múa rối nước

Múa rối nước là loại hình nghệ thuật đặc sắc của văn hóa lúa nước, ra đời hầu như cùng lúc với sự hình thành của nền văn hóa Đại Việt .Do tính đặc sắc, nên từ nghệ thuật mang yếu tố dân gian , múa rối nước đã nhanh chóng trở thành nghệ thuật truyền thống có thể sánh vai cùng tuồng , chèo là những bộ môn nghệ thuật có vị trí cao trong nền sân khấu dân tộc . Tinh hoa của múa rối nước đã có sự ngưỡng mộ trong làng bạn bè thế giới . Sân khấu của múa rối nước được xem là bộ môn nghệ thuật “độc nhất vô nhị” . Tuy nhiên do sự xuất hiện sau các môn nghệ thuật khác nên không tránh khỏi những hạn chế cộng với mục đích thương mại đã làm cho loại hình nghệ thuật này ngày càng mai một và lãng quên . Vì thế mục đích đặt ra là làm như thế nào để khắc phục những hạn chế, bảo tồn và phát huy múa rối nước dân gian .
Từ xa xưa con người và tự nhiên luôn gắn bó với nhau, hỗ trợ cho nhau, con người biết dựa vào tự nhiên để sản suất và đồng thời cũng tạo ra những loại hình nghệ thuật độc đáo, miền đồng bằng châu thổ sông Hồng là cái nôi sinh ra nghệ thuật múa rối nước. 
Múa rối có ở nhiều dân tộc, nhiều quốc gia, nhưng múa rối nước thì vô cùng độc đáo bởi múa rối nước trên thế giới chỉ có duy nhất ở việt nam. 
Nghệ thuật múa rối nước là một nghệ thuật dân gian tổng hợp kết hợp giữa nghệ thuật tạo hình với kỷ xảo biểu diển,kết hợp giữa động tác của con rối với lời thoại,lời ca,nhạc điệu,con rối tưởng như vô tri vô giác nhưng lại truyền cảm mạnh đó là nhờ:kịch bản,dựng được tích trò,có xung đột,có thắt nút,có mở nút , nói chung là kết thúc có hậu thỏa mãn người xem .
I. TÊN GỌI VÀ CÁC LOẠI HÌNH CON RỐI
Theo P.L Mi-nhon(Mignon ) trong cuốn bách khoa phổ thông,từ Ma-ri-on-net
Marionnette – múa rối) là một từ giảm nhẹ của ( Mariole ) thời trung cổ dung để chỉ những bức tượng Đức Mẹ đồng trinh nhỏ. Người ta không thấy từ này trong ngôn ngử khác, từ pupe trong tiếng Đức và Puppet ( pupe) trong tiến anh được dùng để gọi con rối, vì về ngoại hình con rối giống con pupe.
Trong nước ta có múa rối cạn và múa rối nước. múa rối cạn là chúng ta thường thấy trên thế giới như rối tay, rối que. Rối dây.
Rối tay: bằng giấy, bằng vải có đầu bằng gổ, bàn tay của người lồng vào như là ghi-nhôn ( guinol ) của pháp và bu-ra-ti-ri (burattini ).
Rối que: hai bàn tay của con rối – dính vào que bằng thép mà người điều khiển dùng que mà làm cho con rối cử động. loại này rất thông thường ở các nước như. Rượng đầu khối lổi của Trung Quốc, Oa- yănggô-lách (wayanggolek) của người Indoneisa. Trong nước ta cũng có nhiều mục bằng rối que rất hay.
Rối dây: đầu , tay,chân, lưng,con rối đều mắc dây và người điều khiển từ trên xuống thấp,loại này được phổ biến khắp thế giới như Fan-tô-chi- i(fantocini),Ca-tha-ta-ly(Kathaputali)của Rajassthan(một tiểu bang của Ấn Độ)
Rối điều khiển ngang: loại bunraku(Nhật),từ  mỗi con rối rất to từ 8 tấc đến 1 thước ba bề cao,do ở điều khiển:1 người lo về động tác của cái đầu(kể cả mắt và miệng)và tay mắt, một người lotay trái, và người thứ ba lo điều khiển hai chân. Rối bóng:  loại này cũng rất được phổ - biến nhất là các nước ở Đông Nam Ắ như Nang-shek ở campuchia và wa-yang-ku-lit ở Indonesia hay Mã Lai.
Có người chia làm ba loại rối tuy theo vị trí của người điều khiển.
• Từ dưới lên trên như lọai rối tay, rối que.
• Từ trên xuống như loại rối dây.a
• Từ sau ra trước hay là điều khiển ngang như loại rối Nhật.
Rối nước của ta không thuộc các loại kể trên, đặc biệt khong phải rối tay, rôi que,rối dây. Mà lại rối sào phù hợp với rối dây. Mỗi cây sào dài khoản 2  3 thước, có khi dài hơn. Người diển viên điều khiển được dể dàng là nhờ sáo ở dưới nước . Nước bùn che cả sào, dây và các máy móc đặt trước để thể hiện những trò đặc biệt như bắt cờ , đánh đu.
II . NGUỒN GỐC VÀ SỰ RA ĐỜI CỦA MÚA RỐI NƯỚC Ở VIỆT
NAM
       2.1 Rối nước : (ở Việt Nam sách vở củ ghi chép là trò ổi lổi). 
Theo truyền thuyết ( huyền thoại ) lịch sử trò rối nước ra đời từ thời xây thành Cổ La. Kinh An Dương Vương Năm 225 trước công nguyên.
Theo sử sách: hình thành từ lâu đời, ra đời và tồn tại cùng với nền văn minh lúa nước ở đồng bằng Sông Hồng từ thời các vua Hùng
Và cụ thể hơn múa rối nước ra đời từ thời vua Lý Nhân Tông năm 1121 trên bia Sùng Thiên Diện Linh đặt tại Chùa Long Đọi xã Đội Sơn huyện Duy Tiên tỉnh Hà Nam cho đến nay múa rối nước đã được gần 900 tuổi.
     2.2 Các giai đoạn của múa rối nước ở Việt Nam:
+ Thờikỳ 1: ở thời kỳ này múa rới nước chỉ là hình thức trò chơi của nông dân lao động,thợ thu công, nông dân, không phổ biến rộng,hoạt động trong phạm vi nhỏ,một vài gia đình,một vài dòng họ,một vài địa phương diển ra vào thế kỹ XI trước thời lý .
+Thời kỳ 2:  Đây thời kỳ hình thành một nhóm người chơi rối  của nhân dân lao động, tiến lên thành một phường, một gánh, bắc đầu diển ở địa phương đông ngươi xem, lan rông ra ngoài xóm làng , được nhiều vùng lân cận, đình chùa biết đến. diển ra trong ngày hội lễ lớn ( XI ) trước nhưng rầm rộ nhất vào thời lý trần. +Thời kỳ 3: phong trào lan rộng từ các vùng có nhiều cơ sở múa rối nước hoạt động, tiến đên các địa phương xa hơ,gin, và lan rộng khắp đồng bằng miền bắc nước ta.
Trong thời kỳ này các phường hội ganh đua nhau,giấu nghề,giữ bí mật,rối riết tìm những trò hay
+Thời kỳ 4:  Từ sau cách mạng tháng 8.
+Thời kỳ 5:  Thời kỳ lập lại hòa bình 1954.
+Thời kỳ 6:  Mỹ chấm dứt nén bom miền Bắc lần 2.
III . VÀI NÉT ĐẶC ĐIỂM CỦA MÚA RỐI NƯỚC :
- Làng quê : nơi diễn ra múa rối nước thường là các ao, hồ hay xung quanh những cánh đồng của làng quê .
- Lao động , nông dân : nội dung của múa rối nước xoay quanh những người lao động  , nông dân thường ngày vì đây là những hoạt động gần gũi gắn liền trong quá trình sản xuất, trong đời sống hằng ngày của họ .
- Không truyền cho người ngoài : theo nghệ sĩ múa rối Đinh Văn Tiêu , thuộc phường Đào Thục, xã Thùy Lâm, huyện Đông Anh. Hà Nội, trước kia ai muốn học nghề múa rối nước đều được ông Tổ nghề đích thân dạy bảo ngay từ đầu, chỉ nhửng ai xuất sắc mới được nhập phường , người mới được nhập ăn mặt chỉnh tề, mang lễ vật gồm có trầu câu , xôi và rượu trắng dâng lên ông tổ nghề . nghề múa rối cứ tuần tự truyền từ đời cha sang đời con . con gái và con rễ không được nhập phường .Nếu phường đồng ý kết nạp thì phải uống máu ăn thề :”suốt đời suốt kiếp chúng tôi phải giữ bí mật của nghề, nếu không chúng tôi và ba đời con cháu sẽ phải chết.
- Ông tổ của nghề múa rối nước :
Hầu hết các làng đều tôn Tự Đạo Hạnh  là vị thần bảo hộ cho loại hình nghệ thuật này. Pháp Từ Đạo Hạnh tên thật là Từ Lộ sống ở thế kỷ 11, đi tu khi cha ông bị một pháp sư làm hại .Ban đầu ông theo Thiền Tôn sau đó ông theo Mật Tông..
Bên cạnh việc sáng lập ra múa rối nước Từ Đạo Hạnh còn gắn liền với nhiều truyền thuyết khác như việc đầu thai thành Lý Thái Tông hay biến thành hổ của ông
Múa rối nước đề cập đến :
+ Đề cập đến vấn đề về tâm linh:
• Rước kiệu rời tượng.
• Rước kiệu trâu.
+Phản ánh tinh thần đấu tranh anh dung của dân tộc:
• Thần thoại tiên rồng.
• Rước trạng về làng.
+Nhân vật lịch sử,nguồn gốc dân tộc.
+ Các trò chơi dân gian:
• Đánh vật.
• Đánh đu.
• Đua thuyền.
• Đốt pháo.
+ Gồm các trò mang tính huyền thoại:
• Múa rồng.
• Múa cát tiên.
+ Những tác phẩm mô tả đời sống lao động sản xuất:
• Gỏi gạo.
• Cày bừa.
• Xay bọt.
• Kéo cưa.
• Quay tơ, dệt lụa.
  Để đáp ứng nhu cầu thị hiếu của khán giả các nghệ nhân củng tạo nhiều trò mới như: cu tí đánh dây, rước ảnh Bác Hồ, chiến thắng sông La.

IV NGHỆ THUẬT MÚA RỐI NƯỚC Ở VIỆT NAM :
       1.  Con rối:
   Con rối được các nghệ nhân làm bằng gổ, gổ tốt sẽ nặng và chìm, nên gổ sung là chất liệu thông dụng để tạo con rối, loại gỗ này nhẹ ,dai, rất dễ điều khiển trong khi biểu diển dưới nước. Sau đó được sơn một lớp sơn  không thấm nước. Để tạo một con rối hoàn chỉnh, các nghệ nhân phải trải qua nhiều giai đoạn tỉ mỉ, công phu từ đục cốt đến trang trí. Con rối được tạo bởi hai phần chính, phần thân và phần đế. Phần thân là phần nổi bên trên thể hiện nhân vật, còn phần đế là phần chìm bên dưới là nơi lắp máy điều khiển cho con rối cử động. Mayys điều khiển và kỷ xảo điều khiển con rối là yếu tố chính để tạo nên hành động của con rối.            
Phường rối Yên ở xã Thạch Xá, huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây dùng gỗ cây yến để làm rối. Con rối được sơn 4 hoặc 5 lần bằng một loại vecni truyền thống có phủ lớp bạc, do vậy các con rối rất bền. 
Phường rối Ra ở huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây sơn rối theo 3 bước:
Bước 1 : Sơn hom
Người thợ thủ công sơn phủ con rối bằng một lớp sơn ta trộn với đất sét, sau đó dùng một viên cuội để đánh bóng rồi dùng đá màu cọ xát thân rối trong nước. Bước 2 : Sơn lót 
Tiếp đó người thợ sơn con rối thêm vài lần nữa để lấp kín mọi vết nứt. Sau khi khô, cứ mỗi lớp sơn lại được người thợ dùng một viên đá để đánh bóng. Bước 3 : Thếp bạc 
Lần này trong lúc sơn còn chưa khô, người thợ dán lên các lá quỳ dày 3 cm, rộng 4 cm2, do làng Kieu Kỵ, huyện Gia Lâm, Hà Nội sản xuất. Người thợ có thể dán thêm một lớp lá quỳ nữa trước khi asơn thêm 2, 3 lần nữa bằng sơn trộn với nhựa cây mủ.
Các thợ thủ công dùng sơn ta để sơn các màu da cam thẫm, nâu đậm,da cam nhạt, đỏ và đen, nhưng với các màu xanh lá cây và đỏ son thì phải dùng sơn của Thái Lan hoặc của Nhật Bản.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: #bt