ngoc phong bi kip

Khoái lạc và trường sinh 

LỜI NHÀ XUẤT BẢN 

Tình dục là bộ môn thuộc, chi phối và bao trùm ngũ dục, nhất là khi đã  nhận thức rằng trong mọi bộ môn thuộc khoa học nhân văn, n  luôn hiện  diện, ẩn hiện lung linh… càng làm chúng ta thêm khoan dung, tăng thêm  hiểu biết. Mà biết thêm rằng cùng tột của tính dục lại là nghệ thuật kềm  chế, thì đ  là sự hành dâm cao thượng hơn hết thảy. 

Các cảm quan đủ vẻ do ngũ dục đem lại, nếu hiểu là đáng buồn rầu, thì  là buồn rầu thanh bai. Nếu hiểu (cuốn này) chỉ cốt viết ra để khuyến khích  sự đắm đuối dục lạc thì đấy là loại dục lạc thô trọc. Tính dục được loài  người nghiên cứu, viết ra, đã từng lưu hành ở khắp nơi, qua mọi thời đại  như Kama-Sutra (Ấn Độ), Nhục Bồ Đoàn, Đạo Ma Mật Truyền, Ngọc  Phòng Bí Kiếp (Trung Hoa), … thì độc giả sẽ không coi bản dịch này chỉ  chứa hậu ý khuyến dâm. 

Bản chất của tính dục thì c  một. Cảm quan tính dục thì khác nhau, tuỳ  cách tuỳ người, tuỳ thời: Nếu ăn ngon chả là điều nhân loại luôn tán  thưởng, phải chăng nghệ thuật nấu nướng đã chẳng luôn luôn được đề  cao? Tình dục cũng c  điểm chung như thế. Xưa, Tố Nữ Bí Truyền được  coi là pho sách phải cấm, dành riêng cho tầng lớp thuợng lưu, Trưởng  giả phong kiến của Trung Hoa, nay chúng tôi cố thực hiện qua Việt ngữ  với thiện ý và cẩn trọng. Cách thế tương quan giữa nhân loại ngày nay  ngày càng mật thiết hơn: Đúng, sai, xấu, tốt… không hoàn toàn bị ai độc  quyền giải thích, tách bạch giản dị như xưa. Những tàng ẩn, bí truyền  cấm kỵ, phải tránh né của một thời, ngày càng được bạch h a. Tính dục,  lâu nay đã là một đề tài nghiêm cẩn, đúng đắn… đến với bất cứ ai muốn  tìm hiểu, suy ngẫm… 

LỜI DỊCH GIẢ 

Trung Hoa c  nhiều chuyện gợi trí tò mò của thiên hạ, ngoài pho dịch lý  – kho tàng vô giá của Đông Phương – Trung Hoa còn c  “TỐ NỮ KINH”,  pho sách n i lên cái tuyệt vời của chuyện lứa đôi vượt hẳn Kama Sutra –  pho kinh điển về nghệ thuật yêu đương của xứ Aán Độ. 

Tiếc thay, người xưa cố chấp, mang nặng tinh thần bảo thủ, khăng  khăng cho rằng thố lộ chuyện ái ân là hành động làm đồi phong bại tục,  phạm điều răn cấm của thánh hiền! Bởi quan niệm hẹp hòi như vậy mà  Tố Nữ Kinh bị giấu kín ở Viện Bảo Tàng đến cả hàng ngàn năm chẳng  mấy ai biết đến. (Ngoại trừ các bậc vua chúa, hàng Vương tôn và các  quyền thần ở triều nội dành độc quyền hưởng thụ). 

Trong khi đ  thì thế giới Tây phương quan niệm ngược lại, cho rằng  sinh lý cũng là một trong những nhu cầu cần thiết như đ i ăn, khát uống, 

2

Khoái lạc và trường sinh 

như không khí và sự sống hàng ngày không thể thiếu được. Thế thì  mang vấn đề sinh lý ra luận bàn ngoài đại chúng cũng như đưa vào học  đường đâu phải là sự xấu? Nếu c  xấu chăng là bởi ta lạm dụng quá 

đáng, vượt cả vòng kỷ cương làm thương tổn đến luân thường đạo lý… 

Nhiều người khắt khe cho rằng Tố Nữ Kinh là tập sách trăng hoa dâm  dật, hướng dẫn con người đi đến hành động bất chính. Thật là một điều  lầm lẫn đáng tiếc, họ c  biết đâu rằng chính vì sự thiếu hiểu biết về nghệ  thuật ái ân mà bao nhiêu gia đình phải tan vỡ. Tố Nữ Kinh không phải là  một pho kinh “ bướm lả ong lơi” mà chính là một hướng đi, một lẽ sống,  là kim chỉ nam, là vị lương y lỗi lạc, một nhà cố vấn tuyệt vời đời sống lứa  đôi đến răng long đầu bạc. 

Bác sĩ Huệ Hồng Anh. 

HIỂU BIẾT CÁC BÍ QUYẾT HÀNH SỰ 

DỰA TRÊN ÂM DƯƠNG VÀ NGŨ HÀNH 

Hoàng Đế n i với Tố Nữ rằng: “Ta cảm thấy mình khí suy nhược, khi  giao hợp thì không đồng nhịp với người nữ. Bình thường thì lòng chẳng  cảm thấy vui, lại luôn luôn lo sợ hồi hộp như sắp c  chuyện gì nguy hiểm  xảy ra cho mình. Tại sao vậy?” 

Tố Nữ đáp: “Tất cả hiện tượng n i trên đều do âm dương không điều  hoà mà sinh ra.Ââm dương không điều hoà vì sinh hoạt phòng sự không  đúng cách. Nếu tinh lực của nữ nhân cường thắng hơn nam nhân thì  chẳng khác nào như nước tạt vào ngọn đuốc, đuốc sẽ tắt; nam nhân  không kham nỗi nên không còn hứng thú. 

N i cách dễ hiểu, sinh hoạt phòng sự như nấu nương thức ăn phải phối  hợp diều hòa giữa lửa và nước mới c  m n ăn ngon. Nếu thấu triệt  nguyên tắc trên và thực hiện được thì sẽ hưởng thụ sự lạc thú của nhân  gian, bằng không thì thân thể trở nên suy nhược c  thể đến tán mạng  nữa. Lúc đ  đâu còn gì vui thú nữa. 

Bởi vậy nhân gian phải thận trọng trong việc phòng the, tránh đi ra 

ngoài nguyên tắc không đồng điệu n i trên.” 

GHI CHÚ: 

1. Hoàng Đế là một trong ba vị vua thời thái cổ: Phục Hy, Thần Nông, 

Hoàng Đế. Tương truyền Phục Hy phát minh ra bát quái, nghiên cứu  về âm dương ngũ hành. Aâm dương là những thể đối nghịch nhau của  sự vật như trời-đất, mặt trời-mặt trăng, nam-nữ, trắng-đen, ngày-đêm… 

Phục Hy cũng là vị vua chỉ dạy cho nhân dân sự kết hôn. Trong việc  phòng sự nam nữ, Phục Hy bàn rằng: “Trời (dương) chuyển từ phải  sang trái, đất (âm) chuyển từ trái sang phải. Nam nhân trong lúc giao 

3

Khoái lạc và trường sinh 

hợp, theo thuộc tính dương đ , chuyển động (sàng) sang trái trong khi  nữ nhân chuyển động (sàng) sang bên phải. Nam nhân như trời ở trên  trùm phủ xuống dưới. Nữ nhân như đất ở dưới nghinh tiếp lên trên. Vị  thế cơ bản của phòng the giao hợp là vậy, hai bên sàng ngược chiều  nhau và trên thúc xuống, dưới hẩy lên”. 

2. Hoàng Đế vốn người thuộc lưu vực sông Hoàng Hà, là người lãnh đạo 

của mấy bộ lạc lớn tại đây. Theo sử, ông sanh sống vào khoảng 2.550  trước Công-nguyên, thông tuệ, đã phát kiến ra kim chỉ nam, đã quan  sát được sự vận hành của Thái dương hệ. Trên mặt đất thì ông quan 

sát về những dấu vết để lại do cầm thú chim muông từ đ  xác định  phái đực cái của từng con. Về nhân văn, ông thiết lập ra hệ thống chữ  viết của người Trung Quốc thời đ . Nhờ sự phát minh này, người  Trung Hoa mới bắt đầu ghi lại các chuyện xảy ra chung quanh mình  lưu truyền lại cho đời sau. 

3. Về Y khoa, Hoàng Đế và sáu vị y sĩ trong nh m Chi-Bách hoàn thành 

một bộ Bách Khoa Y-Học c  tên là “Y học trọng điển” mà “Hoàng Đế 

nội kinh” là một quyển ở trong bộ đ . Chi-Bách và những vị danh sư  lúc bấy giờ là những người cố vấn của Hoàng Đế về những vấn đề y  dược và là y sĩ của Hoàng Đế. 

oOo 

Hoàng Đế c  nhiều cung nữ nhưng giao hợp không đúng phương pháp  cho nên khi niên tuế vào độ ngũ tuần thì thần sắc suy nhược không còn  tráng kiện nữa. Ông mới đi hỏi Chi-Bách và Tố Nữ về cách thế giao hợp  dúng cách để khỏi suy nhược thân thể. Trong sách Hoàng Đế nội kinh,  thiên “Thượng cổ thiên chân luận” c  ghi sự vấn kế nầy như sau: 

“Trẫm thường nghe người thời xưa sống hàng trăm năm mà động tác  (tình dục) không suy yếu. Người thời nay tuổi mới vừa khoảng năm mươi  mà động tác (tình dục) đã suy nhược…”. 

Chi-Bách đáp rằng: “Người xưa sở dĩ được trường thọ vì họ hiểu thấu 

đáo đạo âm dương, từ đ  chuyện gối chăn được thực hành hợp lý. Lão tử  n i: “Vạn vật phụ âm nhi bão dương, xung khí dĩ vi hòa”. Bốn mùa, trời  đất, âm dương, con người phải “thuận theo” đ  là nguyên tắc cơ bản của  sống còn, nếu nghịch lại hay vi phạm nguyên tắc tự nhiên này thì sẽ sinh  ra rất nhiều tai hại. Ví dụ như nguyên tắc xuân sanh, hạ trưởng, thu liễm,  đông tàng (muà xuân gieo mạ trồng lúa, mùa hạ lúa lớn, mùa thu gặt lúa,  mùa đông gặt lúa cất vào kho). Nếu bây giờ không thuận theo mà mà 

mùa thu hay đông lại gieo mạ trồng lúa thì lúa sẽ khô chết, không lớn lên  được. 

Tố Nữ trả lời như sau: “Vấn đề Hoàng thượng đưa ra đ , giải đáp trả lời  c  thể căn cứ theo thuyết âm dương ngũ hành. Như tính nước cực mạnh  sẽ tiêu diệt được tính lửa, đ  là nguyên tắc gây ra thể lực suy yếu ở  người nam. Trong trời đất c  năm yếu tố chánh (ngũ hành) là kim, mộc,  thủy, hỏa, thổ. Chúng tương khắc nhau là mộc khắc thổ, thổ khắc thủy, 

4

Khoái lạc và trường sinh 

thủy khắc hỏa, hỏa khắc kim, kim khắc mộc, mộc khắc thổ… cứ như vậy  mà tuần hoàn mãi mãi. 

Vậy thì nếu thuỷ tính (nữ nhân) quá mạnh thì dễ hại tới hỏa tính (đàn 

ông). Mặt khác trong lúc giao hoan cao trào tuyệt hứng của đôi bên so le  thì cũng gây nên hậu quả không tốt. 

Một điều nữa là nam nhân sau khi xuất tinh xong quá mệt lăn ra ngủ,  trong khi đ  nếu nữ nhân chưa hoàn thành cao trào, còn đầy cảm hứng  thì hậu quả sự bất hòa hợp nầy là một bệnh trạng cần phải sửa đổi hay  chữa trị. 

Nay Hoàng Đế sớm xuất tinh, suy nhược động tác (tình dục) là vì  không hiểu biết sinh hoạt phòng sự một cách bình thường. Hậu quả là  không cảm thấy thống khoái mà là một trạng thái mệt mỏi. Tất cả vì  Hoàng Đế không thông hiểu thuỷ tính và hỏa tính, không thông hiểu tệ  quả của bất điều hòa âm dương.” 

oOo 

GHI CHÚ: 

1. Bác sĩ Kim Soai cho rằng sau khi bắn tinh xong, nam nhân từ trạng  thái sung sướng cực độ trở về trạng thái không còn cảm giác và rất  buồn ngủ. Bởi vậy mới c  nhiều trường hợp bẽ bàng trong đêm tân  hôn. Trước đ  thì nữ nhân e dè, sợ sệt, nam nhân “hoa ngôn xảo ngữ”  để được tiến hành, nhưng khi xong phần mình liền lăn ra ngủ đuốc hoa  bỏ đ  mặc nàng nằm trơ khiến cho cô dâu từ đ  c  một tâm trạng  chán sợ chuyện chăn gối ái ân, c  thể thành bệnh lãnh cảm sau nầy. 

2. Bác sĩ Kim Soai cũng cho biết là âm đạo càng được dương vật cọ xát, 

người đàn bà càng cảm thấy sướng thú hứng tình đến nỗi muốn từ  chối ái ân vì một lý do nào đ  cũng không thể nào từ chối được. Điều  xác định nầy phù hợp với lời của Tố Nữ nam nhân hỏa tính, nữ nhân  thủy tính. Khi nước dâng lên cao (nước nôi tràn đầy đầm đìa) lửa bị tắt  (bắn khí, xìu, mệt). Khi nước bị lửa đun sôi (cọ xát, chọc, đâm) thì  nước sôi ào ạt, phùn phụt… 

NHIẾP BỔ VÀ CƯỜNG TINH  (Bổ thận và cường dương) 

Tố Nữ n i: “C  một người con gái tên Thái Nữ rất thâm hiểu đạo âm  dương”, Hoàng Đế sai Thái Nữ đi mời Bành Tổ cho mình thỉnh giáo về  phương pháp diên niên ích thọ (sống lâu). 

Bành Tổ trả lời: “Giữ tinh khí, thu dưỡng tinh thần. uống các thứ thuốc  bổ dưỡng thì c  thể trẻ mãi không già. Tuy nhiên nếu đã c  ba thứ trên  mà không biết cách giao hợp cho phải phép thì cũng vô ích thôi. 

5

Khoái lạc và trường sinh 

Đạo giao hợp là hợp thành nhất thể với người giao hợp. Xem kìa trời  đất liền nhau thành nhất thể nên mãi mãi trường tồn. Con người cũng  vậy, không khác gì. Nếu không biết nguyên tắc đ  thì bị thương thân bại  thể c  khi còn táng mạng nữa” 

GHI CHÚ: 

1. Hoàng đế vì trăm công ngàn việc nên người đã mệt mỏi. Thêm chuyện  tửu sắc nên thần kinh không nhiều thì ít bị suy hoại, luôn luôn cảm  thấy như mình đang mang bệnh. Để cho Hoàng Đế tin tưởng thuốc  thang công dụng, các y sư trong triều mới bàn nhau đi mời Bành Tổ  tiên sinh là một vị triết nhân thông hiểu thuật dưỡng sinh. Tương  truyền Bành Tổ tiên sinh rất thọ và dùng phương pháp nhiếp bổ (dùng  thuốc bổ) và cường tinh (làm cho tinh khí mạnh hơn, cường dương)  nên khi đã già mà vẫn thấy như thanh xuân và khí thế giao hợp vẫn  không giảm. 

2. Thái Nữ, như Tố Nữ, là người con gái thật đẹp lại thấu hiểu các  phương cách phòng sự. Những điều chỉ dạy của bà ta rất ích lợi cho  cuộc dưỡng sinh và đời sống chăn gối. 

3. Sách “Liệt tiên toàn truyện” c  ghi lại truyện Thái Nữ vâng lệnh của  vua Chân Mục Vương (976 tr. Công nguyên) đi hỏi Bành Tổ tiên sinh  về bí thuật phòng trung để về truyền lại cho vua. Từ đ  về sau mục  Vương là người hưởng được kết quả diệu kỳ của hành sự giao hoan  theo đúng phương pháp. 

4. Sách “Thập di ký” c  ghi chuyện Vương mẫu xuống trần ăn ở cùng với 

Mục Vương của vùng Vị Châu thời Đông Tấn. Lúc nầy Mục Vương đã  hơn 50 tuổi. Vương mẫu chỉ dẫn Mục Vương cách giao hoan và hai  người đã hưởng một đêm sung sướng tuyệt trần. 

Sách c  n i thêm là trong đêm d  Vương mẫu lấy ra trong âm đạo  một “hạch tổ” bảo vương nuốt đi vì rất bổ cho việc dưỡng sinh và  cường tinh. Sách y học Trung quốc c  ghi là hạch nầy dùng chữa  bệnh tạng suy, cải lão. Hạch còn trị được bệnh tinh thần không an  định, giúp cho người bệnh cảm thấy an định thơ thới tâm hồn. 

5. Từ thời Hán y giới Trung Hoa đã c  “Cam mạch đại tổ thang” là thang  thuốc an thần trị bệnh cho phụ nữ mà chất chính vẫn là hạch tổ lấy từ  trong âm đạo. 

6. Trung quốc vốn nổi tiếng về các thang thuốc cường tinh tráng thể. Các  thứ nầy vốn khác xa với các thứ thuốc kích dâm ngày nay. Thuốc kích  dâm kích động thần kinh cho hứng tình gợi dục mà không giúp thân  thể bổ dưỡng, không giúp cho nam nhân tiết khí (tiết giảm xuất tinh).  Thuốc cương tinh tráng thể của trung quốc trái lại là thứ giúp thân thể  chống lại bệnh suy nhược do các cách giao hợp không đúng phương  pháp sanh ra mà vẫn giúp được người dùng cảm thấy thích thú trong  khi giao hoan. 

6

Khoái lạc và trường sinh 

CHƠI NHIỀU ÍT MỆT 

(Đa ngự, tiểu tiết) 

Thái Nữ n i: “Xin Bành Tổ tiên sinh chỉ dẫn thêm về đạo giao hợp để  giữ được thân thể tinh tráng.” 

Bành Tổ n i: “Đạo lý nầy n i ra thì rất dễ hiểu thôi, chỉ hiềm loài người  không theo hoặc theo mà không tin thôi. Hoàng đế hiện tại trăm công  ngàn sự, tâm thần mỏi mệt không thể nào thấu đáo các lời giải thích về  phép dưỡng sinh. Ta chỉ xin n i về trường hợp Hoàng Đế c  thể làm  được mà thôi. 

Hiện trong cung c  nhiều phi thiếp, chỉ cần thâm hiểu cái đạo lý giao  hợp thì cũng đã nắm được phương pháp nhiếp dưỡng rồi. Nguyên tắc là  “đa dữ niên thanh nữ giao hợp, tịnh thả lũ giao bất tiết” nghĩa là giao hợp  cùng thật nhiều cô gái trẻ trung nhưng tiết giảm sựï bắn khí xuất tinh. Tiết  giảm được bắn khí thì thân thể sẽ được nhẹ nhàng dễ chịu, không bệnh  tật nào c  thể sanh ra dược.” 

GHI CHÚ: 

1. Bành Tổ chú trọng tâm lý trị liệu. Vua nhiều việc nên mệt mỏi, ông  khuyên vua nên về hậu cung vui cùng cung nữ quên bớt những  chuyện lo âu về quốc sự vốn làm cho con người dễ sút giảm sinh lực. 

2. Nhưng vui chơi nhiều (đa ngự) mà không được mất sức, càng ít xuất  tinh (tiểu tiết, tiết: rỉ ra, lộ ra, chảy ra) càng tốt. 

3. Lựa gái thanh xuân trẻ đẹp để giao hợp đ  là nguyên tắc tâm lý người 

đàn ông thấy mình hưởng nhiều, mình hơn người, may mắn hưởng 

được của quý là sự thanh xuân của người con gái. 

4. Gần đây áp dụng nguyên tắc nầy, bác sĩ Havelock Ellis khuyên các  cặp vợ chồng nên tạo thanh xuân cho nhau trong việc chăn gối. Hai  bên nên vui vẻ giao tình để cùng nhau thấy như mới như trẻ. Người  chồng vui vẻ trong sự gợi xúc cảm, người vợ chải chuốt trang điểm,  tạo thêm vẻ thanh xuân cho chính mình và cho sự giao hợp. 

5. Thống kê cho thấy c  nhiều cặp vợ chồng lâm vào tình trạng càng lâu  xa đêm tân hôn hào hứng thì càng c  sút giảm trong niềm thích thú gối  chăn. sự quen nhàm là một yếu tố, khiến tạo nên tình trạng miễn  cưỡng. Ta tránh tệ hại nầy bằng cách hợp tác với nhau, làm như mới,  đối với nhau như mới gặp lần đầu thì sự khoái sướng mới lâu dài  trong cuộc sống vợ chồng được. 

6. Nhìn lại câu n i của Bành Tổ bằng con mắt của người hiện đại ta thấy  ông khuyên nếu muốn hưởng hạnh phúc đời thì phải tạo cho c  được  một tinh thần vui vẻ (bớt lo lắng), một thân thể khỏe khoắn (ít bắn khí,  hưởng tuổi xuân và sự vui vẻ của người bạn tình). Đời nay con người  phải sống trong một xã hội bận rộn, tâm lý dễ bị xáo trộn phiền muộn  bất an từ đ  dễ sinh ra bệnh hoạn. Kinh Tố Nữ chương nầy lời của 

7

Khoái lạc và trường sinh 

Bành Tổ tiên sinh là một lời khuyên tốt cho chúng ta, nếu chúng ta biết  cách sống. 

CHÍN LẦN CẠN MỘT LẦN SÂU 

(Cửu thiển nhất thâm) 

Tố nữ n i với Hoàng đế: “Khi hành sự thì phải coi người con gái như  ngõa thạch (gạch ng i), tự coi mình như ngọc quí (kim ngọc). Khi nhận  thấy người con gái tới mức khoái cảm, thân thể vặn vẹo luôn thì phải mau  mau rút dương vật ra khỏi âm hộ.” 

Nếu muốn chinh phục nữ nhân thì khi giao hợp phải đặc biệt cẩn thận. 

Trên mình người đẹp, khi hứng tình muốn giữ cho khỏi bắn khí không  phải là dễ, n  kéo mình theo kh  lòng kềm chế, cẩn thận lắm mới kềm  chế được. Sự kiện nầy chẳng khác nào thắng sợi dây cương mục rã sắp  đứt vô con ngựa chứng, hay đang đứng trên bờ vực thẳm của ch p núi  cao. Chỉ cần sơ ý một chút thì tai hại sẽ xảy ra không lường được.  

GHI CHÚ: 

1. Căn cứ trên các trắc nghiệm y học người ta thấy rằng nam nhân rất dễ 

hứng tình và khi tình hứng tới cao độ, bắn khí thì không còn làm gì  được nữa, dương cụ trở nên xìu mềm, vô năng, ở bên cạnh người 

đẹp lòng cũng dửng dưng nguội lạnh. Nữ nhân trái lại thời gian bắt  trớn hứng tình chậm, sự sờ m  rờ rẫm (ái phủ) trong giai đoạn đầu rất  cần thiết để đưa nàng đến tình trạng sẵn sàng nhập cuộc. Vì vậy khi  hai người xáp lại, đã c  một sự so le về thời gian hứng cảm. Lúc nam  nhân đạt tới cao điểm hứng thú thì nữ nhân nhiều khi chưa đạt được  cao điểm nầy. Nếu không cẩn thận, không kềm được cương con nộ  mã mà bắn khí thì cuộc giao hợp chấm dứt trong sự bẽ bàng của nữ  nhân. 

2. Tố Nữ n i: 

·  “Coi nữ nhân như ngõa thạch’ là muốn n i phải nhẹ nhẹ nương tay 

đừng mạnh bạo quá mà ng i gạch vỡ bể đi. Sờ m  nhè nhẹ, ái phủ  khắp toàn thân nữ nhân để kéo đến sự đồng bộ hứng tình sau này,  cũng là để chuẩn bị cho c  đồng điệu trong lúc tuyệt cùng sướng  khoái. 

·  “Coi mình như ngọc thạch” là mình phải quý mình, tiết kiệm tinh khí  không bắn khí quá sớm, chưa phải lúc. Đối phương chưa sẵn sàng  thì sự xuất tinh, riêng mình cũng chưa hưởng tuyệt cùng của đời  sống ái ân. 

3. Vấn đề tuyệt hứng phải phối hợp, phải đồng bộ trong sự giao hợp nam  nữ rất là quan trọng. Nam nhân không được chỉ nghĩ đến cái sướng  bắn khí của mình mà phải đoán coi thái độ của nữ nhân nữa. 

8

Khoái lạc và trường sinh 

4. Tập quán của người Do Thái kết tội “cưỡng dâm sau hôn nhân” (hậu  hôn cưỡng dâm) nếu người chồng chỉ muốn thỏa mãn dục tính tiến  hành giao hợp trong khi người vợ chưa sẵn sàng cuộc mây mưa hay  không thể c  được đồng bộ sướng khoái. 

5. Ở đời cổ Trung quốc c  một số ngưới biết lợi dụng nguyên lý châm 

cứu để kích thích dục tình của nữ nhân trước khi giao hợp, và họ đã  đạt được kết quả là khiến cho nữ nhân “xuân tình bộc phát” sẵn sàng 

đáp ứng để cùng nhau đạt tớt cao điểm sướng khoái cùng lúc. Nguyên  tắc châm cứu là “kích thích 14 kinh mạch và các đường huyệt đạo liên  quan tới tình dục” (thập tứ kinh lạc huyệt đạo tuyến). 

Thời xưa kỹ thuật vuốt ve trước khi ái ân là: 

·  Mân mê từ các ng n tay, bắt đầu từ ng n giữa tới ng n cái, các  ng n cọ sát vào nhau. Ban đầu còn thoa b p các ng n sau rờ rẫm  từ từ lên cánh tay rồi lên bả vai. 

·  Xoa b p nựng nịu ban đầu là ng n chân cái rồi sang ng n bên  cạnh, từ từ rờ lên mu chân tiến lên tới phía bên trong đùi. 

· Sau đ  thì sờ m  nựng nịu toàn thân. Kế tiếp nam nhân dùng tay  trái ôm sát lưng nữ nhân tay phải từ từ di động lên vuốt ve những  vùng mãnh cảm nhất của nữ nhân đồng thời tiến hành những động  tác hôn hít. Hôn hít thì cũng tiến hành chậm chậm, đầu tiên hôn cổ,  sau hôn trán. Dùng lưỡi liếm cổ, phía trước và phía sau cổ là  những vùng cần được liếm nhất. Kế tiếp là liếm đầu vú nàng, cắn  nhẹ lổ tai nàng để cho nàng rùng mình xúc cảm. 

6. Sau đ  khi thấy tình trạng đã chín mùi thì áp dụng nguyên tắc “cửu 

thiển nhất thâm hữu tam tả tam bãi nhược hoạnh hoành”. Đây là bí  quyết của đàng trai để tạo hứng thú tuyệt đại cho nữ nhân cùng mình  giao hợp mà cũng là phương cách chống xuất tinh sớm, một căn bệnh  đem đến bẽ bàng cho nhiều nam nhân. 

· “Cửu thiển” là chín lần đâm cạn, đâm nhẹ nhàng để chuẩn bị cho 

nữ nhân ý xuân phơi phới, tâm hồn bồn chồn như là khỉ chuyền  ngựa chạy. Lúc đ  mới áp dụng “nhất thâm”, đâm mạnh lút vào  sâu không chừa chút nào. Cho em hết những gì anh c . Thâm sâu,  quy đầu cọ sát vào âm hộ tạo một trạng thái hứng thú tột độ. Âm  hộ lúc đ  c  khả năng mở ra b p lại. Nở ra để đ n nhận hết, rút lại  để b p chặt ôm khít dương thể trong trạng thái nhất thể hoà đồng. 

·  “Hữu tam tả tam” là kích động hai bên bờ của âm hộ. Cọ xát bên  trái ba lần, bên phải ba lần. Nữ nhân lúc nầy cảm thấy đâu đâu  cũng c  dương thể cọ vào, sự sung sướng không thể nào lường  được. Như vậy động tác aí ân không chỉ là một cách tiến vào rút ra  mà biến h a dương vật bơi lội như con cá, thân mình thằng nhỏ  chuyển động hai bên, bò như con trùng khi lên khi xuống. Tất cả  mọi vùng khoái cảm của âm đạo đều được tiết xúc cọ xát, bên  mép, trong sâu, bên nầy, bên kia; nữ nhân không thể nào cưỡng 

9

Khoái lạc và trường sinh 

lại mình được nữa, khoái cảm sẽ lên đến tột độ kịp thời với tột độ  của nam nhân. 

7. Thời Tuỳ Đường c  cuốn sách n i về chuyện ái ân là “Ngọc Phòng Bí 

Quyết” bàn về nghệ thuật phòng trung, trong đ  c  câu thiệu “bát thiển  nhị thâm, tử vãn sanh hoàn” cũng tương tự nhưng bổ xung cho nguyên  tắc “cửu thiển nhất thâm tả tam hữu tam” n i trên. 

·  “Bát thiển nhị thâm” chẳng qua là thay đổi số lần sâu đâm vào,  thường là theo lời yêu cầu của nữ nhân. Nên nhớ phải c  cạn sâu,  không được sâu cả như nhau vì đâm vô một chỗ khoái cảm sẽ bị  tê liệt đi giống như gãi lưng gãi nhẹ mạnh khác nhau, thay đổi chỗ  này chỗ khác thì khoái và đã ngứa, nếu chỉ gãi mạnh một nơi thì  chỉ c  tr c da tr c thịt đau đớn mà thôi. 

·  “Tử vãn sanh hoàn” là “khi chết đi vào, khi sống đi ra”. Dương vật ở 

trong âm hộ đã lâu, ấm áp khoái lạc rất dễ không thể tự thắng mà  phải bắn khí, khi thấy n  c  mòi dương lên cực đại sắp xuất tinh thì  phải rút ra khỏi âm đạo - đi ra khi còn cứng còn sống - Bên ngoài  n  nghỉ ngơi một chút thì bị xìu, đ  là lúc cho n  xung trận lại nữa -  đi vào lúc mềm, lúc chết - Cứ thế quá trình tử vãn sanh hoàn thì  cuộc vui kéo dài được nhiều lần khoái cảm. 

·  C  sách n i “nhược nhập cường xuất” cũng là cách n i khác của 

tử vãn sanh hoàn mà thôi. Lúc hơi mềm, xìu cho vào, lúc cứng quá  độ sắp bắn khí thì phải rút ra. Càng theo các nguyên tắc trên càng  hưởng được cuộc vui kéo dài mà hòa thuận vợ chồng vì kéo được  lúc cực điểm khoái lạc của hai người nam nữ về cùng thời điểm. 

DƯỠNG SANH VÀ LUYỆN KHÍ 

Hoàng Đế hỏi Tố nữ rằng: “Nay ta muốn ngưng việc giao hợp một thời  gian dài lâu rồi mới trở lại c  được không?” 

Tổ Nữ đáp: “Không nên, trời đất c  hiện tượng mỡ đ ng, khí âm khí  dương c  hiện tượng thi hoá, như bốn mùa xuân hạ thu đông và hiện  tượng ngày đêm tối sáng đều do thứ tự của thời gian mà biến hoá thành  khác nhau. Con người ta cũng phải tuỳ theo nguyên lý âm dương này mà  hành động. Nếu ngưng giao hợp thì tinh khí không tuần hoàn, cái đạo âm  dương bị cắt đứt như vậy làm sao tiếp nhận cái tiến trình bình thường để  nhiếp bổ thân thể (bổ thân)? Phải theo cách luyện khí hành công nhiều  lần, phải thải ra phế khí, phải thu vào tiễn khí (khí tươi mới) để tăng tiến  sự tráng kiện thân thể”. 

1. Dương vật nếu không thường giao hợp thì chẳng khác nào con rắn hổ  vì không cử động mà phải nằm chết c ng trong hang. Do đ  người  khôn phải tuân theo lời chỉ dẫn đạo lý trên để tạo dịp cho tinh khí lưu  thông trong toàn thân thể tới xương cốt, gân, thịt. Trong khi giao hợp 

10

Khoái lạc và trường sinh 

mới dùng phép hoàn tinh khiến cho tinh dịch không bị cảnh lãng phí vì  ở một chỗ không dùng. 

2. Đọc Tố Nữ kinh ta khám phá thấy ngày xưa phối hợp nhiều phương  pháp dưỡng sinh chứ không phải chỉ theo một cách nào đ  mà bỏ  quên những cách khác. Trong các phương pháp này c  nghệ thuật  phòng the là một, và nghệ thuật phòng the lại phối hợp nhiều phương  pháp dưỡng sinh khác. 

3. Ở Trung Quốc từ lâu người ta nghiên cứu các cách sinh hoạt, tập  quán ăn uống, cách giao hợp... của các loại động vật sống lâu để đưa  ra các “thuật dưỡng sinh” như đạo dẫn, luyện khí, thai tức, bích cốc,  thực tiếp, giao hợp,... Sách Tố Nữ là sách dạy về phòng trung, giao  hợp hay nhất, vì rất là hiệu nghiệm. Đạy là bí kiếp cho các bậc Đế  Vương và giai cấp quý tộc, họ dành riêng để theo đ  mà hưởng của  Trời. 

“Đạo dẫn” tổng quan c  thể coi như là một loại thể dục nhịp điệu cùa  phép thể dục ngày nay, Trang Tử c  truyện Hoa Đà (145-280 Công  nguyên) là danh y của Trung Quốc thời cổ đại. Hoa Đà rất rành về  phép đạo dẫn cổ truyền. Quan sát loài gấu leo cây, ông sáng tác ra  cách luyện tập tứ chi. Quan sát năm cách vận động của phi cầm, ông  đặt ra cách luyện tập để thân thể tráng kiện, tinh thần thoải mái. Nhờ  theo phép đạo dẫn Hoa Đà sống trường thọ, năm 99 tuổi tay mắt vẫn  còn sáng tỏ, răng chưa rụng cái nào. 

Ngày nay, ta n i mà không sợ, phép đạo dẫn là những động tác co  duỗi, xấp ngửa, đi ngồi, đứng lên quỳ xuống, đi bộ, hô hấp… c  tác  dụng lưu thông máu huyết để cường sinh khang kiện thân thể. 

4. Đồng thời với Hoa Đà c  ông Lãnh Thọ Quang cũng là người thực  hành viên mãn phép đạo dẫn. Ông thường vận động đầu cổ và hít thở  thật sâu lại áp dụng thành công các bí quyết phòng trung nên khi đã  hơn 160 tuổi tuy đầu t c đã bạc mà thần khí vẫn như người thanh  xuân. Bí quyết phòng sự của ông ta là “thái âm bổ dương” gặt hái thu  lượm cái âm khí để làm bổ cái dương khí. 

5. Sách Hậu hán thư, trong các truyện về phương thuật c  ghi ở quận  Thượng Đãng, tỉnh Sơn Tây c  người tên Vương Chân tuổi gần 100  mà mặt hồng hào rạng rỡ như người chưa quá ngũ tuần. Bí quyết  trường thọ của ông nầy là thực hiện phép “thai tức” và phép “thai  thực”. 

“Thai thực” c  nghĩa là chỉ ăn những gì sanh ra từ bào thai mà thôi, tỷ  dụ như thịt bò, thịt heo… không ăn những gì c  nguồn gốc mễ cốc. 

6. Thời cổ Trung quốc thuật dưỡng sinh ngoài những vận động thân thể  và hô hấp còn để ý đến sự ăn uống đầy đủ (thai thực) và thỏa mãn  nhu cầu sinh lý. Như vậy sự sinh hoạt mới quân bình không vì một mặt  nào của đời sống mà hủy bỏ mặt khác của đời sống. Sự quân bình đ   làm cho con người được kiện khang và trường thọ. 

11

Khoái lạc và trường sinh 

7. Theo khoa học hiện đại thì: 

·  “Đạo dẫn” là thể thao thể dục, các loại hoạt động làm cho giãn gân  cốt, bắp thịt được cứng rắn, thân thể được kiện toàn. 

·  “Luyện khí” là phương pháp thở hít không khí đúng cách, thở ra hết 

chất hơi đã bị phổi thải hồi, hít vô không khí mới để giúp cơ thể lọc  máu. 

·  Hai cách nầy ngày nay ai năng chăm chỉ thực hành thì sẽ c  sức  khỏe lâu dài diên niên ích thoÏ, trẻ trung thoải mái. 

8. Đồng hương với Vương Chân c  Diệc Mạnh Tiết thực hành phép  ngưng thở, ông ngồi yên tạm ngưng hô hấp, thân mình bất động trong  khoảng 100 ngày. Điều nầy phù hợp với những khám phá về thuật du  già ở Aán Độ, c  loại khiến cho người luyện tập c  khả năng “công  đông miên”, ngủ trong mùa đông, lúc đ  hô hấp thật chậm nhẹ nhàng  như gần đứt, động mạch đập rất khẽ cơ hồ như không còn nữa,  Những người nầy c  thể chôn mình trong hầm sâu dưới đất không ăn  trong vòng một tháng mà không nguy hiểm gì đến tính mạng bởi vì  chính họ hít thở thật ít không khí, uống một số lượng cực nhỏ nước và  tiêu thụ một phần nhỏ thể lực của họ để bù trừ. 

9. Người xưa dùng phương pháp hô hấp ép bụng phối hợp với phép  thực tiếp để trừ căn bệnh già nua suy nhược, bệnh áp huyết cao và  táo b n. Họ còn dùng khí công để trừ bệnh thần kinh suy nhược, bệnh  đau bao tử và bệnh kết hạch. Hai phép dưỡng sinh nầy chẳng qua là  ngồi yên hô hấp (phép tĩnh tọa của võ lâm) 

10.Thái cực quyền và Bát đoạn cẩm 

· “Thái cực quyền” là do Hoa Đà quan sát ngũ cầm mà đặt ra. Thái  cực quyền gồm 24 động tác. Tuy các động tác thay đổi nhưng từ  động tác nầy sang động tác kế tiếp không đứt đoạn mà là các động  tác liên tục của nhau, biến chuyển tương hợp từ từ mà thành, rất  ích lợi cho sự luyện tập thân thể nhất là khi hơi c  tuổi. 

·  “Bát đoạn cẩm” cũng tương tự như thế. Các yếu tố luyện tập là tập 

trung ý chí, thống nhất tinh thần để điều hòa hô hấp, tuy toàn thân  vận động nhưng phải giữ phịp thở sao cho tự nhiên, nhẹ mà sâu. 

Mỗi ngày càng tập hít thở sâu càng tốt. 

Cả hai phép thể dục phịp điệu nầy dùng phòng ngừa và trị các chứng  áp huyết cao, tinh thần khẩn trương, đau bao tử bệnh tim và nhiều  bệnh khác. Đối với hệ thống tuần hoàn và hệ thống thần kinh, cơ quan  hô hấp, cơ quan tiêu h a cũng rất c  hiệu quả. 

11.Kinh Thái Cực Quyền c  ghi người luyện tập phải hô hấp do đan điền. 

Đan điền là danh từ dùng trong khoa châm cứu chỉ một trong ba vị trí  trong người. thứ nhất là trên đầu (đại não), thứ hai ở hoành cách mô,  thứ ba ở rốn. Căn cứ vào các sách vở của đạo gia thì đan điền là chỗ  trọng yếu nhất trong cơ thể con người. Vậy chữ đan điền n i trong 

12

Khoái lạc và trường sinh 

kinh thái cực quyền là chỉ chỗ nầy. Khi hô hấp c  thể để dưỡng khí tồn  trữ tại đây để duy trì “tâm bình khí hòa tình tự an định” (cái tâm hồn  được bình tĩnh, cái khí được điều hòa, cái dục vọng đầu mối của tình  dục được an định). Y giới Mỹ gần đây nghiên cứu về Thái Cực Quyền  và Bát Đoạn Cẩm đều công nhận khả năng làm cho tâm an và bình ẩn  cái tình dục. 

12.Phép hô hấp đan điền được luyện tập dùng cho trường hợp phòng sự  mà thiết giảm xuất tinh, c  mục đích điều tức dưỡng khí tăng gia khí  lực trong trường hợp bất lực hành sự. 

Nội dung hô hấp đan điền người xưa c  ghi lại trong sách. Trang Tử  c  n i: “Chân nhân hô hấp thâm nhập cước, phàm nhân hô hấp tiển  tại hầu” nghĩa là bậc chân nhân hít thở không khí vô đến chân, người  thường chỉ hít thở được không khí vô đến họng mà thôi. Đại ý khuyên  luyện tập hít thở không khí mới để bài trừ mệt mỏi trong người 

13.Đời Động Tấn c  người Cất Hồng đề xướng lối “thai tức” nghĩa là thở  như thai nhi trong bụng mẹ, thở bằng mũi, không thở bằng miệng, hít  vào thật lâu sau mới từ từ thở ra. Cát Hồng khuyên sau khi hít vào  phải đếm đến 120 tiếng mới từ từ thở ra mà số lượng không khí thở ra  phải ít hơn số lượng không khí hít vào c  như vậy không khí trong  lành mới tòn tại trong thân thể. người siêng năng luyện tập c  thể kéo  dài thời gian giữ hơi trong bụng đếm đến 1000 mới phải thở ra. Ai  luyện đến mức nầy c  thể phản lão hoàn đồng, vĩnh bảo thanh xuân  không bao giờ già. 

14.Phép thai tức là phương pháp giảm bớt thở ra thán khí, tích tụ dưỡng  khí trong cơ thể, phù hợp với quan điểm y học ngày nay. 

Áp dụng nguyên tắc nầy trong việc phòng sự là cách giữ lại không cho  xuất tinh bằng cách hít hơi thật dài vô phổi nìn hơi thật lâu mới thở ra  tư từ. Lám như vậy nhiều lần khi thấy mình sắp bắn tinh. Ở Trung Hoa  c  thuật “thái âm bổ dương” tức thâu lượm âm khí để bổ cho dương  khí và “thái dương bổ âm” là nguyên tắc áp dụng cho nữ nhân sẽ bàn  đến ở những chương kế tiếp. 

15.Nam nhân không thể lãng phí tinh dịch của mình, mỗi lần xuất tinh là  mỗi lần phải c  hiệu ích. Khi nữ nhân lên đến cực độ khoái lạc thì âm  hộ sẽ c  sức hút rất mạnh, quy đầu của nam rất kh  lòng mà cưỡng  lại để rút ra, lúc đ  âm đạo sẽ hút tinh dịch của nam nhân vào cơ thể  của nữ nhân để sau đ  biến thành tinh dịch của nàng. 

16.Cổ truyền ở Trung quốc c  phương pháp luyện tập gọi là “tiểu châu  thiên” là khi ngồi yên tĩnh tọa dương khí từ đan điển (chỗ rốn), tiến lên  hội âm (giữa cơ quan sinh dục và bàng quang) xuyên qua giáp-suy  (giữa xương sống) vào ngọc-chẩm (sau  t) tới nê-hoàn (đại não),  xuống đài trung (giữa hai vú) trở về lại đan điền là xong một quá trình.  Cứ như vậy mà điều khiển dưỡng khí chu du, công phu nầy phải luyện  đến hai ba năm mới xong. Nam nhân đạt được pháp môn “tiểu châu 

13

Khoái lạc và trường sinh 

thiên” khi giao hợp dương cụ và âm hộ phối hợp với nhau mà thực  hiện quá trình tiểu châu thiên. Nữ nhân trong lúc tuyệt hứng, nguyên  khí bị hút sẽ phần khoái lạc không bao giờ nghĩ đến chuyện chia tay. 

Tố nữ khi n i về luyện tập thứ phương pháp tuyệt diệu nầy c  bảo  phải phối hợp với phương pháp đạo dẫn, cả hai phối hợp sẽ giúp cho  nam nhân đạt được mục đích hoàn tinh. 

17.Trong quyển “Ngọc Phòng Bí Quyết” c  n i nếu đàn ông tập luyện  được cách hô hấp đằng bụng, cho không khí vào sâu tới bụng (thật ra  là hít thật nhiều hơi) thì sẽ tăng thể lực và trì lực (sức chống chỏi), khi  giao hợp chống lại xuất tinh chỉ cần hít hơi dài vào đan điền đếm từ  một đến 30 mới thay hơi khác, như vậy dương cụ sẽ cương cứng lâu  hơn và chống chỏi lại khuynh hướng xuất tinh. Cho c  hiệu quả hơn,  áp dụng thêm phương pháp “tử vãn sinh lai” đã n i ở trên nghĩa là khi  cương cứng quá phải rút ra, đợi hơi xìu xuống mới tiến hành trở lại. 

18.Nữ nhân c  phương pháp “hành khí” do nàng Triệu Phi Yến đời hán 

truyền lại. Nàng luyện tập bằng cách lấy dây lụa cột ngang lưng và tập  chuyển động phần từ eo xuống mà phần trên không cần chuyển động.  Sau đ  nàng dùng thuật “bế khí chỉ tức” nín thở một hơi thật lâu. Với  phương pháp hành khí, nữ nhân c  thể co rút b p mở âm hộ khiến  dương vật cảm thấy sung sướng tuyệt đỉnh và từ đ  rùng mình bắn  tinh. 

Công dụng của phương pháp nầy là làm cho dương vật được b p  chặt, nam nhân cảm thấy nữ nhân như mới, b p, từ đ  không thể  cưỡng nỗi chuyện xuất tinh. 

Sách “Hương Muội” n i rõ ràng hơn về phương pháp co b p nầy. Khi  tiến hành giao hợp phải c  thứ tự: khi thằng nhỏ tiến vào thâm cung,  cửa thâm cung phải mở ra đ n chào. Khi chàng đã vào đến nơi thì 

cửa thâm cung đột nhiên đ ng lại ôm chặc chàng, như mừng rỡ. Quá  trình đâm vô rút ra của dương vật được quá trình mở b p của âm hộ  phối hợp tạo cho nam nhân cảm giác tuyệt vời. 

TƯ THẾ VÀ TÌNH THÚ 

(Hoàn cảnh và hứng thú) 

Hoàng Đế n i: “Nguyên tắc tiết độ trong việc nam nữ giao hợp là  nguyên tắc nào ?”. 

Tố nữ đáp: “Nam nữ giao hợp là thuận theo căn bản âm dương của trời 

đất. Nhưng không nên để lệch đi khiến cho nam nhân càng ngày càng  suy hoại thân thể trong khi nữ nhân được bách bệnh tiêu trừ. Đôi bên  phải thân tâm sướng khoái, thân cường khí thạnh, mạnh mẽ sung khí mới  là nguyên tắc. Nếu không theo đạo âm dương thì thân thể ngày càng suy  vi. vì vậy các yếu tố căn bản của giao hợp là: 

14

Khoái lạc và trường sinh 

·  An định sự háo hức. 

·  Tâm trạng hứng thú. 

·  Tinh thần sung mãn. 

Khi đã c  đủ ba thứ nầy tức là tập trung được tinh khí thần thì tự nhiên  không còn sợ n ng lạnh, không quá no không quá đ i. Khi thân thể khỏe  khoắn, tình tự tự nhiên nổi lên, đ  là chuyện bình thường. Khi giao tình,  phải từ từ mà tiến hành, giữ ba nguyên tắc trên thì tinh lực của nam nhân  không bị suy nhược, khoái cảm của nữ nhân lên đến cực điểm”. 

GHI CHÚ: 

1. Tố Nữ vạch cho Hoàng Đế biết đạo giao hợp là phải điều hoà và an  dưỡng thân tâm. muốn vậy phải học cách và chuẩn bị c  phương  pháp, bởi vì khi lâm trận mà tình tự an định (không c  tâm trạng quá  bồn chồn háo hức), tâm trạng hứng thú không miễn cưỡng, tinh thần  khỏe khoắn sung mãn thì bên ngoài và bên trong đều mạnh, không thể  nào mà bại trân được. 

2. Sách vở xưa của người Do Thái cũng c  n i chuyện đưa đến hứng  thú gối chăn: “Nếu vợ chồng tương thân tương ái thì dầu cho giường  chật ngủ cũng thoải mái vui thú. Nếu phu phụ bất hòa dầu cho giường  rộng bao la vẫn thấy chật hẹp tù túng”. Điều n i trên cốt nhắc nhở gái  trai trong đời sống vợ chồng tạo nên c1i “tâm bình khí hòa”, thanh  thản, hòa thuận, vui vẻ. 

3. Làm cho tăng gia tính cảm (độ sướng trong khi giao hợp) là do ba yếu 

tố: 

· Phản ứng của trung khu thần kinh. 

·  Kích thích của ngoại giới. 

· Kỹ thật của tính giao (giao hợp). 

Cả ba thứ trên tuy n i là tương quan mật thiết với nhau nhưng hai  thứ sau tùy thuộc nơi nam nhân rất nhiều. Họ c  thể làm tăng hai yếu  tố nầy lên để tăng phần khoái cảm trong cuộc giao tình.  

4. Các nhà tâm lý học phát hiện rằng đối với phụ nữ cái hoàn cảnh, cái  không khí của tính giao quan trọng nhất. Theo báo cáo của bác sĩ Kim  Soai thì nam nhân chỉ cần tưởng tượng thì cũng gợi hứng dược  dương vật sừng lên và cảm thấy hứng thú, trong khi đ  nữ nhân thì  không vậy. Họ cần phải c  những yếu tố hiện thực mới động tình, phải  c  mắt thấy (rõ ràng những điều gợi dục) tai nghe (thì thầm lời yêu  đương hay dâm ngữ) xúc giác (hai bên thi thể chạm nhau, rờ rẫm sờ  soạng thoa nắn) mới tạo cho họ hứng tình gợi dục. Bởi vậy trước và  trong khi giao tình nam nhân phải nhớ đến các yếu tố nầy mà tăng  cường mới mong chinh phục được nữ nhân. 

15

Khoái lạc và trường sinh 

5. Ngoại giới kích thích thì ngoại giới cũng c  thể làm tiêu hao hứng khởi  của nữ nhân. Họ rất dễ bị ngoại cảnh làm nguội lạnh tình dục. Bác sĩ  Kim Soai cho biết hầu hết nữ nhân không thích làm tình mà mở đèn  trong khi nam nhân thích mở đền để xem thân thể mình và thân thểû  người tình quyện nhau như thế nào, xem sự uốn éo vặn vẹo khi  sướng khoái của nàng ra làm sao. Nữ nhân ban ngày hay đèn sáng  chắc chắn là không thể đạt đến cao trào sướng khoái như làm tình  ban đêm hay khi trong b ng tối. 

Cũng vậy, giữa nam và nữ c  sự khác biệt về sự “tắt đèn làm lại” nam  nhân khi dương mê trận mà bị phá đám sau d  vẫn c  thể tiếp tục như  thường, trái lại nữ nhân hứng tình đã tiêu tan không còn hứng thú để  tiếp tục làm lại nữa. Trong khi hai đàng quấn quýt nhào lộn mà phải  buông nhau để chàng đi trả lời điện thoại thì chắc chắn là cuộc vui nên  kết thúc, c  kéo dài thêm nữ nhân cũng không còn lòng dạ nào. 

6. Giữa hiện tượng “cầu ái” (nhu cầu giao hợp) và hiện tượng “sinh vật”  (nhu cầu sinh sản truyền giống) c  quan hệ mật thiết với nhau. Trong  thế giới loài vật và thế giới của loài người chưa được khai h a thì sự  sinh hoạt tính dục đều do mùa và chu kỳ định đoạt. Động vật cao đẳng  thường c  chu kỳ tính giao là một năm một lần hay một năm hai lần  (mùa rượng đực). Nhiều dân tộc chưa văn minh còn c  tập quán nầy.  Họ tổ chức Hội mùa Xuân hay Hội mùa Thu cho thanh niên thiếu nữ  tới tuổi dậy thì c  cơ hội tính giao mà đi đến hôn nhân truyền giống. 

7. C  khi vợ chồng đối với nhau sự hứng tình cũng không đồng bộ về  thời gian, bởi vậy nhiều khi phải “bồi dưỡng khí thế” nghĩa là tạo hoàn  cảnh và khí thế để hai bên cùng cảm thấy hứng tình. Theo Von Krafft  Ebing và Kos Smann thì đàn bà trước hoặc sau thời gian c  kinh mấy  ngày là giai đoạn hứng tình quyết liệt. Đàn ông theo quan sát của  Julius Nelson thì sự tuần hoàn của hứng tình là 28 ngày. Các ông  Perry Coste và Von Roemet cũng c  báo cáo đàn ông chu kỳ cũng  giống như vậy và c  đỉnh điểm là ngày đầu tháng và ngày 18 của  tháng. 

Nếu các báo cáo trên là đúng thì phù hợp với cuộc sống tính dục của  người bán khai, họ mở những cuộc liên hoan nam nữ vào đầu tháng  và các ngày 18, 19 trong tháng. 

8. Thời gian hứng tình của nam nữ không giống nhau. Khi hứng tình rồi  thì sẵn sàng lâm trận cũng chênh lệch về thái độ hăng hái nhập cuộc,  bởi vậy cần c  chiến lược bồi dưỡng khí thế. Tránh ánh sáng vì nữ  nhân thẹn thùng khi tự thấy mình làm chuyện đ . Sờ soạng để tạo xúc  giác, n i lời âu yếm để tăng lòng thích được vuốt ve… Nên nhớ nữ  nhân cũng như động vật c  hiện tượng chống cự vì thời kỳ kêu xuân  chưa tới. Tâm lý đ  cộng với những thích thú về viễn tượng sướng  khoái khiến nữ nhân c  thái độ “bán nghinh bán cự” nửa như mời mọc  nửa như chối từ, như con thú cái bị con thú đực theo đuổi lúc thì vừa  chạy trốn lúc thì đ n nhận. 

16

Khoái lạc và trường sinh 

Hiểu được tâm lý đ  của nữ nhân (thẹn thùng và chạy trốn, muốn thấy  và cần vuốt ve) nam nhân muốn c  một cuộc xuân tình phải chủ động  tấn kích. Muốn bắt được con thú đẹp để ôm ẵm phải giăng một cái bẫy  thật đẹp. Cái bẫy đ  là bồi dưỡng khí thế trước khi giao hợp. Khí thế  càng hoàn chỉnh, hứng thú tình ái càng gia tăng. 

Theo kinh Tố Nữ, bồi dưỡng khí thế cũng chỉ là thể hiện đạo âm  dương mà thôi: “Tạo nên sự hài hòa giữa hai bên nam nữ, không trục  trặc. Nếu theo nguyên lý nầy mà thực hành mọi sự sẽ thông suốt vĩnh  lạc, coi thường n , không đúng nguyên tắc, thiếu chuẩn bị chỉ đem  đến mệt mỏi và thất vọng trong đời sồng gối chăn thôi, mất đi hạnh  phúc của trần gian.” 

TỨ THỜI VÀ NGŨ TẠNG 

(Tạng con người và bốn mùa) 

Hoàng Đế n i với Huyền Nữ rằng: “Đạo âm dương Tố Nữ đã lý giải với  ta rồi, nhưng ta muốn nàng giải thích tường tận hơn.” 

Huyền Nữ đáp: “Đạo âm dương c  thể t m lược trong câu căn bản nầy: 

Dương đắc âm nhi h a dục, âm hộ dương nhi thành trưởng, âm dương  tương hỗ tương thành, hỗ tương cảm ứng, tuần hoàn tương sinh, nghĩa là  vạn vật mọi sự trong trời đất đều theo đạo âm dương giao hợp mà sanh  ra. Dương được âm mà h a dục, âm bảo vệ dương mà lớn lên, âm dương  cùng nhau phụ trợ cùng nhau h a thành, cùng nhau cảm ứng cùngnhau  tuần hoàn. 

Bởi vậy khi dương cụ tiếp xúc với nữ nhân thì n  tự động dương lên. 

Còn nữ nhân khi âm hộ được kích thích thì tự nhiên biết mở rộng. Khi  giao hợp thì hai tinh khí âm dương của hai bên giao hòa mà tạo sướng  khoái. 

Khi giao hợp nam nhân phải tuân thủ theo bát giới là tám điều cấm kỵ,  nếu coi thường mà vi phạm thì dễ sanh tật bệnh. Trong khi đ  nữ nhân  cũng phải tuân thủ cửu luật là chín điều luật không thể phạm, nếu phạm  phải thì kinh nguyệt sinh biến chứng bất thường, âm hộ tì vết c  khi phải  táng mạng nữa.” 

GHI CHÚ: 

1. Chương nầy sách Tố Nữ kinh không n i về bát giới và cửu luật nhưng  ta c  thể thấy những điều này trong các chương kế tiếp. Huyền Nữ và  Tố Nữ là những người c  thẩm quyền bàn về thuật phòng sự vì những  lời bàn của hai vị đ  căn cứ trên triết học, tâm lý, đạo giáo và kinh  nghiệm của nhiều cung nhân trong hoàng cung. 

2. Hậu thế sau nầy c  lưu truyền các sách ghi lại những nguyên tắc  phòng the của hai vị trên là “Tố Nữ Kinh” và “Huyền Nữ Kinh”. Trên 

17

Khoái lạc và trường sinh 

căn bản hai sách tương tự nhau, chỉ khác một vài tiểu tiết không đáng  kể. Kinh Huyền Nữ đề cập đến quy luật tự nhiên, tiết độ, áp dụng luật  âm dương. Sách nhấn mạnh đến những cái lợi của những lời răn nầy  nếu theo thì hưởng thống khoái, cường thân ích thọ, bằng trái lại thì  sanh ra nhiều bệnh và c  khi còn táng mạng. 

3. Người Nhật cũng theo đạo âm dương. Một bác sĩ Nhật mới đây trong  sách ông viết c  bàn rằng: “Trời đất c  âm dương, con người c  trai  gái, thân thể con người ta cũng vậy, các bộ phận ở đàng trước bụng là  âm. Ngũ tàng tim gang tì phổi thận thuộc âm. Lục phủ, mật bao tử,  ruột già ruột non, bàng quang và tam tiêu thuộc dương. in nhắc lại  theo y học Trung quốc, miệng trên của bao tử là thượng tiêu, khoảng  giữa bao tử là trung tiêu, miệng trên bàng quang là hạ tiêu”. Công  dụng của ngũ tạng lục phủ là trung hoà với nhau, nếu hai bên chênh  lệch về âm dương thì con người không thể nào kiện khang được, chắc  chắn là sinh bệnh. 

4. Sách “Hoàng Đế Nội Kinh” quyển hai c  n i: “Trời đất c  tứ thời và  ngũ hành”, lại c  n i “thiên sanh thu tàng” và “hàn thử táo thấp phong”,  là những khái niệm giống như “xuân sanh, hạ trưởng, thu liễm, đông  tàng” đã trình bày ở trên. Mùa đông thuộc thuỷ cho nên hàn (lạnh),  mùa hạ thuộc hỏa cho nên n ng, mùa thu thuộc kim cho nên khô ráo,  xuân thuộc mộc cho nên c  gi  sách “Nội Kinh” khi nhắc đến ngũ tạng  c  nhắc đến ngũ khí là hỉ, nộ, bi, ưu, khủng nghĩa là vui, giận, buồn, lo,  sợ. Vui giận làm thương tổn khí, n ng lạnh làm thương tổn hình,  người mà hay giận thì không thể tiết chế khí được (dễ xuất tinh), bị  n ng lạnh quá sức chịu đựng tất nhiên sanh ra bệnh hoạn. 

5. Sách thuốc Trung quốc c  n i tới “ngủ lao thất thương” tức là con 

người ta hao tổn về một thứ tâm trạng nào đ  thì các bộ phận tương  ứng trong thân thể sẽ bị thương tổn. Vui quá hại tới tim, phẫn nộ quá  hại tới gan, bi thương quá hại tới phổi, ưu tư quá hại tới tì (bao tử),  kinh khủng quá hại tới thận. Do đ  để bảo vệ ngũ tạng, con người  trong khi tình tự ái ân không được để cho tâm bất ổn định, vui buồn  bất thường, trái lại giữ cho tâm được bình ổn để c  sức khỏe đầy đủ.  Con người mà luôn luôn khẩn trương và quá độsẽ chịu hậu quả của  mình là quá vui thành buồn “cực lạc sanh ai” gặp những điều không  hay cho bản thân. những người hư phổi và bộ phận hô hấp, t c, da là  những người ở trong trường hợp nầy. Họ nhìn chung giống nhau ở  điểm t c rụng, da mặt sần sùi xấu xí, d  là chưa kể bên trong họ mang  những bệnh như suyển, hay những bệnh thuộc đường hô hấp. Ngũ  tạng suy yếu không những chỉ ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày  mà còn ảnh hương đến những giấc mơ nữa. 

Hoàng Đế Nội Kinh chương 24 c  n i: 

· Người mà phế khí (phổi và các cơ quan phụ thuộc) suy nhược  thường nằm mộng thấy binh khí và những chuyện giết người, cắt  cổ gà vịt. Nếu ông ta nằm mộng trong mùa thu thì sự thấy còn 

18

Khoái lạc và trường sinh 

nặng hơn vì mùa thu thuộc dương nên hình ảnh lúc nầy là hình  ảnh hai người giao đấu hay hai đạo quân tử chiến với nhau. 

· Người thận khí suy vi trong mùa hạ thấy mình đi thuyền trôi theo  dòng nước, hay trôi giữa dòng. Nếu ông ta nằm mộng trong mùa  đông (đông thuộc thủy) thì thấy mình ở trong rừng, trong đám lá  rậm rạp. 

· Người tâm khí hư thì thấy lửa cháy, hay thấy dương vật. Nếu mà  nằm mộng trong mùa hè (mùa hè thuộc hỏa) thì thấy lửa cháy núi  hay thấy chuyện chữa lửa. 

· Người tì khí suy nhược thường mơ thấy đ i, kh  chịu. 

6. Vậy thì trong ngoài c  liên hệ nhau đã đành mà cộc sống thật và cuộc 

sống mộng cũng c  ảnh hưởng nhau nữa (Sigmund Freud nhấn mạnh  nhiều trong các nghiên cứu về giấc mơ của ông). Các nhà âm dương  c  n i “trời là dương, địa là âm”, mặt trời là dương, ban đêm là âm.  Kinh Tố Nữ c  n i: “Dương đắc âm nhi h a, âm đắc dương nhi dạ,  nhất âm nhất dương tương thuận nhi hành” c  nghĩa là nam nhân cần  phải c  nữ nhân mới phát triển thay đổi hay hơn được, nữ nhân cần  c  nam nhân là nguyên tắc bất di bất dịch. Nam nữ phải đi đôi với  nhau. Đ  là giải thích đạo âm dương bằng chuyện nam nữ phòng the. 

Huyền diệu thay lời trong kinh Tố Nữ. 

TÂN HÔN MỘT KHẮC ĐÁNG NGÀN VÀNG 

Hoàng Đế hỏi: “Tại sao gọi là nguyên tắc âm dương giao hợp ?” 

Tố Nữ đáp: “Nam nữ giao hợp là chuyện tự nhiên của trời đất, của sự  tạo thành chủng tộc không mất. Do thuận lẽ âm dương mà nam nhân tinh  cường khí tráng. Do thuận lẽ âm dương mà nữ nhân bách bệnh tiêu trừ.  Hai bên đều cảm thấy sướng khoái. Nếu không hiểu nguyên lý giao hợp  thì thân thểû ngày càng thương tổn, suy yếu. 

Vậy cái đạo giao hợp phải như thế nào? 

Đ  là chỉ giao hợp khi: 

·  Tâm tình an định. 

·  Ý khí hòa hài. 

·  Tình tự ổn định. 

·  Thân tâm nhất chí. 

·  Y thử dưỡng sinh. 

·  Không n ng quá, lạnh quá. 

·  Không no quá, đ i quá 

·  Tâm tư quang minh, hành vi rõ ràng. 

19

Khoái lạc và trường sinh 

·  Tính tình tự nhiên, thần thái ung dung. 

GHI CHÚ: 

1. An định, hài hòa, ổn định, tự nhiên, thung dung c  nghĩa như không  bộp chộp hấp tấp. Bắt đầu giao hợp phải từ từ đâm vô, từ từ chuyển  động. Càng ít đâm vô rút ra càng tốt bởi vì như vậy thì sự sớm bắn khí  không xảy ra và giúp cho ta kéo dài trường hợp giao hoan, thõa mãn  nữ nhân mà không c  cảnh nam nhân bẽ bàng vì “kh c ngoài biên ải”. 

2. Kinh Tố Nữ đặt nặng vấn đề tâm lý trong khi giao hợp nên chú trọng  đến sự ổn định thân tâm, tâm cảnh bình hòa. Trạng thái thong dong tự  tin nầy làm tăng sự sướng khoái đã đành mà còn tăng thêm cường  thận, ích thọ (sống lâu, không bị chết sớm). 

3. Thong dong, từ tốn còn c  mục đích kéo thời điểm sướng khoái của  nữ nhân về cho đồng nhịp với sự sướng khoái của nam nhân vì trong  sinh hoạt phòng sự ít khi c  sự đồng bộ nầy, nếu bốc hốt, lộp chộp thì  chỉ c  mình mình tới còn nàng mãi lẹt đẹt ngoài sau. Sự lỡ làng đ  rất  c  hại cho sự hoà thuận hai bên và ảnh hưởng tới những lần sau. 

4. “Kh c ngoài biên ải” bắn tinh sớm còn do sự thiếu kinh nghiệm của 

nam nhân, nhất là trong đêm tân hôn. Một cuộc thống kê của một bác  sĩ nhật Bản cho biết như sau: 

·  Thành công:           73.4 % 

· Thất bại:                  36.0 % 

Vậy sự thất bại, nghĩa là không hưởng được đêm tân hôn đúng nghĩa  lớn hơn ta tưởng. 

5. Đi tìm nguyên nhân thất bại để cho người đi sau biết mà tránh, ông  

bác sĩ trên làm cuộc phỏng vấn khác, kết quả như sau: 

· Dương cụ không cứng4.8 % 

·  Kh c ngoài quan ải 11.3 % 

· Giao hợp đau đớn 37.1  % 

· Không thấy cửa động17.7 % 

·  Nguyên nhân không rõ20.1 % 

·  Không c  ý kiến 5.3 %  Thống kê nầy cho thấy vì quá “khẩn trương” tinh thần bồn chồn lo  lắngù kích thích quá độ khiến cho mới đút vô chưa tới đâu là đâu thì  đã xuất tinh là trường hợp khá phổ biến trong đêm tân hôn. Mặt khác  sự không an định tinh thần cững khiến cho dương cụ không cương, từ  đ  không thể tiến hành một đêm tân hôn cho ra hồn được. 

5. Sự gấp rút bồn chồn bộp chộp sanh ra tệ hại là nữ nhân chưa được  vuốt ve đầy đủ tinh thần cộng tác chưa được khơi dậy, dâm thủy chưa  c  khiến cho sự nghênh đ n chưa đầy đủ, rõ ràng là cuộc ân ái trở 

20

Khoái lạc và trường sinh 

thành một sự thất bại, mất đi mỹ cảm ban đầu mà c  khi vỡ tan hạnh  phúc vì tạo nên tâm lý sợ hãi ái ân hay khinh thường người phối ngẫu. 

6. Kiếm không ra lỗ âm đạo vì bộp chộp cũng c  mà mà vì thiếu kinh  nghiệm cũng c . bổ túc kiến thức về cấu tạo cơ quan sinh dục của phụ  nữ trước đêm tân hôn không phải là điều vô ích. 

7. Sự thất bại trong đêm tân hôn đưa đến kết quả như thế nào, cuộc 

thống kê cho thấy: 

· Sau đ  thì mỹ mãn 73.4 % 

· Sau đ  mỹ mãn nhưng ly dị 19.2 % 

· Ly dị vì trật vuột           1.9 % 

·  Lý do khác                  4.5 % 

· Không trả lời, chỉ c  1.0 %  Tổng quan ta thấy vì thất bại trong đêm tân hôn mà cặp vợ chồng ly dị  chiếm một phần tư. Tránh tình trạng nâày và biến n  thành phút ngàn  vàng trong đời chẳng phải là quí lắm sao? Muốn vậy phải chú ý đến  những nguyên nhân phát sinh trở ngại đã n i ở trên và cũng nên tạo  cho mình một sự tự tin rằng mình sẽ làm được, nhất là đối với những  người từng thủ dâm. Những người nầy vì sợ rằng với cái tật mình đã  c  mình không thể hướng dẫn người đàn bà tuyệt đỉnh khoái lạc như  họ mong muốn hay là mình không còn cảm thấy hứng thú bằng như  mình tự thỏa mãn bằng tưởng tượng như trước đ . Tâm lý tự tin,  thong dong ổn định là một sự chuẩn bị cần thiết và ích lợi. 

9. Sau lần thất bại đầu dĩ nhiên là làm lại, nhưng tắt đèn làm lại không c  

nghĩa là lần sau đ  thì thành công ngay. Thống kê cho biết: 

· Lần thứ hai thành công30.1 % 

· Lần 3-5 mới thành công43.8 % 

· Lần 6-10 mới cáo thành10.8 % 

· Lần 11 hay hơn nữa 8.8 % 

· Không trả lời                6.6 % 

10.Sớm xuất tinh người đàn ông c  tâm trạng bất an và xấu hổ, nữ nhân  trong trường hợp này không nên chế diễu hay hỏi mắng mỏ “ra rồi đ   hà, dở ẹt”, “xong rồi à, sao nhanh thế?”… Những câu hỏi nầy càng  khiến cho trượng phu của mình mất hết lòng tự tin và tự ái c  thể kéo  đến tình trạng bất lực về sau. Gặp tình trạng nầy nữ nhân cần phải an  ủi nam nhân cho biết sự bất tương hợp như vậy là chuyện c  thể xảy  ra và làm lại lần nữa thì c  thể khá hơn, không c  gì mà phải áy náy.  C  thể khuyên trượng phu mình nghĩ dưỡng sức một lúc hay nhủ một  giấc “rồi ta lại vui chơi, đêm còn dài mất đâu mà hòng sợ.” 

11.Trong trường hợp thất bại vì nữ nhân quá đau đớn thì nên ngừng  ngay. Lúc này nam nhân phải biết vuốt ve mơn trớn cho người bạn 

21

Khoái lạc và trường sinh 

mình hứng tình lên, ngoài vuốt ve nên n i những lời yêu đương để tạo  một không khí thuận tiện chờ khi cả hai cơ quan trơn nhuận (đầm đài  lá liễu) mới nên tiến hành trở lại. 

C  thể sự đau đớn sanh ra do màng trinh dai hơn bình thường, không  chịu rách, trường hợp nầy cũng c  nhưng mà rất ít. Phần nhiều cô dâu  đau vì sợ sệt, vì c  khuynh hướng chống cự nên tiến hành “cuộc vui”  một cách miễn cưỡng khiến nên âm hộ không mở ra lớn đầy đủ. Sự 

mơn trớn mân mê rất cần trong trường hợp nầy. 

12.Muốn c  một đêm tân hôn hoàn mỹ, cả hai nên tham khảo sách về 

cấu tạo cơ quan của bạn mình. Nhưng câu dạy của Tố Nữ vẫn là quan  trọng: “Bình tâm khí hoà” mới c  thể hoàn tất cái lễ vợ chồng bởi vì  “xuân tiêu nhất khắc trị thiên kim” đêm xuân một khắc đáng ngàn vàng,  không thể bỏ cho lãng phí dược, nghiên cứu cẩn thận sách này thì bảo  toàn được sự kiện khang và luôn luôn gặt hái được khoái cảm! 

TÂM BÌNH, KHÍ HOÀ, GIÃ THÁI TỰ NHIÊN. 

(Bình tĩnh, từ tốn, phong thái tự nhiên) 

Hoàng đế n i: “ Trẫm muốn thi hành giao hợp nhưng dương cụ xìu ểnh  không thể cương dũng, rất là ngại ngùng với nữ nhân, lại thêm bị xuất  hạn đầm đìa. Nếu miễn cưỡng cầm lấy đưa vào thì cũng không làm được  gì. Tình trạng như vậy làm thế nào cho n  cứng lên; xin nàng giải nghĩa  cho tường tận.” 

Tố Nữ n i: “Vấn đề của Hoàng Đế là là thông bệnh của nam nhân. Nếu  muốn cùng nữ nhân giao hợp, thì phải chuẩn bị tâm lý, từ từ mà tiến, tâm  bình khí hoà, thung dung, c  như vậy dương cụ mới tự nhiên cương cứng  lên được. “ 

VUỐT VE MƠN TRỚN 

Trong Tố Nữ kinh c  thuật lời Huyền Nữ vấn đáp với Hoàng Đế về  chuyện kích thích trước khi nhập cuộc như sau, thiết nghĩ cũng cần ghi  lại. 

Hoàng Đế hỏi: “Lắm khi trong lúc giao tình, người nữ không cảm thấy  c  hứng thú, âm đạo vì thế không trơn, dâm thủy không ướt khiến cho  nam nhân mất sự hứng khởi, không đủ sức kiên cường, ấy là tại sao?” 

Huyền Nữ đáp: ”Trong bất cứ chuyện nào, nguyên lý âm dương cũng 

đều phải tương ứng tương sinh. Nữ nhân không được nam nhân kích  thích thì làm sao mà bộc khởi cường lực được. Do đ  khi giao hợp, nam  nữ cần phải hữu tình, hữu ý với nhau, lúc ấy cảm hứng mới nẩy sinh,  người nữ mắt, mi đưa đẩy; người nam khởi hứng, tự nhiên nơi qui đầu tiết  ra một vài giọt dịch thể (chưa phải là tinh dịch) giúp đỡ cho sự trơn hoạt 

22

Khoái lạc và trường sinh 

của dương cụ để xâm nhập xuân cung. Người nữ sẵn sàng phối hợp, cửa  thành mới mở rộng nghênh đ n. Thành thử trong cuộc giao đấu này, sức  khoẻ đôi bên sẽ không bị hao tổn mà sự sướng khoái lại càng tăng. Lúc  ấy nam nhân sẽ hấp được tinh khí người nữ để bồi bổ thể lực. 

Tuy nhiên, chẳng người nào giống người nào, trình độ cũng vậy, người  mau, người chậm, người n ng, người lạnh. Nếu cứ miễn cưỡng nhảy vào  cuộc hành lạc ngay, không chịu chờ đợi, làm bừa, điều lợi chẳng được,  điều hại lại càng thêm. 

Huyền Nữ lại chỉ điểm thêm rằng: “Trong trường hợp chậm lục ấy của  phái nữ tất nam nhân phải cần đến sự “tiền hí” tức là khai vị để dẫn khởi.  Đ  là những xảo thuật vỗ về mơn trớn gọi là “các m n ăn chơi”. Trong  những phương pháp “Phòng trung” cuả Trung quốc cũng chủ trương nữ  nhân phải được mơn trớn cho nhiều để dễ đạt đến cao độ và để nam  nhân dưỡng hơi sức đỡi lúc dùng đến sau nầy cho dũng mãnh, cương  liệt. muốn thế thì trước tiên người nữ phải dược nơn trớn vuốt ve toàn  thân, sau đ  được b p nắn toàn bộ “ngọc môn” rồi mới được chú trọng  đến cái nhân bé nhỏ gọi là âm hạch. Nhưng nam nhân nào cũng phải  dùng kinh nghiệm bản thân mà dò xét xem nữ nhân đang đối đầu vơí  mình thích vuốt ve ở những bộ phận nào, và nữ nhân này thích nhẹ  nhàng hay mạnh bạo. 

Thường tình thì phải nhẹ trước mạnh sau. Người nữ, cũng như nam,  tình hứng phát động thì cứ tự nhiên các mạch máu đều căng cứng làm  phồng nở “tính bộ”. Xem cảm giác ở dưới tay mình nam nhân chỉ cần một  chút chú ý cũng biết cảm hứng của đôi bên đã nổi tới trình độ nào rồi. Để  cho đôi bên lên đến cao độ hứng tình phương pháp mơn trớn cũng phải  đạt đến mức nghệ thuật vậy, nghiã là biết cách và biết áp dụng. 

Huyền Nữ lại n i thêm về sự biểu hiện của nghệ thuật mơn trớn: “Nghệ  thuật dầu sao cũng phải c  dẫn dắt nên sự thi hành phải c  tuần tự và tự  nhiên”. 

Phải bắt đầu từ trên trước đã, từ đầu từ cổ trở xuống, từ sau lưng trước  rồi mới vòng tới nhũ hoa, mông trước rồi mới tới âm bộ, lại ngoài trước  trong sau, gõ cửa rồi mới vào nhà v.v… lại nông trước sâu sau, đừng vội  hấp tấp; ít trước nhiều sau, nhẹ trước mạnh sau v.v… và khi mơn trớn  phải vận dụng đầy đủ hình thức và bộ phận: mắt phải thiết tha, hơi thở  ứng nhịp, tận dụng bàn tay, ng n tay, ng n chân, bả vai bộ ngực, ch t  lưỡi, môi, răng v.v… 

GHI CHÚ: 

1. Bản tính nữ nhân thường thụ động, lại hay e lệ nên trượng phu cần  phát động trước và khi nữ nhân chớm động xuân tình thì sẽ dễ hoà  theo, đáp ứng. Ta sẽ thấy người nữ môi sẽ hơi khô, miệng sẽ hơi hé,  đầu vú sẽ căng căng, và thân mình sẽ ngúng nguẩy lắc lư. Thảng  hoằc người nữ gặp phải nam nhân vụng về thì lúc nầy cũng nên giúp 

23

Khoái lạc và trường sinh 

sức và bỏ tính e lệ đi, tự tay mình sẽ hướng dẫn tay nam nhân tìm  đúng địa điểm nhậy cảm của mình, c  khi ở đầu nhũ hoa, c  khi ở  vòng mông, c  khi ở ngoài âm thần, c  khi ở trong âm đạo. 

2. Người nữ cũng đừng quá e lệ, trái lại phải hoà hợp để cùng nhau tìm  đến thú vui chung, muốn vậy phải tỏ ý của mình ra sao, cả bàn tay hay  một hai ng n, mình thích mưa xuân hay bão táp v.v… để nam nhân  theo đ  mà hành sự. Lại cũng đừng cố ép mình, hãy để cho cơ thể  mình vòng vèo uốn éo tùy theo xúc cảm của thần kinh; và đáp ứng, tay  nữ nhân cũng nên biết tìm “cây nấm linh chi”, dò tìm từ gốc, từ rễ ra  đến hoa nấm. Cũng c  khi nên dùng đầu lưỡi mà hôn hít thưởng thức  sự tuyệt diệu của “nấm linh chi” và cũng là để mở đầu cho người nam  cúi xuống “n i chuyện” với “đ a hải đường” của mình. 

3. Tuy nhiên c  một điều nên nhớ, chớ c  tham lam thái quá. Nếu nữ 

nhân bộc lộ sư nồng nhiệt thái quá trong lúc tận hưởng các m n ăn  chơi lại gặp phải nam nhân không “vững tâm”, không “an khí”, tất sẽ  không ẩn nhẫn được, trào ra, đến khi nhào vào việc chính thì không  còn kềm chế được nữa, sẽ bị tảo tiết và khi ấy cả hai sẽ bẽ bàng, cuộc  vui khộng vẹn, ấm tức. 

TRẮC ĐỊNH TÌNH CẢM 

Đáp lại câu hỏi của Hoàng Đế: 

“Sao mà biết được lúc nào nữ nhân ham muốn, lúc nào nữ nhân khoái  cảm”. 

Huyền Nữ n i: “C  thể trắc định tình cảm của nữ nhân qua những nhận 

xét sau đây mà ta c  thể mệnh danh là: 

a) Ngũ chứng. 

b) Ngũ dục. 

c) Thập động. 

1. NGŨ CHỨNG: 

1. Nếu thấy gò má nữ nhân ửng hồng thì nam nhân c  thể sắp sẵn tư  thế để đột nhập xuân cung. 

2. Nếu thấy đầu nhũ hoa căng cứng, dưới mũi xâm xấp mồ hôi, thì  nam nhân c  thể bắt tay vào việc. 

3. Nếu thấy nữ nhân môi se, miệng khô, miệng nuốt nước bọt, nam  nhân hãy hoạt động mạnh bên ngoài cửa xuân cung. 

4. Nếu thấy nữ nhân âm đạo trơn hoạt, nam nhân c  thể đưa dương  cụ vào thẳng cung vi. 

5. Nếu thấy nữ nhân xuân thủy tràn ra cả cửa cung, nam nhân hãy  thu binh hưu chiến. 

24

Khoái lạc và trường sinh 

2. NGŨ DỤC: 

1. Người nữ lúc được người nam ôm trong tay, thần thái tỏ ra mê  mẩn đờ đẫn. 

2. Lúc âm hộ được mân m , hai lỗ mũi nở rộng cùng lúc mồm miệng  he hé ra, hơi thở hổn hển, dồn dập. 

3. Lúc âm dịch tiết ra, rùng mình muốn ôm chầm lấy nam nhân. 

4. Lúc đạt đến khoái cảm cao độ, mồ hôi ra đẫm lưng. 

5. Lúc ấy sướng khoái nhất như được đằng vân giá vũ, thân thể nằm  ườn ra để hưởng thụ khoái cảm đang lan tràn khắp thân thể. 

3. THẬP ĐỘNG: 

1. Hai tay ôm lấy thắt lưng người nam, âm hộ muốn được chà xát là  lúc hứng tình đang lên. 

2. Dạng đùi, duỗi chân, là n ng nẩy chờ đợi nam nhân nhập cuộc. 

3. Bụng hơi tức, cong lưng, ưỡn mông, là mong mỏi người nam xạ  tinh. 

4. Mông lắc, đấy là đang giai đoạn tràn đầy khoái cảm. 

5. Hai chân cong lên quặp lấy người nam là muốn cây linh chi của  người nam tiến sâu vào hơn trong lòng mình. 

6. Hai chân khép chặt lại là muốn giữ cho âm dịch của chàng và của  mình đừng vội tiết ra để kéo dài thời gian xuân tình. 

7. Oằn oại xoay tả, xoay hữu là muốn người nam tiến nhập vào hai  bên thành âm hộ thay vì vào sâu bên trong cung cấm. 

8. Cong lưng, ưỡn mông cùng nhịp với nam nhân là đang ở trên con  đường lên tuyệt đỉnh Vu Sơn. 

9. Duỗi thẳng chân tay thủ xướng là đã đạt được khoái cảm tuyệt vời. 

10.Âm thủy tràn ra ngoài âm thần là hoàn tất cao trào khoái cảm. 

GHI CHÚ: 

1. “Ngũ chứng, Ngũ dục, Thập động” nêu trên là những kinh nghiệm trắc  lượng độ khoái cảm của nữ nhân. Nam nhân cần c  những kinh  nghiệm này để hiểu nữ nhân hầu tiến thoái đúng quy luật khiến cho hai  bên c  thể đàn cùng một điệu, tránh khỏi sự xung khắc c  thể xảy ra  do nhanh chậm trong một phút giây quan trọng. 

2. Ngoài ra hiện tại nam nhân cũng như nữ nhân vì hoàn cảnh sinh sống,  vì bổn phận gia đình, vì lễ giáo ràng buộc cho nên ít khi được Loan  Phượng Hoà Minh nên lại càng chú ý đến những trạng thái và động tác  trên để tránh những bệnh tật do thân, tâm bất xứng ý sinh ra dẫn đến  những chứng bệnh thuộc về tình dục và những sự chán nản làm ung  thối tình cảm gia đình. 

25

Khoái lạc và trường sinh 

TỨ HẬU VÀ CỬóU KHÍ 

Như ở một chương Hoàng Đế hỏi về cách thức xử trí khi nữ nhân chưa  bột hứng mà nam nhân thì khí lực tràn trề, nay Hoàng Đế lại hỏi về một  trường hợp trái lại, đ  là tình trạng của nam nhân một khi xông trận mà  rụt rè, vấp váp… Đáp lời, Huyền Nữ giải rằng: 

Để chuẩn bị cho sự giao ái hòa hợp người nam cần biết đến “Tứ chí” 

hay “Tứ hậu” (tức là khí thế) và người nữ cần biết đến “Cửu khí”. 

Huyền Nữ giải thích về “Tứ Hậu” như sau: 

1. Người nam, dương cụ không phấn chấn ấy là thể lực không đầy  đủ. 

2. Dương cụ phấn chấn mà không đủ ni tấc, ấy là bắp thịt không ra  gì. 

3. Đủ ni tấc mà chẳng cương cường ấy là do gân sức yếu kém. 

4. C  cương cường mà thiếu hăng hái là do nội khí không đầy đủ. 

Về “Cửu khí” của nữ nhân, Huyền Nữ n i: 

1. Thở ra hít vào gấp rút ấy là phế khí (khí ở phổi) đầy đủ. 

2. Rên rên rỉ, ấy là tâm khí sung mãn. 

3. Hai tay quấn chặt nam nhân ấy là Tỳ khí thịnh vượng. 

4. Âm hộ ẩm ướt ấy là thận khí no ấm. 

5. Thái độ ân cần, miếng cắn yêu nam nhân, ấy là cốt khí không  thiếu. 

6. Hai chân quặp lấy đùi nam nhân ấy là gân sức thừa thãi. 

7. Thân hình mềm dẻo, b p nắn lấy dương cụ ấy là khí huyết tràn  đầy. 

8. Đê mê rối rít xoa nắn bộ ngực nam nhân ấy là nhục khí c  dư. 

GHI CHÚ: 

1. Đưa ra những nhận xét về Tứ Hậu và Cửu Khí là để đo lường tình  trạng về sinh lý của nam nữ. Muốn xem nam c  phần nào yếu kém  thì do sức của dương cụ. Muốn xem nữ phần thiếu suy thì nhận  định qua những động tác khi người nữ giao hoan. 

2. Đại để biết được phần suy, phần thịnh ta mới c  thể tìm phương  pháp sửa trị cho quân bình âm dương, tạng phủ cường mạnh mà  cầu được khoái lạc trong sinh lý, lại cầu được ích thọ diên niên. 

26

Khoái lạc và trường sinh 

CỬU PHÁP 

(Chín tư thế giao hợp) 

1. THẾ RỒNG UỐN KHÚC 

Hoàng đế hỏi Huyền Nữ: “Khanh đã n i đến chín diệu thuật, nay khanh 

đã tường tả cặn kẽ để ta c  thể cho sao lục thành sách cất giữ cho khởi  mất đi mật pháp quí giá.” 

Huyền Nữ đáp: “Phép thứ nhất c  tên là Rồng Uốn Khúc. Người nữ  nằm dưới, mặt hướng lên trời để người nam nằm úp lên mình. Hai vế đùi  người nam ở trong hai vế đùi người nữ. Người nữ uống cong hạ thể để  ngọc hành cọ sát vào âm hạch. Như thế, từ từ, thong thả mới để dương  cụ lọt vào vào vòng cấm địa. Nguời nam c  thế rồi mới điều khiển hoạt  trượng liên tiếp vào ra theo luật bát thiển nhị thâm, nghĩa là đút vô tám cái  cạn rồi mới thọt vào hai cái sâu. Xong mười cái như vậy kể là một chu  trình, một hiệp, một luợt. Xong chu trình ấy thì tạm rút ra ngoài rồi lại vào  trở lại làm tiếp hiệp hai, rồi thứ ba, thư tư… liên tiếp như vậy vơí tôn chỉ:  lúc cứng rút ra, hơi mềm mềm rồi lại cho vào. Tôn chỉ ấy là: “Chết qua,  sống lại” hay “vào sống ra chết”. Làm như thế, ngày ngày người nam  thêâm mạnh, người nữ thêm khoái, tình xuân dào dạt, âm hộ co thắt,  trăm bệnh điều khỏi.” 

Trong chín phép, phép này được gọi là rồng uốn khúc vì âm ở dưới,  dương ở trên. Đại đa số nam nữ điều theo cách này mỗi khi giao hợp.  Người nam, hai tay hai chân giúp cho thân thể cong lên, uốn xuống tựa  như con rồng đang uốn khúc nhất là trong lúc thi hành thuật pháp phòng  chung “tám cạn hai sâu”. 

Trong tư thế này người nam c  trọn người nữ trong tay, được thêm  khoái cảm của sự chinh phục. Người nữ ngực và âm quản được chạm sát  thân thể người nam. Như vậy nữ nhân cùng một lúc hưởng sự sướng  khoái của giao hợp và sự vuốt ve nhẹ nhàng lúc ban đầu (ngọc hành cọ  sát vào âm hạch). 

GHI CHÚ: 

1. Tư thế này là tư thế hoà hợp, nên tránh  sự cuồng bạo, cần sự nhịp nhàng tương đối  trong khi dùng sức. 

2. “Tám lần cạn hai lầøn sâu” và “vào sống  ra chết” (hay chết qua sống lại) là sự áp dụng một cách nhuần  nhuyễn hai nguyên lý dưỡng trường và kích thích trong giao hợp.  Dưỡng truờng áp dụng cho người nam làm sao cho cuộc hoan lạc  dài tới đến gần băn tinh thì ngưng lại, tránh không bị kích thích quá  độ để bị xuất tinh khi cuộc giao vừa mới khởi đầu. Kích khích là áp 

27

Khoái lạc và trường sinh 

dụng cho người nữ, tạo cảm xúc tối đa và tránh nhàm chán, cho  phải lúc cạn, lúc sâu, sâu, lúc mềm, lúc cứng… 

3. Tây Âu gọi tư thế Rồng Uốn Khúc là tư thế chính của Thần Ái tình. 

Ta gọi là Rồng Uốn Khúc và đưa lên làm pháp thứ nhất trong chín  pháp đủ biết Đông Tây đồng quan niệm rằng đây là tư thế tuyệt  diệu trong thuật phòng trung. 

4. Khi lâm trận ta rất dễ quên nguyên lý tám lần cạn hai lần sâu và  vào sống ra chết. Không nhớ dể mà áp dụng thì nam nhân dễ c   khuynh hướng làm hùng hục như trâu, xả láng sáng về sớm, như  vậy cuộc mây mưa không kéo dài lại làm cho nam nhân mệt mỏi và  nữ nhân ấm ức. Đ  là khuyết điểm trong luật phòng trung. 

2. THẾ HỔ: HỔ RÌNH MỒI (THế THứ NHÌ TRONG CửU PHÁP) 

Tư thế này đòi hỏi người nữ nằm áp mặt xuống giường, đầu phục  xuống, bộ mông cong lên. Người nam quỳ đàng sau, giữa hai vế người  nữ. Hai tay nam nhân ôm lấy bụng nữ nhân, đưa dương cụ vào tận bí  cung, hoạt động cho lanh lẹ, lánh sang phải đâm sang trái chừng ba bốn  chục lần tùy theo sức khống chế. Bí cung của người nữ lúc co lúc dãn;  âm thủy trao ra.Lúc bấy giờ nam nhân tạm hưu binh, nghỉ khoẻ. Như thế  trăm bệnh chẳng sinh lại thêm cường tráng. 

GHI CHÚ: 

1. Tư thế này người nam thật                                                  giống như 

hổ rình mồi. Thế này đích                                                   thực           là  bước tiến h a của con                                                                               người so  với loài vật. Vì người ta khi                                                                         giao  hợp 

vẫn thuận nam trên nữ                                                        dưới, nhưng  trong các loài vật chúng                                                                            vẫn thuận  ôm lưng nhau. Từ thuở xa                                                                          xưa, các nhi  đồng nam nữ bất luận ở                                                                            đâu cũng đã  từng trông thấy những                                                                          cảng tượng  giao hợp của ch  méo gà vịt và đã c  ấn tương ấy trong đầu. Đến  khi động lòng hiếu kỳ muốn bắt chước xem sao, nam nhân chủ  động nhưng phái nữ cũng phải thuận tình nên khi đã tìm thấy môät  tư thế đầy hứng thú. 

2. Người nam ở ngoài sau c  cái thú là được ôm hết bờ vai tròn, tấm  lưng trơn mịn, vòng eo thon thon, vòng mông chắc nịch. Hai tay nếu  không muốn bám cho chắc, thì c  thể dùng để xoa, vuốt từ bộ nhũ  hoa xuống đến âm hộ. Trong khi dương cụ vẫn hoạt động vào ra,  xiêng ngang tả hữu, càng lúc càng linh hoạt. Thỉnh thoảng, đôi tay  lại rời ra để xoa b p, nắn đôi mông, ép đôi mông lại hoặc căng n   ra. Tuy nhiên c  một điều là khi thực hành tư thế này người nữ để  âm hộ cùng giang môn một lượt nếu nam nhân không cân thận 

28

Khoái lạc và trường sinh 

hoặc vụng về c  thể đưa dương cụ lọt vào giang môn tạo cho nữ  nhân một cảm giác cực kỳ đau đớn. 

3. Trong tư thế này, âm hạch của nữ nhân không hưởng khoái cảm  được chạm sát với dương cụ xong bù lại thì dương cụ tiếp nhận  sâu hơn, lại được tự do lúc lắc, nhấp nhô hòa hợp với cử chỉ của  nam nhân. Tiết tấu ấy tuyệt diệu và làm tăng thêm phần nhục cảm.  Nam nhân trong khi xoa nắn, vỗ về sẽ vô cùng khoái cảm nếu gặp  được bộ mông to nở. Tiêu chuẩn thẩm mỹ quốc tế định là bộ mông  phải nở hơn bộ bụng ít nhất là hai mươi phân tây. 

4. Nhiều người còn sùng thuợng những bộ mông to. Những dân tộc  thông minh thường chuộng những bộ mông to, c  lẽ vì mông to thì  xuơng chậu to, dễ sinh sản và dễ sinh những đứa con c  bộ xuơng  sọ to, điều kiện căn bản của một đứa trẻ thông minh, mạnh khoẻ. 

3. THẾ VUỢN LEO CÂY (phép thứ ba trong cửu pháp) 

Huyền Nữ giảng tiếp: “Thế thứ ba này gọi là thế vượn leo.Người nữ  nằm giữa giơ hai cẳng lên không. Nam nhân đối diêän vơí nữ nhân, quỳ  xuống, đỡ lấy hai cẳng nữ nhân đặt lên vai mình. Âm bộ nữ nhân lúc này  vừa tầm tiếp nhận dương cụ. Âm hạch đuợc chà sát. Người nữ cảm thấy  vô cùng khoái lạc và âm thuỷ bắt đầu chảy ra. Dương cụ cứ việc tung  hoành và người nữ sẽ đạt đến khoái cảm tột đỉnh. Theo tư thế này trăm  bệnh sẽ đuợc tiêu trừ. Nguời nam trong tư thế này ôm lấy hai chân nữ  nhân, trông cũng giống như con vượn đang leo cây. Người Trung Hoa rất  ưa tư thế này. Hiện còn các bản vẽ trong Xuân Cung đồ”. 

GHI CHÚ: 

1. Hai thế “Hổ Rình Mồi “ và “Vượn                                                   Leo  Cây 

“ điều c  những ưu thế tuơng                                                               đồng.  Thế nào cũng giúp cho nữ nhân                                                                                lộ trọn  vẹn cả bộ xuân tình và để cho                                                                             nam  nhân mãn ý xoay sở. Bộ vị của                                                                               cả hai  cũng dễ dàng thích hợp. Trong                                                                                  thế Hổ  thì người nữ cong mông lên, cao                                                                             thấp tuỳ  theo tình hình trong thế Vượn thì dùng một chiếc gối hay đệm tuỳ theo  dầy mỏng đặt xuống dưới mông. Như thế dù cho người nam thuộc  hạng béo phệ chăng nữa thì dương cụ cũng sẽ được đưa vào đến tận  cùng của xuân cung, không bị cái bụng mỡ cản trở khoái lạc. 

2. Những nam nhân mà thằng con không đủ kích thước đều thích thực 

hành như thế. Áp dụng tư thế này người nam sẽ hoàn toàn hạnh phúc  nếu nữ nhân c  đôi đùi thon thon và đ Ngày  xưa 

ôi chân nhỏ sạch. 

toàn thân, chỉ còn hoạt động được bộ mông mà thôi, do đ  rất hợp với  nữ nhân vì phụ nữ nào cũng thích uốn éo.  Nam nhân tuy rằng nằm úp trên người  b dùng tất cả sức nặng của mình mà đè lên, phải ch ng tay xuống  giường nâng bớt trọng lượng của thân mình. Hai chân duổi ra bám lấy  sàn giường phụ giúp thêm. Nàng, do đ  không cảm thấy sức nặng của  chàng đè xuống sẽ dễ dàng ngoạ nguậy, lắc lư, sà qua sàn lại khi cao  hứng, hơi thở tuy dồn dập mà cảm thấy thản nhiên, không thấy kh   khăn khôâng bị tức ngực…  Vì thế của người nam bám  

Khoái lạc và trường sinh 

Nha, ở La Mã, chân người đàn bà phải được che đậy kín đáo. Đi hài  cũng không đuợc dùng hài hở mũi. Chân chỉ để cho chồng hoặc tình  lang trông thấy hay ve vuốt mà thôi, tuyệt đối cấm kỵ người ngoài.  Trong tư thế “Vượn Leo Cây” này thì đôi chân nữ nhân c  vai trò tính  dục mạnh ở chỗ tạo thêm khoái cảm cho cả hai bên nam nữ. 

Người nữ c  đôi chân thon thon, tất nhiên c  dáng đi uyển chuyển, 

hoạt động lanh lẹ, mình mẩy dẻo dai, dễ cho sự oằn oại, giúp tạo thêm  hứng tình cho nam nhân. Những ng n chân hồng hồng nho nhỏ cũng  sẽ như những trái bồ đào để cho chàng nếm mút. 

4.                                                                                          i Minh n i chuyện 

Trong cuốn “Tăng Ni Nghiệt Hải” (một cuốn sách đờ ái ân trong cửa thiền) c  n i đến một vị Đạt Ma sở trường hai m n  Rồng Uốn Khúc và Vượn Leo Cây này. Sách n i rằng hai phép này  hoà hợp vơí nhau làm tăng truởng duơng cụ và là cho nữ nhân đạt  khoái cảm tối đa. 

4.                                BÁM CỘI CÂY (phép thứ tư trong cửu pháp) 

THẾ VE SẦU: VE

ấp,  ng

Huyền Nữ lại n i đến thế Ve Sầu. Trong thế này người nữ nằm s ay ngắn, để người nam nằm úp lên trên lưng, dương cụ được đưa vào 

xuân cung từ phía sau. Nữ nhân uốn cong bộ mông để dương cụ cọ sát  vào hai cánh cửa ngoài cung truớc khi cho phép vào lọt trong cung cấm.  Nam nhân hoạt động ra vào chừng năm mươi bốn lần là đã c  thể thấy  nữ nhân xuân tình dào dạt, xuân cung mở rộng, trơn tru. 

.Thế này c  thể  tiê

Đạt đến tình trạng này thì nam nhân nên ngưng ngay u trừ những chứng bệnh sanh ra do thất tình lục dục như: buồn giận, 

mừng lo, tư lự sợ hãi ghen ghét… gây nên. 

ế này, nữ nhân nằm úp sấp nên không thoãi mái chân tay và 

2.                                                                           ạn tình nhưng không nên 

Huyền Nữ giảng tiếp đến phé thứ năm trong chín phép. Đ y.  Tro ười Nam quỳ xuống quay mặt về phía người nữ. Hay tay dang hai đùi  

Khoái lạc và trường sinh 

thẳng đúng mức hay cây nấm linh chi của chàng không không dài đủ  chỗ thì nên dùng một cái gôí chêm xuống dưới phần chính của nàng,  để vừa vào sâu, vừa tránh trường hợp rạt rào xuân ý, nước nôi mà  dương cụ trật vuột ra ngoài, lạc đường lạc sá. Khi sinh hoạt theo thế  này c  thể hai đàng cùng hội ý để đồng thời chuyển sang thế nằm  nghiêng. Nữ nhân nãy giờ bị gò b  bây giờ nằm nghiêng sẽ lấy lại  được phần chủ động, tha hồ lắc lư. Nam nhân cũng giải ph ng được 

đôi tay của mình trong việc nâng cả trọng lượng của mình nên c  dịp  nghỉ ngơi, nhường lại việc thao túng cho người bạn tình. 

4. Xưa Võ Tắc Thiên cùng với Hoàng Đế vẫn 

Hành Giản một người họ hà

5. 

thường xuyên dùng lối Ve Sầu Bám Cội  Cây này, chứng tích nay vẫn còn trong  các bích hoạ ở huyện Đông Hoàng thuộc  tỉnh Cam Túc và trong bài phú “Thiên Địa  Âm Giao Hoan Đại Lạc Phú” của Bạch  ng của thi hào Bạch Lạc Thiên. 

THẾ RÙA: RÙA BAY (phép thứ năm trong chín phép) 

  là thế Rùa  ba

ng thế này người nữ phải nằm ngửa, hai chân lên sát vào bụng. 

Ng

người nữ ra và đẩy đùi người nữ cho lên cao chạm tới nhũ bộ (vúù). Lấy  dương cụ cọ sát âm hạch, rồi cho vào dò thử nông sââu. 

hiên ngọ nguậy 

Người nữ lúc này rất cảm thâáy khoái lạc tuyệt cao, tự n ân thể. Âm thuỷ rạt rào cứ theo chổ nào trống thì tràn ra, để cho duơng 

th

cụ được ra vào thong thả. Đợi đến khi nữ nhân trào mạnh ra thì hãy thu  chiến thu binh. 

gười nam rút ra kip, tất giữ được tinh lực khiến thân thể 

Nếu lúc này n

ờøng tráng bội phần. 

GHI CHÚ:

 thế này, khi người nữ cảm                                        thấy khoái  lạ

Trong tư

c mà bình thuờng bị kềm chế đôi chân                                      phải co lên 

cho đến ngực lại bị nam nhân đẩy cho                                         cao thêm tất  nhiên phải lồng lộn, lúc thì uốn lưng, lúc                                                                thì            lắc  mông, hoạt động mạnh bạo không lúc                                                             nào  ngơi.  Người nam phải theo thế khi tung lên,                                                                     khi           đè  xuống, khi đâm bên phải, khi đâm bên tr                                                               ng  đằng vân giá vũ trong trận điên đảo tả tơi. 

ái tuởng như

 con Ô Quy đa

xuân cung sâu nhất vì hai đùi 

Trong thế “Rùa bay” dương cụ được vào ười nữ co lên cao. Đùi càng co cao thì mông cũng càng cao bấy nhiêu 

và âm bộ được phơi bày ra càng thêm ngồn ngộn. Trước mắt người nam 

trông cũng đủ no mắt. Nhiều người nữ cảm thấy e lệ trong tư thế này. 

31

Khoái lạc và trường sinh 

Nhiều nữ nhân nằm theo phép này, âm mao thấy đen ngòm một 

khoảng. Những sợi tơ này không chỉ mọc hạn chế quanh âm hộ mà nh

kh

i lan rất xa. 

Đã c  những dân tộc, vào một thời kỳ nào đ  thích xén cụt những khu  rừng rậm ấy. V

í dụ như ở cổ La Mã ở Cổ Hy Lạp thì lại khác ta c  thể  th

ấy trên bức tượng “Helen of Troy” nàng c  âm mao rõ ràng. 

Âm mao phái nữ cũng như râu ria nam rất quan trọng về sinh lý cũng 

iện nay đã 

như về biểu tượng tính phái cho nên những dân tộc văn minh h

ết chăm s c chải chuốt, vun xới, không cần đợi đến ông thầy tướng n i 

đến chuyện “c  hay không” nữa. 

6. THẾ PHƯỢNG: PHƯỢNG MÚA 

i rằng: “Người nữ phải nằm ngửa cong 

nam nhân nằm giữa hai đùi mình. 

Giảng về thế trên Huyền Nữ n 

chân lên và hơi dạng hai đùi để cho

Na

m nhân chống tay và đưa dương cụ vào xuân cung, mà sát âm hạch. 

Người nữ phụ giúp nam nhân lắc lắc lại khoảng 24 lượt. 

Khoái lạc và trường sinh 

cả hai, không nên do đơn phương tự quyết. Vậy thì tuỳ theo thể lực, sở  thích và kinh nghiệm để đi đến sự hòa hợp. 

Thế Rồng Bay hay thế Phượng cũng là giúp ích cho sự hòa hợp ấy để 

o cả hai đạt được tới cao trào. 

7. THẾ THỎ: THẾ THỎ LIẾM LÔNG 

ề Thế Thỏ, n i rằng: “Thế này  ng

Huyền nữ giảng đến phép thứ bảy v

ười nam phải nằm giữa, duỗi thẳng chân, người nữ xoay lưng lại dạng  chân, ch ng tay xuống nệm, quỳ bằng hai đầu gối co, cưỡi lên nguời  nam, đầu cúi xuống nhòm chỗ đích. Dương cụ nam nhân chà xát vào hai  cánh cửa và âm hạch của xuân cung. Nữ nhân cảm thấy khoái hoạt, âm  thủy rạt rào, đưa dương cụ vào tận trong đến lúc đạt tới cao trào thì hãy  ngưng ngay động tác để cho bách bệnh khỏi sinh ra. 

GHI CHÚ:

 này, nữ nhân c  lúc cúi đầu cong                             lưng xuống 

Trong thế

để

 tự xem mình, trông hệt như con thỏ bạch                               cúi  xuống  liếm lông, liếm bẹn. Người nam nằm duới c                                                        cái hứng thú  là đôi tay được tự do nâng đỡ bộ mông, bộ                                                đùi nguời  nữ và muốn thưởng thức chỗ nào trên thân                                                    thể nữ nhân  cũng được. Nhưng phần linh hoạt phải                                                           nhường cho  nữ nhân chủ động; lên xuống qua lại, bốn phía xoay tròn đều do hạ bàn 

nữ hoạch định. Nam nhân cũng đôi khi phụ lực nhưng nếu xuân cung quá  trơn hoạt thì duơng cụ dễ bị trượt ra ngoài, cho nên, tốt nhất nên để cho  nữ nhân tinh tế nhận xét lúc nào nên nhích lên lúc nào nên nhích xuống,  lúc nào nên nghỉ ngơi, lúc nào nên vũ bão. Chớ nên để cho hứng tình  làm chủ hoàn toàn mà tự tung tự tác làm cho con cá quẩy lội tung tăng  khiến cho dương cụ bị tỗn hại. 

thụ động và đa số phép giao hợp đều để 

Ta nên nhớ rằng nữ tính vốn  nhân nằm dưới mà tiếp thụ; nên khi ở thế này người nữ c  nhiều phát 

nữ

kiến xoay xở, nhiều lúc tựa như nhu nhược, êm ái; nhiều lúc áp dụng áp  lực nặng nề khiến cho nam nhâân hưởng được hưởng nhiều cảm khoái  khác nhau bằng những cường độ kích khích khác nhau. 

8. THẾ CÁ: CÁ TIẾP VẨY 

- Người nam cũng phải nằm ngửa duỗi thẳng  ha

Thế này, - Huyền nữ n i  i chân để cho người nữ quay đầu về phía mình, dang chân cưỡi lên. 

Người nữ lựa chiều hạ bộ mông mình xuống từ từ, cho hai cánh của xuân  cung mở ra đ n dương cụ. Nên nhớ là phải từ từ và đừng vội vã cho vào  sâu ngay. Hãy làm như cách đứa trẻ ngậm đầu vú mẹ. Người nam cũng  chớ hấp mà hẩy vào ngay. Người nữ cứ thong thả mà hoạt động, tuỳ thời  tuỳ lúc, tuỳ hứng. Khi nam nhân thấy nữ nhân đạt được cao trào thì hãy 

rút còi thu binh để cho thu đuợc phần dưỡng sinh, tiêu bệnh. 

33

Đôi nhũ hoa rất c  quan hệ đến tính                                            giao. Đạ phàm nhũ hoa bị chạm thì cảm  g tơí tận hạ bộ. Mà nam nhân nào trô nhũ hoa cũng muốn đưa tay xoa nắn,                                                thế  nàøy  khác với thế thỏ liếm lông chỉ ở chỗ ấy.                                      Trong  thế  Thỏ thì người nữ đưa mông lại  phía                                           nam  còn  như trong thế Cá thì người nữ quay                                            mặt để  nhìn mặt người nam để lộ hai nhũ hoa, dù to, dù nhỏ, cũng muốn cho  người nam xoa nắn. Càng được xoa nắn                                   cung càng  tràn ứa. Cả hai điều được đi đến chỗ no đ                                   

bao nhiêu, xuân 

ủ, thoả mãn tình ý. 

Khoái lạc và trường sinh 

GHI CHÚ: 

1. Trong thế này, nữ nhân vốn nhu 

hòa,  thụ  o việc thi hành tính giao,                                                                         nay đuợc  n chủ động nên rất cao                                                                            hứng, tuy 

động tra nắm phầ nhiên thiên tính nữ vẫn nhuần nhã                 từ tốn.  Còn nam nhân, được lợi thế chờ                                                                           đợi,  ngắm nhìn nữ nhân hoạt động,                                                                                    hai  tay  cứ việc thưởng thức sờ soạn toàn                                                                        bộ sau,  bộ trước của nữ nhân. Nữ nhân đuợc nam nhân xoa nắn mông đùi  nhũ hoa như thế càng lúc càng cảm thấy phấn chấn rào rạt, quên cả  thiên tính ôn nhu, cũng học tập làm   hật chẳng  khác gì hổ mọc thêm cánh, cá được                                                        tiếp vây. 

anh hùng dũng mãnh, t

Đ  là ý nghĩa đặt tên cho phép này. 

2.                                                                                                                       i 

iác                                   cũng lan  ng         thấy bộ 

9. 

THẾ HẠC: HẠC GÁC CỔ 

H                                                                                                     Gác  Cổ”. 

uyền Nữ tiếp tục giảng đến phép cuối cùng là thế “Hạc 

Người nam ngồi theo kiểu quỳ chân xuống, hơi dạng hai đầu gối ra để đỡ 

ười nữ cũng dạng hai đùi và hai tay quàng  qu

bộ mông nữ nhân ngồi lên. Ng

anh  cổ người đàn ông đồng thời để xuân cung hạ thấp xuống cho 

dương cụ chà xát âm hạch trước khi cho dương cụ được phép vào khám  hiểm trong tuyệt cùng sâu thẳm của xuân tình. 

Nữ nhân, trong thế này, cảm thấy khoái lạc, lúc âm thuỷ nhỏ giọt là lúc  sướng khoái lên đến cao độ. Lúc ấy biết kềm chế đình chỉ để tránh xuất  tinh thì vạn bệnh thất thương đều trị tuyệt, con

người ta sống thêm tuổi 

ọ, khang trang mạnh mẽ. 

GHI CHÚ: 

1. Huyền nữ lại n i thêm đế

n các phép ngoại                                         như  ập Pháp” của Động Huyền Tử                                                                      hoặc 

“Tam  Th

u Pháp” của Đạt Ma xưa đã từng                                         truyền 

“Song T cho Thuận Trị Hoàng Đế. Những phép này                    cũng  do  chín thế của Tố Nữ Kinh mà biến đổi. Tố                                                               Nữ Kinh  mục đích viết ra để cho người muốn tập                                                                 dưỡng  sinh biết đường mà cầu học không ép xác                                                             mà được 

34

Thế Hạc thì           10 lần cạn  7 lần sâu  n thế Rùa và            ấy ghi. (Tr  Rồng người Nam thì phải theo tỉ lệ 8 lần 

Khoái lạc và trường sinh 

hưởng khoái cảm thiên nhiên dành sẵn cho thân thể. Dưỡng sinh là  cầu khang kiện và trường thọ, lại cũng cho hòa hợp tâm thần, nữ cũng  như nam biết được điều khoái cảm. Vì thế trong sách này không chỉ  bảo các tập thế dùng cho trường hợp hai nam một nữ hoặc ngược lại.  Lại n i danh xưng của các thế, thì trong Tố nữ kinh cùng Song Tu  Pháp cũng từa tựa như nhau, cũng thế Long, thế Hổ, thế Ngư, thế 

Phụng.v.v…

Riêng  trong  Song  Tu  Pháp  không  cầu sự hoà hợp và 

khoái cảm của nữ nhân chỉ cầu mục đích của nam nhân nên chú trọng  thời khắc của “vị khác đến thăm xuân cung” nhiều hơn. Song Tu Pháp  ghi rằng: 

Thế Rồng thì   8 lần cạn   5 lần sâu 

Thế Hổ thì             5 lần cạn   3 lần sâu 

Thế Vượn thì   9 lần cạn   6 lần sâu 

thì                          

Thế Ve sầu           10 lần cạn  4 lần sâu 

ì  

Thế Phượng th 6 lần cạn   2 lần sâu 

Thế Thỏ thì           4 lần cạn   1 lần sâu 

Cò                       thế Cá không th                   ong Tố Nữ Kinh c  n i đến  thế          cạn 2 lần sâu). 

gác cổ 

CÁC PHƯƠNG THỨC YÊU NHAU 

CHO KHOẺ MẠNH CƯỜNG TRÁNG. 

Các phương thứ                                                               khỏi tổn thương,  bệnh hoạn. 

c yêu nhau để chữa trị  cho  nhau

Ngoài chín phép hay tư thế đã được lược trình ở trên còn tám phép 

m cho thân thể thêm cường tráng, bách bệnh tiêu trừ gọi là “Bát Ích” –  tám điều lợi 

ích – lại c  bảy phép gọi là “Thất Tổn” – bảy thứ suy kém – 

để

 chỉ bảo cho nam nữ cách chữa trị căn bệnh làm suy mòn thân lực. Tất  cả những phép trên đều căm cứ vào mục đích làm cho âm dương điều  hòa, dụng kỹ thuật tính giao mà làm cho nam nữ được thú sướng kiên cố  mà trị bệnh và cầu mạnh khỏe sống lâu. 

35

Khoái lạc và trường sinh 

Căn cứ vào Đông Y, phân thành nội ngoại thì bên trong con người ta  c  ngũ tạng và đ  là gốc rễ để cho ngoại hình (dáng dấp bên ngoài) của  ta phát triển. Cả hai nội ngoại bổ cứu, điều hòa thì thân thể ta sẽ được  cư

ờng tráng, vô bệnh, sống lâu. 

Trong sách “Hoành Đế Nội Kinh Tố Vấn” c  n i rằng:  “Tâm khỏe thì máu đỏ tươi nhuận, Phổi khỏe thì da mở, lông trơn, Gan 

cứng rắn; Tỳ khỏe thì thịt dai, môi đỏ, 

khỏe thì gân mạnh, m ng chân 

Th

ận khỏe thì xương thẳng chắc, t c râu rậm mướt”. 

Bát Ích Pháp chính là để giúp cho Tâm, Phế, Can, Tỳ, Thận bổ khỏe  ngõ hầu con người ta được vui hưởng cái sức mạnh, sự bền bỉ sáng suốt  mà ngũ tạng đã là nguyên động lực. Tư thế nam nữ

 áp dụng trong Bát 

Íc

h Pháp này cũng là do “Chín Thế” đã trình bày ở trên mà biến h a ra và 

c  nhiều phụ thế nằm nghiêng hơn là ở các “thế mẹ” nguyên thủy. Người  nữ trong “Bát Ích Pháp” thường phải co đầu gối, dạng đùi ra lưng phải  dẻo để xoay chuyển hợp tác vận động. làm cho đung thì lợi ích vô kể, c   thể n i rằng kéo dài được thời thanh xuân và tới già vẫn thiếu tráng. 

1. BÁT ÍCH 

1.1 Cố tinh (Bền bỉ tinh khí)  Người nữ nằm nghiêng, xoạc hai đùi, đùi trên cong cong lại vào thân 

ân cũng nằm nghiêng, đối mặt với bạn tình. Dương cụ ấn  sâ   18 lần liên tiếp. Hết số đ  thì ngưng,  dư

mình. Nam nh

u vào mật cung, rút ra ấn vào ỡng thần. 

Mỗi ngày “luyện tập” hai lần như vậy. Tập như vậytrong 15 ngày thì  nam nhân dịch đầy đủ; nữ nhân trừ được bệnh nguyệt qúy tháng tháng  xuất ra nhiều 

hơn bình thường. 

1.2  An Khí (Luyện khí khỏi vọng động, thần thái nhẹ nhàng)  Người nữ nằm ngữa, đầu gối trên một chiếc ghế cao, hai chân dang  thẳng, dạng đùi, nam nhân quỳ xuống giữa hai đùi người nữ, phủ lên  ng                                                               ào 27  lầ

ười nữ và cho dương cụ xâm nhập vào xuân cung, rút ra cho v n. đúng số này thì rút lui (để trách xuất tinh). Được như thế tâm thần sẽ 

được an tĩnh, phong thái sãng khoái, thơ thới, không biết âu lo, bồn chồn.  Nữ nhân cũng được lợi, khỏi chứng lãnh âm, một bệnh diệt trừ khoái cảm  giao hợp mà nhiều nữ nhân mắt phải. 

Pháp này phải áp dụng ngày 3 lượt; liên tục trong hai chục ngày, sẽ 

thấy kiến hiệu. 

1.3 Lợi Tạng (Bổ ích cho ngũ tạng  

Người nữ nằm nghiêng hai đùi co lên, để lộ toàn bộ phía mông. Người  nam nằm nghiê

ng phía sau đưa dương cụ vào mật cung, ra vào 36 lượt.  Rồ theo lối úp thìa). Mỗi ngày thực  hà

i thu quân (thế này ta quen gọi là nằm nh 4 lần. 20 ngày sẽ thấy kiến hiệu: trai thì tâm bình, khí hòa, nữ thì 

tuyệt chứng lãnh cảm (lợi ích cũng như phép 2). 

36

Khoái lạc và trường sinh 

1.4 Cường Cốt (Mạnh xương, gân) 

Người nữ nằm nghiêng. Đùi bên trái co lên bụng. Chân phải duỗi  thẳng. Người trai nằm lên trên, hạ bụng đè  lên  mông  người nữ đưa  dư      i rút lui luôn. ơng cụ vào mật cung, ra vào 15 lần rồMỗi ngày thực thi 5 lượt như thế, trong mười lăm ngày, nam nữ sẽ thấy  gân xương khoan khoái, thân thể nhẹ nhàng. Người nữ bị chứng bế kinh  (nguyệt bảo chậm hoạt không ra được) cũng khỏi. 

1.5 Điều Mạch (Thống huyết) 

Người nữ nằm nghiêng về bên phải, co chân phải lên vàduỗi thẳng  chân trái. Người nam nằm phục lên trên ôm lấy người nữ và liệu chiều  ch     t cung, ra vào 54 lần. Mỗi ngày 6 lượt  tro

o dương cụ thâm nhập vào mậ ng  24  ngày. Được vậy tâm mạch sẽ đều đặn, khí huyết lưu 

thông;người nữ thì khỏi chứng bị đau âm đạo, đau dạ con. 

Phép thứ năm này cùng với phép thứ tư giống nhau, chỉ khác ở thế 

nằm người nữ nghiêng về trái hay nghiêng về phải mà thôi. 

1.6 Súc Huyết (Nuôi máu) 

Người nam nằm ngửa trong tư thế đ n chờ (hoặc bị động). Người nữ  qùy trên người nam, hai đùi dang ra hai phía háng nam nhân và ngồi  xu     âm  nhập vào mật cung. Nữ nhân nhấp  xu

ống để dương cụ tự  do  th

ống, nhổm lên cho dương cụ vào ra 63 lần rồi đình chỉ hẳn. Mỗi ngày  thục hành liên tục trong mười ngày. 

Phép này làm cho người nam khí lực tráng kiện, người nữ điều hòa 

nguyệt quý. 

ờn, tinh khí nam, nữ)

1.7 Ích Dịch (Bổ ích các hạch nh                                         

Trong các phép này người nữ úp sấp, hạ thể đè lên một chiếc gối để  bộ mông đượ

c nâng cao. Khẽ hé đùi. Người nam chống tay, qùy gối nằm  trê72 lần rồi thu  qu

n người nữ và cho dương cụ hoạt động vào ra mật cung  ân. Mỗi ngày tập dượt 8 lượt trong vòng 10 ngày liên tiếp. Trong Tố Nữ 

Kinh nguyên bản không n i rõ phép này tập dượt mỗi ngày mấy lượt,  song xét ra phép thứ sáu phải thi hành mỗi ngày bảy lượt và sau phép  thứ 7 này, tức là phép thứ 8, nam nữ phải tập luyện tới chín lần mỗi ngày,  thì ta đoán được phép thứ 7 này đòi hỏi tám lần một ngày. 

Nam, nữ theo đúng phép này sẽ được cường lực, thận bộ kiên cố (bổ 

thận). 

1.8 Đạo Thể (Thông sạch thân thể) 

Theo phép này người nữ nằm ngửa, hai chân quặp về phía sau, uốn  cong người lên. Người nam chống tay nằm phủ lên người nữ, đựa dương  cụ        i.  vào xuân cung, ra vào 81 lần rồi rút luMỗi ngày thao diễn như vậy 9 lượt liên tục trong chín ngày. Theo phép 

này người nữ trị đuợc bệnh xuân cung c  mùi hôi hám. 

37

Khoái lạc và trường sinh 

Theo phép này người nữ phải quặp chân ra sau để uốn cong hạ thể, lại  bị động chịu trận cho người nam luyện tập nếu không cảm thấy khoái lạc  thì tất nhiên thấy đau đùi mỏi vế vô cùng. Nhưng theo Tố Nữ Kinh, nếu  không theo đúng phương pháp mà thực hành thì không thể nào trị được  mùi ác xú cả trong bộ phận của nữ nhân cả. 

GHI CHÚ: 

1. Trong Phương Đông Học từ xưa ai cũng biết rằng: nội tráng tất ngoại 

ên trong – ý chỉ các tạng phủ – mà được khỏe mạnh, thì bên 

cường (B

ngoài sẽ kiên cố. Cho nên c  rất nhiều môn tu học cốt làm sao cho  thân thể kiên khang hầu tiến đến chổ bất tử. Các phái võ Thiếu Lâm,  Võ Đang. v.v… ra đời cũng vì mục đích ấy. Trong các tư thế thượng  thừa được chấp nhận c  môn Bát Đoạn Cẩm tức là một môn nội công  của Thiếu Lâm phái. Học môn này tức là thực thi những tư thế mà  giữa nguyên phần hạ thể và hai tay mà làm các động tác mà thôi. 

Cửu thế và Bát Ích mang đến cho mọi người  nguồn sinh lực, sự hòa muốn diên niên trường thọ. Còn việc sửa đổi tình  trạng yếu kém, chuyên về điều trị sức khỏe và các  chứng bệnh thì lại c  bảy phép khác gọi là “thất  tổn” (như vậy, tổng cộng là: 9+8+7 =24 tư thế). 

Sau đây là những tư thế trong thất tổn. 

2. 

THẤT TỔN  .1  Tuyệt Khí 

2

Tuyệt khí là chứng bệnh thiếu khí, mồ                                      hôi  nhiều,  tim         oa,  nguyên  nhân  do                                                                          những sự  mi

n ng,  mắt  h

ễn cưỡng (cố gắng nhiều lần) giao hợp                                   mà sinh ra.  Y học Trung Hoa lấy khí làm quan                                                                trọng nhất  nên khí chỉ thiếu một chút làm sự sống củ                                                           ị đe dọa rồi,  đừng đế

a con gnười đã b

n là đi đến chỗ tuyệt nữa. 

38

Khoái lạc và trường sinh 

Để chữa trị chứng bệnh này, người nữ phải nằm ngữa để người nam  nâng hai đùi lên và cho vào dương cụ. Thế này tương tự như thế vượn  leo song c  điều khác là người nữ phải chủ động, người nam đừng nhúc  nh

ích để dương cụ nằm yên trong xuân cung. Người nữ chỉ việc chuyển  động tuỳ ý thích đến khi thấy xuân thuỷ rạt rào thì thôi, chớ để người nam  ra theo. Mỗi ngày hãy giúp đỡ nam nhân như thế chín lượt, liên tục trong  mười ngày, tất chứng tuyệt khí sẽ hết. 

2.2 Dật Tinh 

Dật tinh tức là sự ham muốn                                                    quá độ,  âm  dương không thuận, không mãn ý                                                                      hoặc          là  ph      ơm no rượu say                                                                                       nên            khí  lo

òng  sự  lúc  c

ạn, tổn phế tạng, gây nên sự                                                     n ng  giận  bất thường. Chứng này phải trị                                                                        ngay  không  thể kiên trì (chểnh mảng để lâu)                                                                     được vì khí  ngày càng vọng động càng thiêu đốt, làm mắt hoa bụng trướng, hen  xuyển v. v… Để lâu sẽ đi đến chổ bất lực. 

ân cong vòng (như ngồ

Hãy để nữ nhân nằm ngửa hai ch                                             ắp bàn tròn)  quặp lấy người nam. người nam ngồi xuống đưa dương cụ vào xuân  cung, nhưng chớ đưa toàn bộ vào, đưa 

độ hai phần ba thôi (một tấc  rư

ỡi). Nữ nhân sẽ ngúng nguẩy, lắc xoay, sàn bộ mông. Người nam giữ y  thế của mình, chớ động cựa. Chừng nào ngươì nữ thấy xuân thuỷ tràn  đầy thì đình chỉ không sàn nữa, tránh đừng để cho người nam xuất tinh  ra theo.  

Mỗi ngày hành sự chín lần liền trong mười ngày, chứng Dật tinh sẽ trị  khỏi. Trong phép này, phải để cho người nam nhàn dật, bớt dụng sức. 

iết ý nam nhân chớ để nam nhân thỏa mãn mà bị “tảo tiết” (ra 

2.3 Đoạt Mạch 

Mạch bị đoạt nghĩa là toàn thể tinh mạch ở trong trạng thái lộn xộn,  không còn chạy theo đúng phương vị của chúng nữa. Kết qủa của chứng  nà       òng  the  là  dương cụ quá cường dật khiến cho c   trư

y  trong  thuật  ph

ờng hợp bán đồ mà đã xuất hay tệ hại hơn, kh c ngoài biên ải. Bệnh  lâu thành bất lực. và tinh khí khô kiệt. Nếu cứ cưỡng mà tiếp tục hành sự  thì Tỳ tạng thương tổn, sự tiêu h a không còn bình thường được nữa. 

Để chữa trị chứng này, nữ nhân dùng vị thế nằm ngửa, hai đùi cặp vào  hai bên hông của nam nhân. Nam nhân dùng hai tay đỡ sức nặng của  thân mình bằng cách chống xuống giường, thân mình chồm lên phía tr

ên  củ

a nàng. dương cụ từ trên đâm xuống. Chỉ c  nàng là chủ động xoay trở 

trong tư thế này, sàng xẩy, đong đưa, tuyệt nhiên chàng không chủ động.  Đến khi nàng tình xuân mãn ý thì dừng lại ngay và bắt chàng rút ra ngay.  Tuy không đến tuyệt đỉnh Vu Sơn nhưng chàng sẽ trị được căn bệnh của  mình. Mỗi ngày thực tập chín lần, trong mười ngày thì căm bệnh tự nhiên  sẽ khỏi. 

39

Khoái lạc và trường sinh 

2.4 Khí Tiết 

Khí tiết vì nguyên nhân ham                                                     hành  lạc  trong  lúc  mệt mỏi, ví dụ vừa làm                                                                                công  việc  nặ chưa kịp nghỉ ngơi                                                                                              lấy lại sức  đãị bì 

ng nhọc xong

vội vã nhập phòng, nên chi tinh                                              thần  b

quyện (u mê không linh hoạt), mồ                                                hôi ra như  tắm, bụng càng đầy như bị báng                                                                           (cổ trướng). 

nằm ngửa, xuôi tay c

Để chữa trị chứng này, người nam                                           hân cho thư  thái để nữ nhân quay đầu về phía nam nhân, quỳ xuống, hai đùi áp sát  sườn nam nhân rồi từ hạ mông xuống m                                                                                                   n dương cụ 

ở cửa mật cung đ  và

o. Chớ cho sâu hẳn, giữ lại nữa chừng rồi lúc lắc. Khi người nữ cảm 

thấy xuân thủy rạt rào thì phải thôi ngúng nguẩy và tạm rút lui. Làm như  vậy trong mười ngày, mỗi ngày chín lần. bệnh khí tuyết sẽ khỏi. 

Thế này tương tự như thế thỏ liếm lông nhưng khác một điều là người  nam phải giữ thế yên vị, người nữ phải nhổm mông không được đè sát. 

Vì thế này nhấp nhổm nên người Trung Hoa gọi thế này là “cúi đ

ấu

” (Đảo thái liên hoa - quay đầu lại hái sen). 

2.5 Cơ quan hay là Quyết thương 

Quyết thương hay còn gọi là nghịch khí thuộc  chứng bệng về nội tạng. Bị huyết thương thì đại tiểu 

duổi dài thoải mái.  người nam. Chống  xuân cung. Mông l

hịt tiêu hao, gan, thận suy kém c  

tiện kh  khăn, da t

th

ể đi đến chổ dương suy, âm suy (liệt dương, liệt 

âm), nặng c  thể không còn đứng ngồi được. Muốn  chữa bệnh này, nam nhân phải nằm thẳng, tay chân 

gười nữ quay lưng lại ngồi xuống cưỡi lên hai vế  y rồi từ từ hạ bộ mông xuống cho dương cụ lọt vào  ng uốn éo tuỳ nghi đến khi tràn trề xuân thuỷ thì 

ta ư

ngừng. chớ để người nam vận động và ra theo. Mỗi ngày chín lần liên  tiếp trong mười ngày thì bệnh tật khỏi. 

1. Điều nên nhớ là phép thất tổn đều c  mục đích là đem sự giao hợp  chuyển thành phương pháp chữa bệnh -nhưng bệnh luôn luôn c  liên  quan đến tính giao hợp vì tham lam người nam phải chịu thua thiệt là không bao giờ được phép hưởng  khoái lạc đến mãn túc, và người nữ cũng phải biết tự mình rào rạt  xuân tình đến cao độ mà vẫn giữ cho nam nhân trách khỏi sự xuất  tinh. Được như vậy thì hai bênh tinh dịch sung mãn, khí huyết lưu  thông trường nhuận, sự hô hấp dễ dàng, bệnh tật khỏi lại thêm cường  tráng thân tâm. 

qúa độ hay vì nghịch lý -cho nên 

Tố Nữ Kinh còn ghi rằng các thể vị chữa bệnh nêu trên cần thực thi  với nữ nhân trẻ trung xuân tình dào dạt, càng xinh đẹp càng hay. 

bệnh mỗi lần hành sự thì thay nữ nhân khác. Xét cho 

Trong khi chữa  cùng điều này ngày nay không ai làm được mà Tố Nữ Kinh ghi ra là để  cho người c  phương tiện không cảm thấy nhàm chán mà thôi. Không 

40

Khoái lạc và trường sinh 

thể thay bạn tình mỗi lần thì ta thay cái tâm lý nhàm chán của mình  rằng đây là phương thế chữa bệnh không kh  khăn mà lại thêm khoái  cảm, mặt dù c  trường hợp khoái cảm chỉ mới nữa chừng. 

.6  Bách B__

2                     

ốûn thất thứ sáu gọi là Bách Bế                                             tức  là  các  ờng kinh mạch trong con người bị                                                                    n T

Người Trung Hoa cho rằng của sự buông thả của nhiệt tình. Cặp mắt mà tròng đen c  viền ánh  lên màu anh hoa (đen pha nâu) thì biếu lộ tính khí vượng thịnh, dồi  dào, nội tạng mạnh mẽ, kiện khang, không bị tổn hại, sinh h dục rất bình thường.  

Muốn cho  cường tráng, không bị bệnh.Chương này đưa ra nguyên tắc “nghiêng  trút mà không đổ”(dốc nhi bất tiết), nam nhân phải giữ đ làm mối  chánh.Nguyên tắc này lại dưa  giao hợp, không phải là thể vị để làm tăng khoái cảm giao hợp mà là  để chữa các bệnh trạng sanh ra do giao hợp quá nhiều.  

Khoái lạc và trường sinh 

nhân ở trên tạo thoải mái cho nam nhân, không cần phí nhiều sức lực. 

Chỉ c  tổn thứ bảy là cần vị trí của nam nhân ở trên mà thôi. 

Tất cả các thể vị để trừ bảy tổn là để cho nữ nhân nắm vai trò chủ  động, chủ động việc tạo khoái lạc và chủ động không để nam nhân  xuất tinh. Các vị trí này thay đổi khác nhau là để thay đổi vị thế kích  thích kéo dài thời gian giao hợp…. 

3. Y học Trung Quốc cho rằng con mắt và lá gan là hai cơ quan cảm ứng 

đối với nhau, liên hệ nhau mật thiết, cho nên thường thường bệnh gan  thì mắt hoa choáng váng. 

4.                                                             ửa sổ (song bộ) của nội tạng, phản 

Người Trung Hoa cho rằng mắt là c ánh tình trạng của các cơ quan.Mắt cũng là cửa sổ của tính ái, trạng  thái tình dục. Điều xác định này rất phù hợp với y giới cận đại. 

5.                                                tròng đen của mắt mà thật đen là biểu hiện 

oạt tình 

Nếu tròng trắng mắt c  màu anh hoa thì đ  là biểu hiện của nhiệt tình  sung mãng, mạch máu vận hành điều hòa, sức khỏe tốt. Đối với loại  nữ nhân này âm hộ luôn luôn c  ôn độ thích hợp (âm ấm), luôn luô n  sẵn sàng cho cuộc m mẽ. 

ây mưa vì sự ham muốn về tính dục rất mạnh 

Nữ nhân mà mắt nháy mãi không thôi tức là biểu thị tính dục bị nguy  kịch không còn thích thú nữa. Mắt gan liên quan nhau nên gan bị bệnh  thì tâm bất an, mắt nháy chớp. 

8.                    đời sống tình dục mạnh phải để cho nội tạng mạnh mẽ, 

trên thể vị chủ động của nữ nhân lúc 

Ngoài cách giao hợp các thuốc bổ cũng rất cần thiết.Nếu tinh thần bị  giảm yếu thì phải thường dùng bồ câu để cho tinh khí trở lại mạnh  mẽ.Đời đường Võ Tắt Thiên đã bảy mươi tuổi mà tinh lực vẫn còn 

mạnh vì bà ngâm rượu bồ câu gọi là “Võ Hậu Tửu” loại r sách “Võ hậu ngoại truyện” c  nhắc tới. 

“Rượu Võ Hậu” gồm nguyên liệu đã được bào chế như sau:  - Rượu trắng dùng để đốt n ng một con chim bồ câu sau khi đã bỏ  lông, chặt bỏ đầu và vứt bỏ tất cả bộ đồ lòng. 

-  50 grm Hà Thủ Ô. 

- 10 grm lộc nhung (gạc nai n n) 

-  100  grm nhân sâm triều tiên. 

42

Buổi sáng trước khi ăn sáng nữa giờ uống một lần. Dùng xác thuốc  còn lại cho thêm nước vào nấu lại để uống n đi ngủ (ngày uống hai lần)  .Ngày xưa người t tính giao. Hồ đào còn c  tính chất làm cho ngủ ngon(trị bệnh và chữa được vài trường hợp suy yếu thần kinh. 

mất ngủ)  

Khoái lạc và trường sinh 

Tất cả bỏ vào một cái tô, đổ thêm rượu trắng vào. Đốt lửa ở dưới tô  nấu trong vòng năm mươi phút. Xong để nguội. Đem phơi nắng vài ba 

ờ                                  à không khí. Đoạn cho thêm rượu vào và nấu  t, lại để nguội và đem phơi nắng 

giđể lấy hơi sương v

lần nữa trong khoảng ba mươi phú

ươi phút thôi. tất cả được đem 

một lần nữa. Lần này khoảng hai m ng m vôợu, thêm một chút mật o chỗ mát (lấy hơi ấm).Ba tháng sau rượu đã c  hiệu lực, dùng đưọc.  mỗi ngày uống một ly nhỏ thì chẳng những vấn đề sinh lý mạnh mẽ  mà các chứng bệnh do sinh lý quá độ cũng không thể phát sinh. Rượu  Võ Hậu c  tác dụng thức dùng đúng thời tiết theo phương pháp luyện  cho thân thể khang kiện của tiên gia: mùa xuân thì dùng ý dĩ nhân,  mùa hạ thì dùng đậu xanh, mùa thu thì ăn hạt sen, mùa đông thì ăn  đậu phụng. Mỗi thứ ăn ba tháng trong năm. 

â        rư                                           ng. Niêm phong thật kín để trong 

.Gần đây, ý dĩ nhân được dùng để phòng ngừa ung thư như trong y  học mới.Ý dĩ nhân còn là thứ dược liệu dùng để bổ gan, lợi tiểu, giúp  cho bao tử tiêu h a mạnh mẽ.Ý dĩ nhân còn c  công dụng ở các bệnh  khác. Chẳng hạn bệnh mồ hôi chân, bệnh đường tiểu, bệnh bạch  đản.Dối với các bệnh này bào chế như sau:  – Ý Dĩ Nhân một lượng 

– 4 grm cam thảo 

– đổ vô hai chén nước, nấu trong nữa giờ còn lại nữa chén. 

ước nhì nữa giờ trước khi 

11                               a hay dùng hồ đào vì hồ đào là loại rất bổ cho việc 

Ông Thái Nhất Phan n i rằng muốn cho dương vật cường tráng thì ăn  hồ đào cả vỏ. Lần đầu ăn một trái, cách năm ngày tăng thêm một trái  nữ a, cứ như vậy cho tới kh hiệu qủa trông thấy: thằng nhỏ cứng, n ng lúc nào cũng sẵn sàng lâm  trận. 

i ăn mỗi ngày hai mươi trái thì mỗi ngày thì 

BA MƯƠI VỊ THẾ GIAO HỢP 

(Theo đạo gia Động Huyền Tử tiên sinh) 

C                            ương luận lý về vị thế tính giao do ông Động Huyền  Tử tiên sinh là người theo trường phái Đạo Gia, tên thật là Trương Đĩnh. 

hương này là ch

Ba mươi vị thế là những vị thế rất cơ bản trong sinh hoạt phòng trung,  so với cửu pháp đã n i ở các chương trên là hơi lhác đôi chút nhưng đại  để thì giống nhau. Chỉ khác mục đích Cửu Pháp c  mục đích dưỡng sinh,  Tam Thập Pháp (ba mươi thế vị) trái lại lấy sự khoái cảm làm cơ bản. 

43

Bốn trạng thái trên là b ông ai mà không c . Các hình thức sau đâ 

Khoái lạc và trường sinh 

Động Huyền Tử tiên

sinh n i: 

“Giao tiếp đí                                                                           , kỳ trung hữu  tiền hậu khuất                                                                                                    . tuy nhiên đại  th

ch tư thế, đại ước bất xuất tam thập chủng trập, thượng hạ, phủ ngưỡng, đẳng đẳng…

ể tương đồng, khước dã kỷ cương la nhất thiết phương pháp, tơ hào  một hữu di lậu đích.” 

Nghĩa là: “Tư thế giao tình không ngoài ba chục kiểu, trong đ  co,  thẳng, nằm trên, nằm dưới, đằng trước, đằng sau, đại đồng nhưng tiểu dị.  Đem ba mươi kiểu này làm cơ bản thì bao gồm các kiểu khác, không còn  kiểu nào khác hơn”. 

TỰ TRÙ MÂU 

Quấn quít, nam nữ quyện lấy nhau. 

2. THÂN KHIỂN QUYỂN 

ắm tay nhau vuốt ve. 

Nam, nữ thân mật n

3.

BẠO TỰ NGƯ 

Khi người nữ hứng tình, âm hộ cương lên, cứng gồ giống như cá cong 

mình nhảy vượt lên trên không trung. 

4. KỲ LÂN GIÁC 

ương cứng, cong mu lên như hình  sừ

Như trên, nghĩa là âm hộ nữ nhân c ng con kỳ lân. 

ốn hình thức sửa soạn trước cuộc giao tình 

kh                                                                       y mới là vị thế giao hợp. 

5. TOẢN MẶC CẨ

Nữ nhân nằm ngữa, hai tay choàng qua cổ 

nhân.  nhân về phía mình. Trong  m choàng lấy cổ nữ nhân, 

nam nhân, kẹp hai chân lên lưng nam Cả tứ chi kéo nam khi đ  nam nhân ô

th

ân mình choàng xuống giữa hai đùi nàng. 

dục đối mặt. Đâm vào nhau.

Hai cơ quan sinh 

6. LONG UYỂN CHUYỂN 

trước. Nam nhân qùy

ía sau của hai đầu gối đẩy về phiá trước. C  khi đùi nữ nhân đụng được nhũ hoa, ở vị trí  trình bày tư thế sẵn sàng nghinh đ n dương vậ

44

Khoái lạc và trường sinh 

7. NGƯ TỈ MỤC 

Hai phái nam nữ nằm ngang. Nữ nhân gác một  chân lên mình nam nhân. Miệng và miệng kề nhau.  Nút lưỡi. Nam nhân khi hứng tình đưa một tay kéo  đùi nữ nhân giơ hơi cao lên trong khi đ  hai chân 

mình vẫn thẳng hàng. Dương vật đâm xuyên vào. 

8. YẾN ĐỒNG TÂM 

gữa, lưng sát giường, hai 

Nữ nhân nằm n

ân hơi dạng ra và đưa lên trên không.  Nam nhân nằm úp lên trên bụng nữ nhân  hai tay choàng qua sau cổ người bạn  mình. Nữ nhân cũng vậy ôm lưng nam  nhân, kéo mạnh về lòng mình. Dương cụ 

ch

âu càng tốt. 

càng đâm vào càng s

9. PHỈ THUÝ GIAO 

Nữ nhân nằm ngữa, lưng sát giường,  chân hơi dạng ra và đưa lên trên không. Hai cong lại. Nam nhân ngồi phía dưới, hai đ dang ra kềm hai đùi của nữ nhân. Hai tay  chặt eo ếch của bạn. Cử chỉ này v

âm hạch của nữ nhân để 

vừa kích thích vùng  gợi hứng tình. 

10. UYÊN ƯƠNG HỢP 

Nữ nhân nằm nghiêng. Nam nhân nam  phía sau, hai đùi ở giữa hai đùi nữ. Đâm từ  phía sau tới chêng chếch. 

11.  KHÔNG PHIÊN DIỆP 

45

Khoái lạc và trường sinh 

12. BỐI PHI CƯU 

Nam nhân nằm ngữa, banh hai chân ra.  nhân ngồi lên vị thế như trên nhưng đưa lư về phía mặt của nam nhân (ngược lại vị  trên), đầu hơi cúi xuống n

để âm hộ căng ra hơn. 

13.  ÁN CÁI CÔNG 

Nữ nhân nằm ngữa hai chân giơ lên  không và sát vào nhau, duỗi song song.  Nam nhân ngồi hay đứng ở phía dưới  hậu thân của nữ,  hai  tay  ôm  eo  nam. 

Đâm thẳng vào. 

14. LÂM ĐÀN TRÚC 

Nam nữ đứng thẳng ôm nhau như hai c hôn lên miệng, phía dưới dương cụ đâm th

ây tre trong một bụi tre. Miệng  ẳng vào âm hộ. 

15.  LOAN SONG

VŨ 

Hoặc nam nằm sấp, hoặc nữ nằm úp lên nam, vị thế là hai bên chồng 

lên nhau và đối mặt. Hai cơ quan đối diện nghinh tiếp nhau. 

16. PHƯỢNG TƯƠNG XU 

thể to lớn mà giao hợp với nam nhân mảnh dẻ thì 

Nếu nữ nhân c  thân

ng thế nam nhân nằm trên. Vị thế và hình dạng này giống như phượng 

hoàng ôm con vào lòng cho con bú. 

17. HẢI ÂU DỰC 

Như đàn chim xòe cách, nam nhân đứng  dưới giường nắm hai chân nữ nhân đang  nằm trên giường mà banh ra

. Đâm vào. 

46

 một đùi của nữ nhân lên cao, một tay câu cổ nà kéo để trình ra âm hộ. Đâm thẳng vào.  

Khoái lạc và trường sinh 

18. DÃ MÃ ĐỀ 

Khoái lạc và trường sinh 

24.  CÔN KÊ LÂM TRƯỜNG  Nam nhân ngồi ở cạnh giường. Một thiếu nữ nhân khác sờ nắn khắp châu thân nam nhân. 

 ngồi lên đùi mình, một nữ 

25. ĐƠN HUYỆT PHỤNG DU 

Nữ nhân nằm ngữa,  hai  tay  kéo  hai  châ mình về phía trước. Nam nhân quỳ phía hậ thể của bạn

n  u 

ngã chân về phía trước, hai tay 

chống xuống giường ngăn chặn sức nặng của 

chếch về phía 

trư mình đè xuống nữ nhân. Đâm

ớc. 

26. HUYỀN MINH BẰNG CHỨ 

Nữ nhân nằm ngữa, hai đùi gác lên vai nam nhân. 

m nhân hai tay ôm eo ếch nữ nhân đâm vào. 

27.  NGÂM VIÊN BẢO THỤ 

Khoái lạc và trường sinh 

30.  TAM THU CẨU 

Nữ nhân nằm khum khum  hai tay chống xuống giường,  nam nhân chồm lên mình nữ  nhân, đầu gần sát vai nữ,  dùng tay lấy dương cụ đâm từ  sau tới. 

GHI CHÚ: 

n kinh tế, đời sống bon chen chật vật, vợ chồng đã 

hiểu nhau nhiều thì cuộc giao thú. Nếu thương yêu nhau m năng, thì chỉ là theo lẽ “hứn hưởng thụ những khoái cảm.

2. Bởi vậy nam nhân phải chủ 

hợp mất đi nhiều tính hiếu kỳ và hứng 

à giao hợp thì giao hợp cho c , theo bản  g thì làm”, phát tiết dục tình chứ không 

động trong việc thay đổi tư thế giao hợp.  àng phối hợp với nhau để hưởng hứng thú cuộc tình tránh sự 

Hai đ

nhàm chán của việc xả xú báp, chơi cho c  gọi là, trả bài trả nợ. 

ư thế giao hợp, theo quan niệm giáo dục sinh lý mới là điều 

3. Thay đổi t

rất tốt ích lợi về cả hai mặt tâm lý và sinh lý. hai bên nam nữ đều cảm  thấy cuộc tình như mới mẻ,  không  nhàn  chán.  Nhàm  chán  là  con  đường đổ vỡ hạnh phúc gia đình chớ không phải chỉ mất hứng trong  cuộc giao hợp mà thôi. 

THẾ GIAO HỢP CƠ BẢN 

C                                                                                                            ái ba 

hương này n i về các vị thế cơ bản khi giao hợp. Cũng là đại kh

Nữ nằm ngữa, hai chân dang ra, không cần bẹt lắm. Nam nhân nằm  sấp bên trên. Hai đầu gối và hai cùi chỏ chống lên giường để nâng đỡ 

sức nặng khỏi đè lên bạ                                               là hai đùi nam nhân ở  giữa hai đùi của nữ nhân. 

n ngọc. Vị thế này căn bản

Vị thế phía trên của nam nhân là vị thế nắm quyền chủ động thỏa mãn  lòng tự tôn và cảm thức ưu việt của nam nhân. Vị thế này cũng thỏa mãn 

khao khát được vỗ về ôm ấp, bảo vệ của người nữ. 

lòng 

ật dễ bị trật ra khi đâm vô 

Trong vài trường hợp đặc biệt nếu dương v t ra thì nữ nhân nên kê một cái gối phía d a âm đạo. 

rú                                                                        ưới mông để thay đổi vị thế  củ

49

Khoái lạc và trường sinh 

Đây là kiểu phổ biến nhất, chính thức từ đ  biến thái thành nhiều kiều  khác nhau. Tư thế này tự nhiên nhất vì khi đến tuyệt đỉnh của sự thống  kh

oái thì nam nữ ai cũng c  khuynh hướng ôm choàng xiết mạnh người  bạn mình. Vị thế này thích hợp nhất cho sự cho sự ôm xiết đ . 

ối với người c   dư

Khuyết điểm của vị thế này là không áp dụng được đ ơng vật ngắn vì rất dễ trượt ra ngoài, cũng không dùng được đối với 

người nam quá mập vì không đút vào sâu trong động tiên được. Nữ nhân  khi c  thai bụ

ng đã nổi lên thì tránh dùng lối này, dễ động thai vì bị đè 

nặ

ng vì khi quá sướng người nam không còn nhớ để tránh. 

1.2 THÂN TRIỂN VỊ (Chân kéo thẳng) 

Dùng vị thế cơ bản n i trên, sau đ  nửa chừng cuộc tình nữ nhân khép  hai đùi lại, duỗi thẳng chân. Hai đùi nam nhân kẹp hai đùi nữ nhân ở  gi

ữa. Cách này làm cho âm đạo khép lại, kẹp sát b p dương vật, cọ sát  nhiều, tăng thêm khoái cảm cho nam nhân. Về mặt nữ sự cọ sát này  cũng là cho dương vật cọ sát thành âm đạo, kích thích mạnh âm hạch tạo  nên trạng thái khoái cảm tuyệt vời mà những vị thế khác ít khi c . 

nhỏ hoặc tử 

Vị thế này không phù hợp với nữ nhân nào c  âm đạo quá ng không phát triển toàn vẹn. 

cu

Ưu điểm quan trọng của vị thế thân triển vị là kích thích được nam 

nhân trong trường hợp tinh lực kém, dương cụ căng giương lên không  hết sức cũng giao hợp được dễ dàng vì âm hộ kẹp n  lại, da qui đầu bị  tiếp xúc nhiều làm cho sự kích tăng lên thêm. 

1.3  CAO YÊU VỊ (Vị thế lưng cao)  Đây cũng là biến thế của chính thượng vị (vị thế 

ột), trong đ  nữ nhân kê gối phía dưới mông để  phù hợp với tình trạng của nam

nhân. Nam nhân ở 

vị 

thế quỳ thay vì nằm ở giữa hai đùi của nữ. Vị thế 

này khiến cho dương vật nằm ngang và vì không c   trở ngại nên độ kết hợp sâu hơn hai vị trí n i trên. 

vật đi  th    u cọ, không  đâ

Đêm tân hôn vị thế này là tốt nhất vì dương eo đ     iểường của âm đạo  –  không  k

m ngang, đâm chếch – khiến cho sự đau đớn của 

lần kết hợp ban đầu được giảm đến mức tối đa. Sau  đêm tân hôn một hai ngày cũng nên dùng vị thế này  vì cái đau đớn của khoái lạc đầu đời chưa lành hẳn  hoặc vì âm hạch c  thể bị đỏ, sưng sau lần màng  trinh bị phá rách. 

Khuyết điểm của vị thề này là cuộc tiếp xúc không m cực đại cho nữ nhân vì dương cụ đi thẳng đường không cọ vào thành của âm đạo. 

50

Cách này dương vật không chủ động đươc  n dễ trợt ra ngoài. Ta c  thể c a giữ cho thằng nhỏ khỏi đi lạc vừa tăng thêm kích thích cho nữ nhân 

sự đâm vô rút ra của mình  

Khoái lạc và trường sinh 

Bị kê gối nên nữ nhân cũng không được thoải má này kông nên sử dụng khi nữ nhân ốm yếu hay đan mang càng không

i, dễ mệt nên vị thế  g mệt nhọc. Lúc c  

nên sử dụng. 

1.4 KHUẤT KHÚC VỊ (Vị thêá thu mình)  Nữ nhân nằm ngửa, hai đùi co rút lại vào  phía thân mình, đầu gối chạm  vào  ngực,  ha

i chân cách một gốc vừa phải, độ 135 độ  là vừa. Nam nhâân theo tư thế của chính  thượng vị (vị thế 1) nghĩa là n

ằm úp lên  trê gi

n mình bạn vàng, hai tay chống xuống 

ường, đâm chênh chếch từ sau tới. 

Vị thế này kết hợp hai cơ quan sinh dục đư của âm đạo. Đ  là một vị thế rất dễ thụ tha vào cổ tử cung, dể tồn tại ở đây một thời gian

Tư thế này người nam c  thể tự do lay chu xa nữ nhân để quan sát loã thể của nàng n nhục, kích thêm sướng khoái. Nữ  n

đư

yển, tự do ôm sát hay cách 

ên c  thêm khoái cảm về thị  hâân  trái  lại thành âm đạo không 

ợc cọ sát nên không được vui sướng lắm. Đêm tân hôn tuyệt đối  không dùng lối này. Cũng vậy không nên dùng đối vơí nữ nhân c  âm  đạo quá cạn. 

2.

NỮ THƯỢNG VỊ (NỮ NHÂN NẰM TRÊN). 

2.1 PHẢN VỊ (Vị thế ngược)  Phản vị là vị thế giao hợp ngược với chánh thường vị ở đoạn trước. 

Phản vị chủ yếu là nam nhân nằm ngửa hai đùi dang ra giao phần chủ  động cho nữ nhân, nữ nhân quỳ ở hai đùi của nam nhân, rồi nằm sấp lên  trên. 

nê                                                   hữa cách này bằng cách kê gối phía eo  vừ

vì không vướng đùi nên thằng nhỏ như là được vươn mình dài ra hơn.  Khoái lạc nam giới tăng thêm vì được quan sát và sờ m  sự lòng thòng  của đ

ôi nhũ hoa nhiều khi rung chuyển lắc lư theo nhịp điệu dao động  củ

a nữ nhân. 

Nữ nhân dễ đạt được cao trào hứng thú, vì nửa thân trên phải cố thẳng  làm cho âm đạo đổi vị thế, tử cung gò lên, qui đầu của dương vật để tiếp  xúc và kích thích. Sự gợi cảm sinh ra là do sự kích thích này. Mặt khác  cũng là do tâm lý “làm chủ cuộc tình” của nữ nhân. 

Thường dùng chánh thường vị, thỉnh thoảng vợ chồng cũng nên đổi 

vị để tạo mới mẻ tìm thêm hứng thú. 

51

Khoái lạc và trường sinh 

2.2 KỴ THỪA VỊ (Vị thế cởi) 

Nam nhân vẫn nằm ngữa như vị thế vừa n i ở trên. Nữ nhân cỡi lên  trên mình chàng, hai chân choàng qua hai bên. Dương vật và âm đạo đối  nghinh với nhau cho nên rất dễ “chơi”. Vì miệng âm đạo hướng xuống  dư         ung ít khiến cho cuộc hành lạc này kh   th

ới nên tinh trùng bắn vào tử c

ụ thai. Muốn tránh thụ thai tốt nhất là nên dùng phương pháp này. N i  vậy chứ đây không phải là phương pháp ngừa thai hoàn toàn, bởi vì vẫn  c  mức độ tinh trùng xâm nhập tử cung, mặc dù ít hơn bất cứ vị thế nào  khác. 

Ưu điểm của vị thế này là tạo cảm giác mới mẻ, trẻ trung cho nữ nhân. 

Họ cũng dễ dàng xoay trở khi giao tình, họ chủ động trong cuộc và thụ  hưởng được khoái lạc tối đa. 

nữ nhân dùng hai đùi kẹp hai đùi của nam nhân lại thì sự sướng 

Nếu

kh

oái càng tăng hơn vì sức kẹp khiến âm đạo bị khép lại sự cọ sát giữa 

hai cơ quan sinh dục càng nhiều. 

trên của nữ nhân thẳng, nhủ hoa buông 

Trong vị thế này, nửa thân ống, nam nhân nằm dưới mặc tình quan sát, sờ m  và tưởng tượng 

xu

mình đang được người đẹp phục dịch chiều chuộng. Mặt khác, cảm giác  e lệ, xấu hổ của người nữ bộc lộ

 trên nét mặt cùng lúc với sự sướng  kh

oái, khiến cho hai đàng hưởng thêm phần nhục cảm. Tuy nhiên khi sự 

xấu hổ này lên đến tối đa, đàng gái yêu cầu đàng trai nhắm mắt lại đừng  xem thì nam nhân cũng nên giả vờ nhắm mắt (hí hí, nữ nhân cũng biết  vậy nhưng sự xấu hổ bớt đi). 

2.3 KIỂU NẰM NGHIÊNG 

2.3.1 Nghiêng mặt đối  Thay vì nằm ngửa lên, vị thế này hai bên nam nữ nằm nghiêng trên  giường, đối mặt nhau. Nam nhân dùng tay vỗ về, sờ m  loã thể của nữ  nh    iữa hai đùi nữ, hai đùi nữ nhân co ôm chặt  eo  này ít hoạt chuyển nên ít mệt cho cả hai. 

ân, hai đùi nam nhân nằm g của nam nhân. Tư thế

Kh

uyết điểm là nam nhân không được tự do, trong việc tấn thúc (nắc) 

còn nữ nhân cả đùi bên duới phải chịu cả sức nặng của hạ bán thể của  nam nhân (hai đùi) nên cảm độ khoái lạc không thể lên được tới mức tôí  đa. 

52

Khoái lạc và trường sinh 

Vị thế không thuận lợi nên kiểu nằm nghiêng thằng nhỏ không đi sâu  vào tuyệt cùng của âm đạo. 

Tuy nhiên ưu điểm của thế này là không ồn ào, ít tiếng động. Nhiều 

ười ngủ chung phòng, nhà chật cha mẹ ngủ mà c  con cái ngủ gần tư  thế này lý tưởng không tư th

ế nào bằng. Mình vui mà không gây sự chú ý  và

không làm phiền người khác. 

2.3.2 Nghiêng mặt lưng. 

Như cái tên của n , hai đàng nằm 

ằm phía  saát  mông  nữ. 

nghiêng trên giường. Nam nhân n

u  ôm  nữ nhân, bắp vế  s ưng nếu nam nhân để ngực  mình 

Nh

chạm với lưng nữ nhân thì phía thằng nhỏ  kh  vào, bởi vậy ngực phải dang ra lưng  để hạ bán thân tiếp xúc mà thôi. Nữ nhân  cần phải co chân lại để nam nhân dễ xâm  nhập. 

Nam nhân dùng tay tự do (phía trên) sờ  chân trên c  thể gác lên đùi nữ nhân hoặ trêân g

m  vỗ về nữ nhân. Nam nhân 

c xếp vế bên đùi nữ nhân ở 

iường. 

Tư thế này nam nhân hưởng nhiểu khoái lạc hơn nữ nhân vì ở vị thế  tấn công và hưởng thêm cảm giác ở bắp vế trong khi đ  nữ nhân chỉ kích  thích ở âm đạo mà không 

được kích thích ở đầu tử cung nên tuyệt đỉnh  kh

oái lạc c  cường độ không cao. Để giải trừ khuyết điểm đ  nam nhân 

nên sờ m  thêm âm hộ của nữ nhân và se se đầu nhũ hoa của bạn mình.  

Tư thế này thích hợp cho thời điểm nữ  nhân đang hoài thai vì bụng không bị đè.  Mặt khác khoa lâm sàng cho biết khi phụ nữ 

ang thai thì tử cung dần dần tới sát xương 

chậu và âm đạo ngắn hơn lúc bình thường,  thể vị giao hợp này dương cụ giao hợp  không sâu nên rất thích hợp vì không sợ bị  xẩy thai. 

Mức khoái cảm do vị thế này đem lại khôn tuyệt độ khoái lạc cho nên lúc c  kinh cũng c  nữ nhân 

g cao nêân không tạo được 

thể áp dụng được. Đối với 

bị bệnh bất cảm (cảm ứng không được nhiều) đây là vị thế rất 

phù hợp. 

2.4 VỊ THẾ LƯNG 

2.4.1 Thế nằm  Giống như cách thường vị, nhưng ở đây nữ nhân nằm sấp, nam nhân  nằm lên trên lưng. Hai đùi nữ nhân c  thể bẹt ra hay khép lại. Nam nhân  cũng dựa theo đùi của nữ nhân mà hành động, nàng khép hai đùi, mình  ở ngoài; nàng banh hai đùi, mình ở giữa. 

53

Khi giao hợp bằng vị thế này, qui đầu  p xúc với âm đạ t được cọ sát nhiều, nên khoái cảm  

Khoái lạc và trường sinh 

Vị thế này mông của nữ nhân c  tác dụng như một cái gối êm xốp cho  na    người nữ gầy ốm, xương xẩu, kiểu thường và kiểu cởi,  là sấ

m. Trường hợp 

m cho nam nhân mất bớt hứng thú vì chạm các khớp xương, kiểu nằm  p này tránh những khuyết điểm đ . 

Trong trường hợp nữ nhân mập mạp nhiều thịt, mông to vị thế này  khôngthích hợp vì “trái độn” đã ngăn trận sự xâm ngập của dương cụ  khiến sự tiến vào không được sâu. 

Khi c  mang dĩ nhiên là tuyệt đối cấm dùng vị thế này. Khuyết điểm  quan trọng của vị thế này là sự sút ra của dương cụ, khi kích vì miệng âm  đạo mở, từ trên xuống dưới (như một cái cổ giếng) trong khi dương vật  tấn kích xuyên về phía trước. Nữ nhâ

n không thích vị thế này vì bị đè, 

kh

oái cảm ít, xung kích xâm nhập ngắn, đâm cạn sợt không đến đâu, vận 

động không đuợc tự do. Nam nhân trái lại thích dùng vị thế này vì c  sự  thỏa mãn về thị giác, kích thích nhiề

u, hai tay lại được tự do choàng qua 

ình bạn mân mê mấy thứ đồ phụ tùng. 

2.4.2 Thêá quỳ 

Nữ nhân nằm sấp trên giường, nhưng cong hai đầu gôí lên về phía  ngực, phía mông hơi chỏng lên cao, phía đầu hơi cúi xuống thấp hơn.  Nam nhân quỳ ở chỗ mông của bạn, lưng thẳng hai tay ôm lấy chỗ eo  của nàng để điều chỉnh độ kết hợp. 

tiế                             o mãnh liệt. Dương  vậ

c  cường độ rất lớn. Nếu muốn tăng  thêm khoái cảm thì nên dùng gối kê đầu  gối của nàng để mông chỏng lên cao 

hơn nữa làm cho độ nghiêng sau trướ

đư

ợc nhiều. Cách này là cho cổ tử  cung đưa ra hứng tất cả tinh dịch cho  nên là vị thế râát dễ bị thụ thai. Muốn  tránh mang bầu không nên dùng thế  này. 

Đặc biệt, nữ nhân khỏi làm gì cả, tất  cả điều do nam nhân chủ động, nữ  nhân chỉ cần xoay xoay hậu bộ của  mình, hoăc làm những động tác gì khác  tỏ ra mình cũng c  khoái cảm, để kích  thích thêm nhục tình cho nam giới. 

Đặc biệt vị thế này thường phát nhữ không ưa thích, điều này không c  hại gì động phát sinh ra do âm đạo bị đè nén 

ng tiềng động “nhẹp nhẹp” ta  , đừng nên chú ý mất vui. Tiếng  mà mở ra chứa không khí, vận  ra, tiếng động phát sinh từ đ . 

động giao hợp làm cho không khí bị bung

54

Khoái lạc và trường sinh 

2.5 TỌA VỊ (vị thế ngồi) 

2.5.1 Ngồi đằng trước. 

Nam nhân ngồi trên giường. Nữ nhân ngồi trên đùi nam nhân, trở 

ngược lại… Hai người ôm lấy nhau: nữ nhân ôm cổ nam nhân ôm eo. 

Nữ nhân phải dạng đùi ra choàng qua mình nam nhân nên miệng âm 

đạo hở, dương cụ dễ tiến vào. Khi đến cực điểm của khoái lạc, nam nhân  nên bỏ eo ôm mông nữ để tăng cường thêm. Vị thế ngồi này khiến cho  âm hộ hơi co rút lại, dương vật c  cảm giác như bị b p lại nên càng  cương cứng thêm. Khuôn ngực của nữ trình bày trước mặt nam, đặt sát  và

o hay bú núm vú cũng là điều cần thiết. 

Nam nhân rung động hai đùi của mình để kéo theo sự rung chuyển  mông của người đẹp. Sự rung chuyển này một mặt kích thích cuộc giao  hợp làm cho xương chậu của nàng thay đổi vị thêá khiến cho cuộc kết 

hợp được lâu hơn, thằng bé đi vào tận cùng trong thâm cung bí sử. 

thai. 

Tư thế này rất thích hợp khi nữ nhâân c 

Nếu nam nhân không ngồi mà quỳ trên đâàu các ng n chân và đầu gối  mình thì sự xâm nhập cạn hơn vị thế đã n i trên, sự kích thích khoái lạc  vì vậy cũng ở mức độ vừa phải, rất an toàn cho người nữ c  mang. 

y thì  nê      ường, vì ngồi thẳng  nh

Nếu nữ nhân mập béo mà nam nhân cũng muốn áp dụng tư thế nà n cho nữ nhân ngã về sau, hai tay chống xuống gi ư người bình thường thì dương vật không thể đâm lút vào. Nếu nam 

nhân mập phệ thì vị thế này cũng phải được cải tiến như trên (ngã về  sau). 

2.5.2 Ngồi đằng sau lưng 

Nam nhân ngồi thẳng, hai đùi duỗi ra song song. Nữ nhân ngồi trên đùi  chàng, đưa lưng về phía nam nhân, hai chân để bẹt ra để bên ngoài đùi  của bạn. Nam nhân hai tay, hoặc ôm eo của nữ để làm cử chỉ kích thích  và xun

g đôïïng, hoặc chồm tới trước tới vuốt nựng đôi nhũ hoa. Phối hợp  nha nam và sự đu đưa mông của nữ thì thời  gi

ịp nhàng giữa sự lắc đùi củ an giao hợp đuợc kéo dài lâu hơn. 

55

Khoái lạc và trường sinh 

Trong vị thêá này người nữ c  vẻ như chủ động: ngồi sâu, nhỏm lên,  quay tròn rút lui… Nư tính phát triển tối đa ở vị thế này. Cũng là một cách  thay đổi m n ăn vốn dễ chán ngấy nếu luôn dùng các m n cũ. 

Muốn đô kết hợp lâu hơn, đậm hơn, lút hơn nữa nữ nhân nên cong  lưng về phía trước và xoạc hai chân rộng ra để âm đạo được nở nhiều.  Nam nhân khi dùng vị thế này nên nhớ sờ m  nhũ hoa và khám phá bằng  tay âm hạch của nữ để tăng cường cường độ kích thích….  

2.6  LẬP VỊ (Vị thế đứng) 

Nam nhân đứng ở sau lưng nữ, cho vào từ phía sau. Cách này chỉ  thực hiện dễ dàng khi nữ nhân hơi cong đầu gối và đưa mông về phía  sau một chút. Để đứng vững, nữ nhân chống hai tay lên đâàu gối, nam  nhâân hơi cúi xuống mới cho vào được. Hai đùi của nữ nhân cũng nên  banh ra để đứng được vững đồng thời âm đạo cũng mỡ rộng hơn, trình  ra con đường dễ dàng cho dương vâät xông pha. Cho được tối đa sướng  khoái, nam nhân luồn đùi mình vào giữa hai đùi nữ nhân, hai tay luồn lên  nắm cập nhũ hoa hoặc ôm lấy bụng của nàng. 

PHƯƠNG PHÁP KHÔNG XUẤT TINH KHI 

HỨNG TÌNH LÊN TỘT ĐỈNH 

Hoàng Đế hỏi: “Khi giao hợp, lúc khoái lạc lên cực đỉnh gần xuất tinh  mà cố kềm lại một ít lâu để kéo dài cuộc vui. Như vậy c  hại gì không ?”. 

Tố Nữ đáp: Không hại mà lợi 

Lần đầu: muốn xuất tinh cố kềm lại ít lâu, đến khi ý ta muốn xuất tinh  mà cơ thể không thể xuất được nữa, sức lực trong người ta sẽ tăng mạnh  mẽ hơn. 

Lần thứ hai: mắt, tai sẽ tỏ thính hơn. 

Lần thứ ba: nhiều bệnh sẽ không mắc phải. 

Lần thứ tư: ngũ tạng sẽ bình an. 

56

Khoái lạc và trường sinh 

Lần thứ năm: máu huyết sẽ thông suốt, điều hòa. 

Lần thứ sáu: bộ phận ở chỗ thắt lưng là chỗ dễ đau khi giao hợp nhiều, 

được cường tráng nên mặc dầu giao hoan nhiều vẫn bình thường, không 

đau mỏi. 

Lần thứ bảy: mông và đùi sẽ được nở nang, sức lực tăng cường tối đa. 

Lần thứ tám: toàn thân sẽ cường kiện, dũng mãnh. 

Lần thứ chín: sẽ được trường thọ, sống lâu. 

Lần thứ mười: cửa thiên đình sẽ mở rộng nghĩa là người đ  c  một đời 

sống sảng khoái, tâm hồn luôn được hân hoan, thơ thới”. 

GHI CHÚ: 

1. Thuật dưỡng sinh của phép thai tức - phái thai tức là môn phái dưỡng  sinh rất lâu đời ở Trung Quốc - c  n i đến vấn đề này: “Nhả ra, thở ra  ít hơn khi hít vào thì khí sẽ tồn tại trong cơ thể. Đ  là bí quyết làm cho  trẻ mãi không già”. Nguyên tắc hô hấp áp dụng vào thuật giao hợp  cũng vậy thôi bởi vì hai bên c  sự giống nhau. Hô hấp là “ái khí”, nghĩa  là giữ khí tồn tại lại trong mình. Thuật giao hợp gọi là hành động giữ  tinh khí lại trong mình là “bửu tinh ái khí”, nghĩa là coi trọng “cái tinh”,  qúy “cái khí” của mình. nguyên tắc “bửu tinh ái khí” chú trọng ở chỗ  giữ sao cho tinh khí của mình càng ít xuất ra càng tốt. 

2. Y học Trung Quốc xưa cho rằng máu là một hình dạng khác của tinh  khí, n i cách khác khí là sự biến h a của máu mà thành (người ta  thường n i khí huyết). Bảo vệ máu thì phải baỏ vệ khí. Tinh là hình  thức cao hơn của máu, do đ  xuất tinh đi sẽ làm cho mình mất máu đi. 

Sẽ bị tổn thọ. 

3. Hấp khí là thu khí mà thải ra ít hoặc không thải ra. Bởi thế khi giao  hợp, nam nhân cố kéo dài thời gian và không xuất tinh là đã tuân theo  nguyên tắc trường sinh trong thuật phòng trung vì đã hấp được cái khí  của người nữ mà không tổn cái khí của mình. 

4. Vấn đề quan trọng là: giao hợp mà không xuất tinh thì c  khoái lạc hay  không, ông Bành Tổ trả lời là c , mình càng kềm chế thì càng được  khoái lạc. 

5. Giao hợp mà kéo dài không xuất tinh (xúc nhi bất tiết) là để thỏa mãn  khoái cảm, nhưng nếu luyện được xuất tinh theo ý muốn thì sẽ hưởng  được mười điều lợi như Tố Nữ đã n i ở trên. Những điều Tố Nữ n i, Y  học Trung Quốc cũng n i tương tự: “ Tiết dục để tồn trữ tinh lực, tăng  cường hoạt năng của tinh trùng, luyện tập sức đề kháng và duy trì trí  lực. Tiết dục c  lợi cho cả thân thể và tinh thần”. 

6. Lão Tử n i: “Tri túc vi phú” (biết đủ thì làm giàu), sách Lễ Ký cũng n i:  “Lương nhập vi xuất” (tùy theo sự thu nhập mà chi tiêu, xuất phát).  Đem hai câu trên áp dụng vào việc phòng trung và việc xuất tinh thì rất 

57

Khoái lạc và trường sinh 

đúng. Không biết qúy khí, trọng tinh c  bao nhiêu cũng trút thì không  thể nào tráng kiện được. 

Ông Khang Đức c  n i: “Ấu tiểu thời bất giáo, dĩ ngưỡng dục ngã,  chân thị bất hạnh” c  nghĩa là: “Bất hạnh thay cho ai lúc trẻ không  được dạy dỗ nên lớn lên ham mê điều nhục dục. Ham mê buông thả  mà không biết kiềm chế đ  là tự mình bỏ máu của mình vậy”. 

7. Y học Trung Quốc khi n i về hô hấp cũng n i tới khả năng trừ áp  huyết cao của hô hấp. Bị bệnh này, dùng phương pháp hít thở thật  chậm, thật dài để thông suốt kinh mạch thì c  thể khỏi bệnh. 

8. Phương pháp này do Nhật Bản phát động khởi thủy từ bác sỹ Hát Phu  Ba, như là một m n thể thao trị liệu, trong đ  bệnh nhân làm nhiều cử  động hô hấp, càng hô hấp nhiều thì phổi sẽ mạnh và dưỡng khí vào  máu càng nhiều. 

9. Trung Hoa còn thuật trừ già nua bằng cách hít thở (hố hấp). Tập thở  ra mà bụng phình lên và hít vô bụng xẹp xuống. Điều này nghe thì kh   nhưng thực hiện không kh  vì hít vô thì hít vào phổi, bụng đương  nhiên sẽ xẹp xuống. 

10.Phép dưỡng sinh bằng hô hấp của Trang Tử c  câu quan trọng:  “Người chân nhân đạt đạo dưỡng sinh, hô hấp tới g t chân, thường  nhân chỉ hô hấp tới cổ họng. Hô hấp đúng thì bảo toàn được thân, như  một người đầu bếp khéo dùng dao cắt chặt lâu ngày mà dao vẫn  không mòn “. “Người đầu bếp giỏi cũng phải mỗi năm thay dao một  lần, người kém hơn thì mỗi tháng một lần. Ta cũng dùng dao để cắt  da, cắt thịt thế mà đã chín mười năm nay rồi mà con dao dùng từ đ   đến nay vẫn còn mới toanh “. Đ  là câu n i thời danh của Trang Tử áp  dụng vào thuật giao hợp tiết khí rất là hữu ích. 

11.Phép Yoga của Aán Độ c  dùng xương sống để hô hấp. Phép này  không khác gì dùng g t chân để hô hấp của Trang Tử của Trung Hoa.  Yoga căn bản là hít thật nhiều khí vào trong bụng. Từ bụng chuyển  không khí vào đan điền (lỗ rốn). 

12.Về thuật “xúc nhi bất tiết”, giao hợp mà không xuất tinh, sách Ngọc  Phòng chủ yếu c  đoạn quan trọng như sau: “Lúc sắp xuất tinh không  cử động dương vật nữa, thở ra một hơi thật dài, đồng thời cắn chặt  răng lại, ngước đầu lên thật lẹ ng  chung quanh, hít vào một hơi dài để  phùng bụng lớn lên, tập trung tinh thần vào việc thở hít này, rồi th t  bụng lại đồng thời thả hế hơi trong bụng ra. Luôn ng  mắt chung  quanh, kỵ ng  người ban ngọc đang ở dưới mình mình, hàm răng cắn  chặt. Khi trong tai nghe tiếng gi  thổi ù ù thì th t bụng lại”. 

Phương pháp này còn lợi ích cho việc chữa trị các chứng mắt kém và  điếc tai, làm cho thị lực được tăng cường và thính lực được phát triển. 

13.Mắt ng  chung quanh là cách thế để phân tán sự chú ý của ta vào  ngoại cảnh khỏi phải chú ý vào dục tình. Hứng thú lúc đ  không bị  khơi động, tinh khí do vậy không thể dễ dàng xuất được. 

58

Khoái lạc và trường sinh 

14.Hô hấp c  thể kết hợp với đọc kinh c  thể luyện cho khả năng hô hấp 

kéo dài hơn. Ơû Nhật Bản c  một chi phái Phật Giáo thực hành phép  tu dưỡng sau:  Sáng sớm thức dậy đọc kinh ba mươi phút, mỗi khi đọc hết một đoạn  kinh thì hô hấp và uống một ly nước lạnh. Nhiều cuộc nghiên cứu cho  thấy tín đồ của giáo phái này: 

· Đường đại tiện, tiểu tiện rất thông suốt. 

· Hô hấp rất dài hơi. 

· Tập trung ý chí dễ dàng. 

· Tinh thần an tịnh, không biết lo âu hồi hộp. 

15.Tục ngữ Trung Quốc c  câu: “Hô hấp thi ích dã” nghĩa là sự hít thở rất  c  ích lợi. Ơû đây chỉ c  sự hít thở đúng phương pháp, còn sự hít thở  bình thường của thường nhân thì chỉ để duy trì sự sống thôi, không c   ích lợi nào khác. 

16.Cười cũng là một phương pháp hô hấp để tinh thần an tịnh cho nên 

cười cũng là một trong những phương pháp dưỡng sinh và c  tác 

dụng làm cho con người tươi trẻ. Những người thường hay vui cười  thì thâm tâm được quân bình, tinh thần được an định. 

17.Những người quý tộc Ấn Độ thường hay luyện tiết dục bằng phương  pháp đè nén. Họ lấy tay đè một vùng gần niếu đạo, gần chỗ con  đường dẫn nước tiểu, tức là vùng dẫn tinh khi tinh khí xuất ra ngoài.  Theo họ thì phương pháp này làm cho tinh khí xuất ra không xuất  được mà phải chạy trở vô lại. 

18.Một đặc tính để kiềm chế xuất tinh là giao hợp nhiều lần mà mỗi lần  đều với người đẹp trẻ tuổi khác nhau. 

19.Sách “Thiên Kim Phương” là sách n i về các phương pháp áp dụng  để tìm hoan lạc trong phòng trung c  n i rằng: “Con gnười trước 30  tuổi thì khí huyết dồi dào, tình dục phong phú, khi quá 30 tuổi khí thế  so lại hơi giảm. Lúc này thân thể đã yếu nên khám bệnh để coi mình  c  bị bệnh hay không để trị vì để lâu sau này hậu quả sẽ kh  lường.  Lúc này cũng là lúc luyệïn bí thuật phòng trung. Phương pháp thì dễ  nhưng phương tiện lại kh ; đ  là mỗi đêm giao hợp với mười người  con gái khác nhau và không được xuất tinh. Aên uống những thức bổ  dược (phần cuối sách c  n ivề những thức bổ dược này). Luyện phép  này trong một năm thì tự nhiên khí lực và thể lực tăng tiến vô cùng, trí   c lúc này lại minh mẫn”. 

Tiếp xúc với nhiều người con gái trẻ đẹp là ước vọng từ lậu của con  người, nhưng đối với cuôäc sống ngày nay thì không còn phù hợp  nữa. 

59

Khoái lạc và trường sinh 

20.Bác sỹ Kim Soai c  nhận xét rằng phụ nữ sau khi c  hôn nhân vẫn c   ước vọng giao hợp với nhiều đàn ông khác nhau. Họ cũng thích  sướng khoái và thay đổi như nam giới. Nhưng nam giới cũng như nữ  giới nếu chỉ thuần túy đi tìm khoái lạc thì rất dễ hại thân. Quan niệm cổ  điển về tình dục của Trung Quốc cho rằng tinh khí là thứ quý trọng của  con người, bằng mọi giá ta không thể xuất tinh. 

21.Y học c  một câu rất hay: ”Người nam trong giai đoạn 20 tuổi, giao  hợp nhiều hay ít quyết định suy thoái tình dục hay không, vào khoảng  30 tuổi sự hay ho của cách giao hợp quyết định sự thất bại hay không,  vào khoảng 40 tuổi thì khoảng cách giữa hai lần giao hợp quyết định  sự thất bại hay không”. 

22.Trung Hoa cũng c  câu về sinh lý của phụ nữ: “Tam thập quả phụ bất  khả thông”, nghĩa là đàn bà g a chồng lâu mà tuổi còn trẻ thì sinh lý  không còn mạnh mẽ như nam giới nữa. Điều này cho thấy sinh lý của  phụ nữ mâu thuẫn với sinh lý của nam nhân. 

23.Sách “Thiên Kim Phương” c  n i về sự hiệu dụng của cách chữa  bệnh bằng phương pháp tọa thiền và hô hấp thật sâu. Thực hành  phương pháp này thì dầu cho thời gian trôi qua t c râu cũng không  mọc ra dài. Sách cổ c  ghi lại chuyện một vị hòa thượng dùng phương  pháp “nội quan” để trị bệnh phổi kết hạch của mình. Thật ra đây chỉ là  một phương pháp kết hợp giữa sự toạ thiền và sự hít thở sâu đúng  phương pháp mà thôi. 

24.Đời Hán c  một cuốn dã sử tựa là “Châu lâm dã sử”, chuyện viết về  đời của nàng Hạ Cơ là một nhân vật sống vào đời Xuân Thu. Hạ Cơ  trong một giấc mơ chiêm bao thấy mình học được phương pháp trẻ  mãi không già của tiên gia bằng hai phương pháp “Hấp Tinh Đạo Khí”  và “Tố Nữ Chiến Thuật”. Hai bí quyết này là liên tục không ngừng  ngẫm nghĩ hấp thụ tinh khí của nam nhân. Khi được Trần Linh Công  ôm ấp ân ái, nàng sử dụng phép “Nội Thị” là một bí thuật khác của  phòng trung mà người đời sau cho là thuật điều tức dựa trên nguyên  lý “Xúc nhi bất tiết”, nghĩa là giao hợp kềm hãm không cho xuất tinh  của phái nữ. 

25.Theo “Ca Xuyên đại nhã thị” thì cái hạch lý tưởng của một người theo  Lạt Ma giáo là đạt đến sự “linh nhục nhất chí “ nghĩa la øtinh dịch từ  phần của bộ phận sinh được dùng ý chí điều khiển theo đường xương  sống mà chạy lên đỉnh đầu. trong quá trình thực hành động tác đôi  nam nữ đều phải tập trung tinh thần theo kiểu thiền định sao cho đạt 

60

Khoái lạc và trường sinh 

được trình độ không xuất tinh. Phái này lấy việc hãm tinh làm cứu  cánh cho sự sung sướng. 

26.Không phải ai cũng cổ võ sự bế tinh, c  rất nhiều người cho “Xúc nhi 

bất tiết” là c  hại cho thân thể. Thật ra đây c  thể coi như là sự tiết dục  và phương pháp luyện cho giao hợp được dài lâu. Các chương sau  của kinh Tố Nữ sẽ đề cập đến số lần xuất tinh cần thiết, nghĩa là kinh  Tố Nữ không bảo tuyệt đối không được xuất tinh. 

SỐ LẦN XUẤT TINH VÀ CÁC THUỐC TRỊ LIỆU 

Hoàng Đế hỏi: “Nguyên tắc giao hợp theo Tố Nữ là ái tinh, thương quý  cái tinh khí của mình, mà tránh xuất tinh, vậy thời khi muốn c  con thì  phải làm như thế nào ?” 

Tố Nữ đáp: “Người ta thân thể cường nhược khác nhau, niên tuế cũng  trẻ già khác nhau cho nên người ta phải tùy theo khí lực của mình mà  giao hợp, không được cưỡng quyết (bắt ép thân thể mình làm quá sức  chịu đựng của n ), cượng quyết tất tổn hại đến thân. Tốt nhất là: 

Ở vào tuổi 15 mà khí lực dồi dào mỗi ngày giao hợp và c  thể xuất  tinh hai lần, ốm yếu thì mỗi ngày một lần thôi. 

Ở tuổi 20 cũng vậy, không nên nhiều hơn, nghĩa là mạnh mẽ thì một  ngày hai lần, trong mình không được khỏe thì mỗi ngày một lần. 

Ở tuổi 30 mà khỏe mỗi ngày một lần, người ốm yếu thì hai ngày một  lần. 

Ở tuổi 40 mà khỏe mạnh thì ba ngày một lần, người ốm yếu thì bốn  ngày một lần. 

Ở tuổi 50 thì năm ngày một lần nếu khỏe mạnh, ốm yếu thì mười  ngày một lần. 

Ở tuổi 60 mà khỏe mạnh thì cỡ mười ngày một lần, ốm yếu thì hai  mươi ngày một lần. 

Ở tuổi 70 mà khỏe mạnh thì mỗi tháng một lần, ốm yếu thì nên kiêng  cữ không nên xuất tinh. 

GHI CHÚ: 

1. Sách “Ngọc Phòng Bí Kiếp” c  ghi như sau:  Người ở tuổi 20 thường 2 ngày giao hợp một lần. 

Người ở tuổi 30 thường 3 ngày giao hợp một lần. 

Người ở tuổi 40 thường 4 ngày giao hợp một lần. 

Người ở tuổi 50 thường 5 ngày giao hợp một lần. 

Người ở tuổi 60 thì không bao giờ nên xuất tinh. 

2. Một chỗ khác của kinh Tố Nữ c  ghi: 

61

Khoái lạc và trường sinh 

Người 20 tuổi thường 4 ngày giao hợp một lần. 

Người 30 tuổi thường 8 ngày giao hợp một lần. 

Người 40 tuổi thường 16 ngày giao hợp một lần. 

Người 50 tuổi thường 21 ngày giao hợp một lần. 

Người 60 tuổi thì không nên bế tinh không nên xuất tinh nữa. Nhưng là  nếu thân thể quá mạnh khỏe, cường tinh thì một tháng giao hợp một  lần vẫn được. Nếu đã đến tuổi này mà cò sung sức cũng nên giao  hợp, không nên quá kiềm chế. Con người thể lực khác nhau không  đều, nếu sung sức mà quá kiềm chế thành ra mắc bệnh u uất, c  hại  hơn là xuất tinh khi giao hợp. 

Ta thấy đoạn này c  những con số khác với đoạn trên. Sự khác biệt là  do qua các thời đại người ta viết nhiều sách, khắc đi khắc lại mà ra.  Đại khái các sách về thuật phòng trung c : “Ngọc Phòng Bí Kiếp”,  “Thiên Kim Phương”, ”Ngự Nữ Chi Pháp”, ”Tố Nữ Chi Pháp”, các con  số n i trên đều tương tự như hai bản trên. 

3. Sách “Dưỡng Danh Huấn” của ông Bố Nguyên Ích Hiên cho rằng một  đời người chỉ được phép giao hợp tối đa là 1.800 lần mà thôi. Con số  này là căn cứ trên quan điểm (2) của sách Tố Nữ. 

4. Mới đây người Nhật nghiên cứu trên con người thời đại mới thì thấy  rằng con số n i trên khác hơn nhiều. Bác sỹ Kim Soai cho biết trung  bình một người trải qua 55 tuổi thì cũng đã trải qua 3.831 lần giao hợp.  Tuy nhiên cũng c  người cho rằng con số này vẫn quá ít, họ cho rằng  khi một người đến 40 tuổi thì số lần giao hợp của họ đã ngang ngửa  với con số do ông Kim Soai đưa ra rồi. 

5. Sự khác biệt của hai con số thật ra không sai và cũng không kh  hiểu. 

Người xưa giải quyết vấn đề theo nguyên lý âm dương, tất cả do âm  dương bảo tồn tinh khí (xúc nhi bất tiết), từ đ  c  một con số về lần  giao hợp nhỏ, ít. Người thời nay theo nguyên lý thực tế mà tính, vả lại  người thời nay cường tráng hơn người thời xưa, bệnh tật cũng ít hơn  do đ  số lần giao hợp nhiều hơn. Một đàng thiên về “thể” (cái bản thể,  căn cơ của giao hợp); một đàng thiên về “nhục” (cái thực tế, ước  muốn của vấn đề giao hợp) cho nên lý lẽ của bên là rất khác biệt  nhau. 

6. Một người Nhật tên là “Tiểu Lâm Nhất Trà” ghi trong nhật ký của mình 

về chuyện phòng sự của ông ta vì ông ta cưới vợ vào năm 52 tuổi. 

…8/8… Cúc Nữ về nhà, trời tốt, tối giao hợp  5 lần. 

…12/8… Cúc Nữ về nhà, trời tốt, tối giao hợp   3 lần. 

…15/8… Cúc Nữ về nhà, trời tốt, tối giao hợp   3 lần. 

…16/8… Cúc Nữ về nhà, trời tốt, tối giao hợp   3 lần. 

…17/8… Cúc Nữ về nhà, trời tốt, tối giao hợp   3 lần. 

…18/8… Cúc Nữ về nhà, trời tốt, tối giao hợp   3 lần. 

62

Khoái lạc và trường sinh 

…19/8… Cúc Nữ về nhà, trời tốt, tối giao hợp   3 lần. 

…20/8… Cúc Nữ về nhà, trời tốt, tối giao hợp   3 lần. 

…21/8… Cúc Nữ về nhà, trời tốt, tối giao hợp   4 lần. 

…22/8… Cúc Nữ về nhà, trời tốt, tối giao hợp   3 lần. 

Cúc Nữ là vợ của “Tiểu Lâm Nhất Trà”, nhật ký này ghi lúc ông 54 tuổi,  nên nhớ lúc đ  Cúc Nữ chỉ mới 28 tuổi. 

7. Nhật Ký cũng ghi lại rằng Tiểu Lâm Nhất Trà bị vô năng về tình dũc  (bất lực), nên ông dùng một thảo dược trợ lực. Thảo dược đ  gọi là  “Dâm dương thảo”, thứ này c  hiệu lực thúc đẩy, tăng cường tính dục  và tạo ra tinh trùng cho nam nhân. Về tác dụng của thứ thảo dược này  ở Trung Quốc người ta cũng đã biết từ lâu cho nên trong dân gian c   câu tục ngữ:” kể cả con dê ăn phải thứ thảo dược này cũng lập tức  muốn giao hợp ngay” (“Liên liên khuất liễu dâm dương thảo, dã hội  nhiệt trung ư giao tiếp”). Các kinh nghiệm về thứ cây này cho biết tinh  dịch sẽ biến thành đặc nếu người nào được ăn loại cây này. Cho thỏ,  chuột ăn dâm dương thảo thì chúng hăng hái sinh hoạt tính dục không  biết mệt mỏi đêm ngày. Ngày xưa thứ cỏ này là thuốc kích dâm hạng  nhất cho các bậc vua chúa. 

Ở Nhật Bản, người Nhật Bản đã biết được dược tính của loại cây này  từ lâu, họ chế thành một loại thuốc trợ dâm rất thông dụng. 

Ông Thái Nhất Phan kể trong sách của ông về một chuyện người chăn  dê già một hôm nhận thấy trong bầy dê c  một con dê đực làm tình cả  ngày hàng trăm lần, theo dõi n  người chăn dê thấy n  ăn một loại cỏ  đặc biệt mà mấy co dê khác không ăn. Oâng ta mới ăn thử kết quả là  xuân tình ông trở nên phơi phới và đang yếu về tính dục ông này bỗng  trở thành một người mạnh mẽ, chơi không biết mệt. 

8. Tiểu Lâm Nhất Trà dùng dâm dương thảo để trị tính vô năng của  mình, nhưng ông cũng cho biết rằng dâm dương thảo cũng là thần  dược để trị bệnh già yếu suy nhược. Vì tính chất đặc biệt của n  loại  thảo dược này được dùng để chế thuốc rượu đặc biệt dùng tăng  cường tính năng của người uống thuốc gọi là “Tiên Linh Tì Tửu”. Đây  là loại rượu thuốc căn bản gồm dâm dương thảo nên còn được gọi là  “Dâm Dương Tửu”. 

9. Toa thuốc cường tinh cường tráng của Thái Nhất Phan bao gồm: 

- Dâm dương thảo   :  20 mgr. 

- Phục Linh  :  10 mgr. 

- Táo             :  3 trái. 

- Nước          :  3 chén rưỡi. 

Tất cả nấu trên lửa riu riu cho tới khi còn lại một chén. Những thứ  thuốc khác một gốc như kích dâm, thúc dâm, tiên linh tỳ tửu đều căn  bản trên toa thuốc của Thái Nhất Phan với chút ít gia giảm. 

63

Khoái lạc và trường sinh 

10.Tiên Linh Tỳ Tửu: 

Ba thứ dược liệu trên mỗi thứ được tăng liều lượng lên gấp ba. Dùn  lửa riu riu chưng cách thuỷ cho tới khi ráo nước rồi đem phơi khô. Đổ  nước thêm vô rồi đem chưng như trước, đoạn đem ra phơi nắng như  trước. làm như vậy tới lần thứ 3 thì được một chất khô quánh. Đem  chất này ngâm trong rượu rồi thêm độ 100mgr mật ong rồi niêm phong  lại, cất vào tối độ một tháng thì ta c  loại tiên tửu n i trên. 

TINH LỰC MẠNH YẾU CỦA NAM NHÂN 

Thái Nữ hỏi Bành Tổ rằng: "Tinh lực của nam nhân mạnh hay yếu c   những triệu chứng gì để nhận diện?” 

Bành Tổ đáp: "Khi nam nhân tinh thần sung mãn hoặc tinh khí đầy đủ  thì dương vật sẽ n ng bỏng, tinh dịch sẽ đặc kẹo lại, trái lại khi tinh lực  suy yếu rồi thì các triệu chứng sau đây xuất hiện: 

- khi xuất tinh thì tinh thần bị thương tổn nghĩa là trong lòng buồn bực  không thấy sung sướng mà cũng không thấy thích thú. 

- khi tinh dịch bị loãng thì nhục thể bị thương tổn, người bải hoải, bần  thần kh  chịu. 

- khi tinh dịch c  mùi hôi hám thì gân cốt bị thương tổn, sự bần thần  trầm trọng hơn và kéo dài hơn. 

- khi xuất tinh nhưng tinh không thể xuất ra thì xương cốt bị thương tổn. 

- khi tinh lực suy nhược đến nỗi không hứng nổi thì thân thể đã bị  thương tổn. 

Ghi Chú: 

1. Bình thường các tệ trạng này sinh ra do sự giao hợp gấp rút, do tinh  thần không ổn định mà giao hợp xuất tinh. Trừ sự thương tổn này  không gì bằng giao hợp mà tránh xuất tinh. Trong một trăm ngày  không xuất tinh thì tinh khí sẽ tăng lên gấp bội. 

64

Khoái lạc và trường sinh 

2. Để cho thân thể không bị thương tổn khi giao hợp phải từ tốn, chậm  rãi không cần phải mạnh bạo, cố duy trì thêm thời gian giao tiếp để  tăng thêm sướng khoái và tránh tổn hại tới thân thể. 

3. Giao hợp nhiều bị đau lưng, nhức mỏi, sách "Bí Quyết Ngọc Phòng" 

c  đưa ra cách chữa trị như sau:  – Đứng dựa lưng sát vô tường. 

– G t cũng thật sát tường. 

– Mặt ng  thẳng về phía trước. 

Tập như vậy lâu ngày thì sẽ c  kết quả. 

4. Người xưa còn dùng giao hợp để luyện sự tăng cường thị lực. Cách 

thức như sau: khi giao hợp đã đến lức gần xuất tinh thì: 

– Mặt ngước lên hít thở. 

– Thở ra một hơi dài. 

– Mắt ng  xung quanh. 

– Hít th p bụng vào. 

Luyện tập cách này thì tinh khí thay vì xuất ra mất thì sẽ trở lại vào  trong cơ thể chạy tuần hoàn trong con người ta. 

5. Phương pháp luyện thính tai cũng dùng các cách trên, chỉ thêm vào  cách cắn răng - cắn chặt hai hàm răng trên dưới với nhau - làm cách  này vì răng với thận c  liên quan tới nhau. Khi thận được luyện tập  (không xuất tinh khi giao hợp) thì răng được cường kiện. 

6. Đa số nam nhân c  mặc cảm là mình bị bệnh tảo tinh (bắn khí sớm). 

Từ mặc cảm sang lo âu và cảm thấy mình không làm tròn bổn phận. 

Thật ra đ  không phải là một chứng bệnh, đ  chỉ là một sự sai khiến  không đồng bộ khi giao hợp mà thôi. Không đồng bộ khi người nữ  chưa đạt được cao trào sướng khoái mà mình thì đã "thôi" rồi. Trừ  bệnh này thì cố gắng quan sát người nữ, cố gắng theo, thương yêu vợ  hơn, học thêm kinh nghiệm… 

7. Khi giao hợp thì thời gian hai cơ quan sinh dục tiếp xúc nhau phải là  bao lâu mới đúng không bị coi là "yếu", là bệnh? Vấn đề này thật ra  kh  c  chân lý. Lâu mau là tuỳ theo người, tuỳ theo hoàn cảnh, tuỳ  theo hoạt động của đại não của người đàn ông. Căn cứ theo thông  thường thì thời gian ít nhất phải là một phút và trung bình thì kéo dài  ba phút. Người mạnh thì c  thể kéo dài đến 10 phút, thậm chí c   người duy trì đến nửa giờ. 

8. Còn một điểm mà nhiều người mắc phải là tưởng rằng mình tảo tinh 

khi thấy quy đầu tiết ra chất nước nhờn. Chất này thật ra công dụng  giúp cho việc giao hợp dẽ dàng mà thôi, người Trung Hoa gọi là nước  hứng thú. Nữ nhân khi thấy nước này tiết ra thì phải hiểu là chưa gì 

hết để không kết luận rằng bạn của mình không làm ăn gì được. 

Không, anh ta vẫn hành sự được như thường, hay hơn nữa là khác. 

65

Khoái lạc và trường sinh 

9. Da quy đầu của dương vật khi con trai mới sinh ra thì bọc bao quy đầu 

lại. Từ lâu ở các nước Đông Phương không c  lệ cắt da quy đầu để  trình quy đầu ra, trong khi nhiều quốc gia khác c  lệ này từ lâu. Đây là  vân đề vệ sinh mà cũng là chuyện tình dục nữa. Nếu da quy đầu đã  được cắt thì quy đầu lộ ra ngoài cọ sát với quần áo thường xuyên, từ 

đ  sự cảm ứng "không dễ dàng" vì vậy khi giao hợp cần phải kích  thích tới một mức độ nào đ  mới hứng tình, sự tảo tinh như vậy không  c  dịp xảy ra. Cắt da quy đầu là điều cần thiết. Thanh niên nào đã lớn  mà thằng nhỏ chưa mở mắt thì nên đến bác sĩ cắt cho mở mắt để khỏi  dơ và rắc rối khi giao hợp. 

10.Sự tảo tinh nhiều khi do vấn đề tinh thần. Hoặc nam nhân bị tật thủ  dâm khi còn nhỏ nên khi giao hợp thật sự với nữ nhân trong lòng vẫn  cảm thấy mình không làm tròn phận sự hay là mình không thấy sướng  khoái bằng khi làm một mình với sự tưởng tượng về một người đàn bà  nào đ . Hoặc do nam nhân bị một ám ảnh nào đ  khiến anh ta sùng  thượng quá mức nữ nhân hay quá khinh thị phụ nữ. Cả hai đều làm  cho người này không thể c  sự đồng bộ với nữ giới khi giao hợp vì sẽ  hứng tình cao độ hay sẽ bị dửng dưng. 

11.Tảo tinh còn do nhiều nguyên nhân khác. C  thể hoàn cảnh chỗ giao  hợp không thuận tiện sợ thiên hạ thấy phải làm cho gấp, sợ thiên hạ  nghe tiếng động… Sự lo sợ này ảnh hưởng lên tinh thần. C  thể do sự  lãnh cảm của người nữ. C  thể do sự mất lòng tin rằng là mình được  chuyện. Mặc dù vì lý do nào đ , sự chữa trị cần c  chuyên gia phân  tích tìm ra nguyên nhân thì mới trị dứt được. Nếu là nguyên nhân tự  người trai thì chính anh ta phải đặt kế hoạch để giải quyết, vì đ  là  hạnh phúc gia đình của chính anh ta. Cần phải c  ý chí và tự tin để  cho vợ chồng cùng đạt đến cao trào một lúc. Nếu cần thì khi người vợ  gần đạt cao điểm nên báo cho chồng biết để anh ta tuỳ cơ mà hành sự  chậm hơn hay gấp rút hơn, nếu cần thì phải thay đổi vị thế giao hợp  hay ngưng nghỉ một chút. 

C  người nghĩ rằng để cho nữ nhân chờ đợi thì nàng sẽ mất hết hứng  thú, thật ra không phải vậy. Sự chờ đợi này càng làm cho nữ nhân  thêm hứng tình và bắt đầu lại dễ dàng cùng đạt cao trào hơn miễn là  đừng để cho sự ngừng đ  quá lâu. 

C  cách trừ xuất tinh sớm là "đâm nhẹ nhẹ vào, rút ra mau", cử chỉ  này cứ thế mà tiếp diễn, sự kích thích theo lối này sẽ làm cho người  vợ gọi hứng mạnh khiến cho hai đàng cùng đồng bộ đạt đến khoái  cảm. Rút ra mau dễ trượt dương cụ ra khỏi âm đạo, tốt nhân nên canh  để cho chuyện này đừng xảy ra. 

Cách khác là dùng quy đầu kích thích nhẹ ở ngoài âm đạo cho đến khi  hai bên cùng sắp đạt đến hứng mới cho thằng nhỏ chui vào "động  tiên". 

66

Khoái lạc và trường sinh 

Cả hai phương pháp này tuỳ theo sở thích của ta mà dùng đều c  hiệu  quả kéo dài thời gian xuất tinh tránh được tệ nạn tảo tinh. 

12.Bình dân Trung Hoa c  câu:"Nữ giới cần một nam nhân khi giao hợp  thì giống như dê, như ch  con, như mãnh hổ thì mới thật thoả mãn".  Giải thích câu n i này là phải làm đi làm lại nhiều lần như dê, phải thân  mật như ch  để liếm chân nàng, phải hùng hục mạnh bạo như mãnh  hổ khi vào điểm cuối của cuộc giao hoan, nghĩa là khi dứt điểm phải  thật nhanh gọn. 

13.Ngoài bệnh sớm xuất tinh còn c  bệnh chậm xuất tinh, đây là bệnh ít  thấy nhưng vẫn c . Người mắc bệnh này làm thất vọng nữ nhân vô  cùng. Khi nàng đang đạt đến cao trào, hy vọng chàng sớm hoàn thành  nhiệm vụ, bắn tinh để kết thúc thì chàng lại không làm được. Nên nàng  phải chờ, từ chờ đến miễn cưỡng, miễn cưỡng tiếp tục nên chán nản,  chán nản nên thất vọng, thất vọng nhiều lần sẽ thành đau khổ. Chậm  bắn tinh quá cùng là một mầm phá hoại hạnh phúc gia đình. 

Nhắc lại là sự chậm bắn tinh tuy c  ít nhưng nếu ai gặp nên tìm cách  chữa trị ngay vì trước sau gì tình trạng này cũng đi tới tình trạng vô  năng (bất lực). 

14.Sớm chậm bắn khí c  thể dùng cách thế giao hợp, kỹ thuật giao hợp 

mà chữa trị, nhưng phần lớn vẫn là do sự điều khiển của đại não của  người nam. Khi thấy vật lộn đã lâu, độ một giờ mà nam nhân chưa đạt  đến cao trào hay cảm thấy sướng khoái mà không thể bắn tinh ra thì  nên nghĩ làm lại vì người chồng đã bị chứng chậm xuất tinh. 

THỜI GIAN GIAO HỢP TỐT ĐỐI VỚI NỮ NHÂN 

Hoàng Đế hỏi: "C  người muốn sanh con và muốn c  một đứa con  thông minh mẫn tiệp, vậy c  phương pháp gì giúp đạt thành ý nguyện  không?”. 

Tố Nữ đáp: “C  những nguyên tăc để được c  con. Nguyên tăc đ  là  thân thể nhẹ nhàng, thân tâm bình thản, không lo âu, áo quần ăn mặc tề  chỉnh, thành tâm trai lạt trước thời kỳ c  kinh. Khi kinh kỳ xong xuôi đợi ba  ngày sau thì là thời gian tốt nhất để giao hợp. Trước tiên nam nhân phải  rờ rẫm tạo hứng khởi tối đa cho người đàn bà. Khi giao hợp thì cứ theo  nguyên tắc của việc phòng trung mà thực hành nghĩa là phải “cộng đồng  hưởng thụ”, cuộc giao hợp không phải là mua vui cũng không phải là  miễn cưỡng làm cho c . 

Khi xuất tinh xong nam nhân phải ngâm trong bộ phận nữ nhân, không 

được rút ra liền. Sự kiện này ngoài khả năng làm thoả mãn tâm lý nữ  nhân còn giữ cho tinh trùng không theo âm đạo thoát ra ngoài hay chạy  xa ra ngoài đầu tử cung. Theo cách này thì đứa con sinh ra sẽ thông  minh, đĩnh ngộ, mạnh khoẻ, sống lâu…” 

67

Khoái lạc và trường sinh 

GHI CHÚ: 

Ý kiến trên của Tố Nữ phù hợp với lời dạy của Ông Bành Tổ: "Đàn bà  đếm từ ngày c  đường kinh đến ngày thứ 15 là thời gian tốt để thụ thai, 

đứa con sinh ra do trường hợp này rất thông minh, sáng suốt lại là người  c  nhân dáng cao quý". So với ý kiến của Tố Nữ, ý kiến của Bành Tổ lại 

c  ngày giao hợp lý tưởng để thụ thai hơi xa. Y khoa hiện đại cho rằng ý  kiến của Tố Nữ khả dụng hơn. 

Sách thuốc Trung Hoa nhấn mạnh đến giờ thụ thai lý tưởng là giờ Tý 

(mười một giờ khuya đến một giờ sáng) hay giờ Sửu (từ một tới ba giờ  sáng). Khoảng thời gian này Can mạch (mạch liên quan tới Gan) hoạt  động, trong các mạch đ  c  mạch nối với cơ quan sinh dục làm cho sự  giao hợp dễ thoải mái và lâu. Can mạch hoạt động lên đến tuyệt đỉnh là  lúc hai giờ sáng, vậy nếu c  thể được nên canh vào lúc này mà xuất tinh. 

Kinh Tố Nữ cũng c  nhắc là khi giao hợp để thụ thai thì dương cụ đâm  vào âm đạo nên nhẹ nhàng từ tốn sự thụ thai mới dễ thành tựu. Không  thấy Tố Nữ đưa ra lý do biện minh cho lời khuyên, rất c  thể là kinh  nghiệm của người xưa trong khi quan sát cuộc phòng trung sinh hoạt chớ  chưa đưa ra được nguyên tắc. 

LÀM SAO CÓ THAI TỐT 

Tố Nữ n i: "Con người muốn phù hợp đạo âm dương phải biết tránh  những cấm kỵ và phù hợp với đạo âm dương thì c  được khí thế tốt nhất  để sinh ra con mạnh khoẻ sống lâu". 

Ghi chú: 

1. Khí thế tốt nhất là Nam Nữ phải ở vào tuổi sung mãn, còn trẻ. Nếu lớn  tuổi thì dầu cho c  thụ thai thì đứa trẻ sinh ra cũng không mạnh mẽ  sống lâu được. 

Khí thế tốt nhất là để giao hợp mà sinh ra con cái là kiện toàn, mạnh  khoẻ. Một cặp vợ chồng trẻ mà thân thể không khoẻ mạnh khi giao  hợp nếu thụ thai đứa con sinh ra cũng èo uột, ốm yếu, người say rượu  mà làm tình thì đứa con sanh ra nhiều bệnh tật. 

2. Kinh Tố Nữ không n i thẳng rằng tuổi tác là một vấn đề trong việc sinh  con mạnh khoẻ nhưng cuốn "Bí Kiếp Ngọc Phòng" cho rằng nam nữ  luống tuổi thì sinh con ra yểu mệnh. 

3. Một trong hai người còn trẻ thì vẫn sanh con được. Nam nhân dẫu 80  tuổi cưới vợ 18 tuổi vẫn sanh được con như thường. Nữ nhân dầu đã  hơn 50 c  chồng sung sức, trẻ mạnh vẫn thụ thai và sinh con như  người còn trẻ. 

68

Khoái lạc và trường sinh 

4. Tài liệu còn ghi một vị quản trường ở Nhật vào năm 76 tuổi lấy một cô 

vợ trẻ mới c  23 tuổi tới khi ông ta được 86 tuổi thì người vợ sanh con  đầu lòng. 

TẠI SAO SẮC ĐẸP LÀM NGƯỜI SAY MÊ? 

Hoàng Đế hỏi: “Tại sao sắc đẹp nữ nhân làm cho nam say đắm? Yếu  tố gì trong đ  làm cho con người đắm say?” 

Tố Nữ n i: “Các yếu tố để làm say đắm nam nhâân do trời phú riêng 

cho nữ nhân đ  là: 

- Tiếng n i ngọt ngào. 

- Tính nết dịu hiền. 

- Đầu t c trơn láng, đen huyền. 

- Thịt da trắng, mềm. 

- Xương cốt yểu điệu mãnh mai. 

- Thân hình thon dẽ vừa tầm. 

- Âm hộ không c  lôâng dài mà tinh dịch dồi dào. 

Các nàng c  những điều kiên này mà ở vào tuổi chưa quá 30 thì gọi là 

đầy đủ các yếu tố hấp dẫn nam nhân. 

Ngoài ra trong khi giao hợp nữ nhân nào c  nước nôi linh láng. Thân  hình biết uốn éo chuyển động. Mồi hôi đượm ra và biết để cho nam nhân  chủ động dìu vào cuộc hoan lạc nam nhân không bị mệt nhọc khi giao  hợp thì rất được ưa thích”. 

GHI CHÚ 

1. Các điều Tố Nữ đưa ra về một người con gái thu hút nam nhân quá rõ  ràng ta không thể thêm thắt gì nữa. Nếu thêm vài yếu tố nữa thì cũng  là thêm vào vài chi tiết mà thôi. 

2. Kinh nghiệm người xưa thường n i, đàn bà c  nhiều dâm tính, thì âm  hộ c  lông dài không thì xem lông và lông tay lông chân, các thứ này  c  quan hệ song phương với nhau. Hễ ngoài dài thì trong dài. 

3. Trung Hoa xưa thường điều tra lông âm hộ bằng cách coi lông nách  của nữ nhân. Nếu lông nách mịn màng không xoắn tít thì ta c  một  người đàn bà cao sang. 

4. T c cũng là yếu tố quan trọng. Nếu t c nàng hun hun đỏ thì giao hợp  sẽ tổn hại tinh lực của nam nhân. 

5. Âm thanh của giọng n i cũng là yếu tố khác. Tiếng n i ngọt ngào, êm  dịu nhẹ nhàng là điều làm cho nam nhân đạt được sung sướng khi  giao hợp mà không bị mệt mỏi ốm yếu, không hao tổn tinh khívà còn  được sống lâu. 

69

Khoái lạc và trường sinh 

6. Sách “Tạp sự bí tân” c  ghi các tiêu chuẩn chọn phi tần của vua Hậu  Hán, ghi cả kích thước lý tưởng của tất cả các bộ phận từ mông, đùi,  tay, chân, vai đến ng n chân ng n tay. Tất cả thước tất này thiết nghĩ  ngày nay người thường chúng ta không thể nào chọn lựa được nên  dịch giả miễn không ghi chép lại đây. 

7. Sách về thuật phòng trung hiện đại đưa ra lý thuyết rằng các phép tu 

tiên ngày xưa chẳng qua các phép về hưởng lạc trong nghệ thuật giao  hợp của người xưa mà thôi. Sách tiên đạo c  n i rằng nam nhân c   một loại dương khí đ  là “biến một mỹõ nhân thành một nữ nhân khi 

nữ nhân đ  được ưa thích.” Không được nam nhân ưa thích người đàn  bà chỉ là người tầm thường. Theo cổ thư thì người xưa khi chọn đối  tượng giao hợp họ dựa trên những tiêu chuẩn sau: 

- chân mày xanh (mi thanh). 

- cặp mắt đẹp (mục tú). 

- đôi mi đỏ (thân hồng). 

- hàm răng trăéng (xỉ bạch). 

8. Bàn về chân mày cổ thư c  nhiều ý kiến thú vị: 

– Đàn bà c  chân mày hình chữ rất kém cõi trong sự giao hợp, kỹ  thuật của họ tầm thường không đem lại sự khoái lạc cực điểm cho  người giao tiếp. 

– Đàn bà mà c  chân mày mà hai đầu c  khoé nhăn thi thể lực không  còn mạnh mẽ nữa nếu không n i là suy yêáu. 

– Đàn bà c  chân mày rậm là người thiện nghệ trong viêäc phòng the,  đem đến cho sự hoan lạc khôâng cùng, đàn ông chết mê chết mệt vì  những người đàn bà như thế này. Mày đậm được gọi là mày xanh  (thanh mi). 

9. Mắt: Mắt đàn bà mà con ngươi hướng lên, cặp mắt làm cho nam  nhân nhìn vào tiêâu hồn lạc phách thì kêu là mục tú là những người  làm cho thân thể nam nhân suy nhược, cần phải cẩn thận khi giao  tiếp. 

10.Môi: Môi đỏ như huyết hay đỏ tía là những người đàn bà làm cho  đàn ông si mê, tâm hồn dễ rối loạn không tự chủ được. Nữ nhân c   cặp môi hồng là cường kiện dồi dào sinh lực. 

11.Răng: Răng trắng là người c  nhiều dương khí. Răng và mông c   liên hệ với nhau. Răng trắng thì mông nở. Người phụ nữ răng không  đẹp chứng tỏ tình trạng sức khoẻ suy, bệnh hoạn và việc phòng trung  không dồi dào nữa. 

12.SaÙch “Nhục Bồ Đoàn” trái lại không chú trọng mấy đến các chi tiết  mi, mắt… kể trên mà chỉ là những người bình thường nhưng trẻ trung  tươi mát là được (bình phàm nhi tân tiển). Điều cần thiết là thông thạo  những kỹ xảo của thuật phòng trung. 

70

Khoái lạc và trường sinh 

13.C  một người nữ rất thông thạo việc phòng the, tương truyền nàng 

thụ đắc chân truyền từ Vị Ương tiên sanh một câu châm ngôn: ” Trước  tiên phải xem hình (Vẽ sự giao hợp), sau đ  vừa thực hành đạo lý âm  dương giao tiếp (nam nữ), vừa đọc sách vừa nghe những tiếng động  (do giao hợp phát sinh ra)“. 

Phải xem thật nhiều hình ảnh để hứng nổi lên thật cao, không nên  thượng mã ngay, chỉ lên khi thật hứng không còn kềm chế nổi. Trong  khi đâm rút cũng đọc sách và nghe những âm thanh tính dục để đến  khi hứng tràn mới vận động thật sự. Nhiều khi phải nghỉ trên lưng  ngựa, cứ để n  ngâm trong âm đạo và tiếp tục đọc sách. 

Chuyện của Vị Ương và Hoa Thần chỉ là chuyện trợ thêm cho việc  giao hợp hứng hơn mà thôi.Hiện đại người ta sử dụng thêm phim ảnh,  dụng cụ kích thích, âm nhạc tiếng động cũng trong nhiều hướng của  Hoa Thần. 

CÁCH HẠN CHẾ XUẤT TINH 

Đây là chương n i về điều hòa tinh khí, tiết khí mà vẫn c  giao hợp.  Con người vẫn là bị ám ảnh bằng cái sợ quan trọng là bị hao phí tinh  dịch. Vì vậy nên phải bão tồn n  và hấp thụ thêm phần bổ dưỡng của đối  phương. Nhờ hai cách thế này, con người tránh được tuổi già. 

Sách “Bí quyết ngọc phòng “ c  nghi: 

Tuổi 20 c  thể giao hợp và xuất tinh hai ngày một lần 

Tuổi 30 c  thể giao hợp và xuất tinh 3 ngày một lần 

Tuổi 40 c  thể giao hợp và xuất tinh 4 ngày một lần 

Tuổi 50 c  thể giao hợp và tinh 5 ngày một lần  Đã đến khi tuổi 60 dù c  giao hợp cũng không nên xuất tinh nữa. 

Khi Hoàng Đế hỏi về số lần xuất tinh của một đời người thì Tố Nữ trả 

lời là “số lần căn cứ trên: 

- sức khoẻ 

- tuổi tác 

- khí lực của người đ   Cho nên không thể c  sẵn một con số nhất định được.” 

Ghi chú: 

1. Hoàng Đế trong cung c  một ngàn hai trăm cung nữ, nên thuật phòng  trung vô cùng thông thạo. Trong các yếu tố n i trên yếu tố tuổi tác là  quan trọng nhất vì tuổi tác kéo theo kết quả cùng khí lực. Đàn ông tới  khi 60 tuổi thì tinh ít dần cho đến khi 70 tuổi thì chỉ còn một phần ba so  với khi mình vào lúc 30 tuổi. Vì vậy kiên cữ xuất tinh lúc 60 tuổi là điều  vô cùng hợp lý. 

71

Khoái lạc và trường sinh 

2. Bác sĩ Kim Soai cho rằng đàn ông 75 tuổi ba tuần mới giao hợp một  lần. Khi đến 80 tuổi thì hai tháng mới nên lâm trận. So sánh với kinh  Tố Nữ thì c  sự khác biệt. Điều này dễ hiểu vì c  sự biến chuyển của  đời sống con người qua thời gian. Con người từ lúc kinh Tố Nữ xuất  hiện đến nay đã mạnh hơn về nhiều phương diện, nhất là phương  diện sức khoẻ. 

3. Sách vở c  ghi triết gia Hy Lạp Socrate giao hợp cách mười ngày một  lần. Trong khi đ  đạo cơ Đốc ghi là nên mỗi tuần một lần thôi. Hai con  số này khác nhau và lời khuyên lại không căn cứ trên tuổi tác của con  người, một vấn đề quan trọng mà kinh Tố Nữ c  n i. 

4. Sách “Dưỡng Sinh Yếu Luận“, một quyển sách của đạo gia c  ghi 

chuyện đạo sĩ Lưu Kinh. 

·  Mùa xuân 3 ngày giao hợp c  xuất tinh một lần. 

· Mùa hạ, mùa thu thì một tháng hai lần 

· Mùa đông không nên xuất tinh. 

Lưu Kinh cho rằng sinh hoạt phòng trung tuỳ theo mùa mà phù hợp  với sinh hoạt của thiên nhiên. Nguyên tắc của thiên nhiên là “Xuân  xanh Hạ trưởng, Thu liễm, Đông tàn”. Mùa Đông thì thu về, tàng trữ,  khôâng cho ra vì không thể sinh sôi nẩy nở được. Quan niệm giao hợp  liên hệ với mùa trong năm chỉ thấy ở đạo gia mà thôi. 

Sách “Dưỡng Sinh Tập”cũng c  ghi tương tự như sách “Dương sinh  yếu luận”chỉ thêm một điều là:”Mùa Đông xuất tinh một lần bằng mùa  Xuân xuất tinh một trăm lần”vì mùa Xuân dương khí hạnh mậu, sung  mãn, trong khi đ  mùa đông là mùa của âm khí. Đáng lẽ mùa này nên  tránh giao hợp để phù hợp với thiên nhiên. 

5. Sách “Động Huyền Tử”n i rằng phải bão tín và bão tinh nên trong khi 

giao hợp thì phải quan sát nữ nhân một cách cẩn thận. Đừng quá chú  trọng đến tiết giảm xuất tinh mà quên đi sự hoan lạc của phái nữ. Cần  phải cho hai bên cùng đạt đến cực đĩnh mà vẫn tiết tinh thì mới tốt. 

Nhưng làm thế nào để đạt tiêu chuẩn đ ? Sách đưa ra phương pháp  như sau: 

· Dương vật đâm nhè nhẹ, không xốc nỗi, không hùn hụt. 

· Chỉ đâm cạn vùng âm hạch và thành âm đạo không cần lút cán tới 

đầu tử cung. 

· Nhắm mắt dưỡng thần trong khi đâm rút 

· Cong lưng, cúi đầu. 

· Nở rộng lổ mũi. 

· Mở rộng hai vai ra 

· Ngậm miệng hít hơi vào buồng phổi, càng hít vào nhiều càng tốt. 

72

Khoái lạc và trường sinh 

Nếu áp dụng phương pháp này mà vẫn xuất tinh thì chỉ xuất tinh ba  phần mười tinh dịch mà thôi. Như vậy cũng đạt được khoái lạc đồng  thời vẫn đạt được nguyên tắc tiết giãm tinh khí (tiết tinh).  

6. Ta thấy đây chỉ là phương pháp hô hấp. Thực hành phương pháp hô 

hấp thì thần kinh điều khiển sự xuất tinh không còn hoạt động hữu  hiệu nữa, ngày nay người ta dùng nhiều phương pháp này.Nhưng  điều quan trọng nằm ở chỗ vừa luyện tập vừa tự tin. Luyện tập thuần  thục vì đây là tập hợp của nhiều động tác chống lại một phút tràn trề  của cơ thể. C  ý chí để tin rằng mình thắng cơ thể mình, mình làm  được chuyện đ . 

DƯỢC LIỆU VÀ TOA THUỐC CƯỜNG DƯƠNG 

Nguyên tắc chủ điểm của thuật phòng trung “dĩ nhân bổ thân” hay “dĩ  nhân trị nhân”nghĩa là áp dụng nghệ thuật thế nào c  thể hút tinh khí của  người đang giao hợp với mình để bảo tồn mình. Nguyên tắc này không  thích đáng với sinh lý, bởi vậy để bổ khuyết người đời dùng thêm dược  liệu để bổ tinh. 

Ngày xưa người ta c  thể áp dụng những điều mà con mắt ngày nay c   thể coi là dị đoan. Bỏ đi yếu tố này, dược liệu và những toa thuốc đưa ra  tronh kinh Tố Nữ c  thể dùng như những toa thuốc bổ tinh cường dương  rất tốt. 

Thái Nữ hỏi: “Đạo giao hợp ta đã nghe, đã biết, ta cũng biết rằng muốn  dưỡng tinh cần phải phục dược (uống thuốc) vậy thì dùng những dược  liệu nào thì c  hiệu quả?” 

Bành Tổ đáp: “Nếu muốn cường tráng, trẻ mãi không già, việc phòng  sự vui thú mãi mà không mệt mỏi, khí lực và dung mạo lúc nào cũng sinh 

tươi không suy giãm thì dùng nhung lộc (sừng nai) là tốt nhất.” 

GHI CHÚ: 

1. Đơn thuốc dùng sừng nai như thế nào ? 

Lấy sừng nai cưa ngang cho bằng mặt, mài thành bột rồi thấm vào  sanh phù tử (loại hình bát giác). Mỗi ngày dùng hai lần, mỗi lần dùng  một muỗng canh. Kết quả trông thấy trong một thời gian ngắn độ hai 

mươi ngày. 

Để cho đơn giản người ta chỉ dùng sừng nai không mà thôi. Đem sừng  nai đốt tới khi sừng trở thành màu vàng thì cà ra thàng bột, mỗi lần  dùng thì pha vào nước. Dùng cách này thì cũng c  hiệu quả nhưng  chậm, không thể mau như cách dùng sanh phù tử. 

Người ta còn dùng phục linh sản xuất tại tỉnh Cam Túc bên trong 

Trung Quốc thêm vào bột sừng nai, mỗi thứ một dung lượng ngang 

73

Khoái lạc và trường sinh 

nhau. Mỗi ngày dùng ba lần, mỗi lần dùng một muỗng canh. Kết quả  cũng rất khả quan. 

2. Sách xưa cũng ghi cách chế và công dụng của sừng nai theo lời chỉ 

dẫn của Thái Nữ. 

· Sừng nai muốn loại tốt thì phải lựa thứ sản xuất ở miền Bắc Trung 

Hoa. Loại nai con c  sừng mới nhú màu đỏ, sừng loại này kêu là  lộc nhung, lộc nhung thì hữu hiệu vô song. Các loại khác không thể  nào sánh bằng. 

· Các bộ phận khác của nai cũng c  công những dụng cho cường 

dương, tráng tinh: thịt nai, máu nai, bào thai nai con trong bụng,  gân, đuôi, dương vật đều là những thứ c  tác dụng. 

3. Vua chúa xưa ở Trung Hoa thường ưa dùng thịt nai. Sách Tiền Hán 

thư chép Hán Cao Tổ mỗi ngày hai lần sáng chiều ăn bao tử nai (lộc  tì). Ông cho rằng ăn thứ này làm cho con người mạnh mẽ hăng hái,  khi “lââm trận” không khi nào chiến bại. Đối với Cao Tổ thứ bao tử nai  là thứ bổ dược cường dương vô địch. 

· Dương vật nai thì phải cắt thật xa lên tận ngọn, cắt cả sợ gân trong 

mình nai chớ không phải chỉ phần ngoài cùng của dương vật mà  thôi. Đem sợi gân đ  thái ra từng miếng mỏng phơi khô dùng làm  mồi nhắm rượu. 

· Huyết nai thỉ phải lấy kim chích nơi đầu s ng mũi của nai để máu 

chảu ra mà hứng. Thêm vào máu này nhân sâm, pha thêm chút  rượu cho đễ uống. Mỗi ngày uống một chung nhỏ. C  thứ thuốc  này thì mỗi ngày “trèo đèo” một lần vẫn không thấy mệt. 

4. Trong giới săn bắn còn tương truyền là ăn thường thịt nai và uống  máu nai thì mỗi ngày giao hợp và xuất tinh hai lần mà vẫn không thấy  hề hấn gì, vẫn mạnh khoẻ như thường không mệt mỏi. Sách Nhật c   chép chuyện một người thợ săn ở vùng Bắc Hải đảo c  cả thảy mười  một người vợ mà tất cả đều ly dị lý do vì ông ta rất mạnh trong việc  giao hợp, các bà lần lần rút lui, vì không sao chịu nỗi sự đồi hỏi của  ông ta. Họ quảng sợ về sự cường dương vô địch, c  thể lên bất cứ lúc  nào của ông ta. 

5. Bên trong c  n i dùng sừng nai vơí sinh phù tử. Sinh phù tử là một  chất độc, nhưng phối hợp với lộc nhung hay phục linh thì không còn  độc nửa mà còn bổ dương cường tinh. 

6. Quan niệm của Trung Quốc về thuật phòng trung là tự ta là cho ta 

mạnh tinh cường dương, không ai sinh ra đời mà sinh lý tự nhiên 

mạnh. Phải tập luyện, phải dùng đúng thuốc, phải theo những cách  điều chế được chỉ dẫn. Bành Tổ n i dùng dược liệu là trong ý nghĩa 

đ . 

74

Khoái lạc và trường sinh 

TOA THUỐC TRỪ BỆNH LUÔN LUÔN 

ĐÒI HỎI XÁC THỊT 

Khi hoàng Đế hỏi về toa thuốc trị bệnh cho một người luôn luôn đòi hỏi  xác thịt, không bao giờ thỏa mãn. Tố Nữ kể câu chuyện như sau: 

“C  một nữ nhân tuổi đã 30 nhưng việc tình dục đòi hỏi như thiếu nữ  mới ngoài 20. Nàng luôn luôn cần gần gũi đàn ông, không c  dương khí  trong mình thì nàng không sao chịu được, âm hộ nước nôi dầm dề nhiều  khi chảy ra ướt cả quần.” 

Lý do c  sự kiện này là vì trong âm hộ của nàng c  một loại trùng làm  tổ. Đ  là loại trùng thật nhỏ (cở 3 phân Tàu), hình đuôi ngựa. Trùng này  c  2 loại, đầu đỏ và đầu đen. Loại đầu đỏ không linh hoạt bằng loại đầu  đen. 

Trị bệnh này thỉ dung phương pháp như sau: Dùng bột mì nấu chín, vo  thành một vật giống như dương cụ lớn nhỏ tùy theo ý thích của bêïnh  nhân, chế vô đ  một ít nước tương, đâm vô đâm ra nơi âm hộ đến một lúc  thì các con trùng đ  cũng theo ra. Cứ tiếp tục như vậy như là giao hợp với  nam nhân, tới khi lấy hết tất cả trùng ra. Thường trùng này làm tổ thì độ  30 con trong một âm hộ. 

GHI CHÚ: 

1. Chuyện của Tố Nữ kh  tin nhưng cũng chẳng qua chỉ là cach thỏa  mãn dục tình của nữ nhân với lời tư an ủi rằng đ  là một phương thức  chửa bệnh xấu của mình mà ngày nay phụ nữ Tây phương thường  dùng với dụng cụ tương tự. 

2. Ngày nay các bệnh về tình dục không thỏa mãn c  2 loại: 

· Đàn bà mắc bệnh đòi hỏi không bao giờ biết thỏa mãn và lãnh cãm. 

· Đàn ông tảo tinh (xuất tinh quá sớm tức là kh c ngoài quan ải) và  vô năng (bất lực, không làm nên trò trống gì). 

Cả 4 trường hợp đều là bệnh này tương phản với bệnh kia ở trong  một tính phái. Bệnh sanh ra do việc giao hợp quá mạnh bạo, gấp rút  mà ra. Vậy để chữa bệng này cần phải dùng vật lý trị liệu (thuốc men)  và tinh thần trị liệu. 

Trời sinh ra nam nhân khác với nữ nhân, tính dục dễ dàng bị kích  thích. Nhưng người dễ bị kích thích quá thì c  hại vì hứng tình lên  nhanh thì xìu xuống cũng nhanh. Trong trường hợp này bệnh dễ mắc  là tảo tiết. Mắc chứng này rồi thì sớm muộn gì cũng mắc chứng vô  năng. Người vợ của bệnh nhân này vì không được thỏa mãn khi giao  hợp với chồng nên bị măc chứng lãnh cãm. 

T m lại loại bệnh này là bệnh làm cho sự giao hợp suy nhược. Trái với  vô năng và lãnh cãm là giao hợp bao nhiêu lần không thấy đủ, không  muốn nghĩ. Đây cũng là một loại bệnh cần chữa trị. 

75

Khoái lạc và trường sinh 

3. Toa thuốc trừ bệnh tảo tiết hay vô năng là toa thuốc Ủy kê tán (thuốc 

bột) hay Ủy kê hoàn (thuốc viên). Toa thuốc gồm: 

Nhục tùng dung   3 phân 

Ngủ vị tử     3 phân 

Viễn chí    3 phân 

Xà sàng tử    4 phân 

Thố ty tử     3 phân 

Đem cả 5 loại nghiền thành bột, mỗi ngày đến lúc bụng đ i thì dùng  một muỗng canh, hoặc pha trong rược, hoặc them mật mà vò thành  viên. Thuốc rất hiệu nghiệm, không c  nữ nhân bên cạnh để sẳn sàng  gầy cuộc vui thì không nên dùng thuốc này. Trong vòng 60 ngày uống  thuốc này thì c  thể hạ ngã 40 người đàn bà khác nhau dễ dàng. 

Truyện kể c  một người Thái Thú tại Tứ xuyên tên là Lữ Kính Đại, 

ông ta dùng thuốc này vao nhưng năm đã quá 70 tuổi vậy mà vẫn  sinh được thêm 3 người con nữa. Sách cũng kể là khi ông dùng thuốc  thì sự giao hoan quá mạnh khiến cho phu nhân sinh ra nhiều bệnh  chứng, âm hộ đau nhức, phu nhân không thể ngồi được. 

Không muốn sử dụng thuốc này nữa, ông Thái Thú đem bỏ ra sau  vườn. Một con gà trống ăn phải liền trèo lên đạp mái một con gà tơ,  gà trống lên được thì không chịu xuống nữa, mỏ vẫn cắn cái mồng  của gà mái cho đến khi con này giựt đứt ra. 

Tên Ủy kê tán c  từ sự tích này. 

Chuyện và toa thuốc n i trên ghi trong sách “Ngọc phòng bí quyết” 

và “Động Huyền Tử “. 

4. Trong sách “Cổ kim lục nghiệm pháp” c  ghi câu chuyện như sau:  

Vua Tùy Dương Đế xuống chiếu cầu ai c  toa thuốc cường dương 

thì dâng lên vua. Triều đình nhận được một biểu chương như sau: 

“Phu nhân của thần thiếp tên là Hoa Phù. Khi ông ta lên 80 tuổi thì  việc phòng trung không còn c  thể sinh hoạt được nữa. Cả hai vợ  chồng thiếp đều buồn. Một ngày kia phu quân thiếp nhận được một  toa thuốc thần diệu là “Ích đa tán” từ sự chỉ vẽ của một người bạn. Ích  đa tán gồm các dược liệu như sau: 

- Sanh địa hoàng 1 tiền. Rửa sạch thái mỏng ngâm vào một lít  rượu. Thời gian sau vớt ra ngiền thành bột. 

- Quế tâm 2 phân 

- Cam thảo 5 phân 

- Bạch truật 2 phân 

- Hàn thái 5 phan  Đem 5 vị thuốc này nghiền nát thành bột, sau bữa ăn uống chung 

vơi rượu, mỗi ngày dùng 3 lần, mỗi lần dùng một muỗng canh. 

76

Khoái lạc và trường sinh 

Sau khi dđiều chế xong, phu nhân của thần thiếp chưa kip sử dụng  thì qua đời. Thần thiếp c  một người giúp việc trong nhà năm ấy đã  ngoài 70 tên là Ích Đa. Tên này nhiêàu bệnh nê thân thể suy nhược,  hay đau lưng nhức mỏi, đầu t c bạc phơ, mỗi khi di chuyển rất là khổ  sở, thần thiếp tội nghiệp đem thuốc Ích Đa Tán không còn dùng nửa  đối với thần thiếp mà cho hắn ta. Không ngờ chỉ dùng trong một  tháng, thì lưng hắn đã thẳng không còn cong nửa, da lại hết nhăn, t c  lại trở nên đen, mặt mài hồng hào, tươi mát như thanh niên độ cường  tráng. Trong thời gian này thần thiếp c  hai nữ tỳ tên là Phan Tức va  Cẩn Thiện, cả hai đều lấy Ích Đa, hai năm sau cả hai nàng sinh với  hắn bốn đứa con. Ích Đa tối ngày lâân la ngoài đường rượu chè, chờ  đến tối vợ về bày cuộc mây mưa. Vợ chịu không thấu nên một hôm  Cẩn Thiện bỏ chạy trong tệ thất, Ích Đa rượt vợ tận phòng thiếp, bắt  đè xuống giao hợp ngay tại đây. Chứng kiến sự mạnh mẽ, cường  dương khác thường của Ích Đa, thần thiếp hứng tình nên thuận lòng  nhảy vào cuộc vui. Thần thiếp tuy quá 50 tuổi nhưng trước cảnh này  cũng không đè nén được mình nên để cho xác thịt đẩy đưa. Thời gian  qua thần thiếp c  với Ích Đa 2 con. Một mình hắn quan hệ với 3 người  đàn bà nhưng vẫn không thấy mỏi mệt chút nào, tinh lực vẫn dồi dào,  cuộc vui vẫn hào hứng. Một ngày nọ thần thiếp nghĩ rằng mình thông  gian và c  con với người hầu cận là một việc vô cùng tệ, mất giá trị  mình nên lừa dịp giết Ích Đa đi. Thần thiếp mổ dương vật hắn ra xem  xét tại sao hắn mạnh như vậy thì thấy dương vật hắn thoa đầy chất  hoàng tuỳ. Nếu Hoàng Thượng muốn chinh phục nữ nhân thì phải  dùng Ích Đa tán và sử dụng Hoàng tuỳ. Đây là một toa thuốc tuyệt  diệu, thần thiếp kính dâng lêân bệ hạ.” 

Đây là một biểu tấu rất thật. Phản ứng về tình dục của người phụ  nữ cũng rất thực. Triều đình lưu trữ biểu chương này chứng tỏ rằng y  giới trong triều đình rất là chú ý đến khía cạnh dục tính của vấn đề. 

5. Ngoài các toa thuốc trên còn c  các toa như “Cực yếu phương”, “Cát 

Thị phương”, “Lão bà phương”, “ Bản thảo của Tô Kính”, “Bí mật yếu  thuật phương”. Trừ “Cực yếu phương” thất truyền từ lâu, các toa thuốc  khác vẫn còn truyền tụng cho đến ngày nay coi như thứ thuốc bổ  dương hữu hiệu và c  kết quả chứng nghiệm. 

·  “Cực yếu phương” gồm: 

- Sà sàn tử          2 phân 

- Thố hệ tử          2 phân 

- Ba kích thiên bì  2 phân 

- Nhục tùng dung  2 phân 

- Viễn chí             1 phân 

- Ngũ vị tử           1 phân 

77

Khoái lạc và trường sinh 

Các dược liệu trên được nghiền nát thành bột, mỗi lần dùng một nửa  tiền pha với rượu, dùng trong 20 ngày thì c  kết quả (tinh khí hăng  cường, giao hoan không biết mệt). 

·  “Cát thị phương” chuyên trị: 

– Nam nhân dương cụ không thức nỗi, xìu trơ 

– Nữ nhân âm bế đến nỗi khong thích giao hợp  Dược liệu gồm:   - Nhục tùng dung 

 - Thố ty tử 

- Sà sàn tử, 

- Chí viễn 

Mỗi thứ một lượng, đem nghiền nát thành bột, pha với rượu. Mỗi ngày  dùng ba lần, mỗi lần dùng một muỗng canh. 

·  “Lão bà phương“ cũng là toa thuốc trị dương cụ không giương,  gồm: 

- Câu dĩ 

- Xương bồ 

- Thố ty tử 

Mỗi thứ một phân, nghiền nát, moi ngày dùng ba lâàn, mỗi lần dùng  một muỗng canh, trong một tháng thì dương vật cứng như sắt, như  gang. 

·  “Bí mật yếu thuật dương “: 

– Lấy một tổ ong vào tháng tám, ép suốt một đêm rồi đem vào  bỏ vào trong một cái túi nhỏ rồi đem treo trên một cành tre, đến  một ngày thì tổ ông biến thành “Âm can diệu dược”, một thuốc  kích dục hữu hiệu. 

Khi trong mình không thể hứng tình mà muốn giao hoan thì lấy tổ ong  đ  cắt ra vài miếng. Chia là hai phần. 

-  Phần thứ nhất để lên lửa riu riu, và nấu cho đến khi âm ấm. 

-  Nửa phần còn lại cho vào lòng bàn ray, nhổ nước bọt vào cho 

mềm rồi đem thoa lên dương vật để như vavậy cho khi khô  những bụi xác rớt xuống hết rồi giao hợp. Nên nhớ nếu muốn  tăng cường cảm khoái thì chà lên quy đầu, nếu muốn dương vật 

tăng trưởng lên to lớn hơn, thì nên thoa xung quanh cua n . 

-  Khi giao hợp nên pha phần đang để lửa âm ấm llia với rượu mà  uống. 

· Còn một phương pháp làm cho dương vật bị liệt giương lên dược là 

lấy “dầu ba đậu” hay thuỷ ngân thoa lên vùng lông trước khi muốn  giao hợp. 

78

Khoái lạc và trường sinh 

Tất cả những thuốc và phương pháp trên là dùng để chữa chứng  không lên của thằng nhỏ, một mặt chửa trị nhưng một mặt khác cũng  là kích thích thêm phần khoái cảm. 

6. Muốn giảm bớt tình dục quá sung mãn của nam nhân người nữ c  thể  thuyết phục để châm cứu họ. Điểm châm cứu là điểm “tam tâm giao”  cách ba tất kể từ g t chân đi lên. Giảm bớt sự dương cường của nam  nhân người nữ c  thể tránh thụ thai hay khỏi mệt trong những lần giao  hoam mình không đủ sức chịu đựng. 

7. Các thứ n i trên chỉ là phương cách đi tìm khoái cảm, vấn đề quan 

trọng hơn là làm sao trẻ mãi không già, truờng thọ mà vẫn thụ hưởng  được khoái cảm. 

Cổ thư còn ghi lại những sự tích về mặt này. 

Dương quí phi muốn cho Đường Huyền Tôn sủng ái mình nên luôn  luôn chú trọng trau chuốt về ba mặt sức khoẻ, sắc đẹp và tính kỷ (kỷ  thuật giao hợp sao cho tạo sướng khoái tối đa cho người giao hợp với  mình). Quí phi ăn nhiều trái vải (lệ chi) vì thứ trái cây nầy c  dược tính  làm cho thề lực kiện khang. (Tuy nhiên không ăn nhiều quá để c  thể  bị chứng máu cam vì trái vải 0tính nhiệt). Sự kiện thích ăn một trái gì  đ  để tăng cường thể lực ở đâu cũng c . Bên Ai cập này xưa các  Hoàng hậu muốn cho da thịt mình b ng loáng, đẹp đẽ đã cho ngâm  trân châu vào rượu để uống. Quí phi cũng còn dùng những loại thuốc  bổ âm khác, đặc biệt là qua các thức ăn như yến và trái vải. 

Trái vải rất c  tác dụng lên can tạng (gan) và tì tạng (bao tử) nghiã  là c  thể làm tiêu trừ những độc khí trong thân thể và c  tác dụng  chấn tỉnh tinh thần khiến không cảm thấy mệt nhọc, bãi hoãi.   

8. Cổ tịch của Trung Hoa khi n i về nhưng cách cường tinh bổ dược c   nhắc đến một khí cụ dùng cho nữ nhân hình dáng tương tự như  dương cụ, do đo ta thấy rằng ngày xưa cũng đã biết tính cách gợi dục  cuả vật chất. 

Dễ tháy nhất trong việc nầy là chuyện dùng trái đào. Đem một trái đào  nhâm trong giấm chua thì c  được một thứ gọi là “thôi dâm dược” thứ  thuốc kích thích dâm. Ngòai tính chua, đào còn c  hình dạng như bộ  phận sinh dục của nữ nhân, là một thứ c  tính cách gợi dục, khi nhìn  trái đào thì con người sẽ liên tưởng ngay đến chuyện đàn bà và mây  mưa. Chuyện truyền kỳ ghi lại trong sách “Liệt tiên toàn truyện “ về bà  Tây vương mẫu xuống trần năm Nguyên Phong nguyên niên tặng cho  Hán Vũ Đế bảy trái đào tiên mọc ngoài Đông hải tiên sơn để chúc cho  Vũ Đế sống lâu cũng c  ý nghĩa xa gần về tình dục. Người đời Hán c   nhiều người theo phái tính đào (tính cách gơị cái giống nữ của trái  đào) nên đặt ra chuyện nầy. 

9. Kinh Thi của Trung Hoa (loại ca dao của ta) c  câu “đào chi yêu yêu,  xử nữ vu quy, nghi kỳ thất gia…” là tả người con gái đẹp trước khi về  nhà chồng, mặt mơn mởn xinh tươi như trái đào. Ở Nhật Bản 

79

Khoái lạc và trường sinh 

“Phương diện tập” cũng ghi chép những câu ca miêu tả người đẹp.  Điều đ  cho ta thấy rằng loài người ở đâu cũng thế thường ca ngợi sự  hoan lạc của tính ái (sung sướng của giao hợp), và gom g p các  chuyện tươi đẹp của nhân gian thành các bài ca dao. 

10.Loài người là loài duy nhất biết tạo ra trong trí mình sự liên tưởng và  sự không tưởng, cho nên khi dùng thuốc thì phải tin tưởng n  c  hiệu  quả. C  tin thì thuốc mới công hiệu, còn không tin thì uống bao nhiêu  thuốc cũng vôâ ích mà thôi. Trong chuyện “Quỉ giao” c  kể chuyện một  người bị bệnh giao hợp không thỏa mãn đêm đêm nằm mộng thấy  mình hành sự với yêu quái. Mộng này sinh ra vì sự tưởng tượng tới  tình dực ban ngày mà thôi. Tự kỷ không nghĩ chuyện ân ái thì mộng  cũng không còn  Một nhà sáng tác nhạc người Nhất tên là Bình Vĩ Xương Hoàng khi  nằm bệnh viện trị bệnh kế thạch đã tự chữa bằng cách niệm danh Bồ  Tát mỗi ngày một vạn lần. Ông dự trù niệm như vậy trong năm năm thì  sẽ khỏi bệnh, nhưng chỉ trong vòng một năm thì đã khỏi. Nguyên do  hết bệnh vì ông an tâm niệm kinh và hô hấp dài. Khi hít vào lượng  dưỡng khí lớn tim và phổi được kích thích để hoạt động, trong thân  thể sẽ sinh ra các phản ứng hữu ích. Hô hấp dài hạn để tập trung ý chí  vào một chủ điểm sẽ quên hết tất cả phiền não cũng là một yếu tố tâm  ý tốt khiến cho mau lành bệnh. Tin tưỡng mình sẽ hết bệnh cũng là  một yếu tố trong sự việc này. 

11.Sách “Bí quyết ngọc phòng “ c  ghi thuật làm cho dương cụ dài ra như  sau: Dùng sơn thúc, tế tân, nhục tùng dung, mỗi thứ một lượng bằng  nhau. Tất cả được trộn trong mật ch . Đem treo trong phòng ba mươi  ngày thì lấy xuống cà xát vô dương vật. Cách này c  thể làm cho dài  ra thêm một tấc (Tàu). 

Sách “Lục nghiệm phương” c  chỉ cách làm cho âm đạo nhỏ lại và  n ng như sau: Dùng thanh mộc hương hai phân, hợp với sơn châu  bốn phân. Ngiền cả hai thành bột, dùng nước miếng của mình vê  thành những viên nhỏ bằng hạt đậu, sau đ  dùng những viên này xát  bên ngoài âm hộ thì rất c  hiệu quả. 

12.Các thứ thuốc và phương pháp áp dụng c  hiệu quả chắc chắn c   bạn sẽ tự hỏi: Người viết sách này tin rằng ngắn c  thể biến thành dài.  Nhỏ c  thể làm cho lớn. Lớn c  thể làm cho nhỏ. Tin là một yếu tố tâm  lý cần thiết để thực hiện c  hiệu quả. Việc cọ xát, thoa b p chính n  đã  làm cho máu huyết cho đ  lưu thông thêm, kích thích thêm cơ năng  tình dục nên ít ra cũng c  hiệu quả phần nào. Thuốc chỉ là một phần,  tin là chuyện sẽ thành mới là phần quan yếu trong việc cường tráng và  cường tinh. 

80

Khoái lạc và trường sinh 

NHỮNG CẤM KỴ KHI GIAO HỢP 

Hoàng Đế hỏi Tố Nữ: Tinh lực của nam nhân biến đổi bất thường, c   khi yếu khiến dương vật không dương lên, c  khi tinh dịch yếu đến  khôâng xuất ra. Nàng c  biết phép trị liệu nào không? 

Tố Nữ đáp:”Sự kiện này cũng thường thôi, biết bao nhiêu nam nhân 

đắm say tửu sắc đến sanh tật bệnh. Muốn trẻ mãi không già không gì  bằng đừng mê gái dẹp. Đây là một điều rất quan trọng mà nhân sinh mắc  phải vẫn không chừa. Nếu vì sắc mà trị bệnh thì phải dùng dược liệu trị  ngay. Tuy nhiên trước khi bắt đầu giao hợp phải tránh những cấm kỵ, vi  phạm những cấm ky thì dùng dược kiệu cũng vô ích mà thôi.” 

GHI CHÚ: 

1. Những cấm kỵ đ  là gì? 

Sách Tố Nữ c  ghi lại sáu điều cấm kỵ như sau: 

· Kỵ thứ nhất 

Không được giao hợp vào ngày đầu tháng âm lịch (thượng  ngươn) giữa tháng (lúc trăng tròn) và cuối tháng. Phạm vào cấm kỵ  này con cái sinh ra sẽ bị thương tổn, còn mình thì “không còn  giương lên được”. Trong mình lúc đ  bị “dục hỏa thiêu trung”, nghĩa  là hỏa thị dục thiêu đốt tâm can của mình nên nước tiểu phát ra c  

màu đỏ hay vàng lườm. Nhiều khi mang thêm bêïnh di tinh. Tuổi  thọ bị giảm. 

· Kỵ thứ hai 

Khi c  sấm sét, mưa gi , đất thảm trời sầu, động đất, tránh không 

được giao hợp. Giao hợp thì con cái sinh ra sẽ bị câm điếc, mù loà  hay tinh thần suy nhược. Về phương diện tâm lý thì đứa nhỏ sẽ c   một tinh thần suy nhược, đa sầu, đa cảm, luôn luôn ủ dột. 

· Kỵ thứ ba 

Không nên giao hợp khi đã ăn quá no hay khi đương cơn say. 

Phạm cấm kỵ này nội tạng bị tổn thương, nước tiểu màu đỏ, mặt tái  xanh, lưng đau mỏi, mình mẩy phù thủng, tuổi thọ bị rút xuống rất  nhanh.  

· Kỵ thứ tư 

Không nên giao hợp khi vừa mới đi tiểu xong. Lúc này cơ thể  chưa trở về trạng thái bình thường, chưa sẵn sàng để mở ra hoạt  động rất phức tạp là giao hoan. Phạm điều cấm kỵ này thì về sau  ăn uống sẽ mất ngon, bụng phình to, tâm thần luôn luôn phiền  muộn, nhiều khi lơ đãng như người mất trí. 

· Kỵ thứ năm 

81

Khoái lạc và trường sinh 

Tránh giao hợp khi người đã mất sức vì mệt nhọc như đi bộ, lao  động nặng, mệt mỏi chưa phục hồi, trong minh bãi hoải. Phạm cấm  kỵ này thì sẽ bị mắc bệnh suyễn, miệng khô, đường tiêu hoá bị trở  ngại, các cơ quan bài tiết gặp những giao động. 

· Kỵ thứ sáu 

Không nên giao hợp liền khi đương n i chuyện với nữ nhân mà  dương cụ nổi lên. Vi phạm điều này thì dương cụ bị thương tổn, nội  trạng bị suy, lổ tai không còn thính, tinh thần bất an, ho suyễn.  Nhắc lại, sáu điều cấm kỵ này quan trọng đến nổi nếu phạm phải thì  sinh bệnh, chỉ c  thần dược mới chửa khỏi mà thôi. 

2. Sách Tố Nữ ghi lại cuộc đối thoại sau đây: 

Hoàng Đế hỏi Cao Dương Phụ: “Ta nghe Tố Nữ n i nam nhân hay bị  cửu lao và thất thương, nữ nhân hay bị hồng, bạch đái và tuyệt sinh  (không thể sinh con). Thử hỏi vì sao mà sinh ra những chứng bệnh này?” 

Cao Dương Phụ n i: “Nam nhân thường bị các tệ nạn ngủ lao, luc cực 

và thất thương. Các bệnh này sinh ra điều c  nguyên nhân.” 

Hoàng Đế n i: “Ta muốn nghe n i về thất thương, xin nàng trình bày 

cho rỏ.” 

Cao Dương Phụ n i: 

Thất thương là: 

- Âm hản (mồ hôi trộm) 

- Âm suy (yếu sinh lý) 

- Tâm thanh (tinh dịch đổi màu không trắng) 

- Tinh thiểu (tinh dịch ít và lỏng bỏng) 

- Âm hạ ướt 

- Tiểu ít 

- Không cương cứng  Làm sao trị những chứng bệnh trên? 

Chỉ c  cách dùng phục linh. Phục linh là thần dược c  thể dùng quanh 

năm. Các dược liệu khác dùng chung và các điều chế như sau: 

- Phục linh         4 phân 

- Sương bồ   4 phân 

- Sơn cu di   4 phân 

- Quát tử cân   4 phân 

- Thố hệ tử   4 phân 

- Ngưu thằng   4 phân 

- Thức thạch chi   4 phân 

- Can địa hoàng   7 phân 

82

Khoái lạc và trường sinh 

- Tế tân              4 phân 

- Phòng phong  4 phân 

- Xu dự              4 phân 

- Thục đoạn   4 phân 

- Sà sàng tử   4 phân 

- Bát thực           4 phân 

- Tam thiên kỵ  4 phân 

- Thiên hùng   4 phân 

- Thạch đẩu   4 phân 

- Đổ trọng          4 phân 

- Tùng dung   4 phân  Các dược liệu n i trên đem tán chung thành bột, thêm vào mật ong,  trộn đều, vo lại thành viên bằng ng n tay, dùng ngày ba lần, mỗi lần 3  viên. 

C  thể không cần trộn với mật ong, để bột như vậy dùng như thuốc  tán, mỗi lần dùng một muổng canh, dùng liên tiếp 7 ngày thì sẽ c  hiệu  quả, 10 ngày thì sẽ hết bệnh, 39 ngày thì sẽ trở lại bình thường. Nếu  dùng thường trực thì sẽ được cải lão hoàn đồng, thân thể khoẻ mạnh.  Trong thời gian dùng thuốc này, cử thịt heo, thịt dê, cử không được uống  nước lạnh (uống trà n ng thì tốt). 

3. Kinh Dịch c  n i: “Các hiện tượng của trời đất là điềm triệu của cát 

hung, tốt xấu, bởi vậy người đời căn cứ trên thiên nhiên mà đoán  được chuyện sắp xẩy ra. Những điều cấm kỵ n i trên điều căn cứ trên  triết lý lấy thiên địa nhân làm gốc.” 

-  Điều cấm một là vì các ngày tháng này tương ngày âm thần. 

-  Điều cấm hai là vì các ngày giờ này là tương đương thiên kỵ. 

Điều cấm này cũng hấy nhắc đến trong sách Lễ Ký. Sách Lễ Ký  chép rằng khi trời nổi cơn mưa gi  sấm xét thì không nên thụ  thai vì đ  là lúc thiên nhiên đang cường nộ, người giao hợp dễ  bị phong đơn. Lấy cái nhìn tân tiến mà xét, thì c  sấm xét thì  trong lòng ta không yên, việc phòng sự không còn hứng thú  nữa. 

-  Điều cấm thứ ba thuộc về nhân kỵ: Ăn no sẽ ảnh hưởng đến tì  (bao tử), hỉ nộ, bi, thương sẽ bị ảnh hưởng đến nội trạng. Y học  ngày nay cũng c  bàn luận xa gần đến vấn đề này khi khảo về  sự tương quan giữa âm và thân (thân tâm y học). 

Ngoài ra còn c  địa kỵ mà người dân tương truyền cùng nhau là  cơ bản văn hoá Á Đông, đ  là khôâng được giao hợp trong đền  chùa, thần mếu, phật pháp, đáy giếng chỗ nhà bếp, nơi cầu, chổ  mồ mà, cạnh quan tài. Các điều cấm kỵ này đưa ra là để ta an 

83

Khoái lạc và trường sinh 

tâm rằng, mình không c  làm gì bậy thì như cuộc vui mới đạt  được tuyệt đỉnh của n . 

-  Điều cấm kỵ thứ tư là không được giao hợp khi mới tiểu xong  mới nghe qua thì c  vẻ vô lý nhưng người Trung Hoa ngày xưa  đã c  căn cứ tin tưởng điều này. Sách “Ngọc phòng bí quyết” c  

đoạn n i rằng sau khi tiểu xong thì tinh khí hao hụt, các mạch 

đạo không thông, trong tình trạng như vậy mà giao hợp thì 

đương nhiên bị tổn thương nội trạng. Nếu giao hợp thụ thai 

được người mẹ sẽ bị tổn thọ. 

Tất cả 7 điều cấm kỵ trên thì người xưa đều c  lý do của họ, ta thấy  rằng không hữu lý vì ta nhìn dưới cặp mắt của người tân thời, không  để ý trêân khía cạnh âm dương, mạch… của y lý xưa. Nhưng không  phải vì vậy mà ta khinh thường rồi cứ ngang nhiên bước vào những  điều cấm kỵ. 

4. Xét cuộc n i chuyện trên của Hoàng Đế và Cao Dương Phụ ta nghe 

nhắc đến ngủ lao, lục cực và thất thương, nhưng phần trên chỉ mơí n i  đến thất thương mà thôi, các thứ khác không thấy nhắc đến. Độc rải  rác đ  đây thì thấy Tố Nữ kinh c  nhắc đến các bệnh về bộ máy sinh  dục khiến ta c  nghĩ rằng ngủ lao, lục cực là n i về bệnh sinh lý.  Chẳng hạn như bệnh niếu đạo viêm (sưng đường tiểu). Về bệnh này  Đông y c  đưa ra phép chửa như sau:  - Uống thật nhiều nước 

- Cử ăn các loại sinh vật  Cách này xét ra đã c  kết quả. 

5. Tây y nghiên cứu nơi tật bệnh mà cho toa, ít chú trọng đến nguyên  nhân xa cho nên lắm khi bệnh hết mà hại các cơ quan khác, tiếng y  khoa gọi là phản ứng phụ. Đông y trái lại tuỳ theo tính chất của bệnh  và sự quâân bình mạch, nhiệt của bệnh nhân mà gia giảm thuốc cho  nên tuỳ người mà c  thang thuốc riêng, bởi vậy dùng đông y nên cẩn  thận, không nên thấy người nọ người kia uống thang thuốc này thang  thuốc nọ hết bệnh mà cứ lấy toa mà cứ lấy thang thuốc riêng của họ  bổ cho mình. 

6. Thời tiết trong năm đối vơí Đông y cũng quan trọng. Sách còn nghi lại  câu chuyện của Cao Dương Trụ đáp Hoàng Đế trong đ  nàng n i mỗi  mùa thì dùng những thứ thuốc khác nhau, thuốc mùa thu khác với với  thuốc mùa hạ, thuốc mùa hạ khác với thuốc mùa Đông… 

84

Khoái lạc và trường sinh 

MỤC LỤC 

HIỂU BIẾT CÁC BÍ QUYẾT HÀNH SỰ DỰA TRÊN ÂM DƯƠNG VÀ NGŨ HÀNH ............... 3 

NHIẾP BỔ VÀ CƯỜNG TINH................................................................................................. 5 

CHƠI NHIỀU ÍT MỆT .............................................................................................................. 7 

CHÍN LẦN CẠN MỘT LẦN SÂU ............................................................................................. 8 

DƯỠNG SANH VÀ LUYỆN KHÍ ........................................................................................... 10 

TƯ THẾ VÀ TÌNH THÚ.......................................................................................................... 14 

TỨ THỜI VÀ NGŨ TẠNG...................................................................................................... 17 

TÂN HÔN MỘT KHẮC ĐÁNG NGÀN VÀNG........................................................................ 19 

TÂM BÌNH, KHÍ HOÀ, GIÃ THÁI TỰ NHIÊN........................................................................ 22 

VUỐT VE MƠN TRỚN.......................................................................................................... 22  

TRẮC ĐỊNH TÌNH CẢM......................................................................................................... 24 

1. NGŨCHỨNG:.............................................................................................. 24 

2. NGŨDỤC:.................................................................................................... 25 

3. THẬPĐỘNG:............................................................................................... 25 

TỨ HẬU VÀ CỬóU KHÍ........................................................................................................ 26 

CỬU PHÁP............................................................................................................................ 27 

1. THẾRỒNGUỐNKHÚC............................................................................... 27 

2. THẾHỔ:HỔRÌNHMỒI(THế THứ NHÌ TRONG CửU PHÁP) ............................... 28 

3. THẾVUỢNLEOCÂY(PHÉP THứ BA TRONG CửU PHÁP) ................................ 29 

4. THẾVESẦU:VEBÁMCỘICÂY(PHÉP THứ TƯ TRONG CửU PHÁP)............... 30 

5. THẾRÙA:RÙABAY(PHÉP THứ NĂM TRONG CHÍN PHÉP)............................... 31 

6. THẾPHƯỢNG:PHƯỢNGMÚA.................................................................. 32 

7. THẾTHỎ:THẾTHỎLIẾMLÔNG................................................................ 33 

8. THẾCÁ:TIẾPVẨY................................................................................ 33 

9. THẾHẠC:HẠCGÁCCỔ............................................................................. 34 

CÁC PHƯƠNG THỨC YÊU NHAU CHO KHOẺ MẠNH CƯỜNG TRÁNG. ......................... 35 

1. BÁTÍCH ....................................................................................................... 36 

1.1 Cố tinh (Bền bỉ tinh khí) ......................................................................................................... 36 

1.2 An Khí (Luyện khí khỏi vọng động, thần thái nhẹ nhàng)...................................................... 36 

1.3 Lợi Tạng (Bổ ích cho ngũ tạng) ............................................................................................. 36 

1.4 Cường Cốt (Mạnh xương, gân).............................................................................................. 37 

1.5Điều Mạch (Thống huyết) ...................................................................................................... 37 

1.6 Súc Huyết (Nuôi máu) ........................................................................................................... 37 

1.7 Ích Dịch (Bổ ích các hạch nhờn, tinh khí nam, nữ)................................................................ 37 

1.8Đạo Thể (Thông sạch thân thể)............................................................................................. 37 

2. THẤTTỔN.................................................................................................... 38 

2.1 Tuyệt Khí ............................................................................................................................... 38 

2.2 Dật Tinh ................................................................................................................................. 39 

2.3Đoạt Mạch .............................................................................................................................39 

2.4 Khí Tiết .................................................................................................................................. 40 

2.5 Cơ quan hay là Quyết thương ............................................................................................... 40 

2.6 Bách Bế ................................................................................................................................. 41 

2.7 Huyết Khuyết ......................................................................................................................... 41 

BA MƯƠI VỊ THẾ GIAO HỢP............................................................................................... 43 

1. TỰTRÙMÂU ............................................................................................... 44 

2. THÂNKHIỂNQUYỂN.................................................................................. 44 

3. BẠOTỰNGƯ............................................................................................... 44 

4. KỲLÂNGIÁC............................................................................................... 44 

5. TOẢNMẶCCẨM ......................................................................................... 44 

6. LONGUYỂNCHUYỂN ................................................................................ 44 

7. NGƯTỈMỤC ................................................................................................ 45 

8. YẾNĐỒNGTÂM.......................................................................................... 45 

85

Khoái lạc và trường sinh 

9. PHỈTHUÝGIAO ........................................................................................... 45 

10. UYÊNƯƠNGHỢP....................................................................................... 45 

11. KHÔNGPHIÊNDIỆP ................................................................................... 45 

12. BỐIPHICƯU................................................................................................ 46 

13. ÁNCÁICÔNG.............................................................................................. 46 

14. LÂMĐÀNTRÚC .......................................................................................... 46 

15. LOANSONGVŨ .......................................................................................... 46 

16. PHƯỢNGTƯƠNGXU ................................................................................. 46 

17. HẢIÂUDỰC................................................................................................. 46 

18. DÃĐỀ .................................................................................................... 47 

19. HOÀNGNGẠCTÚC..................................................................................... 47 

20. MÃDAOĐỀ.................................................................................................. 47 

21. BẠCHHỔTHẮNG ....................................................................................... 47 

22. HUYỀNĐÀNBỘ .......................................................................................... 47 

23. SƠNDƯƠNGĐỐITHỤ ............................................................................... 47 

24. CÔNLÂMTRƯỜNG .............................................................................. 48 

25.ĐƠNHUYỆTPHỤNGDU ............................................................................ 48 

26. HUYỀNMINHBẰNGCHỨ........................................................................... 48 

27. NGÂMVIÊNBẢOTHỤ ................................................................................ 48 

28. MIÊUTHỬĐỒNGHUYỆT ........................................................................... 48 

29. TAMXUÂNLƯ............................................................................................. 48 

30. TAMTHUCẨU ............................................................................................. 49 

THẾ GIAO HỢP CƠ BẢN ..................................................................................................... 49 

1. NAMTHƯỢNGVỊ(NAMNHÂNTRÊN)................................................... 49 

1.1 CHÍNH THƯỜNG VỊ (Vị thế cơ bản)...................................................................................... 49 

1.2 THÂN TRIỂN VỊ (Chân kéo thẳng) ........................................................................................ 50 

1.3 CAO YÊU VỊ (Vị thế lưng cao)............................................................................................... 50 

1.4 KHUẤT KHÚC VỊ (Vị thêá thu mình)...................................................................................... 51 

2. NỮTHƯỢNGVỊ(NỮNHÂNNẰMTRÊN)................................................... 51 

2.1 PHẢN VỊ (Vị thế ngược)......................................................................................................... 51 

2.2 KỴ THỪA VỊ (Vị thế cởi) ........................................................................................................ 52 

2.3 KIỂU NẰM NGHIÊNG............................................................................................................ 52 

2.3.1Nghiêng mặt đối............................................................................................... 52 

2.3.2Nghiêng mặt lưng. ........................................................................................... 53 

2.4 VỊ THẾ LƯNG........................................................................................................................ 53 

2.4.1Thế nằm........................................................................................................... 53 

2.4.2Thêá quỳ.......................................................................................................... 54 

2.5 TỌA VỊ (vị thế ngồi) ............................................................................................................... 55 

2.5.1Ngồi đằng trước............................................................................................... 55 

2.5.2Ngồi đằng sau lưng.......................................................................................... 55 

2.6 LẬP VỊ (Vị thế đứng).............................................................................................................. 56  PHƯƠNG PHÁP KHÔNG XUẤT TINH KHI HỨNG TÌNH LÊN TỘT ĐỈNH........................... 56 

SỐ LẦN XUẤT TINH VÀ CÁC THUỐC TRỊ LIỆU................................................................. 61 

TINH LỰC MẠNH YẾU CỦA NAM NHÂN............................................................................. 64 

THỜI GIAN GIAO HỢP TỐT ĐỐI VỚI NỮ NHÂN................................................................ 67 

LÀM SAO CÓ THAI TỐT ...................................................................................................... 68 

TẠI SAO SẮC ĐẸP LÀM NGƯỜI SAY MÊ?......................................................................... 69 

CÁCH HẠN CHẾ XUẤT TINH ............................................................................................... 71 

DƯỢC LIỆU VÀ TOA THUỐC CƯỜNG DƯƠNG ................................................................ 73 

TOA THUỐC TRỪ BỆNH LUÔN LUÔN ĐÒI HỎI XÁC THỊT ............................................... 75 

NHỮNG CẤM KỴ KHI GIAO HỢP........................................................................................ 81 

86 

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: