Văn ưu chữ liệt
Nghè Thạch chẳng còn lạ gì tiếng trẻ con tíu tít trong sân nhà, thậm chí còn thấy thân thương, nhưng tiếng lao nhao "con lạy bác ạ" mỗi lần lũ nhóc tan học thì càng nghe càng thấy phiền chứ không quen được mấy. Vài lần đầu, chục đứa nhóc chào là anh nghè gật đầu "chào con" lại cả một chục; sau thì nghe cả đám véo von xong hết mới trả lời tất thảy một lần. Còn đến giờ, bọn trẻ chạy ra cổng chỉ thấy bác nghè miệng mỉm cười mà tay thì phẩy phẩy xua xua như rải muối xả xui. Thế mà mỗi lần bác nghè kêu thôi không cần chào là thầy tú của bọn nó lại dặn với ra rằng tiên học lễ - hậu học văn, nên bác bảo thôi chứ chẳng đứa nào dám thôi. Đứa tinh ranh vừa nghe đã hiểu rằng thầy răn mình thì ít mà muốn trêu bác nghè thì nhiều, không về phe thầy còn về phe ai nữa? Đứa chậm chạp thật thà lại thấy thầy chẳng dạy sai chỗ nào, mà đã đúng thì làm theo là việc nên phải, còn thắc mắc gì nữa?
Thế mà hôm nay trở trời kiểu gì, bác nghè không những không kêu bọn nó về cho nhanh mà còn gọi ngược lại hỏi han. Nguyên do là bởi ngoài một chục tiếng "lạy bác" ra, lúc nãy còn rộn ràng thêm một chục tiếng "đội ơn bác ạ" từ chúng.
Nghè Thạch túm nhẹ tay cái Thảo rồi vắt tà áo lên, ngồi xổm xuống cho bằng con bé mới hỏi: "Ta có làm gì mà các con đội ơn?"
Con bé cười tít cả mắt, xòe tờ phóng ra trước mặt anh nghè: "Bác viết phóng cho chúng con." - nói xong thì cúi người ghé vào tai anh nghè thầm thì: "Chữ bác đẹp hơn chữ thầy con, con nhìn là biết!"
Hóa ra là vậy!
Triều đình đương tất bật chuyện bang giao (1), khắp Hàn lâm viện (2) sách vở thư tịch chất như núi, nghè Thạch kiểm chữ đến phát mệt mà hôm qua về nhà thấy thầy tú cũng bày một đống chữ la liệt, lại còn nét này vẹo nét kia xiên thì than khổ. Thầy tú nghe thấy tội, thương lắm mới đưa bút cho người kia viết thay.
Cả làng ai cũng biết thầy tú gõ đầu trẻ là thế, chứ từ nhỏ đến lớn chưa bao giờ viết đẹp. Ngày nhỏ cụ đồ Hoài An (3) thương không nỡ đánh, đến lớn thì đánh mấy cũng đã muộn. Sau này theo học cụ thám Lương Điền (4), hở ra là bị cụ trách không rèn chữ, quyển (5) nào nộp lên cũng chỉ cho "thứ", bài hay lắm thì cụ phê rằng "văn ưu chữ liệt" (6).
Mùa sen năm đó, khoa thi sắp tới mà chữ cậu khóa Sơn (7) vẫn như gà bới, cụ thám mới phải gửi sang nhà cụ bảng Thọ Xương (8), cho cậu cháu trai có tiếng chữ tốt bên ấy kèm cặp giúp. Kết quả cũng khá khẩm, cuối cùng cậu khóa Sơn đi thi tất thảy ba kỳ, nội trường cho tới 2 "ưu" 7 "bình", thế nhưng ngoại trường các ông chủ khảo chấm "thứ" sạch (9). Cụ thám tiếc không để đâu cho hết, mỗi lần nhắc đến lại ca thán một câu y hệt: "Phải chi chữ nghĩa anh tốt đẹp như cậu khóa Thạch bên kia, có phải ít đã thành anh cử không?". Anh khóa Sơn - bấy giờ đã là anh tú Sơn - trước mặt thầy thì cứ gãi tai cười trừ, nhưng khi ở cùng đám đồng học vẫn ngông nghênh lắm, nhất là với cái cậu bạn chữ tốt bên Thọ Xương kia thì lại càng hay hất cằm trình giải, rằng: "Chẳng phải chữ cụ cống Thuận An (10), cụ nghè Lạc Đạo (11) ngày xưa cũng như gà bới đấy thôi?".
Cả ba năm tiếp đó, anh tú Sơn với anh cử Thạch (12) cứ nửa theo cụ thám, nửa học cụ bảng, cốt là để tiện rèn chữ. Nhưng nào phải ai cũng được như cụ Cao, cụ Dương, khoa sau đi thi anh tú Sơn được đến 4 "ưu" nhưng vẫn chỉ đỗ lại tú tài, ngoại trường khắt khe không cho lên "bình". Thế nhưng mối duyên chữ nghĩa ngày ấy cũng không phải là công cốc. Chữ anh tú tuy không đẹp nhưng đến giờ cũng đủ thẳng thớm để dạy học trò, còn anh cử Thạch ngày ấy giờ đã là anh nghè, mà đặc biệt hơn là ở Hàn lâm viện anh nghè được bổ chức Kiểm thảo (13), về nhà cũng lại vuốt chữ cho người kia, âu cũng là cái số cả.
Nhưng thường ngày anh tú cũng chỉ cho anh nghè nhận xét, không bao giờ khiến viết hộ, có xin cũng không cho, vì anh tú nghĩ trò mình phải do chính mình dạy chữ mới phải lẽ. Với lại, anh tú Sơn cũng viết được, chỉ ngặt cái hơi lâu, chữ dạy con trẻ phải thật chuẩn xác nên viết hỏng cũng nhiều, hơi tốn giấy tốn mực; nhưng chẳng lẽ quan nghè lại tiếc anh mấy tờ giấy? Anh nghè hỏi vài lần không được thì cũng tự biết mà im, thi thoảng nghe người kia hỏi nét này sửa làm sao, nét kia vuốt thế nào cũng viết mẫu ra một tờ giấy khác chứ tuyệt nhiên không động đến phóng của thầy tú. Nhưng lúc này mà ngồi chỉnh chữ cùng người kia tiếp nửa canh giờ, chắc nghè Thạch đi ngủ cũng giật thột; may sao mới than thở hai câu đã thấy người kia dúi bút vào tay mình. Anh nghè mở cờ trong bụng, viết một lèo cả một tập phóng rồi rảo tay rảo chân cất sạch giấy mực, thiếu điều quẳng cả cái tráp ra vườn.
"Làm cái gì mà như ăn cướp thế?" - Anh tú cười, giật lại cái tráp rồi đặt cẩn thận trên góc sập.
Anh nghè chả biết từ lúc nào đã vén sẵn rèm nhà trong, nửa ôm nửa kéo thầy tú đi nghỉ, miệng vẫn úi dà úi duôm: "Tôi phải cướp thầy ra khỏi cái đống chữ nghĩa ấy, không thì tôi chết mất! Học với chả sĩ, thư với chả sách, rách việc!"
"Này! Này!" - anh tú chột dạ bịt miệng mình rồi lại nghĩ thấy không hợp lý, bèn đưa tay bịt miệng người kia - "Cẩn thận cái mồm! Rách việc cũng là việc của bề trên, bình phẩm đi rồi chết mất xác lúc nào không hay đấy!"
Thế là tối hôm đó thầy tú cứ đang nằm lại kể chuyện mấy đứa trò chữ thầy trả thầy ra sao, viết nham viết nhở thế nào, chỉ để bác nghè chêm vào mấy tiếng: "Chết thật!", "Hỏng cả..." với lại "Chả ra gì sất!". Hôm sau bọn trẻ nhận phóng cứ xuýt xoa khen chữ bác đẹp, nào có biết tối qua chúng đã bị thầy chúng lôi ra làm thớt cho bác chúng "chém", vì "con cá" kia quý quá không mó tay vào được...
~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~
Bang giao: giao thiệp giữa nhà nước này với nhà nước khác (tương tự ngoại giao bây giờ)Hàn lâm viện: đã xuất hiện trong các triều đại phong kiến trước, song đến thời Minh Mạng mới trở thành cơ quan chính thức của nhà nước, phụ trách việc liên quan đến văn chương (chiếu cáo, chương sớ, thư từ bang giao, soạn kinh điển, biên tập sách vở, tham gia vào giảng sách, bàn đạo với vua, với quan thần cấp cao và giảng dạy cho hoàng tử, con cháu hoàng thất...)Cách gọi kính trọng của người xưa, gọi theo tên làng, tên xã chứ không gọi tên thật (có lẽ là vì một làng, một xã có ít người đỗ cao nên dễ phân biệt). Vì tôi không tìm được tên xã thời xưa nên tôi sẽ để tên huyện. Hoài An là một huyện thuộc phủ Ứng Hòa, Hà Nội xưa (theo khu vực thì tầm khu Thanh Xuân, Hà Đông bây giờ). Lương Điền là một xã thuộc Hưng Yên xưa. Quyển: quyển giấy thi trong khoa cử thời phong kiến. Có 4 mức điểm khi chấm thi. "Ưu" là bài tốt ở hạng nhất, "bình" là tốt hạng nhì, "thứ" là vừa đủ đỗ, "liệt" là trượt.Thư sinh đi học, chuẩn bị ứng thí mà chưa có học hàm thì được dân gian gọi là anh khóa, cậu khóa.Thọ Xương là một huyện thuộc phủ Hoài Đức, Hà Nội xưa (quân Hoàn Kiếm, Hai Bà Trưng, Ba Đình bây giờ). Trong thiết lập của tôi: cụ đồ là chú Khôi, cụ thám là chú Tuấn Hưng, cụ bảng là chú Hồng Sơn =))) Tôi lấy địa danh theo quê các chú.Mỗi quyển của học trò đi thi phải được chấm đủ 4 dấu, trong đó 3 dấu đầu của quan nội trường, sau đó đưa ra ngoại trường chấm một dấu nữa. Để được vào thi kỳ thứ tư phải có "ngoại bình", nghĩa là trong 3 quyển của ba kỳ trước phải có ít nhất một quyển được giám khảo ngoại trường chấm "bình" trở lên, nếu không thì dù nội trường chấm cao thế nào cũng không được thi kỳ đệ tứ/ kỳ phúc hạch. 2 "ưu" 7 "bình" là đỗ tú tài hạng rất cao rồi, nhưng vì tất cả dấu ngoại trường đều là "thứ" nên vẫn không được thi lên tiếp. Ngược lại, dù nội trường toàn bộ là "thứ" mà ngoại trường có 1 "bình" thì cũng được thi tiếp.Cụ cống Thuận An: Cụ Cao Bá Quát, đỗ Á Nguyên (thi Hương) trường thi Hà Nội năm 1831. Mọi người không gọi cụ Cao là cụ cống Thuận An, nhưng trong vũ trụ này tôi gọi vậy cho thống nhất: cụ Cao đỗ đến bậc cử nhân, là người huyện Thuận An, trấn Kinh Bắc.Cụ nghè Lạc Đạo: Dương Sử - người xã Lạc Đạo, huyện Gia Lâm, Hưng Yên xưa - đỗ tiến sĩ năm 1747, song ở kỳ thi Hương trước đó, ông suýt bị đánh trượt vì viết quá xấu, quan nội trường chưa đọc đã chấm liệt, sau đó chủ khảo ngoại trường cố đọc hết thì thấy văn chương rất khá mới chấm đỗ.Ba năm mở một khoa, thi vào khoảng tháng 8. Học trò đã thi có thể thi lại khoa sau, bất kể đỗ hay chưa. Khoa trước anh khóa Thạch chỉ đỗ Cử nhân, khoa sau mới đỗ Phó bảng, còn anh khóa Sơn hai khoa đều đỗ đến Tú tài.Hàn lâm viện Kiểm thảo: Chức quan trong Hàn lâm viện, phụ trách biên duyệt sách vở, tu chỉnh, kiểm soát giấy tờ (tương tự hiệu đính bây giờ), là chức quan hàm tòng Thất phẩm (Thất phẩm chia làm chánh Thất phẩm và tòng Thất phẩm, tòng Thất phẩm thấp hơn). Từ thời Tự Đức có quy định, ai đỗ Phó bảng thì bổ nhiệm làm Hàn lâm viện Kiểm thảo. Về cơ bản là anh nghè Thạch trước khi thi đỗ và sau khi thi đỗ, lúc đi làm và lúc về nhà đều có nhiệm vụ soi văn soi chữ, check ngữ pháp chính tả, mới nhậm chức đã có kinh nghiệm 3 năm đồ đó =)))
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top