chùa ông
Các bạn thân mến,khi chúng ta về vùng nông thôn ngoại thành cần thơ chúng ta thường bắt gặp hình ảnh quen thuộc của những ngôi đình Việt chùa Khmer thì tại phố chợ nhộn nhịp giữa lòng TPCT thỉnh thoảng lại hiện ra những hình ảnh cổ kính của những ngôi chùa ông của bà con người hoa. Đó là sự biêu hiện nét đặc trưng trong đời sống tâm linh của cộng đồng ba dân tộc VIỆT- KHMER- HOA ngay từ buổi đầu mở đất. để hiểu thêm về một nét văn hóa tín ngưỡng in đậm bản sắc dân tộc nơi vùng đất cần thơ này.
Đến với Quảng Triệu Hội Quán tức chùa ông tại bến Ninh kiều. ta sẽ thấy một không gian kiến trúc đường bệ cổ kính và đường nét mĩ thuật đặc sắc. Có thể nói đây là ngôi chùa hoa tiêu biể được xây dựng khá sớm cũng đồng thời với phố chợ cần thơ xưa. Nhưng nay toàn bộ ngôi chùa từ vật liệu kiến trúc trang trí mĩ thuật đến các nhóm tượng thờ gần như đều còn được giữ gìn nguyên vẹn.
Tọa lạc trên diện tích hơn 500 m2 chùa có kiến trúc phổ thông theo hương đông tây hình chữ QUỐC với các dãy nhà khép kín vuông góc với nhau và được chia làm 3 gian tiền điện trung điện và chánh điện. ở giữa có một khoảng trống gọi là sân thiên tĩnh tức giếng trời để tạo sự thoáng mát. Nhìn từ bên ngoài ngôi chùa sẽ thấy toàn màu sắc sặc sỡ. mái lợp bằng ngói đại ống được tráng men xanh biếc. nóc chùa gắn hình tượng lưỡng long tranh châu và các tượng người tượng thú bằng gốm sứ đủ màu.
Chùa ông được xây dựng vào năm 1894 đến năm 1896 thì hoàn thành. Được nhà nước công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia vào ngày 21/6/1993.
Bước vào khu vực nội thất chống đỡ mái chùa là các hàng cột vuông bằng gỗ quý. Kết cầu bộ vì kèo làm rất đặc biệt làm theo kiểu trồng rường gồm những xà ngang gối mộng lên nhau với các con bọ được chạm khắc các đòn tai ở dạng gỗ tròn. Theo các vị cao niên đa số vật liệu xây dựng đều được chở từ trung quốc sang. Một số gạch ngói phù điêu thì có ngồn gốc ở lái thiêu đưa về. đáng kể và nôi bật nhất là nghệ thuật chạm khắc công phu tinh xảo với những phù điêu bên ngoài đến những nội thất trong chùa trên các bao lam hoành phi liễn đối xà ngang và con thuyền bát nhã. Nội dung thể hiện các mẫu hình mai lan cúc trúc rồng phụng bông lúa.... Bên cạnh đó là nghệ thuật thư pháp qua các kiêu chữ truyện chữ thảo làm say mê bao khách thưởng ngoạn.
ở quảng triệu hội quán các đối tượng thờ khá đa dạng với các hàng chục tượng thần chính phụ.ngay tiền điện hai bên đặt phúc đức chinh thần tức ông bổn và bên kia thờ mã thuyền tướng quân tức ngựa xích thố. Tượng trưng điều mong muốn mã đáu thành công,gian chính giữa đặt thờ Quan Công có Quang Bình co Sương phò tá, một bên thờ thiên mậu thánh mẫu và một bên thờ thần tài. Từ giữa thế kĩ XX chùa lập thêm lgian thờ thờ quan thế âm bồ tát đều thể hiện khát vọng của bà con người hoa về khát vọng sống nhân nghĩa quốc thái dân an, tài lộc dồi dào mua mai bán đắc, Từ ý nghĩa đó chùa ông quảng triệu hội quán thu hút rất nhiều người hoa kể cả người việt đến cúng bái, ngày thường có cả 100 người ngày mùng 2, 16 hàng tháng có rất đông người mua bán đến dâng cúng lễ vật. Đặt biệt ngày vía quan công 14 tháng 06 âm lịch là lễ cúng lớn nhất,ngày mùng 02 tết vía phúc đức chính thần, ngày 23 tháng 03 al vía thiên hậu thánh mẫu, và các ngày rằm tháng giêng rằm tháng 7 chùa tồ chức nhiều lễ hội, từ xưa có rước hồ quãng về phục vụ tạo nên khoonh khí nhộn nhịp xinh tươi, Ngoài ra chùa còn tổ chức hội đấu đèn gây quỹ từ thiện giúp đỡ bà con nghèo khó. Năm 2010 chùa tiếp tục được trùng tu nền chùa nâng kcao lên 1,3 m để tránh ngặp lụt vào mùa nổi tổng kinh phí hơn 3 tỉ đồng do chùa tự lực hoàn toàn và sự đóng góp của cộng đồng người hoa
Đến với chùa ông quảng triệu hội quán người ta còn thấy vẽ đẹp nét cổ kín của ngôi chùa trên trăm tuổi giữa lòng thành phố nhộn nhịp, hiện đại, văn minh
Chùa Ông, tên gốc tiếng Hán là Quảng Triệu Hội Quán (theo đại tự ghi ở tiền điện), sở dĩ có tên gọi như trên là do nguồn gốc chùa vốn là hội quán của một nhóm người Hoa thuộc hai phủ Quảng Châu và Triệu Khánh (Quảng Đông, Trung Quốc) theo dòng di dân người Hoa sang lưu trú ở đất Trấn Giang (tức Cần Thơ xưa) vào thế kỉ XVII – XVIII. Chùa thờ Quan Thánh Đế quân (tức Quan Công) ở chính điện nên nhân dân địa phương quen gọi một cách dân dã là Chùa Ông. Ngoài ra, một số người còn gọi di tích tôn giáo này là Chùa Bà vì ngoài việc thờ các vị nam thần, nơi đây còn thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu và Phật Bà Quan Âm, đây cũng là một đặc điểm riêng trong tín ngưỡng thờ cúng của ngườI Hoa – chùa Hoa.
Theo các tư liệu khắc gỗ hiện có, chùa Ông bắt đầu xây dựng vào năm 1894, đến năm 1896 hoàn thành, trên diện tích 532m2. Hầu hết các vật liệu để xây chùa đều được đưa từ Quảng Đông sang. Vừa vào cổng, là bảng đại tự "Quảng Triệu Hội Quán". Công trình do nhóm người Hoa gốc từ Quảng Châu và Triệu Khánh lập ra, nên có tên "Quảng Triệu Hội Quán", là nơi thờ phượng, giao lưu, gặp gỡ đồng hương, giúp nhau làm ăn để an cư lạc nghiệp ở vùng đất mới. Đây là ngôi chùa hiếm hoi của Cần Thơ nói riêng và cả nước nói chung còn giữ nguyên trạng cổ kính và giá trị nghệ thuật kiến trúc với những ý nghĩa tín ngưỡng đặc trưng từ lúc xây dựng đến nay, dù trải qua nhiều năm chiến tranh, nhất là hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ.
Ngôi chùa có bố cục kiến trúc hình chữ Quốc, mái lợp ngói âm dương. Các đầu kèo, xuyên trính được chạm khắc họa tiết, hoa văn mang phong cách cổ điển, sơn son thiếp vàng theo truyền thống nghệ thuật miếu vũ. Các gờ bó mái bằng gốm tráng men lưu ly xanh biếc lẫn với sắc rêu phủ, tạo nên một vẻ cổ kính. Chùa Ông tiêu biểu cho lối kiến trúc đền miếu của người Hoa, với đôi lân chầu hai bên cửa chính gợi ý nghĩa thái bình, thịnh vượng. Bên cạnh các biểu tượng long phụng, còn có tượng Ông Nhật Bà Nguyệt là điềm báo cát tường, tượng trưng cho âm dương trong văn hóa Á Đông.
Trên nóc chùa trang trí lưỡng long tranh châu, hai bên là hình tượng cá hóa long sắp xếp đăng đối. Đây là kiểu thức trang trí khá phổ biến tại các chùa Hoa ở Nam bộ vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Ngay bên dưới là các quần thể tiểu tượng bằng sành sứ nhiều màu sắc, diễn tả cảnh tiên giới xen lẫn trần thế, thủ pháp tạo hình cũng nửa thực nửa hư. Theo lời kể của các vị cao tuổi, những mảng trang trí này được đưa từ Quảng Đông sang, thể hiện rõ nghệ thuật gốm thủ công của nghệ nhân người Hoa đời nhà Thanh.
Chùa Hoa thường không có vườn cây bao quanh như chùa của người Việt, Khmer, thay vào đó là sân kiểng được vây quanh bởi tường gạch, hai bên trang trí các mảng phù điêu đắp nổi bằng đất nung đối xứng nhau. Trong sân đặt hai hàng bát bửu, cách điệu hóa bửu bối của Bát Tiên, từ chiếc giỏ lam của Lam Thái Hòa, thanh gươm của Lã Đồng Tân cho đến cái lẵng hoa của Hà Tiên Cô. Từ sân thiên tĩnh vào chính điện, có một dãy ba bàn hương án bằng đá mài, nơi khách hành hương chuẩn bị lễ vật và thắp nhang trước khi vào chiêm bái.
Trên 2 cánh cửa chính của chùa có vẽ hình 2 vị thần trấn môn là Tần Thúc Bảo và Uất Trì Cung oai dũng trong truyện "Thuyết Đường". Bước vào, trên có tấm nghi môn "Hiệp Thiên Cung", đưa khách vào chốn thiêng liêng đối với tín ngưỡng dân gian của người Hoa, nơi thờ các vị thần, các nhân vật hiển thánh được cộng đồng sùng bái. Bên phải là bàn thờ Phúc Đức Chính Thần, mà người Hoa quen gọi là "Ông Bổn", tức là Bổn đầu công Trịnh Hòa – người có công phát triển cộng đồng người Hoa ở hải ngoại, được người Hoa cúng vào ngày 15 tháng 3 âm lịch. Bên trái là bàn thờ Mã tiền tướng quân cùng ngựa Xích Thố của Quan Công.
Gian giữa thờ Quan Vân Trường hay còn gọi là Quan Công, nhân vật lịch sử đời Tam Quốc, được người Hoa kính ngưỡng về lòng trung nghĩa và chí khí anh hùng. Tượng Quan Công tạc bằng gỗ, mặt đỏ, râu năm chòm, mặc áo bào xanh ngồi trong hổ trướng, hai bên có hai tướng hầu cận là Châu Xương và Quan Bình, đã trở thành hình tượng bất hủ trong lòng mến mộ không chỉ của người Hoa. Ngày 24 tháng 6 âm lịch hàng năm là ngày vía Quan Công với lễ vật là các món chay và hoa quả, nhang đèn. Bên phải thờ bà Thiên Hậu, một nhân vật hiển thánh được sắc phong vào đời Tống, được người Hoa tôn sùng là vị thần phò hộ cho những người đi biển, độ trì cho lữ khách tha hương. Chùa Ông cúng Bà bằng lễ vật heo quay sơn đỏ vào ngày 23 tháng 3 âm lịch hằng năm. Bên trái của chánh điện, có thờ nhân vật đặc biệt là Đổng Vĩnh Trạng Nguyên, một thư sinh đời Hậu Hán được ghi tên trong sách "Nhị thập tứ hiếu", người mà đức hiếu thảo đã làm động lòng trời, sau đỗ đạt thành danh. Bên cạnh là bàn thờ Tài Bạch tinh quân, dân gian quen gọi là Thần Tài, vị thần mà những người buôn bán kinh doanh đều mong được Ngài gõ cửa. Lễ vía Tài bạch tinh quân vào ngày 22 tháng 7 âm lịch hằng năm.
Đức Phật duy nhất được phối tự ở chùa Ông là Quan Thế Âm bồ tát, thể hiện sự tín ngưỡng dân gian về quyền năng cứu khổ, phò nguy và độ trì chúng sinh. Khách thập phương đến để chiêm bái, cầu phúc. Hình thức cầu phúc thường thấy ở đây là lệ cúng nhang khoanh. Người ta viết tên của người cầu phúc lên các tấm thẻ bài, bằng chữ Quốc ngữ hay chữ Hán tùy theo thân chủ rồi gắn vào khoanh nhang.
Để có ánh sáng và thông gió cho nội thất, chùa Ông được bố trí một khoảng trống trên mái, gọi là thiên tĩnh, tức "giếng trời". Đây còn là nơi thoát khói cho hàng trăm khoanh nhang tỏa ra suốt ngày đêm. Mái chùa với hệ thống vì kèo phức tạp được nâng đỡ bởi các cột gỗ tròn sơn màu đỏ, kê tán đá xanh, tô điểm bằng các đôi liễn đối, các tấm hoành phi. Có thể nói, nét nổi bật của chùa Ông là nghệ thuật điêu khắc chạm nổi trên những phù điêu hiện diện khắp nơi, từ các bao lam, hoành phi, liễn đối với nội dung vô cùng phong phú, rút ra từ các huyền thoại, lịch sử, hoặc được chạm chìm với các đề tài như mai, lan, cúc, trúc, cá hóa long,... Ngoài nghệ thuật điêu khắc trên gỗ, các nghệ nhân còn thể hiện tài năng của mình ở nghệ thuật thư pháp: các kiểu chữ "triện", "thảo" được khắc chạm trên hoành phi, liễn đối, lư, chuông đồng,... rất đẹp và tinh xảo.
Từ Hội quán của đồng hương Quảng – Triệu, chùa Ông dần trở thành nơi thể hiện tình đoàn kết tương trợ giữa đồng bào người Hoa, và giữa người Hoa với các dân tộc anh em cùng chung sống bên bờ Hậu Giang. Từ đời này sang đời khác, Hội quán vẫn được những người do cộng đồng bầu cử từ vị hội trưởng đầu tiên của Quảng Triệu Hội Quán là ông Huỳnh An Thái, cũng chính là người có công hiến đất xây chùa đến vị hội trưởng hiện nay là ông Quan Sư quản lý điều hành công việc thường ngày của Hội.
Người dân Cần Thơ có lệ viếng chùa Ông vào phút giao thừa, thắp nén hương tống tiễn năm cũ, với lòng thành và niềm ước vọng về một năm mới, mang theo nhiều vận hội tốt đẹp cho bản thân và gia đình. Chùa Ông còn là điểm thu hút khá dông khách du lịch trong và ngoài nước. Ngôi chùa là nơi lưu giữ cho đời sau những giá trị mà người đi trước đã tạo nên, và cùng với các danh thắng khác làm nên vẻ đẹp phong phú của mảnh đất Tây Đô. Chùa Ông đã được xếp hạng là Di tích Lịch sử - Văn hóa cấp quốc gia vào ngày 21-6-1993.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top