THÔNG TIN THUYẾT MINH DU LỊCH CƠ BẢN TỈNH THANH HÓA
Phần 2.
*
13. Vườn quốc gia Pù Luông (Thanh Hóa)
Vườn quốc gia Pù Luông là khu bảo tồn thiên nhiên nằm phía Tây Bắc tỉnh Thanh Hóa. Khu vực này thuộc địa phận hai huyện Quan Hóa và Bá Thước. Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Luông được thành lập năm 1999, với diện tích 17.662 ha, gồm 13.320 ha phân khu bảo vệ nghiêm ngặt và 4.343 ha phân khu phục hồi sinh thái Pù Luông là tên gọi của đồng bào dân tộc Thái có nghĩa là đỉnh núi cao nhất trong vùng. Pù Luông được đánh giá là khu bảo tồn thiên nhiên có giá trị về khoa học, kinh tế xã hội và du lịch sinh thái. Cùng với Pù Hu, rừng ở khu vực Pù Luông đóng vai trò quan trọng trong việc phòng hộ đầu nguồn sông Mã ở tỉnh Thanh Hóa.
Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Luông cách vườn quốc gia Cúc Phương 25 km, được nối liền với phần đuôi của vườn quốc gia Cúc Phương bằng hai dãy núi đá vôi màu xám chạy song song. Ở giữa là những thung lũng lúa. Phía bắc và đông bắc của khu bảo tồn Pù Luông giáp các huyện Mai Châu, Tân Lạc và Lạc Sơn của tỉnh Hòa Bình. Kéo dài từ phía tây xuống phía nam của khu bảo tồn là dòng sông Mã, từ điểm giáp giới của huyện Quan Hóa với huyện Mai Châu (tỉnh Hòa Bình) qua khu vực thị trấn Hồi Xuân (Quan Hóa) xuống gần thị trấn Cành Nàng (Bá Thước).
Với diện tích rất lớn thì đây là khu vực rừng đá vôi đất thấp lớn nhất còn lại ở miền Bắc Việt Nam với 3 kiểu chính là rừng rậm trên đất thấp, núi thấp, rừng trên núi đá vôi, các thảm thực vật măng tre nứa và cây bụi. Không chỉ vậy vườn quốc gia này còn sở hữu đỉnh Pù Luông cao 1.700 m và là điểm trekking được nhiều người yêu thích. Với 5 giờ đồng hồ để chinh phục mục tiêu, bạn sẽ có những trải nghiệm khó quên.
*
14. Suối Cá thần.
Cách trung tâm thành phố Thanh Hoá hơn 80 km về phía Tây Bắc, suối cá thần Cẩm Lương (còn gọi là mó Ngọc, suối Ngọc) nằm dưới chân núi Trường Sinh, thuộc bản Lương Ngọc, xã Cẩm Lương huyện Cẩm Thủy. Giữa bốn bề núi đá vôi dựng đứng, dòng suối Ngọc dài chỉ hơn trăm mét, rộng 3-4 m. Tại đây có hàng chục nghìn con cá (nặng từ 2 đến 8 kg, cá chúa nặng tới 30 kg) hình thù rất lạ, đủ màu sắc. Mỗi khi bơi, thân cá lại phát sáng.
Suối cá thần Cẩm Lương còn được người dân địa phương gọi là Mó Ngọc hay suối Ngọc, nằm bên chân núi Trường Sinh, thuộc bản Ngọc, xã Cẩm Lương, huyện Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa. Đây được xem là một trong những điểm du lịch hấp dẫn không thể bỏ qua khi du lịch ở Thanh Hóa. Theo đó, suối cá thần Cẩm Lương trải dài khoảng 2km, chảy từ một hang đá ở chân núi, đổ ra cánh đồng thung lũng nằm thoai thoải bên bờ nam sông Mã. Tại đây, có rất nhiều đàn cá tập trung sinh sống với mật độ dày đặc và được người dân địa phương gìn giữ tôn kính như cá thần. Đoạn suối tập trung cá đông đúc nhất là cách khu vực cửa hang khoảng 100m, tại đây nước trong vắt du khách có thể thỏa thích ngắm nhìn hàng nghìn con cá chen chúc nhau bơi lội.
Mùa cạn, lòng suối Ngọc chỉ sâu 20-40 cm, nước trong vắt, có thể đưa tay xuống nước vuốt ve những con cá. Tuy mật độ cá dày đặc nhưng nước suối không tanh hôi. Dân bản Lương Ngọc vẫn thường gánh nước suối về nấu ăn, tắm giặt. Điểm du lịch kỳ thú này mỗi năm thu hút hàng nghìn lượt khách trong và ngoài nước.
Một điều lạ lùng là những con cá ở suối Cẩm Lương chỉ bơi quanh quẩn đúng một đoạn suối dài hơn 100 m và không bơi ra xa hơn nữa. Cá ở đoạn suối này đặc biệt chỉ ăn lá cây để sống chứ không ăn thịt đồng loại. Nước ở suối cá thần trong vắt và không có mùi tanh, có thể dùng cho sinh hoạt hoặc nấu nướng. Đây là một điều khó lý giải mà các nhà khoa học vẫn còn đang nghiên cứu.
Suối cá có từ bao giờ không ai biết rõ. Xung quanh nó ẩn chứa nhiều câu chuyện lạ kỳ, mang tính liêu trai và người dân địa phương vẫn thường truyền tai nhau câu chuyện là “Từ thuở khai thiên lập địa, vào một năm nọ thời tiết khắc nghiệt, hạn hán, mất mùa quanh năm, đẩy người dân bản Ngọc vào cuộc sống túng khó. Có đôi vợ chồng trong bản hiếm muộn, đi làm đồng về và nhặt được quả trứng có hình thù lạ. Người vợ đem quả trứng ra suối Ngọc thả xuống nhưng quả trứng không chịu rời khỏi tay. Hai vợ chồng quyết định đem quả trứng về nhà đặt vào ổ gà đang ấp, quả trứng lại nở ra một con rắn. Sợ quá người chồng lại đem con rắn ra suối Ngọc thả nhưng đến tối con rắn lại bò về gia đình vợ chồng này. Sau đó họ quyết định nuôi con rắn đó. Thật bất ngờ từ đó đồng ruộng, hoa màu luôn tốt tươi, đời sống nhân dân ấm no. Và chàng rắn này đã trở thành vị cứu tinh được mọi người tôn sùng. Nhưng đến một hôm trời nổi giông, bão, sấm chớp. Sau cơn giông bão, mọi người thấy xác rắn nằm bên núi Trường Sinh, đầu hướng về bản Ngọc. Thương tiếc cho chàng rắn, mọi người đem xác chôn dưới chân núi Trường Sinh và lập đền thờ gọi là Ngọc Từ. Từ đó ở suối Ngọc dưới chân núi Trường Sinh xuất hiện đàn cá thần luôn quây quần trước đền Ngọc Từ để hầu hạ chàng rắn…”.
Note: phía trên Suối Cá thần còn một động gọi là động Cây Đăng. Do đi quá lâu rồi, từ khi còn chưa có cả đèn đóm gì nên gần như không nhớ được là có gì bên trong ra sao. Chỉ nhớ là nó khá mạo hiểm và rất hấp dẫn. Đi vào 1 đường và đi ra một đường. Không quay lại cửa vào ban đầu.
*
15. Thành nhà Hồ hiện nay nằm trên hai xã Vĩnh Tiến và Vĩnh Long (Vĩnh Lộc, Thanh Hoá). Đây là công trình kiến trúc bằng đá độc đáo có một không hai tại Việt Nam. Được Hồ Quý Ly cho xây dựng vào năm 1397, thành này còn được gọi là Tây Đô (hay Tây Giai) để phân biệt với Đông Đô (Thăng Long - Hà Nội). Xây xong thành, Hồ Quý Ly đã dời đô từ Thăng Long về Tây Đô.
Theo sử liệu, vào năm 1397, trước nguy cơ đất nước bị giặc Minh từ phương Bắc xâm lăng, Hồ Quý Ly đã chọn đất An Tôn (nay là Vĩnh Lộc, Thanh Hóa) để xây dựng kinh thành nhằm chuẩn bị cho một cuộc kháng chiến lâu dài, đồng thời cũng là cách để hướng lòng dân đoạn tuyệt với nhà Trần.
Thế đất được chọn nằm ở khu vực giữa sông Mã và sông Bưởi, phía bắc có núi Thổ Tượng, phía tây có núi Ngưu Ngọa, phía đông có núi Hắc Khuyển, phía nam là nơi hội tụ của sông Mã và sông Bưởi.
Được xây dựng bằng những phiến đá dài trung bình 1,5 m, có tấm tới 6 m, xếp chồng lên nhau mà không cần chất kết dính, hơn 600 năm qua, hệ thống tường bao quanh thành nhà Hồ vẫn còn khá nguyên vẹn.
Toàn bộ tường thành và bốn cổng chính được xây dựng bằng những phiến đá vôi màu xanh, được đục đẽo tinh xảo, vuông vức, xếp chồng khít lên nhau. Các phiến đá dài trung bình 1,5 m, có tấm dài tới 6 m, trọng lượng ước nặng 24 tấn. Tổng khối lượng đá được sử dụng xây thành khoảng 20.000 m3 và gần 100.000 m3 đất được đào đắp công phu.
Những phiến đá nặng hàng tấn chỉ xếp lên mà không cần chất kết dính vẫn đảm bảo độ bền vững. Qua hơn 600 năm cùng những biến cố thăng trầm của lịch sử và tác động của thời tiết, hệ thống tường thành còn khá nguyên vẹn, dù thời gian xây dựng rất gấp gáp, chỉ trong khoảng 3 tháng.
Theo sử sách trong thành còn rất nhiều công trình được xây dựng, như điện Hoàng Nguyên, cung Diên Thọ (chỗ ở của Hồ Quý Ly), Đông cung, tây Thái Miếu, đông Thái miếu, núi Thọ Kỳ, Dục Tượng... rất nguy nga, chẳng khác gì kinh đô Thăng Long.
Thành nhà Hồ gồm 3 bộ phận, La thành, Hào thành và Hoàng thành. La thành là vòng ngoài cùng, chu vi khoảng 4 km. Hào thành được đào bao quanh bốn phía ngoài nội thành, cách chân thành theo các hướng khoảng 50 m. Công trình này có nhiệm vụ bảo vệ nội thành.
Hoàng thành được xây dựng trên bình đồ có hình gần vuông. Chiều Bắc - Nam dài 870,5 m, chiều Đông - Tây dài 883,5 m. Bốn cổng thành theo chính hướng Nam - Bắc - Tây - Đông gọi là các cổng Tiền - Hậu - Tả - Hữu. Mỗi cửa đều được mở ở chính giữa. Các cổng này được xây dựng theo kiến trúc hình mái vòm. Những phiến đá trên vòm cửa đục đẽo hình múi bưởi, xếp khít lên nhau.
Cổng tiền (cổng phía Nam) là cổng chính, có ba cửa. Cửa giữa rộng 5,82 m, cao 5,75 m, hai cửa bên rộng 5,45 m, cao 5,35 m. Ba cổng còn lại chỉ có một cửa. Tường thành cao trung bình 5-6 m, chỗ cao nhất là cổng tiền cao 10 m.
Nối liền với cửa Nam là con đường Hoa Nhai (đường Hoàng Gia) lát đá dài khoảng 2,5 km hướng về đàn tế Nam Giao (nơi nhà vua tế lễ) được xây dựng vào tháng 8/1402.
*
16. Biển Hải Tiến.
Nhưng mấy năm trở lại đây, khi Hải Tiến và Hải Hòa được đầu tư và truyền thông rộng rãi, nhiều du khách đã lựa chọn 2 địa điểm này thay vì chỉ đến Sầm Sơn như trước. Biển Hải Hòa nằm ở khu vực miền Nam Thanh Hóa, còn Hải Tiến thuộc khu vực phía Bắc. Nếu tính từ Hà Nội đi Hải Tiến thì khoảng cách sẽ gần hơn rất nhiều. Vẻ đẹp của khu du lịch Hải Tiến là một bãi biển hoang sơ và thơ mộng. Biển Hải Tiến nằm cách Hà Nội 175 km, và cách thành phố Thanh Hóa 30 km, dọc theo quốc lộ 1A, qua cầu Tào Xuyên rẽ trái và đi thẳng thêm 15km là tới nơi. Chỉ mất khoảng 3 tiếng đồng hồ đi Ô Tô là có thể cập bến nhanh chóng.
*
17. Đền Cô Chín Sòng Sơn
Đền nằm tại Phường Bắc Sơn, thị xã Bỉm Sơn. Nếu từ Hà Nội về Thanh Hóa thì đền Mẫu Sòng nằm ở bên phải dường thì đền Cô Chín Sòng nằm bên trái. Hai đền chỉ cách nhau khoảng 500 m.
Đền Cô Chín Sòng Sơn là nơi thờ chính của Cô Chín Sòng Sơn và cũng là nơi được coi là thờ chính của Mẫu Cửu, Chầu Cửu. Do danh tiếng của Cô Chín Sòng Sơn quá lớn ,nên đôi khi chúng ta chỉ nghĩ rằng đây là nơi thờ chính của riêng Cô Chín. Hiện nay, trong cung cấm của Đền Cô là nơi thờ Mẫu Cửu. Còn Chầu Cửu có một cung riêng ở bên tay trái của Cung Cô Chín.
Thân thế: Theo truyền thuyêt, Cô Chín vốn là một tiên nữ trên Thiên Đình, có một lần vô tình đánh vỡ một chén ngọc nên Ngọc Hoàng giáng xuống hạ giới để theo hầu Mẫu Liễu Hạnh. Khi được giáng trần Cô đã bôn ba bốn phương khắp ngả trời Nam, sau về đến đất Thanh Hóa thấy cảnh lạ vô biên, cô hài lòng liền hội họp thần nữ năm ba bạn cát, lấy gỗ cây sung làm nhà, còn cây si mắc võng. Nhân dân cầu đảo linh ứng liền lập đền thờ. Có lẽ vì vậy, người ta sau này hay dâng Cô Chín võng đào.
Hiện chưa thấy tài liệu nào là cô giáng sinh vào một nhân vật nào trên trần gian. Như vậy thân thế về cô mang tính huyền ảo và như vậy thân thế về Cô nghiêng về phía thiên thần chứ không có hình dáng của nhân thần.
Cô Chín là một thánh cô có nhiều quyền phép. Những người có căn Cô Chín thường có khả năng xem bói, chữa bệnh và gọi hồn. Tuy nhiên, trong khi giáng hầu Cô Chín chỉ hay cho thuốc chữa bênh.
Cô Chín rất hay ngự đồng. Hết các thanh đồng khi Hầu Thánh đều có hầu giá Cô Chín. Khi giáng hầu Cô Chín thường mặc áo hồng phơn phớt màu đào phai và cô múa quạt tiến Mẫu. Đôi khi Cô cũng múa cờ tiến Vua, cũng có khi cô thêu hoa dệt lụa, rồi lại múa cánh tiên. Ai cầu đảo cô đều sắm sửa lễ vật: Nón đỏ, hài hoa, vòng hồng hay võng đào.
Có lẽ Cô Chín là một Thánh Cô nổi tiếng nhất trong các Thánh Cô nên hầu hết các đền, phủ đều có thờ Cô. Tại các đền phủ, Cô Chín có thể có ban thờ riêng hoặc thờ chung với Cô Bơ hoặc thờ chung trong Cung Tứ Phủ Thánh Cô; hoặc Cô được thờ ở một Lầu Cô riêng biệt.
Lịch sử đền Cô Chín Sòng Sơn: Đền Sòng được xây dựng thời Cảnh Hưng triều vua Lê Hiển Tông (1740- 1786) tại xã Bỉm Sơn – Thanh Hóa. Tương truyền là có một ông lão cầm chiếc gậy tre khô cắm xuống đất làng Cổ Đam mà khấn rằng: “Nếu gậy tre này tươi tốt thì xây đền thờ Liễu Hạnh công chúa”. Quả nhiên lời huyền phán ấy trở nên màu nhiệm. Gậy tre trở nên xanh tươi, bén rễ, đâm chồi tỏa lá tốt tươi lạ thường. Người đời cho là điều lạ linh ứng, linh thiêng mới bảo nhau lập nên Đền Sòng trên mảnh đất ấy. Và lấy ngày 26/2 (âm lịch) hàng năm là ngày lễ chính diễn ra lễ hội – đây chính là ngày hiển linh, hiển thánh của Thánh Mẫu Liễu Hạnh.
Đền Sòng mặt hướng về phía Tây Bắc, trước đền có một hồ nước tự nhiên hình bán nguyệt quanh năm xanh trong đó là Hồ Cá Thần, tương truyền rằng trước đây hàng năm cứ đến cữ Tháng giêng, Tháng Hai có một đàn cá toàn thân màu đỏ lũ lượt kéo về bơi lội trong hồ, nhưng khi hết Lễ hội Đền Sòng (hết ngày 26 tháng 2 âm lịch) thì đàn cá tự nhiên không thấy nữa. Nhân dân quanh vùng nói rằng đó là các Nàng tiên trên thượng giới hoá phép về hầu Tiên chúa Thánh Mẫu Liễu Hạnh…
Tại sao Cô Chín Sòng còn gọi là Cô Chín Giếng: Tương truyền Cô Chín – chính là Cửu Thiên Huyền Nữ – con gái thứ 9 của Ngọc hoàng Thượng đế. Khi tiên cô Cửu Thiên Huyền Nữ (tức Cô Chín) giáng trần, cô bán nước ở cổng đền Ba Dọi. Ban đầu những kẻ người trần mắt thịt không tin, nghĩ cô là yêu quái nên quở trách, đánh đuổi và tìm mọi cách diệt trừ. Vì tức giận nên cô đã về tâu với thiên đình cho thu giam hồn phách những người này rồi hành cho dở dại dở điên.
Với phép thần thông quảng đại lại có biệt tài xem bói trong những năm chinh chiến loạn lạc, cô đã phò vua giúp nước bằng cách tiên đoán trận mạc, nhờ đó trăm trận trăm thắng. Với công lao to lớn, vua đã truyền dân lập đền thờ cô. Trước đền lúc đó có đến 9 miệng giếng tự nhiên do đền cô cai quản. Vì thế có câu: Cố Chín quyền cai chín giếng” là vậy. Vậy nên Cô Chín còn gọi với tên Cô Chín Giếng. Nghe đâu các giếng này đã bị lấp khi trải qua nhiều thời kỳ.
Chuyện ly kỳ về 9 giếng mới ngày nay:Ông Hà Văn Châu – Người trông coi đền nhiều năm: “Tôi không nhớ chính xác vào năm nào, chỉ nhớ đó là một năm hạn hán, khi nước sinh hoạt khan hiếm, người dân quanh vùng đã đi tìm nguồn nước đào giếng. Cứ 4-5 người chung nhau đào, họ tìm đến suối Sòng khoan giếng.
Đào liên tục 8 miệng giếng vẫn chưa tìm thấy một giọt nước nào. Kiên trì đặt mũi khoan tới miệng giếng thứ chín, khoan sâu được 8 – 9 m thì bất ngờ xuất hiện một mạch nước lớn đùn lên ào ào. Cả làng được cứu sống nhờ mạch nước này và cũng từ đây xuất hiện 9 miệng giếng thiêng.
Sau đó, có những đoàn ở Hà Nội về thăm dò, đo đạc, nhưng không có kết quả chính xác về độ sâu của giếng. Càng xuống sâu nước càng lạnh. Trực quan địa hình cùng quá trình lặn xuống lòng sâu, họ kết luận: Dưới giếng có một dòng sông ngầm, dự đoán chảy từ dãy núi Tam Điệp (Ninh Bình) ra cửa biển Thần Phù (Nga Sơn)”.
Ở thời kỳ đầu khi người ta phát hiện khu giếng thiêng này, ở miệng giếng thứ 9 rộng, sâu như một hườm đá được đẽo gọt tỉ mỉ xuất hiện cá chuối, cá trắm từng đàn, có con to như bắp đùi người lớn. Người dân đổ xô đi câu, đánh kích, vây lưới bắt cá về bán. Trong số những người bắt cá bằng kích điện, có hai trường hợp chẳng may bị điện giật chết. Chuyện đánh kích điện chết vì điện giật thì không lạ, nhưng người dân nhân việc này tuyên truyền đó là cá thần báo oán, từ đó việc đánh bắt cá ở đây bặt dừng.
Vào mùa hè, khách hành hương sau khi lên đền Cô Chín đều xuống dòng suối này tắm vì có nhiều đồn thổi tắm nước suối tiên sẽ trắng da, xanh tóc, khỏe mạnh phi thường. Nhưng cũng đã có tới 2-3 vụ chết đuối ở đây.
Do nước giếng không bao giờ cạn, đặc biệt miệng giếng thứ 9 sâu không đáy rất nguy hiểm, những miệng giếng còn lại có cạn cũng lút đầu người lớn, nên ban quản lý đền đã gác tạm tấm bê tông lên miệng giếng, đứng trên cao nhìn xuống ai cũng tưởng giếng cạn, có đáy” – anh Huấn nói. Như vậy, việc có người chết đuối cũng là điều được lý giải.
Ở đây còn có câu chuyện, rằng vào mùa mưa, nước suối dâng cao, sau khi khấn vái trên đền xong xuôi, các con nhang có đem lộc thả xuống suối, trong đó có quả bưởi vàng và những xấp tiền xu 200 đồng đã được đánh dấu theo bản hội. Chẳng biết có phép nhiệm màu nào mà chỉ mấy ngày sau, quả bưởi đó đã có mặt ở một giếng khác thuộc địa phận xã Hà Thanh. Cũng trong tháng đó những đồng xu 200 được khắc chữ phía sau đã được cư dân vùng biển Nga Sơn ở cách đó rất xa tìm thấy trong quá trình đi biển.
Những câu chuyện kỳ lạ đó vẫn còn truyền cho tới ngày nay mà chưa có một lời lý giải xác đáng. Có lẽ dòng sông ngầm dưới giếng (như các nhà khoa học đã phán đoán) là một sự lý giải có căn cứ?!?
Hết phần 2. Mời các bạn đón đọc tiếp phần 3.
Tổng hợp bởi Lê Luân
Ảnh Internet
Bài viết được tổng hợp và chỉnh sửa từ nhiều nguồn. Vui lòng trích dẫn nguồn cụ thể khi chia sẻ!
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top