ATK
Trên các phương tiện thông tin đại chúng và trong quan niệm của nhiều người có sự khác biệt về khái niệm “Thủ đô kháng chiến” và “Thủ đô gió ngàn”. Địa danh nào được gọi là “Thủ đô kháng chiến”, còn địa danh nào là “Thủ đô gió ngàn”, hay cả hai địa danh chỉ là một?
1. Thủ đô kháng chiến
Từ điển tiếng Việt định nghĩa: Thủ đô là thành phố nơi đóng trụ sở của Chính phủ và các cơ quan Nhà nước Trung ương.
Hoặc là trung tâm đầu não lãnh đạo toàn cục như Đại tướng Võ Nguyên Giáp phát biểu: “Tân Trào được coi là Thủ đô khu giải phóng (trước Cách mạng Tháng 8/1945 gồm 6 tỉnh: Cao Bằng, Lạng Sơn, Hà Giang, Bắc Cạn, Tuyên Quang, Thái Nguyên).
Tuyên Quang - mảnh đất giàu truyền thống đấu tranh cách mạng, là nơi ghi dấu nhiều sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc.
Tuyên Quang luôn tự hào là nơi Chủ tịch Hồ chí Minh sống và làm việc trong suốt một thời gian dài và được Người chọn làm Thủ đô Khu giải phóng, Thủ đô kháng chiến để lãnh đạo cuộc Cách mạng Tháng Tám giành độc lập tự do cho dân tộc và cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp giành thắng lợi hoàn toàn.
Bác Hồ chọn Tân Trào (Tuyên Quang) làm “Thủ đô khu giải phóng”, trung tâm lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám
Trong quá trình chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa giành chính quyền, bên cạnh xây dựng lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang, lãnh tụ Hồ Chí Minh và Đảng ta rất quan tâm chuẩn bị căn cứ cách mạng làm chỗ dựa cho vũ trang khởi nghĩa. Ngay sau khi về nước Người chọn tỉnh Cao Bằng để xây dựng căn cứ địa cách mạng đầu tiên. Tuy nhiên, bước sang năm 1945, tình hình thế giới và trong nước có nhiều chuyển biến mau lẹ, chiến tranh thế giới bước vào giai đoạn kết thúc, phong trào cách mạng đang cuộn sóng, khu giải phóng ngày càng được mở rộng, thời cơ giành chính quyền đang đến gần. Do đó việc hình thành khu giải phóng Việt Bắc và chọn một nơi làm trung tâm để lãnh đạo cuộc tổng khởi nghĩa là yêu cầu cấp thiết. Sau khi nghe đồng chí Võ Nguyên Giáp báo cáo tình hình phong trào cách mạng, bác nói, cần chọn ngay trong vùng Cao – Bắc –Lạng hoặc Tuyên Quang, Thái Nguyên một địa điểm có dân tốt, có cơ sở cách mạng tốt, địa hình tốt, có thể thuận tiện làm một trung tâm liên lạc với miền xuôi, miền ngược và ra nước ngoài.
Sau ngày Nhật đảo chính Pháp (9/3/1945), cuộc khởi nghĩa ngày 10/3/1945 tại Thanh La (Sơn Dương, Tuyên Quang) thắng lợi, Châu Tự Do được thành lập và từ đó giải phóng toàn huyện Sơn Dương. Đến ngày 22/5/1945 hầu hết các địa phương trong tỉnh Tuyên Quang được giải phóng và mở rộng ra các vùng lân cận, tạo thành vùng giải phóng rộng lớn. Do đó Tuyên Quang đã hội tụ đủ các điều kiện về “thiên thời, địa lợi, nhân hòa” để Bác Hồ chọn làm nơi ở, làm việc và chỉ đạo cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám.
Thực hiện chỉ thị của Người, đồng chí Võ Nguyên Giáp và lãnh đạo Phân khu ủy Nguyễn Huệ đã quyết định chọn Tân Trào, Sơn Dương, Tuyên Quang làm trung tâm lãnh đạo cuộc Tổng khởi nghĩa. Sau 18 ngày đêm băng rừng, vượt suối, ngày 21 tháng 5 năm 1945 Bác Hồ đã về đến Tân Trào, Sơn Dương, Tuyên Quang. Nơi đầu tiên Bác dừng lại nghỉ chân là đình Hồng Thái, sau đó Người vượt sông Phó Đáy vào làng Tân Lập ở, làm việc tại gia đình ông Nguyễn Tiến Sự. Cuối tháng 5/1945 để đảm bảo bí mật và tiện làm việc, Bác rời lên ở tại một căn lán nhỏ, nằm trong khu rừng Nà Nưa, cách làng Tân Lập 500m về phía đông.
Theo sự chỉ đạo của Bác và Tổng bộ Việt Minh, ngày 4/6/1945, Hội nghị cán bộ toàn Khu được tổ chức tại Tân Trào. Hội nghị đã quyết định thành lập Khu giải phóng Việt Bắc gồm 6 tỉnh (Cao - Bắc - Lạng - Hà - Tuyên - Thái). Khu Giải phóng đặt dưới sự chỉ đạo của Ủy ban Chỉ huy lâm thời do lãnh tụ Hồ Chí Minh đứng đầu, đồng chí Võ Nguyên Giáp làm Ủy viên Thường trực, đồng thời chỉ huy về quân sự. Thành lập hệ thống Ủy ban từ cấp xã đến khu đặt dưới sự chỉ đạo của Ủy ban lâm thời Khu. Tổ chức thực hiện 10 chính sách lớn của Việt Minh. Ủy ban Quân sự thống nhất chỉ huy cuộc chiến đấu chống Nhật, trừ gian diệt ác, tiếp tục lãnh đạo nhân dân đứng lên giành chính quyền, mở rộng Khu Giải phóng. Khu Giải phóng là “hình ảnh nước Việt Nam mới”, Tân Trào trở thành Thủ đô Khu giải phóng, lán Nà Nưa đã trở thành “Đại bản doanh”, trung tâm lãnh đạo cuộc Cách mạng Tháng Tám.
Tại lán Nà Nưa, Bác luôn theo dõi rất sát diễn biến tình hình thế giới và trong nước. Người đã có những nhận định, đánh giá tình hình, xác định thời cơ và quyết tâm phát động toàn dân khởi nghĩa giành chính quyền với câu nói bất hủ:“Lúc này, thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”. Ngay sau đó Bác và Trung ương Đảng đã triệu tập Hội nghị toàn quốc của Đảng từ ngày 13 - 14/8/1945 và ngày 16/8/1945 Người triệu tập Quốc Dân đại hội tại Tân Trào, Sơn Dương, Tuyên Quang đưa ra những quyết định quan trọng, phát động cả nước tiến hành tổng khởi nghĩa giành chính quyền, làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám “long trời, lở đất”, đánh đổ chế độ phát xít, tay sai, giành độc lập dân tộc và đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, thời kỳ độc lập dân tộc và đi lên chủ nghĩa xã hội.
Bác Hồ chọn Tuyên Quang làm “thủ đô” lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi
Cách mạng Tháng Tám thành công, trước khi rời Tân Trào, Tuyên Quang về Hà Nội, Bác Hồ đã họp với đồng chí Phạm Văn Đồng, Hoàng Văn Thái, Hoàng Hữu Kháng và nữ đồng chí tên Châu. Với nhãn quan chính trị và dự đoán thiên tài Người cho rằng: “Bây giờ ta có chính quyền, chắc chắn các cô, các chú cũng muốn về Hà Nội. Nhưng chưa được đâu! Lênin đã nói: “Giành chính quyền khó, giữ chính quyền còn khó hơn”. Bởi vậy một số các cô, các chú còn ở lại địa phương đây, giúp đồng bào tổ chức cuộc sống sao cho tươi đẹp hơn, ấm no, văn minh hơn… Biết đâu, chúng ta còn trở lên đây nhờ cậy đồng bào lần nữa…”.
Cuối năm 1945 thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta một lần nữa, Bác Hồ đã nói với Đại tướng Võ Nguyên Giáp “Ta lại trở về Tân Trào”. Tháng 12/1946, kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng chủ trương di chuyển toàn bộ cơ quan trung ương của Đảng và Chính phủ lên chiến khu Việt Bắc chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài và chọn Tuyên Quang làm điểm đến đầu tiên, vì theo Người “Cách mệnh đã do Việt Bắc mà thành công, thì kháng chiến sẽ do Việt Bắc mà thắng lợi”(4). Ngày 2/4/1947, Người về đến làng Sảo, xã Hợp Thành, huyện Sơn Dương, Tuyên Quang.
Trong 9 năm trường kỳ kháng chiến, Bác đã ở Tuyên Quang gần 6 năm với 47 địa điểm khác nhau. Tại đây cũng là nơi tập trung nhiều cơ quan Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Mặt trận, các bộ ngành, cơ quan trung ương với 14/15 bộ đóng tại Tuyên Quang. Tại Tuyên Quang Bác Hồ và Trung ương Đảng, Chính phủ đã quyết định nhiều quyết sách, công việc trọng đại của Đảng, của cách mạng Việt Nam như Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng, Đại hội Mặt trận Liên Việt, kỳ họp thứ ba, Quốc hội khóa I, các phiên họp của Hội đồng Chính phủ vv... Vì vậy Tuyên Quang đã thực sự là Thủ đô của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Tuyên Quang luôn tự hào là mảnh đất thiêng liêng, giàu truyền thống cách mạng, nơi ghi dấu những sự kiện trọng đại của dân tộc, nơi vinh dự được chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng chọn làm Thủ đô Khu giải phóng, Thủ đô kháng chiến góp phần làm nên những thắng lợi vĩ đại của dân tộc. Phát huy truyền thống của quê hương cách mạng, nhân dân các dân tộc tỉnh Tuyên Quang sẽ đoàn kết, phấn đấu phát triển toàn diện kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng; thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang lần thứ XVI, phấn đấu đưa Tuyên Quang trở thành tỉnh phát triển khá trong khu vực miền núi phía Bắc.
Trong thời kỳ kháng chiến 1947-1954, Thủ đô kháng chiến được xem xét trên 2 phương diện:
Thứ nhất, nơi đóng đô của chính quyền nhà nước, gồm Phủ Chủ tịch, Phủ Thủ tướng, Quốc hội, các bộ hoặc cơ quan ngang bộ - chưa kể các tổ chức đoàn thể trung ương: Mặt trận Việt Minh, Liên Việt, Văn phòng Chủ tịch Đảng (Bác Hồ lãnh tụ tối cao của Đảng, Nhà nước, Chính phủ – mãi từ 1949 mới có chức Phó Thủ tướng của ông Phạm Văn Đồng – kiêm Bộ trưởng Ngoại giao), Ban Tổ chức Trung ương, Ban Tuyên huấn Trung ương, Ban Dân vận: Công đoàn, thanh niên, phụ nữ – cả báo Tiền phong ở bản Dõn, xã Minh Thanh… đều đóng bên Tuyên Quang. Thời đó, có 12 bộ, chỉ 1 Bộ Quốc phòng đóng ổn định bên Thái Nguyên.
Thứ hai, thời gian lâu nhất, theo tập Đề án tổng thể của Bộ Văn hóa Thông tin bổ sung hoàn chỉnh chi tiết tháng 3/1998 và bản thống kê của ông Tạ Quang Chiến, người vinh dự được công tác phục vụ Bác từ 1945 - 1957 thì trong 7 năm 7 tháng, kể từ ngày 2/4/1947 Người về làng Sảo (Sơn Dương), thì Bác di chuyển tới 37 lần; nhưng lâu nhất ở Tuyên Quang: 5 năm 11 tháng 25 ngày, cả Thái Nguyên, Bắc Kạn chỉ 1 năm 8 tháng. Bác di chuyển nhiều nơi ở Tuyên Quang, nhưng ổn định nhất tại thôn Lập Bình (xã Bình Yên, Sơn Dương).
Ngày 4/12/2000, Bộ Văn hóa Thể thao đã ban hành quyết định số 32/2000/QĐ-VHTT công nhận Khu Di tích Tân Trào, Sơn Dương, Tuyên Quang là Di tích của Chủ tịch phủ, Thủ tướng phủ thời kỳ 1947-1954.
Ngày 15/8/2005, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng (khi đó là Phó Thủ tướng Thường trực) đã lên dự lễ động thổ xây dựng khu di tích lịch sử của Chính phủ tại xã Minh Thanh, Sơn Dương, Tuyên Quang.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp phát biểu tại hội thảo do tỉnh Thái Nguyên tổ chức ngày 12/5/1997: “Tân Trào được coi là Thủ đô khu giải phóng (Khu Giải phóng trước Cách mạng Tháng 8/1945 gồm 6 tỉnh: Cao Bằng, Lạng Sơn, Hà Giang, Bắc Cạn, Tuyên Quang, Thái Nguyên)”.
Vậy Thủ đô kháng chiến là ở Tuyên Quang, hay thu hẹp lại là huyện Sơn Dương.
2. Thủ đô gió ngàn
Vui sao một sáng tháng năm
Đường về Việt Bắc lên thăm Bác Hồ
Suối dài xanh mướt nương ngô
Bốn phương lồng lộng Thủ đô gió ngàn...
(Tố Hữu - Sáng tháng năm, 1951)
Vậy “Thủ đô gió ngàn” nằm ở đâu? Có ý kiến cho rằng, “Thủ đô gió ngàn” là chỉ Định Hóa, Thái Nguyên. Có người lại nói, “Thủ đô gió ngàn” là Tân Trào, Sơn Dương, Tuyên Quang.
Đồng chí Vũ Kỳ (1921-2005), Thư ký riêng của Bác khi được hỏi về Thủ đô gió ngàn, đã nói rằng: “Chẳng ở đâu cả! – Việt Bắc! Chỉ là hình tượng điển hình thôi. Như “Rừng cọ đồi chè” tiêu biểu của trung du Phú Thọ vậy, không chỉ riêng huyện, xã nào”.
Theo cuốn sách “Các di tích lịch sử văn hóa tỉnh Bắc Kạn” (xuất bản năm 1999), sau ngày toàn quốc kháng chiến, Trung ương Đảng cử đội công tác đặc biệt do đồng chí Trần Đăng Ninh dẫn đầu lên Việt Bắc tìm địa điểm để xây dựng khu căn cứ an toàn cho các cơ quan của Trung ương Đảng, gọi tắt là ATK. Tiêu chí tìm địa điểm được Bác rút gọn bằng câu thơ:
Trên có núi, dưới có sông
Có đất ta trồng, có bãi ta vui
Và:
Tiện đường sang Bộ Tổng (Bộ Tổng Tư lệnh – qua đèo De bên kia Định Hóa)
Thuận lối tới Trung ương (Văn phòng Tổng Bí thư Trường Chinh)
Sau thời gian khảo sát, đội quyết định chọn một số địa điểm thuộc các huyện Định Hoá, Đại Từ, Phú Lương (Thái Nguyên); Sơn Dương, Chiêm Hóa, Yên Sơn (Tuyên Quang) và Chợ Đồn, Chợ Mới, Chợ Rã (nay là Ba Bể thuộc Bắc Kạn).
Các địa điểm trên là vùng giáp ranh của ba tỉnh, địa hình hiểm trở, mạng lưới giao thông là những đường mòn tạo thành khu liên hoàn rộng trên ba nghìn km2; có sông Phó Đáy, sông Gâm tiện lợi cho việc đi lại bằng thuyền. Địa thế của ATK, theo Bác Hồ, là nơi “Tiến khả dĩ công, thoát khả dĩ thủ”.
Tức là, nếu phong trào kháng chiến của ta phát triển mạnh, lực lượng sẽ tiến về phía nam, qua Định Hoá, Đại Từ, đánh thẳng về xuôi. Ngược lại, nếu cách mạng gặp khó khăn có thể lùi sang phía đông, qua Chợ Đồn, Chợ Mới (Bắc Kạn), sang chiến khu Võ Nhai, Bắc Sơn.
Vì vậy, trong suốt cuộc kháng chiến, các cơ quan Trung ương Đảng, Chính phủ và Bác Hồ làm việc tại nhiều nơi trong Khu ATK. Chẳng hạn, tại Chợ Đồn (Bắc Kạn), Bác Hồ sống và làm việc ba nơi. Đó là Bản Ca, thuộc xã Bình Trung, năm 1947; Nà Pậu, thuộc xã Lương Bằng, năm 1951; và bản Pèo thuộc xã Bình Trung năm 1949.
Cũng tại bản Nà Quân, xã Bình Trung còn có Văn phòng Trung ương Đảng và đồng chí Trường Chinh sống và làm việc năm 1951-1952; đồng chí Phạm Văn Đồng, sống và làm việc tại đồi Khau Mạ, xã Lương Bằng năm 1950-1951.
Tất cả các địa điểm trên đã được xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia. Ngoài ra, trong kháng chiến, rất nhiều cơ quan của bộ, ngành đóng tại Bắc Kạn như Bộ Tài chính, Xưởng Quân giới đóng tại Bản Thi (Chợ Đồn); Đài Tiếng nói Việt Nam đóng tại xã Khang Ninh (Ba Bể)...
Tại Thái Nguyên, Bác Hồ cũng sống và làm việc nhiều nơi. Riêng ở Tỉn Keo (thuộc xã Phú Đình, Định Hóa), Bác Hồ ở hai lần vào năm 1948 và cuối năm 1953; ở Nà Lọm (cũng thuộc Phú Đình, Định Hoá) năm 1948; ở đồi Khau Tý, xã Điềm Mạc năm 1947; ở đồi Khuôn Tát, xã Phú Đình có ba lần, một lần năm 1947 và hai lần năm 1948.
Thái Nguyên còn là nơi làm việc của nhiều cơ quan trung ương, Bộ Quốc phòng và các đồng chí Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp...
Tuyên Quang cũng là nơi Bác Hồ sống và làm việc tại nhiều nơi, với thời gian trên 5 năm (Thái Nguyên chỉ gần 2 năm). Tuyên Quang còn là nơi làm việc của Văn phòng Chính phủ, Quốc hội... tại thôn Lập Bình, xã Bình Yên (cạnh Tân Trào)...
Như vậy, Thủ đô gió ngàn không chỉ riêng ở Định Hoá (Thái Nguyên) hay Tân Trào (Tuyên Quang) mà còn bao gồm các địa danh nêu trên thuộc ba tỉnh Thái Nguyên, Tuyên Quang và Bắc Kạn. Vì thế, khi nói đến Thủ đô gió ngàn không nên áp đặt Thủ đô của riêng một tỉnh, một huyện nào cả. Và trải qua thời gian, mỗi nơi đó sẽ mãi mang dấu ấn, mang hình ảnh của Bác Hồ kính yêu /.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top