NGOẠI GIAO VIỆT NAM TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MĨ (1954-1975)
Chương 3
NGOẠI GIAO VIỆT NAM TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MĨ
(1954-1975)
3.1. Đấu tranh thi hành Hiệp định Giơnevơ (1954-1960)
- Việc đình chiến tại bán đảo Triều Tiên và Đông Dương làm cho tình hình tại khu vực bớt nóng, nhưng “Chiến tranh lạnh” vẫn tiếp diễn gay gắt. Tháng 5-1955 khối Vacxava ra đời, 1957 Liên Xô phóng thành công vệ tinh nhân tạo. Năm 1956 Liên Xô điều chỉnh đường lối đối ngoại, phê phán Xtalin. Hội nghị các ĐCS và công nhân quốc tế họp năm 1957, chiến thắng Điện Biên Phủ của Việt Nam và phong trào GPDT phát triển mạnh ở Châu Á, châu Phi.
- Tình hình ở Đông Dương và ĐNA sau 1954 có nhiều thay đổi:
+ Chiến tranh chấm dứt, hòa bình được lập lại
+ Nước Việt Nam bị chia làm hai miền
+ Mĩ gạt Pháp khỏi Đông Dương, thành lập khối SEATO (9-1954)
+ Diệm tuyên bố vĩ tuyến của Mĩ đến vĩ tuyến 17
+ Cách mạng Viêt Nam chuyển sang giai đoạn mới, công tác đối ngoại thuận lợi hơn nhiều so với thời kỳ chống Pháp. Chính sách đối ngoại trên các hướng lớn
1. Đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Giơnevơ
- Ta chủ trương thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định, trước hết là đấu tranh đòi thi hành nghiêm chỉnh các điều khoản về đình chiến, tập kết chuyển quân, bàn giao khu vực, lập khu phi quân sự.
- Đấu tranh chống lại chính sách và hành động khủng bố của Ngô Đình Diệm ở miền Nam. Vạch mặt thái độ phá hoại Hiệp thương tổng tuyển cử của Diệm.
- Tố cáo Mĩ đưa vũ khí, nhân viên quân sự vào miền Nam, tăng cường lực lượng cho quân ngụy đàn áp cách mạng.
2. Mở rộng quan hệ đối ngoại phục vụ cho vây dựng CNXH ở miền Bắc
- Sau khi tiếp quản Hà Nội, ta tạo mọi điều kiện để các nước XHCN sớm đặt đại sứ quán tại Việt Nam và Việt Nam đặt sứ quán tại nước ngoài.
- Năm 1956, 1957 Hồ Chí Minh lần đầu tiên đi thăm chính thức các nước XHCN. Những chuyến thăm đã nhận được cam kết ủng hộ to lớn công cuộc xây dựng lại miền Bắc, đặc biệt là cam kết xây dựng các nhà máy công nghiệp cho Việt Nam.
- Do bất đồng giữa Liên Xô và Trung Quốc bùng nổ từ 1960, ngoại giao Việt Nam còn đóng góp vào giữ gìn đoàn kết trong phe XHCN và giữ cân bằng quan hệ trong phe XHCN.
- Năm 1960, Hồ Chí Minh thăm không chính thức Liên Xô và Trung Quốc với mục đích tích cực đóng góp cho mối quan hệ Xô – Trung. Ta đã đề ra sáng kiến tổ chức đại hội các ĐCS và công nhân quốc tế tại Matxcơva năm 1960.
- Do tình hình Lào và Campuchia có những diễn biến phức tạp do Mĩ can thiệp vào hai nước này, ta cố gắng xây dựng tình hữu nghị láng giềng, thân thiện trên cơ sở năm nguyên tắc chung sống hòa bình, đồng thời giúp đỡ cách mạng Lào và Campuchia, làm cho họ không gia nhập khối phòng thủ Đông Nam Á. Tuy nhiên do tình hình nội bộ Campuchia và sức ép từ nhiều phía nên Việt Nam chưa thiết lập được quan hệ ngoại giao chính thức với CPC.
- Việt Nam cũng thiết lập quan hệ tổng lãnh sự với Miến Điện, Inđônêxia, Cu Ba
- Trong điều kiện quốc tế có những diễn biến phức tạp, Nghị quyết 15 của Trung ương Đảng ta đã khẳng định tính độc lập, tự chủ trong việc đề ra đường lối cho cách mạng Việt Nam…
3. Mặt trận dân tộc GPMNVN và chính sách đối ngoại hòa bình trung lập
- Ngày 20-12-1960, tại Tân Lập (Tây Ninh), tuyên ngôn của Mặt trận khẳng định đánh đổ đế quốc Mĩ và bè lũ tay sai, thực hiện độc lập, dân chủ, hòa bình, trung lập, tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc. Sự kiện này giáng một đòn vào cái gọi là “thế hợp pháp” của chính quyền Ngô Đình Diệm.
- Chương trình mười điểm của Mặt trận có ý nghĩa đối nội và đối ngoại hết sức quan trọng.
- Ngày 16-2-1962, tại Tây Ninh ông Nguyễn Hữu Thọ được bầu làm Chủ tịch Mặt trận đã nâng chương trình mười điểm thành Cương lĩnh nhằm mục tiêu: đấu tranh giành độc lập dân tộc, bảo vệ tự do dân chủ, đời sống ấm no cho nhân dân… trước mắt đòi Mĩ chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình, đòi Mĩ rút quân khỏi miền Nam, xóa bỏ kế hoạch Xtalây – Taylo
3.2. Đấu tranh ngoại giao phục vụ đánh bại chiến tranh đặc biệt của Mĩ (1961-1965)
3.2.1. Tình hình
+ Vào những năm 60, các nước XHCN phát triển với tốc độ cao, mâu thuẫn Liên Xô – Trung Quốc bộc lộ gay gắt dẫn đến sự phân liệt trong các nước XHCN. Phong trào GPDT tiếp tục phát triển. Hoa Kỳ khủng hoảng kinh tế. Liên Xô thua Mĩ về tốc độ phát triển kinh tế, bước vào chạy đua vũ trang. Chính quyền Kenơđi điều chỉnh chính sách đối ngoại thay “trả đũa ồ ạt” bằng “phản ứng linh hoạt”
+ Việt Nam bước vào thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, phong trào đấu tranh vũ trang kết hợp với chính trị ở miền Nam phát triển mạnh mẽ. Chế độ tay sai Ngô Đình Diệm ở miền Nam khủng hoảng. Mĩ thực hiện nhiều kế hoạch quân sự và can thiệp ngày càng sâu vào chiến tranh Việt Nam.
3.2.2.Chủ trương ngoại giao
- Không ngừng củng cố quan hệ ngoại giao mọi mặt với các nước trên thế giới, không ngừng củng cố địa vị của Việt Nam.
- Toàn bộ hoạt động ngoại giao của Việt Nam phải hướng vào việc phục vụ mục tiêu cách mạng, góp phần tích cực vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân thế giới
- Góp phần giữ vững và tăng cường đoàn kết nhất trí trong phe XHCN, ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân các nước bị áp bức trên thế giới.
3.2.3. Biện pháp
- Tiếp tục đề cao Hiệp định Giơnevơ. Kiên trì làm rõ trước dư luận thế giới về bản chất của chiến tranh đặc biệt, hành động can thiệp của Mĩ vào miền Nam Việt Nam. Tố cáo chính sách của Ngô Đình Diệm
- Tranh thủ sự ủng hộ quốc tế đối với cuộc chiến tranh cách mạng miền Nam:
+ Ta vừa có ngoại giao của VNDCCH vừa của Mặt trận, cùng chung nhiệm vụ là tuyên truyền giải thích sự nghiệp chính nghĩa của nhân dân ta, lên án chính sách xâm lược và hành động tàn bạo của đế quốc Mĩ.
+ Đề cao thế hợp pháp của Mặt trận, bác lại luận điệu của Mĩ về ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản.
+ Mặt trận cử nhiều đoàn đại biểu đi thăm các nước, đưa tiếng nói của nhân dân miền Nam đến với bạn bè thế giới. Từ đó các nước lần lượt công nhận và lập quan hệ ngoại giao chính thức với Mặt trận và ngược lại Mặt trận cũng lập phòng thông tin ở một số nước Tây, Bắc Âu.
+ Công cuộc XDCNXH ở miền Bắc đạt được nhiều thành tựu, hoàn thành vai trò hậu phương với tiền tuyến lớn miền Nam.
+ Nhiệm vụ tranh thủ ủng hộ quốc tế với cách mạng miền Nam phức tạp hơn do Liên Xô lo ngại sự giúp đỡ của họ sẽ cản trở đến quan hệ Xô-Mĩ. Giữ gìn mối quan hệ với các nước XHCN là vấn đề có tính nguyên tắc trong hoạt động ngoại giao. Chủ tich HCM đã xử lý thành công và tài tình nhiều tình huống ngoại giao tế nhị và phức tạp trong quan hệ với hai nước lớn.
+ Đi đôi với tiến công chủ nghĩa đế quốc cần phải tích cực chống chủ nghĩa xét lại hiện đại, cơ hội và giáo điều. Giáo dục cho nhân dân lòng biết ơn với các nước XHCN anh em. Năm 1963 Liên Xô buộc Việt Nam phải rút lưu học sinh học tập các ngành khoa học xã hội tại Liên Xô về nước.
- Tăng cường đoàn kết với nhân dân Đông Dương, mở rộng quan hệ với các nước XHCN và dân tộc chủ nghĩa.
+ Mĩ mở rộng chiến tranh sang Lào và Campuchia nhằm cô lập cách mạng Việt Nam,vì vậy đoàn kết trở thành một nhân tố có tầm quan trọng chiến lược bảo đảm thắng lợi cho cách mạng Việt Nam.
+ Trước hết Việt Nam ủng hộ việc thành lập một nước Lào trung lập, không có nước ngoài can thiệp vào công việc nội bộ của Lào. Việt Nam quyết không từ chối một cố gắng nào để thực hiện mục tiêu đó.
+ Tại cuộc họp quốc tế ở Giơnevơ nhằm giải quyết các vấn đề về Lào với sự tham gia của 14 đoàn (5-1961), các bên đã nhất trí không để chiến tranh lan rộng tại Lào, thành lập chính phủ liên hiệp 3 phái có lực lượng cách mạng và lực lượng trung lập tham gia.
+ Hiệp định Giơnevơ về Lào được ký kết ngày 23-7-1962 trong đó quy định tất cả quân đội và nhân viên quân sự nước ngoài phải rút khỏi Lào, thừa nhận và tôn trọng nguyện vọng, ý chí của nhân dân Lào, không can thiệp vào công việc nội bộ của Lào
+ Ngày 5-9-1962 VNDCCH và Vương quốc Lào thiết lập quan hệ ngoại giao, tháng 3-1963 vua Lào sang thăm Việt Nam, quan hệ Việt Nam - Lào phát triển thuận lợi.
+ Đối với Campuchia, tháng 3-1964, Xihanúc cắt đứt quan hệ ngoại giao với Việt Nam Cộng hòa, thiết lập quan hệ ngoại giao với VNDCCH, quan hệ giữa hai nước về mặt nhà nước có bước phát triển tốt đẹp.
+ Quan hệ tốt đẹp giữa ba nước Đông Dương đã góp phần quan trọng vào cuộc kháng chiến chống Mĩ ở miền Nam.
+ Ở châu Phi, từ 1961 Việt Nam thiết lập quan hệ ngoại giao với Ghinê, Marốc, Angiêri, Cônggô, Gana. Cũng trong năm 1961 đoàn đại biểu cấp cao VNDCCH và Mặt trận đã có hàng loạt cuộc viếng thăm các nước XHCN.
- Từ 1963, ngoại giao có nhiệm vụ khuyếch trương thắng lợi của ta trong việc đánh bại chiến tranh đặc biệt của Mĩ, tố cáo các hành động chiến tranh của Mĩ trước dư luận thế giới.
+ Ngày 27-3-1963, Hồ Chí Minh triệu tập Hội nghị chính trị đặc biệt và tuyên bố giải pháp duy nhất cho vấn đề miền Nam là phải thực hiện nghiêm chỉnh các điều khoản của Hiệp định Giơnevơ.
+ Dư luận quốc tế lúc này quan tâm nhiều đến tình hình miền Nam, ông tổng thư ký LHQ U Than tuyên bố: “không thể mang lại hòa bình ở miền Nam bằng quân sự, ông kêu gọi mở hội nghị quốc tế, đề nghị một cuộc trao đổi giữa Oasinhtơn và Hà Nội. Đáp lại, Hồ Chí Minh đã trả lời sẵn sàng gặp đại diện của Mĩ tại bất cứ đâu.
+ Ngày 5-8-1964 Mĩ dựng nên sự kiên Vịnh Bắc Bộ, leo thang chiến tranh, trước sự tố cáo của ta nhiều nước đã hình thành ủy ban ủng hộ Việt Nam, “Ủy ban đoàn kết với Việt Nam”. Ngay tại nước Mĩ, nhiều người Mĩ lên tiếng đòi chính phủ Mĩ chấm dứt chiến tranh (nhiều nghị sĩ, nhiều trường đại học).
Tóm lại: ngoại giao giai đoạn 1961-1965 đã:
+ Tranh thủ sự ủng hộ quốc tế cho Việt Nam (cả miền Bắc và miền Nam)
+ Tăng cường tiềm lực quốc phòng
+ Tố cáo chính sách xâm lược của Mĩ, chính sách độc tài của chế độ VNCH
+ Làm cho nhân dân thế giới hiểu rõ về cuộc kháng chiến chính nghĩa của nhân dân ta, phối hợp vận động quốc tế, tranh thủ sự ủng hộ quốc tế, công nhận Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam VN, thúc đẩy việc hình thành mặt trận thế giới đoàn kết và giúp đỡ nhân dân Việt Nam.
3.3. Ngoại giao phục vụ đánh thắng chiến tranh cục bộ của Mĩ (1965-1968)
Để cứu vãn chế độ ngụy Sài Gòn, Mĩ đã chọn con đường can thiệp sâu vào chiến tranh Việt Nam, chọn giải pháp hòa hoãn với Liên Xô để đàn áp phong trào GPDT thế giới, thậm chí cho rằng rút khỏi miền Nam thì vị trí uy tín của Mĩ sẽ giảm sút.
- Tổng thống Mĩ Giônxơn đã quyết định ném vào chiến trường miền Nam 1/3 lực lượng quân sự và 70% chi phí quốc phòng nhằm thực hiện mục đích của Mĩ. Mĩ nhận định rằng Trung Quốc đang thực hiện đại cách mạng văn hóa, Liên Xô đang hòa hoãn với Mĩ … đây là cơ hội để Mĩ đẩy mạnh chiến tranh, vì nếu không đưa quân qua vĩ tuiyến 17 Liên Xô và Trung Quốc sẽ không can thiệp.
- Mĩ lôi kéo một loạt nước đồng minh vào cuộc chiến với các nhiệm vụ khác nhau (chiến đấu, hậu cần, căn cứ quân sự…) nhằm giảm gánh nặng chính trị và tâm lý cho Mĩ.
- Mĩ đẩy mạnh chiến tranh phi nghĩa nên rất coi trọng các các thủ đoạn ngoại giao để lừa gạt nhân dân Mĩ và dư luận thế giới. Họ coi ngoại giao hòa bình là một bộ phận của chiến tranh, với các thủ đoạn:
+ Miền Bắc xâm lược miền Nam
+ Thực hiện cam kết với các đồng minh của Mĩ
+ Đánh phá miền Bắc là hành động trã đũa
+ Đòi Việt Nam đàm phán không điều kiện
+ Tận dụng con bài ném bom và ngừng ném bom để gây sức ép với ta
- Về phía ta, trên cơ sở phân tích mạnh yếu của hai bên đã chấp nhận cuộc đụng đầu:
+ Mĩ mạnh là: lực lượng được tăng cường, căn cứ quân sự được mở rộng, lực lượng không quân tăng gấp bội, phương tiện chiến tranh dồi dào, hiện đại… tuy nhiên tình hình trong nước và thế giới không cho phép Mĩ sử dụng tối đa sức mạnh.
+ Mĩ yếu: về chính trị, đưa quân vào trong thế thua, tính chất phi nghĩa của chiến tranh quân Mĩ không có lý tưởng chiến đấu, không thông thạo địa hình, khí hậu. Chúng phải phân tán lực lượng trên khắp các chiến trường đối phó với chiến tranh nhân dân của ta. Về vấn đề quốc tế: xâm lược Việt Nam, Mĩ đe dọa hòa bình và an ninh, thách thức các nước XHCN, uy hiếp PTGPDT, Mĩ trở thành kẻ thù của hòa bình… vì vậy nhân dân Việt Nam sẽ nhận được sự đồng tình và ủng hộ rộng rãi của các lực lượng tiến bộ trên thế giới.
+ Từ khi Khơrutxốp bị gạt ra khỏi ban lãnh đạo Liên Xô, Brêgiơnép đã tuyên bố sẽ ủng hộ cuộc kháng chiến chống Mĩ của nhân dân ta mạnh mẽ hơn, thậm chí còn tỏ ý không tán thành những việc làm của ban lãnh đạo Liên Xô trước đó với Việt Nam.
+ Mĩ mở rộng chiến tranh còn dẫn đến sự phân hóa trong các đồng minh của Mĩ: Pháp cho rằng đó là việc xấu xa, đòi phải chấm dứt đánh phá miền Bắc không điều kiện. Nhiều nước phương Tây cho rằng Mĩ mở rộng chiến tranh đối với một nước nhỏ và nghèo là hành động bỉ ổi và không thể chấp nhận được.
+ Tuy nhiên mâu thuẫn Xô – Trung ngày càng gay gắt, các nước XHCN không thể thống nhất hành động ủng hộ Việt Nam. Mĩ đã lợi dụng tình hình này.
- Nhiệm vụ:
+ Tăng cường đoàn kết với các nước XHCN
+ Đấu tranh chính sách xâm lược của Mĩ
+ Thực hiện chung sống hòa bình giữa các nước có chế độ chính trị khác nhau
+ Ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc
+ Góp phần bảo vệ và tăng cường đoàn kết trong phe XHCN và phong trào cộng sản quốc tế.
+ Đối với miền Nam: Làm rõ bộ mặt tay sai của chính quyền Sài Gòn, cuộc chiến đấu chính nghĩa của nhân dân ta, tranh thủ sự ủng hộ quốc tế
+ Đối với miền Bắc: Tố cáo hành động chiến tranh bỉ ổi của Mĩ
3.3.1. Đấu tranh chống các “chiến dịch hòa bình” và luận điệu “đàm phán không điều kiện” của Mĩ
- Ngày 5-8-1964 Mĩ dựng nên sự kiện Vịnh Bắc Bộ; ngày 7,8 và 11-2-1965 Mĩ mở chiến dịch “sấm rền”; ngày 8-3-1965 Mĩ ra Sách trắng “Vì sao có vấn đề Việt Nam”. Ngày 27-2-1965 Mĩ thông báo cho Hội đồng bảo an rằng Mĩ sẵn sàng rút quân nếu “miền Bắc chấm dứt xâm lược miền Nam một cách nhanh chóng và có bảo đảm”. Giôn xơn còn tuyên bố chính sách quan trọng của Hoa Kỳ về vấn đề Việt Nam, vu cáo miền Bắc tấn công một quốc gia độc lập, Hoa Kỳ có trách nhiệm bảo vệ tự do nơi này, Hoa Kỳ mong muốn hòa bình nhanh chóng, sẵn sàng đàm phán không điều kiện, hứa hẹn sẽ đầu tư một tỷ đôla vào Đông Nam Á… đây được coi là “công thức baltimo”
+ Trong những năm 1965-1966 cùng với việc đưa quân vào miền Nam, Mĩ đưa ra nhiều “sáng kiến hòa bình”, với các chiến dịch: “Hoa tháng năm:; “Hoa cúc vạn thọ”. Rầm rộ nhất là chiến dịch hòa bình “Pinta” kết hợp việc ngừng ném bom 37 ngày với việc vận động 113 chính phủ đổ trách nhiệm chiến tranh cho Việt Nam
+ Hoa Kỳ còn vận động các nước, các ủy ban quốc tế, các nhân vật nổi tiếng nhằm ép Việt Nam đàm phán không điều kiện với Mĩ. Chia rẽ Việt Nam với các nước, gây khó khăn cho ta. Thực tế Việt Nam đã nhận được đề nghị của 14 nước không liên kết yêu cầu đàm phán khong điều kiện với Mĩ.
- Về phía ta:
+ Tích cực vận động và tuyên truyền quốc tế cảnh báo trước dư luận thế giới về hành động chiến tranh của Mĩ
+ Đề cao tính chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến
+ Giải thích rõ việc Mĩ ném bom miền Bắc
+ Nêu cao quyết tâm của nhân dân VN quyết đánh thắng chiến tranh phá hoại của Mĩ
+ Nói rõ thiện chí hòa bình của nhân dân ta
+ MTDTGPMNVN cũng ra tuyên bố lên án hành động chiến tranh của Mĩ, lập trường và quyết tâm chiến đấu của nhân dân miền Nam
+ VNDCCH chủ trương Mĩ xâm lược Việt Nam và phải rút hết quân khỏi Việt Nam, công việc nội bộ của miền Nam do nhân dân miền Nam tự giải quyết. Việc hòa bình thống nhất nước Việt Nam do nhân dân Việt Nam tự giải quyết…
+ Ta cũng bác bỏ vai trò trung gian trong đàm phán. Tuyên bố của Hồ Chí Minh ngày 5-12-1965 chỉ rõ: “Các đề nghị nói chuyện không điều kiện của Mĩ là tuyệt đối không thể chấp nhận được”, Người cũng gửi thư đến chính phủ của hơn 70 nước trên thế giới trình bày tình hình cuộc chiến tranh do Mĩ gây ra và chỉ rõ: “Ngày nào còn đội quân xâm lược của Mĩ… thì Việt Nam kiên quyết chiến đấu chống lại chúng”; “Mĩ phải thành thật nếu muốn hòa bình, phải chứng tỏ bằng sự thật, chấm dứt không điều kiện và vĩnh viễn mọi hành động chiến tranh chống nước Việt Nam dân chủ cộng hòa”
+ Nói rõ mục tiêu chiến đấu của nhân dân Việt Nam
Kết quả là nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là thế giới thứ ba đã dần hiểu ra sự thật và từ việc ủng hộ Mĩ quay sang ủng hộ cuộc chiến đấu của nhân dân ta.
3.3.2. Tăng cường đoàn kết, tranh thủ sự ủng hộ của các nước XHCN
- Phải chiến đấu chống lại một tên đế quốc có tiềm lực kinh tế và quốc phòng như Mĩ, Việt Nam cần một khối lượng lớn vật chất, vũ khí và phương tiện chiến tranh từ các nước, trước hết là các nước XHCN. Trong tình hình thế giới có những diễn biến phức tạp, Hồ Chí Minh đã xác định những điểm tương đồng và khác biệt giữa các nước, xác định lợi ích chính sách của mỗi nước trong vấn đề chiến tranh Việt Nam, tìm ra mẫu số chung là sự ủng hộ và giúp đỡ nhân dân Việt Nam chống Mĩ. Trên cơ sở đó tranh thủ sự ủng hộ tối đa của các nước.
+ Xuất phát từ đường lối độc lập tự chủ, lấy lợi ích đại cục làm trọng, hiểu rõ lợi ích và các đặc điểm riêng biệt của từng nước để xử lý các mối quan hệ.
+ Làm thất bại âm mưu và các hoạt động ngoại giao của đế quốc Mĩ
+ Về đoàn kết Xô – Trung: Khi phát biểu, quan hệ với Liên Xô hoặc Trung Quốc tuyệt đối không được làm ảnh hưởng đến nước kia, không tỏ thái độ đứng về bên này chống bên kia (vấn đề cố vấn quân sự phòng không của Liên Xô giúp Việt Nam, vấn đề công binh và làm đường của Trung Quốc, con đường vận tải vào Nam do Việt Nam tự đảm nhiệm, về cách mạng văn hóa ở Trung Quốc là công việc nội bộ của nhân dân Trung Quốc…)
+ Hàng năm cử một Ủy viên Bộ Chính trị sang thăm các nước, tận dụng vai trò quan trọng của Liên Xô đối với quốc tế, tranh thủ vai trò hậu phương trực tiếp và to lớn của Trung Quốc đối với cách mạng Việt Nam
Thúc đẩy hình thành mặt trận đoàn kết nhân dân ba nước Đông Dương
- Mối quan hệ giữa ba nước Đông Dương trong chiến tranh chống Mĩ là hết sức quan trọng, vì vậy đây là nhiệm vụ chiến lược, nhưng phải giữ được và tôn trọng độc lập tự chủ của nhân dân Lào và Campuchia
+ Đối với Việt Nam: mối quan hệ này liên quan đến việc tổ chức hậu cứ cho cách mạng miền Nam và đường tiếp tế từ Bắc vào Nam (đặc biệt là cảng Xihanúcvin) đến năm 1970 CIA mới biết 80% hậu cần từ miền Bắc vào miền Nam qua cảng này
+ Đối với Campuchia, đẩy mạnh quan hệ với chính phủ Xihanúc, tuyên bố tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Campuchia. Chính phủ Campuchia tuyên bố công nhận Mặt trận dân tộc là người đại diện hợp pháp của nhân dân miền Nam.
+ Với Lào: khi Mĩ đẩy mạnh chiến tranh sang Lào, Việt Nam giúp đỡ toàn diện lực lượng kháng chiến Lào, phối hợp chặt chẽ trong đấu tranh quân sự, chính trị và ngoại giao… vùng giải phóng Lào mở rộng, tạo điều kiện cho việc phát triển đường tiếp tế của Việt Nam từ Bắc vào Nam.
Thúc đẩy hình thành mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam
+ Được hình thành từ cuối năm 1964 và phát triển mạnh mẽ từ khi Mĩ đưa quân viễn chinh vào miền Nam và dùng không quân, hải quân đánh phá miền Bắc. Phong trào từ các nước XHCN lan sang các nước tư bản phát triển, các nước dân tộc độc lập ở khắp các châu lục, bao gồm: các đoàn thể dân chủ, hòa bình, các tổ chức công đoàn, phụ nữ, thanh niên, sinh viên quốc gia và quốc tế, nhiều tổ chức tôn giáo, xã hội, từ thiện, nhiều nhân vật tên tuổi. Hội nghị quốc tế Xtốckhôm 1967 đã quy tụ hàng trăm nhà khoa học, học giả có tên tuổi đại diện cho hơm 300 tổ chức đoàn kết với Việt Nam.
+ Các hình thức ủng hộ rất đa dạng: mít tinh, biểu tình, hội thảo, ký kiến nghị, quyên góp tiền bạc, thuốc men, quần áo, hiến máu ủng hộ Việt Nam. Nhiều thanh niên tình nguyện đăng ký sang Việt Nam chiến đấu, tại Thụy Điển đã diễn ra cuộc diễu hành 1967 do thủ tướng Ôlốp Panmơ dẫn đầu, tòa án Brúcxen xử tội ác chiến tranh của Mĩ… đã tạo thêm sức mạnh tinh thần, chỗ dựa chính trị cho cuộc chiến đấu của nhân dân ta, cổ vũ nhân dân ta.
+ Phong trào nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam không do một trung tâm nào tổ chức lãnh đạo. Chính cuộc kháng chiến chính nghĩa và anh hùng, chính những thắng lợi của nhân dân ta ở hai miền đất nước là động lực chính thức tỉnh lương tâm loài người và thúc đẩy phong trào… ngoại giao Việt Nam cung cấp nhân chứng, tư liệu về tội ác chiến tranh của Mĩ.
Thúc đẩy hình thành phong trào nhân dân Mĩ chống chiến tranh
+ Khi Mĩ đưa quân vào miền Nam, các tổ chức chống chiến tranh đã được thành lập. “Ủy ban phối hợp toàn quốc” đòi chấm dứt chiến tranh Việt Nam đã phát động hai đợt đấu tranh lớn tháng 10-1965 và tháng 3-1966 lôi cuốn trên nửa triệu người tham gia ở hơn 100 thành phố tại Mĩ.
Trong phong trào này vai trò của các giáo sư, các nhà khoa học, giới tu hành, sinh viên nổi bật
+ Cuối 1965 những cuộc tự thiêu của một vài người Mĩ phản đối chiến tranh như anh Mosơn đã gây chấn động sâu sắc trong xã hội Mĩ. Việc Mĩ thất bại ngày càng lớn ở Việt Nam đã làm dấy lên phong trào phản chiến của nhân Mĩ. Trong các năm 1967, 1968 đã diễn ra các “mùa hè nóng bỏng” với các cuộc biểu tình, tuần hành cùng một lúc tại 120 thành phố của nước Mĩ. Hồ Chí Minh đã gọi các cuộc đấu tranh tại Mĩ là “mặt trận thứ hai” chống đế quốc Mĩ.
Phong trào đấu tranh đã tác động lớn đến chính giới Mĩ, số nghị sĩ chống chiến tranh ngày càng đông
- Mặt trận ngoại giao của ta đã tổ chức nhiều cuộc gặp gỡ tiếp xúc với phong trào, cung cấp thêm cho họ hình ảnh, tư liệu, chứng cứ phục vụ đấu tranh, đồng thời trình bày, giải đáp những điều mà họ chưa chưa hiểu hết quan điểm của Việt Nam dân chủ cộng hòa và Mặt trận DTGPMNVN.
- Tạo cục diện vừa đánh vừa đàm
Với quan điểm chúng ta chỉ có thể giành được thắng lợi trên bàn đàm phán trên cơ sở thắng lợi quân sự chính trị trên chiến trường, trên cơ sở những thắng lợi ở hai miền trong 2 năm 1965, 1966 ta tố cáo mạnh mẽ hơn nữa những tội ác của Mĩ, vạch trần những luận điệu hòa bình bịp bợm của chúng, đề cao lập trường chính nghĩa của ta. Phương châm của ta là phát huy thế mạnh, thế thắng, chủ động tấn công, giữ vững tính độc lập tự chủ, đồng thời phối hợp chặt chẽ với các nước anh em. Vận dụng sách lược ngoại giao một cách linh hoạt, khôn khéo, giành thắng lợi từng bước, trước mắt đòi Mĩ chấm dứt không điều kiện và vĩnh viễn các hành động chiến tranh chống lại nước VNDCCH.
+ Tháng 1-1967, Nguyễn Duy Trinh tuyên bố Việt Nam có thể ngồi thương lượng với Mĩ khi Mĩ chấm dứt việc ném bom phá hoại miền Bắc. Đây là đòn tấn công ngoại giao lớn vì Việt Nam tỏ thiện chí hòa bình và giành thế chủ động trong ngoại giao, làm thất bại luận điệu “đàm phán không điều kiện” của Mĩ. Đây là “quả bom ngoại giao” vì ngay sau đó dư luận thế giới đã lên tiếng ủng hộ, trong đó có cả Tổng thư ký LHQ, Giáo hoàng đều lên tiếng đòi Mĩ chấm dứt ném bom miền Bắc.
+ Ngày 8-2-1967 Giônxơn đã gửi thư cho Hồ Chí Minh, trong bức thư trả lời ta khẳng định rằng Mĩ gây ra chiến tranh thì phải chấm dứt chiến tranh, phải ngừng ném bom miền Bắc, phải rút quân Mĩ và quân chư hầu khỏi miền Nam… dư luận Mĩ đòi Nhà Trắng đáp ứng yêu cầu của phía Việt Nam.
+ Tháng 6-1967, trong cuộc gặp gỡ cấp cao Xô – Mĩ, Giôn Xơn lại nêu ra một đề nghị mới rằng: Mĩ có thể chấm dứt ném bom miền Bắc với điều kiện là ngay sau khi chấm dứt Hà Nội phải bắt đầu thương lượng. Nếu thương lượng kéo dài thì Mĩ sẽ tự do hành động. Tháng 7 và tháng 8 Mĩ thông qua hai nhà ngoại giao trung gian người Pháp để thăm dò thái độ của Việt Nam, sau đó Hoa Kỳ gửi công hàm cho chính phủ Việt Nam và nói với ý rằng: Hoa Kỳ sẵn sàng ngừng ném bom miền Bắc khi việc làm này không bị lợi dụng và đưa tới những cuộc thảo luận có kết quả. Tháng 9-1967 Tổng thống Mĩ công khai hóa đề nghị ngừng ném bom miền Bắc nhưng đó là “có đi có lại nên Việt Nam bác bỏ.
+ Tháng 12-1967, ta tuyên bố sau khi Hoa Kỳ ngừng ném bom và các hành động chiến tranh khác chống Việt Nam thì sẽ nói chuyện với Mĩ về những vấn đề liên quan. Lần này ta khẳng định “sẽ nói chuyện” thay cho “có thể nói chuyện”
(sau này tổng thống Mĩ đã phải tự thuật rằng “điều Việt Nam đề nghị là duy nhất đúng chứ không phải là Mĩ”).
+ Với phương châm là phải mở đường đi đến thương lượng có lợi nhất cho ta, năm 1968 ta mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy trên toàn miền Nam. Cuộc tấn công của ta đã làm chuyển biến thế trận, đảo lộn chiến lược của Mĩ, tác động sâu sắc đến nước Mĩ, giới chính trị Mĩ dao động, chưa bao giờ nội bộ nước Mĩ chia rẽ sâu sắc như lúc này.
Tối 31-3-1968, xuất hiện trên truyền hình, tổng thống Mĩ sau khi báo cáo tình hình chiến sự ở miền Nam đã thông báo: “tối nay tôi ra lệnh cho các máy bay và tàu chiến của chúng ta không tiến hành cuộc tấn công nào chống miền Bắc Việt Nam, trừ khu vực phía bắc khu phi quân sự là nơi đối phương đang có những cuộc chuẩn bị liên tục trực tiếp đe dọa các vị trí tiền tiêu của đồng minh”. Trong bài phát biểu cũng tuyên bố không ra tranh cử tổng thống Mĩ nhiệm kỳ nữa (đây trở nỗi bất hạnh đối với Giônxơn). Mĩ chấp nhận đơn phương ngừng ném bom không điều kiện, xuống thang chiến tranh, từ khước từ thương lượng chuyển sang thương lượng.
+ Về phía ta: đàm phán ngay là quá sớm, bác bỏ thì không tranh thủ được dư luận thế giới, do vậy Bộ Chính trị ta chủ trương ép Mĩ chấm dứt hoàn toàn việc ném bom miền Bắc rồi mới bàn đến các vấn đề liên quan. Tháng 4-1968 ta tuyên bố “rõ ràng Mĩ chưa đáp ứng nghiêm chỉnh và đầy đủ đòi hỏi của Việt Nam nhưng Việt Nam sẵn sàng cử đại diện của mình tiếp xúc với phía Mĩ…” đây là đòn tấn công ngoại giao bất ngờ.
Tối 3-4-1968, phía Mĩ thông báo qua sứ quán ta tại Viêng Chăn về địa điểm tiếp xúc là Giơnevơ, ta đề nghị là Phnôm Pênh. Hai bên đã đưa ra rất nhiều địa điểm khác, nhau cuối cùng ngày 2-5 nhất trí lấy Pari làm địa điểm chính thức.
+ Ngày 13-5-1968 đã diễn ra cuộc gặp gỡ chính thức đầu tiên giữa hai phái đoàn
Trong giai đoạn đầu ta chủ trương đàm phán phục vụ tấn công, lên án các hành động chiến tranh của Mĩ tại hai miền Việt Nam. Phiên họp nào phía Mĩ cũng xoáy vào đòi khôi phục khu phi quân sự, rút quân miền Bắc. Trong thời kỳ đầu ta chủ trương thăm dò chứ chưa đi vào mặc cả.
+ Qua nhiều cuộc gặp gỡ, cuối cùng hai bên đã nhất trí được thành phần hội nghị (Mĩ mâu thuẫn với Thiệu). Mĩ tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc 1-11-1968, đây là thắng lợi có ý nghĩa chiến lược của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
3.4. Đàm phán và ký kết Hiệp định Pari (1969-1973)
3.4.1. Đấu tranh chống chiến lược quân sự và ngoại giao của chính quyền Nichxơn
Thực chất của “Việt Nam hóa chiến tranh” là nâng cao sức chiến đấu của quân đội Sài Gòn, dùng người Việt đánh người Việt, hay nói như đại sứ Bâncơ là “thay màu da trên xác chết”. Về đối ngoại: lợi dụng mâu thuẫn Xô – Trung, đẩy mạnh “ngoại giao ba bên” (hòa hoãn với Liên Xô, cải thiện quan hệ với Trung Quốc) gây sức ép với cuộc kháng chiến của nhân dân ta. Tháng 2-1972 Níchxơn sang Trung Quốc ký thông cáo Thượng Hải.
Ngoại giao Việt Nam có nhiệm vụ nặng nề và phức tạp: vừa đấu tranh chống thủ đoạn ngoại giao của Mĩ, vừa phải tiếp tục tranh thủ sự giúp đỡ của Liên Xô và Trung Quốc, không để ảnh hưởng các cuộc đàm phán đang tiến hành tại Pari (trong chiến tranh, viện trợ của hai nước là rất lớn, trong đó Trung Quốc chiếm hơn 50% tổng số viện trợ quốc tế). Ta tận dụng triệt để cả ba yếu tố: hậu phương, chiến trường và đàm phán để cải thiện so sánh lực lượng, tạo thuận lợi cho cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam.
3.4.2. Hội nghị bốn bên ở Pari: ép Hoa Kỳ xuống thang chiến tranh, rút dần quân khỏi miền Nam Việt Nam
+ Ngày 15-1-1969 Hội nghị bốn bên họp phiên đầu tiên tại Pari (chú ý: phái đoàn VNCH lúc đầu không cử do phản ứng với quyết định của Mĩ ngừng ném bom miền Bắc, sau đến muộn, vấn đề bàn, phát biểu trước, sau…).
Trong phiên họp đầu tiên, phái đoàn Chính phủ CMLT đã đưa ra giải pháp toàn bộ 10 điểm về vấn đề miền Nam với thái độ xây dựng (đây là lần đầu tiên). Có 2 điểm đặc biệt quan trọng là Hoa Kỳ rút quân và công việc nội bộ của miền Nam do nhân dân Việt Nam tự giải quyết. Hoa Kỳ âm mưu tách cuộc chiến đấu ở miền Nam ra khỏi hậu phương miền Bắc nên đưa ra quan điểm “cùng rút quân”. Với giải pháp 10 điểm ta giành thế chủ động trong ngoại giao, chiếm lĩnh trận địa dư luận, tạo nên một sức ép đối với Mĩ.
+ Về phía Mĩ cũng đưa ra giải pháp 8 điểm mà xuyên suốt vẫn là thái độ có đi có lại. Tháng 6-1969 Ních xơn tuyên bố rút 25.000 quân, ta tố cáo thái độ của Mĩ rút quân nhỏ giọt, yêu cầu Mĩ phải rút nhanh, rút hết quân Mĩ và chư hầu khỏi miền Nam. Đến mùa thu 1970, Mĩ đơn phương rút 140.000 quân.
+ Ta cũng đấu tranh đòi thành lập ở Sài Gòn một chính quyền không có Thiệu – Kỳ - Khiêm, đòi Mĩ rút hết quân vào tháng 12-1971 (gắn với việc ta thả hết số phi công Mĩ bị bắt). Sau thắng lợi ở Đường 9- Nam Lào, Mĩ đã rút 400.000 quân chỉ còn lại khoảng 150.000.
+ Sang năm 1972 nước Mĩ bầu cử, Mĩ cùng đưa ra các đề nghị mềm dẻo hơn, ta cho rằng đây là thời điểm có thể đàm phán thực sự.
Phong trào phản chiến ở Mĩ
+ Tháng 3-1970 Mĩ đưa chiến tranh sang Campuchia, trước tình hình mới ta tổ chức Hội nghị Cấp cao nhân dân 3 nước Đông Dương ngày 24,25-4-1970, Tuyên bố chung trở thành cương lĩnh đấu tranh, hiến chương chung về quan hệ đoàn kết chiến đấu giữa nhân dân 3 nước. Đoàn kết giữa nhân dân 3 nước phát triển ở tầm cao. Đông Dương trở thành một chiến trường.
+ Phong trào đấu tranh của nhân dân Mĩ đặc biệt phát triển sau tết Mậu Thân và khi Mĩ mở rộng chiến tranh sang Campuchia. Người dân Mĩ được chứng kiến chiến sự, thấy cảnh những dân thường bị giết hại, họ dần thức tỉnh lương tri, “lương tâm người Mĩ nổi giận”, bởi vì chiến tranh của Mĩ ở Việt Nam là cuộc chiến tranh không được lòng người nhất trong lịch sử nước Mĩ”. Các cuộc họp báo của ta tại Pari cũng góp phần làm cho nhân dân Mĩ thấy rõ hơn sự thật cuộc chiến tranh. Các cuộc đấu tranh trong các năm 1968, 1970, 1971… thu hút hàng triệu lượt người tham gia, nhất là thanh niên và sinh viên Mĩ.
+ Ta cũng làm tốt chính sách tù binh, cho một số tổ chức thăm nơi giam giữ phi công Mĩ, giữa năm 1970 công bố toàn bộ danh sách phi công Mĩ đang bị giam giữ. Ngoại giao nhà nước và ngoại giao nhân dân có kết quả.
+ Chiến tranh kéo dài, Nichxơn càng bộc lộ bản chất hiếu chiến, phong trào nhân dân thế giới chống chiến tranh của Mĩ ở Việt Nam trở thành lực lượng chính trị hùng hậu, tác động sâu sắc đến chính sách và thái độ của nhiều nước trên thế giới về vấn đề chiến tranh Việt Nam. Chưa bao giờ trên thế giới có một phong trào ủng hộ sự nghiệp của một dân tộc lại có quy mô rộng lớn như phong trào quốc tế ủng hộ nhân dân Việt Nam trong thời kỳ chống Mĩ xâm lược.
Đi tới Hiệp định Pari
+ Từ 1971 Bộ Chính trị ta đã có kế hoạch giành thắng lợi lớn vào 1972 buộc Mĩ kết thúc chiến tranh. Năm 1972 Việt Nam hóa chiến tranh thất bại một bước nghiêm trọng. Hoa Kỳ thất bại cả trong nước và trên chiến trường.
+ Từ giữa tháng 7-1972 các cuộc gặp riêng giữa ta và Mĩ đi vào thực chất, hai bên đã ngả bài. Mĩ muốn giữ chính quyền Sài Gòn, còn ta muốn có một chính quyền liên hiệp (Mĩ không chịu giải quyết vấn đề chính trị).
+ Ngày 8-10-1972 ta trao cho Mĩ bản Dự thảo hiệp định Pari – đây là bước ngoặt của đàm phán. Ta tạm gác nhiều vấn đề chính trị nội bộ miền Nam (chính quyền Thiệu, bầu cử, hiến pháp…). Hành động của ta là nằm ngoài dự đoán của các nhà thương lượng Mĩ. Kitxinhgiơ đưa cho ta một lịch trình làm việc cụ thể, một phản đề nghị trong đó yêu cầu các đơn vị chủ lực ta tấn công năm 1972 phải rút hết.
+ Ngày 20-10-1972, văn bản Hiệp định về cơ bản đã hoàn tất
- Hiệp định tháng 1-1973
+ Ngày 20-10-1972 Thiệu bác bỏ toàn bộ Hiệp định và từ chối mọi sự thương lượng.
+ Ngày 26-10 ta công bố công khai các cuộc gặp riêng và những điều đã thỏa thuận
+ Ngày 20-11-1972 Mĩ đòi sửa đổi 69 điều đã thỏa thuận (nói là theo yêu cầu của Thiệu). Ngày 23-11 Mĩ đe dọa sẽ dùng quân sự nếu không đạt được thỏa thuận
+ Ngày 18-12 Mĩ dùng máy bay B52 đánh phá miền Bắc
+ Ngày 8-1-1973 cuộc đàm phán được nối lại
+ Ngày 13-1-1973 là cuộc họp cuối cùng giữa Lê Đức Thọ và Kítxinhgiơ. Thỏa thuận về khoản 3,250 tỷ USD, hai bên ký tắt hiệp định và trao đổi bút cho nhau.
Hiệp định Pari gồm 9 chương, 23 điều (trang 264)
3.5. Đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Pari và ngoại giao phục vụ tổng tiến công, nổi dậy năm 1975
- Nước Mĩ gặp khó khăn về kinh tế và chính trị nhưng vẫn muốn giữ chế độ Nguyễn Văn Thiệu, vẫn viện trợ quân sự cho tay sai ở mức cao: năm 1973 là 2.700 triệu USD.
+ Nguyễn Văn Thiệu muốn xóa ngay hiệp định, xóa thế da báo, thu hẹp vùng Chính phủ cách mạng LTCHMNVN kiểm soát, tiếp tục chiến tranh, chiếm đất giành dân… cho quân chiếm Cửa Việt, Sa Huỳnh… có thể nói miền Nam không có một ngày hòa bình
3.5.1. Đấu tranh đòi thi hành hiệp định
- Đấu tranh thi hành hiệp định không phải là đấu tranh cho từng điều riêng rẽ, mà phải coi đấu tranh thi hành hiệp định là bộ phận đấu tranh cách mạng của toàn dân, nhằm góp phần làm thay đổi so sánh lực lượng. Trong bối cảnh thế giới có những thay đổi khó lường, cả thuận lợi và khó khăn
- Giai đoạn 1973-1974:
Đấu tranh đòi Mĩ rút quân, chấm dứt dính lứu quân sự, đòi quân đội Sài Gòn thực hiện ngừng bắn, đình chỉ lấn chiếm. Đến giữa 1974 ta chủ trương thi hành nghiêm chỉnh hiệp định, thực hiện ngừng bắn, trao trả tù binh… đồng thời đẩy lùi các cuộc hành quân lấn chiếm của địch, thu hồi vùng giải phóng
+ Tháng 4-1973, tại hội nghị hiệp thương hai miền (thực chất là cuộc đấu tranh tranh thủ dư luận) ta phê phán Thiệu vi phạm hiệp định, kéo dài hơn hai tháng nhưng cuộc họp không thu được kết quả gì. Khi tình hình chiến sự ở miền Nam phát triển nghiêm trọng, tháng 5-1973 trong cuộc gặp giữa Lê Đức Thọ và Kítxinhgiơ tại Pari ta vạch mặt Thiệu, tố cáo Mĩ. Trước sức ép của dư luận, Mĩ phải cắt giảm viện trợ cho Thiệu vào đầu 1974, Sài Gòn thiếu hụt 200 tỷ đồng.
+ Ta tập trung vào ba vấn đề nóng bỏng ở miền Nam là ngừng bắn, trao trả tù binh và tự do dân chủ, đồng thời tranh thủ dư luận quốc tế. Quan hệ với với Lào phát triển thuận lợi, riêng quan hệ với Campuchia, Pôn Pốt một mặt vẫn nhận sự giúp đỡ của Việt Nam một mặt ngấm ngầm chống Việt Nam, chiến dịch nói xấu Việt Nam “phản bội lần thứ hai”.
+ Tháng 1-1974 ta công bố sách trắng “Một năm thi hành hiệp định Pari”.
3.5.2. Ngoại giao phục vụ tổng tiến công
- Khi Mĩ cắt giảm viện trợ, quân ngụy gặp rất nhiều khó khăn và thực tế chiến trường thì không thể đánh theo kiểu con nhà nghèo. Ngày 15-10-1973 Bộ tư lệnh QGP miền Nam ra mệnh lệnh cho quân dân miền Nam và cảnh cáo các hành động lấn chiếm của quân đội Sài Gòn. Ta thu hồi lại nhiều vùng giải phóng, tiếp tục phát triển lực lượng làm thay đổi tương quan so sánh lực lượng trên chiến trường. Tại Mĩ tháng 8-1974 Nichxơn từ chức.
+ Các diễn đàn hai bên ở Pari đến tháng 8-1974 chấm dứt, diễn đàn Ban liên hiệp quân sự hai bên ở Sài Gòn tháng 6-1974 cùng đình chỉ các cuộc họp do chính quyền Sài Gòn rút các quyền ưu đãi, diễn đàn Hoa Kỳ - Việt Nam tháng 8-1974 cũng ngừng hoạt động. Vì vậy các cơ chế do hiệp định đề ra đã không còn tồn tại
+ Tháng 10-1974 ta khóa chặt vấn đề ngừng bắn và và vấn đề chính quyền, đòi Mĩ chấm dứt can thiệp và thay Thiệu (để sau này Thiệu không thể đòi thương lượng hay ngừng bắn).
+ Bộ Chính trị họp cuối năm 1974 đầu 1975 đề ra kế hoạch giải phóng miền Nam. Nhiệm vụ của ngoại giao lúc này là đánh giá khả năng Mĩ có thể trở lại can thiệp bằng quân sự hay không và đấu tranh ngăn chặn khả năng đó (ta nhận định là rất ít và nếu có cũng không thay đổi được tình thế). Khi ta giải phóng Phước Long và chiếm đài quan sát quan trọng của địch ở Tây Ninh Mĩ chỉ hăm dọa.
+ Ngày 21-3-1975 khi chiến dịch Tây Nguyên đang diễn ra, ta đòi thay Nguyễn Văn Thiệu bằng một chính quyền tán thành hòa bình, hòa hợp dân tộc. Ngày 2-4 Mĩ gửi công hàm cho Liên Xô và Trung Quốc đề nghị mở hội nghị quốc tế bàn thực hiện ngừng bắn, nhưng đại quân ta đang tiến hành bao vây Sài Gòn.
+ Ngày 16-4 Nghị viện Mĩ bác bỏ viện trợ bổ sung cho Sài Gòn, 18-4 Mĩ bỏ rơi chính quyền thân Mĩ ở Phnôm Pênh. Ngày 23-4 Pho tuyên bố chiến tranh chấm dứt với người Mĩ ở Việt Nam. Đề nghị Việt Nam cho di tản người Mĩ khỏi Việt Nam. Ta đồng ý.
+ Trong những ngày cuối cùng của cuộc tổng tiến công, ngoại giao góp phần ngăn chặn các hành động trung gian muộn màng của một số nước lớn, làm thất bại kế hoạch di tản của LHQ do Mĩ gợi ý, làm thất bại các mưu toan của đối phương hòng thương lượng, ngừng bắn, chuẩn bị tiếp quản bộ máy ngoại giao của chính quyền Sài Gòn.
+ Ngày 19-4, Pho gửi thư “bức thư thượng khẩn” cho Brêgiơnép đề nghị Liên Xô giúp ngừng bắn tại miền Nam và nhận được trả lời “Việt Nam sẽ không gây trở ngại cho việc di tản người Mĩ khỏi miền Nam”.
KẾT LUẬN
1. Ngoại giao Việt Nam luôn giương cao ngọn cờ hòa bình, độc lập dân tộc, kiên trì kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh pháp lý, phát huy chính nghĩa.
2. Ngoại giao Việt Nam đã phối hợp chặt chẽ đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị để buộc Mĩ phải đương đầu với một thế trận chiến tranh nhân dân toàn diện Việt Nam, trong đó ngoại giao là một mặt trận đấu tranh.
3. Các lực lượng ngoại giao, trong đó có ngoại giao nhân dân, phát huy vai trò nòng cốt, thúc đẩy hình thành mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam rộng lớn và mạnh mẽ.
4. Ngoại giao đã thể hiện được vai trò chủ động tích cực, sáng tạo, biết chọn thời điểm và phương thức đấu tranh phù hợp.
Chương 4
NGOẠI GIAO VIỆT NAM 1975-2000
4.1. Ngoại giao phục vụ khôi phục, phát triển kinh tế và bảo vệ Tổ quốc (1975-1985)
4.1.1. Bối cảnh thế giới sau 1975
- Cuộc cách mạng KHKT phát triển mạnh mẽ, nhiều công nghệ mới ra đời như tin học, năng lượng, vật liệu mới
- Sau chiến tranh Việt Nam, nước Mĩ bước vào thời kỳ “sau Việt Nam”, nhiều nước lớn điều chỉnh quan hệ đối ngoại. Nước Mĩ suy giảm thế lực, khủng hoảng toàn diện, Nhật và Tây Âu vươn lên mạnh mẽ, xu hướng độc lập với Mĩ trong các nước phương Tây tăng lên. Mĩ tăng cường hòa hoãn với các nước lớn để ưu tiên giải quyết các vấn đề trong nước. Liên Xô đạt được thế cân bằng chiến lược về quân sự với Mĩ và tăng cường mở rộng ảnh hưởng ra các châu lục, quan tâm nhiều hơn đến châu Á, Đông Nam Á… Trung Quốc thực hiện chương trình cải cách hiện đại hóa và mở cửa kinh tế, để thực hiện điều này Trung Quốc đẩy mạnh quan hệ với Mĩ, Nhật Bản.
+ Tại các nước XHCN Đông Âu, kinh tế phát triển chậm, quan hệ với Liên Xô có nhiều trục trặc.
+ Các nước Đông Nam Á điều chỉnh chính sách nhấn mạnh hòa bình, trung lập, tăng cường duy trì quan hệ với Mĩ, Nhật, từng bước cải thiện quan hệ với Liên Xô, Trung Quốc và các nước XHCN.
4.1.2. Tình hình trong nước
- Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mĩ đã nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế, từ 1975-1977 ta thiết lập quan hệ ngoại giao với 23 nước
- Quan hệ giũaa nước ta với nhiều nước trong khu viực có nhiều trắc trở và phát triển theo chiều hướng ngày càng phức tạp. Các thế lực thù địch trong và ngoài nước tăng cường chống phá.
- Các Đại hội Đảng IV và V xác định chính sách đối ngoại của Việt Nam: đoàn kết hợp tác toàn diện với Liên Xô, củng cố và tăng cường đoàn kết hợp tác với các nước XHCN, bảo vệ và phát triển quan hệ đặc biệt, tình đoàn kết và hợp tác lâu dài với Lào và Campuchia, sẵn sàng thiết lập quan hệ tình hữu nghị với các nước trong khu vực, đối với ASEAN thiết lập quan hệ láng giềng tốt, thiết lập và mở rộng quan hệ bình thường với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị, xã hội trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng, cùng có lợi.
4.1.3. Đẩy mạnh hợp tác toàn diện với Liên Xô và các nước XHCN
+ Với Liên Xô là “hòn đá tảng của chính sách đối ngoại”; “là nguyên tắc, là chiến lược”
Tháng 9-1975, Tổng bí thư Lê Duẩn thăm Liên Xô và nhận được cam kết từ phía Liên Xô giúp ta xây dựng nhà máy thủy điện Hòa Bình, Trị An, Phả Lại, xi măng Bỉm Sơn, hợp tác khai thác dầu khí.
+ Tháng 5-1977, Việt Nam gia nhập Hội đồng tương trợ kinh tế. Ngày 3-11-1978, hai nước ký hiệp ước hữu nghị và hợp tác, kể từ đây quan hệ giữa hai nước phát triển mạnh mẽ về mọi mặt, riêng viện trợ của Liên Xô cho Việt Nam mỗi năm ước chừng 1 tỷ đô la.
+ Quan hệ giữa Việt Nam và các nước XHCN cùng phát triển nhanh chóng
4.1.4. Cải thiện quan hệ với các nước Đông Nam Á
+ Với Lào: kể từ chuyến thăm chính thức của đoàn đại biểu ta năm 1977, quan hệ hai nước được nâng lên một tầm cao mới
+ Với các nước ASAN: trước khi có sự kiện Campuchia, Việt Nam đã có quan hệ với tất cả các nước thành viên.
+ Năm 1978 tại ĐNA xuất hiện những luồng gió ngược chiều do việc Pôn Pốt được các thế lực bên ngoài ủng hộ gây chiến tranh xâm lược biên giới Việt Nam, quân dân Việt Nam đã đập tan bọn xâm lược, đồng thời giúp Campuchia thoát khỏi thảm họa diệt chủng
4.1.5. Đấu tranh bảo vệ biên giới Tây Nam, giúp nhân dân Campuchia khỏi thảm họa diệt chúng
+ Từ 1-5-1975, quan hệ VN-CPC có những dấu hiệu ngày càng xấu đi: CPC xâm lấn biên giới, tấn công việt kiều, di tản người CPC ở biên giới về nước, từ chối hoặc phá vỡ các cuộc gặp gỡ với Việt Nam về vấn đề biên giới.
+ Từ 1977 quan hệ ngày càng xấu đi: CPC cho quân tấn công 14 xã thuộc tỉnh An Giang, Kiên Giang, pháo kích nhiều lần vào Châu Đốc. Trên diễn đàn quốc tế họ vu cáo Việt Nam xâm lược CPC.
+ Tháng 9-1977, Pôn Pốt đi thăm chính thức Trung Quốc, cùng thời điểm này cho quân khiêu khích toàn tuyến biên giới tỉnh Tây Ninh, sát hại nhân vô tội. Việt Nam đã đánh trả kẻ xâm lấn.
+ Tháng 12-1977, Pôn Pốt chính thức ra tuyên bố vu cáo Việt Nam xâm lược CPC, cắt quan hệ ngoại giao với Việt Nam, rút sứ quán CPC ở Hà Nội và yêu cầu tất cả cán bộ ngoại giao ta tại sứ quán Việt Nam ở Phnôm Pênh về nước. Chính phủ Việt Nam đã ra tuyên bố vạch rõ bản chất của vấn đề và đề nghị hai bên gặp gỡ nhau trên tinh thần “hữu nghị anh em” nhưng CPC bác bỏ. Tiếp đó tháng 2-1978 ta đưa ra đề nghị ba điểm đầy tính xây dựng: chấm dứt xung đột, hai bên gặp nhau, thỏa thuận có giám sát quốc tế nhưng mọi cố gắng của Việt Nam một lần nữa Pôn Pốt lại bác bỏ. CPC vẫn tiếp tục vu cáo Việt Nam xâm lược, muốn thành lập Liên bang Đông Dương, ra thời hạn Việt Nam phải thực hiện những yêu cầu của CPC trong vòng 7 tháng… đồng thời tiếp tục tấn công tàn sát dân vô tội, dùng pháo 130 ly bắn vào Châu Đốc.
+ Trung tuần tháng 12-1978, Pôn Pốt tập trung 19/23 sư đoàn tại biên giới và ngày 22-12-1978 mở cuộc tấn công lớn vào Tây Ninh nhưng đã bị đánh bại. Một phần lực lượng của Pôn Pốt bị tiêu diệt, một phần tan rã tại chỗ, một phần chạy sang nước phía Tây, sau tập hợp thành các đơn vị du kích.
Phản ứng của quốc tế đối với vấn đề Việt Nam đưa quân vào Campuchia là không thuận (chỉ có Lào và Liên Xô tuyên bố ủng hộ), thậm chí họ đòi Việt Nam rút quân, các nước tập hợp lại tiến hành bao vây kinh tế, cấm vận kinh tế làm suy yếu và gây sức ép với Việt Nam. Nhiệm vụ của ngoại giao Việt Nam thời kỳ này chống lại âm mưu của các thế lực thù địch, giúp nhân dân CPC hồi sinh.
4.1.6. Khôi phục tình đoàn kết giữa ba nước Đông Dương, thúc đẩy đối thoại với ASEAN
- Ngay từ đầu các nước ASEAN đã đưa ra LHQ nghị quyết lên án Việt Nam xâm lược CPC và yêu cầu quân Việt Nam rút về nước, ta trả lời là Việt Nam ở CPC là do yêu cầu của phía CPC và sẽ rút khi tình hình ổn định
+ 3 tháng một lần, 3 nước Đông Dương họp cấp bộ trưởng ngoại giao.
+ Tháng 2-1983 Việt Nam tuyên bố rút từng bước quân tình nguyện về nước và đề nghị lập khu phi quân sự dọc biên giới Thái Lan – Campuchia.
+ Từ 1979 đến 1985 Việt Nam tăng cường đối thoại với ASEAN nhưng quan điểm của các bên vẫn còn xa nhau.
4.1.7. Kiên trì khôi phục quan hệ bình thường với Trung Quốc
Xuất phát từ những tương đồng về điều kiện tự nhiên, văn hóa và lịch sử, hơn nữa Việt Nam luôn biết ơn sự giúp đỡ của Trung Quốc trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Tháng 9-1975, đoàn đại biểu Đảng và Nhà nước ta đã sang thăm và bày tỏ lòng biết ơn đối với những giúp đỡ của nhân dân Trung Quốc, bàn những biện pháp củng cố và tăng cường tình đoàn kết hữu nghị giữa hai nước. Trung Quốc cũng hứa thực hiện các cam kết đế xây dựng cho Việt Nam 111 công trình.
+ Cuối năm 1976, đầu 1977 đã có những cuộc xung đột biên giới khu vực Cao Bắc Lạng. hai bên đã yêu cầu bàn các biện pháp chấm dứt các cuộc xung đột biên giới. Tháng 9-1977 hai bên đã tiến hành đàm phán ba vòng nhưng không đạt được kết quả. Tháng 11-1977, tại cuộc gặp gỡ tại Bắc Kinh hai bên bất đồng sâu sắc xung quanh vấn đề Campuchia.
+ Tháng 4-1978, Việt Nam tiến hành cải tạo côngthương tại thành phố HCM, vấn đề người Hoa ở Việt Nam được Trung Quốc nêu lên, ngay sau đó tháng 5-1978 Trung Quốc tuyên bố cắt 21+51 hạng mục công trình viện trợ, sau đó cắt toàn bộ viện trợ kinh tế, rút hết chuyên gia về nước. Các vụ xung đột biên giới liên tiếp diễn ra.
+ Tháng 8-1978 hai bên đàm phán về vấn đề người Hoa nhưng qua 7 phiên họp mà không thu được kết quả như mong muốn.
+ Tháng 2-1979 60 vạn quân Trung Quốc xâm lược Việt Nam
+ Tháng 4-1979 diễn ra các cuộc đàm phán tại Hà Nội và Bắc kinh, hai bên đưa ra những quan điểm riêng (Trung Quốc đòi Việt Nam rút quân khỏi Trường Sa, Hoàng Sa và Trường Sa là của Trung Quốc, thay đổi thái độ với CPC, Lào. Các cuộc họp chỉ đạt được việc trao trả người bị bắt), đầu 1980 đàm phán đình chỉ.
- Từ 1980-1987 Việt Nam đã 17 lần gửi công hàm đề nghị nối lại đàm phán Việt – Trung, qua các cuộc đàm phán Xô – Trung thời kỳ này, Trung Quốc cho rằng trở ngại của quan hệ Việt – Trung là việc quân đội Việt Nam ở CPC.
Đấu tranh chống chính sách cấm vận của chính quyền Mĩ
Sau năm 1975 chính quyền Mĩ tiếp tục chính sách thù địch đối với Việt Nam (từ 30-4 phong tỏa tài sản của Việt Nam). Tháng 5-1975 tuyên bố cấm vận thương mại, phủ quyết việc Việt Nam gia nhập LHQ nhưng mặt khác Hoa Kỳ vẫn để ngỏ khả năng cải thiện quan hệ với Việt Nam.
+ Đầu 1977, khi Catơ lên làm tổng thống đã cho thi hành một số điều chỉnh trong chính sách đối với VNM, chủ trương bình thường hóa quan hệ với Việt Nam. Thông qua Liên Xô, Hoa Kỳ đã đề nghị một kế hoạch 3 điểm: Việt Nam thông tin về người Mĩ mất tích trong chiến tranh, chấp nhận Việt Nam gia nhập LHQ, có thể đóng góp vào khôi phục kinh tế Việt Nam bằng cách phát triển buôn bán. Để thúc đẩy quan hệ, Hoa Kỳ đã cử một đoàn đại biểu do một Thượng nghị sĩ sang Việt Nam, đã có những cuộc hội đàm.
+ Khi quan hệ giữa Việt Nam và Liên Xô tốt lên, Việt Nam và Trung Quốc xấu đi, cuối 1978 Mĩ hủy bỏ các vòng đàm phán, gắn vấn đề CPC và người Mĩ mất tích như là những điều kiện bắt buộc cho việc bình thường hóa quan hệ hai nước. Chính điều này làm cho quan hệ hai nước tiếp tục căng thẳng
Ngoại giao Việt Nam kiên quyết chống lại chính sách bao vây cấm vận của Mĩ, Việt Nam không nêu vấn đề bồi thường chiến tranh, tách vấn đề nhân đạo khỏi chính trị, hợp tác với Mĩ về vấn đề MIA, còn lại, những người hợp tác với Mĩ trong chiến tranh được xuất cảnh sang Mĩ hoặc nước thứ ba, tạo điều kiện cho nhiều tổ chức phi chính phủ của Mĩ đến Việt Nam, nhiều cuộc hội thảo được tổ chức, hai nước tiến hành trao đổi sinh viên và học giả.
4.1.8. Phát triển quan hệ với các nước dân tộc chủ nghĩa và không liên kết
Xuất phát từ uy tín của Việt Nam sau năm 1975, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao cấp đại sứ hoặc tổng lãnh sự với nhiều nước ở châu Phi, châu Mylatinh, Trung Đông vừa tranh thủ vốn, viện trợ, vừa học hỏi kinh nghiệm của các nước trong xây dựng kinh tế.
+ Tại diễn đàn hội nghị cấp cao các nước không liên kết, Việt Nam đã tích cực chủ động phối hợp với các nước thành viên.
- Mở rộng quan hệ với các nước tư bản chủ nghĩa và các tổ chức quốc tế
Từ 1976 đến 1986 Việt Nam đẩy mạnh quan hệ với Nhật, Canađa, Cộng hòa liên bang Đức, Ốtxtrâylia nhằm mở ra quan hệ kinh tế, thương mại, văn hóa, khoa học học kỹ thuật, trước khi xẩy ra vấn đề CPC thủ tướng Phạm Văn Đồng đi thăm các nước Tây Âu, Bắc Âu (Pháp, Phần Lan, Đan Mạch để vay vốn và tranh thủ viện trợ không hoàn lại, viện trợ nhân đạo, thiết bị kỹ thuật của các nước tư bản phương Tây (trong số hơn 2 tỷ đô la thì 46% là viện trợ không hoàn lại). Từ 1979 quan hệ với các nước này giảm hẳn, ngân hàng thế giới và ngân hàng châu Á ngừng cung cấp vốn cho Việt Nam, tuy nhiên quan hệ Việt Nam với một số tổ chức quốc tế vẫn được duy trì như hệ thống phát triển LHQ, Chương trình lương thực thế giới. Sự tham gia hợp tác của Việt Nam với các tổ chức trên đã góp phần giải quyết nhiều vấn đề kinh tế xã hội và khoa học kỹ thuật (giáo dục, y tế, chăm sóc sức khỏe cộng đồng, kế hoạch hóa gia đình, cung cấp nước sạch, vệ sinh công cộng, phục hồi, xây dựng một số cơ sở sản xuất)
+ Sau ngày 30-4-1975, do sự kích động của các thế lực thù địch với Việt Nam, dòng người ra đi bất hợp pháp diễn ra ồ ạt chủ yếu sang Mĩ và phương Tây, mục đích là làm giảm uy tín và gây khó khăn cho Việt Nam, phá hoại đoàn kết dân tộc.
Chính phủ Việt Nam coi vấn đề người di tản là vấn đề nhân đạo và chủ trương giải quyết trên tinh thần nhân đạo, đồng thời có nhiều biện pháp tích cực ngăn chặn, chống lại những âm mưu tuyên truyền lừa bịp và ra đi bất hợp pháp. Việt Nam liên hệ với Cao ủy LHQ về người tị nạn, Tổ chức di cư quốc tế
+ Tháng 5-1979 Việt Nam ký bản ghi nhớ để phối hợp tổ chức xuất cảnh có trật tự trong vòng 10 năm có 243.995 người được xuất cảnh, đến 12-1978 đã thỏa thuận cho những người hồi hương tự nguyện, kiên quyết phản đối hồi hương cưỡng bức (chú ý đây là vấn đề rất phức tạp) .
4.2. Ngoại giao phục vụ công cuộc đổi mới (1986-2000)
4.2.1. Những biến đổi to lớn trên thế giới: thời cơ và thách thức
+ Từ đầu những năm 80, cách mạng khoa học – công nghệ phát triển tăng tốc, với các đợt sóng công nghệ cao, nổi bật là công nghệ thông tin, dẫn đến việc xã hội hóa sản xuất vật chất, tạo ra nhiều ngành kinh tế mới, thúc đẩy kinh tế tri thức, sự phổ cập của Internet…
+ Cải cách mở cửa được các nước tiến hành ở những mức độ khác nhau
+ Toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập kinh tế đặt ra những thách thức to lớn nhất là đối với các nước chậm phát triển, có thể xói mòn chủ quyền quốc gia, đe dọa ổn định kinh tế, làm sâu sắc thêm sự chênh lệch giàu nghèo.
+ Cục diện chính trị thế giới thay đổi, các nước lớn điều chỉnh chính sách đối ngoại, Hoa Kỳ và Liên Xô chấm dứt chiến tranh lạnh, Liên Xô và Trung Quốc bình thường hóa quan hệ, các nước Đông Âu lần lượt đổ vỡ, Trật tự hai cực chấm dứt. Các nước lớn tăng cường chạy đua kinh tế, trong nước thực hiện chấn hưng kinh tế, cải tổ kinh tế, cải cách mở cửa, về đối ngoại họ đi vào hòa hoãn, cải thiện quan hệ từng đôi vừa hợp tác, vừa kìm chế lẫn nhau. Kinh tế trở thành sức mạnh trụ cột của từng quốc gia và đóng vai trò quan trọng trong thời kỳ sau chiến tranh lạnh.
+ Các xung đột khu vực, dân tộc sắc tộc có chiều hướng tăng (vùng Vịnh, Đông Timo, Kosovo…
+ Những biểu hiện ngoại giao bá quyền, cường quyền, những chiêu bài: “ưu tiên cho đạo lý”, “nhân quyền cao hơn chủ quyền”… trong sinh hoạt quốc tế ngày càng trở nên lộ liễu và công khai.
+ Những vấn đề toàn cầu về môi trường sinh thái, bùng nổ dân số, ma túy, các căn bệnh thế kỷ, chủ nghĩa ly khai, chủ nghĩa phục hưng tôn giáo, tội phạm xuyên quốc gia, chủ nghĩa khủng bố… trở nên gay gắt.
- Tình hình châu Á, Thái Bình Dương:
+ Là khu vực có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hàng đầu thế giới, một số quốc gia và vùng lãnh thổ trở thành con rồng “con hổ mới” về kinh tế, các nước trong khu vực đều có nguyện vọng cùng tồn tại trong hòa bình, hữu nghị và hợp tác để phát triển, các tổ chức hợp tác như APEC, ASEAN, AFTA…, cùng hàng loạt các hợp tác tam giác, tứ giác ra đời. Các nước đều điều chỉnh chiến lược phát triển kinh tế, chiến lược đối ngoại của mình. Quan hệ giữa các nước trong khu vực dù còn trục trặc, nhưng về cơ bản vẫn nằm trong khuôn khổ vừa đấu tranh, vừa hợp tác với nhau, nhưng tránh đối đầu.
Lần đầu tiên trong lịch sử kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Đông Nam Á trải qua một thập kỷ phát triển năng động trong cuộc hành trình vào thiên niên kỷ mới (mặc dù vào cuối những năm 90 có cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ, kéo theo khủng hoảng kinh tế xã hội nghiêm trọng), song với vị thế của mình (giao thông, lao động, tài nguyên) ĐNA vẫn được coi là khu vực dầu tiềm năng và có tốc độ phát triển kinh tế cao hơn nhiều khu vực khác trên thế giới.
4.2.2. Xây dựng và hoàn chỉnh đối lối đối ngoại thời kỳ đổi mới
+ 7-1986, BCT ra nghị quyết điều chỉnh chính sách đối ngoại: kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh thời đại, tranh thủ những điều kiện quốc tế thuân lợi để xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc, chủ động tạo thế ổn định để phát triển kinh tế. Chủ động chuyển sang thời kỳ cùng tồn tại hòa bình, góp phần xây dựng ĐNA thành khu vực hòa bình.
+ Đại hội VI nhấn mạnh: Phát triển và củng cố quan hệ với Lào và Campuchia, đoàn kết và hợp tác toàn diện với Liên Xô, coi đó là hòn đá tảng, sẵn sàng đàm phán bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, mở rộng quan hệ với tất cả các nước trên nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình.
+ Tháng 5-1888 BCT ra nghị quyết xác định ngoại giao phải ưu tiên giữ vững hòa bình để phát triển kinh tế, nhấn mạnh chính sách “thêm bạn, bớt thù”, đa dạng hóa các quan hệ, trước mắt bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc và góp phần giải quyết vấn đề CPC… đó là sự đổi mới tư duy về các vấn đề quốc tế và đối ngoại của ĐCSVN, giải quyết một loạt quan điểm về chiến tranh và hòa bình, an ninh và phát triển, kinh tế và quốc phòng, dân tộc và quốc tế, quan hệ đồng minh…
+ ĐH VII (6-1991) xác định nhiệm vụ của đối ngoại là giữ vững hòa bình, mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân loại vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ. Đại hội thông qua tuyên bố chính sách: “Với chính sách đối ngoại rộng mở, chúng ta tuyên bố rằng: Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”. trong Cương lĩnh xây dựng chủ nghĩa xã hội đề ra chính sách “đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại” hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị, xã hội khác nhau, trên nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình.
Sau đại hội VII, tình hình thế giới chuyển biến nhanh chóng, phức tạp và cơ bản, tác động mạnh tới Việt Nam: Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu sụp đổ, các thế lực thù địch tăng cường chống phá Việt Nam, cách mạng nước ta một lần nữa trải qua những thử thách hiểm nghèo. Tuy nhiên những nhân tố thuận lợi mới cũng xuất hiện: hợp tác liên kết kinh tế, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế.
+ Tháng 6-1992, Hội nghị lần ba của Đảng nêu lên tư tưởng chỉ đạo hoạt động đối ngoại: giữ vững nguyên tắc vì độc lập thống nhất và chủ nghĩa xã hội, đồng thời phải sáng tạo, năng động, linh hoạt, phù hợp với vị trí, điều kiện và hoàn cảnh của nước ta, cũng như diễn biến của tình hình thế giới và khu vực, phù hợp với từng đối tượng ta có quan hệ.
+ Tháng 1-1994, Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ ra nghị quyết về đẩy tới một bước công nghiệp hóa hiện đại hóa. Để thực hiện nhiệm vụ này, về ngoại giao: “tiếp tục thực hiện chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, mở rộng, đa dạng hóa, đa phương hóa, tranh thủ tối đa mặt đồng, hạn chế mặt bất đồng trong quan hệ với các nước. Theo dõi sát tình hình và diễn biến phức tạp trong quan hệ quốc tế để có chủ trương thích hợp, giữ vững nguyên tắc năng động, linh hoạt”.
+ Đại hội VIII tháng 6-1996 nhấn mạnh tạo điều kiện quốc tế thuận lợi hơn nữa để phát triển đất nước, đẩy mạnh nhanh quá trình hội nhập kinh tế trên cơ sở giữ vững độc lập tự chủ, bản sắc văn hóa dân tộc và định hướng xã hội chủ nghĩa.
+ Tháng 12-1997, tại hội nghị lần thứ tư của Trung ương khẳng định: độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường là cơ sở vững chắc để đẩy mạnh hơn nữa đoàn kết và hợp tác quốc tế… tư tưởng đối ngoại đó xuất phát từ thực tiễn và nhu cầu của đất nước cần phải tiếp tục khai thác các điều kiện quốc tế thuận lợi phục vụ công nghiệp hóa hiện đại hóa.
- Tích cực tham gia đối thoại tìm giải pháp chính trị cho vấn đề Campuchia
+ Từ 1982, hàng năm bộ phận quân tình nguyện Việt Nam rút dần về nước, các nước đòi Việt Nam rút hết quân như điều kiện tiên quyết cho một giải pháp chính trị về CPC, cho việc bình thường hóa quan hệ với Việt Nam.
+ Từ đầu 1985, tình hình có những diễn biến mới: các nước lớn có liên quan đều không muốn có xung đột CPC kéo dài ảnh hưởng đến quan hệ giữa họ với nhau, và họ với ĐNA, đặc biệt là 5 nước thường trực (hình thành nhóm P-5). Tháng 8-1985, Hội nghị ngoại trưởng 3 nước Đông Dương đưa ra một giải pháp 5 điểm cho CPC, trong đó: Việt Nam sẽ rút hết quân vào 1990, CHNDCPC sẽ nói chuyện với các bên để thực hiện một nước CPC độc lập,…). Tháng 1-1986, Ngoại trưởng 3 nước nhắc lại đề nghị 5 điểm và nhấn mạnh 2 mặt của vấn đề: Việt Nam rút quân gắn với việc chấm dứt viện trợ bên ngoài cho CPC, Thái Lan không sử dụng lãnh thổ của mình làm đất thánh, chấm dứt các hoạt động chống 3 nước Đông Dương)… đến đây việc đối phương nêu vấn đề Việt Nam rút quân mất dần giá trị.
+ Tháng 6-1988, Bộ Quốc phòng Việt Nam tuyên bố rút 5 vạn quân và rút Bộ tư lệnh quân tình nguyện Việt Nam ở CPC, số quân Việt Nam còn lại đặt dưới sự chỉ huy của Cộng hòa NDCPC. Trong đợt rút quân này, số quân đóng gần biên giới Thái Lan cũng rút về nước, việc làm đó tác động đến thái độ của Thái Lan và các nuớc ESAN. Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh tuyên bố sẽ rút hết quân về nước vào tháng 9-1989, dù có hay không giải pháp về CPC.
+ Tháng 9-1989, Việt Nam hoàn thành việc rút quân đã thúc đẩy nhanh xu thế đối thoại, tăng sức ép đối phương đi vào giải pháp, vô hiệu hóa con bài “rút quân Việt Nam”, thay đổi cơ bản tính chất cuộc đấu tranh ở CPC. Đồng thời Việt Nam tích cực đối thoại với các nước hữu quan trước hết là với nhóm nước ASEAN do Inđônêxia làm đại diện. Các bên CPC (3phái): Hunxen – Xihanúc – Xon Xan đều tán thành chủ trương: Việt Nam rút quân và ngăn chặn sự trở lại của Khơme đỏ (Pôn Pốt). Do sự đấu tranh khôn khéo của Việt Nam, các nước ASEAN đều nhất trí những nguyên tắc lớn để giải quyết vấn đề CPC: Việt Nam rút hết quân, chấm dứt viện trợ và sự cam thiệp từ bên ngoài, loại trừ sự quay trở lại của chính sách và chế độ diệt chủng.
+ Tháng 4-1989, quốc hội CPC ra tuyên bố về nền trung lập vĩnh viễn của CPC, đổi tên CHNDCPC thành nhà nước CPC phù hợp với yêu cầu của Xihanúc.
+ Đồng thời với quá trình này, Việt Nam đẩy mạnh quá trình đối thoại với Trung Quốc: Ông Phạm Văn Đồng khẳng định trong thông điệp gửi cho Đặng Tiểu Bình: Việt Nam không cho rằng việc giải quyết vấn đề CPC có liên quan tới việc bình thường hóa quan hệ VN-TQ. Tháng 12-1988, Việt Nam chính thức đề nghị Trung Quốc tổ chức gặp gỡ cấp bộ trưởng ngoại giao bàn về bình thường hóa quan hệ giữa hai nước. Vòng đàm phán đầu tiên cấp thứ trưởng diễn ra tại Bắc kinh. Tháng 11-1989, Việt Nam gửi thông điệp cho Trung Quốc bày tỏ muốn sớm bình thường hóa quan hệ giữa hai nước, Trung Quốc trả lời với nội dung: Việt Nam rút hết quân, giải quyết thành lập chính phủ lâm thời 4 phái do Xihanúc đứng đầu, có giám sát quốc tế.
+ Tình hình CPC chuyển biến nhanh chóng, từ 1989 Mĩ điều chỉnh chính sách với Đông Dương, chấm dứt ủng hộ chính phủ 3 phái CPC, bắt đầu bàn đến bình thường hóa quan hệ với Việt Nam, các nước phương Tây và ASEAN vượt qua hàng rào cấm vận, bắt đầu tìm kiếm cơ hội làm ăn với Việt Nam, nhất là từ khi thủ tướng Thái Lan Chatichai Chônhavan tuyên bố: “Biến Đông Dương từ chiến trường thành thị trường” (8-1988).
+ Theo sáng kiến của ngoại trưởng Ốxtrâylia và lời mời của chính phủ Pháp, hội nghị quốc tế về CPC đã họp tại phố Clêbe tháng 7 đến tháng 8-1989 (đây có thể coi là vòng một của Hội nghị Pari về CPC). Tuy nhiên vấn đề phân chia quyền lực giữa các phái vẫn bế tắc, việc ngăn chặn diệt chủng vẫn bị Khơ me đỏ bác bỏ.
+ Tháng 7-1990, P5 họp cấp thứ trưởng và thỏa thuận: tập kết và giải giáp các bên CPC, LHQ tổ chức tổng tuyển cử, thành lập Hội đồng tối cao CPC (SNC), thông qua văn kiện khung về một giải pháp toàn bộ cho cuộc xung đột ở CPC. Trong quan hệ Việt Nam Hoa Kỳ, ngoại trưởng Mĩ trong các cuộc gặp gỡ với Việt Nam đều đưa ra đề nghị rằng Việt Nam nên chấp nhận quyết định của P5 và giúp tháo gỡ bế tắc trong Hội đồng tối cao CPC, gặp Xihanúc
- Ký kết hiệp định Pari về CPC:
+ Vấn đề CPC gồm hai mặt: nội bộ và quốc tế, hai mặt đan xen nhau và liên quan đến lợi ích của nhân dân CPC, các bên CPC, phù hợp với lợi ích hòa bình ổn định ở ĐNA vì vậy các cuộc đàm phán rất phức tạp, các diễn đàn song phương khó đạt được một giải pháp toàn diện cuối cùng đã phải thông qua một hội nghị quốc tế, tuy nhiên thỏa thuận P5 có ảnh hưởng lớn.
+ Tháng 7-1991, hội đồng tối cao CPC họp tại Bắc Kinh đã thỏa thuận cơ cấu gồm 12 thành viên do Xihanúc làm chủ tịch. Tháng 11-1991 Hội nghị quốc tế về CPC họp tại Clêbe ký kết các văn kiện về giải pháp chính trị toàn bộ cho vấn đề CPC. Nội dung cơ bản của hiệp định là: công nhận và khẳng định tôn trọng độc lập…, công nhận Hội đồng tối cao CPC là cơ quan hợp pháp duy nhất trong thời kỳ quá độ, quy định tổng tuyển cử, soạn thảo hiến pháp. Rút hết quân đội nước ngoài, cấm viện trợ quân sự cho các bên CPC.
Hiệp định được ký kết chấm dứt tình trạng căng thẳng đối đầu giữa nước ta với các nước đã lợi dụng vấn đề CPC để thực hiện chính sách bao vây cấm vận Việt Nam.
- Quan hệ giữa Việt Nam với CPC và Lào sang trang
+ Tháng 3-1992, Bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm thăm CPC, hai bên ra thông cáo chung nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đưa quan hệ hai nước bước sang giai đoạn mới. Tiếp đó là các cuộc viếng thăm lẫn nhau giữa các lãnh đạo cao nhất của hai nước.
+ Tháng 9-1999, hai bên thỏa thuận phương châm 16 chữ chỉ đạo quan hệ hai nước là: “Hợp tác láng giềng tốt đẹp, đoàn kết hữu nghị truyền thống, ổn định lâu dài”.
+ Việt Nam ủng hộ mạnh mẽ việc kết nạp CPC vào ASEAN và đứng ra kết nạp tháng 4-1999, sự kiện này thúc đẩy xu thế hòa bình hợp tác ở khu vực.
+ Đối với Lào: nâng cao chất lượng và hiệu quả của sự hợp tác, những cuộc viếng thăm chính thức giữa lãnh đạo của hai nhà nước hai chính phủ đã thắt chặt tình đoàn kết hữu nghị đặc biệt Việt – Lào, nâng sự hợp tác hai nước lên toàn diện, chiến lược và lâu dài.
- Bình thường hóa và phát triển quan hệ hữu nghị hợp tác với Trung Quốc
+ Năm 1988, Việt Nam đã sửa lời nói đầu trong Hiến pháp, đề nghị hai bên chấm dứt hoạt động vũ trang tại biên giới, đất liền và hải đảo, không bên nào đóng quân trên các điểm cao dọc biên giới hai nước, tạo điều kiện cho nhân dân đi lại thăm hỏi bà con thân thích. Việt Nam đã mở cửa khẩu cho hai bên qua lại.
+ Tháng 8-1990, thủ tướng Lý Bằng tuyên bố: “Hy vọng sẽ bình thường hóa quan hệ với Việt Nam”. Trung Quốc đã mời các đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng, Nhà nước và Chính phủ ta thăm không chính thức.
+ Tháng 3-1991, thủ tướng Lý Bằng tuyên bố: “Quan hệ VN-TQ đã tan băng”. Tháng 11-1991, Tổng bí thư Đảng ta và Thủ tướng chính phủ Việt Nam đã sang thăm Trung Quốc chính thức, hai bên đã ra tuyên bố chung, ký kết một số hiệp định… sự kiện này đánh dấu việc bình thường hóa quan hệ giữa hai nước.
+ Tháng 12-1992 Thủ tướng Lý Bằng thăm chính thức Việt Nam, rồi Tổng bí thư, kiêm Chủ tịch nước Giang Trạch Dân sang thăm chính thức nước ta, đưa quan hệ hai nước lên tầm cao mới.
+ Tháng 3-1999 Tổng bí thư Lê Khả Phiêu thăm Trung Quốc, trong thông cáo chung đã nêu lên 16 chữ làm khuôn khổ cho quan hệ hai nước: “Láng giềng, hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”.
+ Tháng 12-1999, bộ ngoại giao hai nước đã ký kết hiệp ước về biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và Trung Quốc (cơ bản phù hợp với công ước giữa Pháp và nhà Thanh năm 1887, 1895, đối với những khu vực trước đây chưa rõ ràng thì hai bên xem xét tổng hợp các yếu tố lịch sử, quản lý, địa hình… để giải quyết.
+ Sau bốn lần trao đổi ở cấp chính phủ, ngày 25-12-2000 bộ ngoại giao hai nước đã ký hiệp định về phân định vịnh Bắc Bộ (Việt Nam: 53,23%; Trung Quốc: 46,77%).
Việc ký kết hai hiệp định trên là mốc rất quan trọng trong quan hệ hai nước, giải quyết một vấn đề tồn tại lâu năm, tạo điều kiện để tăng cường quan hệ giữa hai nước. Thực hiện mục tiêu xây dựng biên giới VN-TQ trở thành biên giới hòa bình, hữu nghị, ổn định lâu dài.
- Cải thiện quan hệ với các nước ĐNA và ASEAN
+ Tháng 10-1990, tổng thống Inđônêxia Xuhacto là vị nguyên thủ đầu tiên trong các nước Asean thăm nước ta.
+ Sau khi hiệp định hòa bình về CPC được ký kết, Chủ tịch hội đồng bộ trưởng Võ Văn Kiệt thăm Inđônêxia, Thái Lan, Xingapo, đây có thể coi là bước đột phá trong quan hệ giữa VN-ASEAN thời kỳ “sau Campuchia”, bởi vì kể từ sau sự kiện này, lần lượt các nguyên thủ quốc gia của các nước Asean đã sang thăm chính thức nước ta và ngược lại các đoàn cao cấp của nước ta cũng sang thăm các nước Asean.
Sau các sự kiện này quan hệ hợp tác trao đổi về kinh tế, thương mại giữa hai nước tăng lên nhanh chóng
+ Đối với Asean, tháng 2-1989, Việt Nam tuyên bố sẵn sàng tham gia Hiệp ước thân thiện Đông Nam Á (hiệp ước bali). Tháng 7-1992 trở thành quan sát viên. Ngày 28-7-1995, tại Banđa Xêri Bêgaoan (thủ đô của vương quốc Brunây Đaruxalem) đã diễn ra lễ kết nạp Việt Nam là thành viên đầy đủ của Asean.
Gia nhập Asean, tạo ra môi trường thuận lợi cho sự phát triển chung của Việt Nam và cả khu vực, nâng cao vị thế của nước ta, tạo điều kiện để nước ta mở rộng quan hệ với các đối tác quan trọng khác trên thế giới.
- Đấu tranh phá bỏ cấm vận và bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ
Từ giữa năm 1986, quan hệ chuyển từ đối đầu sang đối thoại, có những phát triển quan trọng kể từ sau khi giải quyết vấn đề Campuchia. Việc thực hiện bình thường hóa với Hoa kỳ được thực hiện trên nguyên tắc: tôn trọng độc lập, chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi, giải quyết mọi tranh chấp, bất đồng và những vấn đề tồn tại thông qua thương lượng hòa bình.
Cơ sở giải quyết bình thường hóa là nguyện vọng của nhân dân hai nước, có lợi cho hòa bình, ổn định ở khu vực. Việt Nam kiên quyết đòi Mĩ xóa bỏ hoàn toàn lệnh cấm vận chống Việt Nam
+ Năm 1991, tại Pari Bộ Ngoại giao ta đã có những cuộc tiếp xúc với bộ ngoại giao Mĩ bàn về bình thường hóa quan hệ hai nước. Từ 1992-1994, hàng năm nhân dịp dự Đại hội đồng LHQ, trong các cuộc tiếp xúc không chính thức, ta tiếp tục gặp gỡ nhằm thúc đẩy quá trình cải thiện quan hệ giữa hai nước. Cũng trong những năm này nhiều đoàn nghị sĩ Mĩ đã thăm Việt Nam.
+ Ngày 3-2-1994, tổng thống Mĩ Bin Clintơn tuyên bố bãi bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam, thiết lập cơ quan liên lạc Mĩ tại Hà Nội.
+ Ngày 11-7-1995, tuyên bố bình thường quan hệ với Việt Nam. Tháng 8-1995 ngoại trưởng Mĩ Crittocphơ ký thỏa thuận trao đổi đại sứ giữa hai nước. Bước đầu tiên trong quan hệ là bình thường hóa về quan hệ kinh tế, thương mại. Tháng 10-1998, bộ trưởng ngoại giao ta Nguyễn Mạnh Cầm lần đầu tiên thăm chính thức Hoa Kỳ. Nước ta xuất khẩu sang Hoa Kỳ gồm: gạo, dầu thô, khoáng sản, thực phẩm, nông sản nhiệt đới, nước giải khát, bia, hải sản và giầy dép… của Mĩ là bông, thực phẩm, thiết bị kỹ thuật.
+ Sau 4 năm đàm phán, ngày 14-7-2000 ta và Mĩ đã ký kết hiệp định thương mại Việt –Mĩ, hoàn tất quá trình bình thường hóa về kinh tế và thương mại giữa hai nước.
+ Tháng 11-2000, Bin Clitơn thăm chính thức Việt Nam, đây là mốc quan trọng trong lịch sử quan hệ Việt Nam Hoa Kỳ, khép lại một chương liên quan đến cuộc chiến tranh Việt Nam.
- Đổi mới quan hệ với Nga, các nước Đông Âu và các nước bạn bè truyền thống
Từ giữa những năm 80, Liên Xô chuyển hướng chiến lược đối ngoại, đẩy mạnh hòa hoãn với Mĩ, tìm cách cải thiện quan hệ với Trung Quốc, giảm cam kết bên ngoài. Điều đó tác động đến chính sách của Liên Xô với Đông Dương. Trong bối cảnh đó ta chủ trương phải đổi mới quan hệ hợp tác với Liên Xô, nâng cao hiệu quả của sự hợp tác trên cơ sở cùng có lợi.
+ Từ 1987 ta và Liên Xô thực hiện một số hình thức liên doanh và trực tiếp hợp tác giữa các cơ sở sản xuất. Ta và Lien Xô đã ký hiệp định khung về về quan hệ trực tiếp và liên doanh về công nghiệp nhẹ, cơ khí, điện tử, khai khoáng, công nông nghiệp và hợp tác lao động. Năm 1991, hai bên thỏa thuận chuyển sang cơ chế hợp tác, thương mại trên cơ sở giá quốc tế và đồng tiền chuyển đổi.
+ Đầu những năm 90, Liên Xô và các nước XHCN sụp đổ dưới góc độ nhà nước, quan hệ giữa nước ta với các nước này tạm gián đoạn, tuy nhiên sau một thời gian không lâu, Việt Nam chủ động khôi phục và thúc đẩy quan hệ hữu nghị và sự hợp tác nhiều mặt với các nước trên cơ sở mới.
Những cuộc viếng thăm giữa các bên trong thập niên 90 đã ký kết nhiều văn kiện quan trọng, trong đó xác định những nguyên tắc quan hệ mới và những hình thức hợp tác nhiều mặt theo những hình thức mới phù hợp.
+ Việt Nam coi Liên bang Nga có tầm quan trọng hàng đầu trong mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước bạn bè truyền thống. Năm 1993, ủy ban liên chính phủ về hợp tác kinh tế thương mại và khoa học kỹ thuật Việt – Nga họp phiên đầu tiên.
Hai bên cũng đã trao đổi nhiều đoàn cấp cao, hai nước đã ký hiệp ước về các nguyên tắc quan hệ hữu nghị thay thế hiệp ước hữu nghị hợp tác năm 1978 và nhiều hiệp định về hợp tác kinh tế thương mại, khoa học kỹ thuật, điện lực, dầu khí, khuyến khích và bảo hệ đầu tư, tổ hợp công, nông nghiệp và các lĩnh vực khác. Liên bang Nga là bạn hàng lớn và nhiều tiềm năng của Việt Nam, là nước đầu tư lớn vào Việt Nam.
+ Đối với các nước thuộc Liên Xô cũ, Việt Nam chủ động thiết lập quan hệ ngoại giao và thúc đẩy quan hệ.
+ Từ năm 1992, Việt Nam khôi phục quan hệ với các nước Đông Âu đã ký kết nhiều hiệp định hợp tác kinh tế, thương mại.
+ Với Cuba, tình đoàn kết hữu nghị truyền thống tiếp tục được củng cố trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt coi trọng đến thế mạnh của mỗi nước.
+ Với Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên: ủng hộ việc thống nhất hai miền Nam Bắc triều Tiên, hoan nghênh các cuộc gặp thượng đỉnh giữa hai miền Triều Tiên.
+ Với Ấn Độ: tăng cường hơn nữa quan hệ nhiều mặt với Ấn Độ.
- Cải thiện và tăng cường quan hệ với các nước tư bản và công nghiệp phát triển
Từ khi Việt Nam thực hiện công cuộc đổi mới và sau khi cuộc xung đột ở CPC được giải quyết bằng giải pháp thương lượng.
+ Quan hệ với Nhật Bản có tầm quan trọng hàng đầu đối với Việt Nam. Từ 1992 quan hệ hai nước bình thường hóa và sau đó tiến triển tích cực.
Từ năm 1993, các đoàn cao cấp của Việt Nam cứ hai năm 1 lần tới thăm chính thức Nhật Bản. Nhật là bạn hàng buôn bán lớn nhất của Việt Nam (về đầu tư đứng thứ ba sau Xingapo và Đài Loan). Nhật nối lại viện trợ cho Việt Nam năm 1992, dành cho Việt Nam số ODA lớn nhất trong các nước trên thế giới (khoảng 40%). Là nước viện trợ không hoàn lại đứng thứ hai sau Thụy Điển.
+ Quan hệ với Ốxtraylia, Niu Dilân được thúc đẩy, hợp tác được mở rộng trên nhiều lĩnh vực, hai nước đã giúp Việt Nam những khoản viện trợ rất có ý nghĩa.
+ Các nước Tây Âu, Bắc Âu: chủ trương của ta là mở rộng hợp tác nhiều mặt trên cơ sở bình đẳng và hợp tác cùng có lợi. Từ khi Việt Nam công bố Luật đầu tư 1987, nhiều công ty đã vào Việt Nam tìm hiểu, nghiên cứu khả năng và cơ hội làm ăn buôn bán. Ngay khi Việt Nam rút quân khỏi CPC, các nước Tây Âu đã bỏ qua lệnh cấm vận của Mĩ để tăng cường quan hệ với Việt Nam. Ta tích cực triển khai các hoạt động đối ngoại nhằm thu hút vốn đầu tư của các nước có vốn và công nghệ, mở rông quan hệ văn hóa du lịch giữa nhân dân các nước với Việt Nam.
+ Ngày 2-9-1993 tổng thống Mittơrăng (Pháp) là nguyên thủ đầu tiên ở các nước Tây Âu thăm Việt Nam. Chuyến thăm này mở ra một thời kỳ mới. Việt Nam đã ký với hầu hết các nước Hiệp định khung về hợp tác và khuyến khích và bảo hộ đầu tư, hiệp định tránh đánh thuế hai lần, tạo cơ sở pháp lý cho việc xây dựng và phát triển quan hệ hợp tác lâu dài. Đến năm 2000 có 11 nước EU đầu tư vào Việt Nam, vốn ODA và viện trợ không hoàn lại được thực hiện chủ yếu từ 1992-1993 về sau, trong đó Thụy Điển là nước viện trợ không hoàn lại lớn nhất (trên 1,5 tỷ USD). Viện trợ không hoàn lại tập trung vào hạ tầng cơ sở, phát triển nông thôn, nông nghiệp, y tế, giáo dục, lâm nghiệp, xử lý môi trường…
Các nước Tây Âu còn là thị trường buôn bán lớn của Việt Nam, quan hệ buôn bán 1990-1999 tăng 10 lần, hàng của Việt Nam chủ yếu là dệt may, giầy da, thủy sản. Thông qua các nước Tây Âu, Việt Nam đến với các tổ chức quốc tế như Liên minh châu Âu.
- Phát triển quan hệ với nhiều nước ở các châu lục
Từ 1986 đến 2000 Việt Nam đã thiết lập và mở rộng quan hệ với nhiều nước ở tất cả các khu vực như Thái Bình Dương, Trung Đông, châu Phi, Mĩlatinh…
- Mở rộng quan hệ ngoại giao đa phương
Với các tổ chức của LHQ, với Cộng đồng các quốc gia và lãnh thổ có sử dụng tiếng Pháp, với Phong trào không liên kết. Từ việc chỉ quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa, Việt Nam đã mở rộng quan hệ với nhiều nước ở khắp các châu lục, nhiều tổ chức khu vực và quốc tế, các trung tâm kinh tế, chính trị thế giới, các lĩnh vực kinh tế, thương mại, khoa học kỹ thuật, y tế giáo dục, văn hóa xã hội kể cả an ninh và phát triển dưới nhiều hình thức, ở nhiều cấp nhiều tầng nấc khác nhau.
Ngoại giao đa phương ngày càng có vai trò to lớn trong đời sống quốc tế hiện đại, trở thành hình thức phổ biến, làm thay đổi chất lượng hoạt động ngoại giao.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top