ngoctung4

VASC theo báo Tuổi Trẻ Thưa ông, có quá nhiều khái niệm về chứng khoán (CK) mà đại đa số người dân chưa hiểu, vậy Trung tâm Giao dịch chứng khoán (TTGDCK) đi vào hoạt động thì người dân sẽ được gì? Có nhiều cái được mà thị trường chứng khoán (TTCK) sẽ mang lại, nhưng, nói ngắn gọn đó là một cơ hội để mọi người trong chúng ta có thể đầu tư. Nếu trước đây anh A hoặc chị B muốn bỏ tiền ra mua cổ phiếu của một công ty X nhưng ngại vì không biết sau này bằng cách nào để rút vốn về, bán lại cổ phiếu đó ở đâu; nay họ có thể yên tâm mua, khi cần lấy lại tiền có thể bán nó ở TTGDCK hoặc các thị trường khác mà tới đây Nhà nước sẽ xây dựng. Hoặc ông C có chút tiền muốn mua trái phiếu của Ngân hàng (NH) Đầu tư Phát triển nhưng kỳ hạn lại đến năm năm, thời gian quá dài trong khi đột xuất ông cần tiền để chi xài thì sao? Có TTCK, ông cứ yên tâm mua, chưa đủ năm năm ông vẫn có thể rút tiền về bằng cách bán lại, như vậy người mua lại trái phiếu của ông C đã thay ông C cho NH Đầu tư Phát triển vay số tiền mà trước đó ông C đã cho NH vay. Hoặc anh A, chị B có chút vốn muốn làm ăn kiếm lãi, có thể nghe ngóng, hôm nay mua vào loại CK này, ngày mai giá cao hơn bán ra kiếm lãi... Người ta gọi TTCK là thị trường vốn là thế. Công ty A phát hành cổ phiếu, tức là tiền đã góp vào công ty. Nhưng không phải ai cũng có khả năng để tiền mãi tại một công ty. Nhưng họ cứ mua, ông A sở hữu cổ phiếu được năm tháng bán lại cho ông B, ông B giữ được hai tháng lại bán cho ông C... Cứ thế công ty có vốn làm ăn, còn người dân hay nhà đầu tư thì có thể bỏ vốn vào lấy vốn ra dễ dàng. Có thị trường, nhu cầu mua và nhu cầu bán gặp nhau đầy đủ hơn và như vậy cũng có nghĩa bán đúng giá hơn. Ví dụ tới đây những người muốn mua hoặc muốn bán cổ phiếu của Ree, Sacom, Transimex, Hapaco sẽ không còn phải băn khoăn rằng mình đã bán đúng giá hoặc có mua hớ không bởi mọi nhu cầu mua, bán các loại CK này đã được tập trung tại TTGDCK. TTGDCK chỉ là nơi tập trung mua bán các loại CK đáp ứng được các yêu cầu do Uỷ ban CK nhà nước đưa ra. Gọi TTGDCK là "chợ ' chứ thật ra không phải ai cũng được đến chợ mà phải theo nguyên tắc mua bán qua trung gian, tức nhờ các công ty CK đi chợ giùm mình. Mọi người đang nắm giữ CK đủ điều kiện để mua bán tại trung tâm không đến mua bán trực tiếp tại TTGDCK mà phải giao cho các công ty CK thay mình làm việc này. Muốn mua thì đặt lệnh mua, bán thì đặt lệnh bán kèm theo giá cả, đăng ký cho công ty CK. Nhận được lệnh này, các công ty CK sẽ đưa vào TTGDCK để mua bán. Nhiều người hỏi rằng cần bao nhiêu tiền mới có thể đầu tư CK? Tất cả những ai có tiền đều được mua CK. Mệnh giá cổ phiếu được qui định là 10.000 đồng, còn trái phiếu thì tối thiểu là 100.000 đồng. Như vậy anh A chỉ có vài chục ngàn đồng cũng có thể sở hữu vài cổ phiếu của một công ty tên tuổi nào đó. Trước đây Bộ Tài chính có in một số loại cổ phiếu có mệnh giá 100.000 đồng. Với các trường hợp này không có gì khó khăn cả, khi khách hàng đưa cổ phiếu có mệnh giá 100.000 đồng vào thì tự động các công ty CK sẽ ghi vào sổ khách hàng đó có 10 cổ phiếu. Nhưng thưa ông, chúng tôi, những người đầu tư vẫn có thói quen là sau khi mua được tờ cổ phiếu là cất ngay vào tủ chờ cuối năm đến công ty để được chia lãi... Vì chưa có TTCK nên hoạt động mua đi bán lại cũng không nhộn nhịp nên người sở hữu cổ phiếu chưa thấy được một khoản lợi, đó là chênh lệch do cổ phiếu có giá. Do vậy, việc họ mua cổ phiếu và cất vào tủ là chuyện dễ hiểu. Nay đã có TTGDCK, người nắm giữ cổ phiếu dễ dàng thấy được sự lên xuống của các loại cổ phiếu này. Giá cổ phiếu không chỉ lên mà còn xuống nữa, do vậy người đầu tư cũng không nên để mãi cổ phiếu ở trong tủ. Thật ra với CK, cổ tức chỉ là một khoản nhỏ trong lợi nhuận mà nhà đầu tư có thể thu được, cái chính vẫn là trị giá của CK đó trên TTCK. Ông A mua cổ phiếu của công ty X ban đầu mệnh giá là 10.000 đồng, công ty dự kiến tỉ lệ lãi sẽ chia là 10%/năm. Thế nhưng chỉ ba tháng sau giá cổ phiếu của công ty này tăng lên 11.500 đồng, ông A bán ngay, như vậy chỉ mới trong ba tháng đã lãi được 1.500 đồng, tức 15%. Ông B mua cổ phiếu mệnh giá 10.000 đồng sau đó về cất ở tủ. Công ty kinh doanh khó khăn, nửa năm sau giá chỉ còn 9.500 đồng... Theo tôi, đã có TTCK công chúng đầu tư phải thay đổi xu hướng đầu tư. Nhiều người cũng lo rằng liệu có xảy ra chao đảo tại TTCK hoặc những "ngày thứ sáu đen tối" giá CK tụt giảm thê thảm như đã xảy ra ở nước ngoài? Giá CK sẽ do cung - cầu trên thị trường quyết định. Thị trường của chúng ta giao dịch theo một nguyên tắc giá đã được Nhà nước xác định là không vượt quá và cũng không giảm quá 5% so với giá của ngày hôm trước. Ví dụ giá cổ phiếu X ngày hôm trước là 10.100 đồng/ cổ phiếu thì giá ngày hôm sau không thể vượt quá 10.605 đồng/cổ phiếu hoặc cũng không thể giảm dưới 9.595 đồng/cổ phiếu. Người đầu tư khi đưa ra lệnh đặt mua hoặc bán CK cũng phải nắm nguyên tắc biên độ cộng trừ 5% để không đưa ra giá quá mức này. Trong trường hợp giá cổ phiếu của công ty nào đó giảm hoặc tăng sát với mức biên độ cho phép liên tục trong nhiều ngày thì TTGDCK đưa CK đó vào diện kiểm soát, theo dõi và yêu cầu công ty phải nhanh chóng công bố các thông tin giải thích. Theo ông, người đầu tư nên bắt đầu "cuộc chơi" CK này như thế nào? Người đầu tư nên đặt quan hệ với các công ty CK và công ty niêm yết để tìm hiểu, không nên đến các thị trường tự phát. Thị trường tự phát do không có cơ sở pháp lý, lại thiếu thông tin nên rủi ro rất cao. Người có CK nên gửi CK vào các công ty CK (hay còn gọi là lưu ký CK). Các công ty này sẽ giúp những người đang nắm giữ cổ phiếu nhiều việc như thực hiện các quyền của cổ đông (quyền nhận cổ tức, quyền bỏ phiếu, lãi trái phiếu...). Bản thân các công ty CK này cũng có trách nhiệm thúc đẩy việc tạo lập thị trường bằng cách tư vấn, hướng dẫn nhà đầu tư và các công ty cổ phần tham gia TTCK. Thông qua các công ty CK, người đầu tư có thế tiếp cận được các thông tin cần thiết để đưa ra quyết định bán hoặc mua.Hàng hóa còn ít quá cũng có nghĩa khả năng lựa chọn của người đầu tư bị thu hẹp? Cần có nhiều giải pháp để tạo thêm "hàng" cho TTCK. Quan trọng nhất là các công ty CK phải xúc tiến tìm ra các công ty cổ phần có tiềm năng đủ điều kiện để thêm "hàng" bằng cách giảm bớt phần vốn mà Nhà nước đang sở hữu tại các công ty cổ phần hóa đã được cấp phép niêm yết. Các công ty này không thuộc diện Nhà nước phải giữ nhiều cổ phần. Ngoài ra cũng, cần có chính sách đế khuyến khích công ty cổ phần niêm yết CK như giảm phí, thuế, thậm chí có biện pháp hành chính như nếu đã đủ điều kiện thì phải niêm yết ở TTCK... Xin cảm ơn ông. 10 điều cần biết về đầu tư chứng khoán Dưới đây là những kinh nghiệm, thực tiễn rút ra từ các thị trường chứng khoán nước ngoài. VASC theo SGTT, tác giả: Võ Đặng Quang 1. Kinh doanh dài hạn, cổ phiếu vượt xa tất cả các dạng đâù tư khác. Từ 1926 đến 1999, thị trường chứng khoán Mỹ có tỷ suất thu nhập trung bình 11,4% hàng năm. Loại tài sản tốt nhất kế tiếp là trái phiếu mang lại 5,1%. Nếu năm 1926 đầu tư 100 đô la vào cổ phiếu thì lãi sẽ mang lại 264.600 đôla vào năm 1999. Cũng trong thời gian đó, 100 đôla đầu tư vào trái phiếu mang lại 3.800 đôla. 2. Trong ngắn hạn, cổ phiếu có thể nguy hại cho sức khoẻ tài chính của bạn. Trong ngày tồi tệ nhất lịch sử thị trường chứng khoán Mỹ (19.10.1987), 22,6% tổng giá trị của các cổ phiếu bị mất trong sáu giờ rưỡi giao dịch. 3. Các khoản đầu tư rủi ro thường mang lại lợi nhuận nhiều hơn các khoản an toàn. Người đầu tư đòi hỏi tỷ suất lợi nhuận cao hơn để nhận lấy rủi ro. Đó là một lý do tại sao cổ phiếu vốn được coi như rủi ro hơn trái phiếu, thường mang lại lợi nhuận nhiều hơn. 4. Yếu tố quyết định lớn nhất và duy nhất đến giá trị cổ phiếu là lợi nhuận. Trong ngắn hạn, giá cổ phiếu dao động dựa trên mọi thứ từ lãi suất đến tâm lý người đầu tư. Nhưng trong dài hạn, lợi nhuận là quyết định. Nếu lợi nhuận của một cổ phiếu tăng cao trong suốt 10 năm thì giá của nó cũng sẽ tăng. 5. Thời gian và mức độ biến động của cổ phiếu lớn hơn nhiều so với trái phiếu. Trong năm 1994, năm tồi tệ nhất gần đây của trái phiếu, trái phiếu trung hạn kho bạc Mỹ giảm 1,8% và năm sau đã tăng lại 14,4%. 6. Lãi suất tăng là điều xấu cho giá trị trái phiếu. Khi lãi suất tăng, giá trái phiếu giảm. Tại sao? bởi vì người mua sẽ không trả cho loại trái phiếu cũ lãi suất 6% bằng với mức trái phiếu mới có lãi suất 7%. Ngược lại, khi lãi suất giảm, trái phiếu sẽ tăng. 7. Lạm phát là mối đe dọa lớn nhất cho các khoản đầu tư dài hạn của bạn. Mức lạm phát trong lịch sử ở Mỹ trung bình làm mất đi giá trị đồng tiền khoảng 3,2 % một năm. Với mức này 264.000 đôla thu được vào năm 1999 từ đầu tư cổ phiếu trên sẽ chỉ tương đương 26.500 đôla năm 1926. 8. Trái phiếu chính phủ là một đầu tư chắc chắn nhất. Các loại trái phiếu chính phủ thường được coi là an toàn nhất vì Nhà nước có thể in thêm tiền để trả nợ nếu cần. 9. Một danh mục đầu tư đa dạng sẽ ít rủi ro hơn một danh mục đầu tư tập trung vào một hay một ít loại đầu tư. Đa dạng hoá - nghĩa là dàn trải tiền của bạn ra các loại đầu tư khác nhau - làm giảm rủi ro bởi vì nếu một số khoản đầu tư của bạn đi xuống thì số khác đi lên. 10. Các quỹ đầu tư chung theo chỉ số chứng khoán thường có kết quả tốt hơn các quỹ được quản lý tích cực (có tìm kiếm sàng lọc chứng khoán). Trong một quỹ chỉ số, người quản lý thiết lập danh mục đầu tư bằng cách bắt chước mua các chứng khoán làm nên một chỉ số thị trường thay vì tìm cách chọn lựa chứng khoán tốt. Một số khái niệm tài chính VASC tổng hợp từ Yahoo Finance Tài sản lưu động và công nợ phải trả Đây là những chỉ số quan trọng để đánh giá tình hình của một công ty trong ngắn hạn. Tài sản lưu động là tiền mặt, những tài sản có tính chất tương tự như tiền mặt, các khoản phải thu (khoản tiền mà khách hàng nợ công ty) và cả hàng tồn kho. Nhìn chung, đó là những tài sản có thể nhanh chóng chuyển đổi thành tiền mặt. Công nợ phải trả là bất cứ những gì công ty nợ trong ngắn hạn.

rối với một số khoản nợ khó đòi (điều này không tốt chút nào). Còn việc công nợ phải trả tăng quá nhanh rất ít khi là một biểu hiện tốt ngoại trừ một số ít trường hợp khi công ty đang thực hiện một mục tiêu ngắn hạn nào đó. Tóm lại khi 2 chỉ số này biến động quá lớn, bạn cần phải xem xét lại tình trạng của công ty. Kiểm tra lại các nghiên cứu phân tích, các bản báo cáo tài chính... Thậm chí trong trường hợp này ban lãnh đạo cần phải giải thích cụ thể những thay đổi về điều kiện tài chính của công ty. Rủi ro và lợi nhuận Hẳn bạn muốn làm giàu trên thị trường chứng khoán? Tuy nhiên, trước khi quyết định đầu tư vào một danh mục chứng khoán, điều đầu tiên bạn phải chấp nhận là không bao giờ có sự đầu tư nào đem lại lợi nhuận mà không có rủi ro. Theo Webster, rủi ro là khả năng bị thua lỗ hoặc tổn thất. Trong đầu tư chứng khoán, rủi ro chính là sự thay đổi liên tục của giá cả chứng khoán. Nói cách khác khi đầu tư vào thị trường chứng khoán, bạn không thể chắc chắn về lợi nhuận thu được. Dù bạn quyết định đầu tư hay gửi tiết kiệm, bạn luôn phải đối mặt với những rủi ro. Bạn có thể cất tiền trong nhà nhưng bạn vẫn phải chấp nhận rủi ro mất trắng nếu nhà bạn cháy. Bạn có thể gửi tiền vào ngân hàng nhưng sức mua của đồng dôla có thể giảm do ảnh hưởng của lạm phát khiến giá trị thực tế của đồng đôla bạn nhận được còn thấp hơn cả khi gửi tiền. Đầu tư vào cổ phiếu, trái phiếu hoặc quỹ tương hỗ cũng có những rủi ro ở nhiều mức độ khác nhau. Thực tế thứ hai bạn phải đối mặt là để có được lợi nhuận càng lớn từ danh mục đầu tư, rủi ro bạn phải chấp nhận càng lớn. Gửi tiền tiết kiệm tuy ít có rủi ro nhưng ngược lại tiền lãi bạn nhận được cũng không đáng kể. Rủi ro khi đầu tư chứng khoán là không thể tránh khỏi nhưng chúng ta có thể kiểm soát được. Kiểm soát rủi ro tức là việc bạn có thể tăng tối đa lợi nhuận trong khi đó giảm thiểu rủi ro. Làm được như vậy có nghĩa là bạn đã có một lợi nhuận hợp lý với một mức rủi ro chấp nhận được. Vậy như thế nào là rủi ro chấp nhận được? Mỗi nhà đầu tư có một quan điểm khác nhau. Tuy nhiên, một quan niệm chung được nhiều nhà đầu tư thống nhất đó là khi bạn không phải tỉnh giấc lúc nửa đêm và lo lắng về quyết định đầu tư của mình. Nếu việc đầu tư làm bạn quá lo lắng tức là bạn cần phải xem xét lại quyết định của mình, xem xét lại mức độ rủi ro của các chứng khoán trong danh mục. Trái lại, khi bạn thấy mình thanh thản, điều đó có nghĩa là mức độ rủi ro để bạn có thể đạt được những mục tiêu tài chính của mình là chấp nhận được. Cổ tức và Tỷ suất cổ tức Cổ tức là khoản tiền mà các công ty trích ra từ lợi nhuận để trả cho cổ đông. Người ta thường tính cổ tức trên một cổ phiếu. Tuy nhiên khi so sánh cổ tức giữa các công ty, bạn lại phải quan tâm tới tỷ suất cổ tức. Đây là một tỷ lệ phần trăm giữa cổ tức và thị giá cổ phiếu. Chỉ tiêu này cho biết tỷ lệ cổ tức bạn sẽ nhận được so với số tiền bạn phải trả để mua cổ phiếu. Ví dụ, nếu bạn nhận được 2 đôla Mỹ hàng năm từ mỗi cổ phiếu và thị giá cổ phiếu là 50 đôla thì tỷ suất cổ tức sẽ là 4%. Không phải bất cứ cổ phần nào cũng đem lại cho bạn cổ tức. Nếu một công ty đang tăng trưởng nhanh có thể làm lợi cho các cổ đông bằng cách tái đầu tư, trong trường hợp đó, nó sẽ không trả cổ tức. Ví dụ công ty Microsoft không trả cổ tức nhưng các cổ đông của công ty không hề phàn nàn gì về điều này. Một cổ phiếu không được trả cổ tức không hẳn là cổ phiếu của công ty đang làm ăn thua lỗ.Tuy nhiên, rất nhiều nhà đầu tư muốn được trả cổ tức, đặc biệt là các nhà đầu tư ở tuổi sắp nghỉ hưu, vì cả lý do thu nhập và an toàn. Tuy nhiên bạn cũng không nên chỉ tìm mua những cổ phiếu có tỷ suất cổ tức cao bởi vì bạn có thể sẽ nhanh chóng gặp rắc rối. Giả sử cổ phiếu nói trên có cổ tức 2 đôla và tỷ suất cổ tức 4%, tức là cao hơn hẳn tỷ suất trung bình của thị trường (2%). Điều này không có nghĩa là mua cổ phiếu đó là tốt nhất. Hãy xem xét điều gì sẽ xảy ra nếu công ty đó không thực hiện được kế hoạch thu nhập và giá cổ phiếu sụt trong vòng 1 đêm từ 50 xuống còn 40 đôla một cổ phiếu. Điều đó có nghĩa là giá cổ phiếu giảm 20% và đẩy tỷ suất cổ tức lên tới 5% (2đôla/40 đôla). Liệu bạn có muốn đầu tư vào một cổ phiếu như vậy chỉ vì tỷ suất cổ tức cao hơn? Có lẽ là không. Ngày cả khi tìm mua những cổ phiếu cho nhiều cổ tức, bạn cũng phải chắc chắn là công ty đó không có vấn đề gì về tài chính. Khi bạn tìm mua những cổ phiếu có tỷ suất cổ tức cao, bạn cần xem xét tỷ lệ trả cổ tức của công ty. Chỉ số này thể hiện tỷ lệ phần trăm lợi nhuận được trích ra để trả cho cổ đông dưới hình thức cổ tức. Nếu tỷ lệ này vượt quá 75% có nghĩa là công ty không tái đầu tư lợi nhuận một cách hợp lý. Một tỷ lệ trả cổ tức cao thường hàm ý là thu nhập của công ty được sử dụng phần lớn để trả cho cổ đông và có nghĩa là công ty đang cố gắng thu hút các nhà đầu tư mua cổ phiếu của mình. Kỹ thuật phân tích cơ bản Phân tích cơ bản là một trong những phương pháp phân tích chứng khoán được sử dụng rất phổ biến. Các nhà đầu tư theo cách tiếp cận này thường quan tâm nhiều tới các thông số cơ bản một của công ty như tốc độ tăng trưởng doanh số và lợi nhuận, từ đó rút ra những kết luận về giá trị thực tế của cổ phiếu. Sau đó, bằng cách so sánh thị giá cổ phiếu với giá trị thực tế đó nhà đầu tư quyết định có nên mua hay không. Một trong những nhà đầu tư thành đạt nhờ sử dụng phân tích cơ bản là Peter Lynch, nhà quản lý huyền thoại của quỹ đầu tư tương hỗ Fidelity Magellan. Dưới sự điều hành của Peter, quỹ này được biết đến như một quỹ đầu tư phát đạt nhất từ trước tới nay. Một nhà phân tích cơ bản nổi tiếng nữa phải kể đến là Warren Buffet, nhà đầu tư rất thành đạt nhờ công ty dệt Bershire Hathaway. Buffet sử dụng Bershire Hathaway làm phương tiện để đầu tư vào các cổ phiếu khác và đã đạt được những thành công rực rỡ. Hiện nay một cổ phiếu của Bershire Hathaway được giao dịch với giá hơn 60.000 đôla Mỹ. Hầu hết các nhà đầu tư cá nhân đều sử dụng phương pháp phân tích cơ bản theo cách này hay cách khác để ra quyết định đầu tư. Nếu bạn có ý định tìm kiếm cổ phiếu "mua và giữ" để bạn có thể mua và giữ nhiều năm mà không phải lo lắng về những biến động giá, bạn nên sử dụng phương pháp phân tích cơ bản.   Hướng dẫn giao dịch thoả thuận trên TTCK Các quy định chung Khối lượng chứng khoán trong giao dịch thoả thuận phải lớn hơn hoặc bằng 10.000 cổ phiếu/giao dịch, lớn hơn hoặc bằng 3.000 trái phiếu/giao dịch. Khối lượng giao dịch phải là lô chẵn. Giá giao dịch tuỳ theo sự thoả thuận giữa người mua và người bán nhưng phải nằm trong biên độ cho phép tại thời điểm giao dịch. Các quy định khác về điều kiện giao dịch, tỷ lệ nắm giữ cổ phiếu trong công ty cổ phần, lưu ký và thanh toán bù trừ... được áp dụng như giao dịch khớp lệnh. Khi giao dịch thoả thuận, nhà đầu tư cần lưu ý sao cho không vi phạm các quy định của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước và Trung tâm Giao dịch Chứng khoán. Lệnh giao dịch thoả thuận chỉ có giá trị trong ngày. Theo quy định hiện hành thì lệnh đã đặt không được quyề huỷ vì vậy nhà đầu tư cần chú ý quy định này khi đặt lệnh. Quy trình thực hiện lệnh đặt mua hay chào bán a) Trường hợp khách hàng chủ động quảng cáo (chủ động đặt mua hoặc chào bán), quy trình đặt lệnh giao dịch được tiến hành theo 2 bước: Bước 1: Quảng cáo giao dịch thoả thuận. Sau khi khách hàng điền vào phiếu lệnh giao dịch thoả thuận theo mẫu và nộp phiếu lệnh cho nhân viên giao dịch (mẫu quảng cáo giao dịch), dại diện giao dịch của công ty chứng khoán (CTCK) kiểm tra các quảng cáo giao dịch thoả thuận vào hệ thống giao dịch. Màn hình giao dịch sẽ hiển thị nội dung của quảng cáo. Ghi chú: Trong trường hợp đã có đối tác, khách hàng cần nộp thêm chứng từ xác nhận thoả thuận, cam kết giữa hai bên về khối lượng, giá thoả thuận, mã số giao dịch của cả hai bên... Bước 2: Điều chỉnh lệnh trong quá trình thoả thuận. Khách hàng cần giữ liên lạc thường xuyên với CTCK để nắm rõ tình hình giao dịch với đối tác. Trong trường hợp có điều chỉnh các thông số lệnh, những sửa đổi cần được sự chấp thuận của CTCK và CTCK sẽ xác nhận trực tiếp việc sửa đổi vào phiếu lệnh. Ghi chú: Trong trường hợp khách hàng đã có đối tác trước thì lệnh được thực hiện ngay. b) Trường hợp nhà đầu tư quyết định giao dịch dựa trên thông tin quảng cáo, quy trình đặt lệnh được tiến hành theo 2 bước: Bước 1: Tiếp nhận những thông tin quảng cáo về giao dịch thoả thuận được đại diện giao dịch thông báo rộng rãi đến nhà đầu tư. Khách hàng có thể tìm hiểu thêm thông tin tại quầy giao dịch của các CTCK. Nếu chấp nhận các tin quảng cáo, nhà đầu tư đăng ký giao dịch thoả thuận. Bước 2: Khách hàng điền vào phiếu lệnh giao dịch thoả thuận theo mẫu rồi nộp phiếu lệnh cho nhân viên giao dịch. Đại diện giao dịch nhận được phiếu đăng ký sẽ tiến hành thoả thuận với đại diện giao dịch của bên quảng cáo và thông báo cho khách hàng. Khách hàng có quyết định cuối cùng chấp thuận giao dịch hay không. Về việc xác nhận giao dịch Sau khi hai bên đã đồng ý tiến hành giao dịch. Đại diện giao dịch sẽ tiến hành thực hiện giao dịch cho khách hàng. Sau khi hoàn tất giao dịch, phần việc xác nhận kết quả giao dịch, số dư chứng khoán và quy trình thanh toán bù trừ được thực hiện như giao dịch khớp lệnh. Cần tính toán kỹ trước khi đầu tư mua cổ phiếu của các công ty nhỏ Sự hấp dẫn chủ yếu của các cổ phiếu công ty nhỏ chính là tiềm năng tăng giá của nó. Tất cả các công ty danh tiếng ngày nay, đều là những công ty nhỏ trước đây phát triển lên. Tuy vậy, việc chọn mua cổ phiếu công ty nhỏ không phải lúc nào cũng Do đó, để đảm bảo thu được lợi nhuận tối đa và tránh nhiều rủi ro khi mua cổ phiếu công ty nhỏ đang phát triển, người đầu tư nên chọn cổ phiếu công ty nhỏ có chất lượng cao và đáp ứng các yêu cầu sau. Thứ nhất, cổ tức gia tăng liên tục ít nhất là 05 năm hoặc cho đến khi cổ phiếu được mua bán rộng rãi. Cổ tức tăng đã đẩy giá cổ phiếu công ty đang phát triển đi lên. Theo đánh giá của các chuyên viên nghiên cứu chứng khoán của công ty nhỏ thì thông thường, các cổ phiếu tốt có tỉ lệ gia tăng cổ tức ít nhất là 10% trong 5 năm. Thứ hai, thước đo tốt nhất về tình hình tài chính công ty là tỉ lệ nợ trên vốn cổ phần của nó. Nợ thấp có nghĩa công ty có thể cắt giảm chi phí khi nền kinh tế gặp phải trì trệ. Ngược lại, nợ cao có thể bị buộc phải giảm mạnh các kế hoạch phát triển, vì sự tăng doanh số chậm khiến cho không duy trì được các chiến lược kinh doanh. Thứ ba, lưu lượng tiền mặt tự do cao, có thể được dùng để mua lại cổ phiếu, tăng cổ tức, để phát triển, mua lại toàn bộ cổ phần của công ty khác hoặc dùng để củng cố cho các khoản đầu tư. Nếu yêu cầu này được đáp ứng thì bất kỳ trường hợp nào các cổ đông cũng được hưởng lợi. Thứ tư, hoạt động sản xuất kinh doanh có lãi. Tổng lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh của một công ty là thước đo tốt nhất để cho thấy khả năng sinh lời của công ty. Lợi nhuận tăng lên cho thấy rằng công ty này đã dành được chỗ đứng và có khả năng sinh lời. Tình hình sản xuất kinh doanh đáp ứng được nhu cầu cạnh tranh cũng như phát triển trên thị trường là yếu tố quan trọng tạo nên nhiều thuận lợi trong những năm sau. Thứ năm, tỉ lệ P/E tương đối thấp. Ngoài việc công ty đang có tiềm năng phát triển cao, cần phải cộng với tỉ lệ P/E tương đối thấp và không được tăng gấp đôi so với mức tăng lợi nhuận trung bình trong 5 năm của công ty. Ngoài các tiêu chuẩn trên, lạm phát là vấn đề chủ yếu để biết được thời điểm chọn mua cổ phiếu công ty nhỏ. Giống như cổ phiếu công ty lớn, các cổ phiếu công ty nhỏ có xu hướng bị mất giá nhiều hơn so với cổ phiếu các công ty lớn trong giai đoạn lạm phát gia tăng. Tuy vậy, lạm phát tăng qua một thời kỳ nhiều năm chắc chắn sẽ đem lại sự tăng giá đối với các cổ phiếu công ty nhỏ. Chẳng hạn, trong giai đoạn lạm phát vượt khỏi tầm kiểm soát ở thị trường Mỹ vào cuối thập niên 70 đến những năm của thập niên 80, các cổ phiếu công ty nhỏ vượt xa các cổ phiếu công ty lớn về số lãi. Nguyên nhân là: khi kinh tế tăng trưởng ở tốc độ cao nhất, lạm phát thường tăng lên, sẽ tác động đến lợi nhuận các công ty nhỏ nhiều hơn là đối với các công ty lớn, làm cho các điều kiện thị trường ít mang tính cạnh tranh hơn, khiến cho các công ty nhỏ phát triển dễ dàng hơn các công ty lớn. Nhà đầu tư thường quan tâm nhiều đến yếu tố lạm phát, vì vậy nếu trong một thời kỳ dài, lạm phát luôn nằm ở mức cao thì các nhà đầu tư thường có hướng chuyển vốn vào các công ty nhỏ, do mức tăng trưởng của các công ty nhỏ thường cao hơn các công ty lớn trong thời kỳ này. Tóm lại, tùy thuộc vào từng thời kỳ và mức độ tăng trưởng kinh tế, các nhà đầu tư cần nghiên cứu lợi ích của việc đầu tư cổ phiếu các công ty nhỏ để đồng vốn được luân chuyển và sinh lợi cao nhất. Xây dựng danh mục đầu tư chứng khoán Hiểu một cách khái quát nhất thì danh mục đầu tư là một tập hợp gồm ít nhất hai loại chứng khoán trở lên. Mục đích cơ bản nhất của việc xây dựng và quản lý một danh mục đầu tư là đa dạng hoá nhằm tránh các khoản thua lỗ quá lớn. VASC t ổng hợp Khi bạn đồng thời đầu tư vào nhiều loại chứng khoán khác nhau, sự thua lỗ của một loại chứng khoán chỉ có tác động nhỏ đến toàn bộ danh mục, thậm chí nhiều khi bạn có thể bù lỗ bằng lợi nhuận thu được từ các chứng khoán khác trong cùng một danh mục đó. Tuy nhiên, việc hạn chế thua lỗ bằng cách đa dạng hoá danh mục đầu tư cũng có một cái giá của nó: bạn cũng không thể thu được các khoản lợi nhuận lớn. Rất ít người đầu tư có thể thu được khoản lợi nhuận cao từ việc đầu tư tất cả số tiền của họ vào một loại chứng khoán tốt nhất hiện có trên thị trường. Do đó, đại đa số công chúng đầu tư chọn hình thức đầu tư thứ hai là giảm thiểu hoá thua lỗ bằng cách đa dạng hoá đầu tư. Và suy cho cùng thì việc từ bỏ những món hời lớn, bằng lòng với những khoản thu nhập vừa phải để tránh thua lỗ quá mức là một cái giá vừa phải và hoàn toàn hợp lý. Bài viết này sẽ hướng dẫn bạn từng bước trong việc xây dựng một danh mục đầu tư phù hợp với cá tính cũng như mục đích mà bạn đã chọn. Bước 1: Xác định bạn là người đầu tư tích cực hay thụ động? Khi bắt tay vào xây dựng danh mục đầu tư, điều quan trọng trước tiên mà bạn phải xác định là xem mình thuộc dạng nào: tích cực hay thụ động? Đây là một việc làm hết sức cần thiết, vì nó sẽ quyết định đến toàn bộ cách thức đầu tư của bạn sau này. Người đầu tư tích cực là người luôn sẵn sàng bỏ ra rất nhiều thời gian và công sức để quản lý danh mục đầu tư của mình. Còn người đầu tư thụ động thì chỉ muốn bỏ ra một khoảng thời gian tối thiểu cần thiết để theo dõi các khoản đầu tư và bằng lòng với các khoản lãi khiêm tốn có được. Cần lưu ý rằng quy mô đầu tư là không quan trọng mà điều cốt yếu là bạn tiêu tốn bao nhiêu thời gian và công sức cho danh mục đầu tư của mình. Chúng ta có thể thấy rằng đa số các nhà đầu tư đều thuộc dạng thụ động, bởi vì họ là những người không chuyên nghiêp, thiếu kỹ năng chuyên sâu cũng như đã bị các công việc hàng ngày chiếm mất quỹ thời gian.Bước 2: Quyết định cơ cấu của danh mục đầu tư Điều thứ hai cần tính đến là tỷ trọng cổ phiếu và trái phiếu trong danh mục đó. Đây là một quyết định mang tính chất cá nhân và tuỳ theo quan điểm mỗi người. Một số người không thích đầu tư quá nhiều vào cổ phiếu, còn một số khác lại không thích sở hữu quá nhiều trái phiếu. Cho đến nay vẫn chưa có tiêu chuẩn cụ thể về tỷ lệ này. Hiện nay, đa số ý kiến nghiêng về tỷ lệ 50/50, tức là 50% số tiền của danh mục được sử dụng để đầu tư vào cổ phiếu, phần còn lại sẽ được sử dụng để mua trái phiếu. Nhiều nhà tư vấn đề nghị tăng tỷ lệ trái phiếu trong danh mục khi chủ sở hữu sắp đến tuổi về hưu. Tuy nhiên, một số cá nhân khác lại có quan điểm cho rằng, trước sức ép của lạm phát cũng như khả năng kiếm tiền sẽ suy giảm khi về già, chủ sở hữu danh mục nên tăng dần tỷ lệ cổ phiếu theo thời gian. Họ lập luận là không nên giảm tỷ lệ sở hữu cổ phiếu trong danh mục đầu tư vì lương hưu và bảo hiểm xã hội sẽ không thể tăng như lạm phát. Chính vì vậy mà cổ phiếu là một trong những lựa chọn được ưu tiên hàng đầu để chống lại ảnh hưởng của lạm phát. Tuy nhiên, cũng có khi thu nhập do cổ phiếu đem lại không theo kịp với tỷ suất lợi nhuận của trái phiếu chất lượng cao. Trong trường hợp này, đầu tư vào các trái phiếu chất lượng cao và để dành một khoản tiết kiệm để đối phó với lạm phát được xem là một biện pháp khả thi. Ngoài ra còn một trường hợp khác mà chúng ta cũng cần đề cập tới, đó là tỷ trọng của danh mục đầu tư có cần phải điều chỉnh theo sự biến động của thị trường không? Giả sử rằng bạn đang có trong tay một danh mục đầu tư với tỷ lệ 50/50. Nếu thị trường cổ phiếu tăng giá và làm cho danh mục của bạn có tỷ lệ 65% cổ phiếu và 35% trái phiếu thì bạn có nên bán bớt một số cổ phiếu để đưa danh mục trở về tỷ lệ 50/50 hay không? Xung quanh vấn đề này vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau nhưng nhìn chung đại đa số các nhà đầu tư sẽ không bán đi cổ phiếu để đề phòng trường hợp khi cổ phiếu giảm giá thì danh mục sẽ trở về mức cân bằng 50/50. Bước 3: Đa dạng hoá danh mục đầu tư 1. Đa dạng hóa tổ chức phát hành. Nếu danh mục đầu tư của bạn chỉ bao gồm toàn bộ các trái phiếu Chính phủ thì bạn không cần phải đa dạng hoá chủng loại các chủ thể phát hành, bởi vì trái phiếu Chính phủ hoàn toàn không có rủi ro. Tuy nhiên, nếu bạn mua trái phiếu công ty, trái phiếu địa phương hoặc cổ phiếu thì việc đa dạng hoá chủ thể phát hành là một vấn đề cần được cân nhắc, bởi vì các loại chứng khoán này luôn tiềm tàng một số rủi ro nhất định. Vấn đề đặt ra là nên đa dạng hóa đến mức độ nào? Điều này còn tuỳ thuộc vào quan điểm của mỗi cá nhân. Chẳng hạn như nếu bạn mua cổ phiếu của 20 nhà phát hành khác nhau và khi một nhà phát hành chẳng may bị phá sản thì danh mục đầu tư của bạn chỉ bị suy giảm 5%. Mỗi nhà đầu tư sẽ tự đưa ra quyết định cho danh mục đầu tư của mình dựa vào cá tính bản thân, tiềm lực tài chính cũng như mức độ rủi ro mà họ có thể chịu đựng. 2. Bên cạnh việc đa dạng hoá các tổ chức phát hành, bạn cũng cần đa dạng hoá các lĩnh vực kinh doanh, đa dạng hóa các nguồn thu hoặc có thể đa dạng hoá theo vị trí địa lý. Bạn cần chú ý rằng, càng đa dạng hoá thì sẽ càng hạn chế được rủi ro, tuy nhiên đừng nên đa dạng hoá quá nhiều vì như vậy sẽ tốn rất nhiều công sức quản lý và đến một lúc nào đó thì danh mục sẽ vượt quá tầm kiểm soát của bạn. Giới thiệu danh mục đầu tư Nguồn: Công ty TVH Danh mục đầu tư có khả năng niêm yết Loại danh mục Lĩnh vực Giá trị đầu tư Số CT đầu tư ROE Av. P/E Av. % YieldAv. Số CP mua trung bình Danh mục 1 Đa dạng 100.000.000 4 27.8 6.0 8.8 675 Danh mục 2 Đa dạng 100.000.000 4 27.4 7.0 8.5 527 Danh mục 3 Đa dạng 100.000.000 4 31.5 6.0 8.9 547 Danh mục 4 Đa dạng 100.000.000 4 19.9 7.1 9.1 656 Danh mục 5 Đa dạng 100.000.000 4 27.8 5.9 10.0 395 Danh mục 6 Đa dạng 100.000.000 4 26.2 6.2 11.4 761

TGCP Thời giá cổ phần ROE Tỷ suất lợi nhuận trên vốn điều lệ Các số liệu thông tin được phân tích, đánh giá liên quan đến những danh mục đầu tư trên do các chuyên viên phân tích tài chính của Công ty TVH thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu nội bộ và mang tính tham khảo cho chủ thể có quan tâm mà không mang tính tư vấn hay đề nghị giao dịch mua bán. Mọi hình thức sao chép hoặc sửa đổi nội dung của các danh mục trình bày hoặc sử dụng làm cơ sở để bán hoặc sở hữu các chứng khoán liên quan, chúng tôi hoàn toàn không chịu bất kỳ trách nhiệm pháp lý hay đảm bảo về tính chính xác hoặc hoàn chỉnh của nó. Quản lý danh mục đầu tư chứng khoán Quản lý danh mục đầu tư là một nghiệp vụ quan trọng trong kinh doanh chứng khoán, là công cụ hữu hiệu để hạn chế rủi ro và tối đa hóa lợi nhuận. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để quản lý danh mục đầu tư một cách tối ưu nhất? Một danh mục đầu tư có thể bao gồm tất cả các chứng khoán được giao dịch trên thị trường như cổ phiếu, trái phiếu, hay các giấy tờ sở hữu bất động sản... VASC theo báo Đầu tư Chứng khoán Vì sao cần quản lý danh mục đầu tư? - Thứ nhất, đa dạng hoá danh mục đầu tư là nhu cầu của người đầu tư, có trường hợp giá cả của mọi chứng khoán được định giá đúng nhưng mỗi chứng khoán vẫn chứa đựng rủi ro và những rủi ro này có thể san sẻ thông qua việc đa dạng hoá danh mục đầu tư. - Thứ hai, việc lựa chọn danh mục đầu tư phải tính đến ảnh hưởng của thuế. Nhà đầu tư phải chịu mức thuế cao thường không muốn trong danh mục của mình có những chứng khoán giống như trong danh mục của những người chịu thuế thấp. - Thứ ba, quản lý danh mục đầu tư là cần thiết vì liên quan đến lứa tuổi của khách hàng đầu tư. Các nhà đầu tư ở các lứa tuổi khác nhau sẽ có nhu cầu riêng trong chính sách lựa chọn danh mục đầu tư và liên quan đến rủi ro. Thông thường người già ưa thích đầu tư vào những chứng khoán có độ an toàn cao như trái phiếu Chính phủ, còn giới trẻ lại thích đầu tư vào những chứng khoán có độ rủi ro cao nhưng kỳ vọng mức lợi tức cao. Quy trình quản lý danh mục đầu tư Quản lý danh mục đầu tư là quá trình liên tục và có hệ thống gồm 4 bước: - Thứ nhất, xác định mục tiêu đầu tư. Trọng tâm của việc xác định mục tiêu là xác định rõ mức độ rủi ro có thể chấp nhận được của chủ đầu tư và mức độ lợi nhuận mong đợi tương thích với mức độ rủi ro đó. - Thứ hai, xây dựng các chiến lược phù hợp với mục tiêu bao gồm việc lập các tiêu chuẩn và phân bổ đầu tư. - Thứ ba, giám sát theo dõi những diễn biến giá cả tương đối của chứng khoán trên thị trường, cả mức độ rủi ro và lợi nhuận mong đợi. - Thứ tư, điều chỉnh danh mục đầu tư phù hợp với diễn biến của thị trường và mục tiêu của người đầu tư. Một nguyên tắc nữa của danh mục là chính sách đầu tư được viết ra bằng văn bản và có sự cam kết của nhà đầu tư. Điều này rất cần thiết vì nó đảm bảo tính nhất quán, không xét lại theo tính ngẫu hứng, không phụ thuộc vào quan điểm ngắn hạn của chủ đầu tư. Quản lý danh mục đầu tư một cách chủ động hay bị động? Học thuyết về thị trường hữu hiệu cho rằng, việc quản lý danh mục đầu tư chủ động (tức là dựa vào kỹ thuật và công nghệ hiện đại để phân tích, đầu tư vào một loại chứng khoán nào đó) chỉ là sự lãng phí thời gian và tiền bạc. Học thuyết này khuyến khích cho chiến lược đầu tư bị động. Mục tiêu duy nhất của chiến lược đầu tư bị động là tạo dựng một danh mục đầu tư được đa dạng hóa hoàn toàn. Điều này trái ngược hẳn với quản lý chủ động là luôn đi tìm những chứng khoán định giá thấp hơn hay cao hơn giá thị trường để mua hoặc bán kiếm lời. Những yêu cầu của quản trị viên chuyên nghiệp - Thứ nhất, phải tạo ra mức lợi nhuận trung bình đối với mức độ rủi ro cụ thể. Lý thuyết phân tích danh mục đầu tư hiện đại đã chứng minh được mức sinh lời sau khi đã loại trừ rủi ro có thể vượt trội thông qua nắm bắt thời cơ thị trường hoặc khả năng lựa chọn cơ cấu chứng khoán trong danh mục đầu tư. Đối với một quản trị viên danh mục cổ phiếu, nếu có khả năng dự báo thời điểm lên hoặc xuống của thị trường cổ phiếu, có thể điều chỉnh thành phần cấu tạo của danh mục đầu tư để đón đầu xu hướng thị trường thì có thể nắm giữ những cổ phiếu có lợi nhuận mong đợi cao khi thị trường đang lên giá. Đối với một quản trị viên danh mục trái phiếu, nếu có khả năng dự báo xu hướng vận động của lãi suất, sẽ điều chỉnh kịp thời mức đáo hạn bình quân để đón đầu những biến động lãi suất thị trường. Kết quả đạt được sao cho nắm giữ được danh mục trái phiếu có mức đáo hạn bình quân cao khi lãi suất có xu hướng giảm và ngược lại, nắm giữ thời hạn trung bình của những trái phiếu thấp khi lãi suất thị trường có xu hướng tăng. - Thứ hai, khả năng đa dạng hóa chứng khoán trong một danh mục để loại bỏ rủi ro không hệ thống (rủi ro không hệ thống là rủi ro chỉ tác động vào một tài sản hoặc một chủ thể nào đó). Mức độ đa dạng hóa có thể được đánh giá trên cơ sở mối tương quan giữa mức sinh lời danh mục do thành viên đó thiết lập với danh mục thị trường. Vì vậy, quản lý danh mục đầu tư có vai trò rất quan trọng. Tối ưu trong danh mục đầu tư phụ thuộc vào tuổi tác mức thuế, tâm lý đối với rủi ro.... Nhiệm vụ của nhà quản lý danh mục đầu tư là tập hợp danh mục các chứng khoán phù hợp với đòi hỏi này. Lựa chọn cổ phiếu hay trái phiếu để đầu tư VASC, 14/09/2001, 11h50 Hàng hoá giao dịch trên thị trường chứng khoán là các chứng khoán, tức là các chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu chứng khoán đối với tài sản hoặc vốn của tổ chức phát hành được quy định rõ trong Nghị định 48/1998/NĐ-CP của Chính phủ bao gồm các loại cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư và các loại chứng khoán phái sinh khác. Trong thời gian đầu mới ra đời và đi vào hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam, hàng hoá trên thị trường chỉ chủ yếu tập trung vào các loại trái phiếu và cổ phiếu. Cổ phiếu và khả năng sinh lợi của nó Khi đầu tư vào cổ phiếu, người đầu tư kỳ vọng vào mức chi trả cổ tức và khả năng gia tăng giá trị của nó trên thị trường để mang lại nguồn lợi lớn cho người nắm giữ cổ phiếu. Cũng như những hàng hoá khác, giá cổ phiếu thường xuyên dao động trên thị trường, vấn đề quan trọng là bạn phải chọn được thời điểm mua hoặc bán thích hợp nhất. Trường hợp chưa nên bán cổ phiếu Khi cổ phiếu mà bạn đang nắm giữ là loại cổ phiếu của công ty tốt, làm ăn hiệu quả có tỷ lệ sinh lời cao, triển vọng phát triển rất sáng sủa, chưa có thông tin gây nên biến động giá hoặc chưa thực sự cần bán thì đừng vội vã quyết định bán. Bạn cần phải kiên nhẫn và tỉnh táo, ngay cả khi có những tin đồn gây nên sự dao động giá nhưng sự dao động đó chỉ là nhất thời. Thậm chí bạn có thể quyết định mua vào khi thấy giá xuống thấp đến mức mà bạn thấy hợp lý. Bạn chỉ nên bán cổ phiếu khi : 1        Công ty mà bạn nắm giữ cổ phiếu đang trong tình trạng bất lợi do sản phẩm chính của công ty bị cạnh tranh bởi những sản phẩm có ưu thế hơn làm cho thị phần của công ty bị giảm sút. 2        Tình trạng tài chính của công ty gặp khó khăn, các chỉ tiêu tài chính chủ yếu có dấu hiệu sút giảm. 3        Năng lực của bộ máy lãnh đạo bị suy giảm, các cổ đông chủ chốt hoặc các chuyên gia giỏi có xu hướng rút khỏi công ty. 4        Mức chênh lệch giá đã đáp ứng được mục tiêu kinh doanh mà bạn đã đề ra ban đầu. Ngoài ra bạn nên tham khảo ý kiến của các nhà tư vấn để đưa ra các quyết định chính xác nhằm hạn chế đến mức thấp nhất khoản thua lỗ do sự giảm gía chứng khoán trên thị trường. Trái phiếu và nguồn lợi từ đầu tư trái phiếu Đầu tư vào trái phiếu, bạn có được sự an toàn hơn là cổ phiếu. Bởi vì bạn luôn nhận được vốn và lãi kể cả trong trường hợp công ty làm ăn thua lỗ hoặc giải thể thì người có trái phiếu sẽ được thanh toán trước người sở hữu cổ phiếu. Tuy nhiên, khi công ty có lợi nhuận cao thì người nắm giữ trái phiếu cũng chỉ được nhận mức lãi cố định và người sở hữu trái phiếu có thể nhận được mức trả cổ tức cao hơn. Cũng như cổ phiếu, giá trái phiếu trên thị trường thứ cấp cũng lên xuống theo tỷ lệ nghịch với lãi suất thị trường và cũng gắn chặt với uy tín của công ty phát hành. Khi lãi suất thị trường tăng cao hơn lãi suất trái phiếu thì giá trái phiếu sẽ giảm xuống và ngược lại. Do đó, trong kinh doanh trái phiếu bạn cần quan tâm đến hai vấn đề đó là xu hướng lên xuống của lãi suất thị trường và uy tín của tổ chức phát hành. Tóm lại, việc lựa chọn loại chứng khoán để đầu tư sẽ dễ dàng hơn nếu bạn có ý tưởng rõ ràng về mục đích cần đạt được từ khoản đầu tư của bạn. Thông thường có thể dựa trên các mục tiêu sau: 1        Đầu tư vì sự an toàn vốn: với mục tiêu này sự đầu tư của bạn sẽ không có hoặc có rất ít rủi ro, vì vậy bạn nên đầu tư vào các loại trái phiếu có độ an toàn cao như trái phiếu Chính phủ hay trái phiếu của các tổ chức có qui mô lớn phát hành. 2        Đầu tư vì thu nhập: mục tiêu này sẽ giúp bạn có được số tiền lời nhất định để trang trải cho các chi phí trong cuộc sống hiện tại và tương lai. Để đạt mục tiêu này bạn nên mua cổ phiếu của các công ty có thu nhập ổn định. 3        Đầu tư để tăng vốn: vốn đầu tư của bạn tăng lên nghĩa là số tiền đầu tư sẽ tăng lên theo thời gian, qua đó làm tăng giá trị tài sản của bạn và giúp bạn phần nào bù đắp rủi ro lạm phát hay rủi ro thị trường. Với mục tiêu này bạn nên đầu tư vào cổ phiếu tăng trưởng, tuy nhiên nếu lợi nhuận càng cao thì rủi ro sẽ càng lớn. Cách thức đầu tư vào cổ phiếu VASC/ĐTCK, 22/08/2001, 4h47 Một người đầu tư chứng khoán đứng trước tình hình của thị trường chứng khoán (TTCK), luôn có 4 câu hỏi phải tự giải đáp: - Có mua không? - Mua bao nhiêu? - Mua loại nào? - Khi nào mua? Câu hỏi thứ nhất nói lên thái độ của người đầu tư đối với số vốn của mình và suy nghĩ của ông ta về TTCK. Cổ phiếu (CP) thường, đó là một công cụ tài chính mạng nặng tính đầu tư, do đó nó không thích hợp cho những người kinh doanh ăn chắc, không có can đảm mạo hiểm. Câu hỏi thứ hai và thứ ba liên quan đến kế hoạch đầu tư. Câu hỏi thứ tư là thời cơ mà người kinh doanh cần xác định đúng. 1. Có mua không? Theo châm ngôn của TTCK Mỹ "không có cuộc đầu tư nào là lý tưởng nhất, cũng như không có một cái gì lý tưởng nhất trên đời này cả" . Bởi lẽ, một cuộc đầu tư lý tưởng phải đáp ứng được một số tiêu chuẩn mà dù có đạt được cũng không thể dung hợp được với nhau. Tất cả những mục tiêu không thể kết hợp được với nhau trong một cuộc đầu tư đối với một loại chứng khoán. Do vậy, mỗi người đầu tư cần phải xác định mục tiêu nào là chính để cố gắng đạt cho được cái đó. Sau đây là một số mục tiêu (tiêu chuẩn) có thể có của một cuộc đầu tư lý tưởng - Bảo toàn vốn so với số lượng vốn ban đầu và sức mua của nó không thay đổi nếu thị trường có biến động. - Có lợi tức dù trong hoàn cảnh nào của nền kinh tế. - Lợi tức ổn định tức là không bị suy giảm về lượng tuyệt đối và sức mua của lợi tức đó vẫn được đảm báo dù giá cả có thay đổi. - Lợi tức tối đa - Thời gian đầu tư: Không có nguy cơ rủi ro, biểu hiện là chứng khoán sẽ không bao giờ bị đáo hạn khi người đầu tư vẫn còn muốn giữ nó. - Dễ bán ngay khi được giá hoặc khi người đầu tư không muốn giữ nó nữa. - Công ty phát hành chứng khoán đang là một công ty lớn mạnh, đang tăng trưởng, có cơ sở vững chắc, không bị ảnh hưởng bởi ngoại cảnh, quản lý tốt lợi tức công ty và lợi tức cổ phần cao, luôn luôn đổi mới kỹ thuật công nghệ. Trong thực tế sẽ không bao giờ có một cuộc đầu tư lý tưởng đạt được tất cả các tiêu chuẩn trên, do đó người đầu tư cần thiết phải xác định mục tiêu cơ bản, mục tiêu chủ yếu. 2. Mua bao nhiêu? Quyết định sẽ mua bao nhiêu chứng khoán là một quyết định cơ bản của người đầu tư. Tiền dành để đầu tư của một người bao giờ cũng là có hạn và công cuộc đầu tư thì có nhiều cách: đầu tư vào địa ốc, đầu tư vào bất động sản, gửi tiết kiệm ngân hàng... do vậy phải xem xét, tính toán dành bao nhiêu cho đầu tư chứng khoán là hợp lý. Sau đây là một số tiêu chuẩn cơ bản để người đầu tư tham khảo trong việc xác định về quy mô của vốn đầu tư chứng khoán. - Thu nhập của người đầu tư (số lượng, nguồn, tính ổn định, dự kiến thu nhập thời gian tới); - Số người sống nhờ vào người đầu tư (mức độ và thời gian); - Tuổi và sức khỏe của người đầu tư và những người trong gia đình; - Mức thuế phải đóng; - Sở hữu nhà và bất động sản; - Tiền tích lũy có thể dùng cho đầu tư. - Tâm lý người đầu tư (có dám mạo hiểm hay kinh doanh theo kiểu ăn chắc); - Kiến thức kinh tế và khả năng kinh doanh. - Thời gian dùng cho việc quản lý đầu tư. Và còn bao nhiêu tiêu chuẩn khác, nhưng vấn đế là người đầu tư phải biết kết hợp khéo léo giữa các tiêu chuẩn đó một cách có hiệu quả nhất. Các dấu hiệu nhận biết thời điểm nên bán ra cổ phiếu VASC/ĐTCK, 09/08/2001 Trong kinh doanh chứng khoán, việc xác định thời điểm tốt nhất để bán ra cổ phiếu (CP) được xem là khá khó khăn đối với các nhà đầu tư. Sau đây là một số dấu hiệu giúp nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán có thể nhận biết được thời điểm nào nên bán ra CP. Có sự thay đổi lớn trong Ban quản trị công ty Nếu những nhà quản lý hàng đầu của công ty (những người chịu trách nhiệm về sự thành công của công ty) bắt đầu rời bỏ công ty thì có thể xem đó là dấu hiệu bất lợi cho tương lai của công ty. Khi đó cần phải theo dõi và phát hiện xem tại sao lại có những thay đổi như vậy. Đặc biệt, khi phát hiện ra những dấu hiệu cho thấy công ty đang trở nên suy yếu trong lĩnh vực kinh doanh chính thì tốt nhất nên bán CP của công ty đó đi và thay vào đó là tìm mua CP của công ty khác trong cùng lĩnh vực đó nhưng mạnh hơn và có Ban quản trị ổn định hơn. Khi yếu tố khiến quyết định mua CP không còn nữa Chẳng hạn như khi quyết định đầu tư vào CP của các công ty dược phẩm bởi vì trong lĩnh vực dược phẩm vừa phát minh ra loại thuốc mới đem lại những đóng góp lớn lao cho sức khỏe nhân loại. Đột nhiên, một thời gian sau người ta phát hiện ra loại thuốc đó có những tác dụng phụ không tốt cho sức khỏe, điều này khiến cho thị phần của công ty bị sụt giảm và trong tương lai lợi nhuận của công ty cũng sẽ giảm. Khi đó nên bán CP đó đi vì CP này không tính còn hấp dẫn nữa. Công ty đột nhiên cắt giảm cổ tức hoặc bị sụt giảm về thu nhập Trường hợp này nên điều tra cẩn thận trước khi quyết định có nên bán CP hay không. Nếu là do Ban quản trị công ty quyết định không chia cổ tức để tập trung vốn cho việc phát triển và mở rộng quy mô công ty thì đó lại là điều tốt. Tuy nhiên, thường thì sự sụt giảm về lợi nhuận là dấu hiệu cho thấy tương lai của công ty gặp nhiều khó khăn và trong trường hợp này thì đa số nhà môi giới đều khuyên khách hàng bán CP đi.Khi cảm thấy thị giá CP đã vượt qua giá trị nội tại Có một số nhà đầu tư dù biết rằng CP của mình đã vượt quá giá trị nội tại nhưng họ vẫn chưa bán đi vì muốn trì hoãn việc chịu thuế thu nhập. Tuy nhiên, nếu cảm thấy thị giá đã vượt qua giá trị nội tại của CP thì nên bán CP đi vì giữ lại CP này sẽ phải chịu rủi ro rất cao và chỉ có thể trì hoãn việc chịu thuế chứ không thể không chịu thuế. Ngoài ra, khi bán ra CP này thì sẽ có cơ hội đầu tư vào CP khác để đa dạng hóa danh mục và giảm thiểu rủi ro đầu tư của mình. Khi không hài lòng về danh mục đầu tư hiện tại Có thể trong danh mục đầu tư sẽ có các CP không phù hợp với các mục tiêu tài chính đặt ra trước đó (như là xây nhà mới, chuẩn bị cho kế hoạch nghỉ hưu...), khi đó tốt nhất nên bán các CP này đi và tổ chức lại danh mục đầu tư mới phù hợp hơn với mong muốn của mình. Một số phương pháp tính giá trị thực của cổ phiếu niêm yết Hiện tại các nhà phân tích chứng khoán tại Việt Nam và trên thế giới dùng khá nhiều phương pháp để tính và dự đoán giá CP, sau đây là 3 phương pháp có thể áp dụng được trong điều kiện hiện tại của TTCK Việt Nam. VASC/ĐTCK, 24/07/2001 Ngoài ra, để đơn giản hoá vấn đề, chúng ta sẽ lấy giá cao nhất trong các giá CP tính theo các phương pháp trên làm giá trị thực của CP được phân tích. Định giá cổ phiếu phổ thông theo phương pháp chiết khấu luồng thu nhập (DCF) Phương pháp định giá chiết khấu luồng thu nhập (DCF) được dựa trên một nguyên lý cơ bản là "tiền có giá trị theo thời gian”, một đồng tiền của ngày hôm nay luôn có giá trị hơn một đồng tiền của ngày mai, một đồng đầu tư vào trong doanh nghiệp (DN) này có mức sinh lời khác với một đồng đầu tư trong DN khác, do đó, giá trị của ND được xác định bằng các luồng thu nhập dự kiến mà DN đó thu được trong tương lai được quy về giá trị hiện tại bằng cách chiết khấu chúng bằng một mức lãi suất chiết khấu phù hợp với mức độ rủi ro của DN đó. Do vậy, trong phương pháp DCF có 3 thông số cơ bản nhất cần được xác định, đó là luồng thu nhập công ty sẽ thu về trong tương lai, mức lãi suất chiết khấu luồng thu nhập đó và thời hạn tồn tại dự tính của DN. Phương pháp này được áp dụng phổ biến ở những nước mà TTCK phát triển, nơi thường có đầy đủ thông tin về lịch sử cũng như thông tin hiện tại và dự báo hợp lý về tình hình tài chính và rủi ro của doanh nghiệp. Hiện nay, việc áp dụng công thức này ở Việt Nam cũng được nhiều người chấp nhận bởi giá CP tính theo phương pháp này phản ánh được tương đối đầy đủ mọi mặt bản chất hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty so với các phương pháp khác và đứng trên quan điểm của nhà đầu tư thì, ngoài việc tính toán theo phương pháp này rất đơn giản, nó còn đáp ứng đúng suy nghĩ, nguyện vọng của họ khi đầu tư vào một DN. Tuy nhiên, tại Việt Nam việc áp dụng công thức này có một số khó khăn làm cho việc ước tính nguồn thu trong tương lai của các công ty khó có thể chính xác như: Tình hình môi trường kinh doanh có nhiều biến động; Các ND Việt Nam trong đó có các công ty đang niêm yết đều chưa quen với việc lập kế hoạch sản xuất kinh doanh dài hạn, đặc biệt là còn xa lạ với việc dự báo chi tiết luồng tiền dài hạn ra, vào công ty... Do đó, chúng ta sẽ điều chỉnh lại công thức này theo hướng 5 năm và cộng giá trị tài sản ròng được tính vào thời điểm niêm yết. Công thức được điều chỉnh sẽ là: P = Po + E1/(1+r) + E2/(1+r)2 + E3/(1+r)3 + E4/(1+r)4 + E5/(1+r)5 Định giá CP phổ thông theo phương pháp hệ số P/E Đây là phương pháp cũng được áp dụng phổ biến ở các TTCK đã phát triển. Hệ số P/E là hệ số giữa giá CP (thị giá) và thu nhập hàng năm của một CP đem lại cho người nắm giữ. Thông thường, để dự tính giá của một loại CP, người ta thường dùng thu nhập trên mỗi CP của công ty nhân với hệ số P/E trung bình ngành hoặc của một công ty tương tự về qui mô, ngành nghề và đã được giao dịch trên thị trường. Việc áp dụng hệ số P/E để tính giá CP tại Việt nam còn gặp phải nhiều khó khăn do thiếu số liệu và TTCK chưa phát triển. Tại các thị trường đã phát triển, theo số liệu thống kê về chỉ số P/E, hệ số này từ 8-15 là bình thường, nếu hệ số này lớn hơn 20 thì công ty đang được đánh giá rất tốt và người đầu tư trông đợi trong tương lai, mức thu nhập trên một CP của công ty sẽ tăng nhanh. Trường hợp công ty có hệ số P/E thấp có thể là do thị trường không đánh giá cao công ty đó hoặc chưa hiểu biết nhiều về công ty. Khi tất cả các CP trên thị trường đều có giá quá cao so với giá trị thực của của nó thì phần bong bóng sẽ Định giá cổ phiếu dựa trên cơ sở tài sản ròng có điều chỉnh Quan điểm chung của phương pháp này cho rằng, một công ty có giá trị không kém hơn tổng các giá trị của từng loại tài sản riêng của nó trừ đi các khoản nợ của nó. Tài sản riêng ở đây được hiểu bao gồm cả những giá trị lợi thế của công ty. Giá CP của công ty có thể được tính theo phương pháp tổng quát sau: Giá CP = (Giá trị TS ròng + Giá trị lợi thế)/Tổng số CP định phát hành Phương pháp này thường được sử dụng để tính toán giá tham chiếu và so sánh. ở Việt Nam, phương pháp này được áp dụng phổ biến cho các DN Nhà nước thực hiện CPH. Tuy nhiên, giá trị tài sản ròng của công ty dù được định giá chính xác đến đâu cũng chỉ thể hiện giá trị thanh lý của công ty, trong khi đó đối với người đầu tư mua CP thì tương lai của công ty mới là điều đáng quan tâm hơn cả. Trong các DN CPH ở Việt Nam có nhiều loại tài sản mà chúng ta không xác định được giá do không có thị trường cho các loại tài sản này, nhưng có một loại tài sản mà ai cũng thấy rõ là đang góp phần khiến cho các DN Nhà nước CPH được định giá thấp là giá trị quyền sử dụng đất. Quan sát cho thấy, việc quyền sử dụng đất trong các DN Nhà nước CPH được định giá thấp hơn giá cả trên thị trường nhà đất từ 4 đến 5 lần không phải là hiện tượng cá biệt. Hơn thế nữa, trong nhiều DN, quyền sử dụng đất là một tài sản có giá trị cao nhất, chiếm một tỷ trọng rất lớn trong tổng tài sản của công ty. Chúng ta sẽ dựa trên một số số liệu về cổ phần hoá, tính những thiếu hụt trong quá trình định giá của các DN Nhà nước cổ phần bằng cách nhân tổng giá trị tài sản ròng của công ty lên 2 lần. Dựa trên các phương pháp được giới thiệu trên và chỉ sử dụng một cách máy móc những con số ghi trên trên báo cáo tài chính năm 1999 và 2000 được công bố của các công ty niêm yết, các bạn có thể tự tính toán được giá trị CP của các công ty theo bảng dưới đây. Tuy nhiên, theo những tính toán nêu trên thì giá CP vẫn chưa thể hiện được hoàn toàn về các giá trị thực của công ty mà nó phản ánh. Để có thể hiểu được một cách rõ nét và toàn diện hơn, chúng ta cần phải đi sâu vào phân tích những yếu tố phi định lượng khác nhưng lại ảnh hưởng rất lớn đến những kết quả tính toán nêu trên. Những yếu tố mà bạn cần phải tính đến khi phân tích và tính giá CP của một công ty bao gồm: - Độ tin cậy của số liệu - Mức độ rủi ro trong hoạt động của công ty bao gồm cả những yếu tố như tình hình thị trường và triển vọng của công ty (điều này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến thời hạn hoạt động cuả công ty, hệ số chiết khấu trong công thức tính DCF); - Những yếu tố liên quan đến tài sản vô hình của công ty như trình độ quản lý của ban giám đốc, uy tín sản phẩm, nhãn hiệu thương mại, chất lượng sản phẩm được thể hiện theo các tiêu chuẩn ISO... Sẽ không còn hiệu quả nếu đầu tư theo kiểu "phong trào" Nếu như trước đây cổ phiếu (CP) là thứ hàng hóa hấp dẫn vì "hễ mua được là có lời" khiến các nhà đầu tư sẵn sàng "dốc hết hầu bao" đổ xô đi mua thì nay lại nhường chỗ cho tình trạng "ế ẩm". VASC/ĐTCK, 17/07/2001 Theo số liệu thống kê của Phòng giao dịch thuộc Trung tâm Giao dịch chứng khoán Tp.HCM (TTGDCK) cho thấy số lượng lệnh đặt mua CP đang có xu hướng giảm mạnh. Các chuyên gia phân tích cho rằng nguyên nhân chính khiến là do tác động của quyết định giới hạn lượng CP đặt mua (mỗi nhà đầu tư chỉ được phép đặt mua tối đa 2.000 CP trong mỗi phiên giao dịch cho một loại CP). Khác với thực trạng thị trường chứng khoán (TTCK) cách đây vài tháng, diễn biến trên thị trường hiện nay là mua CP dễ nhưng ít người mua. Trong bối cảnh này, khi mà các chính sách điều hành thị trường thiếu nhất quán như vậy, các nhà đầu tư ngần ngại mua vào vì sợ rằng CP rớt giá bất ngờ lại là điều dễ hiểu. Còn các nhà đầu tư đang giữ trong tay CP giờ lại tiếc không bán ra vì đã lỡ mua vào với giá cao nên không chịu bán ra ở mức giá thấp. Chính tâm lý "bán thì thương, vương thì nợ" của các nhà đầu tư khiến cho các CP lâm vào tình trạng "ế ẩm" như hiện nay. Các chuyên gia phân tích nhận định rằng TTCK Việt Nam sắp tới giai đoạn "khó mua, khó bán". "Khó" không có nghĩa là "thiếu" hàng hóa để mua bán mà là không phải khi nào nhà đầu tư đặt lệnh là có thể bán được CP hoặc nếu mua được CP là có lời. Muốn "mua được, bán được" trong thời gian tới thì các nhà đầu tư cần phải có sự phân tích đánh giá về từng loại CP, phải biết nhận định và đưa ra các dự báo về tình hình để ra quyết định đầu tư. Nhìn nhận về tình hình TTCK thời điểm hiện nay, nhiều nhà đầu tư nói: "Giờ đây đầu tư vào các CP không hiệu quả như trước bởi vì khối lượng CP đặt mua bị khống chế. Hơn nữa giá CP lại lên xuống thất thường. Khi đặt lệnh lên thì giá lại xuống còn khi đặt lệnh xuống thì giá lại lên".

Nhìn lại diễn biến các phiên giao dịch từ đầu tháng 07/2001 đến nay có thể thấy nhận xét của các nhà đầu tư hoàn toàn có cơ sở khi mà diễn biến giao dịch không lặp lại "điệp khúc" tăng giá như trước đây mà mỗi loại CP đều có "đường đi" riêng. Các chuyên gia phân tích thị trường cho rằng giá CP đang diễn biến theo hướng mang tính thị trường hơn. Hay nói cách khác, giá CP không lên (hoặc xuống) theo một đường thẳng mà biến đổi lúc lên, lúc xuống, lúc đứng yên... một cách linh hoạt. Xu hướng này sẽ biểu hiện rõ nét hơn một khi trên thị trường có thêm hàng hóa niêm yết. Tuy nhiên, xu hướng này là tích cực cho thị trường nhưng sẽ lại bất lợi cho các nhà đầu tư không biết phân tích, đánh giá mà chỉ biết "cắm đầu, cắm cổ" đầu tư theo "phong trào". Những yếu tố không thực trong "giá trị thực" của cổ phiếu Các chuyên gia chứng khoán lại bàn về "giá trị thực" của cổ phiếu trong khi bản thân họ cũng không thể nói chính xác và thống nhất với nhau "giá trị thực" được tính như thế nào. Vậy "giá trị thực" là gì? VASC/ĐTCK, 17/07/2001 Vấn đề "giá trị thực" và "giá trị ảo" của cổ phiếu (CP) đã được các chuyên gia phân tích đề cập khá nhiều và đồng thời cũng là câu hỏi mà tất cả công chúng đầu tư đều quan tâm. Tuy nhiên, phần lớn "giá trị thực" đều dựa trên những thông tin thiếu chính xác và khó có thể coi là "thực". Có nhiều nhà đầu tư nói về "giá trị thực" của CP mà không biết rõ lĩnh vực hoạt động, tình hình kinh doanh và tài chính của công ty phát hành CP ra sao, triển vọng tăng trưởng thế nào... Các chuyên gia chứng khoán lại bàn về "giá trị thực" trong khi bản thân họ cũng không thể nói chính xác và thống nhất với nhau "giá trị thực" được tính như thế nào. Vậy "giá trị thực" là gì? Với phương pháp DCF (định giá CP thông qua chiết khấu luồng thu nhập), sử dụng Po (giá trị tài sản ròng vào thời điểm niêm yết) và E (lợi nhuận ước tính của doanh nghiệp trong 5 năm) để tính giá trị thực. Tuy nhiên, liệu kết quả có "thực" không khi: - Giá trị tài sản ròng hoàn toàn dựa trên giá trị sổ sách, không có liên hệ nhiều với giá trị thị trường của những tài sản này tại thời điểm niêm yết và chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi các chính sách kế toán được áp dụng trước đó. - Lợi nhuận trong tương lai chỉ là ước tính dựa trên giá định của từng cá nhân. - Giá trị sinh lợi của doanh nghiệp từ sau năm thứ 5 hoàn toàn bị "quên" và không được tính vào giá trị "thực", trong khi phần giá trị này là không nhỏ trong toàn bộ giá trị nội tại của một doanh nghiệp... Với phương pháp sử dụng hệ số P/E cũng nảy sinh một số vấn đề: - Liệu E (lợi nhuận trên mỗi CP của doanh nghiệp) có phản ánh đúng lợi nhuận "thực" không hay còn chịu ảnh hưởng của các chính sách kế toán được áp dụng? - Nên sử dụng E của năm tài chính trước, của 12 tháng kinh doanh gần nhất hay của năm tài chính hiện thời? - Liệu hệ số so sánh có phản ánh đúng giá trị "thực" của toàn ngành hay toàn thị trường mà doanh nghiệp hoạt động? - Liệu hệ số P/E có cần điều chỉnh so với thực tế của doanh nghiệp hay không? Một điểm cần lưu ý nữa là việc sử dụng thuật ngữ "giá trị thực" của CP là chưa chuẩn xác bởi cụm từ "Intrinsic value" mà các nhà chuyên môn sử dụng trong trường hợp này có nghĩa đúng hơn là "giá trị nội tại". Thuật ngữ "giá trị thực" có thể sử dụng lẫn lộn với "giá trị nội tại" khi nói đến các công cụ tài chính đơn giản và xác định như trái phiếu, tín phiếu... nhưng lại không được phép lẫn lộn khi đề cập đến công cụ tài chính là CP. "Giá trị nội tại" của một công ty được định nghĩa là giá trị chiết khấu của luồng tiền mà công ty đó có thể đem lại trong tương lai. Tuy nhiên để tính giá trị này hoàn toàn không đơn giản. Chỉ có thể ước tính giá trị này trên cơ sở những thông tin và giả định hiện có, bên cạnh đó phải điều chỉnh ước tính này ngay khi những thông tin và giả định này thay đổi. Hai người với cùng có những thông tin như nhau khó tránh khỏi việc đưa ra những giá trị ước tính khác nhau. Vì vậy việc khẳng định giá chứng khoán đã "vượt quá giá trị thực" và kỳ vọng các nhà đầu tư khác cũng thừa nhận kết luận này là một ý tưởng hết sức chủ quan. Đã đến lúc cần thay đổi cách sử dụng thuật ngữ "giá trị thực" và thay vào đó là một thuật ngữ mang tính chuyên môn hơn - "giá trị nội tại" có lẽ là một thuật ngữ thích hợp. Bản thân thuật ngữ này sẽ nhắc nhở cho tất cả các nhà đầu tư, các nhà chuyên môn và các nhà quản lý rằng: nhận định về giá trị một doanh nghiệp luôn mang tính chủ quan, nhận định này sẽ được đánh giá và thưởng phạt xứng đáng thông qua một thị trường hoạt động với sự can thiệp tối thiểu của các nhà quản lý, nơi mà người mua và người bán sẽ là những người quyết định giá của hàng hóa họ đang mua bán. Khi nào cổ phiếu, trái phiếu chính thức bị huỷ bỏ niêm yết? VASC/ĐTCK, 05/06/2001, 19h15 Diễn biến hoạt động trên thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam hiện có rất nhiều biến động. Một loạt các quy định được Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước tung ra trong thời gian vừa qua nhằm mục đích bình ổn thị trường nhưng dường như càng gây phức tạp hơn. Giá chứng khoán khi thì tăng kịch trần, lúc thì rớt chạm sàn và chỉ số Vn-Index thì tăng "chóng mặt"... khiến các nhà đầu tư rất lo lắng không biết liệu rằng trong tương lai chứng khoán của họ đang nắm giữ sẽ ra sao. Xin nêu ra đây một số trường hợp cổ phiếu (CP) hoặc trái phiếu (TP) bị huỷ bỏ niêm yết. Theo quy định tại Điều 25 trong Quyết định số 79/2000/QĐ-UBCKNN của Chủ tịch Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước về việc ban hành quy chế thành viên, niêm yết công bố thông tin, giao dịch chứng khoán, CP và TP bị hủy bỏ niêm yết trong các trường hợp sau: 1. Tổ chức niêm yết bị phá sản hoặc giải thể. 2. Tổ chức niêm yết ngừng các hoạt động kinh doanh chính từ 1 năm trở lên, bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc giấy phép hoạt động chính. 3. ý kiến kiểm toán về báo cáo tài chính của tổ chức niêm yết trong 2 năm liền không chấp nhận hoặc từ chối cho ý kiến. 4. Tổ chức niêm yết cố tình hoặc thường xuyên vi phạm quy định về công bố thông tin. 5. Tổ chức niêm yết không nộp báo cáo trong 2 năm liên tục. 6. Không có giao dịch CP hoặc TP trong vòng 1 năm. 7. Tài sản ròng của tổ chức niêm yết có số âm trong 2 năm liên tục. 8. Không đáp ứng điều kiện sau quá 1 năm: tối thiểu 20% vốn cổ phần của tổ chức phát hành phải do trên 100 nhà đầu tư ngoài tổ chức phát hành nắm giữ, trường hợp vốn của tổ chức phát hành là 100 tỷ đồng Việt Nam trở lên thì tỷ lệ này là 15% vốn cổ phần của tổ chức phát hành. 9. Không đáp ứng điều kiện sau quá 1 năm: tối thiểu 20% tổng giá trị TP phải do trên 100 người đầu tư nắm giữ, trường hợp tổng giá trị TP xin phép phát hành từ 100 tỷ đồng trở lên thì tỷ lệ này là 15% tổng giá trị TP phát hành. 10. Thời hạn thanh toán của TP ít hơn 2 tháng, hoặc TP được tổ chức phát hành mua lại toàn bộ trước thời gian đáo hạn. 11. Tổ chức niêm yết nộp đơn xin hủy bỏ niêm yết và được Trung tâm Giao dịch chứng khoán chấp thuận. 12. Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước xét thấy cần thiết phải hủy bỏ việc niêm yết để bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư. các yếu tố cần cân nhắc khi lựa chọn nhà môi giới chứng khoán VASC/UBCK, 19/06/2001 Các bảng tổng kết tài khoản này phải bao gồm những thông tin cần thiết sau: chi tiết về tỉ lệ của từng loại chứng khoán có trong danh mục, chi tiết về tỉ lệ đầu tư vào từng lĩnh vực (percentage breakdown of your portfolio by security type or by sector), giá mua và giá bán của từng loại chứng khoán (cost price and selling price of each security) phân loại rõ các thu nhập chịu thuế và các thu nhập được miễn thuế (taxable and tax-exempt income should be listed separately), tỉ lệ biến động của danh mục so với tháng trước cũng như tỉ lệ thay đổi của từng loại chứng khoán (the percentage change in the value of the entire portfolio and each individual holding). Vấn đề thứ sáu là liệu công ty môi giới mà bạn sắp chọn có đáng tin cậy hay không. Để tìm hiểu vấn đề này, bạn có thể xem lại các tạp chí chuyên ngành (journals) để tìm ra các số liệu thống kê cụ thể (specific statistics data) liên quan đến những vi phạm của công ty (violations/infringements) đã bị các cơ quan quản lý (regulatory agencies/bodies) phát hiện (detect) và xử lý (handle). Bạn cần lưu ý đến 2 khía cạnh: tổng số tiền phạt (fines) mà công ty môi giới phải trả sau khi có phán quyết của tòa án (courts) hoặc các cơ quan quản lý có thẩm quyền (competent regulatory agencies) cũng như tổng số tiền bồi thường (compensatory payments) mà công ty môi giới phải trả thông qua dàn xếp (settlement) tại cơ quan trọng tài (arbitration). Vì số lượng nhân viên môi giới tại mỗi công ty chứng khoán có thể nhiều ít khác nhau, bạn cần tính toán số tiền phạt bình quân cho mỗi nhân viên môi giới (per-broker figure), đây là mốc chuẩn (benchmark) để bạn đánh giá (evaluate) xem công ty mà bạn sắp chọn có tuân thủ đúng pháp luật hay không (are they good in the business of compliance?). Phương châm (motto) của các công ty chứng khoán luôn là "Chúng tôi không làm những gì có thể gây rắc rối cho khách hàng" ("We don’t offer things that tend to get people in trouble"), tuy vậy bạn phải luôn thật tỉnh táo để đề phòng trường hợp công ty chứng khoán vô tình hay hữu ý (accidentally or intentionally) phóng đại mức lợi nhuận và đánh giá thấp các rủi ro tiềm tàng (overstate the benefits and understate the inherent risks) trong quá trình tư vấn đầu tư cho khách hàng. Mua lại trái phiếu Một trong những thông tin cần thiết cho nhà đầu tư khi xem xét, quyết định đầu tư vào công cụ nợ đó là các điều kiện mua lại của tổ chức phát hành. VASC/UBCK, 06/06/2001, 20h15 Đặc tính mua lại trái phiếu (TP) được tổ chức phát hành quy định ngay lúc phát hành trái phiếu đó. Việc mua lại có thể thực hiện vào lúc đáo hạn hoặc trước khi đáo hạn. Lãi suất của trái phiếu có thể mua lại có chiều hướng cao hơn khi so sánh với trái phiếu không thể mua lại. Việc mua lại có thể do điều kiện khách quan như lãi suất chung thị trường giảm, Tổ chức phát hành (TCPH) muốn mua lại những trái phiếu lợi suất cao mà đã phát hành trước đây để thay chúng bằng một công cụ nợ mới với lãi suất coupon thấp hơn, phù hợp với mặt bằng lãi suất thị trường. Bên cạnh đó, việc mua lại do TCPH chủ động thực hiện khi mà họ muốn cơ cấu lại cấu trúc tài chính như: giảm nợ, thay thế công cụ nợ dài hạn bằng ngắn hạn. Có khi việc mua lại được xem như là một phương án để buộc chuyển đổi tất cả chứng khoán có thể chuyển đổi của một đợt phát hành. Rõ ràng việc mua lại của tổ chức phát hành là một rủi ro đối với trái chủ vì không đạt được mức lợi suất đã ấn định. Vì vậy, để bù đắp cho trái chủ phần lãi có thể không được nhận trong tương lai, trái phiếu sẽ được mua lại với một phí thưởng. Tuy nhiên, tổ chức phát hành có thể không mua lại trái phiếu trực tiếp từ trái chủ nếu họ có thể mua với giá thấp hơn trên thị trường thứ cấp. Trước ngày hiệu lực mua lại thì TP vẫn giao dịch bình thường trên thị trường mở. Đến khi TP được mua lại thì trái chủ sẽ chọn một trong 2 cách: bán lại cho tổ chức phát hành hoặc bán trên thị trường mở. Khi giao dịch trên thị trường mở, TP được giao dịch với mức giá thấp hơn so với giá mua của TCPH công bố, và đây là cơ hội cho các nhà giao dịch song hành có thể mua TP với giá chiết khấu thấp hơn giá mua và sau đó lại bán cho TCPH để hưởng khoản chênh lệch giá. Để dễ hình dung bài toán về mua lại trái phiếu, chúng ta có thể lấy ví dụ sau để minh họa. Tính lãi suất mua lại của một TP lãi suất 10%/năm, mệnh giá 1000$, thời hạn 18 năm được bán ở mức giá 1168$, ngày mua lại có hiệu lực là sau 13 năm kể từ lúc phát hành với giá 1075$. Số kỳ tính lãi ở đây là 13 lần, vì sau năm thứ 13 thì Tp có thể bị thu hồi bất cứ lúc nào. Vì vậy tuổi thọ thấp nhất của TP là 13 năm. Giá trái phiếu hiện tại là 1168$ chính là giá trị hiện tại của TP. Lợi tức TP là 100$/năm (10%*1000$). Giá mua lại 1075 là mức giá có phí thưởng của TCPH (cao hơn mệnh giá) và được xem như là giá trị tương lai của TP. Dùng công thức hiện giá các khoản thu

Dùng phương pháp nội suy để tìm lãi suất mua lại i= 8.2% Trên thực tế, việc xác định giá mua lại là một bài toán khó cho TCPH vì nó có liên quan đến lý thuyết về quyền lựa chọn. Chúng ta xem việc bán một TP có thể mua lại của Trái chủ là bán một quyền chọn mua cho TCPH, cho phép TCPH mua lại những dòng tiền theo hợp đồng của TP. Như vậy, giá TP có thể mua lại bằng giá của TP không mua lại trừ đi giá của quyền chọn mua. Cơ sở để tính giá của quyền chọn là những khoản thanh toán coupon còn lại, như ví dụ trên tức là khoản thanh toán từ năm thứ 13 trở đi. Giá của quyền chọn này thay đổi tuỳ thuộc vào thời điểm TCPH thực hiện mua quyềứn chọn mua. Một số cảnh báo khi đầu tư vào thị trường chứng khoán nước ngoài VASC/ĐTCK, 23/05/2001, 20h30 Trong bối cảnh thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam đang rất thiếu "hàng hóa", người có tiền muốn tham gia đầu tư cũng không dễ dàng mua được cổ phiếu (CP) nên một số nhà đầu tư đang có xu hướng tìm kiếm cơ hội mua chứng khoán trên TTCK nước ngoài. Tuy nhiên, đây là hình thức kinh doanh không đơn giản và hàm chứa nhiều rủi ro. Thay đổi tỷ giá hối đoái Thông thường, các công ty nước ngoài kinh doanh và trả lãi bằng đồng tiền của nước họ. Khi các nhà đầu tư nhận lãi (trái phiếu), nhận cổ tức (cổ phiếu) hoặc muốn bán số chứng khoán mà mình đang nắm giữ thì sẽ phải chuyển số tiền mặt đó sang đồng tiền của chính quốc gia mình. Trong giai đoạn đồng ngoại tệ tương đối mạnh so với đồng tiền của các nhà đầu tư, lãi sẽ tăng bởi khi đó các nhà đầu tư sẽ đổi được nhiều tiền hơn. Ngược lại, khi đồng ngoại tệ yếu đi, số tiền đổi được sẽ ít hơn và do đó sẽ nhận được lãi suất ít hơn. Ngoài ra cũng cần biết rằng, một số quốc gia thường đưa ra những biện pháp kiểm soát đồng ngoại tệ, tức là hạn chế hoặc cản trở việc chuyển tiền ra khỏi đất nước họ. Thiếu thông tin Nhiều công ty nước ngoài không cung cấp đầy đủ cho các nhà đầu tư những thông tin về các loại chứng khoán. Có thể là rất khó để định vị được những thông tin cập nhật mỗi ngày, ngoài ra thông tin mà các công ty đưa ra cũng có thể chỉ bằng các thuật ngữ bản xứ chứ không phiên dịch bằng tiếng Anh. Các sự kiện chính trị, kinh tế - xã hội Các nhà đầu tư thường rất khó khăn để hiểu được những nhân tố chính trị, kinh tế và xã hội đã tác động vào thị trường mỗi quốc gia. Những nhân tố này làm nên sự đa dạng hóa nhưng cũng tạo thêm rủi ro cho việc đầu tư nước ngoài vào TTCK quốc tế. Bên cạnh đó, những quy định mang tính pháp lý cho người nước ngoài tham gia vào TTCK của các nước cũng là một vướng mắc đối với việc tham gia và thực hiện các giao dịch của các nhà đầu tư nước ngoài. Những thay đổi đột ngột về giá cả trên TTCK

Đặc trưng cơ bản của TTCK là những biến động thường xuyên về giá chứng khoán. Nếu đầu tư trên TTCK nước ngoài, các nhà đầu tư sẽ luôn sống trong tình trạng căng thẳng về những biến động giá trị khoán đầu tư của chính mình. Một trong các biện pháp làm giảm tác động của những thay đổi về giá này là có thể tăng các khoản đầu tư vào các loại trái phiếu (đầu tư dài hạn) và cố gắng vượt qua được những lên xuống đột ngột về giá trên thị trường, nhưng đây không phải là cách đầu tư mang lại nhiều lợi nhuận. Muốn kiếm lời trên TTCK nước ngoài, các nhà đầu tư phải có khả năng quản trị tốt khoản đầu tư của mình, đồng thời phải thường xuyên theo dõi biến động để có những quyết định kịp thời, nhưng đây lại không phải là việc dễ dàng khi chưa có nhiều kinh nghiệm đầu tư chứng khoán. Thiếu khả năng có thể chuyển đổi thành tiền mặt Một số TTCK nước ngoài chỉ mở cửa giao dịch vài giờ trong một ngày hay thực hiện nhận lưu ký chứng khoán vào một số buổi nhất định trong tuần, vì thế khoản đầu tư của các nhà đầu tư có tính lỏng không cao. Một số nước còn hạn chế số lượng và loại cổ phần mà các nhà đầu tư nước ngoài có thể mua hay nắm giữ. Các nhà đầu tư trong nước có thể phải trả thêm tiền để mua một chứng khoán nước ngoài nhưng khi muốn bán sẽ khó tìm được người mua. Các vấn đề khác Có sự khác nhau giữa các thời điểm thanh toán bù trừ trong việc thực hiện các giao dịch chứng khoán tại TTCK của các nước. Một số thị trường nước ngoài có thể không có thông tin về việc mua bán chứng khoán nhanh như ở một số thị trường phát triển như Mỹ, Nhật... Các quy tắc áp dụng cho việc cất giữ an toàn các CP do các ngân hàng hoặc các cá nhân nắm giữ là không chặt chẽ ở một số thị trường nước ngoài. Các nhà đầu tư có thể gặp rủi ro khi đang sở hữu chứng khoán mà chúng không được bảo vệ do những tổ chức chịu trách nhiệm lưu giữ và bảo quản này không còn tin cậy hoặc không hoàn thành nhiệm vụ của mình. Thực hiện phát hành và quản lý cổ phiếu bút tích VASC theo báo Đầu tư Chứng khoán Cổ phiếu (CP) bút tích là phương thức triển khai một cách đồng bộ "sổ đăng ký cổ đông" bằng hình thức tập dữ liệu điện tử theo Điều 60 Luật Doanh nghiệp. Thực hành theo phương thức này, doanh nghiệp (DN) sẽ đồng thời có trong tay sổ đăng ký cổ đông bằng tập dữ liệu điện tử hoặc loại sổ theo hình thức văn bản (nếu muốn). Việc thực hiện CP bằng bút tích mặc nhiên ủy thác cho công ty quản lý "tờ CP" của cổ đông. Mỗi cổ đông sẽ nhận mã số cổ đông. Đây là cơ sở quan trọng để thực hiện việc quản lý và theo dõi thông tin, các biến dộng về vốn chủ sở hữu, về cổ đông, các quyền lợi... theo dữ liệu. Tờ "Chứng nhận cổ đông" là bằng chứng xác nhận toàn bộ cổ phần (có cập nhật) mà cổ đông đang sở hữu tại công ty. Có thể tạm hình dung tờ "Chứng nhận cổ đông" như một quyển sổ tiết kiệm. Việc thực hiện CP bằng bút tích phải tuân theo một chương trình phần mềm có khả năng vừa thực hiện các biến động về cổ đông và sở hữu cổ phần lại vừa phải tương thích trong mối liên hệ mạng, nhằm theo dõi sự luân chuyển CP khi thực hiện các giao dịch cho người đầu tư sau này giữa các công ty chứng khoán với Trung tâm Giao dịch chứng khoán. Hiện nay đã có phần mềm đáp ứng được yêu cầu quản lý giao dịch cục bộ trước mắt tại từng công ty cổ phần (CTCP), đồng thời có khả năng ứng dụng vào mạng thông tin cập nhật lưu ký và bù trừ sau này khi niêm yết giao dịch. Nhưng ngay cả khi chưa có phần mềm như vậy, các công ty cũng có thể tạm thời sử dụng các tiện ích của Winword - Excel đế tự quản trước bằng hệ thống vi tính nội bộ (cách làm này chỉ phù hợp với các công ty nhỏ). Hiện nay có rất nhiều công ty đang có kế hoạch triển khai đồng bộ công tác này ngay từ đầu. Trong đó CTCP Thiên Nam - Tenimex và CTCP Bê tông 620 Châu Thới (620 - CCC) là 2 CTCP tiên phong trong việc phát hành CP bút tích vì đang có ý định niêm yết CP để giao dịch trên thị trường chứng khoán. Còn đối với những công ty đã phát tờ CP bằng giấy và đang gặp những nan giải phức tạp thì nay vẫn có thể chuyển qua áp dụng phương thức này.

Mẫu tờ "Chứng nhận cổ đông" Công ty cổ phần............................... Mã số cổ đông................................. CHứNG NHậN Cổ ĐÔNG Tên:.................................................... CMND:......................./.................../................. Địa chỉ:............................................................. NHữNG LƯU ý CầN THIếT 1. Chứng nhận này có giá trị để xác nhận và theo dõi về cổ đông. 2. Sở hữu cổ phần của cổ đông được lưu quản bằng bút tích và dữ liệu tại Công ty cổ phần................................................... 3. Mọi sự chuyển nhượng sở hữu cổ phần phải thông qua thủ tục chuyển nhượng tại Công ty và phải được Chủ tịch Hội đồng quản trị chấp thuận. 4. Khi công ty niêm yết giao dịch trên thị trường chứng khoán thì việc lưu ký và quản lý cổ phần sẽ được thực hiện theo cơ chế thị trường chứng khoán. 5. Xin giữ gìn cẩn thận Chứng nhận này, không làm hư hỏng, nhòe mờ. Khi thất lạc cần báo ngay cho Công ty bằng văn bản. Khi chuyển nhượng phải liên hệ cập nhật tại Công ty. Các loại giao dịch đặc biệt trên Trung tâm Giao dịch chứng khoán VASC theo tạp chí Chứng khoán Việt Nam Tại Điều 50 Quy chế thành viên, niêm yết, công bố thông tin và giao dịch chứng khoán (CK) và Quyết định số 42/2000/QĐ-UBCK1 ngày 12/06/2000 về việc sửa đổi bổ sung một số điều trong Quy chế thành viên, niêm yết, công bố thông tin và giao dịch CK quy định: đơn vị giao dịch theo phương thức khớp lệnh 100 cổ phiếu (CP) và bội số của nó; 10 trái phiếu (TP) và bội số của nó; 100 chứng chỉ và bội số của nó đối với chứng chỉ quỹ đầu tư. Ngoài ra còn có 2 loại giao dịch khác ngoài giao dịch khớp lệnh thông thường, đó là: Giao dịch lô lẻ Một lô lẻ có khối lượng CK nhỏ hơn một đơn vị giao dịch. Do vậy các lô lẻ có khối lượng từ 1 - 99 CP. Giao dịch lô lẻ được thực hiện trực tiếp giữa người đầu tư với công ty chứng khoán (CTCK) thành viên theo phương thức thỏa thuận về giá. Sau đó, các CTCK thành viên sẽ tập hợp các lô lẻ thành lô chẵn để tham gia giao dịch khớp lệnh trên Trung tâm Giao dịch chứng khoán (TTGDCK). Mục đích của các giao dịch lô lẻ nhằm giúp những người đầu tư sở hữu CK không đủ số lượng đơn vị giao dịch được phép giao dịch trên TTGDCK có thể mua - bán CK của mình khi cần. Giao dịch lô lớn Điều 56 quy định các giao dịch lô lớn là giao dịch có khối lượng tối thiểu: 10.000 CP; 10.000 chứng chỉ quỹ đầu tư và 3.000 TP. Thông thường các giao dịch lô lớn được thực hiện bởi các nhà đầu tư có tổ chức như: các công ty bảo hiểm, công ty tài chính, quỹ hưu trí... có nguồn vốn lớn. Khi một nhà đầu tư muốn giao dịch lô lớn sẽ thông qua đại diện giao dịch của mình nhập lệnh vào hệ thống giao dịch của TTGDCK, đại diện giao dịch kiểm tra các giá chào của các thành viên khác, sau đó liên lạc qua điện thoại hay E-mail để thỏa thuận về giá cả.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: #ngoctung