NGÔ ĐÌNH NHU Một Nhà Chiến Lược (1910-1963)

1 | T r a n g

NGÔ ĐÌNH NHU

Một Nhà Chiến Lược (1910-1963)

Hoà Giang Đỗ Hữu Nghiêm

Chân dung Ông Ngô Đình Nhu

I. Thân Thế Ngô Đình Nhu

Thời Thơ Ấu Và Thanh Niên, 1910-1955

Ông Ngô Đình Nhu (1910- 1963), sinh ngày 3 tháng 10 năm 1910 (có tài liệu ghi 1911 ở Huế)

tại làng Đại Phong, huyện Lệ Thủy tỉnh Quảng Binh, lúc nhỏ đi tu tại Tiểu Chủng viện An Ninh, Cửa

Tùng, Quảng Trị được một thời gian thì hồi tục. Khác với nhiều người trong gia đình theo ngành học có

xu hướng cựu học, cậu Nhu cùng với cậu Luyện, được gia đình cho đi du học Pháp theo Tây học

khoảng đầu thập niên 1930.

Trong những năm 1935-38, các thanh niên sinh viên Trần Văn Chương, Trần Đức Thảo, Phạm

Duy Khiêm, Nguyễn Mạnh Tường đang theo học bên Trường Luật và Văn Khoa tại Viện Đại Học

Sorbonne, Paris, thì sinh viên Ngô Đình Nhu theo học Trường Quốc Gia Cổ Điến Học (Ecole Nationale

des Chartes[1])

Điều kiện nhập học là ứng sinh phải có Văn Bằng Tú Tài Toàn Phần theo chương trình Pháp.

Mỗi khóa học kéo dài trong 4 năm, khi đó thường chỉ nhận 20 tuyển sinh. Trong các sinh viên Việt

Nam, chỉ một mình cậu Ngô Đình Nhu trúng tuyển. Sau Nhu, có sinh viên Nguyễn Thiệu Lâu, nhưng

Lâu chỉ học được một năm, thì phải bỏ dở vì lý do sức khỏe tâm lý. Anh Ngô Đình Nhu có trí khôn

thông minh sắc bén và thâm trầm, ít nói và thường chìm đắm trong suy tư, có xu hướng tích cực tham

gia đời sống trí thức xã hội.

Sinh viên Ngô Đình Nhu làm tiểu luận kết thúc khóa học với nhan đề là: "Les Moeurs Et Les

Coutumes Des Annamites Du Tonkin Au XVIIe Siècle[2]. (Phong Tục Tập Quán Của Người An Nam

ở Bắc Kỳ vào thế kỷ XVII)

2 | T r a n g

Trong danh sách các thí sinh tốt nghiệp năm 1938, sinh viên Nhu được xếp cuối cùng ba trong

số mười ba sinh viên trình luận văn tốt nghiệp, nhưng không theo thứ tự ABC[3].

Nhưng trong một bài viết của Nguyễn Lý Tưởng không biết dựa vào nguồn tư liệu nào, tác giả

đã ghi Ngô Đình Nhu làm đề tài có tên khác[4]

Anh Nhu tốt nghiệp Khoa Cổ Điển Học năm 1938 [có học giả ghi là những năm 1930]. Văn

bằng tốt nghiệp này tương đương Văn Bằng Cử Nhân Văn Chương Pháp.

Lập Gia Đình Với Cô Trần Lệ Xuân

1. Tân khoa Ngô Đình Nhu về nước được bổ trước hết làm Quản Thủ Văn khố Toà Khâm Sứ

Huế (1943) sau ra Hà Nội làm việc tại Thư Viện Trường Viễn Đông Bác Cổ và Tổng Văn Khố Quốc Gia

(1945, thời Thủ Tướng Trần Trọng Kim), tức Giám Đốc Quản Thủ Thư Viện Trung Ương Đông Dương

tại Hà Nội. Vào thời gian ấy, anh thanh niên Ngô Đình Nhu năng tham gia tích cực những lớp huấn

luyện thanh niên Công giáo về xã hội. Đúng như hồi ức hiếm có của một chứng nhân tuổi nhỏ khi đó ở

Hà Nội:

"...Nhớ lại, khi ấy, tôi còn rất trẻ. Tôi đã đôi lần theo anh cả tôi "đi học" một người là ông Ngô

Đình Nhu. Không biết bằng cách nào, do ai nói mà tôi vẫn nhớ đinh ninh đó là những lớp học về xã

hội. Sau này, đọc sách vở thì tôi hiểu đó là những khóa huấn luyện cho thanh niên hồi đó.

Đầu óc làm chính trị, nhìn xa nên nhóm ông Nhu đã mở ra các lớp huấn luyện này để chuẩn bị

khi thời cơ đến. Thành phần những người theo học, căn cứ vào anh cả tôi thì họ phải có trình độ tương

đương tú tài hoặc hơn thế nữa. Chắc phần lớn là người theo đạo Thiên Chúa giáo. Các buổi học đều

diễn ra vào buổi chiều thứ năm, tại 40 phố Nhà Chung Hà Nội.

Tại sao tôi lại nhớ là chiều thứ năm? Bởi vì tôi theo học tại trường Dòng Chúa Cứu Thế nên

ngày thứ năm là ngày "sortie", chúng tôi được nghỉ đi chơi hoặc về thăm gia đình. Tôi về thăm chỗ anh

tôi nên bắt buộc phải đi theo anh tôi "theo học" lớp Xã hội. Có lẽ, tôi là học viên trẻ tuổi nhất ngồi hàng

ghế cuối. Phòng học chỉ có một cửa lớn ra vào nên mọi người phải đi qua cửa này để vào phòng học.

Trong những dịp này, tôi được nhìn thấy ông Ngô Đình Nhu. Dưới mắt một đứa bé con thì anh

tôi là người tài giỏi hơn người..."

"...Vậy mà ông này, cái ông dáng người cao gầy, da nám xám, mái tóc rậm đen lại còn là thầy

dạy anh tôi. Ông phải giỏi biết chừng nào. Nhìn ông mà trong lòng chỉ biết nể phục.

Ông Nhu luôn luôn mặc loại áo bốn túi bỏ ra ngoài. Áo bốn túi mầu nâu hồng nhạt. Ăn mặc

khá dản dị. Cười nhếch mép và nhẹ nhàng khi đi qua những người đứng trước cửa. Ít nói và

điềm đạm.

Mặc dù chỉ là ký ức của một đứa trẻ con, tôi nghĩ rằng nay nhắc lại có thể giúp thêm sử liệu về

những hoạt động của ông Nhu khi còn ở Hà Nội. Việc ông lấy bà Nhu cũng đã gây một dư luận khá ồn

ào lúc bấy giờ ở Hà Nội. Vì một lẽ dản dị là cả hai ông bà đều thuộc những gia đình danh gia vọng tộc"

[5]

2. Sau biến cố chính trị tháng 8/1945, Ngô Đình Nhu tiếp tục làm ở Văn Khố theo bổ nhiệm của

Bộ Trưởng Võ Nguyên Giáp[6]. E. Miller có nói "dường như" Ngô Đình Nhu vẫn giữ công việc của mình

tại Thư viện Quốc gia trong suốt quãng thời gian Hà Nội nằm dưới sự kiểm soát của Việt Minh theo

các điều hiểu biết của tác giả bài viết "Lịch sử đầy đủ về gia đình Cụ Ngô-Đ.-Diệm", trong báo Saigon

Mới, ngày 23 tháng 6 năm 1954. Nhưng với các chứng liệu người viết đã thu thập, thì việc ông Nhu ở

lại Hà Nội làm việc sau biến cố Mùa Thu 1945 là chắc chắn. Điều này chứng tỏ tinh thần ái quốc và

dân tộc tích cực của Ngô Đình Nhu rất cao trong luồng diễn biến chung các sự kiện lịch sử của cả

nước lúc đó[7]

3 | T r a n g

Sau hai thanh niên sinh viên Nhu và Lâu, thì mãi đến năm 1966, mới có một nữ sinh viên Việt

Nam tốt nghiệp khoa này là cô Đặng Phương Nghi[8]. Cô Nghi sau về nước làm Giám Đốc Thư Viện

Trung Ương VNCH I ở Sàigòn.

Chính thời gian học ở Paris, Pháp, hai gia đình và hai thanh niên Ngô Đình Nhu và Trần Văn

Chương đã có cơ hội quen biết nhau.

Khi làm Quản Thủ Thư Viện Trung Ương tại Hà Nội, Ngô Đình Nhu hơn cô nữ sinh Trần Lệ

Xuân 15 tuổi. Năm 1943, Xuân đậu Tú Tài I Pháp, dự định thi xong Tú Tài 2 sẽ học ngành Luật theo

gương cha. Nhưng do mối quan hệ từ lâu giữa hai gia đình Trần Ngô, nên hai danh tộc sớm chuẩn bị

gả con cho nhau và ưng thuận trở thành Thông Gia

3. Từ lúc còn ở trung học, một người tên là Hoàng Việt có một thời được giới thiệu làm gia sư,

phụ giáo cho Trần Lệ Xuân khi cô mới được 17 tuổi, để học ăn học nói xõi tiếng Việt và cách cư xử khi

ra trường đời theo thói quen của nhiều danh gia vọng tộc quyền quí thời đó. Sự chênh lệch về tuổi tác

ngay lúc đó ở Hà Nội giữa hai người gây nhiều dư luận xôn xao, nhất là sau chính biến 1/11/1963,

trong tương lai.

Để có thể tiến hành việc hôn nhân, theo tinh thần Công giáo, Cô Trần Lệ Xuân ưng thuận từ bỏ

Phật Giáo, chấp nhận đức tin mới, tự nguyện xin gia nhập Công giáo và chịu phép Thánh Tẩy theo

nghi thức Công giáo ở Nhà Thờ Lớn Hà Nội, do chính Giám mục Ngô Đình Thục chủ lễ với nhiều quan

chức đạo đời tham dự. Khi đó là năm 1943.

Chỉ khoảng gần nửa tháng sau là cô Xuân rửa tội, hai họ Ngô Trần tổ chức ngay Hôn Lễ.

Thánh Lễ Hôn Phối được tổ chức trọng thể tại Nhà Thờ Lớn Hà Nội vẫn do Giám Mục Ngô Đình Thục

làm chủ tế, có Giám Mục F. Chaize Thịnh, quản nhiệm Địa Phận Hà Nội, cùng tham dự, với đông đảo

Linh mục, nam nữ tu sĩ và giáo dân Pháp, Nam và nhiều quí khách, thân hữu ngoài đời thường của hai

họ Ngô, Trần[9].

Về phía họ nhà gái, nhiều thân chủ sang trọng của gia đình Luật Sư Trần Văn Chương, có

nhiều nhân vật quốc tế trong giới ngoại kiều như Pháp, Nhật, Hoa, các quan lại Nam triều. Đám cưới

diễn ra trong khi người Nhật vẫn còn đang chiếm đóng Đông Dương, đang tranh chấp gay go với phe

đồng minh, tuy thế thắng đang nghiêng dần ngày càng rõ rệt về phía Mỹ ở chiến trường Á Đông Thái

Bình Dương.

Chiến trường Việt Nam đang chịu nhiều áp lực của quân đội Đồng Minh, mà chủ yếu là những

cuộc không tạc chiến lược của quân đội Hoa Kỳ trên khăp các vùng có quân Nhật chiếm đóng. Dù tình

hình căng thẳng như thế, vẫn có đến mấy chục xe hơi của quí khách và thân nhân tham dự đậu dài

bên đường Gambetta Hà Nội, nơi cư ngụ của gia đình họ Trần cùng với văn phòng làm việc của Luật

Sư Trần Văn Chương.

Đến tham dự thánh lễ hôn phối, người ta thấy cô dâu Trần Lệ Xuân đẹp đẽ, duyên dáng, e ấp

trong bộ đồ cưới trắng toát, có dát kim tuyến óng ánh vương giả, theo sau có hai cháu bé tay nâng

đuôi áo cưới, tay cầm cành thiên tuế. Sau Thánh lễ hôn phối theo nghi thức Công giáo, cô dâu vào bên

trong nhà mặc áo, thay bộ quốc phục quần trắng áo dài gấm đỏ tha thướt, thêu vàng, đầu đội khăn

màu thiên thanh, quấn nhiễu vàng gần giống lễ phục vương giả của Bà Nam Phương trong ngày lễ

thành hôn với Vua Bảo Đại. Pháo hồng tươi nổ dòn dã kéo dài khét lẹt trước dãy phố có tòa biệt thự

của gia đình Luật Sư Trần Văn Chương. Xác pháo bây giờ trải đầy xác pháo hồng trên đường, ngập

đến hết bàn chân của nhiều khách bộ hành đi qua lại trên mặt phố.

Đám rước dâu bên nhà trai đi đón dâu với tốp hai trẻ, tốp thứ nhất cầm hai đèn lồng đi trước,

theo sau là tốp hai trẻ khác cầm hai nhành thiên tuế, nối tiếp với một đám tùy tùng đông đảo các trẻ em

ôm hai con ngỗng trắng, câu án có bốn lọng đỏ, cau lồng, rượu ché, heo đóng cũi, bò đeo bông, ...

kiểu truyền thống vọng tộc đất Thần Kinh xứ Huế. Cô dâu được rước về quê nhà họ Ngô ở Phú Cam,

Huế theo lễ nghi trang trọng.[10]

4 | T r a n g

Dấn Thân Vào Hoạt Động Xã Hội, Chính Trị

Đôi trai tài gái sắc thành hôn chỉ được khoảng hai năm sau, thì hàng loạt chính biến tháng 8 và

9 năm 1945 lần lượt diễn ra trên cả nước từ Bắc Trung Nam. Kỷ niệm đau lòng đối với những người

kháng chiến quốc gia khi ấy là lực lượng Việt Minh đã lợi dụng tình thế truy lùng và sát hại rất nhiều

nhân vật và cơ sở của các đảng viên và chính đảng không có xu hướng Cộng Sản, dường như muốn

giành lấy hết công lao và vinh dự của một mình phong trào Việt Minh lãnh đạo kháng chiến giành độc

lập cho dân tộc.

Vì thế, lúc đó khi được tin người anh là ông Ngô Đình Diệm bị Việt Minh bắt giữ, Ngô Đình Nhu

đang làm việc tại Thư Viện Đông Dương, và đang tham gia vào kế hoạch cải tổ cho nền giáo dục toàn

quốc. Theo một nguồn tin có chứng liệu[11], ông Nhu là 1 trong 14 thành viên trong Ban Cải Cách Giáo

Dục, phụ trách Chương Trình Trung Học, do Bộ Trưởng Giáo Dục Hoàng Xuân Hãn lãnh đạo.Nhà sử

học cần mẫn của Mỹ đã nghiên cứu tỉ mỉ vào những hoạt động của Ngô Đình Nhu có nhận xét ông này

có cá tính riêng biệt.[12] Nhưng chắc các biến cố, có thể nguy hiểm cho bản thân và gia đình, cùng

mưu tính hoạt động chính trị ái quốc không theo kiểu Cộng Sàn, đã khiến ông phải vội bỏ nhiệm sở,

tìm đường chạy vào tá túc ở Thanh Hóa, Phát Diệm, còn Bà Trần Lệ Xuân một mình vội tìm đường

chạythoát về Phú Cam. Có lẽ sau ngày 19/12/1946, ngày toàn quốc kháng chiến chống Pháp do phong

trào Việt Minh phát động, thì Ông Nhu mới chạy vào khu Tư ở vùng Thanh Nghệ, có lần thám sát vùng

biên giới Lào Việt ở khu vực đó. Cuộc đời và sinh hoạt của gia đình Ngô tộc không tách rời với bối

cảnh liên hệ chung của những thành phần khác[13]. Ông Nhu cùng với nhóm an hem đồng chí hướng

âm thầm nhưng tích cực chuẩn bị cho kế hoạch lên nắm quy1ên của ông Ngô Đình Diệm.

Biến Cố Ngô Đình Khôi, Ngô Đình Huân và Phạm Quỳnh (28/8/1945)

Trong lúc biến cố diễn ra, sau khi Nhật đầu hàng, Việt Minh cướp chính quyền ở Hà Nội, có lẽ

ông Ngô Đình Khôi khuyên vua Bảo Đại đừng trao chính quyền cho Việt Minh do Hồ Chí Minh lãnh

đạo. Ông đã tương kế tựu kế xử dụng người Nhật một cách khôn khéo cầm cự với phong trào Việt

Minh... Có thể vì lý do đó, ngày 28-08-1945, ông Ngô Đình Khôi[14] (1891?-1945) bị Việt Minh dẫn đi

và thủ tiêu cùng với con trai ông là Ngô Đình Huân và Phạm Quỳnh (Thượng Thư Bộ Lại, thời Bảo

Đại).

Giới chức CSVN sau khi cưỡng chiếm cả nước mới tiết lộ và nhìn nhận sự thật phũ phàng này.

Việc bắt giết đó nhằm mục đích trả thù cá nhân dưới mỹ từ đẹp đẽ nhưng sắt máu "đấu tranh giai cấp",

kiểu "đấu tố địa chủ cường hào". Cách hành động này không xét xử và tuyên án công khai, được nhập

khẩu và chỉ đạo từ Trung Quốc Cộng Sản diễn ra trên khắp phần đât do CSVN kiểm soát, nhất là trong

những năm 1950-1955.

Ông Ngô Đình Khôi (1895 ?-1945): tốt nghiệp trường Quốc Tử Giám ở Huế, năm 1910, bắt đầu

làm việc ở Bộ Binh dưới quyền Thượng Thư Nguyễn Hữu Bài và cưới cô Nguyễn Thị Giang, con gái

Ông Nguyễn Hữu Bài làm vợ. Dần dần Ông lên đến Tổng Đốc Nam-Ngãi (1930) rồi Tổng Kinh Lược

các tỉnh miền Nam Trung Kỳ (1933). Năm 1943 ông hoạt động công khai, ủng hộ Kỳ Ngoại Hầu Cường

Để lúc đó đang tá túc ở Nhật, nên ông phải từ bỏ các nhiệm vụ ở Nam triều do người Pháp kiểm soát.

Ông Ngô Đình Khôi cai quản trên đất Quảng Nam và ông Ngô Đình Huân làm thanh tra lao

động. Tài liệu CS sau này có nói Ngô Đình Huân làm Hiến Binh (?) cho quân đội Nhật với dụng ý lên

án cha con ông làm tay sai cho Nhật, nhưng thực ra việc làm của họ đều gây khó khăn nhất định cho

các hoạt động khuấy đảo tàn bạo của Cộng Sản Việt Nam trên đất Quảng Nam.

Hai cha con đều bị tay chân Việt Minh ở địa phương sát hại ban đêm tại Hát Phú, cách Huế 20

cây số. Ngày 28 Tết năm 1958, gia đình họ Ngô mới tìm thấy hài cốt cha con cùng chôn một hố chôn

chung với thượng thư Phạm Quỳnh. Tử thi của cả ba người đều được thân nhân nhận diện và cải

táng. Sau đó di cốt của hai cha con ông Khôi được chôn lại trong nghĩa trang gia đình tại Phú Cam,

Huế.

5 | T r a n g

Nhóm Hoạt Động Xã Hội Cần Lao

1. Trước khi chiến tranh Việt Pháp bùng nổ vào cuối năm 1946, thì người ta mới phát hiện ông

Ngô Đình Nhu thoát khỏi Hà Nội. Trước khi đến Thanh Hóa, Ngô Đình Nhu cùng với Hoàng Bá Vinh và

một số thân hữu nòng cốt về Phát Diệm lập khu an toàn. Chính thời gian này ông Nhu manh nha thành

lập cùng với nhiều người đồng chí hướng, tổ chức Liên Đoàn Kháng Chiến Cần Lao Việt Nam.

Khi Việt Minh bị quân Việt-Pháp đánh bật khỏi Hà Nội, thì ông Nhu trở lại Hà Nội, với một Linh

Mục mà tài liệu Cộng Sản Việt Nam gọi tên là Trọng, đem theo một cán bộ quốc gia có bản lĩnh, nói là

ở Điền Hộ, từ Hà Trung mới ra. Nhân vật này, người nhỏ bé, xuất thân từ chủng viện Thanh Hóa, tính

tình thông minh điềm đạm. Theo Lương Khải Minh ghi lại, đó là một thanh niên tự xưng là Bác Sĩ Trần

Kim Tuyến, sau này cầm đầu ngành tình báo một thời trong chế độ Ngô Đình Diệm[15]:

Chính tại Thanh Hóa Phát Diệm, ông Nhu cùng một số nhân sĩ trí thức đã chuẩn bị cơ cấu ban

đầu nhân sự và tổ chức, thành lập Đảng Cần Lao sau này làm nòng cốt cho tổ chức chính trị của chế

độ Việt Nam Cộng Hòa từ 1954-1963. Nhưng đồng chí nòng cốt đầu tiên là: LS Lê Quang Luật, Hoàng

Bá Vinh, Trần Kim Tuyến, Đái Đức Tuấn, tức Mai Nguyệt, Tchya, với tên gọi ban đầu là Nhóm Xã Hội

Công Giáo (1946-1954) là nhóm cột trụ sau này của Đảng Cần Lao Nhân Vị.

Về tới Hà Nội, ông Nhu mới hay biết vợ ông vẫn sống bình an và còn ở Huế. Nhưng sau đó ông lại

được tin vợ ông đã về Đà Lạt[16] với gia đình người chị là Lệ Chi (1947-1951). Dần dần ông Nhu bắt

lại liên lạc với Giám Mục Ngô Đình Thục ở Vĩnh Long, và ông Ngô Đình Luyện ở Sàigòn. Sau chính

biến Tháng Tám 1945, ông Ngô Đình Diệm bị CS bắt giữ (như đã nói trên), rồi giải giam tại Việt Bắc,

nhưng với sự can thiệp của Giám Mục Lê Hữu Từ, cùng vì nhiều áp lực từ tình hình chính trị phức tạp

trong nước và quốc tế, Hồ Chí Minh phải trả tự do cho Ngô Đình Diệm đầu năm 1946, như một chiến

lược tương kế tựu kế, thu phục nhân tâm nhân sĩ và quan lại của cựu trào.

2. Ở Hà Nội, theo một số tài liệu, ông Ngô Đình Diệm tá túc tại Dòng Chúa Cứu Thế ở khu tu

viện Nhà Thờ Nam Đồng ở Thái Hà Ấp.

Chính từ đây ông Ngô Đình Diệm dần dần mở rộng liên lạc lại được với các nơi. Thời kỳ này

ông Ngô Đình Diệm đã tiếp xúc với Linh Mục Nguyễn Văn Thính. Từ Nhà thờ Nam Đồng, mấy cán bộ

thân tín, như Nguyễn Văn Châu (sau này làm đại tá, Giám Đốc Nha Chiến Tranh Tâm Lý, Bộ Quốc

Phòng, Việt Nam Cộng Hòa), Đỗ Mậu (sau này làm đại tá An Ninh Quân Đội) sang Phúc Xá liên lạc với

Linh Mục Bằng. Khi Linh Mục Bằng bị bắt giết, ông Ngô Đình Diệm vào Sàigòn tá túc tại nhà ông Ngô

Đình Luyện (ở số 2, Đường Armand Rousseau (tức số 8 Đường Nguyễn Văn Tráng sau này). Nơi này

về sau chính là cơ sở Trường Y Khoa thuộc Viện Đại Học Minh Đức

Khi nghe tin vợ đang ở Đà Lạt, ông Nhu liền tìm lên theo. Trong cảnh nhiễu nhương bấp bênh,

cặp vợ chồng trẻ sống chật vật nhưng can đảm và hết tình trong cảnh thắt lưng buộc bụng thiếu thốn

đạm bạc. Bà Nhu lo cho chồng từng bao thuốc lá Bastos Xanh, mà ông say mê và suốt ngày chỉ vùi

đầu miệt mài với sách vở. Có lúc bà phải đích thân ra chợ mua từng bó rau lạng thịt về chung nhau ăn

từng bữa. Có khi bà phải đem bán cả vòng xuyến vàng đeo cổ kỷ niệm ngày cưới đế có tiền sinh sống

qua ngày. Ông Nhu can trường chịu dựng với bộ quần áo sơmi cụt tay và chiêc quần gabardine. Cảnh

sống khem khổ ấy chứng tỏ hai ông bà luôn luôn đằm thắmnhẫn nại trong tính nghĩa vợ chồng, dù

trong những phút khó khăn. Nhưng lý tưởng xây dựng một xã hội Việt Nam nhân bản không rời xa

những câu chuyện bàn bạc của ông thật say sưa và nhiều mưu lược với bạn bè. Có lúc dường như

đam mê chính trị và lý tưởng xã hội lấn át cả những tình cảm và bổn phận gia đình. Đúng là tác phong

quên mình của một người có dầu óc chiến lược và t2âm nhìn xa trông rộng. Từ khi lựa chọn sinh viên

của École des Chartes, câu Nhu đã bộc lộ một trí thông minh sắc sảo, một con người có óc tổ chức

khiến nhiều người phát ghen, nhưng lại nể phục!

Sau khi ông Ngô Đình Diệm qua Mỹ (1950), ông Ngô Đình Nhu về Sài Gòn liên lạc với các tôn

giáo, đảng phái, xuất bản Nguyệt San Xã Hội, phổ biến tư tưởng chính trị của ông. Tháng 09-1953,

ông tham gia Phong Trào Đại Đoàn Kết và Hoà Bình với tư cách đại diện Công Giáo. Phong Trào này

6 | T r a n g

họp tại Sài Gòn ngày 6-09-1953 qui tụ các đại biểu Công Giáo, Cao Đài, Hoà Hảo, Bình Xuyên, Đại

Việt, Việt Nam Quốc Dân Đảng và một số nhân sĩ, trí thức Trung, Nam, Bắc...tất cả 65 đại biểu.[17]

Năm 1954, trước tình hình nghiêm trọng có thể xoay chuyển số phận đất nước, sau khi căn cứ

Điện Biên Phủ của Pháp bị thất thủ ( 07-05-1954), Quốc Trưởng Bảo Đại đã cử Ông Ngô Đình Diệm

làm Thủ Tướng (toàn quyền): ngày 07-07-1954, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm trình diện Tân Chính phủ

tại Sài Gòn, Ông Ngô Đình Nhu làm Cố Vấn Chính Trị cho Ông Diệm, một chức vụ mà không bao giờ

được bổ nhiệm chính thức đến khi ông bị sát hại ở độ tuổi đang sung sức, ít ra về nhận thức và kinh

nghiệm chính trị.

Ông Nhu là một lý thuyết gia cừ khôi xây dựng chủ nghĩa Nhân Vị và là một nhà chiến lược

chính trị sâu sắc đến độ đam mê. Như một cặp bài trùng, đã hết sức giúp ông Diệm ổn định tình hình,

đối phó với các tổ chức chính trị đối lập tại miền Nam, có cả hoạt động bí mật của Cộng Sản ở miền

Nam trong lúc các sinh hoạt của Cộn Sản Việt Nam đều công khai ở miền Bắc...

Ông thành lập đảng chính trị Cần Lao, dựa vào một chủ thuyết về cơ bản do ông khởi xướng là

Học Thuyết Cần Lao - Nhân Vị để hỗ trợ chính quyền của người anh ông. Một phần nào vận dụng

viện trợ của người Mỹ, đảng Cần Lao phát triển lên nhanh chóng, thâm nhập vào hàng ngũ quân đội,

công chức, trí thức và cả giới kinh doanh và trở thành chính đảng lớn nhất thời bấy giờ. Đồng thời, ông

cũng cho thành lập tổ chức "Thanh Niên Cộng Hòa" nhằm qui tu và huấn luyện theo mô hình chặt chẽ

và hoạt động tích cực, có hiệu quả do ông làm Tổng thủ lãnh. Một tổ chức khác cũng được thành lập

với mục đích như trên, dành cho giới nữ lấy tên là "Phụ Nữ Liên Đới" do vợ ông, Bà Trần Lệ Xuân,

làm Tổng thủ lãnh. Hai tổ chức này là hai cánh tay nối dài của Đảng Cần Lao Nhân Vị, kiểu như các

đoàn thể trong tổ chức Mặt Trận Tổ Quốc của Cộng Sản, nhưng theo mục đí khác biệt nếu không phải

là đối lập. Sau khi chế độ suy tàn biết bao xích bác, lời khen tiếng chê đủ điều được dịp nói đến bà, từ

phía những người Cộng Sản cùng phên dậu của họ và nhiều cá nhân và đảng phái quốc gia không có

thiện cảm hay không đồng ý với cá nhân bà và gia đình họ Ngô Đình.

Trên danh nghĩa là một cố vấn chính trị, nhưng hầu như nhiều nhà chiến lược và nhiều tài liệu

đều ghi nhận, ngoài ông Ngô Đình Diệm, ông Nhu mới là kiến trúc sư xây dựng rường cột của chế độ.

Ông hoạch định tư tưởng và xây dựng các cấu trúc từ thượng tầng ở trung ương đến hạ tầng ở địa

phương, nông sơn thôn của chế độ. Ông Nhu là người khởi xướng chính yếu mọi chủ trương chính

sách của nền Đệ Nhất Cộng Hòa. Ông cũng cho lập và trực tiếp điều phối nhiều cơ quan tình báo và

mật vụ ( có tới 13 cơ quan) với những quyền lực to lớn như có thể bắt giam người không cần xét xử

trước.

Trong cuộc đảo chánh ngày 01-11-1963 do phe quân nhân chủ động ông Nhu đã bị thảm sát

cùng một lần với Tổng Thống Ngô Đình Diệm vào ngày 02-11-1963 theo lệnh của Mỹ.

Một Hình Ảnh Về Cuộc Đời Của Hai Anh Em Diệm Nhu

Thay cho lời kết luận, người viết chỉ ghi lại một lời chứng của một quân y sĩ VNCH có ý nghĩa

"novissima verba" đối với người đã chết và những thương tiếc bản thân chế độ, đất nước mà hai ông

hết lòng phục vụ, vì lợi ích của cộng đồng dân tộc và nhân dân cho đến chết:

Phục Vụ Đất Nước Đến Chết

"....tôi (tức ông Đôn) quả quyết rằng: "Không có lời phát biểu công khai nào của tướng tá lúc đó

đòi phải xử tử hai ông Diệm và Nhu..." người ta không khỏi phì cười và chê là lý luận quá ngây thơ

(không "công khai" tức là phải hiểu "bí mật" chăng?)

Để làm sáng tỏ vấn đề hơn, về điểm này, LM Cao Văn Luận đã viết như sau: "Khi xác chết anh

em ông Diệm được đưa vào nhà thương Saint-Paul thì giây trói quật cánh khuỷu hai người vẫn còn

nguyên.

"Trên ngực ông Nhu có nhiều vết thương do dao đâm vào và một vết đạn súng lục trên đầu.

Trên thân thể ông Diệm chỉ có một vết thương ở đầu.

7 | T r a n g

"Một người lính thiết giáp kể rằng ông Nhung (thiếu tá) (lúc đang nói ở đây ông Nhung chưa

được thăng thiếu tá - lời ghi chú thêm của người viết) vốn có một người bà con theo đảng Đại Việt bị

bắt và xử tử hay thủ tiêu trong thời kỳ cực thịnh của chế độ họ Ngô, đã cãi vả mắng chửi ông Nhu.

"Ông Nhu nhìn ông Nhung cách lạnh lùng, khinh bỉ, và nói vài tiếng tỏ vẻ khinh miệt.

"Ông Nhung đã giật súng có gắn lưỡi lê của một người lính thiết giáp đâm ông Nhu nhiều lát

sau lưng, rồi ông Nhu ngã gục, nhưng vẫn chưa chết ngay, thì ông Nhung bắn một phát đạn súng lục

vào đầu. Các cuộc khám nghiệm sau đó, và các phóng ảnh cho thấy ông Nhu bị nhiều vết thương do

vật bén nhọn đâm từ lưng chổ ra bụng, và một vết đạn ở đầu.

"Sau khi ông Nhu bị đâm nhiều lát, ông Nhung đã bắn một phát súng lục vào đầu ông Diệm, và

phát đạn này kết liễu cuộc đời ông Diệm ngay lập tức (những tấm hình này, trong cuộc họp báo ngày

5.11.63 tại bộ TTM, Đỗ Mậu đã trưng ra như một bằng chứng cụ thể xác nhận anh em cố TT Diệm đã

chết thật, vì lúc đó còn rất nhiều người hoài nghi hai ông chưa chết. (lời ghi chú thêm của người viết

(Phụng Hồng)).

" Một người khác kể thêm rằng, khi bắt được hai anh em ông Diệm trói quật cánh khuỷu, dẫn từ

nhà thờ ra xe thiết giáp, tướng Mai Hữu Xuân đã đánh điện về các tướng lãnh tại bộ tổng tham mưu chỉ

huy cuộc đảo chánh xin chỉ thị, sau một lúc bàn cãi, các tướng lãnh đã bỏ phiếu với đa số quyết định

phải thủ tiêu ông Diệm gấp, vì lo sợ nếu để ông Diệm sống sót, thì một số đơn vị quân đội có thể ủng

hộ ông chống lại phe đảo chánh" (7)

Trích dẫn đoạn trên của cha Luận (cũng là một nhân chứng!), tôi (người viết Phụng Hồng)

muốn nhấn mạnh thêm một lần nữa rằng vụ mưu sát hai anh em cố TT Diệm là một dự mưu đã được

tính toán trước bởi một số tướng lãnh phản bội toa rập với đề nghị của ngoại bang (vì nếu

không thỏa mãn yêu cầu của họ thì họ không ủng hộ cuộc đảo chánh thì sức mấy mà thành công!).

Tiếc thay, ông Đôn đã cố tình miêu tả một cách hời hợt, như ngầm đổ lỗi cho đại úy Nhung, sĩ

quan cận vệ tay chân của ông Minh, tự ý giết (trang 238), và mình không có trách nhiệm gì. Tuy nhiên,

ta vẫn thấy ở một trang khác, tác giả đã để lộ ý định cho rằng giết TT Diệm là đúng (tr. 250). Chính

trong cuốn "Our Endless War" (8), ông Đôn đã viết chương "Diem Must Go" và đã biện minh cho việc

giết TT Diệm là hợp lý. Đọc đến đây, người ta băn khoăn tự hỏi nếu ông Đôn chối bỏ hành động cố sát

TT Diệm thì tại sao lại ngụy biện vậy? Thật là mâu thuẫn không thể hiểu được! Đó là một sai lầm

lớn."[18]

Nếu Hai Ông Không Bị Sát Hại, Số Phận Đất Nước Có Thể Chuyển Biến Tích Cực Khác

Muốn mượn lời người khác, ng ười viết dẫn chứng tác giả Phụng Hồng làm rõ thêm luồng tư

tưởng này như sau:

"...tôi (người viết Phụng Hồng) muốn mời bạn đọc tìm hiểu thêm một ý kiến khách quan của

một người ngoại cuộc, ông Von Wenland, Đại Sứ Cộng Hòa Liên Bang Đức tại Việt Nam. Ông này

đã tâm tình với cha Luận rất lâu sau ngày đảo chánh. Cha Luận đã viết:

"Trước hết tôi đến gặp Đại Sứ Đức là ông Von Wenland. Ông này phàn nàn về cái chết của ông

Diệm và ông Nhu. Tuy nhiên ông biết ông Diệm và chế độ của ông không tránh khỏi một vài tiếng

khiếm khuyết nhưng không ai có thể phủ nhận những thiện chí của ông Diệm đối với Quốc Gia."

"Cái chết của ông Diệm làm cho tương lai Việt Nam trở nên đen tối hơn. Tôi còn nhớ một đoạn

trong câu chuyện của ông Đại Sứ Đức:

"Tôi không theo tôn giáo nào cả, nhưng tôi tin rằng giờ đây linh hồn ông Diệm sẽ phảng phất

nơi đây và sẽ gieo nhiều tai họa cho xứ sở mình.

"Mặt ông đượm buồn, và giọng ông hết sức chua chát. Ông cho biết ông đã đệ đơn từ chức và

sẽ rời Việt Nam trong ít lâu." (9)

8 | T r a n g

Và sự thật cũng đã chứng minh một ách hùng hồn như chúng ta đã từng là Nhân Chứng từ

1975 đến nay. Vậy ta có thể kết luận một cách đau lòng rằng "Cuộc Đảo Chánh 1.11.63 đã làm cho

Việt Nam mất vào tay giặc cộng sản Bắc Việt"

Bạn có đồng ý với tôi [Phụng Hồng] không? Nếu bạn không đồng ý, xin mời bạn hãy đọc tiếp

đoạn này:

"....Cái chết của ông Diệm và ông Nhu đã làm cho một số người Mỹ xúc động và quay trở lại có

cảm tình với ông Diệm hơn trước. Bộ mặt của những người thay thế ông Diệm cũng dần dần hiện rõ và

người Mỹ thấy bộ mặt đó chẳng đẹp đẽ gì hơn.

"Những người Mỹ trong đó có cựu đại sứ Nolting, tướng Harkins, ông Richardson, giám đốc

trung ương Tình Báo Mỹ (CIA) tại Việt Nam lên tiếng cảnh cáo rằng cuộc cách mạng 1.11 chẳng những

sẽ không cải thiện được tình hình quân sự và chính trị tại Việt Nam như nhiều người Mỹ mong cầu, mà

trái lại sẽ làm cho tình hình chung tồi tệ hơn. Những hỗn loạn chính trị đã bắt đầu diễn ra và về mặt

quân sự, Quân Đội Việt Nam mải lo canh gác Sài Gòn và các đô thị lớn để đề phòng phe ông Diệm đã

gần như bỏ trống các vùng nông thôn cho Việt cộng." (10) (sự bãi bỏ quốc sách Ấp Chiến Lược mà

Việt cộng từng ghê sợ nhất, là một thí dụ điển hình-lời ghi chú thêm của người viết [Phụng Hồng]).

Đây là một bằng chứng hùng hồn nhất, một bài học lịch sử đau đớn nhất cho những ai từng tự

vỗ ngực huênh hoang cho mình là "người hùng cách mạng", và tự đeo lon to nhất để suy gẫm lấy. Và

tôi [Phụng Hồng] cũng muốn những người đã "bái lạy tướng to lon" để mưu đồ đảo chánh, phản bội

chủ mình hãy tự kiểm điểm lại hành động mình mà ăn năn hối lỗi. Nhưng chậm quá rồi! Lịch sử và

những vượt biên trên biển cả, những hồn thiêng trong Tết Mậu Thân, trong "lò luộc người cải tạo" chắc

chắn không bao giờ tha thứ bọn người này! Đó là một sự thật cay đắng mà ai nấy đều đã thấm thía khi

phải "tha phương cầu thực".

Và sau cùng, tôi [Phụng Hồng] muốn nhân dịp này nhắc lại câu nói để đời của William Colby,

cựu Giám Đốc Trung Ương Tình Báo đã từng hoạt động nhiều năm tại Việt Nam, và là người am hiểu

tình hình chính trị Sài Gòn hơn ai hết, khi hối tiếc về cái chết của TT Diệm trong cuốn sách mới nhất

của ông (11): "Nếu ông Diệm còn, chưa chắc miền Nam mất."[19]

Những Dư Luận Thóa Mạ Chống Đối

Sau khi chế độ sụp đổ thì không biết bao nhiêu lời thóa mạ được nói đến gia đình họ Ngô,

nhưng mấy người được tiếp xúc và có nhận xét nghiêm chỉnh quân bình về những con người đó.

Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Lục đã tổng hợp đứng đắn những diều được nhiều người phát

biểu:

Nhiều đàm tiếu diễn ra sau 1963, về gia đình ông Nhu, những người như Hoàng Trọng Miên,

Nguyễn Đắc Xuân...Chỉ nhắc lại một lần cuối.

Trong bài ký: "Theo Đoàn Sinh viên Huế, tham quan con đường 'gặt bão' của anh em Ngô

Đình Diệm ở Sài Gòn tháng 11-63", ông Xuân đã viết với lối viết quen thuộc, ỡm ờ nửa hư, nửa

thực như sau:

"Suốt tuần qua báo chí Sài Gòn đăng nhiều phóng sự điều tra về những bí mật trong dinh Gia

Long, đặc biệt là những hình ảnh sex mà họ gán cho là của bà Trần Thị Lệ Xuân - vợ cố vấn Ngô Đình

Nhu - người tự mệnh danh là đệ nhất phu nhân VNCH. Do đó khi được vào tham quan, chúng tôi đến

ngay phòng ngủ của bà Lệ Xuân phía gần đường Pasteur. Cái phòng này bị dân chúng phá tanh banh.

Các sĩ quan chỉ cho chúng tôi hệ thống kính soi được lắp kính bốn mặt tường và họ giải thích rằng bà

Lệ Xuân lắp hệ thống kính như thế để mọi hoạt động thân thể riêng tư của bà trong phòng nầy bà có

thể ngắm được từ nhiều phía. Và người ta cũng hướng dẫn cho chúng tôi rằng phòng riêng của Tổng

Thống Diệm gần phòng riêng của cô em dâu. Ông Ngô Đình Nhu muốn vào phòng riêng của của vợ

phải đi qua phòng của anh trai ông. Không rõ thực hư như thế nào, cho đến bây giờ, tôi vẫn chưa hiểu

có đúng như thế không và tại sao như vậy"

9 | T r a n g

Về nhóm sinh viên nằm vùng tranh đấu, Nguyễn Đắc Xuân viết tiếp:

"Những thành viên trong đoàn sinh viên Huế đi tham quan ngày ấy, hiện nay vẫn còn ở Huế khá

đông như nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường, bác sĩ Phạm Thị Xuân Quế, anh Lý Văn Nghiên, ở Đà

nẵng có bác sĩ Lê Quang Tái, ở TP Hồ Chí Minh có Tiến sĩ Thái Thị Ngọc Dư, nhà giáo Nguyễn Đình

Hiển, ở Đức có Tiến sĩ Thái Thị Kim Lan, ở Pháp có Lê Thị Thảo; ở Mỹ có Nguyễn Thị Kim Tri, ở Úc có

Nguyễn Thị Kim Xuyến v.v...

Ba thành viên chủ chốt trong đoàn nay không còn nữa là Nhà thơ Trần Quang Long (ra trường

năm 1965), tham gia kháng chiến và hy sinh ở chiến trường Tây Ninh năm 1968; Nguyễn Thiết đang

học năm thứ ba thì thoát ly, phụ trách Thanh niên Thành ủy Huế, hy sinh năm 1968; Vĩnh Kha, về sau

làm Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Huế, lãnh đạo sinh viên phát động các cuộc đấu tranh chống các

chính quyền Diệm mà không có Diệm. Kha mất vì bệnh gan vào giữa những năm Tám mươi."

Một Số Nhân Chứng Trực Tiếp

Dù có những dư luận kiểu đó, ông Ngô Bảo (nhà thầu tốt nghiệp trường Mỹ thuật bên Pháp) có

trách nhiệm trang trí tư dinh của Tổng thống Ngô Đình Diệm cho ông Nguyễn Văn Lục hay:

"Phòng ăn dinh Gia Long được trang trí với tranh sơn mài Thành Lễ. Riêng phòng bà Nhu chỉ

treo độc nhất một bức anh vẽ bán thân bà Nhu, do hoạ sĩ Nguyễn Khoa Toàn vẽ. Bức tranh vẽ bà Nhu

mặc áo cánh lụa, có hơi rõ nét nổi lên phần ngực phía trong làn áo. Chỉ có vậy. Người viết hỏi thêm, có

thấy các bức tường chung quanh phòng bà Nhu đều có gương phản chiếu không? Ông Ngô Bảo cho

biết: Làm gì có chuyện đó. Tường thường như mọi bức tường nhà khác."

Chi tiết được ông Ngô Bảo, nay đã 78 tuổi, cho biết chứng tỏ chắc chắn rằng Nguyễn Đắc

Xuân đã bịa đặt, và đám nam nữ sinh viên cùng tham dự buổi tham quan dinh Gia Long đã im lặng

đồng loã.

"Dù chỉ nhìn thoáng qua, ấn tượng về ông còn được ghi nhớ mãi trong tôi. Nhiều ấn tượng còn

được ghi khắc trong số học trò của ông Nhu có linh mục Phước. Lm Phước kể lại cho Nguyễn Văn

Lục hay biết:

"là có dịp đi Đà lạt sau này, có đến thăm thày cũ. Ông đã hết lời nói về gia đình thày của mình.

Ông Nhu thì học cao, hiểu rộng, tài trí hơn người. Ai ai cũng phải nhìn nhận như vậy.

Còn cụ Đoàn Thêm có những nhận xét:

"Về phương diện trí thức, trình độ của ông Nhu rất cao. Học vấn cổ điển và nhân bản của ông

rộng và vững. Qua lời nói ề à, kẻ chú ý có thể bắt gặp những nhận xét sâu sắc về người và việc, một

sự khó thấy ở ông Diệm, và ít thấy ở người chung quanh."

Bà thì vừa xinh, vừa trẻ đẹp, giữ gìn gia phong nề nếp. Thêm một lần nữa, tôi có một ấn tượng

rất tốt đẹp về bà Nhu. Theo cha Phước khi đến thăm ông Nhu cùng với vài người khác ngồi ở phòng

khách. Chủ khách đàm đạo trong khi bà Nhu không dám ngồi mà chỉ đứng chắp tay vào nhau để trước

bụng."

Đấy là cử chỉ của những gia đình có lễ giáo nghiêm ngặt. Ông Nguyễn Văn Lục nghe biết câu

chuyện này, khi còn ở ngoài Bắc trước khi có cuộc di cư. Nói xấu một người thì dễ hơn là kính trọng

người ta, vì người ta thường thấy cái tiêu cực trong người khác hơn là thấy nết xấu ở nơi mìn. "Chân

mình thì lấm mê mê, Lại cầm bó đuốc mà rê chân người", đấy là cái thói ở đời ben Đông cũng như bên

Tây.

Sau gần 10 năm, tác giả Nguyễn Văn Lục lại có dịp khác "gặp lại" ông Nhu trong một khung

cảnh khác. Hồi ấy, anh còn là sinh viên Đại học Đà Lạt nên thường tham dự những buổi lễ do nhà

trường tổ chức. Ông Lục nhớ lại:

10 | T r a n g

"Đôi lần lại có dịp được thấy ông Nhu. Ông không mặc áo bốn túi nữa, mà áo veste. Gương mặt

có phần trĩu nặng ưu tư. Mặc dầu là cố vấn Tổng Thống, ông xuất hiện hết sức low profile. Ngồi một

góc. Im lặng. Ai khen thì khen. Ai vỗ tay thì vỗ. Ông vỗ nhẹ tay lấy lệ, còn vẫn ngồi bất động như

thể đang nghĩ về một vấn đề gì khác. Gần như ông không chú ý đến ai cả. Có cảm tưởng như

ông bắt buộc phải ngồi đó. Có thể ông ghét những thói bề ngoài rình rang với đôi chút tâng bốc, xu

phụng. Cả buổi lễ, ông chỉ ngồi chống tay trên thành ghế. Không nhúc nhích, không nói nửa lời."

Cụ Đoàn Thêm nói tiếp về con người ông Nhu "cử chỉ lạnh lùng bắt người ta nhớ đến câu của

Racine gán cho Néron: 'Ami ou ennemi, il suffit qu'on me craigne' (Bạn hay thù, miễn là họ biết sợ

mình là đủ)."

Phần tôi, có lẽ chẳng có lệ thuộc gì với ông, tôi nhìn chăm chăm vào ông. Kính phục thì có, sợ

thì không.

Tôi dành cả buổi lễ quan sát ông không sót một cử chỉ nào. Ông khác hẳn các viên chức như

các ông Trương Vĩnh Lễ, Trương Công Cừu. Cụ Lễ thì khúm núm ra mặt. Các ông lần lượt lên rước lễ

mà chắc hẳn ông Nhu không hề chú ý đến những cử chỉ, thái độ của mấy ông này.

Ông không phải là loại người của đám đông.

Cứ nghĩ lại coi, trong 9 năm cầm quyền. Có bao giờ thấy ông Nhu xuất hiện công khai, đăng

đàn diễn thuyết (chỉ trong trường hợp thuyết trình học tập như ở Suối Lồ Ồ) đao to búa lớn, hay hình

ảnh đăng dài dài trên báo hà rần, cờ xí, duyệt binh, gắn lon gắn chậu, tiền bạc xa hoa, xe cộ tiền hô

hậu ủng.

Không. Ông Nhu ít xuất hiện, ít phô trương. Ngược lại kín đáo, nấp sau bóng dáng Tổng

Thống."

Căn cứ vào các số báo Lập Trường, Hành Trình, Đất nước và Trình bày sau 1963. Ông Lục

không hề nghe thấy một lời phê phán về cá nhân ông Ngô Đình Nhu. Tiền bạc không, nhà cửa dinh thự

không. Mấy ai đã làm được như vậy?

Cụ Đoàn Thêm viết về ông Nhu đã sống như thế nào:

"Tôi còn ghi nhận những ống quần nhầu không ủi, chiếc sơ mi hở cổ cộc tay và hơi cũ, đôi dép

da quai sờn. Y phục sức quá sơ sài của em một Thủ tướng khiến tôi phát ngượng, lúng túng trong bộ

đồ lớn của tôi. Tôi càng thấy khó hiểu, khi mục kích ông co ro cùng vợ con trong một căn phòng nhỏ

hẹp trên lầu dinh Độc lập, tuy còn những phòng rộng rộng lớn và đẹp hơn. Theo một người thân cận,

thì ông không muốn ở trong Dinh, chỉ chờ dịp dọn đi, nhưng Ông Diệm không nghe, quyết giữ ông lại

để còn luôn luôn hỏi việc. Căn cứ vào những lời ông nói và nếp sống bề ngoài của ông, tôi đã kết luận

rằng ông tránh tiếng lợi dụng quyền lực và địa vị của ông anh ... Ngay cả hai chữ cố vấn cũng chỉ là

nhận bất đắc dĩ."

Vẫn theo lời kể của cụ Đoàn Thêm:

"Đến khi cần cử ông qua Pháp thương thuyết với thủ tướng Edgar Faure, một số người trong

chánh phủ thấy ông phải đi với một danh nghĩa chính thức hơn là với tư cách bào đệ ông Diệm. Nên

hai chữ cố vấn đã được đem dùng để đồng thời thừa nhận một sự vẫn được coi là hiển nhiên. Ông

cũng biết là không tránh được chức vị... Ông Nhu không thoát khỏi lệ thường, nên chỉ tới đầu 1956 là

ông hết phản đối (Không chịu người ta gọi là ông cố vấn).

Ai đã từng đọc cụ Đoàn Thêm thì đều hiểu rằng, cụ viết cẩn trọng, tương đối khách quan, khen

có mà chê cũng có. Như thế những nhận xét của cụ nên coi là khuôn thước, tránh được cái tệ nạn

xuyên tạc hay xưng tụng quá đáng.

Ông cố vấn sống thanh đạm và đơn giản như thế, thì chắc người phụ nữ nào làm vợ ông cũng

phải là người biết "liệu cơm gắp mắm"

11 | T r a n g

Tư cách trí thức biết điều là ở chỗ ấy. Người ta nhìn lại, những người thay thế ông sau này. Một

khi có quyền bính trong tay, họ đã hành xử thế nào? Như ông Đỗ Mậu làm phó thủ tướng văn hóa, dù

chỉ trong một thời gian ngắn, ông xuất hiện nhiều lần hơn gấp bội ông Ngô Đình Nhu trong 9 năm làm

cố vấn?

Có một vị nào sau này lên cầm quyền có một phong cách trí thức như một Ngô Đình Nhu và tư

cách một kẻ sĩ như một Ngô Đình Diệm?

Người ta chỉ muốn nói về CON NGƯỜI mà không đề cập đến chính trị. Hay nói như cụ Đoàn

Thêm, chế độ đệ nhất cộng hoà là nhân trị hơn pháp trị. Nhưng nếu làm người mà không xứng

đáng thì nói chi đến thứ khác? [20].

Vận Động Chính Trị ở Hải Ngoại: ông Ngô Đình Diệm

Trở lại cuộc vận động hải ngoại cho ông Ngô Đình Diệm, thì thực ra, theo GS Tôn Thất Thiện,

cuối năm 1949, Cụ Diệm khước từ lời của Cựu Hoàng Bảo Đại mời ông làm Thủ Tướng vì cho rằng

Hiệp Định Cựu Hoàng vừa ký với Pháp (Hiệp Định Elysées) không mang lại độc lập thực sự cho Việt

Nam, nhất là về ngoại giao. Sau đó, ông nhận lời cùng với Giám Mục Thục đi một vòng thế giới nhân

dịp GM Thục đi tham dự một hội nghị các giám mục của Giáo hội Công giáo ở La Mã. Hai ông đi Nhật

Bản, rồi từ đó sang Hoa Kỳ. Sau mấy tuần ở Hoa Kỳ, hai ông sang La Mã. Mỗi người sinh hoạt theo kế

hoạch riêng biệt. Sau khi tham dự hội nghị giám mục tại Rôma, Đức cha Thục đi hành hương ở Tây

Ban Nha, rồi về Việt Nam, còn ông Diệm thì đi Thụy sỹ và Pháp.

Trong thời gian ở Paris ông Diệm gặp lại người em Ngô Đình Luyện và gia đình ông này. Ông

gặp lại Võ Văn Hải, một người hăng say sát cánh bên ông trong những năm 1945-1949. Ngoài ra, ông

có sở thích đi bộ quan sát Paris, và viếng các nhà thờ lớn. Ông đi bộ nhiều đến nỗi viên mật thám có

nhiệm vụ trông coi ông phải than trời "ông này điên rồi! ông muốn thăm hết Paris, mà toàn đi bộ!". Tất

nhiên cũng có nhiều người tìm gặp ông. Vì vậy mà nhà chức trách Pháp muốn ông ra khỏi đất Pháp.

Đúng lúc đó có tin Tu viện Maryknoll ở New York mời ông sang với tư cách làm nhân viên giảng

dạy đặc biệt, nên ông Diệm đi lại Hoa Kỳ. Giữa năm 1953, ông lại đi Âu Châu, trú tại Tu viện Biển Đức

Thánh Anrê (Couvent Bénédictine de Saint André) ở Bruges, Bỉ (Belgique). Thường những quyết định

lớn về Việt Nam diễn ra ở Paris, nhưng lại hay gây ồn ào, và bị mật thám Pháp rình mò, nên ông chọn

qua Bỉ gần Paris, mà tránh được cả hai thứ phiền phức trên.

Mùa Thu năm 1953 tình hình Việt Nam sôi động, ảnh hưởng đến tình hình chính trị Pháp với

viễn ảnh điều đình lập lại hoà hình ở Đông Dương. Đặc biệt trong trường hợp ấy, có tiếng đồn Ông

Ngô Đình Diệm sẽ là Thủ Tướng Việt Nam. Thật ra, đây chính là thời gian Cựu Hoàng Bảo Đại bắt đầu

tìm liên lạc với Ông Ngô Đình Luyện để "nối lại tình xưa", vì hồi nhỏ, trước Thế Chiến II, hai ông là bạn

chơi với nhau ở Paris. Nhưng Ông Luyện thừa hiểu nguời Cựu Hoàng muốn móc nối không phải là

ông mà là ông Diệm.

Để nắm tình hình rõ hơn, ông Diệm sang Paris, nơi có nhiều chính khách Việt Nam, và quyết

định về Việt Nam - vẫn đang bị Pháp chi phối. Muốn kín đáo hơn, ông không ở với Ông Luyện, trong

vùng Choisy, ngoại ô Paris, mà ở với ông Tôn Thất Cẩn, trong vùng Gentilly, ngay sau khu Học Xá Đại

Học Paris. Ông Cẩn là con của Quận Vương Tôn Thất Hân, từng làm Phụ Chính, kết thân với bản thân

ông Ngô Đình Khả. Ông Hân đã lén giúp ông Ngô Đình Khả trong thời gian ông này khốn đốn vì bị

tước hết chức vụ, mất hết bổng lộc, vì không chịu ký kiến nghị truất phế Vua Thành Thái. Chính ở đây

mà ông Tôn Thất Thiện, em ruột ông Cẩn, hội kiến ông Diệm lần đầu qua trung gian ông Thuyên,

người phụ giáo cho gia đình ông Hân.

Ông Diệm tiếp ông Thiện khoảng một giờ. Ông trình bày tình hình quốc tế, và nói: mình may

mắn hơn Tàu, vì người Trung Hoa ở Đài Loan không có hy vọng lấy lại được Lục Địa, còn Việt Nam có

nhiều may mắn hơn. Ông cũng kể về những năm phải nghỉ việc, dành thì giờ nghiên cứu thuyết cộng

sản, đọc sách, trồng hoa, nhất là Hoa Hồng. Ông muốn một thể chế tối thiểu ngang với "Dominion" như

12 | T r a n g

các Dominion Anh. "Dominion" là danh từ chính ông dùng. Ông không nói gì về thể chế Việt Nam

tương lai, nhưng căn cứ trên lý lịch và nếp sống gia đình, và cách ông cư xử với Cựu Hoàng Bảo Đại,

có thể chế độ ông thích là quân chủ lập hiến.

Lúc ông được bổ nhiệm làm Thủ Tướng, rất ít người hiểu rõ về ông. Tôn Thất Thiện nhờ các

chi tiết ông cung cấp để viết bài gởi về Việt Nam qua đại diện Việt Tấn Xã ở Paris, với tựa đề: "Ông

Ngô Đình Diệm là ai?". Đó là tài liệu trung thực đầu tiên nói về ông mà báo chí phổ biến rộng rãi. Tôn

Thất Thiện hỏi Ông khuyên những người trẻ phải làm gì. Ông nói: "Các anh nên vô làm việc trong các

cơ quan đi, để lấy kinh nghiệm sau ni mà làm việc". Tuy thấy đây là một lời khuyên hơi lạ, vì thanh niên

lúc đó có xu hướng "chờ thời" giữa hai bên là làm việc với một Chính phủ thì Chính phủ Bảo Đại (mang

tiếng "theo Pháp") hay Chính phủ Hồ Chí Minh (đang ở trong rừng, nhưng Cộng sản).

Thực sự suy nghĩ cho cùng, thì muốn làm được việc, phải có kinh nghiệm về hành chánh quản

lý công việc, tổ chức guồng máy và nhân sự cùng vận động quần chúng; mà muốn có kinh nghiệm đó,

thì con đường tốt nhất là phải làm việc trong các cơ quan chánh phủ. Trả lời phỏng vấn, lúc đó một

chính khách cộng sản Pháp nói: "Nên tham gia chính phủ, vì ở trong chính phủ mới được đọc

được hồ sơ và hiểu rõ tình hình." Chính ông ta biết như vậy nhờ tham gia Chính phủ Liên hịệp của

de Gaulle lúc de Gaulle cầm quyền sau Thế Chiến II. Điều này giải thích tại sao ông Diệm lại tin dùng

những người như ông Nguyễn Ngọc Thơ và công chức cao cấp các thời trước, kể cả thời Pháp.

Những ý nghĩ và kiến thức cùng kinh nghiệm làm việc đã chinh phục thiện cảm và tin tưởng hơn vào

ông Diệm trong giới thanh niên.

Tài liệu CS và một số thành phần không ưa ông Diệm, đã ghi lại một số tình tiết với thâm ý làm

sai lạc sự thật là gán ghép Mỹ và Công Giáo chủ mưu đưa Ông Ngô Đình Diệm và phe cánh của ông

lên nắm quyền. Tài liệu tiêu biểu mới đây là một điều sai sự thực, trong lúc chính quyền CS bề ngoài

nói là muốn xóa bỏ quá khứ để xây dựng đoàn kết dân tộc. Tài liệu "Trần Lệ Xuân: Giấc Mộng Chính

Trường" và nhiều tài liệu khác xuất bản vào giai đoạn này do Nhà Xuất Bản Công An Nhân Dân có ý

nghĩa gì, khi chủ tình nói sai sự thật và chỉ theo quan điểm Cộng Sản.

Thực ra, năm 1950 ở Roma có hội nghị các giám mục trên thế giới, Giám Mục Ngô Đình Thục

được mời tham dự. Nhân dịp này ông Diệm xin đi theo. Trên đường đi, hai người ghé lại Nhật Bản xin

gặp một số chính khách Nhật và Việt xem họ có giúp được gì không. Sau đó tại Rôma, ông Diệm được

Giám Mục Thục giới thiệu với Hồng Y Giáo Chủ Spellman là giáo chủ của Mỹ để xin giúp đỡ cho Diệm.

Spellman đồng ý.

Năm 1951, Diệm bay sang Mỹ và được Hồng Y Spellman đỡ đầu cho vào ở trong tu viện

Maryknoll tại Lakewool thuộc bang New Jersey, Diệm ở đây hai năm. Thơi gian này ở Đông Dương,

Pháp đang bị Việt Minh đánh tơi tả. Pháp cầu cứu Mỹ giúp khí giới, nhưng Mỹ lừng khừng vì thâm ý

của Mỹ là muốn cho Pháp bại trận, để sau đó nhảy vào giành phần.

Ông Diệm rời Mỹ vào tháng 3.1953, ở Paris ít lâu rồi sang Bỉ lưu trú tại Tu Viện Bénédictine.

Một năm sau, ông Diệm lại trở về Paris để nghe ngóng tình hình Đông Dương.

Các con bài của Nguyễn Văn Tâm rồi hoàng thân Bửu Lộc do Bảo Đại chỉ định làm thủ tướng

theo chỉ thị 24 của Pháp không tạo được hậu quả nào, trong khi đó Pháp thất bại ở Điện Biên Phủ chỉ

còn là vấn đề thời gian. Đến lúc này Mỹ thực sự nhảy vào cuộc, đề nghị Pháp dùng lá bài Ngô Đình

Diệm. Nhưng Bảo Đại không chấp thuận ông Diệm thay ông Bửu Lộc vì Bảo Đại vẫn còn căm hận ông

Diệm đã bỏ Bảo Đại để rút lui về vườn. Thêm một lý do nữa vì lúc ấy Bảo Đại đang chịu sự chi phối

của Bình Xuyên do Bảy Viễn cầm đầu về vấn đề tài chính.

Một mặt Mỹ ép Pháp thay đổi chính phủ tại Việt Nam bằng cách dùng lá bài Ngô Đình Diệm do

Mỹ đưa ra; mặt khác Ngô Đình Thục tích cực vận động giới Công giáo La Mã, Pháp và nhất là Mỹ phải

đưa Ngô Đình Diệm ra gấp thì mới hy vọng cứu Việt Nam khỏi bị Việt Minh thống trị! Đồng thời Ngô

Đình Luyện cũng gặp Bảo đại để dàn xếp cho Diệm về nước lập chính phủ vì từ lâu Luyện rất thân với

gia đình Bảo Đại..."(t.23, sđd.)

13 | T r a n g

Thời gian 1953-54, Pháp bị tấn công mạnh ở Việt Nam, khi có thêm hậu thuẫn từ Trung Quốc

Cộng Sản, sau khi toàn thể lãnh thổ bị Cộng Sản Trung Hoa chiếm quyền thống trị.

Tóm Thuật Hoạt Động Thực Tế Phức Tạp Khi Nắm Chính Quyền

Khi lên nắm chính quyền, chế độ mới do hai ông Diệm Nhu hoạch định thựa hiện phải đối phó

với nhiều vấn đề nhiêu khê, có thể làm nguy ngập đến thể thống đất nước. Một cách tổng lược, ngưới

ta có thể đưa ra một hình ảnh vắn tắt như sau

Những Việc Cụ Thể Chế Độ VNCH I Đã Thực Hiện:

1. Tổ chức việc tiếp chuyển, định cư di dân từ miền Bắc vào miền Nam và bố trí trại định cư

theo địa điểm chiến lược, hình thảnh cấu trúc ban đầu cho một mạng lưới Ấp Chiến Lược, giải quyết

vấn đề dân sinh và an dân chống lại họat động của Cộng Sản từ miền Bắc xâm nhập miền Nam qua

đường rừng núi chủ yếu bên Lảo và đường thủy (sông rạch và biển cả)

2. Đoàn kết các đảng phái chính trị, lực lượng quân sự, chủ yếu dựa trên tôn giáo hay địa

phương: các tổ chức Bình Xuyên, Cao Đài, Hòa Hảo, Phật Giáo, Công giáo, Tin Lành, các lực lượng

chính đảng khác như Đại Việt, phe Bảo Hoàng, lực lượng ủng hộ quyền lợi thực dân Pháp, trong một

mặt trận thống nhất dựa trên một ý thức hệ và hoạt động Chủ Nghĩa Nhân Vị, đối lập với ý thức hệ và

hoạt động chủ nghĩa Cộng Sản.

3. Tổ Chức Quân Đội Quốc Gia Độc Lập từ cơ sở những lực lượng trong quân đội Pháp: Địa

Phương Quân, Bảo Chính Đoàn, thành một lực lược chính quy, hiện đại có kỷ luật, có tổ chức, có

huấn luyện, đủ khả năng phòng vệ và tác chiến hữu hiệu với doanh trại, quân trang, quân dụng, vũ khí,

từ cá nhân binh sĩ ở các cấp tiểu đội, trung đội, đại đội, tiểu doàn, trung đoàn, sư đoàn, các lực lượng

lên đến quân đoàn vùng chiến thuật I, II, III, IV với yểm trợ cần thiết ban đầu của nhiều nước, nhất là

Mỹ.

4. Xây dựng Lực Lượng Cảnh Sát Công An từ các bộ phận còn manh mún phục vụ cục bộ của

nhiều nhóm, nhất là của Bình Xuyên, thành một Đơn Vị Cảnh Sát Công An Quốc Gia Độc Lập thống

nhất. Hình thành mạng lưới an ninh duy trì cảnh vệ trậ tự các cơ sở hành chính quan yếu của quốc

gia.

5. Tổ chức chính trị nòng cốt là thành lập chính đảng Cần Lao Nhân Vi tôn trọng nhân vị và yêu

mến cần lao để kiến thiết bản thân và đất nước, chống lại chủ nghĩa và hoạt động phá hoại của Cộng

Sản. Ngoại vi của lực lượng Cần Lao Nhân Vị là qui tụ động viên thành phần chủ yếu là thanh niên vào

hai tổ chức chính: Thanh Niên Cộng Hòa và Phụ Nữ Liên Đới.

Từ chính đảng nòng cốt này có thể vận động thanh niên nam nữ và nhiều thành phần nhân dân

vào công cuộc xây dựng, phát triển đất nước chống lại hoạt động theo xu hướng của chủ nghĩa Cộng

sản. Tạo thành một phong trào Cách Mạng Quốc Gia, ây dựng đ1ât nước, nhất tâm đối phó với Cộng

Sản

6. Tổ Chức hệ thống chính trị dân chủ với ba lãnh vực Hành Pháp (Tổng Thống), Lập Pháp

(Quốc Hội) Tư Pháp (Hệ Thống Tòa Án), với bầu cử dân chủ chọn người làm việc từ trong các thành

phần giáo phái chính đảng quốc gia trong tình trạng đối phó với hoạt động xâm nhập, phá hoại dưới

nhiều hình thức của Cộng Sản, cụ thể là Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam.

7. Một Giài pháp chính trị chiến lược thực tế đa hiệu, chống lại Cộng sản là chính sách Ấp

Chiến Lược. Ý nghĩa chính thức của tổ chức này là kêu gọi tổ chức nhân dân tập trung vào các ấp

chiến lược, nhất là tại những vùng dễ xâm nhập hoạt động của cộng sản, nhưng có lợi điểm cư trú và

hoạt động kinh tế nông nghiệp, kỹ nghệ, lâm ngư nghiệp, giáo dục của nhân dân.

Khi dân chúng tự nguyện tự giác vào sinh cư tập trung gọn gàng và kỷ luật trong các ấp này, thì

tất cả những thành phần còn lại bên ngoài các ấp (khu trù Mật và Dinh Điền) là Công Sản hay hoạt

động đi theo ủng hộ Cộng Sản. Du kích Cộng Sản sẽ lần lượt bị ngăn chặn, tiêu diệt vì không còn chỗ

14 | T r a n g

dung thân và sinh sống.Tổ chức này hữu hiệu làm nguy ngập cho tổ chức hoạt động của Cộng sản,

nên CSVN mới phản tuyên truyền, xuyên tạc là bắt gom dân vào Ấn Chiến Lược, và thành lập Mặt

Trận Dân Tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam

Nhưng Kế Hoạch Do Chế Độ Xây Dựng Có Những Khuyết Điểm Sau:

1. Quyền lợi, nhận thức cá nhân và đoàn thể khác nhau về tôn giáo và chính trị xã hội muốn

xây dựng dân chủ tự do vội vã đốt giai đoạn, đã cản trợ hoạt động phát triển dân chủ thống nhất của

nhà nước, trong tình thế phải đối phó với các hình thức xân nhập và hoạt động của Cộng Sản.

2. Hoạt động tuyên truyền, đồng khởi, phá hoại của Cộng sản đánh phá nhiều mắt xích trong hệ

thống hành chính địa phương và trong hệ thống Ấp Chiến Lược ở các vùng sâu vùng xa, và các điạ

điểm chiến lược, khi tổ chức chiêu hồi và ấp chiến lược tỏ ra nhiều thiệt hại bất lợi cho Cộng Sản.

3. Hệ thống quản lý đất nước bị lạm dụng, nên có xu hướng thiên về gia đình trị, công giáo trị

gây hoài nghi cho nhiều thành phần nhất là Phật Giáo, trong việc kết nạp vào Đảng Cần Lao Nhân Vị

và nhiều hoạt động khác như tố chức an ninh (mật vụ, tình báo, cảnh sát, thanh niên, quân đội).

4. Sự can thiệp xen lấn lộ liễu mạnh bạo của Mỹ từ yểm trợ nhẹ nhà đến hoạt động hành quân

của cả một lực lượng lớn trên lãnh thổ một đất nước độc lập có chủ quyền với nhiều phương tiện

doanh trại, tổ chứng nhân vật lực phức tạp.

Điều này tạo cơ hội cho tuyên truyền Cộng Sản về nhiều mặt. Khi các cảnh chiến tranh tàn bạo

được chiếu trực tiếp trên truyền hình các gia đình Mỹ hằng ngày đêm đã dần dần tạo nên phong trào

phản chiến, đòi chính quyền Mỹ phải rút về mau lẹ, tạo một khoảng trống cho quân đội còn dòn mỏng

của VNCH, chưa kịp tổ chức xây dựng, bổ sung về quân số và huấn luyện và thiếu vũ khí tối tân, so

với lực lượng võ khí và mưu lược dối trá của Cộng Sản,

5. Phong trào Đồng khởi từ Bến Tre và Biến Cố Tổng Công Kích Tết Mậu Thân trên lãnh thổ

VNCH II là một hoạt động liều lĩnh của Cộng Sản khi hệ thống Ấp Chiến Lược đã chứng tỏ có hiệu quả

đã đẩy CSVN đến chỗ phải hành động để sống còn. Sự tàn bạo và dối trá của Cộng Sản trước Việt

Nam toa rập với ý chí chủ bại và phản bội của Mỹ đã đưa đến thằng lợi trước mắt của CSVN ngày

30/4/1975. Việc hủy bỏ hệ thống Ấp Chiến Lược sau khi lật đổ chế độ VNCH I là một hành động phá

hoại chiến lược, chuẩn bị xa nhưng mau hơn cho sự chiến bại của miền Nam

Gia Đình Bên Ông Ngô Đình Nhu

Gia đình họ Ngô Đình[21], nguyên quán ở đất Quảng Bình, ông cố tổ là dân bần hàn sống nghề

chài lưới. Khi đạo Công giáo truyền đến vùng này từ thế kỷ 17, thì tổ tiên của dòng họ Ngô Đình đã tin

đạo. Đời ông Ngô Đình Khả đức tin đó vẫn được củng cố và phát triển. Là một thanh niên chăm chỉ

đạo dức mà lại thông minh, cậu được theo học cả chữ hán lẫn chữ Pháp. Cậu được gửi du học ở

trường chủng viện Thánh Giuse ở Penang (Mã Lai), cùng với Nguyễn Hữu Bài, với ý định được huấn

luyện để trở thành Linh Mục. Nhưng vì không được ơn gọi làm Linh Mục, cả hai cậu Khả và Bài đều

trở về Việt Nam và sau này trở thành thông gia, vì có một quá trình dài học tập và hiểu biết lẫn nhau.

Về nước, vì giỏi về ngoại ngữ, ông Khả và ông Bài đều được tuyển làm thông dịch viên. Làm

việc xuất sắc có nhiều kết quả, Khả được trọng dụng và thăng chức rất nhanh. Khi vua Thành Thái mất

chức, thì Khả cũng mất chức Phụ Đạo Nam Triều. Gia đình Ngô Đình Khả cư ngụ tại Phú Cam, nơi có

một xứ đạo kiên trung của đất Huế.

Ông Ngô Đình Khả có tất cả:

Con cả là Ngô Đình Khôi (1885?-1945) lập gia đình với người con gái của Nguyễn Hữu Bài.

Con thứ hai là Ngô Đình Thục (1897-1985) từng du học tại Rôma năm. Từ 1919-1927 du học

Roma: Tiến sĩ Triết học (1922), Tiến sĩ Thần học (1926), Tiến sĩ Giáo luật (1927). Qua Pháp học Đại

Học Công Giáo Paris: Cử nhân Triết học (1929). Khi về nước giữ nhiều chức vụ trước khi làm Giám

Mục Vĩnh Long, rồi Tổng Giám Mục Huế.

15 | T r a n g

Con thứ ba là Ngô Đình Diệm (1901-1963), từng làm Tuần Vũ Bình Thuận, rồi Thượng Thư Bộ

Lại triều Bảo Đại (1932).

Năm 1918 thi vào trường Hậu Bổ, sau 03 năm tốt nghiệp, lần lượt giữ các chức vụ từ Tri huyện

Hương Thủy (1922), Tri huyện Quảng Điền (1923), Tri phủ Hải lăng (1925), Quản đạo Ninh Thuận

(1927), Tuần vũ Bình Thuận (1930), Thượng Thư Bộ Lại (1933) được hơn 02 tháng thì từ chức...Năm

1945 bị Việt Minh bắt sau nhờ Đức Giám Mục Lê Hữu Từ can thiệp, được trả tự do. Năm 1950 qua

Roma rồi qua Hoa Kỳ. Ngày 07-07-1954 về nước chấp chánh giữ chức Thủ Tướng toàn quyền do

Quốc Trưởng Bảo Đại chỉ định.

Sau cuộc "trưng cầu dân ý" tháng 10-1955, dược dân bầu lên làm Quốc Trưởng rồi Tổng

Thống tại Miền Nam VN đối lập với chế độ Cộng Sản tại Hà Nội do Hồ Chí Minh lãnh đạo. Ông có công

ổn định tình hình, thống nhất quân đội, phát triển kinh tế, mở mang giáo dục, xây dựng dân chủ,

v.v...Rất tiếc, ngày 01 tháng 11 năm 1963 ông bị phe quân nhân (theo lệnh Mỹ) làm đảo chính lật đổ và

bị thảm sát ngày 02 tháng 11 năm 1963. Biến cố 01-11- 1963 đã dẫn đến sự sụp đổ của Việt Nam

Cộng Hòa ngày 30-04-1975, đưa đất nước vào tay Cộng Sản độc tài!

Con trai thứ tư là Ngô Đình Nhu (1910- 1963).

Con trai thứ năm là Ngô Đình Cẩn (1912- 1964)

Con trai út là Ngô Đình Luyện (1914- 1990), tốt nghiệp kỹ sư công chánh ở Pháp và Anh.

Nhiều nhà nghiên cứu lầm lẫn Ngô Đình Cẩn là con trai út

Ông Bà Ngô Đình Khả còn có ba con gái là:

Ngô Thị Giáo, chết sớm năm 1944,

Ngô thị Hoàng, thường gọi là bà Cả Lễ, vì lập gia đình với ông Nguyễn Văn Lễ,

Ngô Thị Hiệp, lập gia đình với ông Nguyễn Văn Ấm, thân phụ của Hy TGM FX Nguyễn Văn

Thuận. TGM NVT làm Bộ Trưởng Bộ Công Lý và Hòa Bình tại TT Vatican trước khi tạ thế ngày

16/9/2002, tại Rôma.

Hai gia đình Trần Ngô cũng là thông gia môn đăng hộ đối theo Nho giáo cổ truyền.

Gia Đình họ Trần bên Bà Ngô Đình Nhu (Trần Lệ Xuân)

1. Bà Ngô đình Nhu, nhũ danh Trần Lệ Xuân, sinh tại Hà Nội này 24/8/1924, con gái thứ hai

của Ông Trần Văn Chương (Luật Sư) và Bà Thân Thị Nam Trân. Ông Bà Trần Văn Chương có ba

người con. Con đầu là Trần Thị Lệ Chi. Con thứ ba là Trần Văn Khiêm.

Lệ Chi lập gia đình với ông Nguyễn Hữu Châu (Luật Sư, Tiến Sĩ Luật ở Pháp). Ông này gốc

người Gò Công có họ hàng với ông Nguyễn Hữu Hào, thân sinh ra bà Nguyễn Hữu Thị Lan, tức hoàng

hậu Nam Phương, kết duyên với vua Bảo Đại. Khi Thủ Tướng Ngô Đình Diệm trở thành Tổng Thống

năm 1956, thì Ông Nguyễn Hữu Châu được bổ nhiệm Bộ Trưởng tại Phủ Tổng Thống. Chỉ mấy tháng

sau, chính ông Châu xin từ nhiệm.

Gia đình ông Trần Văn Chương vốn theo Đạo Phật, nhưng từ nhỏ Cô Trần Lệ Xuân đã được

gửi học nội trú ở Trường Dòng Nữ Thánh ÂuCơTinh, quen gọi là Couvent des Oiseaux. Một thời gian

cô nữ sinh Trần Lệ Xuân có theo học Trường Albert Sarraut ở Hà Nội trong thời gian ông Trần Văn

Chương hành nghề Luật Sư ở Hà Nội. Chính mấy năm cuối cùng ở trường này, Trần Lệ Xuân đã phát

triển các quan hệ thân tình cụ thể hơn với Ông Ngô Đình Nhu. Sau chính biến 1/11/1963, vô số lời

đàm tiếu đổ dồn vào bà Ngô Đình Nhu.

2. Sau này, tại California, Ông Nguyễn Văn Lục lại nghe từ những người trước nay từng có cơ

hội gần gũi ông bà Nhu, ông Diệm, Ông Cẩn, ông Thục.

16 | T r a n g

Tác giả đã nói chuyện với sĩ quan tuỳ viên Lê Châu Lộc, sau này là nghị sĩ Lê Châu Lộc. Ông

Lộc với bản chất trung thực cho biết, ông biết gì nói nấy, có nói có, không nói không.

Ông cho biết 6 năm làm sĩ quan tuỳ viên cho "ông cụ", kề cận ông cụ ngày đêm. Trong 6 năm

đó chỉ gặp bà Nhu trên dưới 10 lần, vì hai ông bà ở khu bên kia dinh Tổng Thống, ít có tiếp xúc qua lại.

Ông không mấy thích bà Nhu vì giọng nói của bà Nhu lai Bắc, lai Trung và tính nết tỏ ra cao ngạo.

Nhưng đối với tổng thống Diệm thì bà sợ và cử chỉ e dè, khép nép. Không có cái cảnh muốn ra vào

văn phòng ông Diệm lúc nào thì vào. Bà là người có phong cách, lịch sự và đàng hoàng.

Ông Lê Châu Lộc đưa ra hai giai thoại liên quan đến bà Nhu.

Một lần xe của bà Nhu vào Dinh trong khi sắp có xe của một vị tướng Mỹ sắp đến. Ông Lộc đã

yêu cầu xe của bà Nhu nhường lối. Bà Nhu vui vẻ nhận lời trong khi người tài xế của bà tỏ vẻ khó chịu.

Sau đó bà đã vui vẻ chào.

Một lần nữa, ông Lộc vội vã không kịp chào bà Nhu. Vậy mà việc cũng đến tai "ông cụ". "Ông

cụ" cho biết: Lộc nó là sĩ quan, thì chỉ chào sĩ quan có cấp cao hơn, hà cớ gì lại phải chào bà Nhu.

Những chi tiết nhỏ đó cũng cho thấy có nhiều điều xàm tấu, bôi bẩn mà công việc của chúng ta

là cần "làm vệ sinh" tẩy rửa những dư luận xấu xa đó.

Chứng nhân thứ hai là nhiếp ảnh gia Trần Cao Lĩnh.

Nhiếp ảnh gia Trần Cao Lĩnh là người được chọn chính thức chụp ảnh cho gia đình ông Ngô

Đình Diệm trong các buổi lễ chính thức. Vì thế, ông đã nhiều lần ra Huế để chụp ảnh cho gia đình ông

Diệm.

Ông đã kể lại một cách sinh động duyên dáng về những nhân vật thời đệ nhất cộng hoà. Nhiều

nhà văn, nhà báo đã tham dự và được nghe ông kể về những điều này tại toà soạn báo Nhân Chứng,

khoảng năm 1980. Đó là Mai Thảo, Phạm Đình Chương, Du Tử Lê, Vũ Văn Hà, Thuỵ Châu, v.v...

Theo lời kể của Trần Cao Lĩnh, ông đã hết lời đối với gia đình ông Diệm và đặc biệt là đối với

bà Nhu. Bà Nhu là loại người phụ nữ chẳng những có ăn học, có giáo dục. Cử chỉ phong cách quý

phái, chừng mực lễ độ trong cư xử. Bà không phải loại người bờm xơm, chớt nhả, dâm đãng, mất nết

như những lời bịa đặt của dư luận ác ý.

Tại Huế, chỉ các đàn ông như các ông Diệm, ông Nhu, GM Thục mới được phép ở nhà trên

dùng cơm. Bà Nhu chẳng những sợ và khép nép với ông Diệm mà còn cả với Giám mục Ngô Đình

Thục. Theo nhiếp ảnh gia Trần Cao Lĩnh, Bà Nhu không dám tự tiện vào phòng ông Diệm.

Ông Nguyễn Văn Lục muốn viết về vợ chồng ông Nhu, vì ông bà là bị nhiều người hiểu lầm và

bực ghét, nhất là bà Ngô Đình Nhu. Nhiều người không ưa bà, khinh ghét bà nữa. Nhiều người bênh

ông Diệm, thương mến ông, nhưng vẫn dè dặt khi nói về ông Nhu, bà Nhu. Nhiều người biết rõ và khó

quên câu nói phạm thượng và xấc xược của bà khi Hoà thượng Quảng Đức tự thiêu.

Theo ông, khi người ta đã trót quý mến ai rồi, thì khó mà nghĩ khác được. Trước đây, có người

đã trót quý mến và kính trọng Nam Phương Hoàng Hậu và nay thì đến lượt ông bà Nhu cũng vậy

thôi... Khoảng cách tuổi khá lớn giữa hai ông bà cũng là nguyên nhân gây nên những lời đồn thổi sau

này kể từ sau 1963.

Thực ra ít người có cơ hội tiếp xúc với bà Nhu, hiểu biết và kính trọng nhân cách bà Nhu như

ông Trần Cao Lĩnh.

Những người ngưỡng mộ và quý mến bà chẳng bao nhiêu. Sau khi nghe ông Trần Cao Lĩnh

kể về bà, có người đề nghị ông nên viết lại về bà Nhu. Vì không ai có đủ tư cách hơn ông để viết.

Nhưng rồi ông cũng đã không làm cho đến khi ông lìa đời. Cũng hiểu được, bênh vực một người "mất

nết" như bà Nhu nó khó lắm.

17 | T r a n g

Không mấy ai biết bà, nhưng ghét bà, khinh miệt bà thì quá nhiều. Đàn ông ghét đã đành, đàn

bà cũng ghét theo. Đến nỗi người ta cố moi ra sự việc từ những năm 1955 khi chưa có Quốc Hội, chưa

có Hội Phụ nữ Liên đới hay phụ nữ Bán Quân sự. Vì thế dưới mắt của quần chúng nói chung, thí bà

Nhu là một người phụ nữ "mất nết", ăn mặc hở hang, lố lăng với chiếc áo dài kiểu mới. Phụ nữ chê bai

tư cách của bà trong chiếc áo dài kiểu mới, nhưng hầu như giới nữ sinh hay các mệnh phụ phu nhân

đều ăn mặc theo kiểu áo dài đó.

Đến độ vào năm 1955, ông Diệm chép miệng than thở: Tội nghiệp, Bà Nhu có làm gì đâu? Dù

sau cũng chết, chỉ vì bà là một người đàn bà. Bà lại nay nói quá mạnh, cứng rắn trong quan điểm, lập

trường, không nhường nhịn ai, lại có vè "đành hanh" khiến giới mày râu không chịu được.

Có lẽ người ta phải cầu cứu đến những lời bàn của cụ Đoàn Thêm khi nhận xét về bà Nhu.

Cụ Đoàn Thêm cho rằng, dù không làm hay chưa làm việc gì có hại, người đàn bà không thể

thừa thế nhà chồng mà xen vào việc chính quyền. Việc bà tham gia vào chính trường, dưới mắt số

đông, trái ngược hẳn với hình ảnh cố hữu của phụ nữ Á Đông khiêm nhượng, ý nhị, hiền hậu, của

người mẹ và người vợ Việt Nam.

Vẫn theo cụ Đoàn Thêm, nguyên do sâu xa nhất và đích thật nhất, gây thêm nhiều ác cảm với

bà là do bà đã xinh đẹp, mà lại muốn tỏ ra cứng cỏi và đánh hanh nữa thì quá lắm, không chịu nổi.

Người ta có thể nhẫn nhịn chờ đợi ông Nhu, nhưng đối với bà, bà chỉ xuất đầu lộ diệ, thì cũng không

được tán thành hay dung thứ.

Nên dù trái hay phải, người đàn bà VN muốn vội sống theo gương người đàn bà tiền phong

(avantgarde) Âu Mỹ, kiểu chủ nghĩa nữ quyền, là chưa thể yên thân trên một đất nước mà nhiều người

còn ghê sợ những người phụ nữ nhu Võ Hậu hay Từ Hy.

Tâm lý quần chúng như vậy nên nhiều con mắt dễ chú ý đến những sơ hở và lỗi lầm để buộc

lỗi gay go. Mỗi lời nói và việc làm của bà đều có nguy cơ trở thành những cơ hội cho dư luận chỉ trích

nghiêm ngặt.

Bi kịch của chế độ khởi đầu từ đó. Người ghét cứ ghét, mỗi ngày mỗi đông thêm, như đòn hội

chợ do thể chế tam đầu, lại có thêm một người phụ nữ là bà Ngô Đình Nhu.

Khu biệt thự Trần Lệ Xuân (2 Yết Kiêu, Đà Lạt) lộng lẫy rộng trên 13 ngàn mét vuông vừa được

nâng cấp trở thành Trung Tâm Lưu Trữ Quốc Gia IV. Nơi lưu giữ hơn 30 ngàn mộc bản triều Nguyễn. (

Nguồn: Kho tàng mộc bản trong biệt thự Trần Lệ Xuân/my.opera.com)

Ngay như hơn hai chục nam nữ sinh viên đã tham dự trong phái đoàn Huế đi tham quan dinh

Gia Long sau khi hai ông Diệm Nhu bị thảm sát. Họ im lặng đồng lõa với Nguyễn Đắc Xuân. Họ chấp

nhận gián tiếp những gì Nguyễn Đắc Xuân dựng lên bôi nhọ bà Nhu. Chỉ yêu cầu một cô nữ sinh viên

trong số họ cho biết những điều Nguyễn Đắc Xuân viết là đúng hay sai.Dĩ nhiên là không dám nói sai,

ma nói đúng thì đồng lõa bôi nhọ. Thực ra họ không biết để ma nhớ, mà nói đúng hay sai.

Người ta phải nghĩ thế nào về những sinh viên đã im lặng, không dám lên tiếng về những lời vu

cáo của Nguyễn Đắc Xuân?

Người ta có thể tạm quên đi những điều thị phi, những lời khen chê, những lời bôi nhọ dơ bẩn

về bà ấy để chỉ nhìn lại kể từ tháng 11/1963 đến nay bà Nhu đã làm gì, nói gì, viết gì, thanh minh cho

việc mình làm và đã sống như thế nào?

Kể từ sau tháng 11/1963, bà rút lui vào bóng tối. Không nói, không thanh minh, Cắt đứt mọi

giao tiếp với mọi người trước nay từng là những người cộng tác với hai ông Diệm và Nhu. Một vài

người đã có dịp gặp bà như các ông Cao Xuân Vỹ, Lê Châu Lộc, Trương Phú Thứ đều nhận thấy bà

sống ẩn dật, im lặng với quá khứ, lo việc từ thiện. Chắc là tâm trạng và nỗi niềm của bà gần 50 năm

này đã diễn ra thật phức tạp, đa đoan, nhưng chỉ tập trung vào gia đình và niềm tin phú thác?

18 | T r a n g

Và trong thời gian đó, bà đã sống đúng nhân cách một người phụ nữ? Những năm tháng ấy đã

tẩy rửa những điều hàm oan về tiền bạc, con người của bà?

Thực ra bà đã chết cùng với hai anh ông Diệm Nhu, chôn vùi quá khứ, cuộc sống đã sang một

trang mới: im lặng> Điều ấy mang nhiều ý nghĩa: vửa cay đằng, tủi hận vừa sám hối trong tâm tình của

một tín đồ.

Những ai từng kết án bà, thì khó thấy bà là loại người tham tiền cố vị, vô tư cách hay thậm chí

trăng hoa, mất nết... Người ta phải thấy một bà Nhu sống buông thả, quen biết lung tung, tai tiếng đủ

loại sau 01/11/1963.

Nhưng những kẻ thù oán, chuyên đặt điều nói xấu bà cũng không có được chứng cớ nhỏ nhoi

nào, bôi nhọ bà.

Bà sống ẩn dật một thời ở Ý rồi sang Pháp, mua hai căn hộ nhỏ, một để ở và một để cho thuê

lấy tiền tiêu xài, ngày ngày đi lễ nhà thờ, lchuyên chú làm việc từ thiện, lấy kinh nguyện làm lẽ sống.

Một con người như thế, chịu đựng biết bao điều sỉ nhục, tệ bạc, phản trắc, hờn ghét của thế

thái nhân tình, khi không còn thời để lợi dụng.

Không phải là dễ mà ai cũng bộ lộ nhân cách ấy, chọn lựa lối sống ấy. Mấy ai đã làm được như

bà trong những tháng ngày sau 1963, nếu bắt buộc phải sống như vậy?

Người ta nghĩ bà đang viết nhật ký, nhưng có lẽ chỉ là những tâm sự về đạo nghĩa Những điều

Trương Phú Thứ đã viết thật là hiếm hoi và phản ảnh cuộc đời im lặng hơn là bận rộn chuyện phù hoa

thế sự. Theo ông Lê Châu Lộc bà viết nhiều lắm, nhưng không ai biết gì.

Trong cuộc đời này, suốt những năm làm vợ ông Nhu và nhất là từ khi ông bị ám sát, có thể

cùng với lời cố vấn khuyên giải nào đo, bà đã chủ động chỉ lo cho gia đình êm ấm và dồn vào sống ẩn

dật trong niềm tin Công giáo.

Ông đã chết từ 02/11/1963 và từ ngày ấy ba cũng chết như một góa phụ. Theo kiểu nói của

ông Lục, bà chết đến hai lần: chết cho ông Nhu và nền đệ nhất cộng hoà và chết cho chính

mình, cho cuộc sống hiện nay.

Nói đến hai người phụ nữ danh tiếng tài sắc trong lịch sử Việt Nam cận đại là Nam Phương

Hoàng hậu và bà Ngô Đình Nhu, người đời không khỏi cám cảnh ngậm ngùi, thương cho hai kiếp

người "hồng nhan bạc phận"

Trong niềm giận ghét, ác cảm không tránh được của nhiều người, vẫn có nhiều người trân

trọng quý mến ông Diệm, tiếc cho ông Nhu và cám cảnh thương mến bà quả phụ Ngô Đình Nhu.

(Tham khảo Website T.S.C.N. Nguyễn Văn Lục đã dẫn trên)

3. Tiếp theo liên hệ đến Trần Lệ Xuân, ông cụ nội tam đại, tính từ bản thân, là cụ Trần Văn

Thông, cựu Tổng Đốc tỉnh Nam Định, tuy nguyên quán ở Biên Hòa, đất Gia Định.

Cậu Thông sinh 1875.Cậu Thông thuở nhỏ theo học Trường Chasseloup Laubat, một trường

trung học Pháp đầu tiên do người Pháp thiết lập ở Sàigòn. Chính Hoàng Thân Sihanouk của Nam

Vang cũng theo học trường này.

Là Bachelier (Tốt nghiệp Trung Học Tú Tài Pháp) Ban Văn Chương cổ điển 1894. Năm 1907-

1911, anh làm công chức trong chính quyền Pháp tại Đông Dương, sau ra Hà Nội ông làm Giám Đốc

Trường Hành Chính tập sự (Ecoles de Stagiaires) tại Hà Nội. Chỉ ít lâu sau, ông Trần Văn Thông làm

Tổng Đốc tỉnh Nam Định (Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình) cho đến 1945. ông Trần Văn Thông còn làm

hội viên Hội Đồng Tư Vấn Đông Dương, Hội Đồng Bảo Hộ Bắc Kỳ, được thăng chức Đông Các Đại

Học Sĩ Nam Triều.

Ông Bà Trần Văn Thông sinh Trần Văn Chương năm Mậu Tuất (1898). Cậu Chương từ nhỏ

theo học bậc tiểu học tại Hà Nội, rồi gia đình cho đi du học 10 năm ở Algérie. Sinh viên Chương được

19 | T r a n g

học bổng theo học Trường Luật ở Paris, đậu Tiến Sĩ Luật năm 1922. Năm 1925, Ông Trần Văn

Chương trở về Việt Nam, làm việc với tính cách trạng sự tại Tòa Thượng Thẩm Sàigòn đến 1935.

Năm 1938, Luật Sư Trần Văn Chương tham gia Hội Đồng Lý Tài Đông Dương, soạn thảo các

Luật dân sự Trung Kỳ lên tới Phó Chủ Tịch Hội Đồng Lý Tài Đông Dương.

Trong thời gian tùng sự tại Huế, Luật Sư Trần Văn Chương lập gia đình với cô Thân Thị Nam

Trân, con gái của Đông Các Đại Học Sĩ Thân Trọng Huề.

Làm quan dưới triều vua Khải Định, người vợ kế của Thân Trọng Huề là Công Chúa, con gái

của Kiến Thái Vương. Như thế Mẹ của bà Nam Trân là em gái vua Hàm Nghi và Đồng Khánh. Trần

Văn Chương trở thành cháu rể vua Hàm Nghi. Hai họ Trần Thông đều môn đăng hộ đối theo nếp

nho giáo cổ truyền.

Năm 1940, Luật Sư Trần Văn Chương mở Văn phòng Luật sư tại 71, đại lộ Gambetta Hà Nội.

Khi mới về nước, trạng sư (thầy cãi) Trần Văn Chương mở Văn Phòng ở Bạc Liêu, rồi chuyển lên

Sàigòn trước khi ra Hà Nội. LS TVChương nổi tiếng nhất về vụ kiện cô Cúc giết Huyện Trương, vì bạc

tình. Nhờ LS Chương, cô Cúc chỉ bị án ba năm rồi được trả tự do.

Thời CP Trần Trọng Kim sau ngày Nhật đảo chính Pháp ngày 9/3/1945, LS Chương làm Bộ

Trưởng Ngoại Giao, Kiêm Phó Tổng Trưởng Nội Các. Khi CP TTK tan ra, thì ông TVChương sống ẩn

dật tại Hà Nội, rồi đem gia đình vào Sài gòn. Sau Hiệp Định Genève 20/7/1954, miền Nam Việt Nam do

Bảo Đại nắm quyền, Ông Ngô Đình Diệm làm Thủ Tướng, thì LS TVC được bổ nhiệm chức Quốc Vụ

Khanh Phủ Thủ Tướng. Năm 1956, khi ông Ngô Đình Diệm lật đổ Bảo Đại, rồi lên thay Bảo Đại làm

Tổng Thống VNCH, thì LS TVC được bổ nhiệm Đại Sứ VNCH tại Hoa Kỳ cho đến khi chế độ Ngô Đình

Diệm sụp đổ năm 1963. Trong khi TVC làm đại sứ, thì Bà Thân Thị Nam Trân làm quan sát viên VNCH

tại LHQ.

Nhiều người nghĩ rằng ảnh hưởng gia đình trị khá mạnh, cộng với những biện pháp mạnh bạo

- vì chưa hiểu và chưa muôn hy sinh trong cuộc đấu tranh với chủ nghĩa Công Sản - đối với những

người bất đồng chính kiến dẫn đến việc ông bị xem là có phần nào trách nhiệm trong sự sụp đổ của

nền Đệ nhất cộng hòa. Nhưng việc chính quyền Mỹ nhu nhược dựa trên phản ứng của dân chúng Mỹ

cùng với hoạt động tình báo của Cộng Sản Việt Nam và quốc tế yểm trợ kích động thêm Đặc biệt là

những biện pháp được thực hiện trong vụ đàn áp Phật giáo năm 1963 chủ yếu do tình báo chính

quyền Mỹ dàn dựng đã dẫn đến một chuỗi dây chuyền phản ứng dữ dội.

Ngày 1 tháng 11 năm 1963, các tướng lĩnh với yểm trợ mua chuộc của Mỹ đã thực hiện cuộc

đảo chính quân sự lật đổ tổng thống Ngô Đình Diệm. Ngô Đình Nhu và người anh phải chạy trốn vào

nhà thờ Cha Tam ở Chợ Lớn. Sauk hi đã liên lạc dàn xếp với phe đảo chính, vào ngày 2 tháng 11 năm

1963,hai an hem ông Diệm và ông Nhu bước lên xe tank trong đoàn xe quân sự đến đón hai anh em

ông về Bộ Tổng tham mưu. Nhưng chính vì tin tưởng vào lời nới của các tướng lĩnh, khi chiếc thiết

giáp M 113 chở hai anh em ông về đến nơi thì phát hiện thi thể của hai anh em ông với nhiều vết dao

và dấu đạn trên người. Người ta về sau tìm thấy bằng chứng là chính Tướng Dương Văn Minh đã ra

lệnh sát hại hai anh em ong Diệm và Nhu.

II. Sự Nghiệp Chính Trị Của Ông Ngô Đình Nhu

Những người làm việc và tìm hiểu kỹ lưỡng về ông Ngô Đình Nhu đều nhận thấy một điểm son

trong cuộc đời chính trị của ông là tuy ông không hể nắm giữ một chức vụ quan trọng của quốc gia,

nhưng hầu như cương lĩnh và tồ chức chính trị cơ bản của chế độ Việt Nam Cộng Hòa I (1954-1963)

đều chủ yếu do ông dàn dựng ở cương vị làm cố vấn chính trị cho Thủ Tướng rồi Tổng Thống Ngô

Đình Diệm. Vì thế tìm hiều sự nghiệp của ông, người ta chú trọng nhiều đến những thành tựu chính trị

hạ tầng trong việc hình thành các cấu trúc quốc gia của Việt Nam Cộng Hòa I: chủ nghĩa nhân vị, chính

đảng cần lao nhân vị và chính sách ấp chiến lược (khu trù mật, dinh diền, ...).

20 | T r a n g

Theo ý kiến ông Minh Võ[22], ông Cao Xuân Vĩ, dầu sao Võ Nguyên Giáp không thể sánh được

với Ngô Đình Nhu. Còn Phạm Văn Đồng thì không đáng là học trò Ngô Đình Nhu.

Ông Cao Xuân Vĩ cho biết liền khi cuộc chiến giữa Việt Minh và Pháp bùng nổ ngày

19/12/1946. Lúc ấy ông Hồ và đại bộ phận Việt Minh chạy lên Việt Bắc kháng chiến thì nhóm ông gồm

36 trí thức và thanh niên sinh viên tranh đấu chạy vào khu Tư, vùng Thanh Nghê Tĩnh, để cùng với một

số Việt Minh ôn hòa lập một phòng tuyến mới phi cộng sản chống thực dân và giúp dân mở mang về

kinh tế và văn hóa. Có thể nói Liên Khu Tư lúc ấy như là một khu tự trị.

Mãi cuối năm 1953, Cao Xuân Vĩ vào Sài Gòn mới gặp lại Trần Chánh Thành và Ông Thành

giới thiệu Cao Xuân Vĩ với ông Nhu. Ông Thành vào Sài Gòn năm 1952 cùng một lượt với phần lớn

trong số 36 trí thức đã vào Liên Khu Tư để kháng chiến chống Pháp nhưng bất hợp tác với Việt Minh.

Lúc gặp lại Cao Xuân Vĩ, thì ông Thành đang làm cho tờ báo Xã Hội của ông Nhu, đồng thời tập sự

luật sư với Luật Sư Trương Đình Du

Khi làm Cố Vấn, Ông Ngô Đình Nhu chỉ có một mình thiếu tá Phạm Thu Đường làm chánh

văn phòng, thường được gọi là chánh văn phòng ông Cố Vấn. Và dưới quyền thiếu tá Đường chỉ có 5

nhân viên, hầu hết tự túc. Không có ngân khỏan nào dành cho ông Cố Vấn.

Và phải nói thực khó hiểu là chính chức Cố Vấn này cũng chẳng được một văn kiện nào bổ

nhiệm hay quy định nhiệm vụ. Thực tế ông Nhu chỉ giúp việc cho riêng ông Diệm với tư cách là phụ tá

cho Tổng Thống. Người ta thấy việc ông làm thì gọi ông là Cố Vấn vậy thôi. Vì thế ông không có quyền

hạn và nhiệm vụ gì chính thức.

Chủ Nghĩa Nhân Vị Thời Việt Nam Cộng Hòa I (1954-1963)

1. Theo GS Tôn Thất Thiện, những khảo sát bổ sung, công phu và nghiêm chỉnh về sau của

Ông Nguyễn Ngọc Tấn góp phần làm sáng tỏ giai đoạn lịch sử 1954-1963, thời gian ông Diệm cầm

quyền. Những khảo sát này làm rõ những điểm cơ bản của Chủ Nghĩa Nhân Vị Việt Nam Công Hòa I.

Trong 40 năm qua, có những tác giả viết về Chủ Nghĩa Nhân Vị dưới khía cạnh khoa học, nhưng có lẽ

chưa đánh giá về tầm quan trọng của nó như là một chủ thuyết chính trị, dù chủ thuyết này trong thực

tế đã khai sanh ra chế độ Việt Nam Cộng Hòa I. Đây quả đúng là một vấn đề lịch sử chưa được trình

bày một cách có hệ thống trong thế kỷ qua. Chủ thuyết ấy cần được khảo luận, cân nhắc kỹ lưỡng,

phê phán công bình, khách quan và bình thản, xác định những tiêu cực và tích cực trong quá trình

thực hành để trả lại sự thật chính xác của giai đoạn lịch sử ngắn ngủi, nhưng oanh liệt của dân tộc Việt

Nam, nhất là nhân dân sống dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa I (1954-1963).

2. Người ta có thể đặt ra mấy vấn đề chính là:

- Mục đích của Chủ Nghĩa Nhân Vị

- Bản chất Chủ Nghĩa Nhân Vị được hiểu thế nào?

- Chủ Nghĩa Nhân Vị được quan niệm làm cương lĩnh cách mạng quốc gia thế nào và thể hiện

bằng các đường lối chính sách nào?

- Về triết học Chủ Nghĩa Nhân Vị có phải là một thuyết ngoại lai hay thế hiện đặc tính văn hoá

Việt Nam?

Trả lời các câu hỏi trên là đặt nền tảng để thẩm định phẩm chất lãnh đạo và những đóng góp

lịch sử của tổng thống Ngô Đình Diệm trong 9 năm cầm quyền.... Chương khảo luận của tác giả Hoàng

Ngọc Tấn "Chủ Nghĩa Nhân Vị, Con Đường Mới, Con Đường Của Tiến Bộ" có nhiều dữ kiện, suy

đoán, và phân tích tỉ mỉ, khiến người đọc phải đọc kỹ và nghiền ngẫm, khảo chứng từng chi tiết. Luận

đề này đề cập đến một số khía cạnh độc giả cần đặc biệt quan tâm.

Mục Đích Của Chủ Nghĩa Nhân Vị

21 | T r a n g

Trong tình hình chia cắt hai miền Bắc Nam dưới hai chế độ khác nhau vì ý thức hệ khác nhau.

Miền Bắc theo ý thức hệ chù nghĩa Cộng Sản, nên miền nam muốn được đầu với chế độ chủ trương

đâu tranh giai cấp theo chủ nghĩa Cộng sản, thì miền Nam cũng phải xây dựng xã hội theo một ý thức

hệ ưu việt để đối kháng lại. Theo tác giả Nguyễn Đức Cung[23]

Ngày 8/1/1963, trong cuộc nói chuyện với học giới gồm nhiều học giả trí thức, giáo sư đại học,

giáo sư trung học và cán bộ tại Trung Tâm Thị Nghè, Ông Ngô Đình Nhu xác định:

"... mình đánh nhau với Cộng Sản, bây giờ Cộng Sản nó đánh mình với một Ý thức hệ, mà

chúng ta không có một ý thức hệ cứng rắn, rõ ràng, trong tâm trí chúng ta để đối lại, để có lẽ sống mà

đáng Cộng Sản thì chúng ta sẽ bị ý thức hệ Cộng Sản lan tràn lung lạc..."[24]

Ông nói tiếp:

"Muốn phục vụ con người trong xã hội, thì con người đó phải tiến, xã hội đó phải tiến. Nhưng xã

hội chỉ tiến được với nhữhng con người ý thức nhiệm vụ. Cho nên, trên nguyên tắc, chúng ta phải nhìn

nhận rằng cần phải có một ý thức hệ tiến bộ. Ý thức hệ chúng tôi chủ trương là ý thức hệ Nhân Vị."

(Nguyễn Văn Minh, sđd., t. 421).

Bản Chất Đích Thực Của Chủ Nghĩa Nhân Vị

1. Về bản chất Nhân Vị, theo chính tài liệu ông Diệm giải thích: Về Nhân Vị là gì: Nhân và Vị là

hai học thuyết Nho giáo. Nhân 仁 do chữ Nhân 人 và chữ Nhị 二 hợp thành (仁) có nghĩa là lòng

thương người, đạo lý làm người; Vị 位 do chữ Nhân 人 và chữ Lập 立 hợp thành (位) có nghĩa là người

có cái vị trí của họ, đứng giữa và ngang hàng với Trời và Đất. Hai chữ này kết hợp lại, diễn đạt ý

tưởng nói về phẩm giá cao quí của con người và vị trí của con người trong cộng đồng nhân loại và

trong vũ trụ. Đó là tương quan chặt chẽ của ba yếu tố vũ trụ (Thiên Địa Nhân) trong triết lý Tam Tài

truyền thống của Phương Đông.

Một cách giải thích khác tương tự như trên về Chủ Nghĩa Nhân Vị[25] theo lối phân tích của

Lm Bửu Dưỡng:

" Nhân là người. Vị là thứ bậc. Nhân Vị là tính cách con người sống đầy đủ con người theo thứ

bậc của mình. Theo nghĩa đó hai chữ nhân vị đầy đủ hơn chữ personne humaine của Pháp ngữ, vì hai

chữ personne humaine nhấn mạnh đến ý nghĩa của chữ nhân mà ít chú trọng tới vị. Cần phải hiểu ý

nghĩa đày đủ của hai chữ. Nhân là sống đầy đủ con người. Vị là sống đúng theo thứ bậc của mình

trong những tương quan với người khác và vạn vật. Như vậy thì quan niệm về nhân vị tùy thuộc quan

niệm về con người và quan niệm các tương quan." [26]

Theo cách nói của LM Nguyễn Thái, đúng là phải trải qua kinh nghiệm ngàn năm dựng nước,

giữ nước và cứu quốc, ông bà tổ tiên Việt Nam mới để lại cho con cháu cái bí quyết thành công qua

thành ngữ "Thiên thời địa lợi nhân hòa". Thành ngữ này dựa trên quan niệm của Khổng Tử lấy ra từ

Kinh Dịch diễn tả tương quan hòa đồng biện chứng giữa Trời, Đất và Người, qua lý tưởng Thái Hòa.

Được giáo dục bởi nền văn hóa Nho Giáo, hai anh em cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Ngô Đình

Nhu đã hệ thống hóa tư tưởng nhân bản nho học lại thành một chủ thuyết lấy tên là "Chủ Nghĩa Nhân

Vị"

Trong bài phát biểu mới đây, nhân dịp tưởng niệm cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, Lm đã phát

biểu:

"Sống với Nhân Vị là sống với lòng yêu thương như tổ tiên đã dạy: "Thương người như thể

thương thân". Chủ Nghĩa Nhân Vị là đạo lý làm người, là sống cho ra cái phẩm giá cao quý của con

người. Đó là sống với chữ tâm của "Tiết trực tâm hư", chữ tâm như cụ Nguyễn Du đã khuyên dạy:

"Thiện căn ở tại lòng ta, Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài." Đó là phải biết đặt mình hòa hợp vào đúng

vị trí của mình đối với Thiên Chúa [Trời] - Thiên; đối với Tổ Quốc, Quê Hương, Đất Nước - Địa; đối với

Nhân Dân, Đồng Bào - Nhân." [27]

22 | T r a n g

Ông Ngô Đình Nhu giải thích:

"Về tư tưởng Nhân vị có nhiều thứ. Có thứ họ căn cứ vào một tin ngưỡng hữu hình, một tin

ngưỡng chắc chắn, căn bản. Có thứ lại nhuốm phần nào vô thức... Ý thức hệ Nhân vị chúng tôi chủ

trương nó rất rộng rãi và không cần phải đi sâu vào các đạo giáo... Tất cả các đạo giáo, tất cả các triết

lý khác, có thể cùng đi với chúng ta được trong ý thức hệ đó..."[28]

Chủ Nghĩa Nhân Vị là một triết thuyết đề cao địa vị và phẩm giá của con người trong tương

quan với vũ trụ, Trời và Đất, với người khác trong xã hội. Chủ nghĩa Nhân Vị cho rằng bản vị con

người có một nhân phẩm tối thượng, nên mọi sinh hoạt trên đời đều được tập trung và phải là phương

tiện qui hướng đến mục tiêu phục vụ con người. Chủ nghĩa Nhân Vị lấy Con người biết tu thân (vừa

tĩnh vừa động) làm nền tảng để giải quyết các mâu thuẫn trong sinh hoạt của con người.

Nguồn Gốc Hình Thành Chủ Nghĩa Nhân Vị VNCH I

Về quá trình hình thành, chắc chắn khi học ở bên Pháp trong thập niên 1930 thanh niên Ngô

Đình Nhu đã tiếp xúc với tư tưởng và có thể chính con người năng động của Emmanuel Mounier,

nhưng một người sắc sảo như Ngô Đình Nhu không hấp thụ tư tưởng Chủ Nghĩa Nhân Vị một cách

thụ động, nô lệ, ngoại lai, mà đã tinh chế cho phù hợp với văn hóa truyền thống Việt Nam. Chủ Nghĩa

Nhân Vị của các ông Diệm, ông Nhu không thuần túy là Chủ Nghĩa Nhân Vị của Mounier, là của Công

Giáo[29]. Những lời phê bình này có thể chứa đựng một chủ đích chính trị nào đó, hay chưa tìm hiểu

thấu đáo về Chủ Nghĩa Nhân Vị.

Trong số những người phê bình theo chủ đích chính trị có những người, theo Nguyễn Ngọc

Tấn, như Nguyễn Thái. Trong tác phẩm "Is South Vietnam Viable?", ông nói rằng ông Nhu đã say

mê thuyết dân chủ xã hội dựa trên lòng bác ái và giá trị nhân bản mang danh "Personnalisme" của

Emmanuel Mounier, và mối liên hệ của Chủ Nghĩa ấy với xã hội mà ông Nhu cổ võ chẳng có gì là mới

mẻ, và "Personnalisme" cũng chẳng có gì xa lạ vì trong một trường phái triết học Pháp trong đó có

Emmanuel Mounier[30] và Jacques Maritain để hết mình cổ võ cho nó...

Thưc ra trên đời không có gì mới mẻ, nhưng mới mẻ là cách vận dụng nó có phù hợp vói thời

đại không và được thời đại đó chấp nhận không?

Nhà sử học Robert Scigliano, sau khi nghiên cứu chủ nghĩa Nhân Vị Việt Nam Công Hòa I đã

ghi lại:

"Chủ Nghĩa Nhân Vị nhấn mạnh đến sự điều hòa những ước vọng vật chất cũng như tinh thần

của cá nhân với các nhu cầu của cộng đồng và các nhu cầu chính trị của quốc gia. Nó nhằm tìm kiếm

một con đường trung dung giữa chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa tập thể mác-xít."[31]

Mới đây tác giả Jean-François Petit [32] nghiên cứu quá trình hình thanh tư tưởng E. Mounier

(1905-1950). Ông thấy Mounier là một trong những khuôn mặt trí thức Pháp thuộc thế kỷ XX. Theo

J.F. Petit, căn cứ vào nhiều tài liệu ông viết, trong suốt quá trình suy tư và hành động, E. Mounier có xu

hướng muốn dung hợp nhiều luồng tư tưởng triết học và thần học khác nhau. Mounier chịu tác động tư

tưởng triết học từ Descartes, Pascal và Bergson, đồng thời quan điểm thần học từ linh mục Guerry.

Khi học tại Paris, ông tỏ ra thất vọng, vì ông không thành công xác định một nền giáo dục thiên

về chủ nghĩa duy tâm và duy lý của Trường Đại Học Sorbonne và một nền thẩn học bị tác động do

cuộc khủng hoảng duy tân hiên đại.

Luận đề của ông về triết thuyết thần bí thất bại. Vì thế ông chuyển hướng thiết lập một triết học

riêng biệt, tách rời khòi tư tưởng có màu sắc tôn giáo.

Nhưng khi đọc những tư tưởng của Péguy, ông chuyên chú đến các tương quan giữa yếu tố

thiêng liêng và yếu tố trần thế. Sau cùng tiếp xúc gặp gỡ Landsberg, ông tỏ ra nhạy cảm thấy người ta

phải dấn thân. Xu hướng hiện sinh ấy khiến ông từ chối nền thần học Kitô giáo. Từ đó nảy sinh ra quan

23 | T r a n g

niệm triết học về nhân vị và cộng đồng, có hơi hướng tư tưởng Augustin từ thế kỷ thứ tư thuộc Công

nguyên.

Paul Ricoeur xem tư tưởng Mounier là dấu ấn triết học chuẩn mực, nhưng không phải là đối

tượng nghiên cứu có hệ thống theo giác độ này, mạc dù tư tưởng Mounier có tầm ảnh hưởng lớn lao

lên các lãnh vực triết học, thần học, chính trị và sư phạm. Công lao của tác giả J. L. Petit là xác định rõ

nguồn gốc tư tưởng Mounier bằng nhiều văn bản chưa được xuất bản.

Theo quan điểm nghiên cứu của E. Miller khi tiếp xúc với nhiều người Việt Nam sau nau

30/4/1975, thì khi Ngô Đình Nhu từ Pháp về lại Đông Dương, ông say mê chủ nghĩa nhân vị, tin tưởng

rằng tư tưởng của Mounier có thể vận dụng nhuần nhuyễn vào hoàn cảnh Việt Nam. Sau năm 1945,

chủ nghĩa Nhân vị có thể là "con đường thứ ba" để phát triển xã hội là điều Ngô Đình Nhu gắn bó.

Trong nhãn quan Ngô Đình Nhu, tư tưởng Mounier bác bỏ cả chủ nghĩa tự do cũng như chủ nghĩa

cộng sản là vấn đề chính trị cho Lực lượng thứ Ba do Ngô Đình Diệm đang đề xướng. Ngô Đình Nhu

cảm thấy người anh của mình đang lĩnh hội tư tưởng của ông qua việc Ngô Đình Diệm nhận xét và bài

viết trong giai đoạn này nhắc đến nhiều chi tiết của thuật ngữ chủ nghĩa Nhân vị.

Những nghiên cứu của E. Miller cũng xác định từ tháng 4 năm 1952, Ngô Đình Nhu phác thảo

quan điểm về chủ nghĩa Nhân vị trong bài nói chuyện tại trường Võ Bị Đà Lạt vừa thành lập. Ông thừa

nhận rằng khái niệm nhân vị ban đầu là một tư tưởng Công giáo, nhưng nhấn mạnh rằng nó mang tính

thích hợp và hữu dụng phổ quát, đặc biệt là cho một đất nước bị chiến tranh tàn phá như Việt Nam.

Phát biểu với một cửa tọa mà đa số là những người không Công giáo có mặt trong cuộc nói

chuyện này, ông tuyên bố rằng "... ưu-tư của người Công-giáo cũng chỉ như một tiếng dội đáp lại

những nỗi ưu-tư ở tâm-hồn bất-mãn của các ông vậy." Ông Nhu lập luận rằng, tất cả người Việt Nam

thuộc mọi phe phái chính trị và tôn giáo, nên cùng nhau nhất trí bất thần và mãnh liệt" để bảo vệ nhân

vị chống lại các thế lực đang đe doạ tiêu diệt nó.

Trong số những người chưa nghiên cứu đầy đủ về Mounier, có thể kể một nhà biên soạn nổi

tiếng là ông Nguyễn Gia Kiểng. Gần đây, trong một bài phê phán ông Ngô Đình Diệm, ông viết:

"Nếu dựa trên những gì ông Nhu đã viết về chủ nghĩa nhân vị thì có thể nói là chính ông cũng

chỉ hiếu lơ mơ Có lẽ ông đã du nhập chủ nghĩa nhân vị vào Việt Nam vì lý do là lúc đó nó được coi là

giải pháp Thiên chúa giáo cho hòa bình Công giáo của thế giới. Nó có tham vọng là một vũ khí tư

tưởng chống lại chủ nghĩa cộng sản. Trên thực tế, nó là một bước lùi lớn, gần như một sự đầu hàng,

bởi vì nó phủ nhận cá nhân, cốt lõi của dân chủ" [33].

4. Người ta có thể bác bỏ dễ dàng những luận điểm và nhận định sai lầm nặng nề cùng những

phê phán hời hợt trên đây. Căn cứ vào những trích dẫn tuyên bố, phát biểu trực tiếp của các ông

Diệm-Nhu, và nhiều khảo luận của học giả Việt Nam có uy tín, người ta chứng minh Chủ Nghĩa Nhân

Vị là một lý thuyết chính trị mang một bản sắc dân tộc rõ rệt.

Hơn nữa nhiều học giả như Lương Kim Định, Nghiêm Xuân Hồng và Đinh Văn Khang với biện

chứng mạch lạc rõ rệt, khẳng định Chủ Nghĩa Nhân Vị (Tâm linh, Đông phương) của Ngô Đình Diệm

và Ngô Đình Nhu, bắt nguồn từ nền tảng văn hóa Việt Nam, không thể lầm lẫn với Personalisme của

Mounier (Duy tâm Tây phương) được[34]. Không còn nghi ngờ gì nữa, vì mọi việc đã được sáng tỏ và

những nghiên cứu lịch sử cho phép ta kết luận Chủ Nghĩa Nhân Vị do hai ông Diệm-Nhu chủ xướng

mang bản chất văn hóa và chính trị Việt Nam.

Theo dẫn chứng của tác giả Nguyễn Ngọc Tuấn, nhiều tuyên bố của ông Diệm và ông Nhu ở

những hoàn cảnh khác nhau có thể minh chứng xác quyết sự thật đó, như:

"Nhắm mắt bắt chước nước ngoài khác gì nhận trước sự bảo hộ của ngoại bang" [35]

- "Chủ thuyết [Nhân Vị] đặt nền tảng trên quan niệm tôn trọng phẩm giá con người và đẩy mạnh

sự phát triển đến mức độ cao nhất. Quan niệm này... ở ngay trong truyền thống dân gian Việt Nam"

[36]

24 | T r a n g

- "Tôi phải nói ngay rằng: Chủ Thuyết Nhân Vị của tôi chẳng có dính dáng gì đến cái Nhân Vị

Công Giáo đang được giảng dạy bởi các tổ chức Công Giáo tại miền Nam Việt Nam... Hiện nay cái học

thuyết nhân vị mà tôi cổ võ là một nền dân chủ đấu tranh trong đó tự do không phải là một món quà

của ông già Noel, nhưng mà là kết quả của một cuộc chinh phục bền bỉ và sáng suốt trong đời sống

thực tế, không phải trong một khung cảnh lý tưởng, mà trong những điều kiện địa lý chính trị đã được

định sẵn" [37]

Như thế, giải pháp Nhân Vị mà ông Diệm và ông Nhu đã cổ võ 40 năm về trước chính là mô

hình xã hội dân chủ nhân vị đã được thể nghiệm ở miền Nam từ 1954 đến 1963, có mấy đặc điểm:

- Hoạch định một chính cương thống nhất, lấy chủ nghĩa nhân vị làm nền tảng, phù hợp với văn

hóa Việt Nam làm căn bản hướng dẫn cả nước đi lên

- Định hướng dân chủ trên thượng tầng cấu trúc xã hội dân sự

- Vận dụng một nền kinh tế thị trường có điều hòa uyển chuyển của một chính phủ nhắm đến

phúc lợi từng cá nhân và cho chung cho cả cộng đồng xã hội.

- Thực hiện có điều tiết dần dần tính công bằng xã hội và nền dân chủ đa nguyên thực sự ở hạ

tầng cơ sở qua các chính sách đất đai dinh diền, ấp chiến lược, khu trù mật

-Kiến tạo hòa bình, ổn định, đoàn kết, trong tình trạng thực tế có hoạt động chính trị kết hợp với

vũ trang của chế độ Cộng Sản miền Bắc Việt Nam lúc đó.

Chủ nghĩa Nhân Vị chỉ được thể nghiệm trong một thời gian ngắn ở Miền Nam Việt Nam,

nhưng xét theo lý thuyết khoa học, Chủ Nghĩa Nhân Vị có một giá trị đóng góp lâu dài và quan trọng

vào công cuộc phát triển con người nói chung và đặc biệt tại các quốc gia nghèo đói hiện nay.

Sử gia Henry Fairbanks tóm lược toàn sự thật lịch sử bằng lời lẽ khách quan, trong một bài báo

tựa đề "The Enigma of Ngô Đình Diệm", được đăng trong tờ Commonweal như sau:

"Ông Diệm tìm kiếm và khôi phục lại những giá trị cổ truyền làm nền tảng cho giải pháp canh

tân xứ sở trong khi đó những người khác lại đi tìm những học thuyết ngoại lai... Dù sao đi nữa, Ông ta

vẫn là một người có cái nhìn sâu sắc về tương lai. Cả thế giới này đều yêu mến các chiến sĩ dũng cảm

và ai ai cũng phải nể trọng những kẻ đeo đưổi một lý tưởng cao cả nào đó. Ông Diệm ao ước thực

hiện một nhà nước được xây dựng trên những giá trị cổ truyền tốt đẹp nhất của Á Châu và Tây

Phương, những đặc điểm đúng đắn và khả thi nhất để phục vụ quyền lợi chung và tôn trọng nhân

phẩm. Ông Diệm cho rằng Xã Hội Chủ Nghĩa và Tư Bản Chủ Nghĩa đều là những học thuyết cực đoan

cần có một hình thức trung gian, một lực lượng đứng giữa, nhằm tổng hợp được những giá trị ưu tú

nhất của cả hai để phục vụ cho lợi ích chung: công bằng đối với người này là tự do của kẻ khác, cũng

như loại bỏ độc tài toàn chế và tinh thần vô trách nhiệm của Chủ Nghĩa Cá Nhân." [38]

Sự điên đảo của xã hội hiện nay là thay vì đầu đội Trời, chân đạp đất, tay ôm lấy nhau trong

tình người thái hòa thì người ta đảo lộn tất cả!

- Thiên là Trời cũng chẳng còn biết kính trọng nữa, mà:

"Tiền là tiên là Phật, là sức bật của tuổi trẻ, là sức khỏe của tuổi già."

"Ông Trời hãy dẹp một bên, để cho nộng hội tiến lên làm Trời!"

- Địa là quê hương, tổ quốc, đất nước, nhưng ngày nay thì:

"Tổ quốc với chẳng tổ cò

Nơi nào no ấm ta dò ta bay"

- Còn Nhân (con người) với nhau thì coi nhau như lang sói, đầy đấu tranh, tham nhũng:

"Thanh cha, thanh mẹ, thanh dì

25 | T r a n g

Hễ có phong bì thì lại thanh-kiu".

So sánh với thực tại cá nhân và xã hội Việt Nam ngày nay, người ta mới thấy rõ hơn tính ưu

việt của Chủ Nghĩa Nhân Vị lấy tương quan Trời Đất Người làm nền tảng xây dựng xã hội con người.

Chủ Nghĩa ấy đối kháng rõ rệt với chủ nghĩa độc tài chuyên chính độc đảng toàn trị, không có dân chủ,

không tôn trọng con người để xây dựng một xã hội thái hòa giữa Trời Đất và Người.

Không thể gọi chế độ ấy là Cộng Sản đích thực, vì đã hội nhập vào nền kinh tế thị trường tự do

và đã chấp nhận tham gia xã hội pháp quyền dân sự, trong khi Đại Khối Cộng Sản từ Phương Tây đã

tan rã. Đó là một toan tính ngoan ngạnh, dị hợm, chắp vá đầu Ngô mình Sở, một quái thai nẩy sinh

giữa chế độ toàn trị độc đảng mà vẫn muốn sống trong thế giới dân chủ tự do chấp nhận kinh tế thị

trường.

Chế độ xã hội ở cả Việt Nam ngày nay (sau 30/4/1975 đến nay) và ở một nửa nước tại Miền

Bắc Việt Nam trước kia (1954-1975), người ta mất hướng đi chân chính, vì thiếu một chủ nghĩa nhân

bản dân chủ chân chính:

-Chế độ chính trị thì do một đảng chuyên chính độc đoán, toàn trị, dù có phân biệt theo hình

thức Tòa Án, Chủ Tịch nước, Thủ Tướng Chính Phủ, Chủ Tịch Quốc Hội, trong đó tất cả đều theo lệnh

của Bộ Chính Tri Đáng

-Nền kinh tế thị trường, nhưng những người chủ chốt đều thuộc một đàng chuyên chính. Có

phát triển nhưng là một nền kinh tế bất công, giàu sang nhờ đầu tư kinh doanh của các công ty liên

doanh ngọai quốc

-Xã hội suy đồi vì nền giáo dục khuôn sáo thiếu suy tư sáng tạo, vì tự do hôn nhân chân, nam

nữ tự do giao du, tham nhũng, mãi dâm, xì ke, ma túy, HIV/AID tràn lan, ứng xử gian dối trong tương

quan xã hội, các đoàn thể chỉ là phên dậu của một chính đảng được bầu cử theo cách sắo đât trước

của một Đảng

Và nhờ đó người ta muốn hiểu rõ và thương mến trân trọng chế độ Việt Nam Cộng Hòa I. Chủ

Nghĩa Nhân Vị thời Việt Nam Cộng Hòa trước kia (1954-1963) và ngày nay ở trong cũng như ngoài

nước (từ sau 30/4/1975 đến nay) đã và vẫn đang tiếp tục bị các lực lượng thù ghét xuyên tạc và có ý

làm sai lệch tư tưởng chính thống thế nào là chủ nghĩa nhân vị.

Từ Chủ Nghĩa Nhân Vị Đến Đảng Cần Lao Nhân Vị

Chủ nghĩa nhân vị chính là nền tảng để xây dựng chế độ Việt Nam Cộng Hòa I. Muốn cho nhà

Việt Nam bền vững , ngôi nhà đó cần có một nền tảng vữa chắc để xây những bộ phận khác. Làm việc

gì cũng cần có trước có sau một cách hợp tình hợp lý và hài hòa. Bài diễn văn của Ngô Đình Nhu báo

trước cho việc thiết lập hệ thống Đảng Cần Lao Nhân Vị để qui tụ, động viên và tổ chức nhân sự trong

guồng máy Việt Nam Cộng Hòa.

Trong nghiên cứu E. Miller cũng thấy trật tự đó[39]. Ngô Đình Nhu là một nhà tư tưởng và một

nhà chiến lược. Ông thừa biết rằng phong trào của ông cần được tổ chức; tài năng thật sự của ông là

thành lập xong, thì phải tổ chức. Chắc chắn ngay từ đầu thập niên 1950, Ngô Đình Nhu đã xây dựng

cốt cán của một đảng chính trị mới, với nhóm người chạy khỏi Hà Nội vào khu tự trị Bùi Phát sau ngày

19/12/1946, mà sau này mới xuất hiện công khai với tên gọi Đảng Cần lao Nhân vị;" nhưng thường chỉ

gọi là vắn tắt "Cần Lao".

Lúc đầu, tổ chức Cần Lao hoạt động trong vòng bí mật, và người ta hầu như không biết gì về

những năm đầu tiên của nó. Đảng hoạt động theo lối mạng lưới chi bộ, đa số đảng viên được tuyển

mộ chỉ biết danh tính của một số ít các đảng viên khác.

Sau năm 1954, đảng này chính thức tồn tại, nhưng đa số những hoạt động của nó vẫn chưa

được làm sáng tỏ. Cuối cùng, đảng Cần Lao trở thành bộ phận quan trọng và nổi tiếng nhất trong bộ

máy an ninh của Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu. Nhưng trong những năm đầu của đảng, mục đích

26 | T r a n g

chính của Ngô Đình Nhu là vận động phong trào ủng hộ cuộc đấu tranh chính trị dân tộc chủ nghĩa mới

do Ngô Đình Diệm lãnh đạo.

Việc đặt tên Cần Lao khiến người ta nghĩ chắc chắn Nhu quan tâm đến việc tổ chức lao động

(lao động ở đây được hiểu bao gồm cả công nhân và những tá điền nghèo khổ), trong ý thức cạnh

tranh với tổ chức lao động kiểu Lê-nin ở miền Bắc khi đó. Tổ chức này cũng có thể liên quan đến một

số tư tưởng chỉ đạo phong trào công đoàn Pháp. Ông tán đồng khái niệm công đoàn: công nhân được

tổ chức thành nghiệp đoàn hay hiệp hội để bảo đảm quyền lợi của các thành viên không lệ thuộc vào

quyền lợi của tư bản. E. Miller chú ý đến khía cạnh đặc biệt này: "Mặc dù Ngô Đình Nhu, trong những

bài thuyết trình kín và công khai, thường hướng tới những yếu tố triết lý Nhân vị, nhưng cung cách và

bản chất những nỗ lực tổ chức của ông bị những nguyên tắc của phong trào công đoàn ảnh hưởng sâu

sắc"[40]

Về Đảng Cần Lao Nhân Vị, theo ông Cao Xuân Vĩ, hai người cùng với ông Nhu sáng lập ra

đảng Cần Lao Nhân Vị là các ông Trần Quốc Bửu và Huỳnh Hữu Nghĩa. Ban đầu các ông không gọi

tên đảng là Cần Lao mà gọi là đảng Công Nông[41] Nhưng vì không muốn gợi ý về cái liên minh công

nông của cộng sản, nên về sau các ông đổi ra là Cần Lao.

Còn vế Nhân Vị thì sau nữa mới thêm vào theo đề nghị của ông Nhu. Ông Bửu, chủ tịch Liên

Đoàn Lao Công có kinh nghiệm về đấu tranh nghiệp đoàn, đã quen ông Nhu khi còn ở bên Pháp. Và

ông Huỳnh Hữu Nghĩa[42] một tín đồ Cao Đài, là cố vấn chính trị của tướng Trình Minh Thế. Ông

Nghĩa đã giúp ông Nhu chinh phục được tướng Thế, chứ không phải như có người Mỹ cho rằng ông

Nhu có được ông Thế là nhờ đại tá Edward Lansdale.

Ông Lansdale có can thiệp để quân của tướng Thế được hợp thức hóa và trả lương như Quân

Đội Quốc Gia thì đúng. Người nào bảo Lansdale dùng tiền mua Tướng Thế là cố tình xuyên tạc để hạ

úy tín của một vị tướng kiên cường anh dũng, thanh liêm mà anh em ông Diệm rất qúy trọng. Khi nghe

tin tướng Thế tử trận Tổng Thống Diệm đã ngất xỉu. Điều này tướng Lansdale có ghi trong hồi ký. Văn

phòng Tổng Bí Thư đảng Cần Lao cũng do một mình Thiếu Tá Phạm Thu Đường quán xuyến, kiêm

nhiệm.

Tổ Chức Đoàn Ngũ Hóa Các Giới

Ngoài hệ thống nội bộ Đảng Cần Lao, trong ý đồ chiến lược đa diện của Ngô Đình Nhu, con có

những tổ chức ngoại vị nhằm đoàn ngũ hóa các giới mà hai đoàn thể chính là Thanh Niên Cộng Hòa

và Phụ Nữ Liên Đới nhằm thi hành thống nhất các đường lối chính sách theo hướng Chủ Ngjhĩa Nhân

Vị. Chủ trương như thể nhưng có nhiều lạm dụng hay khuyết nhược điểm trong các đơn vị địa phương

và cá nhân dẫn dần đến mất hướng đi chính thống của chủ nghĩa và sa sút, trong khi có tổ chức Cộng

Sản và những thành phần công dân không tán đồng chủ nghĩa nhân vị tiếp sức phá hoại một cách nào

đó.

Khi làm Thủ Lãnh Thanh Niên Cộng Hòa, thì ông Nhu chỉ thị cho anh em đoàn viên phải tự

túc. Mọi đoàn viên đều tự nguyện và tự túc theo tinh thần cách mạng. Cho nên cũng chẳng có quyền

lợi gì.

Về văn phòng dân biểu, ông cũng không có. Thực ra ông ấy rất ít đi họp Quốc Hội. Chỉ khi nào

có vấn đề chính sách quan trọng như Ấp Chiến Lược chẳng hạn, hay vấn đê "Giáo Dục nhân bản", vấn

đề "kinh tế tư hữu cơ bản" v.v... thì ông mới tới trình bày mà thôi. Cho nên mọi thứ một mình ông cáng

đáng. Ông Cao Xuân Vỹ thật phục sức làm việc của ông Nhu.

Ấp Chiến Lược, Hệ Thống Tổ Chức Hạ Tầng Đa Hiệu Của Xã Hội Nhất Là ở Nông Thôn

Mục tiêu

1/. Ông Nhu quan niêm chương trình Ấp Chiến Lược là một cuộc cách mạng xã hội và chính trị, chứ

không phải chỉ là một chiến lược đối phó với xâm nhập và khủng bố của cộng sản mà thôi.

27 | T r a n g

Ông thúc đẩy các tỉnh trưởng khai hóa người dân quê theo tinh thần tam túc, nghĩa là tự túc về

tư tưởng, tự túc về tổ chức và tự túc về kỹ thuật, để có thể làm chủ cuộc đời mình, làm chủ được xã

hội, không bị lệ thuộc vào bên ngoài, vào ngoại bang.

Nghiên cứu mới đây theo tác giả Nguyễn Văn Minh trình bày lại công thức tam giác tam túc của

quân dân cán chính trong ấp chiến lược.

2/. Chính Ông Ngô Đình Nhu diễn giải tóm lược trong phương trình:

"Tam Túc + Tam Giác = Tam Nhân:

A. Tam Túc là

1- Tự Túc Về Tư Tưởng là tự mình suy luận cân nhắc mà lựa chọn một chính nghĩa để phụng

sự và một khi đã chọn rồi thì không còn lay chuyển nữa. Chính nghĩa đó là cuộc cách mạnh chính trị,

xã hội, quân sự mà ta đang cụ thể hóa trong các Ấp Chiến Lược. Sau đó ta tự phát huy chính nghĩa

trong tâm hồn, tự học tập và tự bồi dưỡng tinh thần của ta, không cần ai thôi thúc.

Tự túc về tinh thần về tư tưởng, thì tất nhiên trong mọi trường hợp khó khăn, ta vẫn vững tâm,

hoặc dù có nội loạn ở thủ đô Sài Gòn chăng nữa, thì ta vẫn không bị hoang mang hay bị lung lạc. Tự

túc về tư tưởng để phát huy và bành trướng chủ nghĩa. Muốn được như vậy thì phài:

2- Tự Túc Về Tổ Chức Và Tiếp Liệu, là tự ta tìm tòi, phát huy sáng kiến để có nhiều nhân vật

lực để hoạt động, không ỷ lại vào sự giúp đỡ của người khác. Chính phủ chỉ cần giúp ta một số vốn căn

bản, dựa vào đó ta tìm cách biến cải thêm để hành động và mở rộng phạm vi hoạt động. Chẳng hạn

hiện giờ ta thiếu kẽm gai để làm ấp chiến lược, thì ta cố gắng tìm vật liệu khả dĩ làm tê liệt cơ thể bất

cứ ai động đến (như đồng bào Thượng đã làm trên Cao nguyên); hoặc dùng địa danh địa vật để lồng

hệ thống bố phòng ấp chiến lược vào trong đó, đỡ cần đào hào hay rào kẽm gai. Muốn thực hiện tự túc

về tổ chức, thì cần phải

3- Tự Túc Về Kỹ Thuật là phát huy khả năng chiến đấu, và khai thác, phát triển khả năng của

nhân vật lực sẵn có đến tột mức 100%. Ba bộ phận của tam túc có liên hệ mật thiết với nhau; muốn

tự túc về tổ chức mà không tự túc về kỹ thuật, thì tổ chức không thành; thiếu tự túc tư tưởng thì tất

nhiên sẽ không có tự túc tổ chức và tự túc kỹ thuật. Từ quan niệm tam túc sinh ra quan niệm tam giác.

B.Tam Giác là:

1. Cảnh Giác Về Sức Khỏe (thể xác), nghĩa là không được đau ốm. Do đó ta phải tránh tất cả

những việc làm phương hại đến thân xác ta như đau ốm, tứ đổ tường. Bảo đảm sức khỏe thì mới bảo

đảm được khả năng làm tròn nhiệm vụ.

2. Cảnh Giác Về Đạo Đức Và Tác Phong Đạo Đức, vì tác phong đạo đức là cốt yếu của cán

bộ, thiếu tác phong đạo đức sẽ chi phối tu tưởng, sẽ biến khả năng làm việc thiện ra việc ác, chưa kể

việc thất nhân tâm.

3. Cảnh Giác Về Trí Tuệ là phát huy óc sáng tạo, sáng tác khả năng chiến đấu của nhân vật

lực sẵn có đến tột độ.

Vậy, không có sức khỏe, đau ốm sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến óc sáng tạo và thu hẹp phạm vi

hoạt động của đạo đức. Không có óc sáng tạo thì dù có sức khỏe, có đạo đức, cũng không có khả

năng bồi bổ vào sự thiếu thốn nhân vật lực, là tình trạng của một nước chậm tiến. Có sức khỏe, có óc

sáng tạo, nhưng không có đạo đức thì sức khỏe ấy, óc sang tạo ấy, sẽ phục vụ cho phi nghĩa, không

phải cho chính nghĩa..." [43]

3/. Ông để rất nhiều thì giờ đích thân soạn những bài thuyết trình có tính lý luận cao dành cho các cấp

lãnh đạo chính phủ và cán bộ cao cấp, chỉ cho họ cách thức đưa những tư tưởng cao vào đầu óc

thường dân qua những hình ảnh và ngôn ngữ bình dân dễ hiểu.

28 | T r a n g

Mục đích của ông là tiến dần tới một xã hội có tổ chức cao, có đầy đủ các phương tiện truyền

thông, giao tế, kinh tế, văn hóa cao trong đó mỗi con người, "mỗi nhân vị", đều được quan tâm đồng

đều, chứ không biến con người thanh những "cái đinh, con ốc" trong một guồng máy xã hội theo kiểu

cộng sản.

Ông tin tưởng rằng phương pháp đó về lâu về dài sẽ làm cho CS phải đầu hàng. Chứ không

phải chỉ dựa vào những hàng rào giây kẽm gai. Dĩ nhiên ban đầu thì việc rào ấp là cần thiết để giữ cho

Ấp Chiến Lươc được an tòan trước sự phá hoại và tấn công của du kích CS. Quốc sách Ấp Chiến

Lược mà thành công thì cộng sản sẽ thành cá bị tát ra khỏi ao, nằm trên đất.

4/. Về Ấp Chiến Lược chức Chủ Tịch ủy Ban Liên Bộ, theo ông Cao Xuân Vĩ, thì có chức này. Nhưng

cũng chỉ là một thông tư của phủ Tổng Thống gửi đến các bộ, để việc ông chủ toạ các phiên họp Ủy

Ban Liên Bộ được danh chính ngôn thuận.

Theo tác giả Nguyễn Đức Cung, người ta đọc thấy ông Nguyễn Bá Cẩn trình bày quan điểm về

một vấn đề rất trọng yếu mà ông mệnh danh là Thế Cá Nước và Chiến Tranh Du Kích. Theo ông, ai

cũng biết người dân miền Nam hiền hòa và chỉ muốn an phận sinh sống với mảnh ruộng, luống rau,

khu vườn, ao cá của mình. Cho nên, chỉ cần tiêu diệt cán bộ cơ sở Cộng Sản thì người dân sẽ không

còn bị khủng bố, không bị bắt buộc tham gia bất cứ điều gì kể cả hoạt động tiêu cực nhất là góp tiền.

Vấn đề chỉ là tìm cá bắt ra khỏi nước.

Nhưng thực ra ông Nguyễn Bá Cẩn đã không nhận thức được giá trị của ấp chiến lược, khi tập

trung dân vào trong ấp, thỉ tất cả những người ở ngoài ấp chính là những người hoạt động bảo vệ chủ

nghĩa Cộng Sản và sinh sống với Cộng Sản. Chúnh vỉ nhiều người miền nam chưa nhận thức được

hết những kinh nghiệm về hiểm họa Cộng Sản trong chủ trương "tam cùng" và những điều giải thích về

tam túc và tam giác nói trên trong tình thế đấu tranh với Cộng Sản. Chủ trương ấp chiến lược đã từng

được áp dụng thành công ở Mã Lai trong việc tách lìa Cộng quân khỏi trà trộn vào trong dân để tốn tại

bằng lương thực và khủng bố để được cưỡng bách che chở

Nhưng chính ông mắc mưu tuyên truyền của Cộng Sản, dùng ngôn ngữ của chúng mà cho

rằng "đệ nhất Cộng hòa lại làm ngược lại, tức là lùa dân vào Khu trù mật. Và khi Khu trù mật thất bại,

thì lùa dân vào Ấp chiến lược. Ðệ nhị Cộng hòa cũng lùa dân vào Ấp Ðời Mới hay Ấp Tân Sinh, đại

khái là một biến thể của Ấp chiến lược cũ. Thay vì bắt cá ra khỏi nước, ít tốn kém và không gây thiệt

hại cho dân, hai nền Cộng hòa lại làm công việc tát nước. Mà nước là dân. Tát nước tức là di chuyển

hàng trăm ngàn nhân dân vào khu trù mật và ấp chiến lược, quá ư tốn kém, quá ư phiền hà, gây vô số

thiệt hại cùng xáo trộn đời sống người dân.[44]"

5/. Thật ra, việc tập trung dân lập ấp là một kinh nghiệm lịch sử quý báu của tiền nhân trong lịch sử

Việt Nam, lúc có chiến tranh.

Tác giả Nguyễn Đức Cung dẫn chứng kinh nghiệm quản lý người dân tộc thiểu số ở vùng

Quảng Ngãi. Theo ông, năm 1863, Nguyễn Tấn cũng đã áp dụng kế sách đó góp phần chận đứng các

cuộc tấn công của người Thượng vùng Ðá Vách, Quảng Ngãi.

Ðại Nam Thực Lục [45] có ghi lại như sau: Mới đặt chức Tiểu phủ sứ ở cơ Tĩnh man tỉnh

Quảng Ngãi. Phàm các việc quan hệ đến sự phòng giữ dẹp giặc, thăng cử, chọn thải, lấy lương, gọi

lính sát hạch, thì cùng bàn với chánh phó lãnh binh chuyên coi một nha mà tâu hoặc tư.

Lấy người hạt ấy là Nguyễn Tấn lãnh chức ấy. Tấn trước đây thự án sát Thái Nguyên, khi ấy

quân thứ Thái Nguyên dần yên, nghe tin bọn ác man hung hăng, dâng sớ xin về bàn bạc để làm, trong

1, 2 năm có thể xong. Vua thấy giặc Man có phần cần cấp hơn, bèn y cho. Ðến đây, chuẩn cho thăng

hàm thi độc sung lãnh chức ấy, cấp cho ấn quan phòng bằng ngà.

Tấn dâng bày phương lược: (nói: việc đánh giặc vỗ dân cần làm những việc khẩn cấp trước.

Về 3 huyện mạn thượng du, phàm những dân ở linh tinh, tiếp gần với địa phận núi thì, tham chước

29 | T r a n g

theo lệ của Lạng Sơn đoàn kết các dân ở cõi ven một hay hai khu, đều đào hào đắp lũy, cổng ngõ cho

bền vững. Nếu có lấn vào ruộng đất của ai thì trừ thuế cho.

Còn 1, 2 nhà nghèo, ở riêng một nơi hẻo lánh, thì khuyên người giàu quyên cấp cho dỡ nhà dời

về trong khu; còn đất ở thì không cứ là đất công hay đất tư đều cho làm nhà để .Các viên phủ huyện

phụ làm việc ấy, liệu nơi nào hơi đông người thì bắt đầu làm ngay, nơi nào điêu háo, thì phái quân đến

phòng giữ ngăn chận, dần dần tiếp tục làm, để thư sức dân.

Theo người viết, việc so sánh kinh nghiệm ứng xử với người dân tộc thiểu số ở miền Đông Bắc

Việt Nam thế kỷ XIX, rồi được vận dụng tại vùng Quảng Ngãi với nhóm dân tộc Đá Vách và việc khai

lập làng ấp như ấp chiến lược và khu trù mật có phần khác biệt. Người dân tộc thiểu số bị phân biệt

đối xử so với người dân tộc đa số, nên nguyên nhân chính của những cuộc giấy loạn cướp bóc của

người dân tộc thiểu số Đá Vách là giành quyền được đối xử như người đa số.

Từ Trại Định Cư Đến Ấp Chiến Lược, hay Khu Trù Mật, Dinh Điền

Cách đây chung quanh năm 1960, chế độ Cộng Hòa đã được khai sinh cùng với các quốc

sách được ban hành chính thức, chủ yếu là ấp chiến lược hay khu trù mật hay dinh điền tùy theo địa

phương và thời gian.

Nguồn gốc đầu tiên phát sinh từ việc thành lập Phủ Tổng Ủy Di Cư theo nghị định số 928-NV

do Thủ Tướng Ngô Đình Diệm ngày 17/9/1954. Phủ này có tầm quan trọng như một Bộ trong Chính

Phủ và ông Ngô Ngọc Đối làm Tổng Úy Trưởng.. Trước ông Nguyễn Ngọc Đối (21/8/1954- 4/12/1954),

còn có ông Nguyễn Văn Thoại (từ 10/8/1954 - 21/8/1954), và sau đó là Bs Phạm Văn Huyến (từ

4/12/1954 -17/5/1954), ông Bùi Văn Lương (từ 17.5.1955 về sau) làm Tổng ủy Trưởng[46].

Thực sự tổng số di dân được phân bố theo tôn giáo như sau: Tin Lành (1.041 người); Phật

giáo: (182.817 người); Công giáo: (676.348 người), và khoảng (40.000) người Hoa cũng di cư vào

Nam[47] (= 900.206 người). Vì số di dân Công Giáo chiếm tỷ lệ nhiều đến 70% tổng số di dân từ miền

Bắc xuống miền Nam, một Ủy Ban Hỗ Trợ Định Cư được rổ chức bên cạnh Phủ Tổng Ủy Di Cư. Giám

Mục Phạm Ngọc Chi được bổ nhiệm điều hành.

Tổng số di dân từ miền Bắc có thể vào miền Nam là 875.478 người[48]. Họ được chuyển đến

Sài Gòn, Vũng Tàu hay Nha Trang và nhiều nơi khác tùy ý họ lựa chọn theo cá nhân hay theo các

đoàn thể do các linh mục di cư hướng dẫn[49]. Chủ yếu nhiều trại định cư về sau được tổ chức bố trí

thành các ấp chiến lược hay khu trù mật hay dinh điền.

Linh mục Cao Văn Luận chú ý đến ý đồ chiến lược của Thủ Tướng Ngô Đình Diệm lúc đó:

Ông (Ngô Đình Diệm) chú ý đặc biệt đến giá trị chiến lược và kinh tế của vùng cao nguyên và

đặt kế hoạch đinh cư đồng bào di cư Nghệ Tĩnh Bình tại các vùng Ban Mê Thuột, Tuyên Đức, Đà Lạt,

số người di cư được định cư khá sớm tại các trại như Hà Lan A, Hà Lan B, Đức Lập, Bình Giả, Phan

Thiết, Tân Bình (Khánh Hòa), Cam Ranh... Tôi (LM Cao Văn Luận) có nghĩ đến cách hòa đồng dân di

cư vào dân địa phương, nhưng không có dịp nói ra, và tôi cũng nhận thấy sự khó khăn quá lớn trong

việc đó (t. 200) [50].

Theo ông Trần Vinh, tới ngày 21 tháng 8, mỗi ban ngành đều có đại diện của Phủ Tổng Ủy Di

Cư. Phủ Tổng ủy với 3 nhiệm vụ rõ rệt: - Cứu trợ và di chuyển. - Kiểm soát và tiếp cư. - Giúp đỡ định

cư.

Về phía tư nhân, ngay từ những ngày đầu, có nhiều đoàn thể cách mạng, hội đoàn Công giáo,

Dòng Chúa Cứu Thế, Đại Chủng viện, v.v., lo tổ chức việc tiếp cư tại phi trường Tân Sơn Nhất và bến

tầu Sài Gòn.

Mãi đến tháng 8 năm 1954, Giáo hội Công giáo thành lập Ủy Ban Hộ Trợ Định Cư do giám

mục Phạm Ngọc Chi phụ trách. Văn phòng HTDC đặt cạnh nhà thờ Huyện Sĩ, Sài Gòn. Ủy ban cử các

linh mục tới mỗi trại tạm cư và trại định cư làm đại diện.

30 | T r a n g

Ủy ban giúp Phủ Tổng Ủy duy trì trật tự, an ninh; cấp phát, phân phối tiền bạc, thuốc men, vải

vóc; phụ trách các hoạt động văn hóa, tinh thần. Ủy ban cũng vận động các tổ chức từ thiện quốc tế

ủng hộ tinh thần, vật chất cho đồng bào di cư. Ủy ban còn bênh vực, tố cáo trước dư luận thế giới về

những vụ việc Cộng Sản ngăn cản, bách hại những người muốn di cư đi tìm tự do.

Ngoài 2 tổ chức kể trên, còn có các tổ chức khác cũng tích cực tham gia giúp đỡ như: Văn

Phòng Viện Trợ Công Giáo Hoa Kì do Mgr. Joseph Harnett[51] phụ trách; Văn Phòng Thanh

Thương Hội Phi Luật Tân; Rotary Club; Hội Cứu Trợ Pháp; Báo Figaro quyên giúp 35,000,000

quan Pháp (1955).[52]

Tổ Chức Ấp Chiến Lược

Thời gian từ đó đến nay đủ những nhiều đàm tiếu và nhận định khác nhau để có thể phê phán

được các vấn đề của lịch sử. Theo Tiến sĩ Lâm Thanh Liêm, nguyên giáo sư kiêm trưởng ban Ðịa lý

trường Ðại Học Văn khoa Sài gòn, giảng dậy tại các viện đại học Sài Gòn, Vạn Hạnh, Ðà Lạt, Huế,

Cần Thơ, Minh Ðức trước năm 1975, "Chính Sách Cải Cách Ruộng Đất Việt Nam (1954-1994)[53],.",

đã tổng hợp rõ về cơ cấu tổ chức và lợi thế của kế sách Khu trù mật[54] như sau:

Khu Trù Mật là một cộng đồng nông nghiệp được chính quyền thành lập và tập trung thôn dân

vào đấy sinh sống ở những địa phương nào chưa an toàn. Các thôn dân sinh sống trong những vùng

hẻo lánh, xa cách các giao lộ, khó kiểm soát. Trước mưu toan Miền Bắc dùng chiến tranh xâm lược

Miền Nam , Tổng Thống Diệm quyết định tập trung thôn dân sinh sống rải rác vào Khu Trù Mật, để tiện

tổ chứcxây dựng và nâng cao, phát triển đời sống của họ, đồng thời bảo vệ họ, cô lập họ với Việt

Cộng, giống như bắt cá khỏi nước mà du kích Cộng Sản vẫn thường bám vào dân để sinh sống Thiếu

dân và các nguồn lợi, quân dân cán chính có thể nhận diện được du kích mà loại trừ.

Mỗi KTM có khoảng 3.000 đến 3.500 dân, có hạ tầng cơ sở và các tiện ích giống như một

thành phố.

Vì thế các KTM dọc theo biên giới hoặc xung quanh một thành phố lớn, để tạo một vành đai an

ninh. Ðồng thời Khu Trù Mật cũng là đơn vị kinh tế, thị trường tiêu thụ các nông sản và các chế phẩm

tiểu thủ công nghiệp. Chính phủ cấp phát cho mỗi gia đình định cư một mảnh đất 3.000m2, để xây cất

một ngôi nhà (với vật liệu do chính quyền địa phương cung cấp), một chuồng heo và một chuồng gà.

Mỗi gia đình có một mảnh vườn cây ăn trái hoặc một mảnh vườn rau để tự túc mưu sinh.

Về quân sự, bố phòng, KTM là những địa điẻm chiến lược để bảo vệ dân chúng chống lại

chiến tranh du kích xâm lược của Cộng Sản Bắc Việt. Ngoài việcquàn lý dân chúng, chính quyền địa

phương còn được trang bị vũ khí cần thiết, để nếu cần, có thể biến KTM thành một tiền đồn, ngăn

chặn đoàn quân Bắc Việt xâm nhập vào Nam.

Về kỹ thuật, KTM có vị trí được được chọn lựa kỹ lưỡng, có đủ các điều kiện phát triển thuận

lợi, như đất đai phì nhiêu, gần các giao lộ và điện khí hóa.

Về hành chánh va xã hội, KTM có một chi nhánh bưu điện), cơ sở xã hội, như một bảo sanh

viện, một nhà trẻ) và văn hóa như các trường tiểu học và trung học cấp I, một phòng thông tin, nhà

thờ và chùa chiền.

Chính quyền có thể cải thiện điều kiện sinh sống của thôn dân: việc tập trung dân cư cho phép

chính phủ thực hiện nhiều công trình phục vụ nhân dân, ít đòi hỏi nhiều tư bản đầu tư hơn hình thức

cư trú lẻ tẻ, rải rác (chẳng hạn như công tác thủy nông, điện khí hóa, xây cất trường học, nhà bảo sanh

v.v...)

Về kinh tế, KTM có các tiện ích thương nghiệp và dịch vụ (có chợ xây bằng gạch với các

tiệm buôn bán); công nghiệp có các tiểu thủ công nghệ liên hệ với nền nông nghiệp địa phương;

nông nghiệp, với diện tích đất trồng có thể mở rộng nhờ khẩn hoang thêm đất đai giúp các thế hệ trẻ

tương lai tiền lên thành điền chủ:

31 | T r a n g

Có Bao Nhiêu Ấp Chiến Lược Trên Lãnh Thổ VNCH

Ngoài các làng xã thôn ấp chiến lược địa phương, tổng số các địa điềm định cư có thể biến

thành khu trù mật, hay ấp chiến lược, dinh diền hình dung như sau:

"Tính đến ngày 30 tháng 10 năm 1955 đã thành lập được 255 trại định cư (sau này còn thành

lập thêm): 156 trại tại Nam phần, 65 trại tại Trung phần và 34 trại trên cao nguyên. Tổng số dân đi định

cư là 596.031 người; số đồng bào di cư sống rải rắc các nơi là 140.039 người; gia đình binh sĩ là

125.393 người (những con số này có sai biệt chút ít giữa các bản thống kê, một phần cũng do số sinh

tử mỗi ngày).

Ngân khoản dành cho chương trình di cư là 1.058.000.000$. Trong số đó 480 triệu dành để làm

nhà sẵn cho đồng bào và 300 triệu cấp cho nơi nào đồng bào tự làm nhà lấy. Tại các trại có đợt phát

tiền mặt cho mỗi đầu người 700$. Ngoài ra đồng bào còn được 124.813 dụng cụ canh nông; 681.585

kiện vải; 393.994 kg chỉ và 3.471 kg chì để làm chài lưới"[55]

Robert Scigliano (Robert Scigliano: Vietnam: Politics and Religion. Asian Survey, Vol. 4, No.

1, A Survey of Asia in 1963: Part I (Jan., 1964), pp. 666-673. This article consists of 8 page(s)), giáo sư

tại trường Ðại Học Michigan, cho biết Cộng Sản Hà Nội chống lại chính sách khu trù mật. Thể chế này

có tác dụng hữu hiệu là ngăn chận Cộng Sản xâm nhập vào nông thôn, vì được xây dựng ở các vùng

chiến lược, như dọc theo một trục đường chính, một giao lộ trên bộ hay trên sông rạch gây trở ngại rất

nhiều cho việc di chuyển của Cộng Sản.

Tác Giả Nguyễn Văn Châu, cựu Trung Tá, nguyên Giám đốc Nha Chiến Tranh Tâm lý, Bộ

Quốc Phòng Trong cuốn "Ngô Ðình Diệm En 1963: Une Autre Paix Manquée" (Bản dịch Nguyễn Vy

Khanh từ nguyên tác Pháp văn, Luận Án Sử Học, Trường Đại Học Paris VII, 1982. Bản tiếng Việt do

nxb Xuân Thu, Nam Cali, 1989) cho rằng Khu Trù Mật do chính quyền sáng kiến bị chỉ trích vì chỉ

nhắm vào những chuyện tiêu cực về nhân sự, Những dư luận chống lại quốc sách ấp chiến lược còn

đi xa hơn nữa cho rằng chính quyền ép buộc dân bỏ làng mạc nhà cửa.

Ngày nay đọc Suzanne Labin, người ta rút ra được bài học lịch sử về chính sách ấp chiến

lược. Bà là một nhà văn kiêm phân tích gia đã nhiều lần tới thăm Miền Nam Việt Nam dưới thời Việt

Nam Cộng Hòa I. Bà từng được Tổng Thống Ngô Ðình Diệm tiếp kiến, và đã thuyết trình về chính trị tại

Sài gòn. Trong cuốn "Vietnam: An Eye-Witness Account - Việt Nam: Tường Thuật Của Một Nhân

Chứng Thấy Tận Mắt" [56], Suzanne Labin đã viết:

"Khi nhà Ngô bị lật đổ, có tám ngàn ấp chiến lược đã được thành lập xong và đang vận

hành, với dự trù khoảng bốn ngàn ấp nữa cần thiết để bảo vệ cả nước. Nông dân sống rải rác dọc

theo các con kênh, được yêu cầu dời chuyển để qui tụ lại thành nhiều làng, tập trung theo kiểu Âu

châu. Mỗi làng được rào vững chắc bằng hàng rào kẽm gai hoặc hàng rào tre vót nhọn đàng sau có

tăng cường hệ thống hào rộng, gài mìn để chận đứng Việt Cộng mò vào ban đêm. Trong ấp, mỗi gia

đình đều được khuyến khích đào một hầm trú ấn ngay trước nhà họ.

Tại sao vậy? Khi Việt Cộng tấn công, trước đây người dân thường quá sợ nên nên chạy tứ tung

gây trở ngại cho lực lượng bảo vệ nhiều khi bắn cả vào người nhà mình. Từ khi có hầm trú, người già

và trẻ con cứ việc núp dưới hầm để xạ trường quang đảng cho lực lượng chiến đấu hành sự"

"Người dân làng được đoàn ngũ hóa theo tuổi tác, giới tính, và tùy theo khả năng mà được giao

cho một phần vụ đặc biệt. Lực lượng tự vệ và thanh niên cộng hòa là những đơn vị chiến đấu; những

dân làng khỏe mạnh khác thì tham gia công tác phòng vệ, thanh thiếu niên thì vót chông. Người có

nhiệm vụ chiến đấu được cấp vũ khí cá nhân mang luôn bên mình ngay cả khi ở nhà. Nhiều làng được

trang bị thêm xe thiết giáp hoặc súng liên thanh. Máy truyền tin được cung cấp giúp cho các người bảo

vệ ấp chiến lược có thể gọi ngay lực lượng chính quy đến một khi bị tấn công. Nhiệm vụ chính của làng

là cầm chân kẻ thù, vô hiệu hóa chúng ngoài các vành đai của ấp, cố ngăn chúng không lủi mất vào

32 | T r a n g

rừng trong khi lực lượng chính quy kéo tới. Bấy giờ, Việt Cộng thấy quá khó khăn khi xâm nhập một

vùng dân cư có phòng thủ và ngay cả rút lui cũng thấy nhiều trở ngạị"

Bà còn nhắc lại câu nói cô đọng của Tổng Thống Ngô Ðình Diệm: Muốn nghiền nát quân thù

cần chiếc búa có sức mạnh năng động dập trên đe ấp chiến lược. Ấp chiến lược tồn tại vì đã đưa lại

nền tảng đa hiệu vững chắc cho tiến bộ kinh tế xã hội. Âp chiến lược chính là tâm điểm cuộc cách

mạng chính trị và xã hội

Chính sách ấp chiến lược được thực hiện từ năm 1961 là một kế hoạch táo bạo nhất của Tổng

Thống Ngô Ðình Diệm. Kế hoạch ấy được Sir Robert Thompson cố vấn. Ông là chuyên viên về chiến

thuật phản nổi dậy người Anh cùng với hai người bạn là Desmond Palmer và Dennis Duncanson

Nhận định tổng quát về kết quả của chính sách ấp chiến lược, tác giả Nguyễn Văn Châu đã

khẳng định trong luận án của ông:

Quốc sách Ấp chiến lược sau hai năm đã ngăn chặn thành công. Việt Cộng không còn sống

bám lén lút trong nhân dân.

Vấn đề an ninh làng ấp được vững vàng hơn, quân đội chính quy quốc gia trở thành lực lượng

hành quân chủ động.

Du kích cộng sản chịu nhiều thất bại đáng kể, khiến cho chúng phải rơi vào thế bị động và chao

đảo sau khi đã mất hạ tầng cơ sở.

Tinh thần quân đội quốc gia lên cao, dân chúng được bảo vệ tốt hơn và du kích Việt Cộng càng

ngày càng hồi chánh về đầu thú với chính quyền Việt Nam Cộng Hòa.

Trong một bài báo mới đây nhan đề "Bốn Mươi Năm Ngày Đảo Chính Chế Độ Ngô Ðình

Ðiệm: Cái Nhìn Từ Hà Nội, Tạp chí Thông Luận số 174, tháng 10-2003.", Bùi Tín, nguyên Phó chủ

nhiệm Nhật báo Nhân Dân Chủ Nhật, cựu đại tá của Bộ Đội Bắc Việt đã phải xác nhận ưu thế của

quốc sách ấp chiến lược đã gây cho lực lượng xâm lăng Cộng Sản nhiều khó khăn và thất bại trước

đây, đã thẳng thắn bày tỏ rằng : Cùng với thời gian và sự tìm hiểu những tư liệu lịch sử, tôi thấy cần

phải trả lại lẽ công bằng cho nhân vật lịch sử này... Tôi cho rằng ông Diệm là một nhân vật chính trị đặc

sắc, có lòng yêu nước sâu sắc, có tính cương trực thanh liêm, nếp sống đạm bạc giản dị.

Bởi thế, những nhận xét của tác giả Nguyễn Bá Cẩn về khu trù mật, rồi ấp chiến lược như đã

trích dẫn ở trên có phải là những quan điểm nông nổi chăng, hay là do một tư duy thiên kiến nào đó

thúc đẩy ông viết nên những câu đáng lẽ cần được cân nhắc hơn, từ một người làm chính trị ở vào

một trong những vị thế lãnh đạo Miền Nam trước đâỵ. Thực tế chính trị Miền Nam Việt Nam cho thấy

sự lợi hại của quốc sách Khu trù mật qua sự chứng kiến không chỉ của dân Miền Nam mà cả rất nhiều

giới ngoại quốc.

Trong cuốn "Nation That Refused to Starve: The Challenge of the New Vietnam [57],

Tướng John W. O'Daniel[58], chỉ huy phái bộ Quân sự Mỹ đầu tiên, đã ca tụng chính sách tiếp cư chu

đáo của Ông Ngô Ðình Diệm, thành công của các khu trù mật mà tiêu biểu là Cái Sắn, chương trình

dinh điền ở Quảng Ðức, Ban Mê Thuột...

Chương trình cải cách điền địa thực hiện dưới thời Việt Nam Cộng Hòa I cho người nông dân

cuộc sống bảo đảm tương lai với các con số sau đây:

Từ tháng 7 năm 1954 tới tháng 7 năm 1961 có tất cả 648.294 mẫu tây được phân phối lại cho

nông dân, 301.923 mẫu tây đất nhà nước mua lại để phát cho nông dân. Một tổng cộng 950.217 mẫu

tây mà chính quyền trưng mua lại của các đại điền chủ với giá 1.260.559.427 đồng. Trong khi đó các

nông dân chủ điền mới chỉ phải trả 1.822.116 đồng vào năm 1961.

Nhiều tư liệu lịch sử khác xác nhận thành quả quốc sách ấp chiến lược, khu trù mật, dinh điền,

và chương trình cải cách điền địa nói trên. Tóm lại, Ấp chiến lược là một "quốc sách" của chính quyền

33 | T r a n g

Việt Nam Cộng hòa I sử dụng trong Chiến tranh Việt Nam từ năm 1960 do chính quyền Ngô Đình Diệm

đề xuất, đối phó hữu hiệu với Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam.[59]

Quan điểm của Việt Nam Cộng hòa I về Ấp chiến lược là nhằm mục đích tách rời du kích Cộng

Sản Việt Nam dưới chiêu bài Mặt trận Dân tộc Giải Phóng Việt Nam ra khỏi dân thường ở nông thôn.

Dân chúng không phải sống trong vùng oanh kích tự do, hay "vùng xôi đậu", loại trừ đối phương có cơ

sở hoạt động "tam cùng" (cùng ăn, cùng ở cùng làm) trong dân chúng, dần dần cô lập hoàn toàn lực

lượng du kích khỏi nông thôn.

Nhưng để chống lại chính sách đó, Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam tuyên

truyền đây là hình thức gom dân, nhốt dân, kìm kẹp dân hòng "tát nước bắt cá". Kế hoạch ấp chiến

lược khi được thực hiện tốt sẽ cô lập lực lượng vũ trang cộng sản không thể dựa vào dân, và dần dần

Việt cộng bị tiêu diệt.

Ấp chiến lược tổ chức theo hình thức "tự quản, tự phòng và tự phát triển". Quản lý ấp là một

Ban Trị Sự, phòng thủ bảo vệ ấp là lực lượng Phòng Vệ Dân Sự, phối hợp với các đơn vị Thanh

Niên, Thanh Nữ Cộng Hòa của ấp đó phụ trách.

Khi ấy, tất cả các ấp đều được bảo vệ bởi các rào cản kiên cố, mỗi ấp đều có một hoặc nhiều

chòi canh tầm nhìn xa, các cổng ra vào được canh gác cẩn mật. Ban ngày, người dân được tự do ra

vào để làm ăn, tuy nhiên người lạ muốn vào ấp phải qua sự kiểm soát vô cùng chặt chẽ. Ban đêm, các

cổng ra vào được đóng kín lại, nhưng các trường hợp cấp thiết của dân ở bên trong vẫn được giải

quyết. Mọi trường hợp xâm nhập lén lút, bất hợp pháp từ bên ngoài vào đều bị phát hiện vì trong ấp có

hệ thống báo động.

Ban đầu, Quốc sách Ấp chiến lược thực hiện hiệu quả, hoạt động của quân du kích cộng sản bị

ngưng trệ. Tuy nhiên, trong khi thi hành thì nhiều viên chức lấy ngân sách Ấp chiến lược rồi bắt dân

phải gánh chịu khoản này như phải nộp tiền, công sức và tre để làm hàng rào cho ấp. Vì thế, dân cảm

thấy bị gom vào một chỗ sẽ làm xáo trộn một phần nào nếp sống cổ truyền nông thôn của họ. Vì thế,

phía Cộng sản đã phát động phong trào "phá ấp chiến lược".

Thử Đi Đến Một Kết Luận

Người ta có thể có nhiều nhận định phán đoán khác nhau về con người Ngô Đinh Nhu hoạt

động trong hoàn cảnh một chế độ đã diễn ra. Đã có những phán đoán phê phán về những khuyết điểm

của chế độ Ngô Đình Diệm như độc tài, gia đình trị, công giáo trị. Trong chừng mực nào, người ta có

thể chấp nhận những phê phán như thế, nếu chỉ xét một cách chủ quan, tương đối, có thiên kiến phần

nào.

Nhưng xét trong bối cảnh toàn cuộc, chế độ Ngô Đình Diệm đã phải ứng phó với nhiều đoàn

thế đối lập như nỗ lực xâm nhập và phá hoại đa diện của Cộng sản miền Bắc, như nhiều đảng phài có

những quyền lợi khác nhau có căn bản ở nhiều thế lực chính trị và tôn giáo: xu hướng Cao Đài, Bình

Xuyên, nhiều giáo phái Phật Giáo (Phật Giáo Hòa Hảo, Phật Giáo Thống Nhất, Phật Giáo Nguyên

Thủy Cổ Sơn Môn, Phật Giáo Tiểu Thừa, Phật Giáo Đại Thừa,... ), Đại Việt, Việt Nam Quốc Dân

Đảng, Bảo Hoàng thân Pháp, phong trào đòi độc lập tự trị của nhiều nhóm dân tộc thiểu số,...

Trước thực tại xã hội đó, việc xây dựng một xã hội tự do dân chủ và tôn trọng nhân vị vừa đối

kháng với Cộng Sản chuyên chính, vừa nỗ lực đoàn kết toàn dân có lập trường chính trị và tôn giáo

khác nhau, không phải là một chính sách đơn giản, dễ dàng. Nhưng Ngô Đình Nhu và những người

cùng chủ trương đã xây dựng một chính cương (chủ nghĩa nhân vị) chỉ đạo các chính sách như dinh

điền, khu trù mật, ấp chiến lược để vừa xây dựng vừa chiến đấu. Trong tình thế đó, chắc chắn quyền

tự do, dân chủ và nhân quyền chỉ được áp dụng đến một chừng mực nhất định trong một xã hội theo

cái nhìn của chủ nghĩa nhân vị và các tổ chức xã hội, nhầt là thanh niên làm công cụ thực hiện các

chính sách. Đoàn kết toàn thể quân dân cán chính để xây dựng xã hội.

34 | T r a n g

Nhưng nhận thức của toàn dân không triệt để, nhiều chính trị gia và tướng lãnh đồng lõa với

những mưu đồ cá nhân và bị nước ngoài mua chuộc, lực lượng đồng minh Hoa Kỳ không kiên trì và

trung thành trong cuộc xây dựng và chiến đấu, trong khi Cộng Sản xúc tiến phối hợp các mưu đồ đánh

phá chế độ xã hội miền Nam, ra sức khai thác và phóng đại những khuyết nhược điểm khó tránh khỏi

của chế độ. Những yếu tố đó đã đưa chế độ Ngô Đình Diệm chủ yếu do tập thể Ngô Đình Nhu kiến

trúc nên đã bị thất bại trong chính biến có nội công ngoại kích tháng 11 năm 1963.

Đối chiều với thực tại chính trị Việt Nam hiện nay, người ta càng thấy rõ mưu lược của nhà

kiến trúc xã hội như Ngô Đình Nhu vậy.

Một Số Sự Kiện Với Năm Tháng Có Ý Nghĩa:

TT Thời gian Sự Kiện Nhân Vật

06.1954,

Cannes

Quốc trưởng Bảo Đại ủy nhiệm cho ông Ngô Đình Diệm lập

nội các mới.

25.06.1954,

Sàigòn

Ông Ngô Đình Diệm về Việt Nam

21.07.1954, hay

20/07/1954

Genẻve

14 Nước Ký Kết Hiệp Định

06.08.1954-

23.8.1963 Hoa

Kỳ

Ông Trần Văn Chương, đại sứ t ại Hoa Thịnh Đốn

07.09.1954 Sài

Gòn

Pháp trao trả Dinh Norodom, Chính Phủ Ngô Đình Diệm đổi

tên thành Dinh Độc lập

20.09.1954 Việt

Nam

Lê Văn Viễn (tức Bảy Viễn) trở về

23/10/55VN N ĐD tổ chức trưng cầu dân ý. Ông NĐDiệm đạt 98.2% số

phiếu, làm Tổng Thống, Bảo Đại bị truất phế

Các tướng lãnh Nguyễn Văn Hinh, Nguyễn Văn Vỹ, Trần Văn

Đôn ban đầu thời Thủ Tướng Ngô Đình Diệm

Nhóm nòng cốt chuẩn bị cho Thủ Tướng Ngô Đình Diệm:

Hoàng Bá Vinh, Cao Xuân Cẩm, Cao Xuân Mỹ, Đỗ La Lam,

Hà Đức Minh, Trần Kim Tuyến, Phạm Văn Nhu, Nguyễn Vỹ,

...Nhị Lang, Hồ Hán Sơn, Nguyễn Bảo Toàn, Nguyễn Thành

Phương, Văn Ngọc, Hà Huy Diễm, Nguyễn Phổ, Hoàng Cơ

Thụy, Nguyễn Hữu Khai, Huỳnh Minh Ý, Đoàn Trung Còn,

Nguyễn Văn Quyền, (Nguyễn Trãi) Nguyễn Mạnh Cường,

Nguyễn Trọng Ứng, Khuất Duy Trác, Cung Thúc Tiến, Trần

Chánh Thành (tự sát dịp 30/4/1975 tại nhà ở Sàigòn), Trình

Minh Thế (chết 03.05 1955), Lý Kai (chết 14.07.1956),

Nguyễn Hữu Châu, Lương Danh Môn, Võ Văn Hải

31.02.56 Ngô Đình Luyện, bạn học với Tạ Quang Bửu, cố vấn, đại sứ

lưu động, toàn quyền tại London

Nguyễn Thị Nghĩa, em ruột Nguyễn Đệ, Couvent des

Oiseaux

35 | T r a n g

Trần Văn Đỗ, Ngoại Trưởng

1956 Ngô Đình Nhu, cố vấn

1/59 Luật gia đình: 135 điều, cấm ly dị, cấm đa thê, truất quyền

của con ngoại hôn, Trần Lệ Xuân dự thảo và trình Quốc Hội

Việt Nam Cộng Hòa ngày 13.12.1957

Đoàn Thêm, Đổng Lý Văn Phòng

Trần Quốc Bửu, Chủ Tịch Tổng Liên Đoàn Lao Công Việt

Nam

11.11.60 Mưu toan lật đổ chế độ lần 1: Đảo chính: Phan Quang Đán,

Hoàng Cơ Thụy, Vũ Hồng Khanh, Nguyễn Tường Tam,

Nguyễn Thành Phương, Bùi Lượng, Phan Bá Cầm, Vương

Văn Đông, Nguyễn Chánh Thi, ...

1960-63 Phong Trào Áo dài Bà Nhu.

27.02.1962 Chính biến l ần 2: Oanh tạc Dinh Độc Lập: Phạm Phú Quốc -

Nguyễn Văn Cử- Nguyễn Xuân Vinh.

01.03.63 (6.2) Tượng Hai Bà Trưng.

05/05/63

Huế

Lễ Mừng TGM Ngô Đình Thục. Cờ VN va cờ Vatican.

08/05/63

Huế

Đại Lễ Phật Đản 2507treo cờ VN nhưng không được treo cờ

Phật Giáo ngoài khuôn viên các Chùa. Biểu tình phản đối. 9

người chết có cả trẻ em, 20 người bị thương. Phật Giáo có

10,5. Công Giáo có 1,5. Quan hệ Mỹ Việt bắt đầu căng thẳng

09/05/63 Phật Giáo đòi 5 điểm:

1/. Hủy lệnh cấm treo cờ Phật

2/. Phật Giáo phải bình đẳng Công Giáo

3/. Không được đàn áp Phật Giáo

4/. PG được quyền thờ phượng theo tín ngưỡng của mình

5/. Chính quyền phải bồi thường những thiệt hại cho Phật

Giáo và trừng trị những người có trách nhiệm trong việc đàn

áp PG ngày 08/05/1963

12/05/63 Phái đoàn PG gồm 8 người từ Huế vào Sài Gòn kiến nghị

Tổng thống

28/05/63 T.T Thích Tịnh Khiết kêu gọi Phật Tử xuống đường.

Tại Huế, cả ngàn người xuống đường. Tại SG, nhiều tằng ni

Phật Tử xuống đường , tuyết thực 48 giờ trước Quốc Hội.

Đại sứ F. E. Nolting vắng mặt khỏi SG, ĐS W.C. Trueheart

giải quyết

2/6/63

Huế

Hằng trăm sinh viên biểu tình bạo động,Huế giới nghiêm

36 | T r a n g

4/6/63 Trueheart gặp Nguyễn Đình Thuần, BTPTT, nhưng bất đồng

7/6/63 Bà Trần Lệ Xuân ca ngợi tổ chức Phụ Nữ Liên Đới và cho

các nhà lãnh đạo PG bị CS giật giây

11/6/1963 HT Thích Quảng Đức, 73 t, tẩm xăng tự Thiêu ở ngã tư Lê

Văn Duyệt Phan Đình Phùng. Bà Nhu tuyên bố "Tất cả các

lãnh đạo PG đóng góp vào quốc gia là nướng một nhà sư"

16/6/63 Uy Ban CP va PG ký Thông Cáo Chung. Truyền thong Mỹ

chỉ trích chính quyền NĐD. TT Trí Quang (sinh 1922) thay

thể TT Thích Tịnh Khiết

25/6/1963 Trưởng CIA John Richardson không giải quyết được mâu

thuẫn CP và PG. Ông Nhu đòi làm mạnh và chống PG vì

không chống Cộng.

Những ngày

cuối tháng 6/63

Đại Sứ Trueheart đe dọa chính quyền NĐD, nên NDD trở

nên độc lập với áp lực Mỹ hơn. Vai trò Nolting được trọng

dụng. Nhưng Kennedy muốn thay thế

Tháng 7-8/1963 Áp lực gia tăng

11/7/63 Nolting trở lại Sàigòn thuyết phục NDD hòa giải với PG

18/7/63 Nolting cố thuyết phục NDD. NDD chịu lên Đài Phát Thanh.

Vụ tự thiêu thứ 2 xảy ra

19/2/63 TT lên Đài PT chỉ hai phút, chỉ hứa có UB diều tra về việc xảy

ra. Cảnh sát vẫn bao vây chùa

23.07.1963 Trần Thanh Chiêu, TGĐ dân vệ đoàn,

5/8/63

Phan Thiết

Nhà sư Nguyên Hương tự thiêu

13/5/63

Huế

1 nhà sư quấn cổ tự thiêu. Ni cô tự thiêu tại một nhà thờ Cg.

1 sư 71 t tự thiêu ở Chùa Từ Đàm

14/8/63 Nolting từ biệt NDD về Mỹ, Henry Cabot Logde đến thay thế

15/8/63 Nolting rời Sàigòn. NDNhu cảnh giác Mỹ có thể thay đổi

chính sách

20/8/63 NDNhu cho enh bao vay tấn công chùa tại Xá Lợi, tại Từ

Đàm: 30 chết, 200 bị thương, bắt giam 10xe chơ người

21.08.1963 Bố ráp Chùa. LL Đặc Biệt và Dã chiến tấn công 2000 chùa

trên toàn quốc, bắt 1400 tăng ni, 50-100 người chết. Mỹ lên

án NDD. ở Hoa Thịnh Đốn và Honolulu. Cả nước thiết quân

luật. Sinh viên bất tuân, xuống đường. Vũ Văn Mẫu từ chức

cùng với Đại sứ Mỹ Trần Văn Chương

22/8/1963 ĐS Cabot Lodge đến Sàigòn 9.30 tối

23.08.1963 Lucien Conein được TVDôn mời đến Bộ TTM trao thu cho

Cabot logde noi la quân đội không nhúng tay vào vụ PG. LV

37 | T r a n g

Kim phụ tá Trần Văn Đôn đòi loại NDNhu. Võ Văn Hải hứa

bảo vệ TT NDD neu quan doi loai Nhu. R. Hilsman va Averell

Harriman đều tỏ ý không ủng hộ chế độ NDD

24/8/63 Cabot Logde liên lạc với Bộ Ngoại Giao và tòa Đại Sứ Mỹ

phối hợp với tướng lãnh VN làm đảo chính chế độ NDD

Bộ Ngoại Giao gởi TĐS Mỹ tại Sài Gòn để thi hành ngay. Tối

mật. Không được phổ biến. Chỉ đích thân Đại Sứ Cabot

Lodge mới được phép đọc. Đối với CINPAC/POLAD thì chỉ

Đô Đốc Felt được phép đọc

Theo CAS Sài Gòn 0265 báo cáo về quan điểm của Tướng

Đôn; Sàigòn 320, Saigon 316. Sàigòn 329

Bây giờ thì rõ là hoặc quân đội đề nghị thiết quân luật, hoặc

Ông Nhu đã lừa họ. Ông Nhu đã lợi dụng tình trạng đó để tấn

công Chùa chiền bằng Cảnh Sát và Lực Lượng Đặc Biệt của

Đại Tá Tung trung thành với ông, làm cho nhân dân Việt

Nam và thế giới ngờ rằng quân đội làm. Hơn nữa cũng thất

quá rõ rang là ông Nhu đã âm mưu sắp đặt ông ta vào vị trí

chỉ huy.

Chính phủ Hoa Kỳ không thể dung dưỡng tình trạng mà

quyền bính lại nằm trong tay ông Nhu và các thuộc hạ của

ôngđể thay vào đó bằng những quân đội tinh nhuệ và những

chính trị gia có tư cách.

Nếu Ông (Cabot Lodge) cố gắng hết sức, nhưng ông Diệm

vẫn ngoan cố và từ chối thì chúng ta phải đối đầu với một

điều có thể xảy ra, là ngay cả bản thân ông Diệm cũng không

thể tồ tại được.

Kỳ tên: Hilsman, Ball, W. Averell Harriman 24/8/63

25/8/63 ĐS Lodge báo cáo đã nhân được, nhấn mạnh mọi việc vẫn

từ Hoa Thịnh Đốn

26/8/63 Các Cố Vấn TT Mỹ chia 2 lập trường: Taylor muốốn có thảo

luận thêm bức điện trên, và phe Mc Cone thấy tư cách xứng

đáng của TT NDD, khó thay thế. Cuối cùng mọi người thấy

cần phải dè dặt và giữ lại NDD, loại NDNhu thôi. VOA phổ

biến vội lập trường Mỹ mà Lodge chưa gặp NDD. Nhưng các

tướng Minh, Khiêm và Khánh đã được liên lạc

27/8/63 TT Kennedy họp với các cố vấn cao cấp, trong đó có Nolting.

Muốn loại bỏ Nhu nhưng hai anh em như gắn bó như cặp bài

trùng. TTKennedy vẫn giữ lập trường điện văn ngày

24/8/1963

29/8/63 Kennedy tin giao mọi trách nhiệm cho Cabot Lodge

30/8/63 Kennedy sợ có cảnh tắm máu tại Sàigòn nên cho báo động

các nơi ngoài khơi dự trù

31/8/63 Tướng Minh báo cho Richardson biết kế hoạch đảo chánh

phải hoãn lại, vỉ sự thân thiết Richardson với TT NDD có thể

38 | T r a n g

bại lộ cuộc đảo chánh.

04.09.1963 Họp báo tại Dinh Gia Long

09.09.1963 Bà Trần Lệ Xuân đi dự HNQT tại Nam Tư 10.09.1963 (11-

19.09.63), đến Rôma: 22.09.1963

29.9.1963 Đến Paris

07.10.63 -

13/11/63

Đến Mỹ: đến Idlewild, hạ viện Mỹ 8.10.63, đến New York

09.10 (Hotel Waldrof-Astaria), 14.10, tới Harvard, MA. 03.11.

ở Hotel Beverly Wilshire, Beverly Hills-13.11, sắm đồ ở New

York (Barclay Luggage Shop), với tiền hóa đơn 52.045US$

Ngô đình Lệ Thủy: 07.08.1945, Huế

12.04.1967 Paris

Nguyễn Thị Thuần, thư ký riêng của Bà Nhu

Nhóm mật vụ miền Trung: Dương Văn Hiều, Nguyễn Tư

Thái, Nguyễn Thiện Dzai

11.63 Vị tướng cầm đầu đảo chính lật đổ chế độ Tổng Thống Ngô

Đình Diệm: Đại Tướng Dương Văn Minh.

01-2.11.63 Thiếu Tướng Đỗ Mậu, Các tướng lãnh Tôn Thất Đính, Trần

Thiện Khiêm, Nguyễn Khánh, Lê Văn Tỵ, Văn Thành Cao.

Một số nhân vật: Lê Công Hoàn, Trần Văn Khiêm, Truơng

Đình Dzu.

10 giờ đêm

27.7.1986

Ông bà Trần Văn Chương chết, có nhiều nghi vấn là Trần

Văn Khiêm giết cha mẹ để giành gia tài (?)

MỘT SỐ TÀI LIỆU THAM KHẢO:

Tài Liệu Ấn Hành Vật Chất

- Văn Bia. Ðời Một Phóng Viên và Những Ngày Chung Sống Với Chí Sĩ Ngô Ðình Diệm.

Hồi Ký. In lần thứ hai (2003). Bổ túc nhiều chi tiết và hình ảnh. Có thêm Phần "Ðoạn Cuối Ðời Một

Phóng Viên". Tác giả giữ bản quyền. Copyright 2003 by Lê Văn Bia. All rights reserved. Ðăng ký: TX

5-528-510, Dec 11, 2001. Tái đăng ký: April 2003.

- Chính Đạo Vũ Ngự Chiêu. Cuộc Thánh Chiến Chống Cộng, 1945-1975. 2004, Nhà XB Văn

Hóa, PO BOX 721049, Houston TX, 7727-1049, 22US$, USA. 4/10/2006, 4 Hồn Việt

- Nguyễn Đức Cung. Ấp Chiến Lược

- Phạm Cường .Bí Ấn Mộ Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu. VNnet

- Nguyễn Hữu Duệ. Nhớ Lại Những Ngày ở Cạnh Tổng Thống Ngô Đình Diệm. 4366 Menlo

Avenue # 23, San Diego, C.A. 92115, U.S.A. ĐT: 619-284.5484. Giá bán: 15 USD.

- Trần Văn Đôn. Việt Nam Nhân Chứng

- Phụng Hồng. ĐỌC "VIỆT NAM NHÂN CHỨNG" CỦA TRẦN VĂN ĐÔN. Đại Chúng số 85 -

phát hành ngày 1/11/2001

http://www.daichung.com/85/17_vn_nhan_chung.shtm

39 | T r a n g

http://www.daichung.com/86/15_viet_nam_nhan_chung.shtm

- DAI CHUNG NEWS MEDIA INCORPORATED d/b/a DAI CHUNG BIWEEKLY

NEWSPAPER [10515 Summit Avenue Kensington, Maryland 20895] Đại Chúng số 86 - phát hành

ngày 16/11/2001

- Lữ Giang. Harriman, Người Quyết Định Về Số Phận Ngô Đình Diệm, Canada, 19/10/2004,

09t, A4

- Lữ Giang.Những Bí ẩn Về Biến Cố Ngày 11.11.1960. Canada, Thứ Sáu 12/11/2004, 09t, A4

- Mậu Hải. Chúa Gọi. Hồi Ký. Kỷ niệm Năm Mươi Năm Linh Mục và Thượng Thọ Bát Tuần

Linh Mục Inhaxiô Mai Xuân Hậu, 20.05.2003. Sàigòn, viết xong Lễ Truyền Tin, 25.03.2003, 97t,

13x24cm.

- Vũ Đình Hoạt. Việt Nam Tôn Giáo Chính Trị Quan. Trực thoại với Đỗ Mậu, tác giả Việt

Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi. Virginia, Alpha, 1991 (1771, Wilson Blvd, Falls Church, VA 22044),

727t. I-X, 15x25cm; 1619-11t. XI-XX, 15x25cm)

- Nguyễn Gia Kiểng, "Ông Ngô Đình Diệm lên cầm quyền như thế nào?", Thông Luận,

tháng 4, năm 2005.

- Phạm Văn Lưu, Tổng Thống Diệm: Những ngày đầy thử thách khi về nước chấp chánh,

1954-1955(7-29), Melbourne, 18.10.2004;

- Phạm Văn Lưu và Nguyễn Ngọc Tấn. Đệ Nhất Cộng Hòa Việt Nam (1954-1963), Một Cuộc

Cách Mạng. Center For Vietnamese Studies Publications, Reservoir, Victoria, 3073, Australia. [(Lê

Tinh Thông) 2362 Ashbury Circle, Westminster, C.A., 92683, USA. ĐT: 714-891.6216.10 USD. (nhà

sách Nam Á): Centre Commercial Les Olympiades, 44 avenue d'Ivry, 75013 Paris, France.]

- Hoành Linh Đỗ Mậu. Việt Nam Máu Lửa Quê Hương Tôi. Hồi Ký Chính Trị. Bổ túc hồ sơ về

sự sụp đổ của Việt Nam Cộng Hòa. Hoa Kỳ, NXB Quê Hương PO Box 8435 Mission Hills, CA 91346

USA. In lần 1, 1986, lần 2, 1987, 1267tr., 16x27cm

- Đỗ Mậu. Một Trời Tâm Sự hay Hồi Ký Của Tướng Lưu Vong của Đỗ Mậu. Hà Nội, NXB

Công An Nhân Dân, 1991

- Lương Khải Minh & Cao Vị Hoàng. Làm Thế Nào Để Giết Một Tổng Thống I&II. Sàigòn,

Đinh Minh Ngọc xuất bản, 1971.

- Nguyễn Văn Minh. Dòng Họ Ngô Đình: Giấc Mơ Chưa Đạt. Hoàng Nguyên XB, NV Printing

7775 Westminster Ave., Westminster, CA 92683 (714)-897-3626. http://www. nvprinting.com . (Dorothy

Nguyen PO BOX 2637 Garden Grove, CA 92842-2637) Ca, USA, 2004, 586t, 14x25cm Giá bán 20

USD.

- Trung Quốc Và Việc Giải Quyết Cuộc Xung Đột Lần Thứ Nhất ở Đông Dương. Nhà XB

Thông tin lý luận, bản tiếng Việt, Hà Nội, 1981

- Nhật ký Đỗ Thọ. Sàigòn, Đồng Nai, 1970.

- Tôn Thất Thiện "Cụ Diệm ở PARIS 1953 - 1954". Lữ Giang giới thiệu. Canada, 2004, 24t, A4

Tài Liệu Không Mạng

- BBC phỏng vấn John Prados (National Security Archive): John Fitgerald Kennedy Và Cuộc

Đảo Chính Ngô Đình Diệm Diễn Ra Ngày 1-11-1963. http://tieulun.hopto.org

- LARRY BERMAN, Sự Kiện Nhân Chứng Trên Mặt Trận Thầm Lặng (Nguyễn Đại Phượng

dịch). (Theo Tuổi Trẻ Online)

http://www.qdnd.vn/qdnd/sukiennhanchung. trenmattranthamlang.24055.qdnd

40 | T r a n g

- Larry Berman: "Không Hòa Bình, Chẳng Danh Dự". Bản dịch Nguyễn Mạnh Hùng,

- Lý Quý Chung: Hồi Ký Không Tên. CÁI CHếT CủA BA ÔNG DIệM, NHƯ, CẩN. Website

Talawas

- Phạm Cường, Bí ẩn mộ Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu. (báo Vn net ra ngày 18-8-2005)

- Ngô Đình Diệm. Tiểu Sử: Source: Tài liệu Keywords (Ngô Đình Diệm)

http://vi.wikipedia.org/wiki ..

- NGÔ ĐÌNH DIỆM giết tướng TRỊNH MINH THẾ (01/02/2007)

- Giải Tỏa Bí Mật Về Cái Chết Của Tướng Trịnh Minh Thế

http://www.chuyenluan.net/200411/0411_23.htm

- Ngô Đình Diệm, Minh Trực, Tạ Văn Vân, Trần Thành Đô, Nguyễn Bá Vinh, Vĩnh Bảo, Nguyễn

Bá Tứ: Thơ.

- ĐÔNG DUY. Ngô Đình Diệm: "Dĩ vãng oai hùng" và huyền thoại

http://65.45.193.26:8026/cms/acct/vietweekly/ issues/vw5n47/ngoDinhDiem.html

- ĐÔNG DUY. Danh từ "cộng phỉ" do ông Ngô Đình Diệm đặt ra?

http://65.45.193.26:8026/cms/acct/vietweekly/issues/vw5n46/congPhi.html

- Nguyễn Hữu Duệ. Nhớ lại những ngày ở cạnh tổng thống Ngô Đình Diệm.

- Mường Giang. KISSINGER ĐÃ BÁN ĐỨNG VNCH CHO CSBV

- Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng thay CT nước. Về việc cử ông Ngô Đình Nhu làm giám đốc

Nha lưu trữ công văn và thư viện toàn quốc. Sắc lệnh 21 Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam

Dân chủ cộng hoà. Bổ nhiệm 08/09/1945 có hiệu lực ngày 08/09/1945 Toàn quốc

http://vbqppl3.moj.gov.vn/law/vi/1945_to_1950/1945/194509/194509080009/lawproperties_view

- HĐGMVN, Văn Phòng Tổng Thư Ký. Giáo Hội Công Giáo Việt Nam Niên Giám 2004. Nhà

xb Tôn giáo. Hà Nội, 2004.

- Phan Phát Huồn. Việt Nam Giáo Sử. Quyển II. Cứu Thế Tùng Thư. Sài Gòn, VN. 1962.

- Ngô Kỷ. Khui Hồ Sơ Tối Mật: Mỹ Chủ Mưu Thanh Toán Anh em Tồng Thống Ngô Đình

Diệm... ( Ngô Kỷ: PO BOX 836, Garden Grove, CA 92842. Email: [email protected] .

http://www.take2tango.com/printing.aspx?NewsID=6216

- Trân Thi Liên, "Les catholiques vietnamiens dans la République du Viêtnam (1954-1963)"

in Pierre Brocheux, ed., Du conflit d'Indochine aux conflits indochinois (Paris: Éditions Complexe,

2000), pp. 53-80.

http://www.clemson.edu/caah/history/facultypages/EdMoise/54-64.html

- Phạm Văn Lưu và Nguyễn Ngọc Tấn. Đệ nhất Cộng Hòa Việt Nam, 1954-1963, Một cuộc

cách mạng

- Nguyễn Văn Minh. Dòng họ Ngô Đình, ước mơ chưa đạt.

- Lâm Thanh Liêm & Gustave D. Meillon. Từ Sàigòn Tới Tp. HCM. Nam Á.

- Đỗ Hữu Nghiêm. Giáo Hội Và Các Đồng Bào Thiểu Số Ở Việt Nam. Định Hướng 26.

- Ngo Dinh Nhu, "Why We Must Defend the Existing Regime." (Tại Sao Chúng Ta Phải Bảo

Vệ Chế độ Hiện Hữu) Bản dịch một cuộc nói chuyện của ông Nhu ngày 15/11/1957, 30tt. Bài viết có

41 | T r a n g

một số thảo luận đến Chủ Nghĩa Nhân Vị. Bản văn được đưa lên mạng trong Văn khố Dự Án Việt Nam

tại Trường Đại Học Kỹ Thuật Texas.

- Nguyễn Hữu Hanh. Làm việc với các nhân vật danh tiếng thế giới - Câu chuyện đời tôi.

Hồi ký, 16.10.2006 và các ngày tiếp theo. Website Talawas

- Phạm Đức Hoàn (1889-1954). Họ Phạm với đất nước

- Bản tin nội tộc họ Phạm(Số 22/2007), 01-11-2007)

http://www.hopham.org/index.php?mn=newsdetail&key=ho-pham-voi-datnuoc&

newsid=468&type=7

Nguyễn Tiến Hưng. Bí mật Dinh Độc Lập.

Nguyễn Tiến Hưng: Khi Đồng MinhTháo Chạy. Website Việt Nam Thư Quán.

(http://vnthuquan.net/truyen/truyen.aspx?tid=2qtqv3m3237n4n1nvn4n31n343tq83a3q3m3237nvn

- Bùi Kha: Bảy Điểm Dẩn Đến Thất Bại & Cái Chết Nhục Nhả Ngô Đình Diệm (9. 9. 2003)

http://www.tialia.com/showthread.php?t=133991

- Trần văn Kiệm. Có Phải Hoa Thịnh Đốn Đã Đưa Ông Diệm Về Làm Tổng Thống Đệ Nhất

Cộng Hoà Việt Nam? Website Dung Lac.net

- Nguyễn Gia Kiểng. Những Vấn Đề Lịch Sử: Ông Ngô Đình Diệm lên cầm quyền như thế

nào? (TL 191). Đăng ngày 05/04/2005 lúc 22:46:28 EDT. Đề tài: Chính Trị Việt Nam

http://www.thongluan.org/vn/modules.php?name=News&file=article&sid=125

- Hoàng Lạc và Hà Mai Việt. Việt Nam 1954-1975: Những sự thật chưa hề nhắc tới.

- Jon Larsen (Tạp Chí Time). Điệp viên hoàn hảo - Kỳ 5: Còn lại một mình. Thứ Ba,

02/10/2007, 09:19 (GMT + 7

- Lễ Giỗ Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm, 1963-2004. Ghi nhớ 50 năm Ngày Chí Sĩ Ngô Đình

Diệm chấp chánh (1954-2004)

- Nguyễn văn Lục: Twenty years and twenty days miền Nam Việt Nam (I-IV). Đệ nhất Cộng

hòa. Ngày: 28-11-2006. DCV Online

http://www.danchimviet.com/php/modules.php?name=News&file=print&sid=2655

http://hatnang.com/showthread.php?t=23220

http://www.avsnonline.net/library/ebooks/vn/others/

OngCoVan/ocv-I-10.htm

- Nguyễn Văn Lục, 2 tháng 11, 1963 - Nhớ về ông bà Ngô Đình Nhu (I, II), 11&12/10/2007

- Nguyễn Văn Lục, Hồ sơ báo "Công Giáo và Dân Tộc" (I, II) 2&3/7/2007

- Nguyễn Văn Lục, Gió chướng đã đổi chiều 07-01-2007, 05:37 PM (I) (13/7/2007)

http://www.dautiengclub.com/portal/showthread.php?t=1062

- David Marr: Việt Nam 1945; Việt Nam Chống Thực Dân, 1885-1925 (1971); Truyền Thống

Việt Nam Qua Thử Thách, 1920-1945 (1981). [Việt Báo (Theo_TuoiTre)]

http://vietbao.vn/Xa-hoi/TS-David-Marr-va-cuon-sach-Viet-Nam-1945/40095521/157/

- Edward Miller. Viễn kiến, quyền lực và tính chủ động: Con đường lên nắm quyền của

Ngô Ðình Diệm, 1945-1954. Hoài Phi, Vy Huyền dịch (10.8.2007) [ 1 2 3 ]

http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=10642&rb=0302

42 | T r a n g

- Nhớ Cha Trần Hữu Thanh (Kỳ 2 )

http://www.trungtammucvudcct.com/web/news.php?mode=chitiet&no=322&id=3332

- Đỗ Hữu Nghiêm. Một Mảng Bối Cảnh: Khi Thủ Tướng Ngô Đình Diệm Về Nước Chấp

Chính. Dayton, Ohio, 18/8/2005, 7t., A4

- Bùi Thị Đoàn Nguyên. Nhân vật lịch sử: Huynh & Đệ Ngày Ấy Bây Giờ. Việt Nam Thư

Quán Thư Viện Online

- Nguyễn Hữu Phước, Vài ghi nhận về Cố TT Ngô Đình Diệm (Ghi nhận của một Đại Tá) (47-

54);

- Bradley S. O''Leary. Vụ Ám Sát Ngô Đình Diệm Và J.F.Kennedy (13-14)

http://www.vietnamvanbut.com/vnvb/story/content.aspx?id=125200713920543397

- Hoàng Ngọc Tấn. Chủ Nghĩa Nhân Vị

http://www.viet.no/component/option,com_akobook/Itemid,71/

- Nguyễn Thái. Chủ Thuyết Nhân Vị Và Giới Luật Yêu Thươn. Garden Grove

3/11/2007 http://www.chuacuuthe.org/11-10-07-chuthuyetnhanvi-lm-ng-thai.html

- NGUYỄN HỮU THÁI. Việt Nam năm 1945: giành quyền lực của David G. Marr NXB Đại

học California, Berkeley, Hoa Kỳ, 1995.Giải thưởng John K. Fairbank về công trình nghiên cứu xuất

sắc của Hiệp hội Châu Á học Mỹ, 1996 (Thứ tư, 21 Tháng sáu 2006, 16:53 GMT+)

- Vu The Thanh. <[email protected]>

- To Nghiem Do <[email protected]>, - Nov 23, 2007 11:25 PM

Vu The Thanh <[email protected]>

- To Nghiem Do <[email protected]>,Nov 23, 2007 3:53 AM

- Đoàn Thêm. Hai Mươi Năm Qua 1945 - 1964 Việc Từng Ngày. Xuân Thu.

- Đoàn Thêm. 1969 Việc Từng Ngày. Xuân Thu.

- Lê Thiên, Cụ Diệm ở Paris, 1953-1954 (31-46), Ottawa, 10-2004;

- Tôn Thất Thiện, Một số sự thật về Anh Em họ Ngô và Chế độ Cộng Hòa I, qua tác phẩm

Dòng Họ Ngô Đình: Ước Mơ Chưa Đạt, Hồi ức của một nhân chứng trực tiếp, Nguyễn Văn Minh,

2003 (55-86), Ottawa, 10/2004;

- Tôn Thất Thiện. Cần Thẩm Định Lại Giá Trị Của Ông Ngô Đình Diệm Và Chế Độ Việt Nam

Cộng Hòa I (nguồn: www.thongluan.org) 21/6/2006

http://www.viet.no/content/view/228/87/

- "Nhìn lại kinh nghiệm Ngô Đình Diệm", Thông Luận, tháng 11, 2005. nguồn:

www.thongluan.org

- Lê Thiên & Lê Tinh Thông. Người Mẹ chứng nhân thế kỷ: Bà Cố Elizabeth Ngô Đình Thị

Hiệp (1903-2005) http://memaria.org/bai_da_dang/nguoi_me_chung_nhan_

- Lê Tinh Thông, Kỷ Niệm Năm Mươi Năm Ông Ngô Đình Diệm Về Nước Chấp Chánh (87-90);

- Ngô Đình Thục. Kỳ 5:Về tổng giám mục Ngô Đình Thục (Chủ nhật, 14 Tháng chín 2003,

15:57 GMT+7)

http://vietbao.vn/Phong-su/My-Diem-cuoc-dao-chinh-Diem-Nhu-Tong-giam-muc-Ngo-Dinh-

Thuc/40001315/262/

43 | T r a n g

- Đặng Tiến. Người điều hành tạp chí Bách Khoa, Lê Ngộ Châu, 160 Phan đình

Phùng.Orleans, 27/9/2006 (Đặng Tiến Cập nhật : 13/03/2007 18:26)

http://www.diendan.org/nhung-con-nguoi/le-ngo-chau-nguoi-111ieu-hanh-tap-chi-bach khoa/

http://my.opera.com/tranminhkhanh007/blog/show.dml/696398

- Lâm Lễ Trinh. Về Nguồn. San Jose 2006.

- Lâm Lễ Trinh. Chín Năm Bên Cạnh Tổng Thống Ngô Đình Diệm

- (Mạn Đàm Với Ông Quách Tòng Đức). USA, July 21, 2005. Website Liên Lạc Nhân Văn

-Trường Cao Đẳng Sư Phạm Tp. HCM & Cục Đo Đạc Và Bản Đồ Nhà Nước. Việt Nam Tập

Bản Đồ Hành Chính Và Du Lịch. 1989.

- Nguyễn Văn Tuấn: Những huyền thoại và sự thật về chế độ Ngô Đình Diệm" - tác giả Vĩnh

Phúc (Friday, 19. January 2007, 16:08:26)

http://www.giaodiem.com/doithoai/nvt_docvphuc.htm

Nguyễn Lý-Tưởng. Bổ Túc Một Vài Điều Về Họ Ngoạ của Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê

Nguyễn Văn Thuận Nhân Ngày Mãn Tang (16-09-2002 đến 16-09-2005)

http://www.lambich.net/forum/viewtopic.php?p=1067&sid=fe1f431fe37884ea8f9a5fdae2b65c4c

http://tvvn.org/f18/ba-ta-c-va-i-ae-ia-u-va-ha-ngoa-i-ca-ca-ha-ng-y-thua-n- 1753/

- Minh Võ. Mạn đàm với ông Cao Xuân Vỹ (I): Đệ nhất Cộng hòa. Ngày: 24-09-2007, Dan

Chim Viet Online

- Minh Võ.- Phỏng vấn Minh Võ: Ngô Đình Nhu: Hiệp thương Nam-Bắc. Đài Tiếng nói

VNHN

http://www.danchimviet.com/php/modules.php?name=News&file=article&sid=4101

http://thangtien.de/index.php?option=com_content&task=view&id=922&Itemid=297

http://www.vietcyber.net/forums/showthread.php?t=120512

http://vnthuquan.net/truyen/truyentext.aspx?tid=2qtqv3m3237nmn2nvn4n31n343tq83a3q3m323

7nvn

- Nguyễn Đức Vinh. Phụ lục 1. An ninh Thế Giới

Vietnamnet: Huyền Thoại Về Cụm Tình Báo H.63 - Phần 2: Kỳ 15: Người Hà Nội "ở Phòng

Chỉ Huy Quân Đội Mỹ"(08:30' 03/09/2007 (GMT+7)

http://www.vietnamnet.vn/psks/2007/09/736602/

- Vũ Ngọc Nhạ. Vĩnh biệt "Ông Cố vấn"

http://www.avsnonline.net/library/ebooks/vn/others/OngCoVan/ocv-III-18.htm

- Phạm Thắng Vũ. Nghiên mực cổ Tức Mặc Hầu của vua Tự Đức và Tổng Thống Ngô Đình

Diệm. (01-11-200716-01-2008, 12:45 AM)

http://www.hatnang.com/showthread.php?t=23375

http://www.x-cafevn.org/forum/archive/index.php?t-12214.html

- Cao Xuân Vỹ. Minh Võ Phỏng Vấn Ba giờ nghe một nhân chứng. 07/2007. Ngày Quốc

Khánh Cộng Hoà Pháp Quốc. Trích DCVOnline

http://www.hungviet.org/minhvo/minhvo0707.html

44 | T r a n g

- Cao Xuân Vỹ. Lời tựa (1-6), 30/10/04 (Lễ Giỗ NĐD, sđd.)

- Stephen Young. Kissinger đã bán đứng VNCH cho Hà Nội

- NHữNG GIờ PHÚT ĐịNH MệNH CủA Cố TổNG THốNG NGÔ ĐÌNH DIệM.- Wikipedia: Ngo

Dinh Nhu en.allexperts.com/e/n/ng/ngo_dinh_nhu.htm 10-11/2/2008.X-2.

- Wikipedia tiếng việt: Chủ nghĩa Nhân Vị: Tham Khảo Tự Điển ngày 18/8/2005

http://www.viet.no/component/option,com_akobook/Itemid,71/

Một Số Tài Liệu Tiếng Anh Pháp

- Jessica Chapman. Staging Democracy: South Viet Nam's 1955 To Depose Bao Dai.

Pacific Rim Research Program University of California, Multi-Campus Research Unit. Year 2005. Paper

Vietnam. This paper is posted at the eScholarship Repository, University of California.

http://repositories.dlib.org/pacrim/Vietnam , with 130 footnotes

Copyright @2005 by the author, 1-52 pages (23/10/1955)

- Department of Defense, US-VN Relations, 1945-67, Washington DC, Government printing

Office, 1970. 12 volumes

- Department of State, Foreign Relations Of US, 1952-54, 1955-56. Vos XIII-XIV, Washington

DC, Government Printing Office, 1982

- Stanley Karnow. The Edge of chaos. Vietnam's "royal family", long aided by U.S. troops

and money, has persecuted religious leaders, embittered the people and bungled a critical struggle

against Communism. The Saturday Morning Post, No.33. September 28, 1963, p.27-37 236th year,

- Stanley Karnow. The Fall of the House of Ngo Dinh. The Vietnam coup: the plot, counterplot

- an exclusive account of how Diem and Nhu died. The Saturday Morning Post, Issue no. 45, 21-28,

1963, 75-79. http://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C3%B4_%C4%90%C3%ACnh_Nhu

- Edward Miller. Vision, Power and Agency: The Ascent of Ngô Dình Diêm, 1945-54. The

History Department at Dartmouth College. His e-mail contact is [email protected]

Abstract

This article challenges existing interpretations of Ngô Dình Diêm by examining his activities

during the decade before he became leader of South Vietnam in 1954. Diêm actively pursued power in

these years, and he achieved it mainly due to his own efforts and to those of his Vietnamese allies. At

the same time, he and his brother Ngô Dình Nhu were outlining the distinctive vision of modernisation

which would inform South Vietnam's post-1954 nation-building strategies. Journal of Southeast Asian

Studies (2004), 35: 433-458 Cambridge University Press. Copyright © 2004 The National University of

Singapore. Vietnam - Acknowledgments and Preface

http://www.mongabay.com/reference/country_studies/vietnam/all.html

Liste de chartistes par promotion (1825-2007)

http://fr.wikipedia.org/wiki/Liste_de_chartistes_par_promotion#1938

http://theses.enc.sorbonne.fr/theses.html?annee=1938

- Robert Scigliano: Vietnam: A Country at War. Asian Survey, Vol. 3, No. 1, A Survey of Asia in

1962: Part I (Jan., 1963), pp. 48-54

45 | T r a n g

- Robert Scigliano, South Vietnam: Nation Under Stress. Boston: Houghton Mifflin, 1963. ix,

227 pp. pb Boston: Houghton Mifflin, 1964. ix, 237 pp. Oakland, CA, ĐHN tổng hợp ngày

15/10/2006.CN, 15/6/2007.6, 4/2/2008.5, 2/3/2008.X.

[1] Hiện ở số 19, rue de la Sorbonne - 75005 Paris - tél. : +33 (0)1 55 42 75 00.

Có nhiều nhà nghiên cứu lẫn chữ Chartes [cổ điển học] chuyên giảng dậy về Khoa Cổ Điển

Học) với Chartres [địa danh ở cách trung tâm Paris khoảng 30 km]. Đây là một trường danh tiếng về

khoa lịch sử, từ năm 1821 chuyên dạy việc tổ chức bảo lưu các văn kiện và di sản lưu trữ quốc gia

khác. Không nên lẫn với khoa khảo cổ [archéologie], vì trong khoa khảo cổ có nhiều ngành đặc biệt

như cổ tiền học [numismatique], cổ vật học [paléologie], paléontologie,...

[2] Theo website http://theses.enc.sorbonne.fr/theses.html?annee=1938

[3] Những sinh viên khác tốt nghiệp Trường đó năm 1938 là:

[BOUQUET Marie-Madeleine, L'abbaye de l'Ile-Barbe des origines à la sécularisation du XVIe

siècle

COQUIBUS Geneviève, Jean Carondelet, agent diplomatique de Charles le Téméraire,

chancelier de Bourgogne (1428-1501)

DIANOUS de Jean, Les communautés juives du Comtat-Venaissin et de l'Etat d'Avignon,

d'après leurs statuts (1490-1790)

GUIGNARD Jacques, Recherches sur l'histoire du livre à Tours de la fin du XVe à la fin du

XVIe siècle (1485-1588)

HAUCOURT d' Geneviève, Etude sur le droit des assemblées françaises au début du XIVe

siècle

LEVI Maxime, La grande pêche basque des origines à la Révolution

MOREL Anne, La guerre de course à Saint-Malo (1681-1715)

OSWALD Marguerite, Anseïs fils de Girbert. Etude de la chanson et de ses rapports avec Yon

de Mes, suivie d'une édition partielle

OURSEL Madeleine, Les origines de la commune de Dijon

ROUSSEAU Louis, L'assistance charitable à Rouen du XIIe au XVIe siècle : l'Hôtel-Dieu de la

Madeleine, la police des pauvres

WAQUET Jean, La politique étrangère de la monarchie française sous Charles le Bel (1322-

1328)

BOISSET Anne-Marie, La vie municipale à Aurillac de 1360 au début du XVIIe siècle

- NGÔ Dinh-Nhu, Les moeurs et les coutumes des Annamites du Tonkin au XVIIe siècle]

[4] Theo nhà biên soạn Nguyễn Lý Tưởng, ghi đề tài luận án tốt nghiệp cùa Ngô Đình Nhu là

"Moeurs et coutumes des Tonkinois aux XVIIe et XVIIIe siècles d'après les voyageurs et

missionaires" (Phong tục tập quán của người Bắc kỳ vào thế kỷ thứ 17 và 18 theo các du khách và

các nhà truyền giáo), cũng vào năm 1938, tại Ecole Nationale des Chartres (thực ra là Chartes mới

chính xác). Và tên của luận án này không hoàn toàn trùng hợp với tên luận đề ghi trên. Không biết tác

giả ghi lại tên này ở nguồn tài liệu nào hay phải chăng co một đều tài khảo luận nào khác

46 | T r a n g

[Ông Ngô Đình Nhu (1910- 1963), lúc nhỏ đi tu tại Tiểu Chủng viện An Ninh, Cửa Tùng, Quảng

Trị đựơc mấy năm thì hồi tục, du học Pháp, tốt nghiệp Ecole Nationale des Chartres (trường khảo cổ

danh tiếng của Pháp) vào năm 1938 với tiểu luận "Moeurs et coutumes des Tonkinois aux XVIIè et

XVIIIè siècles d'après les voyageurs et missionaires" (Phong tục tập quán của ngừơi Bắc kỳ vào thế kỷ

thứ 17 và 18 theo du khách và các nhà truyền giáo). Về nước, làm Quản thủ Văn khố Toà Khâm Sứ

Huế (1943), sau ra Hà Nội làm tại Thư Viện Trường Viễn Đông Bác Cổ và Tổng Văn Khố Quốc Gia

(1945, thời Thủ Tướng Trần Trọng Kim).] (?)

Hai đề tài này thoạt nhìn thì rất giống nhau, nhưng khác biệt nhau rất nhiều: trong khi đề tài

thứ nhất theo tài liệu của nhà trường thì sinh viên NDNhu tập trung vào thế kỷ 17 dựa vào tất cả các

loại tài liệu không nói rõ đến phong tục tập quán của người An nam ở Bắc Kỳ, thì đề tài sau đề cập đến

hai thế kỷ 17 và 18 dựa vào tài liệu của các nhà du hành và các nhà truyền giáo.

Xin xem [Nguyễn Lý-Tưởng: Bổ Túc Một Vài Điều Về Họ Ngoại của Đức Hồng Y Phanxicô

Xaviê Nguyễn Văn Thuận Nhân Ngày Mãn Tang (16-09-2002 đến 16-09-2005)]

http://www.lambich.net/forum/viewtopic.php?p=1067&sid=fe1f431fe37884ea8f9a5fdae2b65c4c

[5] T.S.C.N. Nguyễn Văn Lục: "Nhớ Về Ông Bà Ngô Đình Nhu, ngày 2 tháng 11, 1963"

http://www.vietcyber.net/forums/showthread.php?t=120512

[6] Về việc cử ông Ngô Đình Nhu làm giám đốc Nha Lưu Trữ Công Văn Và Thư Viện Toàn

Quốc, Chủ Tịch Chính Phủ Lâm Thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà Bộ Trưởng Võ Nguyên Giáp đã

ký Sắc lệnh số 21, bổ nhiệm ngày 08/09/1945, có hiệu lực ngày 08/09/1945 trên toàn quốc

http://vbqppl3.moj.gov.vn/law/vi/1945_to_1950/1945/

194509/194509080009/lawproperties_view

Nguyên Văn Sắc lệnh như sau:

[CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ LÂM THỜI VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ

Số: 21 VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

----- o0o -----Hà Nội ,

Ngày 08 tháng 09 năm 1945

SẮC LỆNH CỦA CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ LÂM THỜI

SỐ 21 NGÀY 8 THÁNG 9 NĂM 1945

CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ LÂM THỜI DÂN CHỦ CỘNG HOÀ VIỆT NAM

Theo lời đề nghị của Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục,

RA SẮC LỆNH:

Khoản I: Cử ông Ngô Đình Nhu làm Giám đốc Nha Lưu trữ công văn và Thư viện toàn quốc.

Khoản II: Ông Bộ trưởng Bộ Nội vụ, ông Bộ trưởng Bộ Tài chính, ông Bộ trưởng Bộ quốc gia

Giáo dục thi hành sắc lệnh này mỗi người trong phạm vi quyền hạn của mình./.

CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ LÂM THỜI VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ BỘ TRƯỞNG

(Đã ký) Võ Nguyên Giáp

http://vbqppl4.moj.gov.vn/law/vi/1945_to_1950/1945/

194509/194509080009 ]

47 | T r a n g

[7] Edward Miller: "Vision, Power and Agency: The Ascent of Ngô Ðình Diem, 1945-1954" (Viễn

kiến, quyền lực và tính chủ động: Con đường lên nắm quyền của Ngô Ðình Diệm, 1945-1954).

(Journal of Southeast Asian Studies, 35 (3), October 2004 Bản dịch Hoài Phi, Vy

Huyền.WebsiteTalawas ngày 9-10-11/8/2007.

http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=10642&rb=0302

[Edward Miller là Giáo Sư Phụ Giảng Môn Lịch Sử (Assistant Professor of History) tại Trường

Cộng Đồng Dartmouth. Ông hiện đang viết một cuốn sách về lịch sử các quan hệ của Ngô Đình Diệm

với Hoa Kỳ. Ông cũng là tác giả bài nghiên cứu "Vision, Power and Agency: The Ascent of Ngô

Ðình Diem, 1945-1954," xuất bản trên tạp chí Journal of Southeast Asian Studies vào tháng Mười năm

2004. Miller đã thực hiện nhiều chuyến đi đến Việt Nam giữa năm 2001 đến 2006, kể cả một chuyến

nghiên cứu dài ngày tại Tp HCM năm 2001-2002, được Học Bổng Fulbright-Hays tài trợ.)]

http://www.wilsoncenter.org/index.cfm?topic_id=1409&fuseaction=topics.item&news_id=197836.

Theo người viết, đây la một tài liệu nghiên cứu công phu có ý nghĩa, vì khác với những lập

trường của nhiều nhà bien soan hiện nay, nhưng có nhiều tính chính xác cao dựa vào nhiều chứng liệu

khả tín..

[8] Cô tốt nghiệp École des Chartes Paris năm (?). Về Việt Nam có một thời trước 30/4/1975, Bà l àm

Giám Đốc Nha Văn Khố và Thư Viện Quốc Gia (VNCH). Sau biến cố 30/4/1975, Bà đinh cư tại Pháp

đến nay.

[9] Về tiểu sử hai họ này và riêng tiểu sử của Ngô Đình Nhu, E. Miller có nói đến hai tài liệu "Ngô Ðình

Nhu", trong Souverains et notabilités d'Indochine (Hanoi: Éditions du Gouvernement Généralde

l'Indochine, IDEO, 1943), trang 62; "Curriculum Vitae of Mr. Ngo Dinh Nhu", không rõ ngày tháng,

Texas Tech University, The Vietnam Archive, John Donnell collection, Box 2, Folder 22, Box 2". (A.

Miller, sđd.)

[10] Tham khảo Lý Nhân (Phan Thứ Lang)

[11] Thông tin từ những nghiên cứu của Vũ Thế Thanh tại TPHCM

[12] Theo E. Miller: "Gia đình họ Ngô không thiếu những cá nhân có cá tính lạ thường và khó

hiểu; tuy nhiên, so với mọi người, ông Ngô Đình Nhu được coi là người bất thường và bí ẩn nhất. Là

người thứ tư trong sáu anh em, người ta nói ông cẩn trọng, sâu sắc và kín đáo. Ông không quê mùa

như Ngô Đình Cẩn hay tao nhã như Ngô Đình Luyện, ông cũng có vẻ không quan tâm đến việc triều

chính, điều mà Ngô Đình Khôi, Ngô Đình Thục và Ngô Đình Diệm đã quá bận tâm. Quả vậy, là một

người đàn ông trẻ, ông Ngô Đình Nhu có vẻ ham sách vở hơn làm chính trị. Những năm 1930 ở Paris,

trước tiên, ông dành nhiều thời gian học về văn chương rồi sau đó học về chữ cổ và ngành quản thư tại

École des Charte nổi tiếng. Cuối những năm 1930, ông trở về Việt Nam và làm việc trong ngành lưu

trữ; đến 1945 ông giữ chức vụ trụ cột tại nơi sau này là Thư viện Quốc gia ở Hà Nội. Sau Cách mạng

tháng Tám, ông Ngô Đình Nhu tham gia nhiều hơn vào chính trị, đặc biệt trong những cố gắng của các

anh em ông để vận động sự ủng hộ của những người Việt Nam Công giáo." (Edward Miller, bđd.,trên.

http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=10642&rb=0302

[13] E. Miller đã phỏng vấn Gene Gregory ở Tp HCM, tháng 3, 2002. Một trong những phụ tá

của Ngô Đình Nhu sau này nhớ lại đã tháp tùng ông, thay mặt Ngô Đình Diệm đi thăm một vùng Công

giáo ở gần biên giáo Lào năm 1946.

[14] Nhưng theo luận đoán của Lữ Giang, trong một cuốn sách, tr.402, ông Ngô Đình Khôi sinh

năm 1885 có thể không đúng vì đến năm 1889, Ông Ngô Đình Khả mới cưới Bà Phạm Thị Thân. Và

bình thường sớm nhất là ông Khôi sinh năm 1890, nhưng cũng có thể ông Ngô Đình Khôi sinh ra năm

1885, nếu ông Khả và bà Thân đã ăn ở với nhau trước khi chính thức cưới nhau (?!)]

48 | T r a n g

15- "Dạo ấy ông Tuyến vừa đậu tú Tài II, ba lô trên vai, với chiếc xe đạp "cuộc" ông Tuyến là hướng

dẫn viên. Ông Nhu thì ngồi trên chiếc xe kéo bánh gỗ che kín. Ở lại nhà Chung (Thanh Hóa) trong ba

tuần lễ, ông Nhu lên thẳng Bái Thượng, ông Tuyến từ giã ông Nhu, rồi được Linh Mục Trọng hướng

dẫn lên châu Thường Xuân (Hòa Bình). Ở đây ít ngày, ông lại được một vị linh mục họ đạo người

Mường đưa qua Sầm Nứa theo ngả đường rừng. Trong thời gian này, ông chịu ơn các linh mục Thanh

Hóa. Về sau, ông còn nhớ mãi ơn nghĩa đó...Linh Mục Trọng đã cho ông mượn tấm áo "soutane" để

hóa trang trên đường trốn tránh"( Lý Nhân, sđd., tt. 19-20)

[16] Chính thời gian ở Đà Lạt ông Nhu đã chuẩn bị viết bài vận động cho lực lượng Công giáo tham

gia đời sống chính trị do Ngô Đình Diện phát động: "Sự Góp Sức Của Người Công Giáo Vào Hoà

Bình ở Việt Nam" ( diễn văn ngày 18 tháng 4, 1952 tại Trường Võ Bị Đà Lạt)

[17] Tham khảo tài liệu "Thuyền Ai Đợi Bến Văn Lâu" của Nguyễn Lý Tưởng, về Phong Trào Đại

Đoàn Kết và Hoà Bình, tr.445

Chắc là Nguyễn Lý Tưởng nói đến Đại Hội Đoàn Kết qui tụ nhiều đoàn thể nhằm củng cố vị thế

của Bảo Đại. E. Miller ghi nhận số đại biểu tham dự là 55 chứ không phải là 65 như bài của Nguyễn Lý

Tưởng nhắc đến. Theo ông, thực ra Đại Hội Đoàn Kết diễn ra trong ngày 5- 6 tháng 9, 1953 là một sự

kiện hỗn độn. Năm mười lăm (55) đại biểu có mặt đã tham gia ký xác nhận bản tuyên bố phản đối

mạnh mẽ chính sách độc lập từng phần của Bảo Đại... Nhưng với Ngô Đình Nhu và Ngô Đình Diệm,

sự kiện này chủ yếu chỉ để chiếm lấy quyền hành từ tay Bảo Đại, nên trong trường hợp này, Ðại hội là

một thành công rực rỡ.

(E. Miller, bđd., http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=10658&rb=0302)

[18] Trích trong Phụng Hồng: "Đọc 'Việt Nam Nhân Chứng' Của Trần Văn Đôn".

http://www.daichung.com/82/09_vn_nhan_chung.shtm

[19] Đoạn trích vẫn trong Phụng Hồng (một bác sĩ quân y VNCH): "Đọc 'Việt Nam Nhân Chứng' Của

Trần Văn Đôn". http://www.daichung.com/82/09_vn_nhan_chung.shtm

[20] Tham khảo Nguyễn Văn Lục, website TSCN đã dẫn trên. Những cảm tưởng nói trên là của

nhiều nhân vật khác nhau được tác giả Nguyễn Văn Lục ghi lại qua nhiều nguồn khác nhau, không

phải chỉ là của chính mình.

[21] Tham khảo Nguyễn Lý Tưởng: Bổ Túc Một Vài Điều Về Họ Ngoại của Đức Hồng Y Phanxicô

Xaviê Nguyễn Văn Thuận, Nhân Ngày Mãn Tang (16-09-2002 đến 16-09-2005)

lambich.net/forum/viewtopic.php?p=1067&sid=b134c2ba333eeb7a45d5eca99b5c944a

Nguyễn Thế Hùng và Hoàng Đình Hiếu: Sông Gianh Đàng Trong: Giáo Hạt Quảng Bình,

(1613-1975), tt. 145-150. Tủ Sách Sông Gianh - Quê Hương Bọ Mạ Xuất Bản. Grand Prairie, TX,

2004, 210 trang, 15X25cm

[22] Minh Võ phỏng vấn Cao Xuân Vĩ:

:[23] Tham khảo Nguyễn Đức Cung: "Từ Ấp Chiến Lược đến biến cố Tết Mậu Thân; Những hệ lụy

trong chiến tranh Việt Nam". Tập san Định Hướng số 51, Mùa Xuân 2008, tt. 77- 114

[24] Nguyễn Văn Minh: Dòng Họ Ngô Đình: Giấc Mơ Chưa Đạt. Hoàng Nguyên xuất bản, tái bản lần

thứ nhất, tháng 11/2003, t. 419

[25] E. Miller chú ý cả đến cách dịch Personalism là nhân v. Ông cho rằng, Ngô Đình Nhu theo cách

của Lm Bửu Dương, cũng là một học giả đặt ra cụm từ này trong những bài giảng của ông những năm

1940. Trong thời gian thập niên , các LM dòng Đa Minh chi tỉnh Lyon có qui tụ được một số thanh niên

sinh viên cư ngụ tại Câu Lạc Bộ Phục Hưng (Club de Renaissance) Xem Nguyen Trai, "The

government of men in the Republic of Vietnam", (bản thảo chưa xuất bản, 1962), trang 139; một bản

sao của tài liệu này nằm ở Widener Library, Harvard University. Không rõ ông Ngô Đình Nhu có học

với Mounier ở Pháp hay không; một số những phụ tá người Việt của ông cho rằng ông đã từng học với

49 | T r a n g

Mounier, nhưng ít nhất là một lần, Ngô Đình Nhu đã phủ nhận việc này. Xem "Nhu and Personalism",

một ghi chú không rõ ngày tháng, Donnell paper, Box 3, Folder 14.

[26]Lm Bửu Dưỡng: Trước những trào lưu mới: Phong trào nhân vị. Tạp Chí Đại Học số 11 (tháng

9/1959), t. 40. (dẫn theo NĐC, sđd., t.111)

[27] Lm Nguyễn Thái: Chủ Thuyết Nhân Vị Và Giới Luật Yêu Thương. Garden Grove 3/11/2007

http://www.chuacuuthe.org/11-10-07-chuthuyetnhanvi-lm-ng-thai.html

[28] NguyễnVăn Minh, sđd., t. 421

[29] Điều khẳng định này cũng trùng hợp với nhân định và đáng giá của tác giả Nguyễn Đức Cung

trong bài nói trên trong Tập San Định Hướng số 51, trang 74.

[30] Theo nhân định của sử gia E. Miller, khi tham khảo Philip Mairet: Emmanuel Mounier,

Personalism, trong (London: Routledge and Paul, 1952), trang 17-19 (personalism) và 103-5 (social

order), thì cái nhìn của Mounier và những người Pháp theo chủ nghĩa Nhân vị có thể được phân biệt

với chủ nghĩa Nhân vị Hoa Kỳ, phát triển ở Boston vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX dưới quyền lãnh

đạo trí thức của Borden Parker Bowne. Mặc dù cả hai nhánh của chủ nghĩa Nhân vị đều bắt nguồn từ

thần học Công giáo La Mã. Những người Mỹ theo chủ nghĩa Nhân vị thường vững vàng hơn là những

người Pháp. Họ chấp nhận thực tế vật chất tồn tại độc lập, mặc dù họ tranh luận rằng người ta không

nên nhấn mạnh nó quá mức, theo quan niệm "Personalism" trong The enclyclopedia of philosophy, ed.

Paul Edwards, vol. VI (New York: Macmillan, 1967), 106-0, và "Personalism" trong The Cambridge

dictionary of philosophy, ed. Robert Audi (Cambridge: Cambridge University Press, 1995), trang 575.

[31] Robert Scigliano: South Vietnam, Nation under stress, edited by Dayton D. Mckean, University of

Colorado, Houghton Mifflin Company, Bocton.p. 76. Dẫn theo NĐC, sđd., t. 111

[32]Jean-François Petit: Philosophie et théologie dans la formation du personnalisme

d'Emmanuel Mounier. Paris, tác giả xuất bản vào tháng 1/2007.

(http://www.editionsducerf.fr/html/fiche/fichelivre.asp?n_liv_cerf=7092)

[33] Nguyễn Gia Kiểng: Ông Ngô Đình Diệm lên nắm quyền như thế nào?

tieulun.hopto.org:25000/download.php?file=NhinLaiKinhNghiemNgoDinhDiem

http://www.vantuyen.net/index.php?view=story&subjectid=12724

[34] Thực ra theo E. Miller, trong thời gian du học ở Pháp, Ngô Đình Nhu đã chịu nhiều ảnh hưởng tư

tưởng của triết gia Công giáo Emmanuel Mounier. Trong những sách và bài viết trên tạp chí Esprit của

mình, Mounier phản ứng lại thời Đại Khủng Hoảng và những đau khổ mà nó gây bằng cách phát triển

một lý thuyết phê bình chủ nghĩa tư bản tự do; ông phê phán thiên kiến tự do với chủ nghĩa cá nhân,

tranh luận rằng điều đó dẫn đến cô lập, bất hoà và bóc lột.

Là một người Công giáo thuần thành, Mounier không đồng tình với tư tưởng duy vật của chủ

nghĩa Marx vì nó huỷ hoại những điều ông gọi là chiều kích "tâm hồn" trong bản tính con người. Giữa

chọn lựa xu hướng chủ nghĩa tư bản hay chủ nghĩa cộng sản, Mounier chú ý đến một trật tự xã hội hậu

tư bản. Trong đó, các nhu cầu vật chất của cá nhân cũng như thịnh vượng chung của tập thể đều

được hưởng lợi, nhưng một trong hai điều này không trở thành trọng tâm độc nhất trong chính sách

của xã hội. Thay vào đó, Mounier đề nghị đặt trọng tâm vào việc phát triển một con người toàn diện (la

personne), được định nghĩa là gồm cả những nhu cầu tinh thần và vật chất. Mounier nhấn mạnh vào

"con người" như lối thoát cho "cá nhân": đó là đề tài chủ yếu trong những bài viết của ông, và vì vậy

ông đặt cho tư tưởng của mình là "chủ nghĩa nhân vị".

35] Ông Ngô Đình Diệm nói nói với ký giả Marguerite Higgins. (Dẫn theo Nguyễn Ngọc Tấn, bài

đã dẫn)

[36] Phát biểu của Ông Ngô Đình Nhu trong Đại Hội Văn Hóa Quốc Gia tại Sài Gòn, ngày

11/1/1957. (nt)

50 | T r a n g

[37] Trả lời Phỏng vấn của báo Toronto Globe and Mail, trong Nguyệt san Gió Nam, 5-5-1963.

[38] Dẫn theo Nguyễn Ngọc Tấn, bài đã dẫn trong bài viết của Tôn Thất Thiện. Xin cũng

xemThe Commonweal A Weekly Review Of Public Affairs, Literature And The Arts Cuban Build-up.

Vol. 076 Issue 021 (September 21 1962 in the General Volume LXXVI March 30, 1962 to

September 21, 1962 http://search.opinionarchives.com/Commw_Web/

digitalarchive.aspx?panes=1&aid=07621011_1

[39]"Bài diễn văn của ông Ngô Đình Nhu báo hiệu cho những việc sắp xảy đến. Ngoài việc dài dòng,

rắc rối và trừu tượng. Nó chứa đựng một nội dung, mô tả nhiều đặc điểm và ông và Ngô Đình Diệm

đều tuyên bố về ích lợi và giá trị của chủ nghĩa nhân vị. Những đề tài này không chỉ nói đến những

nguy hiểm của chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa cộng sản, mà còn nói đến lợi ích quan trọng của "phần

hồntâm linh" thay vì chỉ đơn thuần là lợi ích vật chất. Bên cạnh đó, bài diễn văn cũng làm nổi bật niềm

tin chắc chắn của Nhu rằng Việt Nam cần một cuộc cách mạng toàn diện:

"Đó là những điều đại cương, rất vắn tắt của một cuộc cách mạng chính-trị kinh-tế, nhắm đích

đặt con người vào trung tâm của triển vọng thế giới. Tôi nói: cách-mạng, bởi vì chúng ta sẽ làm một

việc vô cùng phí công nếu chúng ta gắng gỏi tô chữa những đường nứt nẻ ở một cái nhà đã lung lay,

lúc cần phải thay đổi cả cơ cấu nội bộ của toàn thể cái nhà ấy." ( Ngô Đình Nhu, "Sự góp sức của

người Công giáo vào hoà bình ở Việt Nam" (bài diễn văn ngày 18 tháng 4, 1952 tại Trường Võ Bị

Đà Lạt), được phổ biến lại trong Xã hội, tháng 2, 1953, trang 5, 14, 18-22.)

[40] (E. Miller, bđd., http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=10642&rb=0302)

[41] Điều này cũng đúng với tìm kiếm sau này của E. Miller, khi ông trưng ra dẫn chứng này:

"Chương trình của Cần Lao Nhân Vị đi theo con đường của chủ nghĩa công đoàn, ủng hộ việc đồng

quản lý công nghiệp quốc gia bởi đại diện của giới tư bản và lao động và sự tham dự của công nhân

vào lợi nhuận và phát triển kỹ thuật của những ngành công nghiệp. Đảng đã nắm một vị thế mạnh

trong việc ủng hộ cải cách điền địa cũng vì lý do này, là quyền sở hữu là quyền lợi của người công

nhân"; Times of Vietnam Weekly, 25 tháng 2, 1956, trang 9..

[42] Những điều xác quyết của Cao Xuân Vĩ trùng hợp với những nghiên cứu của E. Miller.

Ngoài hoạt động bí mật của đảng Cần Lao Nhân Vị, Ngô Đình Nhu còn có những tổ chức khác công

khai hơn. Ông liên minh với nhà hoạt động và tổ chức công đoàn kỳ cựu Trần Quốc Bửu, đã nhiều thời

kỳ có quan hệ với nhóm Cao Đài và Việt Minh. Vào cuối những năm 1940, sau khi vỡ mộng với chủ

nghĩa cộng sản, Trần Quốc Bửu theo tổ chức nghiệp đoàn lao động của Pháp. Nhờ đó, Trần Quốc

Bửu đã học những tư tưởng và những sách lược của phong trào công đoàn mậu dịch Dân chủ Công

Giáo. Sau chuyến đi ngắn đến châu Âu, Trần Quốc Bửu trở về Việt Nam năm 1949 và bắt đầu xúc tiến

tổ chức bất hợp pháp công đoàn những công nhân thành phố và nông thôn. Năm 1952, Quốc gia Việt

Nam thay đổi về luật lao động khiến ông Bửu hợp pháp hoá liên minh những công đoàn của ông dưới

tên gọi "Liên minh Công nhân Công Giáo Việt Nam" và là thành viên của Liên minh Công đoàn Mậu

dịch Công Giáo giáo Thế giới có trụ sở tại Brussels. Vào năm 1953, Ngô Đình Nhu liên hệ thân thiết

với Liên minh Trần Quốc Bửu. Tháng Hai năm đó, Ngô Đình Nhu và tổ chức của ông bắt đầu xuất bản

tạp chí Xã hội ở Sài Gòn, mạnh mẽ ủng hộ Trần Quốc Bửu và liên minh của ông. Tạp chí này công

khai ủng hộ chủ nghĩa công đoàn, và còn mạnh mẽ ủng hộ thành lập những tổ chức hợp tác công

nhân và nông dân - một lập trường báo trước chính sách mà Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu sẽ thi

hành một khi đã trở thành những lãnh đạo của miền Nam Việt Nam. Chắc chắn có hơi hướng đấu tranh

với liên minh công nông của tổ chức Cộng Sản ở miền Bắc sau nay.

[43] Nguyễn Văn Minh, sđd., t. 423.

51 | T r a n g

[44] Nguyễn Bá Cẩn: Đất Nước Tôi. Hồi ký chính trị, khổ 5x8, gần 600 trang, 20 chương không

kể lời tựa.. Riêng 3 chương cuối 18-19 và 20 nói về nguyên nhân sự sụp đổ miền Nam và nhận định

về đất nước Việt Nam trong tương lai. http://lenduong.net/spip.php?article4795 / 17/9/2003 , trang 70

[45] Đại Nam Thực Lục Chính Biên, quyển XXVII, tr. 45

[46] Trần Vinh: Kỷ Niệm 50 Năm Thành Lập Các Trại Định Cư tại Miền Nam và Công Lao

Của Các Vị Cha Già. II Cuộc Di Cư Năm 1954.

http://www.dunglac.org/index.php?m=module2&v=detailarticle&id=60&ia=160 [47] Trần

Vinh, tài liệu đã dẫn trên

[48] Nguyễn Đức Cung, sđd., t. 80; Nguyễn Đức Cung Từ Ấp Chiến Lược đến biến cố Tết

Mậu Thân... 22/01/2008 lúc 02:39:13 EST.

http://www.thongluan.org/vn/modules.php?name=News&file=article&sid=2479

[49] Ủy ban giúp Phủ Tổng Ủy duy trì trật tự, an ninh; cấp phát, phân phối tiền bạc, thuốc men,

vải vóc; phụ trách các hoạt động văn hóa, tinh thần. Ủy ban cũng vận động các tổ chức từ thiện quốc

tế ủng hộ tinh thần, vật chất cho đồng bào di cư. Ủy ban còn bênh vực, tố cáo trước dư luận thế giới

về những vụ việc Cộng Sản ngăn cản, bách hại những người muốn di cư đi tìm tự do.

[50] Hoàng Đình Hiếu: "Di Dân Nghệ Tĩnh Bình Với Sứ Mạng Lịch Sử". Tuyển Tập Gia Đình

Thánh Tự 1957-2007. USA, 2007, 292 trang, khổ A4. tt.176-200. Trích Cao Văn Luận: Bên Giòng Lịch

Sử, Hồi Ký 1940-1965. Nhà Xuất Bản Trí Dũng, Sàigòn, 1972. Chương "Công đầu của Tổng Thống

Diệm, định cư 1.00.000 ngưòi", tt.245-256.

[51] Giám Mục Joseph J. Harnett (1910-1986), trực tiếp điều khiển các dự án cứu trợ người tị

nạn cho Cơ Quan Viện Trợ Công Giáo Mỹ suốt gần bốn thập niên, mới qua đời Thứ Tư vì bệnh ung

thư tại Biệt Thự Thánh Giuse , một nhà dinh dưỡng của một linh mục gắn liền với Bệnh Viện Chúa

Thương Xót tại Darby, Penn. Ngài thọ 76 tuổi và cư ngụ tại Immaculata, Pa.

Ngài phục vụ nhiều nơi trong đó có châu Á trước khi nghỉ hưu năm 1984. Lúc qua đời, ngài

đang làm tuyên úy cho học viện Immaculata College.

Năm 1954, khi quyền lực người Pháp báo hiệu chấm dứt tại Đông Dương, ngài được sai đến

Sàigòn để thiết lập chươngrình viện trợ chí nguyện đầu tiên của Mỹ tại Việt Nam. Sauk hi rời Việt Nam

ngài tiếp tục phục vụ ở nơi khác cho đến khi trở về nghỉ hưu tại Philadelphia năm 1984

Joseph John Harnett sinh ngày 23/12/1910 tại Philadelphia. Ngài tốt nghiệp Cử Nhân Văn

Chương năm 1930 tại Chủng Viện Thánh Charles tại Overbrook, một vùng ngoại ô Philadelphia. Trong

năm đó, ngài đi Rôma học tại Chủng Viện Lateran trước khi được thụ phong linh mục năm 1935. Ngài

trở về Philadelphia và dậy tại trường trung học Thánh Thomas ở Philadelphia và tại chủng viện Thánh

Charles trước khi xuống tầu dấn thân vào Các Công việc của Cơ Quan Viện Trợ Công Giáo ở nhiều

nơi trên thế giới Ngài có 1 người chi gái và bốn anh em trai tại Mỹ

http://query.nytimes.com/gst/fullpage.html?res=9B0DE6DF153FF93BA1575BC0A961948260

[52] Tham khảo Trần Vinh, sđd.

http://www.dunglac.org/index.php?m=module2&v=detailarticle&id=60&ia=160

[53] Nxb. Nam Á, Paris, 1995, tr. 55., dẫn theo NĐC, Sđd.

[54] Vẫn theo tác giả Trần Vinh, Quá Trình Định Cư diễn ra như sau

"Vừa mới chấp chánh, chính phủ Ngô Đình Diệm phải đương đầu với nhiều thế lực chống đối:

người Pháp, số quân nhân thân Pháp, các giáo phái Miền Nam, vài đảng đối lập, v. v.. Đang khi đó

chính phủ lại phải dồn rất nhiều nỗ lực lo cho đồng bào di cư tị nạn Cộng Sản. Đáp lại, chính khối đồng

bào di cư đã trở thành khối hậu thuẫn đắc lực cho tân chính phủ. Trong nỗ lực định cư, lo cho đồng

52 | T r a n g

bào có nơi ăn chốn ở, an cư lạc nghiệp, chính phủ cũng lợi dụng khối đồng bào nạn nhân Cộng Sản

này để khai khẩn những vùng đất bỏ hoang và để phục vụ cho an ninh lãnh thổ, an ninh các trục lộ

giao thông quan trọng.

Ngay từ năm 1955, Phủ Tổng Ủy Di Cư đã đặt kế hoặch đưa đồng bào đi định cư tới nhiều địa

điểm khác nhau ở miền Nam, miền Trung và Cao nguyên, tùy theo nguyện vọng nghề nghiệp của đồng

bào. Năm sau, chính phủ mới công bố dụ số 28 vào ngày 30 tháng 4 năm 1956 về: các ruộng, đất bỏ

hoang phải được khai khẩn. Sau đây là một số trại định cư tiêu biểu:

- Tiểu thủ công thương nghiệp và chăn nuôi: các trại vùng Xóm Mới, Gò Vấp; các trại vùng Tam

Hà, Thủ Đức; các trại vùng Tân Mai, Hố Nai, Biên Hòa giúp an ninh cửa ngõ phía Bắc thủ đô Sài Gòn.

Các trại vùng Trung Chánh, Hốc Môn giúp an ninh cửa ngõ Tây Bắc thủ Đô Sài Gòn. Các trại vùng

Bình An, quận 8 giúp an ninh cửa ngõ phía Nam thủ đô Sài Gòn.

- Nông nghiệp trồng khoai mầu và cây công nghiệp: Các trại vùng Gia Kiệm, Dốc Mơ, Túc

Trưng, La Ngà, Phương Lâm, Bảo Lộc, Di Linh, Đức Trọng... giúp khai thông và duy trì an ninh cho

quốc lộ 20 từ ngã ba Dầu Giây đi Đà Lạt (trước đó không xử dụng được). Các trại vùng Bình Giả,

Phước Tuy; các trại miền cao nguyên Trung phần ở Đức Lập, Ban Mê Thuột, Pleiku, Kontum...giúp mở

mang đất mới và an ninh lãnh thổ.

- Nông nghiệp trồng lúa nước và chăn nuôi: Các Đức Hòa, Đức Huệ; các trại An Hoá, An Hiệp,

Thành Triệu, Bến Tre; các trại Bà Bèo, Long Định, An Đức, Mĩ Tho; trại Phụng Hiệp, Cần Thơ; Các trại

vùng Cái Sắn, Rạch Giá...giúp khai khẩn đất bỏ hoang và an ninh lãnh thổ.

- Ngư nghiệp: Các trại Thanh Bồ, Đức Lợi, Đà Nẵng; các trại ở Phan Rang, Phan Thiết; các trại

Phước Lâm, Phước Tỉnh, Phước Tuy và các trại từ Cát Lở tới Bãi Dâu, Vũng Tầu; trại Phú Quốc...

- Một số trại nằm trong phạm vi thủ đô của đồng bào làm công tư chức và tiểu thủ công nghệ,

như vùng Phú Nhuận, vùng Ngã Ba Ông Tạ." (Trần Vinh, đdt.)

[55] Trần Vinh, đdt.

[56] Xuất bản tại Springfield, Va.: Crestwood Books, 1964. Bryton Barron giới thiệu. 16 ảnh, bìa

mềm. viii, 98 p. (bản tiếng Pháp: Vietnam, Révélations d'un Témoin; Paris, Nouvelles Editions

Latines, 1964: Bao bìa mỏng, 18.5cm x 12cm, 158tt + 4tt ảnh)

[57] "Một quốc gia quyết không chịu chết đói: Thách thức của nước Việt Nam Mới, New York,

Coeard-McCann, Inc., 1960, in lần 1, 121t., bìa cứng, giá bán $15.00"

[58] Tháng Sáu năm 1953 Tướng J.W. O'Daniel câm đầu một phái đoàn khảo sát đến Sài Gòn.

Ông gặp gỡ với tướng Henri Navarre, Chỉ Huy Trưởng Lực Lượng Liên Hiệp Pháp tại Đông Dương, và

tiếp nhận kế hoạch giành chiến thắng của người Pháp.

Tháng Tư 1954, Iron Mike chấp thuận cho việc tiết chế cấp bậc ông vào hàng Trung Tướng, đảm l ãnh

chỉ huy Toán Cố Vấn Quân Viện (Military Assistance Advisory Group - MAAG) tại Đông Dương. Trong

khi giữ chức Trưởng Toán Cố Vấn Quân Viện, thì ông còn cầm đầu Phái Bộ Chỉ Giáo và Các Quan Hệ

Huấn Luyện (Training Relations and Instruction Mission - TRIM), sau khi Hoa Kỳ lãnh trách nhiệm huấn

luyện Quân Lực Việt Nam vào tháng Hai 1955. http://www.vietnamgear.com/bio/7.aspx

[59] Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam (20-12-1960)

Trong lúc du kích Cộng Sản ở miền nam gặp nhiều khó khăn do chính sách Ấp Chiến Lược,

Cộng Sản phải phát động phong trào đồng khởi nơi đồng bào miền Nam. Vì thế Mặt Trận Dân Tộc

Giải Phóng Miền Nam ra đời (20-12-1960) nhằm khủng bố và cưỡng bức dân chúng đánh phá ấp

chiến lược, sát hại quân dân cán chính của Việt Nam Cộng Hòa I, tuyên truyển "đoàn kết toàn dân

đánh bại chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, đánh đổ nguỵ quyền tay sai, giải phóng miền Nam,

tiến tới thống nhất Tổ quốc" Với đường lối khủng bố vừa dụ dỗ hứa hẹn dối trá vừa xử dụngbạo lực ấy,

Mặt trận Dân tộc Giải phóng đã cưỡng bức tập hợp dưới ngọn cờ của mình nhiều thành phần nhân

53 | T r a n g

dân, nhiều tổ chức và lấy cớ người Việt Nam có quyền chiến đấu trên toàn thể lãnh thổ Việt Nam, động

viên mọi người Việt nam yêu nước, kể cả ở Miền Nam, để cùng chống Mỹ cứu nước.

Mặt trận dân tộc giải phóng thực ra là một giải pháp chính trị được thành lập từ miền Bắc để có

chiếu bài mở rộng lôi kéo nhiều thành phần dân tộc, cưỡng bức, lừa dối tổ chức và động viên trên cả

ba lãnh vực: quân sự, chính trị và ngoại giao. Sau 30/4/1975, MTDTGPMN biến thể thành Mặt Trận Tổ

Quốc qui tụ những cá nhân và tổ chức thành công cụ của Đảng và Nhà Nước Việt Nam.

http://www.mattran.org.vn/GioithieuMT/LS_MTDTTN.html

Nguồn : todiep.com

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: #gautruckaka