ngocxit2912 - bài NCKH mẫu về tác động của lạm phát

KHUNG KẾT CẤU ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

CỦA SINH VIÊN VÀ CAO HỌC VIÊN

Tóm lược (Abstract)

Lời cảm ơn

Mục lục

Danh mục bảng biểu

Danh mục sơ đồ, hình vẽ

Danh mục từ viết tắt

Chương 1: Tổng quan nghiên cứu đề tài

1.

Tính cấp thiết nghiên cứu của đề tài

Lạm phát là vấn đề nan giải, nhức nhối và là một trong những nguyên nhân gây mất cân bằng nền kinh tế, là căn bệnh kinh niên của kinh tế thị trường. Lạm phát là hiện tượng tăng giá hàng loạt của hầu hết các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ làm ảnh hưởng tới đời sống người dân và hoạt động của các doanh nghiệp, tổ chức và toàn xã hội. Lạm phát như một con dao hai lưỡi, ở mức độ vừa phải và trong tầm kiểm soát thì lạm phát, con dao ấy sẽ là vũ khí sắc bén giúp hoàn thành mục tiêu tăng trưởng kinh tế, có tác động tích cực, tạo đà phát triển cho nền kinh tế. Mặt khác, nếu tốc độ lạm phát tăng cao sẽ gây ra những biến động hết sức nghiêm trọng, gây tác động tiêu cực cho nền kinh tế như biến dạng cơ cấu sản xuất về việc làm, thu nhập bất bình đẳng, tỷ lệ thất nghiệp tăng...và còn ảnh hưởng xấu đến ổn định chính trị, xã hội và đời sống của nhân dân, để lại những hậu quả nặng nề. Cùng với việc tăng tỉ lệ lạm phát, nhà nước ta cũng đã đề ra nhiều biện pháp nhằm hạn chế ảnh hưởng của nó như việc tăng thu nhập cho người lao động.v.v. Nhưng một thực tế cho thấy tỉ lệ tăng thu nhập là không thấm thía so với tăng tỉ lệ lạm phát để bù đắp cho mức tăng giá cả hàng hóa. Còn với các doanh nghiệp, họ luôn phải đau đầu trước những ảnh hưởng của lạm phát khi mà giá trị của đồng tiền ngày một suy giảm.

Trong những năm gần đây, tình hình lạm phát ở Việt Nam diễn biến khá phức tạp, song hành với tăng trưởng nóng là lạm phát cao. Mặc dù tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) năm 2011 tăng 5,89%, song lạm phát tăng 18,13%, lãi suất cũng như thị trường ngoại hối, vàng, chứng khoán chưa ổn định đã gây ra nhiều ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nói chung trong nền kinh tế.

Sự phát triển mạnh của nền kinh tế nước ta trong những năm gần đây đã thúc đẩy các ngành kinh tế phát triển và nâng cao thu nhập cho người lao động, cuộc sống của người dân ngày càng được cải thiện, chất lượng cuộc sống tăng cao và theo đó là nhu cầu vươn tới cái đẹp như làm đẹp cho không gian sống, nhà ở.v.v…tăng lên rõ rệt. Đó cũng là nguyên nhân giúp ngành nội thất trong những năm gần đây phát triển nhanh và thu được những kết quả rất ấn tượng. Cũng như các doanh nghiệp thuộc các ngành khác,các doanh nghiệp nội thất cũng không nằm ngoài tác động của lạm phát. Tuy được đánh giá là một ngành có tiềm năng phát triển và xu hướng phát triển là tất yếu nhưng nội thất là ngành còn khá non trẻ. Vì vậy trước tình hình kinh tế với nhiều biến động như hiện nay, ngành nội thất gặp rất nhiều khó khăn. Giá cả các dịch vụ liên quan tăng cao, lạm phát phi mã, lãi suất tăng vọt, tình hình kinh tế vĩ mô hết sức khó khăn làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp cũng bị ảnh hưởng đáng kể. Các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp nội thất nói riêng  đang hết sức đau đầu với bài toán lạm phát vô cùng nan giải. Vì vậy, chúng tôi muốn tìm hiểu rõ hơn về lạm phát và tác động của lạm phát tới hoạt động của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh ngành nội thất. Từ đó, tìm ra biện pháp để hạn chế tác động của lạm phát tới ngành nội thất, nhằm góp phần đà phát triển của ngành này, đáp ứng nhu cầu về cái “đẹp”, xu hướng thẩm mỹ tất yếu của con người hiên tại và đăc biệt trong tương lai. Vì vậy, nhóm chúng tôi đã quyết định đi sâu nghiên cứu đề tài: “Tác động của lạm phát tới hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp ngành nội thất”.

2.

Xác lập và tuyên bố vấn đề trong đề tài

Như đã thấy tính cấp thiết của đề tài, nội thất là một ngành có tiềm năng và có những điều kiện phát triển thuận lợi ở Việt Nam, sẽ là ngành đem lại lợi nhuận lớn cho các doanh nghiệp nội thất nói riêng cũng như các ngành nội thất nói chung, góp phần tăng trưởng kinh tế. Trước tình hình lạm phát hiện nay, cũng như các ngành kinh tế khác, ngành nội thất cũng chịu những ảnh hưởng nhất định tiêu cực và tích cực.

Đề tài này nghiên cứu tình hình lạm phát của Việt Nam trong những năm gần đây cũng như thực trạng các doanh nghiệp nội thất và tác động của lạm phát đến ngành này. Qua quá trình nghiên cứu, chúng tôi thấy rằng đã có nhiều công trình nghiên cứu về tác động của lạm phát đến nền kinh tế nhưng với ngành nội thất thì có rất ít. Và đây là một đề tài khá mới mẻ

3.

Các mục tiêu nghiên cứu

Việc nghiên cứu đề tài này nhằm một số mục tiêu cơ bản sau:

• Hệ thống hóa một số lý luận về lạm phát và ảnh hưởng của lạm phát đến hoạt động sản xuát của các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp ngành nội thất nói riêng.

• Phân tích thực trạng các tác động của lạm phát đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp ngành nội thất tại khu vực Hà Nội

• Đưa ra một số biện pháp nhằm hạn chế tác động của lạm phát đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp ngành nội thất tại khu vực Hà Nội

4.

Các câu hỏi đặt ra trong nghiên cứu

Để thực hiện các mục tiêu đã đề ra ở trên, trước hết ta phải trả lời các câu hỏi sau:

·

Lạm phát là gì, tại sao lại xuất hiện lạm phát?

·

Lạm phát có ảnh hưởng như thế nào đối với nền kinh tế?

·

Vì sao có sự đánh đổi giữa lạm phát và phát triển kinh tế?

·

 Tình hình lạm phát ở Việt Nam có gì nổi bật?

·

Lạm phát có tác động như thế nào đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp ngành nội thất?

·

Con đường nào để ngành nội thất thoát khỏi sự kiềm chế của lạm phát?

5.

Phạm vi nghiên cứu

Do thời gian và kiến thức có hạn nên với đề tài này chúng tôi chỉ nghiên cứu vấn đề trong một phạm vi hẹp, mong rằng những người tiếp theo nghiên cứu đề tài này sẽ nghiên cứu ở phạm vi rộng hơn và sâu hơn.

Phạm vi không gian: Do điều kiện về thời gian và hoàn cảnh không cho phép nên chúng tôi chỉ đi nghiên cứu doanh nghiệp tiêu biểu của ngành nội thất là công ty nội thất Hòa Phát.

Phạm vi thời gian: Do khả năng chúng tôi có hạn nên chúng tôi chỉ tập trung phân tích ảnh hưởng của lạm phát từ năm 2009 đến nay.

Phạm vi nội dung: Nói về tác động của lạm phát tới ngành nội thất. Do hạn chế về kiến thức nên chúng tôi chỉ nghiên cứu vấn đề dưới góc nhìn của sinh viên, vì vậy không thể tránh khỏi nhưng thiếu sót, mong các bạn thông cảm và đóng góp ý kiến để đề tài được hoàn chỉnh.

6.

Ý nghĩa của nghiên cứu

Hiện tại, lạm phát đang là vấn đề nhức nhối của toàn xã hội, có tác động sâu sắc tới tất cả các lĩnh vực xã hội. Và hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng không nằm ngoài vòng ảnh hưởng của nó. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài này rất có ý nghĩa.

Thứ nhất, thông qua việc nghiên cứu đề tài chúng ta có thể thấy được các tác động của lạm phát đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nói chung và  ngành nội thất nói riêng.

Thứ hai, tìm ra biện pháp nhằm kiểm soát lạm phát hoặc hạn chế các tác động tiêu cực mà nó mang lại cho doanh nghiệp ngành nội thất, đồng thời làm cơ sở để áp dụng với các ngành khác.

Thứ ba, việc nghiên cứu đề tài này còn nhằm cung cấp thông tin cho sinh viên khối ngành kinh tế tìm hiểu về lạm phát và ảnh hưởng của lạm phát đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp ngành nội thất và là cơ sơ để tìm hiểu sâu hơn về tác động của lạm phát.

7.

Kết cấu báo cáo nghiên cứu

Chương 1: Tổng quan nghiên cứu đề tài

Chương 2: Một số lý luận cơ bản về lạm phát và tác động của nó.

Chương 3: Thực trạng tác động của lạm phát tới hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ngành nội thất.

Chương 4: Một số giải pháp, kiến nghị để khắc phục vấn đề.

Chương 2: Tóm lược một số vấn đề lý luận về chủ đề nghiên cứu

 I.Một số định nghĩa, khái niệm cơ bản.

1. Khái niệm, đo lường, phân loại lạm phát

1.1.

Khái  niệm lạm phát

Hiện nay, “lạm phát” đã trở nên vô cùng quen thuộc với mỗi người dân, bất cứ ai cũng đã từng nghe nói về lạm phát nhưng khi đặt ra câu hỏi: “ lạm phát là gì?” thì có rất ít người trả lời được. Lạm phát cũng đã được đề cập đến rất nhiều trong các công trình nghiên cứu của các nhà kinh tế. Trong mỗi công trình của mình các nhà kinh tế đã đưa ra mỗi  khái niệm riêng về lạm phát.

Theo Các Mác trong bộ tư  bản: lạm phát là việc làm tràn đầy các kênh, các luồng lưu thông những tờ giấy bạc thừa dẫn đến giá cả tăng vọt.

Luận thuyết ”Lạm phát cầu dư thừa tổng quát” của các tác giả giải thích: Lạm phát là cầu dư thừa thường xuyên do phát hành tiền quá mức đề ra, nguyên nhân chủ yếu của lạm phát là vi phạm quá trình tái sản xuất nằm trong lĩnh vực tiền tệ, vì lưu thông tiền tệ có ảnh hưởng mang tính quyết định tới sự phát triển tích cực của nền kinh tế. Sự suy giảm sức mua của đồng tiền, sức mua của đồng tiền được đo lường bằng sự biến đổi nghịch đảo của mức giá chung. J.M Keynes nói chỉ khi nào có toàn dụng, sử dụng hết công nhân hay năng lực sản xuất, mới tạo nên cầu dư thừa và giá cả hàng hóa tăng lên từ cầu cá biệt làm thay đổi cầu tổng quát và mức giá chung từ đó gây ra lạm phát.

Milton Friedmen thì quan niệm: “ lạm phát là việc giá cả tăng nhanh và kéo dài”. Ông cho rằng lạm phát luôn và bao giờ cũng là một hiện tượng tiền tệ”. Ý kiến đó của ông đã được đa số các nhà kinh tế thuộc phái tiền tệ và phái Keynes tán thành.

Nhà kinh tế học Samuelson thì cho rằng: lạm phát biểu thị cho sự tăng lên của mức giá chung. Theo ông:” Lạm phát xảy ra khi mức giá chung của giá cả và chi phí tăng - giá lương thực dầu xăng, xe ô tô tăng, tiền lương, giá đất, tiền thuê tư liệu sản xuất.

Hầu hết các ý kiến đều cho rằng: lạm phát luôn xuất phát từ nguyên nhân tiền tệ nhưng đó là một quan điểm sai lầm, cú sốc dầu mỏ năm 1973 – 1974 là một ví dụ chứng tỏ điều đó. Ý kiến của Samuelson tuy có định hướng dung nhưng chưa tổng quát cho toàn bộ nền kinh tế và chưa gắn liền với mặt lượng của nó.

  Hiện nay, lạm phát được định nghĩa là sự tăng lên liên tục của mức giá chung trong một thời gian nhất định. Thời gian nhất định ở đây có thể là tháng, quý, năm. Điều này không có nghĩa là giá cả của mọi hàng hóa và dịch vụ đồng thời phải tăng lên theo cùng  một tỷ lệ, mà chỉ cần mức giá trung bình tăng lên. Có nghĩa là nếu nền kinh tế năm nay có lạm phát 10%/năm  tức là mức giá chung tăng lên 10% so với năm truuwocs đó. Điều đó không có nghĩa là giá cả của tất cả các loại hàng hóa đều tăng lên cùng một tỷ lệ là 10% mà mỗi loại hàng hóa có tỷ lệ tăng khác nhau, thậm chí có mặt hàng giá không đổi hoặc giảm giá.

Vì vậy, m

ột nền kinh tế vẫn có thể trải qua lạm phát khi giá của một số hàng hóa giảm, nếu như giá của các hàng hóa và dịch vụ khác tăng đủ mạnh.

1.2.

 Thước đo

Lạm phát 1 được đo lường bằng cách theo dõi sự thay đổi trong giá cả của một lượng lớn các hàng hóa và dịch vụ trong một nền kinh tế (thông thường dựa trên dữ liệu được thu thập bởi các tổ chức Nhà nước, mặc dù các liên đoàn lao động và các tạp chí kinh doanh cũng làm việc này). Giá cả của các loại hàng hóa và dịch vụ được tổ hợp với nhau để đưa ra một "mức giá cả trung bình", gọi là mức giá trung bình của một tập hợp các sản phẩm. Chỉ số giá cả là tỷ lệ mức giá trung bình ở thời điểm hiện tại đối với mức giá trung bình của nhóm hàng tương ứng ở thời điểm gốc. Tỷ lệ lạm phát thể hiện qua chỉ số giá cả là tỷ lệ phần trăm mức tăng của mức giá trung bình hiện tại so với mức giá trung bình ở thời điểm gốc. Để dễ hình dung có thể coi mức giá cả như là phép đo kích thước của một quả cầu, lạm phát sẽ là độ tăng kích thước của nó.

Không tồn tại một phép đo chính xác duy nhất chỉ số lạm phát, vì giá trị của chỉ số này phụ thuộc vào tỷ trọng mà người ta gán cho mỗi hàng hóa trong chỉ số, cũng như phụ thuộc vào phạm vi khu vực kinh tế mà nó được thực hiện. Tuy nhiên, có hai thước đo được sử dụng phổ biến đó là: chỉ số giá tiêu dùng (CPI) và chỉ số điều chỉnh (

).

·

 Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) là tỷ số phản ánh sự thay đổi giá cả của giỏ hàng hóa điển hình so với năm gốc, được tính bằng công thức:

·

Chỉ số điều chỉnh GDP (hay còn gọi là chỉ số khử lạm phát) là tỷ lệ giữa GDP danh nghĩa trên GDP thực tế. Chỉ số này phản ánh mức giá chung của nền kinh tế, tức chi phí để mua một giỏ hàng hoá hiện được sản xuất ra so với chi phí của giỏ hàng hoá đó trong năm cơ sở, được tính theo công thức:

Trong đó, q là sản lượng, p là giá các mặt hàng, t là năm cần tính, 0 là năm được lấy làm gốc.

Từ hai thước đo đó ta có thể tính được tỷ lệ lạm phát với công thức:

Với tháng hoặc quý, cách tính cũng tương tự.

  Một số thước đo khác:

·

Chỉ số giá sản xuất (PPI) đo mức giá mà các nhà sản xuất nhận được không tính đến giá bổ sung qua đại lý hoặc thuế doanh thu. Nó khác với CPI là sự trợ cấp giá, lợi nhuận và thuế có thể sinh ra một điều là giá trị nhận được bởi các nhà sản xuất là không bằng với những gì người tiêu dùng đã thanh toán. Ở đây cũng có một sự chậm trễ điển hình giữa sự tăng trong PPI và bất kỳ sự tăng phát sinh nào bởi nó trong CPI. Rất nhiều người tin rằng điều này cho phép một dự đoán gần đúng và có khuynh hướng của lạm phát CPI "ngày mai" dựa trên lạm phát PPI ngày "hôm nay", mặc dù thành phần của các chỉ số là khác nhau; một trong những sự khác biệt quan trọng phải tính đến là các dịch vụ.

·

Chỉ số giá bán buôn đo sự thay đổi trong giá cả các hàng hóa bán buôn (thông thường là trước khi bán có thuế) một cách có lựa chọn. Chỉ số này rất giống với PPI.

·

Chỉ số giá hàng hóa đo sự thay đổi trong giá cả của các hàng hóa một cách có lựa chọn. Trong trường hợp bản vị vàng thì hàng hóa duy nhất được sử dụng là vàng. Khi nước Mỹ sử dụng bản vị lưỡng kim thì chỉ số này bao gồm cả vàng và bạc.

·

Chỉ số giảm phát GDP dựa trên việc tính toán của tổng sản phẩm quốc nội: Nó là tỷ lệ của tổng giá trị GDP giá thực tế (GDP danh định) với tổng giá trị GDP của năm gốc, từ đó có thể xác định GDP của năm báo cáo theo giá so sánh hay GDP thực). (Xem thêm Thực và danh định trong kinh tế). Nó là phép đo mức giá cả được sử dụng rộng rãi nhất. Các phép khử lạm phát cũng tính toán các thành phần của GDP như chi phí tiêu dùng cá nhân. Tại Mỹ, Cục Dự trữ Liên bang đã chuyển sang sử dụng khử lạm phát tiêu dùng cá nhân và các phép khử lạm phát khác để tính toán các chính sách kiềm chế lạm phát của mình.

·

Chỉ số giá chi phí tiêu dùng cá nhân (PCEPI). Trong "Báo cáo chính sách tiền tệ cho Quốc hội" sáu tháng một lần ("Báo cáo Humphrey-Hawkins") ngày 17 tháng 2 năm 2000, Federal Open Market Committee (FOMC) nói rằng ủy ban này đã thay đổi thước đo cơ bản về lạm phát của mình từ CPI sang "chỉ số giá cả dạng chuỗi của các chi phí tiêu dùng cá nhân".

1.3.

Phân loại lạm phát

a.

Căn cứ vào mức độ lạm phát:

Lạm phát vừa phải: còn gọi là lạm phát một con số, chỉ số lạm phát dưới10%. Lạm phát vừa phải làm cho giá cả biến động tương đối. Trong thời kỳ này, nền kinh tế hoạt động bình thường, đời sống của người dân ổn định. Sự ổnđịnh đó được biểu hiện là giá cả tăng chậm, lãi suất tiền gửi và tiền vay khôngtăng cao, không xảy ra tình trạng mua bán và tích trữ hàng hóa với số lượnglớn…Có thể nói lạm phát vừa phải tạo tâm lý yên tâm cho người lao động chỉtrông chờ vào thu nhập. Trong thời gian này các hãng kinh doanh có khoản thunhập ổn định, ít rủi ro.

Lạm phát cao (lạm phát phi mã): Lạm phát xảy ra khi giá cả tăng tương đối nhanh với 2 hoặc 3 con số mộtnăm. Ở mức phi mã lạm phát làm cho giá cả tăng lên nhanh chóng, gây biếnđộng lớn về kinh tế, lúc này người dân tích trữ hàng hóa, vàng bạc và không bao giờ cho vay tiền ở mức lãi suất thông thường. Loại này khi đã trở nênvững chắc sẽ gây ra những biến dạng kinh tế nghiêm trọng.

Siêu lạm phát: xảy ra khi lạm phát tăng lên với tốc độ cao vượt xa lạm phát phi mã, tốc độ lưu thông tiền tệ tăng kinh khủng, giá cả tăng rất nhanh tiền lương thực tế giảm mạnh, tiền tệ mất giá nhanh chóng, các yếu tố thịtrường biến dạng và hoạt động kinh doanh lâm vào tình trạng rối loạn.

b.

 Căn cứ vào định tính: có hai loại: lạm phát cân bằng và lạm phát không cân bằng:

 Lạm phát cân bằng : Tăng tương ứng với thu nhập thực tế của người laođộng ,tăng phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanhnghiệp .Do đó không gây ảnh hưởng đến đời sống hàng ngày của người laođộng và dến nền kinh tế nói chung.

Lạm phát không cân bằng :Tăng không tương ứng với thu nhập của ngườilao động.Trên thực tế loại lạm phát này cũng thường hay xảy ra.

c.

Căn cứ vào nguyên nhân: có 2 loại: lạm phát dự đoán trước được và lạm phát bất thường:

Lạm phát dự đoán trước : là loại lạm phát xảy ra hàng năm trong một thời kìtương đối dài và tỷ lệ lạm phát ổn định đều đặn .Loại lạm phát này có thể dựđoán trước được tỷ lệ của nó trong các năm tiếp theo.Về mặt tâm lý ,ngườidân đã quen với tình trạng lạm phát đó và đã có sự chuẩn bị trước.Do đókhông gây ảnh hưởng đến đời sống ,đến kinh tế .

 Lạm phát bất thường: xảy ra đột biến mà có thể từ trước chưa xuất hiện.Loại lạm phát này ảnh hưởng đến tâm lý, đời sống người dân vì họ chưa kịp thích nghi .Từ đó mà loại lạm phát này sẽ gây ra biến động đối với nền kinh tếvà niềm tin của nhân dân vào chính quyền có phần giảm sút. Trong thực tế lịch sử của lạm phát cho thấy lạm phát ở nước ta đang phát triển thường diễn ra trong thời gian dài ,vì vậy hậu quả của nó phức tạp và trầm trọng hơn .Và các nhà kinh tế đã chia lạm phát thành 3 loại với tỷ lệ khác nhau : lạm phát kinh liên kéo dài trên 3 năm với tỷ lệ lạm phát dưới 50% một năm ,lạm phát nghiêm trọng thường kéo dài hơn 3 năm với tỷ lệ lạm phát trên 50% và siêu lạm phát kéo dài trên một năm với tỷ lệ lạm phát trên 200% một năm

2.

Tác động của lạm phát đến nền kinh tế

Ø

Đối với sản lượng, việc làm:

Đi đôi với sự tăng giá cả, sản lượng quốc gia có thể giảm xuống, tăng lên hoặc không thay đổi.

Nếu lạm phát do cung gây ra thì sản lượng bị giảm sút, nền kinh tế vừa có lạm phát vừa bị suy thoái. Nếu lạm phát do cầu gây ra thì sản lượng có thể tăng lên nhưng thực chất chỉ là sự tăng sản lượng tới sản lượng tối ưu mà giá vẫn tăng lên còn gọi là lạm phát thuần: giá cả tăng lên chứ sản lượng không tăng. Nếu lạm phát do cả cầu lẫn cung thì tùy theo mức độ dịch chuyển của cung và cầu mà sản lượng có thể tăng hoặc giảm.

Ø

Đối với phân phối lại thu nhập:

Tác động của lạm phát đối với việc phân phối lại thu nhập phụ thuộc vào kết quả dự tính tỉ lệ lạm phát, tình linh hoạt của tiền lương, sự chênh lệch về tốc độ tăng giá giữa các loại hàng hóa dịch vụ. Một số hướng phân phối lai điển hình:

-

Giữa người vay và người cho vay: lạm phát giúp cho một phấn thu nhập được chuyển từ người này sang người khác.

-

Giữa người hưởng lương và người trả lương.

-

Giữa người mua và người bán tài sản chính

-

Giữa người mua và người bán sản phẩm hiện vật

-

Giữa câc doanh nghiệp với nhau.

-

Giữa chính phủ và dân chúng.

       Việc phân phối lại thu nhập do lạm phát gây ra theo hướng chuyển bớt thu nhập từ những người nắm các yếu tố giá tăng hơn so với tỉ lệ lạm phát. Mức độ phân phối lại thu nhập còn phụ thuộc ít nhiều vào: mức độ chênh lệch về tốc độ giá của các loại hàng hóa, các yếu tố sản xuất, các loại tài sản. Chênh lệch càng cao thì phân phối lại càng nhiều.

Ø

Đối với cơ cấu kinh tế:

Lạm phát có thể làm thay đổi cơ cấu kinh tế do giá các loại hàng hóa không thay đổi theo cùng một tỉ lệ. Những ngành có giá tăng nhanh sẽ tăng tỉ trọng trong tăng trưởng.

Do giá tăng nhanh làm tăng giá trị sản lượng theo giá hiện hành, nguồn sản xuất sẽ chảy về ngành đó, sẽ làm tăng sản lượng thực của ngành. Đông thời lúc đó sản lượng của các ngành khác có thể giảm xuống. Kết quả là tỉ trọng của ngành có giá cao hơn sẽ cao hơn, tỉ trọng của ngành khác sẽ thấp hơn, cho dù tính giá hiện hành hay giá cố định.

Ø

Đối với hiệu quả kinh tế:

Lạm phát có thể tạo ra một số tác động làm cho việc sử dụng nguồn lực trở lên lãng phí hơn, đó là:

-

Lạm phát làm sai lệch tín hiệu giá: giá là tín hiệu quan trọng để giúp cho người mua có được quyết định tối ưu. Trong thời kỳ lạm phát cao, giá thay đổi quá nhanh làm cho mọi người không kịp nhận biết mức giá tương đối giữa các loại hàng hóa thay đổi như thế nào. Vì vây, quyết định mua mặt hàng này hay mặt hàng khác, mua nhiều hay ít có khi không còn đúng với quyết định tối ưu.

-

Lạm phát làm lãng phí thời gian cho việc đối phó với tình trạng mất giá tiền tệ. Khi lạm phát xảy ra, càng giữ nhiều tiền mặt trong tay càng trở lên “nghèo” đi, do giá trị đồng tiền bị giảm sút. Do đó mà mọi người giữ ít tiền bạc, muốn gửi tiền ngân hàng để mất ít thời gian đi lại, hoặc có thể mua dự trữ một số mặt hàng có thể cất giữ tốt mà không thể làm những việc khác có ích hơn.

-

Lạm phát làm phát sinh chi phí điều chỉnh giá. Chi phí này còn được gọi là “chi phí thực đơn”. Các doanh nghiệp phải in lại catalogue, in lại thực đơn, phiếu báo giá, sửa lại các giá trên các máy tính tiền....Ngoài ra đối với các công ty lớn, còn phải tốn kém thời gian, tiền bạc cho các cuộc điều chỉnh giá.

3.

Nguyên nhân gây ra lạm phát

Về mặt lý thuyết lạm phát có thể do các nhóm nguyên nhân:

·

Lạm phát do cầu kéo: Kinh tế học Keynes cho rằng nếu tổng cầu cao hơn tổng cung ở mức toàn dụng lao động, thì sẽ sinh ra lạm phát. Điều này có thể giải thích qua sơ đồ AD-AS. Đường AD dịch sang phải trong khi đường AS giữ nguyên sẽ khiến cho mức giá và sản lượng cùng tăng. Trong khi đó, chủ nghĩa tiền tệ giải thích rằng do tổng cầu cao hơn tổng cung, người ta có cầu về tiền mặt cao hơn, dẫn tới cung tiền phải tăng lên để đáp ứng. Do đó có lạm phát.

·

Lạm phát do cầu thay đổi: Giả dụ lượng cầu về một mặt hàng giảm đi, trong khi lượng cầu về một mặt hàng khác lại tăng lên. Nếu thị trường có người cung cấp độc quyền và giá cả có tính chất cứng nhắc phía dưới (chỉ có thể tăng mà không thể giảm), thì mặt hàng mà lượng cầu giảm vẫn không giảm giá. Trong khi đó mặt hàng có lượng cầu tăng thì lại tăng giá. Kết quả là mức giá chung tăng lên, nghĩa là lạm phát.

·

Lạm phát do chi phí đẩy: Nếu tiền công danh nghĩa tăng lên, thì chi phí sản xuất của các xí nghiệp tăng. Các xí nghiệp vì muốn bảo toàn mức lợi nhuận của mình sẽ tăng giá thành sản phẩm. Mức giá chung của toàn thể nền kinh tế cũng tăng.

·

Lạm phát do cơ cấu: Ngành kinh doanh có hiệu quả tăng tiền công danh nghĩa cho người lao động. Ngành kinh doanh không hiệu quả, vì thế, không thể không tăng tiền công cho người lao động trong ngành mình. Nhưng để đảm bảo mức lợi nhuận, ngành kinh doanh kém hiệu quả sẽ tăng giá thành sản phẩm. Lạm phát nảy sinh vì điều đó.

·

Lạm phát do xuất khẩu: Xuất khẩu tăng dẫn tới tổng cầu tăng cao hơn tổng cung, hoặc sản phẩm được huy động cho xuất khẩu khiến lượng cung sản phẩm cho thị trường trong nước giảm khiến tổng cung thấp hơn tổng cầu. Lạm phát nảy sinh do tổng cung và tổng cầu mất cân bằng.

·

Lạm phát do nhập khẩu: Sản phẩm không tự sản xuất trong nước được mà phải nhập khẩu. Khi giá nhập khẩu tăng (do nhà cung cấp nước ngoài tăng giá như trong trường OPEC quyết định tăng giá dầu, hay do đồng tiền trong nước xuống giá) thì giá bán sản phẩm đó trong nước cũng tăng. Lạm phát hình thành khi mức giá chung bị giá nhập khẩu đội lên.

·

Lạm phát tiền tệ: Cung tiền tăng (chẳng hạn do [ngân hàng trung ương] mua ngoại tệ vào để giữ cho đồng tiền ngoại tệ khỏi mất giá so với trong nước; hay chẳng hạn do ngân hàng trung ương mua [công trái] theo yêu cầu của nhà nước) khiến cho lượng tiền trong lưu thông tăng lên là nguyên nhân gây ra lạm phát. Lạm phát loại này nguyên nhân là do lượng tiền trong nền kinh tế quá nhiều, vượt quá mức hấp thụ của nó, nghĩa là vượt quá khả năng cung ứng giá trị của nền kinh tế́. Có thể do ngân hàng trung ương lưu thông lượng tiền quá lớn trong nền kinh tế bằng các nghiệp vụ thị trường mở hay chính sách tiền tệ lới lỏng. Khi lượng tiền lưu thông quá lớn, ví dụ trong tay bạn có nhiều hơn 100 triệu..., thì sự tiêu dùng theo đó mà tăng rất lớn theo xã hội. ÁP lực cung hạn chế dẫn tới tăng giá trên thị trường, và do đó sức ép lạm phát tăng lên.

·

Lạm phát đẻ ra lạm phát: Khi nhận thấy có lạm phát, cá nhân với dự tính duy lý đó là tâm lý dự trữ, giá tăng lên người dân tự phán đoán, tự suy nghĩ là đồng tiền không ổn định thì giá cả sẽ tăng cao tạo nên tâm lý dự trữ đẩy mạnh tiêu dùng hiện tại tổng cầu trở nên cao hơn tổng cung hàng hóa sẽ càng trở nên khan hiếm kích thích giá lên, gây ra lạm phát.

  II.

Mối quan hệ lạm phát và tăng trưởng kinh tế

Lạm phát và tăng trưởng kinh tế là hai mặt của xã hội , là hai vấn đề kinh tế trong nền kinh tế. Lạm phát có thể coi là kẻ thù của tăng trưởng kinh tế nhưng nó lại là hai vấn đề luôn tồn tại song song với nhau. Vì vậy, trong nền kinh tế hai mục tiêu kiềm chế lạm phát và tăng trưởng kinh tế luôn có mối quan hệ đánh đổi với nhau. Những nỗ lực nhằm kiềm chế lạm phát sẽ dẫn đến nguy cơ thất nghiệp, kéo theo sự trì trệ của sản xuất, gây hạn chế cho tăng trưởng kinh tế. Một cơ hội tăng trưởng kinh tế bao giờ cũng có lạm phát kèm theo.

Trong thực tế, không một quốc gia nào dù phát triển đến đâu cũng không tránh khỏi lạm phát. Bất cứ một nền kinh tế của quốc gia nào đều cũng đã trải qua các cuộc khủng hỏang kinh tế và tỷ lệ lạm phát tăng với những quy mô khác nhau. Tỷ lệ lạmphát tăng cao sẽ đẩy giá cả hàng hoá chung tăng lên mà tiền lương danh nghĩa của các công nhân không tăng do đó tiền lương thực tế của họ sẽ giảm đi. Để tồn tại các công nhân sẽ tổ chức đấu tranh , bãi công đòi tăng lương và cho sản xuất trì trệ, đình đốn khiến cho nền kinh tế gặp nhiều khó khăn, tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm. Khi nềnkinh tế găp khó khăn, suy thoái sẽ làm thâm hụt ngân sách và đó là điều kiện, nguyên nhân gây ra lạm phát. Khi lạm phát tăng cao gây ra siêu lạm phát làm đồng nội tệ rất nhanh, khi đó người dân sẽ ồ ạt bán nội tệ để mua ngoại tệ. Tệ nạn tham nhũng tăng cao, nạn buôn lậu phát triển mạnh, tình trạng đầu cơ trái phép tăng nhanh, trốn thuế và thuế khôngthu được đã gây ra tình trạng nguồn thu của nhà nước bị tổn hại nặng nề càng làm cho thâm hụt ngân sách trầm trọng dẫn đến tỷ lệ lạm phát cao.

Để minh họa và làm rõ mối quan hệ này, chúng tôi sử dụng mô hình tăng trưởng kinh tế Solow:

Mô hình tăng trưởng Solow

là một mô hình thuyết minh về cơ chế

tăng trưởng

kinh tế

do

Robert Solow

Trevor Swan

xây dựng rồi được các học giả kinh tế khác bổ sung.

Mô hình sử dụng hệ thống kí hiệu:

·

Y

là sản lượng thực tế (hoặc thu nhập thực tế).

·

K

là lượng tư bản đem đầu tư

·

L

là lượng

lao động

·

y

là sản lượng trên đầu lao động.

·

k

là lượng tư bản trên đầu lao động.

·

S

là tiết kiệm của cả nền kinh tế.

·

là tỷ lệ tiết kiệm.

·

I

là đầu tư.

·

là đầu tư trên đầu lao động.

·

C

tiêu dùng cá nhân

trong nền kinh tế.

·

c

là tiêu dùng cá nhân trên đầu lao động.

·

δ

là tỷ lệ khấu hao tư bản.

·

Δ

là lượng tư bản tăng thêm ròng.

·

là tốc độ tăng dân số, đồng thời là tốc độ tăng lực lượng lao động.

Mô hình sử dụng hệ thống các giả thiết sau:

Giả thiết 1

Giá cả linh hoạt trong

dài hạn

. Đây là một quan điểm của

kinh tế học tân cổ điể

.

Khi này,

lao động

L được sử dụng hoàn toàn, và nền kinh tế tăng trưởng hết mức tiềm năng và ổn định.

Đồng thời, lúc này, toàn bộ

tiết kiệm

S sẽ được chuyển thành

đầu tư

I (

quy tắc Say

trong kinh tế học tân cổ điển) Và do đó, sY = I.

Mặt khác, giá cả lao động (tức

tiền công thực tế

) và giá

tư bản

(tức

lãi suất

đi vay) lúc này cũng sẽ linh hoạt. Vì thế, có thể kết hợp hai yếu tố này để sản xuất môt cách tùy thích.

Giả thiết 2

Mức sản lượng thực tế Y phụ thuộc vào lượng lao động L, lượng tư bản K vài

năng suất lao động

A. Từ đó, ta có một

hàm sản xuất

vĩ mô Y = F(A,L,K).

Giả thiết là hàm này có

dạng Cobb-Douglas

, tức là:

Với hàm số dạng Cobb-Douglas, nếu ta nhân các số nhân trong vế phải với cùng một số, thì tích số bên vế trái sẽ tăng lên cùng số đó lần. Do vậy, nếu nhân 1/L với LK, thì vế trái sẽ thành Y/L tức là sản lượng thực tế trên đầu lao động y. Còn K/L tức lượng tư bản trên đầu lao động k. Hàm sản xuất vĩ mô sẽ có dạng sau:

 Giả thiết 3

Nền kinh tế đóng cửa

và không có sự can thiệp của Chính phủ. Do đó, tổng sản lượng Y bằng tổng của tiêu dùng cá nhân C và đầu tư I hay Y = C + I tương đương với Y = C + sY và lại tương đương với C = (1-s)Y.

Nếu tính trên đầu lao động L, thì sẽ có tiêu dùng cá nhân trên đầu người c bằng sản lượng thực tế trên đầu người y nhân với 1-s hay c = (1-s)y.

Lưu ý là 0 < s < 1.

Giả thiết 4

Có sự khấu hao tư bản. Với tỷ lệ khấu hao δ, mức khấu hao sẽ là δK.

Đầu tư I làm tăng lượng tư bản trong khi khấu hao δK làm giảm lượng tư bản, nên mức tư bản thực tế tăng thêm ΔK sẽ bằng I - δK.

Có thể viết quan hệ trên thành:

Giả thiết 5

Tư bản K và lao động L tuân theo

Quy luật lợi tức biên giảm dần

. Có nghĩa là khi khi tăng k thì ban đầu y tăng rất nhanh đến một lúc nào đó nó tăng chậm lại.

Giả thiết 6

Hàm y = f(k) là một

hàm tăng

. Đồ thị của nó có dạng đường cong. Hàm i = sf(k) = sy cũng như vậy, bởi vì đầu tư trên đầu lao động i là một bộ phận của sản lượng trên đầu lao động y.

Chú ý rằng để hàm số y = f(k) là hàm tăng thì

đạo hàm

bậc một y' phải lớn hơn 0, mặt khác do nó tuân theo quy luật năng suất cận biên giảm dần nên đạo hàm bậc hai y’’ phải nhỏ 0. Đồ thị của hàm số y = f(k)có hình dạng như trong hình vẽ.

Giả thiết 7

Thay đổi trong lực lượng lao động L thể hiện bằng phương trình sau:

trong đó, gL là hàm số của L.

Đồng thời giả thiết là tốc độ thay đổi lao động đúng bằng tốc độ thay đổi dân số n.

Xác định mô hình

Hình 1

Khi tư bản trên đầu lao động k tăng, thì giá trị khấu hao δk tăng, hơn nữa, dẫn đến tư bản mới trên đầu lao động nk tăng. Gọi δk + nk hay (δ+n)k là đầu tư cần thiết, vì nó bù đắp phần tài sản bị hao mòn và đáp ứng vốn cho lao động mới tăng thêm.

Điểm A trên Hình 1 là giao của đường đầu tư cần thiết (δ+n)k và đường đầu tư trên đầu lao động i. Nó cho thấy đó là một sự cân bằng.

Tại trạng thái vốn trên đầu lao động k1 nhở hơn k*, thì đầu tư i = sy lớn hơn đầu tư cần thiết (δ+n)k, có nghĩa là k = sy – (δ+n)k > 0 do đó dẫn đến k tăng.

Ngược lại, tại trạng thái vốn trên đầu lao động k2 lớn hơn k*, thì đầu tư i = sy nhỏ hơn đầu tư cần thiết (δ+n)k, có nghĩa là k = sy – (δ+n)k < 0, do đó k giảm.

Ta có, k tăng lên đến mức k*, và ngược lại khi nó giảm, thì giảm đến mức k*. Cả hai trường hợp tăng và giảm đều đạt đến một trạng thái cân bằng. Và người ta gọi đó là điểm ổn định hay trạng thái ổn định.

Tại trạng thái ổn định k*, chúng ta nhận thấy rằng đầu tư và đầu tư cần thiết cân bằng nhau, hay ?k = sy – (δ+n)k* = 0, tốc độ tăng của sản lượng trên lao động bằng không (gy = 0), và tốc độ tăng của vốn trên mỗi lao động bằng không (gk = 0).

III. Những nghiên cứu có liên quan.

Đề tài 1: Giải pháp thị trường nhằm phát triển thương mại mặt hàng nội thất ( lấy công ty cổ phần đầu tư và thương mại Tân phong làm đối tượng nghiên cứu) – khoa F-giáo viên hướng dẫn: CN. Thái Thu Hương- SV: Phan Thị Hương. Đề tài đã khái quát về mặt hàng nội thất, nghiên cứu thị trường mặt hàng nội thất và đưa ra các giải pháp thị trường nhằm phát triển thương mại mặt hàng này. Lấy công ty cổ phần đầu tư và thương mại Tân phong làm đối tượng nghiên cứu

Đề tài 2: Phân tích ảnh hưởng lạm phát đến kết quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội-khoa F-giáo viên hướng dẫn: Đào Thế Sơn.Đề tài đã  đưa ra một số lý luận cơ bản và lý thuyết về lạm phát; tìm hiểu tác dộng của lạm phát tới ngành kinh tế nói chung và đến hoạt động sản xuất kinh doanh nói tiêng

Đề tài 3: Ảnh hưởng của lạm phát đến hoạt động kinh doanh dịch vụ thiết kế cổng thông tin của công ty cổ phần Netnam tại khu vực Hà Nội trong giai đoạn hiện nay-khoa F-SV: Nguyễn Đình Kiên. Đề tài đã hệ thống hóa một số vấn đề lý luận cơ bản về lạm phát, ảnh hưởng của lạm phát tới hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nói chung, doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ thiết kế cổng thông tin nói riêng và đề ra một số giải pháp nhằm hạn chế sự ảnh hưởng này.

IV. Nội dung nghiên cứu

1. Tổng quan về tình hình lạm phát ở Việt Nam và hoạt động của các doanh nghiệp trong ngành nội thất (2009-2011)

2. Mối quan hệ giữa lạm phát và hoạt động của các doanh nghiệp ngành nội thất (2009-2011), có gì khác với sự ảnh hưởng của lạm phát tới các ngành kinh tế khác

3. Giải pháp

Chương 3: Phương pháp nghiên cứu và các kết quả

phân tích thực trang vấn đề nghiên cứu

I.

Phương pháp hệ nghiên cứu các vấn đề

(Giả thuyết, mô hình, kế hoạch, phương pháp thu thập dữ liệu, phân tích dữ liệu)

Do đề tài mang tính thực tiễn cao, nên quá trình nghiên cứu đề tài sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau nhằm tận dụng tính chất hợp lý và tính ưu việt của từng loại phương pháp nghiên cứu khoa học.

3.1.1. Phương pháp thu thập dữ liệu sơ cấp:

  Có nhiều phương pháp thu thập dữ liệu sơ cấp khác nhau. Ở đây chúng tôi sử dụng phương pháp thu thập chính đó là phương pháp sử dụng ý kiến các chuyên gia.

3.1.2. Phương pháp thu thập dữ liệu thứ  cấp:

Phương pháp này dựa trên nguồn thông tin sơ cấp và thứ cấp thu thập được từ những tài liệu nghiên cứu trước đây để xây dựng cơ sở luận cứ để phân tích và đề ra các giải pháp hoàn thiện cho công tác hoạch định chiến lược thâm nhập thị trường thẻ thanh toán của SHB. Phương pháp này được sử dụng để xem xét, tìm tòi, hệ thống hoá và tóm tắt tất cả những kết quả nghiên cứu có liên quan đến đề tài này đã tiến hành trong và ngoài nước. Trên cơ sở đó, hiểu được các nhà nghiên cứu đi trước đã có những công trình nghiên cứu nào, kết quả ra sao để có thể sử dụng hoặc bổ sung cho đề tài nghiên cứu này. Đồng thời chủ yếu sử dụng số liệu thống từ báo chí, báo điện tử để phân tích tình hình hoạch định chiến lược trước đó của ngân hàng đang nghiên cứu.

3.1.3. Phương pháp phân tích dữ liệu thứ cấp:

Phương pháp này được sử dụng sau khi thu thập các dữ liệu sơ cấp và thứ cấp, tiến hành phân tích các kết quả thu được có liên quan đến các vấn đề cần nghiên cứu.

Tất cả các dữ liệu thu được sẽ được tổng hợp và phân loại dữ liệu theo tiến trình cần nghiên cứu và được đánh giá mức độ quan trọng tuỳ vào yêu cầu của nghiên cứu. Các dữ liệu này giúp cho nhà hoạch định đưa ra được những dự đoán về xu hướng phát triển trong tương lai xuất phát từ sự đúc rút kinh nghiệm hoạt động của công ty trong những năm qua hay những kinh nghiệm của các doanh nghiệp khác. Từ các dự đoán đó sẽ tiến hành thành lập những chương trình hành động khác nhau ứng  với mỗi khả năng dự báo, những khả năng có thể xảy ra, giúp  doanh nghiệp đạt được những mục tiêu đã đặt ra.

II.

Đánh giá tổng quan tình hình và ảnh hưởng nhân tố môi trường đến vấn đề nghiên cứu

1.

Tổng quan tình hình lạm phát ở Việt Nam và hoạt động của các doanh nghiệp ngành nội thất (2009-2011).

1.1.

Tổng quan tình hình lạm phát ở Việt Nam (2009-2011).

Nguồn: GSO   Đơn vị: %

Nhận xét:

Năm 2009, suy thoái của kinh tế thế giới khiến sức cầu suy giảm, giá nhiều hàng hóa cũng xuống mức khá thấp, lạm phát trong nước được khống chế. CPI năm 2009 tăng 6.52%, thấp hơn đáng kể so với những năm gần đây. Tuy vậy, mức tăng này nếu so với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới lại cao hơn khá nhiều.

Năm 2010, chính phủ đặt mục tiêu kiểm soát CPI cuối kỳ khoảng 7%. Mục tiêu này có thể không được hoàn thành khi 2 tháng đầu năm CPI đã tăng 3.35%. Ngoài ra, nền kinh tế vẫn còn tiềm ẩn nhiều yếu tố có thể dẫn đến lạm phát cao trong những tháng cuối năm.

Tình hình lạm phát năm 2011: Dấu hiệu của tính quy luật chỉ còn rất mờ nhạt, diễn biến chỉ số giá tiêu dùng (CPI) trong năm 2011 nổi trội ở hai đột biến, đến từ các mức tăng kỷ lục mới trong tháng 4 và tháng 7.

Trên nền cơ bản được tạo lập bởi 12 tháng cùng tăng, đường biểu diễn chỉ số giá như hình cờ đuôi nheo, tiệm cận dần tới mốc 0% về cuối. Mức chênh lệch giữa tháng tăng cao nhất với tháng tăng thấp nhất tới gần 3 điểm phần trăm.

Lạm phát cả năm chốt ở mức tăng 18,13% ghi nhận sự “đi hoang” của dòng tiền, khi không tạo được đột phá về tăng trưởng nhưng lại thúc ép lạm phát đạt các kỷ lục mới. Chia bình quân, CPI mỗi tháng trong năm 2011 tương ứng với mức tăng khoảng 1,4%, chỉ còn thấp hơn chút ít so với 2008.

Biểu đồ thể hiện lạm phát 12 tháng năm 2011

Nhận xét:Từ biểu đồ trên ta có thể thấy ràng trong năm 2011 thì tình hình lạm phát ở Việt Nam diễn ra khá phức tạp. Lạm phát cao ở những tháng đầu năm, và cao nhất là vào tháng 4, lên đến 3,32%. Và bắt đầu có xu hướng giảm mạnh từ tháng 6 xuống còn 1,09%. Tình hình lạm phát xuống thấp nhất ở tháng 10 với con số 0,38%. Qua điều tra số liệu thống kê cho thấy lạm phát cả năm 2011 lên tới 18,13% chỉ trong quý một năm 2011,lạm phát ở Việt Nam đã lên tới 6,1% và tỉ lệ lạm phát tháng 12 năm 2011 tăng 18,13% so với cùng kì năm trước. Và biểu hiện cụ thể đó là việc trong 3 tháng đầu năm 2011, Việt Nam đồng đã mất giá 8,5%.

Tính đến tháng 3 năm 2011, ta có biểu đồ so sánh lạm phát ở Việt Nam với một số nước khác trong khu vực như sau:

Nhận xét:

Qua biểu đồ trên cho thấy tính đến tháng 3 năm 2011, lạm phát ở Việt Nam cao hơn nhiều so với các nước trong khu vực. cao gấp hai lần lạm phát của Trung Quốc và gần 5 lần Malaysia.

Nhìn lại tình hình lạm phát từ năm 2003 trở lại đây, lạm phát năm 2011 trở thành điểm nóng thứ 2 sau năm 2008:

Nguồn: TCTK

Nhận xét:

Qua đồ thị thể hiện lạm phát trong vòng 10 năm trở lại đây, từ năm 2001 đến năm 2011 trên, có thể nhận thây rằng tình hình lạm phát ở Việt Nam là không ổn định và có xu hướng tăng. Cụ thể là lạm phát năm 2001 ở  mức 0.79%, sau mười năm, đến năm 2011 đã lên đến 18,13%, tức là tăng 17,34%, trung bình mối năm tăng 1,734%, đây là một con số đáng chú ý. Và có thể thấy trong giai đoạn này thì lạm phát cao nhất là vào năm 2008 với mức lạm phát như một cú sốc ở con số 19,87%. 2011 là điểm nóng thứ hai sau năm 2008.

Như vậy qua thống kê số liệu về tình hình lạm phát ở Việt Nam, giai đoạn 2009-2011, có thể kết luận rằng tình hình lạm phát ở Việt Nam diễn ra rất phức tạp và lạm phát cao hơn nhiều so với các quốc gia trong khu vực.

1.2.

Tổng quan tình hình ngành nội thất.

1.2.1.

Khái quát ngành nội thất

        Khái niệm nội thất:

Nội thất là ngành có tiềm năng phát triển ở Việt Nam, vậy trước hết, ta hiểu thế nào là “nội thất”. “Nội thất” hiểu theo cách đơn giản nhất là trong nhà, trong phòng. Vì thế đồ nội thất là những thứ ở trong phòng, trong nhà. Và hàng nội thất được hiểu là những đồ sử dụng kê rời như: bàn ghế, giường tủ, kệ....được sắp xếp, bố trí trong phòng làm việc, nhà ở, nhà hàng, bệnh viện....

       Vật liệu đồ nội thất:

Trước đây, gỗ là vật liệu cho bất kì loại đồ nội thất nào nhưng ngày nay, cùng với nhu cầu thưởng lãm của con người, vật liệu làm đồ nội thất rất phong phú đa dạng như: gỗ, inox, meka, lamilate, melamine, composite, ván sợi MDF.v.v...Nhưng chất liệu tạo nên đồ nội thất gồm mấy nhóm chính như sau: gỗ, mây tre và các chất liệu nguồn gốc tự nhiên; kim loại; nhựa và cuối cùng là tổng hợp của các chất liệu đó. Mỗi loại vật liệu đều có những ưu, nhược điểm khác nhau thỏa mãn các nhu cầu cũng hết sức đa dạng của mỗi người. Chẳng hạn gỗ, mây tre là chất liệu tự nhiên mang lại sự gần gũi, ấm áp. Với kim loại, lúc đầu người ta nghĩ rằng khó sử dụng làm nội thất, nhưng rồi đặc tính chịu lực tốt, khả năng uốn cong phong phú khiến các nhà thiết kế thú vị với chất liệu này. Nhóm thứ ba là đồ nhựa, chất dẻo. Đây là loại sản phẩm mang rõ nét công nghiệp hoá nhất. Các nhà thiết kế rất thích chất liệu này vì nó không gò bó trong kết cấu phức tạp như gỗ, trong những mối liên kết hàn đục như kim loại. Với nhựa, chất dẻo, nhà thiết kế có thể sáng tạo thoải mái, tạo ra nhiều kiểu dáng mới. Còn với sử dụng tổng hợp các chất liệu trên. Về lý thuyết, có thể thấy là chất liệu tổng hợp tập hợp được các ưu điểm và khắc phục nhược điểm của từng chất liệu. Song nói như vậy không có nghĩa là đồ nội thất tổng hợp chất liệu có thể thay thế hoàn toàn các đồ nội thất nêu trên.

    Phân loại đồ nội thất theo công dụng sản xuất, gồm:

Nội thất văn phòng.

Nội thất gia đình.

Nội thất nhà hàng.

Nội thất khác. 

      Cơ cấu sản phẩm:

Dưới đây là bảng số liệu thể hiện mức độ tiêu dùng đồ nội thất theo nhóm sản phẩm tại Việt Nam 2010:

Nội thất phòng khách

Nội thất phòng bếp

Nội thất phòng ngủ

Nội thất văn phòng

Các loại nội thất khác

23%

23%

15%

28%

11%

                                                    Nguồn: Tổng cục thống kê 2010 – đơn vị %.

Nhận xét: Nhìn chung các chủng loại sản phẩm nội thất trong mấy năm qua đều tăng trưởng tốt, đặc biệt  là tốc độ tăng trưởng nội thất phòng ngủ mấy năm gần đây tăng mạnh thể hiện xu hướng thị trường đang dần chuyển sang sử dụng đồ nội thất văn phòng giá rẻ. Năm 2010, mức độ tiêu thụ của nôi thất phòng ngủ tăng 26% so với năm 2009

Dưới đây là tỉ lệ các mặt hàng đồ gỗ xuất khẩu năm 2011

Nội thất phòng khách

Nội thất nhà bếp

Nội thất phòng ngủ

Nội thất văn phòng

Gỗ ván và sản phẩm gỗ trang trí

22,7%

2,9%

28,8%

12,6%

7,6%

                                                                         Nguồn: Báo tuổi trẻ - đơn vị %.

Nhận xét: Qua số liệu trên cho thấy trong các mặt hàng đồ gỗ xuất khẩu của Việt Nam năm 2011 thì chiếm ưu thế nhất vẫn là nội thất phòng ngủ, đứng thứ hai là nội thất phòng khách. Và thấp nhất là nội thất nhà bếp.

Hiện nay, Việt Nam có khoảng 450 công ty chuyên sản xuất hàng nội thất xuất khẩu (120 công ty chuyên sản xuất hàng ngoài trời và 330 công ty sản xuất hàng nội thất).

Trong vòng 5 năm trở lại đây, công nghiệp đồ gỗ nội thất đã trở thành một trong 10 ngành xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam. Theo số liệu mới nhất của Tổng cục Hải quan, kim ngạch xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ tính lũy kế đến ngày 15/11/2010 đạt trên 2,89 tỉ đô la Mỹ, tăng đến 36% so với cùng kỳ năm ngoái. Theo các chuyên gia, kim ngạch xuất khẩu gỗ sẽ tiếp tục tăng và dự báo sẽ đạt 3,2 tỉ đô la Mỹ trong năm tới. Thống kê của Vietrade cho thấy các nước châu Âu (28%), Nhật Bản (24%), và Hoa Kỳ (20%) vẫn là các thị trường xuất khẩu chính trong số 120 quốc gia và vùng lãnh thổ có mặt sản phẩm đồ gỗ nội thất Việt Nam. Xu hướng hàng nội thất bằng các loại gỗ rừng trồng như cao su, keo, tràm có ở mức giá trung bình vẫn tiếp tục được ưa chuộng. Tuy nhiên, tiềm năng phát triển của ngành đồ gỗ nội thất Việt Nam còn rất lớn bởi khối lượng xuất khẩu hiện tại mới chỉ thỏa mãn được chưa đến 1% nhu cầu thực tế của thị trường thế giới. Hiện nay các vấn đề tồn đọng như tỉ lệ nhập khẩu nguyên liệu của Việt Nam vẫn còn cao (chiếm khoảng 1/3 so với kim ngạch xuất khẩu), tỷ lệ hao hụt cao trong chế biến, tỷ giá tăng… đã và đang làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. Việc phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu gỗ nhập khẩu và nguy cơ có thể đối mặt với các vụ kiện chống bán phá giá của các doanh nghiệp nước ngoài gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu đồ gỗ của Việt Nam

,

vừa xuất khẩu và vừa quay

về thị trường trong nước

.

Đối lập với xuất khẩu là tình trạng yếu thế ở thị trường tiêu thụ nội địa của các doanh nghiệp Việt. Điều này dẫn đến một nghịch lý là trong khi Việt Nam đang trở thành nhà cung cấp đồ gỗ và nội thất lớn trên thế giới thì thị trường trong nước hầu như bị bỏ ngỏ.

Kết quả khảo sát thị trường nói đây của Hội Mỹ Nghệ và chế biến đồ gỗ thành phố Hồ Chí Minh cho thấy, chỉ khoảng 20% doanh số tiêu thụ trong nước thuộc về các sản phẩm nội địa, phần còn lại với giá trị hàng trăm triệu USD mỗi năm thuộc về các sản phẩm nhập từ Malaysia, Đài Loan, Hồng Kong, Thái Lan, Brazil, Đức, Ý. “Hàng nhập có nhiều mẫu mã đẹp và giá lại khá mềm. Bán hàng nội thất nhập khẩu có lợi nhuận và khả năng quay vòng vốn nhập gấp nhiều lần so với tự sản xuất”- Nhà phân phối hàng nhập có tiếng tại thành phố Hồ Chí Minh đề nghị không nêu tên cho biết.

Đây là nguyên nhân khiến Việt Nam tiếp tục trở thành nơi tiêu thụ lý tưởng của sản phẩm ngoại nhập.

Hiện nay trên thị trường nội thất trong nước có doanh thu khoảng 1 tỷ USD nhưng có tới 80% trong số đó thuộc về sản phẩm nhập từ Đài Loan, Trung Quốc, Thái Lan…

Mặc dù có thị trường rộng khắp trên cả nước, nhưng các thành phố lớn vẫn là nôi tiêu thụ sản phẩm nội thất lớn nhất cả nước như Hà Nội, Hải Dương, thành phố Hồ Chí Minh…trong đó thị phần Hà Nội chiếm tỷ trọng cao nhất. Tỷ trọng sản lượng và doanh thu tiêu thụ về sản phẩm nội thất luôn chiếm tỷ trọng cao, các thành phố lớn trong đó có Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh chiếm gần 50% tổng mức sản lượng tiêu thụ toàn ngành.

Vì môi trường nội thất phụ thuộc vào lượng dân và mức thu nhập nên càng các tỉnh, thành phố có đông dân cư tỷ trọng tiêu thụ sản phẩm càng cao, riêng các tỉnh miền bắc bộ tiêu thụ trung bình khoảng 15% tổng sản lượng, còn lại là các tỉnh khác trên cả nước

Là một ngành kinh tế trong tổng thể nền kinh tế của Việt nam, ngành nội thất nói chung và thị trường ngành này nói riêng cũng chịu nhiều ảnh hưởng của các yếu tố như:

      Nhân tố khách quan:

          Nhà cung ứng: nhà cung ứng là người quyết định tăng gia hay giảm chất lượng đầu vào cũng như các dịch vụ bổ trợ, sẽ là người ảnh hưởng trực tiếp đến kế hoạch kinh doanh chung, giá thành sản phẩm. Những biến động của nhà cung ứng sẽ làm ách tắc trong giao hàng, gây ra những biến động tới kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiêp trong ngành.

          Đối thủ cạnh tranh:

Để mở rộng thị trường, các doanh nghiệp cần nghiên cứu các đối thủ cạnh tranh từ góc độ của người khách hàng. Một vấn đề mà khách hàng thường quan tâm là khả năng thay thế việc sử dụng hàng hóa hay dịch vụ của một doanh nghiệp bằng một giải pháp khác đối với một vấn đề cụ thể mà khách hàng cần giải quyết. Việc tìm điểm mạnh, điểm yếu của đối thủ cạnh tranh là một khâu vô cùng quan trọng để từ đó có những biện pháp lôi kéo được khách hàng. Và ngày nay thì một xu hướng không còn mới mẻ đó là sự bắt tay giữa các đối thủ cạnh tranh, hợp tác, biến đối thủ thành đối tác.

       Khách hàng: Đây là yếu tố vô cùng quan trọng quyết định đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Nó phụ thuộc vào tập tính, nhu cầu, thu nhập cũng như thị hiếu tiêu dùng của khách hàng. Vì thế, các doanh nghiệp nói chung cũng như các doanh nghiệp nội thất nói riêng cần nghiên cứu, phân tích các yếu tố này để có thể đưa ra các chiến lược marketing phù hợp.

      Thị trường: bao gồm các yệu tố như cung, cầu thị trường, giá cả và sự cạnh tranh. Hoạt đông của thị trường tuân theo những quy luật nhất định về cung, cầu...Năm 2010, các thị trường chính của ngành nội thất Việt Nam như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Anh, Canada, Đức, Pháp, Úc, Hà Lan. Trong đó Hoa Kỳ là nhà nhập khẩu hàng nội thất lớn nhất của Việt Nam. Hoa Kỳ đặc biệt nhập khẩu đồ nội thất, đồ gỗ trang bị phòng ngủ và đồ dúng nhà bếp bằng gỗ từ Việt Nam. Kim ngạch xuất khẩu từ Việt Nam sang Hoa Kỳ tăng 15%/năm giai đoạn 2006-2010. Cũng thời gian này, đối thủ cạnh tranh chính của Việt Nam như Trung Quốc, Ý, Đức, Phần Lan, Hoa Kỳ....Năm 2010, Trung Quốc là nước xuất khẩu nội thất lớn nhất thế giới. Nước này đã xuất trên 18.048 triệu USD trong năm 2010, tăng 15%/năm trong giai đoạn 2006-2010. Đặc biệt hiện nay mặt hàng đồ nội thất gỗ và tre mây của Trung Quốc đang đạt mức tăng trưởng cao, là những mặt hàng xuất khấu phổ biến từ nước này. Ngoài ra, các quốc gia Ý (giá trị đạt trên 7 tỷ USD, nhưng tăng trưởng giảm 3% và Đức đạt giá trị 6.639 triệu USD, tăng 3% tương ứng) cũng là những đối thủ cạnh tranh lớn của Việt Nam. Việt Nam đã xuất khẩu trên 3 tỷ USD nhóm hàng này trong năm 2010, với tốc độ tăng trưởng hàng năm 11% trong giai đoạn trên.

:             Nhân tố chủ quan: là những nhân tố thuộc về doanh nghiệp như:

        Tiềm lực lực tài chính

       Tiềm lực con người: Ngành Nội thất không ngừng mở rộng liên kết với các tổ chức, các doanh nghiệp, các chuyên gia uy tín trong lĩnh vực đào tạo, thiết kế, trang trí, thi công, kinh doanh và cung cấp vật liệu trang trí nội thất v.v… để tạo nhịp cầu nối cần thiết thông qua các buổi học ngoại khóa, thăm quan xưởng sản xuất, xây dựng các buổi thảo luận chuyên đề cho sinh viên tiếp cận với thực tế

.

Tiềm lực về công nghệ: ngành nội thất cũng đang từng bước áp dụng khoa học công nghệ hiện đại vào các lính vực khác nhau để kịp thời đáp ứng nhu cầu, thị hiếu vốn rất đa dạng, phong phú của khách hàng.

        Các yếu tố thuộc về quản lý: Đội ngũ quản lý còn non trẻ ít kinh nghiệm là tình hình của các doanh nghiệp trong nền kinh tế Việt Nam nói chung. Và ngành nội thất cũng không nằm ngoài số đó. Nhưng với sự nỗ lực trong đào tạo công tác quản lý, niềm đam mê học hỏi kinh nghiệm từ các nước bạn có trình độ quản lý cao thì trong tương không xa trình độ quản lý của đội ngũ cán bộ nhân viên quản lý trong ngành sẽ đáp ứng được đòi hỏi của sự phát triển ngành nội thất là chuyện không mấy đáng ngạc nhiên.

1.2.2.

Thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ngành nội thất

Nội thất là ngành kinh tế có tiềm năng phát triển ở Việt Nam. Chắc hẳn những người làm trong ngành nội thất không thể không biết đến các tập đoàn, doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh nội thất như Phố Xinh, Nhà xinh, Fami.v.v...Và đặc biệt không thể không kể đến tập đoàn lớn Hòa Phát.

Khởi đầu từ một công ty chuyên buôn bán các loại máy xây dựng từ

tháng 8/1992

,

Tập đoànHòa Phát

đã trở thành

một trong những

tập đoàn tư nhân lớn nhất Việt Nam

gồm

11 công ty thành viên

(tháng 1 năm 2010)

với các nhà máy tại

Hà Nội

,

Hưng Yên

,

Hải Dương

,

Lào Cai

,

Yên Bái

,

Hà Giang

,

Thành phố Hồ Chí Minh

,

Bình Dương

và có lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác nhau như ống thép, nội thất, thép, điện lạnh, bất động sản.v.v...Trong đó nội thất (bắt đầu năm 1995) là một trong những ngành đầu tàu của doanh nghiệp này.

Nhu cầu trang hoàng không gian sinh hoạt tiện nghi, hiện  đại, hay thiết lập không gian học tập, làm việc chuyên nghiệp, lịch sự... đang ngày càng tăng cao khi nền kinh tế Việt Nam đang có những bước chuyển mình rõ rệt trong giai đoạn hòa nhập với xu hướng toàn cầu. Đáp ứng được nhu cầu này đồng nghĩa với việc doanh thu của các doanh nghiệp kinh doanh sản phẩm nội thất ngày càng tăng cao. Vậy là một trong những công ty với thương hiệu có danh tiếng trong thị trường đồ nội thất, thực trạng của tập đoàn này trong những năm qua như thế nào?

Thành quả lớn nhất mà Nội thất Hòa Phát gây dựng được sau 17 năm xây dựng và phát triển không chỉ là thương hiệu lớn mạnh và hệ thống cơ sở vật chất được đầu tư bài bản… mà là niềm tin của người tiêu dùng, đại lý phân phối, đối tác bạn hàng về một thương hiệu nội thất dẫn đầu ngành hàng. Với mục tiêu sản xuất những sản phẩm nội thất Việt có chất lượng cao, đáp ứng thị hiếu và thói quen tiêu dùng của người dân Việt Nam, Công ty mạnh dạn nhập thiết bị, máy móc, công nghệ đầu tư sản xuất vào loại lớn nhất và hiện đại nhất so với các doanh nghiệp sản xuất hàng nội thất tại Việt Nam. Từ bước khởi đầu mạnh dạn và đầy bản lĩnh đó, Công ty Nội thất Hòa Phát ngày càng có những bước phát triển mạnh mẽ và tạo dựng được vị thế vững chắc, trở thành một trong những thương hiệu đứng đầu thị trường nội thất Việt Nam. Với hơn 1000 sản phẩm đa dạng mẫu mã, phong phú về chủng loại, Nội thất Hòa Phát tự hào đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao của khách hàng. Từ những chiếc ghế xoay văn phòng đầu tiên, đến nay, Nội thất Hòa Phát đã sản tung ra thị trường mười dòng sản phẩm tập trung ở bốn lĩnh vực: Nội thất văn phòng, gia đình, trường học và khu công cộng.

Không ngừng trưởng thành và vững mạnh, giữ vững vị thế của một đơn vị dẫn đầu trong lĩnh vực sản xuất và kinh doanh các sản phẩm nội thất, năm 2008, Công ty Nội thất Hòa Phát đã đạt doanh thu thuần 1000 tỷ đồng, kim ngạch xuất khẩu đạt gần 2 triệu USD, tốc độ tăng trưởng luôn duy trì ở mức gần 20%. Tính đến hết tháng 9/2009, doanh thu và lợi nhuận đã đạt được mục tiêu kế hoạch công ty đề ra so với mức cùng kỳ tăng trưởng hàng năm

.

Trong suốt những năm qua, Nội thất Hòa Phát liên tục giữ vững danh hiệu đầu ngành trong cuộc Bình chọn Hàng Việt Nam chất lượng cao, Top dẫn đầu ngành hàng, Thương hiệu nổi tiếng, chứng nhận VNR500 – bảng xếp hạng 500 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam về doanh thu và đón nhận thêm nhiều cờ thưởng, bằng khen… của các ngành, các cấp.

Cùng với hoạt động quảng cáo và phân tích thị trường, sản phẩm đồ gỗ nội thất của công ty chiếm tỷ trọng ngày càng cao trên thị trường nội thất, văn phòng trong nước, thương hiệu của công ty ngày càng được khẳng định, Hòa Phát đang có lợi thế về đa dạng sản phẩm và công ty cũng không ngừng đưa ra những kiểu dáng mới, dòng hàng mới để đáp ứng nhu cầu của thị trường, đồng thời với hệ thống dây chuyền máy móc hiện đại nhập từ nước ngoài. Gần 3.000 cán bộ công nhân viên của nội thất Hòa Phát đang tận dụng mọi nguồn lực, khả năng cũng như công nghệ để đáp ứng tối đa nhu cầu của thị trường. Tính đến giữa tháng 5 năm 2011, công ty sản xuất nội thất Hòa Phát ước được gần 5.000 sản phẩm bàn ghế các loại, tăng 28% so với cùng kì năm trước. Hoạt động sản xuất của công ty Hòa Phát tăng khá cao do công ty đưa ra nhiều sản phẩm bàn ghế có mẫu mã mới, đẹp, hiện đại, đồng thời tiếp thị đẩy mạnh thị trường.

17 năm xây dựng và phát triển, thành quả của Nội thất Hòa Phát được khẳng định bằng vị trí hàng đầu tại Việt Nam với cơ sở sản xuất khang trang hiện đại bậc nhất khu vực Đông Nam Á, mạng lưới đại lý trải rộng trên 62 tỉnh thành của cả nước và đã vươn ra các nước bạn. Không những thế, Nội thất Hòa Phát đã tạo dựng được uy tín với đối tác, bạn hàng đồng thời luôn là doanh nghiệp đi đầu trong việc đóng góp ngân sách và tạo công ăn việc làm cho người lao động, tham gia các hoạt động cộng đồng, hoạt động từ thiện, giao lưu văn hóa, xúc tiến thương mại tại nhiều địa phương.

Nói về chặng đường đã qua của Nội thất Hòa Phát, ông Doãn Gia Cường – Giám đốc Công ty nhấn mạnh đến hai chữ “niềm tin”. Đối với người tiêu dùng, Nội thất Hòa Phát đã tạo dựng được niềm tin về chất lượng, mẫu mã sản phẩm và uy tín thương hiệu. Đối với các đại lý phân phối, đó là niềm tin về khả năng cung ứng hàng, chế độ sau bán hàng và những giá trị Công ty tạo dựng cho hệ thống phân phối. Đối với các đối tác bạn hàng, đó là niềm tin về cách thức hợp tác bài bản và chuyên nghiệp. Công ty đã

gây dựng những niềm tin để tạo thành nền tảng cho sự phát triển của Công ty nói chung và thương hiệu Nội thất Hòa Phát nói riêng. Ngay từ khi thành lập, Ban lãnh đạo Công ty Nội thất Hòa Phát đã luôn chú trọng và đề cao phương châm “Nhân lực là gốc cho sự phát triển”. Để làm thực hiện tốt phương châm này, Nội thất Hòa Phát luôn chú trọng đào tạo và phát triển nhân sự; xây dựng và tối ưu hóa chính sách đãi ngộ và phúc lợi, xây dựng môi trường làm việc chuyên nghiệp, thân thiện, góp phần xây dựng văn hóa Tập đoàn. Những chính sách phát triển nguồn nhân lực đúng đắn đã tạo nên thế mạnh lớn của Nội thất Hòa Phát, là tiền đề quan trọng cho thành công của Công ty trong suốt 14 năm qua.

III.

Tác động của lạm phát tới hoạt động các doanh nghiệp ngành nội thất (2009-2011).

a.         Doanh thu

Để thấy được tác động của lạm phát tới doanh thu ta đi xem xét số liệu về doanh thu của công ty hòa phát cùng với tỷ lệ lạm phát trong 4 năm trở lại đây

2008

2009

2010

        2011

Doanh thu (tỷ đồng)

8,364

8,123

14,267

17,835

Tỷ lệ lạm phát (%)

19.87

6.52

11.75

18.23

Nguồn: cafef.vn

Dễ dàng nhận thấy ở đây, khi lạm phát tăng thì dẫn đến doanh thu tăng, lạm phát giảm dẫn đến doanh thu giảm. Hai yếu tố này có mối quan hệ tương quan với nhau. Nhưng vì sao lại xảy ra hiện tượng này thì chúng tôi giải thích như sau:

Thứ nhất, do lạm phát tăng làm tăng giá của các mặt hàng  và không như các mặt hàng tiêu dùng và mặt hàng có giá trị thấp, giá của các mặt hàng về nội thất khá cao nên khi tăng giá sẽ tăng ở một mức cao hơn so với mặt hàng khác rất nhiều, làm cho tỷ lệ tăng giá của mặt hàng này cao hơn tỷ lệ lạm phát trung bình của các loại mặt hàng khác. Vì vậy, dẫn đến tình trạng cho dù sản lượng bán ra dù không tăng thì doanh thu của doanh nghiệp vẫn sẽ tăng lên một cách đáng kể.

Thứ hai, do đồ nội thất không phải là loại mặt hàng giá trị thấp nên khi dự định mua của người mua ít bị chi phối bới giá cả mặt hàng. Đối với khách hàng, những hiểu biết của công ty về chính khách hàng của mình sẽ quyết định khả năng thành công của kế hoạch tăng giá sản phẩm trong thời kì lạm phát. Rõ ràng, công ty sẽ dễ dàng thương lượng tăng giá với những khách hàng theo đuổi chất lượng, đánh giá cao sự đổi mới và độ tin cậy của sản phẩm hơn đối tượng chú trọng đến giá cả. Tức nếu khách hàng lựa chon mua loại mặt hàng đó, sau khi xem xét kiểu dáng, mẫu mã, chất lượng của mặt hàng thì họ sẽ vẫn quyết định mua mặc dù giá mặt hàng đã tăng lên (với một gía trị nhỏ đối với tổng giá trị sản phẩm). Vì vậy, sản lượng tiêu thụ ở thị trường tiềm năng của doanh nghiệp hầu như không giảm.

Thứ ba, do lạm phát cao cùng với tâm lý hoang mang của người tiêu dùng lo sợ đồng tiền sẽ mất giá thì thay vì nắm giữ tiền họ sẽ quyết định đầu tư vào các mặt hàng có giá trị lớn trong gia đình ngoài các thiết bị điện tử thì mặt hàng tiếp theo người tiêu dùng hướng đến đó là đồ nội thất. Thay vì việc phân vân giữa mua hay không thì người tiêu dùng nhận thấy loại mặt hàng này hầu như chỉ có tăng không có giảm nên họ sẽ lựa chon mua sớm hơn so với dự định ban đầu. Vì vậy, sản lượng ngành nội thất có thể sẽ tăng khi lạm phát tăng lên góp phần làm tăng doanh thu của doanh nghiệp.

Vậy, giữa lạm phát và doanh thu có mối quan hệ thuận, cùng tăng hoặc cùng giảm. 

b.         Chi phí

Lạm phát tăng làm cho chí phí tăng là điều tất yếu nó không chỉ đúng với các doanh nghiệp ngành nội thất mà nó còn đúng với tất cả các doanh nghiệp khác.

Nhân tố đầu tiên và trực tiếp làm chi phí tăng lên, đó chính là chi phí nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ. Do lạm phát tăng làm cho giá các mặt hàng nguyên vật liệu đầu vào tăng, từ đó làm tăng chi phí sản xuất của doanh nghiệp nội thất. Thêm  vào đó nguyên vật liệu của ngành lại thuộc nhiều nguồn, thông qua nhiều bước chế biến  mới có được sản phẩm hoàn chỉnh, mà qua mỗi bước lại phát sinh thêm chi phí mới làm tăng tổng chi phí để hoàn thành sản phẩm. Mặt khác, các doanh nghiệp này vị này hoạt động trong các thị trường hết sức năng động với đặc trưng chi phí tăng được chuyển xuống chuỗi giá trị. Thông thường trong các công ty thuộc nhóm này phần lớn chi phí giành cho nguyên liệu thô, bởi vậy mà chúng phải chịu ảnh hưởng lớn khi xảy ra lạm phát chi phí. Nhưng đồng thời, các công ty này cũng có thể chuyển phần tăng chi phí sang phía khách hàng nhờ có vòng định giá ngắn hoặc năng lực định giá cao. Nhiều đơn vị bán lẻ có thể thuộc nhóm này vì chi phí nguyên liệu lớn và dễ thay đổi trong khi năng lực quản lý giá của họ cũng rất tốt. Nhân tố mang lại thành công cho các công ty thuộc nhóm này chính là tốc độ và sự phối hợp. Chỉ khi biết rõ chi phí đầu vào hiện tại và có thông tin tại thời gian thực về giá sản phẩm của chính công ty và của các đối thủ cạnh tranh thì công ty đó mới có thể ứng phó hiệu quả trong môi trường luôn biến đổi nhanh chóng. Trong trường hợp này, cần phải thiết lập sự phối hợp chặt chẽ giữa bộ phận bán hàng và bộ phận thu mua, cung ứng. Khi chi phí đầu vào tăng, bộ phận bán hàng sẽ được thông tin tức thời để điều chỉnh giá bán. Tương tự, khi giá bán tăng lên, bộ phận cung ứng cũng cần nhanh chóng nắm rõ được tác động của việc tăng giá đến số lượng hàng hóa bán ra để có thể tối ưu hóa chiến lược thu mua.  Các thông tin về động thái của thị trường được thu thập để đánh giá mức độ ảnh hưởng của lạm phát sẽ giúp công ty cân nhắc có nên tăng giá để thu lợi nhuận lớn hơn với thị phần giảm và sản xuất ít hay không.

Nhân tố thứ hai, đây là nguyên nhân gián tiếp làm tăng chi phí sản xuất, song lại đóng vai trò quan trọng trong việc làm tăng chi phí sản xuất. Do lạm phát tăng nên giá các mặt hàng tiêu dùng cũng tăng, làm cho đời sống công nhân viên khó khăn, đòi hỏi doanh nghiệp phải tăng lương cho công nhân viên, và đó là một khoản không nhỏ đóng góp vào chi phí sản xuất của doanh nghiệp.

Tuy nhiên, chí phí cũng có tác động ngược trở lại đối với lạm phát. Chi phí càng cao càng tạo động cơ cho lạm phát tăng, khhi đó xảy ra hiện tượng lạm phát do chi phí đẩy.

c.

Lợi nhuận

Mức độ ảnh hưởng của lạm phát đến lợi nhuận của công ty lớn hay nhỏ phụ thuộc vào hai yếu tố. Một là khả năng hạn chế sự tăng giá từ phía nhà cung cấp. Hai là khả năng định giá sản phẩm cao hơn mà khách hàng vẫn chấp nhận. Và mục tiêu ở đây không phải là bảo vệ công hoàn toàn với lạm phát, và điều này rõ ràng là không thể thực hiện được. Thay vào đó, công ty cần chắc chắn rằng chi phí đầu vào tăng chậm hơn mức tăng của giá bán ra.

Xác định ảnh hưởng của lạm phát liên quan đến việc đánh giá tác động có thể có của lạm phát đối với lãi/lỗ của công ty. Lạm phát tác động đến các loại chi phí khác nhau của công ty ở mức độ nào? Và công ty có thể tăng giá sản phẩm lên bao nhiêu trong thời kì lạm phát? Doanh nghiệp sẽ phải lựa chọn giữa 2 phương án:

 Thứ nhất, tăng giá để đảm bảo và tăng cao lợi nhuận trong thời kỳ lạm phát. Lựa chọn nay đặt mục tiêu lợi nhuận lên hàng đầu. Với lựa chọn này, doanh nghiệp sẽ đảm bảo được lợi nhuận của mình thông qua việc bán với giá cao hơn nhưng về lâu dài nó lại làm mất lòng tin của khách hàng, giảm thị phần của doanh nghiệp trên thị trường. Vì vậy, về lâu dài, lựa chọn này lợi nhuận sẽ không được đảm bảo tính ổn định.

Thứ hai, giữ nguyên giá để tạo uy tín và lòng tin trong lòng khách hàng, đồng thời, tăng thị phần của doanh nghiệp trên thị trường. Nhưng đi kèm với lựa chọn này đó chính là lợi nhuận thu được kém thậm chí gây lỗ cho doanh nghiệp nếu chi phí đầu vào quá cao. Tuy nhiên, về lâu dài, mục tiêu lợi nhuận của doanh nghiệp lại được đảm bảo.

d.         Thị trường

Như trên phần tác động của lạm phát chúng tôi cũng đã đề cập đến ván đề: lạm phát có tác động thay đổi cơ cấu ngành kinh tế. Cũng tương tự như vậy, đối với doanh nghiệp, khi giá của mặt hàng do doanh nghiệp kinh doanh tăng với tốc độ nhanh hơn so với tốc độ trung bình của cả nền kinh tế thì nguồn tiền đầu tư vào ngành đó cao hơn. Nội thất là một ví dụ, như phân tích ở phân trên, sản lượng của ngành nội thất khá ổn định và có thể tăng lên khi lạm phát tăng, làm cho doanh thu của doanh nghiệp tăng lên, tỷ trọng GDP đóng góp cho ngành  tăng lên, thu hút nguồn vốn đầu tư cho doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp có cơ hội mở rộng quy mô sản xuất cũng như thị trường tiêu thụ sản phẩm.

Tuy nhiên, lạm phát cũng gây ra tình trạng thiếu tiền vì các doanh nghiệp không khai thác được nguồn tín dụng cho việc duy trì sản xuất của mình. Lạm phát sẽ gây khó khăn cho hoạt động của ngân hàng, nguồn cung cấp vốn cho các doanh nghiệp. Đối với hoạt động huy động vốn: do lạm phát tăng cao, việc huy động vốn của các ngân hàng gặp nhiều khó khăn. Để huy động được vốn, hoặc không muốn vốn từ ngân hàng mình chạy sang các ngân hàng khác, thì phải nâng lãi suất huy động sát với diễn biến của thị trường vốn. Nhưng nâng lên bao nhiêu là hợp lý, luôn là bài toán khó đối với mỗi ngân hàng. Một cuộc chạy đua lãi suất huy động ngoài mong đợi tại hầu hết các ngân hàng (17% – 18%/năm cho kỳ hạn tuần hoặc tháng), luôn tạo ra mặt bằng lãi suất huy động mới, rồi lại tiếp tục cạnh tranh đẩy lãi suất huy động lên, có ngân hàng đưa lãi suất huy động gần sát lãi suất tín dụng, kinh doanh ngân hàng lỗ lớn nhưng vẫn thực hiện, gây ảnh hưởng bất ổn cho cả hệ thống NHTM.

Lạm phát tăng cao, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) phải thực hiện thắt chặt tiền tệ để giảm khối lượng tiền trong lưu thông, nhưng nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp và cá nhân kinh doanh vẫn rất lớn, các ngân hàng chỉ có thể đáp ứng cho một số ít khách hàng với những hợp đồng đã ký hoặc những dự án thực sự có hiệu quả, với mức độ rủi ro cho phép. Mặt khác, do lãi suất huy động tăng cao, thì lãi suất cho vay cũng cao, điều này đã làm xấu đi về môi trường đầu tư của ngân hàng, rủi ro đạo đức sẽ xuất hiện. Do sức mua của đồng Việt Nam giảm, giá vàng và ngoại tệ tăng cao, việc huy động vốn có kỳ hạn từ 6 tháng trở lên thật sự khó khăn đối với mỗi ngân hàng, trong khi nhu cầu vay vốn trung và dài hạn đối với các khách hàng rất lớn, vì vậy việc dùng vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn trong thời gian qua tại mỗi ngân hàng là không nhỏ. Điều này đã ảnh hưởng đến tính thanh khoản của các ngân hàng, nên rủi ro kỳ hạn và rủi ro tỷ giá xảy ra là điều khó tránh khỏi.

Do lạm phát cao, không ít doanh nghiệp cũng như người dân giao dịch hàng hóa, thanh toán trực tiếp cho nhau bằng tiền mặt, đặc biệt trong điều kiện lạm phát, nhưng lại khan hiếm tiền mặt. Theo điều tra của Ngân hàng thế giới (WB), ở Việt Nam có khoảng 35% lượng tiền lưu thông ngoài ngân hàng, trên 50% giao dịch không qua ngân hàng, trong đó trên 90% dân cư không thanh toán qua ngân hàng. Khối lượng tiền lưu thông ngoài ngân hàng lớn, NHNN thực sự khó khăn trong việc kiểm soát chu chuyển của luồng tiền này, các NHTM cũng khó khăn trong việc phát triển các dịch vụ phi tín dụng, đặc biệt là dịch vụ thanh toán qua ngân hàng. Vốn tiền thiếu, nhiều doanh nghiệp thực hiện mua chịu, bán chịu, công nợ thanh toán tăng, thoát ly ngoài hoạt động.

Như vậy lạm phát tăng cao đã làm suy yếu, thậm chí phá vỡ thị trường vốn, ảnh hưởng lớn đến hoạt động của các NHTM. Vì vậy,nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp bị ứ đọng tại ngân hàng, khi đó không có vốn doanh nghiệp có muốn mở rộng thị trường cũng không có khả năng.

Một mặt nữa, lạm phát làm cho môi trường cạnh tranh trên thị trường tiêu thụ trở nên bất cân bằng hơn, thị trường hoạt động của doanh nghiệp trở nên bất ổn khó đoán, làm sai lệch mục tiêu, định hướng kế hoạch của doanh nghiệp.

Hầu hết các công ty đều phải cạnh tranh trong những phân khúc thị trường và sản phẩm đa dạng, mà mỗi phân khúc có những tính chất, mức độ cạnh tranh riêng biệt. Mức độ cạnh tranh có ảnh hưởng lớn đến các tác động do quyết định liên quan đến giá cả sản phẩm của công ty gây ra, cho nên mức độ cạnh tranh cũng là một yếu tố cần phải đánh giá. Ví dụ khi thị trường có khá nhiều nhà cung cấp phục vụ cho một số lượng nhỏ khách hàng thì công ty sẽ rất khó tăng giá. Ngược lại, khi thị trường có rất ít nhà cung cấp nhưng lại phục vụ số lượng khách hàng lớn thì công ty có thể điều chỉnh giá dễ dàng hơn. Đương nhiên trong trường hợp này các đối thủ cạnh tranh cũng tăng giá và không có cuộc chiến giá cả nào xảy ra.

IV.

Biện pháp khắc phục

1.

Biện pháp kiềm chế lạm phát

        Một mặt, để điều tiết và kiềm chế lượng cầu đang gây sức ép làm xuất hiện và gia tăng” lạm phát cầu kéo”, chính phủ cần tăng cường những giải pháp tài chính-tiền tệ theo hướng xiết chặt, bao gồm giảm phát hành tiền, thu hẹp tín dụng, nâng tỉ lệ dự trữ bắt buộc, tăng lãi suất, phát hành công trái và khuyến khích gửi tiết kiệm, tăng thu ngân sách, giảm chi tiêu của chính phủ-nhất là chi tiêu phi sản xuất và điều chỉnh quy mô, tốc độ đầu tư xây dựng cơ bản theo hướng thu hẹp va chạm hơn…; tăng thu hồi nợ, chống thất thoát và lãng phí chi ngân sách, cắt giảm biên chế hành chính nhà nước. Trong những trường hợp nhất định, chính phủ có thể tung vàng và ngoại tệ ra để bán rút bớt bản tệ trong lưu thông và ổn định giá bản tệ…Đương nhiên, không nhất thiết buộc phải áp dụng  cùng lúc tất cả các giải pháp trên, mà tùy thuộc vào những nguyên nhân cụ thể trực tiếp làm tăng cầu gây ra lạm phát để triển khai những giải pháp cụ thể nhằm loại trừ chúng. Đồng thời, cũng cần chú ý đến tính chất đồng bộ của các giải pháp kiềm chế tổng cầu, nếu không sẽ gây tình trạng trung hòa, thậm chí triệt tiêu lẫn nhau các tác dụng giảm cầu kiềm chế lạm phát của những chính sách nhà nước hiện hành (chẳng hạn, việc tăng lãi suất tiền gửi và cho vay sẽ bị mất tác dụng đáng kể nếu chính phủ tiếp tục tăng phát hành tiền hoặc mở rộng tín dụng….).

        Mặt khác, để thúc đẩy tổng cung, giảm thiếu hụt, khan hiếm và đáp ứng với sự tăng trưởng tổng cầu, trên thực tế có nhiều cách, từ phát triển sản xuất hàng hóa, gia tăng dịch vụ bằng việc khai thác động viên những nguồn lực tiềm năng trog nước, đến việc bổ sung bằng nguồn hàng và dịch vụ nhập khẩu bên ngoài.

       Nếu lạm phát là do chi phí đẩy, thì cần đổi mới công nghệ, cải tiến quản lý và tăng năng suất, hạ giá thành sản phẩm và dịch vụ cung ứng. Tạo điều kiện cho sự cạnh tranh tự do và bình đẳng là điều cần thiết cả cho việc tăng tổng cung, lẫn giảm chi phí sản xuất, cũng như cho việc thực hiện kiểm soát tiền lương và giá cả… Thậm chí để ưu tiên chống lạm phát, cần chấp nhận sự gia tăng trong “ngưỡng” có thể của tình trạng thất nghiệp và phá sản các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả.

      Nếu lạm phát liên quan đến các yếu tố bên ngoài (lạm phát nhập khẩu do giá cả quốc tế tăng, do môi trường kinh doanh khu vực xấu đi vì những bất ổn kinh tế-tài chính-tiền tệ, chính trị, lạm phát do thiên tai, dịch họa…) thì việc khắc phục sẽ phức tạp hơn và không chỉ trông cậy vào các chính sách đối nội và nguồn lực trong nước. Khi đó, vai trò của các chính sách đối ngoại và kinh tế đối ngoại, của sự phối hợp các nỗ lực giữa các chính phủ và huy động các nguồn trợ lực từ bên ngoài có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.

      Nếu lạm phát liên quan đến những nhân tố hoặc thuộc về cơ cấu, hoặc về đầu cơ, tâm lý hoặc những điều hành tỉ giá bất cập so với thực tiễn trong và ngoài nước….thì cần có những điều chỉnh tương ững về mặt cơ cấu, tỷ giá hoặc giải tỏa yếu tố tâm lý, chống đầu cơ.

      Đặc biệt, khi lạm phát xảy ra do đồng thời nhiều nguyên nhân và đi kèm với suy thoái kinh tế, thì nhiệm vụ đối phó với lạm phát sẽ phức tạp và khó khăn hơn rất nhiều; bơi lẽ, nhiều khi những giải pháp chống lạm phát và những giải pháp chống suy thoái tác động ngược chiều nhau.  Thành thử, khi đó phải lựa chọn mục tiêu: ưu tiên chống lạm phát trước, chống suy thoái sau hay ngược lại… Quyết định đưa ra sẽ phải căn cứ vào những nguyên  nhân cụ thể gây ra lạm phát và gây suy thoái, từ đó mới có thể tìm ra những “điểm tựa”, nút thắt để giải quyết các vấn đề đặt ra.

      Ở khía cạnh khác, không ngoại trừ phương cách đối phó với lạm phát bằng cách “chung sống hòa bình” với lạm phát, cụ thể là “ chỉ số hóa” lạm phát và hoàn thiện những kĩ thuật thích ứng nhằm “ miễn dịch” một phần hoặc hoàn toàn những tác hại do tăng giá nói chung. Thông thường phương cách này được lựa chon khi chính phủ nước đang phát triển buộc phải ưu tiên cho mục tiêu giảm thất nghiệp và tăng trưởng kinh tế để ổn định kinh tế ổn định chính trị-xã hội. Hơn nữa, thực tiễn hiện nay cho thấy, không có một nước nào trong một thời gian dài có thể đạt được trạng thái vĩ mô lý tưởng với sự hội tụ cùng lúc sự kinh doanh tự do, việc làm đầy đủ và không có lạm phát.

     Riêng đối với loại lạm phát liên quan đến 4 yêu tố: tài chính- tín dụng, tiền tệ, giá cả và tiền lương thì “thuốc” chống lạm phát của các nhà kinh tế học phương Tây về đại thể chia làm 3 phương thức:

        _Thứ nhất, phương thức “đóng băng” đối với 4 yếu tố (tài chính-tín dụng, tiền tệ và lương) được chỉ định dùng đối phó với loại lạm phát gắn liền với chiến tranh hay siêu lạm phát. Nếu cần áp dụng biện pháp cải cách tiền tệ, theo 3 phương pháp: 1) loại bỏ tiền giấy cũ không được bồi hoàn và thay bằng đồng tiền khác, thường là đổi được lấy vàng như áp dụng từ thế kỷ XVIII; 2) thay thế tiền cũ bị mất giá mạnh bằng loại tiền mới có mệnh giá nhỏ hơn, nhưng được bảo đảm giá trị; sự thay thế được tiến hành theo nguyên tắc tương đương về tổng giá trị danh nghĩa giữa hai loại tiền, với tỉ lệ quy đổi do nhà nước quy định; 3) đổi tiền cũ mất giá lấy loại tiền mới có nội dung vàng hoặc có giá trị tương đương hạ thấp hơn trước lạm phát.

          -Thứ hai, phương thức “mềm dẻo” đối với 4 yếu tố, chủ trương “dùng lạm phát trị lạm phát”, bao gồm hai nhóm biện pháp:

           +Nới lỏng chính sách tài chính - tín dụng (giảm thuế, giảm lãi suất ngân hàng, mở rộng tín dụng).

            +Tăng cường sự can thiệp của nhà nước vào 4 yếu tố như giảm thuế, giảm lãi suất, khuyến khích đầu tư tăng trưởng kinh tế, giảm thất nghiệp; kiểm soát giá cả, tỷ giá hối đoái và kiểm soát lương. Chỉ số hóa hệ thống tài chính – tín dụng, tiền tệ, tiền lương, tức là tính tỉ lệ trượt giá trong thuế suất, lãi suất và tiền lương như đã áp dụng ở AcShentina, Côlômbia, Urugoay, Chilê, Braxin và Ixrael…

          -Thứ  ba, phương thức “trung hòa”, hay trung gian áp dụng cả hai phương thức trên để điều chỉnh lạm phát, trung hòa các tác động xấu đến đời sống của phương thức “đóng băng” và tác động làm rối loạn thêm giá cả của phương thức “mềm dẻo” nhằm chống lạm phát- suy thoái (một căn bệnh kinh tế thường gặp ở phương Tây thập kỉ 70 và 80, và gây ra tình trạng tiến thoái lưỡng nan: hoặc tăng tổng chi tiêu để hạn chế suy thoái hoặc phải giảm chi tiêu để giảm lạm phát).

      Lạm phát diễn ra trong các nền kinh tế chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường cũng mang đầy đủ các nguyên lý và đặc điểm chung về nguyên nhân và giải pháp như ở các nước có nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, việc khảo sát quá trình lạm phát ở các nền kinh tế chuyển đổi trên thế giới trong thập kỷ 90 cho thấy điểm nổi bật chung và phân biệt với lạm phát ở các nền kinh tế thị trường là sự kết hợp đồng thời và phức tạp giữa các nguyên nhân khác nhau, thậm chí vận động trái chiều nhau, giữa lạm phát cầu, lạm phát giá cả và lạm phát tiền tệ, cũng như khiến tốc độ lạm phát thời kì đầu chuyển đổi thường rất cao, khiến diễn biến phức tạp hơn, thường đi kèm với suy thoái kinh tế. Hơn nữa, các đối tượng tiếp nhận sự điều tiết thị trường cũng như sự điều chỉnh của nhà nước thường có những phản ứng không hoàn toàn giống như các đối tượng tương tự (nhân dân, doanh nghiệp) trong các nền kinh tế thị trường phát triển lâu đời. Bởi vậy, các giải pháp đối phó với lạm phát trong nền kinh tế chuyển đổi đòi hỏi tính tổng thể cũng như đặc thù cao hơn so với lạm phát trong các nền kinh tế thị trường khác.

Về nguyên tắc, những giải pháp chống lạm phát trong các nước này không thể không bao quát các vấn đề sau:

      -Thủ tiêu kế hoạch hóa tập trung, xóa bỏ cơ chế quản lý hành chính quan liêu, sự can thiệp trực tiếp sâu rộng của nhà nước vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.

      -Tháo dỡ độc quyền nhà nước, phát triển khu vực kinh tế tư nhân. Tự do hóa các hoạt động sản xuất kinh doanh và mở cửa nền kinh tế.

      -Tự do hóa giá cả thương mại và ngoại thương, thực hiện chế độ mới một tỷ giá ngoại hối cho toàn bộ nền kinh tế và được điều tiết chủ yếu theo cung-cầu thị trường.

      -Cải tổ hệ thống ngân hàng từ một cấp thành hai cấp, kinh doanh theo nguyên tắc thị trường. Tôn trọng các quy luật lưu thông tiền tệ, quy luật giá trị và các quy luật khác của nền kinh tế thị trường.

       -Điều tiết thu nhập cá nhân theo những mục tiêu kinh tê – xã hội đã định, không thoát ly nguồn gốc lao động của chúng. Cải thiện cân đối cán cân mậu dịch, thanh toán, thu-chi ngân sách và cơ cấu kinh tế quốc gia cho phù hợp tình hình thực tiễn mỗi nước và yêu cầu của thị trường thế giới. Hình thành và phát triển hệ thống bảo trợ xã hội.

     -Thực hiện dân chủ hóa xã hội, xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp quốc gia, xây dựng nhà nước pháp quyền vững mạnh, đủ sức bảo đảm vận hành toàn bộ nền kinh tế-xã hội trên nguyên tắc thị trường, dân chủ và pháp luật, v.vv

 Không thể có những đơn thuốc chung và mô hình chung nào cho công cuộc chuyển đổi và kiềm chế lạm phát ở các nước vốn có nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Tùy theo các điều kiện và mục tiêu chính trị-xã  hội cụ thể mà mỗi nước có cách thức thực hiện khác nhau, sử dụng một số hay đồng bộ tất cả những giải pháp trên, với thời gian và mức độ cũng không giống nhau, do đó, đạt được các kết quả không như nhau. Chính mức độ thành công của các giải pháp kiềm chế lạm phát đã giải thích cho mức độ thành công của công cuộc chuyển đổi ở các nước này: nước nào càng nhanh chóng kiềm chế cững chắc lạm phát thì nước đó càng có điều kiện phát triển kinh tế thành công, giữ được ổn định chính trị-xã hội, vượt qua những thử thách cam go của những năm đầu chuyển đổi với giá phải trả thấp nhất.

2.

Biện pháp các doanh nghiệp nội thất hạn chế và đối phó với sự ảnh hưởng của lạm phát:

3.

·

Doanh nghiệp bán lẻ tìm cách giữ sức mua

Dưới sự ảnh hưởng của lam phát,

mặc dù tăng trưởng tổng mức bán lẻ hàng hóa  và dịch vụ khá cao nhưng mức tăng thực chất lại không phải như  thế. Các nhà bán lẻ Việt Nam nói chung và các nhà bán lẻ hàng nội thất Việt Nam nói riêng đang phải vật lộn với tình trạng leo thang của giá nhiên liệu, chi phí sản xuất hàng hoá, giá hàng hóa, dịch vụ, giá cước vận chuyển hàng hoá từ trung tâm phân phối đến cửa hàng. Bên cạnh đó, doanh nghiệp bán lẻ đồ nội thất chủ yếu là doanh nghiệp vừa, nhỏ và rất nhỏ... nên gặp nhiều khó khăn trong tiếp cận vốn, nhất là khi Chính phủ chủ trương thắt chặt tiền tệ. Lạm phát chính là “lửa thử vàng” cho nên, việc đầu tiên, doanh nghiệp cần xác định, đánh giá các tác động của lạm phát đến doanh từ nhiều góc độ. Trên cơ sở đó, xây dựng kế hoạch ứng phó và hành động.

Một số biện pháp đang được các doanh nghiệp bán lẻ nội thất thực hiện để ứng phó với lạm phát là thu hẹp hoạt động, thận trọng trong đầu tư mới, tiết kiệm năng lượng, tiết kiệm tối đa chi phí, có kế hoạch thu mua và lưu kho hàng hoá linh hoạt, đồng thời đưa ra nhiều ưu đãi, chương trình khuyến mãi thu hút khách hàng. Bởi mục tiêu lớn nhất của các nhà bán lẻ là giữ sức mua bình ổn.

Cho nên, cần phải có sự phối hợp giữa các nhà phân phối-bán lẻ và sản xuất trong các chương trình hợp tác khuyến mãi, cũng như cần có sự chia sẻ khó khăn giữa người sản xuất-nhà bán lẻ-người tiêu dùng.

·

Nên bán hàng theo phương thức chủ động.

Các doanh nghiệp nội thất Việt Nam, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa lâu nay chủ yếu bán hàng theo phương thức bán hàng thụ động. Theo phương thức này, nhà sản xuất chỉ làm nhiệm vụ sản xuất, khâu bán hàng hoàn toàn do các nhà bán buôn thực hiện, lấy hàng gì, bao nhiêu, vào lúc nào đều do nhà bán buôn chủ động. Nhà sản xuất chỉ biết gửi hàng cho nhà bán buôn, ghi số tiền và chờ. Nhà bán buôn sẽ giao hàng cho nhà bán lẻ và cũng lại... chờ.

Bao giờ nhà bán lẻ bán hết hàng, thu hết tiền, sẽ thanh toán cho nhà bán buôn, nhà bán buôn thu hết tiền của các nhà bán lẻ sẽ thanh toán cho nhà sản xuất. Về nguyên tắc, giá bán buôn, giá bán lẻ là do các nhà tự đặt, nhà sản xuất không có quyền chi phối.

Với phương thức này, động tác “bán hàng” thật ra là đem hàng gửi ở kho nhà bán buôn, tiền bán hàng sẽ được thanh toán khi nào... bán xong hàng.

Gần đây, một số doanh nghiệp nhỏ và vừa đã mạnh dạn chuyển sang phương thức bán hàng chủ động -  bán hàng qua hệ thống nhà phân phối. Đây là một phương thức bán hàng hiện đại với tâm điểm là ở mỗi vùng (thường là mỗi tỉnh) có một (hoặc 2-3) nhà phân phối là đối tác bình đẳng của nhà sản xuất, cùng bỏ tiền ra đầu tư để chia sẻ lợi nhuận với nhà sản xuất.

Tất nhiên, để phương thức này mang lại thành công, nhà phân phối phải kiên quyết đoạn tuyệt với phương thức bán hàng thụ động, tương đối có tiềm lực tài chính để thanh toán trước mỗi khi lấy hàng của nhà sản xuất, có kho để chứa hàng cho một chu kỳ lấy hàng, có phương tiện thích hợp để vận chuyển hàng tới các nhà bán lẻ, có sổ sách và máy tính để hàng ngày cập nhật tình hình bán hàng và hàng tháng kiểm kê hàng hoá tồn kho...

Nhà phân phối cần là người có quyết tâm cao, hiểu rõ nhà sản xuất là đối tác của mình, là cơ hội cùng chia sẻ lợi nhuận và trách nhiệm, cùng chung lưng đấu cật trên thị trường.

Với phương thức bán hàng chủ động, từ nhà phân phối đến các nhà bán lẻ đều không được tự ý định đoạt giá bán. Giá bán là do nhà sản xuất đưa ra. Nhà phân phối và các đại lý chỉ hưởng một tỷ lệ % nhất định cho mỗi khâu và cũng có một tỷ lệ % nhất định cho những phần công việc cần khuyến khích tuỳ theo tương quan cung cầu và cạnh tranh ở từng thời kỳ.

Trong cơn lạm phát phi mã hiện nay, các doanh nghiệp nhỏ và vừa càng nên tranh thủ áp dụng phương thức bán hàng chủ động với tư cách là một phương thức cơ cấu lại doanh nghiệp, để góp phần hạn chế ảnh hưởng của tình trạng thiếu vốn.

·

Nên tái cấu trúc để nâng hiệu quả

Lạm phát cao dẫn đến những triệu chứng bên ngoài của doanh nghiệp là doanh thu giảm sút, lúng túng mỗi khi có sự thay đổi, chất lượng sản phẩm dịch vụ không ổn định, khách hàng phàn nàn...

Còn triệu chứng bên trong liên quan đến quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp như hoạt động sản xuất kinh doanh không hiệu quả (tồn kho cao, tồn nhiều công nợ...), chi phí sản xuất kinh doanh cao, nhiều điểm chốt trong quá trình sản xuất kinh doanh, mất kiểm soát, sự phối hợp giữa các bộ phận trong chuỗi sản xuất yếu kém, lệch lạc.

Kèm theo đó là các triệu chứng liên quan đến con người và các mối quan hệ, chẳng hạn như cán bộ công nhân viên làm việc thụ động, chậm đổi mới và kém sáng tạo, không có mục tiêu rõ ràng, thiếu chia sẻ thông tin và các nguồn tài nguyên, làm việc không kế hoạch, thiếu đồng bộ, chặt chẽ trong công việc, luôn sa vào giải quyết sự vụ, các cá nhân tụ tập thành nhóm có những mục tiêu và lợi ích riêng, tỷ lệ nhân sự ra vào tăng.

Do đó, cần đánh giá tổng thể và phát hiện ra những yếu kém hoặc rủi ro trong quản lý và điều hành doanh nghiệp. Đó là những hoạt động cần thiết cho mỗi doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp nội thất nói riêng trong giai đoạn hiện nay.

Từ đó, doanh nghiệp đưa ra một chương trình tái cấu trúc toàn diện bao trùm các lĩnh vực cơ cấu tổ chức, nguồn nhân lực, cơ chế quản lý, điều hành; các hoạt động và các quá trình các nguồn lực khác của doanh nghiệp nhằm đạt mục tiêu nâng cao hiệu quả hoạt động của các bộ phận.

Nội dung việc tái cấu trúc bao gồm: thay đổi tư duy lãnh đạo và quản lý; xây dựng một hệ thống xuyên suốt từ tầm nhìn - sứ mệnh - chiến lược - mục tiêu dài hạn, ngắn hạn; kế hoạch thực hiện và đánh giá việc thực hiện mục tiêu đã định.

Đồng thời, tái cấu trúc lại toàn bộ quá trình kinh doanh nhằm hợp lý hóa các công việc, tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả làm việc của từng bộ phận phù hợp với định hướng kinh doanh của doanh nghiệp.

Song song với đó là xây dựng hệ thống các chỉ số đánh giá các hoạt động của doanh nghiệp, nhằm kịp thời theo dõi tình tình hình hoạt động, phát hiện những nút thắt để giải quyết kịp thời; xây dựng hệ thống quản lý nhân sự, xác định rõ trách nhiệm, quyền hạn, yêu cầu, năng lực vị trí, định kỳ đánh giá trên cơ sở mục tiêu được giao, qua đó xây dựng các chương trình đào tạo nâng cao năng lực cho mỗi vị trí này.

Một công việc cần thiết nữa là xây dựng hệ thống thông tin quản lý giúp lãnh đạo luôn có đầy đủ thông tin về tính hiệu lực cũng như hiệu quả của các hoạt động trong doanh nghiệp nhằm đưa ra những quyết định kịp thời chính xác.

·

Học hỏi kinh nghiệm

Các doanh nghiệp nội thất Việt Nam nên học hỏi kinh nghiệm của các tập đoàn lớn đi trước và các doanh nghiệp phát triển ở nước ngoài cũng là một cách để có được những bài học thực tiễn để áp dụng vào hoạt động sản xuất, nhất là trong tình hình lạm phát tăng cao như hiện nay.

Chương 4: Các kết luận, thảo luận và đề xuất với vấn đề nghiên cứu

1.

Các kết luận và phát hiện qua nghiên cứu

Sau quá trình nghiên cứu đề tài chúng tôi đã rút ra được một số kết luận về tác  động  của lạm phát tới hoạt động kinh doanh sản xuất của vấn đề nghiên cứu như sau:

·

Lạm phát là một khái niệm không còn xa lạ đối với tổng thể của một nền kinh tế, là vấn đề nan giải của mọi thời kì kinh tế, nền kinh tế. Lạm phát như con dao hai lưỡi, có thể tác động tích cực nhưng cũng có thể gây ảnh hưởng xấu đến các ngành kinh tế nói chung và các ngành kinh tế nói riêng. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về tác động của lạm phát đến các ngành kinh tế. Tuy nhiên chúng tôi nhận thấy các công trình nghiên cứu tác động của lạm phát tới ngành nội thất thì rất ít.

·

Qua quá trình nghiên cứu thì nhóm chúng tôi đã tìm hiểu được những thông tin khái quát ngành nội thất, tình hình lạm phát tại Việt nam và tác động của lạm phát tới các chỉ tiêu về doanh thu, chi phí, lợi nhuận, thị trường của ngành này:

     Nội thất là ngành có tiềm năng phát triển ở Việt Nam thể hiện qua số lượng các doanh nghiệp tham gia vào ngành tăng cũng như sự tăng mạnh về các chỉ tiêu doanh thu, lợi nhuận và niềm tin về chất lượng sản phẩm ngày càng tăng, ngày càng có nhiều sản phẩm với mẫu mã đa dạng đáp ứng được nhu cầu, thị hiếu khách hàng.

     Tình hình lạm phát của Việt Nam trong các năm gần đây diễn biến khá phức tạp và có xu hướng tăng, thể hiện qua các con số thể hiện tỉ lệ lạm phát tăng nhanh. Vì vậy cần kịp thời có những biện pháp kiềm chế lạm phát và hạn chế sự ảnh lạm phát như tăng cường những giải pháp tài chính-tiền tệ theo hướng xiết chặt,  sử dung chính sách tiết kiệm, đổi mới công nghệ, cải tiến quản lý và tăng năng suất, hạ giá thành sản phẩm và dịch vụ cung ứng, các chính sách đối nội và nguồn lực trong nước.v.v…

      Lạm phát có tác động sâu sắc tới hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp nội thất nói riêng.

     Lạm phát có tác động làm tăng doanh thu đối với doanh nghiệp nội thất. Do 3 nguyên nhân: một là, mặt hàng nội thất có giá trị cao nên khi chịu tác động của lạm phát, các loại mặt hàng này sẽ tăng lên với tỷ lệ nhanh hơn so với tỷ lệ lạm phát trung bình. Hai là, mặt hàng nội thất có giá trị cao nên tâm lý người mua lựa chọn kỹ càng và sự tăng lên một phần nhỏ so với giá trị của mặt hàng sẽ không ảnh hưởng đến quyết định mua của khách hàng. Ba là, lạm phát làm cho người tiêu dùng có tâm lý “đầu cơ tích trữ” ,vì vậy sản lượng bán ra của mặt hàng này có xu hướng tăng lên. Từ những nguyên nhân trên làm cho cả doanh thu  và sản lượng bán ra của mặt hàng nội thất tăng lên.

     Lạm phát có mối liên hệ chặt chẽ với chi phí sản xuất, chi phí tăng thì gây ra hiện tượng lạm phát do chi phí đẩy, lạm phát tăng thì kéo theo chi phí cũng tăng theo thông qua chi phí mua nguyên, vật liệu dụng cụ và chi phí lương cho công nhân viên.

     Lạm phát cũng có ảnh hưởng đối với lợi nhuận của doanh nghiệp. Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng còn phụ thuộc vào sự tác động của lạm phát tới hai yếu tố doanh thu và chi phí. Trong thời kỳ lạm phát, có 2 lựa chọn cho doanh nghiệp. Một , tăng giá, bảo đảm lợi nhuận, tăng doanh thu. Hai, giữ nguyên giá , tăng thị phần của doanh nghiệp trên thị trường. Tuy nhiên, vẫn phải đảm bảo nguyên tắc: chi phí phải tăng chậm hơn so với doanh thu.

2.

Các thảo luận về những vấn đề đặt ra trong nghiên cứu

Với những kết quả thu được trong quá trình nghiên cứu, có thể thể trả lời cho các câu hỏi:

·

Lạm phát tăng có tác động như thế nào đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nội thất?

·

Trước tình hình đó doanh nghiệp đề ra chiến lược như thế nào để thoát khỏi kiềm chế của lạm phát?

·

Có những biện pháp nào để kiềm chế lạm phát trong tình hình nước ta hiện nay?

Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu, nhóm chúng tôi có một số điều thắc mắc cần được giải đáp, đó là:

     Thứ nhất, trong chính sách vĩ mô kiềm chế lạm phát của chính phủ có những tồn tại như: Do nới lỏng tỉ giá hối đoái có thể dẫn đến đồng tiền Việt Nam bị đánh giá quá cao, lãi suất ở Việt Nam là lãi suất thực âm, chính sách thắt chặt tiền tệ làm cho thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản sụt giảm mạnh sẽ ảnh hưởng đến vấn đề nợ đọng, tính thanh khoản và độ an toàn của hệ thống ngân hàng. Vậy, nhà nước ta phải có những biện pháp như thế nào để có thể kiềm chế được lạm phát mà không ảnh hưởng tiêu cực đến các lĩnh vực khác?

     Thứ hai, nội thất có lợi thế phát triển ở Việt Nam nhưng vẫn là ngành kinh tế non trẻ, vậy cần có những chính sách ra sao để tạo điều kiện phát triển cho ngành này và đặc biệt là cách giải quyết vấn đề nổi cộm cho ngành nội thất, đó là “Việt Nam là thị trở thành nơi tiêu thụ lý tưởng của sản phẩm nội thất ngoại nhập”.

      Thứ ba, các doanh nghiệp nội thất đứng trước tình hình diễn biến của lạm phát như vậy thì cần có những biện pháp nào tối ưu hơn nhằm hạn chế chịu ảnh hưởng của lạm phát.

3.

Các dự báo triển vọng về các vấn đề nghiên cứu

a.

Dự báo về tình hình lạm phát của Việt Nam trong thời gian tới.

b.

 Dự báo về tình hình phát triển ngành nội thất trong tương lai.

c.

Dự báo về tác động của lạm phát đến ngành nội thất này.

4.

Các đề xuất kiến nghị với vấn đề nghiên cứu

Sau khi nghiên cứu đề tài, chúng tôi thấy cần thực hiện một số giải pháp sau đây nhằm kiềm chế lạm phát và mức độ ảnh hưởng của nó đến nền kinh tế đồng thời tạo điều kiện phát triển ngành nội thất:

Cần thực hiện chính sách tài chính- tiền tệ năng động và linh hoạt hơn

Tiếp tục hi sinh tăng trưởng kinh tế để ưu tiên kiềm chế lạm phát

Hạn chế tăng chi phí sản xuất của doanh nghiệp, xá hội

Quản lý chặt chẽ chi tiêu công

Quản lý chặt chẽ hoạt động chi tiêu thu đổi ngoại tệ trên thị trường

Chính phủ nên bán trái phiếu chính phủ, tín phiếu kho bạc cho dân, thu hồi tiền mặt

 Thực hành tiết kiệm.

 Quản lý chặt chẽ hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc biệt là vấn đề chất lượng sản phầm, giá cả hàng nội thất, có hình phạt thích đáng với những hành vi buôn bán hàng lậu, hàng kém chất lượng, để thực hiện tốt mục tiêu người Việt dùng hàng Việt và đảm bảo sự hài lòng người tiêu dùng sản phẩm.

             Kiểm soát chặt chẽ tình hình xuất nhập khẩu đồ nội thất.

5.

Những hạn chế nghiên cứu và vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu

Do thời gian hạn chế và trình độ còn chưa cao nên chúng tôi chi nghiên cứu vấn đề dưới con mắt của những sinh viên. Vì vậy, dù đã rất cố gắng nhưng cũng không thể tránh khỏi thiếu sót mong nhận được sự phản hồi của người đọc.

Sau quá trình nghiên cứu chúng tôi nhận thấy có một  số hạn chế sau:

Phạm vi nghiên cứu hẹp về cả không gian và thời gian

Số liệu chưa cụ thể cho đói tượng ngành nội thất

Vì vậy, chúng tôi mong nhưng người sẽ nghiên cứu vấn đề sau này mở rộng phạm vi nghiên cứu và chuẩn bị số liệu tốt hơn. Đồng thời, chúng tôi còn một vấn đề cần nghiên cứu nữa, đó là: sự tác động ngược trở lại từ phía doanh nghiệp đối với lạm phát.

Tài liệu tham khảo

http://www.atheenah.com

http://www.gso.gov.vn

http://cafef.vn

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: