa háo sắc, ức hiếp con gái!
Trông thấy nàng, Dương Lăng tức thì kinh ngạc, lửa dục cũng vì vậy mà tan biến. Y ngạc nhiên hỏi:
- Là cô? Các người còn chưa đi sao? Cô đến đây làm gì?
Đoạn y liếc sang "Thúy Vân cô nương" đang ngồi hôn mê trên ghế, cười khổ giải thích:
- Đừng đổ tội bừa cho người khác thế chứ. Cô nói tôi tham hoa háo sắc cũng được, nhưng còn “ức hiếp” thì... Hình như nghề bọn họ làm là để bị người ta “ức hiếp” mà, nếu không ai chịu ức hiếp bọn họ, bọn họ sẽ càng khó sống hơn.
Mặt Thôi Oanh Nhi thoáng đỏ lên, nàng sẵng giọng:
- Bớt nói xàm với ta đi! Nếu không phải vì thấy ngươi vẫn còn là vị quan tốt biết nghĩ cho bá tánh, thì ta đã lười cứu ngươi rồi!
Nói rồi nàng tức giận ngồi phịch xuống chiếc ghế mà Liễu Phi Vũ đã ngồi trước đó. Dương Lăng nghe nàng nói là cứu mình, thì trong lòng bình tĩnh trở lại. Y ngạc nhiên hỏi:
- Cứu tôi? Có người muốn giết tôi, hơn nữa không phải là cô?.... À không, không phải là người của các vị sao?
Thôi Oanh Nhi hừm một tiếng rồi nói:
- Hỏi nhiều vậy để làm gì? Bởi vì ngươi nói chuyện biết giữ lời, cũng coi như là chính nhân quân tử. Ta đến gặp ngươi, một là để cứu mạng ngươi, hai là muốn nhờ vả ngươi một chuyện.
Dung mạo Thôi Oanh Nhi vốn đã rất đẹp, lại có thêm vẻ khí khái hào hùng, lúc này tuy nàng mặc đồ thuần trắng, nhưng dưới ánh đèn trông lại thập phần duyên dáng. Một vẻ phong nhã của người phụ nữ mãn khai khiến cho chân mày khóe mắt của nàng luôn toát lên muôn vẻ phong tình. Dương Lăng vốn có dấu hiệu sắp biến thành sắc lang nhìn mà đỏ cả mắt, thầm mắng mình: "Khi nãy người con gái nọ là kỹ nữ đã đành! Giờ đầu mày đang nằm trên tay người ta, vậy mà mà... mày còn nhìn chằm chằm vào mặt vào ngực người ta làm gì?"
Thôi Oanh Nhi cũng không ngờ y to gan đến vậy, lúc này lại dám nảy ý định xấu xa với mình. Nàng nhíu đôi mày ngài, cố nhẫn nhịn mà thuật lại câu chuyện một lượt.
Dương Lăng dẫu sao vẫn là người làm quan, nàng không dám nói trượng phu mình vẫn nung nấu ý định tạo phản, chỉ nói là vì hơn hai trăm huynh đệ chết thảm ở kinh sư, cho nên Dương Hổ vẫn khư khư ôm lòng báo thù, tuy nàng đã tận tình khuyên bảo, song vì ngại mặt mũi, nên khó lòng cứ như vậy mà trở về Bá Châu.
Thôi Oanh Nhi nói đến khô miệng, bèn mở nắp chén trà trước mặt, thấy nước trà vẫn đầy, nghĩ rằng cô gái nọ vẫn chưa động tới, bèn thuận miệng uống cạn, rồi lại đem kể chuyện mình cùng Ngũ thúc đến Đại Đồng, vẫn luôn mực âm thầm theo dõi mọi hành động của y. Kể xong, nàng mới cười khổ nói:
- Đại nhân! Chuyện là như vậy đó. Chuyết phu (gã chồng khờ - ND) của tiện nữ đã đồng ý cùng tiện nữ quy ẩn núi rừng, tiện nữ cũng không muốn thương tổn đại nhân, để rồi lại gây nên một kiếp nạn lớn cho bá tánh Bá Châu.
Chốc nữa tiện nữ sẽ rời khỏi nơi này, khi ấy mong rằng đại nhân sẽ lập tức triệu tập thị vệ làm thật to chuyện, và bảo là có thích khách. Ngũ thúc của tiện nữ thấy tình thế không ổn, ắt không dám xông bừa, tạo ồn ào như vậy cũng sẽ có thể khiến cho chuyết phu có đường mà hạ đài.
Cho nên tiện nữ đến đây, chỉ là muốn lập một hiệp nghị quân tử cùng đại nhân lần nữa. Tuy kẻ muốn giết ngài là người của chúng tôi, nhưng dù sao... tiện nữ chạy lại mật báo tin tức, mong đại nhân nhất định phải cam đoan có thể để hai người chú cháu tiện nữ an toàn rời khỏi nơi này, từ nay chúng ta ân oán lưỡng tuyệt, nước giếng không phạm nước sông.
Tác dụng của thuốc trong cơ thể Dương Lăng càng lúc càng lợi hại, bây giờ không cần Liễu Phi Vũ dụ dỗ, y cũng muốn chiếm đoạt lấy vị "danh kỹ lầu xanh" này. Song vẫn còn một tia lý trí mách bảo với y rằng, tối thiểu thì vị Hồng Nương Tử ở trước mặt này là người mà y vạn lần không thể động tới. Y bèn cắn răng, vịn bàn nói:
- Được! Ta đồng ý với cô. Cô... cô mau đi đi. Ta sẽ lập tức... lập tức đi triệu... triệu tập thị vệ. Cô mau đi...
Dương Lăng gắng gượng đứng dậy, chỉ cảm thấy hạ thể cứng ngắc như sắt, tuy áo bào rộng rãi nên không bị phát hiện, song dẫu sao y vẫn cảm thấy chột dạ, vội đành ngồi xuống hối thúc:
- Cô mau đi đi! Dương mỗ tôi lời hứa... nghìn vàng...
Thôi Oanh Nhi trông thấy dáng bộ của y như vậy thì nhíu mày bảo:
- Sao ngươi lại uống nhiều rượu như vậy? Nếu ta đi vào lúc này, Ngũ thúc thừa dịp xông vào hành thích thì sao?
Nàng đảo mắt một vòng, trông thấy xiêm y của Liễu Phi Vũ bèn nhoẻn miệng cười nói:
- Để ta tráo áo quần của ả, dìu ngươi ra sảnh. Sau đó ngươi tự kêu người bảo vệ, ta sẽ thừa cơ mà trốn đi.
Lúc trước Thôi Oanh Nhi từng thay đồ trước mặt y. Vả lại việc cởi bỏ áo khoác ngoài trước mặt người khác cũng chẳng có gì là ghê gớm, huống hồ quần áo mặc mùa đông vốn nhiều, chẳng qua nàng chỉ định khoác thêm áo chẽn mặc ngoài của Liễu Phi Vũ mà thôi.
Ai dè nàng vừa đứng lên cởi áo khoác da xám ra, hai vai chợt bị siết lại như bị người nào đó ôm chặt. Vừa hốt hoảng vừa tức giận, Thôi Oanh Nhi còn tưởng rằng Dương Lăng nuốt lời tính bắt giữ mình. Nàng vừa cảm thấy bực bội vừa cảm thấy tức cười: chỉ dựa vào ngươi mà cũng muốn bắt ta sao? Đúng là rượu khiến cho người ta có gan lên hẳn.
Thôi Oanh Nhi vừa dùng sức quẫy ra, tức thì cả sợ, toàn thân túa mồ hôi lạnh. Cho dù bị xích sắt quấn thân, nàng dùng hết sức giãy dụa cũng chưa hẳn đã không thoát được, thế mà lúc này... lúc này hai vai nàng lại vô lực, xương cốt tựa như mềm oặt.
Vừa kinh hoảng vừa tức giận, nàng quay đầu lại thấy Dương Lăng mặt đỏ bừng bừng, hơi thở phả ra từ miệng nóng rực như lửa, trong hơi rượu lại có mùi thơm nhàn nhạt. Với bản lĩnh sơn tặc có kiến thức sâu rộng, đương nhiên nàng ngửi được y uống phải loại thảo dược nào rồi. Thôi Oanh Nhi sợ đến hồn bay phách lạc, mắt trợn trừng. Lúc này Dương Lăng đã bế thốc nàng lên, lảo đảo bước tới giường.
Thôi Oanh Nhi ức đến ứa gan, vừa khóc vừa run rẩy van nài:
- Thả ta ra, thả ta ra! Xin ngươi... Ngươi bị trúng dâm dược rồi, thả ta ra, ta có cách... Á!
Trong tiếng thét sợ hãi, áo lót đã bị xé ra, bộ ngực săn chắc của nàng lộ ra một nửa. Thôi Oanh Nhi tuyệt vọng thét lên:
- Đừng đụng vào ta! Ngươi dám đụng vào ta, ta nhất định sẽ giết ngươi. Ta nhất định... a a a...
*****
Dưới ánh sáng tù mù của ngọn đèn bàn, khuôn mặt xinh đẹp của Thôi Oanh Nhi đã như hoa đọng sương mai, nước mắt vệt vắn vệt dài. Đã không còn sức để đẩy Dương Lăng đang sa vào trạng thái điên cuồng, nàng chỉ đành nhắm nghiền hai mắt, tấm thân mềm mại nhẹ nhàng uyển chuyển nhấp nhô dưới người y....
Có lẽ trong lý trí Dương Lăng vẫn còn nhớ nàng là ai, cũng có lẽ y chẳng còn biết gì nữa. Y chỉ biết hiện tại y đang khoái lạc biết dường nào. Mỹ nhân đang nằm bên dưới quả thực là vưu vật mê người đến cực độ.
Đôi chân thon dài mà săn chắc, cặp đùi trơn mượt đến mê ly. Cặp ngọc nhũ tròn mẩy mà cao vút. Y điên cuồng ép người lên thân Thôi Oanh Nhi, quấn chặt hai thâm mình vào nhau như áo trời không vết vá. Khoái cảm khôn tả cùng với tiếng rên rỉ như nỉ như non của Thôi Oanh Nhi mang đến cho y sự mê sướng tuyệt diệu khó nói nên lời...
Chiếc giường khảm ngà dập dờn như con thuyền nan trên sóng biển. Ánh sáng của cây đèn trên bàn le lói như hạt đậu non. Hai tấm thân quấn rịt vào nhau trong tấm màn vui hoan hợp. Trong cơn quay cuồng lờ mờ có thể thấy được từng phần thân thể trắng phau mềm mại. Dương Lăng đã rơi vào trạng thái điên cuồng, song Thôi Oanh Nhi lại hết sức tỉnh táo.
Vì tỉnh táo cho nên nàng nhục nhã và giận dữ vô cùng. Cánh môi mỏng của nàng đã bị cắn đến ứa máu, thế nhưng phản ứng của thân thể nàng lại không chịu sự khống chế của tâm lý tức giận và nhục nhã ấy. Làn thu ba trong đôi mắt đang mở to của nàng chợt trở nên mê mang, rồi theo động tác của Dương Lăng, thỉnh thoảng nàng lại buông ra tiếng rên rỉ đê mê, nghe như tiếng sáo diều khe khẽ.
"Sao lại có thể như vậy chứ? Trời ơi, hãy cho tôi chết đi!" Thôi Oanh Nhi gào thét trong lòng, nước mắt đã cạn khô. Thế nhưng tấm thân yêu kiều của nàng lại phối hợp cùng Dương Lăng một cách bất đắc dĩ, thân thể đầy đặn và dẻo dai của nàng nghênh đón lấy những đợt công kích tàn bạo của Dương Lăng.
Một chiếc nhũ hoa mang theo hương thơm mê người lọt thỏm giữa miệng và lưỡi của Dương Lăng. Thôi Oanh Nhi run bắn người vì xấu hổ và nhục nhã, "Trời giết tôi đi. Y... y rõ ràng là đã uống phải thuốc mất đi lý trí, vậy mà còn... còn đùa bỡn mình như vậy...", một cánh tay ngọc vừa đặt lên vai y hòng đẩy y ra thì lại bỏ xuống. Sự việc đã đến nước này, chẳng lẽ còn có thể giữ lại sự thanh bạch của mình hay sao?
Đường cong ưu mỹ, mông tròn vểnh cao, sờ vào liền thấy láng mịn như mỡ đặc, đầy đặn có thừa, mềm như không xương. Cũng chỉ có mỹ nhân như đào chín trên cây này mới cho người ta cảm giác tuyệt diệu như vậy. Eo nhỏ của nàng lại thon thả đến lạ, ôm vào lại thấy trơn nhẵn mà chắc nịch...
Gió mưa không ngớt. Muôn vàn ý nghĩ quay cuồng trong đầu Thôi Oanh Nhi, trong lòng nàng chỉ nghĩ đến ba chữ "phải giết y". Có điều trong cơn khoái lạc đến cực độ ý nghĩ đó liên tục bị cắt ngang, tạm thời nhường chỗ cho một thứ cảm giác sung sướng như lên mây. Đến khi "trở lại nhân gian", khi đã thanh tỉnh lại, trong nỗi tủi nhục và phẫn hận đến cùng cực, nàng lại chỉ nghĩ đến bốn chữ "tự sát cho xong".
*****
Đêm, trong doanh trại nằm trên cánh đồng mênh mông tuyết, rét lạnh mà tĩnh mịch.
Giữa đất trời, tất cả mọi vật dường như đều ngưng thở.
Thi thoảng có vài con thú nhỏ sinh sống về đêm lại lén chui ra khỏi tuyết, chạy đi mấy bước, rồi lại lủi vào trong tuyết.
Bên trong đại doanh, tay tiểu tốt bị Mã đô ty quất roi nọ bỗng nhiên thét mớ lên một tiếng thảm thiết, đầu vã mồ hôi đầm đìa, vung tay đá chân giãy giụa, miệng la thảm thiết không ngừng.
Binh sĩ nằm bên bị đánh thức bèn đẩy hắn mắng:
- La cái gì? Khóc cái con mẹ gì chứ?
Còn chưa dứt lời, một binh sĩ khác nằm ở lều sát bên bị đánh thức bởi âm thanh khủng bố nọ lây nhiễm, cũng đã bắt đầu thét lên. Lần này thì thôi rồi! Sĩ tốt bị lây nhiễm bởi bầu không khí cuồng loạn mỗi lúc một nhiều. Áp lực, mệt mỏi và sợ hãi tích lũy lâu ngày trên người các binh sĩ lúc này đồng loạt bùng phát, người la hét điên cuồng mỗi lúc một đông; từng đợt từng đợt sóng gào thét điên loạn nhanh chóng lan khắp cả đại doanh.
Trong bóng đêm lạnh lẽo và đen kịt, rốt cuộc đại doanh đã xảy ra chuyện mà các tướng lĩnh cầm binh hàng nghìn năm nay khiếp sợ nhất: "doanh khiếu". Cả đại doanh đầy tiếng la hét như quỷ khóc sói gào. Tiếng la hét càng lúc càng làm cho nhiều người cảm thấy khiếp sợ, ai nấy đều cầm lấy vũ khí đề phòng bất cứ kẻ nào đến gần.
Không biết là ai ra tay trước, song hỗn loạn đã bùng phát. Doanh trại chưa hơn năm nghìn người đã biến thành chiến trường khủng khiếp nhất. Đồng đội chiến hữu trở thành kẻ thù không đợi trời chung. Bọn họ vừa la hét như điên như dại, vừa cầm lấy bất kỳ vũ khí nào có thể đánh người mà liều mạng chém giết lẫn nhau.
Những căng thẳng trong chiến tranh cùng với sĩ khí sụt giảm do sự thanh trừng của Cốc Đại Dụng và nỗi sợ hãi gây nên bởi sự ngược đãi của viên đô ty mới được bổ nhiệm đã khiến cho những binh sĩ trong cơn "doanh khiếu" không màng hết thảy mà ra sức phát tiết và phá hoại quân kỷ bằng chính thân thể máu thịt và sinh mạng của mình. Một hồi đại đồ sát không lý trí đã diễn ra khắp trong ngoài binh doanh.
Xa xa ngoài doanh trại, ban đầu mấy binh sĩ đứng gác trên đài quan sát cao cao còn giữ được vài phần tỉnh táo mà nổi lửa hiệu, thổi kèn lệnh, hòng thức tỉnh chiến hữu của mình. Thế nhưng khi cuộc đại đồ sát đã lan tràn khắp doanh trại, rốt cuộc bọn họ cũng đã trở nên điên loạn, cầm lấy vũ khí lao xuống tháp canh gia nhập vào cuộc đại đồ sát.
Đằng xa kia vẫn là một bầu yên tĩnh. Rồi trong sự yên tĩnh đó, gió lại giật không ngừng, mưa giông không dứt...
Chương 215: Đêm Khuya Thẩm Vấn
------------------------
Đêm nay thật tuyệt, ít ra là đối với Dương Lăng.
Rồi không biết thời gian đã trôi qua bao lâu, một tiếng rống khoái lạc kèm theo tiếng rên khe khẽ như nỉ như non chợt cất lên, gió thôi mưa tạnh, trên khuôn sen mơn mởn thoắt hiện hạt sương châu.
Đêm khuya canh vắng, tiếng thở dốc vẫn còn chưa điều hòa trở lại, dưới ánh nến đỏ đong đưa là hai thân thể đang phập phồng ép sát vào nhau.
Mãi thật lâu sau, tấm thân rã rời đến tận đầu ngón tay của Thôi Oanh Nhi mới khôi phục lại được sức lực. Hơi thở nóng hổi vẫn còn đang phà lên bờ vai thon của nàng, Thôi Oanh Nhi cố sức đẩy thân thể đầy mồ hôi của Dương Lăng ra. Sau cơn mê say thỏa chí, men rượu và dược lực đã khiến y mệt mỏi rã rời nên ngủ thiếp.
Hai hàng lệ trong vắt không kiềm được lại trào ra, nàng vừa khẽ thút thít vừa kéo áo quần mình lại, vội vã mặc vào; có thêm một bộ quần áo trên người mới khiến cho nàng cảm thấy an toàn hơn.
Một người con gái thân thể loã lồ, cho dù từng có sức vật hổ báo, cho dù hiện giờ khí lực đã hồi phục mười phần, thì vẫn không dám đối mặt với người đàn ông mà nàng mới vừa kết duyên hợp thể.
Tóc mai tán loạn, đôi má ửng hồng, áo quần đã che chắn bộ ngực trắng phau cao vút, mượn sự nương che của tấm chăn lụa, nàng quấn yếm buộc quần. Vận đồ xong xuôi, nàng vội vã nhảy xuống đất, song loạng choạng suýt ngã. Không ngờ tuy nàng khoẻ mạnh và đã thành thục nhưng lại vẫn không chịu nổi sự "sát phạt" của Dương Lăng như vậy. Người phụ nữ cho dù có mạnh mẽ dường nào, khi ở trên giường họ vẫn là phái yếu.
Thoạt tiên Thôi Oanh Nhi kinh hoảng liếc sang vị cô nương Thúy Vân nọ, thấy cô nàng vẫn đang ngồi dựa nghiêng trên chiếc ghế sát tường, vẫn hôn mê bất tỉnh, nàng mới hơi yên tâm. Ngầm vận công thử thấy đã khôi phục được ba phần, ba phần đã quá đủ để giết chết Dương Lăng cả chục lần rồi, nàng hổ thẹn rút thanh đoản kiếm, đâm vút tới giữa lưng Dương Lăng.
Tấm lưng trẻ trung trơn tuột ấy vẫn đang nằm úp trên giường không chút động đậy, nhưng Dương Lăng lại khẽ mơ màng rên rỉ, lẩm bẩm gọi:
- Thúy... Thúy Vân cô nương, cô thật đẹp... Tôi... tôi sẽ... chuộc thân cho cô...
Lời còn chưa dứt, y đã lại ngủ khò.
Thôi Oanh Nhi thoáng sững người: y tưởng mình là cô kỹ nữ ư?
Mũi kiếm thoáng run rẩy. Lúc này Thôi Oanh Nhi nhớ lại khi nãy nàng thấy mắt y dại đi, mặt đỏ bừng, trong hơi rượu loáng thoáng có vị ngòn ngọt, rõ là đã trúng phải một loại thuốc cực kỳ lợi hại. Loại thuốc hổ lang này không giống với loại thuốc tráng dương thông thường, thường pha trộn thêm vài vị thuốc khiến cho thần trí mê mang. Chẳng lẽ khi nãy vì thần trí lơ mơ nên y đã lầm tưởng mình thành một người con gái khác hay sao?
Vừa nghĩ đến đây, Thôi Oanh Nhi không khỏi phát run lên. Cho dù khi ấy y lầm tưởng mình là người khác, song khi tỉnh dậy, thể nào không nhớ lại đêm nay mình đã tới đây?! Tấm thân thanh bạch của mình đã bị ô nhục, sao có thể không giết y chứ?
Nhưng mà... từng chữ "mau đi đi" đó vẫn còn quanh quẩn bên tai, ánh mắt kiềm chế một cách thống khổ, ngữ khí thúc giục đầy cấp bách của y, rõ ràng y cũng là kẻ bị hại. Mình bị người ta lăng nhục, nhưng kẻ khiến mình bị nhục lại bình yên vô sự, làm sao mình có thể chịu nổi việc này?
Thoáng suy nghĩ, Thôi Oanh Nhi liền đã có thể đoán được đại khái: để đối phó với những thanh quan nhân không thuần phục hẳn, đa phần vào đêm "khai nụ" bọn chủ sẽ bỏ chút thuốc "nhuyễn cốt" vào. Thứ thảo dược mà Dương Lăng trúng phải tám phần là vì tú bà muốn lấy lòng đại quan trong kinh thành, vì muốn khiến y thoả chí tầm hoan mà bỏ thuốc kích thích tính dục. Có điều loại thuốc này có dược tính rất mạnh, như cọp như sói, bỏ nhiều như vậy, quả thực là "chưa ngắm thân thể cô nàng, người đã mê mang đầu óc".
Thôi Oanh Nhi muốn khóc mà không ra nước mắt. Đánh giặc Oa, chống giặc Thát, mở chợ thông thương, cải thiện canh tác, trong tất cả những niềm hi vọng khiến dân chúng có thể an cư lạc nghiệp đều có bóng dáng của gã này. Giết y? Đâm một kiếm vào người y? Hàng nghìn cảm xúc ùa vào đầu nàng, nhát kiếm này sao đâm xuống được đây?
Mũi kiếm sáng loáng run rẩy như chiếc lá non lắc lư trong gió, Thôi Oanh Nhi cắn chặt môi đến ứa máu. Kiếm này thu về cũng không được, mà đâm xuống cũng chẳng xong. Nàng cứ đứng ỳ tại chỗ, ngẩn ngơ như bức tượng...
*****
Ngực của Hoắc Ngũ Thúc trúng trọn hai chưởng. Tuy lão cảm giác chưởng lực không mạnh, song vừa hơi cử động liền thấy ngực đau nhói, một vị tanh tanh ngòn ngọt trào lên cổ họng, phun bắn thành vòi. Hoắc Ngủ Thúc cả kinh, thuật khinh công của lão hơn xa Trương Dần nên bèn lập tức phóng người bỏ chạy.
Trương Dần thuận tay vặt một nhánh cây khô, tuyết rơi lả tả. Hắn gập ngón búng mạnh, nhánh cây khô bắn đi như tia chớp. Hoắc Ngũ Thúc vừa lượn tới dưới chân tường như chim én thì nhánh cây khô men theo tường thành bắn tới lập tức cắm ngập vào vai. Lão buột miệng phát ra tiếng kêu đau đớn, nhưng không dám dừng chân, khom lưng vận lực, chạy nhanh vào trong bóng đêm.
Trương Dần bó tay vào trong ống tay áo, nhếch miệng cười. Kẻ này tu luyện chính là công phu ngoại môn, không có tuyệt học điều hòa hơi thở để bảo vệ tính mạng của Võ Đang, đã trúng trọn hai chưởng rồi lại chạy thục mạng như vậy, ông trời cũng không thể cứu nổi.
Hắn co chân quét một phát, kích tung một đám tuyết che lấp mảnh đất Hoắc Ngũ Thúc thổ huyết. Nhíu mày suy nghĩ một lúc nhưng hắn vẫn không thể nghĩ ra thích khách này có thù oán với kẻ nào trong đám đông quan văn tướng võ trong tửu lâu. Tiếc rằng hôm nay đại kế sắp thành, mình quyết không thể để kẻ khác làm loạn mưu đồ, bằng không mình thực cũng muốn khoanh tay ngồi xem trò hay.
Trương Dần thầm cười khổ trong lòng: ngày nào Di Lặc giáo cũng đều nghĩ cách đối phó với triều đình, ấy vậy mà mấy ngày trước tại Cự Lỗ môn minh lại không thể không dốc toàn lực đánh một trận với Bá Nhan, hôm nay lại thay quan viên triều đình mà đối phó với thích khách. Xem ra mình thực không xứng với chức giáo chủ, có vẻ làm chỉ huy sứ Thái Nguyên thì thành công hơn.
Vừa nghĩ đến đây, hắn chợt nhớ tới Dương Lăng. hẳn tên thích khách này sẽ không khéo đến nổi có liên quan với y đó chứ? Mong đừng làm hỏng chuyện tốt của y. Trương Dần liền vội cất bước đi vào đại sảnh.
Trong đại sảnh vẫn còn hơn ba mươi viên quan tướng đang trao ly đổi chén hô huynh gọi đệ om xòm với nhau. Trông thấy hắn bước vào, vị tướng quân khi nãy đi giải lấy làm cả mừng. Trương Dần đang định lặng lẽ đi vòng sang đường bên mà vào, không dè tay tướng quân đó đã lảo đảo bước tới, chộp lấy vai hắn, cười ha hả:
- Trương chỉ huy trốn đi đâu đó?
Tiếng gọi đột ngột đó khiến Trương Dần giật nảy cả mình, song hắn liền vội nhoẻn miệng cười đáp:
- A! Vi huynh tửu lượng không đủ, cho nên...
Tay tướng quân nọ phá lên cười lớn rồi lè nhè:
- Bớt nói linh tinh với ông đi! Đàn bà thôi mà, lúc nào mà chơi chả được? Bọn chúng ta khó lắm mới có dịp cùng bàn uống rượu, đêm nay không say không về. Đặng... Đặng chỉ huy, mau tới dìu đại nhân nhà ngươi này. Phải phạt... ợ... phạt con mẹ nó ba chén!
Đặng Học Anh cũng đã uống say bí tỉ, nghe thấy vậy thì cười hì hì chạy qua kéo Trương Dần về bàn tiệc trong tiếng la hò của bọn tướng lĩnh. Trương Dần đành chịu, hắn phải xốc lại tinh thần cùng bọn họ chơi trò đoán số phạt rượu, rồi tranh thủ lúc không ai để ý gọi tên đại pháp sư tâm phúc đang cải trang làm quan trung quân lại. Nghe hắn căn dặn xong, đại pháp sư thản nhiên đi vòng ra ngoài sảnh. Bản thân gã cũng không tiện chường mặt nên bèn gọi một người khác đi gặp Hồng Cô.
Nghe người nọ dò hỏi, Hồng Cô hé miệng cười đáp:
- Xin hồi âm rằng đại pháp sư cứ yên tâm. Bản thiên sư mới vừa lén lên lầu thám thính, bên trong ấy mây mưa rất tợn. Bản thiên sư là người từng trải, động tĩnh ấy không giả được đâu. Ha ha ha!
Trương Dần nghe bẩm báo lại, biết rằng sự đã thành. Sáng mai Liễu Phi Vũ sẽ quỳ xuống khóc lóc kể lể nội tình, thú thật gia thế tiểu thư con nhà quan lại của mình, lại thêm lòng hiếu thảo vì cha mà hiến thân, với tính cách thương hoa tiếc ngọc của Dương Lăng cộng thêm lòng đồng cảm với chúng quan viên đang bị tra xét, y không nạp Liễu Phi Vũ làm thiếp mới là chuyện lạ.
Rốt cuộc Trương Dần hoàn toàn thả lỏng tinh thần, không còn bất kỳ băn khoăn lo lắng gì nữa. Hắn bắt đầu yên tâm cạn chén cùng chúng tướng, lôi kéo tình cảm huynh đệ.
*****
Hoa nến nổ "tách"! Tuy âm thanh nhỏ vô cùng nhưng lại khiến Thôi Oanh Nhi run người lên.
Khí lực của nàng đã gần khôi phục hoàn toàn, thế nhưng... thế nhưng đùi nàng vẫn còn bủn rủn không thôi, song nguyên nhân của nó thì không cần phải nói ra. Đứng ngẩn ngơ lâu như vậy, đùi nàng cũng đã hơi run run.
Kiếm trỏ vào Dương Lăng, song Thôi Oanh Nhi lại ngửa mặt nhìn lên trời đến thẫn thờ, cặp mắt như xén nước phân ra đen trắng rõ ràng kết hợp cùng khuôn mặt thanh nhã tuyệt trần tạo nên vẻ đẹp đến kinh người. Bên trong con ngươi ấy mơ hồ ẩn náu vẻ lúng túng và bàng hoàng khiến người trông thấy phải đau xót.
Nàng thở ra một hơi dài dằng dặc, rồi từ từ nhắm mắt lại, khoé mắt óng ánh hai giọt lệ châu, như thể chực trào.
Lệ rồi cũng rơi. Thôi Oanh Nhi khẽ hít hơi, "chát" một tiếng, kiếm lại tra vào vỏ: “Thôi bỏ đi! Giết y rồi mình sẽ có thể lấy lại được sự trong sạch sao? Mình đã có lỗi với trượng phu, thế thì tự vận cho xong, với tính cách của Dương Lăng, quyết sẽ không khoe khoang khắp chốn, y sẽ giấu giếm việc này giúp mình."
Nàng liếc nhìn Dương Lăng, thấy y vẫn nằm trần trùng trục úp mặt trên giường, khuôn mặt bất chợt nóng bừng. Nàng bèn hất vỏ kiếm lên, lấy chăn che lại cho y, cũng không biết là do mình không muốn trông thấy bộ dạng xấu hổ của y như vậy, hay là do mình sợ y bị lạnh.
Dương Hổ vẫn đang chờ đợi tin tức của mình ở thôn Hình. Nếu việc ám sát không thành công mà mình lại chết ở nơi này, với tính tình của hắn, nhất định hắn sẽ bất chấp hậu quả mà tìm tới tận cửa nhà y. Mình làm nốt một việc cuối cùng cho y vậy.
Thôi Oanh Nhi mím môi suy nghĩ. Nàng không biết chữ, lại không dám lay gọi Dương Lăng dậy để tiếp tục bàn bạc "hiệp nghị quân tử" gì đó. Do dự hồi lâu nàng mới chợt xé nửa tấm màn che, cắn đầu ngón tay nguệch ngoạc vài nét vẽ, khẽ bày tấm vải lên trên bàn, lách người bỏ đi.
Cửa phòng vừa đóng lại, lòng nàng chợt thắc thỏm, hồn trôi lãng đãng không biết bay về nơi chốn nào. Một thoáng thất thần ấy, với nàng mà nói, như nhoáng cả nghìn năm.
Thoáng nghe thấy thang gác kế bên có tiếng người bước lên lầu, nàng mới như choàng tỉnh mộng, vội vã lách người tránh sang một bên.
Lúc cửa phòng vừa đóng lại, vai của Dương Lăng thoáng run lên. Vai, lưng và trán túa mồ hôi lạnh đầm đìa.
Ban nãy chiến đấu kịch liệt một trận mướt cả mồ hôi, chẳng những men rượu tan hết, mà sau cơn mê điên cuồng, hiệu quả của thuốc cũng chậm rãi tan đi. Có điều loại thuốc nọ có tác dụng gây mê, cho nên y vẫn thấy váng đầu.
Song khi y vừa khôi phục lại ý thức liền lập tức nhớ lại cả thảy. Chăn nệm bừa bãi khắp giường, mà người con gái vừa mới cùng y giao hoan thoả thích lại là người mà y không thể động tới, không nên động tới. Giờ y phải đối diện với nàng ta thế nào?
Nếu như người con gái đó chưa có chồng, cùng lắm thì y sẽ thẳng thắn nhận lỗi, cưới nàng về. Nhưng giờ biết làm thế nào đây?
Lúc đó Dương Lăng thật sự lo lắng, không biết phải làm thế nào, mồ hôi vã ra như tắm. Hai người đang lõa thể nằm sõng sượt, cận kề hết sức thân mật, một khi tỉnh táo trở lại, lõa lồ đối mặt như vậy, có thể nghe được hơi thở của nhau, chẳng lẽ mở miệng "Xin chào" à?
Cho nên bất đắc dĩ Dương Lăng đành phải giả vờ ngủ tiếp, tạm tránh tình huống khó xử trước mắt rồi mới tìm cách xử lí sau.
Lúc Hồng Nương Tử đứng cầm kiếm thút thít bên giường, y lén hí mắt nhìn. Qua hình ảnh phản chiếu trên cột giường được sơn láng bóng nơi góc giường y có thể nhìn thấy rõ ràng biểu hiện của nàng, cho nên bèn vờ nói mớ lầm tưởng nàng là Thúy Vân cô nương.
Tuy rằng xử lý thế này hơi dại dột, song năm xưa Trịnh Thiếu Bằng từng đọc tiểu thuyết võ hiệp, nhớ trong truyện của lãng tử Cổ Long, khi Giang Tiểu Ngư lỡ thấy tấm thân trần của Mộ Dung Cửu, gã bèn cứ trân mắt nói bừa, vờ như trong phòng không có người. Nghe đâu cho dù phụ nữ biết rõ đó là lời nói dối, song với tâm lí trốn tránh hiện thực, nàng ta cũng sẽ có thể giảm bớt nỗi xấu hổ và quẫn bách. Nay y đành thử một phen.
Nếu như Hồng Nương Tử vẫn cương quyết muốn giết y thì cho dù trong lòng hổ thẹn, y cũng quyết sẽ không chịu đưa đầu ra chịu chém. Y còn nhớ Hồng Nương Tử lúc ở trên giường không nhấc nổi tay chân, cũng từng khóc lóc van nài cầu xin y rằng cả hai đã đều bị đầu độc. Y thầm tính nếu như nàng ta động thủ, mình thừa lúc nàng ta chưa hồi phục sức lực mà kéo chăn vật lộn một phen, lúc ấy chưa chắc không chế trụ được một người con gái đã mất hết sức lực.
Y lại không biết lúc đó Hồng Nương Tử đã khôi phục sức lực được ba phần, nếu nàng vẫn quyết định giết y thì y vẫn sẽ khó thoát cái chết.
May mà lúc ấy Thôi Oanh Nhi chỉ thẫn thờ, ngơ ngẩn. Lúc thì nàng ngửa mặt lên trời khi lại cúi nhìn xuống đất, chốc thì nghiến răng nghiến lợi, khi lại âm thầm rơi lệ, sau đó lại buông tay bỏ đi. Dương Lăng vừa ngạc nhiên vừa thở phào nhẹ nhõm, hiện tại y thật sự chưa sẵn sàng để đối diện với người phụ nữ này.
Nằm úp sấp tại chỗ thêm một chốc, xác định không có tiếng động gì nữa, y mới quay đầu lại ngó ra ngoài.
Vừa mới quay đầu, y chợt bắt gặp một cặp mắt long lanh đang nhìn mình. Bốn mắt nhìn nhau, cùng lộ vẻ kinh ngạc.
Hồng Nương Tử vốn định bàn bạc điều kiện với Dương Lăng xong xuôi rồi sẽ bỏ đi, cho nên nhát chưởng đánh lên gáy Liễu Phi Vũ không mạnh. Lúc hai người nằm ở trên giường điên loan đảo phượng, triền miên chăn gối, thì vị tiểu cô nương này đã tỉnh rồi.
Nàng kinh ngạc thấy mình vẫn bình yên vô sự ngồi trên ghế, còn trên giường lại không biết là vị bồ tát cứu khổ cứu nạn nào đó đang thay nàng hứng chịu sự công kích điên cuồng của kẻ đó, thế là tròn xoe con mắt.
Liễu Phi Vũ ngơ ngác không biết làm thế nào, nhìn thì cũng không dám nhìn, chạy cũng không dám chạy, đành phải nhắm mắt ngủ vờ. Tai vẫn nghe rõ những âm thanh phiền lòng đó khiến cho con tim tiểu thư nhà họ Liễu mới biết yêu không khỏi loạn nhịp, mặt đỏ bừng bừng. Có điều tuy vẻ mặt cô nàng khác thường, song đang là lúc cao trào, cho dù cô nàng có đứng dậy châm trà, ung dung ngồi uống rồi trở về vờ ngủ thì cũng chưa chắc hai người trên giường nhận biết.
Lúc Hồng Nương Tử xuống giường, cầm kiếm chĩa vào sống lưng Dương Lăng, trong lòng đấu tranh dữ dội, Liễu Phi Vũ không nghe thấy có tiếng động gì bèn len lén mở mắt ra nhìn, đã trông thấy hết thảy. Tuy rằng cô nàng không biết đã xảy ra chuyện gì, song lại mong sao vị cô nương đó đâm cho một kiếm kết liễu Dương Lăng, bèn âm thầm cỗ vũ cho Thôi Oanh Nhi, ai ngờ nàng lại thu kiếm bỏ đi.
Liễu Phi Vũ nghe thấy nàng đóng cửa, lấy làm khó hiểu, bèn mở to hai mắt quan sát, suy ngẫm. Ai dè sau một lúc lại chạm phải ánh mắt "đang ngủ" của Dương Lăng. Hai người tròn xoe bốn mắt nhìn nhau hồi lâu, Liễu Phi Vũ mấp máy mấy lần như muốn nói, rồi bỗng nhắm mắt lại, đầu nghẹo sang bên, "hôn mê" tiếp.
Dương Lăng nhảy xuống giường. Liễu Phi Vũ thoáng run rẩy, mở mắt ra nhìn, thấy một vật "gớm ghiếc" đang đong đưa trước mặt mình, cô nàng sợ quá bèn vội nhắm nghiền mắt lại, tiếp tục "hôn mê".
Dương Lăng cũng mặc kệ cô nàng. Y mặc lại áo quần, rồi đi đến trước bàn cầm chén rượu mình đã uống lên ngửi ngửi, rồi lại cầm lấy chén trà mà Hồng Nương Tử đã uống ngửi tiếp. Nhưng trong chén của y không hề có mùi thuốc gì, trong chén của Hồng Nương Tử lại là thuốc do Di Lặc giáo đặc chế, thành phần quý hiếm, không phải là loại "thuốc mê" thông thường phải bỏ vào rượu mới át mùi, cho nên y cũng không ngửi được mùi gì lạ.
Lúc này Dương Lăng mới nhấc ghế tới trước mặt Liễu Phi Vũ, đặt xuống đánh "cộp". Thân thể yêu kiều đang "hôn mê" liền thoáng co rúm lại. Dương Lăng ngồi nghiêm trên ghế, nén giọng gọi:
- Thúy Vân cô nương!
Tỉnh lại hay bất tỉnh tiếp đây? Liễu Phi Vũ đang đau đầu với vấn đề này thì đùi chợt bị vỗ "bốp" thật mạnh, nàng la "oái" lên, trợn tròn hai mắt. Ánh mắt của gã đàn ông trước mặt lạnh tanh, dò xét nàng một lúc mới chậm rãi hỏi:
- Rốt cuộc cô là ai?
- Á? - Liễu Phi Vũ ngớ người, mắt tròn xoe, luống cuống đáp - Thiếp... thiếp là một kỹ nữ!
Dương Lăng khẽ nhếch miệng cười, bảo:
- Đáp án có vẻ không tệ. Vậy thì... mục đích cô tiếp cận bản quan là gì?
- Á?
Liễu Phi Vũ lại há miệng mấp máy như cá đớp không khí, hồi lâu mà vẫn không nói được câu nào.
Dương Lăng chợt nghiêm sắc mặt lại, lạnh nhạt hỏi:
- Đêm nay bản quan bị trúng phải loại thuốc lạ, đúng không? Cô nên biết rằng dùng thuốc mê hoặc mệnh quan triều đình, cho dù không phải là thuốc độc hại người thì vẫn là tội mất đầu! Cô nương! Cô phải biết rằng, thảng như bản quan muốn giết cô thì chỉ cần một câu. Hiện tại trong thành đang lùng sục người của tà giáo Di Lặc, chỉ cần gán cho cô một tội danh thì cả nhà già trẻ lớn bé của cô đều sẽ bị thiêu sống đó!
Liễu Phi Vũ trượt người quỳ sụp xuống đất, bắt đầu khai dối. Việc đã đến nước này, cô nàng thật không kiếm ra được cái cớ nào khác, đã có người giúp nàng gỡ cái họa thất thân, nhất thời cũng không còn dũng khí liều mạng giết quan, đành phải vờ ra vẻ hiếu nữ mà khóc lóc nỉ non...
*****
Lúc xảy ra "doanh khiếu", đại quân của Vương Thủ Nhân đang hành quân đêm cấp tốc trở về Đại Đồng.
Năm cánh quân lớn đã tiến vững đánh chắc truy kích tàn quân của Bá Nhan, Hỏa Sư. Đối mặt quân đội Thát Đát đã mất ý chí chiến đấu, lòng quân tan rã, sự mạnh tợn cá nhân của từng quân sĩ hoàn toàn không phát huy được tác dụng gì nên cả năm cánh quân lớn đều gặt hái kết quả lớn. Đuổi đuổi được mấy trăm dặm, Vương Thủ Nhân cảm thấy chiến tuyến đã bắt đầu lan rộng, không tiện chi viện và tiếp ứng nên hắn bèn quyết đoán hạ lệnh kéo cả năm cánh quân trở về.
Đánh đêm và hành quân đêm đều nguy hiểm cả. Quân đội được chỉ huy bởi cờ xí và kèn trống, ban đêm khó truyền đạt mệnh lệnh một cách hiệu quả. Nhất là trên chiến trường tối đen như mực, rất khó để cho quân sĩ có thể tiếp nhận tin tức chuẩn xác, cho nên dễ hoảng hốt lúng túng. Vì thế đánh đêm gặp rủi ro về sự bất ổn định quá cao. Một đội quân chưa được huấn luyện chu đáo mà phải hành quân đêm, cho dù không gặp phải quân địch trong đêm tối, đôi lúc vẫn tán loạn đội ngũ. Cho nên tướng lĩnh có tài giỏi cỡ nào cũng không dám tùy tiện hành quân ban đêm.
Vì gần về tới Đại Đồng, khí thế đang lên cao, cộng thêm đêm đó trăng sáng ngời ngợi, hơn nữa trong khoảng thời gian này quân đội của hắn đã không ngừng quấy rối Hỏa Sư, kinh nghiệm tác chiến dã ngoại hết sức phong phú, sĩ tốt không dễ gì rơi vào hoảng loạn, cho nên hắn mới đồng ý cho hành quân thâu đêm quay về.
Không ngờ lúc chạy tới chỗ quân doanh lại nghe thấy tiếng la hét thảm thiết như ma tru quỷ hú cùng tiếng binh khí va chạm nhau hỗn loạn. Thoạt đầu nghe bẩm báo lại, Vương Thủ Nhân còn ngỡ rằng trước khi rút lui Bá Nhan đã phái vài tốp quân nhỏ lưu lại phía sau để quấy nhiễu và tập kích quân doanh, bèn lập tức ra lệnh cho đại quân bao vây cả doanh trại lại, rồi chậm rãi thắt chặt vòng vây.
Thế nhưng, mãi vẫn không thấy có người bắn tên ngăn trở. Đến khi đại quân tiến sát đến tường trại quân doanh dựng bởi hàng rào, cọc gỗ và chiến hào, qua ánh trăng hắn mới thấy được những tiếng la hét chém giết vong mạng bên trong đều của quân nhân Đại Minh. Doanh khiếu là chuyện không thường hay xảy ra, nhưng những tay lính lão luyện trong quân đội ít nhiều đều đã từng nghe nói đến việc thần kỳ ấy, nghe đâu đó là do Tử thần nổi cơn thịnh nộ hay thần Thái tuế bị kinh động, cho nên lúc doanh khiếu binh sĩ giống như phát rồ, hoàn toàn mất đi lý trí.
Bọn lính trông thấy binh sĩ trong doanh trại mất hết lý trí, không thèm né tránh, cứ cầm lấy đao thương đâm chém lẫn nhau hết sức dũng mãnh, đều là dùng mạng đổi mạng, thì không khỏi ớn lạnh cả người, chân tay luống cuống, thế là không dám tiến thêm.
Vương Thủ Nhân thuộc làu binh thư, biết được trong lịch sử tình huống như vậy đã từng xảy ra nhiều lần, chủ yếu là do quy định trong quân doanh quá ư hà khắc. To tiếng lớn giọng, giết! Ruổi ngựa chạy nhanh, giết! Thậm chí tung ít tin đồn, đặt chuyện pha trò cũng có thể bị tội chém đầu.
Đời lính là một cuộc sống đầy rẫy những nơm nớp lo sợ, áp lực về mặt tinh thần qua năm này tháng nọ khó thể tưởng tượng được. Ngoài ra quan quân mặc ý chèn ép binh sĩ, lính cũ kết bè kết đảng ức hiếp lính mới, kéo bè kéo phái đấu đá lẫn nhau, tất cả những mâu thuẫn đó dồn ứ năm này sang năm khác, đều nhờ quân kỷ nghiêm ghắc đè nén xuống. Một khi ngẫu nhiên có kẻ hoảng sợ thét to giữa đêm sẽ rất dễ khiến cho toàn quân bị khủng hoảng.
Binh sĩ trong doanh trại đã phải trải qua bao trận đại chiến, vẫn chưa được nghỉ ngơi chỉnh đốn lại, tâm tình vốn dĩ nóng nảy bất an. Mã đô ti nhậm chức xong lại quất roi chỉnh quân, không cho phép binh sĩ ăn bữa cơm tối, rất nhiều người vì thế mà tâm thần bất ổn. Kết quả là một binh sĩ nằm mơ kêu thét đã khiến cho toàn bộ quân doanh bùng nổ.
Tám chín phần mười những kẻ động thủ đầu tiên là những binh sĩ vẫn còn bảo trì sự thanh tỉnh, song muốn thừa cơ "có oán trả oán", "có thù báo thù" mà thôi. Song khi vừa thấy máu, liền cũng sẽ học theo binh sĩ bị mất đi lý trí mà la hét điên cuồng. Cho nên, dưới trạng thái như vậy, đánh thức tỉnh bọn họ là việc làm hết sức vô vọng.
Vương Thủ Nhân không dám ra lệnh cho quân đội xông vào ngăn cản, làm vậy rất có thể sẽ khiến cho những binh sĩ còn tràn trề sinh lực cũng bị kéo vào trong vòng xoáy điên cuồng, khiến cho bạo loạn càng lan rộng hơn. Vì vậy hắn lập tức hạ lệnh cho toàn quân phòng bị, bắt đầu phóng hỏa thiêu hủy tường hào ngăn cản chung quanh, ánh sáng sẽ khiến cho phần đông binh sĩ thanh tỉnh trở lại.
Tiếp đó Vương Thủ Nhân tập trung những xạ thủ giỏi trong quân lại, đi lòng vòng ngoài doanh trại, chỉ cần thấy binh sĩ nào điên cuồng giết người không ngừng nghỉ thì sẽ lập tức bắn chết không chút nương tay. Những mũi tên lạnh lẽo vô tình lấy đi từng tính mạng một, theo đó số lượng những binh sĩ điên cuồng nhất dần dần giảm bớt, đám binh sĩ dần dần bình tĩnh trở lại. Bọn họ đứng ngây ra đấy trong doanh trại, bần thần sững sờ, người nhuộm đầy máu.
Vương Thủ Nhân thấy lửa cháy chung quanh sắp tắt, trong doanh cũng đã bình tĩnh trở lại, lúc này mới ra lệnh cho đại quân tiến vào doanh, tước vũ khí của bọn họ rồi tách ra giam giữ, hễ có kẻ nào phản kháng là lập tức giết ngay. Thủ đoạn tàn nhẫn này rốt cuộc cũng đã dẹp yên "doanh khiếu". Nhưng dưới ánh lửa là thây chất đầy đất, người chết không dưới hai nghìn, kẻ bị thương nhiều vô số kể, quả thật tổn hại còn lớn hơn nhiều tổn thất do đại quân Thát Đát tập kích doanh trại mang lại…
Vương Thủ Nhân vừa sai người canh chừng sĩ tốt, xử lí thi thể, băng bó cho người bị thương, vừa sai thám mã cấp báo về cho Tam quan tổng chế Dương Nhất Thanh, mời hắn điều tra xử lí.
Lửa cháy trong quân doanh dần tắt, gió thổi khói bay, mùi khói cay nồng mang theo mùi tanh của máu; khung cảnh thê thảm hoang liêu khôn kể xiết...
Chương 215: Đêm Khuya Thẩm Vấn
------------------------
- Lòng hiếu thuận thật đáng khen! - Dương Lăng gật đầu tán đồng - Cốc Đại Dụng thanh trừng bừa bãi, quan viên bị bắt bớ rất nhiều khiến cho lòng người dao động. Sáng sớm hôm nay bản quan đã dâng tấu khuyên can hoàng thượng, xin ngài tức tốc ngăn chặn và đã được chuẩn tấu. Cũng bởi việc này mà đêm nay gần như toàn bộ quan văn tướng võ Đại Đồng kéo tới đây dự tiệc.
- Thật ư?
Liễu Phi Vũ ngạc nhiên xen lẫn vui mừng. Mặc dù nàng nghe nói Dương Lăng mới chính là kẻ chủ mưu của sự kiện này, có điều y là quan lớn như vậy ít nhất cũng sẽ không dối gạt là đã ngăn chặn việc bắt bớ bừa bãi này.
- Dĩ nhiên!
Ánh mắt Dương Lăng chợt nghiêm lại, y hỏi tiếp:
- Vấn đề là... Cô là một thiên kim tiểu thư, cho dù có dũng khí tự hiến thân chung gối, cho dù tú bà hám tiền chịu giúp cô đi chăng nữa, thì còn chuyện bản quan uống phải thảo dược và vị... a hèm… vị cô nương nọ bị trúng nhuyễn cốt tán là thế nào?
Trong lòng Liễu Phi Vũ thầm nổi lửa. Nàng nhớ lại cái thứ thuốc mà Hồng Cô bảo là "thuốc ngừa thai" nọ thực chất là nhuyễn cốt tán, do phòng ngừa nàng phản kháng mà cho vào. Không ngờ vì muốn cài mật thám bên người Dương Lăng mà thánh giáo lại không từ thủ đoạn như vậy, thật sự khiến người ta phải rùng mình. Nhưng cả nhà đều là giáo đồ Di Lặc giáo, làm sao nàng dám tự bộc lộ thân thế?
Liễu Phi Vũ đỏ mặt, ấp úng đáp:
- Vì... vì đây là nơi ô uế, có mấy thứ đó cũng là bình thường, cho nên tú bà Hồng Cô bảo tiểu nữ... lấy...
Dương Lăng bật cười thành tiếng, hỏi rõ hơn:
- Ý của bản quan là nếu cô đã tự nguyện hiến thân để cứu cha, chuyện hạ dược bản quan còn có thể hiểu được, nhưng cớ sao lại còn chuẩn bị một phần thuốc nữa cho mình?
- Việc này...
Trán Liễu Phi Vũ mướt mồ hôi, mắt nhấp nha nhấp nháy, không biết phải trả lời thế nào. Quan sát cô nàng một lúc lâu, Dương Lăng chợt cả kinh trong lòng, suýt nữa đã túa mồ hôi hột đầy người: “Sự tình hôm nay đã trở nên quá phức tạp, vô vàn khúc mắc không được rõ ràng. Mình chỉ lo thẩm vấn nàng ta mà lại quên mất bên người mình không hề có lấy một tên thị vệ, nếu như cô gái này có ác ý và lại có bản lĩnh thì mình biết lấy gì để chống cự đây?"
Liễu Phi Vũ một mực không dám phản kháng chính là vì một khi sự tình bị tiết lộ thì cả nhà nàng đều sẽ gặp họa mất đầu, cho nên mới ép dạ ẩn nhẫn. Nhưng vừa nghe thấy Dương Lăng hỏi như vậy, tức thì nàng lo sợ mọi việc sẽ bị bại lộ. Tuy nàng chỉ luyện chút công phu mèo quào, dùng để cường thân kiện thể thì được, chứ còn thật sự đánh nhau chưa chắc đã đánh lại Dương Lăng. Nhưng nàng cũng sẽ không chịu ngồi khoanh tay chờ chết.
Liễu Phi Vũ đang do dự tính rút cây trâm cài đầu tìm cách đâm chết y, Dương Lăng bỗng bật cười bảo:
- Ta hiểu rồi! Vì muốn cứu cha khỏi chết, bất đắc dĩ cô mới chủ động hạ mình cầu cạnh ta, lại sợ đến khi đụng chuyện sẽ hoảng sợ chùn chân nên mới bịt kín đường lui của mình. Cô thực là dụng tâm đến khổ. Ôi! Cô đứng lên đi, qua thêm một đêm ở đây nữa thì danh tiết của cô sẽ bị hủy hoại hết thôi! Để bản quan đưa cô về, sáng ngày mai hẳn cha cô cũng sẽ được thả về nhà thôi.
Dẫu sao Liễu Phi Vũ vẫn là một tiểu cô nương chưa trải sự đời, không phải là người được huấn luyện lâu năm trong Di Lặc giáo, nên không biết được đó là kế hoãn binh của Dương Lăng. Nghe vậy nàng lập tức mừng rỡ vô cùng, liền vội bái tạ rồi đứng lên.
Dương Lăng lại đằng hắng bảo:
- Cô cho rằng bản quan giở trò như vậy à? Vị cô nương khi nãy là thị vệ cận thân của bản quan, chỉ vì bản quan trúng phải phải thảo dược mà mất đi lí trí, cho nên bản quan mới... Chậc! Xưa nay bản quan luôn giữ lễ với nàng ấy, nay khó trách nàng ấy hổ thẹn và phẫn nộ như vậy. Việc đã đến nước này, bản quan sẽ tự thu xếp cho nàng ấy một danh phận. Có điều chuyện này liên quan đến danh tiết phụ nữ, cô nhớ đừng ra ngoài nói xằng nói xiên, bằng không đến khi truy cứu chuyện cô hạ dược bản quan, bản quan cũng không bảo vệ được tính mạng cả nhà cô đâu.
Nhớ lại màn nóng bỏng khi nãy, Liễu Phi Vũ liền đỏ bừng hai má, vừa ngượng ngùng vừa sợ sệt đồng ý ngay.
Dương Lăng bước tới bên bàn, nhặt bức vẽ lên. Y không hề xem kỹ, nhét luôn vào trong ống tay áo rồi xoay người bảo:
- Đi thôi!
Dương Lăng dẫn Liễu Phi Vũ ra đến đại sảnh. Lúc này đêm đã về khuya, trong đại sảnh vẫn còn hơn chục tay quan tướng đã say mèm, nằm gục xuống bàn ngủ thiếp.
Trông thấy ngoài cửa vẫn còn hai tên nô bộc của tửu lâu chầu chực, Dương Lăng bèn mỉm cười gọi bảo:
- Đi! Bản quan là Dương Lăng, đi gọi thị vệ của bản quan vào, ta có chuyện muốn nói.
Tên nô bộc đó không dám chậm trễ vội chạy đi. Chỉ chốc sau Ngũ Hán Siêu, một mực trung thành đứng canh ngoài cửa, đã áo mũ chỉnh tề, dẫn hơn mười tay thị vệ dũng mãnh xông vào. Trông thấy Dương Lăng chàng ta liền lập tức chắp tay chào:
- Đại nhân!
Thấy Ngũ Hán Siêu đã đến, Dương Lăng thở phào nhẹ nhõm, bèn vội bước qua nói nhỏ vài câu. Ngũ Hán Siêu thoáng nhìn y với vẻ ngạc nhiên xen lẫn nghi ngờ, liền đó vẫy gọi hai tay thị vệ mặc giáp lại, căn dặn mấy câu. Hai người bọn họ xoay người chạy biến đi, không lâu sau đã nghe thấy tiếng quân sĩ hò hét nổi lên khắp nơi, vô số binh sĩ ùa vào toà nhà.
Dương Lăng tức thì nghiêm mặt, đanh giọng quát:
- Bên ngoài đã bị bản quan bao vây. Các thị vệ lập tức đi tìm đại nhân nhà mình, bảo vệ cẩn thận, không được để xảy ra sơ suất gì!
Hán Siêu, cho quân vây “Diễm Vân Lâu” lại, bắt lấy tú bà Hồng Cô cho ta!
Liễu Phi Vũ cả kinh, giận dữ nói:
- Ngươi... ngươi gạt ta?
Dương Lăng bật cười khanh khách, quay sang Liễu Phi Vũ bảo:
- Cô yên tâm! Nếu như những gì cô nói là thật, bản quan quyết sẽ không trị tội cô. Thế nhưng bản quan sẽ không tha cho tú bà Hồng Cô trong tửu lâu này!
Nói rồi y lại quay sang Ngũ Hán Siêu dặn dò:
- Liễu cô nương là nhân chứng quan trọng, phái người đưa cô ta về bảo vệ cẩn thận!
Ngũ Hán Siêu khoát tay, hai thị vệ liền xông tới nhấc bổng Liễu Phi Vũ lên lôi đi, mặc kệ cô nàng la hét. Lúc này mấy tay tướng quân say rượu trong sảnh cũng đã tỉnh lại, trông thấy vậy thì trố mắt ra nhìn, không biết đã xảy ra chuyện gì.
Hiện tại Dương Lăng có muốn cũng không dám nghĩ tới Hồng Nương Tử, và không biết phải đối diện với tình huống hôm nay thế nào. Y lại sợ Liễu Phi Vũ sẽ nói xằng nói xiên chuyện ban nãy ra trước mặt mọi người, lúc này thấy cô nàng bị tâm phúc của mình mang đi khuất mới thở phào một hơi. Y vội vã vừa cười trừ vừa giải thích với mấy vị tướng quân mấy câu, rằng y bị Hồng Cô hạ dâm dược, cho nên muốn đưa mụ ta đi tra hỏi.
Mấy tay tướng quân đó không biết sự tình nghiêm trọng thế nào. Nghe xong thì cả bọn bật cười ha hả, lè nhè nịnh hót nào là Dương khâm sai khoẻ như rồng, mạnh như hổ, chơi gái còn cần đến thuốc để trợ hứng sao? Tú bà đó rõ là muốn vuốt đuôi mà vuốt phải đùi! Miệng nịnh nhưng trong lòng các vị tướng quân nọ lại cảm thấy Dương Lăng làm to chuyện quá đáng, điều động binh mã bao vây tửu lâu như thế này thì có phần "chuyện bé xé ra to", chẳng qua cả bọn vẫn không dám nói ra miệng mà thôi.
Đám tướng quân say rượu này đều không phải là loại mê nữ sắc, nay việc đã ồn ào đến như vậy rồi nên cả bọn bèn loạng choạng lắc lư cáo từ, dẫn thân binh nhà mình ra về.
Dương Lăng không biết chuyện hôm nay hàm chứa bao nhiêu âm mưu, sợ rằng quan viên trong tửu lâu có người bị hại, vì vậy cho gọi toàn bộ binh tướng của bọn họ vào đưa bọn họ về nhà. Nửa đêm bị đánh thức dậy, lại nghe lý do không rõ ràng, các vị đại nhân đều cảm thấy Dương Lăng làm vậy có phần quá lố. Nhưng nếu vị khâm sai này đã muốn biểu lộ sự thanh liêm như vậy, bọn họ cũng không tiện nán lại thêm nữa, bèn lũ lượt cáo từ ra về.
Mấy chục vị quan viên trong toà nhà, cộng thêm thân binh cận vệ khiến cho khung cảnh trở nên hết sức hỗn loạn. Nhưng Dương Lăng phải lo lắng đến quá nhiều thứ, vừa sợ quan viên phân tán các nơi sẽ có người bị hại, lại lo tú bà Hồng Cô nọ sẽ thừa cơ bỏ trốn, nên đâu thể nào trong địa bàn của người khác mà âm thầm lặng lẽ đưa tiễn đám đại nhân này đi khỏi rồi mới lùng bắt Hồng Cô?
Cho nên hiện tại y cũng chỉ đành dùng tạm lý do này để ứng phó. Lợi dụng lúc hỗn loạn, Trương Dần âm thầm căn dặn gã pháp sư tâm phúc cải trang làm quan trung quân nọ mấy câu, rồi cũng tiến lên bắt chuyện với Dương Lăng một hồi, đợi khi thấy gã quan trung quân nọ trở về gật đầu ra hiệu với hắn, hắn mới chắp tay cáo từ.
Vất vả tống tiễn các vị quan viên xong, đại sảnh liền trở nên vắng vẻ đến thê lương. Chỉ còn lại binh mã của Dương Lăng và đám nô bộc, tú bà, nha hoàn, kỹ nữ và chủ kỹ viện bị tập trung dưới sảnh, chỉ có điều vị tú bà Hồng Cô là không biết đã đi đâu mất dạng. Ngũ Hán Siêu sai thị vệ vốn thuộc Nội xưởng gọi mấy tay nô bộc dẫn đi lần lượt lục soát khắp nơi.
Dương Lăng quan sát sắc mặt lúc xanh lúc trắng của người chủ kỹ viện. Y thấy bà này là một phụ nữ luống tuổi có khuôn mặt phúc hậu, da dẻ mịn màng, đeo vàng xỏ bạc, liền chỉ mụ bảo:
- Ngươi! Tên là gì? Bước lên phía trước trả lời!
Mụ chủ run lẩy bẩy nhào tới quỳ mọp xuống đất, khóc rú lên:
- Đại nhân! Nô tì là Thủy Diệp Tử, là người chủ của Diễm Vân Lâu này, xin đại lão gia xét hỏi.
Dương Lăng hừ lạnh, hỏi:
- Người là người nơi nào? Kinh doanh Diễm Vân Lâu được bao năm rồi? Hồng Cô làm cho tửu lâu của ngươi được bao lâu rồi?
Thủy Diệp Tử quệt lau nước mắt nước mũi rồi đáp:
- Đại nhân, nô tì là người Đại Đồng, năm nay năm mươi bảy tuổi, từ nhỏ đã bán thân làm kỹ nữ cho Trạng Nguyên Lâu. Hai mươi ba năm trước nô tì tự chuộc thân rồi mở Diễm Vân Lâu này, bấy lâu nay không hề dám làm xằng làm bậy gì cả, đại nhân! Hồng Cô đó không phải là người bản xứ, hai năm trước đến Diễm Vân Lâu, vốn nhận làm sai vặt. Do nô tì thấy ả nhanh mồm nhẩu miệng, lại rất biết cách đối nhân xử thế nên đề bạt ả làm quản sự. Nào ngờ loại trời đánh đó lại ăn phải gan hùm mật gấu, dám hạ dược với đại nhân. Ôi... hu... hu... ôi...
Dương Lăng nghe bà già này diễn màn khóc lóc nước mắt nước mũi ràn rụa, không khỏi lấy làm kinh tởm, khoát tay bảo:
- Thôi, thôi đi! Đừng khóc lóc ỉ ôi nữa! Chỉ cần việc này không liên quan tới ngươi, bản quan sẽ không đổ vạ cho người vô tội đâu.
Y nghĩ ngợi một lúc rồi lại hỏi:
- Thủy Diệp Tử! Bản quan hỏi ngươi: việc đãi tiệc hôm nay có những ai biết được?
Thủy Diệp Tử hầu hạ người khác lâu năm, làm gì thật sự ở bẩn như vậy. Các trò hề khi nãy đều chỉ nhằm khiến cho Dương Lăng chán ghét, không quở mắng nặng nề mụ ta mà thôi. Mụ vẫn không dám không đáp thật khi nghe y hỏi, nên vội suy nghĩ cẩn thận rồi đáp:
- Buổi chiều hôm qua nô tì nhận được thiệp của Trương đại nhân, biết rằng phải chiêu đãi hơn trăm vị quan lớn, liền vội vã đặt mua các loại đồ ăn thượng đẳng, quét dọn toàn bộ tửu lâu, bảo đám cô nương chuẩn bị thật tốt, lại thông báo cho khách quen hôm nay đừng đến...
Dương Lăng nghe xong liền nghĩ thầm: "Thôi! Hơn trăm vị quan viên, trên nghìn thân binh, rồi toàn bộ trên dưới Diễm Vân Lâu, lại thông báo cho khách làng chơi của tửu điếm rồi đi mua sắm đồ ăn thức uống,… Tiệc rượu hôm nay e rằng cả nửa thành Đại Đồng đã biết. Xem ra việc tra hỏi những người nắm rõ tình hình không có mấy hy vọng rồi.
Việc vị cô nương nọ là con nhà quan lại ắt không giả, bởi một khi tra rõ thì khó có thể gạt được người khác. Nhưng lạ là lạ ở chỗ quan sát sắc mặt thì trông cô nàng không giống như đã biết chuyện trong rượu có thuốc nhuyễn cốt. Nếu như thật sự có một vị tiểu thư nhà quan cầu xin giúp nàng giả làm kỹ nữ, vị Hồng Cô nọ đã lăn lộn trong kỹ viện ít nhất hai năm, không thể nào mụ ta không biết cô nương đó có thân thế thanh bạch, cao quí như vậy mà dám dụ dỗ làm kỹ nữ là tội rất lớn.
Cho dù mờ mắt vì lợi lớn, ít nhất cũng không có lý gì mà đã bỏ thuốc khách làng chơi lại hạ thêm dược cô gái vốn đã tự nguyện hiến thân. Phải chăng trong quan trường có kẻ muốn bày mưu hại mình? Với tội danh là gì?
Chơi gái là chuyện phong lưu mà thôi! Luật Đại Minh đã không còn nghiêm khắc như năm xưa nữa, huống hồ mình đang được thánh thượng sủng ái, chuyện cỏn con thế này dứt khoát không thể lật đổ được mình.
Cưỡng dâm tiểu thư nhà quan lại? Bọn họ có thể thuyết phục con gái nhà lành chịu đóng trò sao? Hơn nữa, đây là nơi nào chứ? Một vị thiên kim tiểu thư con nhà quan chạy đến nơi đây làm gì? Đầy rẫy những sơ hở lớn như vậy, không tự đào hố chôn chính mình đã là may lắm rồi còn hòng vu tội cho ai? Người nào lại ngu xuẩn đến vậy?
Vậy thì lý do thật sự là gì? Hay là mình đa nghi, vị tiểu thư này thật sự muốn hiến thân cứu cha và mụ tú bà đó thật sự gan lớn trùm trời? Thực tế có rất nhiều truyện hoang đường và ly kỳ xảy ra trên đời. Có lẽ mình thật sự đã quá đa nghi chăng?"
Ngay khi Dương Lăng bắt đầu dao động với phán đoán của mình, hai tay thị vệ chợt chạy ào vào, thở hổn hển báo:
- Bẩm đại nhân! Trong nhà kho nhỏ chứa đồ lặt vặt dưới thang gác sau nhà vừa phát hiện có một xác chết nữ bị người ta đâm từ sau lưng. Tạp dịch trong toà nhà đều xác nhận người này chính là Hồng Cô!
Dương Lăng nhảy dựng lên: “Hồng Cô chết rồi? Như vậy chuyện này quả thực hết sức lạ thường, quyết không đơn giản! Nếu đây không phải là âm mưu lớn, cớ gì phải giết người diệt khẩu? Mình mới vừa ra lệnh bắt người, kẻ đó liền bị giết chết! Muốn đụng đến mình, bất kể là xuất phát từ mục đích gì, xem ra nhất định là người trong quan trường. Nhưng khi ấy trong sảnh ai cũng là kẻ đáng nghi cả, vậy biết bắt bớ ra làm sao?
Mục đích! Việc đầu tiên cần làm là phải biết được mục đích của bọn chúng. Khi đó việc truy tìm kẻ địch náu mình trong bóng tối sẽ được khoanh vùng rõ ràng, dễ phát hiện hơn. Vị cô nương Liễu Phi Vũ đó xem ra rất ấu trĩ, hẳn sẽ không phải là nhân vật quan trọng nhưng nhất định là một con cờ quan trọng của đối phương. Cô nàng sẽ không thể nào không biết gì cả!”
Chắp tay sau lưng đi lại trong phòng mấy lượt, chợt Dương Lăng ngẩng đầu quay về phía bà chủ Thủy Diệp Tử cười ngạo nghễ:
- Thủy lão bản, thực có lỗi! Hôm nay tuy được bà chiêu đãi nhưng ngay trong tửu lâu của bà xảy ra án mạng. Hơn nữa kẻ bị giết lại có quan hệ đến vụ trọng án, không thể không mời các vị về tra hỏi rồi.
Đoạn y đưa mắt ra hiệu với Ngũ Hán Siêu rồi nói tiếp:
- Ha ha ha! Vất vả cho mọi người rồi. Đóng cửa nghỉ ngơi dăm bữa, không ai chết đói được đâu! Rồi sẽ trở lại bình thường thôi!
Tức thì đám quan binh hung hãn như cọp như sói xông lên. Trong sảnh là một bầy gà mái rụt rè, trong đó không ít những thiếu nữ tuổi xuân mơm mởn thướt tha lộng lẫy. May nhờ kỷ luật Nội xưởng rất nghiêm, không có phiên tử nào dám thừa cơ giở trò, cho nên không có nhiều cô nương la thét vì sợ hãi lắm.
Dương Lăng kéo ghế ngồi, chợt chạm phải mảnh vải cất vào trong ống tay áo khi nãy, bèn lặng lẽ lấy ra xem. Thoạt mới nhìn thì y nhíu mày, nhìn kỹ một hồi mới chợt bật cười phì, cười xong lại nghĩ: "Không ngờ giữa mình và mã tặc phản nghịch lại có mối quan hệ phức tạp như vậy, hơn nữa người ta còn là phụ nữ đã có chồng". Thế là sắc mặt không khỏi trở nên u sầu, y thở dài sườn sượt.
Ngũ Hán Siêu thấy đại nhân mình tay cầm mảnh vải, thoạt đầu nhíu mày trầm tư, tiếp đến thì nhoẻn miệng cười, sau cùng mặt lại như quả mướp đắng, thì cũng tò mò lặng lẽ sáp lại gần liếc nhòm.
Mảnh vải được bày hờ hững trên vạt áo của Dương Lăng, may nhờ Ngũ Hán Siêu tinh mắt nên nhìn thấy được rõ ràng. Chàng thấy trên đó vẽ bốn hình vẽ đơn giản màu đỏ: trên cùng là một đôi môi, kế bên là một trái tim, bên dưới lại là một đôi môi, bên cạnh lại là một thỏi vàng màu đỏ.
Ngũ Hán Siêu rất lấy làm kỳ lạ: “Thiên thư gì thế này? Không phải là hai cái miệng, một trái tim, một thỏi vàng sao? Vẻ mặt của đại nhân như vậy, chẳng lẽ đã nhìn thấy manh mối gì rồi à?”
Chàng ta cau mày suy nghĩ thật lâu, nghĩ đến nát óc vẫn không hiểu ra thâm ý trong đó...
*****
Trốn khỏi "Diễm Vân Lâu", Thôi Oanh Nhi hoang mang đau đớn chạy lang thang một hồi mới tránh vào bóng râm dưới bức tường cao của một ngôi nhà lớn. Nàng cảm thấy cả người lạnh run, không dám lộ diện ngay cả dưới ánh trăng.
Sao nay lại ra nông nỗi này? Mình vốn là hảo hán lục lâm tiếng tăm vang dội, là thủ lĩnh sơn trại người người phục tòng, khắp tam sơn ngũ nhạc có ai không tin phục? Là nữ trung hào kiệt ra vào Thái Hành sơn, đám cướp đều phải cúi đầu. Xưa nay mình quang minh lỗi lạc, ngửa mặt không thẹn với đất trời, cúi mặt không hổ với phu quân, nay còn mặt mũi nào mà đi gặp Dương Hổ, mà đi gặp cha mẹ đây?!!
Mãi thật lâu sau Thôi Oanh Nhi mới bình tĩnh lại. Nàng thầm nghĩ: "Dương Lăng là người xem trọng lời hứa lại hổ thẹn với mình, ắt sẽ thủ tín. Sau hôm nay, chỉ cần Dương Hổ không rắp tâm tạo phản nữa, y sẽ không làm gì bất lợi với bá tánh Bá Châu. Có y chiếu cố, sơn trại cũng sẽ không bị chèn ép quá gắt gao nữa.
Hổ ca chuộng sĩ diện, vạn lần không thể huynh ấy biết được chuyện này. Mình sẽ đi gặp huynh ấy lần nữa, để cho huynh ấy khỏi đổ cái chết của mình lên người Dương Lăng rồi lại vướng thân vào mà mất mạng. Rồi sau đó mình sẽ tìm một nơi nào đó tự sát để chấm dứt mọi thứ."
Thôi Oanh Nhi lau khô lệ nơi khoé mắt. Nàng đoán Hoắc Ngũ Thúc không trà trộn được vào Diễm Vân Lâu hoặc không tìm được nơi ở của Dương Lăng cho nên đã không công ra về. Do đó nàng lại cẩn thận né tránh phu canh và quan binh tuần đêm, trở về trang viên của Vương Long.
Từ đầu đến cuối không đến hai canh giờ. Lúc xuất phát thì Hồng Nương Tử hăng hái bừng bừng, cho dù đối diện với thiên quân vạn mã cũng không sợ, nay không ngờ lại có cảm giác không dám gặp mặt ai. Càng gần tới chỗ ở bước chân của nàng càng do dự, thật lâu sau mới hồi phục tâm tình. Kéo ngay vạt áo, vuốt sơ tóc tai, nàng khoác lên dáng bộ ung dung chậm rãi bước vào phòng.
Thấy trong phòng đang có nến cháy, Thôi Oanh Nhi giật mình thất kinh. Từ lúc vào ngụ trong này, tuy rằng ở nơi nhà cao cửa rộng này đốt một ít nến cũng sẽ không bị người ngoài trông thấy, nhưng hai người vẫn không dám tùy tiện thắp nến. Sao hôm nay Ngũ Thúc lại châm đèn?
Hồng Nương Tử lật đật chạy vào, kinh hãi thấy Hoắc Ngũ Thúc đang ngồi bệt dưới đất, lưng dựa vào mép giường, trên mặt đất có bãi máu nôn đen thẫm. Nàng cả kinh, vội hỏi:
- Ngũ Thúc, người bị làm sao vậy?
Vừa hỏi nàng vừa chạy ào tới đỡ lấy lão. Ánh mắt Hoắc Ngũ Thúc đang u ám, vừa trông thấy nàng vào ánh mắt chợt sáng lên, lão cả mừng gọi:
- Oanh Nhi? Ta còn tưởng con thấy ám ký của ta nên đã rời khỏi Đại Đồng rồi chứ? Sao con vẫn... vẫn chưa đi?
Thôi Oanh Nhi vội cầm lấy cổ tay lão, vừa bắt mạch vừa đáp:
- Con... con đã thấy kí hiệu của thúc thì làm sao mà yên tâm cho được? Cho nên con đã ra ngoài... ra ngoài tìm thúc, lòng vòng nửa đêm không thấy bóng dáng của thúc đâu, bèn trở về... Ngũ Thúc... thương thế của thúc...
Vừa nói đến đây, nàng chợt kinh hãi kêu lên. Mới bắt mạch, nàng liền dò thấy tâm mạch của Hoắc Ngũ Thúc đã bị phế cả, cho dù là thần tiên cũng khó lòng cứu được. Hoắc Ngũ Thúc bật cười to, lại thổ ra một búng máu tươi, rồi hổn hển:
- Ngũ Thúc cả đời làm cường đạo, một đôi ưng trảo vặn gãy không biết bao nhiêu cái cổ, hôm nay có chết cũng là đúng ngày, có gì đáng buồn chứ? Con về thì tốt rồi! Ngũ Thúc chỉ lo phải chết lẻ loi trơ trọi ở nơi này, không thể được chôn cất tử tế, trở thành cô hồn dã quỷ lang thang vất vưởng.
Nói rồi lão run rẩy vươn tay vuốt nhẹ mái tóc Thôi Oanh Nhi. Môi Thôi Oanh Nhi run run, lệ nóng lăn dài trên đôi má ngọc. Hoắc Ngũ Thúc nói tiếp:
- Ngũ Thúc không xong rồi! Con về nói cho đám huynh đệ cũ một tiếng, rằng Hoắc Lão ngũ đi xuống âm tào địa phủ trước, đánh cướp lấy mấy ngọn núi, đợi chúng huynh đệ cùng tới an cư. Ha ha ha! Con đừng khóc nữa! Chốc nữa chôn Ngũ thúc rồi, con hãy mau chóng rời khỏi đây tới thôn Hình. Sau này... đừng có như con nít nữa...
Thôi Oanh Nhi rơi lệ gật đầu, thút thít đáp:
- Ngũ Thúc, ai đã khiến cho thúc bị thương vậy? Thúc hãy nói cho con, con phải báo thù cho thúc. Diễm Vân Lâu kiếm đâu ra cao thủ như vậy chứ?
Nhớ lại võ công xuất thần nhập hoá của tay tướng quân có vóc người hơi mập nọ, lòng Hoắc Ngũ Thúc vẫn còn cảm thấy rét lạnh. Công phu kẻ nọ so với Thôi lão đại phải còn cao hơn ba phần. Oanh Nhi tuy là kỳ tài tập võ, nay có thể nói là trò giỏi hơn thầy, nhưng con bé há có thể là đối thủ của tên tướng quân không rõ tên họ đó sao?
Triều đình là nơi ngọa hổ tàng long, có trời mới biết được trong quân đội còn có bao nhiêu cao thủ như vậy, không thể khinh thường được. Oanh Nhi đơn thương độc mã, lại là một đứa con gái, nếu chẳng may sơ suất rơi vào trong tay đám tửu sắc đó...
Ánh mắt Hoắc Ngũ Thúc chợt loé lên, rồi lão cố lắc đầu mỉm cười nhằm che giấu:
- Con bé này, sao biết thúc đã đến "Diễm Vân Lâu" vậy? Ta... ta vốn chỉ muốn đi xem thử có cơ hội ra tay hay không thôi, nhưng nửa đường... chạm phải một kẻ dạ hành. Hai bên không rõ lý lịch của nhau, đều sinh địch ý, thế nên... nên đã hồ đồ đánh luôn. Ngũ Thúc bản lĩnh không bằng người... khụ khụ khụ...
Vết máu đen sì chậm rãi men theo khoé miệng lão chảy ra. Tuy Thôi Oanh Nhi thấy lão bị thương nặng như vậy nhưng trong lòng vẫn còn mang chút hi vọng, nàng bèn vội vạch vạt áo của Hoắc Ngũ Thúc ra. Vừa kéo ra, nàng đã thấy trên ngực lão một dấu chưởng hằn rõ năm ngón đen ngòm.
Thôi Oanh Nhi cả kinh. Ngày trước khi cùng nhị thiếu chủ Lý Đại Nghĩa so chiêu nàng đã từng trông thấy độc chưởng như vậy. Lúc Dương Hổ mang Ngũ Hán Siêu bị thương vào kinh nàng lại mục kích lần nữa. Ngũ Thúc ẩn náu trong núi rừng lâu năm, không biết môn võ công này nhưng nàng lại nhận biết rõ ràng. Nàng buột miệng kêu lên:
- Vết chưởng này... đây là... đây là công phu độc môn Độc Sa Chưởng của giáo chủ Di Lặc Lý Phúc Đạt!
Lấy hết tinh thần và sức lực để nói những lời đó với nàng, hơi thở Hoắc Ngũ Thúc càng lúc càng mỏng. Nhưng vừa nghe Hồng Nương Tử nói vậy lão chợt run bắn người, cố gắng suy nghĩ: "Giáo chủ Di Lặc giáo Lý Phúc Đạt? Hóa ra... Hóa ra hắn náu mình trong quân đội. Bản lĩnh thật lớn! Khó trách bất luận là người triều đình hay kẻ thù Di Lặc giáo năm xưa đều không tìm ra được hắn. ‘Đại ẩn là ẩn giữa triều’ (1), có ai ngờ được một vị đại quan của triều đình lại chính là khâm phạm đang bị truy nã chứ?"
Thân thể Hoắc Ngũ Thúc run lên vì kích động. Lão bấu chặt lấy tay Thôi Oanh Nhi, thở dốc. Lão muốn thổ lộ sự thật với nàng, kể lại phát hiện của mình, nhưng lại chỉ có thể từ trong cặp môi đang run rẩy thều thào:
- Lý... Phúc Đạt... trốn... trốn... trong “quần”...
Lúc lão nói đến chữ "quân", khí huyết xông ngược khiến cho khí lực mất hết, chữ "quân" bị phát âm thành chữ "quần" (nghĩa là đám/bầy/nhóm,…). Liền đó lão "hự" một tiếng, máu miệng trào ra ồng ộc, hai mắt trợn trừng, bỏ mình tuyệt khí.
- Ngũ Thúc! Ngũ Thúc?
Thôi Oanh Nhi gục mặt xuống gối lão khóc rống một trận. Ánh trăng sáng ngời như ganh đua với tuyết sương, rọi vào trong căn phòng trống rỗng, lạnh lẽo thê lương. Một người con gái đang gục đầu khóc ngất bên một thây ma.
Trời còn chưa sáng, sĩ tốt đi tuần trong thành đã có phần mệt mỏi. Một đội quan binh đang ôm trường thương chậm rãi đi trên tường thành. Bỗng trong đội có một tay binh sĩ trỏ tay về phía xa kêu lên:
- Mau nhìn kìa! Mau nhìn kìa! Trong thành cháy rồi!
Đám quan binh chen nhau tới mép tường thành, ngước mắt trông theo. Có người la lên:
- Úi chao, con đường đó không phải là chỗ phủ họ Vương sao? Là nhà của Vương bán nhai đó, đã bị niêm phong từ lâu rồi mà, sao lại cháy vậy? Lửa cháy to quá!
Nhân cơ hội này, một bóng người nhanh nhẹn từ một lỗ châu mai trèo lên, thoắt cái đã băng qua đầu thành rộng tới mấy trượng. Bóng người nhấn một tay lên lỗ châu mai, phi thân nhảy ra khỏi tường thành, nằm lại nơi bàn tay ấn xuống là một chiếc móc câu đen nhánh.
Trên tường thành cao cao, sợi dây thừng chắc chắn buộc vào móc câu nọ khe khẽ đong đưa. Trên tường thành thẳng đứng như gương cao tới năm trượng, một bóng người khéo léo như vượn thoắt cái đã leo xuống dưới thành. Người nọ chạy dọc theo chân tường một hồi rồi náu mình vào trong bóng râm dưới thành...
Chương 216 Trời sinh số khổ
Dương Lăng sai người đưa toàn bộ đoàn tú bà Thủy Diệp Tử về nha môn tuần phủ. Những người này vẫn có thể bình yên vô sự nên y phỏng đoán có đến tám chín phần mười là bọn họ không hề liên can gì tới vụ án này. Huống hồ trong dịch quán cũng không có chỗ nào để bố trí ổn thỏa, mục đích chủ yếu của việc giải bọn họ về nha môn tuần phủ là để đánh lạc hướng dư luận, khiến đối thủ đoán không ra y đã nắm được mấy phần tình hình.
Dương Lăng lặng lẽ trở về dịch quán. Lúc này trời hãy còn chưa sáng, y cũng không muốn kinh động kẻ khác bèn bảo thân quân đi nghỉ ngơi, còn y mang mấy người Ngũ Hán Siêu trở về thư phòng, thắp đèn, sau đó có thân quân pha trà mang lại.
Liễu Bưu đã là một trong hai đại thiên hộ của Nội xưởng, phẩm hàm cực cao. Dương Lăng lại không phải là kẻ thích kiểu cách vênh mặt hất hàm, há có thể bảo hắn cải trang làm lính hầu đi dự tiệc, cho nên hắn không hề đi theo y. Nhưng Liễu Bưu là người kiểm soát việc an ninh của cả dịch quán, nên khi Dương Lăng vừa về lập tức có phiên tử bẩm báo, hắn liền vội khoác áo rời giường, chạy đến thư phòng.
Thấy vẻ mặt đăm chiêu của Dương Lăng, Liễu Bưu bèn cười trêu chọc:
- Đêm nay đại nhân đi dự tiệc, ti chức còn tưởng rằng đại nhân sẽ chăn ấm nệm êm, tiêu hồn thực cốt, vốn định đợi mặt trời lên ba con sào mới đi giục mời đại nhân trở về. Sao mới nửa đêm mà đại nhân đã trở về rồi, chẳng lẽ không có cô nương nào vừa ý hay sao?
Dương Lăng gượng cười mấy tiếng, rồi mới nghiêm mặt lại bảo:
- Liễu Bưu, đừng nói chơi nữa. Diễm Vân Lâu này nguy hiểm trùng trùng, ta thực không nghĩ ra kẻ nào muốn đối phó với ta.
Liễu Bưu vừa nghe, thần sắc liền trở nên căng thẳng, vội hỏi:
- Gì chứ? Nơi đó bá quan tụ tập, hộ vệ như mây, chẳng lẽ lại có người trà trộn vào hành thích? Hán Siêu, chuyện này là thế nào?
Ngũ Hán Siêu hổ thẹn đáp:
- Tại hạ cũng không rõ, chỉ nghe đại nhân nói hình như là bị tú bà của Diễm Vân Lâu bỏ thuốc, bị đại nhân phát hiện. Song điều kỳ lạ chính là, đại nhân mới vừa hạ lệnh tra hỏi, kẻ chủ mưu nọ đã bị người ta đâm chết, giấu xác dưới thang gác. Chuyện này không hề đơn giản chút nào.
Dương Lăng đằng hắng một tiếng rồi kể lại sự tình một lượt, chỉ lượt bỏ quá trình "vì tình cờ" mà Hồng Nương Tử đã chạy vào "chịu nạn" thay cho người ta. Nhưng vì y không cách nào thản nhiên đối diện với sự thật rằng cả hai đã phát sinh quan hệ, cho nên vẫn luôn tránh không nghĩ tới nó. Lúc này kể lại chuyện vừa rồi, những hình ảnh khiến con tim y đập thình thịch không hẹn mà lại hiện lên: Chiếc eo thon nhỏ nhắn mềm mại mà khoẻ khoắn khiến tơ liễu phải vài phần ghen tị, bụng dưới trơn phẳng, xương chậu lượn cong ưu mỹ, hai cặp đùi thẳng tắp mà săn chắc, phác họa nên phần trung tâm rạng ngời hình chữ V...
Điều khiến y cảm thấy ấm ức đó là y nhớ rất rõ tất cả những gì đã xảy ra: thân thể mềm mại dẻo dai và trơn nhẵn mà y nằm đè lên như loài rong biển dập dờn theo sóng, đong đưa theo sự kích thích của y, rồi lại như tờ giấy Tiết Đào trắng tươm toả ra hương thơm nhàn nhạt, mặc y bôi vẽ lên đó những kích thích của nhục dục.
Tiếng khóc nỉ non nghẹn ngào, tiếng rên rỉ du dương, tiếng van nài khẩn cầu không rõ, từng âm từng tiết như tiếng suối chảy róc rách trong khe đá, đưa y - vốn đã ngấm rượu mạnh nay lại càng thêm điên cuồng bởi thuốc - bay thẳng lên thiên đường...
Liễu Bưu thấy đại nhân mình kể xong rồi ngồi ỳ ngẩn ngơ đến xuất thần thì tưởng rằng đại nhân mình đang khổ tâm lo nghĩ đến kẻ chủ mưu đằng sau, bèn xắn tay áo lên cười gằn:
- Đại nhân, việc ấy có khó gì. Vị Liễu tiểu thư nọ chẳng phải đã rơi vào trong tay chúng ta ư? Hà hà! Một trăm hai mươi tám cực hình của Nội xưởng một khi sử ra sẽ khiến xương cốt ả vụn nát không còn gì, ti chức thực không tin một ả con gái nho nhỏ vẫn có thể kín miệng như bình!
Ngũ Hán Siêu vừa nghe Dương Lăng kể lại vừa ngẫm nghĩ kỹ về chuyện này. Theo chàng suy nghĩ, nếu như Hồng Cô bị kẻ khác giết người diệt khẩu, vậy lý do mà Liễu Phi Vũ tiếp cận Dương Lăng tuyệt không chỉ đơn giản như ả nói.
Nhưng nếu đối phương có thể tiếp cận đại nhân song lại không trực tiếp ra tay hãm hại, vậy tám chín phần mười không phải là phản tặc phản nghịch oán hận triều đình đến thấu xương, mà rất có thể là kẻ có mưu đồ khác, thậm chí là người trong giới quan trường.
Bọn chúng dâng tặng một đại cô nương xinh đẹp, trong trắng như nước cho đại nhân, mưu đồ ắt hẳn là để sắp đặt tai mắt bên người đại nhân, hoặc lấy cớ cưỡng bức con gái thiên kim nhà quan mà hặc tội đại nhân.
Kẻ nào có năng lực bức bách một vị tiểu thư nhà quan lại thực hiện chuyện nhục nhã này, lại nắm rõ hành tung của đại nhân như lòng bàn tay, đồng thời có thể khiến tú bà của Diễm Vân Lâu nghe theo răm rắp, vừa thấy tình thế không ổn liền có thể lập tức giết người diệt khẩu? Hơn nữa một khi thành công, hắn liền sẽ có thể sử dụng tin tức tình báo từ phía đại nhân, hoặc mượn lý do này để vạch tội đại nhân?
Vừa nghĩ đến đây, Ngũ Hán Siêu chợt sáng mắt lên, liền bàn:
- Liễu đại nhân! Tại hạ và ngài đều biết vị tiểu thư đó nói xằng, nhưng cũng không thể vì mụ tú bà chết rồi mà vô chứng vô cớ buộc tội cô ả muốn mưu hại đại nhân. Đã dâng hiến tấm thân xử nữ của mình mà lại còn bị nha môn cáo buộc là phường trộm cướp muốn mưu hại mệnh quan triều đình! Việc như vậy há chẳng quá hoang đường ư? Nếu ả đủ thông minh liền có thể biết chúng ta sẽ không thể dùng cực hình với cô ả, ả chỉ cần cắn chặc răng kiên quyết không khai, khi đó chúng ta có thể làm gì?
Nghe vậy Liễu Bưu mới sực nhớ hiện tại chỉ mới hoài nghi, không hề có bằng chứng thật sự gì. Hơn nữa, hiện tại quan viên khắp Đại Đồng đang bị Cốc Đại Dụng trị cho điên đầu, nếu thật sự vô chứng vô cớ mà bọn họ lại tra khảo một vị tiểu thư con nhà quan lại, thì ngay cả Hoàng thượng cũng sẽ không biết phải trả lời thế nào. Hắn bèn do dự hỏi:
- Vậy... Ngũ huynh có diệu kế gì không?
Ngũ Hán Siêu cười khổ nói:
- Kẻ đáng nghi quá nhiều cho nên không dễ gì tìm ra kẻ ngấm ngầm lập mưu bầy kế. Có điều ti chức thấy có một kẻ đáng ngờ nhất, sao chúng ta không thử dùng kẻ này gạt cô ta? Nếu vẫn không moi ra được chút tin tức gì, thì... chúng ta sẽ lại nghĩ cách khác cũng không muộn.
Dương Lăng chăm chú:
- Ai là kẻ đáng ngờ nhất?
Ngũ Hán Siêu đáp:
- Tuần phủ Đại Đồng Hồ Toản! Vương Long và Lý Nghĩa đều là tướng lĩnh dưới quyền của hắn. Hắn ta tuy còn chưa bị Hoàng thượng trách mắng, nhưng ai sáng suốt đều nhìn thấy cho dù hắn không dâng biểu xin từ quan, thì sau khi Hoàng thượng hồi kinh ngài cũng sẽ cho quan viên khác thay thế hắn. Hoạn lộ của kẻ này đã đến nước đường cùng rồi.
Đại vương gia là hoàng thân; Dương tổng chế lại có quan hệ thân thiết với đại nhân, được đại nhân chiếu cố, Hoàng thượng cũng đã để lộ ý không truy cứu ông ta. Duy chỉ Hồ Toản là bị vứt sang một bên, hắn há sẽ không ghi hận trong lòng? Huống hồ hắn cùng đại nhân xưa nay bất hoà.
Vả lại, hắn làm quan ở Đại Đồng nhiều năm, tay chân nhiều như rết, há lại có ít thuộc hạ trung thành? Cũng chỉ có hắn mới có năng lực nắm rõ toàn bộ hành tung của đại nhân, mới có năng lực bức bách thủ hạ có quan hệ lợi ích với hắn và thiên kim của họ dốc sức cho mình.
Hắn làm vậy có lẽ không nằm ngoài việc muốn nắm thóp đại nhân, ép đại nhân ra mặt xin tha và giữ chức cho hắn, thậm chí nhất cử lưỡng tiện, trèo lên cùng con thuyền với đại nhân. Thường nói rằng: "Quen biết với người trong kinh dễ làm quan", phụ thân của ti chức là quan địa phương, đã nghe nhiều chuyện bẩn thỉu diễn ra ở nơi biên giới xa xôi này. Hừ! Nếu như Hồ Toản có con gái trẻ tuổi xinh đẹp, e rằng chuyện tốt lành này đã không đến lượt vị thiên kim tiểu thư nhà quan Chiếu Ma nọ rồi.
Nghe vậy Dương Lăng thoáng đỏ mặt, ngượng ngập:
- Việc này... hình như không thể nói là "chuyện tốt" gì đâu hả? A hèm, vậy ngươi có kế sách gì hay, hãy mau nói ra nghe thử.
*****
Liễu Phi Vũ bị nhốt trong một căn phòng trống trải, khắp nơi đầy bụi bặm lẫn mạng nhện, xem ra đây là một gian nhà kho bỏ không đã lâu. Nàng ngồi ôm gối giữa phòng, ánh đèn cầy mờ căm. Thỉnh thoảng nghe thấy tiếng chuột chạy lại sợ giật nảy mình.
Ngoài cửa vang lên tiếng khoá sắt kêu lách cách, "két" một tiếng, một người đàn ông vận áo quan màu xanh bước vào. Liễu Phi Vũ cuống quít đứng dậy, hoảng sợ lui một bước về phía sau.
Cửa được đóng lại. Viên quan đó trông rất trẻ, chỉ khoảng hơn hai mươi tuổi, mỉm cười hết sức hoà nhã. Hắn cất giọng với Liễu Phi Vũ:
- Liễu tiểu thư! Đêm qua uất ức cho cô phải ngủ lại nơi này, ngày mai đại nhân sẽ đích thân thẩm vấn. Nếu thật sự cô không có âm mưu gì, đại nhân sẽ đích thân thả cô đi.
Liễu Phi Vũ thoáng bình tâm lại, khẽ khàng chỉnh trang thi lễ rồi đáp:
- Đa tạ đại nhân! Không biết tôn tính đại danh của đại nhân là chi?
- Ta à?
Liễu Bưu cười cười, rồi bất thình lình sải bước tới trước. Liễu Phi Vũ kinh hãi lui vội mấy bước, hai tay ôm ghì lấy cây cột nhà, giọng run rẩy:
- Ngươi... ngươi muốn làm gì? Không được qua đây, còn qua nữa ta sẽ la lên đó!
Liễu Bưu ngẩn người, có phần khó xử. Đoạn hắn vờ liếc về phía cánh cửa rồi mới nhỏ giọng bảo:
- Đừng sợ! Ta được cấp trên căn dặn đến đây thăm viếng tiểu thư, cô yên tâm. Hồng Cô chỉ vì tham cái lợi nhỏ nên mới giúp cô hạ dược, chỉ cần khẩu cung hai người khớp với nhau. Dương đại... khụ khụ, Dương đại khâm sai cũng sẽ không làm gì được cô.
Hai mắt Liễu Phi Vũ sáng rỡ, bên bờ tuyệt vọng chợt thấy có cứu viện liền mừng rỡ như điên, nàng không khỏi cả mừng bước tới níu chặt lấy tay Liễu Bưu hỏi lại:
- Cái gì? Ngươi cũng là người của chúng ta? Giáo chủ quả nhiên... quả nhiên thần thông quảng đại.
Tay nõn như sen, chỉ thấy tay áo xanh khẽ lướt, hoa mai bềnh bồng, khiến Liễu thiên hộ từng dạo xóm làng chơi nhưng chưa từng tiếp xúc với đại thiểu thư đoan trang trong trắng đỏ ửng cả mặt mày. Hắn nhất thời hoảng hốt không kịp hiểu rõ lời nàng, lúng túng đáp lời:
- Đương nhiên! Đại nhân chúng ta đương nhiên thần thông quảng đại. Cô và Dương Lăng đã nói những gì rồi, có từng tiết lộ cơ mật gì chưa? Mau nói cho ta biết, ta sẽ báo cho Hồng Cô...
- Đại nhân?!
- Giáo chủ!?
Hai người đồng loạt la lên, liền buông tay ra, cùng giật lùi lại một bước. Liễu Phi Vũ tròn xoe đôi mắt, khuôn mặt thanh tú đỏ bừng, giận dữ mắng:
- Ngươi gạt ta!
Liễu Bưu lại trỏ vào nàng, mừng rỡ như điên:
- Di Lặc giáo! Ngươi là người của Di Lặc giáo!
Mặt Liễu Phi Vũ tức thì trắng bệch, cắt không còn hột máu. Trong đầu nàng tràn ngập cảnh tượng khủng khiếp cả nhà bị tịch biên xử trảm, trói cột thiêu sống, ngũ mã phanh thây, lăng trì tùng xẻo.
Cánh cửa lại “loảng xoảng” mở ra. Dương Lăng vận mãng bào đai ngọc ngang nhiên bước vào, hai bên là hai hàng thị vệ hông giắt bội đao, tay cầm bó đuốc phừng phừng bước theo vào, dàn ngang thành chữ nhất. Dương Lăng vỗ tay cười bảo:
- Thật lợi hại, Di Lặc giáo quả nhiên nhúng tay vào khắp mọi nơi. Bản quan thật lấy làm tò mò, rốt cuộc Đại Đồng còn có bao nhiêu người của các ngươi?
Đoạn y nghiêm mặt lại, đanh giọng quát:
- Canh chừng ả! Lập tức đi tới nha môn tuần phủ, bản quan muốn thẩm vấn Liễu Quang ngay bây giờ!
Đại lao bên trong nha môn tuần phủ lại bị giày vò đến thảm. Nửa đêm nửa hôm đang say giấc nồng thì Dương Lăng bỗng dẫn một đám phạm nhân đến. Tuy rằng đám phạm nhân oanh oanh yến yến muôn vẻ yêu kiều, trông hết sức vừa mắt, nhưng chỉ trong chớp mắt những người đẹp đều bị tống vào trong ngục nữ. Đám cai ngục bên ngoài vốn bò ra khỏi chăn mền chỉ để thưởng thức quang cảnh này không khỏi ôm lòng oán thán.
Cực khổ thu xếp cho đám phạm nhân cả nam lẫn nữ đó xong xuôi, bọn họ mới vừa trở về thay đồ đi ngủ, chăn nệm vừa đắp ấm được một tí thì lệnh trên lại đưa tới. Lần này chính là khâm sai đại nhân đích thân tới đại lao. Quan trên lính dưới còn ai dám ngủ yên trong nhà, cả bọn lật đật bò ra khỏi giường mà chạy tới chầu chực.
Quan cai ngục run rẩy nghênh đón Dương Lăng và đám phiên tử Nội xưởng trông như sói như cọp vào. Vừa nghe mấy đại nhân mình đang giam giữ đích thật là tín đồ Di Lặc giáo, hắn liền vội dẫn bọn họ vào đại lao.
Mặc dù có nguyên nhân là phiên tử Đông xưởng giám sát nên cai ngục không dám tự tiện lạm dụng cực hình theo cảm tính, nhưng bản thân đám cai ngục cũng biết tám chín phần mười những đại nhân đó vẫn còn có thể trở ra ngoài tiếp tục làm quan, cho nên chỗ ở không thể sơ sài, vì vậy mấy chục vị quan lại lớn nhỏ đều được sắp cho mỗi người ở riêng một gian. Men theo dãy hành lang âm u, rẽ qua mấy căn phòng giam, bọn họ trông thấy một người đang nằm co quắp trên chiếc giường lò đằng sau những chấn song gỗ.
Quan cai ngục gọi to mấy tiếng, không thấy Liễu Quang đáp lời, gã sợ chọc cho Dương Lăng nổi giận bèn vội giật lấy chìa khoá từ tay một tên cai ngục mở cửa phòng giam, xông vào vỗ vai viên quan nọ, gọi:
- Liễu đại nhân, Liễu đại nhân, ngài hãy mau tỉnh lại... a!
Hắn la toáng lên, lảo đảo chạy ra ngoài, mất hồn bạt vía thưa:
- Đại... đại nhân! Liễu đại nhân… Ông ấy... ông ấy chết rồi!
- Cái gì?
Dương Lăng cả kinh, liền đó trầm ngâm thật lâu, chỉ còn tiếng lửa cháy lách tách trên những bó đuốc. Mãi một lúc sau, Dương Lăng mới chợt giận dữ quát:
- Nguyên nhân cái chết là gì? Ngỗ tác ở đâu? Khám kỹ cho ra cho ta!
Tiếng quát của y vang vọng khắp trong phòng không dứt. Đám đại nhân trong ngục bị đánh thức liền nắm lấy chấn song gỗ vọng nhìn sang. Ai nấy đều có thương tích trên người, sắc mặt hững hờ, không biết đang có cảm giác gì.
Đêm hôm khuya khoắt ngỗ tạc bị gọi dậy, hớt ha hớt hải chạy lại xem xét một hồi, song lại không kiểm tra ra được nguyên nhân cái chết của Liễu Quang. Gã đành dè dặt thưa với Dương Lăng:
- Đại nhân! Hẳn là Liễu đại nhân vì... vì thân thể yếu đuối, không chịu nổi cực hình, cho nên bị thương nặng mà mất.
Dương Lăng nghe vậy thì chỉ cười nhạt không nói, qua khoảng thời gian chờ đợi khám nghiệm tử thi y đã bình tĩnh trở lại. Dương Lăng cúi người bước vào phòng giam, quan sát thi thể của Liễu Quang một lúc, rồi xoay người lại hỏi:
- Trịnh điển ngục (quan cai ngục - ND)! Hôm nay tra tấn Liễu đại nhân bao gồm những ai? Trông coi những phòng giam này có những ai? Dẫn hết đến đây cho ta!
Quan cai ngục họ Trịnh vội vàng gọi mấy tên cai ngục bên cạnh lại hỏi mấy câu, rồi bảo bọn họ đến trước mặt Dương Lăng. Dương Lăng quan sát năm sáu tên cai ngục trước mắt, rồi lãnh đạm bảo:
- Liễu Quang là phạm nhân quan trọng, là người của Di Lặc giáo. Nhưng thật khéo làm sao, trong số các quan viên bị bỏ ngục, vị đại nhân Chiếu Ma quan có phẩm trật không được cao này lại được các vị chăm sóc phải đi đời nhà ma. Bản quan đành mời các vị theo bản quan trở về trò chuyện một chút. Mang tất cả đi!
Canh năm, gà gáy, trời đã sáng.
Dương Lăng không dám giữ những phạm nhân quan trọng ở lại nha môn tuần phủ nữa. Lúc này nơi có thể tin cậy được chỉ còn dịch quán đã được biến thành doanh trại quân đội của y. Nhà kho được sửa sang lại thành phòng giam tạm, mấy tên cai ngục được tách ra giam giữ, luân phiên đưa ra ngoài tra hỏi. Phiên tử Nội xưởng cố gắng tìm chỗ mâu thuẫn trong lời khai của những kẻ này để từ đó tìm ra kẻ khả nghi. Tra hỏi kỹ càng, dùng cả cực hình, không lo sẽ tìm không ra nguyên nhân chân chính gây nên cái chết của Liễu Quang.
Tuy nhiên Dương Lăng cũng không trông mong tìm kiếm được bao nhiêu điều cơ mật từ những tên cai ngục đã gia nhập vào Di Lặc giáo. Nghĩ đi nghĩ lại, y thấy cũng chỉ có Liễu Phi Vũ là có thể biết được chút tin tình báo có giá trị, thế là bèn sai người dẫn cô nàng lên.
Liễu Phi Vũ bị đưa vào phòng thẩm vấn. Trông thấy trong phòng đầy ắp những dụng cụ tra tấn loang lổ vết máu, khuôn mặt không khỏi lộ ra vẻ sợ hãi, song cô nàng lại vẫn ương ngạnh hỏi:
- Cha ta đâu? Các ngươi đã làm gì ông ấy rồi?
Dương Lăng không đáp, chỉ bảo:
- Bản quan đã biết nhân thân của cô, cô nên biết triều đình dùng thủ đoạn gì để đối phó với tà giáo! Liễu cô nương, cô còn nhỏ tuổi, lại thông minh xinh đẹp, đừng làm lỡ tiền đồ quý báu của mình, hãy ghìm cương trước vực mà lập công chuộc tội, nếu như vẫn cứ u mê không tỉnh thì sẽ bị chém đầu mất mạng. Hẳn cô sẽ có lựa chọn thông minh cho mình chứ?
Liễu Phi Vũ lo lắng hỏi:
- Cha ta đâu? Các ngươi đã làm gì ông ấy rồi?
Dương Lăng lại nói tiếp:
- Mạng của cô, và mạng của ông ấy, theo luật đều là tử tội, bọn ta còn cần phải làm gì? Có điều nếu như cô thành thật cung khai, bản quan có thể tha cho mạng sống, xét xử khoan hồng. Cô có chịu khai hay không?
Liễu Phi Vũ thầm nghĩ: "Cha đã rơi vào trong tay các ngươi, thân thế của ta cũng đã bị quan phủ nhận biết, nhưng nếu ta khai báo, y thật sự sẽ chịu bỏ qua cho chúng ta ư? Y đã gạt ta một lần ở 'Diễm Vân Lâu', kẻ này xảo quyệt như vậy, làm gì mà sẽ nói thật? Cha không khai, ta cũng không khai, một khi nhị thiếu chủ biết được tin tức nhất định sẽ đến cứu ta."
Thấy cô nàng lắc đầu không đáp, Dương Lăng chỉ đành khoát tay. Hai tay phiên tử lập tức xông tới, không chút thương hoa tiếc ngọc treo cô nàng lên giá, nhét những ngón tay thon thả vào trong bộ kẹp tay, chuẩn bị thực hiện cực hình.
Thấy đám phiên tử chuẩn bị tra tấn, Dương Lăng không nỡ nhìn bèn đứng dậy để đi ra ngoài. Phiên tử sau lưng chợt gọi giật:
- Đại nhân, ả... ả đã ngất rồi...
- Hử?
Dương Lăng vội xoay người. Y thấy Liễu tiểu thư bị cột trên giá treo, đầu rũ xuống ngực, quả thực đã hôn mê bất tỉnh. Hai tay phiên tử vừa tạt nước lạnh vừa tát vào má cô nàng; quá tức giận lại siết bộ kẹp tay hòng khiến cô nàng đau mà tỉnh lại, nhưng vẫn không hề hiệu quả.
Vốn dĩ bí thuật này của Bạch Liên giáo chỉ truyền dạy cho tín đồ cao cấp dùng để chống lại nỗi đau đớn đến chết đi sống lại do cực hình gây nên sau khi bị quan phủ bắt được, nhằm tránh bại lộ cơ mật trong giáo phái.
Lý Đại Nghĩa lén truyền lại môn này cho cô nàng, mục đích cũng chỉ là vì tiểu cô nương không chịu được cực khổ để luyện công. Môn này lại chỉ cần trui rèn tâm chí, cho nên hắn mang ra dạy để cô nàng chơi cho vui mà thôi. Không ngờ lúc này lại phát huy tác dụng.
Lúc đầu Dương Lăng tưởng rằng cô nàng vị sợ quá nên ngất đi, nhưng đến khi tỉnh lại, vừa mới định tra tấn, cô nàng lại hôn mê bất tỉnh. Ba lần như vậy, Dương Lăng liền đoán rằng cô nàng cũng giống như Vương Long, đều biết bí thuật tự thôi miên.
Đến khi tỉnh lại lần thứ ba, Liễu Phi Vũ thấy Dương Lăng tự cởi trói đưa mình xuống giá, trong mắt không khỏi có tia đắc ý. Dương Lăng ngồi trên ghế, vắt chéo chân, tay cầm chén trà, mỉm cười:
- Khá lắm, biết dùng cách đó để tránh cực hình. Đáng tiếc, bản quan giỏi nhất là đối phó với phụ nữ như cô.
Đoạn y hất hàm sang bên cạnh nói tiếp:
- Khoan hãy ngất đi đã! Đó, có nhìn thấy không, cái thùng nước đó đó.
Liễu Phi Vũ thấy bên cạnh đặt một thùng gỗ cao ngang nửa người, bên trong chứa đầy nước. Nhất thời nàng đoán không ra dụng ý của Dương Lăng, nhưng bản năng lại cảm thấy y không hề có ý định tốt đẹp gì, bèn biến sắc hỏi:
- Ngươi muốn làm gì? Ngươi là quan viên triều đình, không phải là sơn tặc thổ phỉ! Nếu ngươi ô nhục ta, ngôn quan ngự sử cũng sẽ không bỏ qua cho ngươi đâu!
Dương Lăng bật cười thật to một hồi, rồi đáp:
- Mồm mép lợi hại lắm! Thế nhưng bản quan sẽ không để cho kẻ khác có cơ hội chỉ trích bản quan mượn cớ thẩm vấn mà dâm nhục nữ tù đâu.
Lúc này, hai tay phiên tử bê hai cái sọt thật to được trùm kín bằng vải bố toả mùi tanh hôi cực kỳ, chạy vào bẩm:
- Đại nhân, ti chức đã mang đồ tới rồi. Hà! Huy động một đám huynh đệ, đã bươi sạch ở chỗ nước bẩn sau bếp rồi ạ. Ti chức thấy một đống to trên xẻng mà còn thấy nổi da gà nữa là!
Dương Lăng bịt mũi hạ lệnh:
- Được rồi, được rồi! Mau bỏ nó vào thùng đi. Quả thật là chịu không nổi cái mùi này.
- Dạ!
Hai tay phiên tử đáp lời, rồi chạy đến trước thùng nước mở bao vải, bắt đầu trút cái thứ nhìn trông giống như hạt đậu vào thùng. Trong phòng đèn đuốc sáng choang, Liễu Phi Vũ mở to mắt ra nhìn đã thấy rõ thứ bên trong sọt. Lập tức nàng liền muốn ói mửa tại chỗ, toàn thân nổi da gà, cả người toát mồ hôi lạnh.
- Trời ạ!
Bên trong cái sọt là một nùi những thứ màu đỏ sậm quấn lại với nhau, có cái to bằng ngón tay út, dài dài, quấn lại như sợi chỉ, có trắng có đỏ. Chúng quấn vào nhau lúc nhúc, nhơm nhớp. Khi bị thả vào trong thùng nước, chúng mau chóng tản ra, rồi từ từ chìm xuống.
Vào mùa thu Liễu Phi Vũ từng theo cha ra bờ sông câu cá, cũng từng lấy giun làm mồi, nhưng nàng thật sự chưa từng nghĩ một sọt nhung nhúc những con giun lại có thể khiến người ta muốn lộn mửa đến vậy.
Mặt cô nàng trắng bệch, vừa lẩy bẩy chỉ tay vào trong thùng vừa mím chặt môi, không dám mở miệng sợ rằng sẽ nôn ra hết.
Thấy mình cũng hơi độc ác, nhưng Dương Lăng vẫn vờ ra vẻ biến thái cười to:
- Chẳng phải là cô thích ngất đi lắm sao? Ngất đi rồi sẽ không còn thấy đau nữa, thống khổ cỡ nào cũng sẽ không còn biết nữa.
Ừm, được lắm! Thấy thế nào? Cô yên tâm, nước không hề nóng, nhưng cũng không lạnh, cô sẽ không chết cóng đâu. Nếu cô vẫn không khai, bản quan sẽ mặc kệ cô ngất hay mê mà quẳng cô vào trong thùng, đợi khi cô tỉnh lại, những con giun này có thể đã chui vào chỗ nào rồi không biết. Có thể lúc đó chúng sẽ bò từ trong tóc cô ra, cũng có thể sẽ bò vào mũi cô, vào váy cô, vào trong ống giày của cô...
Dương Lăng nháy mắt ra hiệu. Hai tay phiên tử liền nhấc bổng Liễu Phi Vũ lên, nâng về phía thùng nước. Liễu Phi Vũ gần như phát điên, nào còn dám tự ngất nữa. Những thứ đó khiến ai thấy cũng đều sợ đến gần như điên loạn, nếu quả thật bị bỏ vào trong thùng, biết rõ là chúng đang ở trong đó song lại không thể nhìn thấy, nỗi sợ hãi đó quả thật sẽ có thể khiến cho nàng điên lên ngay mất.
Tấm thân yêu kiều yếu đuối của Liễu Phi Vũ chợt bùng phát sức mạnh kinh người. Bốn tên phiên tử giữ tay giữ chân cô nàng rồi cũng phải mất rất nhiều sức lực mới đưa cô nàng lên tới miệng thùng, cố đè cô nàng xuống nước. Khi mông còn cách mặt nước khoảng gang tay, Liễu Phi Vũ đã hoàn toàn suy sụp. Cô nàng bật khóc thét, vừa la hét vừa khẩn cầu:
- Ta khai, ta sẽ khai hết! Xin ngài hãy tha cho ta, ngài muốn ta làm gì cũng được, đừng thả ta vào trong đó. Ta xin ngài... hu hu hu...
Dương Lăng gật đầu! Vừa thấy y ra hiệu, đám phiên tử liền thả cô nàng xuống đất. Liễu Phi Vũ thân thể rã rời, nằm bệt ra đất mà khóc rống, hai tay bấu chặt vào nền đá không nhúc nhích lấy một bước.
"Ôi!" Dương Lăng than thầm trong bụng. Đứng dậy quay đầu lại, thấy mặt đám người Liễu Bưu và Ngũ Hán Siêu đều hiện vẻ không đành lòng, ánh mắt nhìn mình cũng có phần quái dị, y đành vê mũi, nghĩ bụng: "Mụ nội nó chứ, cứ hễ mỹ nữ là được ưu ái! Cũng là tà giáo mà lại được đối đãi khác nhau, ngay cả một người như Liễu Bưu cũng nổi lòng thương xót. Chẳng phải là vì mình không muốn tiểu cô nương hoa mềm lá mịn này bị trầy da tróc thịt nên mới hù dọa một chút thôi sao? Sao bọn họ lại nhìn mình như một kẻ biến thái vậy trời?"
*****
Dưới sự uy hiếp và hù doạ đáng sợ gấp trăm lần cái chết, Liễu Phi Vũ rốt cuộc đã thật tình thú nhận, khai hết toàn bộ.
Tuy những gì nàng biết là có hạn, nhưng đối với Dương Lăng lại hết sức hữu dụng. Mặc dù cô nàng không biết ở Đại Đồng còn có những ai là người Di Lặc giáo nữa hay không, song từ những cuộc trò chuyện thường ngày với cha và Hồng Cô, Liễu Phi Vũ cũng biết được rằng những gian tế quan trọng mà Di Lặc giáo cài ở Đại Đồng đều đã bị trừ bỏ, hiện tại trong đám quan viên văn võ Đại Đồng đã không còn nhân vật quan trọng của tà giáo nữa. Vì vậy y cũng đã có thể an tâm giục xin Hoàng thượng lập tức phóng thích toàn bộ quan viên bị bắt.
Còn như dân chúng bình thường ở tầng chót gia nhập Di Lặc giáo thì trải khắp thiên hạ, không thể diệt trừ hết được. Hơn nữa không có chỉ huy cầm đầu, trừ khi bọn họ tụ tập tạo phản, còn không cũng khó làm nên trò trống gì, cho nên tạm thời có thể bỏ qua không tính.
Vả lại, y cũng biết được vì sao Di Lặc giáo lại bày ra mỹ nhân kế với mình. Với địa vị và danh phận hiện tại của y, nếu biết rõ là có kẻ thù tiềm ẩn nhưng lại không biết đích xác thân thế và mục đích của người ta thì khó tránh làm gì cũng sẽ phải cẩn thận quá mức. Lúc đó y luôn phải cảnh giác đối với những quan viên khác, sẽ có nhiều phán đoán sai lầm ảnh hưởng đến mọi hành động của y, thậm chí vì vậy mà tạo nên nhiều kẻ thù không cần thiết. Còn giờ thì y đã có thể thoải mái hơn rất nhiều rồi.
Dương Lăng cũng thẳng thắn nói rõ với Liễu Phi Vũ về cái chết của Liễu Quang và Hồng Cô, đồng thời báo cho nàng ta biết đó là hành động giết người diệt khẩu của Di Lặc giáo, và y vẫn đang tiếp tục điều tra. Có điều y chỉ nắm được mấy tên cai ngục trong vòng nghi vấn, rất khó tìm ra hung thủ thật sự đứng đằng sau.
Liễu Phi Vũ biết Dương Lăng không cần phải gạt mình, lại nhớ tới Hồng Cô hạ độc trong trà vì ngại nàng lâm trận trở giáo nên đã tin y đến tám phần. Thấy cả nhà mình trung thành với thánh giáo nay lại ra nông nỗi này, bản thân mình lại sa vào chốn lao ngục, nàng cũng chỉ biết nức nở khóc hận không thôi.
Bệnh của Đường Nhất Tiên vẫn lúc thì tốt lên lúc lại xấu đi. Có điều ban ngày lúc nào cũng nóng lạnh bất thường, ban đêm ngủ được một giấc, sáng sớm ra là lúc tinh thần khoẻ khoắn nhất. Chính Đức hết sức quan tâm đến nàng, chăm sóc chu toàn. Chàng trai luôn được người ta chăm nom và che chở từ bé nay cũng đã biết quan tâm săn sóc người khác.
Sáng sớm nay hắn đã chạy đến phòng Đường Nhất Tiên, xem hai cung nữ hầu hạ Đường Nhất Tiên ăn uống. Hắn đang dỗ dành trò chuyện với Đường Nhất Tiên thì Dương Lăng đã chạy vội chạy vàng tới.
Đầu hôm thì tiêu hồn kiệt sức trên gối, cuối hôm thì lại chạy đông chạy tây không nghỉ, hai mắt Dương Lăng đã đỏ lừ. Y mới vừa hay tin trong doanh xảy ra "doanh khiếu" khiến mấy nghìn binh sĩ bị chết và bị thương, biết rằng chuyện này trọng đại, nếu không mau chóng xử lí sẽ rất có thể dẫn tới phản ứng dây chuyền. Năm trước mới vừa xảy ra chuyện binh biến, quân sĩ giết chết tổng binh trấn thủ. Nếu giờ có tướng lĩnh cao cấp bất mãn mà lại xảy ra binh biến, có tướng lĩnh ngấm ngầm thêm dầu vào lửa thì có trời mới biết sẽ có hậu quả gì.
Y bèn vội vã thăm hỏi bệnh tình của Đường Nhất Tiên, rồi mượn cớ có việc quân cần xử lí mà lôi Chính Đức về thư phòng.
Chính Đức nghe thấy có chuyện "doanh khiếu" thì cũng lấy làm ngạc nhiên. Dương Lăng đã được quan trung quân do Dương Nhất Thanh phái tới kể rõ việc này, bèn thuật lại một lượt cho hắn rõ, kèm với ý kiến của Dương Nhất Thanh. Sau đó, y tâu:
- Hoàng thượng! Lần này đại quân Thát Đát từ xa đến, chẳng những binh lực vượt xa mọi năm mà thời gian chiến đấu liên tục cũng quá dài. Quân đội phải trường kỳ ứng chiến, không được nghỉ ngơi và chỉnh đốn, sớm đã mệt mỏi vô cùng.
Nay triều đình đại thắng, lòng quân mới vừa hơi được thả lỏng, nội bộ lại có chuyện lão tướng trong quân bị bắt bớ gần hết sạch, tân quan nhậm chức đấu đá lẫn nhau, binh sĩ rất oán hận trong bụng. Rõ là tâm tình mới vừa được buông lỏng thì lại căng cứng nên rất dễ bề nổi nóng. Vì vậy chỉ cần một binh sĩ nửa đêm thét lên vì sợ hãi, hoặc thậm chí chỉ một con chuột rớt lên người khiến người ta hoảng hồn tỉnh giấc, cũng đều có thể khiến cho doanh trại bùng nổ. Do vậy Dương tổng chế cho rằng trước tình hình hiện tại, không thể không quyết định dứt khoát. Nếu đã để xảy ra binh biến, việc dẹp loạn sẽ tổn thất khó mà ước lượng được.
Chính Đức vẫn không hiểu được tại sao đang yên lành mà quân đội lại nổi điên, song thấy Dương Lăng nói một cách thận trọng như thế, hắn lại tín nhiệm Dương Lăng một cách vô điều kiện bèn vội hỏi:
- Theo ý của ái khanh, trẫm nên làm thế nào?
Dương Lăng đáp:
- Theo ý của thần, hoàng thượng nên lập tức phóng thích toàn bộ quan viên bị bắt, khôi phục toàn bộ chức tước. Trước hết ra lệnh cho quan viên địa phương khao thưởng cho những binh sĩ và tướng lĩnh chiến đấu có công, đồng thời ban lệnh sau khi hồi kinh sẽ lệnh cho triều đình ban thưởng và phong quan tiến tước tùy theo công trạng!
- Được! Cứ theo ý khanh mà làm, còn gì nữa?
Chính Đức nhướng hàng lông mày, gật đầu ưng thuận.
- Thứ hai, điều đại quân vào phía sau trường thành, cho luân phiên nghỉ ngơi và chỉnh đốn, để những đội quân mệt mỏi có cơ hội nghỉ ngơi.
- Được! Việc này cũng theo ý ái khanh vậy. Còn gì nữa?
- Thứ ba, thứ ba... nên cách chức để xét xử, nghiêm khắc trừng trị người đã gây nên oán hận và bất mãn của toàn thể quan viên Đại Đồng. Điều này để lòng quân an ổn và làm dịu sự phẫn nộ của dân chúng, biểu thị rõ thái độ của Hoàng thượng và triều đình.
- Việc này...,
Chính Đức lưỡng lự hồi lâu, không đáp.
Dương Lăng thở dài:
- Hoàng thượng! Nếu như không thể có thưởng có phạt, thưởng phạt phân minh thì lòng quân khó mà yên ổn. Dương tổng chế đã chạy đến doanh trại xảy ra chuyện, lời này là do ông ta bảo quan trung quân mang tới. Nếu không phải do sự tình quá nghiêm trọng, chắc chắn Dương tổng chết sẽ không đưa ra điều kiện có phần quá đáng như vậy. Ông ta cầm binh lâu năm, hiểu rõ quân đội hơn chúng ta nhiều, chúng ta không thể không xem trọng ý kiến của ông ta đâu.
Chính Đức nhăn nhó mặt mày bảo:
- Ái khanh, không phải là trẫm không muốn trừng trị Cốc Đại Dụng. Thế nhưng nô tài đó đã theo trẫm nhiều năm, nếu cứ vậy mà bắt giữ không trọng dụng lão ta nữa, há chẳng phải sẽ làm thương tổn tấm lòng của lão? Không phải trẫm không muốn xử lí lão, trẫm chỉ đang nghĩ cách chức lão ta rồi, sẽ để ai thế vào chỗ này đây, và sẽ đưa lão ta đi đâu? Mấy người bọn Khấu Tụ ắt sẽ lại tới làm phiền trẫm cho coi. Lão Đại Dụng ấy... chao ôi!
Dương Lăng ngẩn người: “Hoá ra là Hoàng thượng đang nghĩ đến chuyện này, còn chưa trừng trị mà đã suy nghĩ làm sao để không khiến lão ta đau lòng rồi. Người này... chậc! Hoàng thượng này, thực không có tí quyết đoán sát phạt của vua-tôi gì cả, nặng tình hơn là nặng lý. Nhưng mà... chẳng phải chính bởi tính tình không giống như một ông vua của hắn mà mình mới càng chân thành quan tâm và che chở cho hắn đó ư?”
Nghĩ ngợi một lúc, chợt nảy ra ý hay, Dương Lăng bèn thưa:
- Hoàng thượng! Đới Nghĩa nguyên là người trong Ti Lễ giám, quen thuộc sự vụ của Đông xưởng, lại hết lòng trung thành với Hoàng thượng, song lại bị bọn người Vương Nhạc làm liên lụy nên mới bị giáng chức lưu lạc Kim Lăng. Sao Hoàng thượng không điều lão ta về nhậm chức xưởng đốc Đông xưởng? Khi ấy đám người Khâu Tụ sẽ không thể mò vớt được gì, mà cũng sẽ không nảy sinh hiềm khích hay có lời oán hận với nhau.
Còn về phần Cốc công công... Một khi triều đình bãi bỏ bế môn tỏa cảng, điều thiếu thốn nhất chính là người đắc lực mà Hoàng thượng có thể tin tưởng được. Chi bằng Hoàng thượng phái Cốc công công đi đến đó chủ trì công việc nhằm đoái công chuộc tội? Công việc đó cũng là một vị trí béo bở, Cốc công công đang mang tội trên người mà lại có thể tới nơi tốt lành như vậy, lão sẽ chỉ còn biết hết lòng cảm kích Hoàng thượng, há còn chạy tới khóc lóc van nài hay sao?
Chính Đức nghe xong liền mừng rỡ bảo:
- Hay lắm! Xử lí như vậy rất là thoả đáng! Dương khanh, hãy mau chóng đi tới quân doanh truyền đạt ý chỉ của trẫm. Việc ủy lạo quân đội, phóng thích quan viên, trừng phạt Đại Dụng sẽ do khanh toàn quyền phụ trách!
Quyển 5: Quần ma loạn vũ – Con người vốn dĩ ác độc?
------------------------
Nhận được thánh chỉ, trước tiên Dương Lăng liền đi đến nha môn tuần phủ. Y cho người mời mấy chục vị đại nhân đang ở trong lao ra ngoài rồi tuyên chỉ trước mặt họ. Chiếu chỉ nói rõ vì Hoàng thượng hay tin Cốc Đại Dụng nghi ngờ vô cớ rất nhiều quan viên vô tội khiến họ bị bắt vào ngục nên vừa lo vừa giận, nay hạ lệnh cho Dương Lăng thả các quan ra ngay lập tức, đồng thời khôi phục lại quan tước. Ngoài ra còn ra lệnh cách chức Cốc Đại Dụng để điều tra.
Bá quan nghe xong thánh chỉ thì hò reo như sấm dậy, vui đến phát khóc. Dương Lăng nở nụ cười rồi vòng qua bàn xử án nâng các quan viên mình đầy thương tích dậy, sau đó an ủi hỏi thăm bọn họ một lượt. Bấy giờ, y mới nói rõ quan Chiếu ma Liễu Quang của Chiếu ma phòng là của người của tà giáo Di Lặc, vì ông đã chết nên sẽ không truy cứu nữa nhưng gia sản cả nhà vẫn phải bị sung công.
Dương Lăng tiết lộ tin tức này là có ý để bá quan biết rằng việc Hoàng thượng hạ lệnh bắt giữ giáo đồ của Di Lặc giáo cũng không phải là hành vi cẩu thả mà thật sự trong quan phủ đã có người của tà giáo này. Chỉ vì Cốc Đại Dụng chưa rõ thánh ý, vì chuyện nhỏ mà bỏ việc lớn nên mới có những hành động không thỏa đáng mà thôi.
Vốn là xưởng đốc của Đông Xưởng, Cốc Đại Dụng lại có quan hệ mật thiết với Lưu Cẩn nên trong số quan lại các cấp ở thành Đại Đồng này thì trừ Đại vương ra cũng chỉ có mỗi Dương Lăng là đủ can đảm và đủ tư cách dâng tấu tố cáo lão với Hoàng Thượng mà thôi.
Nhưng mấy ngày trước đây, khi núi Bạch Đăng bị vây, Đại vương chỉ cố thủ trong thành chứ không xuất quân cứu giá. Tuy người sáng suốt đều có thể nhận ra Đại vương cố thủ đợi quân chi viện chỉ là tình thế chẳng đặng đừng, chỉ cần đại quân kéo ra khỏi thành thì Đại Đồng sẽ thất thủ, nhưng dù vậy thì ông vẫn mang tội ngồi nhìn quân thượng sa vào hiểm cảnh mà không cứu. Do đó làm sao ông ta có thể đứng ra vạch tội người khác mà không xấu hổ cho được?
Chúng quan đều có tai mắt ở khắp nơi. Buổi tiệc do đồng liêu tổ chức ngày hôm qua có mời Dương Lăng đến nhờ hắn ra mặt góp ý với Hoàng thượng đã được thông tin cho bọn họ từ sớm. Bởi thế nên trong lòng mọi người đều nhận định rằng chính Dương Lăng đã tâu Hoàng thượng xin tha cho bá quan nên họ mới thoát cảnh ngục tù.
Đưa than sưởi ấm trong ngày tuyết rơi là việc dễ khiến mọi người cảm kích nhất. Đã vậy lúc Hoàng thượng đến Đại Đồng thì mọi việc đều do Dương Lăng chạy tới chạy lui sắp xếp, chuyện này đã rõ như ban ngày. Bây giờ lại kiềm được Bá Nhan, giữ cho Đại Đồng được bình an vài năm, cả việc công lẫn tư đều bắt nguồn từ người này, cho nên những quan viên nơi này đã coi Dương Lăng như vị quan lớn trong triều có thể dựa dẫm, nhờ vả.
Kẻ ngu dốt thì để người khác dắt lừa còn mình đi nhổ cọc hộ, còn Cốc Đại Dụng thì vừa nhổ cọc lại dắt lừa cho người ta. Được cái lão lại chịu khó, mới sáng tinh mơ đã vác thân lên công đường để quan sát việc tra khảo, thẩm vấn nghi phạm. Mặc dù lão chẳng dám sử dụng những hình phạt ghê gớm nhất của Xưởng Vệ nhưng chỉ cần những dụng cụ tra tấn bình thường cũng đủ để các quan không chịu thấu.
Những quan viên vô duyên vô cớ bị tra tấn oan ức đều hận lão đến tận xương. Nhưng vừa nhớ đến câu "Một lần qua ải Đông Xưởng, không chết cũng bị lột da", bọn họ chỉ đành cắn răng chịu đựng chứ chẳng có gan chửi rủa.
Cốc Đại Dụng vắt chéo chân ngồi trên ghế dựa hình mũ quan. Lão vừa bưng chén trà, vừa cười vờ rồi bảo người treo hai hàng quan chức lên trên giá gỗ, mỗi chân buộc một tảng đá lớn cho “tăng chiều cao”.
Những quan chức kia chỉ lót dạ bằng một bát cơm tù lạnh như băng, bây giờ bị trói hai tay, trên mắt cá treo thêm hai tảng đá lớn, dây thừng siết chặt đến nỗi tay chân đều thấm máu.
Lúc này, vài tên nha sai của Đông xưởng lại quát mắng nhằm diễu võ dương oai:
- Bọn các ngươi nếu không phải là người trong tà giáo phật Di Lặc thì cũng đã bị bọn chúng mua chuộc. Chỉ cần thành thật nhận tội, khai ra số bạc ngươi thu được từ Phật Di Lặc giáo và đã giúp bọn họ làm những chuyện gì thì sẽ không còn phải chịu nỗi đau thể xác này nữa.
Lời còn chưa dứt, hai hàng phiên tử áo xanh mũ đỏ, hông đeo phác đao, chân mang giày trắng nghênh ngang bước vào rồi chia ra đứng hai bên công đường. Cốc Đại Dụng ngạc nhiên. Không có mệnh lệnh cũng chẳng thấy thông báo, ai dám to gan xông vào công đường?
Lão lại không biết rằng sau khi nha sai của Đông Xưởng bị đại pháo và súng ống của Nội Xưởng tấn công dữ dội thì bọn chúng đã mắc chứng "sợ Nội Xưởng" nghiêm trọng. Hơn nữa vì muốn che giấu tin Hoàng Thượng rời khỏi kinh đô nên Cốc Đại Dụng và Dương Phương cũng dùng danh nghĩa khâm sai để vào Đại Đồng.
Cái đó gọi là "Kẻ ác cần phải có kẻ ác trị". Thủ hạ của khâm sai Đông Xưởng vừa thấy nhân mã của khâm sai Nội Xưởng đã lập tức sợ đến bủn rủn. Lại trông thấy Dương Lăng đích thân dẫn nhân mã của Nội xưởng đến tuyên chỉ nên nha sai gác cửa liền im thin thít, chẳng những không dám ngăn cản mà ngay cả cái gan chạy vào báo tin cũng không có.
Dương Lăng thản nhiên đi vào, theo sau là Liễu Bưu và Ngũ Hán Siêu. Cốc Đại Dụng vừa thấy y liền giật mình vội vàng bước đến, cười nói:
- Ta mới nói quái sao đám khỉ này không dám thả một cái rắm, hóa ra Dương đại nhân đã đến rồi. Ha ha ha, đến đây nào, đến đây nào! Mời ngồi! Có phải là Hoàng Thượng lo lắng chuyện gian tế của Di Lặc giáo không? Dương đại nhân yên tâm, có ta chỉ huy việc này thì dù có phải đào sâu ba thước đất đi chăng nữa cũng phải bắt được bọn họ.
Dương Lăng nghiêm mặt, tuyên:
- Cốc Đại Dụng tiếp chỉ!
Cốc Đại Dụng thoáng ngẩn người, sau đó lão vội vàng kéo áo bào lên rồi quỳ xuống, hướng về phía nam tiếp chỉ. Dương Lăng mở thánh chỉ đọc thật lớn một lượt, sau đó thu thánh chỉ lại. Y liếc thấy dáng vẻ ngây như phỗng của Cốc Đại Dụng bèn phất nhẹ ống tay áo ra lệnh:
- Người đâu! Lột đai ngọc, áo bào của Cốc Đại Dụng. Lập tức thả các vị đại nhân ra.
Hai hàng nha sai lập tức xông lên thả các vị đại nhân xuống. Dương Lăng chắp tay nói:
- Thưa các vị đại nhân, bổn quan đã thông báo cho gia luyến của các vị đến đón. Xin mời các vị trở về phủ nghỉ ngơi, sau khi vết thương lành lặn sẽ phục hồi chức cũ. Hoàng Thượng đã hạ chỉ điều tra chuyện Cốc Đại Dụng làm trái thánh lệnh và lạm dụng tư hình. Hoàng thượng đã ra lệnh điều tra, chắc chắn sẽ cho mọi người một lời giải thích!
Dương Lăng khoát tay cho gia quyến, tôi tớ của các vị đại nhân đi vào. Trong cảnh kêu khóc ầm ĩ, dù những vị đại nhân chân trần, vết thương đầy mình này đứng không vững nhưng vẫn bảo người nhà dìu sang tạ ơn Hoàng Thượng và Dương Lăng. Sau đó lần lượt từng người xin cáo từ.
Sắc mặt của Cốc Đại Dụng xám xịt, lão vẫn quỳ tại chỗ không hề nhúc nhích. Cho đến khi phạm nhân trong viện không còn một ai, lão mới giật mình tỉnh lại rồi kéo ống tay áo Dương Lăng, vừa khóc lớn vừa van vỉ:
- Dương đại nhân! Lão nô muốn gặp Hoàng Thượng, lão nô trung thành và tận tâm làm việc vì Hoàng Thượng mà.
Từ nãy giờ Dương Lăng vẫn luôn sầm mặt đứng hiên ngang, chẳng thèm nhìn Cốc Đại Dụng lấy một cái. Cho đến khi thấy tất cả các quan đã đi hết, sắc mặt y mới thay bằng vẻ tươi cười. Y nâng Cốc Đại Dụng lên một cách thân thiết, vừa mỉm cười vừa nói:
- Cốc công công, ông làm gì vậy? Ông làm việc lỗ mãng dẫn đến văn võ bá quan Đại Đồng nổi lòng oán hận, khiến lòng quân bất an, đêm qua doanh trại xảy ra “doanh khiếu” tử thương vô số; khắp đồn quân ở các nơi lòng binh sĩ hoang mang, có nguy cơ binh biến. Nhưng Hoàng Thượng nhân hậu nên sẽ không thể đối xử bạc bẽo với ông. Hoàng thượng vẫn coi trọng Cốc công công ông đó, vì vậy hãy bớt sầu đi thôi.
- Ôi?
Cốc Đại Dụng nghe y nói mới biết mình đã gây ra nhiều họa lớn như thế, vì vậy mỗi một câu lại khiến sắc mặt của lão tái nhợt một phần. Chỉ khi nghe thấy mình vẫn còn đường sống, khuôn mặt lão mới hồng hào lại một chút. Vừa lau nước mắt, lão vừa kéo tay áo Dương Lăng hỏi:
- Dương đại nhân nói vậy là sao? Chẳng lẽ Hoàng Thượng không oán trách lão nô sao?
Dương Lăng kéo Cốc Đại Dụng vào một góc, nói thầm vào tai lão một lúc. Cốc Đại Dụng nghe xong liền bật cười:
- Đa tạ đại nhân đã nói giúp cho... Ôi, lão nô chỉ nghĩ đến lập công trước mặt Hoàng Thượng mà đã coi thường sức mạnh của quan viên nơi này.
Dương Lăng khoát tay, nói:
- Đâu có, đâu có! Đây là do Hoàng Thượng nhân từ. Nói thật nhé, chuyện này ồn ào đến nỗi khiến tinh thần quân sĩ Đại Đồng suy giảm trầm trọng. Hôm qua “Doanh khiếu” thương vong mấy ngàn người, ngoài ra còn có dấu hiệu quân đội muốn làm phản. Ta đây hết cách nên mới dâng tấu nhờ Hoàng Thượng xử lý để trấn an lòng quân, đó thật là vì không còn cách nào hơn. Không dối gạt Cốc công công, Dương mỗ cũng khẳng khái trình bày trước mặt Hoàng Thượng chủ trương cách chức ông để điều tra!
- Hả?
Cốc Đại Dụng còn tưởng Dương Lăng đã nói giúp vài lời tốt đẹp, nào ngờ y cũng bỏ đá xuống giếng. Nhưng khi nhớ tới tương lai và tính mạng của mình đều ở trong tay y, Cốc Đại Dụng lại không dám phát tác. Nhưng nỗi tức giận cố ghìm lại trong lòng lại khiến khuôn mặt lão lúc trắng lúc xanh, ngập ngừng mà chẳng biết phải nói gì cho phải.
Dương Lăng khẽ giọng nói:
- Cốc công công à, Hoàng Thượng đã dần dần trưởng thành. Lần này bị vây ở Bạch Đăng Sơn, ngàn quân vạn quân đều chĩa mũi giáo về phía một mình Hoàng thượng, nhưng Hoàng thượng vẫn rất bình tĩnh, không hề sợ sệt. Xem ra Hoàng thượng đã không còn là một đứa trẻ chẳng hiểu chuyện nữa. Quan hệ của chúng ta vô cùng tốt đẹp nhưng giờ ông gây mối họa lớn như thế, nếu tôi cứ cầu xin cho ông thoát tội trước mặt Hoàng thượng thì Hoàng thượng sẽ nghĩ thế nào đây?
Bản quan là Xưởng đốc của Nội Xưởng, ông là Xưởng công của Đông Xưởng, trong tay đều nắm quyền lực. Nếu Hoàng thượng thấy chúng ta đồng tâm hiệp lực như tay với chân thì sao có thể không sinh lòng kiêng kị? Lúc đó, cho dù ban đầu ngài có muốn đặc xá cho ông cũng sợ rằng sẽ cắn răng quyết đoán xử tội ông để loại bỏ tai họa về sau. Ngoài ra, từ nhỏ công công đã chăm sóc Hoàng thượng nên tình cảm của Hoàng thượng với ông không hề nhạt nhẽo. Nếu như ngài thấy ta bỏ đá xuống giếng, yêu cầu nghiêm nghị thì lòng trắc ẩn lại nổi lên... Ha ha ha!
- A!
Cốc Đại Dụng giật mình rồi dựng ngón cái khen ngợi:
- Hóa ra đây là đại nhân lấy lui làm tiến. Diệu kế, diệu kế! Cám ơn đại nhân vì ta mà đã nhọc lòng! Đúng là quen lâu mới rõ lòng người, Đại Dụng vô cùng cảm kích!
Mặc dù Dương Nhất Thanh tính tình cương trực nhưng cũng không phải là người lỗ mãng. Nếu hắn đã yêu cầu Hoàng Thượng nghiêm trị Cốc Đại Dụng mà không hề băn khoăn đến tương lai của bản thân mình thì Dương Lăng liền đoán được bầu không khí trong quân ắt hẳn rất căng thẳng, chạm vào là nổ ngay. Nếu không có một liều thuốc mạnh thì chắc chắn sẽ không giảm được sự phẫn nộ của binh sĩ.
Nhưng với tính cách bao che khuyết điểm người thân của Hoàng thượng Chính Đức, nếu bảo hắn xử phạt Cốc Đại Dụng thì quả thật khó như lên trời. Nếu mình không giúp Dương Nhất Thanh một tay, chắn hẳn Chính Đức sẽ không quyết tâm xử lý Cốc Đại Dụng, mà tình thế Đại Đồng đã rất nguy cấp. Bây giờ mình giúp Dương Nhất Thanh, sớm muộn gì Cốc Đại Dụng cũng biết mình nói gì trước mặt Hoàng Thượng. Thay vì để lão nghi ngờ, oán hận mình vào lúc đó, chi bằng bây giờ mình nói rõ để tránh tạo ra một kẻ địch không cần thiết.
Thấy dáng vẻ của Cốc Đại Dụng, Dương Lăng thở phào một hơi rồi nói với vẻ thành thật :
- Công công à! Từ khi Dương mỗ vào kinh đã được ông và Lưu công công trông nom. Trong nội đình lẫn ngoại đình chỉ có mấy người các vị là người thân thiết nhất của tôi. Nếu bản quan không giúp ông thì giúp ai bây giờ?
Tiếc là ông vì lỗ mãng trong phút chốc nên để người khác nắm được sơ hở. Xem ra chức vị Xưởng công Đông Xưởng khó mà giữ được. Sau khi về kinh, bổn quan sẽ khuyên can Hoàng thượng bỏ lệnh bế môn tỏa cảng. Bản quan đã tiến cử Hoàng Thượng cho ông đến Giang Nam để chủ trì việc buôn bán trên biển. Hê hê! Đến lúc đó ngàn vạn quốc gia qua lại, vàng bạc như nước. Công việc béo bở thế này không biết sẽ khiến bao nhiêu người phải đỏ mắt, xem ra công công mất ở gốc tây mà thu lại được góc đông à nha!
Cốc Đại Dụng nghe đến đây, liền gật gù liên tục. Dương Lăng lại vỗ vai lão, nói thật thành khẩn:
- Cốc công công, trên quan trường không thể chỉ dựa vào lòng tin của Hoàng Thượng mà muốn làm gì thì làm, sau này ông phải cẩn thận hơn. Chỉ cần cố gắng làm tốt việc buôn bán trên biển, chẳng những vinh hoa phú quý có được dễ như trở bàn tay mà cho dù là quyền hành kiếp này hay danh tiếng lừng lẫy mấy trăm năm sau cũng không ai có thể sánh bằng.
Y khẽ mỉm cười rồi nói tiếp:
- Ông thấy thái giám Tam Bảo ngày xưa oai phong ra sao? Ngoại đình và nội đình có ai chẳng nể ông ấy ba phần? Không có công lớn thì không có chỗ dựa, không có công lớn thì khó có được oai phong như thế
Của cải, danh tiếng, quyền lực, một tương lai tốt đẹp khiến Cốc Đại Dụng hoa cả mắt. Nỗi buồn vì bị cách chức Xưởng công của Đông Xưởng lập tức biến mất, chỉ cần đến Giang Nam làm một trận oanh liệt thì cũng đủ rung chuyển trời đất như Trịnh Hòa.
Lời nhắc nhở của Dương Lăng thật sự rất lọt tai. Lão đã thấy bài học của Lý Quảng và tận mắt chứng kiến quá trình từ khi Lý Quảng được Hoằng Trị tín nhiệm đã trở nên kiêu ngạo rồi sau đó gục ngã như thế nào. Vốn dĩ tưởng rằng Hoàng đế còn nhỏ nên dễ bắt nạt nên sau khi nắm giữ quyền Đông Xưởng, lão đã dẹp lòng cảnh giác sang một bên và trở nên không coi ai ra gì. Trải qua chuyện hôm nay, Cốc Đại Dụng mới giật mình thức tỉnh.
Nghe những lời khuyên bảo chân thành của Dương Lăng, Cốc Đại Dụng cảm động đến rơi nước mắt. Lão ngoan ngoãn theo Dương Lăng đi đến dịch quán, vâng vâng dạ dạ nghe Chính Đức chửi mắng một trận. Vốn Cốc Đại Dụng đã biết sau khi về kinh mình sẽ được bố trí đến nơi nào nên lão chỉ cẩn thận mỉm cười, mặc kệ Chính Đức trút giận mà không hề tranh luận một câu.
Chính Đức mắng xong thì lại cảm thấy Cốc Đại Dụng làm mọi việc chỉ vì mình. Tuy sự việc đã hỏng bét nhưng lão còn đỡ hơn những viên đại thần chỉ biết đùn đẩy trách nhiệm trong triều. Đấy là chưa nói không những lão bị cách chức mà còn bị chửi như đổ máu chó lên đầu, vậy mà lão chỉ im lặng lắng nghe, thật là đáng thương. Do đó hắn phất tay đuổi lão xuống.
Dương Lăng bàn bạc việc vỗ về lòng quân với Chính Đức, sau đó Chính Đức hạ chỉ ra lệnh cho Tuần Phủ Hồ Toản thay mặt thiên tử thăm hỏi những quan lại vô tội bị tống vào nhà lao. Còn Dương Lăng thì mang một thánh chỉ khác đến quan ải để vỗ về lòng quân.
Toàn bộ quan viên quân đội của Đại Đồng bị bắt oan được thả ra và phục chức ngay lập tức. Xưởng công của Đông Xưởng bị cách chức chờ điều tra, lại khao thưởng ba quân tướng sĩ, toàn quân rút về quan nội nghỉ ngơi. Sau khi về kinh, Hoàng Thượng sẽ thăng tấn tấn tước cho tướng lĩnh có công trong chiến đấu. Tướng sĩ biên quân sẽ vào kinh để thay phiên phòng thủ với Kinh doanh.
Những binh lính phòng thủ ở vùng đất khổ cực, túng thiếu vừa nghe xong tin tức phấn chấn lòng người này liền vui mừng nhảy nhót, hô vang vạn tuế. Tiếng hô vang vọng khắp núi rừng, kéo dài đến cả bên trong và bên ngoài Trường Thành.
Tuy lòng quân đã yên nhưng biên thùy là vùng đất quan trọng nên dẫu sao cũng không thể qua loa. Vì vậy, Dương Lăng và Dương Nhất Thanh sau khi thương nghị với nhau đã bổ nhiệm hai tướng Kinh Phật Nhi và Hứa Thái đóng quân tại hai quan ải có trọng binh. Như vậy, thêm vào Dương Nhất Thanh và Vương Thủ Nhân mỗi người thủ một phương thì bốn quan ải quan trọng cùng Đỗ Nhân Quốc ở Đại Đồng có thể tiếp ứng lẫn nhau và kiềm chế quân thù ở những nơi khác. Một khi có binh biến sẽ có thể chia cắt và tiêu diệt quân phản loạn nhanh chóng, tránh để sự việc lan quá rộng.
Mất hết hai ngày mọi việc mới yên tĩnh như trước. Việc Hoàng Đế về kinh trở thành việc cấp bách vào lúc này. Thông qua các kênh thông tin khác nhau, Dương Lăng cũng đã biết đến những lời đồn thổi khắp nơi trong kinh thành. Tin tức đã lan rộng, cộng với việc có người cố ý lan truyền nên câu chuyện càng ngày càng thêm ly kỳ khiến lòng người trong kinh thành đã bắt đầu trở nên hoang mang. Dương Lăng cũng sợ các lộ Phiên Vương nổi lòng tạo phản . Dẫu sao nếu việc triều chính bị xao lãng quá lâuthì rốt cuộc cũng chỉ bất lợi cho quốc gia, nếu để xảy ra sự tình hỗn loạn thì công trạng ở Đại Đồng sẽ chẳng còn. Hơn nữa mấy hôm nay bệnh tình của Đường Nhất Tiên đã chuyển biến tốt nên y liền thu xếp lên đường về kinh.
Hoàng thượng rời khỏi kinh thành trong tình trạng cải trang vi hành. Bây giờ tin Hoàng Đế đại thắng Bá Nhan ở Đại Đồng đã được Dương Lăng cố ý tuyên truyền nên nhờ vào các phương tiện của triều đình và Nội Xưởng đã nhanh chóng lan ra khắp thiên hạ. Hoàng Đế trở về kinh cũng không thể lẳng lặng mà đi, không có lễ nghi của đế vương được. Vì vậy, đoàn xe hùng dũng cùng cờ xí phấp phới đường đường chính chính rời khỏi Đại Đồng, xuất phát về phía kinh thành...
---o0o---
Trốn ngày chạy đêm, đi đường nhỏ nhắm tránh tầng tầng lớp lớp trạm canh được thiết lập trên đường lớn, sau hai ngày Thôi Oanh Nhi mới đến Hình thôn trang. Trải qua hai ngày đi đường cùng quyết tâm dùng cái chết để tròn nghĩa lớn mới khiến tâm trạng của nàng bớt tủi hổ.
Thân thể trong sạch bị người điếm ô, giờ đây Hồng nương tử không còn mặt mũi nào gặp lại Dương Hổ. Nhưng nếu nàng lặng lẽ giải quyết tính mạng mình, tất nhiên Dương Hổ sẽ đem mối thù này tính lên đầu Dương Lăng.
Quyền hành của Dương Lăng rất lớn. Bất kể Dương Hổ có giết được y hay không thì một vùng Bá Châu, thậm chí trại của nhà họ Thôi đều có thể sẽ bị lật tung lên để bắt bớ, Thôi Oanh Nhi sao dám chết để thân mang thêm tội nghiệt? Thế là nàng đành kiên trì tìm gặp Dương Hổ.
Dọc đường, nàng từng nghiên cứu tỉ mỉ lời nói lúc Ngũ thúc lâm chung nhưng rốt cuộc cũng không thể nghĩ ra Lý Phúc Đạt náu thân “Quần Trung” (đám đông) nghĩa là gì. Mặc dù nàng đã dấn thân vào chốn giang hồ bao năm nay nhưng từ xưa đến giờ vẫn chưa nghe thấy môn phái hay địa danh nào là “Quần” hoặc “Quần Trung”. Dọc đường nàng từng hỏi thăm nông phu ở quanh đây nhưng cũng không ai rõ, thế là chuyện này lại trở thành một mối khó hiểu trong lòng.
Có điều nàng hiểu rõ võ công của Hoắc Ngũ Gia. Giờ bình tĩnh lại, nàng cũng biết rằng nếu không có cơ hội đánh lén thì chỉ dựa vào võ nghệ của mình chắc chắn không phải là đối thủ của Lý Phúc Đạt. Nàng phải chuyển câu nói của Ngũ thúc trước khi chết đến mọi người trên núi, có lẽ người từng trải như cha nàng sẽ biết ý nghĩa trong đó, nhờ thế sẽ tìm ra nơi ẩn thân của Lý Phúc Đạt để báo thù cho Ngũ thúc. Đây cũng là hai tâm nguyện chưa làm xong của nàng trước khi chết.
Tại Hình thôn trang, khách sạn Tụ Long là một nhà trọ lớn. Ở đây loại người nào cũng có, tốt xấu lẫn lộn nên dễ che giấu tung tích. Đến nơi này quan sát một lượt, Thôi Oanh Nhi phát hiện không hề có quan binh hay nha sai để mắt tới khách sạn này. Nàng bèn trà trộn vào rồi nhờ tiểu nhị lật tra danh dách khách trọ, thế nhưng lại không thấy bí danh đã ước hẹn của nhóm người Dương Hổ.
Hồng nương tử căng thẳng, chẳng lẽ bọn người Dương Hổ cũng gặp chuyện bất trắc rồi sao? Từ trước đến nay Thôi Oanh Nhi vẫn là người kiên cường, hào khí. Khi mới đến kinh thành, nếu cần thiết thì dù là Tử Cấm thành nàng cũng dám xông vào. Nhưng lần này đến Đại Đồng, hết người thân bỏ mạng rồi chính mình thất thân khiến nàng như quả hạch đào đã bị lột bỏ vỏ ngoài cứng rắn, quả thật không thể chịu nỗi cú sốc như thế.
Bước ra khỏi khách sạn, Hồng nương tử đi vòng chung quanh thì phát hiện trên tường nhà có khắc vài ký hiệu vô nghĩa. Đây chẳng qua là một hình tròn đơn giản, phương và đường cong của những mũi tên rất mất trật tự, nhìn qua có vẻ giống những nét nguệch ngoạc do trẻ con vẽ bậy lên tường, chỉ là vẽ hơi cao một chút mà thôi.
Hồng nương tử cẩn thận kiểm tra một lượt, quay trở lại đầu hẻm. Thế là một cô gái mặc trang phục dân dã nhanh chóng tan biến trong dòng người...
Đêm đã khuya.
Phía tây Hình thôn trang là một con sông rộng hơn trăm mét. Vào mùa mưa nhiều, nước sông chia thành mấy dòng chảy nông, giao nhau tại những dòng nước hơi sâu giữa sông. Chỉ những lúc lũ tới bất ngờ, cả con sông mới bị nước lũ vàng nâu lấp đầy. Khi nước lũ tràn bờ, những mô đất cao hai bên bờ cũng bị ngập đến thắt lưng, do đó không hề có người xây nhà định cư nơi đây.
Bây giờ thì cả lòng sông đều đầy tuyết đọng. Do thời tiết dần ấm lại nên nhưng nơi nước cạn băng đã trở nên vừa mỏng lại vừa giòn. Nếu không cẩn thận giẫm phải sẽ bị ướt giày.
Đêm nay là đêm trăng khuyết. Vành trăng non cong cong chiếu ánh sáng bàng bạc xuống cả một vùng đất rộng lớn.
Dưới ánh trăng, một bóng người nhẹ nhàng chạy dọc bờ sông như báo. Sau khi nằm ở ven bờ chờ một lúc, thấy không có người theo dõi, người này mới tung người lên nhanh nhẹn đi tiếp. Chạy được vài đoạn, nàng lại áp người xuống mặt tuyết quay đầu nhìn lại. Nhờ sự nhạy bén này cùng với ánh trăng mờ ảo, muốn theo dõi nàng là việc khó như lên trời.
Trên sườn núi có ba lò gạch đã bỏ hoang, một người chống cây gậy gỗ khập khiễng bước ra ngoài. Hắn ngồi xổm xuống nhìn đám tuyết đọng trong bình gốm đã vỡ một nửa. Hai bên là nham thạch và gò đất gồ ghề, mặt đất trước mặt bị đào lấy đất để làm gạch nên khá gập ghềnh. Tất cả tạo ra một bức ảnh loang lổ dưới ánh trăng
- Đại Chuy, để ta làm cho! Ngươi đi đứng khó khăn, nghỉ ngơi một lát đi!
Dương Hổ đi tới nói với hắn, vươn tay để lấy chiếc bình gốm.
Hồ Đại Chuy hừ một tiếng thật nặng rồi vươn tay lấy bình, có thể là cố ý, cũng có thể là vô tình vừa khớp chặn lấy tay Dương Hổ. Dương Hổ liền đỏ mặt tức giận, thấp giọng quát:
- Đại Chuy! Ngươi bị gì vậy?
Hồ Đại Chuy im lặng một lát, sau mới đáp bằng giọng khó chịu:
- Đại đương gia! Khi chị dâu vào thành giết Dương Lăng, chúng ta đã nói thế nào? Tập kích vài trạm gác để thu hút sự chú ý của quan binh trước, chỉ cần chị dâu vào thành an toàn, chúng ta sẽ đến Hình thôn trang chờ đón chị dâu, có phải vậy hay không?
- Đúng, rồi sao?
Ánh mắt của Dương Hổ co rút, khuôn mặt chợt nở một nụ cười cổ quái rồi gã khẽ hỏi lại.
- Rồi sao? Đại đương gia hỏi ta đấy à? Đại đương gia, tuy rằng các huynh đệ sẽ theo ngươi vào sinh ra tử không hề nhíu mày nhưng chúng ta cũng không hề hồ đồ. Nghe nói Hoàng Đế đang ở Đại Đồng kết minh cùng Đóa Nhan Tam Vệ vùng quan ngoại để đánh nhau với giặc Thát.
Đây đương là lúc trong thành đầy binh lính, chị dâu muốn tìm cơ hội giết gã họ Dương dễ dàng lắm sao? Chúng ta cứ ở lại đây chờ chị dâu trở về không được sao? Hơn nữa khi ngươi dẫn bọn ta đi cướp tiền của nhà ông chủ họ Hồ, trong nhà hắn nuôi hơn mười con chó săn, chưa tìm hiểu rõ đối tượng (“thải bàn tử” là từ lóng chỉ đối tượng cần điều tra để cướp bóc – TJ) đã hành động khiến Ngô lão nhị bị chó chặn đường rồi bị người dân dùng xiên hốt cức đâm chết, chẳng lẽ không uất ức sao?
Hắn lấy cái nón da chó xuống rồi khóc òa. Đang khóc, hắn bỗng lau nước mắt rồi nói tiếp:
- Ngay sau đó, lại đến Hoàng Dương vệ sở mà ám sát chỉ huy của vệ sở nơi đó. Đó không phải là tự tìm chết sao? Chỉ mấy người như chúng ta thì có thể làm được trò trống gì chứ? Mấy trận này đều là đánh bậy đánh bạ, khiến tất cả các huynh đệ tốt đều sắp bị giết chết hết, chỉ còn mỗi Hắc Diêu Tử nằm bên trong đấy, không thầy không thuốc cũng cũng sắp chết rồi. Đã vậy đêm mai ngươi còn muốn đi báo thù. Đại ca, rốt cuộc ngươi đang làm gì vậy?
Nụ cười trên mặt chợt tắt, khóe môi hơi run rẩy, Dương Hổ lạnh lùng hỏi:
- Đại Chuy! Điều quy định đầu tiên của sơn trại chúng ta là gì? Chẳng lẽ ngươi đã quên rồi sao?
Hồ Đại Chuy ngẩng đầu, quật cường đáp:
- Ta chưa quên. Đó là phải nghe theo lời Đại Đương Gia, phất cờ đi đánh khắp thiên hạ, nếu ai trái lời sẽ chém đầu người đó.
Nhưng chúng ta là một bầy hổ cũng được, bầy sói cũng chẳng sao, chỉ cần người đứng đầu không dẫn mọi người vào đường chết. Chúng ta làm những việc này có giúp gì được cho chị dâu không?
Đại đương gia à, Hồng Phúc chết như thế nào tại vệ sở? Người nói xem! Rõ ràng là hắn có thể tránh được mũi tên đó nhưng đúng lúc đó ngươi lại xuất hiện ngay sau lưng hắn khiến hắn không thể né tránh nên mới bị trúng tên. Lúc ấy ta chưa hề nghĩ đến, giờ trở về càng ngẫm lại càng thấy không đúng.
Trong con ngươi Dương Hổ bắt đầu lập lòe ánh sáng nguy hiểm, gã cười khanh khách rồi bảo:
- Đại Chuy, ngươi sai rồi! Ngươi nói xem, ta với hắn là huynh đệ đồng sanh cộng tử, chẳng lẽ ta lại cố ý hãm hại hắn sao? Ta có lý do gì?
Hồ Đại Chuy gầm gừ trong bi phẫn, căm uất:
- Con mẹ nó, ta nghĩ mãi cũng không ra! Đại Đương gia ngươi đang có ý đồ gì vậy? Rốt cuộc muốn làm gì? Ngươi không có lý do gì mà đưa tất cả mọi người tìm đường chết song rõ ràng ngươi muốn mọi người đi chịu chết! Đêm mai ta không đi, ta muốn tìm đại phu trị thương cho Hắc Diêu Tử rồi cõng hắn về sơn trại. Người mẹ mù lòa của hắn chỉ có một đứa con trai này, ta phải đưa hắn về bằng mọi giá.
Dứt lời, Hồ Đại Chuy liền bỏ đi về phía lò gạch. Trong mắt Dương Hổ lập lòe ánh sáng, khi thấy hắn bước đến cửa, Dương Hổ bỗng nheo mắt lại rồi quát khẽ, cùng lúc nhảy đến nện một đấm thật mạnh vào mạn sườn hắn.
Tuy Hồ Đại Chuy khổ luyện công phu toàn thân nhưng võ công hắn không thể bằng Dương Hổ. Trong lúc không kịp chuẩn bị, hắn đã bị đánh trúng. Kêu thảm một tiếng, vài tiếng xương gãy vang lên răng rắc, Hồ Đại Chuy ngã vào tường lò gạch, xương gãy đâm vào tim, bọt máu trong miệng từ từ tràn ra.
Hắn nhìn Dương Hổ bằng ánh mắt kinh hãi khó tin, giọng khàn đặc:
- Vì sao? Vì sao? Ngươi... ngươi...
Trong mắt Dương Hổ, ánh mắt của Hồ Đại Chuy dưới ánh trăng như mũi tên lạnh đến thấu xương. Gã không dám nhìn vào mắt Hồ Đại Chùy nữa, nhưng ánh mắt kia vẫn nhìn gã chằm chằm. Dương Hổ co rúm người. Gã vừa giận, vừa hận, gầm lên một tiếng rồi tung thêm một quyền thật nặng lên người Hồ Đại Chùy.
Xương gãy, ngực lõm, máu trào.
Dương Hổ như phát điên. Một tay gã giữ chặt bả vai Hồ Đại Chuy, một tay nắm thành quyền cật lực đấm vào ngực hắn. Trong âm thanh "bốp bốp thịch thịch", gã gầm gừ với giọng run rẩy:
- Đừng nhìn ta! Ta không muốn dính vào máu của các ngươi, vì sao ngươi ép ta? Vì sao ngươi ép ta? Đám vô lại các ngươi!
Sau những tiếng thùm thụp, thân thể to lớn của Hồ Đại Chuy từ từ lún vào tường đất. Ngực hắn đã lõm xuống thật sâu, máu chảy ra từ trong miệng không ngừng chảy xuôi xuống vấy vào nắm tay, cánh tay và phun lên cả trên gương mặt của Dương Hổ. Còn Dương Hổ dường như đã phát điên, vừa đánh, vừa ràn rụa nước mắt:
- Các ngươi đều là huynh đệ tốt của ta. Vì sao người làm hỏng chuyện tốt của ta lại cứ là các ngươi? Đó là các ngươi tự tìm đường chết! Tự các ngươi tìm đường chết!
Đằng sau khối nham thạch lặng lẽ xuất hiện một bóng người, ngơ ngác đứng đờ, thân thể mềm nhũn y như thi thể của Hồ Đại Chuy nếu không nhờ Dương Hổ nắm chặt thì đã ngã xuống đất. Thân hình nàng run bắn theo mỗi cú nện của Dương Hổ lên thi thể của Hồ Đại Chuy
Chương 218 - Tìm thầy chữa bệnh
------------------------
Từng quyền một nện uỳnh uỵch xuống thân hình đã không còn sự sống của Hồ Đại Chuy, cả bộ ngực của Hồ Đại Chuy đã bị thiết quyền của Dương Hổ đánh lõm sâu, tròng mắt lồi cả ra ngoài, trắng dã; chúng phát ra một thứ ánh sáng lập loè quái dị dưới ánh trăng mờ.
Đấm đến mệt lử người, bất chợt ngước lên trông thấy ánh mắt của Hồ Đại Chuy, Dương Hổ không khỏi rét lạnh trong lòng. Tuy trước mặt hắn là một cái xác không thể còn làm thương tổn được ai nữa, nhưng khi nhìn vào cặp mắt đó, Dương Hổ lại như bị sét đánh, không kiềm được kinh hãi phải run rẩy lui về sau mấy bước.
Lưng của Hồ Đại Chuy đã bị đánh lõm vào trong vách lò, song thân thể vẫn đứng ỳ ra đấy. Ý thức được sự yếu đuối của mình, Dương Hổ chợt rống lớn một tiếng rồi nhảy bổ tới, tung hai quyền như cuồng phong bão táp tới tấp lên mặt Hồ Đại Chuy, đánh nát xương cốt trên khuôn mặt hắn, hai hốc mắt đã bầy hầy xương thịt.
Mãi thật lâu sau, Dương Hổ mới lảo đảo lui về sau như thoát lực, suýt nữa ngã bệt xuống đất. Hắn nửa ngồi nửa quỳ thở hồng hộc, một lúc lâu sau mới bình tĩnh lại. Khi tai và mắt đã khôi phục lại sự linh mẫn, Dương Hổ chợt nghe thấy sau lưng có tiếng "kèn kẹt", tức thì hoảng hồn khiếp vía.
Mặc cho gan lớn đến cỡ nào đi chăng nữa nhưng đã có hành vi độc ác vô lương như vậy, thật sự trong lòng hắn không thể nào bào chữa gì được. Vì vậy vừa nghe thấy có tiếng động hắn liền nhảy dựng lên, giữ nguyên tư thế đó mà ngoái nhìn về sau. Hắn liền sững sờ!
Ánh trăng thoạt mờ thoạt tỏ, người đó lại thay đổi dung mạo, nhưng đã là vợ chồng mấy năm, làm sao hắn có thể nhận không ra đó là ai chứ? Thôi Oanh Nhi răng run lập cập, ngơ ngác nhìn hắn, nước mắt trong veo chảy dài trên khuôn mặt nàng, lấp lánh nhàn nhạt dưới ánh trăng.
Dương Hổ kinh hãi đến tột độ, thất thanh kêu lên:
- Oanh Nhi! Là nàng? Sao nàng... sao nàng giờ mới tìm tới? Hắn... Đại Chuy bán rẻ huynh đệ, phạm vào sơn quy...
Vừa nói đến đây, trông thấy ánh mắt chợt lộ vẻ ghê tởm, khinh bỉ và không tin của Thôi Oanh Nhi, hắn liền lầm bầm vài tiếng không rõ rồi ngậm miệng lại. Thôi Oanh Nhi run rẩy:
- Ngươi... sao ngươi lại có thể làm được chuyện này cơ chứ? Đây là đại ca nghĩa khí đứng đầu lục lâm Bá Châu đó ư?
Dương Hổ phát hoảng. Xưa nay hắn luôn sợ Thôi Oanh Nhi, chưa từng dám nảy sinh ý nghĩ phản kháng. Huống hồ chẳng những võ công của Thôi Oanh Nhi cao hơn hắn nhiều, mà nếu nàng đã trở về, Hoắc Ngũ Thúc ắt cũng đang ở lân cận. Chuyện hôm nay đã bị bại lộ, từ nay về sau khắp thiên hạ còn có chỗ nào cho hắn dung thân đây?
Thân bại danh liệt, người người chửi đánh, vừa nghĩ đến người hảo hán đứng đầu lục lâm phương bắc tiếng tăm lừng lẫy lại rơi vào cảnh sau này không thể nhìn mặt ai, Dương Hổ sợ hãi vô cùng. Hắn bèn lắp bắp chống chế:
- Oanh Nhi, ta không còn cách nào khác, tên đã bắn ra không thể thu lại được nữa. Nếu để bọn chúng trở về ăn nói bậy bạ, thì nhuệ khí lòng quân ta sẽ mất hết. Sau không đường lui, trước là tuyệt lộ, nàng sẽ làm thế nào? Ngũ... Ngũ thúc đâu? Lão nhân gia người nhất định hiểu được nỗi khổ tâm của ta. Kẻ... kẻ làm nên đại sự không thể câu nệ tiểu tiết.
- Ngũ thúc?
Thôi Oanh Nhi bất giác hỏi ngược lại, trong lòng nhất thời dấy lên nỗi bi thương.
Lúc nãy nàng dựa ám hiệu ngầm do Dương Hổ lưu lại mà lặng lẽ lần lên núi, càng gần đến nơi càng do dự không dám tiến thêm. Nghĩ đến nỗi phải đối mặt với trượng phu, mặt nàng liền đỏ bừng, xấu hổ khôn thôi. Trong lúc chần chừ nấp trong bóng tối không dám tiến thêm, nàng đã nghe rõ mồn một cuộc đối thoại giữa Dương Hổ và Hồ Đại Chuy.
Lúc Dương Hổ nổi ác ý giết người, thân thủ của hắn mau lẹ vô cùng. Đến khi Thôi Oanh Nhi từ trong kinh ngạc và khiếp sợ tỉnh lại thì Hồ Đại Chuy đã trở thành một thây ma. Lúc này nghe Dương Hổ hỏi vậy, kết nối những dữ kiện lại, Thôi Oanh Nhi mới sực hiểu rằng từ khi Dương Hổ tập kích Lý gia và Ngũ thúc đến Đại Đồng hành thích Dương Lăng, thì một cái bẫy đã được giăng ra. Một cái bẫy chết người nhằm diệt trừ toàn bộ những huynh đệ biết được bí mật hắn không phải là chân long thiên tử chuyển thế!
Một âm mưu thật hoàn hảo! Thông suốt được điểm này, sắc mặt của Thôi Oanh Nhi càng trở nên bi thảm, nàng nghẹn ngào:
- Ngũ thúc ư? Ngũ thúc đã vì cái nghiệp đế vương của ngươi mà vứt bỏ tánh mạng của mình, đã chôn thây trong thành Đại Đồng rồi.
Rồi nàng bật cười khanh khách, nói tiếp:
- Nay chỉ còn ta là người biết ngươi chính là một sơn đại vương nhỏ nhen, hẹp hòi, vô dụng, vốn chẳng phải là Tử Vi chuyển thế gì, chẳng phải là chân long thiên tử gì sất! Ngươi giết ta luôn đi, như vậy ngươi sẽ có thể an tâm mà thực hiện giấc làm hoàng đế bất nhân bất nghĩa, tứ đại giai không của mình!
Đoạn nàng rút thanh đoản kiếm từ bên hông ra, lấy hai ngón kẹp lấy mũi, đặt kiếm vào trong tay Dương Hổ rồi ngửa mặt lên trời nhắm mắt chờ chết.
Nàng đau đớn vì bị người ta lăng nhục, cho dù thế nào đi chăng nữa thì vẫn thẹn với phu quân. Nay lại phát hiện Dương Hổ vốn quang minh lỗi lạc, trọng tình trọng nghĩa lại trở nên nham hiểm ác độc như vậy, nàng càng nản chí ngã lòng, chỉ ôm lòng muốn chết.
Vốn không muốn giết nàng, song vừa nghe nàng những lời như thế, Dương Hổ lại chợt nảy ý nghĩ hung ác. Thế nhưng, tuy đã cầm kiếm trong tay, hắn lại không dám tin Hồng Nương Tử xưa nay hào khí ngút trời nay vừa trông thấy tình cảnh này sẽ một lòng đòi chết. Ánh mắt Dương Hổ lập loè, trong lòng lộp bộp, cuối cùng hắn kết luận rằng Thôi Oanh Nhi đang cố ý thử lòng mình.
Bất kể thế nào thì cô ta cũng là thê tử của mình, mình là trượng phu của cô ta. Bất luận mình có làm bao nhiêu chuyện có lỗi với người khác, khiến cô ta thất vọng và đau lòng thế nào đi chăng nữa, thì cô ta cũng không có lý do gì mà đối đầu với mình, trượng phu của cô ta cả. Hiện tại cô nàng cố ý bày ra dáng vẻ như vậy, rõ ràng là vì muốn tìm cớ để giết mình, hoặc rời khỏi mình đây.
Nghĩ vậy, Dương Hổ bèn kêu thầm trong bụng: "Nguy hiểm thật, suýt nữa thì đã trúng kế cô ta rồi! Cô ta rõ ràng là đang gài bẫy mình, tám chín phần mười là Ngũ thúc vẫn đang nấp trong bóng tối. Mình là chồng cô ta! Mình là anh hùng lục lâm cũng được, tiểu nhân bỉ ổi cũng được, mọi người trong thiên hạ có thể thóa mạ truy sát mình, nhưng mỗi cô ta là chỉ có thể cùng mình đồng sinh cộng tử. Sao mình phải sợ cô ta chứ?
Vả lại, sơn trại đã tổn thất nặng nề, nếu muốn làm nên đại sự, mình còn cần phải mượn tới sức người, sức của của sơn trại Thôi gia. Nếu như lúc này mỗi người một ngả, Thôi lão đại còn chịu giúp đỡ mình sao?
Thường có câu: “Con gái khóc thì thật lòng, rể khóc thì như rắm lợn!” Ai lại đi tin tưởng một thằng rể đã mất vợ kia chứ?”
Vừa nghĩ đến đây, Dương Hổ thả lỏng bàn tay đang nắm chặt thanh kiếm, "cheng", kiếm rơi xuống đất. Hắn vờ ra vẻ bi phẫn nói:
- Nương tử! Ta và nàng là một thể phu thê, nghĩa nặng tình sâu, dù cho có chết ta cũng chẳng nỡ làm tổn thương đến một sợi tóc của nàng.
Mạng của những huynh đệ này là mạng, vậy chẳng lẽ mạng của huynh đệ mười mấy trại lớn mà ta đã liên lạc trong suốt mấy năm nay không phải là mạng sao? Một khi nhuệ khí mất đi, sao còn là đối thủ của quan binh chứ? Mạng của hơn hai trăm huynh đệ chết trong kinh sư không phải là mạng sao? Mối thù sâu như biển máu của bọn họ chẳng lẽ không báo?
Ta không biết làm thế nào để bịt miệng bọn chúng lại, nhất thời ngu muội nên mới phạm phải sai lầm lớn này. Nương tử đau lòng trách mắng như vậy, vi phu đã biết lỗi rồi. Oanh Nhi, nàng hãy gọi Ngũ thúc ra đi, thi hành sơn quy, mổ bụng moi tim ta mà tế cho vong hồn các huynh đệ bị chết!
Dương Hổ kể lể đến "đứt ruột đứt gan", vẻ rất đỗi hối hận. Thôi Oanh Nhi chậm rãi mở mắt, ngơ ngác nhìn hắn hồi lâu, rồi chợt bật cười thê lương, khẽ nói:
- Ngũ thúc... quả thật đã chết rồi... biết bao huynh đệ tốt đi theo huynh, toàn bộ đều đã chết rồi...
Dương Hổ nghe vậy thì cả mừng: "Thật sự chỉ còn lại mỗi một mình Hồng Nương Tử sao? Vậy thì dễ xử lí rồi. Một đêm vợ chồng, cả đời ân tình. Nàng ta có oán hận mình thế nào đi chăng nữa, chẳng lẽ lại quẳng trượng phu mình ra ngoài làm chuột qua đường cho người đời thoá mạ ư? Trên đời không có phụ nữ như vậy!"
Lập tức cảm thấy yên tâm, Dương Hổ vội hỏi:
- Ngũ thúc thật sự đã chết rồi ư? Người... võ nghệ của người cao cường như vậy... Chẳng lẽ... chẳng lẽ hai người đã giết được Dương Lăng?
"Giết... Dương Lăng?" Thôi Oanh Nhi bỗng chột dạ. “Giết Dương Lăng! Giết Dương Lăng!? Còn chưa động được tới ‘chính chủ’, Ngũ thúc đã bị Lý Phúc Đạt, giáo chủ Di Lặc giáo, giết rồi. Mình giết tới giết lui rốt cuộc lại bị y...”
Thôi Oanh Nhi có nỗi khổ mà không thể nói nên lời, chỉ hoảng loạn lắc đầu đáp:
- Chúng... chúng ta gặp phải giáo chủ Di Lặc giáo Lý Phúc Đạt, trong bóng tối không rõ thân thế đôi bên nên đã động thủ. Ngũ thúc mất mạng dưới tay hắn. Còn ta... ta...
Vốn lòng nàng đầy phẫn hận, nhưng câu hỏi của Dương Hổ lại động đến tâm bệnh của nàng, khiến cho khí thế Thôi Oanh Nhi tức thì yếu hẳn.
Dương Hổ không biết vì sao nàng chợt trở nên yếu đuối. Ngỡ rằng vì nhắc đến cái chết của Hoắc Ngũ Thúc nên nàng bi thương, hắn bèn thừa dịp bước lên nắm lấy tay nàng, an ủi:
- Không sao đâu! Chỉ cần nàng bình yên vô sự là được rồi. Thù này đã kết với Di Lặc giáo, sớm muộn gì ta cũng sẽ bắt bọn chúng trả đủ món nợ này.
Thôi Oanh Nhi cười khẩy, giật mạnh tay ra khỏi tay hắn, lạnh lùng quát:
- Buông ta ra, tay của ngươi dính máu huynh đệ của mình! Không sai, phần lớn bọn họ đều là huynh đệ khấu đầu dâng hương kết nghĩa kim lan, là người của trại Thôi gia ta, luận thân tình cũng không bằng ngươi với ta. Nhưng ngươi muốn ta giả vờ như không thấy sao? Cho dù có chết ta cũng sẽ không bao giờ chung giường với một con sói độc ác!
Dương Hổ đỏ bừng mặt, như giận như nài:
- Oanh Nhi! Nàng... nàng là nương tử của ta. Cho dù ai phản bội ta, rời bỏ ta, chẳng lẽ nàng cũng muốn rời ta mà đi ư? Ngoài lần này, ta đã từng gạt nàng bao giờ chưa? Ngoài chuyện này, ta đã từng làm sai chuyện gì chưa?
Nương tử, nàng là phụ nữ, nàng không hiểu đâu! Đại trượng phu sống trên đời, nếu có cơ hội ai không muốn làm nên một chuyện lẫy lừng! Nàng có thấu hiểu nỗi khổ trong lòng ta không? Oanh Nhi à, ta hứa với nàng rằng đời này kiếp này ta sẽ không làm bất cứ chuyện gì có lỗi với huynh đệ nữa. Chuyện hôm nay chỉ có trời biết đất biết, nàng biết ta biết, nàng đừng rời xa ta có được không?
Nhìn khuôn mặt gã đàn ông đối diện đang trở nên mờ dần, Thôi Oanh Nhi có cảm giác muốn phá ra cười điên dại: "Đây là trượng phu của mình sao? Đây là đại anh hùng võ nghệ cao cường, lời hứa đáng giá nghìn vàng, nghĩa nặng như núi mà mình chọn ra từ hơn trăm hảo hán lục lâm phương Bắc đó sao? Mình muốn tuẫn tiết vì loại người này ư? Hắn xứng đáng sao!
Một kẻ tay vấy máu tanh, có lỗi với huynh đệ; một kẻ mất thân trong sạch, có lỗi với chồng mình. Chúng ta thực đúng là một cặp trời sinh, tự gây nghiệp chướng, là món nợ kiếp trước của mình."
Hồng Nương Tử ngừng khóc, đôi mắt xinh đẹp dưới hàng mi cong đỏ au, giọng lạnh như nước đá:
- Bây giờ, ta còn tin được ngươi sao? Nếu ngươi không chịu viết thư đuổi vợ, vậy trên danh nghĩa ta vẫn sẽ là con dâu nhà họ Dương của ngươi, nhưng từ đây trở đi, chúng ta ân đoạn nghĩa tuyệt. Danh nghĩa là vợ chồng, nhưng ngươi làm gì ta sẽ mặc kệ, ta làm gì ngươi cũng đừng hòng can thiệp. Còn hôm nay ngươi làm chuyện trời đánh thánh đâm này, tự sẽ có ông trời báo ứng.
Hồng Nương Tử tính nóng như lửa, ghét ác như thù. Nếu Dương Hổ không phải chồng nàng thì nàng đã sớm rút kiếm lấy cái đầu trên cổ hắn xuống rồi, cho nên lời nói rất là cay độc.
Dương Hổ nghe vậy thì thở phào nhẹ nhõm.
Chỉ cần vẫn là phu thê trên danh nghĩa, thì mình sẽ có thể lôi kéo được nhân mã trại Thôi gia. Huồng hồ Hồng Nương Tử cũng từng cãi vã giận dỗi hắn, qua lâu ngày thì lại hết giận. Bây giờ vờ đồng ý với nàng, sau này cố gắng lấy lòng, sớm muộn còn không dỗ được nàng ta đổi ý hay sao?
Thôi Oanh Nhi nói xong, bèn nhặt kiếm bước đến bên xác Hồ Đại Chuy, quỳ sụp xuống vái ba lạy, rồi gạt lệ nâng thi thể hắn lên, nhẹ nhàng đặt ngang trên mặt đất, lấy kiếm đào đất chôn cất. Dương Hổ định tiến đến giúp đỡ liền bị Hồng Nương Tử lạnh lùng quắc mắt, hắn sượng sùng lui tránh sang bên.
Thương thế Hắc Diêu Tử hết sức nghiêm trọng, vết đao vết tên trên người vô số, chân cẳng lở loét đến kinh người. Dương Hổ lại rắp tâm trì hoãn việc chữa trị, hòng khiến hắn không được điều trị mà chết, cho nên liên tục lần lữa việc chữa chạy, khiến hắn giờ chỉ còn xót lại chút hơi tàn mà thôi.
Hồng Nương Tử lo Dương Hổ sẽ giết người diệt khẩu, nên chôn cất Hồ Đại Chuy xong, liền chui vào hầm trú, canh gác và săn sóc cho hắn, định bụng đến khi trời sáng sẽ cõng hắn xuống núi tìm cách mời thầy chữa trị. Dương Hổ không thể làm gì khác đành phải tạm thời lánh sang một hầm trú khác.
Đêm tối mịt mù, lửa vẫn bập bùng. Ngồi ôm gối bên cạnh Hắc Diêu Tử, Hồng Nương Tử đang rơi vào ác mộng....
Nhoáng cái, mạch suy nghĩa của nàng như bay về trại cũ Thôi gia năm xưa. Tổng biều bả tử (lão đại - ND) của lục lâm phương Bắc là Thôi đại đương gia đang lập võ đài kén rể cho con gái. Chẳng những hảo hán lục lâm phương bắc tụ tập về trại Thôi gia, mà thậm chí hào kiệt phương nam các nẻo cũng ùn ùn kéo đến. Thanh niên tuấn kiệt lần lượt từng kẻ lên đài tỉ võ, song đều bị nàng đánh ngã rạp, đá văng xuống đài.
Thôi đại tiểu thư đang lấy làm thất vọng, chợt có một thanh niên bước lên đài. Phần lớn người trong giới lục lâm đều không biết chữ, những kẻ khác thì xưng tên cho người chủ trì ghi chép, còn hắn lại đi đến tự chấp bút viết tên mình. Hồng Nương Tử không kiềm được liếc mắt nhìn, vừa vặn chạm phải ánh mắt của hắn. Kẻ này phong thái hiên ngang, tướng mạo khá là anh tuấn. Hồng Nương Tử thoáng đỏ mặt, trong lòng có vài phần vừa ý.
Trong giấc mơ, Thôi Oanh Nhi khẽ chau cặp mày thanh tú: "Đáng tiếc, võ nghệ cũng chỉ có vậy. Ôi, nhưng mà 'Thục trung vô đại tướng'(1), đành nhường hắn mấy phần vậy."
Thôi Oanh Nhi vờ lộ ra sơ hở, "bị" hắn ta gạt ngã nhẹ xuống đất. Kẻ đó chìa tay ra, Thôi Oanh Nhi mỉm cười ngọt ngào, đưa tay ra trong tiếng tung hô rầm trời của quần hùng dưới lôi đài. Nhưng tướng mạo kẻ đó chợt mờ đi, rồi biến thành hình dáng của Dương Lăng.
Thôi Oanh Nhi vừa kinh ngạc vừa hoảng sợ, đang muốn biết rõ đã xảy ra chuyện gì, thì bỗng lại bị đưa đến một không gian khác: bờ mông tròn uốn cong, cặp vú săn mẩy đang mặc sức biến hình dưới bàn tay y, quầng vú màu hồng nhạt bị y ra sức ngậm chặt, mút lấy mút để khiến nàng rên rỉ không ngừng.
Nàng sắp bay lên trời rồi. Thôi Oanh Nhi cảm thấy thân thể của mình như đang tan chảy. Nàng thở hổn hển, đan mười ngón tay vào kẽ tóc đầm đìa mồ hôi của gã đàn ông đó của nàng. Nhưng khi nàng nâng khuôn mặt đó lên, nàng thấy nó vừa thân quen lại vừa lạ lẫm. Nàng nhớ ra rồi! Y tên là Dương Lăng. Lạ thật... mình đã gả cho người này sao? Y là thủ lĩnh sơn tặc? Hay là quan viên triều đình?
Đầu nàng lâng lâng như say rượu, đã không còn có thể nghĩ gì được nữa. Từng đợt sóng khoái cảm khiến nàng như đang dập dờn trên mặt nước. Thân thể người đàn ông nhấp nhô lên xuống, chạm đến linh hồn, như mài nghiền như chà xát, kéo theo từng đợt run rẩy phát ra từ bờ mông mềm xốp của nàng, hoà cùng khoái cảm của nàng.
Nàng mặc kệ. Cùng mình thân mật như vậy, chàng nhất định chính là trượng phu của mình. Thực buồn cười, hai người đang ân ái như vậy, không ngờ mình lại đi nghĩ rằng chàng không phải là tướng công của mình, Thôi Oanh Nhi chợt muốn bật cười thành tiếng. Mở mắt ra, cảnh tượng điên loan đảo phượng ướt át đã biến mất, Ngũ Thúc đang đứng trước mặt nàng với khuôn mặt trắng bệt, cất giọng thê lương:
- Oanh Nhi! Con đã quên mối huyết thù của Ngũ Thúc rồi sao? Sao con lại có thể chung đụng với kẻ thù đã giết chết ta chứ?
- Không phải đâu, không phải đâu, Ngũ Thúc, không phải thúc bị Lý Phúc Đạt giết chết sao? - Thôi Oanh Nhi kinh hoảng lắc đầu.
- Ai nói?! Rõ ràng chúng ta đi ám sát Dương Lăng, ta bị quan binh của y bắn chết. Con lại đi nghe lời đồn bậy bạ của ai vậy, lại nói là Lý Phúc Đạt giết ta? Oanh Nhi, chúng ta và quan binh là kẻ tử thù không đội trời chung, sao con lại có thể đi yêu thích người của triều đình kia chứ?
- Con không có... con không có..., Chuyện này là thế nào? Là ai đang gạt ta? Tại sao Ngũ Thúc phải nói dối, tại sao ai cũng gạt ta vậy, ta biết tin vào ai đây? Ta phải tin ai đây?
Thôi Oanh Nhi hốt hoảng ra sức biện bạch, song tìm quanh lại không thấy bóng dáng Ngũ Thúc nữa. Hồ Đại Chuy trợn trừng cặp mắt đáng sợ hét với nàng:
- Chồng của cô là tên tiểu nhân hèn hạ vô sỉ! Hắn bán rẻ chúng ta, hắn giết huynh đệ kết bái của chính mình! Còn cô? Cô thì đi dụ dỗ đàn ông khác, mê luyến thông dâm. Chúng ta mù mắt cả rồi, sao lại có thể đi theo các ngươi chứ!
- Không... không...- Thôi Oanh Nhi sợ hãi lui về sau, đột nhiên hụt chân ngã xuống vách núi. Nàng thét lên một tiếng thảm thiết, giật mình choàng tỉnh giấc.
Thôi Oanh Nhi ngồi thẳng người dậy, day day hai bên thái dương, phát hiện cả áo ướt nhẹp, lạnh ngắt, đầu mướt mồ hôi lạnh. Bên ngoài sắc trời vừa chạng vạng, một cơn gió rét buốt thốc vào, nàng rùng mình vì lạnh. Thì ra là một giấc mộng Nam Kha! Trống ngực Thôi Oanh Nhi đập thình thịch, hơi thở dồn dập, mãi lúc sau mới bình tĩnh lại.
Nàng quay đầu lại nhìn Hắc Diêu Tử đang nằm ngay đơ không ăn uống được gì. Gã đàn ông tráng kiện khoẻ mạnh này đã bị bệnh tật thương thế giày vò đến thoi thóp, mặt mày xám nghoét. Cánh mũi Thôi Oanh Nhi cay xè: chuyến rời khỏi Bá Châu lần này, từ đầu đến cuối đã mất mạng hơn hai trăm huynh đệ tốt, hắn là người duy nhất còn sống. Bất luận thế nào, mình phải cứu chữa hắn khỏe mạnh, đưa hắn về lại Bá Châu!
Thương thế của hắn quá nghiêm trọng, cứ vậy mà đi sẽ không sống nổi đến khi trở về, nhất định phải tìm thầy thuốc chữa trị cho hắn. Thôi Oanh Nhi đứng dậy, đi lòng vòng trong hầm, nghĩ cách làm thế nào để đưa Hắc Diêu Tử xuống núi, tìm lang trung xem bệnh cho hắn.
Dương Hổ thò đầu xuống miệng hầm. Hắn biết Hồng Nương Tử luôn ngủ rất cảnh giác, nếu có người tùy tiện đến gần, nhất định sẽ bị nàng phát hiện. Nhưng hắn không biết mấy ngày nay nàng đã hứng chịu nhiều đả kích lớn, tinh thần lẫn thể xác đều mệt mỏi đến cùng cực, sớm đã gắng gượng không nổi, khi nãy nàng thật sự đã ngủ thiếp đi.
Thôi Oanh Nhi thoáng nhìn hắn, lạnh lùng bảo:
- Ta muốn mang hắn đi tìm thầy thuốc. Trị khỏi thương thế xong sẽ trở về trại lớn Bá Châu.
Dương Hổ lầm bầm:
- Cả người hắn đầy vết thương, không có thầy thuốc giỏi sẽ chữa không khỏi. Nhưng mà tất cả thầy thuốc giỏi đều cư trú nơi thành to chợ lớn. Hai người đi đến những nơi đó thật sự rất nguy hiểm, hơn nữa bọn họ trông thấy người có thân thế không rõ lại mang thương thế đáng nghi như vậy...
Thôi Oanh Nhi liền ngắt lời hắn:
- Chuyện đó không cần ngươi nhọc tâm, ngươi đi đường dương quan của ngươi, ta qua cầu độc mộc của ta. Ta làm việc này là để chuộc tội, mặc kệ có bao gian khổ, ta vẫn cố hết lòng, hết sức của mình. Nếu ngươi còn nghĩ đến chuyện giết người diệt khẩu thì cứ việc đi theo ta, bằng không thì hãy về mà tiếp tục chiêu binh mãi mã chuẩn bị tạo phản đi! Dương Hổ, ta sẽ mở to mắt ra nhìn xem ông trời trừng trị ngươi thế nào!
Đoạn nàng cõng Hắc Diêu Tử lên ngang nhiên bước qua mặt Dương Hổ bỏ đi, không thèm liếc lấy một cái. Dương Hổ giương mắt nhìn nàng bước qua mặt mình, sững người một hồi, rồi mới nghiến răng, giậm chân, quay lại thu thập bọc hành trang, lặng lẽ xuống núi.
* * *
Lúc đội nghi trượng của Hoàng đế đi đến Dương Nguyên, bệnh tình của Đường Nhất Tiên đột nhiên trở nặng, sốt cao không hạ, mồ hôi ướt đẫm không thôi, khiến cho Chính Đức và Dương Lăng lo lắng đến chết đi được. Dọc hành trình, Chính Đức đặc biệt chuẩn bị cho Đường Nhất Tiên một chiếc kiệu xe rộng rãi thoáng đãng. Bởi nàng bị bệnh phải nằm bên trong, không dám để nàng ra gió, cho nên nàng vẫn không biết rằng tên tiểu hiệu úy hay hầu hạ mình chính là đương kim thiên tử.
Chính Đức rời cung đã quen. Hắn cảm thấy mặc long bào gò bó, không tự tại như người bình thường, hơn nữa hết mực lo lắng bệnh tình của Đường Nhất Tiên, cho nên dọc đường hắn lại thay trang phục hiệu úy vào, thường xuyên chạy đến thăm viếng. Vì vậy trong xe của hoàng đế trống trơn, chỉ bày ra cho có mà thôi.
Thậm chí rời khỏi kiệu xe của Đường Nhất Tiên rồi, hắn cũng lười chẳng thèm quay về kiệu mình, thoắt lại chen lên ngồi cùng xe Dương Lăng, thoắt lại chen lên xe lớn ngồi chung với đám sĩ tốt, thong dong tự tại, không câu nệ tiểu tiết.
Bệnh tình Đường Nhất Tiên mỗi lúc một nặng thêm. Chính Đức và Dương Lăng không dám cho đi nhanh hơn nữa, đội xe vừa vào Dương Nguyên liền dừng lại để nghỉ ngơi. Huyện lệnh Dương Nguyên thấp tha thấp thỏm chạy đến diện kiến thánh giá, Chính Đức cũng lười để ý lão ta. Nơi này cách Đại Đồng không xa, dịch quán đơn sơ. Chính Đức lo Đường Nhất Tiên vào ở không được thoải mái, nhìn thấy trong huyện có một căn nhà lớn, hoa mỹ bất phàm, hắn bèn hỏi lão huyện lệnh Dương Nguyên:
- Đây là nhà của ai?
Huyện lệnh huyện Dương Nguyên - Phác Tử Phong - khom người đáp:
- Bẩm hoàng thượng, đó là dinh thự của Hoa đại nhân, nguyên ngự sử Tả đài Hoa Tử Quy.
Chính Đức bảo:
- Đi! Bảo lão ta dọn dẹp căn phòng tốt nhất, chuẩn bị đồ ăn ngon nhất, trẫm muốn trọ ở đó.
Theo lý thuyết, đối với bầy tôi, việc hoàng đế trưng dụng dinh phủ của đại thần đã bãi quan làm hành cung là một chuyện hết sức vẻ vang. E rằng cái ghế mà hoàng thượng ngồi vào, cái chăn mà hoàng thượng đắp lên đều sẽ được vị Hoa Tử Quy Hoa đại nhân này lấy giấy vàng bọc lại, mỗi ngày ba nén nhang cúng thờ. Do đó, sau thoáng do dự Dương Lăng cũng không mở miệng ngăn cản.
Huyện lệnh Dương Nguyên vội vàng chạy đi truyền chỉ. Hoa ngự sử vừa nghe xong liền mừng rỡ như điên, lập tức triệu tập cả nhà lớn bé dọn ra biệt viện, dành toàn bộ nhà chính khoản đãi hoàng đế lão gia.
Mấy phương thuốc mà thần y của phủ Đại vương đi theo chăm sóc kê cho cũng chỉ có bấy nhiêu. Nay Đường Nhất Tiên bệnh đến thoi thóp, khuôn mặt nhỏ nhắn gầy đi không ít, khiến cho cặp mắt to tròn trông lớn hơn nhiều. Có điều đôi mắt xinh đẹp ấy lại trông ảm đạm vô hồn, cả ngày lờ đờ, khiến Dương Lăng trông thấy mà đau đớn trong lòng.
Đường Nhất Tiên dám nổi cáu với đám người Chính Đức, thuốc đó đắng đến buồn nôn, nàng ương bướng không chịu uống thì cũng không ai dỗ được. Nhưng khi Dương Lăng bưng chén thuốc đích thân cho nàng uống, thì tiểu cô nương lại ngoan ngoãn uống hết. Thế là mỗi khi đến giờ uống thuốc, Dương Lăng lại trở thành dược quan hầu thuốc cho Đường đại tiểu thư.
Có điều tuy Đường Nhất Tiên cố nhịn đắng nuốt trôi thuốc, nhưng mấy thứ vỏ cây rễ cỏ nọ đắng không gì sánh được, nuốt vào trong bụng liền như lộn ruột, thượng thổ hạ tả. Theo lão ngự y của vương phủ đó nói thì làm vậy là để bài tiết hư hỏa, thanh tràng khử độc, mới đỡ bệnh. Thế nhưng thân thể Đường Nhất Tiên vốn dĩ yếu đuối, nào chịu nổi giày vò như vậy? Thế là bệnh tình càng thêm nghiêm trọng, thậm chí Dương Lăng là kẻ ngoại đạo không hiểu gì về y học cũng thấy được rằng cứ tiếp tục như vậy thì một tiểu cô nương như hoa tươi sẽ bị vần vò cho đến chết, nên y bèn dứt khoát cho ngưng uống thuốc.
Bên trong Hoa phủ, sau khi uống chút nước đường, Đường Nhất Tiên đã ngủ thiếp đi. Dương Lăng khẽ lấy khăn lau chút nước dính ở khoé miệng nàng, kéo góc chăn đắp lại ngay ngắn cho nàng, rồi quay người lại. Chính Đức mặt mày đau khổ nói:
- Dương thị độc, giờ nên làm thế nào mới phải đây? Bệnh của nàng... bệnh của nàng càng lúc càng nặng.
Dương Lăng ra hiệu cho Chính Đức rồi dẫn hắn rời khỏi phòng ngủ của Đường Nhất Tiên, hai người nhìn nhau tiu nghỉu. Im lặng hồi lâu, Dương Lăng mới nói:
- Bệnh tình của Nhất Tiên quá nghiêm trọng, đã không thể tiếp tục chịu nổi đi đường mệt nhọc xóc nảy như vậy nữa.
Chính Đức gật đầu nói:
- Ừ! Trẫm vốn định sau khi hồi kinh có thái y khám và chữa trị, sẽ có thể mau khỏi, nay xem ra không thể thực hiện được. Cái đám lang băm này, ngay cả bệnh cảm mạo cũng không chữa được, đúng là vô dụng!
Dương Lăng chỉ biết cười buốn. Tuy y không hiểu y học, nhưng có thể đoán ra tám chín phần mười là trên người Đường Nhất Tiên mắc phải chứng viêm nhiễm gì đó. Thời hiện đại thì có truyền dịch để nạp thẳng thuốc điều trị vào trong máu, hơn nữa còn phải điều trị rất lâu. Cho nên việc một số bệnh mà người thời nay xem thường lại vẫn lấy mạng người thời xưa là việc rất đỗi bình thường.
Y chợt nghĩ tới Cao Văn Tâm, không biết nàng ta có cách nào trị khỏi cho Đường Nhất Tiên hay không. Nhưng nghĩ đến lộ trình xa xôi, Đường Nhất Tiên có thể gắng gượng đến khi ấy hay không còn chưa biết được, thế là y không khỏi nhíu màu lắc đầu.
Một lúc lâu sau, y mới hơi máy động trong lòng, bèn vội gọi người lại bảo:
- Đi! cho mời Hoa đại nhân tới. Bản quan có chuyện muốn hỏi.
Hoa đại nhân mời khách đến nhà, khách lại đổi thành chủ. Lão muốn gặp mặt còn phải được người ta cho người mời, chờ người thông báo, song Hoa đại nhân vẫn vui sướng vô cùng. Nghe tin được mời, lão vội chạy đến hậu sảnh chính viện ra mắt Hoàng thượng, Dương Lăng, Miêu Quỳ và Dương Phương.
Dương Lăng hỏi:
- Hoa đại nhân, bản địa có lang trung xuất sắc y thuật cao siêu nào không?
Sau thoáng nghĩ ngợi, Hoa Tử Quy vê râu đáp:
- Dương đại nhân, bản địa là một huyện nhỏ, thực không có danh y nào. Khi bản quan bị bệnh cũng phải mời danh y từ Đại Đồng đến chữa trị. Hai vị mà Dương đại nhân mang theo chính là lang trung nổi tiếng Đại Đồng rồi. Bản địa ấy à, thật sự có một vị thầy mo họ Mã, nghe đâu có vài phép tà môn, thực ra đều là một ít phương thuốc dân gian, có hiệu nghiệm hay không cũng rất khó nói. Bản quan chưa mời hắn trị bệnh bao giờ, song nghe phụ lão bản địa kể lại thì có một số bệnh thật sự là “chữa đâu khỏi đó”.
Thầy mo dân gian? Y thuật dân gian không ít điều là thứ rác rưởi phi khoa học, song cũng có rất nhiều phương thuốc lưu truyền từ xưa không thuộc y thuật chính quy thỉnh thoảng nếu gặp đúng chứng bệnh thì thật sự lại rất hiệu nghiệm. Mà lý do phương thuốc của hai vị danh y Đại Đồng không hiệu nghiệm, một phần có thể là do quả thật y thuật có vấn đề, phần khác Dương Lăng lại đoán là có quan hệ đến lai lịch của Đường Nhất Tiên.
Bọn họ vốn biết Đường Nhất Tiên là biểu muội của tổng đốc Nội xưởng. Nay ngoài Đường Nhất Tiên ra, ai nấy đều biết gã hiệu úy nho nhỏ lăng xăng chạy tới chạy lui bên cạnh nàng chính là đương kim thiên tử của Đại Minh.
Thiên tử còn có thái độ như vậy với nàng, còn ai dám xem thường nàng chứ? Kẻ làm y quan cũng rất am hiểu đạo quan trường. Cho nên khi xem bệnh cho những nhân vật quan trọng cỡ này, bọn họ không dám mạnh dạn chẩn đoán, nghiêm túc kê đơn, chỉ sợ một số vị thuốc gây hiệu ứng ngược thì mình sẽ là tội nhân. Do đó bọn họ chỉ kê một ít vị thuốc vô thưởng vô phạt để gạt người. Nếu những bệnh nhân này có chết cũng là do số trời, không có can hệ gì đến bọn họ.
Dương Lăng biết những mắc míu trong ấy, có điều nay hết nước phải liều đường, không bằng mời thầy mo đến chữa trị. Hắn dùng bài thuốc cổ truyền cũng được, gọi hồn cũng được, chỉ cần có thể thuyên giảm bệnh tình của Đường Nhất Tiên phần nào vẫn tốt hơn là để bệnh tình trở chứng thất thường, đau khổ mỗi ngày như thế này.
Nghĩ vậy, Dương Lăng bèn hớn hở nói với Chính Đức:
- Hoàng thượng! Thần xin đích thân đi viếng vị thầy mo này một chuyến, nếu quả như hơi có phương thức chữa trị, thần sẽ mời hắn về thử xem sao.
Hiện tại Chính Đức cũng không còn cách nào khác, hắn bèn vội gật đầu đồng ý:
- Ái khanh mau đi đi, chớ trì hoãn!
Dương Lăng quay sang nói với Hoa đại nhân:
- Bản quan không rành rẽ nơi này, xin đại nhân sai quản gia trong phủ dẫn đường. Bản quan sẽ đi gặp vị thầy mo họ Mã này một chuyến xem sao!
*****
Chú thích:
(1) Trích từ thành ngữ "Thục trung vô đại tướng, Liêu Hoá tác tiên phong". Câu này xuất phát từ điển cố Khương Duy bắc phạt, đại tướng nước Thục chết hết, không còn ai để dùng, đành cho Liêu Hoá, vốn xuất thân là sơn tặc sau quy thuận làm thư kí dưới trướng Quan Vũ, làm tiên phong.
Chương 219 Giang sơn và mỹ nhân
------------------------
Theo lời dân chúng, Mã thần y không cư ngụ trong thành Dương Nguyên mà ở tại trấn Đông Dã cách huyện thành không xa mấy. Tin tức hoàng đế đến Dương Nguyên đã được truyền khắp cái huyện thành nho nhỏ này, song trong trấn vẫn một bầu yên tĩnh; tin tức vẫn chưa lan truyền tới.
Dương Lăng cùng thị vệ cải trang thường phục, chia thành ba tốp chạy băng băng về phía Đông Dã. Đây cũng là điều suy tính cẩn thận của y. Nay trong kinh, thậm chí là khắp thiên hạ đang đầy lời đồn thổi, thế nhưng Hoàng thượng không vội vã hồi kinh mà lại lần lữa ở lại Dương Nguyên là vì cái gì?
Nếu giương cờ gióng trống chạy đi mời thầy thuốc, bị người ta biết được Hoàng thượng chùng chình là bởi một người con gái, ắt sẽ tổn hại đến thanh danh của vị thiên tử trẻ tuổi này. Thành thử Dương Lăng không muốn phô trương, mà tự mình dẫn Ngũ Hán Siêu, Lưu Đại Bổng Chùy cùng sáu bảy tay thân binh, ai nấy đều đeo đao, giấu nỏ đồng trong ống tay áo, theo quản gia Hoa phủ tiến vào trấn Đông Dã. Còn có hai tốp thị vệ hỗ trợ trước sau, giữ khoảng cách chừng nửa tầm tên.
Bất luận là ở thời đại nào, ở địa phương nào, hễ là người thầy thuốc có chút bản lĩnh đều rất được hoan nghênh. Vị Mã thần y này tuy thuộc loại thầy bùa thầy ngãi, không nằm trong hàng ngũ y sĩ chính quy được triều đình công nhận, nhưng lại rất có danh tiếng trong vùng Dương Nguyên này, cho nên nhà cửa của hắn ta bài trí xa hoa vô cùng, có thể coi là hộ đại phú số một số hai ở trấn Đông Dã này.
Dương Lăng đi đến trước cổng phủ nhà họ Mã. Đám thị vệ đi đến trước đó đã xuống ngựa tản ra chung quanh, canh gác chung quanh các giao lộ, cửa phòng và lạc viện. Quản gia Hoa phủ tuy biết vùng này nhưng cũng chưa từng đến nhà gặp gỡ Mã thần y, nên liền đi cùng đám người Dương Lăng vào trong sân.
Căn nhà này được xây theo lối kiến trúc tứ hợp viện, gạch xanh ngói đen, bước vào cửa liền gặp một bức bình phong nho nhỏ, chính giữa chạm trỗ hình cá chép hoá rồng và chữ Phúc thật lớn, trang trí đầy vàng ngọc.
Quản gia Hoa phủ khom lưng dẫn Dương Lăng đi vòng qua bức bình phong. Chưa thấy người ra tiếp đón thì đã nghe thấy trong chính sảnh vọng ra tiếng trống "thùng thùng". Tiếng trống khi thong thả khi cấp bách, mang theo sự quỷ dị, kích động vô cùng. Dương Lăng nghe tiếng trống hết sức quen thuộc, rõ ràng là tiếng trống "gọi hồn" bị người đời sau chỉ trích. Vừa nghe thấy tiếng trống này, niềm tin của Dương Lăng lập tức tan biến, y chỉ muốn "nổi trống lui quân" ngay, không còn chút hào hứng gì với vị thầy mo “Mã đại tiên" này nữa.
Nhưng đã đến đây rồi, cũng không thể cứ vậy mà xoay người bỏ đi, Dương Lăng đành cắn răng cùng quản gia Hoa phủ bước vào đại sảnh. Lúc này y mới trông thấy một thằng nhóc ăn vận như sai vặt ngông nghênh bước ra, ra vẻ thần bí dẩu miệng lên bảo:
- Đừng làm ồn, sư phụ ta đang thỉnh thần linh trừ tà.
Quản gia Hoa phủ quả thực không dám làm ồn, bởi tương truyền phép thuật thầy mo hết sức tà môn. Nghe nói trong lúc làm phép mà bị cắt ngang sẽ rất dễ bị ma quỷ nhập vào. Thế là bỏ mặc thằng nhóc sai vặt, lão đổi vị trí từ khách thành chủ mời Dương Lăng sang ngồi một bên, cùng nhau xem Mã thần tiên làm phép.
Mã thần tiên có khuôn mặt béo phị, trên mép còn có hai hàng râu chuột, đầu buộc chiếc vải điều vẽ bùa, để trần nửa cánh tay, cả người lắc giật như bị động kinh, miệng tụng liên tục, da thịt béo ục và nhũn nhão trên ngực và hai vai rung theo từng động tác của hắn. Trông hắn lắc lư hết sức nghiêm túc, đầu cổ vã đầy mồ hôi.
Trước mặt hắn đặt một cái cáng, trên cáng là một người đàn ông gầy đét như que củi, tóc hoa râm, da bọc xương, có hai tráng niên và một bà lão đứng khúm na khúm núm một bên.
Dương Lăng nhíu mày, kiên nhẫn chờ hắn nhảy xong. Y thấy hắn sải bước đến trước bàn thờ, trút từ trong lư hương ra một ít tàn nhang, bỏ vào trong bao giấy, hai mắt như mở như không, bước về chỗ cũ, đưa cho bà lão với bộ dạng như ban ơn, kéo dài giọng bảo:
- Chia làm ba lần, pha nước cho uống. Bản đại tiên đã thỉnh thần linh đuổi cái con tà ma này đi rồi, có điều hắn vẫn chưa khoẻ lên ngay, cần phải tĩnh dưỡng cẩn thận.
Xem đến đây, Dương Lăng đã không còn "dũng khí" xem tiếp nữa, y bèn phất áo đứng dậy, gượng cười nói với quản gia Hoa phủ:
- Đi thôi! Xem ra chuyến đi này của chúng ta công cốc rồi.
Thằng nhóc sai vặt nãy giờ vẫn ngạo mạn đứng bên cạnh, không thèm liếc mắt để ý đến bọn họ. Song vừa nghe thấy lời này, anh chàng liền không nhịn được lập tức chen vào:
- Xem bộ dạng nhà ngươi, hình như không phải là người bản xứ! Có phải là hâm mộ mà đến không? Sư phụ ta bản lĩnh cao cường, khắp làng trên xóm dưới ai mà không biết. Ngươi chưa thử bao giờ sao dám nói sư phụ ta không có bản lĩnh thật sự?
Hai con mắt ti hí của Mã đại tiên béo ục ịch vốn chẳng lười mở ra, song vừa nghe thấy lời này liền tức thì trợn lớn, quét lên xuống khắp người Dương Lăng một lượt. Dường như phát hiện những người khách trước mặt cũng có danh vọng cho nên mặt tuy rất giận nhưng ngữ khí của hắn lại không dám kiêu ngạo quá đáng.
Hắn phẩy ta ra hiệu thằng nhóc lui ra, đoạn cười hềnh hệch nói:
- Thuốc không chữa bách bệnh, Phật chỉ độ kẻ hữu duyên. Mã mỗ đây không phải là lão Diêm Vương, đương nhiên không dám nói trị hết các bệnh, có điều vị lão gia này trông mặt liền bắt hình dong, quả quyết rằng mỗ không thể chữa bệnh, có phải là đã quá võ đoán chăng?
Một tráng niên đứng cạnh đang nâng cáng bệnh nhân chuẩn bị ly khai nghe vậy bèn chen vào:
- Vị tiên sinh này! Quả thực Mã đại tiên rất giỏi y thuật. Hè năm ngoái tại hạ ăn miếng dưa hấu trấn Tỉnh Thủy, bị đau bụng gần chết, nhờ uống tàn nhang của Mã đại tiên mà đã lập tức khỏi ngay.
Mã đại tiên nghe vậy càng thêm đắc ý. Dương Lăng nghe xong thì đoán chừng đó là một loại chứng đau bụng khan(*), chứng đó trị không kỹ cũng có thể gây chết người. Tàn nhang của hắn à..., y tưởng tượng cảnh chiếc miệng chúm chím anh đào của Đường Nhất Tiên bị trút cả bát nước tàn nhang đen thùi vào, miệng liền méo xệch.
Đau bụng khan: chỉ đau bụng thôi, bụng quặn đau nhưng không muốn đi cầu, người hơi ớn lạnh. Nguyên nhân không phải do thức ăn nhiễm khuẩn, mà do cơ thể bị nhiễm lạnh, thức ăn trong dạ dày không chuyển hóa được, tiêu hóa bị ngưng trệ.
Nhưng sau khi nghe xong lời này, cộng thêm cái tên thô tục bỉ lậu giả thần giả quỷ Mã "đại tiên" này lại có thể đưa ra kiến giải như vậy, cách nhìn của Dương Lăng đối với hắn lập tức hơi thay đổi. Y bèn đưa mắt ra hiệu với quản gia Hoa phủ.
Hiểu ý, quản gia Hoa phủ bèn cười khà khà, xoa dịu:
- Mã lang trung chớ nóng! Đại... đại lão gia của ta cũng là lo lắng cho người bệnh, cho nên có điều nóng nảy. Nếu Mã lang trung thực có bản lĩnh như vậy, xin mời đến nhà chữa trị cho gia quyến của lão gia nhà ta. Ta là người của Hoa gia trong thành, nếu chữa khỏi được, phí chẩn bệnh cho ngài quyết sẽ không ít đâu.
Mã thần y nghe xong thì thoáng do dự, rồi lắc đầu đáp:
- Hoa gia? Ồ, nếu là Hoa gia thì mỗ tin tưởng được. Có điều... không biết có thể mời các vị đưa bệnh nhân đến đây chữa trị hay không? Tại hạ không đến nhà chữa trị được đâu.
Quản gia Hoa phủ lấy làm phật ý:
- Mã lang trung! Vị gia quyến này của lão gia nhà ta là một thiên kim tiểu thư, hơn nữa bệnh nằm trên giường, không chịu nổi xóc nảy. Chẳng lẽ mặt mũi Hoa gia ta còn không mời được ông hay sao?
Mã đại tiên gượng cười đáp:
- Việc này... việc này... Thật sự là trong nhà tại hạ có một vị bệnh nhân khác. Người nhà đã trả cho rất nhiều tiền chẩn bệnh rồi, điều kiện duy nhất là yêu cầu Mã mỗ phải túc trực coi sóc cho đến khi nào thương thế bệnh nhân đó khỏi hẳn. Mã mỗ sao có thể nói mà không giữ lời?
Quản gia Hoa phủ nhíu mày hỏi:
- Thương thể khỏi hẳn? Rốt cuộc là bị bệnh hay là bị thương? Mà thôi, ông cứ đi theo ta, ta cũng trả ông hậu hĩ, phí chẩn bệnh là mười lạng. Thế nào?
Mã đại tiên khá động lòng, song lại không muốn vơ bẩm nhờ nuốt lời, bèn khổ sở lắc đầu đáp:
- Sống trong giang hồ, phải lấy tín nghĩa làm đầu. Thật sự là...
Ngũ Hán Siêu chợt chen vào:
- Bạc ròng trăm lạng!
Mã đại tiên vừa nghe xong, tim liền đập thình thịch, liếc về phía rèm cửa phòng bên một cái, rồi giậm chân, vứt hết tín nghĩa giang hồ lên chín tầng mây, nói ngay:
- Được! Ông không được nuốt lời đấy! Trả tiền chẩn bệnh trước, mỗ sẽ theo ông đi!
- Không được đi! Đã nhận tiền người thì phải trừ vạ cho người! Người của ta đến giờ vẫn còn chưa tỉnh, ngươi không được phép đi đâu hết! - Từ phía sau rèm cửa, tiếng quát lanh lảnh như bình bạc tuôn vỡ của một người con gái cất lên.
Liền đó rèm cửa được vén lên, một người phụ nữ vóc người thon thả bước ra. Toàn thân áo trắng như tuyết, vòng eo gọn gàng buộc hờ một sợi đai lưng võ sĩ màu đen, dáng vẻ thướt tha, nhẹ nhàng mà nhanh nhẹn.
Nàng bước ra khỏi bóng râm, mặt như sương trắng, song vừa trông thấy Dương Lăng, cặp mắt trong suốt liền trợn tròn, khí chất oai vũ trên khuôn mặt liền tiêu tan, dáng như muốn xoay người bỏ chạy.
Dương Lăng không biết người con gái nào phát ra những lời bá đạo như vậy, bèn vội xoay người liếc nhìn hình dáng người con gái đó. Vừa trông thấy nàng ta, mặt y cũng thoắt đỏ bừng, tim đập thình thịch, bộ dạng nao nao cũng như muốn trốn chạy.
Quản gia Hoa phủ nhìn người con gái này. Thấy nàng ta toàn thân võ phục, áo trắng ống bó ôm sát người, dưới mặc quần có đáy màu trắng thuần, tay buộc bao cổ tay màu đen, trên sợi đai lưng màu đen buộc hờ một thanh đoản kiếm, ngực vun đáy thắt, mắt hạnh đen láy, trong vẻ xinh tươi mang theo mấy phần quả cảm, trông hết sức kích thích.
Vóc người nàng không phải là cao, nhưng mặc bộ đồ võ ôm sát người như vậy, trông lại cao thon hơn bình thường mấy phần. Đôi chân săn chắc được ống quần lẫn ống giày thít chặt, trông thon gọn như cột ngọc. Tuy chiếc quần trắng không may bằng tơ lụa, không được mịn màng, song lại tôn lên đường cong ưu mỹ, mịn màng và trơn nhẵn của cặp đùi.
Người học võ có địa vị thấp kém, một người con gái ăn vận võ phục xuất hiện ở nơi này càng không thể nào là con cháu thế gia vọng tộc đang săn bắn mùa thu. Quản gia Hoa phủ tuy thấy nhan sắc nàng bất phàm, song cho rằng đó là người giang hồ địa vị thấp hèn, tức thì liền tỏ ý khinh thường.
Ngũ Hán Siêu và Lưu Đại Bổng Chùy đều nhận ra nàng ta. Vừa trông thấy Hồng Nương Tử xuất hiện tại nơi này, Ngũ Hán Siêu liền hoảng sợ hét lên:
- Bảo hộ đại nhân! - Liền đó chàng lách người lên chắn phía trước, tiếng kiếm ngân lên, thanh kiếm đã được rút ra khỏi vỏ.
Lưu Đại Bổng Chùy không mang theo cây côn sắt dài tám thước của mình, bèn nắm chặt thiết quyền nhảy phóc lên chắn trước Dương Lăng. Mấy tay thị vệ còn lại không biết rõ nhân thân của người con gái xinh đẹp đó, song vừa thấy Ngũ Hán Siêu và Lưu Đại Bổng Chùy căng thẳng như vậy, tức thì cũng bạt đao giương nỏ, vây quanh Thôi Oanh Nhi.
Dù cho võ công của Hồng Nương Tử lợi hại thế nào, trong khoảng cách gần như vậy, cũng đừng hòng lấy thân thể máu thịt để chống lại vũ khí sắc bén được bắn bằng lò xo. Dương Lăng liền vội la lên khẩn cấp:
- Thả xuống! Bỏ xuống! Mau mau bỏ xuống!
Một tên phiên tử vì quá căng thẳng, vừa nghe xưởng đốc đại nhân nói "Thả", liền siết cò. May mà gã bên cạnh lanh lợi, vừa nghe thấy không phải liền hất cùi chỏ tên kia. "Phực" một tiếng, ba mũi tên đồng bắn ra khỏi hộp, găm vào vách tường bên cạnh kêu "cộp cộp cộp".
Hồng Nương Tử ăn vận xinh đẹp thoát tục, khuôn mặt trái xoan thanh tú trắng như bông bưởi, mi dài cong cong, ngũ quan óng ánh. Nếu không có thanh đoản kiếm giắt hông, thực nàng sẽ như tiên nữ bước xuống từ cung trăng, phiêu dật xuất trần; bên cạnh nên có thêm chú thỏ bạch và cành quế bầu bạn nữa mới phải.
Thôi Oanh Nhi đứng ngây ra đó nhìn Dương Lăng, ánh mắt muôn phần phức tạp. Nàng không có chút cử động, dường như không hề hay biết mình mới vừa lượn một vòng ở quỷ môn quan trở về. Dương Lăng bị đám tên nỏ đó làm cho giật cả mình, y nuốt nước miếng một cách khó khăn, bảo:
- Lui xuống, tất cả lui xuống đi!
Mọi người thoáng ngẩn ra, nhìn về phía Dương Lăng với vẻ kỳ quái. Dương Lăng thẹn quá hoá giận, quát:
- Không nghe ta nói gì sao? Tất cả lui ra đi!
Đám phiên tử vừa thấy Dương đại lão gia sắp sửa giở mặt, lập tức răm rắp nghe theo, tiện tay tóm lấy Mã đại tiên và tên sai vặt hống hách nọ, nhanh chóng rút lui.
Ngũ Hán Siêu như rơi vào trong sương mù, chẳng hiểu đầu cua tai nheo ra làm sao, nên ngập ngừng:
- Đại nhân, chuyện này....
Chàng ta lo lắng trong lòng. Mệnh lệnh của đại nhân không thể không theo, nhưng dẫu sao người con gái này cũng là hảo hán trong giới lục lâm, ngộ nhỡ ả có ác ý với đại nhân thì...
Lưu Đại Bổng Chùy tính tình thẳng thắng trung thực, không biết nghĩ nhiều đến những vấn đề quá phức tạp như vậy. Thế là cái đầu to kềnh của hắn lắc trái lắc phải, trông thấy đại soái và nữ tướng cướp xinh đẹp lung linh đó đang nhìn nhau chằm chằm bất động, đầu óc đơn giản của hắn lập tức tìm ra được lời giải thích hợp lý nhất. Hắn ngoác miệng cười nói với Ngũ Hán Siêu:
- Ngũ đại nhân! Lần trước ta đã nói rồi mà, cái cô nàng... cô nàng Hồng Phất chạy trốn trong đêm đó, nhất định là bị ta nói trúng tâm sự rồi, ngại ngùng không dám mặc đồ đỏ nữa, cho nên mặc nguyên cả bộ đồ màu trắng. Ừm ừm, như vậy mới là tinh mắt, chọn đại soái chúng ta...
Bị hắn nói vậy Dương Lăng nóng ran cả người, hận không thể tìm một cái lỗ nẻ để chui xuống. Y liền vội cắt lời cái tên hồ đồ này, quát lớn:
- Cút ra ngoài ngay!
Lưu Đại Bổng Chùy giật nảy mình, vội vàng kéo Ngũ Hán Siêu đang lưỡng lự chạy ra ngoài.
Trong sảnh trống không, yên tĩnh, bầu không khí chợt trở nên lúng túng, mất tự nhiên.
Trông thấy vẻ mặt Thôi Oanh Nhi bất thiện, Dương Lăng không khỏi rùng mình: "Không phải nàng ta vì mình đã chiếm đoạt thân thể, càng nghĩ càng nuốt không trôi cục hận này mà trở về để giết mình chứ? Không đúng à, khi nãy nàng ta vừa nói cái gì mà... người của nàng ta bị thương?"
Dương Lăng nuốt nước miếng đánh ực, giọng run rẩy, gượng cười nói:
- Tôi... tôi không muốn nuốt lời. Nhưng Hoàng đế đang ở trong quân, nếu tạo nên vụ án hành thích khâm sai, nhất định sẽ bị bá quan trong kinh mắng nhiếc. Vì vậy tôi tính hồi kinh rồi mới...
Thôi Oanh Nhi chợt quay đầu đi. Dương Lăng còn định nói tiếp, chợt nghe nàng cười đau khổ, rồi thở dài xa xăm:
- Ngươi... ngươi không cần phải nói nữa, cũng không cần phải giả làm khâm sai bị hành thích nữa. Ta... ta tin ngươi, chỉ trông chờ ngươi nghĩ sao nói vậy, lời hứa nghìn vàng. Nhưng ai ngờ...
Nàng mím chặt môi, lúc quay đầu lại thì lệ đã quanh tròng:
- Bội tín nuốt lời là chuyện mà Hồng Nương Tử ta xưa nay căm ghét nhất, nào ngờ kẻ không thể giữ lời lại là bọn ta. Ngươi là quan, ta là cướp, nay đã gặp mặt, muốn chém muốn giết gì đều tuỳ ngươi.
Dương Lăng nghe ngữ khí của nàng liền biết nhất định nàng ta đã gặp được Dương Hổ, nhưng tên đó hám lợi đen lòng, khổ tâm kinh doanh bao năm như vậy, nhất định không chịu buông tha sự nghiệp tạo phản vĩ đại. Dương Lăng cùng nàng có duyên phận một đêm, không dám gọi nàng là Dương phu nhân tránh chọc nàng thẹn quá hoá giận, bèn dè dặt biện bạch:
- Thôi cô nương... đêm đó... đêm đó tội thật sự là...
Thôi Oanh Nhi liền biến sắc, đanh giọng quát y:
- Ai cho ngươi gọi ta như vậy? Đêm đó cái gì? Không có chuyện gì hết! Ngươi còn nói nữa, còn nói nữa ta sẽ cắt lưỡi ngươi ngay!
Nàng cầm lấy chuôi kiếm, người hơi run lên, rốt cuộc lại không rút kiếm ra. Dương Lăng sợ võ công nàng, không dám càn rỡ thái quá. Có điều thấy nàng vừa thẹn vừa giận như vậy song lại chỉ nói là cắt lưỡi mình, chứ không bảo lấy mạng mình, vẻ lúng túng xấu hổ và dọa dẫm trong lời nói vượt xa sự hận thù chân chính, y bèn không khỏi càng yên tâm hơn.
Y cũng không biết nên đối diện với tình cảnh này thế nào, đành chắp tay áy náy:
- Xin lỗi, tại hạ thật là đường đột.
- Ta... ta vốn ngại nói đến điều kiện này nọ. Nhưng mà... vẫn phải mặt dày nhờ ngươi một việc, chỉ một việc mà thôi. - Thôi Oanh Nhi ngẩng phắt đầu lên, ánh mắt có phần đau khổ.
Vốn Dương Lăng đang cảm thấy hết sức áy náy với nàng, nghe vậy liền vội đáp:
- Cô cứ việc nói! Chỉ cần là chuyện của cô, đừng nói là một, cho dù một trăm, một nghìn, ta cũng sẽ đồng ý.
Thôi Oanh Nhi nghe y chấp thuận như vậy, tâm hồn thiếu nữ bỗng trở nên thoải mái rất nhiều.
Nàng bình tĩnh lại một chút, rồi nói:
- Ta mang một vị huynh đệ bị trọng thương đi tìm thầy chữa bệnh. Chân hắn đã không giữ lại được nữa, cho dù sống được cũng sẽ không thể đối đầu với triều đình. Xin đại nhân ngài... ngài tha cho hắn. Chỉ cần ngài đồng ý, Thôi Oanh Nhi lập tức tự vẫn trước mặt ngài, quyết không làm khó ngài...
Dương Lăng vừa nghe liền đáp ngay:
- Không được! Không thể! Vạn lần không thể!
Ánh mắt Thôi Oanh Nhi thoắt chợt trở nên sắc bén, hai mắt nàng nhìn thẳng vào Dương Lăng, chậm rãi rút kiếm ra khỏi bao, vẻ mặt chuyển thành lạnh lùng:
- Vậy hãy gọi người của ngươi vào đi! Ta giết một là đủ vốn, giết hai là có lời, hôm nay chiến tử tại đây, cũng coi như là không phụ lòng với các huynh đệ nữa!
Dương Lăng vội vã xua tay:
- Không không không, cô hiểu lầm rồi! Ý tôi là cô không thể tự sát kia.
Thôi Oanh Nhi ngẩn người. Tuy bụng đầy nỗi thống khổ, trước mặt nàng lại là kẻ khiến nàng xấu hổ không muốn gặp nhất, song nghe y nói như vậy vẫn cảm thấy dở khóc dở cười. Nàng mệt mỏi rên rỉ một tiếng, hỏi:
- Ý ngươi là gì?
Trăm mối suy nghĩ xoay vòng trong đầu Dương Lăng: Dương Hổ chưa bỏ lòng tạo phản, hai người sớm muộn gì cũng sẽ giao phong trực diện. Về công, vị Hồng Nương Tử này luôn phản đối Dương Hổ tạo phản, lại rất có tầm ảnh hưởng trong giới lục lâm, có nàng còn sống sẽ có thể phân hóa và tiêu trừ nhuệ khí cường đạo. Về tư, bản thân mình nợ nàng rất nhiều, hiện tại nàng không hề có ác ý với mình, chẳng qua là đang mang một kẻ tàn phế tìm thầy chữa bệnh mà thôi. Cô ta và mình lại đã có mối quan hệ đó, sao mình có thể đành lòng mà giết nàng đây?
Nghĩ vậy, y bèn khẽ giọng đáp:
- Bên ngoài đều là tâm phúc của tôi, chỉ cần tôi căn dặn một tiếng, sẽ không có ai tiết lộ chuyện gì. Nếu như cô... đã mang huynh đệ bị thương đi tìm thầy chữa bệnh, vậy cứ việc ở lại nơi này đi. Tôi sẽ coi như chưa từng gặp mặt.
Có điều vị thầy mo họ Mã này, tôi nhất định phải mang về. Có một người con gái theo tôi hồi kinh gặp phải chứng nóng lạnh, nay đang hết sức nguy ngập. Cho nên tôi muốn mời hắn...
Thôi Oanh Nhi nghe nói có vị cô nương theo y vào kinh, y lại đích thân đi tìm thầy thuốc, trong lòng chợt dấy lên cảm giác như chua chát, cay đắng lạ thường. Nàng buột miệng hỏi:
- Vị cô nương đó là gì của ngươi?
- Hở? - Dương Lăng kinh ngạc nhìn nàng, rồi ấp úng : - Ờ... là biểu muội bị thất lạc của tôi, tình cờ gặp lại ở Đại Đồng, cho nên tôi mang nó về kinh...
Với danh phận hiện nay của hai người, một người thì hỏi câu không nên hỏi, một kẻ thì lại vẫn thành thật trả lời. Tình huống hết sức kỳ lạ, khiến vẻ mặt hai người nhất thời đều có phần mất tự nhiên.
Khuôn mặt trắng nõn của Thôi Oanh Nhi ửng lên sắc đỏ hây hây. Bầu không khí càng trở nên yên lặng, khuôn mặt nàng càng thêm đỏ bừng. Thôi Oanh Nhi chỉ cảm thấy gò má cứ nóng rần, lan đến cả tai, cổ, như thể luộc chín được cả tôm.
Nàng lúng túng giải thích:
- Ta... ý ta là, những bệnh khác ta trị không được, nhưng mà... nhưng mà chứng nóng lạnh vừa vặn rất thích hợp cho trị liệu bằng nội công. Ta... ta không muốn nợ ân tình của ngươi, nếu ngươi đã mở lối tha chúng ta, nếu như phương thuốc của Mã thần y không phù hợp, thì ta sẽ giúp... giúp biểu muội ngươi trừ lạnh, bồi bổ khí lực. Chúng ta sẽ... sẽ hết nợ nần, không ai nợ ai nữa.
- Ừm ừm, được được! - Dương Lăng gật đầu như gà mổ thóc, song lại không tiện mời nàng ra tay.
Bầu không khí trong sảnh càng trở nên kỳ dị hơn, một người vốn không cần giải thích, một kẻ thì tiếp nhận hết sức tự nhiên. Thôi Oanh Nhi chỉ cảm thấy có luồng khí thế ép nàng thở không nổi, trong lòng không khỏi phát hoảng.
Nàng không muốn tỏ vẻ hoảng sợ trước mặt Dương Lăng, cố ý ra vẻ mặt lạnh lùng, dửng dưng nói:
- Những gì ta muốn nói đã nói xong, xin mời Dương đại nhân! Bỏ qua hôm nay, chờ khi Dương đại nhân dẫn quan binh đến diệt trừ sơn trại ta, Thôi Oanh Nhi sẽ không bó tay chịu trói, chúng ta sẽ gặp lại trên chiến trường.
Dương Lăng chầm rãi ngẩng đầu nhìn nàng, khuôn mặt Hồng Nương Tử vẫn vương sắc đỏ, trong mắt toát ra vẻ mông lung, một ý vị không nói nên lời. Câu nói vốn mang sát khí đằng đằng, quả cảm quyết liệt nhưng thốt ra lại nghe sao mềm mại, như oanh kêu yến hót, gió xuân phả vào, không còn chút sát thương.
Thấy y vẫn chưa đi, Thôi Oanh Nhi nghiêm mặt thu kiếm chắp tay chào, rồi vội vã xoay người đi vào trong. Eo nhỏ đong đưa, dáng đi uyển chuyển, bóng lưng tha thướt trông đẹp khôn tả, có điều... ngay khoảnh khắc mà nàng vén rèm đi vào, Dương Lăng phát hiện hai chân nàng dường như hơi run run.
*****
Mã "đại gia" trước nay nhờ việc lừa bịp hương dân nên được tiếng "thần y" vừa bước vào huyện Dương Nguyên liền phát hiện Hoa phủ đang bị đại quân bao vây trùng trùng, hắn liền sợ giật nảy người. Bên trong Hoa phủ, cứ năm bước là một trạm, mười bước một đồn, càng khiến hắn thắc thỏm trong lòng, đoán không ra những người này có lai lịch thế nào, nhưng cho dù chỉ đoán thử, hắn cũng đoán ra được nhất định phải là vị quan to hơn cả Hoa ngự sử.
Lần này thì hắn sợ thật rồi. Quả thật vị thầy mo họ Mã này không hoàn toàn là dựa vào trò xiếc để gạt người, hắn cũng biết chút y thuật. Có điều y thuật của hắn không bằng hai vị thần y Đại Đồng, thậm chí là còn kém mấy phần; với trình độ của hắn thì nhiều nhất có thể được coi là xuất sắc trong số thầy thuốc thôn quê mà thôi.
Hắn trộn vị thuốc vào trong tro than, nhờ vào việc giả thần giả quỷ để tăng thêm danh vọng của chính mình, chẳng những có thể kiếm thêm chút tiền chẩn bệnh mà cũng dễ chiếm được niềm tin của bá tánh trong huyện hơn. Nhưng gia quyến của quan viên há có thể mặc cho hắn thao túng? Vốn dĩ hắn còn tưởng rằng đó là một vị họ hàng thân thích xa nào đó của vị Hoa ngự sử đã về vườn, nhưng xem tình hình thế này hắn không dám kê thuốc bậy bạ nữa rồi.
Thế là Mã đại tiên run rẩy lập cập bước vào Hoa phủ, lần đầu chẩn bệnh mà không dám giả thần giả quỷ, nghiêm túc bắt mạch, rốt cuộc kê ra một phương thuốc. Đơn thuốc hắn vừa viết xong lập tức bị hai thầy thuốc Đại Đồng vốn không phục, đang ấm ức trong lòng, giật lấy xem rồi bới móc đủ điều: chỗ này phải thêm một vị thuốc, chỗ kia giảm bớt đi mấy chỉ, chê là không đáng một đồng. Mã đại thần tiên bị lột mặt nạ, tức thì quỳ sụp xuống đất đau khổ xin tha, tự nhận y thuật kém cỏi. Hai thần y Đại Đồng thấy vậy mới phục hồi lòng tự tin, lấy lại oai phong.
Có điều bọn họ cũng chỉ oai phong được trong khoảnh khắc, liền đó cả hai cùng với tay Mã đại tiên nọ bị tiểu hoàng đế Chính Đức vừa đá vừa chửi đuổi cả ra ngoài. Trông thấy tia hy vọng cuối cùng bị cắt đứt, nhìn khuôn mặt Đường Nhất Tiên vàng héo như nghệ, bị bệnh nặng dày vò đến mê mang không tỉnh, Chính Đức càng chán nản u sầu. Đám người Cốc Đại Dụng, Trương Vĩnh và Miêu Quỳ thấy vậy liền vội kéo hắn ra khỏi phòng bệnh, liên tục dỗ khuyên.
Dương Phương mặt nặng mày nhẹ đứng một bên, sắc mặt không vui. Trông thấy Hoàng đế có bộ dạng như vậy, rốt cuộc lão không nhịn được nữa bèn dâng lời can gián:
- Hoàng thượng! Hoàng thượng sớm hồi kinh một ngày thì thiên hạ sẽ bớt đi một phần hung hiểm! Một đứa con gái nho nhỏ há có thể sánh với giang sơn xã tắc? Từ xưa nữ sắc mê hoặc quân vương, khiến chính pháp bị rối loạn nhiều vô số kể, cho dù Hoàng thượng có sủng ái cô ta, cũng nên có điều tiết chế...
Tức thì Chính Đức cả giận, trỏ lão mắng ngay:
- Lôi lão ta đi! Trẫm không muốn thấy mặt lão ấy nữa!
Lúc còn ở dịch quán Đại Đồng, Hoàng đế và Đường Nhất Tiên cả ngày trêu chọc nhau ầm ĩ, sớm đã trở thành tiết mục đáng giá cần phải xem hằng ngày của đám thị vệ đại nội này rồi. Đám võ sĩ này đều yêu mến và gần gũi với Đường Nhất Tiên, nghe lão Dương Phương nói lời quá quắt, ai nấy sớm đã bất bình. Vừa nghe Hoàng thượng hạ chỉ, liền có hai thị vệ xông lên, xốc nách Dương Phương lôi đi. Mặc kệ lão ta mắng mỏ thế nào, bên trong bên ngoài đầy ắp thị vệ, song không có lấy một ai nể mặt đi truyền báo hoặc thả cho lão tới gần nội đường.
Dương Lăng lo lắng trong lòng. Với bệnh tình hiện tại của Nhất Tiên, phái người hồi kinh đón Cao Văn Tâm đến sợ là không kịp nữa. Y nhớ tới Hồng Nương Tử còn đang trọ trong nhà Mã đại tiên, nay chỉ còn cách mặt dày đến đó nhờ nàng ta thử một phen vậy.
Có điều lời Dương Phương nói mặc dù khó nghe, tuy hơi tục tằng nhưng lại hữu lý. Nói lý trí một chút, giang sơn xã tắc không phải là câu nói vu vơ, một lời sáo rỗng. Nếu như thật sự nảy sinh hỗn loạn, sẽ có biết bao bá tánh lê dân phải chịu khổ chịu nạn đây?
Theo lý trí mà xét, thật sự một mình Đường Nhất Tiên không thể sánh với cả muôn dân thiên hạ. Huống hồ Hoàng đế vì nàng ấy mà lưu luyến nơi này, ở lại không đi, chuyện này mà truyền ra ngoài, bất luận là tam hậu trong cung hay là bá quan triều đình cũng sẽ đều coi nàng ấy như cái gai trong mắt. Vả lại việc Hoàng thượng ở lại nơi này cũng không hề giúp ích gì cho bệnh tình của nàng ta cả.
Nghĩ đến đây, y bèn thành khẩn nói với Hoàng thượng nỗi lo lắng trong lòng mình, sau đó thở dài tâu:
- Hoàng thượng, ngài vốn can hệ đến cả thiên hạ. Theo ý kiến của thần, hay là ngài dẫn đại quân trở về kinh sư trước đi. Nếu như thật sự không được... thần xin ở lại để mời thầy trị bệnh cho Tiên Nhi. Có thần ở đây, Hoàng thượng còn không yên tâm sao?
Nghe vậy, trong lòng đau xót, Chính Đức không nhịn được rơi lệ buồn rầu, rồi kéo ống tay áo Dương Lăng thút thít:
- Dương khanh! Không phải là trẫm không biết việc nào nặng việc nào nhẹ. Trẫm chỉ sợ rằng... sợ rằng chuyến này đi rồi, sẽ không còn cơ hội nhìn mặt nàng ấy lần cuối nữa. Những gì ái khanh nói đều đúng, trẫm hiểu cả, nhưng trẫm thà nguyện vứt bỏ thiên hạ chứ quyết không cam tâm rời bỏ Nhất Tiên!
Quyển 5 - Quần Ma Loạn Vũ
Chương 220 - Cặp Oan Gia Hạnh Phúc
Ch 220:
Cặp Oan Gia Hạnh Phúc
Vốn là một người thuộc nhóm đại đạo Bá châu luôn muốn làm phản giết hoàng đế, nay Hồng nương tử lại công khai vào ở trong biệt viện của Hoa gia, đang là hành cung (chốn cư ngụ tạm) của Hoàng đế, lại còn được đãi ngộ long trọng. Chuyện lạ trên đời cũng chỉ đến thế mà thôi.
Tuy nhiên bên trong cái biệt viện được bao vây bởi đám thị vệ ngoài ba lớp trong ba lớp, gió mưa không lọt này, chỉ một ít người tâm phúc của Dương Lăng như nhóm Ngũ Hán Siêu, Lưu Đại Bổng Chùy là biết rõ nhân thân thực sự của nàng. Còn những cao thủ đại nội khác chỉ biết Thôi Oanh Nhi được Dương Lăng thỉnh đến để chữa trị cho cô gái rất được Hoàng thượng xem trọng; cho nên bọn họ cũng rất tôn kính nàng.
Hai vị thần y đất Đại Đồng vừa nghe nói Dương đại nhân lại mời về một vị lương y liền lập tức sửng cồ như gà chọi. Cả hai đang chuẩn bị ba hoa xích thố một hồi giống như lúc gặp Mã đại thần y để khiến nàng phải chán nản thất vọng bỏ đi, nhưng vừa nghe nàng dùng khí công để trị bệnh, lập tức cơn thịnh nộ liền tiêu tan.
Thứ nhất là vì bọn họ không hiểu thuật này. Thứ hai thuật khí công cũng không thể xem là thuộc nghề y, cho dù nàng chữa khỏi bệnh được đi nữa thì cũng không phải y thuật của bọn họ tệ lậu. Thứ ba là … bọn họ không có cơ hội khiêu chiến vị Thôi cô nương nọ vì Dương Lăng đã giao cho bọn họ điều trị một bệnh nhân bị thương khắp người, toàn thân đã bốc mùi kinh tởm.
Hắc Diêu tử chỉ bị thương do đao kiếm, lâu ngày không chữa trị nên đã thối rữa vào gân mạch, hơn nữa lúc trước gã bị chảy máu quá nhiều nên suy nhược gần chết. Ở chỗ Mã đại tiên, gã đã được cứu chữa qua, đã có chuyển biến tốt hơn, nay lại được hai vị danh y ra tay diệu thủ đương nhiên mau hết bệnh. Huống chi chữa trị loại bệnh này cũng không cần phải tốn công tra tìm nguyên nhân căn bệnh.
Đương nhiên kè bên Hoàng đế bao giờ cũng là một số lượng lớn thuốc men loại tốt để dùng. Trước hết hai vị thần y cạo bỏ thứ thuốc bột trộn lẫn tàng hương của Mã thần y ra rồi lóc bỏ những chỗ thịt thối. Đến khi máu bầm chảy ra hết, bắt đầu thấy máu tươi, hai vị mới đem thuốc cầm máu mọc da đã được giả nhão như bùn đắp lên, băng lại bằng băng vải trắng tinh. Chỉ trong chốc lát Hắc Diêu tử đã trở thành một “xác ướp” thơm ngào ngạt.
Hai vị thần y lại kê thêm vài món ăn bổ dưỡng, bảo ngự trù (đi theo hoàng đế) hầm nhừ như cháo đặc múc cho Hắc Diêu Tử ăn liền hai chén. Mắt thấy sắc diện gã đã đỡ hơn, Hồng Nương tử không nén nổi ánh vui mùng trong mắt, mới yên lòng theo tiểu nha hoàn về phòng mình.
Cô gái nhỏ mặc áo xanh biếc khôn khéo khom lưng thi lễ, thưa:
- Thôi cô nương, đây là chỗ ngụ của cô nương. Nô tì là Vũ Oa Nhi, sẽ ở phòng nhỏ ở bên. Cô nương có cần gì, cứ việc gọi nô tì.
Thôi Oanh Nhi gật đầu đáp:
- Được rồi. Đi ra trước đi.
Con mắt tròn xoe của Vũ Oa Nhi đảo tròn một vòng, cô bé lại điềm nhiên nói tiếp:
- Dương đại nhân đã dặn dò nô tì...... Cô nương thích ăn món gì xin cứ tùy ý dặn bảo, dưới bếp sẽ chuẩn bị cho cô nương. Ngoài ra cũng đã chuẩn bị xong nước nóng, nếu như cô nương muốn tắm gội thay quần áo, xin cứ gọi, nô tì sẽ lập tức mang tới.
Việc ăn uống hằng ngày của Hoàng Thượng đều là do Cốc Đại Dụng, Trương Vĩnh phụ trách, Dương Lăng cũng không hỏi đến. Lấy địa vị của y mà chăm sóc đến một cô gái giang hồ được mời đến chữa bệnh, còn phái thị vệ “bảo vệ” tầng tầng lớp lớp, đương nhiên khiến cho vị tiểu cô nương có phần hiểu lầm. Cho nên khóe miệng cô bé hơi nhếch lên, có ý giúp Dương Lăng lấy lòng Thôi Oanh Nhi.
Gương mặt xinh đẹp Thôi Oanh Nhi nóng bừng. Nàng hàm hồ đáp:
- Ta biết rồi, hiện...... Bây giờ không cần, đi ra đi.
Vũ Oa Nhi hé môi cười nhẹ, thi lễ rồi lui ra.
Hồng nương tử đặt bọc hành lý tùy thân vào phòng, đưa mắt dò xét mọi nơi một lượt. Thanh đoản kiếm của nàng đã bị Dương Lăng “rất khách sáo” lấy đi, bên người chỉ còn một bọc nhỏ y phục để thay đổi.
Trên chiếc bàn trang điểm trong phòng đặt một gương đồng; màn lụa giường xinh đều rất tinh xảo, bốn vách tường quét vôi trắng, trên tường chỉ treo vài bức họa, trông phong nhã vô cùng. Sà ngang trên tường cùng những bức bình phong đều có phẩm chất thượng hạng. Trong phòng còn phảng phất một hương thơm nhè nhẹ.
Hoa Ngự Sử chỉ là một vị ngôn quan về hưu. Thế mà tài sản tích cóp khi làm quan đã phong phú đến như thế, có thể đặt mua một sản nghiệp lớn như vậy, trong nhà bố trí rộng rãi hào nhoáng như thế, có thể rõ mồn một lúc trước ông ta cũng chẳng phải là một viên quan thanh liêm trong sạch gì gì cả.
Thôi Oanh Nhi thong thả ngồi xuống bên chiếc giường, xoay người nhẹ vỗ về chiếc chăn mềm mại nhẵn bóng, ngửi thấy mùi thơm từ chiếc áo ngủ bằng gấm xông hương nàng chưa bao giờ được dùng qua, nghĩ thầm: "Những bọn người nhà giàu này, ngay cả một phòng khách mà đã lộng lẫy như thế. Lúc trước đánh cướp biệt viện của con chó Huyện lệnh Lục bạt bì (rút da), cảm thấy ở đó đã là vô cùng giàu có hào nhoáng, nhưng mà chốn đó nào có bằng phần vạn chỗ này?"
Lại nhớ tới bây giờ tuy nói là vì đánh đổi an nguy Hắc Diêu Tử nên vội tới chữa bệnh biểu muội Dương Lăng, nhưng mà hai người từng có quan hệ thâm sâu như thế kia, nay đến ở ngay trong hành dinh của y, thâm tâm nàng thực sự rất xấu hổ. Việc này tuy rằng ngoài Dương Lăng và cô nữ giáo đồ Di Lặc đang bị giam bên trong nhà giam nữ ở Đại Đồng thì không còn người nào hay biết nữa, nhưng mà nói chung nàng vẫn có cảm giác chột dạ, trong lòng bất an.
Nàng thở dài dằng dặc, thầm nghĩ: "Tuy rằng Dương Hổ vô sỉ cực kỳ, rốt cuộc hắn vẫn là tướng công của mình. Ta đã đánh mất sự thanh bạch, đã không giữ đạo làm vợ, lại ở chung với y tại nơi này, quả thực là mắc cỡ chết người. Phải cố chữa biểu muội y mau lành rồi mang Diêu Tử rời đi ngay, từ đây hai bên không thiếu nợ nhau, không còn liên quan gì nữa."
Dương Lăng bố trí chỗ ở cho Hồng nương tử, mời hai vị danh y Đại Đồng đi khám và chữa bệnh cho Hắc Diêu Tử xong, nhân tiện lại đi gặp Chính Đức. Nghe nói Dương thị độc mời được nữ danh y đến, Chính Đức nóng ruột mồm năm miệng mười muốn lập tức gặp mặt nàng ngay lập tức để hỏi thăm việc chữa bệnh được mấy phần nắm chắc.
Tuy Dương Lăng biết Hồng nương tử sẽ không hành thích thiên tử nhưng y vẫn không dám để hai người gặp mặt. Thế là y bèn liền mượn cớ gái giang hồ thân phận thấp kém, thiên tử không nên triệu kiến. Sau đó y lại bố trí chỗ ở của Chính Đức cẩn thận rồi mới đi đến phòng Hồng nương tử nhẹ nhàng gõ cửa.
- Vào đi! - Hồng nương tử ngồi bên bàn trang điểm, tưởng tiểu tỳ Vũ Oa Nhi đến nên thờ ơ bảo.
- Thôi cô nương, chỗ này ở có hợp không?
Vừa nghe giọng nói, thân thể mềm mại Thôi Oanh Nhi chấn động, chiếc lược ngà voi trong tay nàng rơi “bốp” một tiếng xuống bàn trang điểm. Phòng tối lại ở một mình với y khiến nàng tâm hoảng ý loạn. Với võ công của nàng, nàng chỉ cần chỉa một ngón tay là có thể giết chết Dương Lăng hàng chục lần, nhưng mà Hồng Nương tử vẫn cứ sợ y muốn chết.
Thôi Oanh Nhi cũng không dám quay đầu lại, giọng cứng ngắc:
- Ta... Ta đã bảo rồi đấy, nàng đã bị thương hàn, hôn mê bất tỉnh. Phải đến chiều tối mới tỉnh táo một ít, khi đó dùng thuật khí công đạo dẫn chữa trị mới có hiệu quả.
Dương Lăng ho khẽ, nói:
- Tôi biết, tại hạ cũng không có ý thúc giục cô, chỉ là muốn chăm sóc đàng hoàng việc ăn uống ngủ nghỉ của cô, mới... Nghe Ngũ thị vệ nói dùng thuật khí công đạo dẫn sẽ cực kỳ hao tổn thể lực, cô cần nghỉ ngơi thật tốt mới được.
- Hừ! - Qua một lúc nói chuyện, dũng khí hơi tăng lên, Thôi Oanh Nhi nhịn không được cười lạnh một tiếng - Chăm sóc khá lắm, quan binh trùng trùng vây phủ hóa ra là vì chăm sóc ta. Ta đã đến đây rồi, ngươi còn sợ ta bay trên trời hay sao?
Dương Lăng cười khan, đáp:
- Cái ...này... Ngược lại không liên quan đến việc chăm sóc. Tính mạng ta giao vào trong tay cô nương, cẩn thận một ít chỉ là phản ứng bản năng.
Thôi Oanh Nhi bỗng nhiên quay phắt đầu lại, đỏ bừng mặt gắt:
- Ngươi còn nói, còn nhắc lại chuyện đó ta sẽ thực sự giết ngươi! (Thôi Oanh Nhi hiểu lầm chữ “phản ứng bản năng” hahaha)
Dương Lăng cuống quít:
- Cô nương hiểu lầm rồi! Ta biết cô... cô sẽ không giết ta, bằng không cô đã động thủ rồi. Ý ta nói... Cần phải bảo vệ chính là bởi vì Hoàng Thượng ở chỗ này. Nếu như vạn nhất cô nương muốn.... Cô do ta mời đến, vậy tất nhiên ta phải bị liên lụy, phải bị chém đầu.
Ôi, thì ra y lo lắng canh cánh trong lòng thật ra là cho chính bản thân y? Thẹn quá hóa giận, Thôi Oanh Nhi bèn gây gổ:
- Có khi nào ta nói mà không giữ lời chưa? Nếu như ta muốn giết Hoàng đế, chẳng lẽ vì ta sợ ngươi bị chém mà không động thủ sao? Ngươi tưởng ngươi là cục cưng của ta à....
Câu này y chang như lời giữa đôi tình nhân đang cãi nhau. Lời vừa ra khỏi miệng nàng liền cảm thấy không ổn, nhịn không được quay đầu đi, người trong kính kiều diễm động lòng người, xinh đẹp như hoa đào.
"Y.... y đang nhìn ta.....". Thôi Oanh Nhi lén lút nheo mắt nhìn vào kính, ngực nhảy bịch bịch, nhịn không được nắm chặt cạnh bàn, bộ ngực căng mềm phập phồng cảm thấy nóng rần.
Dương Lăng đứng dựa cạnh cửa sổ khắc hoa, qua hồi lâu mới nhẹ giọng nói:
- Ta... Đi kêu người đưa vài món ăn nhẹ đến, không biết có phù hợp khẩu vị của cô hay không, nếu như không thích cứ nói thẳng. Buổi tối.... ta lại đến xin mời cô đi.
Người đã rời khỏi cửa, Thôi Oanh Nhi vẫn không dám quay đầu lại, bộ ngực trắng ngần của nàng nhấp nhô không chừng, dáng người nhìn nghiêng lộ rõ đường cong lả lướt quyến rũ, quả nhiên là đẹp đến cực kỳ.
Rất lâu sau đó, nàng mới hơi ngước mắt nhìn vào kính, thật giống như người ngọc: Hai gò má đỏ tươi, trong đôi mắt một một tia nhu mì như tơ như sợi. Chưa bao giờ thấy qua vẻ phong tình lạ lẫm này nên nàng cảm thấy sợ hãi, trong lòng run lên. "Bốp" một tiếng giòn giã vang lên, chiếc lược chải đầu trong tay bị bẻ thành hai nửa......
Nội khí điều tức là nhằm tăng cường và điều trị cơ năng của mình, vừa may bệnh thương hàn đa phần là do các chức năng bản thân có vấn đề mà sinh ra. Vì thế, được Thôi Oanh Nhi trị liệu, Đường Nhất Tiên hồi phục rất nhanh, chỉ sau vài ngày bệnh tình đã gần như hết hẳn. Nàng đã thường xuống giường bước đi, tinh thần đã khôi phục rất nhiều, điều này khiến Chính Đức cùng Dương Lăng mừng đến phát điên.
Thuật vận khí đạo dẫn quả thực quá hao tốn thể lực. Mỗi khi hoàn tất thuật nội khí đạo dẫn, Thôi Oanh Nhi đều đầu đầy đổ mồ hôi, thân thể hơi run lên, phải nghỉ ngơi một lúc lâu rồi mới được nô tì nâng đỡ trở về phòng, thần sắc vô cùng ảm đạm. Nhìn thấy thế, Dương Lăng rất không đành lòng. Để đền bù, y chăm sóc thức ăn món uống cho nàng hết sức chu đáo, cẩn thận.
Mỗi đêm Thôi Oanh Nhi và Đường Nhất Tiên vận quần áo lót ở trên giường vận khí trị bệnh đến một canh giờ, da thân tiếp xúc nhau, ngoài ra lại có các thủ thuật phát, vỗ, xoa bóp, mát xa…. Điều này khác hẳn với hình ảnh Dương Lăng tưởng tượng: vị cao nhân võ lâm song chưởng đặt sau lưng người bệnh, đỉnh đầu bốc khói xanh. Dĩ nhiên những hình ảnh thực sự này y không nhìn thấy được, chỉ thấy rõ bệnh tình Đường Nhất Tiên suy giảm, nàng lại giống như con én nhỏ líu ra líu ríu tò mò kể chuyện cho y nghe.
Những ngày này Hắc Diêu Tử cũng khôi phục hẳn. Trước khi bị hôn mê gã còn ở chung một chỗ với đám người Dương Hổ, bây giờ một người cũng không thấy. Khi tỉnh lại, gã từng hỏi thăm Hồng Nương Tử, nhưng nàng chỉ trả lời qua quít cho xong. Không ngờ hôm nay gã nhìn thấy trong viện có quan binh ghé qua, với lại những thị vệ kia đều vô cùng lễ độ, trọng vọng đại tẩu. Tưởng rằng chị dâu đã đầu phục triều đình, trong lòng giận không kềm được, gã làm ầm ĩ cả lên, thà rằng tự sát chứ không chịu nhận ân huệ của nàng. Hồng Nương Tử bị bức bách đành phải đem tình hình thực tế kể cho gã nghe.
Tuy Hắc Diêu Tử đã tàn phế một chân nhưng tinh thần khí phách vẫn không hề sa sút. Nghe kể xong, gã ngây người tại chỗ, kết hợp những điều tự mình nghe thấy, trong lòng gã tự nhiên hiểu tất cả những điều Thôi Oanh Nhi nói đều sự thực. Kẻ tự mình sống chết cùng nhau, dập đầu gọi đại ca lại là hạng người bỉ ổi như vậy! Trong lòng gã như bị đâm một đao, cả người mờ mịt lơ mơ dường như già lão thêm cả mười năm.
Hồng nương tử thấy thế không đành lòng, nước mắt hoen mi:
- Diêu tử, đúng là một nhà chúng ta phải xin lỗi đệ. Nhưng mà... bất kể như thế nào hắn cũng là trượng phu của ta. Sơn quy tuy lớn nhưng không thể lớn hơn phu quân của ta, ta không có cách nào cùng hắn động thủ. Đệ không thể xông pha trên giang hồ được nữa, khi việc nơi đây xong, ta sẽ đưa đệ trở về Bá Châu tìm một chỗ ổn định cuộc sống, rồi sẽ đem mẹ đệ đến chỗ đó, cùng sống qua ngày với đệ.
Lộ vẻ sầu thảm, Hắc Diêu Tử cười hà hà:
- Một phế nhân chỉ có một chân, lại kèm một bà mẹ già bị mù mắt, trời ạ! Ta còn nói được gì bây giờ, chi bằng lúc bị đại ca của mình đâm dao sau lưng, ta chết luôn đi cũng còn hơn nghe kể chuyện này.
Hồng Nương Tử lau nước mắt:
- Trở về Bá châu, tẩu sẽ tìm cướp một đại tài chủ giàu có bất nhân để kiếm một ít tiền cho đệ khỏi phải lo lắng trong phần đời còn lại. Ta sẽ không bỏ mặc đệ đâu.
Dương Lăng đi tới cửa vừa đúng lúc nghe được câu này. Y không khỏi cười dở, mếu dở:
- May mà là ta đến, cô ở trong viện quan phủ lại bàn chuyện làm sao cướp phá, bắt cóc tống tiền! Cũng quá lớn mật đấy chứ? Chớ để bị người khác nghe được sẽ biết được lai lịch các ngươi.
Tuy Hắc Diêu Tử được người của Dương Lăng chữa trị nhưng không hề cảm kích chút nào. Nghe vậy, gã cười lạnh đáp:
- Cướp của, bắt cóc tống tiền thì đã sao? Chúng ta vào nhà cướp của là tội ác tày trời, quan phủ các ngươi cũng y hệt, người dám phản kháng lại bị biến thành tội nhân. Ai vô sỉ hơn ai?
Thôi Oanh Nhi sắc mặt ửng đỏ, lúng túng giải thích:
- Vốn ban đầu nhà Diêu Tử cũng giúp triều đình nuôi dưỡng ngựa. Nhưng ngựa bị chết, quan phủ định lấy đất của hắn bồi thường. Hắn không chịu, bị Huyện lệnh bắt đi, về sau....
Tính nóng như lửa, Hắc Diêu Tử lạnh lùng quát:
- Giải thích với y làm gì? Thiên hạ bất công, cho nên ta muốn phản. Muốn giết muốn mổ gì thì mặc y!
Dương Lăng thấy gã nổi giận đến ngực phập phòng, hổn hển thở gấp bèn nhẹ mỉm cười:
- Làm trộm cướp, không phải kẻ nào cũng có đạo nghĩa, cũng là người chính trực nghĩa khí. Còn người làm quan, cũng không phải toàn là lũ tham quan ô lại, không biết thương cảm tình cảnh của dân. Ngươi cần phải nhận thức như thế mới đúng.
Y lại quay sang Thôi Oanh Nhi nói tiếp:
- Xá muội đã bớt rất nhiều, bây giờ đang ở trong vườn ở viện sau phơi nắng. Cô nương đã rất vất vả nhiều ngày rồi, còn vị… Hắc huynh này..... Đợi khi vết thương của gã lành hẳn, ta sẽ biếu tặng một khoản bạc. Không cần từ chối, đây là tiền khám bệnh, cô nên cầm lấy. Được rồi, ta về trước đây.
Hắc Diêu Tử trừng mắt nhìn y rời đi, sau đó hồ nghi liếc mắt nhìn Hồng Nương Tử nói:
- Từ nay về sau, ta không bao giờ nhận Dương Hổ làm đại ca nữa, tiếng tẩu tử này ta cũng không gọi. Tỷ đối với ta nghĩa nặng như núi, ta Hắc Diêu Tử mặc dù lớn tuổi hơn tỷ, lại nguyện tôn xưng tỷ một tiếng Thôi tỷ. Ta có lời chân thành tỷ đừng oán trách: Thôi tỷ đền đáp Dương Hổ cả đời sao? Không đáng! Người sống trên núi chúng ta không có nhiều khuôn phép đến như vậy, tỷ muốn tái giá thì cứ cưới y.
Nhưng Dương Lăng là người như thế nào? Y là quan lớn triều đình! Cho dù tỷ là một cô gái goá bình thường cũng không gã được vào một nhà chồng như thế. Chúng ta là những tên thổ phỉ không có tương lai, nếu như tỷ muốn đi chịu tội tại một nhà chồng như vậy, không bằng làm một người tự do, tiêu dao khoái hoạt. Họ Dương thấy tỷ tuổi trẻ xinh đẹp nên bây giờ có thể nịnh hót tỷ hết lòng, nhưng những kẻ có thể làm quan thì không một ai có lương tâm, những kẻ từng đọc sách đều bụng dạ lắc léo. Thôi tỷ đừng mơ leo cao nữa.
Thôi Oanh Nhi cực kỳ lúng túng, sắc mặt đỏ như lựu. Nàng ảo não đáp:
- Đệ nói bậy bạ gì vậy? Y đã đồng ý buông tha chúng ta, mời người trị thương cho ngươi là để trao đổi với việc ta tới cứu biểu muội y mà thôi. Sau đó chia tay hai ngã, ai cũng không nợ ai.
Hắc Diêu Tử đáp với vẻ mặt cổ quái:
- Chỉ mong là vậy!
Hồng Nương Tử thấy thần sắc gã như thế, muốn giải thích thêm, lại cảm giác làm như vậy thì thành ra là mình chột dạ. Nàng bực mình giậm giậm chân, nói:
- Đệ nghỉ ngơi cho tốt! Mấy ngày nay ta cũng rất mệt, ta về phòng nghỉ ngơi trước đã.
Hắc Diêu Tử bình tĩnh nhìn nàng đi ra khỏi cửa, lẩm bẩm: "Đại Vĩ Ba Lang nói không chừng là thật. Thôi tỷ một chốc lau nước mắt, một chốc mặt hồng hồng, càng ngày càng không giống Hồng Nương Tử tính tình cang cường khi xưa nữa rồi. Ôi! Trong quan phủ nào có người tốt, tỷ đừng để bị mắc lừa..."
Dương Lăng vừa về thư phòng tạm đã thấy Liễu Bưu đang đợi ở đó, liền hỏi:
- Tin tức hôm nay đã đưa tới rồi sao?
Hoàng Thượng trì hoãn ở chỗ này thật quá lâu, thêm nữa hành tung đã lộ nên cũng không cần thiết phải ẩn giấu. Vì muốn đánh tan lời đồn đại của dân gian, Dương Lăng dứt khoát công khai tin tức Hoàng Thượng ngụ ở đây ra ngoài, đồng thời ra lệnh trong kinh có chuyện gì nguy cấp đều phải kịp thời truyền báo thẳng qua đây. Y cũng bắt đầu lên kế hoạch bố trí chuyện sau này trở về kinh.
Việc cùng Đóa Nhan Tam Vệ và ba bộ Nữ Chân thông thương đã cấp bách lắm rồi, một khi Hoàng Thượng hồi kinh là lập tức hạ chiếu tiến hành ngay. Tin tức từ thảo nguyên truyền đến cho biết đông bộ Mông Cổ năm nay bị tổn hại nặng nề, hiện nay mọi thứ đều thiếu thốn, tất cả mọi bộ lạc đều vắt hết óc để mưu tìm lương thực.
Nhóm bộ lạc liên minh của Hỏa Si hỏi mượn lương thực của Ngoã Lạt bộ, không biết bọn chúng đưa ra điều kiện gì mà Ngoã Lạt bộ vốn keo kiệt lâu nay lại hào hiệp giúp ngay. Phía đông các bộ lạc của Bá Nhan tiếp giáp với các bộ lạc của Đóa Nhan Tam Vệ và Nữ Chân. Bá Nhan không hề đề cập tới chuyện Hoa Đáng trở cờ theo Đại Minh, đã cùng nhau kết làm đồng minh và thông thương buôn bán, mà chỉ phái người đến bọn họ mượn lương. Hoa Đáng lấy cớ các bộ lạc của mình cũng bị nạn tuyết lớn gây hại, một mực từ chối luôn.
Đóa Nhan Tam Vệ và Đại Minh đã gặp mặt kết minh, thông báo công khai là liên kết thông thương buôn bán, không hề hợp tác quân sự. Nhưng Bá Nhan thông qua Di Lặc giáo đã sớm biết nội tình việc bọn họ cùng đồng mưu nhằm đối phó với mình. Ban đầu hắn không hề quá để tâm. Mặc dù Đóa Nhan Tam Vệ là một đội tinh binh, nhưng mà bọn họ quá nhỏ bé, cho dù Đại Minh cùng bọn chúng kết thành đồng minh cũng chả gây hại gì. Đóa Nhan Tam Vệ đã quen thói ngả cờ theo gió, dám có lòng dũng cảm cùng hắn đối nghịch mới là lạ.
Nhưng mà bây giờ đã khác rồi, hắn tuyệt đối không ngờ tới mình lại có thể sa vào tình thế bi thảm như vậy. Tuy thực lực Hỏa Si cũng không hề tăng trưởng, nhưng do lần này chết trận cùng bị thương lại đa phần là quân chủ lực của hắn nên Hỏa Si đã có thể có sức đánh nhau với hắn.
Vì vậy lúc này hắn chỉ có thể khống chế nội bộ, tuyệt đối không thể khai chiến với Đóa Nhan Tam Vệ.
Năm xưa vì sao Ngoã Lạt thảm bại, hắn còn nhớ rõ ràng. Khi Ngoã Lạt chinh phạt Đóa Nhan Tam Vệ thì Thát Đát bộ, sớm đã cùng Đóa Nhan Tam Vệ ngầm kết minh, đã thông báo tin tức và cùng Đóa Nhan Tam Vệ tiền hậu giáp kích đánh cho Ngõa Lạt đại bại. Từ đó Ngoã Lạt suy sụp luôn.
Bây giờ Hỏa Si dường như đang học tập phong thái năm xưa của hắn: cùng với Ngoã Lạt nằm ở góc phía tây đi lại cực kỳ mật thiết. Nếu như lúc này hắn chinh phạt Đóa Nhan Tam Vệ, Hỏa Si và Ngoã Lạt ở sau lưng lại đâm hắn một đao, còn nhà Minh phía nam giương mắt hổ nhìn lom lom, tất hắn phải thất bại thảm hại.
Thế là Bá Nhan sau khi chán nản vì bị cự tuyệt, bèn nhắc lại lời cũ, lại phái sứ giả mang theo kim châu ngọc bảo muốn cùng Hoa Đáng kết thân, xin cưới con gái của hắn là Ngân Kỳ Kỳ Cách làm Khả Đôn. Lão gian hùng Hoa Đáng bèn ra một chiêu Thái Cực đưa đẩy, yêu cầu ngược lại, muốn lấy con gái của bác hắn làm phu nhân.
Sứ giả hai bên kẻ tới người lui, đàm phán đến khí thế ngất trời, rất có ý chỉ vài ngày nữa đã kết thành thông gia. Chỉ là ở vùng biên giới hai bên đều bày bố trọng binh, đội ngũ nghị thân hai bên mỗi lần đi lại đều phải xuyên qua từng từng lớp lớp binh doanh, bầu không khí có phần không phù hợp.
Với loại yên lặng tạm thời này, người sáng suốt đều nhìn ra được đang tích tụ cuồng phong, mà trung tâm bão táp chính là Bá Nhan. Chỉ là hùng ưng Bá Nhan Khả Hãn vốn bay lượn ở trên thảo nguyên nay đã biến thành một con ưng yếu nhược chỉ có thể cố thủ gốc cây đại thụ của chính mình.
Cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng.
Bây giờ Dương Lăng chỉ cần chờ hạt giống tự mình gieo khơi lên xung đột giữa các liên minh bộ lạc thảo nguyên mà thôi. Điều kiện này rất dễ xảy ra, nguyên nhân dẫn đến quả thực quá nhiều. Hai người thuộc hai bộ lạc khác nhau bởi vì tranh giành một bãi chăn nuôi hoặc là trong giao dịch buôn bán nảy sinh một chút đụng chạm nho nhỏ cũng sẽ có thể khiến cho hai gia tộc xung đột, sau đó dẫn tới xung đột giữa hai tiểu bộ lạc.
Lúc trước, những xung đột loại này sẽ bị các lãnh chúa, các tù trưởng bên trên áp chế dẹp yên. Nhưng hiện nay các thủ lĩnh bộ lạc đang có nhu cầu cấp bách lợi dụng chiến tranh nổ ra để thoát khỏi hoàn cảnh khó khăn của bản thân nên sẽ chỉ đổ thêm dầu vào lửa, yêu cầu đại thủ lĩnh ra mặt chủ trì xét xử công bằng. Một trận phong ba sắp xuất hiện, bất cứ lúc nào cũng có thể xảy ra.
Nếu như lúc này triều Minh lại áp bức quá thì sẽ phản tác dụng, sẽ khiến cho bọn hắn đoàn kết lại. Do đó Dương Lăng chỉ dặn dò Nội xưởng chú ý đến khuynh hướng hành động của các liên minh trên thảo nguyên, mà không có ý định ra tay ngay lúc này. Bây giờ, điều y quan tâm chính là thế cuộc trong kinh cùng với việc sau khi trở về kinh chuẩn bị mở cảng biển mở rộng giao thương buôn bán qua lại. Tin tức các sứ giả đi lại mang theo hằng ngày đều thuộc về loại chuẩn bị này.
Liễu Bưu khẽ lắc đầu thưa:
- Ở kinh sư tất cả mọi việc đều được thu xếp theo ý đại nhân, hiện nay không có biến số gì, chỉ là..., - hắn cau mày thưa tiếp - Đại nhân, bây giờ các loại tin đồn tràn ngập khắp mọi ngõ ngách, có một ít....
Dương Lăng lắc đầu cười nói:
- Cứ để bọn chúng nói cho sướng miệng! Không phải người của chúng ta cũng đang truyền bá sự tích Hoàng Thượng đã dũng mãnh phi thường đánh bại kẻ địch trong trận chiến Đại Đồng hay sao? Chỉ cần chú ý đến quan trường và quân đội; bọn họ vẫn ổn định là tốt rồi.
Liễu Bưu cười khổ đáp:
- Đại nhân! Đúng là có cả hàng đống người đang nỗ lực truyền bá thông tin Hoàng Thượng cùng Tam vệ đã liên minh, đại phá giặc Thát Đát. Nhưng mà chuyện dân chúng bàn tán say sưa hơn hẳn chính là loại truyền thuyết phong lưu, ly kỳ. Bây giờ có một ít lời đồn đãi vô cùng bất lợi đối với Thánh Thượng, đối với đại nhân, thuộc hạ cũng vừa mới nghe được.
Hơi thấy lạ, Dương Lăng bước vào sau án thư ngồi xuống, hỏi:
- Lời đồn nào liên quan đến ta? Nói ta nghe thử.
Liễu Bưu ho nhẹ một tiếng, đáp:
- Cái ...này... Bây giờ khắp phố phường có một ít lời đồn đại, nói Hoàng Thượng cải trang tuần tra Đại Đồng là bởi vì nghe nói nơi này có rất nhiều mỹ nữ. Có một ít lời đồn vô cùng kinh khủng, họ nói Hoàng Thượng thấy nhà cao cửa rộng liền xông vào, đòi rượu lẫn đồ nhắm, cợt nhã chọc ghẹo con dâu con gái nhà người ta, cướp mỹ nữ mang về kinh sư.
Dương Lăng chau mày, giọng căm hận:
- Nhất định là do giáo đồ Di Lặc giáo bịa đặt hãm hại. Dân chúng rất hứng thú với loại "bát quái" này, tự nhiên vui vẻ làm kẻ truyền bá. Thật sự có cho người để ý cũng đành chịu, muốn truy xét xuất xứ cũng nào có dễ gì?
(bát quái nghĩa là lời đồn, tiếng lóng thời hiện đại – gossip)
Liễu Bưu ngơ ngẩn hỏi:
- Bát quái?
Dương Lăng cười, nói trớ:
- Ôi... Cái ...này... Là lời nói cửa miệng Trương Thiên Sư ta thường nghe; ý là tin vịt. Ngươi nói tiếp đi, tại sao sự việc này lại có quan hệ với ta?
Liễu Bưu định thần trở lại, thưa:
- Dạ! Bây giờ lại có lời đồn đại rằng Hoàng Thượng dừng lại Hoa phủ là do nhìn trúng một người hầu thiếp của Hoa Ngự Sử. Ban... Ban ngày mà lại sinh hoạt nam nữ (*) bừa bãi, dơ bẩn kinh khủng. Với lại....
(*“Bạch nhật tuyên dâm”: Thời xưa quan niệm ban ngày mà sinh hoạt nam nữ là một điều cực kỳ ô uế, tội lỗi.)
Hắn cẩn thận liếc mắt nhìn Dương Lăng, thấp giọng nói:
- Còn có người nói, đại nhân vì muốn được Hoàng Thượng thương yêu nên đem biểu muội của chính mình hiến cho Hoàng Thượng. Mấy ngày trước đây đại nhân còn đi đến nhà một vị lang y bắt cóc một mỹ nhân đang đến xin chữa bệnh. Chẳng những đại nhân dung túng Hoàng Thượng ham mê nữ sắc, mà chính mình cũng... Cũng cùng những mỹ nữ này ngủ chung, cùng hoan lạc. Lại còn nhân cơ hội vơ vét tài sản người giàu có, đe dọa bằng không sẽ đưa Hoàng Thượng đến nhà...
Hễ là người đọc sách thì không thể không coi trọng danh dự của mình. Vốn Liễu Bưu tưởng rằng Dương Lăng nghe xong nhất định sẽ giận tím mặt, lập tức kêu hắn lục lọi tìm cho ra người phao tin bậy. Không ngờ Dương Lăng nghe xong lại bật cười, lắc đầu cười vang một hồi lâu rồi mới nói với vẻ mặt cổ quái:
- Té ra nguồn cơn là như thế! Té ra nguồn cơn là như thế! Ha ha, ha ha ha! Té ra nguồn cơn là như thế!
Liễu Bưu kinh ngạc nhìn Dương Lăng, thầm nghĩ: "Đại nhân giận quá thành hồ đồ rồi sao?"
Dương Lăng hừ một tiếng, hỏi tiếp:
- Chỉ vậy sao! Còn gì nữa không?
Liễu Bưu thưa:
- Cái...này... Ở địa phương này thì chỉ lưu truyền như vậy, tuy nhiên càng đi về phía kinh thành, càng đi về phía nam thì câu chuyện lại càng kinh khủng, càng thái quá, dân chúng lại càng thích lan truyền. Có một số câu truyện rõ ràng có cả trăm ngàn chỗ sơ hở mà dân chúng cũng vẫn cứ tin là thật.
Dương Lăng trầm ngâm:
- Lời đồn hay sao? Lan truyền một ít chuyện vớ vẩn thì không cần phải quan tâm, sẽ không thực sự lung lay gốc rễ, phần lớn những người ồn ào a dua là một ít người dân vô vị, còn những kẻ thực sự cần bị bắt lại đang ngồi hưởng kết quả của những lời đồn này. Vấn đề là người tung ra lời đồn. Mục đích bịa đặt lời đồn của chúng đương nhiên không phải chỉ đơn giản là nhằm bôi xấu thanh danh người khác, với lại chỉ trong một thời gian ngắn như vậy mà có thể sắp xếp ra nhiều chuyện nửa thật nửa giả đến thế này thì có lẽ ngay bên trong huyện Dương Nguyên đã có người của Di Lặc giáo.
Tuyệt! Ta đi đến đâu là đinh bật ra đến đó. Nếu thật sự giáo đồ của Di Lặc giáo thì tuyệt đối không tha. Ngươi đi chuẩn bị một chút, bố trí một ít thị vệ tin cậy cùng Bổn quan đi ra ngoài một lát. Tửu lâu trà phường, chùa miếu hội hè, chính tai ta nghe qua một chút rồi sẽ quyết!
Liễu Bưu rời đi, Dương Lăng suy nghĩ một lúc rồi xoay người đi tìm Chính Đức. Vừa mới đi qua hành lang cầu, y thấy Cốc Đại Dụng đang theo hầu Chính Đức hiện ra trước mắt. Dương Lăng vội vàng giản lược lời đồn đại kể qua với Hoàng Đế.
Nghe xong, Chính Đức không hề quan tâm. Hắn trề môi nói:
- Mọi hiện hữu đều do duyên sinh ra, vốn như giấc mộng, như ảo ảnh, như giọt sương, như bọt nước và như ánh chớp, ta nên nhìn nhận như vậy (1). Cho tới bây giờ những truyện đồn đại về gia tộc đế vương cũng đã nhiều; những lời đồn đại có liên quan từ nhân vật nhỏ đến nhân vật lớn còn ít sao? Cứ mặc bọn họ nói! Phong lưu thiên tử? Ha ha, ha ha, trẫm thích! Thế thì đã sao? Trẫm vẫn là trẫm, ai làm khó dễ được ta?
Thấy hắn thần khí ngạo nghễ, bụng dạ lại rộng rãi, bị mắng mà vẫn không tức giận, Dương Lăng không nén nổi thán phục:
- Cỏ dại không biết nước giếng trong. Tấm lòng khí phách của Hoàng Thượng, thần theo không kịp.
Cốc Đại Dụng vội vàng trưng gương mặt nịnh bợ, cười nói:
- Hoàng Thượng lòng chứa thiên hạ, ngồi ôm bốn biển. Thái Sơn, Hoa Sơn, Ngũ Di Sơn, Thập Vạn Đại Sơn đồng loạt sụp đổ trước mắt mà không hề thay đổi sắc diện, đương nhiên những lời đám tiểu dân nói bậy ngài chẳng màng để vào bụng.
Chính Đức như cười như không đáp:
- Chúng mà sụp đổ hết thì cần tới con rồng đất lớn cỡ nào trở mình? Lúc đó giang sơn của trẫm còn lại cái gì đây? Cút sang một bên đi! Ngươi nịnh bợ xong rồi, để cho trẫm nói chuyện.
Sắc mặt hắn vụt thay đổi, cươi tươi hẳn lên, so với nụ cười của Cốc Đại Dụng thì vẻ nịnh nọt còn hơn cả ba phần. Cười xong hắn trơ mặt ra nói:
- Dương thị độc! Cô em gái của ngươi quả thực là rất khó hầu hạ, vừa mới bớt bệnh đã muốn đi ra ngoài một lát. Ngươi xem...
Dương Lăng thấy vị đương kim thiên tử bị Đường Nhất Tiên hành hạ thành hình dáng đáng thương như vậy, bèn cười thầm trong bụng. Y nhướng cao cặp lông mày, vẻ mặt nghiêm nghị:
- Có chuyện đến vậy hay sao? Hoàng Thượng chớ hoảng sợ, đợi thần đến nói chuyện với nàng. Thần không cho nàng ra ngoài, nàng vẫn phải chịu nghe lời thôi.
- Đừng đừng đừng ... Ngươi gấp cái gì vậy, trẫm muốn nói..... Nhất Tiên cô nương vì bệnh phải ở trong phòng buồn bực đã nhiều ngày rồi đấy, nàng cũng đã khổ sở quá rồi. Hay là... ta sẽ đưa nàng đi ra ngoài một lát đi! Hôm nay không có gió, trời cũng đã ấm, mặc áo nhiều hơn một chút xíu sẽ không có gì đáng ngại, lại mang theo cô gái giang hồ do ngươi mời đến, còn sợ cái gì nữa?
- Ái!? Không được, không được! – Dương Lăng lắc đầu đáp - Muốn giải sầu thì ở phía sau trong vườn là được rồi. Vừa ra khỏi cửa lại phải tiền hô hậu ủng, trừ phi... Hoàng Thượng ngài đừng đi cùng, lúc đó thần mới yên tâm.
Đang hơi khòm lưng bỗng chốc Chính Đức thẳng lưng lên, nghiêm giọng:
- Dương khanh nghe chỉ!
Dương Lăng giật mình,vội vàng sụp lạy. Chính Đức vung tay giữ y lại, nói:
- Đừng quỳ! Tránh bị người không biết chuyện thấy được lại đi báo Nhất Tiên biết, trẫm sẽ thê thảm ngay. Ngươi hãy nghe cho kỹ đây, trẫm lệnh cho ngươi phải nghĩ biện pháp, bất kể như thế nào cũng phải cho Đường cô nương ra ngoài giải sầu. Thị trấn nhỏ mà, cũng không có nhiều địa điểm lắm. Ngươi cho quét qua một lượt mấy nơi náo nhiệt trước khi đi, chẳng lẽ không được sao? Đương nhiên bổn hiệu uý nhất định phải làm thị vệ tùy tùng. Ghi nhớ kĩ, ghi nhớ kĩ!
Nói xong hắn còn sợ Dương Lăng không nghe lời nên vội vàng quay sang Cốc Đại Dụng:
- Đại Dụng, ngươi thấy rồi chứ? Ngươi đã thấy trẫm đã hạ chỉ rồi, nếu Dương thị độc không nghe thì chính là kháng chỉ.
- Dạ! Lão nô nghe rất rõ! - Cốc Đại Dụng cung kính lên tiếng.
Dương Lăng đành phải chịu. Y suy nghĩ một hồi rồi bẩm :
- Vậy... Xin mời Hoàng Thượng về trước đi! Thần đi bố trí qua, chờ đến chiều trời hơi ấm hơn rồi sẽ đi.
Vừa nghe, Chính Đức mặt mày hớn hở chạy đi mất. Dương Lăng kỳ quái nhìn theo bóng hắn, hỏi:
- Vì sao mà Hoàng Thượng vui vẻ như vậy?
Cốc Đại Dụng cười chịu đựng:
- Nhất Tiên cô nương vừa ở trong vườn thấy không có gì náo nhiệt đáng nhìn, đã hứa với Hoàng Thượng một điều. Nàng bảo nếu như Hoàng Thượng có thể cầu được đại nhân cho phép nàng ra ngoài du ngoạn, thì sau khi đã trở về kinh nàng và Hoàng Thượng sẽ chia nhau mỗi người phụ trách một nửa, cùng sáng tác một bài “Sát biên nhạc”.
Chương 221 - Tâm ý tương thông
- Đây là con đường phồn hoa nhất bản huyện. Ngài xem, toà tháp gỗ trên con hẻm này được xây từ thời mạt Tống, vẫn sững sững cho đến nay. Còn cửa hàng thủ công bên này là cửa hàng tốt nhất bản huyện, phần lớn quần áo chăn mền trong phủ bản quan đều nhờ bọn họ thực hiện. Còn cửa hàng mứt kẹo đó... À, hôm nay chưa mở cửa!
Cửa hàng đó đương nhiên không mở cửa. Lý do ư? Vì lo cho an toàn của Chính Đức, Dương Lăng đã cho kiểm tra kỹ lưỡng con đường này một lượt, đến tận ngôi chùa Thiên Phật đằng trước. Toàn bộ người trên đường đều là người trong xưởng vệ cải trang, nên đương nhiên không còn lo lắng việc hoàng đế cải trang thường dân đi lại trên đường. Về phần những cửa hiệu nhỏ hai bên đường có thời gian khai trương ít hơn bốn năm và không có vợ con già trẻ trong nhà, tất cả đều được nhận tiền bồi thường để ngừng buôn bán mà trở về nhà. Ông chủ cửa hàng mứt kẹo đó là người vùng khác mới đến nơi này chưa được hai năm, cho nên đã sớm bị đẩy đi.
Hoa đại nhân tiếp tục giới thiệu một cách hào hứng, như thể không phải lão đang kể về một huyện thành nho nhỏ mà là thắng cảnh ở kinh sư, cả người như trở nên nhẹ tênh, bước đi thoăn thoắt. Có điều âm thanh lớn một cách thái quá, chủ yếu là lão nói để Chính Đức đang đi phía sau có thể nghe.
Dương Lăng, Trương Vĩnh, Miêu Quỳ và Hoa đại nhân đi ở phía trước, phía sau là Đường Nhất Tiên và Thôi Oanh Nhi, còn Chính Đức và mấy thị vệ cận thân thì đi sau rốt. Hồng Nương Tử tưởng Dương Lăng thật sự đưa biểu muội y dạo phố, không hề biết được gã hiệu úy trẻ tuổi mình từng gặp mặt trong phủ Đại vương đang đi đằng sau chính là đương kim hoàng thượng. Có điều nàng đã thay đổi dung mạo, cho nên Chính Đức cũng không nhận ra nàng.
Đường Nhất Tiên dáng người nhỏ nhắn yêu kiều, da dẻ trắng ngần như tuyết, chẳng qua là mới vừa qua cơn bạo bệnh nên vẫn còn mang chút vẻ mệt mỏi, tinh thần vẫn chưa bình phục, bên tai đeo hai viên trân châu bóng tròn, khiến nàng trông xinh đẹp và đáng yêu vô ngần. Thời tiết đã chuyển ấm, đã có hơi hướng của mùa xuân, song nàng vẫn mặc áo dài nhung vải mịn, bên ngoài khoác thêm áo chẽn màu lam kẻ trắng, trông rất tươi tắn và thoải mái.
Thôi Oanh Nhi chân dài eo nhỏ, vóc người cao thon, vận bộ võ phục trắng tươm, đai lưng đen nhánh, bên ngoài khoác áo choàng màu đỏ thẫm, dáng vẻ muôn phần thướt tha; mái tóc đen mượt vấn cao theo kiểu bàn long(1), trông vừa quả cảm vừa xinh đẹp, hoàn toàn không cần dùng đến trang sức, linh lợi hết sức. Đường Nhất Tiên tính tình cởi mở, vốn thích cái đẹp, Thôi Oanh Nhi lại là ân nhân cứu mạng của nàng, cho nên nàng đối xử với nàng ta rất là thân thiết. Hai người tay nắm tay kéo, dọc đường vừa đi vừa chụm đầu thì thầm nói chuyện.
Nhân lúc Trương Vĩnh và Hoa đại nhân đang trò chuyện, Dương Lăng hơi lách sang một bên, Liễu Bưu liền âm thầm sáp lại. Dương Lăng vốn để hắn ở lại trong phủ đợi tin trong kinh, giờ thấy hắn lộ diện, liền biết là có tin báo.
Liễu Bưu khẽ giọng báo:
- Đại nhân, trong kinh truyền tin của Thành nhị đáng đầu tới. Kim Lăng thuận buồm xuôi gió, việc đại nhân gởi gắm xin cũng cứ yên tâm. Nay đại sự đều đã sẵn sàng, đội thuyền giương buồm chờ phất, chỉ chờ đại nhân hạ lệnh mà thôi.
Dương Lăng nghe xong liền thấy nhẹ lòng, không khỏi cười nhẹ. Trong chuỗi những việc này, duy chỉ có sự tình ở chỗ Đại Lâu Nhi là liên quan đến Nhật Bản ở biển Đông, chỉ cần trong đó có chút sơ xuất là toàn bộ công việc sẽ khó mà tiến hành. Nay Đại Lâu Nhi truyền đến tin đã ổn thỏa, vậy từng bước trong kế hoạch mới có thể tuần tự được triển khai.
Ngoài ra, với tính tình của nha đầu Liên Nhi, Dương Lăng thật sự không biết nàng ta có làm chuyện gì kinh người hay không. Nếu cần, thậm chí nàng ta có thể dám phất cờ gióng trống: "Nghìn dặm vào kinh tìm chồng". Nếu Đại Lâu Nhi đã vỗ về được nàng, vậy mình sẽ có thể hồi kinh rồi mới nghĩ phương cách đón nàng vào kinh. Dẫu gì thì cũng không thể cứ để nàng ôm bụng bầu mà ở lại Kim Lăng.
Dương Lăng mỉm cười gật đầu, rồi hỏi:
- Còn tin gì khác không?
Liễu Bưu đáp:
- Hễ là quan lớn trong triều có gia thế là phú gia vọng tộc miền duyên hải đều đã được chúng ti chức điều tra qua. Cẩm Y Vệ cũng rất là phối hợp, vận dụng toàn bộ lực lượng hiệp trợ điều tra. Chúng ti chức tra rõ và nắm thóp được tổng cộng bảy mươi bốn quan viên trong kinh lẫn địa phương, trong đó số người có uy tín trong triều là hai mươi chín người. Với chứng cứ trong tay chúng ta, không sợ bọn họ sẽ không dốc hết sức phối hợp.
Nghe nói vậy, Dương Lăng chợt nhớ tới chuyện đối chọi gay gắt giữa Lưu Cẩn và Mâu Bân trước khi y rời kinh, bèn vội hỏi:
- Phải rồi, hiện tại chuyện đấu đá giữa Cẩm Y Vệ và Ti Lễ Giám đã có kết quả chưa? Mâu Bân có chịu cúi đầu với Lưu Cẩn chưa?
Liễu Bưu thoáng do dự rồi đáp:
- Vốn ý của Ngô đại đáng đầu là muốn đợi đại nhân về rồi mới bẩm báo. Song nếu đại nhân đã hỏi tới, vậy ti chức không dám giấu giếm. Hiện tại Cẩm Y Vệ vẫn rất ương ngạnh, Thiệu Tiết Vũ đã bị Lưu Cẩn tìm cớ tống vào trong thiên lao.
Mâu Bân sợ lão ta sẽ ám hại Thiệu Tiết Vũ, cho nên chạy về tọa trấn kinh sư, niêm phong khẩu cung của đám người Đới Tiễn, nhất quyết không chịu xóa sửa. Lúc thết tiệc khoản đãi quan viên Cẩm Y Vệ ngũ phẩm trở lên thuộc các bộ phận ở Thiên Tân, Nam Trấn Phủ, Bắc Trấn Phủ và Đại Nội, hắn từng nói rõ trước mặt mọi người rằng, cho dù Lưu Cẩn có bãi quan hắn, chém đầu hắn, thì hắn cũng quyết không phục tùng. Lời đó đã kích động lòng thù địch chung của toàn thể Cẩm Y Vệ, thế nên hiện tại gần vạn Cẩm Y Vệ khắp thiên hạ cực kỳ căm hận Ti Lễ Giám. Hễ là mệnh lệnh ban hành từ người của Ti Lễ Giám, người của Cẩm Y Vệ đều đồng loạt ngăn chặn, tẩy chay. Vì vậy Lưu công công căm tức vô cùng, đang hạ lệnh cho Đông Xưởng tìm kiếm nhược điểm của Mâu Bân để bắt hắn tra xét.
Đối chọi kịch liệt đến như vậy à? Thảo nào Ngô Kiệt có điều lo lắng, không muốn bẩm báo cho y vào lúc này. Dương Lăng thoáng ngẩn ngơ, không ngờ Mâu Bân lại là người chính trực như vậy. Mặc dù hắn đấu đá là vì khí phách cá nhân, không can hệ gì đến lợi ích quốc gia và dân tộc, nhưng có thể không sợ cường quyền như vậy, coi nhẹ tiền đồ và tính mạng của mình, quả thực là kẻ đáng kết giao.
Sau thoáng nghĩ ngợi, y thầm ghi nhớ chuyện này. Hiện tại có quá nhiều chuyện y phải làm, nếu nội bộ Ti Lễ Giám và Cẩm Y Vệ bắt đầu bị hao tổn, thì chẳng những bản thân mình sẽ không có nhân thủ đắc lực giúp đỡ, mà rất dễ sẽ bị ngoại thần rình rập phản công, tìm ra sơ hở. Ba xưởng một vệ cùng chung nhịp thở, rất nhiều thứ đều có dây mơ rễ má với nhau. Nếu như bị kẻ chủ tâm dùng chiêu ly gián nhằm giảm hiệu quả công tác của nội đình, phá hoại uy tín lẫn danh vọng nhằm giới hạn, thậm chí tiêu diệt tất cả thế lực nội đình, thì mọi tinh lực của mình đều sẽ bị dồn hết vào việc gấu ó nội bộ này mất.
Y chắp tay ra sau lưng, đăm chiêu suy nghĩ một chốc rồi mới chậm rãi nói:
- Ngươi hãy quay về, lập tức chuẩn bị thu thập hành trang, sáng sớm ngày mai...
Vừa nói đến đây, chợt y nghe có tiếng Đường Nhất Tiên gọi:
- Biểu ca!
- Hử? - Dương Lăng vội quay đầu lại hỏi - Chuyện gì vậy?
Đường Nhất Tiên nhướng mày, nói với Thôi Oanh Nhi bằng giọng hờn dỗi:
- Tỷ tỷ thấy không? Muội đã nói rồi, biểu ca từ sớm đến tối cứ bận bịu việc công. Lúc ở Đại Đồng cũng vậy, cả ngày cứ chạy ra chạy vô, cơm nước cũng chẳng thèm đoái hoài, hôm nay đi dạo đáng lẽ không nên làm chuyện gì hết chứ? Đấy, vậy mà vẫn không yên. Muội gọi đến lần thứ ba mới phản ứng.
Hồng Nương Tử hơi nhếch miệng, nhủ thầm: "Cả ngày bận bịu công việc? Bận chạy tới 'Diễm Lai Lâu' uống rượu có kỹ nữ nâng giấc thì có!"
Dương Lăng lướt nhìn nàng, rồi quay sang quở trách Đường Nhất Tiên:
- Cái con bé này! Cả ngày nếu không phải nói về hoa lá chim chóc thì là đàn tranh tiêu sáo, toàn là những chuyện biểu ca của muội nghe như vịt nghe sấm, không hiểu gì cả mà. Ha ha! Gọi huynh có chuyện gì không?
Đường Nhất Tiên đổi dỗi thành mừng, chỉ vào ngôi chùa Thiên Phật nho nhỏ phía trước vòi vĩnh:
- Biểu ca, ngôi chùa đó tuy nhỏ nhưng nhìn khá cổ. Muội muốn đến đó vái Phật, huynh không cần đi theo đâu.
Dương Lăng mỉm cười bảo:
- Vậy muội đi trước đi! Đừng có đi lung tung đó! Ta còn có mấy câu muốn nói cùng đại nhân, chốc nữa sẽ tới sau.
- Được! - Đường Nhất Tiên sảng khoái đồng ý, rồi quay đầu gọi Chính Đức - Tiểu Hoàng, chúng ta đi thôi! Không phải ngươi tự khoe khoang Phật học của mình lợi hại lắm hay sao! Chúng ta tìm một lão hòa thượng nào đó đấu về kinh kệ đi! Tỷ tỷ, tỷ có muốn đi hay không?
Sau thoáng do dự, Hồng Nương tử cười cười đáp:
- Tỷ tỷ không tin Phật, ta sẽ chờ muội ở bên ngoài.
Nhà Phật dạy người ta về nhân quả báo ứng, còn nàng thì sống bằng nghề giết người, chịu tin vào Phật đạo mới là lạ! Đương nhiên Đường Nhất Tiên không biết nội tình, vừa cười hì hì vừa gọi Chính Đức đi về phía ngôi chùa. Bọn họ đi rồi, đám người Trương Vĩnh, Miêu Quỳ và Hoa đại nhân sao dám không đuổi theo, thế là liền gọi bốn năm thị vệ phía sau cùng đi theo vào.
Dương Lăng vội căn dặn Liễu Bưu:
- Sáng sớm ngày mai chúng ta sẽ nhổ trại hồi kinh, ngươi hãy mau về chuẩn bị.
Quay người lại, y thấy Hồng Nương Tử đang liếc mắt sang nhìn mình, hỏi với vẻ mặt kỳ quái:
- Lúc ngươi ở Đại Đồng thì tiền hô hậu ủng, sao giờ ngay cả tay họ Ngũ nọ cũng theo vào chùa rồi? Ngươi không sợ sẽ có người hành thích ngươi à?
Dương Lăng không tiết lộ chuyện tất cả người đi đường, thậm chí một ít người đang dọn gánh bán hàng cũng đều là đại nội thị vệ cải trang, chỉ cười ha hả đáp:
- Vậy cũng không hẳn! Chẳng qua trong số những người này thì võ công cô là lợi hại nhất, có cô ở đây, ông trời cũng không đụng tới được cộng lông măng của tôi, nên bọn họ dĩ nhiên là yên tâm rồi.
Thôi Oanh Nhi hừm một tiếng, vừa nghĩ lại, tim chợt đánh thịch: "Y... Người của y chẳng lẽ đang tạo cơ hội cho hai chúng ta ở riêng một chỗ?"
Trông thấy vẻ mặt Dương Lăng chợt trở nên nghiêm túc, bước một bước tới gần nàng, Thôi Oanh Nhi không khỏi hoảng hốt lui lại một bước. Vừa phát giác mặt mình hơi đỏ lên, chợt nghĩ đến danh phận của mình, khuôn mặt xinh xắn của nàng không khỏi trắng bệnh, nàng mím môi đứng yên.
Thấy Hồng Nương Tử vốn từng đứng trước mặt đại quân của Kinh doanh lại điềm tĩnh như không, vẻ mặt ngạo nghễ nay lại như người thiếu nữ bất lực sợ sệt, Dương Lăng không hiểu vì sao lại thấy lòng như thắt lại, sinh ra cảm giác thương tiếc lạ kỳ. Y nhẹ nhàng bước tới trước mặt nàng, thấp giọng nói:
- Sáng sớm ngày mai, chúng tôi sẽ phải lên đường hồi kinh rồi.
Hồng Nương Tử cảm thấy nhẹ nhõm trong lòng, tiếp đó lại cảm thấy trống vắng, giọng thẫn thờ:
- Chúc mừng...
- Hử? Chúc mừng?
Dương Lăng lấy làm kinh ngạc.
Thôi Oanh Nhi liền đỏ mặt, ngượng ngập giải thích:
- Không phải, đi đường cẩn thận..., - rồi nàng chợt giậm chân, thẹn quá hoá giận - Ngươi nói với ta những chuyện này làm cái gì? Nếu không phải cứ ở bên cạnh Nhất Tiên cô nương chữa bệnh, thì lúc thương thế của Hắc Diêu Tử khá lên ta đã đi rồi.
Dương Lăng lặng lẽ nhìn nàng, rồi chợt nói:
- Những gì cô và Hắc Diêu Tử nói với nhau hôm ấy, ở ngoài tôi đã nghe được.
Thôi Oanh Nhi vụt biến sắc. Việc làm của Dương Hổ khiến cho cả người lẫn thần đều phẫn nộ, nhưng nàng là thê tử của hắn, hành vi đáng ghê tởm của y như vậy lại bị người trong triều đình mà bọn họ xưa nay luôn khinh bỉ chửi rủa biết được, sự nhục nhã đó giống như con rắn độc đang cắn xé tim nàng.
Dương Lăng thở dài nói tiếp:
- Tôi... có một lời muốn nói. Nếu như lệnh tôn đại nhân bằng lòng tiếp nhận việc triều đình chiêu an, thì cô có thể vào kinh tìm tôi, tôi nhất định sẽ bảo đảm sự an toàn cho cả nhà cô. Dương Hổ tạo phản, nhất định sẽ thất bại, đừng để liên lụy đến tính mạng của chín tộc họ nhà mình!
Thôi Oanh Nhi ngẩng phắt đầu nhìn y. Dương Lăng lắc đầu với vẻ tự tin, khẳng định:
- Tôi không gạt cô đâu! Hắn… tuyệt đối sẽ không thể nào thành công! Giết được tôi, hắn cũng không thể làm nên việc lớn! Giết được đương kim hoàng đế, hắn vẫn sẽ không thể nào làm nên việc lớn! Bản lĩnh của Dương Hổ chỉ có thể làm yêng hùng một cõi, vĩnh viễn không thể nào gầy dựng được bá nghiệp đế vương, không thể trở thành bậc anh hùng lừng lẫy!
Trông thấy sắc mặt Thôi Oanh Nhi tái nhợt, trong nhất thời nàng không chịu nổi sự chê mắng thẳng thắn như vậy, y bèn không nỡ nói thêm. Nhìn thấy một lão tú tài nghèo ngồi dựa vào chiếc bàn dài ven đường, trên bàn đặt vài quyển sách, y cười nói:
- Không biết bên đó đoán mệnh, giải chữ hay bán thư họa nữa. Nhất Tiên chắc cũng sắp ra rồi, chúng ta qua bên đó ngồi nghỉ chân một chút chờ bọn họ ra vậy.
Thôi Oanh Nhi cũng không có ý tưởng gì khác nên theo y đi đến bên thư án. Hôm nay đám phiên tử đã dọn dẹp con đường này cả ngày, lúc này khách đi đường lại toàn những khuôn mặt lạ lẫm, lão tú tài nghèo sớm đã thấy tình hình có vẻ khác thường. Cộng thêm lời đồn đại đang lưu truyền trên phố rằng Hoàng đế đang ở trong huyện Dương Nguyên đã được chứng thực, lão ta không khỏi phỏng đoán đám người vừa nãy vào chùa không chừng đều là khâm sai, thậm chí ngay cả đương kim hoàng đế cũng ở trong đó.
Vậy hai vị trước mặt này ắt cũng là quan lớn triều đình đây. Thế là lão vội vã ân cần đứng dậy xởi lởi:
- Không biết có phải vị công tử đây muốn mua một bộ “quyền họa” hay không?
- Quyền họa? Thế nào là quyền họa? - Dương Lăng hỏi.
Lão tú tài nghèo gượng cười dè dặt. Mặc dù nghèo kiết, song nhắc đến sở trường của mình, lão cũng có một phần kiêu ngạo. Lão tú tài trỏ vào tờ giấy Tuyên Thành trải trên bàn, nắm chặt hai nắm tay lại, giải thích:
- Lão phu không cần chấp bút, chỉ dùng hai tay, liền có thể vẽ ra núi, sông, người, vật. Bảo đảm sống động như thật. Công tử có muốn thử qua không?
Dương Lăng cười bảo:
- Được! Vậy mời tiên sinh vẽ một bức tranh, tại hạ xin rửa mắt nhìn.
- Mời công tử ra đề, vẽ bức tranh gì ạ?
Lão tú tài nghèo không ngờ hôm nay lại được thần tài gõ cửa. Người mua lại là quan lớn triều đình, nếu lão vẽ đẹp đương nhiên tiền thưởng sẽ không ít.
Dương Lăng đưa mắt nhìn quanh không tìm thấy thứ gì vừa mắt, chợt y nảy ra một ý, bèn nói:
- Vậy xin ông vẽ cho vị cô nương đây một bức. Nếu vẽ giống, bản... bản thân tôi sẽ thưởng cho.
- Á?!
Thôi Oanh Nhi khẽ kêu lên, có phần bất ngờ lại có phần vui sướng. Từ nhỏ nàng chỉ biết đến đao thương côn bổng, quả thực chưa từng được vẽ một bức chân dung nào, cho nên tuy trong lòng có ý muốn cự tuyệt nhưng lại nôn nao muốn thử.
Lão tú tài gật đầu, vuốt râu ngưng thần ngắm nghía Hồng Nương Tử một lúc. Đoạn lão vén áo, mở một cái vò, hai tay nắm lại nhúng vào mực, bàn tay thoắt xoè thoắt chum, mực bắt đầu quệt lên trên tờ giấy trắng.
Thôi Oanh Nhi bất giác trở nên hồi hộp. Nàng muốn làm ra vẻ xem thường song lại sợ lão tú tài nghèo đó sẽ vẽ mình thành ra khó coi, ánh mắt nhất thời trở nên mơ màng ngẩn ngơ. Kiểu vẽ của lão tú tài này tương tự như kiểu phác họa thời nay, chỉ chú trọng vào tính chân thật mà không quan tâm đến ý cảnh gì, nhưng lão già chỉ dựa vào hai nắm tay, không cần bản nháp mà vẽ luôn, bản lĩnh quả không tầm thường.
Chỉ một lát sau, một bức tranh thiếu nữ sống động như thật đã xuất hiện trên giấy. Hồng Nương Tử sáp lại gần nhìn. Người trong tranh mặt mũi như thật, dung mạo dịu dàng xinh đẹp, giống hệt hình ảnh mình thấy trong gương hàng ngày. Thấy vậy Hồng Nương Tử không khỏi vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ, nàng với tay định cầm lấy, song ngón tay vừa chạm vào bức tranh liền vội rút về.
Dương Lăng cũng nghiêng đầu ngắm nghía, vừa thoạt nhìn liền tỏ vẻ kinh ngạc. Lão già mới vừa đắc ý mỉm cười, chợt Dương Lăng lắc đầu bảo:
- Không giống, không giống! Bức tranh này không giống.
Lão tú tài nghèo liền đỏ mặt, lúng túng:
- Công tử! Chỗ nào không giống vẫn mong công tử chỉ điểm cho, lão phu sẽ sửa ngay lập tức.
Dương Lăng đáp:
- Người trong tranh của lão tiên sinh có thân thể như liễu yếu, lưng thon như thắt lụa, mày đậm như bút vẽ, không chỗ nào là không giống, song vẻ mặt và khí chất lại dịu dàng thùy mị, điềm đạm đáng yêu, tuyệt không giống với vị cô nương này.
Vị cô nương này có khí thế hào sảng lấn át vẻ xinh tươi, hiên ngang hào hùng mà không che giấu sự hiền dịu. Dung nhan tuy đẹp, song người đẹp trên đời có nhiều; còn vẻ ngạo nghễ liếc nhìn thiên hạ đó của nàng, trên đời không ai có thể sánh được. Thiếu cái khí thế này, bức tranh của ông đã kém đi nhiều.
Hồng Nương Tử nhất thời nghe mà ngẩn ngơ. Tuy nàng không hiểu hết tất cả ý nghĩa từ ngữ trong những lời khen ngợi này, nhưng vẫn nghe hiểu được rằng Dương Lăng hết sức ca tụng nàng, nhất là câu "trên đời không ai có thể sánh được", nàng nghe rõ mồn một. Mình thật sự xuất chúng như vậy ư? Ánh mắt nàng bỗng trở nên mơ màng.
Lão tú tài nhìn sang Thôi Oanh Nhi, thấy ngũ quan tinh xảo, chỗ nào cũng mê người, mặc dù thân vận võ phục, song trên mặt lại đượm vẻ u sầu, nếu nói dịu dàng đáng yêu dĩ nhiên không sai, nào có hào khí ngút trời gì? Nhưng mà có tiền mua tiên cũng được, kẻ đọc sách dẫu có thanh cao thì vẫn cần tiền mua cơm lấp bụng, đúng không?
Thế là lão liền đáp:
- Là lão phu sơ xuất rồi, xin đợi lão phu vẽ một bức khác vậy.
Nói đoạn lão bèn tập trung tinh thần , vẩy mực múa quyền, mím môi mím miệng vẽ lại. Không lâu sau một bức tranh mỹ nữ khác lại ra lò. Thôi Oanh Nhi ghé mắt nhìn, tức thì ngơ ngẩn.
Vẫn dáng vẻ ấy, ngũ quan không thay đổi gì, song người trong tranh áo choàng phất phới, tóc xoã tung bay, trên khuôn mặt diễm lệ phủ thêm phần khí khái bừng bừng. Khí thế đó khiến người ta vừa nhìn thì cả hình tượng người con gái liền đập vào trong mắt, khắc vào trong tim. Cùng một hình tượng, không ngờ thần sắc khác nhau lại tạo nên khác biệt một trời một vực như vậy.
Dương Lăng cầm lên coi, mỉm cười thỏa mãn, chúm môi thổi những chỗ chưa ráo mực. Thế nhưng kẻ thổi vô tâm, người xem hữu ý. Chỗ mà y chúm môi thổi chính là bộ ngực vun cao của người trong tranh. Tim Hồng Nương Tử liền đánh thịch, chợt cảm thấy ngực cũng nhồn nhột, liền vội giật lấy bức tranh.
Dương Lăng ngạc nhiên, vội bảo:
- Đừng làm dơ đó! Vết mực vẫn chưa khô đâu.
Thôi Oanh Nhi nhoẻn miệng cười, sẳng giọng đắc ý:
- Vẽ là vẽ ta, liên quan gì đến ngươi?
Từ dạo được trông thấy nụ cười hớp hồn khi bị nàng bắt cóc ở kinh sư đêm đó, Dương Lăng vẫn chưa từng thấy nàng biểu lộ vẻ đẹp như vậy. Tuy nàng rất đẹp, nhưng đậm khí phách anh hùng, bình thường rất ít khi để lộ vẻ thiếu nữ thẹn thùng, do đó thi thoảng mỉm cười, thực như mây che kéo đi, ánh trăng thoạt hiện, hoa đà lay bóng, hết sức mê người. Dương Lăng không khỏi nhìn đến ngẩn ngơ.
Trông thấy vẻ mặt của y, Thôi Oanh Nhi bỗng tắt nụ cười, sắc mặt dần dần nghiêm lại. Một lúc sau nàng mới cụp mắt nhẹ nhàng đưa trả bức tranh, nghiêm mặt nói:
- Ngày mai từ biệt, nếu có ngày tương phùng sợ rằng sẽ là lúc hai ta gặp lại dưới binh đao. Ta không muốn nhận đồ của ngươi, khi đó ta mới thoải mái chém đầu ngươi được.
Thầy đồ già nghe hai người đối đáp mà tròng mắt suýt rớt ra ngoài, nhìn ngắm một hồi lâu cũng không hiểu được hai người này quan hệ với nhau như thế nào. Dương Lăng lấy từ trong người ra một thỏi bạc đặt lên bàn, cuộn hai bức tranh lại rồi bảo:
- Chốc nữa tôi sẽ kêu người bồi lưng rồi đưa cho cô, cứ coi như là trừ vào tiền chẩn bệnh vậy. Cô không nợ gì tôi cả.
Thôi Oanh Nhi hừ một tiếng xoay người bỏ đi, Dương Lăng đuổi theo bước song song. Trầm ngâm một chút, y chợt nói:
- Cô không nợ tôi, là tôi nợ cô. Nếu có tương phùng, cô cứ việc đến chém tôi, Dương mỗ quyết sẽ không động đao với cô.
Thôi Oanh Nhi nhìn y đầy hoài nghi, hỏi lại:
- Hử? Ngươi thật sự cam lòng chết dưới kiếm của ta sao?
Dương Lăng suy nghĩ một chốc rồi nghiêm trang đáp:
- Vậy thì không được! Tôi chỉ nói sẽ không cầm đao chém cô, chứ không nói là sẵn lòng chết dưới kiếm của cô. Tôi vẫn có thể sử dụng vũ khí không gây thương tổn, ví dụ như... lưới bắt cá!
Thôi Oanh Nhi nghe vậy thì giận lắm, bèn rảo cẳng bước nhanh. Dương Lăng vừa đuổi theo vừa cười khổ nói:
- Tôi nói đùa để chọc cho cô vui mà thôi. Đời người thoáng chốc trăm năm, nếu cứ nghĩ đến chuyện buồn phiền thì cuộc đời uổng phí biết bao?
Thôi Oanh Nhi không nói gì, tay ngọc níu chặt lấy áo choàng, lòng rung động không thôi. Dương Lăng muốn nói lại thôi, nhụt chí dừng bước: người con gái trước mắt, cho dù ta nợ nàng nhiều cỡ nào thì biết đền bù như thế nào đây? Thế là y chỉ biết thở dài.
Ngay vào lúc này, Đường Nhất Tiên véo tai Chính Đức bước ra khỏi chùa, hờn giọng mắng mỏ:
- Cái tên tiểu tử nhà ngươi, hèn chi mà lén lén lút lút. Ngươi giỏi lắm, tại sao ngươi muốn viết Tiểu Hoàng và Nhất Tiên lên cái phướn cầu nguyện của ngươi hả? Ta và ngươi có quan hệ gì?
Chính Đức khổ sở đáp:
- Xin cô nương hãy buông tay! Đau quá, đau quá! Tại hạ viết đâu phải là tên cô, tại hạ viết chính là viết Tiểu Hoàng Nhất Tiên. Tại hạ biết đoán mệnh mà, người khác đều gọi là Hoàng Nhất Tiên, có đúng không Ngũ đại nhân?
Đường Nhất Tiên xì mũi coi thường, hờn mắng:
- Hoàng Nhất Tiên!? Ngươi mà là Hoàng Nhất Tiên! Hoàng thử lang (con chồn - ND) thì có.
Hoa đại nhân, Trương Vĩnh và Miêu Quỳ đi theo sau đều vác bộ mặt khó xử. Cả bọn gặp Dương Lăng thì nhận thấy Dương Lăng cũng đang mặt như mướp đắng. Bốn người bọn họ đưa mắt nhìn nhau, trong lòng đều có chuyện suy tư, thế là lại lắc đầu thở dài.
Trông thấy biểu ca, Đường Nhất Tiên liền vội bỏ tay ra, le lưỡi mắc cỡ. Song nghĩ lại thấy không cam tâm, nàng bèn thừa lúc Chính Đức không để ý lại giẫm chân hắn một cái, rồi mới tươi cười chạy ào về phía Thôi Oanh Nhi.
*****
Đội nghi trượng của Hoàng đế sắp hồi kinh. Phác huyện lệnh và một đám thân sĩ trong huyện lị đã chạy đến trước phủ, đứng cạnh Hoa đại nhân cung kính đưa tiễn Hoàng thượng.
Đội nghi trượng của Hoàng đế từ từ khởi hành. Đại đội nghi trượng đã đi qua, song trước cổng phủ vẫn còn một chiếc xe ngựa đang đậu, Ngũ Hán Siêu dẫn mười mấy tên thị vệ đợi ở đằng xa. Dương Lăng dắt ngựa đứng trước xe đối diện với Thôi Oanh Nhi, hai người nhìn nhau không nói gì.
Một lúc lâu sau, Dương Lăng mới xoay người lấy từ trên yên ngựa một bao vuông, vừa để lên càng xe vừa nói:
- Trong này gồm một nửa là vàng ròng, một nửa là bạc nén, chính là tiền chẩn bệnh của cô nương.
Y lại rút từ trong ống tay áo hai cuộn tranh, nói tiếp:
- Hai bức tranh này đã được bồi lưng. Người con gái trong tranh tuy có cùng dung mạo, song hoàn toàn là hai người, vẫn mong cô nương có thể tìm được cảm ngộ từ trong đó mà giữ được khí khái hiên ngang, phong thái như cũ. Lời ngày hôm qua, xin cô nương ghi nhớ: Dương Hổ quyết sẽ không thể làm nên việc lớn. Nếu như trại Thôi gia có ảnh hưởng to lớn đối với lục lâm phương bắc như vậy, bản quan vẫn mong cô nương có thể lợi dụng phần ảnh hưởng này mà khuyên hắn ghìm cương trước vực!
Thôi Oanh Nhi tự biết cha mình tuổi tác đã cao, tính tình cực kỳ cố chấp, chỉ sợ lòng hăng hái của ông ấy không kém gì Dương Hổ, muốn khuyên nhủ ông ấy quay đầu nào có dễ gì. Nhưng nàng có nỗi khổ tâm khó nói, chỉ đành khẽ thở dài đáp:
- Ta sẽ cố hết sức...
Hàng mi cong khẽ run lên, trong mắt như có ánh sáng phản chiếu. Thầm quan sát Dương Lăng một thoáng, nàng mới nhẹ giọng nói tiếp:
- Ngươi là vị quan tốt, chúc ngươi hoàn thành đại sự, dân chúng ai cũng đầy đủ sung túc. Đến khi đó... đến khi đó sẽ không còn những kẻ muốn tạo phản giống như chúng ta nữa...
Ngữ khí nàng nhẹ nhàng, đượm chút phiền muộn.
Dương Lăng quay đầu lại nhìn đội xe đã đi xa, thấp giọng:
- Cầm lấy tranh đi, tôi phải lên đường rồi.
Thôi Oanh Nhi từ từ cụp mắt, đưa tay cầm lấy bức tranh, ngón tay hai người thoáng chạm vào nhau. Trong chớp mắt, như có tia chớp toé lên, hai người trong khoảnh khắc ngắn ngủi như chạm được vào nỗi cay đắng trong lòng đối phương.
Thôi Oanh Nhi quay đầu đi, thấp giọng:
- Lần này từ biệt, chỉ mong... từ nay không gặp lại!
Nàng không mong gặp lại, tất nhiên là không mong gặp lại Dương Lăng trên chiến trường.
Như thể tâm ý tương thông, Dương Lăng không hề ngoảnh đầu, xoay người lên ngựa, roi ngựa vụt xuống, cũng vội vã tiếp lời:
- Chỉ mong từ biệt hôm nay, về sau không hẹn ngày gặp lại!
Vó ngựa dồn dập, mười mấy tay thị vệ thúc ngựa vung roi, bám theo Dương Lăng. Thôi Oanh Nhi dõi mắt theo một lúc, bỗng nhiên nhướng mày, mấy phần hào khí đã lâu không thấy chợt lại trở về: "Bất luận thế nào, mình cũng phải về trại thử một lần. Không thể để cha trúng phải gian kế của Dương Hổ!"
Xe ngựa cũng rời khỏi Hoa phủ, chạy về nơi xa xăm...
Quyển 5 - Quần Ma Loạn Vũ
Chương 222: Ăn nói lung tung
Ch 222: Ăn nói lung tung
Đoàn xa giá cờ quạt của Hoàng đế vừa đến ngoại thành, Ngụy Bân cùng Khâu Tụ đã mang đội nghi trượng trong cung tiến tới nghênh đón, giúp hoàng đế thay đổi lại trang phục.
Lần tuần du Đại Đồng này Chính Đức đã kết đồng minh được với Đóa Nhan Tam Vệ cùng các bộ lạc Nữ Chân. Dưới sự phối hợp lẫn kiềm chế bọn chúng, vùng Liêu Đông sẽ an ổn nằm chắc trong tay Đại Minh; đồng thời quân Minh đánh lui quân Bá Nhan dưới chân núi Bạch Đăng, khơi dậy ngọn lửa phân tranh trong nội bộ Thát Đát. Những điều này chẳng khác gì bất chiến mà khuất phục được người, hiệu quả hơn xa việc đưa mấy chục vạn đại quân xuất binh thảo phạt tốn kém vô số tiền bạc và lương thực.
Công trạng này khiến cho tiểu hoàng đế vừa mới kế thừa ngôi vua thoả thuê mãn nguyện, thầm nghĩ rằng chắc chắn khi mình vừa mới hồi kinh sẽ nhận được muôn lời ca ngợi của văn võ bá quan. Cho nên mặc dù vốn chán ghét lễ nghi phiền phức nhưng lần này hoàng đế Chính Đức lại dương dương tự đắc, nhẫn nại mười phần phối hợp cùng thái giám, cung nữ thay đổi y phục.
Áo bào hoàng đế gồm ba lớp áo lót, ba lớp áo ngoài, ngoài cùng quấn trung thiền(1) bằng lụa trắng; mũ, quần, xiêm, khăn phủ gối(2) từng cái đâu ra đấy. Khoác thêm áo mũ long cổn thêu mười hai con rồng tròn màu đỏ thẫm(3), mang đôi ủng cao, viên tiểu hiệu úy lập tức biến thành vị thiên tử trẻ tuổi khí phách bừng bừng, oai nghi lẫm liệt.
Dương Lăng đã đưa Đường Nhất Tiên vào kinh trước, bây giờ đang ở bên ngoài xe vua (long liễn) chờ Hoàng đế thay đổi y phục. Khi tất cả đã chuẩn bị sẵn sàng xong, đoàn xa giá bắt đầu lên đường. Xa xa đã thấy dưới cổng thành là cổng chào được đắp cao. Ba vị Lý Đông Dương, Tiêu Phương, Dương Đình Hòa dẫn đầu văn võ bá quan, chuẩn bị sẵn rượu ngon Dương Cao đứng trước cổng chào kính cẩn chờ đợi.
Cả đoàn xa giá chỉnh tề tiến bước, từng đôi cờ rồng xí phượng, từng dãy búa vàng cờ trắng, thái giám trong cung nô tì cung nữ, tướng quân vạm vỡ nối gót. Phướn vàng lọng đẹp xuất hiện ngay trước mắt, Chính Đức không ngồi kiệu mà cưỡi một con tuấn mã bờm đỏ.
Văn võ bá quan phục xuống dập đầu, tung hô vạn tuế. Hoàng đế Chính Đức tâm tình vui vẻ, cười mỉm xuống ngựa, gật đầu ra hiệu với bá quan, từ từ đi vào bên trong màn trướng sặc sỡ đã được bố trí tạm một chiếc ngai vàng.
Thừa dịp này, Tiêu Phương nhẹ nhàng giật giật vạt áo Dương Lăng, vội vàng nói:
- Dương đại nhân hãy cẩn thận một tí. Môn hạ dò biết được văn võ bá quan rất bất mãn với việc Hoàng Thượng cải trang rời cung, gặp nạn ở Đại Đồng. Ngài không thấy trăm quan không đội lương quan (mũ lễ)(4) hay sao? Nếu bị bá quan cật vấn, xin ngài hãy ứng phó cẩn thận.
Lão là một trong tam công nội các, không thể đứng lâu sau lưng người khác được. Vừa dứt lời, lão lập tức khẩn trương chen khỏi đám đông đến đứng trước bá quan, dẫn mọi người hướng về Hoàng đế triều kiến.
Dương Lăng nghe Tiêu Phương nhắc nhở xong, không khỏi giật mình. Y đã sớm đoán trước quan chức trong triều cực kỳ bất mãn với việc Hoàng đế vi hành Đại Đồng, chỉ cần nhìn lần trước Tam công hổn ha hổn hển đuổi theo hơn trăm dặm là đủ biết. Nhưng lần này ở Đại Đồng quân Minh đã thu được toàn thắng, chiến tích phi thường, chẳng lẽ trăm quan đối với sự thành công của chuyến Hoàng thượng du hành này lại có thể ngó lơ làm như không thấy! Bọn họ sẽ nhằm ngay lúc nghênh đón Hoàng Thượng chiến thắng trở về mà làm khó hay sao?
Y bèn chú tâm quan sát văn võ bá quan trước mặt. Hôm nay đứng đón chào ở trước khải hoàn môn đều là quan chức tứ phẩm trở nên, quan bào cùng một màu son, mũ quan cũng không hề khác thường chút nào, Tiêu Phương nói đến “lương quan” là có ý gì?
Dương Lăng nghi hoặc vẫy Ngũ Hán Siêu lại. Đợi chàng ta đến ngay trước mặt y mới thấp giọng hỏi:
- Bổn quan rất chán các lễ tiết chốn quan trường kiểu này, ngươi có biết lương quan là cái gì không?
Chung quanh toàn là quan viên văn võ. Tuy Dương Lăng thực quyền lớn nhưng phẩm trật chỉ là tam phẩm, không thể nổi trội ở giữa đám đông quan viên cao cấp từ tứ phẩm trở lên. Vốn y phải đứng ở phía sau, nhưng do y mặc chiếc mãng bào bốn vuốt long trọng, đây là vật do Hoàng đế đặc biệt ban thưởng, nào chỉ là một cái áo choàng bình thường mà thôi? Thần tử được hưởng đãi ngộ đặc biệt như vậy là có thể cùng đứng ngang hàng với tam công khi hành lễ, cho nên y cũng đứng ở hàng đầu.
Ngũ Hán Siêu thấy phía sau là trăm quan tụ tập, còn mình chỉ là một viên thị vệ nho nhỏ nên không dám đứng lâu ở giữa đám quan chức. Chàng vội khẽ đáp:
- Đại nhân! Khi văn võ bá quan chúc mừng Hoàng đế lập được đại công, theo nghi lễ thì đều phải bỏ mũ ô sa mà đội mũ lễ. Mũ này có kiểu dáng giống nhau, dựa vào số lượng gờ nhiều hay ít mà phân biệt từ công, hầu, bá cho đến cửu phẩm. Hôm nay... trăm quan đều đội mũ ô sa bình thường khi vào triều tiếp kiến mà thôi.
- A!
Dương Lăng nhớ lại lúc Chính Đức đăng quan, đại hôn và năm mới trăm quan đến chúc mừng thì đều đội mũ có kiểu dáng giống nhau thì đột nhiên tỉnh ngộ. Khi ba chuyện quan trọng này xảy ra thì y đều bận việc. Khi hoàng đế kế vị y nhận chức thống lĩnh thị vệ trong cung, khi hoàng đế đại hôn y làm thiên tử phó sứ, khi mừng tuổi đầu năm mới y lại đi thẳng vào cung kiến giá với tư cách cận thần hoàng đế. Từ đầu đến cuối ba buổi lễ trên y chưa từng ở trên điện Kim Loan cùng trăm quan làm lễ, cho nên y không để ý đến việc này.
Nghe xong, Dương Lăng trầm lòng xuống, ngấm ngầm chú ý hơn. Y bắt đầu tỉ mỉ dò xét vẻ mặt bá quan. Hoàng đế tự mình mang binh giành được đại thắng, về mặt ý nghĩa mà nói, nó cũng chính là thắng lợi của nhóm võ tướng trong triều . Hiệu quả của nó cũng tương tự như việc thời nay lợi dụng xung đột quân sự mà quân đội có thể danh chính ngôn thuận được duyệt khoản ngân sách quân sự mà ban đầu không được thông qua; những lợi ích kế tiếp về sau còn nhiều hơn nữa. Ít ra những vị tướng quân thô lỗ, cục mịch nơi đây cũng coi như đã hiểu rõ chuyện được mất này, cho nên mọi võ tướng đều mang giáp bào rực rỡ, chí khí hùng tráng.
Mà quan văn trong triều, nhất là các quan viên Hàn lâm viện, Ngự Sử đài thì mặc dù quần áo vẫn tươi mới, nhưng mặt mày lạnh như tiền, không hề có vẻ vui mừng. Hiển nhiên bọn họ hôm nay tới đón vua chỉ để làm tròn bổn phận bầy tôi, hoàn toàn không có ý cung kính chúc mừng văn trị võ công của Hoàng Thượng. Còn những quan chức cao cấp như tam công nội các và Cửu khanh sáu bộ đều bụng dạ thâm sâu, toàn bộ vẻ mặt đều không vui không giận, y cũng nhìn không ra thái độ của bọn họ như thế nào.
Dương Lăng hơi an tâm. Y hiểu rất rõ tính tình Chính Đức: làm theo ý mình, vui buồn hiện ra ngoài mặt, là một người không hề để bụng. Chỉ cần đừng có một bầy tôi không thức thời nào làm hắn mất mặt trước đám đông hôm nay thì sau buổi tiệc nghênh đón mừng công này, dù bọn họ có trình lên gần một trăm bản tấu cũng không sao.
Lý Đông Dương dâng lên một chén rượu ba chân rót đầy rượu ngon, Chính Đức vui vẻ nhận lấy uống một hơi cạn sạch. Tiêu Phương lại tiến lên dâng một hộp trái cây, Chính Đức tiếp nhận bằng hai tay rồi đặt qua một bên. Cuối cùng Dương Đình Hòa dâng lên một chiếc hoa bằng vàng ròng, giúp Hoàng đế đeo vào trước ngực. Sau đó tam công lui ra phía sau vài bước, dẫn đầu trăm quan phủ phục tung hô:
- Chúng thần chúc mừng Hoàng Thượng chiến thắng trở về kinh sư! Ngô hoàng vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế!
Chính Đức mặt mày hớn hở, nghĩ lại một câu chúc mừng chiến thắng trở về quả thực khó mà nói hết được sự xuất sắc của chuyến tuần du Đại Đồng lần này. Hắn không nén nổi đứng lên tuyên bố:
- Chư vị ái khanh bình thân! Trẫm bí mật tuần du Đại Đồng lần này thật đã làm phiền các vị ái khanh vất vả xử lý sự vụ trong kinh, ha ha! Nhưng các vị ái khanh biết không? Trẫm ở trên núi Bạch Đăng, thấy vạn mũi tên bay ngang trời, đại quân tràn lên như thủy triều, mới biết muốn làm một thánh quân văn trị võ công là vô cùng khó khăn.
Trong lúc nguy cấp, may mắn nhờ có Dương khanh bình tĩnh ứng phó, tướng sĩ biên ải liều mình giết giặc, cuối cùng Bá Nhan thảm bại bỏ chạy dưới chân trẫm, ha ha! Sảng khoái cực kỳ! Các ái khanh, lần này vây chặt Bá Nhan, kết thành đồng minh với Ngột Lương Cáp chỉ là dùng dao mổ trâu cắt tiết gà mà thôi. Ngày sau trẫm nhất định học theo Hồng Vũ, Vĩnh Lạc đại đế, tự mình dẫn đại quân, lập đại công xưa nay chưa từng có!
Tiêu Phương lập tức phủ phục hô to:
- Hoàng Thượng sáng suốt, chúng thần nguyện một lòng theo sau mở mang bờ cõi, khiến cho giang sơn Đại Minh sóng yên bể lặng, đất nước thống nhất, bền vững muôn đời!
Võ quan phía dưới cùng lớn tiếng hòa theo nhưng số người trong đám quan văn cùng ứng tiếng rất ít. Thoạt tiên Chính Đức hơi giật mình, dáng tươi cười trên mặt dần dần biến mất, trên hai gò má hắn từ từ hiện lên hai vệt ửng đỏ. Cũng không biết là vì hắn mới uống một chén rượu mạnh nên hơi rượu đang dâng lên hay là bởi vì đang phẫn nộ.
Dương Lăng chú ý tới hai tay Chính Đức vịn bàn đang run nhè nhẹ, lập tức cao giọng hô:
- Hoàng Thượng đi đường ngựa xe vất vả, xin mời sớm về cung nghỉ ngơi.
Chính Đức ngẩng đầu liếc nhìn y, thấy Dương Lăng khẽ lắc đầu, hắn cũng biết lúc này không nên tức giận nên cố đè ép cơn phẫn nộ trong lòng. Chính Đức vừa định hạ chỉ về cung, chợt bên trong nhóm Hàn lâm học sĩ có người tâu:
- Chúng thần mừng rỡ khôn xiết cung nghênh Hoàng Thượng bình an hồi cung, không phải vì thiên tử đích thân tới nơi hiểm địa, mà vì như thế giang sơn xã tắc Đại Minh mới được yên vui. Hoàng Thượng cải trang rời cung, lấy thân thiên tử đến vùng hiểm địa; lấy tôn nghiêm của thiên triều Đại Minh hạ mình kết giao với kẻ tầm thường là Ngột Lương Cáp, hứa cho chúng lợi to, những điều này thực không thể khoe khoang. Thử hỏi Bá Nhan Khả Hãn chỉ dùng đội quân sáu vạn binh mà đột phá được Trường Thành, vây núi Bạch Đăng, rồi sau đó ung dung rời đi; còn Đại Minh ta thành vững pháo to, mang mười hai vạn đại quân mà tiêu diệt không hơn trăm quân dịch. Tại sao lại nói Thát Đát thảm bại bỏ chạy?
“Cái gì?” Không riêng Chính Đức, mà cả đám Dương Lăng Trương Vĩnh, Miêu Quỳ theo xa giá trở về đều không thể tin được lỗ tai của mình: "Tiêu diệt không hơn trăm? Ở đâu ra con số thống kê này?"
Khuôn mặt nhỏ nhắn của Chính Đức đã trắng bệt vì giận. Hắn chỉ vào người kia, ngón tay run cầm cập, giận đến suýt hôn mê bất tỉnh, hồi lâu mới bắn ra được một câu:
- Ngươi...... Ngươi ăn nói lung tung. Biên quân của trẫm tiêu diệt hơn vạn quân địch, tại sao lại nói tiêu diệt không đến trăm?
Trong nhóm quan Ngự sử đài lập tức bước lên một người, ngang nhiên đáp:
- Bất kể Hoàng Thượng vi hành ở nơi nào, đều cần phải có quan viên theo hầu ghi chép tất cả lời nói và việc làm. Nếu như Hoàng Thượng dẫn đại quân chinh phạt, thì phải có thư ký đi theo, ghi chép mọi chiến tích. Từ trước đến nay biên quân giả công lĩnh thưởng cũng nhiều, bây giờ không có Khởi Cư quan (*) đi theo, không có thư ký bộ Binh đi theo, lại báo tiêu diệt hơn vạn quân địch, chứng cớ ở đâu? Hoàng Thượng chớ để bị biên quân lừa dối.
(*: quan lo việc ghi chép những việc thường ngày của vua)
Chính Đức tuổi trẻ nên chịu không nổi kích động, nhất thời con ngươi đỏ ngầu. Hắn không kềm được giận dữ đang muốn quát mắng người kia thì một viên quan khác đứng dậy tâu:
- Người Thát Đát ra vào Đại Minh như chốn không người; thần nghe thấy đó là do nội bộ có gian nịnh cấu kết. Trong quân lại thối rữa đến mức như vậy, cần phải nghiêm trị không tha!
- Hoàng Thượng! Thần nghe nói Bá Nhan trở về đại mạc, đang cùng Đóa Nhan Tam Vệ thương nghị việc hòa hiếu (kết thân bằng hôn nhân), đi lại với nhau nhiều lần. Trước nay Ngột Lương Cáp luôn luôn lần chần,lưỡng lự; ta không thể tín nhiệm, đối đãi chân thành với chúng, ban ơn thi huệ với chúng. Chi bằng vườn không nhà trống, không cho buôn bán cùng để mà nghiêm trị, khiến cho chúng biết thiên uy Đại Minh ta. Còn kẻ hiến kế kết minh khiến nước nhục, mất chủ quyền, đẩy Hoàng Thượng vào chốn bất nghĩa, làm nhục quốc uy Thiên triều, cần phải nghiêm trị!
- Hoàng Thượng! Thần từ công báo biết được rằng Ngoã Lạt cũng biếu lương thực cho Thát Đát. Điều đó cho ta thấy rõ là giọt máu đào hơn ao nước lã, các bộ Mông Cổ cùng nhánh cùng cành, mặc dù nội bộ bất hòa, nhưng vừa gặp ngoại lực tất nhiên lại đoàn kết....
- Lần này Hoàng Thượng rời xa kinh thành khiến lòng dân hoảng sợ, lời đồn thổi nổi lên bốn phía, lúc ở Đại Đồng gặp nạn càng là đáng lo hơn, thường có câu quí nhân không dấn thân vào chốn hiểm địa. Thần nghe thấy Hoàng Thượng còn mong muốn khởi binh lần nữa, tự mình nắm giữ ấn soái, thực là việc không thể làm. Vết xe đổ biến cố “Thổ mộc bảo” còn đó, không thể không đề phòng...
- Hoàng Thượng đã biết trở thành một thánh quân văn trị võ công không dễ, vậy nên thương cảm dân tình: xây lăng tẩm trong triều, tu sửa Trường Thành đã giật gấu vá vai, thu không đủ bù chi. Giặc Thát Đát chỉ là mụn ghẻ ngoài da, chinh phạt biên giới giáp ranh chỉ kiếm được một chút tiền tài vật chất, chi phí sử dụng đại quân chinh phạt nào chỉ gấp mười lần tổn thất do Thát Đát tạo thành? Thánh nhân dạy rằng không làm gì mà vẫn bình an (*), Hoàng Thượng cần phải theo đó…
(*) Ý nói bậc thánh vương chỉ khoanh tay dường như không làm gì mà việc nước vẫn trơn tru.
- Hoàng Thượng! Thần nghe nói suốt dọc đường Hoàng Thượng đã kinh động địa phương, ban đêm ngụ ở nhà dân, bên trong đội nghi trượng lại có nhiều cô gái xinh đẹp ra vào, quả thực tổn hại đến thánh đức. Trong dân gian lời đồn thổi nổi lên bốn phía, đều bảo thiên tử tuần du Đại Đồng là vì mưu cầu mỹ sắc, đến nỗi tiếng oán dậy trời.......
Mắt thấy bề tôi phía dưới thay nhau phát ngôn bừa bãi, Chính Đức giận đến phát rồ, tóc gần như muốn dựng đứng cả lên. Cho dù có lời khuyên can nào có lý cũng đừng hòng hắn nghe lọt được một chữ.
Đối với việc Hoàng Thượng khinh suất rời cung, Lý Đông Dương đã sớm biết đám quan văn trong triều hết sức bất mãn. Nhưng sau khi Lưu Kiện, Tạ Thiên cáo lão về hưu, chỉ có ông lưu lại ở trong triều, một ít quan chức cấp tiến hết sức không vừa lòng với ông, cho rằng ông là loại người cố giữ danh vị, ham mê quyền quý. Lý Đông Dương đã ở vào hoàn cảnh đáng xấu hổ như vậy, thực không thể quá mức đàn áp giới sĩ phu có danh vọng thanh cao. Cho nên mặc dù thấy Hoàng Thượng sắc mặt càng lúc càng kém nhưng lão vẫn không tiện mở miệng áp chế trăm quan, cho nên đành lặng lẽ đưa mắt ra hiệu với Dương Đình Hòa.
Thâm tâm Dương Đình Hòa cũng cho rằng Hoàng đế nên ở trong kinh thành ra lệnh thiên hạ chứ chả nên rời kimh. Lần này Hoàng Thượng khinh suất rời kinh, ba Đại học sĩ bọn họ đã phải chịu đựng đủ thứ áp lực từ hậu cung cũng như ngoại đình. Cả ba lại còn phải đối phó với lời đồn của dân gian, trấn an dân tâm, đề phòng hoạt động của phiên vương các nơi, có thể nói là bận bịu đến sứt đầu mẻ trán.
Thêm nữa khi hắn cùng với hai vị Đại học sĩ một mạch đuổi theo Hoàng Thượng, Dương Lăng cho người đánh gãy chân ngựa của hắn, khi đến Đại Đồng lần thứ hai cũng bị Dương Lăng ngăn trở phải trở về. Dù sao Dương Đình Hòa cũng hơi trẻ hơn Lý Đông Dương, bụng dạ không rộng lượng bằng, trong lòng vẫn hơi thẳng thắn.
Ông cũng hiểu được phần lớn những sự tình do những quan chức bướng bỉnh kia lý luận đều là cưỡng từ đoạt lý, gò ép chắp vá. Nhưng mà với học vấn của những người đó, làm sao họ không rõ chuyến du hành này của Hoàng Thượng đích thực đã thu được kết quả rất tốt?
Chỉ là ở trong lòng bọn họ, việc Hoàng đế rời kinh thành đi tuần tra biên giới thì phần hại lại lớn hơn phần công tích rất nhiều. Với lại trong thâm tâm, các quan văn còn lo rằng tiểu hoàng đế thanh niên hăng hái, từ chỗ hiếu chiến sẽ đưa đến việc võ tướng nắm giữ quyền lực khiến bọn họ không thể khống chế, vì vậy cho nên cả bọn hết sức chèn ép ngay bây giờ. Điều này thành ra không bàn mà phù hợp với suy nghĩ của Dương Đình Hòa, cho nên mặc dù thấy người lão nhất mực tôn kính là Lý đại học sĩ ra ý nhờ ngăn cản, Dương Đình Hòa vẫn ra vẻ như không thấy.
Trong nhóm Võ tướng bắt đầu có một ít tướng lĩnh không bằng lòng với những quan văn dẫn giải điển tích nên bắt đầu cố gắng tranh cãi. Chỉ là những văn nhân kia mở miệng một cái đã thao thao bất tuyệt, mở miệng đều là những lời cổ ngữ; đa số những võ tướng này nghe được thì chỉ có nước trố mắt đứng nhìn, đương nhiên khó mà áp đảo được thanh thế của nhóm quan văn.
Dương Lăng thấy quan văn quan võ mắng nhiếc lẫn nhau, còn tiểu Hoàng đề Chính Đức đã sắp phát điên, y kềm không được bèn đi về phía hắn. Lặng lẽ đến bên cạnh Chính Đức, Dương Lăng nhẹ giọng thưa:
- Hoàng Thượng! Người còn nhớ chuyện ở Đại Đồng khi thần bẩm báo với người về tin đồn thất thiệt của những ngu dân kia chứ?
Chính Đức đang tức sùi bọt mép. Bây giờ dù ai nói gì hắn cũng nghe không thủng, nhưng mà sự tình Dương Lăng đưa ra và khung cảnh trước mắt hoàn toàn giống hệt, bỗng chốc lôi kéo lòng hiếu kì của Chính Đức. Hắn gắng giọng đáp:
- Nhớ rõ, thì làm sao?
Dương Lăng nghe giọng nói Chính Đức hơi nghẹn, không khỏi thầm mắng đám quan viên này thật ngu xuẩn. Chuyến du hành Đại Đồng lần này khá là vinh quang, đương nhiên Tiểu hoàng đế hy vọng đạt được sự ghi nhận của bá quan văn võ. Thế mà bây giờ trở lại kinh thành, điều chờ đợi hắn lại là loại cục diện như thế này, giống như một chậu nước lạnh tạt thẳng vào mặt hắn. Với tâm lý phản kháng của thiếu niên cỡ tuổi này, hoặc là sẽ càng làm theo ý mình hơn nữa, hoặc là thối chí ngã lòng, từ đây sẽ không còn chí tiến thủ gì nữa. Những kẻ ngu xuẩn này dạy bảo một đứa bé mười sáu mười bảy tuổi như là dạy bảo Khổng Thánh Nhân hay sao? Cho dù là đức thánh Khổng sống lại, e rằng ông cũng không có được tu dưỡng kiềm chế này!
Dương Lăng nhẹ giọng nói:
- Thần nhớ rõ Hoàng Thượng nói: “ Mọi sự vật đều do duyên sinh ra, vốn như giấc mộng, như ảo ảnh, như giọt sương, như bọt nước và như ánh chớp, ta nên nhìn nhận chúng như vậy”'.
Chính Đức thân thể chấn động, đảo nhanh mắt nhìn Dương Lăng. Dương Lăng mỉm cười, đưa mắt nhìn qua những quan viên trước mắt, nói tiếp với Chính Đức:
- Hoàng Thượng hãy nhìn! Những vị quan này tầm nhìn hạn hẹp, bảo sao hay vậy thì có gì khác biệt với đám dân đen ở chốn phố phường? Chỗ khác nhau chỉ là những người dân đen khoe khoang mình biết sớm tin lạ, làm vui cho chính mình thôi, còn điều bọn họ khoe khoang chính là miệng lưỡi thông minh, ra vẻ văn chương.
Chuyến vi hành Đại Đồng của Hoàng Thượng bất kể là do ham vui hoang đàng hay là nhằm giúp ích cho xã tắc, mặc dầu không có quan khởi cư hay quan thư ký đi theo, nhưng mà đất trời có thể làm chứng cho Hoàng Thượng! Mười hai vạn đại quân, mấy chục vạn dân chúng Đại Đồng có thể làm chứng cho Hoàng Thượng! Kẻ địch tan tác chạy trốn về thảo nguyên có thể làm chứng cho Hoàng Thượng!
Trương Vĩnh, Miêu Quỳ và cả Cốc Đại Dụng đã bị cách chức đang núp phía sau đều đỏ bừng mặt, tất cả đồng thanh hô:
- Lão nô cũng có thể làm chứng cho Hoàng Thượng!
Chính Đức nhìn bọn họ rồi quay đầu lại nhìn một lượt những quan chức đang đỏ mặt tranh cãi không ngừng, nước bọt văng tứ tung, khóe miệng hắn từ từ nhếch lên. Qua một hồi lâu, vẻ mặt đang nghiêm trọng bỗng chuyển thành thú vị, hắn khanh khách cười nói:
- Nói đúng lắm! “Mọi sự vật đều do duyên sinh ra, vốn như giấc mộng, như ảo ảnh, như giọt sương, như bọt nước và như ánh chớp, ta nên nhìn nhận chúng như vậy”. Bọn họ muốn nói chuyện gì, trẫm cấm không được cái miệng của bọn họ; trẫm muốn làm cái gì, làm sao bọn họ lại có thể trói tay chân trẫm được?
Chỉ trong nháy mắt, vẻ ấm ức, khổ đau, phẫn nộ trong ánh mắt hắn bị quét sạch, được thay thế bởi ánh mắt kiên định, khinh thường pha lẫn một chút tinh nghịch. Hắn mím môi, bỗng nhiên cao giọng cười nói:
- Các vị ái khanh trung thành với đại sự quốc gia, lo lắng an nguy cho bản thân trẫm. Mặc dù có một số kẻ thổi phồng quá đáng, khuếch đại chuyện lạ, ha! ha!... thì cũng có lòng trung thành đáng khen, trẫm đều ghi tạc trong lòng.
Rời cung lâu ngày, trẫm rất mong nhớ Thái Hoàng Thái Hậu và Thái hậu, nên muốn vào cung vấn an. Các vị ái khanh có gì khuyên can nghị gián thì ngày mai họp triều hãy lại nói tiếp. Ngụy Bân, bãi giá hồi cung!
Chính Đức tránh nặng tìm nhẹ, chỉ hời hợt vài tiếng đã mang toàn bộ chỉ trích của bọn họ quy kết thành vì lo lắng cho an nguy Hoàng Thượng đến nỗi nói quá sự thật. Sau đó hắn cười mỉm phẩt tay áo, bước về long liễn.
Những quan chức đang âm thầm góp sức chờ cho Hoàng đế nổi giận đùng đùng đều lập tức sững sờ tại chỗ. Đây là vị tiểu hoàng đế trong ấn tượng bọn họ có tính tình hấp tấp, thường thường vừa bị người ta phê bình đôi câu vài lời thì đã nổi giận đùng đùng đến không thể tự kiềm chế đó sao?
Bọn họ không hề sợ mặt rồng Hoàng đế nổi giận, nhưng mà một vị thiên tử vui buồn không lộ, khiến cho bọn hắn không có cách nào suy xét thấu lại không khỏi khiến mọi viên quan nảy sinh một loại cảm giác sợ hãi từ trong đáy lòng.
Phản ứng Hoàng Thượng ra ngoài dự liệu của bọn họ, nhất thời cả nhóm chưa có cách nào đối phó. Đến khi bọn hắn kịp định thần thì đã nhìn thấy Chính Đức thản nhiên bỏ ngựa leo lên long liễn. Đoàn nghi trượng xuyên qua Đắc Thắng môn, đi vào Chính Dương môn, thẳng theo Ngọ môn trở về hoàng cung. Nội tướng Lưu Cẩn đã quỳ sẵn, chờ tiếp thánh giá trước cửa cung.
Dương Lăng cùng đi đến trước cửa cung, đợi Hoàng đế vừa vào cung xong lập tức dặn dò người khiêng kiệu Đường Nhất Tiên đi nhanh theo sau, còn tự mình phi ngựa như bay thẳng đến tây thành.
Hai vị Nội các Đại học sĩ Lý Đông Dương, Tiêu Phương, Nội tướng Lưu Cẩn và Cẩm Y vệ Mưu Bân chậm một bước, lần lượt trước sau phái người tới mời y đều công toi. Lúc này Dương Lăng đã phóng tuấn mã chạy một mạch ra khỏi thành, phi đến Cao lão trang rồi.
Chiếc cổng nhà quen thuộc đã ở trong tầm mắt, Dương Lăng không ức chế được kích động trong lòng, vung roi quất tuấn mã tăng tốc. Chưa tới trước cửa phủ, y đã thấy xa xa vài bóng người đứng chờ ở đó.
Đến gần, đến gần hơn nữa, còn khoảng ba trượng, Dương Lăng đột nhiên ghì mạnh cương ngựa, tuấn mã hí dài chồm hai vó trước. Móng ngựa trước hãy còn chưa đạp đất, Dương Lăng đã nhảy xuống, bước nhanh tới đón lấy dáng người nhỏ nhắn xinh xắn của Ấu nương ôm choàng vào lòng.
Hai người áp má kề tai. Triền miên hồi lâu, bất giác bả vai đã ướt hết một mảnh.
Dương Lăng đè nén kích động trong lòng, ngẩng đầu nhìn lên, thấy những mỹ nhân Ngọc Đường Xuân, Tuyết Lý Mai, Cao Văn Tâm ai cũng mắt rưng rưng, mừng mừng tủi tủi kèm theo nỗi hoan hỉ vô hạn. Dương Lăng nhướng mày, mỉm cười gật đầu chào cả ba. Tức khắc ba đoá hoa đào ửng hồng.
Y cúi đầu, nâng Ấu nương lên, lau những vệt nước mắt trên má nàng, khẽ cười nói:
- Nhìn nàng kìa, không phải tướng công đã trở về rồi sao? Nàng đang có bầu. đừng khóc có hại cho sức khỏe! Này, cho tướng công nhìn thử xem nàng đã béo tốt như thế nào rồi!
Lúc nãy, vừa ôm choàng Ấu nương y đã cảm thấy chiếc eo thon nhỏ của nàng bây giờ đã tròn trỉnh rất nhiều.
Y vừa mở miệng trêu chọc, Ấu nương vừa nghe lập tức đỏ bừng mặt, xấu hổ bất an đứng thẳng người lên, sợ mình thực sự xấu xí đi khiến cho tướng công nhìn đến phải thất vọng.
Dương Lăng tỉ mỉ dò xét. Ấu nương má đào môi thắm, tôn lên cặp chân mày và mái tóc đen nhánh. Mặt mày vẫn diễm lệ như trước chỉ là bụng đã thấy gồ lên.
Cô gái nhỏ ngây ngô thanh tú lúc trước bây giờ đã là tiểu phu nhân đẫy đà hiền dịu, như hoa hồng điểm sương đón gió nở rộ, tao nhã lóa mắt. Mà đó, chính là nhờ mình đã biến nàng từ một nụ hoa nhỏ non nớt nở bung thành cánh hoa sáng lạn. Dương Lăng thở phào tràn đầy vui sướng, lại nhẹ nhàng dịu dàng ôm choàng lấy nàng.
Tô Tam và Tuyết Lý Mai khoan thai tiến lên, nhẹ nhàng vái chào:
- Lão gia.
Dương Lăng ừ một tiếng, buông Ấu nương ra, nâng các nàng dậy. Hai cô tiểu mỹ nhân vừa mới hai tám, ánh mắt trong trẻo, trên khuôn mặt xinh đẹp thoa nhẹ một lớp son phấn mỏng, hai má hơi hóp lại, càng có vẻ xinh đẹp mà thanh lệ, giống như hai đóa cúc non trong veo sau cơn mưa, thật sự khiến người muốn không động tâm cũng không được!
Cao Văn Tâm thấy Dương Lăng choàng lấy vai thơm của các nàng, trong ánh mắt hơi hiện lên một chút mất mát, nhưng trên mặt nàng vẫn là nụ cười nhẹ xinh đẹp, tiến lên chào. Đối với nàng, Dương Lăng không thể quá thân mật, cũng không thể quá thờ ơ, đành phải phủ ống tay áo đỡ lấy cổ tay trắng bóng của nàng. Cao Văn Tâm không nén nổi nỗi oán hận trong lòng, đưa mắt liếc nhìn y, môi thắm khẽ mím lại, đôi mắt xinh đẹp như nhuốm sương. Dương Lăng vừa thấy vậy, tim giật đánh thót: “Nha đầu này đã theo học Ngọc nhi với Tuyết nhi hay sao? Khi nào mà ánh mắt nàng cũng trở nên trêu ngươi như thế?”
Cao quản gia dẫn một đoàn đầy tớ nô tì đầy vui mừng bước đến chào lão gia. Dương Lăng nhớ tới Đường Nhất Tiên sắp lập tức đến ngay, liền dặn dò:
- Lão quản gia! Phái người canh giữ ở cửa, ngay khi kiệu tiểu thư Nhất Tiên đến phải lập tức báo cho chúng ta hay.
Một nhà vừa đi vừa kể lại những chuyện sau khi rời xa, đến sảnh trước cùng ngồi xuống, Dương Lăng hỏi:
- Nhất Tiên sẽ đến ngay bây giờ, chỗ ở đã bố trí chu đáo rồi phải không?
Hàn Ấu Nương ôn nhu gật nhẹ đầu đáp:
- Dạ, đã bố trí chu đáo rồi. Nghe nói...... nàng đã mất ký ức rồi sao?
Dương Lăng nhíu mày đáp:
- Đúng! Khi chúng ta phát hiện được nàng, nàng đã không còn nhớ chúng ta. Ngày ấy sau khi rơi xuống vực, nàng được Đại Vương cứu đi, mang đến Đại Đồng cho ở trong vương phủ, cho nên người của ta và người của quan phủ địa phương tìm nàng mãi vẫn không thấy.
Tuyết Lý Mai và Ngọc Đường Xuân liếc mắt nhìn nhau, cùng hỏi:
- Lão gia, ba tỷ muội chúng tôi xem nhau như ruột thịt từ thuở nhỏ, bây giờ tìm được nàng trở về, là chuyện tốt lớn như trời, tại sao trong thư ngài dặn chúng tôi nhận nàng là biểu muội vậy?
Dương Lăng trầm ngâm một lúc, khoát tay ra hiệu cho nô tì lui ra hết bên ngoài rồi mới lên tiếng:
- Trong thư ta không tiện nói quá rõ, bây giờ ta nói thẳng hết nhé! Ngọc nhi, Tuyết nhi, hai nàng có biết vì sao chúng ta kết được mối duyên tình này không?
Khuôn mặt xinh đẹp của Ngọc Đường Xuân ửng đỏ. Nàng khẽ cắn môi, ánh mắt đung đưa nhộn nhạo liếc nhìn Dương Lăng, không dám trả lời một vấn đề ngượng ngùng như vậy. Tuyết Lý Mai quen cùng Dương Lăng bạo dạn trêu đùa trong chốn khuê phòng, trước mặt y có phần không biết lớn nhỏ, lại nghịch ngợm cười đáp:
- Tiện thiếp biết nè! Vốn là lão gia gặp chuyện bất bình nên can thiệp, nhưng khi thấy tỷ muội bọn thiếp đáng thương như vậy, liền đã động lòng thương hoa tiếc ngọc chứ gì!
Dương Lăng lắc đầu, ngửa mặt lên trời suy tưởng một lát, mỉm cười nói:
- Kể ra một chữ duyên thực là kỳ diệu. Vốn ta ở đầu ngõ hẻm của tửu lâu uống rượu cùng Thái tử, lúc ấy nghe trong "Thì Hoa quán" vọng đến tiếng đàn sáo cũng không lưu ý lắm. Chính là đương kim Hoàng thượng rất yêu thích âm nhạc, nhất định đòi đi đến thưởng thức một lần, do đó mới gặp được các nàng.
Ánh mắt y từ từ nhẹ nhàng dời đến hai khuôn mặt xinh đẹp của Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai, kể tiếp:
- Hoàng thượng thích Nhất Tiên cô nương, thế là ra lệnh cho Mã Vĩnh Thành mang bạc nén đến kêu ta thay mặt ngài giúp Nhật Tiên chuộc thân. Nhưng lúc ấy Tiên hoàng đã biết chuyện Thái tử ghé thăm thanh lâu, mặt rồng giận dữ, giữ rịt Thái tử trong cung rất nghiêm ngặt. Mã công công chỉ nói muốn ta đi chuộc thân rồi vội vàng hồi cung, lại không hề nói rõ là vị cô nương nào. Thế là......
Dương Lăng và Hàn Ấu Nương nhìn nhau cùng cười. Ấu Nương vừa cười vừa tiếp lời:
- Thế là, tướng công bèn tiếp nhận tất cả ba em về nhà. Xì! Hai người các em là quỷ linh tinh, rõ ràng nhắm nhía tướng công, còn cố làm ra vẻ nói muốn làm nô tỳ. Có chuyện bỏ ra một vạn lượng bạc để mua nô tỳ hay sao? Nhưng mà khi đó chúng ta không biết Thái tử thích ai nên quả thực không thể nói rõ mọi chuyện được.
Hai vị cô nương nghe đều choáng váng, hồi lâu Ngọc Đường Xuân mới lẩm bẩm:
- Hóa ra...... Ta...... Ta và Tuyết nhi thoát khỏi hố lửa, gặp được phu quân tốt như lão gia, đều là nhờ ơn em gái Tiên nhi ban tặng.
Tuyết Lý Mai nhớ tới một chuyện, nhịn không được kinh hãi kêu lên:
- Nhưng mà, người Tiên Nhi thích chính là chàng đó, lão gia!
Nói đến đây nàng tự biết đã lỡ lời, bất giác đưa tay che miệng nhưng đã muộn rồi. Ánh mắt kinh ngạc của Dương Lăng, Ấu nương và Cao Văn Tâm đều ném về phía nàng.
Khuôn mặt Tuyết Lý Mai đỏ bừng, nàng ngập ngừng:
- Thiếp...... Thiếp nói là sự thật. Khi chúng thiếp còn chưa quen biết lão gia, nghe khách đến quán kể chuyện lão gia ôm phu nhân tìm thầy thuốc khắp chín cửa thành, kháng chỉ bất tuân, Tiên Nhi đã nói cuộc đời này phải gả được cho người chồng trọng tình trọng nghĩa như vậy. Về sau, khi chúng thiếp đã vào nhà Dương gia, Tiên Nhi vui vẻ đến nổi cả đêm ngủ không được, lôi thiếp trò chuyện hàn huyên suốt đêm về chàng.
Dương Lăng hơi sững sờ, một lúc sau y lắc đầu cười nói:
- Té ra là vậy! Đó chỉ là thiếu nữ mê luyến anh hùng thôi, không coi là thật sự yêu thích. Bây giờ nàng và Hoàng Thượng cùng chung sở thích, tuổi tác tương đồng, sống chung với nhau vô cùng vui vẻ, chỉ là đến bây giờ nàng còn chưa biết được lai lịch Hoàng Thượng. Nếu như Hoàng Thượng triệu nàng vào cung, với lai lịch của nàng, ngài muốn phong nàng làm phi sẽ không tránh khỏi rất nhiều điều rất khó khăn. Bây giờ đối với người ngoài, chúng ta giả vờ coi nàng là biểu muội của ta, đó cũng là tâm ý của Hoàng Thượng muốn cho nàng có một xuất thân trong sạch.
Cao Văn Tâm lo lắng:
- Tôi nghe Tuyết Nhi muội muội kể về chuyện của Đường cô nương. Ngài giấu giếm nàng về xuất thân và chuyện cũ, tất nhiên là muốn điều tốt cho nàng, nhưng mà nàng...... Bây giờ nàng không nhớ được chuyện xưa, nhưng nếu như một ngày nào đó nàng nhớ được chuyện cũ trước kia, nàng có thể hiểu thấu nỗi khổ tâm của ngài hay không? Nàng sẽ không hận ngài chứ?
Dương Lăng trịnh trọng đáp:
- Tôi đang muốn nhờ cô đây. Khi nàng trở về, tôi muốn xin cô phát huy diệu thủ giúp cho nàng khôi phục ký ức. Nàng là người Hoàng Thượng chuộc ra, nhưng lại từng vì tôi mà suýt nữa bỏ mạng, tôi phải có trách nhiệm chăm sóc nàng. Nếu như Nhất Tiên tỉnh lại, thực sự không muốn vào cung, tôi...... nhất định sẽ tìm tất cả biện pháp, sẽ không để cho nàng đau khổ cả đời!
Cao Văn Tâm nghe xong bỗng dưng lộ vẻ xúc động. Lời này mặc dù bình thường, nhưng mà có bao nhiêu người đủ dũng khí nói ra? Tiên Nhi chỉ là một cô gái nhỏ xuất thân thanh lâu. Có đàn ông nào dám xem tương lai mình nhẹ hơn tình ý một cô gái?
Nhớ đến khi xưa, vị Lý cử nhân kia, vốn hai nhà đã sớm có hôn ước, khi mình gặp chuyện bất hạnh, thân phận nô tì hạ tiện cũng như xuất thân từ thanh lâu của Tiên Nhi, hắn liền bội ước từ hôn. Bây giờ Dương Lăng vợ đẹp thiếp xinh, tiền đồ như gấm, lại vẫn có thể vì một cô gái được Hoàng đế quan tâm mà nói được loại lời này! Ta phải đến nơi nào trên thế gian này mới có thể tìm được một người đàn ông cao quí, trọng tình trọng nghĩa đến như thế đây?
Cao Văn Tâm lập tức kích động trong lòng, ánh mắt đung đưa mông lung như sương mù. Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai cũng đôi mắt lóe sáng, đắm đuối nhìn vị tướng công mình đã hết lòng ái mộ. Mặc dù trong sảnh lặng im không tiếng nói nhưng lòng của bọn họ bỗng nhiên cảm thấy rất gần gũi nhau.
Đúng lúc này, Cao quản gia vội vã đi vào báo:
- Lão gia! Có chiếc kiệu tới rồi, đã gần đến trước cửa.
Dương Lăng vội vàng đứng dậy cùng với các cô Ấu nương đi ra cửa nghênh đón. Đường Nhất Tiên vén tấm rèm kiệu bước ra, cười vui vẻ đi tới, vừa gặp Dương Lăng liền trấn áp:
- Biểu ca thật không có lương tâm. Tưởng nhớ chị dâu quá đã tự mình chạy mất, hại muội phải đi một mình.......
Nói tới đây, nàng thấy Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai tròng mắt rưng rưng, từng bước một tiến lên nghênh đón, bị vẻ mặt kỳ dị của hai nàng dọa khiếp, ngay lập tức nuốt chửng phần sau vào bụng.
Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai đi đến gần Nhất Tiên, bỗng nhiên ôm cổ nàng, cất tiếng khóc nức nở:
- Tiên Nhi! Tiên Nhi! Chúng ta nhớ ngươi muốn chết! Trời thương, bọn ta hôm nay còn có thể gặp gỡ.......
Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai mỗi người ôm một cánh tay Đường Nhất Tiên, ngả vào bả vai nàng hết khóc lại cười, khiến cho Đường Nhất Tiên không hiểu chuyện gì. Nàng bất giác nhìn Dương Lăng cười khan:
- Ha ha! Hì hì! Biểu ca,......hai vị chị dâu này, các chị...... thực sự rất tốt với muội.
Dương Lăng đang định trả lời, từ phương xa đã vọng đến tiếng vó ngựa dồn dập, bốn khoái mã phi như bay đến. Nheo mắt nhìn kỹ, thấy toàn thân trang phục của kỵ sĩ rõ ràng là cẩm y thị vệ trong cung, Dương Lăng vội bước lên hai bước đón chào. Kỵ sĩ xoay người xuống ngựa, lớn tiếng hô:
- Dương đại nhân! Ty chức phụng ý chỉ của Thái Hoàng Thái Hậu, Thái hậu và Hoàng hậu mời đại nhân lập tức vào cung!
Vừa nghe, lòng Dương Lăng trầm xuống: “Hỏng rồi, mình lừa dẫn đứa bé nhà người ta đi mạo hiểm, bây giờ phụ huynh tìm đến nhà mình để tính sổ rồi! Ba đời mẫu nghi chính cung nương nương lớn bé sẽ đồng loạt dạy bảo mình. Được nhận loại đãi ngộ của 'Ba bà mẹ dạy con' này, mình cũng xem như là người thứ nhất từ xưa đến nay.”
Vừa tưởng tượng đến cảnh ba bà Thái Hoàng Thái Hậu, Thái hậu, Hoàng hậu ngồi ở trên thay phiên oanh tạc mình, Dương Lăng không nén nổi lạnh cả sống lưng. Hàn Ấu Nương lo lắng cầm tay y, nhẹ giọng gọi:
- Tướng công!
Dương Lăng không muốn các nàng phải lo lắng nên mỉm cười nói:
- Ấu nương! Nàng cùng biểu muội trở về trước, ta đi vào trong cung một chuyến, không có gì đáng ngại đâu.
Lời còn chưa đứt, lại có bốn khoái mã chạy như bay đến. Viên cẩm y thị vệ trên lưng ngựa ghìm cương, thần sắc oai nghiêm hô to:
- Thánh chỉ đến, Dương Lăng tiếp chỉ!
Ý chỉ vừa tới, thánh chỉ lại đến ngay, Dương Lăng cảm thấy hơi khó hiểu. Y và một đám nữ thân quyến vội vàng quỳ gối tiếp chỉ lần thứ hai. Kỵ sĩ lớn tiếng tuyên:
- Hoàng Thượng khẩu dụ: “Dương Lăng hôm nay không cần vào cung. Ngày mai khi lâm triều nhớ mặc áo mãng bào đai ngọc đến kim điện kiến giá, vào hậu cung thỉnh an!”
Tránh được cái khó hôm nay, Dương Lăng không nén nổi vui vẻ trong lòng, đồng thời lại thấy hơi lạ: "Nội xưởng là nha môn riêng của Hoàng đế, hoàn toàn không cần vào chầu. Hắn bảo ta mặc áo mãng bào mang đai ngọc, vào chầu mà long trọng như vậy để làm gì? Chẳng lẽ là hôm nay đám đại thần dở hơi khiến hắn tức giận đến hồ đồ rồi hay sao?”
Lúc này cũng không kịp suy nghĩ thêm, Dương Lăng vội phục xuống tại chỗ hô to:
- Thần tiếp chỉ!
Cẩm y thị vệ lại nói tiếp:
- Hoàng Thượng lại có mật dụ. Tam phẩm Cáo Mệnh Thục Đức phu nhân là Hàn thị Ấu nương tiến lên tiếp chỉ, cùng đọc với Dương Lăng!
Hàn Ấu Nương hơi kinh ngạc đứng lên bước tới trước tiếp nhận thánh chỉ, lui về sau hai bước mở ra nhìn qua. Đó là một tấm lụa vuông màu vàng cỡ một thước, bên trên viết rằng: "Trời đất bao la hoàng đế lớn nhất, Ấu nương tỷ tỷ không phải sợ hãi. Tướng công nhà ngươi có trẫm hộ giá, sao cần phải lo lắng các vị già trẻ lớn bé ở hậu cung."
Hàn Ấu Nương đọc đến đây, không nhịn được phì cười. Nàng nhìn xuống chút nữa, lại thấy viết: "Ấu nương tỷ tỷ chăm sóc thân thể cẩn thận, vài ngày nữa trẫm sẽ đến nhà thăm." Lạc khoản lại ghi: "Cha nuôi của con tỷ tỷ, người cha hoàng đế của nó, ha ha!"
Hàn Ấu Nương không biết ước định giữa Chính Đức và Dương Lăng nên bất giác liếc nhìn y ra vẻ kỳ lạ. Nàng thấy Dương Lăng vừa đọc xong bức thánh chỉ chẳng ra đầu ra đuôi này cũng ngây cả người.
Chú thích:
(1) loại áo lễ phục quấn quanh người. Xem hình http://a1.att.hudong.com/66/28/01300...6280845110.jpg
(2) miếng khăn dài quấn trước bụng phủ che gối. Xem hình http://1832.img.pp.sohu.com.cn/image...977627g215.jpg
(3) xem hình http://guoxue.zynews.com/XianFeng/Up...1716442381.jpg
(4) mũ quan có sống lưng ngang đội trong dịp lễ lớn. Xem hình http://www.hanfu.hk/forum/attachment...6zWedIgENZ.jpg
Chương 223: Biểu huynh phong lưu
Các vị Đáng đầu của Nội xưởng đều rất thức thời. Hôm nay Xưởng đốc vừa mới về đến nhà, nên sau khi nghe Liễu Bưu và Ngũ Hán Siêu hồi báo đại nhân vẫn bình an thì bọn họ đều yên tâm, không ai đến nhà quấy nhiễu.
Cả nhà Dương Lăng đang ở trong phòng sưởi ấm áp như mùa xuân dùng bữa cơm sum họp. Ba cô vợ xinh thiếp đẹp trông ngóng phu quân trở về, giờ lại gặp được Đường Nhất Tiên thất lạc bấy lâu, thế là ai nấy lòng đầy hoan hỉ.
Trong sảnh đường, năm người con gái xinh đẹp tóc mây đen nhánh như mực làm nổi bật da dẻ trắng tươi, dịu dàng đoan chính, mỗi người một vẻ, ngắm mà thích mắt vui lòng.
Dương Lăng ngồi ở chính giữa, tắm rửa thay đồ xong lại sảnh khoái tinh thần. Tuy Ngọc Nhi và Tuyết Nhi mời rượu y có thể không uống, nhưng khi Cao Văn Tâm và Đường Nhất Tiên lúng liếng đưa mắt nâng chén ép mời, y lại không nỡ chối từ. Uống mấy chén rượu vào bụng, khuôn mặt anh tuấn của Dương Lăng đã hơi ửng đỏ. Vẫn là Ấu Nương thương chồng, nửa như hờn giận nửa như trách móc mà giành lấy chén rượu của Nhất Tiên, lúc này Dương Lăng mới thoát khỏi lực sát thương mạnh mẽ của "mỹ sắc kèm rượu".
Cơm tối xong, Dương Lăng lại dùng thêm một chén chén yến chưng cùng ngân nhĩ (mộc nhĩ trắng) ướp đường phèn, sau đó thị nữ dâng lên mâm trà Long Tỉnh Tây Hồ xanh óng ánh thơm nức mũi. Dương Lăng ngồi dựa trên miếng đệm gấm, vừa nhấm trà vừa kể lại chuyến đi Đại Đồng cho mấy vị hồng nhan của mình nghe.
Thỉnh thoảng Đường Nhất Tiên cũng chen vào nói cười. Khi nghe kể đến đoạn nàng dùng khẩu kỹ dụ dỗ Vương Long ở "Hâm Thịnh Lâu", Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai nghĩ tới việc người em gái nhỏ này lưu lạc làm nô làm tì ở Đại Đồng, trong lòng thương xót không thôi. Hai cô, mỗi người ngồi một bên, không ngừng bón mứt tráng miệng vào miệng nàng, coi như là bồi thường mọi đau khổ nàng gánh chịu khi phải trôi dạt nơi xứ người.
Đường Nhất Tiên không biết nội tình, cứ tưởng là hai chị dâu cưng chiều mình. Lại nhớ tới việc mình đã dụ dỗ được Vương Long rồi, vậy mà hắn lại nhìn trúng Hoàng hiệu úy, muốn ép mua hắn làm luyến đồng. Vừa nghĩ đến vẻ mặt bí xị của Chính Đức lúc đó, Đường Nhất Tiên lại không nhịn được mà vui sướng trong lòng, phồng má lên cười khùng khục.
Nhìn cảnh cả nhà Dương Lăng ấm áp vui vẻ bên nhau mà Cao Văn Tâm cảm thấy chua chát trong lòng. Các cô vẫn còn là tiểu cô nương mười lăm mười sáu như nụ hoa chớm nở nhưng lại đã có người thương, người yêu. Còn mình tuổi đã hai mươi song lại vẫn phòng không chiếc bóng, chăn đơn gối chiếc.
Cứ cho rằng y không có tình ý gì với mình đi, nhưng mà tình ý mà y biểu hiện với mình trong chuyến đi Giang Nam không có vẻ gì là giả vờ. Bằng không, cho dù mình hết lòng cảm mến y đi chăng nữa, lúc đó với thân phận nô tì mình đã không dám mở rộng cửa lòng với y rồi.
Nhưng mà cái tên oan gia này, thật là ác độc! Sớm biết như vậy, khi đó mình cứ châm cho y một kim...
Vừa nghĩ đến đây, mặt Cao Văn Tâm không khỏi lặng lẽ ửng hồng...
Hàn Ấu Nương thì đang thủ thỉ thù thì với tướng công, kể những chuyện thú vị xảy ra sau khi chia tay: nào là những trái ớt trồng trong hầm sưởi đã đỏ màu, nha đầu Tuyết Lý Mai tưởng rằng trái cây ngon, thuận tay ngắt lấy một quả bỏ vào miệng, thế là cay đến nỗi nước mắt chảy ròng. Nào là cà chua đã ra trái, chín đỏ tươi như mã não, trông đáng yêu vô cùng, khiến cho Tuyết Nhi yêu thích không nỡ rời tay, thế là cô nàng bèn đưa một chậu về phòng mình, song lại không dám nếm thử mùi vị của nó (chắc sợ bị cay lol).
Dương Lăng nghe thấy buồn cười, buột miệng:
- Nha đầu ngốc này! Chẳng phải tướng công đã bảo nàng là cà chua rất giàu chất dinh dưỡng, mùi vị rất ngon hay sao? Nàng ăn trước một quả thì chẳng phải Tuyết Nhi sẽ hết sợ hay sao?
Đôi mắt xoe tròn đen láy như mực của Hàn Ấu Nương ngước nhìn tướng công ngập tràn thùy mị. Nàng khẽ giọng thỏ thẻ:
- Quả đó cũng chỉ mới vừa chín thôi, không sợ bị hư đâu. Ấu Nương... tính đợi tướng công về cùng nhau nếm thử.
Dương Lăng nghe xong, tim liền đập thình thịch. Như nay Ấu Nương ăn ngon mặc đẹp, phong thái và khí chất đã khác xa tiểu cô nương ngây thơ non nớt trước kia, nhưng tình yêu và sự quyến luyến của nàng dành cho mình vẫn là của một Hàn Ấu Nương cùng sẻ chia bát cơm trên đầu thành Kê Minh ngày ấy.
Dương Lăng nhẹ nhàng nắm lấy tay nàng, hai người không nói lời nào, chỉ nhìn nhau cười âu yếm.
Thấy vậy, Cao Văn Tâm chợt thấy chua xót trong lòng. Không muốn tiếp tục nhìn để rồi thêm đau lòng, nàng bèn khom người bảo:
- Ấu Nương muội muội, hôm nay đại nhân mới vừa hồi phủ, đường xa mệt mỏi. Các người đi nghỉ ngơi sớm một chút đi, tỷ... tỷ về đây.
- Tỷ tỷ phải đi rồi à?
Hàn Ấu Nương, Ngọc Nhi và Tuyết Nhi cùng đứng dậy. ĐườngNhất Tiên nhảy ra cười hì hì:
- Cao tỷ tỷ ngụ ở đâu? Có cần tiểu muội tiễn tỷ một quảng không?
Ngọc Đường Xuân liền kéo nàng lùi lại, ba cặp mắt xinh nhất tề dồn về phía Dương Lăng. Dương Lăng ho khan một tiếng, đứng dậy nói:
- Trời đã tối rồi, hay là để tôi tiễn cô cho. Nếu Tiên Nhi muốn đến nhà Cao tỷ tỷ chơi, đợi mai hãy đến thăm cũng không muộn.
Dương Lăng đi trước, Cao Văn Tâm đi lùi phía sau nửa bước. Hai người lặng lẽ rời khỏi phòng sưởi, đi về hướng hậu viện.
Hôm nay Dương Lăng hồi phủ, khắp sân giăng đèn kết hoa, sáng rực như ban ngày. Đi được một chốc, Dương Lăng nghe như bên tai có tiếng thở dài như làn gió nhẹ, Cao Văn Tâm đã dừng bước, giọng xa xăm:
- Đại nhân đi đường mệt mỏi, Văm Tâm không dám làm phiền đại nhân đưa tiễn lâu. Đại nhân xin hãy về đi.
Nói đoạn nàng bước lên uyển chuyển hành lễ, rèm mi cụp xuống, rồi xoay người đi về cuối hậu viện.
Dương Lăng thoáng ngẩn người, rồi buột miệng gọi:
- Văn Tâm, cô giận ta sao?
Cao Văm Tâm chợt dừng chân, xoay người lại, chiếc váy gấm trân châu xoè rộng để lộ cặp chân thon dài xinh đẹp bọc trong chiếc quần lụa trắng như tuyết; bắp chân thẳng tắp, đẹp khôn tả xiết.
- Sao hạ quan dám? Sao Đại nhân lại nói vậy?
Đôi mày Cao Văn Tâm khẽ nhướng, hai lúm đồng tiền trắng nõn thoáng ửng hồng.
Dương Lăng khẽ cười:
- Nha đầu ngốc, cô giận hay không tôi còn nhìn không biết sao? Chỉ có điều tôi đoán không ra vì sao tôi vừa mới trở về, cô đã tâm sự trùng trùng rồi?
Cao Văn Tâm lại thấy chua chát trong lòng, đôi mắt đẹp bỗng trở nên ngân ngấn. Dương Lăng hốt hoảng, liền vội bước lên mấy bước hỏi dồn:
- Thế này là thế nào? Có phải lúc tôi không ở trong kinh đã có người ức hiếp cô, phải không? À! Có phải là Lý cử nhân lại đến tìm cô làm phiền hay không?
Cao Văn Tâm liếc y với đôi mắt rướm lệ, sụt sịt mũi rồi bỗng nói:
- Không có, thiếp thân chỉ đang tính, giờ đã gần đến tháng ba rồi.
Dương Lăng gật đầu, ngạc nhiên:
- Phải! Vậy thì sao?
Cao Văn Tâm nước mắt còn vương bỗng chợt mỉm cười ranh mãnh, nụ cười mang theo vẻ quyến rũ khó tả nên lời:
- Vậy thì còn không đầy bảy tháng nữa thôi! Thiếp thân nghĩ đến việc đại nhân đường đường là ngài Uy Vũ Bá, đại đề đốc Nội xưởng, sau bảy tháng nữa sẽ phải trùm khăn dâu, ngồi kiệu hoa, nên không kiềm được mà buồn thay cho đại nhân ấy mà.
"A?" Dương Lăng bỗng nhớ lại câu nói đùa ngày ấy, "chẳng lẽ Văn Tâm coi nó là thật?"
Cao Văn Tâm thấy bộ dạng y như vậy, liền như giải toả được nỗi ấm ức trong lòng. Nàng khẽ xoay người, tấm lưng ong xen giữa đôi chân thẳng tắp, khoan thai chậm rãi bước đi.
Dương Lăng đứng ngơ ngẩn một hồi, rồi mới nhăn nhó gượng cười trở về phòng sưởi, cả nhà lại hàn huyên một lúc. Đêm đã về khuya, Dương Lăng bèn đưa Ấu Nương về phòng. Hàn Ấu Nương cởi áo choàng ngoài, mặc váy mỏng quần bông ngồi xuống mép giường. Nàng xoã tóc ra, cởi đôi giày thêu vớ vải. Đôi bàn chân nhỏ nhắn thấp thoáng bên trong cặp ống quần rộng, dáng vẻ vừa nhu mì lại thêm mấy phần thánh khiết đáng yêu.
Người Dương Lăng nóng lên, y bước sang ôm lấy nàng hôn nhẹ vào má, rồi cười bảo:
- Ấu Nương của ta đáng yêu quá đi, tướng công hận không thể nuốt sống nàng được đây.
Hàn Ấu Nương chỉ vận bộ đồ lót màu xanh nhạt, che cặp thỏ ngọc lung linh mây mẩy trước ngực. Cần cổ trơn láng, thậm chí bờ vai tròn trĩnh cũng rất chắc thịt.
Những lời trêu chọc thân mật của tướng công khiến nàng ngất ngây, khuôn mặt xinh xắn tức thì đỏ ửng. Dương Lăng thấy trên thềm cửa sổ đặt hai chậu cà rợp lá, xuyên qua đám lá xanh biên biếc thấp thoáng những quả chín đỏ tươi, mọng nước. Y không khỏi mừng rỡ reo lên:
- Thật sự đã chín rồi à? Đúng rồi! Đúng là nó, đúng là nó đó!
Y bước qua ngắt lấy một quả, bỏ vào thau đồng rửa rửa rồi lấy khăn lụa lau khô, bước về giường ngồi đối diện với Ấu Nương. Dưới ánh nến quả cà trông bóng lưỡng, đáng yêu, hấp dẫn hết sức. Dương Lăng ngửi ngửi một hồi rồi đưa lên môi Ấu Nương, vui vẻ bảo:
- Nào, nàng nếm thử đi! Ngon lắm đó.
Hàn Ấu Nương mím môi lắc lắc đầu, dịu dàng:
- Tướng công một miếng, Ấu Nương một miếng.
Nói xong, làn thu ba chợt hiện lên vẻ ngượng ngùng xen lẫn hạnh phúc.
Dương Lăng khẽ mỉm cười “Cái cô nhóc này, cũng hiểu được cái thú khêu gợi rồi hử?!" Y há miệng cắn lấy một miếng, sau đó từ từ sáp người về phía Ấu Nương. Hàn Ấu Nương ngồi im, bộ ngực phập phồng, hé mở đôi môi căng mọng.
Bốn cánh môi chạm nhau, mát lạnh, ngòn ngọt, dinh dính. Dương Lăng cũng không muốn giở thủ đoạn phong lưu gì, cứ tiếp xúc dịu dàng như vậy. Sau một lúc lâu, đầu lưỡi y mới khẽ tách cánh môi Ấu Nương ra, đẩy nước và cơm của quả cà sang.
Hàn Ấu Nương nhắm mắt, khẽ rên, hơi thở run rẩy yếu ớt. Dương Lăng rời môi nàng ra, Ấu Nương le lưỡi thấm môi, liếm nước quả còn dính, động tác trông quyến rũ cực kỳ tự nhiên.
Nhất thời Dương Lăng nhìn đến ngẩn ngơ. Y sáp lại gần, liếm lấy môi nàng, sau đó dời xuống cần cổ trơn láng của nàng, phà hơi vào lỗ tai mẫn cảm của nàng. Hơi thở của Ấu Nương bất giác trở nên gấp gáp, nhiệt độ cơ thể của nàng cũng tăng lên dần dần. Nàng kháng cự trong run rẩy:
- Tướng công! Người ta... người ta hiện không thể hầu hạ chàng đâu.
Dương Lăng tỉnh lại, cố kiềm chế sự kích thích. Y bật cười ha hả:
- Tướng công chỉ thân mật với nàng một chút thôi mà. Nào, nàng không chịu được mệt mỏi đâu. Chúng ta đi nghỉ sớm thôi.
Áp chặt thân thể vào nhau, Hàn Ấu Nương đã cảm nhận được sự thay đổi của hạ thể y. Nàng áy náy liếc nhìn tướng công, thấp giọng:
- Tướng công! Chàng ra ngoài lâu như vậy, Ngọc Nhi, Tuyết Nhi và thiếp đều nóng ruột nóng gan, vất vả ngóng trông chàng về, tướng công không thể bên trọng bên khinh. Thiếp không thể hầu hạ phu quân, hay là đêm nay tướng công ngủ ở chỗ bọn họ đi vậy!
Lửa dục của Dương Lăng quả thực đã bị Ấu Nương khơi dậy, nhưng y lại sợ Ấu Nương sẽ nhạy cảm quá mà tủi thân. Thế là sau thoáng do dự, y bèn lắc đầu đáp:
- Lần này trở về, chắc hẳn tạm thời sẽ không có cơ hội rời khỏi kinh thành nữa. Ngày tháng còn dài, phu thê chúng ta lâu ngày không gặp, trò chuyện thâu đêm là được rồi.
Hàn Ấu Nương cười "hì" một tiếng, đưa tay che miệng tinh nghịch nói:
- Đã biết ngày tháng còn dài, hà tất lại để cho hai muội muội trách tỷ tỷ như thiếp chiếm giữ tướng công không thả? Chẳng lẽ... tướng công còn muốn người ta dùng cách “không phải nữ sắc” nữa hay sao?
Dương Lăng nghe nàng nhắc tới chuyện xưa, khuôn mặt bất giác đỏ bừng. Hàn Ấu Nương cười nói:
- Gia đình êm ấm thì mọi việc trôi chảy. Tình ý của hai vị muội muội dành cho chàng không hề kém nửa phần so với Ấu Nương. Ấu Nương hoài thai trong người mà bụng bọn họ lại chưa thấy gì, tuy miệng không nói ra, nhưng trong lòng các muội cũng không vui vẻ gì. Tướng công hãy mau đi đi.
Dương Lăng gật nhẹ đầu, cùng Ấu Nương ăn hết trái cà. Y chăm nàng nằm xuống, gối đầu bên giường trò chuyện đến khi nàng hơi buồn ngủ thì mới giúp nàng buông rèm, nhẹ nhàng thổi tắt nến, rồi lặng lẽ đi ra.
Đi đến nhà ngang, trông thấy cửa phòng Tuyết Lý Mai mở hờ, trong phòng có ánh đèn cầy hắt ra, y bèn đi qua đó. Mở cửa nhìn vào, y thấy nha hoàn Vân Nhi đang xách thùng nước đi ra. Vừa trông thấy y, cô nàng vội vàng định làm lễ, Dương Lăng lập tức đưa ngón tay lên môi ngăn lại, nhỏ giọng hỏi:
- Tuyết Nhi mới vừa tắm xong à?
Vân Nhi đáp:
- Dạ, phu nhân mới vừa tắm gội sạch sẽ xong.
Dương Lăng mỉm cười, khoát tay bảo:
- Cô đi đi, khép cửa lại dùm ta.
Vân Nhi đỏ bừng mặt, e thẹn gật đầu, rồi rón ra rón rén bước ra ngoài, nhẹ nhàng khép cửa lại. Dương Lăng tiến vào buồng trong, đằng sau bức bình phong dựng cạnh giường, một bóng người con gái mảnh mai duyên dáng đang thay đồ.
Dương Lăng ngắm nhìn bóng người Tuyết Nhi thay đồ qua bức bình phong. Thân thể yêu kiều xinh đẹp, đường nét lung linh. Lúc nàng khoác áo thắt dây rồi cuối xuống mang giày, thi thoảng khom lưng, bờ mông xinh xắn tròn lẳng vồng lên, dán sát vào bức bình phong. Bờ mông duyên dáng hình cầu đó khiến người ta mê đắm nói không nên lời.
Dương Lăng bật cười lớn:
- Không cần mang giày vào đâu, chốc nữa vẫn phải cởi ra thôi.
Một tiếng kêu hoảng sợ bật thốt ra từ sau bức bình phong. Tuyết Lý Mai lách người bước ra, vẻ mặt mừng rỡ xen lẫn bất ngờ. Nàng gọi:
- Lão gia, chàng... sao chàng lại đến...
Dương Lăng thấy Tuyết Lý Mai chỉ mặt đồ lót ôm sát người bằng lụa mỏng gần như là trong suốt, soi rõ sắc màu tươi non của da thịt. Cổ áo nàng chưa cài lại, nước còn đọng óng ánh giữa hàng xương quai xanh tinh tế và bờ ngực trắng muốt.
Xuống chút nữa là một cặp vú nhỏ xinh mềm mại phập phồng đằng sau chiếc áo lót trắng ngà, tuy không săn mẩy lắm, nhưng loáng thoáng tạo thành một khe ngực non mịn trắng ngần, khiến y nhìn thấy mà tim đập thình thình.
Tuyết Lý Mai thực không ngờ đêm nay lão gia lại đến ngủ trong phòng mình, thế là vui sướng không thôi. Nàng liền vội dọn chiếc đôn phủ gấm rồi bảo:
- Mời lão gia ngồi, đợi thiếp thu quần áo vừa thay rồi sẽ hầu hạ lão gia ngủ.
Dương Lăng vung tay kéo lấy tay nàng. Tuyết Nhi kêu lên một tiếng yêu kiều, bờ mông nhỏ nhắn sà xuống đùi y. Dương Lăng đùa bỡn cặp vú mịn màng và trơn láng như mỡ của nàng, cười khẽ:
- Kệ nó đi, ngày mai thu dọn cũng được.
Ngay vào lúc này, cửa phòng bật mở bung, một người con gái chạy vào cất giọng hào hứng:
- Tuyết nhi tẩu tẩu, muội tới rồi nè!
Dương Lăng há mốc mồm trợn tròn mắt nhìn Đường Nhất Tiên tay ôm chiếc gối đang đứng ở cửa phòng, tay y vẫn còn đang mò trong ngực Tuyết Lý Mai. Sững sờ một lúc, Đường Nhất Tiên mới "á" lên một tiếng, rồi xoay người chạy ù ra ngoài, vừa chạy vừa la lên hờn dỗi:
- Biểu ca phong lưu quá! Cửa cũng không thèm đóng, hại người ta muốn nổ con mắt rồi đây này.
Cửa phòng đóng rầm lại. Dương Lăng ngây người ra một lúc rồi mới dở khóc dở cười hỏi:
- Sao con bé đó lại chạy vào đây thế?
Tuyết Lý Mai mím môi nhịn cười, đứng dậy đáp:
- Người ta... tưởng là đêm nay lão gia không đến, và vì lâu ngày không gặp Tiên Nhi, cho nên đã hẹn muội ấy đến ngủ chung. Ai ngờ... ai ngờ... hi hi hi...
Dương Lăng phát vào chiếc mông tròn lẳng của nàng cái đét, giọng "quở trách":
- Nàng thực biết tác quái! May mà con bé đến sớm, nếu đến trễ thêm chút nữa, lúc đó ta thực không còn mặt mũi nào gặp ai hết.
Tuyết Lý Mai hồn nhiên cười lấy lòng, đoạn kéo y lên giường, mỉm cười dạng chân ngồi vào lòng y với một tư thế khêu gợi, nũng nịu thỏ thẻ:
- Người ta có biết đêm nay lão gia sẽ tới đâu?! Cứ tưởng là chàng sẽ ở cùng với Ấu Nương tỷ tỷ đó chứ!
Dương Lăng vuốt nhẹ mũi nàng, đáp:
- Còn không phải là vì Ấu Nương tỷ tỷ cưng chiều các nàng, sợ ta lạnh nhạt với hai nha đầu mấy nàng à!
Tuyết Lý Mai thoáng ngẩn ra. Nàng vòng hai tay ôm lấy cổ y, hôn chụt lên môi y, rồi cảm thán:
- Tuyết Nhi có tài đức gì vậy mà vừa được gả cho một vị tướng công hợp lòng hợp ý như vậy, lại vừa có được người tỷ tỷ chở che yêu mến như thế?
Những khi Dương Lăng qua đêm trong phòng nàng, phần lớn thời gian đều vui vầy trong chuyện phòng the. Do nàng còn quá trẻ nên rất ít khi y nói những chuyện khác với nàng, cho nên nghe nàng nói vậy liền không khỏi xúc động. Y nhẹ nhàng ôm lấy eo Tuyết Lý Mai, thì thầm:
- Đừng nói những lời ngốc nghếch như vậy! Phải nói là Dương Lăng ta có tài có đức gì mà có thể lọt vào mắt xanh của những người con gái hiền lành và xinh đẹp muôn phần như các nàng. Trên pháp trường khi sắp rơi đầu, thấy các nàng mặc kệ cái chết chạy đến minh oan cho ta,… Từ thời khắc ấy, cuộc đời chúng ta đã kết chặt lại cùng nhau rồi. Ta yêu Ấu Nương, và cũng yêu các nàng nữa.
Đôi mắt Tuyết Lý Mai ngấn đầy những giọt lệ hạnh phúc. Nàng quệt nhẹ khoé mắt, rồi hốt nhiên bật cười, khẽ vặn người nhảy xuống giường, vừa xỏ hài vừa nói:
- Lão gia chờ thiếp một chút, thiếp đi gọi Ngọc Tỷ Nhi lại. Ấu Nương tỷ tỷ là phu nhân độ lượng, Ngọc Tỷ Nhi nhã nhặn và khiêm tốn, Tuyêt Nhi đương nhiên không thể không biết tự trọng!
Dương Lăng chưa kịp ngăn trở, Tuyết Lý Mai đã để xõa tóc, chỉ mặc độc đồ lót chạy ào ra ngoài. May mà nơi này là sân nhà trong của phủ Dương gia, không có gia đinh nam hầu hạ, không thì Tuyết Nhi phu nhân khó tránh sẽ khoe hết cảnh xuân rồi.
Chạy đến trước phòng của Ngọc Đường Xuân, Tuyết Lý Mai không thèm gọi lấy một tiếng, chỉ cười hì hì đẩy cửa bước vào, xông thẳng đến phòng trong, reo lên:
- Ngọc Tỷ Nhi ngủ sớm thật, hì hì, mau mau dậy theo muội đi hầu hạ lão gia nào... Á?! Tiên Nhi?!
Đường Nhất Tiên sống chung và lớn lên cùng Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai từ nhỏ, tình như thủ túc. Mặc dù đã quên hết chuyện xưa, song ngay khi vừa gặp lại, cái cảm giác thân thiết ấy lại ùa về trong tâm khảm, chuyện trò mới một tối mà như bạn bè thân thiết lâu năm. Nàng xông vào phòng Tuyết Lý Mai, nhác thấy biểu ca đang thân mật với Tuyết Nhi liền vội sượng sùng chạy ào ra ngoài. Sau chốc nghĩ ngợi, không muốn trở về phòng ngủ một mình, nàng lại chạy sang phòng Ngọc Đường Xuân.
Ngọc Đường Xuân tính tình đạm bạc, cộng thêm tuổi vẫn còn trẻ, không quá say mê với chuyện phòng the, nhưng tình yêu nàng dành cho Dương Lăng lại không hề thua kém người nào. Hôm nay xa cách lâu ngày gặp lại, đương nhiên nàng cũng muốn cùng phu quân chân kề thân ấp đắm đuối một phen, thế nhưng Tiên Nhi đã hào hứng chạy đến đây, sao nàng nỡ lạnh nhạt với nàng ta.
Đường Nhất Tiên nhìn nhìn Tuyết Lý Mai, rồi lại ngó sang Ngọc Đường Xuân đang ở thế khó xử. Một lúc sau, nàng đành trợn mắt:
- Biểu ca... biểu ca thực phong lưu quá đi! Muội đi tìm Ấu Nương tỷ tỷ đây.... Mà thôi, biết đâu chốc nữa biểu ca lại đến bắt lính, hành muội lại phải chạy tới chạy lui. Thôi muội về phòng đây!
Đường Nhất Tiên dẩu môi ôm gối hầm hầm bỏ đi. Ngọc Đường Xuân và Tuyết Lý Mai đưa mắt nhìn nhau, rồi chợt hốt nhiên cười phì; ai nấy đều mặt đỏ như lựu.
Trên chiếc giường hoa lệ bằng gỗ lê chạm trổ hoa cúc tinh xảo, tấm màn mỏng màu ngó sen khẽ rung rung. Ngọc Đường Xuân, nửa như e ấp nửa như thẹn thùng bị Tuyết Lý Mai lột sạch áo quần, đang ngượng ngùng úp mặt xuống giường; ngọc thể trơn láng, trắng nõn và mềm mại như nước, cặp mông thơm uốn lượn như gò tuyết, săn mẩy chắc nịch; làn da trắng không tì vết óng ánh và trắng mịn không khác gì ngọc sáng; ngập đầy tính đàn hồi mê người.
Nương theo ánh mắt, đôi làn ánh sáng lờ mờ chiếu qua chiếu lại xuống cặp mông trắng nõn của nàng, từng mảng mỡ đông thuần khiết tựa quầng trăng lần lượt hiện ra. Dọc theo bờ mông là một đường cong mịn màng uốn lượn, đúng thực là vưu vật tuyệt thế.
Tuy Tuyết Nhi như chị em ruột thịt với nàng, nhưng động tác của Ngọc Đường Xuân vẫn thẹn thùng và bẽn lẽn. Nàng đỏ mặt nhìn Tuyết Nhi tự cởi áo quần, uyển chuyển phủ người lên thân Dương Lăng, hé miệng hôn lên trán, má rồi ngực y, xuống đến tận...
"Trời ạ! Tuyết Nhi thực... thực bạo dạn quá. Chẳng trách lão gia lại... lại yêu thích Tuyết Nhi đến vậy. Vừa về liền đến trọ ở phòng cô nàng". Nhìn thấy vẻ mặt sảng khoái thư thái của Dương Lăng, Ngọc Đường Xuân không khỏi trỗi lòng so bì và háo thắng.
Lấy hết can đảm, nàng uốn mình trườn tới sát người Dương Lăng như một con rắn. Dương Lăng vươn hai tay ôm lấy eo nàng, vuốt ve bờ mông trơn lẵng và co dãn ấy. Ngọc Đường Xuân khẽ rên lên, hai má ửng đoá mây hồng, chiếc miệng đo đỏ xinh xắn không ngừng thở hổn hển, song hai bàn tay trắng nõn lại nâng lấy bầu vú mềm đưa vào miệng y...
Một đêm hoang đàng, một đêm phong lưu.
Sáng sớm hôm sau, Tuyết Lý Mai phụ Dương Lăng mặc quần áo chỉnh tề, quanh hông quấn tấm buộc lưng bằng gấm, bên ngoài khoác chiếc áo dài rồng vàng bốn vuốt, hông giắt đai ngọc sừng tê khảm vàng. Ngọc Đường Xuân giúp y cài đầu búi tóc, trên đội mũ ô sa đính ngọc. Sau đó mọi người cùng đến phòng sưởi ấm dùng bữa sáng với Ấu Nương và Nhất Tiên.
Đường Nhất Tiên trừng mắt, hết liếc sang trái rồi lại sang phải, quét lên quét xuống, quan sát Dương Lăng tường tận, khiến y thấy mà nổi da gà.
Hàn Ấu Nương cũng cảm thấy vẻ khác thường của Đường Nhất Tiên, nàng lấy làm lạ hỏi:
- Tiên Nhi, làm sao vậy?
Đường Nhất Tiên cười khan đáp:
- Không có gì, không có gì!
Đáp xong nàng vội vã chúi đầu xuống ăn cháo. Đường Nhất tiên nhìn không ra vị biểu huynh hào hoa phong nhã này của mình sao có thể thần dũng như vậy, sáng sớm ra mặt mũi vẫn hồng hào. Nghe nói rằng nữ sắc hại sức, hừm.... xem ra lời đồn không đúng rồi.
*****
Dương Lăng đi sớm đến trước Ngọ Môn, xe ngựa và kiệu quan đông hơn hẳn ngày thường. Nhìn kỹ hơn, y phát hiện có rất nhiều vương công đại thần và công khanh thế gia ngày thường không cần phải vào chầu nay đều y phục chỉnh tề đứng thành từng nhóm trước cổng.
Thấy Miêu Quỳ và Trương Vĩnh vốn là hai đại thái giám hầu hạ hậu cung cũng đang đứng trước cổng, y cảm thấy có điều kỳ lạ. Y đang định đi tới gặp mặt chào rồi hỏi thăm một chút thì chuông Cảnh Dương đã ngân lên, cổng Ngọc Môn mở rộng. Hộ quân(*) dẫn mười hai tên hiệu uý tay dằn đao đã xuất hiện trước cổng cung.
(*): Hộ quân: một chức quan cao cấp thời phong kiến, chưởng quản cấm quân.
Tức thì bá quan văn võ theo cổng trái, vương công tôn thất theo cổng phải, nối đuôi nhau bước vào, qua cầu Kim Thủy, thẳng đến điện Thái Hoà. Vào tới đại điện, Dương Lăng trông thấy Lưu Cẩn đang đứng trước ngai vua, Kim Qua võ sĩ đứng ngay tăm tắp hai bên đại điện.
Trong khoảnh khắc, ngoài điện chợt truyền đến một loạt những tiếng gầm rống đinh tai nhức óc, âm thanh nối nhau liên tiếp, nghe ra phải có hơn chục con cọp, con báo đang gầm đang rống. Bá quan văn võ nghe thấy liền bồn chồn sợ hãi, trên đại điện tức thì trở nên hỗn loạn.
Đội nghi trượng của hoàng đế Đại Minh được chia ra làm rất nhiều loại. Nếu dùng đội nghi trượng gồm cọp, báo, voi dẫn đường thì đấy là đại lễ thăng triều rất là long trọng, nhưng nếu dùng từ sáu con voi trở lên, thì ấy chính là "Đại triều hội", trừ phi là chuyện quốc sự cực kỳ trọng đại, bằng không sẽ không thể tuỳ tiện mà tiến hành. Tiểu hoàng đế hoang đường này vừa mới hồi kinh lại muốn bày ra trò gì đây?
Lý Đông Dương, Tiêu Phương và Dương Đình Hoa đều đưa ánh mắt kinh ngạc hướng về phía Dương Lăng. Dương Lăng bối rối lắc đầu. Đây là lần đầu tiên mà ngay cả y cũng không biết hoàng đế Chính Đức lại nghĩ ra ý tưởng quái đản gì.
Lưu Cẩn đứng ở nhóm đầu cất cao giọng tuyên:
- Hoàng thượng lâm triều, bá quan kiến giá!
Bá quan tạm thời bỏ qua mối nghi hoặc trong lòng, đồng loạt quỳ xuống tiếp giá. Hoàng đế Chính Đức thân vận long bào đỏ chót, đầu đội long mão đính minh châu chạm vàng, hiên ngang bước lên bệ rồng. Dương Lăng lén đưa mắt nhìn. Y thấy hoàng đế Chính Đức trông giống như một thằng nhóc ưa thích đùa dai, đang dùng ánh mắt khiêu khích quét nhìn quần thần một lượt, sau đó phất ống tay áo, ngồi lên ngai vàng rồi bảo:
- Chúng khanh hãy bình thân!
Đợi chúng thần lần lượt bò dậy, Chính Đức quay sang Lưu Cẩn khẽ gật đầu. Lưu Cẩn vung cây phất trần, cất giọng the thé:
- Lý Đông Dương, Tiêu Phương, Dương Đình Hoà, Dương Lăng, Trương Vĩnh, Miêu Quỳ, bước lên nghe phong thưởng!
Chương 224: Chính Đức phản công
Chương 224: Chính Đức phản công
Vừa nghe Lưu Cẩn tuyên bố tức thì quần thần đều lộ vẻ ngơ ngác, ngay cả ba đại học sĩ và đám người Dương Lăng cũng không ngoại lệ. Thế nhưng bọn họ lại không dám do dự nên bèn vội vàng bước lên quỳ xuống.
Lưu Cẩn nhìn sáu người đang quỳ dưới bệ rồng với một vẻ mặt phức tạp, rồi cao giọng tuyên:
- Hoàng thượng cải trang tuần tra Đại Đồng cốt để kết đồng minh với Đoá Nhan Tam Vệ cùng chống giặc dữ Thát Đát. Nay nhờ có thống lĩnh thân quân là Uy Vũ bá Dương Lăng hiến kế từ trước, lại đích thân cùng Ngột Lương Cáp của Hoa Đáng thảo luận chuyện ấy, quét sạch kẻ giặc biên cương, lập nhiều kỳ công, bảo vệ cho giang sơn xã tắc ta được an bình. Chiến công ấy thực lẫy lừng, Đại Minh ta hơn trăm năm nay không ai hơn được thế. Chiếu theo quân công mà tiến tước Uy Vũ hầu, phong làm Hữu Trụ quốc Long hổ Thượng tướng quân!
Trên điện lập tức trở nên sôi nổi ầm ĩ, đầu của Dương Lăng cũng kêu lên ong ong, nhất thời y cứ ngẩn ra đấy, quên cả việc lĩnh chỉ tạ ân.
Đối với một kẻ bầy tôi chỉ vào tuổi đôi mươi mà lại không phải quốc thích, thì việc tấn phong tước Hầu, gia phong chức Trụ Quốc thượng tướng quân (mặc dầu chỉ là chức suông không có thực quyền) là một ân sủng quang vinh thực sự không ai bì kịp. Tùy tiện ban thưởng như vậy, thử hỏi kẻ làm bầy tôi sao có thể không hống hách và khinh nhờn?
Tức thì liền có mấy viên quan định bước lên dâng lời ngăn trở, song Lưu Cẩn đã nghiêm mắt nhìn thẳng, cướp lời tuyên tiếp:
- Kinh Vũ doanh Trương Vĩnh theo hầu thánh giá, tận tâm tận lực, không thể không tính công. Thưởng cho mãng bào đai ngọc, cho phép cưỡi ngựa, ngồi kiệu vào cung, đồng thời kiêm quản cung Càn Thanh và mọi việc ở Ngự Dụng giám.
Trương Vĩnh vừa mừng vừa ngỡ ngàng, liền run rẩy dập đầu hô to:
- Lão nô lĩnh chỉ tạ ân!
Lưu Cẩn lại tiếp:
- Tây Tập Sự xưởng Miêu Quỳ đốc quân bất lợi, vốn nên trừng trị; nhưng Miêu Quỳ dẫn năm nghìn kinh kỵ thâm nhập tận nơi cằn cỗi, nhiễu loạn quân giặc, giải trừ nguy khó cho biên cương ta, có thể nói là vất vả lập nên công. Trẫm thưởng phạt rạch ròi nên đặc biệt ban thưởng cho mãng bào đai ngọc, kim bài tiền bạc, cho phép cưỡi ngựa, ngồi kiệu vào cung, bổng lộc tăng đến ba trăm thạch, kiêm Đề đốc Thượng thiện, Thượng y và Ti thiết, giám sát mọi việc nội cung.
Quả nhiên Miêu Quỳ liều mạng đánh một trận đã vớt được lòng yêu thích của Hoàng đế, hắn cũng vội vã mừng rỡ dập đầu tạ ân.
- Trong lúc trẫm xuất kinh đi tuần, nhờ có ba đại học sĩ Nội Các chủ trì quốc sự, lo lắng hết lòng, trăm công nghìn việc, khiến trẫm không phải lo về việc triều chính. Đặc cách thăng Đại học sĩ Lý Đông Dương làm Quang Lộc đại phu, gia phong Thái bảo; thăng Đại học sĩ Tiêu Phương và Dương Đình Hoà làm Tả Trụ quốc để khích lệ. Khâm thử!
Lúc tiên đế băng hà, Lý Đông Dương đã thăng chức Thái sư, Thái phó, Thượng Trụ quốc, như nay lại ban thêm hàm Thái bảo, đặc cách thăng đến Quang Lộc đại phu; ba quan hàm Thái sư, Thái phó và Thái bảo đều thu thập đủ trên người, ông đã là bầy tôi có chức quan cao nhất, đạt tới ranh giới tối cao của quan văn. Nếu muốn tiếp tục được thăng chức, thì ông phải lập được quân công để tấn tước thôi.
Nghe xong đạo thánh chỉ này, Lý Đông Dương đã hiểu dụng ý của Hoàng đế, lần này các học sĩ Hàn Lâm đã khéo quá hoá vụng rồi. Vì muốn khuyên can Hoàng đế phải thường xuyên ở lại trong cung nên bọn họ ra sức chèn ép, hạ thấp chiến công hắn lập được ở Đại Đồng. Hôm nay tiểu hoàng đế lập tức trả đũa, ban thưởng hậu hĩnh cho các đại thần có công. Nếu như bầy tôi hắn mang theo đến Đại Đồng đều lập nên chiến công hiển hách, thì ai còn có thể nói chuyến đi Đại Đồng của Hoàng đế lần này là vô công, vô ích được?
Còn về phần ban thưởng ba người bọn họ, hành động đó chẳng qua là để bịt miệng bá quan mà thôi. Cho nên Lý Đông Dương không hề lấy làm mừng, ngược lại ông còn lo rằng Hoàng thượng và quần thần đối chọi với nhau gay gắt như vậy, e rằng buổi đại triều hôm nay sẽ tranh đấu quyết liệt không thôi đây. Tiêu Phương và Dương Đình Hoà cũng đã suy đoán ra được dụng ý của Chính Đức, nhưng việc được thăng lên chức Trụ Quốc vinh hiển thật sự rất hấp dẫn, cho nên sau khi nghe xong tuyên thưởng bọn họ vẫn không khỏi vừa bất ngờ vừa mừng rỡ, thế là nhất tề quỳ xuống tạ ân.
Học sĩ Hàm Lâm là Lư Cẩn đã không thể nhịn thêm được nữa. Nhân lúc ba đại học sĩ lĩnh chỉ tạ ơn đứng dậy lánh sang một bên, ông ta lập tức bước ra khỏi hàng tâu:
- Hoàng thượng! Trong khi chuyện Đại Đồng hãy còn chưa có kết luận rõ ràng, há có thể tuỳ tiện ban thưởng tước vị và bổng lộc? Thần xin hoàng thượng thu hồi thánh lệnh, xử lí cẩn thận.
Chính Đức mỉm cười đáp:
- Ngoài thành Đại Đồng, quân rợ Thát Đát chôn thây hơn vạn. Nếu nói đến kết luận, thì ngay khi đóng nắp ván hòm trên mặt đất trẫm đã đưa ra kết luận rồi, cần gì đến lượt khanh chen vào?
Rồi hắn chợt đứng thẳng người dậy, mặt nặng như chì, cười nhạt hỏi lại:
- Hay là Lư khanh đang nói trẫm, đường đường là thiên tử Đại Minh, lại nói dối nhằm lừa gạt quần thần?
Lư Cẩn đỏ mặt chống chế:
- Hoàng thượng thứ tội, thần không hề có ý như vậy. Ý thần là biên quân mạo nhận công tích để cầu xin lĩnh thưởng là thói lệ xưa nay, lớn mật vô cùng! - Lão liếc mắt sang Dương Lăng nói tiếp, ra vẻ ám chỉ - Thần sợ Hoàng thượng bị kẻ nào đó giấu gạt.
Chính Đức cười phá lên, rồi ngồi xuống cười nhạo:
- Lư ái khanh quá lo lắng rồi! Việc ở Đại Đồng chính trẫm trông thấy tận mắt. Nếu có kẻ nào có thể lấy hơn vạn thi thể rợ Thát Đát để mà gạt trẫm, thì trẫm thực hy vọng bị gạt thêm mấy lần nữa đó.
Hắn thấy lại có mấy viên bước ra khỏi hàng muốn giở lại "vở diễn" thường ngày, thì không khỏi bật cười ha hả, rồi lớn giọng:
- Các vị ái khanh, trẫm còn có ý chỉ muốn tuyên bố. Lưu Cẩn...
- Dạ, Hoàng thượng! - Lưu Cẩn khom lưng thi lễ, cất cao giọng tuyên - Trẫm đi lại chốn biên thùy, trông thấy tướng sĩ biên quân ai nấy một lòng tác chiến kiêu dũng, thề chết quên mình, thiết kỵ Thát Đát tuy mạnh tợn như hổ song cũng không thể đối địch với tướng sĩ Đại Minh ta. Nay ban chiếu ngợi khen, do Bộ Binh truyền đạt đến Tam quan Đại Đồng:
Phó tướng Đại Đồng là Vương Thủ Nhân, tác chiến kiêu dũng, nhiều phen thể hiện trí mưu xuất sắc, lập được công đầu trong chiến dịch vây chặt Bá Nhan dưới Bạch Đăng Sơn; nay phong làm Nghị Dũng Bá, trao hàm Tổng binh.
Tham tướng Đại Đồng là Hứa Thái lĩnh binh xâm nhập đại mạc, tác chiến có công, phong làm An Biên Bá, trao hàm Tổng binh.
Thiên tổng Đại Đồng là Kinh Phật Nhi dũng mãnh vô song, có thể nói là mãnh tướng vô địch, tuyển làm Du Kích tướng quân, phong làm Bình Lỗ Bá.
Chỉ huy sứ Thái Nguyên vệ là Trương Dần tác chiến có công, thăng hàm Tổng binh, trao thưởng kim bài ngọc khuê(*).
(*) ngọc khuê: dụng cụ bằng ngọc dùng trong nghi lễ vua chúa thời xưa, trên nhọn dưới vuông
Quần thần nghe mà lập tức ngỡ ngàng. Lúc còn tại thế, vua Hoằng Trị đối đãi bầy tôi hết sức độ lượng, song ban thưởng lại thận trọng vô cùng, không thể tùy tiện phong thưởng tước vị. Vị tân hoàng đế này thì ngược lại, coi tước vị huân khanh rẻ rúng như đồng nát, ngay cả một Thiên tổng nho nhỏ cũng được phong làm Bá tước.
Khi bá quan bị "đánh" cho ngu người phải vất vả lắm mới tỉnh lại, nhất thời tinh thần quần chúng dâng cao, đang chực "đấu tranh giành lẽ phải" thì hoàng đế Chính Đức lại "phang" tiếp một gậy:
- Xét thấy quan binh Kinh doanh thiếu hụt kinh nghiệm tác chiến, sức chiến đấu kém xa biên quân, do đó lệnh cho mười hai đoàn doanh kinh sư luân phiên trấn thủ biên cương để gia tăng chiến lực. Bên cạnh đó, điều động quan binh bốn trấn là Liêu Đông, Tuyên Phủ, Đại Đồng và Diên Tuy vào kinh, bảo vệ kinh sư, huấn luyện kinh quân, giao cho Long Hổ thượng tướng quân Dương Lăng làm thống soái tổng binh bốn trấn.
Lời này vừa thốt ra, ngay cả đám quan võ cũng sững sờ. Điều động quan binh bốn trấn vào kinh, đồng thời điều quan binh Kinh doanh đi trấn thủ biên cương, đây chẳng khác nào chia lực lượng phòng vệ kinh sư ra làm đôi, một nửa thuộc về mười hai đoàn doanh, một nửa thuộc về biên quân bốn trấn, mà Dương Lăng thì nắm giữ lấy binh quyền bảo vệ an nguy cho toàn bộ kinh sư.
Một nhân vật đứng sau hậu trường đã có thực lực khống chế mật thám Nội xưởng, nắm giữ quyền lực thu thuế của Đại Minh; khi y bước ra sân khấu, trong tay lại nắm giữ quân lực hùng mạnh như vậy. Một khi y nảy sinh dị tâm với triều đình, thiên hạ còn ai có thể khống chế được y?
Lần này thì ngay cả đám võ tướng vốn vui mừng vì được Hoàng đế trọng thưởng quân công cũng trở nên thắc thỏm bất an. Lưu Đại Hạ nhíu hàng mày trắng, càng nghĩ càng thấy bất an. Lão tuy biết rằng vào lúc này đây Dương Lăng đang quyền bính ngất trời, cho dù là lão, đường đường Binh Bộ thượng thư và nguyên lão bốn đời triều đình cũng đừng hòng đả động được đến Dương Lăng. Nhưng nay sự tình trọng đại, lão thật sự không thể giữ im lặng mãi được nữa, nhất định phải nghĩ cách ngăn trở hành động hoang đường của Hoàng thượng. Lão đưa mắt nhìn hai bên, ánh mắt chạm cùng đám người Hàn Văn và Mã Văn Thăng, đôi bên đều ngầm gật đầu tỏ ý.
Dương Lăng không ngờ hôm qua Chính Đức bị đám quan văn đả kích một trận, hôm nay lại giở ra thủ đoạn cực đoan như vậy. Có lẽ theo ý hắn thì làm thế là bày tỏ thêm lòng tin cậy đối với mình, nhưng làm vậy rõ ràng là hắn đang đẩy mình lên giàn hỏa thiêu. Với phần quyền lực này, y quả thực có thể vượt qua quần thần, trở thành quyền thần đứng đầu triều, dưới một người trên vạn kẻ. Nhưng mình có căn cơ gì? Tuổi mới đôi mươi mà đã trở thành bầy tôi có phẩm quan cao nhất triều đình, đây chắc chắn là họa chứ không phải là phúc.
Dương Lăng biết rõ tính khí của vị tiểu hoàng đế này. Việc hắn hoàn toàn tin tưởng và thu xếp trọng dụng mình như vậy chắc chắn là do bá quan chọc giận nên quyết tranh đấu. Vì vậy lúc này mình không thể bước ra khước từ khiến hắn phải bẽ mặt trước mặt quần thần.
Tài quyền, binh quyền, quyền cai quản Nội xưởng, nhất định phải nhường bớt một thứ. Nếu một mình ôm tất, ắt sẽ bị bá quan nghi kỵ. Trong đầu Dương Lăng liền xoay nhanh như chong chóng đề tìm cách ứng phó. Trong lúc đó, dường như Chính Đức hết sức hài lòng với cảnh kim điện trở nên sôi sục sau ý chỉ của mình. Có thể khiến đám quan viên ngu muội cổ hủ đáng ghét này kinh hoảng thất thố như vậy, Chính Đức chỉ cảm thấy giải toả được cục tức lớn trong lòng.
Hắn hết sức khoái chí cười nói:
- Các vị ái khanh! Ý trẫm đã quyết, thánh chỉ đã ra, các khanh không cần phải nhiều lời. Ba đại học sĩ và Lục bộ Cửu khanh nên mau chóng đề ra chương trình buôn bán với Đoá Nhan Tam Vệ và Nữ Chân Tam Bộ. Người không giữ chữ tín được thì không ra người, huống hồ là vua? Để qua hơn tháng nữa, xuân ấm hoa nở, trẫm muốn có những thành trấn được quân đội bảo vệ chuyên để giao thương, con dân Đại Minh và các bộ Ngột Lương Cáp buôn bán qua lại như mắc cửi!
Rồi hắn khoát tay, như thể thị uy:
- Các vị ái khanh còn có bản tấu gì thì hãy mau trình lên. Báo phòng của trẫm đã xây sửa xong, vài hôm nữa trẫm sẽ dời đến Báo phòng. Khi ấy các khanh có tấu chương gì cứ trình thẳng đến Báo phòng là được.
"Sao chứ? Hoàng thượng muốn dời khỏi hoàng cung để đến Báo phòng ở?" Đám lão thần lần lượt bị hết ý tưởng kỳ quái này đến ý tưởng đáng sợ khác "đập" cho xây xẩm mặt mày.
Vốn đám quan văn cùng mục tiêu cùng mục đích nay đã chia rẽ thành mấy phái. Kẻ thì phản đối phong thưởng quá tay; kẻ thì tuyên bố là từ khi Đại Minh được thành lập, Kinh doanh đã cáng đáng trọng trách bảo vệ Kinh sư, không thể tùy tiện thay đổi nơi đồn trú; kẻ thì lại yêu cầu Hoàng thượng không thể tự tiện rời khỏi hoàng cung mà dời đến ở biệt viện. Vừa có người bước xuống, liền có kẻ tiến lên, cứ loạn cào cào cả ra. Thế là hiệu quả giảm hẳn, hoàn toàn không thể hình thành một luồng khí thế mạnh mẽ. Chính Đức ngồi ngự bên trên chỉ cần sử chiêu Thái Cực quyền, đưa qua đẩy lại một tí, liền có thể hết sức dễ dàng thoát khỏi sự cật vấn của các quan viên.
Đại triều hội trên Kim Điện biến thành cái chợ. Dương Lăng chợt để ý thấy Lưu Cẩn vô tình nhếch mép cười xảo trá, bèn không khỏi rùng mình, chợt nhớ đến việc hội triều hôm nay có rất nhiều điểm bất bình thường.
Tiểu hoàng đế tuổi trẻ hăng hái, hắn lập được công to, song ngay khi hồi kinh lại bị bá quan chèn ép bôi nhọ, với tính tình xốc nổi của hắn, thì phong thưởng bừa bãi do bị kích động là việc có thể xảy ra. Nhưng thực hiện việc đó một cách mạch lạc đến như vậy, từng sự tình một được tung ra, phân tán sự chú ý của bá quan; phần tâm cơ ấy e rằng không thể là của Chính Đức được.
Là Lưu Cẩn! Trong lòng Dương Lăng chợt loé lên ý nghĩ đó. Trong mấy vị cận thần có thể gây ảnh hưởng đến Hoàng đế thì Cốc Đại Dụng đang bợ đỡ mình chờ đi Giang Nam mò vớt tiền bạc; còn Trương Vĩnh, Miêu Quỳ và mình hợp tính với nhau, hơn nữa cả ba cùng nhau trở về, bọn họ cũng không có cơ hội để làm việc này.
Nhưng nếu là Lưu Cẩn, với tính cách của lão liệu sẽ đổ thêm dầu vào lửa mà giúp mình nắm thêm nhiều quyền lực? Lưu Cẩn vẫn còn canh cánh trong lòng chuyện ti Thuế Giám nằm trong tay mình. Lão sẽ vô tư vậy sao?
Quyền thu thuế vốn là nằm trong tay ti Lễ Giám, nay lại nằm trong tay mình. Xưởng vệ quản chế bá quan vốn đều nằm dưới sự quản hạt của ti Lễ Giám, song Nội xưởng của mình lại cờ riêng một ngọn, liên hệ trực tiếp với Hoàng đế mà không cần qua ti Lễ Giám. Mười hai đoàn doanh của Kinh sư cũng nằm trong tay ti Lễ Giám, nay lại...
Muốn lấy được vật gì thì tất phải cho đi đã. Trên đời này không có ai là bạn bè vĩnh viễn. Mình chính là tảng đá chắn trước mặt Lưu Cẩn, không dẹp mình đi, cái chức Nội tướng của lão sẽ mãi mãi chỉ là hữu danh vô thực. Khoảng thời gian này Lưu Cẩn đã đứng vững gót trong kinh cho nên lão bắt đầu tính kế với mình đây.
Mắt nhìn đám quần thần đang tranh cãi loạn cào cào mà đa phần đều hướng sự bất mãn và kiêng kị về phía Dương Lăng, Lưu Cẩn không khỏi mừng thầm: cái tên tú tài nghèo đó quả nhiên có chút tài quỷ, kế này thực tuyệt. Dương Lăng đi theo Hoàng đế đến Đại Đồng một chuyến, lập được công lao to tát như thế, khẳng định Hoàng thượng sẽ muốn phong thưởng cho y. Nay mình tiếp cho y chút sức lực, nâng y lên cao hơn, quyền lực càng lớn hơn, quả nhiên y cũng đắc tội với nhiều người hơn. Hừ hừ! Hiện nay triều thần và nội cung đều bất mãn với Dương Lăng, xem ra ngày mình lật đổ y lên thay không còn xa.
Đại triều hội tranh cãi mãi vẫn không có kết quả gì. Đám hủ nho làm ầm ĩ cho đến lúc bãi triều thì mới vội vã chạy về nhà, chuẩn bị chong đèn thức đêm viết nên bức tấu chương nghìn vạn chữ, tảo triều sớm mai sẽ lại tái chiến. Dương Lăng nhận chỉ thỉnh an hậu cung, song lại không thể đi ngay. Sau khi bãi triều, sáu vị đại thần vừa được ban thưởng phải ở lại nhận phong thưởng. Dương Lăng thay mũ ô sa trong phòng trực đêm, sau đó được tiểu thái giám dẫn đi nhanh thẳng đến hậu cung.
Khi đi qua điện Bảo Hoà, một tay võ quan mỉm cười thi lễ:
- A, hoá ra là Dương đại nhân! Hạ quan Bố Hành Vũ chúc mừng Dương đại nhân thăng quan tấn chức.
Dương Lăng ngước đầu lên nhìn, nhận thấy người này là một võ quan Cẩm Y Vệ trong cung. Hắn ta mặc quan bào màu xanh vẹt, quần đỏ giày đen, khuôn mặt gầy gò vàng lợt, gò má nhô cao, mày ngài mắt sáng; trông quan bào thì hẳn là Đô úy Cẩm Y hàm tứ phẩm.
Dương Lăng tấn thăng Hữu Trụ quốc Long Hổ thượng tướng quân, là quan lớn hàng nhị phẩm, cho nên người nọ vái dài một vái theo lễ quan trường, rất mực cung kính. Dương Lăng vội vã bước lên đưa tay đỡ lấy, cười nói:
- Tướng quân hãy đứng dậy, gặp nhau trong cung chớ nên đa lễ.
Võ quan áo xanh bèn nương thế đứng dậy, khiêm nhường cười nói:
- Toàn thể Cẩm Y Vệ ai nấy đều hết mực kính phục đại nhân, cũng nhờ Cẩm Y Vệ có thể bồi dưỡng ra nhân tài kiệt xuất như đại nhân đây mà có thể kiêu ngạo với mọi người. Gặp được đại nhân, hạ quan sao dám không lấy đại lễ để yết kiến.
Ánh mắt Dương Lăng thoáng ngưng lại, y quan sát kỹ tay võ quan nọ. Thấy hắn hơi có vẻ kích động, trong ánh mắt chứa chất sự căm phẫn và uất ức mang theo sự khao khát và hy vọng, Dương Lăng mới giật mình bừng tỉnh. Xem ra mấy ngày nay Cẩm Y Vệ bị Lưu Cẩn chèn ép không ít, thật sự đã khơi dậy lòng chung thù địch trong toàn thể Cẩm Y Vệ.
Y hơi mỉm cười rồi đáp:
- Nào dám! Nào dám! Dương mỗ nhờ có Cẩm Y Vệ mới được tuyển chọn đề bạt, có được thành tựu ngày hôm nay. Tuy nay đã tự lập môn hộ, nhưng Dương mỗ vẫn coi Cẩm Y Vệ là người một nhà. Mâu đại nhân dạo gần đây vẫn khoẻ chứ?
Bố Hàn Vũ nghe y nói như vậy liền như thở phào, mừng rỡ đáp:
- Mâu đại nhân vẫn khoẻ, từ lúc Dương đại nhân đi Đại Đồng, Mâu đại nhân vẫn mãi mong ngóng ngài luôn.
Dương Lăng điềm nhiêm cười bảo:
- Hôm qua vừa mới hồi kinh, Dương mỗ nhớ nhung người nhà, cho nên vẫn chưa gặp mặt các lão bằng hữu. Đợi ta xuất cung rồi sẽ đi gặp Mâu huynh một chuyến.
Trong mắt Bố Hành Vũ thoáng loé lên một tia mừng rỡ, hắn liền vội chắp tay thưa:
- Dạ! Dạ! Đại nhân công vụ bộn bề, hạ quan không dám quấy rầy thêm. Xin mời.
Dương Lăng chắp tay, ánh mắt hai bên chạm nhau ngầm hiểu ý, rồi y đi vòng qua người hắn, thẳng đến hậu cung. Hôm nay tam hậu triệu kiến, chắc hẳn là muốn quở mắng mình một phen. Dương Lăng vốn còn có chút lo lắng, sau đó y dẹp bỏ cương vị nương nương và suy nghĩ dưới góc độ cương vị bà, mẹ và vợ của Chính Đức, dần dà y dò đoán được tâm tư của bọn họ.
Với bản lĩnh miệng lưỡi dụ dỗ khách hàng mua bảo hiểm của mình, y sớm đã nghĩ ra cách đối phó, cho nên không lo lắng lắm. Mà hôm nay hết bị Chính Đức phong hầu lại đến thăng quan, trong lòng y còn nghi ngờ Lưu Cẩn, nên càng không thể để tâm lo lắng đến những vấn đề này.
Bát Hổ bên cạnh Chính Đức vốn không hề ôm mộng lớn, nhưng rồi theo sự gia tăng của địa vị mà lòng tham của con người lại tăng theo. Từ trước đến nay, Dương Lăng chưa hề coi bọn họ là yêu ma quỷ quái, là gian nịnh cả ngày nghĩ cách hại người, nhưng cũng không hề đánh giá cao phẩm hạnh của bọn họ.
Bá quan trong triều cứ cả ngày rao giảng đạo đức văn chương, nhưng thử hỏi đối với những chướng ngại vật cản trở con đường hoạn lộ của bọn họ, có mấy ai có thể bỏ qua, không để tâm chèn ép? Cho dù là bầy tôi trung thành cương trực như Lưu Kiện, Tạ Thiên và Hàn Văn, chẳng phải cũng dồn hết tâm trí tìm cách chèn ép trợ thủ Tiêu Phương lúc nào cũng dâng tấu vượt cấp hy vọng có thể xuất đầu lộ diện đó ư? Đừng nói chi tới Lưu Cẩn là kẻ có tư cách đạo đức không ra gì.
Dương Lăng vốn còn tính lợi dụng lợi ích khổng lồ của việc dỡ bỏ lệnh bế quan tỏa cảng để hấp dẫn Lưu Cẩn, tạm thời xếp lại mâu thuẫn đôi bên. Đáng tiếc... Lưu Cẩn thân là Nội tướng, rõ ràng không cam lòng đi làm tùy tùng cho mình; nhất là phần lớn quyền lực của mình lại được tách ra từ ti Lễ Giám, đó lại càng là một mồi lửa cho hồi minh tranh ám trước sau cũng xảy ra giữa hai người. Mà nay... lão đã không thể chờ được nữa rồi.
Nghĩ đến đây, Dương Lăng không khỏi tâm sự trùng trùng, thở dài: đứng trên bục đài quyền lực cao ngất, chỉ sơ suất một tí sẽ rơi vào hiểm cảnh ngã ngựa. Nếu như có kẻ giở trò minh thương ám tiễn với mình, thì nguy hại của nó thực sẽ hơn xa kẻ địch cầm gậy đốt đuốc ban ngày. Nhưng đối phó với Lưu Cẩn nào có dễ dàng? Nếu Hoàng đế đứng ngăn ở giữa là ô dù của mình, chẳng lẽ hắn ta lại không phải là ô dù của Lưu Cẩn hay sao?
Nhất là vào thời điểm hiện tại. Nếu như trước đây, trong mắt những quan viên tự xưng là trung thần, mình chỉ là một tên nịnh thần lôi kéo nhà vua ham chơi đi du ngoạn, thì nay trong lòng bọn họ mình lại là gã quyền thần đáng để kiêng kị. Muốn đối phó với Lưu Cẩn, muốn làm việc lớn mà mình thật sự cần làm, thì ắt phải lui xuống, rời khỏi nơi đầu sóng ngọn gió, không thể để bị quấn vào trong cuộc tranh đấu quyền lực. Nhưng Chính Đức chịu sao? Phải làm sao, làm sao để đập tan sự nghi kị của bá quan đây?
Dương Lăng khẽ nhíu mày trầm tư, chắp tay sau lưng bước đi chậm rãi. Phía trước chợt có tiếng người cười nói:
- Chậc chậc chậc! Uy Vũ hầu gia thực có nhã hứng, bước đi thong dong như dạo nơi sân vắng. Sớm biết Dương đại hầu gia ngươi thong dong bình tĩnh như vậy, bản công chúa đã không phải vội vã chạy tới hộ giá cho ngươi rồi.
Dương Lăng ngước đầu lên nhìn, hai cô con gái xinh đẹp vận áo lụa trắng tinh đang đứng yêu kiều trước mắt. Tay áo trắng tươm mềm mại bó sát vào người không vẩn bụi trần, nhưng người trong bộ quần áo ấy khuôn mặt trắng ngần như tuyết, càng rạng rỡ xuất trần.
Hai người con gái, một cao một thấp. Người cao thì thanh mảnh như ngọc đẹp, ngực tròn eo thon; người thấp thì xinh xắn lung linh, khuôn mặt trái xoan lúc giận lúc vui đều đẹp vẫn mang theo bảy phần ngây thơ và thánh khiết. Mái tóc hai người hơi búi cao, làm tôn lên cần cổ trắng mượt như tuyết.
Dương Lăng giật mình thất kinh, liền vội bước lên mấy bước khom lưng thi lễ:
- Thần Dương Lăng ra mắt Trưởng công chúa điện hạ, công chúa Vĩnh Thuần điện hạ!
Suy cho cùng công chúa Vĩnh Phúc và y đã lâu không gặp, nỗi nhung nhớ mông lung trong lòng thiếu nữ đã phai nhạt, thấy y đã bớt câu thúc, nàng cảm thấy gần gũi và thoải mái hơn. Nàng khẽ mỉm cười đáp:
- Bình thân! Chúc mừng Dương đại nhân tấn tước Hầu gia.
Công chúa Vĩnh Thuần cười hì hì chen vào:
- Chỉ có điều vị Hầu gia mới được tấn tước này sắp sửa bị Thái Hoàng thái hậu, Thái hậu và Hoàng hậu nương nương tam đường hội thẩm, trị cho đầu tro mặt trấu rồi!
Dương Lăng thấy hai chị em mỗi người một vẻ yêu kiều này, ống tay áo hoa thít chặt, quần bó sát đùi, lộ ra đường cong quyến rũ của đôi chân xinh xắn, đoán rằng bọn họ không vận cung trang là vì mới vừa chơi xong trò gì đấy.
Quả nhiên, công chúa Vĩnh Thuần cười bảo:
- Bản công chúa đang vừa chơi đá cầu với tỷ tỷ thì phải chạy lại hộ giá cho ngươi. Ngươi sẽ tạ ơn chúng ta thế nào đây?
Dương Lăng không ngờ hôm qua hoàng đế Chính Đức đã nói phét trên thánh chỉ, hoá ra cái gọi là "hộ giá" cho y lại là phái hai cô muội muội tới giúp đỡ. Đúng là "Miệng không có râu, làm việc không đâu". Ba con cọp cái nổi giận thì hai tiểu nha đầu này cứu giúp được gì cho mình?
Y dở khóc dở cười hỏi:
- Vi thần đa tạ hai vị công chúa trượng nghĩa giúp đỡ. Không biết tiểu công chúa muốn thần tạ ơn như thế nào đây?
Vĩnh Thuần vỗ tay cười nói:
- Việc đó dễ thôi! Nghe nói hoàng huynh muốn dời đến Báo phòng ở, nơi đó có rất nhiều sư tử cọp báo lắm đúng không? Hoàng huynh chưa từng dẫn bọn ta ra ngoài chơi, nếu ngươi có thể khuyên bảo hoàng huynh cho bọn ta ra ngoài chơi, thì đó sẽ coi như là tạ lễ vậy.
Dương Lăng lập tức muốn lắc đầu. Đây không phải là chuyện giỡn chơi à, tiểu thư con nhà giàu bình thường còn không được rời khỏi cổng của nhà trong nữa là. Lừa gạt công chúa xuất cung? Vậy chẳng phải bá quan sẽ...
Trong đầu Dương Lăng chợt loé linh quang, y đột nhiên nghĩ đến một biện pháp giữ mình rất hay, thế là bèn tươi cười:
- Đại trượng phu lời hứa đáng giá nghìn vàng, chúng ta một lời đã định!
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top