Tổng ôn tác phẩm "Rừng xà nu"

I. Tác giả

- Nguyễn Trung Thành Tên thật là Nguyễn Văn Báu, sinh năm 1932, quê ở huyện

Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam. Bút danh: Nguyên Ngọc (thời kháng chiến chống

Pháp), Nguyễn Trung Thành (thời kháng chiến chống Mỹ).

- Ông là một nhà văn trưởng thành trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp.

Năm 1950, ông gia nhập quân đội, hoạt động chủ yếu ở Tây Nguyên. Sau đó làm

phóng viên rồi tập kết ra Bắc. Tác phẩm tiêu biểu : Đất nước đứng lên

(1954-1955), giải nhất về tiểu thuyết hội Văn nghệ VN), Mạch nước ngầm (1960),

Rẻo cao (1961).

– Ông còn là nhà văn của Tây Nguyên, cả hai cuộc kháng chiến ông đều gắn bó

mật thiết với đất Tây Nguyên. Nhà văn gần gũi, hiểu biết cuộc sống cũng như

tinh thần của nhân dân các dân tộc thiểu số trên mảnh đất này. Tác phẩm tiêu

biểu : Đất nước đứng lên, Rừng xà nu là bản hùng ca đậm tính sử thi và cảm hứng

lãng mạn về cuộc chiến đấu của người dân Tây Nguyên.

– Ông cũng là nhà văn trưởng thành cả trong giai đoạn chống Mỹ. Năm 1962 trở

về Nam vừa tham gia chiến đấu và hoạt động văn nghệ. Tác phẩm tiêu biểu : Trên

quê hương những anh hùng Điện Ngọc (1969), Đất Quảng (tiểu thuyết). Tác phẩm

Rừng xà nu Hình tượng cây xà nu Hoàn cảnh sáng tác – Tác phẩm được viết năm

1965 khi giặc Mĩ đổ quân ào ạt vào bãi biển Chu Lai – Quảng Nam.

– Đó là lúc nhà văn muốn viết một bài "Hịch tướng sĩ" thời đánh Mĩ để động viên,

cổ động nhân dân bước vào cuộc kháng chiến chống Mĩ.

II. Tác phẩm:

1. Hoàn cảnh sáng tác

– Truyện được đăng trên tạp chí Văn nghệ quân giải phóng miền Trung Trung

Bộ, sau đó được in trong tập Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc. Tóm

tắt Rừng xà nu kể về người anh hùng Tnú của dân làng Xô Man, Tây Nguyên, sau thời gian 3 năm đi theo cách mạnh đã trở về làng, Tnú được Bé Heng đón và dẫn về làng. Trở về đây anh gặp lại người thân nhất là Cụ Mết già làng và bà con mừng

rỡ đón Tnú. Bà con trong làng tụ tập lại nghe cụ Mết kể về cuộc đời của Tnú, từ

Xút bị giặc treo cổ, bà Nhan bị giặc chặt đầu, Tnú và Mai phải đi vào rừng để nuôi

anh Quyết, được anh dạy nó học chữ. Trong một lần băng rừng Tnú bị giặc bắt, bị

tra tấn, Tnú vượt ngục trốn nhưng anh Quyết thì hi sinh. Dân làng quyết tâm

phản kháng, nghe tin thì Thằng Dục đưa lũ giặc về vây ráp làng. Bọn giặc không

tìm thấy Tnú đã giết chết mẹ con Mai. Căm thù giặc anh tay không ra cứu vợ con,

nhưng bị giặc bắt., chúng đốt cháy 10 ngón tay Tnú bằng nhựa xà nu. Tình thế

nguy cấp cụ Mết và thanh niên từ rừng xông ra, dùng mác, rựa chém chết lũ ác

ôn giải phóng dân làng. Làng Xô Man bừng bừng lửa cháy khắp nơi. Kết thúc

truyện cụ Mết, bé Heng, Dít tiễn Tnú ra đi theo cách mạng để đánh đuổi bọn giặc

2. Nhan đề Rừng xà nu

– Nhan đề là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo của nhà văn. Hình ảnh rừng xà nu

là linh hồn của tác phẩm. Cảm hứng chủ đạo và dụng ý nghệ thuật của nhà văn

được khơi nguồn từ hình ảnh này.

– Rừng xà nu là hình ảnh trung tâm có vẻ đẹp riêng, gắn bó mật thiết với cuộc

sống vật chất và tinh thần của người dân Tây Nguyên, biểu tượng cho những

phẩm chất cao đẹp của con người Tây Nguyên: sức sống mãnh liệt, kiên cường,

bất khuất, khao khát tự do.

– Nhan đề còn gợi chủ đề, cảm hứng sử thi cho truyện ngắn. Tìm hiểu chi tiết

3. Hình tượng cây xà nu

* Vị trí xuất hiện: nhan đề, đầu và cuối tác phẩm, xuất hiện trong sự đối chiếu so

sánh với các nhân vật ở trong truyện.

* Nghĩa thực: Đây là một loài cây có thật ở vùng đất Tây Nguyên.

* Nghĩa biểu tượng:

– Cây xà nu là một phần máu thịt trong đời sống vật chất và tinh thần của người

dân làng Xô Man: theo tác giả thì đó là "một loại cây hùng vĩ và cao thượng, man

dại và trong sạch, mỗi cây cao vút, vạm vỡ, ứ nhựa, tán lá vừa thanh nhã vừa rắn

rỏi mênh mông, tưởng như đã sống tự ngàn đời, còn sống đến ngàn đời sau, từng

cây, hàng vạn, hàng triệu cây vô tận. Không khí ở đây thơm lừng..."

+ Hình tượng cây xà nu được tác giả miêu tả từ nhiều góc độ và đưa lại hiệu quả

thẩm mĩ đặc biệt. Với kết cấu trùng điệp, cây xà nu có mặt từ đầu đến cuối tác

phẩm. Nó hiện diện trong suốt câu chuyện về Tnú và dân làng Xô Man của anh.

Gần hai mươi lần, tác giả nói đến "Rừng xà nu", "đồi xà nu", "cây xà nu", "nhựa xà

nu", "khói xà nu", "lửa xà nu"...điều này cho thấy xà nu là mạch hồn của tác phẩm.

+ Xà nu gắn bó với cuộc sống sinh hoạt hàng ngày thân thuộc với dân làng: lửa xà

nu cháy bập bùng trong nhà ưng tập trung cả dân làng để nghe cụ Mết kể về

cuộc đời Tnú. Khói xà nu đen nhẻm thân hình lũ trẻ; khói xà nu còn làm tấm

bảng đen cho anh Quyết dạy Tnú và Mai học chữ cụ Hồ...

+ Xà Nu còn tham dự vào những sự kiện quan trọng của cuộc sống làng Xôman:

ngọn đuốc xà nu cháy sáng trên tay cụ Mết dẫn cả dân làng đi vào rừng sâu lấy

giáo mác chuẩn bị cho cuộc nổi dậy. Đêm đêm cả dân làng thức mài vũ khí dưới

ánh đuốc xà nu bập bùng. Giặc đốt đôi bàn tay Tnú bằng giẻ tẩm nhựa xà nu và

lửa xà nu chứng kiến cuộc nổi dậy của dân làng Xô Man.

– Cây xà nu tượng trưng cho phẩm chất và số phận con người Tây Nguyên trong

kháng chiến chống Mỹ. Thương tích mà rừng xà nu phải gánh chịu do đại bác của

kẻ thù gợi nghĩ đến những mất mát đau thương mà đồng bào ta đã phải trải qua

trong thời kì cách mạng miền Nam bị khủng bố khốc liệt.

+ Mỗi ngày giặc bắn đại bác ba lần vào làng nhưng làng Xô Man vẫn bình yên vì

"Hầu hết đạn đại bác đều rơi vào ngọn đồi xà nu cạnh con nước lớn". Đổi lại, vì

bảo vệ cho dân làng nên cánh rừng xà nu lại chịu nhiều đau thương mất mát: "Cả

rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào là không bị thương. Có những cây bị

đạn đại bác chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão". Ở chỗ

khác, nhà văn miêu tả kỹ hơn: "Có những cây con vừa lớn ngang tầm ngực người

đã bị đạn đại bác chặt đứt làm đôi, ở những cây này nhựa còn trong, chất dầu còn

loãng, chỉ năm mười hôm là cây chết ". Qua việc miêu tả ấy, bằng nghệ thuật

nhân hoá, ẩn dụ tượng trưng tác giả đã làm hiện lên nỗi đau thương mất mát của

dân làng Xô Man và tố cáo tội ác của kẻ thù. Viết về nỗi đau của cây mà ta cứ ngỡ

như nỗi đau của con người. Mỗi một cây xà nu ngã xuống ta cứ ngỡ như một con

người Xô Man ngã xuống. Phải chăng đó là hình ảnh của anh Xút, bà Nhan, mẹ

con Mai, anh Quyết... những người đã ngã xuống vì chính nghĩa dưới bàn tay tàn

bạo của kẻ thù. Nhưng trong đau thương, cây xà nu vẫn hiện lên bởi những vẻ

đẹp thăng hoa đến sững sờ. Đẹp trong dáng ngã kiêu hùng, bất khuất "đổ ào ào

như một trận bão". Đẹp bởi đường nét, màu sắc, hình khối, trong đau thương mà

vẫn hiện hữu hương thơm và ánh sáng "nơi chỗ vết thương nhựa ứa ra tràn trề

thơm ngào ngạt long lanh nắng hè gay gắt, rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quyện

thành cục máu lớn". Đó chính là vẻ đẹp gắn liền với chất bi tráng, chất sử thi hào

hùng của vùng đất thiêng Tây Nguyên hùng vĩ.

– Trong bom đạn chiến tranh, thương tích đầy mình cây xà nu vẫn hiên ngang

vươn lên mạnh mẽ như người dân Tây Nguyên kiên cường bất khuất, không khuất

phục trước kẻ thù tàn bạo. + Bằng bút pháp miêu tả tác giả đã mang đến cho

người đọc sức sống hoang dại, mãnh liệt của rừng xà nu: "Trong rừng ít có loại

cây sinh sôi nảy nở khoẻ như vậy. Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn

năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời".

Đúng như có lần Nguyễn Trung Thành đã từng viết "Một cây ngã cả rừng cây lại

mọc/ Người nối người đã mấy vạn mùa xuân". Sự sống của xà nu quả là bất diệt,

bất tử, không một thế lực nào, không mưa bom bão đạn nào của kẻ thù có thể

hủy diệt được. Như một mẫu số nhân "một ngã" thì "bốn năm cây con mọc lên"

thách thức, kiêu hãnh. Đúng như lời cụ Mết đã khẳng định: "Không có cây gì

mạnh bằng cây xà nu đất ta. Cây mẹ ngã, cây con mọc lên, đố chúng nó giết hết

được cả rừng xà nu này".

+ Quả đúng là "Một cây ngã cả rừng cây lại mọc", thế hệ này ngã xuống, thế hệ

khác đứng lên thay thế, tiếp tục chiến đấu với kẻ thù. Con người Xô man cũng

vậy: anh Xút bà Nhan hi sinh thì có thế hệ của Mai và Tnú lớn lên tiếp tục xông

pha vào mưa bom bão đạn để viết tiếp trang sử của làng. Mai ngã xuống khi tuổi

xuân và hạnh phúc đang căng nồng thì Dít lớn lên nhanh chóng trở thành bí thư

chi bộ. Rồi thế hệ bé Heng đang tiếp bước cha anh. Tất cả tạo nên một đội ngũ

trùng điệp "Người nối người đã mấy vạn mùa xuân". Sự tồn tại kỳ diệu của rừng

xà nu qua những hành động hủy diệt, tàn phá thể hiện sự bất khuất, kiên cường,

sự vươn lên mạnh mẽ của con người Tây Nguyên, của đồng bào miền Nam trong

cuộc chiến đấu một mất một còn với kẻ thù.

+ Vẻ đẹp nữa của cây xà nu đó là loài cây ham ánh sáng mặt trời, yêu tự do. Sự

sống của nó chính là sự vươn lên để sinh tồn. Cây xà nu rất ham ánh sáng và khí

trời: "nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng, thứ ánh nắng rọi từ trên cao

xuống từng luồng lớn thẳng tắp, vô số những hạt bụi vàng bay ra từ nhựa cây

thơm mỡ màng". Đó chính là tiếng gọi của tình yêu tự do. Cũng như Tnú, như dân

làng Xôman yêu tự do, khát khao ánh sáng nên họ đã cầm giáo, cầm gươm quyết

tâm bảo vệ vùng trời tự do ấy. Có thể nói, đặc tính "ham ánh sáng" của cây xà nu

tượng trưng cho niềm khao khát tự do, lòng tin vào lý tưởng Cách mạng của

người dân Tây Nguyên, của đồng bào miền Nam.

+ Và ở rừng Xà Nu còn xuất hiện những cây khác vững chãi, không chịu khuất

phục trước giông bão, đạn bom của kẻ thù : "Có những cây xà nu cành lá xum

xuê như những con chim đã đủ lông mao, lông vũ, đạn đại bác không giết nổi

chúng. Những vết thương của chúng chóng lành như trên một cơ thể cường

tráng. Cứ thế ba năm nay, rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình che chở cho cả

dân làng". Hình ảnh ấy của cây rừng xà nu khiến ta liên tưởng đến hình ảnh của

cụ Mết với giọng nói uy nghiêm, của sức sống Tnú, của Mai, của Dít... Đó là vẻ

đẹp của bức thành đồng kiên cố, tấm lá thép vĩ đại của làng Xô man. Vì vậy mà

suốt năm năm chưa hề có cán bộ nào bị giặc bắt hoặc chết trong rừng làng này.

Bởi rừng xà nu đã mang tầm vẻ đẹp "Rừng che bộ đội rừng vây quân thù". Tất cả

nối tiếp nhau tạo thành một đội ngũ trùng trùng điệp điệp nối tiếp nhau chạy

đến tận chân trời. Khả năng sinh sôi mãnh liệt của cây xà nu cùng sự rộng lớn,

bạt ngàn của rừng xà nu gợi nghĩ đến sự tiếp nối của nhiều thế hệ người dân Tây

Nguyên đoàn kết bên nhau kháng chiến. Phải chăng đó là vẻ đẹp của cụ Mết,

người truyền và giữ ngọn lửa tinh thần cách mạng với chân lí ngời sáng "Chúng

nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo". Là vẻ đẹp của người anh hùng Tnú với tinh

thần kìm nén đau thương để biến thành sức mạnh quật khởi. Là vẻ đẹp của Dít

với đôi mắt mở to trong suốt, bình thản. Dít như cây xà nu nhanh chóng trưởng

thành, nhanh chóng trở thành bí thư chi bộ cùng cụ Mết lãnh đạo dân làng Xô

Man đánh giặc. Vẻ đẹp của bé Heng, thế hệ xà nu măng non, chưa trưởng thành

nhưng tinh thần thì đã "nhọn hoắt như những mũi lê"... Có thể nói hình tượng xà

nu nổi bật xuyên suốt tác phẩm, câu chuyện mở ra trong vẻ đẹp mãnh liệt của sự

sống trước đau thương mất mát để rồi khép lại vẫn là hình ảnh hào hùng của sự

thách thức. Bên cạnh "bốn năm cây xà nu đã bị đánh ngã đã có vô số những cây

con đang mọc lên". Mới mọc thôi nhưng tinh thần chiến đấu lại rất mãnh liệt "Có

những cây mới nhú khỏi mặt đất nhọn hoắt như những mũi lê". * Nghệ thuật xây

dựng hình tượng: Thủ pháp nghệ thuật so sánh, đối chiếu, ngôn ngữ sử thi hào

hùng, thủ pháp nhân cách hóa ... đã tạo nên sự chuyển hóa, hòa hợp giữa hình

tượng thiên nhiên và con người, tạo nên một bản hợp xướng đầy chất thơ hào

hùng tráng lệ về sức sống bất diệt về cuộc chiến đấu bất khuất kiên trung của

nhân dân Tây Nguyên giành tự do.

4. Hình tượng nhân vật Tnú

– Tnú là người có tính cách trung thực, gan góc, dũng cảm, mưu trí:

+ Giặc giết bà Nhan, anh Xút nhưng Tnú (lúc bấy giờ còn nhỏ) không sợ. Tnú vẫn

cùng Mai xung phong vào rừng nuôi giấu cán bộ.

+ Học chữ thua Mai, Tnú đập vỡ bảng, lấy đá đập vào đầu đến chảy máu. + Khi đi

liên lạc không đi đường mòn mà "xé rừng mà đi", không lội chỗ nước êm mà "lựa

chỗ thác mạnh vượt băng băng như con cá kình". Bởi theo Tnú những chỗ nguy

hiểm giặc "không ngờ" đến.

+ Bị giặc phục kích bắt, bị tra tấn dã man nhưng Tnú quyết không khai. Khi bọn

giặc kéo về làng, bắt Tnú khai cộng sản ở đâu anh đặt tay lên bụng dõng dạc nói

"cộng sản ở đây này".

– Tnú là người có tính kỷ luật cao, tuyệt đối trung thành với cách mạng

+ Tham gia lực lượng vũ trang, nhớ nhà, nhớ quê hương nhưng khi được phép của

cấp trên mới về thăm.

+ Tính kỉ luật cao trong mối quan hệ với cách mạng biểu hiện thành lòng trung

thành tuyệt đối: khi bị kẻ thù đốt mười đầu ngón tay, ngọn lửa như thiêu đốt gan

ruột nhưng Tnú không kêu nửa lời, anh luôn tâm niệm lời dạy của anh Quyết :

"người cộng sản không thèm kêu van".

– Một trái tim yêu thương và sục sôi căm giận

+ Tnú là một người sống rất nghĩa tình: Tnú đã tay không xông ra cứu vợ con.

Động lực ghê gớm ấy chỉ có thể được khơi nguồn từ trái tim cháy bỏng ngọn lửa

yêu thương và ngọn lửa căm thù. Tnú là con người tình nghĩa với buôn làng: anh

lớn lên trong sự đùm bọc yêu thương của người dân làng Xôman.

+ Lòng căm thù ở Tnú mang đậm chất Tây Nguyên: Tnú mang trong tim ba mối

thù: Thù của bản thân; Thù của gia đình; Thù của buôn làng

– Ở Tnú, hình tượng đôi bàn tay mang tính cách, dấu ấn cuộc đời

+ Khi lành lặn: đó là đôi bàn tay trung thực, nghĩa tình (bàn tay cầm phấn viết chữ

anh Quyết dạy cho ; bàn tay cầm đá đập vào đầu mình để tự trừng phạt vì học

hay quên chữ ...

+ Khi bị thương: đó là chứng tích của một giai đoạn đau thương, của thời điểm

lòng căm hận sôi trào "Anh không cảm thấy lửa ở mười đầu ngón tay nữa. Anh

nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy trong bụng". Đó cũng là bàn tay trừng phạt,

bàn tay quả báo khi chính đôi bàn tay tàn tật ấy đã bóp chết tên chỉ huy đồn giặc

trong một trận chiến đấu của quân giải phóng.

– Hình tượng Tnú điển hình cho con đường đấu tranh đến với cách mạng của

người dân Tây Nguyên làm sáng tỏ chân lí của thời đại đánh Mĩ: "chúng nó đã

cầm súng mình phải cầm giáo".

+ Bi kịch của Tnú khi chưa cầm vũ khí là bi kịch của người dân STrá khi chưa giác

ngộ chân lý (bà Nhan, anh Xút). Tnú là người có thừa sức mạnh cá nhân nhưng

anh vẫn thất bại đau đớn khi không có vũ khí. Với bàn tay không có vũ khí trước

kẻ thù hung bạo anh đã không bảo vệ được vợ con và bản thân.

+ Tnú chỉ được cứu khi dân làng Xôman đã cầm vũ khí đứng lên. Cuộc đời bi

tráng của Tnú là sự chứng minh cho chân lí : phải dùng bạo lực cách mạng để

tiêu diệt bạo lực phản cách mạng.

+ Con đường đấu tranh của Tnú từ tự phát đến tự giác cũng là con đường đấu

tranh đến với cách mạng của làng Xôman nói riêng và người dân Tây Nguyên nói

chung. Tóm lại, câu chuyện về cuộc đời và con đường đi lên của Tnú mang ý

nghĩa tiêu biểu cho số phận và con đường của các dân tộc Tây Nguyên trong

cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ. Vẻ đẹp và sức mạnh của Tnú là sự kết tinh

vẻ đẹp và sức mạnh của con người Tây Nguyên nói riêng và người Việt Nam nói

chung trong thời đại đấu tranh cách mạng.

5. Cụ Mết, Dít, bé Heng

– Cụ Mết : "Pho sử sống" của làng Xô man; Người giữ lửa truyền thống của cả bộ

tộc, người kết nối quá khứ và hiện tại, hôm qua và hôm nay; "thủ lĩnh" tinh thần,

người định hướng con đường đi theo cách mạng cho cả bộ tộc; nhân vật tiêu biểu

cho tính cách quật cường, bất khuất của dân làng Xô Man nói riêng, người Tây

Nguyên nói chung, thâm chí rộng ra là cả dân tộc. Nếu ví làng Xôman như một

khu rừng Xà nu đại ngàn, thì cụ Mết chính là cây đại thụ.

– Dít : một cô bé gan dạ, dũng cảm, sớm tiếp bước các thế hệ đi trước khi đến với

cách mạng; tiêu biểu thế hệ trẻ của làng Xô man trưởng thành trong cuộc kháng

chiến; Cùng với Tnú, Dít là lực lượng chủ chốt của cuộc đấu tranh ngày hôm nay,

đó là sự tiếp nối tự giác và quyết liệt.Cũng như Tnú, Mai và nhiều thanh niên

khác trong làng, Dít là một trong "những cây xà nu đã trưởng thành" của "đại

ngàn Xô man" hùng vĩ.

– Bé Heng: Một cậu bé hồn nhiên, ngộ nghĩnh đáng yêu; Sớm tham gia vào cuộc

kháng chiến chung của cả làng; Là hình ảnh tiêu biểu về một thế hệ đánh Mĩ mới,

sẽ tiếp bước một cách mạnh mẽ những Tnú, Mai, Dít; Trong "Rừng xà nu", bé

Heng chính là một trong những "cây xà nu con" "mới mọc lên".

6. Biểu hiện của khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn

+ Đề tài: Viết về cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam

trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ; số phận và con đường giải phóng của

dân làng Xôman) không chỉ là vấn đề sinh tử của một ngôi làng ở Tây Nguyên mà

còn là của cả dân tộc Việt Nam.

+ Hệ thống nhân vật mà điển hình là Cụ Mết, Tnú, Dít: đều là những cá nhân anh

hùng kết tinh cao độ vẻ đẹp và phẩm chất của cả cộng đồng các dân tộc Tây

Nguyên, thậm chí của con người Việt Nam trong chiến đấu (yêu nước, căm thủ

giặc sâu sắc, gan dạ, dũng cảm, kiên cường, trung thành với cách mạng...

+ Không gian nghệ thuật: rộng lớn.

+ Cách kể chuyện: Chuyện được kể bên bếp lửa qua lời kể của một già làng, đông

đảo dân làng từ già đến trẻ đều đang quây quần bên bếp lửa để lắng nghe, không

khí rất trang nghiêm

+ Xây dựng thành công những hình tượng nghệ thuật độc đáo – hình tượng cây

xà nu, rừng xà nu không chỉ thể hiện tư tưởng chủ đề, đem lại chất sử thi mà còn

tạo nên giá trị lãng mạn bay bổng cho thiên truyện.

+ Giọng điệu: ngợi ca chủ nghĩa anh hùng cách mạng; ngôn ngữ trang trọng, hào

hùng. Tổng kết nội dung, nghệ thuật và bình giảng về tác phẩm Rừng xà nu của

nhà văn Nguyễn Trung Thành

+ Tô đậm không khí, màu sắc đậm chất Tây Nguyên (bức tranh thiên nhiên; ngôn

ngữ, tâm lí, hành động của nhân vật)

+ Xây dựng thành công hai tuyến nhân vật đối lập gay gắt: giữa kẻ thù (thằng

Dục) với lực lượng cách mạng, đại diện là các thế hệ nối tiếp nhau vừa có những

nét cá tính sống động vừa mang những phẩm chất có tính khái quát, tiêu biểu (cụ

Mết, Tnú, Dít,...)

+ Khắc họa thành công hình tượng cây xà nu vừa hiện thực vừa mang đậm ý

nghĩa biểu tượng, đem lại chất sử thi và lãng mạn, bay bổng cho thiên truyện.

+ Nghệ thuật trần thuật sinh động (đan cài câu chuyện về cuộc đời Tnú và cuộc

nổi dậy của dân làng Xô Man; xen kẽ thời gian kể chuyện và thời gian của các sự

kiện; phối hợp các điểm nhìn,...) tạo nên giọng điệu, âm hưởng phù hợp với

không gian Tây Nguyên.

III. Đề trọng tâm năm 2021

Làng ở trong tầm đại bác của đồn giặc. Chúng nó bắn, đã thành lệ, mỗi ngày hai

lần, buổi sáng sớm và xế chiều, hoặc đứng bóng và xẩm tối, hoặc nửa đêm và trở gà

gáy. Hầu hết đạn đại bác đều rơi vào ngọn đồi xà nu cạnh con nước lớn. Cả rừng xà

nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương. Có những cây bị chặt đứt

ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão. Ở chỗ vết thương, nhựa ứa ra,

tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng gay gắt, rồi dần dần bầm lại, đen và đặc

quện thành từng cục máu lớn.

Trong rừng ít có cây sinh sôi nảy nở khỏe như vậy. Cạnh một cây xà nu mới ngã

gục, đã có bốn năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng

lên bầu trời. Cũng ít có loại cây ham ánh sáng mặt trời như thế. Nó phóng lên rất

nhanh để tiếp lấy ánh nắng, thứ ánh nắng trong rừng rọi từ trên cao xuống từng

luồng lớn thẳng tắp, lóng lánh vô số hạt bụi vàng từ nhựa cây bay ra, thơm mỡ

màng. Có những cây con vừa lớn ngang tầm ngực người lại bị đại bác chặt đứt làm

đôi. Ở những cây đó, nhựa còn trong, chất dầu còn loáng, vết thương không lành

được, cứ loét mãi ra, năm mười hôm thì cây chết. Nhưng cũng có những cây vượt

lên được cao hơn đầu người, cành lá xum xuê như những con chim đã đủ lông mao,

lông vũ. Đạn đại bác không giết nổi chúng, nhưng vết thương của chúng chóng lành

như trên một thân thể cường tráng. Chúng vượt lên rất nhanh, thay thế những cây

đã ngã... Cứ thế hai ba năm nay, rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che

chở cho làng...

Đứng trên đồi xà nu ấy trông ra xa, đến hết tầm mắt cũng không tấy gì khác ngoài

những đồi xà nu nối tiếp chân trời.

(Trích Rừng xà nu, Nguyễn Trung Thành, Ngữ văn 12, tập hai,

NXB Giáo dục Việt Nam, 2020, tr. 23)

Cảm nhận vẻ đẹp hình tượng rừng xà nu. Từ đó, nhận xét chất sử thi trong ngòi

bút của nhà văn Nguyễn Trung Thành qua đoạn trích trên.

HƯỚNG DẪN LÀM BÀI:

* Giới thiệu khái quát: tác giả Nguyễn Trung Thành, tác phẩm Rừng xà nu,

đoạn trích và vấn đề nghị luận.

* Cảm nhận vẻ đẹp hình tượng rừng xà nu

– Hình ảnh rừng xà nu xuất hiện xuyên suốt cả câu chuyện (đầu, cuối truyện và

gắn bó với số phận, cuộc đời của con người cũng như mọi sự kiện của cộng

đồng).

– Vẻ đẹp vừa hùng vĩ (Đứng trên đồi xà nu ấy trông ra xa, đến hết tầm mắt cũng

không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp chân trời), vừa thơ mộng trữ

tình (nhựa ứa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng gay gắt. Nó phóng lên

rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng, thứ ánh nắng trong rừng rọi từ trên cao xuống

từng luồng lớn thẳng tắp, lóng lánh vô số hạt bụi vàng từ nhựa cây bay ra, thơm

mỡ màng)

– Sự tàn phá của bom đạn đối với cánh rừng xà nu trong tầm đại bác gợi liên

tưởng nhiều mất mát hy sinh mà con người Tây Nguyên trong cuộc sống nô lệ

(Cả rừng xà nu hàng vạn cây không có cây nào không bị thương. Có những cây bị

chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận bão. Ở chỗ vết thương,

nhựa ứa ra... rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quện thành từng cục máu lớn.Có

những cây con vừa lớn ngang tầm ngực người lại bị đại bác chặt đứt làm đôi... vết

thương không lành được, cứ loét mãi ra, năm mười hôm thì cây chết.

– Nhưng bất chấp sự tàn phá ấy, những cánh rừng xà nu vẫn xanh tươi, vẫn hiên

ngang, ham ánh sáng, khí trời (Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn năm

cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời. Cũng

ít có loại cây ham ánh sáng mặt trời như thế. Nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy

ánh nắng... ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng...

– Nghệ thuật: Bút pháp đặc tả sắc sảo, tinh tế; ngòi bút tài hoa và đậm chất sử

thi...

* Nhận xét chất sử thi trong ngòi bút của nhà văn Nguyễn Trung Thành

– Ngòi bút tài hoa và tràn đầy cảm hứng sử thi, tác giả đã tạo dựng một không

gian đặc trưng cho núi rừng Tây Nguyên: khung cảnh vừa lộng lẫy, vừa trang

nghiêm của những cánh rừng xà nu...

– Lối miêu tả giàu khuynh hướng sử thi khiến hình tượng rừng xà nu trở thành

biểu tượng cho sức sống mãnh liệt, khát vọng tự do và tinh thần bất khuất của

con người Tây Nguyên...

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top