newyork
<p data-ft="{"type":3}">1 DN KDBDS dự định mua 1 bds co giá 25.000.000 USDiệp đang cân nhắc 1 trong 3 phương án sau
pa1. vay 90% giá trị dầu tư, lãi suất 9% trên năm, LOF=2,5%/trên số tiền vay phải duy trì khoản vay đến hết hạn
PA2. vay 70%, lãi suất 8%, LOF= 4%, trả trước hạn vào thời điểm kết thúc năm thứ 5,, không phạt trả trước hạn
PA3. vay 50%,lãi suất 7%,LOF=3%, kế hoach trả trc han vao thời điểm kết thúc năm thứ 10, phát trả trc han 2% trên số tiền tất toán
Yêu cầu;
1, DN nên vay theo phương án nào, biết thời hạn tín dung của mỗi khoản vay là 25 năm
2, trong thời gian duy trì khoản vay, CF sử dụng vốn đối với nguồn tài trợ đầu tư cho bds đó ở các phương án là bao nhiêu?
bạn có thay đổi phương án tài trợ không?biêt rằng bên cạnh nguồn vốn vay thêm dn chỉ sử dụng nguồn vốn CSH có CF sủ dụng vốn là 14%/năm và thuế thu nhập DN là 25%
Phần 1: Lịch sử ra đời và phát triển của thị trường chứng khoán New York
1.1.
Thị trường chứng khoán NEW YORK
.1.1.1.Vài nét tổng quát:
Phần lớn các sàn giao dịch chứng khoán tại New York đều tập trung ở phố Wall và phố Broad thuộc quận Tài chính của New York – nơi tập trung văn phòng, trụ sở của nhiều tổ chức tài chính quan trọng của thành phố. Mọi người thường chỉ nghĩ tới 2 sàn giao dịch lớn là sàn NYSE và NASDAQ khi nhắc tới thị trường chứng khoán New York, nhưng trên thực tế, có nhiều hơn 2 sàn giao dịch ở New York:
New York Mercantile Exchange
(NYMEX) -
Sở giao dịch hàng hoá kỳ hạn New York: giao dịch về chứng khoán phái sinh của các hàng hoá năng lượng, kim loại và các hàng hoá khác
International Securities Exchange (ISE) - Sàn giao dịch chứng khoán quốc tế của MỹNew York Board of Trade (NYBOT)
American Stock Exchange (AMEX) - Sàn giao dịch chứng khoán Mỹ
Sàn giao dịch Pink Sheets (thị trường OTC)
Sàn giao dịch OTC Bulletin Board (thị trường OTC)NYSE Acra
Ngoài ra, New York cũng có nhiều văn phòng, trụ sở của các tổ chức cung cấp các dịch vụ liên quan đến chứng khoán và thị trường tài chính.
5 văn phòng, trụ sở của các tổ chức cung cấp thông tin về thị trường tài chính: New York Cotton Exchange (Quận Tài Chính), Reuters America (East Village), Reuters America (Mid town), Standard & Poor’s (Quận Tài Chính),Value Line (Kips Bay)
Khoảng 114 tổ chức về tài chính và môi giới bán lẻ: Bear Stearn (Midtown), Direct Brokerage Inc. (Quận Tài Chính), Paine Webber (Quận Tài Chính), Prudential Securities Inc. (Quận Tài Chính), Salomon Smith Barney (Quận Tài Chính),…
9 văn phòng khác chỉ về môi giới bán lẻ: Gruntal & Co. (Quận Tài Chính) Bernard L.Madoff Investment Securities (Sutton Place) Josephthal Lyon Ross (Quận Tài Chính), Seidel & Shaw LLC (Quận Tài Chính)…
12 văn phòng, trụ sở của các công ty môi giới chiết khấu: A.B. Watley (Quận Tài Chính) Charles Schwab (Quận tài Chính) Olde Discount Stockbrokers (Quận Tài Chính), Equity Trading LLC (Midtown).13 văn phòng, trụ sở của các công ty quản lý quỹ (quỹ tương hỗ): Alliance Capital Management L.P (Greenwich Village), Dreyfus Corp (Midtown) Merill Lynch (Queens), Neuberger Berman Management Inc (Kips Bay) Lord, Abbett & Co. Investment Management (Midtown)…
4 văn phòng, trụ sở của các công ty về lập kế hoạch tài chính: Cowan Financial Group (Midtown) Finnegan Planning Inc (Murray hill) L.J. Altfest & Co. (Quận Tài Chính) Smith Affilitated Capital Corp (Midtown).
14 văn phòng, trụ sở của các tổ chức về tư vấn đầu tư:
Cowan Financial Group (Midtown) Fahnestock & Co.(Quận Tài Chính) H&R Block (Kips Bay)…
1 tổ chức về quản lý tín dụng, ngân sách cá nhân: Strategies for Wealth Creation & Protection (Quận Tài Chính).
(Nguồn: CitiDex, cập nhật ngày 10/05/2012)
New York là trung tâm tài chính lớn nhất thế giới theo Bảng xếp hạng năm 2011, do American Chicago mercantile Exchange và Dow Jones &Co. hợp tác với Hãng Thông tấn Tân Hoa Xã của Trung Quốc về chỉ số phát triển của các trung tâm tài chính thế giới – IFCO (International Financial Centers Development Index)
1.1.2.
Các giai đoạn hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán New York
:
Các giai đoạn phát triển của thị trường chứng khoán New York diễn biến theo những giai đoạn khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản nói chung và của thị trường nước Mỹ nói riêng. Giống như mọi thị trường chứng khoán khác, thị trường chứng khoán New York cũng có chu kì phát triển như một hình sin, tức là có 4 giai đoạn: giai đoạn khởi đầu, giai đoạn phát triển, giai đoạn suy thoái và giai đoạn phục hồi được lặp đi lặp lại trong một chu kì nhất định.
Ø
Giai đoạn khởi đầu (1790 - 1817):
Từ năm 1790, chính quyền liên bang Mỹ đã phát hành trái phiếu chính phủ (công trái public stock) lên đến 80 triệu USD để tài trợ cho các dự án của nhà nước. Công trái khi bán cho những người mua đầu tiên đã tạo nên thị trường sơ cấp (primary market); lúc người này bán lại cho nhiều người khác thì sự mua bán này tạo nên thị trường thứ cấp (secondary market). Cùng lúc với chính phủ bán công trái, các công ty bảo hiểm và ngân hàng cũng bán cổ phiếu. Việc buôn bán diễn ra ở nhiều nơi nhưng ở New York là nhộn nhịp nhất. Vì bên bán không ra mặt nên việc bán cho công chúng do các nhà môi giới (broker) thực hiện.
Khi công trái được mua bán trên đường phố thì có nhiều người, nhiều giới tham gia nhưng mỗi giới làm một cách khác nhau theo sáng kiến của họ nên rất lộn xộn. Vì thế vào ngày 17-5-1792, 24 người môi giới mua bán nhiều nhất ở New York cùng nhau ký
thỏa thuận Buttonwood,
cam kết ngăn chặn sự độc quyền mua bán công trái của những người bán đấu giá. Họ đồng ý không tranh nhau để đấu giá,
l
ấy ít hoa hồng khi mua bán, và tôn trọng quyền lợi của nhau. Đây chính là ngày ra đời của thị trường chứng khoán New York (NYSE)
.
Ø
Giai đoạn phát triển:
·
Giai đoạn 1817 - 1929
:
Đến ngày 8/3/1817, các nhà môi giới họp nhau lại, định ra kỳ hạn gặp nhau và lập nên Sở Chứng khoán và Giao dịch New York (New York Stock Exchange Board-NYS&EB), đặt ở 40 phố Wall và hoạt động theo những tập tục như ở Paris, London và Amsterdam. NYS&EB là một hội tư nhân, cung cấp các phương tiện và đặt ra nội quy cho việc mua, bán chứng khoán.
Thị trường chứng khoán New York trong giai đoạn này phát triển mạnh mẽ.Đối với Mỹ, Chiến tranh thế giới lần thứ nhất thực sự là một cơ hội vàng ngàn năm hiếm, giới tài phiệt ở Mỹ đã lợi dụng chiến tranh để kiếm những món lợi kếch sù. Sau khi chiến tranh kết thúc, Mỹ từ một nước “con nợ” bỗng trở thành chủ nợ lớn số 1 thế giới, cùng với đó New York cũng thay London trở thành trung tâm tài chính của thế giới. Nền kinh tế Mỹ phát triển như vũ bão, kéo theo đó là sự xuất hiện của thị trường chứng khoán. Để thu hút được ngày càng nhiều người chơi, các công ty kinh tế và giới khoán thương đã thuê một đội ngũ marketing cổ phiếu hùng hậu. Từ các con phố lớn tại trung tâm thành phố đông đúc dân cư cho đến những con hẻm nơi thị trấn hẻo lánh, trước mỗi gia đình đều có thể thấy nhân viên marketing của công ty này, công ty nọ đến quảng cáo, phân tích ưu thế của các cổ phiếu trong tay mình, thế nhưng họ lại không hề đề cập đến sự rủi ro. Sự nhiệt tình của dân chúng đã được khuấy động đúng lúc và cứ như thế, với sự hiểu biết mù mờ và nông cạn, rất nhiều người đã tìm mọi cách có được một món tiền kha khá để vào thành phố chơi cổ phiếu. Khi ấy, hành động này được coi là “mốt thời thượng” của người dân Mỹ.
Hầu hết những người chơi cổ phiếu ở Mỹ khi đó chỉ là người “chơi non”, không phải là những nhà đầu tư dài hạn. Trong bối cảnh của phong trào đầu cơ cuồng nhiệt đó, thị trường chứng khoán New York ngày càng trở nên nóng bỏng hơn bao giờ hết. Tất cả những người này chưa từng nghĩ rằng, cái bong bóng có to đến mấy cũng sẽ có ngày phải vỡ.
·
Giai đoạn 1970 - 1987
:
Từ thập niên 1970 đến 1980, nền kinh tế Mỹ bước vào thời kỳ phát triển nhanh chóng. Bắt đầu từ năm 1982, chỉ số chứng khoán
không ngừng tăng nhanh, đến năm 1987, thị trường chứng khoán Mỹ đã ở vào tình trạng “nóng nhất”, chỉ số cổ phiếu cao đã hấp dẫn ngày càng nhiều người tham gia chơi, những người này đều đến để kiếm lời, họ không ngừng đưa giá cổ phiếu lên cao ngất ngưởng, một quả bong bóng vô thực lại được tạo ra.
·
Giai đoạn 1990 – 2007:
Sự bùng nổ chưa từng thấy trong thị trường chứng khoán cùng với việc được phép đầu tư thoải mái vào cổ phiếu làm gia tăng rất nhanh sự tham gia của công chúng vào thị trường chứng khoán trong suốt những năm 1990 và những năm đầu thế kỷ mới. Khối lượng mua bán hàng năm tại sở Giao dịch chứng khoán New York, tăng vọt từ 11.400 triệu cổ phiếu năm 1980 lên 169.000 triệu cổ phiếu năm 1998. Trong khoảng từ năm 1989 đến năm 1995, tỷ lệ số hộ gia đình Mỹ sở hữu cổ phiếu, trực tiếp hoặc thông qua trung gian như các quỹ trợ cấp, tăng từ 31% lên tới 41%.
Ø
Giai đoạn suy thoái:
·
Giai đoạn 1929 - 1933
:
Ngày 29/10/1929 có thể nói là ngày đen tối nhất đối với nền kinh tế Mỹ và những người chơi cổ phiếu. 10 giờ trưa, khi các sàn giao dịch chứng khoán ở New York vừa mở cửa, bất ngờ một loạt chứng từ bị ném mạnh đi, kéo theo đó là những tiếng thét trong sự thất vọng và đau khổ tột độ. Tất cả các cổ phiếu bỗng chốc trở thành “nắm giấy lộn” trong tay những người chơi. Không ít người đã bị “loại vũ khí đánh xa” này làm cho ngất xỉu, cả sàn giao dịch được một phen hỗn loạn. Chỉ số Dow Jones tụt xuống một cách khủng khiếp: từ mức cao nhất là 386 điểm xuống còn 298 điểm, giảm 22% so với các phiên giao dịch trước. Trong 12 năm lịch sử thị trường chứng khoán của nước Mỹ, ngày đó được gọi là “Ngày thứ ba đen tối”, hệ quả của nó là nền kinh tế Mỹ và thậm chí là của toàn thế giới bắt đầu bước vào thời kỳ cực kỳ tiêu điều kéo dài tới 10 năm.
Sau khi cơn ác mộng ập đến, tất cả mọi người đều sống trong hoang mang và oán trách. Thế nhưng không mấy người chơi cổ phiếu ở Mỹ hồi đó nhận thức được rằng, thật ra sự sụp đổ của thị trường chứng khoán lần đó đã được cảnh báo trước qua chính những dấu hiệu phát triển bất thường của nền kinh tế nước này.
Độ nóng của thị trường chứng khoán khi đó đã hoàn toàn vượt xa tình hình phát triển thực tế của nền kinh tế, vượt khỏi sự kiểm soát của Bộ tài chính và Chính phủ Mỹ, hơn nữa rất nhiều người chơi lại thế chấp, hoặc cầm cố bằng những tờ cổ phiếu để tiến hành giao dịch tín dụng. Một khi lòng tin của người đầu cơ giảm xuống, điều tất yếu là phải tăng thêm nhiều tiền bảo hiểm, trong khi đó những nhà đầu cơ thiếu vốn chỉ còn mỗi cách là bán tháo đi thật nhiều cổ phiếu để bù, kết quả của nó chính là sự tụt giảm tất yếu của cổ phiếu.
Giữa tháng 9 và tháng 10.1929, lòng tin của các nhà đầu cơ bắt đầu tụt giảm, họ tiến hành bán tháo cổ phiếu của mình vào thứ năm, 24.10. Đến ngày 29.10, 65 vạn cổ phiếu của Công ty Gang thép của Mỹ đã được bán tháo với giá 179 USD mỗi cổ phiếu, nhưng cũng không tìm nổi được một người mua. Sau đó giá cổ phiếu của công ty này bắt đầu trượt dốc và hàng loạt công ty nối đuôi nhau hạ giá cổ phiếu. Sự sụp đổ đã thật sự cận kề. Vô số tỉ phú ngày nào nhờ cổ phiếu chỉ trong phút chốc đã trắng tay.
Chính tình trạng này đã làm cho hàng loạt ngân hàng lớn của Mỹ bị phá sản do không thu lại được số vốn đã cho vay, nền kinh tế của Mỹ rơi vào trạng thái tê liệt hoàn toàn, kinh tế phương Tây rơi vào cảnh tiêu điều. Sự sụp đổ của thị trường chứng khoán đã giáng một đòn chí mạng vào lòng tin của các nhà đầu cơ. Phải đến tận năm 1954, thị trường chứng khoán của Mỹ mới đạt được mức kỷ lục như năm 1929, thế nhưng cơn ác mộng đen tối ngày nào vẫn luôn là nỗi ám ảnh đáng sợ đối với người dân Mỹ.
·
Giai đoạn 1987 - 1989
:
Thứ hai ngày 19/10/1987, lại là tháng 10 và cũng là một ký ức đen tối của những người chơi cổ phiếu nước Mỹ. Chỉ trong một ngày chỉ số Dow Jones tụt 508,32 điểm, mọi cố gắng nhằm làm cho nó ổn định lại đều thất bại. Chỉ trong một ngày, thị trường chứng khoán của Mỹ đã rơi vào trạng thái đóng băng. Đây là “ngày tồi tệ nhất trong lịch sử phố Wall”. Chịu ảnh hưởng từ sự sụp đổ của thị trường chứng khoán của Mỹ, hàng loạt thị trường chứng khoán của London, Tokyo, Sydney, Hong Kong, Singapore đều thi nhau tụt giảm.
N
ỗi sợ hãi
tai hoạ năm 1929 sẽ một lần nữa xảy ra
nhanh chóng lan truyền từ người này tới người khác. Cảnh tượng ngày nào đang tái hiện trước mắt mọi người, rất nhiều nhà tỉ phú bỗng chốc biến thành những kẻ nghèo kiết xác, tinh thần suy sụp, tin tức về các vụ tự sát không ngừng được thông báo.
Khác với phong trào chơi cổ phiếu toàn dân như năm 1929, sự khủng hoảng lần này không có sự đầu cơ điên cuồng mang tính toàn dân, thế nhưng trước khi cuộc khủng hoảng này xảy ra, thị trường chứng khoán phố Wall cũng đã chứng kiến tình trạng mua bán cổ phiếu ào ạt của những người đầu cơ ngắn hạn.. Cũng như năm 1929, quả bong bóng được sinh ra trong giai đoạn quá độ sẽ có ngày phải vỡ tan.
Và ngày 19.10, trên tất cả các sàn giao dịch chứng khoán của New York bao trùm một bầu không khí căng thẳng và u ám. Các loại cổ phiếu thi nhau rớt giá. Giá cổ phiếu biến động đã khiến cho các máy điện thoại liên lạc không còn đủ để sử dụng, tốc độ hiển thị trên màn hình máy tính không theo kịp sự thay đổi thực tế trên thị trường. Tờ New York Times với các
tiêu đề
“Tất cả ngoài tầm kiểm soát” đã thể hiện được sự bất lực và sự sợ hãi tột cùng của những người đầu cơ.
Có điều cuộc khủng hoảng lần này còn may mắn hơn cuộc khủng hoảng năm 1929, bởi vào lúc này nền kinh tế của Mỹ vẫn giữ được tốc độ tăng trưởng nhanh, cuộc khủng hoảng lần này xét ở tầm vĩ mô chỉ là một sự điều chỉnh đối với các hoạt động đầu cơ, do đó không dẫn đến cuộc khủng hoảng toàn bộ nền kinh tế. Thực tế cũng cho thấy, không lâu sau lần cổ phiếu tụt giá khủng khiếp này, thị trường chứng khoán đã nhanh chóng ổn định trở lại. Thế nhưng, cú sốc của nó đối với nền kinh tế nước Mỹ cũng không phải là nhỏ khi để lại hệ quả là nền kinh tế nước này bị đình trệ trong một khoảng thời gian khá dài.
·
Giai đoạn 2007 - 2011
:
Ngay khi
bong bóng nhà ở
vỡ cuối năm 2005, kinh tế Hoa Kỳ bắt đầu tăng trưởng chậm lại. Tuy nhiên, bong bóng vỡ đã dẫn tới các khoản vay không trả nổi của người đầu tư nhà ở đối với các tổ chức tài chính ở nước này. Giữa năm 2007, những tổ chức tài chính đầu tiên của Hoa Kỳ liên quan đến tín dụng nhà ở thứ cấp bị phá sản. Giá chứng khoán Hoa Kỳ bắt đầu giảm dần. Sự đổ vỡ tài chính lên đến cực điểm vào tháng 10 năm 2008 khi ngay cả những ngân hàng khổng lồ và lâu đời từng sống sót qua những cuộc khủng hoảng tài chính và kinh tế trước đây, như
Lehman Brothers
,
Morgan Stanley
,
Citigroup
,
AIG
, … cũng lâm nạn. Tình trạng
đói tín dụng
xuất hiện làm cho khu vực kinh tế thực của Hoa Kỳ cũng rơi vào tình thế khó khăn, điển hình là cuộc
Khủng hoảng ngành chế tạo ô tô Hoa Kỳ 2008-2010.
Chỉ số bình quân công nghiệp Dow Jones
lúc đóng cửa ngày 9 tháng 3 năm 2009 là 6.547,05, mức thấp nhất kể từ tháng 4 năm 1997. Chỉ trong vòng 6 tuần lễ, chỉ số này sụt tới 20%.
Ø
Giai đoạn phục hồi
:
·
Giai đoạn 1933 – 1970:
Sau ảnh hưởng của cuộc đại suy thoái giai đoạn 1929-1933, thị trường chứng khoán New York đã có những dấu hiệu phục hồi dần dần. Nhưng vẫn chịu nhiều ảnh hưởng nặng nề từ bóng đen về cuộc khủng hoảng đó.
·
Giai đoạn 1989 – 1990:
May mắn trong giai đoạn này nhờ có vị chủ tịch mới của FED đã đóng góp rất lớn trong việc chèo lái nền kinh tế tránh khỏi một cuộc khủng hoảng nữa cho nền kinh tế Mỹ bằng cách hỗ trợ để các ngân hàng thương mại và ngân hàng đầu tư không bị vỡ nợ. Thị trường hồi phụ, NYSE cũng tiến hành tinh chỉnh một số điểm nhỏ trong hệ thống giao dịch bao gồm cả hệ thống ngắt giao dịch khi thị trường tụt đến một mức nhất định đặt trước.
·
Giai đoạn 2011 đến nay:
Trong năm 2011, thị trường chứng khoán Mỹ đã vượt qua được ảnh hưởng của cuộc khủng khoảng nợ Châu Âu và từ đó đến nay đang từng bước phục hồi khá vững chắc. Chỉ số Dow Jones hiện chỉ còn chưa đầy 1000 điểm nữa sẽ
trở lại đỉnh cao kỉ lục 14164,53 điểm vào thời điểm tháng 10/2007. Sự tăng giá liên tục của các loại cổ phiếu đã dẫn tới các cuộc trao đổi của giới đầu tư trong khả năng vài ba tháng tới họ có thể bán bớt một số trái phiếu để chuyển tiền vào đầu tư chứng khoán.
1.2.
Tìm hiểu về một số sàn giao dịch lớn tại New York:
Trước đây, 3 sàn giao dịch chứng khoán lớn ở New York NYSE, NASDAQ, AMEX nhưng sau ngày 01/10/2008, NYSE đã hoàn thành việc mua lại AMEX, AMEX trở thành NYSE Amex Equities – một phần của NYSE Euronext. Sau đây chúng ta sẽ đi tìm hiểu về 2 sàn giao dịch chứng khoán lớn ở New York: sàn giao dịch chứng khoán New York NYSE và sàn giao dịch chứng khoán NASDAQ.
1.2.1.
Tìm hiểu về sàn giao dịch chứng khoán New York – NYSE:
Ø
Giới thiệu chung:
Sàn giao dịch chứng khoán New York, có biệt hiệu là "Big Board" - là sàn giao dịch chứng khoán đặt tại thành phố New York, thuộc sở hữu của tập đoàn NYSE (NYX).
Sàn giao dịch chứng khoán New York , Wall Street
NYSE được điều hành bởi tập đoàn NYSE, năm 2006 sáp nhập thêm sàn giao dịch điện tử Archipelago Holdings. Sàn giao dịch của NYSE đặt tại 11 Wall Street, gồm có 5 phòng giao dịch, hỗ trợ tối đa cho việc tiến hành các giao dịch. Ngày 27 tháng 3 năm 2007 NYSE sáp nhập thêm Euronext - sàn giao dịch chứng khoán lớn thứ 2 châu Âu để trở thành sàn giao1 dịch chứng khoán toàn cầu đầu tiên trên thế giới, sàn NYSE Euronext.
Hiện giờ, Chủ tịch của NYSE Euronext là ông Jan Michiel Hessels và CEO là ông Duncan L. Niederaue., với 2993 nhân viên làm việc tại NYSE Euronext.
Ø
Giao dịch trên sàn NYSE:
Giờ giao dịch của NYSE là từ 9:30 đến 16:00 (trừ những dịp lễ đặc biệt sẽ được thông báo trước).
Các vụ giao dịch trên NYSE được thực hiện theo phương thức đấu giá liên tục. Mỗi loại cổ phiếu có một địa điểm giao dịch nhất định trên sàn. Những thành viên của sàn nào muốn mua bán một loại cổ phiếu nào đó cho nhà đầu tư sẽ tập trung quanh địa điểm của một người môi giới, đại diện cho một công ty niêm yết trên NYSE.
Người môi giớinày đóng vai trò như một nhà đấu giá trong một cuộc đấu giá mở (open outcry auction) để liên kết người mua với người bán. Để kích thích giao dịch những người môi giới này tung ra nhiều thông tin cho những người môi giới khác, và thi thoảng họ còn sẵn sàng cam kết bằng số vốn riêng của mình. Phương thức đấu giá mở này đem lại hiệu quả cao nhất, đồng thời giúp các nhà đầu tư có được mức giá công bằng nhất. Chính đặc điểm xuất hiện sự tương tác trực tiếp giữa các nhà môi giới và sử dụng nhận định của các chuyên gia trong việc đặt lệnh đã làm cho NYSE khác hẳn với các sàn giao dịch chứng khoán điện tử khác.
Tới tháng 1/2007, NYSE bắt đầu đưa vào hệ thống giao dịch điện tử. Kể từ đó, hơn 80% giao dịch ở NYSE thực hiện bằng phương thức này.
Ø
Những sàn giao dịch khác tại New York của NYSE Euronext:·
NYSE Arca:
hoàn toàn là một sàn giao dịch chứng khoán điện tử, Nền tảng của NYSE Arca liên kết các nhà giao dịch trên khắp các trung tâm giao dịch của Mỹ và cung cấp cho khách hàng công cụ giao dịch điện tự nhanh chóng, tiếp cận thị trường trực tiếp cho tất cả mọi người. Cấu trúc và chức năng đặc trưng của NYSE Arca mang lại sự tiện lợi cho các cổ phiếu có hoặc không có tính thanh khoản sự minh bạch, nhanh chóng và hiểu quả. NYSE Arca thực hiện phiên đấu giá mở cửa và đóng cửa cho tất cả các loại cổ phiếu hoàn toàn tự động, minh bạch. Với tốc độ và tính năng ưu việt, NYSE Arca đã trở thành địa điểm số một tại Mỹ cho việc niêm yết và giao dịch ETFs hoặc các sản phẩm trao đổi khác (ETPs).·NYSE Amex:
hoàn thành việc mua lại sàn chứng khoán Mỹ Amex vào tháng 10/2008. Sau khi sáp nhập, Amex đổi tên thành NYSE Amex. Với định hướng trở thành thị trường hàng đầu cho việc niêm yết và giao dịch của các công ty vốn nhỏ hoặc rất nhỏ. Điều kiện niêm yết và quy định giao dịch hợp lý của NYSE Arca thích hợp với quy mô và nhu cầu kinh doanh của những công ty này trong khi đảm bảo tính minh bạch cho nhà đầu tư.
·
ArcaEdge
là một nền tảng nhanh chóng, hiệu quả và công bằng cho các giao dịch OTC. ArcaEdge cung cấp mức giá thi hành lệnh tốt nhất dựa trên tốc độ, tính thanh khoản, minh bạch và cho tất cả mọi người. Là một hệ thống điện tử hoàn thiện, ArcaEdge cung cấp màn hình hiển thị tương tác, thời gian thực của lệnh đặt, trật tự thực hiện tốt nhất, thông minh, tốc độ, nhất quán và đáng tin cậy của thị trường OTC và sự lựa chọn ưu việt cho việc thực hiện tốt hơn các lệnh OTC.Ø
Chỉ số chứng khoán của NYSE:
Chỉ số chứng khoán tổng hợp NYSE (NYA) - NYSE Composite được xây dựng vào thập niên 1960 với giá trị cơ bản là 50 điểm, tương đương với chỉ số đóng cửa năm 1965, phản ánh giá trị của tất cả các cổ phiếu giao dịch trên sàn, thay vì chỉ có 30 cổ phiếu trong chỉ số công nghiệp Dow Jones. Trong lịch sử của NYSE, mức cao kỉ lục của chỉ số tổng hợp NYSE từng đạt 9,345.25 điểm vào 7/2/2007, mức thấp kỉ lục là 347.77 điểm vào 10/1974.
Ngoài ra, NYSE cũng sử dụng chỉ số Dow Jones và S&P 500.
1.2.2.Tìm hiểu về sàn giao dịch chứng khoán NASDAQ:
Ø
Giới thiệu chung:
NASDAQ là chữ viết tắt của cụm từ National Association of Securities Dealers Automated Quotations system. Điểm khác biệt quan trọng giữa NASDAQ với các sàn giao dịch chứng khoán lớn khác là ở chỗ nó là một sàn giao dịch chứng khoán phi tập trung (OTC).
Nasdaq được thành lập năm 1971 bởi Hiệp hội những người buôn bán chứng khoán Quốc gia (NASD), và hiện đang được điều hành bởi Nasdaq OMX Group
. NASDAQ là sàn giao dịch chứng khoán điện tử lớn nhất nước Mỹ, với khoảng 3,200 công ty niêm yết và số lượng cổ phiếu giao dịch bình quân nhiều hơn bất kỳ sàn giao dịch khác ở Mỹ, kể cả NYSE. Trụ sở của NASDAQ hiện nay tại 1 Liberty Plaza, 165 Broadway, New York,CEO kiêm chủ tịch là ông Robert Greifeld.
NASDAQ cũng niêm yết cổ phiếu của chính họ trên sàn dưới mã hiệu NDAQ.
Ø
Giao dịch trên sàn NASDAQ:Tại NASDAQ có một phiên trước khi mở cửa từ 7h sáng đến 9h30 sáng, một phiên giao dịch bình thường từ 9h30 sáng đến 4h chiều và một phiên sau khi đóng cửa từ 4h chiều đến 8h tối (tính theo giờ New York).
Các giao dịch trên thị trường NASDAQ được thực hiện thông qua một thị trường mở, qua một hệ thống các nhà kinh doanh đa chức năng và qua rất nhiều nhà tạo lập thị trường cạnh tranh với nhau nhằm giành được các giao dịch của từng loại cổ phiếu. Đó là một điểm tương phản với hệ thống được áp dụng trong các thị trường truyền thống, nơi mà các lệnh đặt mua và đặt bán đối với một loại cổ phiếu nào đó phải được thực hiện thông qua một chuyên gia duy nhất. Và bởi vì có rất nhiều nhà tạo lập thị trường nên cùng một lúc có thể thực hiện được nhiểu giao dịch hơn.
Cho đến năm 1984, hầu hết các giao dịch được tiến hành qua điện thoại, song trong suốt cuộc khủng hoảng của thị trường chứng khoán năm 1984, những người tạo lập thị trường hầu như không trả lời điện thoại. Để đối phó với vấn đề này, Hệ thống đặt lệnh quy mô nhỏ (Small Order Execution System - SOES) đã ra đời, cung cấp cho những người mua bán chứng khoán một phương thức giao dịch điện tử hoàn toàn mới, và để đảm bảo những giao dịch nhỏ không bị bỏ qua.
Thị trường NASDAQ đang cố gắng xây dựng một mạng giao dịch toàn cầu, tập trung vào việc báo cáo các giao dịch theo thời gian thực. Kể từ năm 1992, các chứng khoán chuyển sang được giao dịch vào buổi sáng sớm, đó là lúc thị trường London mở cửa. Đến năm 1997, Mạng giao tiếp điện tử (Electronic Communication Network- ECN) được áp dụng, cho phép các nhà tạo lập thị trường và các tổ chức trên khắp thế giới có thể đấu giá kín với nhau. Mạng này sẽ kiểm tra các cặp lệnh khớp nhau - việc khớp lệnh này có thể thực hiện một cách nhanh chóng. Nếu không thấy cặp lệnh nào khớp nhau, giá chào bán và giá chào mua sẽ được công bố trên thị trường.
Ngoài ra, có 3 cấp độ yết giá tại NASDAQ như sau:
Cấp độ 1: giá mua cao nhất và giá bán thấp nhất của các cổ phiếu.
Cấp độ 2: tất cả những mức định giá công khai của các nhà tạo lập thị trường, những thông tin về các chứng khoán mà các nhà tạo lập thị trường muốn bán hay mua và những lệnh mới được khớp.
Cấp độ 3: do các nhà tạo lập thị trường sử dụng, nó cho phép họ tham gia định giá và khớp lệnh.
Ø
Các chỉ số chứng khoán của NASDAQ:Chỉ số chủ yếu trên NASDAQ là chỉ số tổng hợp NASDAQ (The Nasdaq Composite), được xây dựng dựa trên giá cổ phiếu của toàn bộ các công ty niêm yết trên NASDAQ. Chỉ số này là chỉ số được theo dõi nhiều nhất đối với các công ty về công nghệ. Một số mốc chính với chỉ số tổng hợp NASDAQ:
-17/7/1995: lần đầu tiên chỉ số tổng hợp NASDAQ đóng cửa ở mức giá trên 1000 điểm.
-10/3/2005: chỉ số này đạt mức giao dịch cao kỉ lục 5,132.52 điểm.
-10/10/2002: chỉ số tổng hợp NASDAQ tụt xuống mức thấp nhất 1,108.49 điểm.
Bên cạnh NASDAQ Composite thì NASDAQ 100 và Nasdaq Financial 100 cũng là những chỉ số chứng khoán rất quan trọng. Nasdaq 100 là chỉ số chứng khoán của 100 công ty phi tài chính lớn nhất được niêm yết trên NASDAQ, cả công ty trong nước và quốc tế, còn Nasdaq Financial 100 là của các công ty tài chính.
Nếu công ty có nhiều loại cổ phiếu thì nó chỉ được phép có 1 cổ phiếu với giá trị vốn hoá thị trường lớn nhất được tham gia vào chỉ số NASDAQ 100. Danh mục công ty nằm trong NASDAQ 100 được tái cơ cấu lại theo chu kì 1 năm hoặc sau khi xảy ra các vụ chia tách, sáp nhập các công ty trong top 100.
1.2.3.
Điểm đặc biệt về NYSE và NASDAQ:
Ø
So sánh giữa NYSE và NASDAQ trên một số điểm:
NYSE
NASDAQ
1.
Loại doạnh nghiệp chủ yếu niêm yết
Thường là những công ty lớn, lầu đời, có vị thế, uy tín, có nhiều công ty blue-chip thuộc những ngành gạo cội
Thường là những công ty nhỏ hơn, mới xuất hiện và đặc biệt thu hút những công ty trong lĩnh vực công nghệ cao, điện tử, Internet
2.
Địa điểm giao dịch
Có địa điểm giao dịch cụ thể
Không có địa điểm giao dịch cụ thể, vận hành qua mạng máy tính3.
Cách thức giao dịch
Dưới hình thức đấu giá, giao dịch qua môi giới, chuyên gia trên sàn.Hoạt động hoàn toàn dựa trên máy tính, thông qua những nhà tạo lập thị trường
4.Biến động chứng khoán
Ổn định hơn, ít biến động
Biến động nhiều hơn
5.
Mã chứng khoán
Là sàn giao dịch chứng khoán lâu đời nhất ở Mỹ. Vào những năm đầu, mã chứng khoán chỉ có 1 đến 2 ký tự, một số mã vẫn được dùng tới bây giờ. Vì có thêm nhiều chứng khoán giao dịch, mã chứng khoán được mở rộng thành 3 ký tự
Đi vào hoạt động từ năm 1971, NASDAQ đã hoàn toàn là một sàn giao dịch điện tử. Mã chứng khoán trên sàn NASDAQ có 4 ký tự để phân biệt với những sàn giao dịch khác.
6.
Ký tự thêm
NYSE cho phép mã chứng khoán có thêm 1 ký tự vì những mục đích đặc biệt. Dấu chấm hoặc khoảng trắng được đặt trước ký tự thêm. VD: .A đối với cổ phiếu loại A, .B đối với cổ phiếu loại B.
NASDAQ cho phép thêm vào ký tự thứ 5 để thể hiện ý nghĩa đặc biệt. NASDAQ thường dùng ký tự F đối với công ty nước ngoài, Y chỉ định cho biên nhận lưu ký Mỹ (ADR)7.
Phí và điều kiện niêm yết
Điều kiện niêm yết khắt khe hơn, phí niêm yết nhiều hơn.-
Phí niêm yết tối đa: 250.000$
-
Phí duy trì hàng năm: 500.000$
-
Phí niêm yết tối đa: 150.000$
-Phí duy trì hàng năm: 60.000$
Ø
Điểm đặc biệt về NYSE
-NYSE là sở giao dịch đầu tiên có điều kiện niêm yết và phí, giúp đem lại khoản thu nhập lớn cho sở giao dịch. Trong hơn 200 năm, Sở giao dịch chứng khoán New York luôn giữ vị trí số một.
-Tới năm 2006, NYSE mới cổ phần hoá trở thành một công ty đại chúng sau 214 năm hoạt dộng trong lĩnh vực giao dịch chứng khoán.
-Cần phải có “chỗ” để tham gia giao dịch trực tiếp mà không cần qua trung gian trên sàn NYSE, nó giống như là tư cách thành viên trên sàn, những công ty quan tâm có thể mua bán tư cách thành viên. Năm 1868, có 533 “chỗ” tại NYSE, từ năm 1953 có 1366 “chỗ” và chưa thay đổi cho tới bây giờ. Ngày 1/12/2005, giá cao nhất trả cho 1 “chỗ” tại NYSE vào khoảng 4 tỉ USD. 30 ngày sau, 31/12/2005, những “chỗ” tại sàn NYSE chuyền thành giấy phép giao dịch hàng năm.
-Cựu thủ tướng Phan Văn Khải rung chuông sàn NYSE ngày 23/06/2005
Một trong những đặc điểm quen thuộc nhất của sàn NYSE là tiếng chuông mở đầu trên sàn giao dịch và tiếng chuông đóng cửa. Được rung chuông tại sàn NYSE là một vinh dự và những quan chức cấp cao thường được mời tới.
-Trong các công ty niêm yết tại NYSE thì có:
ü
7 công ty nằm trong bảng xếp hạng top 10 globally admired của the Fortune.
ü
37 công ty nằm trong bảng xếp hạng 50 công ty hoạt động tốt nhất của BusinessWeek.ü
71% của chỉ số Global Dow.
ü
90% của chỉ số Dow Jones Industrial Average.ü
84% của danh sách Fortune 500.
ü
90% của bảng xếp hạng Barron’s 500.ü
82% của chỉ số S&P 500.
ü
70 công ty nằm trong danh sách 100 tập đoàn toàn cầu lớn nhất.Ø
Điểm đặc biệt về NASDAQ:
-Nasdaq là sàn giao dịch chứng khoán đầu tiên tại Mỹ cho phép truy cập dữ liệu cổ phiếu thời gian thực dễ dàng, miễn phí, toàn cầu.
-Nasdaq là sàn giao dịch điện tử đầu tiên và đưa ra IPO kiểu mới.
-Là sàn giao dịch đầu tiên trở thành công ty đại chúng vào năm 1987, và hỗ trợ cho Thung lũng Sillion.
-Sàn giao dịch đầu tiên bán công nghệ để phát triển các sàn giao dịch khác, năm 1991.
-Sàn giao dịch đầu tiên có một trang web tài chính, năm 1996.
-Sàn giao dịch đầu tiên cung cấp trang web thông minh 24/7 cho các công ty niêm yết tại sàn.
-Sàn giao dịch đầu tiên đáp ứng tiêu chuẩn ISO 9001, năm 2001
-Sàn giao dịch đầu tiên đưa ra niêm yết đôi, năm 2004.
-Năm 2005, Nasdaq là sàn giao dịch đầu tiên đưa ra tiêu chuẩn niêm yết đầu tiên cao nhất trên thế giới, hơn bất cứ sàn giao dịch nào, kể cả NYSE – (NASDAQ Global Select Market) Nasdaq thị trường lựa chọn toàn cầu; và là sàn giao dịch đầu tiên cung cấp dữ liệu theo yêu cầu năm 2010.
1.2.4.Xếp hạng của NYSE
, NASDAQ
theo một số tiêu chí:
·
Về giá trị giao dịch và mức vốn hoá tính đến tháng 12/2011:
Xếp hạng
Sàn giao dịch
Địa điểmGiá trị giao dịch (nghìn tỉ USD)
Mức vốn hoá (nghìn tỉ USD)
1
NYSE Euronext (US & Europe)
New York
20,16114,242
2
NYSE Euronext (US)
New York
18,027
11,7963
NASDAQ OMX (US & North Europe)New York
13,552
4,687
4
NASDAQ OMX (US)
New York12,724
3,845
5
Tokyo Stock Exchange
Tokyo
3,9723,325
·
V
ề tổng giá trị quỹ đầu tư tập thể ETFs được giao dịch bằng USD tính đến tháng 12/2011:
Xếp hạng
Sàn giao dịch
2011 (nghìn tỉ USD)
2010 (nghìn tỉ USD)1
NYSE Euronext US4,496
4,164
2
NASDAQ OMX US
4,309
4,2463
London Stock Exchange Group314
243
4
Deutsche Börse
307
2255
NYSE Euronext (Europe)198
155
·
Về tổng giá trị trái phiếu giao dịch bằng USD tính đến tháng 12/2011:
Xếp hạng
Sàn giao dịch
2011 (nghìn tỉ USD)
2010 (nghìn tỉ USD)
1BME Spanish Exchanges
17,412
11,041
2
London Stock Exchange Group
5,394
4,029
3Johannesburg Stock Exchange
2,898
2,321
4
NASDAQ OMX Nordic Exchange
2,674
2,626
5Colombia Stock Exchange
915
1,138
1.3.
Các chỉ tiêu chứng khoán chủ yếu tại thị trường New York
Ø
Chỉ số công nghiệp Dow Jones – Dow Jones Industrial Average
Chỉ số công nghiệp Dow Jones (DJIA) là một trong các chỉ số của thị trường chứng khoán, ra đời vào thế kỷ 19 bởi tổng biên tập báo Wall Street Journal và đồng sáng lập công ty Dow Jones. Đó là chỉ số cho thấy một số loại cổ phiếu nhất định được giao dịch thế nào. Dow là chỉ số đo lường hiệu quả hoạt động của ngành công nghiệp trong thị trường chứng khoán Mỹ. Đó là chỉ số lâu đời thứ hai của Mỹ, sau chỉ số Giao thông Dow Jones (cũng do Dow tạo ra)
Chỉ số này được tính toán từ giá cổ phiếu của 30 công ty lớn nhất và phổ biến nhất ở Mỹ. Chữ “công nghiệp” trong tên của chỉ số có tính lịch sử. Hầu hết 30 công ty thành viên đều không liên quan đến ngành công nghiệp nặng truyền thống. Chỉ số trung bình tính theo giá, và bù trừ cho hậu quả của việc chia tách cổ phiếu và các điều chỉnh khác, được gọi là chỉ số trung bình tính toán. Không phải là chỉ số trung bình thực của giá chứng khoán thánh phần, nhưng là tổng các giá thành phấn chia bằng ước số, cố thể thay đổi một khi một trong các chứng khoán thành phần có cổ phiếu tách hoặc cổ tức cổ phiếu, để tạo giá trị cho chỉ số. Do ước số hiện tại nhỏ hơn 1, giá trị của chỉ số cao hơn tổng thành phần.
Ø
S&P 500
Chỉ số S&P 500 là chỉ số vốn hóa thị trường ra đời từ năm 1957, chỉ số giá của 500 cổ phiếu lớn nhất được giao dịch ở Mỹ. Cổ phiếu trên thị trường S&P 500 là cổ phiếu do các công ty lơn nắm giữ trên hai thị trường chứng khoán lớn nhất là Thị trường chứng khoán New York và NASDAQ. Hầu hết các cổ phiếu trên thị trường này là của 500 cổ phiếu có giá trị vốn hóa thị trường lớn nhất
Chỉ số S&P 500 là chỉ số chứng khoán Mỹ lớn nhất đứng sau Chỉ số Công nghiệp Dow Jones. Chỉ số này được xem như là chỉ số dẫn đầu nền Kinh tế Mỹ, và được coi là Chỉ dẫn kinh tế hàng đầu. Một vài quỹ tương hỗ, Qũy giao dịch chứng khoán ETF, và các quỹ điều hành khác, như quỹ phúc lợi, ra đời mô phỏng hoạt động của chỉ số S&P 500. Hàng tỷ Đô la Mỹ đã được đầu tư theo cách này.
Chỉ số S&P 500 không chỉ được nhắc đến như là một chỉ số kinh tế, mà còn chỉ 500 công ty có cổ phiếu phổ thông trên thị trường. Mã của chỉ số S&P 500 rất đa dạng. Một số ví dụ là GSPC, .INX, và $SPX. Cổ phiếu của Chỉ số S&P 500 là một phần của chỉ số S&P 1500 và Chỉ số chứng khoán S&P Global 1200.
Ø
Các chỉ số khác:
Ngoài ra còn có các chỉ số chứng khoán khác như:
·
Russell 3000:
Chỉ số Russell 3000 dùng để đo khả năng hoạt động của 3000 công ty lớn nhất của Mỹ, tổng giá trị vốn hoá của những công ty này chiếm tới 98% giá trị của thị trường chứng khoán Mỹ. Chỉ số Russell 3000 mang đến một cái nhìn toàn cảnh và khách quan về thị trường, chỉ số này được cập nhật hàng năm để đảm bảo theo dõi sát nhất những cố phiếu mới nổi trên thị trường.
·
Russell 2000:
Là một chỉ số của thị trường chứng khoán dùng để đo khả năng hoạt động của 2000 công ty có giá trị vốn hoá thị trường nhỏ nhất trong số 3000 công ty của chỉ số Russell 3000. Chỉ số Russell 2000 có chức năng là chuẩn đánh giá cho những cổ phiếu có giá trị vốn hoá thị trường nhỏ trên thị trường Mỹ.
Giá trị vốn hoá thị trường (trung bình trọng số) của các công ty trong chỉ số Russell 2000 là khoảng 1 tỉ USD, và bản thân chỉ số được coi là chuẩn đánh giá đối với tất cả các quỹ tương hỗ có giá trị nhỏ.
·
Russell 1000:
Là chỉ số chứng khoán được cấu thành bởi cổ phần của 1000 công ty có giá trị vốn hoá thị trường lớn nhất của Mỹ.
·
Wilshire 5000:
Chỉ số Wilshire 500 là chỉ số đánh giá mức vốn hoá thị trường của tất cả các cổ phiếu của công ty có trụ sợ tại Mỹ, phát hành chứng khoán để giao dịch trên các thị trường, và có mức giá sẵn sàng cho giao dịch. Chỉ số Wilshire 5000 bao gồm hầu như toàn bộ cổ phần phổ thông, REITs và cổ phần của công ty hợp doanh loại quan hệ đối tác hữu hạn (Limited Partnership), đầu tiên được giao dịch trên NYSE, NASDAQ, AMEX, không bao gồm biên nhận lưu ký (ADRs)
Phần 2: Điều kiện niêm yết
và phí niêm yết
trênsàn
NYSEvà NASDAQ
2.1
Điều kiện niêm yết
và phí niêm yết tại NYSE Euronex:2.1.1.
Điều kiện niêm yết và phí trên NYSE:
Sàn giao dịch NYSE đưa ra các điều kiện cho lần niêm yết đầu tiên và tiếp tục niêm yết đối với các công ty trong nước và nước ngoài.
Có thể chia thành 3 bộ điều kiện:-Điều kiện niêm yết đối với công ty trong nước (công ty của Mỹ)
- U.S Standards
-
Điều kiện niêm yết đối với các công ty không phải công ty Mỹ - Non U.S Standards
-
Điều kiện tiếp tục niêm yết – Continued Listing Standards.
Tới bây giờ, chưa có công ty Việt Nam niêm yết trên sàn NYSE vậy nên bài báo cáo này xin chỉ đưa ra điều kiện niêm yết đối với các công ty không phải công ty của Mỹ và phí cho lần phát hành đầu tiên ra công chúng IPO – điều các doanh nghiệp Việt Nam nên lưu ý
Ø
Điều kiện niêm yết đối với các công ty không phải của Mỹ:
Tiêu
chíYêu cầu
Quốc tếTrong nước (Mỹ)
Có thể thoả mãn
cả A, B hoặc C
:Phát hành
Số cổ đông round-lot
Tổng số cổ đông
5,000A. 400
cổ đông
round lot
người Mỹ
B. Có số lượng 2,200 cổ đông và 100.000 cổ phiếu giao dịch hàng tháng (6 tháng gần nhất)
C.
Có số lượng 500 cố động và 1.000.000 cố phiếu giao dịch hàng tháng (12 tháng gần nhất)
Cổ phiếu công
2.5
triệu1.1
triệu
Giá trị thị trường
$100
triệuIPO's, Carve-outs & Spin-offs
N/A$40
triệu
Tất cả các cố phiếu niêm yết khác.
N/A
$100
triệu
Tài Chính
Thu nhập
Tổng thu nhập trước thuế trong 3 năm gần nhất
$100
triệu$10
triệu
Thu nhập trước thuế tối thiểu của 2 năm trước đó
$25triệu
$2
triệu
(
Tất cả 3 năm đều phải dương)
HOẶC
Tổng thu nhập trước thuế trong 3 năm gần nhất
N/A
$12triệu
Thu nhập tối thiểu trong năm gần nhất
N/A
$5
triệuThu nhập tối thiểu của năm tiếp theo
N/A
$2triệu
Đánh giá doanh thu
Có thể đáp ứng cả A và B
A. Đánh giá dòng tiền
Giá trị vốn hoá thị trường
$500
triệu$500
triệu
Doanh thu (của 12 tháng gần nhất)
$100tiệu
$100
triệu
Tổng dòng tiền trong 3 năm gần nhất
$100
triệu
$25
triệu
(
cả 3 năm đều phải dương)
Dòng tiền tối thiểu của mỗi năm trong 2 năm trước đó
$25
triệu
N/AB.
Đánh giá thuần
Giá trị vốn hoá thị trường
$750
triệu
$750triệu
Doanh thu (năm tài chính gần nhất)
$75
triệu
$75
triệuCông ty con
Với những công ty mới theo loại hình công ty mẹ– con niêm yết trên NYSE
Mức vốn hoá thị trường
$500
triệu$500
triệu
Có thời gian hoạt động ít nhất 12 tháng
Công ty con được niêm yết ở vị trí tốt
Công ty con được niêm yết vẫn nắm quyền kiểm soát toàn công ty
Có
Có
CóCó
CóCó
Ø
Phí niêm yết chứng khoán lần đầu tại sàn NYSE (Phí một lần)
$50nghìn + $3200/triệu cổ phiếu; MIN=$125nghìn, MAX=$250nghìn
LƯỢNG CỔ PHIẾU ĐANG LƯU HÀNH
GIÁ NIÊM YẾT
Dưới 20triệu
$125,00025triệu
$130,00030triệu
$146,00035triệu
$162,00040triệu
$178,00045triệu
$194,00050triệu
$210,00055triệu
$226,00060triệu
$242,00065triệu
$250,00070triệu
$250,00075triệu
$250,000Trên 75triệu
$250,0002.1.2.Điều kiện niêm yết trên NYSE Arca:
Điều kiện niêm yết lần đầu
Chỉ tiêu phát hành tối thiểu
Cổ đông đại chúng round-lot
400
Cổ phiếu thường
1,100,000
Giá đóng cửa/cổ phiếu
$5.00 trong liên tục 90 ngày giao dịch
Chỉ tiêu tài chính tối thiểu (theo US GAAP)
Mức vốn hoá
$150 triệuGiá trị thị trường của cổ phiếu thường
$45 triệuPhải đáp ứng 2 trong 4 chỉ tiêu tối thiểu sau:
Tổng tài sản
$75 triệuDoanh thu (2 năm gần nhất của 3 năm
qua)
$50 triệu
Vốn cổ đông
$50 triệu
Thu nhập trước thuế trong năm tài chính gần nhất
Dương
Ø
Phí niêm yết:NYSE Arca tính phí đối với những người giao dịch chuyển tính thanh khoản ra khỏi Arca-book là 3$/ 1000 cổ phiếu.
Đối với người giao dịch muốn tăng tính thanh khoản được giảm giá 2$/1000 cổ phiếu. Người giao dịch ruit lệch khỏi hệ thống của NYSE Arca phải trả 1$/1000 cổ phiếu đối với chứng khoán loại A và 4$/1000 cổ phiếu đối với các loại chứng khoán khác.
2.1.3.Điều kiện niêm yết trên NYSE Amex:
Sàn NYSE Amex đưa ra những tiêu chuẩn định tính định lượng cho lần niêm yết ban đầu đối với công ty Mỹ và công ty nước ngoài.
Ø
Điều kiện niêm yết:Điều kiện định lượng
Chỉ tiêu
Điều kiện niêm yết
Điều kiện 1
Điều kiện 2
Điều kiện 3Điều kiện 4
Thu nhập trước thuế 1
$750,000
N/A
N/A
N/AMức vốn hoá
N/AN/A
$50 triệu
$75 triệu
HOẶC
ít nhất $75 triệu/ tổng tài sản
và $75 triệu/ doanh thu
Giá trị thị trường của cổ phiếu thường
$3 triệu
$15 triệu
$15 triệu$20 triệu
Giá tối thiểu
$3
$3
$2
$3Lịch sử hoạt động
N/A2 năm
N/A
N/A
Vốn cổ đông
$4 triệu
$4 triệu$4 triệu
N/A
Cổ đông đại chúng/ cổ phiếu thường2
Lựa chọn 1: 800/500,000
Lựa chọn 2: 400/1,000,000
Lựa chọn 3: 400/500,0003
(1)
Yêu cầu trong năm tài chính mới nhất, hoặc 2 trong 3 năm tài chính gần nhất(2)
Cổ đông đại chúng và cổ phiếu thường không được bao gồm cổ đông và cổ phiếu được phát hành trược tiếp hoặc gián tiếp bởi bất kỳ những nhân viên, ban giám đốc, các cổ đông điều hành hay nhóm khác có 10% cổ phần trở lên, nhóm gia đình….
(3)
Lựa chọn 3 yêu cầu khối lượng giao dịch hàng ngày là 2000 cổ phiếu trong suốt 6 tháng chờ niêm yết.·Các công ty nước ngoài: những nhà phát hành nước ngoài mà không đáp ứng được những điều kiện trên có thể thay thế bằng 800 cổ đông lô chẵn, 1 triệu cổ phiếu phát hành quốc tế công khai và $ 3 triệu giá trị thị trường của cổ phiếu thường (quy mô toàn cầu).
Ø
Phí niêm yết:
Phí niêm yết cổ phiếu lúc đầu và tiếp tục niêm yết
Số lượng cổ phiếu
Niêm yết lần đầu
Tiếp tục niêm yết
(Hàng năm)
Dưới 5 triệu
$50,000
$27,500 (tối thiểu)
Từ 5 - 10 triệu
$55,000
$27,500
10 – 15 triệu
$60,000
$27,50015 – 25 triệu
$70,000$27,500
25 – 50 triệu
$70,000
$27,500
50 – 75 triệu
$70,000
$36,500
Trên 75 triệu
$70,000
$40,000 (tối đa)2.2.Điều kiện niêm yết và phí niêm yết tại NASDAQ:
Ø
Điều kiện niêm yết:
Sàn chứng khoán NASDAQ áp dụng với các công ty Mỹ chia làm 2 bộ phần là thị trường vốn nhở NASDAQ và thị trường quốc gia NASDAQ, chính vì thế mà yêu cầu đối với danh nghiệp Mỹ muốn niêm yết trên 2 thị trường này cũng khác nhau.
Ngoài ra, đối với NASDAQ lựa chọn toàn cầu (NASDAQ Global select market), các công ty niêm yết lần đầu cần đáp ứng các yêu cầu về mặt tài chính như sau:
Yêu cầu về mặt tài chính:
Tiêu chuẩn 1
Tiêu chuẩn 2
Tiêu chuẩn 3
Thu nhập trước thuế
> 11 triệu $ trong 3 năm tài chính trở lại đây, hai năm gần nhất không năm nào< 2.2 triệu$. Không năm nào âm.
N/AN/A
Dòng tiền
N/A
>27.5 triệu $ trong 3 năm tài chính gần đây. Không năm nào âm.
N/A
Giá trị vốn hoá thị trường
N/A
>500 triệu $ trong 12 tháng trước đó>850 triệu $ trong 3 năm tài chính gần đây.
Thu nhập
N/A
>110 triệu $ trong năm tài chính trước đó
> 90 triệu $ trong năm tài chính trước đó
Nhà tạo lập thị trường
3
33
Quản trị doanh nghiệp
Có
Có
Có
Giá chào bán
500 $
500$500$
Yêu cầu về tính thanh khoản của thị trường:
Công ty cổ phần từ đầu
Công ty lép vốn
Công ty tái lập từ phá sảnLượng cổ đông (người)
2,200450
450
Cố phần do công chúng giữ (CP)
1,250,000
1250000
1250000Giá thị trường của cổ phiếu công chúng (triệu đô-la)
7070
110
Ø
Phí niêm yết:·
Phí gia nhập của NASDAQ GSM:
Số lượng cố phiếu
Phí gia nhập≤ 30 triệu
$125,00030 – 50 triệu
$150,00050 – 100 triệu
$200,000Trên 100 triệu
$225,000·
Phí hàng năm của NASDAQ GSM
Số lượng cổ phiếu
Phí hàng năm
Phí hàng năm cho ADRs
≤ 10 triệu
$35,000
$30,00010 - 50 triệu
$37,500$37,500
50 - 75 triệu
$46,500
$42,500
75 - 100 triệu
$68,500
$50,000
100 - 150 triệu
$89,000
$50,000Trên 150 triệu
$99,500$50,000
Phần 3:
3.1Cơ hội khi được niêm yết trên sàn NYSE
:
Là thị trường chứng khoán hàng đầu thế giới nên việc niêm yết tại thị trường New York mang lại rất nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam
Vốn là một thị trường lớn với mức vốn đồ sộ nên thị trường New York có sức thanh khoản lớn nhất .Sàn Singapore gần với thị trường Việt Nam nhưng mức độ thanh khoản không cao bằng thị trường New York; sức hút đối với giới đầu tư cũng không thể bằng.
Việc niêm yết trên thị trường này cũng là một thương hiệu đối với các doanh nghiệp trong việc thu hút giới đầu tư nước ngoài. Rất nhiều công ty lớn của Trung Quốc, Hồng Kông đều niêm yết ở Mỹ. Các công ty của Nhật, Đức, Anh cũng muốn lên sàn này.
Giải pháp huy động vốn ở các thị trường nước ngoài, đặc biệt là thị trường New York, nơi từ trước tới nay sự luân chuyển đồng vốn vẫn nổi tiếng bởi sự sôi động và tính chuyên nghiệp, đang được các doanh nghiệp Việt cân nhắc
Việc niêm yết trên các thị trường phát triển đặc biệt là thị trường Mỹ sẽ tạo ra các cơ hội để các doanh nghiệp Việt Nam hoàn thiện bộ máy hoạt động, cơ cấu, cũng như các công tác quản trị đều hành. Việc niêm yết ở thị trường nước ngoài cũng giúp doanh nghiệp nâng cao tính minh bạch hoá, nâng cao uy tín và thương hiệu của mình trên thị trường quốc tế.
3.2Thách thức về việc niêm yết trên thị trường chứng khoán New York
:
Đây là thị trường lớn trên thế giới nên bất cứ một biến động nào dù là nhỏ nhất cũng tác động nên các thị trường trên toàn thế giới. Khi thị trường này tăng tất yếu các thị trường khác cũng tăng. Nhưng khi thị trường này giảm sẽ kéo theo sự suy giảm của các thị trường khác.Thị trường thuận lợi thì huy động được vốn lớn, còn thị trường không thuận lợi thì vẫn huy động được vốn nhưng ở mức độ thấp hơn.
Những quy định về tiêu chuẩn kế toán Mỹ (GAAP) và minh bạch thông tin vẫn là những khó khăn lớn nhất cho bất cứ doanh nghiệp Việt Nam nào do chuẩn mực kế toán của 2 nước vẫn còn nhiều sự khác nhau.Ngoài ra chưa nhiều công ty kiểm toán ở VN được cấp chứng nhận quốc tế, và là khó khăn cho việc minh bạch hóa hoạt động của các doanh nghiệp Việt Nam.
Việc đưa ra báo cáo tài chính định kỳ có vẻ chưa được các công ty Việt Nam coi trọng đúng mức.Trong khi đó thị trường Mỹ đặc biệt đòi hỏi tính minh bạch cao, các bản cáo bạch, yêu cầu phải đúng, chính xác và đúng thời hạn. Trong trường hợp nộp muộn sau một tháng cổ phiếu của công ty này sẽ không được niêm yết nữa.
Nghĩa vụ về pháp lý của thị trường Mỹ vẫn là một gánh nặng quá lớn, cản trở các doanh nghiệp Việt Nam có ý định “lên sàn” Mỹ. thủ tục pháp lý của Mỹ không phải là đơn giản. Thậm chí, có doanh nghiệp sau một thời gian thăm dò đã phải bỏ cuộc vì sự đòi hỏi quá khắt khe.
Để được niêm yết trên NYSE, các công ty quốc tế phải có tổng lợi nhuận trước thuế 3 năm gần nhất là 100 triệu USD, lợi nhuận mỗi năm trong 2 năm liên tiếp gần nhất là 100 triệu USD…;
Niêm yết trên NYSE-ARCA, doanh nghiệp phải có tổng tài sản 75 triệu USD, doanh thu 50 triệu USD/năm…
Với sàn NASDAQ Global Select, doanh nghiệp phải có tổng lợi nhuận 3 năm liên tiếp là 11 triệu USD, doanh thu năm liền trước 110 triệu USD…;
Với sàn NASDAQ Global, doanh nghiệp phải có vốn cổ đông là 15 triệu USD hoặc 30 triệu USD, thu nhập trước thuế của năm trước hoặc trong 2 năm bất kỳ trong 3 năm gần nhất là 1 triệu USD…;
Giao dịch trên thị trường OTC thì chỉ cần báo cáo tài chính kiểm toán với Ủy ban Chứng khoán Mỹ và số cổ đông là 40 (100 cổ phần/cổ đông); giao dịch trên thị trường Pink Sheets thì chỉ cần tuân theo Luật thuế Liên bang và tiểu Liên bang, được công ty đại diện giao dịch chứng khoán bảo trợ, có hoặc không có kiểm toán…
3.3 Sự gia nhập của Việt Nam trên thị trường chứng khoán New York: Ø Phát hành trái phiếu chính phủ trên NYSE: Vào cuối tháng 1/2010. Chính phủ Việt Nam chào bán khoảng 1 tỷ USD trái phiếu quốc tế bằng USD, kỳ hạn 10 năm tại Hông Kông, London, Boston và New York Lãi suất của đợt phát hành này theo dự kiến không quá 7% và có thời hạn 10 năm. Đây là đợt phát hành thứ 3 của Việt Nam sau 2 lần rất thành công vào năm 2005, và năm 2007. Trong lịch sử phát hành trái phiếu quốc tế của Việt Nam cho thấy, đây là kênh huy động hiệu quả và rất thành công. Đợt phát hành đầu tiên năm 2005 tại New York đã thành công rất mỹ mãn khi các nhà đầu tư quốc tế đặt mua với số tiền lên tới 4,5 tỷ USD, cao gấp 6 lần trị giá chào là 750 triệu USD với lãi suất 7,125%/năm. Đợt thứ 2 vào năm 2007, Việt Nam phát hành 1 tỷ USD trái phiếu Chính phủ (TPCP) ra thị trường quốc tế với kỳ hạn mở rộng 10-30 năm cũng rất thành công. Ø Doanh nghiệp Việt Nam trên NYSE Ông Đinh Đức Hữu – Chủ tịch ATIP chụp hình tại trủ sợ NYSE Euronext Paris Hiện nay, chưa có một doanh nghiệp Việt Nam nào niêm yết trên sàn NYSE, tuy nhiên ATIP - công ty Mỹ đầu tiên do người Việt Nam làm chủ
sàn giao dịch chứng khoán uy tín nhất thế giới.
Vào hồi 17h ngày 3/7/2007 giờ Paris, cổ phiếu của Công ty ATIP thuộc Tập đoàn ATI Group đã được niêm yết trên sàn chứng khoán NYSE - Euronext tại Paris.
. Ngày 9/7/2007 ATIP đấu giá để đi vào giao dịch chính thức.
Sau nhiều ngày làm việc của Ban Giám đốc ATIP, với sự trợ giúp của ngân hàng đầu tư chứng khoán EFI cùng sự hướng dẫn tận tình của sàn chứng khoán quốc tế Nyse-Euronext và sự nhiệt tình động viên của các cổ đông, nay ATIP đã trở thành Công ty dầu khí Mỹ đầu tiên do người Việt Nam sở hữu được niêm yết trên sàn chứng khoán uy tín và lớn nhất thế giới.
Ø
Doanh nghiệp Viêt Nam trên NASDAQ
:
Ngày 18/9/2009, Công ty Cavico Corporation thông báo trở thành công ty Việt Nam đầu tiên niêm yết cổ phiếu tại NASDAQ.
Cụ thể, Cavico được chấp thuận niêm yết cổ phiếu tại sàn giao dịch chứng khoán Nasdaq với mã chứng khoán là CAVO. Cổ phiếu CAVO cũng sẽ được bắt đầu giao dịch ngay từ ngày 18/9
.
Nhưng đến ngày 06/07/2011, Cavico Corp đã bị
s
àn NASDAQ từ chối gia hạn nộp báo cáo kết quả kinh doanh 2010 và sẽ bị hủy niêm yết kể từ ngày 06/07/2011.
Lý do được sàn NASDAQ đưa ra để hủy niêm yết của CAVICO là công ty đã chậm báo cáo của năm tài chính kết thúc vào 31/12/2010. Đây là một điều kiện của NASDAQ đối với các công ty để được niêm yết trên sàn này.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top