Chương 9+10
Tôi chẳng bao giờ sử dụng PowerPoint tại lớp, ngoại trừ vào ngày ðầu tiên khi mô tả những gì chúng tôi sẽ làm trong suốt mýời tuần. Slide cuối cùng ðýa ra danh sách các cam kêt của tôi và những gì tôi mong ðợi ở các sinh viên, trong ðó ðiểm cuối cùng là: Ðừng bao giờ bỏ lỡ cõ hội nào ðể trở nên xuất sắc. Tôi hứa sẽ trao cho từng lớp những bài học tốt nhất, và tôi cũng hy vọng họ sẽ thể hiện hết mình. Tôi cũng nói với các sinh viên rằng tôi sẵn sàng cho tất cả mọi ngýời ðiểm A, nhýng mức yêu cầu của tôi ðýợc thiết lập rất cao. Ðó là lần duy nhất tôi ðề cập ðến ðiều này.
Vậy chuyện gì ðã xảy ra? Các sinh viên liên tục thể hiện nhiều hõn những gì tôi hay chính họ có thể týởng týợng. Họ rất nhiệt tình gắn bó với tý týởng cần trở nên xuất sắc, và liên tục nâng cao mức yêu cầu khi học kỳ trôi ði. Thật sự, một vài nãm trýớc, tôi ðến lớp học sớm vài phút và thấy một trong những sinh viên của tôi ðang ngồi bên ngoài chiếc iPod nano mới của cô. Tôi chýa thấy iPod nano lần nào nên hỏi cô cho tôi xem thử. Cô ðýa cho tôi và lật ngýợc lại. Ðằng sau chiếc máy ðýợc chạm khắc với câu: Ðừng bao giờ bỏ lỡ cõ hội nào ðể trở nên xuất sắc. Hẳn là khi ðặt hàng trực tuyến, cô ðã ðýợc chọn khắc lên chiếc máy bất cứ gì. Nhýng thay vì khắc tên mình hay thông tin liên lạc, cô ðã chọn thông ðiệp này mà cô muốn nhớ mỗi ngày. Chắc chắn là cô ðã không làm ðiều ðó cho tôi, mà cho chính bản thân mình.
Tôi ðã khá ngạc nhiên bởi tính thu hút của thông ðiệp này, nhý thể các sinh viên chỉ còn chờ ðợi một lời hýớng dẫn nhý thế mà thôi. Họ ðang khao khát ðiều gì ðó cho phép họ thể hiện mình một cách tốt nhất, ðể ðánh trái bóng výợt khỏi khuôn khổ sân và tỏa sáng rực rỡ nhất. Thật không may là trong hầu hết các tình huống thì ðiều này không xảy ra. Chúng ta ðýợc khuyến khích ðể vừa ðủ hài lòng. Nghĩa là chúng ta ðýợc khuyến khích (có thể bằng một cách tế nhị hoặc không) chỉ làm với khối lýợng ít nhất có thể ðể ðáp ứng yêu cầu mà thôi. Ví dụ, giáo viên cho bài tập và nêu rõ những gì cần thiết ðể ðạt ðýợc những thang ðiểm cụ thể. Câu hỏi cổ ðiển ðýợc ðặt ra cho một giáo viên là: Phần này có thi hay không? Tuy nhiên, sinh viên ðã biết ðýợc qua nhiều nãm học rằng tất cả những gì họ cần làm là ðáp ứng các yêu cầu tối thiểu ðể ðạt ðýợc thang ðiểm họ muốn. Ðiều này cũng xảy ra tại nõi làm việc, khi các sếp phác thảo những mục tiêu cụ thể cho các nhân viên của họ, ðồng thời tạo ra những hệ quy chiếu và thang ðánh giá cho việc trao tiền thýởng và thãng tiến.
Thật dễ dàng khi chỉ cần ðạt mức kỳ vọng và biết chính xác những gì bạn sẽ nhận ðýợc trở lại. Nhýng những ðiều xuất sắc sẽ xảy ra khi bạn gỡ bỏ giới hạn trên ðầu mình. Thật ra, tôi tin rằng có một ðộng lực rất lớn bị dồn nén trong mỗi chúng ta muốn bật tung giới hạn. Giống nhý một chai soda ðýợc lắc lên, những cá nhân nào phá vỡ ðýợc các giới hạn của họ sẽ ðạt ðến những thành tựu rất ðáng kể.
Hãy nghe câu chuyện của Ashwini Doshi, ngýời tôi gặp lần ðầu cách ðây vài nãm khi cô là một sinh viên mới tốt nghiệp và nộp ðõn xin một công việc trợ lý nghiên cứu tại bộ phận của chúng tôi. Mặc dù là ngýời khá thoải mái, tôi vẫn thực sự sửng sốt khi cô býớc vào vãn phòng của tôi cho một cuộc phỏng vấn việc làm. Ashwini là một cô gái xinh ðẹp, nhýng cô chỉ cao có 3 feet rýỡi (khoảng 1,1m – ND). Giọng nói của cô giống nhý một bé gái, nhýng ý týởng của cô là của một ngýời trýởng thành. Tôi khá ngại ngùng khi phải thừa nhận rằng tôi ðã không tuyển dụng cô. Ðiều này rất thýờng xảy ra với Ashwini. Mọi ngýời thýờng quá ngạc nhiên với vẻ bề ngoài của cô ðến nỗi phải mất một khoảng thời gian làm việc với cô, họ mới cảm thấy ðủ thoải mái ðể bỏ qua sự khác biệt thể chất ðó. May cho tôi là cô quyết ðịnh tham gia khóa học của tôi, bởi vì nó ðã cho tôi một cõ hội ðể làm quen với cô nhiều hõn. Ðến khi nhóm của chúng tôi cần tuyển một vị trí khác, tôi liền chớp lấy cõ hội ðể tuyển cô. Ashwini thể hiện công việc rất gýõng mẫu, cô không những là thành viên làm việc nhóm xuất sắc mà còn luôn luôn ði xa hõn những gì ðýợc mong ðợi.
Sinh ra ở Mumbai (trýớc ðây là Bombay), Ashwini lớn lên trong một gia ðình có mýời chín ngýời – cha cô, ba anh em của cha, vợ của họ, tất cả con cái của họ, và ông bà của cô. Cô sinh ra có kích thýớc bình thýờng, nhýng ðến nãm 1 tuổi cô ðã không còn phát triển bình thýờng nữa. Các bác sĩ ở Ấn Ðộ ðã không thể ðýa ra những hýớng dẫn cho việc chãm sóc cô; do ðó, cha mẹ cô ðã gửi phim X-quang của bộ xýõng nhỏ bé của cô ðến các chuyên gia tại Hoa Kỳ. Cách ðiều trị duy nhất là ðặt các phần mở rộng xýõng ở mỗi chi của cô, một quá trình yêu cầu phẫu thuật kéo dài ðến hõn sáu nãm. Và mỗi lần nhý vậy cô sẽ phải nằm liệt giýờng trong nhiều tháng, ðiều thật sự không thể týởng týợng ðýợc với cô gái trẻ rất nãng ðộng này.
Ashwini rất may mắn có một gia ðình cởi mở và yêu thýõng cô. Thực tế có nhiều gia ðình cho rằng nếu một thành viên nào ðó khác thýờng thì có thể làm cho họ xấu hổ nên họ thýờng giấu ði. Nhýng Ashwini ðã ðýợc học ở các trýờng tốt nhất tại Bombay và luôn thể hiện xuất sắc. Cô có một thái ðộ cực kỳ tích cực, và từ khi còn nhỏ ðã cảm thấy mạnh mẽ một cách lạ lùng nhờ sự khác biệt của mình. Ashwini vẫn nghĩ mình là một ngýời bình thýờng sống một cuộc sống phi thýờng.
Cô thực sự cảm thấy chẳng có gì mình không thể làm ðýợc vì ðã chứng tỏ ðiều ðó nhiều lần. Cô ðã tự ðến California ðể ði học cao học. Ngoài những khác biệt vãn hóa và những giới hạn thể chất, Ashwini thậm chí còn không biết bất cứ ai khi cô ðến. Nhiều bạn bè hết lời khuyên rãn Ashwini ở lại, họ nói rằng cuộc sống sẽ dễ dàng hõn nhiều cho cô ở Ấn Ðộ. Nhýng cô vẫn kiên trì. Sau khi ðến Stanford, chỗ ở duy nhất cô nhận ðýợc là một góc nhỏ trong cãn hộ cho phép cô dễ tiếp cận với lò sýởi. Xuất phát từ nhu cầu bản thân, Ashwini ðã cố gắng tìm ra các giải pháp tài tình ðể výợt qua tất cả các trở ngại về thể chất cô phải ðối mặt mỗi ngày.
Khi tôi hỏi Ashwini các trở ngại ðó là gì, cô cảm thấy rất khó ðể tìm ra chúng. Thực ra cô chẳng hề nhìn thấy chúng. Nếu buộc phải trả lời, cô nói về khó khãn của việc tìm kiếm một trýờng dạy lái xe sẵn sàng chấp nhận mình nhý là một học viên. Sau nhiều nãm ði lại phụ thuộc vào những chuyến xe của bạn bè và phýõng tiện công cộng, cô quyết ðịnh học lái xe và mua một bộ bàn ðạp ðộn ðể cô có thể với tới bàn ðạp ga và phanh. Cũng phải mất hàng chục cuộc gọi cô mới tìm ðýợc một trýờng dạy lái xe chịu nhận mình vào học.
Ðiều ấn týợng nhất là Ashwini luôn thể hiện hõn 100 phần trãm những gì cô ðýợc giao phó. Còn ðiều tiếc nuối duy nhất của cô? Cô ýớc gì mình ðã chấp nhận mạo hiểm nhiều hõn khi cô còn trẻ hõn. Qua tất cả những gì cô ðã výợt qua, Ashwini vẫn nghĩ rằng mình ðã ði trên con ðýờng quá an toàn. Cô luôn nhập tâm quan niệm rằng cuộc sống không phải là một buổi diễn tập, và rằng bạn chỉ có một cõ hội ðể làm công việc tốt nhất. Ashwini là mô hình lý týởng của một ngýời không bao giờ bỏ lỡ cõ hội nào ðể trở nên xuất sắc.
Trở nên xuất sắc nghĩa là quyết ðịnh ði xa hõn những gì ðýợc mong ðợi ở bạn vào tất cả mọi thời ðiểm. Ở phía ngýợc lại, nếu bạn chỉ làm với nỗ lực ít nhất ðể ðáp ứng vừa ðủ một kỳ vọng thì bạn ðang lừa dối chính mình với cõ hội ðó. Ðiều này nghe nhý những lời thuyết giảng của một vị hiệu trýởng khó tính, nhýng ðó là sự thật. Càng ngày số lýợng các cõ hội bị bỏ lỡ càng tãng lên thì sẽ dẫn ðến một mức thâm hụt rất lớn. Hãy týởng týợng sự khác biệt giữa ðầu tý 100 ðôla và nhận ðýợc 5 phần trãm tiền lời so với ðầu tý 100 ðôla và lời 105 phần trãm. Sự phân kỳ về giá trị cứ thế tiếp tục tích lũy dần theo thời gian. Cuộc sống là vậy ðó. Bạn nhận ðýợc từ cuộc sống những gì bạn ðóng góp, và kết quả ðýợc cộng dồn mỗi ngày.
Bernie Roth, một giáo sý cõ khí ở Stanford, ðã thực hiện một bài tập mang tính khiêu khích tại d.school ðể làm nổi bật ðiểm này. Ông gọi một sinh viên ði lên phía trýớc phòng và nói: Hãy cố lấy chai nýớc rỗng này ra khỏi tay tôi. Bernie giữ chặt chai và ngýời sinh viên thử giật nó ra, nhýng ðýõng nhiên không ðýợc. Sau ðó Bernie thay ðổi câu nói một chút: Lấy chai nýớc ra khỏi tay tôi. Ngýời sinh viên nỗ lực nhiều hõn nữa, nhýng thýờng vẫn không có kết quả. Ðể khiêu khích các sinh viên hõn nữa, Bernie khãng khãng buộc sinh viên phải lấy cho bằng ðýợc chai nýớc từ tay ông. Thýờng thì các sinh viên thành công trong nỗ lực thứ ba. Bài học ở ðây là gì? Chính là sự khác biệt lớn giữa việc cố làm một cái gì ðó và thực sự làm nó. Chúng ta thýờng nói rằng mình ðang cố gắng ðể giảm cân, tập thể dục nhiều hõn, tìm việc làm... Nhýng sự thật là chúng ta hoặc ðang làm hoặc ðang không làm, thế thôi. Sẽ cố gắng làm là một kiểu cúp ðuôi trốn tránh. Bạn phải tập trung ý chí ðể khiến một ðiều gì ðó xảy ra bằng cách trao cho nó ít nhất 100 phần trãm cam kết. Nếu ít hõn con số ðó thì bạn là ngýời duy nhất ðáng bị phê phán cho thất bại một khi bạn không ðạt ðýợc mục tiêu của mình.
Bernie cũng nói với sinh viên rằng biện minh là trò vô nghĩa, hoặc nói thẳng ra, biện minh là trò nhảm nhí. Chúng ta kiếm cớ ðể che ðậy một thực tế là chúng ta ðã không ðủ nỗ lực cho công việc. Bài học này chạm ðến tất cả mọi mặt trong cuộc sống của bạn. Chẳng thể biện minh cho việc ðến trễ, không nộp bài tập, thi rớt, không dành thời gian cho gia ðình, không gọi ðiện thoại cho bạn gái, và v.v... bạn có thể chế ra một cái cớ ðể ðýợc xã hội chấp nhận, chẳng hạn nhý có quá nhiều công việc hoặc ðang bị bệnh, nhýng nếu thực sự muốn ðạt thành quả thì bạn sẽ tìm ðýợc cách ðể khiến cho nó xảy ra.
Ðây là những lời khuyên khắt khe, bởi tất cả chúng ta ðều quá quen thuộc với việc chế ra và nghe những lời biện minh. Bernie thừa nhận rằng việc bào chữa hoặc nêu lý do biện minh khi không làm việc này hay việc kia ðýợc xã hội chấp nhận bởi vì nó làm cho bạn có vẻ hợp lý. Nhýng ngay cả khi bạn cảm thấy phải bào chữa cho mình với những ngýời khác thì bạn cũng không nên làm nhý vậy với chính bản thân mình. Cần phải chấp nhận thực tế rằng nếu bạn thực sự muốn ðạt ðýợc ðiều gì ðó thì nó hoàn toàn tùy thuộc vào bản thân bạn. Hãy cho nó một mức ýu tiên cao hoặc loại nó ra khỏi danh sách của bạn. Ðể khắc sâu quan ðiểm này, Bernie yêu cầu các sinh viên viết ra mục tiêu lớn nhất của họ và sau ðó liệt kê ra mọi trở ngại ngãn chặn họ ðạt ðýợc nó. Thýờng mất vài phút ðể các sinh viên lập ra danh sách. Sau ðó ông thách thức các sinh viên nhìn nhận rằng ðiều duy nhất nên có trong danh sách là tên của chính họ. Chúng ta bào chữa cho việc không ðạt ðýợc các mục tiêu của mình bằng cách ðổ lỗi cho những ngýời khác và các yếu tố bên ngoài ðã cản ðýờng hoặc không cho phép chúng ta làm ðiều gì ðó. Một lần nữa, tôi muốn nhắc lại rằng việc ðạt ðýợc mục tiêu là trách nhiệm của bạn từ ðầu ðến cuối.
Những bài tập này và những bài học mà chúng mang lại ðều củng cố quan ðiểm rằng bạn là ngýời có trách nhiệm cuối cùng ðối với cuộc sống của riêng mình. Dù ở thời ðiểm nào ði nữa, bạn cũng chẳng thể biện minh gì khi không nỗ lực hết mình. Một ví dụ rất hay là về Chong-Moon Lee, doanh nhân ngýời Mỹ gốc Hàn.[39] Câu chuyện của ông là một trýờng hợp ðiển hình sẵn sàng výợt qua mọi rào cản trên con ðýờng của mình ðể ðạt ðýợc các mục tiêu. Ông Lee ðã ðýợc ðào tạo về pháp luật, kinh doanh, và khoa học thý viện, và ai cũng nghĩ ông sẽ ðảm nhận vai trò của một ngýời quản lý thý viện tại trýờng ðại học. Tuy nhiên, ông lại tham gia vào việc kinh doanh doanh dýợc phẩm của gia ðình ông ở Hàn Quốc. Có ðiều về sau quan hệ giữa các thành viên gia ðình cãng thẳng ðến mức ông Lee ðã quyết ðịnh rời khỏi công ty. Ông ðến Thung lũng Silicon bắt ðầu một sự nghiệp mới: bán hàng hóa của Mỹ sang Nhật Bản. Cuộc sống khấm phá nên ông quyết ðịnh mua cho mỗi ðứa con của mình một chiếc máy tính – một chiếc IBM cho con trai và một chiếc Apple Iie cho con gái. Theo quan ðiểm truyền thống, ông cho rừang con trai cần một chiếc máy tính chuyên nghiệp hõn vì ông chuẩn bị cho con một sự nghiệp kinh doanh, còn con gái của ông sẽ sử dụng máy tính của mình cho việc học. Nhýng hóa ra cả hai ðứa trẻ ðều dành tất cả thời gian của chúng trên chiếc máy tính Apple. Thấy ðýợc sức mạnh từ phần mềm và giao diện ðồ họa của Apple, Lee rất hứng thú với việc tạo ra một cách thức cho các máy tính cá nhân sử dụng phần mềm của Apple. Ban ðầu ông nghĩ rằng phần mềm ðó có thể dễ dàng ðýợc phát triển trong mýời hai tháng – nhýng thực sự nó ðã tốn ðến sáu nãm. Lee ðã dốc hết tất cả mọi thứ ông có vào công ty Diamond Multimedia, chuyên sản xuất ðồ họa của máy tính. Có những lúc thiếu thốn ðến nỗi ông phải ãn bắp cải mà các cửa hàng tạp hóa ðã ném ra ðýờng. Nhýng ông vẫn giữ vững mục tiêu của mình, và sau mýời bốn nãm dài Diamond Multimedia ðã trở thành nhà sản xuất thiết bị tãng tốc ðộ ðồ họa hàng ðầu tại Hoa Kỳ. Ông tin rằng sự thành công của mình xuất phát từ sự tập trung với lòng kiên trì không bao giờ suy giảm, và hiểu rằng mình ðã ðặt toàn bộ trái tim và tâm hồn vào tất cả mọi thứ mình làm.
Một ví dụ khác là Perry Klebahn, ngýời thiết kế giày ði tuyết ðã ðýợc tôi kể trýớc ðó. Perry là một bậc thầy của việc thể hiện výợt xa hõn những gì ðýợc mong ðợi ở ông. Gần ðây ông ðã trở thành chủ tịch của Timbuks2, nhà sản xuất túi xách quai chéo và các loại túi hành lý. Công ty ðặt trụ sở ở San Francisco này ðã làm ãn sa sút từ trýớc khi Perry tới, chủ yếu bởi vì nó ðã phát triển výợt quá khả nãng cung cấp dịch vụ của mình. Cõ sở hạ tầng ðã bị khai thác quá mức giới hạn của nó, các nhân viên phải làm việc tại các ốc ðảo cô lập ở các tòa nhà khác nhau, còn tinh thần làm việc thì thấp. Perry ðýợc mời về ðể chuyển biến tình hình kinh doanh. Ông xem xét kỹ lýỡng bối cảnh và tập trung vào mục tiêu làm cho mọi khía cạnh của công ty ðều trở nên xuất sắc. Býớc ðầu tiên của ông là củng cố các nhân viên dýới một mái nhà, với nỗ lực xây dựng một ý thức mạnh mẽ hõn về một cộng ðồng tại công ty. Sau ðó ông ðã ðýa ðội ngũ quản lý ði một chuyến thám hiểm nõi hoang dã trong bảy ngày, và trong suốt chuyến ði họ ðã phải dựa vào nhau theo ðúng cái ý nghĩa chân chất nhất của từ ðó. Ðiều này làm cho các rắc rối trong vãn phòng chỉ còn nhý trò trẻ con nếu mang ra so sánh. Tiếp theo, Perry ðã quyết ðịnh khen thýởng nhân viên theo một cách vừa thể hiện ðýợc và vừa củng cố các mục tiêu của công ty. Mỗi tháng tất cả các nhân viên ðều ðiền vào một cuộc khảo sát về những sở thích và hoạt ðộng của mình, và một cái tên ðýợc rút ra thông qua sổ xố. Nhân viên trúng thýởng sẽ nhận một chiếc túi ðýợc thiết kế dựa trên niềm ðam mê của mình. Những chiếc túi ðó là ðộc nhất vô nhị và là một tạo tác xuất sắc thể hiện sự sáng tạo và ðổi mới; ðó chính là những ðiểm nổi bật của duy nhất.
Sau ðó, với cảm hứng từ các thiết kế mang tính mã nguồn mở của những công ty nhý Mozilla, nõi ngýời dùng ðýợc trao quyền và ðýợc khuyến khích cải thiện sản phẩm, Perry ðã giới thiệu quy trình thiết kế Timbuk2 tới một cộng ðồng trực tiếp, mời khách hàng ðến thử nghiệm các tính nãng cho dòng sản phẩm tiếp theo. Lần ðầu tiên hàng trãm khách hàng ðã ðýợc tham gia trong tiến hình, xem xét các bản vẽ và cung cấp những ý týởng xuất sắc, giúp mở rộng ranh giới các sản phẩm của Timbuk2. Nó ðã mang ðến kết quả là một tập hợp những hiểu biết và ý týởng liên tục ðýợc làm mới.
Ngay cả khi nhóm của Perry chỉ tiến hành các býớc sửa chữa cõ sở vật chất bị hý hỏng, Timbuk2 vẫn có khả nãng sẽ trở thành một công ty thành công. Nhýng ông ðã làm ðýợc hõn thế nữa bằng việc ðẩy xa thêm các giới hạn trong việc tìm kiếm những gì làm cho công ty trở nên xuất sắc.
Những ngýời thực hiện những kỳ công xuất sắc, chẳng hạn nhý Chong-Moon Lee và Perry Klebahn, thýờng ðýợc cho là rất cạnh tranh. Nhiều ngýời nghĩ rằng ðể họ hoàn thành ðýợc mục tiêu của mình thì những ngýời khác phải thua cuộc. Tuy nhiên, ðiều này chắc chắn không ðúng. Có một sự khác biệt ðáng kể giữa tính cạnh tranh và ý chí hýớng về một mục tiêu. Cạnh tranh ngụ ý một trò chõi ðýợc ãn cả ngã về không mà trong ðó bạn thành công khi ngýời khác thất bại. Còn ý chí liên quan ðến việc khai thác niềm ðam mê của riêng bạn ðể khiến cho mọi thứ xảy ra. Rất nhiều nhà lãnh ðạo ðýợc truyền cảm hứng và thúc ðẩy bởi những thành công của những ngýời xung quanh.
Tôi muốn nhấn mạnh rằng ðể thành công trong một môi trýờng kinh doanh, ý chí tập trung vào mục tiêu sẽ tạo ra nãng suất cao hõn là cạnh tranh, và tôi ðã thiết kế một bài tập mô phỏng ðể làm nổi bật ðiểm này. Trong bài tập tôi chia một nhóm thành sáu ðội nhỏ, sau ðó cho mọi ngýời xem nãm bộ trò chõi ghép hình hoàn thành, mỗi bộ cso một trãm mảnh ghép.[40] Những ngýời tham gia ðýợc phép xem các bộ ghép hình trong khoảng một phút, và sau ðó tất cả các mảnh từ nãm bộ ghép hình ðó ðýợc bỏ vào một chiếc áo gối và xáo trộn. Tôi chỉ giữ lại một vài mảnh và sau ðó phân phối ngẫu nhiên ðến sáu ðội. Mỗi ðội cũng ðýợc trao cho 20 ðồng tiền poker ðể sử dụng làm tiền tệ. Các ðội phải hoàn thành một bộ ghép hình trong vòng một giờ. Khi thời gian hết sẽ là lúc tính ðiểm. Mỗi ðội ðếm số mảnh ghép của chi tiết lớn nhất ðýợc hoàn thành của bộ ghép hình và nhận ðýợc một ðiểm cho mỗi mảnh. Sau ðó họ ðếm số mảnh tại những khu vực nhỏ làm nền cho các mảnh ghép ðýợc kết nối và nhận ðýợc nửa ðiểm cho từng nhóm. Nhóm nào hoàn thành toàn bộ một bức tranh ghép hình trong một giờ thì ðýợc hai mýõi lãm ðiểm thýởng.
Vì số lýợng bộ ghép hình ít hõn các ðội, nên những ngýời tham gia phải quyết ðịnh xem họ sẽ cạnh tranh, hay hợp tác, hoặc cả hai ðể thu thập ðýợc các mảnh ghép cần thiết. Tôi xây dựng tình huống này ðể mô phỏng thế giới thực: ngýời tham gia biết rằng tất cả các mảnh ghép ðều tồn tại ðể họ hoàn thành nhiệm vụ, nhýng không có một ðội nào kiểm soát ðýợc tất cả. Các ðội phải tìm cách có ðýợc những nguồn lực mà họ cần ðể thành công. Ngoài ra, vì những mảnh ghép không ðủ cho mỗi ðội, nên một số ðội phải tìm một cách khác ðể tạo ra giá trị. Cũng nhý trong thế giới thực, có nhiều vai trò khác nhau cần ðýợc thể hiện trong một hệ sinh thái. Và thế giới luôn thay ðổi chứ không ðứng yên. Sau khi trò chõi bắt ðầu, cứ khoảng mỗi mýời phút thì một chuyện gì ðó sẽ xảy ra. Tôi có thể bán ðấu giá các mảnh ghép mà tôi giữ lại, hoặc bán hình ảnh của các bộ ghép hình hoàn thành, hoặc yêu cầu một ngýời từ ðội này chuyển sang ðội khác và mang theo một vài mảnh ghép. Môi trýờng thay ðổi yêu cầu cả sự sáng tạo và linh hoạt.
Ðể ðýợc thành công, các ðội phải làm việc cùng nhau. Họ bắt ðầu trò chõi bằng cách kinh doanh và trao ðổi hàng, cố gắng tìm ra cách ðể tối ða hóa lợi ích riêng của họ mà không phải cho ði quá nhiều. Ðiều này ðòi hỏi phải cân bằng chiến lýợc với hành ðộng, tìm ra cách phân chia lao ðộng giữa cá thành viên trong nhóm, và làm thế nào ðể ði trên con ðýờng giữa cạnh tranh và hợp tác, tất cả trong một môi trýờng luôn luôn thay ðổi. Vì họ biết là có ít bộ ghép hình hõn số lýợng các ðội, nên ít nhất một ðội phải quyết ðịnh không xây dựng bộ ghép hình và thay vào ðó làm một vai trò khác. Ðôi khi một ðội chọn cách tách ra và tham gia vào các ðội khác. Ðôi khi hai hoặc ba ðội hợp lại. Tại thời ðiểm khác một ðội có thể ðảm nhận vai trò của nhà môi giới và mua bán mảnh ghép với các ðội khác. Và ðôi khi tất cả các ðội hợp nhất lại thành một ðội lớn và làm việc với tất cả các bộ ghép hình cùng với nhau. Tôi thích làm bài tập này với các nhóm lớn hõn mà tôi có thể chia thành hai hoặc nhiều hệ sinh thái, mỗi nhóm ðều có sáu ðội và nãm bộ ghép hình. Làm nhý vậy sẽ cho phép các chiến lýợc khác nhau phát triển song song, và sẽ tạo ra sự so sánh thú vị ðó.
Các kết quả tồi tệ nhất xảy ra khi tất cả các ðội quyết ðịnh cạnh tranh với nhau. Họ giữ lại những miếng ghép và từ chối trao ðổi những miếng mà các ðội khác cần. Những nhóm này trở nên quá tập trung vào chiến thắng ðến mức họ ðánh mất tất cả. Ðôi khi các ðội thực sự thừa nhận rằng họ sẽ làm tốt hõn nếu họ hợp tác, nhýng cuối cùng họ vẫn quyết ðịnh cạnh tranh. Cạnh tranh ðã quá gắn chặt vào vãn hóa của chúng ta ðến nỗi nó trở thành phản ứng tự nhiên. Thật ra, những ðội cố gắng làm cho các ðội khác thua cuộc thì cuối cùng cũng thất bại. Ví dụ, trong lần ðầu tiên tôi cho thực hiện bài tập mô phỏng này, một trong các ðội ðã quyết ðịnh giữ lại rất nhiều mảnh ghép mà các ðội khác cần. Cho ðến cuối giờ họ có kế hoạch bán cho các ðội khác. Nhýng ðiều này lại phản tác dụng. Khi thời gian hết, các ðội ðã dành quá nhiều thời gian ðể cạnh tranh với nhau ðến mức họ thậm chí không thể hoàn tất dù chỉ một bộ ghép hình. Ðiều này có nghĩa là những miếng cuối cùng sẽ chẳng thể cung cấp bất kỳ giá trị bổ sung nào.[41]
Bài tập này chuyển tải một lời nhắc nhở mạnh mẽ rằng trong các môi trýờng có những nguofon lực hạn chế, việc ðịnh hýớng ðể làm cho bản thân và những ngýời khác thành công thýờng là một chiến lýợc hiệu quả hõn nhiều so với việc chỉ ðõn thuần cạnh tranh. Những ngýời làm ðiều này thýờng có thể tận dụng tốt hõn các kỹ nãng và công cụ mà ngýời khác mang ðến cho công việc chung, và chào mừng thành công của ngýời khác cùng với thành công của riêng mình. Ðiều này xảy ra trong thể thao cũng nhý trong các môi trýờng kinh doanh, mà cả hai thýờng ðýợc cho là những môi trýờng hoàn toàn cạnh tranh. Ví dụ, trong cuốn Its Not about the Bike, Lance Armstrong ðã cung cấp các chi tiết về cách những ðối thủ cạnh tranh tại Tour de France làm việc cùng nhau trong suốt cuộc ðua ðể làm cho tất cả mọi ngýời thành công. Và nhiều công ty cạnh tranh với nhau, bao gồm cả Yahoo và Google!, ðều áp dụng cạnh ranh bằng cách tìm ra những phýõng pháp sáng tạo ðể làm việc cùng nhau, tận dụng thế mạnh của mỗi doanh nghiệp.
Khi nói ðến việc trở nên xuất sắc, nhiều doanh nghiệp lựa chọn một lĩnh vực mà họ thực sự tỏa sáng. BMW tập trung vào kỹ thuật xuất sắc nhất; Walmart hứa hẹn giá thấp nhất; Disneyland phấn ðấu là nõi hạnh phúc nhất trên trái ðất; và Nordstrom làm việc cần cù ðể cung cấp dịch vụ khách hàng tầm cỡ thế giới. Nếu bạn hỏi những ngýời quen thuộc với Nordstrom rằng họ nghĩ gì về nó, hầu hết mọi ngýời sẽ kể cho bạn nghe ít nhất là một câu chuyện về việc họ ðã nhận ðýợc dịch vụ tuyệt vời ðến mức không thể tin ðýợc.
Tôi ðã có cõ hội gặp gỡ hai trong số ba anh em nhà Nordstrom, Erik và Blake, những ngýời ðang ðiều hành công ty, và ðã học ðýợc cách họ khiến cho nhân viên thấm nhuần các giá trị xem khách hàng là trung tâm. Thật ðáng ngạc nhiên là chẳng có quy ðịnh cụ thể hoặc công thức bí mật nào cho việc cung cấp một dịch vụ khách hàng nổi trội ở Nordstrom. Về cõ bản, chỉ sau một quá trình hýớng dẫn ngắn, nhân viên bán hàng ðýợc giao nhiệm vụ sử dụng óc suy xét tốt nhất của mình trong việc giải quyết những vấn ðề họ gặp phải, và có quyền hành ðộng vì lợi ích của khách hàng. Chính vì các nhân viên bán hàng mỗi ngýời một vẻ, nên họ giải quyết vấn ðề với khách hàng theo những cách ðộc ðáo của riêng mình, từ ðó dẫn ðến vô số các phýõng pháp tiếp cận cho những vấn ðề týõng tự nhau. Tại Nordstrom cũng hình thành vãn hóa kể chuyện, và những câu chuyện xuất sắc về dịch vụ khách hàng ðýợc xem là những bài học và nguồn cảm hứng. Bằng cách cho nhân viên ðýợc phép sáng tạo trong việc giải quyết các vấn ðề, anh em nhà Nordstroms cũng trao cho họ quyền ðýợc mắc sai lầm. Cả Blake và Erik ðều khẳng ðịnh rằng nếu lỗi lầm xảy ra trong một nỗ lực phục vụ khách hàng thì nó sẽ nhanh chóng ðýợc tha thứ - và một lỗi lầm týõng tự hiếm khi xảy ra lần nữa.
Tại Nordstrom, tất cả những sự ðộng viên ðều hýớng vào việc tạo ra một dịch vụ khách hàng tuyệt hảo. Mỗi ngýời quản lý ðều cố gắng làm cho ðội của mình thành công, và tất cả các nhân viên của họ xem khách hàng là ngýời sếp cuối cùng. Những ngýời quản lý cấp cao của công ty, bao gồm Blake, Erik, và anh cả Pete, ðều dành phân nửa thời gian của họ ðề ghé thãm các cửa hàng. Họ ði bộ qua các tầng, týõng tác với khách hàng, và nói chuyện với các nhân viên bán hàng. Họ rất quen thuộc với môi trýờng này vì mỗi ngýời ðều bắt ðầu sự nghiệp của mình bằng công việc trong các nhà kho, bán giày, quản lý các cửa hàng giày, ðóng vai ngýời mua hàng, quản lý các cửa hàng cá nhân, vì sau ðó là quản lý khu vực. Bây giờ, với vai trò là những nhà lãnh ðạo của doanh nghiệp nhiều tỉ ðôla này, họ vẫn không ngừng tìm kiếm phýõng cách ðể trở nên tốt hõn nữa. Họ cẩn thận xem xét và khiêm nhýờng lắng nghe, ðể rồi sau ðó hành ðộng một cách tự tin và chắc chắn dựa trên các thông tin mà họ ðã tập hợp ðýợc. Họ rất ðể tâm việc liên tục tãng cýờng sự hài lòng của khách hàng ðến mức bất kỳ khách hàng nào muốn tiếp cận ðýợc từng ngýời trong số họ cũng thấy rằng việc này khá dễ dàng. Cả ba anh em ðều trả lời ðiện thoại riêng, ðọc e-mail riêng, và tự mình trả lời các tin nhắn.
Ý týởng rằng khách hàng là ýu tiên số một thực sự quá gắn liền với vãn hóa của Nordstrom ðến mức ba anh em này mô tả tổ chức nhý một kim tự tháp ngýợc, trong ðó các khách hàng ở trên cùng và những quản lý cấp cao ở dýới cùng. Khi bạn thãng tiến trong công ty này, theo nghĩa ðen là bạn di chuyển xuống các nấc thang của công ty. Cũng không có CEO nào ở phía dýới cùng. Blake là chủ tịch, Erik là chủ tịch phụ trách các cửa hàng, và Pete là chủ tịch phụ trách bán hàng. Họ làm việc thành một nhóm rất chặt chẽ, mỗi ngýời ðóng những vai trò phù hợp với thế mạnh riêng của mình. Họ chia sẻ cùng một tầm nhìn ðối với doanh nghiệp và làm việc theo tinh thần ðồng bộ và hợp tác.
Một câu chuyện về dịch vụ khách hàng ở Nordstrom mà tôi yêu thích là về một khách hàng hỏi mua hai chiếc áo sõ mi màu xanh cổ trắng ở cửa hàng dành cho nam giới. Cô nhân viên bán hàng không thể tìm thấy những chiếc áo này trong kho hoặc tại bất kỳ cửa hàng nào khác của Nordstrom. Nhýng thay vì nói với khách rằng cửa hàng không thể ðáp ứng yêu cầu của anh, cô nhân viên mang hai chiếc áo sõ mi trắng và hai chiếc áo sõ mi xanh ðến nhờ thợ may của cửa hàng ðổi các cổ áo với nhau. Nhờ thế, cô có hai áo sõ mi màu xanh cổ trắng và hai áo sõ mi màu trắng cổ xanh. Cô ðýa áo sõ mi màu xanh cổ trắng cho khách hàng và nói rằng nếu anh muốn ngýợc lại (áo trắng cổ xanh) thì họ cũng có sẵn ðó luôn!
Cả Blake và Erik ðều chỉ ra rằng mọi trải nghiệm với mỗi khách hàng ðều giống nhý một cõ hội mới, có vai trò rất quan trọng. Mỗi týõng tác là một cõ hội khác ðể mang ðến một trải nghiệm dễ chịu cho khách hàng và ðể nâng cao danh tiếng của các nhân viên bán hàng. Ngay cả khi các hành ðộng của họ không dẫn ðến việc bán ðýợc một mặt hàng cụ thể nào, việc ðầu tý này cuối cùng ðã mang lại thành công.
Nhý bạn thấy, trở nên xuất sắc có thể ðến theo nhiều cách khác nhau, nhýng tất cả ðều bắt ðầu bằng việc cởi bỏ chiếc mũ ðang giới hạn bạn và quyết tâm tiếp cận với tiềm nãng thực sự của bản thân. Ðiều này có nghĩa là hãy výợt xa khỏi những mức kỳ vọng tối thiểu, và hiểu rằng bạn là ngýời cuối cùng chịu trách nhiệm về hành ðộng của mình cùng những kết quả chúng mang ðến. Cuộc sống không phải là một cuộc diễn tập, và bạn sẽ không có ðýợc một cõ hội thứ hai ðể cố gắng hết sức ðâu nhé.
chuong 10 10 10
Tôi phải thú nhận rằng thực ra mình có thể dễ dàng ðặt tên cho tất cả các chýõng trýớc là Hãy cho phép chính bạn. Ý tôi là bạn hãy cho phép mình thách thức với các giả ðịnh, nhìn thế giới bằng ðôi mắt mới mẻ, thử nghiệm, thất bại, vạch ra con ðýờng ði của riêng bạn, và thử thách các giới hạn khả nãng của bạn. Trong thực tế, ðó chính là những gì tôi muốn mình biết ðýợc khi hai mýõi, ba mýõi, và bốn mýõi tuổi – và cũng là những gì tôi cần phải liên tục nhắc nhở bản thân mình ở tuổi nãm mýõi.
Bạn rất dễ dàng bị khóa vào những cách tý duy truyền thống và chặn hết những lựa chọn thay thế khả thi. Ðối với hầu hết chúng ta, có rất nhiều những ðám ðông ðứng bên lề, khuyến khích mỗi ngýời chúng ta ở lại trên con ðýờng quy ðịnh, chỉ tô màu bên trong các ðýờng ranh giới, và ði trên cùng những con ðýờng họ ðã ði theo. Ðiều này làm cho cả những ngýời ðó và bạn cảm thấy dễ chịu. Nó củng cố thêm những ðiều họ ðã lựa chọn và cung cấp cho bạn một công thức dễ ði theo. Nhýng nó cũng có thể cực kỳ hạn hẹp.
Ở châu Mỹ Latinh thật ra có một cụm từ ðýợc dịch thành kẻ níu áo (jacket puller) ðể chỉ những kẻ cố gắng kéo ngýời khác xuống – có lẽ bằng ðuôi áo của họ - ðể ngãn cản họ výõn lên cao hõn vị trí hiện tại. Ngýời dân ở nhiều nõi khác trên thế giới gọi ðây là hội chứng ghen ãn tức ở, trong ðó những ngýời dám ðứng lên cao hõn những ngýời xung quanh sẽ bị cắt giảm kích thýớc cho vừa với mọi ngýời. Ở lại với số ðông là chuẩn mực, thành ra những ngýời výợt lên trýớc có nguy cõ bị kéo lùi lại bởi cộng ðồng của họ. Tệ hõn nữa, cũng có một số khu vực trên thế giới mà ở ðó ai làm những ðiều khác với số ðông ðều bị xem là tội phạm, theo nghĩa ðen. Ví dụ, tại Brazil từ truyền thống dành cho các doanh nhân (entrepreneur) là empresario, dịch trại ra là kẻ trộm. Trong lịch sử, không có nhiều hình mẫu doanh nhân thành công ở khu vực này, và những ngýời khác vẫn cho rằng bạn hẳn phải làm ðiều gì ðó bất hợp pháp thì mới thành công trong việc phá vỡ khuôn mẫu ở nõi ðây. Ðây là một vấn ðề quan trọng với Endeavor, tổ chức có mục tiêu là tãng cýờng khả nãng kinh doanh ở các nýớc ðang phát triển. Khi hoạt ðộng ở Mỹ Latinh, Endeavor nói với mọi ngýời rằng họ muốn kích thích tinh thần kinh doanh, và họ ðã gặp phải sự chống ðối quyết liệt. Ðể ðáp lại, họ ðã ðặt ra một từ hoàn toàn mới, emprendedor, ðể nắm bắt ðýợc bản chất thật sự của sự ðổi mới và tinh thần doanh nhân. Họ ðã phải mất nhiều nãm, nhýng cuối cùng emprendedor ðã ðýợc ðýa vào từ ðiển. Và hiện tại Endeavor lại ðối mặt với một thách thức týõng tự ở Ai Cập, nõi họ dự ðịnh một lần nữa tạo ra và quảng bá một từ mới cho doanh nhân.
Ở trýờng d.school phần lớn công tác của chúng tôi tập trung vào việc cho phép sinh viên thách thức các giả ðịnh và mở rộng trí týởng týợng của họ bằng việc thoát ra khỏi những lối tý duy truyền thống. Mỗi bài tập ðòi hỏi họ phải rời khỏi những vùng an toàn và tham gia vào thế giới xung quanh họ. Trýờng ðýa ra những thách thức, nhýng chúng tôi không có câu trả lời. Ngoài ra, không gian lớp học d.school ðýợc thiết kế ðể khuyến khích các thử nghiệm. Tất cả các ðồ nội thất ðều ðýợc gắn bánh xe và di chuyển một cách dễ dàng ðể tạo ra những không gian làm việc khác nhau. Mỗi lần các sinh viên ðến thì không gian lớp học ðýợc sắp xếp khác nhau. Các thùng giấy, gỗ, nhựa, kẹp giấy, các vòng tay cao su, bút màu, dụng cụ thông ống ðiếu, và bãng keo ðều mời gọi các sinh viên xây dựng những hình mẫu ðầu tiên nhằm ðýa ý týởng của mình vào cuộc sống. Các phòng ðều chứa ðầy những tấm bảng màu trắng di chuyển ðýợc, bao phủ bằng những miếng giấy dán nhiều màu sắc tạo ðiều kiện cho việc tìm ý týởng. Các bức týờng ðýợc dán ðầy những hình ảnh và tác phẩm của các dự án trong quá khứ, có vai trò khõi nguồn cảm hứng cho tý duy sáng tạo.
Sinh viên của chúng tôi ðýợc trao cho những thách thức mở và ðời thực. Ví dụ, họ có thể yêu cầu tìm ra cách ðể cải thiện sự an toàn khi di chuyển bằng xe ðạp trong trýờng, hoặc tìm một cách ðể dụ dỗ trẻ em ãn thức ãn lành mạnh. Ngoài những dự án cục bộ ðó, sinh viên ở d.school trong lớp học Design for Extreme Affordability, do Jim Patell và Dave Beach giảng dạy, còn làm việc với các ðối tác ở các nýớc ðang phát triển ðể xác ðịnh các khó khãn và quyết ðịnh làm thế nào ðể giải quyết chúng một cách sinh lãi. Dự án này ðã hình thành một số sản phẩm thú vị ðang ðýợc hoàn thiện ðể ðýa vào thị trýờng. Ví dụ, một nhóm ðã thiết kế một lồng nuôi em bé sinh non hoàn toàn mới có tên là Embrace, sau khi họ ði thãm các bệnh viện ở Nepal và thấy rằng các lồng ấp truyền thống ở phýõng Tây, với giá gốc là 20.000 ðôla, không thích hợp lắm cho môi trýờng ðịa phýõng. Nhiều chiếc lồng ðã bị hỏng hoặc cần các bộ phận không có sẵn. Những hýớng dẫn hoạt ðộng và các nhãn cảnh báo ðýợc ghi bằng tiếng nýớc ngoài xa lạ với các nhân viên ðiều dýỡng. Quan trọng nhất là ða số phụ nữ sinh nở ở các làng quê xa các bệnh viện thành phố nõi có lồng ấp. Do ðó, những trẻ sinh non cần ðýợc giữ ấm trong lồng ấp thì hiếm khi ðýợc tiếp cận với sự hỗ trợ cần thiết.
Nhóm nghiên cứu xác ðịnh sự cần thiết của một lồng ấp có chi phí thấp và công nghệ thấp. Trong vài tháng họ ðã thiết kế một túi ngủ nhỏ với một túi chèn bên trong có chứa một loại sáp ðặc biệt. Nhiệt ðộ nóng chảy của sáp là 37 ðộ C, là nhiệt ðộ cần thiết ðể giữ ấm cho một em bé sõ sinh.[42] Với chỉ 20 ðôla, thay vì 20.000 ðôla, các bậc cha mẹ hoặc các phòng khám ðịa phýõng giờ ðã có thể chãm sóc một em bé sinh non ngay tại chỗ hoặc trong khi di chuyển. Họ lấy túi sáp ra và ðặt nó trong nýớc nóng ðể làm tan sáp. Sau ðó túi sáp ðýợc ðýa vào chiếc túi ngủ và giữ ấm trong nhiều giờ. Khi nó nguội ði, sáp có thể ðýợc làm ấm lên trở lại một cách dễ dàng. Không cần thiết phải có sự tập huấn kỹ thuật nào, không cần có ðiện, và thiết kế này cũng không tốn kém nhiều nên dễ dàng ðýợc triển khai trong các cộng ðồng nõi ngýời dân rất khó tiếp cận ðýợc với các bệnh viện ðô thị.
Các sinh viên hoàn thành khóa học này ðã thay ðổi mãi mãi. Họ bắt ðầu ðánh giá cao sức mạnh của việc chú ý ðến các vấn ðề trong thế giới xung quanh họ, và biết rằng họ ðýợc trao quyền ðể giải quyết chúng. David Kelley, giám ðốc sáng lập của d.school từng nói: Họ ðang býớc ði với sự tự tin sáng tạo.[43] Họ biết rằng mình có quyền – cả ngụ ý và rõ ràng – ðể ðýợc thử nghiệm, thất bại, và thử lại lần nữa. Tất cả những gì chúng ta phải công nhận là mỗi ngýời trong chúng ta ðều có quyền ðó – chúng ta chỉ cần nhận ra rằng chính chúng ta là ngýời ðýợc phép trao quyền ðó cho mình chứ không chờ ðợi một tác nhân từ bên ngoài.
Trong một hoàn cảnh khá bất ngờ, tôi ðã hiểu ðýợc thông ðiệp rằng mỗi chúng ta là ngýời quyết ðịnh cách chúng ta nhìn vào thế giới. Một vài nãm trýớc, tôi ðến một lớp học viết sáng tạo, ở ðó giáo sý ðã yêu cầu chúng tôi mô tả cùng một cảnh hai lần, ðầu tiên là từ quan ðiểm của một ngýời mới yêu, và thứ hai là từ góc nhìn của một ngýời vừa bị mất một ðứa con trong chiến tranh. Bài tập ðõn giản này cho thấy việc nhìn vào thế giới nhý thế nào hoàn toàn phụ thuộc vào trạng thái cảm xúc của bạn. Khi tôi týởng týợng mình ðang ði bộ qua một thành phố ðông ðúc trong trạng thái hạnh phúc, tâm trí của tôi tập trung vào cả màu sắc lẫn âm thanh, và lãng kính quan sát thế giới của tôi rộng mở. Nhýng khi ði dạo qua một cảnh týõng tự trong trạng thái chán nản, mọi thứ ðều trông xám xịt và tất cả các khiếm khuyết hiện ra, chẳng hạn nhý những vết nứt trên vỉa hè cũng ðập vào mắt tôi. Tôi không thể nhìn xa hõn býớc chân mình, và thành phố dýờng nhý cũng chán nản chứ không hề hào hứng. Tôi tìm thấy những gì mình ðã viết cho bài tập ðó gần một chục nãm trýớc.
Linda nghiêng ngýời ra sau ðể chiêm ngýỡng những bó hoa màu hồng ðào cô vừa mới mua. Tâm trí cô hứng khởi tung bay từ những bông hoa ðến mùi thõm tuyệt vời của bánh mì týõi phía cửa hàng bánh bên cạnh. Ðứng bên hông lối vào là một nghệ sĩ xiếc nghiệp dý. Trong bộ trang phục màu sắc sặc sỡ của mình, anh ðã làm cho những khán giả trẻ em cýời khúc khích mỗi lần anh tạo ra một trò vui. Linda ðứng xem một vài phút và cũng thấy mình khúc khích cýời nhý các em nhỏ. Anh kết thúc màn biểu diễn của mình với một cái cúi ðầu chào Linda. Cô cúi ðầu chào lại, và tặng cho anh một bông hồng.
Joe cúi ðầu býớc ði, co mình dýới sýõng mù bãng giá, trông nhý những tờ báo bị gió tung vật vờ trong không khí, ðập vào các tòa nhà trýớc khi cất cánh bay lên một lần nữa. Býớc lên một vết nứt, vừa ði vừa rýng rức. Býớc lên một sợi dây, vừa ði vừa lắt lay. Những lời này tiếp tục chạy qua tâm trí của Joe khi anh bãng qua mỗi vết nứt phá vỡ các hàng gạch lát trên vỉa hè.
Bài hát trêu chọc thời tuổi thõ ðã trở thành một giọng lải nhải ðều ðều sau ðầu anh, cũng nhý bản thân anh ðang phải tập trung vào con ðýờng không bằng phẳng trải dài phía trýớc.
Ðây là một bài tập có giá trị không chỉ cho việc thực hành kỹ nãng viết của tôi mà còn ðối với cuộc sống nói chung. Nó là một lời nhắc nhở sâu sắc rằng chính ta là ngýời chọn cách chúng ta nhìn thế giới xung quanh. Môi trýờng quanh ta ðều có những bông hoa ðẹp cũng nhý các khiếm khuyết, và mỗi chúng ta là ngýời quyết ðịnh nên chọn lấy ðiều gì.
Tôi ðã chia sẻ một số câu chuyện từ cuốn sách này với cha tôi, và sau ðó cha quyết ðịnh dành thời gian ðể nói về những hiểu biết quan trọng nhất của mình, khi nhìn lại tám mýõi ba nãm cuộc ðời. Mặc dù vị trí hiện tại của ông rất thoải mái, nhýng con ðýờng ông ði không phải là con ðýờng ðýợc dọn sẵn từ trýớc. Cha chuyển ðến Hoa Kỳ khi ông ðýợc tám tuổi. Gia ðình ông bà nội trốn khỏi Ðức vào những nãm 1930, và họ ðến Hoa Kỳ với những bàn tay trắng. Cha tôi không thể nói ðýợc tiếng Anh và ông bà nội ðã không có ðủ tiền ðể nuôi hai ðứa con của họ. Do ðó, cha phải sống với những ngýời bà con, nhýng ông không thể giao tiếp ðýợc với họ. Mãi cho ðến khi ông bà có ðủ khả nãng nuôi con, cha mới ðýợc ðýa về nhà. Từ những khởi ðầu khiêm tốn, cha tôi ðã xây dựng một cuộc sống và sự nghiệp ðầy ấn týợng, và ðã nghỉ hýu với vai trò phó chủ tịch và giám ðốc ðiều hành tại một công ty ða quốc gia lớn.
Nói về cuộc sống, cha tôi xác ðịnh rằng nhận ðịnh quan trọng nhất của ông là không nên quá nghiêm trọng với chính mình cũng nhý không nên phán xét ngýời khác quá gay gắt. Ông ýớc gì trýớc ðây ông khoan dung nhiều hõn với những sai lầm của mình và của những ngýời khác, và ông cũng muốn lúc ðó ông ðã hiểu thất bại là một phần bình thýờng của quá trình học tập. Bây giờ ông nhận ra rằng hầu hết các lỗi lầm của chúng ta ðều chẳng thể làm rung chuyển trái ðất, và chia sẻ câu chuyện ðã giúp ông có ðýợc gia ðình này. Khởi ðầu sự nghiệp của mình tại RCA, ông và nhóm của ông ðã có một dự án tiến triển rất tệ. Cha tôi và các ðồng nghiệp của ông ðã phải thức nhiều ðêm ðể cố gắng sửa chữa các vấn ðề, và trong nhiều tuần họ phải dành toàn bộ sự tập trung ðể cố tìm ra một giải pháp. Có ðiều ngay sau khi dự án hoàn tất thì toàn bộ chýõng trình bị hủy bỏ. Mặc dù dự án ðã là trung tâm cuộc sống của họ, nhýng ðối với những ngýời khác thì nó lại chẳng ðáng gì. Ông ðã học ðýợc nhiều lần rằng hầu hết những ðiều trong cuộc sống, ðặc biệt là những thất bại của chúng ta, chẳng quan trọng nhiều nhý chúng ta nghĩ ngay vào thời ðiểm chúng xảy ra ðâu.
Cha tôi cũng nhắc nhở tôi rằng thành công thật ngọt ngào nhýng nó cũng chỉ thoáng qua. Khi bạn ðang ở một vị trí có ảnh hýởng, có chức vụ và quyền lực thì các bổng lộc thật tuyệt vời. Nhýng một khi vị thế ðó biến mất, các ðặc quyền sẽ bay hõi. Quyền lực của bạn xuất phát từ vị thế bạn ðnag ðứng. Khi bạn không còn ở vị thế ðó, tất cả những gì ði theo nó phai nhạt một cách nhanh chóng. Vì vậy, bạn không nên xác ðịnh mình bằng vị thế hiện tại, cũng nhý không nên tin vào tất cả những gì ngýời ta nói về bạn. Hãy thýởng thức hýõng thõm của việc ðýợc mọi ngýời chú ý khi bạn có nó, nhýng hãy sẵn sàng rời khỏi vị thế trung tâm nếu ðến lúc phải ra ði. Khi bạn rời khỏi một công việc, tổ chức vẫn sẽ tiếp tục hoạt ðộng mà không có bạn, nhý thể bạn chýa bao giờ là một nhân vật không thể thiếu ðýợc của nó vậy. Tất nhiên, bạn sẽ ðể lại một di sản về tất cả những gì bạn ðã ðạt ðýợc, nhýng ðiều ðó cũng sẽ mờ nhạt ði theo nãm tháng mà thôi.
Hôm nay, cha tôi cũng nhận thức sâu sắc về niềm vui còn ðýợc sống. Vài nãm trýớc ðây ông ðã phải trải qua một cõn ðau tim, và chiếc máy khử rung ðýợc cấy vào ngýời ông là một lời nhắc nhở liên tục rằng cuộc sống của ông rất mỏng manh. Về mặt lý trí chúng ta ðều biết mỗi ngày rất ðáng trân trọng, nhýng khi chúng ta già ði hoặc ðối phó với một cãn bệnh ðe dọa cuộc sống, nhận thức này mới ngày càng phát triển mãnh liệt và rõ ràng. Cha tôi làm việc chãm chỉ ðể tận dụng tối ða từng cõ hội, ðể trân trọng từng thời ðiểm, và ðể khỏi hoang phí dù chỉ một ngày.
Trong khi tìm kiếm cảm hứng cho cuốn sách này, tôi dã mở từng ngãn kéo và nhìn vào từng hộc tủ của cuộc ðời tôi, theo cả nghĩa ðen và nghĩa bóng. Trong quá trình ðó, tôi tìm thấy một chiếc túi vải bạt tôi ðã mang ði khắp nõi trong khoảng ba mýõi nãm. Chiếc túi dài nửa mét ðầy những báu vật dýờng nhý khá quan trọng với tôi suốt một quãng ðời, từ khi nó mới chỉ là một tài sản nhỏ bé lúc tôi hai mýõi ðến tận lúc tôi học cao học, và theo tôi ðến khắp mọi nõi tôi ðã sống. Mặc dù hiếm khi mở nó ra, tôi vẫn luôn luôn biết ðýợc nõi ðể tìm thấy nó. Các ngãn túi và những gi fbene trong nó là một liên kết hữu hình với quá khứ của tôi.
Khi mở túi xách, tôi thấy một bộ sýu tập nhỏ các loại ðá và vỏ sò rất ðẹp từ những bãi biển xa xôi, những hình thẻ ðã phai ði suốt những nãm tôi ở trung học và ðại học, một chồng thý cũ, và một số những sáng chế ðầu tay của tôi, trong ðó có mẫu ðồ trang sức với ðèn LED mà tôi thiết kế từ sét nặn hình và pin ðồng hồ. Tôi cũng tìm thấy một tập thõ nhỏ, có tiêu ðề Những tạo tác từ thực nghiệm.
Khi tôi làm những bài thõ trong cuốn tập này, chúng týợng trýng cho mặt trái của các thí nghiệm khoa học mà tôi ðã thực hiện trong phòng thí nghiệm khoa thần kinh thời tôi ðang học cao học. Một bài thõ có tên là Entropy ðập vào mắt tôi. Bài htow này nói về quá trình liên tục tái khám phá chính mình, luôn luôn thay ðổi kế hoạch của trò chõi cuộc ðời, và chấp nhận những rủi ro mà không biết ðiều gì sẽ xảy ra. Tôi ðã viết bài thõ ðó vào tháng 9 nãm 1983. Vào thời ðiểm ðó, týõng lai của tôi rất u ám và ðầy những bất ổn lớn, bởi vì thế tôi chẳng thể nhìn thấy gì nhiều ở phía trýớc. Hõn hai mýõi lãm nãm sau, tôi nhìn nó với một cặp mắt khác. Tình trạng bất ổn là bản chất của cuộc sống, và nó tiếp nhiên liệu cho cõ hội. Phải thừa nhận sẽ vẫn có những ngày tôi không biết nên chọn con ðýờng nào và bị choáng ngợp bởi những lựa chọn ðang mở ra trýớc mắt tôi. Nhýng giờ tôi ðã biết rằng sự bất ổn sẽ là tia lửa thắp lên những sáng tạo và khởi ðộng cỗ máy thúc ðẩy chúng ta tiến về phía trýớc.
Tôi hy vọng những câu chuyện trong cuốn sách này ðã nhấn mạnh ðýợc ý týởng rằng ðể mở khóa cho những khả nãng vô hạn của bản thân, bạn phải thoát ra khỏi chiếc vỏ an toàn, sẵn sàng chấp nhận thất bại, học cách xem nhẹ những khó khãn, và nắm bắt mọi cõ hội ðể trở nên xuất sắc. Ðúng là những hành ðộng này sẽ khiến cuộc sống của bạn sóng gió hõn nhiều. Nhýng chúng cũng ðýa bạn ðến những nõi có thể bạn thậm chí chýa từng týởng týợng nổi, và cung cấp một lãng kính ðể qua ðó bạn có khả nãng nhìn khó khãn và rắc rối nhý những cõ hội. Trên hết, chúng mang ðến cho bạn sự tự tin ngày càng tãng rằng vấn ðề nào cũng có thể giải quyết xong.
Bài thõ tôi ðã viết hõn hai mýõi lãm nãm trýớc ðây là một lời nhắc nhở sâu sắc về những lo lắng tôi gặp phải ở tuổi hai mýõi khi nhìn về phía trýớc, hoàn toàn mù mờ về những gì ðang chực chờ ở ngã rẽ tiếp theo. Tôi ýớc phải chi có ai ðó ðã nói với tôi rằng hãy biết nắm lấy những ðiều bất ổn. Nhý các câu chuyện trong cuốn sách này ðã chứng minh, những ðiều thú vị nhất sẽ hiện ra khi bạn býớc khỏi con ðýờng ðýợc dự ðoán trýớc, khi bạn thách thức những giả ðịnh, và khi bạn cho phép mình nhìn thế giới nhý là những cõ hội tràn ðầy tiềm nãng.
Tôi phải thú nhận rằng thực ra mình có thể dễ dàng ðặt tên cho tất cả các chýõng trýớc là Hãy cho phép chính bạn. Ý tôi là bạn hãy cho phép mình thách thức với các giả ðịnh, nhìn thế giới bằng ðôi mắt mới mẻ, thử nghiệm, thất bại, vạch ra con ðýờng ði của riêng bạn, và thử thách các giới hạn khả nãng của bạn. Trong thực tế, ðó chính là những gì tôi muốn mình biết ðýợc khi hai mýõi, ba mýõi, và bốn mýõi tuổi – và cũng là những gì tôi cần phải liên tục nhắc nhở bản thân mình ở tuổi nãm mýõi.
Bạn rất dễ dàng bị khóa vào những cách tý duy truyền thống và chặn hết những lựa chọn thay thế khả thi. Ðối với hầu hết chúng ta, có rất nhiều những ðám ðông ðứng bên lề, khuyến khích mỗi ngýời chúng ta ở lại trên con ðýờng quy ðịnh, chỉ tô màu bên trong các ðýờng ranh giới, và ði trên cùng những con ðýờng họ ðã ði theo. Ðiều này làm cho cả những ngýời ðó và bạn cảm thấy dễ chịu. Nó củng cố thêm những ðiều họ ðã lựa chọn và cung cấp cho bạn một công thức dễ ði theo. Nhýng nó cũng có thể cực kỳ hạn hẹp.
Ở châu Mỹ Latinh thật ra có một cụm từ ðýợc dịch thành kẻ níu áo (jacket puller) ðể chỉ những kẻ cố gắng kéo ngýời khác xuống – có lẽ bằng ðuôi áo của họ - ðể ngãn cản họ výõn lên cao hõn vị trí hiện tại. Ngýời dân ở nhiều nõi khác trên thế giới gọi ðây là hội chứng ghen ãn tức ở, trong ðó những ngýời dám ðứng lên cao hõn những ngýời xung quanh sẽ bị cắt giảm kích thýớc cho vừa với mọi ngýời. Ở lại với số ðông là chuẩn mực, thành ra những ngýời výợt lên trýớc có nguy cõ bị kéo lùi lại bởi cộng ðồng của họ. Tệ hõn nữa, cũng có một số khu vực trên thế giới mà ở ðó ai làm những ðiều khác với số ðông ðều bị xem là tội phạm, theo nghĩa ðen. Ví dụ, tại Brazil từ truyền thống dành cho các doanh nhân (entrepreneur) là empresario, dịch trại ra là kẻ trộm. Trong lịch sử, không có nhiều hình mẫu doanh nhân thành công ở khu vực này, và những ngýời khác vẫn cho rằng bạn hẳn phải làm ðiều gì ðó bất hợp pháp thì mới thành công trong việc phá vỡ khuôn mẫu ở nõi ðây. Ðây là một vấn ðề quan trọng với Endeavor, tổ chức có mục tiêu là tãng cýờng khả nãng kinh doanh ở các nýớc ðang phát triển. Khi hoạt ðộng ở Mỹ Latinh, Endeavor nói với mọi ngýời rằng họ muốn kích thích tinh thần kinh doanh, và họ ðã gặp phải sự chống ðối quyết liệt. Ðể ðáp lại, họ ðã ðặt ra một từ hoàn toàn mới, emprendedor, ðể nắm bắt ðýợc bản chất thật sự của sự ðổi mới và tinh thần doanh nhân. Họ ðã phải mất nhiều nãm, nhýng cuối cùng emprendedor ðã ðýợc ðýa vào từ ðiển. Và hiện tại Endeavor lại ðối mặt với một thách thức týõng tự ở Ai Cập, nõi họ dự ðịnh một lần nữa tạo ra và quảng bá một từ mới cho doanh nhân.
Ở trýờng d.school phần lớn công tác của chúng tôi tập trung vào việc cho phép sinh viên thách thức các giả ðịnh và mở rộng trí týởng týợng của họ bằng việc thoát ra khỏi những lối tý duy truyền thống. Mỗi bài tập ðòi hỏi họ phải rời khỏi những vùng an toàn và tham gia vào thế giới xung quanh họ. Trýờng ðýa ra những thách thức, nhýng chúng tôi không có câu trả lời. Ngoài ra, không gian lớp học d.school ðýợc thiết kế ðể khuyến khích các thử nghiệm. Tất cả các ðồ nội thất ðều ðýợc gắn bánh xe và di chuyển một cách dễ dàng ðể tạo ra những không gian làm việc khác nhau. Mỗi lần các sinh viên ðến thì không gian lớp học ðýợc sắp xếp khác nhau. Các thùng giấy, gỗ, nhựa, kẹp giấy, các vòng tay cao su, bút màu, dụng cụ thông ống ðiếu, và bãng keo ðều mời gọi các sinh viên xây dựng những hình mẫu ðầu tiên nhằm ðýa ý týởng của mình vào cuộc sống. Các phòng ðều chứa ðầy những tấm bảng màu trắng di chuyển ðýợc, bao phủ bằng những miếng giấy dán nhiều màu sắc tạo ðiều kiện cho việc tìm ý týởng. Các bức týờng ðýợc dán ðầy những hình ảnh và tác phẩm của các dự án trong quá khứ, có vai trò khõi nguồn cảm hứng cho tý duy sáng tạo.
Sinh viên của chúng tôi ðýợc trao cho những thách thức mở và ðời thực. Ví dụ, họ có thể yêu cầu tìm ra cách ðể cải thiện sự an toàn khi di chuyển bằng xe ðạp trong trýờng, hoặc tìm một cách ðể dụ dỗ trẻ em ãn thức ãn lành mạnh. Ngoài những dự án cục bộ ðó, sinh viên ở d.school trong lớp học Design for Extreme Affordability, do Jim Patell và Dave Beach giảng dạy, còn làm việc với các ðối tác ở các nýớc ðang phát triển ðể xác ðịnh các khó khãn và quyết ðịnh làm thế nào ðể giải quyết chúng một cách sinh lãi. Dự án này ðã hình thành một số sản phẩm thú vị ðang ðýợc hoàn thiện ðể ðýa vào thị trýờng. Ví dụ, một nhóm ðã thiết kế một lồng nuôi em bé sinh non hoàn toàn mới có tên là Embrace, sau khi họ ði thãm các bệnh viện ở Nepal và thấy rằng các lồng ấp truyền thống ở phýõng Tây, với giá gốc là 20.000 ðôla, không thích hợp lắm cho môi trýờng ðịa phýõng. Nhiều chiếc lồng ðã bị hỏng hoặc cần các bộ phận không có sẵn. Những hýớng dẫn hoạt ðộng và các nhãn cảnh báo ðýợc ghi bằng tiếng nýớc ngoài xa lạ với các nhân viên ðiều dýỡng. Quan trọng nhất là ða số phụ nữ sinh nở ở các làng quê xa các bệnh viện thành phố nõi có lồng ấp. Do ðó, những trẻ sinh non cần ðýợc giữ ấm trong lồng ấp thì hiếm khi ðýợc tiếp cận với sự hỗ trợ cần thiết.
Nhóm nghiên cứu xác ðịnh sự cần thiết của một lồng ấp có chi phí thấp và công nghệ thấp. Trong vài tháng họ ðã thiết kế một túi ngủ nhỏ với một túi chèn bên trong có chứa một loại sáp ðặc biệt. Nhiệt ðộ nóng chảy của sáp là 37 ðộ C, là nhiệt ðộ cần thiết ðể giữ ấm cho một em bé sõ sinh.[42] Với chỉ 20 ðôla, thay vì 20.000 ðôla, các bậc cha mẹ hoặc các phòng khám ðịa phýõng giờ ðã có thể chãm sóc một em bé sinh non ngay tại chỗ hoặc trong khi di chuyển. Họ lấy túi sáp ra và ðặt nó trong nýớc nóng ðể làm tan sáp. Sau ðó túi sáp ðýợc ðýa vào chiếc túi ngủ và giữ ấm trong nhiều giờ. Khi nó nguội ði, sáp có thể ðýợc làm ấm lên trở lại một cách dễ dàng. Không cần thiết phải có sự tập huấn kỹ thuật nào, không cần có ðiện, và thiết kế này cũng không tốn kém nhiều nên dễ dàng ðýợc triển khai trong các cộng ðồng nõi ngýời dân rất khó tiếp cận ðýợc với các bệnh viện ðô thị.
Các sinh viên hoàn thành khóa học này ðã thay ðổi mãi mãi. Họ bắt ðầu ðánh giá cao sức mạnh của việc chú ý ðến các vấn ðề trong thế giới xung quanh họ, và biết rằng họ ðýợc trao quyền ðể giải quyết chúng. David Kelley, giám ðốc sáng lập của d.school từng nói: Họ ðang býớc ði với sự tự tin sáng tạo.[43] Họ biết rằng mình có quyền – cả ngụ ý và rõ ràng – ðể ðýợc thử nghiệm, thất bại, và thử lại lần nữa. Tất cả những gì chúng ta phải công nhận là mỗi ngýời trong chúng ta ðều có quyền ðó – chúng ta chỉ cần nhận ra rằng chính chúng ta là ngýời ðýợc phép trao quyền ðó cho mình chứ không chờ ðợi một tác nhân từ bên ngoài.
Trong một hoàn cảnh khá bất ngờ, tôi ðã hiểu ðýợc thông ðiệp rằng mỗi chúng ta là ngýời quyết ðịnh cách chúng ta nhìn vào thế giới. Một vài nãm trýớc, tôi ðến một lớp học viết sáng tạo, ở ðó giáo sý ðã yêu cầu chúng tôi mô tả cùng một cảnh hai lần, ðầu tiên là từ quan ðiểm của một ngýời mới yêu, và thứ hai là từ góc nhìn của một ngýời vừa bị mất một ðứa con trong chiến tranh. Bài tập ðõn giản này cho thấy việc nhìn vào thế giới nhý thế nào hoàn toàn phụ thuộc vào trạng thái cảm xúc của bạn. Khi tôi týởng týợng mình ðang ði bộ qua một thành phố ðông ðúc trong trạng thái hạnh phúc, tâm trí của tôi tập trung vào cả màu sắc lẫn âm thanh, và lãng kính quan sát thế giới của tôi rộng mở. Nhýng khi ði dạo qua một cảnh týõng tự trong trạng thái chán nản, mọi thứ ðều trông xám xịt và tất cả các khiếm khuyết hiện ra, chẳng hạn nhý những vết nứt trên vỉa hè cũng ðập vào mắt tôi. Tôi không thể nhìn xa hõn býớc chân mình, và thành phố dýờng nhý cũng chán nản chứ không hề hào hứng. Tôi tìm thấy những gì mình ðã viết cho bài tập ðó gần một chục nãm trýớc.
Linda nghiêng ngýời ra sau ðể chiêm ngýỡng những bó hoa màu hồng ðào cô vừa mới mua. Tâm trí cô hứng khởi tung bay từ những bông hoa ðến mùi thõm tuyệt vời của bánh mì týõi phía cửa hàng bánh bên cạnh. Ðứng bên hông lối vào là một nghệ sĩ xiếc nghiệp dý. Trong bộ trang phục màu sắc sặc sỡ của mình, anh ðã làm cho những khán giả trẻ em cýời khúc khích mỗi lần anh tạo ra một trò vui. Linda ðứng xem một vài phút và cũng thấy mình khúc khích cýời nhý các em nhỏ. Anh kết thúc màn biểu diễn của mình với một cái cúi ðầu chào Linda. Cô cúi ðầu chào lại, và tặng cho anh một bông hồng.
Joe cúi ðầu býớc ði, co mình dýới sýõng mù bãng giá, trông nhý những tờ báo bị gió tung vật vờ trong không khí, ðập vào các tòa nhà trýớc khi cất cánh bay lên một lần nữa. Býớc lên một vết nứt, vừa ði vừa rýng rức. Býớc lên một sợi dây, vừa ði vừa lắt lay. Những lời này tiếp tục chạy qua tâm trí của Joe khi anh bãng qua mỗi vết nứt phá vỡ các hàng gạch lát trên vỉa hè.
Bài hát trêu chọc thời tuổi thõ ðã trở thành một giọng lải nhải ðều ðều sau ðầu anh, cũng nhý bản thân anh ðang phải tập trung vào con ðýờng không bằng phẳng trải dài phía trýớc.
Ðây là một bài tập có giá trị không chỉ cho việc thực hành kỹ nãng viết của tôi mà còn ðối với cuộc sống nói chung. Nó là một lời nhắc nhở sâu sắc rằng chính ta là ngýời chọn cách chúng ta nhìn thế giới xung quanh. Môi trýờng quanh ta ðều có những bông hoa ðẹp cũng nhý các khiếm khuyết, và mỗi chúng ta là ngýời quyết ðịnh nên chọn lấy ðiều gì.
Tôi ðã chia sẻ một số câu chuyện từ cuốn sách này với cha tôi, và sau ðó cha quyết ðịnh dành thời gian ðể nói về những hiểu biết quan trọng nhất của mình, khi nhìn lại tám mýõi ba nãm cuộc ðời. Mặc dù vị trí hiện tại của ông rất thoải mái, nhýng con ðýờng ông ði không phải là con ðýờng ðýợc dọn sẵn từ trýớc. Cha chuyển ðến Hoa Kỳ khi ông ðýợc tám tuổi. Gia ðình ông bà nội trốn khỏi Ðức vào những nãm 1930, và họ ðến Hoa Kỳ với những bàn tay trắng. Cha tôi không thể nói ðýợc tiếng Anh và ông bà nội ðã không có ðủ tiền ðể nuôi hai ðứa con của họ. Do ðó, cha phải sống với những ngýời bà con, nhýng ông không thể giao tiếp ðýợc với họ. Mãi cho ðến khi ông bà có ðủ khả nãng nuôi con, cha mới ðýợc ðýa về nhà. Từ những khởi ðầu khiêm tốn, cha tôi ðã xây dựng một cuộc sống và sự nghiệp ðầy ấn týợng, và ðã nghỉ hýu với vai trò phó chủ tịch và giám ðốc ðiều hành tại một công ty ða quốc gia lớn.
Nói về cuộc sống, cha tôi xác ðịnh rằng nhận ðịnh quan trọng nhất của ông là không nên quá nghiêm trọng với chính mình cũng nhý không nên phán xét ngýời khác quá gay gắt. Ông ýớc gì trýớc ðây ông khoan dung nhiều hõn với những sai lầm của mình và của những ngýời khác, và ông cũng muốn lúc ðó ông ðã hiểu thất bại là một phần bình thýờng của quá trình học tập. Bây giờ ông nhận ra rằng hầu hết các lỗi lầm của chúng ta ðều chẳng thể làm rung chuyển trái ðất, và chia sẻ câu chuyện ðã giúp ông có ðýợc gia ðình này. Khởi ðầu sự nghiệp của mình tại RCA, ông và nhóm của ông ðã có một dự án tiến triển rất tệ. Cha tôi và các ðồng nghiệp của ông ðã phải thức nhiều ðêm ðể cố gắng sửa chữa các vấn ðề, và trong nhiều tuần họ phải dành toàn bộ sự tập trung ðể cố tìm ra một giải pháp. Có ðiều ngay sau khi dự án hoàn tất thì toàn bộ chýõng trình bị hủy bỏ. Mặc dù dự án ðã là trung tâm cuộc sống của họ, nhýng ðối với những ngýời khác thì nó lại chẳng ðáng gì. Ông ðã học ðýợc nhiều lần rằng hầu hết những ðiều trong cuộc sống, ðặc biệt là những thất bại của chúng ta, chẳng quan trọng nhiều nhý chúng ta nghĩ ngay vào thời ðiểm chúng xảy ra ðâu.
Cha tôi cũng nhắc nhở tôi rằng thành công thật ngọt ngào nhýng nó cũng chỉ thoáng qua. Khi bạn ðang ở một vị trí có ảnh hýởng, có chức vụ và quyền lực thì các bổng lộc thật tuyệt vời. Nhýng một khi vị thế ðó biến mất, các ðặc quyền sẽ bay hõi. Quyền lực của bạn xuất phát từ vị thế bạn ðnag ðứng. Khi bạn không còn ở vị thế ðó, tất cả những gì ði theo nó phai nhạt một cách nhanh chóng. Vì vậy, bạn không nên xác ðịnh mình bằng vị thế hiện tại, cũng nhý không nên tin vào tất cả những gì ngýời ta nói về bạn. Hãy thýởng thức hýõng thõm của việc ðýợc mọi ngýời chú ý khi bạn có nó, nhýng hãy sẵn sàng rời khỏi vị thế trung tâm nếu ðến lúc phải ra ði. Khi bạn rời khỏi một công việc, tổ chức vẫn sẽ tiếp tục hoạt ðộng mà không có bạn, nhý thể bạn chýa bao giờ là một nhân vật không thể thiếu ðýợc của nó vậy. Tất nhiên, bạn sẽ ðể lại một di sản về tất cả những gì bạn ðã ðạt ðýợc, nhýng ðiều ðó cũng sẽ mờ nhạt ði theo nãm tháng mà thôi.
Hôm nay, cha tôi cũng nhận thức sâu sắc về niềm vui còn ðýợc sống. Vài nãm trýớc ðây ông ðã phải trải qua một cõn ðau tim, và chiếc máy khử rung ðýợc cấy vào ngýời ông là một lời nhắc nhở liên tục rằng cuộc sống của ông rất mỏng manh. Về mặt lý trí chúng ta ðều biết mỗi ngày rất ðáng trân trọng, nhýng khi chúng ta già ði hoặc ðối phó với một cãn bệnh ðe dọa cuộc sống, nhận thức này mới ngày càng phát triển mãnh liệt và rõ ràng. Cha tôi làm việc chãm chỉ ðể tận dụng tối ða từng cõ hội, ðể trân trọng từng thời ðiểm, và ðể khỏi hoang phí dù chỉ một ngày.
Trong khi tìm kiếm cảm hứng cho cuốn sách này, tôi dã mở từng ngãn kéo và nhìn vào từng hộc tủ của cuộc ðời tôi, theo cả nghĩa ðen và nghĩa bóng. Trong quá trình ðó, tôi tìm thấy một chiếc túi vải bạt tôi ðã mang ði khắp nõi trong khoảng ba mýõi nãm. Chiếc túi dài nửa mét ðầy những báu vật dýờng nhý khá quan trọng với tôi suốt một quãng ðời, từ khi nó mới chỉ là một tài sản nhỏ bé lúc tôi hai mýõi ðến tận lúc tôi học cao học, và theo tôi ðến khắp mọi nõi tôi ðã sống. Mặc dù hiếm khi mở nó ra, tôi vẫn luôn luôn biết ðýợc nõi ðể tìm thấy nó. Các ngãn túi và những gi fbene trong nó là một liên kết hữu hình với quá khứ của tôi.
Khi mở túi xách, tôi thấy một bộ sýu tập nhỏ các loại ðá và vỏ sò rất ðẹp từ những bãi biển xa xôi, những hình thẻ ðã phai ði suốt những nãm tôi ở trung học và ðại học, một chồng thý cũ, và một số những sáng chế ðầu tay của tôi, trong ðó có mẫu ðồ trang sức với ðèn LED mà tôi thiết kế từ sét nặn hình và pin ðồng hồ. Tôi cũng tìm thấy một tập thõ nhỏ, có tiêu ðề Những tạo tác từ thực nghiệm.
Khi tôi làm những bài thõ trong cuốn tập này, chúng týợng trýng cho mặt trái của các thí nghiệm khoa học mà tôi ðã thực hiện trong phòng thí nghiệm khoa thần kinh thời tôi ðang học cao học. Một bài thõ có tên là Entropy ðập vào mắt tôi. Bài htow này nói về quá trình liên tục tái khám phá chính mình, luôn luôn thay ðổi kế hoạch của trò chõi cuộc ðời, và chấp nhận những rủi ro mà không biết ðiều gì sẽ xảy ra. Tôi ðã viết bài thõ ðó vào tháng 9 nãm 1983. Vào thời ðiểm ðó, týõng lai của tôi rất u ám và ðầy những bất ổn lớn, bởi vì thế tôi chẳng thể nhìn thấy gì nhiều ở phía trýớc. Hõn hai mýõi lãm nãm sau, tôi nhìn nó với một cặp mắt khác. Tình trạng bất ổn là bản chất của cuộc sống, và nó tiếp nhiên liệu cho cõ hội. Phải thừa nhận sẽ vẫn có những ngày tôi không biết nên chọn con ðýờng nào và bị choáng ngợp bởi những lựa chọn ðang mở ra trýớc mắt tôi. Nhýng giờ tôi ðã biết rằng sự bất ổn sẽ là tia lửa thắp lên những sáng tạo và khởi ðộng cỗ máy thúc ðẩy chúng ta tiến về phía trýớc.
Tôi hy vọng những câu chuyện trong cuốn sách này ðã nhấn mạnh ðýợc ý týởng rằng ðể mở khóa cho những khả nãng vô hạn của bản thân, bạn phải thoát ra khỏi chiếc vỏ an toàn, sẵn sàng chấp nhận thất bại, học cách xem nhẹ những khó khãn, và nắm bắt mọi cõ hội ðể trở nên xuất sắc. Ðúng là những hành ðộng này sẽ khiến cuộc sống của bạn sóng gió hõn nhiều. Nhýng chúng cũng ðýa bạn ðến những nõi có thể bạn thậm chí chýa từng týởng týợng nổi, và cung cấp một lãng kính ðể qua ðó bạn có khả nãng nhìn khó khãn và rắc rối nhý những cõ hội. Trên hết, chúng mang ðến cho bạn sự tự tin ngày càng tãng rằng vấn ðề nào cũng có thể giải quyết xong.
Bài thõ tôi ðã viết hõn hai mýõi lãm nãm trýớc ðây là một lời nhắc nhở sâu sắc về những lo lắng tôi gặp phải ở tuổi hai mýõi khi nhìn về phía trýớc, hoàn toàn mù mờ về những gì ðang chực chờ ở ngã rẽ tiếp theo. Tôi ýớc phải chi có ai ðó ðã nói với tôi rằng hãy biết nắm lấy những ðiều bất ổn. Nhý các câu chuyện trong cuốn sách này ðã chứng minh, những ðiều thú vị nhất sẽ hiện ra khi bạn býớc khỏi con ðýờng ðýợc dự ðoán trýớc, khi bạn thách thức những giả ðịnh, và khi bạn cho phép mình nhìn thế giới nhý là những cõ hội tràn ðầy tiềm nãng.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top