NTK135-145
NẠP THIẾP KÝ II
Tác giả: Mộc Dật
Nguồn: Vip.vandan
Chương 135:
Trọng binh áp cảnh
Dương Thu Trì vội cho thám mã đến hồi báo. Thám mã quỳ một chân ôm quyền thưa: "Thủ bị đại nhân, mật thám ở Bảo Khánh đưa quân tình khẩn cấp đến!" Nói xong móc tín hàm hỏa tốc dâng lên hai tay.
Minh quân rất coi trọng dọ thám quân tình, tuy đã bị đánh bật khỏi Hành châu, Bảo Khánh, Minh quân vẫn còn lưu thám tử ở lại dò xét, báo cáo kịp thời.
Dương Thu Trì tiếp lấy tín hàm, ra lệnh thưởng cho thám mã, bảo hắn ra ngoài chờ, sau đó mới dùng đao nhỏ rọc ra, vừa xem đã nhíu mày.
A Hạnh Ny nhất mực cùng Dương Thu Trì đi thị sát huấn luyện tân quân và công tác xây dựng quân doanh, thấy tình cảnh này liền hỏi: "Thế nào hả, Thu Trì ca?"
"Trương tặc quân phát binh tám vạn từ Bảo Khánh phủ, do đại tướng của Trương Hiến Trung là Tôn Khả Vọng, Lý Định Quốc soái lĩnh bức thẳng Kiềm Dương, mồng sáu tháng 9 xuất phát, chiếu theo lộ trình mà tính, nếu đi nhanh thì còn cách Kiềm Dương ba bốn ngày đường nữa."
A Hạnh Ny cả kinh: "Tám vạn? Lần trước ba vạn..."
"Đúng a! Tăng binh gấp hai lần rưỡi, xem ra là Trương tặc quân có chuẩn bị mà đến, chúng ta cần phải thận trọng ứng đối."
Hắn trầm ngâm một lúc, bảo A Hạnh Ny tiếp túc thị sát huấn luyện tân quân, còn bản thân thì đi tìm du kích tướng quân Long Bỉnh, cho y xem mật báo quân tình, lại trở về nha môn, đi thẳng vào nội trạch thông báo với ba vị vương gia và tổng binh.
Sau khi chờ một lúc, Quế vương cùng các vị vương gia và tổng binh Khổng Hi Quý hoảng hốt từ hậu đường đi ra, Quế vương ho liên tục, hỏi: "Dương đại nhân, thế nào rồi?"
Dương Thu Trì vội đem mật báo quân tình trình lên.
Quế vương không chờ xem xong đã người run bần bật, đưa luôn mật báo cho Huệ vương và mấy người cùng xem.
Bốn người xem xong, đều kinh khủng vô cùng. Quế vương vịn tay ghế ngồi xuống, sau đó mới bảo mọi người ngồi nói chuyện. Ông ta hỏi: "Dương đại nhân, Long tướng quân, Khổng tổng binh, lần này chiêu binh chỉ có 8 nghìn người, ba vị đại nhân, thế này... thế này thì làm thế nào ứng đối đây?"
Tổng binh Khổng Hi Quý tuy có điểm vui mừng trên nỗi đau của kè khác, nhưng đại quân áp cảnh, ổ sắp lật nhào, làm gì còn chuyện giữ được trứng riêng? Do đó ông ta cũng thập phần khẩn trương, nói: "Chỉ bằng Kiềm Dương huyện nhỏ nhoi, lại không phải là trọng địa chiến lược, án theo lý Trương tặc quân sẽ không quá để ý với huyện này. Cho dù là lần trước bị tổn hại nặng, nhưng Trương tặc quân giọi về thanh đông kích tây, về chuyện mất hay được một thành này thường không quan tâm mấy. Lần này đại cử tiến binh, lại chỉ định hai viên đại tướng là Tôn Khả Vọng và Lý Định Quốc soái lĩnh đến chinh phạt, thế trện này e rằng không lấy Kiềm Dương không chịu về. Chẳng lẽ lần này là báo cừu của lần trước sao?"
Long Bỉnh lắc đầu: "Theo ti chức biết, thì Trương tặc quân đặc biệt thích vàng bạc. Thu bao nhiêu tài bảo cũng cảm thấy không đủ. Trương tặc quân phái hai viên đại tướng đắc lực nhất là Tôn Khả Vọng và Lý Định Quốc tăng binh tám vạn đến, lần này chính là ý của người say không ở rượu, xem ra là thèm thuồng tài sản kếch sù của ba vị vương gia, muốn cướp đó mà."
Khi nghe lời này, ba vị vương gia đều sợ đến mặt cắt không còn giọt máu, thật là có cảm giác "Thất phu vô tội, mang ngọc có tôi".
Dương Thu Trì không hiểu lịch sử nhiều, đặc biệt là tình huống quân đội của Trương Hiến Trung thời Minh mạt càng không quen, chỉ biết có một Trương Hiến Trung dấy binh giết người ở Tứ Xuyên rất nhiều, những kẻ khác đều không biết, nên hỏi Long Bỉnh: "Long tướng quân, phen này lĩnh binh Trương tặc quân đến đánh là Tôn Khả Vọng và Lý Định Quốc, hai người này thế nào?"
Long Bỉnh trầm giọng đáp: 'Tôn Khả Vọng, Lý Định Quốc theo Trương Hiến Trung chinh chiến nhiều năm, là tướng tâm phúc của Trương tặc, cùng Lưu Văn Tú, Ngải Năng Kỳ được Trương tặc thu làm nghĩa tử. Trương tặc xưng vương ở Vũ Xương xong, phân biệt sắc phong cho bốn người này làm tướng quân, xưng là 'Tứ tướng quân', Tôn Khả Vọng là Bình Đông Tướng Quân, Lý Định Quốc là An Tây Tướng Quân. Hai người này tác chiến dũng mãnh, Tôn Khả Vọng do phòng thủ ngoan cường nên có ngoại hiệu Nhất Đổ Tường, Lý Định Quốc không những kiêu dũng thiện chiến, lại rành binh pháp, văn võ song toàn, nên được tặng ngoại hiệu Tiểu Úy Trì. Hai người này là tướng đắc lực nhất của Trương tặc.
Dương Thu Trì gật đầu, thầm tính toán trong lòng, có câu võ công có cao mấy thì cũng sợ đao chặt cũi khi mình trần! Bất quản hai người chúng là nhất đổ tường hai nhị đổ tưởng, tiểu úy trì hay là đại trì úy, chỉ cần tạc đạn nổ, súng máy gầm, thì tất tần tật biến thành tường đổ hết.
Nhưng mà địch quân chỉ còn hơn ba bốn ngày đường nữa, còn bản thân hắn chỉ mới tạo ra tám nghìn viên đạn và trăm phát tạc đạn, cho dù như lần trước một phát đạn tiêu diệt một địch nhân, vậy chỉ giết chết 8 nghìn người. Một trăm tạc đạn giỏi lắm là giết hai nghìn người nữa, vậy giỏi lắm là diệt 1 vạn quân địch, còn bảy vạn nữa làm sao đây?
Tám nghìn người đối với 7 vạn người, con nít cũng biết kết quả thế nào. Huống chi 8 nghìn quân này là do hắn mới thành lập, huấn luyện chỉ mười mấy ngày, đại bộ phận là tuyển ra từ đám dân gầy yếu đói kém, nên ngoại trừ 1 nghìn đồng binh, cơ bản họ chẳng có lực chiến đấu bao nhiêu. Trong khi đó, Tôn Khả Vọng, Lý Định Quốc theo Trương Hiến Trung nam chinh bắc chiến, tám vạn quân dưới trướng đã cửu kinh sa trường, dùng rắn chống rắn e rằng bên hắn lành ít dữ nhiều.
Làm sao bây giờ?
Ba vị vương gia, tổng binh và Long Bỉnh đều biết muốn dùng tám nghìn người mà đánh thắng tám vạn địch quân thì chỉ có dựa vào Dương Thu Trì lần nữa đại triển thần uy. Do đó, khi thấy hắn trầm ngâm suy nghĩ, đều dõi mắt ngóng chờ, không ai dám lên tiếng.
DƯơng Thu Trì cúi đầu suy nghĩ một lúc, ngẩn lên thấy vẻ mặt họ như vậy, tủm tỉm cười: "Sách lược lui địch thì có, chỉ có điều ba vị vương gia, tổng binh đại nhân, Long tướng quân - lần tác chiến này phải do ta toàn quyền chỉ huy, đều phải nghe ta điều khiển an bài. Thế nào?"
Năm ngươi đưa mắt nhìn nhau, đều lần lượt gật đầu.
-------
Phía tây bắc Kiềm Dương có Nham Lũng sơn, là một tòa núi đá nham thạch, là đường phải đi qua khi tiến vào Kiềm Dương. Thế núi này tuy không cao, nhưng vô cùng nhỏ hẹp. Giữa hai núi có một con sông nhỏ, hình thành thế hai núi giáp sông, địa hình hiểm trở. Nước sông khá cạn, đặc biệt là mùa hè, nhưng khi mưa to thì nước lên rất nhanh.
Tôn Khả Vọng và Lý Định Quốc dừng ngựa ở cửa núi. Phen này, Trương Hiến Trung nhậm mệnh Tôn Khả Vong làm Tây chinh tổng binh, Lý Định Quốc làm phó tướng. Nhận được chỉ lệnh khẩn cấp của Trương Hiến Trung, hai người điều tập tinh nhuệ, gấp rút hành quân mấy ngày thì đến đây. Đến trước cửa núi này, thái dương đã xuống núi, ánh sáng vàng chói chiếu đầy trời không.
Tôn Khả Vọng ngẩn đầu nhìn trời chiều, nói với Lý Định Quốc: "Nhị đệ, qua Nham Lũng sơn này là Kiềm Dương rồi. Theo báo cáo thì phía tây Kiềm Dương là dãy đất bằng phẳng. Trời sắp tối rồi, chúng ta hãy nhanh vượt qua núi này, hạ trại bền lòng chảo cạnh sống phía bên kia, sáng ngày mai công thành."
Lý Định Quốc nhìn Nham Lũng sơn hiểm trở và dòng sông cạn, nhíu mày: "Đại ca, sơn cốc này địa thế hiểm yếu, đường núi nhỏ hẹp, rất khó qua nhanh, hiện giờ trời đã tối, nếu cường hành đi qua, một khi gặp phục binh, e rằng...."
Tôn Khả Vọng cười hăng hắc: "Nhị đệ quá lo rồi, sợ vũ khí quái thú gì đó rồi chứ gì? Theo ngu huynh thấy, đó chính là bọn bại quân chi tướng làm già nói khoác thế thôi, không cần phải lo."
"Đại ca nói lời này chưa phải, theo ngu đệ tra hỏi qua nhiều huynh đệ chiến bại lần trước trở về, đều nói vũ khí quái thú của địch quân thập phần khủng bố, phun ra tiểu thú có thể thương hại ngoài ba nghìn xích. Còn nữa, đạn khai hoa của địch quân có uy lực kinh người. Một quả nổ ra, người ở xung quanh 50 xích đều thây cốt vô tồn, có thể sát thương đến ngoài 1 trăm xích, quả là chưa từng nghe bao giờ. Nếu như một hai người nói thì cho rằng kinh khủng vọng ngôn, đằng này mấy chục người đều nói thế, như vậy là không thể không cảnh giác rồi."
"Hắc hắc hắc..." Tôn Khả Vọng cười khan mấy tiếng, "Ý tứ của nhị đệ là địch quân quá mạnh, chúng ta cần phải bảo mệnh quan trọng hơn, lui binh là trên hết?"
Lý Định Quốc trầm mặt: "Đại ca nói chơi rồi, ý tứ của ngu đệ chỉ là đề tỉnh đại ca, trận chiến này phụ vương nhìn rất trọng, mục đích có ba thứ, một là cướp hết tài bảo của ba phiên vương Minh triều này, hai là giết bạch y nữ sát đó, ba và trọng yếu nhất là yêu cầu hai chúng ta tham tra cho rõ vũ khí quái thú và đạn khai hoa đó hư thật thế nào. Nếu như đích xác có chuyện này, có thể cướp được hai bảo bối đó, Đại tây quân chúng ta có thể nói là chiến vô bất thắng rồi!"
"Lời phụ vương ta nhớ rõ, cái này không cần nhị đệ nhắc." Tôn Khả Vong nhạt giọng nói, quất roi ngựa về phía trước, "Ngu huynh không phải là người lỗ mãng, lần này xuất chinh đã tra hỏi kỹ về vũ khí yêu quái và khai hoa đạn gì đó, đã nghĩ ra đối sách ổn thõa. Quái thú vũ khí đó phóng ra tiểu thủ đều bay ngang, không cong vẹo vòng vo, cũng không chụp từ trên xuống. Còn khai hoa đạn đó sau khi nổ thì bung ra những đạn phiến nằm ngang, sát thương người chủ yếu là do thứ này. Do đó, ngồi nằm xuống tránh đi là biện pháp đơn giản hữu hiệu nhất. Trước khi đến đây, ta đã cho tướng sĩ diễn luyện nằm bò rồi, thế nào, nhị đệ không nghĩ ra phải không?"
Lý Định Quốc cũng cười: 'Đệ đương nhiên đã chuẩn bị rồi, ngoài ra còn có Phấn Ôn Xa (loại xe tránh tên đạn) cải tạo, đệ thấy trong quân của đại ca cũng có không ít, quả thật là ý tưởng lớn gặp nhau a! Ha ha ..."
Phấn Ôn xa là loại dụng cụ để yểm hộ quân tiến công áp sát tường thành trong các trận công thành chiến thời cổ đại (xem hình). Kỳ thật đó là một phòng nhỏ di động, có thể chống đỡ tên đá bắn ném từ trên xuống, phía dưới có bốn bánh xe. Trong chòi di động này có thể tránh được 10 người, đẩy tiến từ bên trong, khi gần đến thành trì thì dùng để đào địa đạo, phá tường thành của đối phương.
[IMG]file:///C:/Share%20Truy%E1%BB%87n%20Vip/Nap%20Thiep%20Ky%20I%20II/VIP%20-%20N%E1%BA%A1p%20Thi%E1%BA%BFp%20K%C3%BD%20I%20&%2 0II%20-%20M%E1%BB%99c%20D%E1%BA%ADt%20%28Full%29%20-%20Trang%2090%20-%20VIP%20V%C4%82N%20%C4%90%C3%80N_files/vipvandan.vn---105_xecongthanh718e25c7ed1cc29fd10060c1.jpg[/IMG] [IMG]file:///C:/Share%20Truy%E1%BB%87n%20Vip/Nap%20Thiep%20Ky%20I%20II/VIP%20-%20N%E1%BA%A1p%20Thi%E1%BA%BFp%20K%C3%BD%20I%20&%2 0II%20-%20M%E1%BB%99c%20D%E1%BA%ADt%20%28Full%29%20-%20Trang%2090%20-%20VIP%20V%C4%82N%20%C4%90%C3%80N_files/vipvandan.vn---610_ja29_p01.jpg[/IMG]
Tôn Khả Vọng và Lý Định Quốc lần này mang loại xe đó tới chính là đối địch với súng máy và tạc đạn tân trang của Dương Thu Trì. Hai người cho gia công thêm, bên ngoài phủ phiến sắt rất dày và nặng, cộng thêm vải có trát bùn dày, cực kỳ giống với vỏ xe tăng.
Tôn Khả Vọng vẫn cười nhạt y như cũ: "Nếu như đã chuẩn bị hết rồi, cần phải nhanh chóng thông qua vùng nguy hiểm này, tiến vào lòng chảo bằng phẳng, quyết chiến với địch! Chúng ta phải lấy thế lôi đình của thiên quân, trể để đạp bằng Kiềm Dương, đoạt hai bảo vật đó, chém nát bạch y nữ sát ra làm vạn đoạn!"
NẠP THIẾP KÝ II
Tác giả: Mộc Dật
Nguồn: Vip.vandan
Chương 136:
Vượt qua hẻm núi
Lý Định Quốc vội nói: "Đại ca, không thể mạo hiểm tiến vào! Theo ý kiến của ngu đệ thì chúng ta nên lùi mười dặm hạ trại, chờ ngày mai phái tiền phong đi hai bên núi trước, tra rõ không có mai phục rồi qua cũng không muộn!"
"Hắc hắc hắc, lùi 10 dặm hạ trại?" Tôn Khả Vọng cười lạnh mấy tiếng, "Nhị đệ gan nhỏ như vậy thật là uổng cho danh xưng Tiểu úy trì rồi!"
Hai người này đều là nghĩa tử của Trương Hiến Trung, là hai viên đại tướng Trương Hiến Trung dựa vào nhiều nhất. Chỉ có điều tính cách không hợp nhau. Tôn KHả Vọng sinh tính đa nhi, tật đồ hiền tài, đối với chuyện Trương Hiến Trung thưởng thức Lý Định Quốc vô cùng bất mãn, trong khí đó Lý Định Quốc tính cách lại quật cường, không phục ai. Do đó hai người thường xuyên kình chống. Chỉ có điều, Lý Định Quốc dù gì cũng lấy đại cuộc làm trong, chỉ cần không sai phạm nguyên tắc thì phần lớn đều chủ động nhân nhượng, cho nên biểu hiện của hai người mới hài hòa vô sự như vậy.
Trương Hiến Trung chỉ phái hai người lĩnh quân tám vạn đi chinh phạt Kiềm Dương có thể nói là dao mổ trâu đi cắt cổ gà, mục đích kỳ thật chẳng phải chỉ vì kim ngân tài bảo của ba vị vương gia, mà chủ yếu là binh sĩ trở về đều tuyên xưng địch quân có vũ khí quái vật uy lực cực lớn và khai hoa đạn loại mới, muốn đoạt được tiến hành nghiên cứu sử dụng.
Một mục đích khác đương nhiên là Liễu Nhược Băng. Mười năm trước, Liễu Nhược Băng trong vai trò bạch y nữ sát đã phóng cho Trương Hiến Trung một phi tiêu suýt chết, phải điều dưỡng mấy năm mới khôi phục, cho nên y hận Liễu Nhược Băng thấu xương. Khi nghe Bạch y nữ sát xuất hiện lại ở Kiềm Dương, Trương Hiến Trung mới biết ở Vũ Xương Trầm Lỗi không giết chết được nàng, đột nhiên tức giận, đem Trầm Lỗi báo cáo thắng lợi láo mắng cho một phen, ra lệnh cho Tôn Khả Vong và Lý Định Quốc phen này chinh chiến nhất định phải giết bạch y nữ sát đi.
Trương Hiến Trung đương nhiên biết hai người ở ngoài hợp bên trong ly, nhưng do hai người đều anh dũng thiện chiến, là hai viên đại tướng mà y ỷ trọng vào, cho nên Trương Hiến Trung không nguyện thấy hai người mâu thuẫn, nhất mực nghĩ biện pháp giảng hòa, tận khả năng tìm cơ hội cho hai người có dịp tiếp xúc với nhau. Trước đây y cũng đồng thời chỉ phái hai người mang binh xuất chinh, để hai người trong chiến đấu kết tình hữu nghị, không được kình chống nhau nữa. Lần này cũng vậy, y phái hai người họ đi là vì mục đích tăng sự hợp tác, và tăng khả năng cướp được bảo bối.
Lý Định Quốc được tôn xưng là nho tướng, lòng tinh tế vô cùng, sau khi hiểu được ý của Trương Hiến Trung, trước khi xuất binh sao không nghĩ biện pháp ứng đối vẹn toàn được? Cho nên y đi hỏi kỹ tình huống của hai loại vũ khí kia, cũng nghĩ ra biện pháp nằm bò ẩn tránh để né đạn. Ngoài ra, y đem những chiếc "xe" dùng để công thành trước kia làm vật che chắn đạn, số lượng tới mấy trăm, chính là muốn nhanh chóng tiếp cận vũ khí quái thú, dùng chiến thuật biển người chém giết tới cướp lấy.
Chỉ có điều, hai người chưa tiến đến được dưới Kiềm Dương huyện thành là đã vì chuyện ngay trong đêm đi qua luôn Nham Lũng sơn hạp cốc này mà va chạm lẫn nhau.
Tôn Khả Vọng nổi danh vì gan dạ đảm lược, nghe Lý Định Quốc nói thế, trong lòng phiền muộn, lạnh lùng nói: "Phen này xuất binh, phụ vương chỉ định ta làm tổng binh, đệ là bộ tướng, vậy do ta quyết định, có hậu quả gì do ta đảm trách!"
Lý Định Quốc lạnh lùng cười: "Nếu gặp phục binh bất lợi, làm mất uy danh của phụ vương, hỏng đại sự, e rằng đại ca lúc đó không thể gánh nổi đầu!" Tôn Khả Vọng rúng động trong lòng, ngẩng đầu nhìn sơn cốc nhỏ hẹp, trầm ngâm một chút, nói: "Được, nếu như nhị đệ lo hai bên núi có phục binh, vậy phái hai nhóm nhân mã treo lên núi hai bên đi trước tham tra, đại đội nhân mã của chúng ta tiến phát phía sau."
Hai bộ tướng lĩnh mệnh, mang binh đốt đuốc một mặt qua sống, một mặt lên núi, phận biệt tham tra hai bên sơn cốc.
Lý Định Quốc nói: "Đại ca, cách Kiềm Dương không còn xa nữa, chúng ta cần phân binh vu hồi bao vây thôi! Trước khi xuất phát, phụ vương đã dặn dò kỹ lưỡng hai chúng ta, lần này xuất binh khác trước đây, lấy tám vạn đại quân công đánh một huyện thành nhỏ, thắng lợi là không còn nghi ngờ, điều quan trọng là phải thực hiện ba mục tiêu. Thực hiện mục tiêu không được, dù có san bằng Kiềm Dương huyện, giết sạch thủ quân Minh triều cũng không thể coi là thắng lợi!"
Tôn Khả Vọng trầm giọng hỏi: "Theo ý kiến của đệ thì phải làm như thế nào?"
Lý Định Quốc đã nghĩ kỹ kế hoạch tác chiến, khẽ đáp: "Phân binh bốn đường, vu hồi bao bọc, hợp vây Kiềm Dương. Đệ đã điều tra qua, Kiềm Dương huyện ba mặt là núi, chính diện là vũng trũng bằng. Phía ba núi không có xây tường thành hay thành bảo, vu hồi đánh úp rất dễ. Do đó, chúng ta dùng chủ lực công chính diện, dụ cho chủ lực địch trung trung mặt này, sau đó đột nhiên từ hai cánh và phía sau phát động cường công, sau khi phá thành sẽ triển khai hỗn chiến, vũ khí quái thú và khai hoa đạn của địch không có cách gì sử dụng, như cá nằm trong rọ, tha hồ bị ta bắt không thể thoát thân. Chỉ có như thế mới dùng thương vong ít nhất đoạt thắng lợi, đồng thời thực hiện ba mục tiêu của phụ vương giao cho. Nếu không, địch quân bỏ chạy, giữ rừng núi mệnh mông này biết phương nào mà tìm."
Án chiếu theo thiết tưởng của Minh Thái tổ sau khi định quốc, mọi châu huyện trọng yếu đều án chiếu theo phương án kiến thiết định định sẵn mà làm, bao quát kiến trúc thành thị, đường lớn nhỏ, trong đó bao quát cả tường thành vâng vâng. Nếu như án chiếu theo quy hoạch, Kiềm Dương huyện ba mặt là núi, do đó phải lên núi mà tạo tường thành, hoặc phải tạo công sự phòng thành. Nhưng do Kiềm Dương huyện là huyện nhỏ xa xôi, lại không phải là trọng địa chiến lược gì, cả trăm năm nay chưa hề gặp chiến tranh gì lớn, do đó có thể xây thành tường bao quanh mặt trước đã hay lắm rồi. Núi cao xung quanh không có công sự xây dựng gì, nếu không thành tường dựa vào núi đó nhất định sẽ khiến cho đại quân tấn công của Trương Hiến Trung gặp không ít phiền phức.
Tông Khả Vọng lạnh lùng cười: "Hắc hắc, binh phân bốn đường? Biện pháp hay a! Biện pháp hay! Nhưng mà lần trước binh đánh Kiềm Dương tựa hồ cũng binh phân tứ lộ mà, đúng rồi, còn lợi dụng hắc ám trước khi trời sáng nữa! Kết quả thì sao? Hắc hắc, binh lực phân tán, bị người ta đánh cho tơi bời khói lửa, ngay đầu của chủ soái cũng bị cắt mất. Nhị đệ định lặp lại lần trước sao?"
Lý Định Quốc nhướn đôi mày rậm: "Ngu đệ cho rằng, lần trước phân binh vu hồi bao vậy, lợi dụng bóng tối trước khi trời sáng tấn công bốn mặt là hoàn toàn chính xác. Sự thật đã chứng minh là binh ta đã phá ba mặt mà vào thành. Sau đó binh bại không phải là nguyên cớ hợp vây, mà là vũ khí quái thú và đạn khai hoa của địch quân quá mạnh, lúc đó còn có bạch y nữ sát nữa. Các tướng sĩ lần đầu gặp phải vũ khí tập kích mãnh liệt như vậy, lại không biết cách ứng đối, dẫn tới bị địch làm loạn trận cước. Còn tướng soái trong cơn hoảng loạn không cắn răng cường công, lại khua chiêng thu binh, tiền hậu mâu thuẫn, dẫn tới binh sĩ cường công không biết làm thế nào hoảng loạn triệt thối. Rồi chủ tướng sau đó bị giết, quần long vô thủ, bấy giờ mới đại bại. Phen này quân ta đã có chuẩn bị, các tướng sĩ đều biết cách ứng đối thế nào, nhất định không lặp lại tình cảnh lần trước!"
Lý Định Quốc phân tích như vậy kỳ thật là nhìn rõ cục diện lúc bấy giờ. Đừng nói chi đạn súng máy lúc đó của Dương Thu Trì đã tiêu hao gần hết, cho dù có đủ dùng, chỉ cần quân đánh vào thành càng lúc càng đông, cuối cùng vẫn có thể đánh chiếm được huyện thành Kiềm Dương. Dù gì thì phản kháng của dân chúng không được huấn luyện chẳng có mấy tác dụng với hàng vạn địch quân tinh nhuệ, trong khi đó Dương Thu Trì chỉ bằng một cây súng máy, một mình không thể đoạt lại Kiềm Dương huyện thành. Trương tặc quân bại chính là bại ở loạn thế trận, bị súng máy của Dương Thu Trì đánh cho hồn phi phách tán, chẳng còn đấu chí gì, chỉ muốn chạy trốn. Khi nghe chiêng thu quân, toàn quân đại loạn, quân đánh vào thành chỉ muốn chạy ra, chưa tiến vào thành thì theo mệnh lệnh triệt thối. Hai bên cùng rút, chủ soái chiến tử... cuối cùng đại bại.
Tôn Khả Vọng nói: "Phân binh là đại kỵ của binh gia! Cô quân thâm nhập, chỉ huy không linh, một khi bị địch quân tập trung ưu thế binh lực kích phá từng cụm, e rằng không những không thắng mà còn bị bại! Do đó, phân binh là chuyện vạn bất đắc dĩ mới làm, không thể tùy tiện. Huống chi, vu hồi bao sao phí thời gian phí lực. Địch quân nếu muốn chạy, không chờ đệ bao vây đã có thể chạy trước rồi! Do đó, bao vây hay không chẳng phải là chuyện có thể diệt hết địch quân. Qua khỏi Nham Lũng sơn này, rồi phân binh trực tiếp bao vây thành trì chẳng phải là bớt sức bớt thời giờ, nhanh chóng lẹ làng hay sao? Nếu địch quân muốn chính diện quyết chiến thì càng tốt, vũ khí quái thú và khai hoa đạn của địch quân ta đã có kế sách ứng đối, sợ chúng gì chứ!"
Lý Định Quốc đáp: "Tuy nói là bớt thời giờ bớt lực, nhưng nếu như vậy thì địch quân sẽ biết thực lực của ta, không đạt được hiểu quả xuất kỳ bất ý nữa. Đệ đã tra hỏi kỹ tướng sĩ tham chiến lần trước, đoán uy lực của vũ khí quái thú này chỉ có hai: Một - có thể gây sát thương ngoài ba nghìn xích; Hai - địch quân tự cho là có vũ khí uy lực vô cùng này, nhất định sẽ thủ kín thành, hi vọng quân ta sẽ từ chính diện cường công đánh rát, có lợi cho vũ khí của chúng phát huy uy lực. Chúng ta chính diện cường công chẳng phải là trúng phải mong mỏi của chúng hay sao?"
"Thì đã làm sao? Ta không tin là Kiềm Dương huyện nho nhỏ này có thể ngăn được một kích lôi đình của tám vạn quân ta?" Y ngước đầu nhìn, thấy quân thăm dò ở hai bên núi đã đi rất xa, vẫn bình an vô sự, trong khi đó mặt trời đã xuống núi, màu vàng của trời không đã biến thành xanh thẵm, sao trên trời đã lấp ló. Y quay đầu lai bảo: "Lý Chánh Lý tướng quân đâu?"
Lý Chánh là một tham tướng dưới trướng Tôn Khả Vọng, đội khôi mặc giáp giục ngựa tới trước ôm quyền thưa: "Mạt tướng có mặt!"
"Lệnh cho ngươi mang 5000 nhân mã làm tiên phong, tức khắc xuất phát, nhanh chóng thông qua Nham Lũng sơn hạp cốc (hẻm núi), bố phòng ở Bình Bá (vùng đất hiện giờ là một huyện ở An Huy Trung Quốc), chờ đợi đại quân đến đó hạ trại."
"Tuân lệnh!" Lý Chánh mang quân tiên phong đốt đuốc theo sơn lộ tiến vào hạp cốc.
Thấy đại bộ phận quân của Lý Chánh đã tiến vào trong cốc, Tôn Khả Vọng vụt roi ngựa, chỉ thẳng: "Chúng tướng quân, theo ta xuất phát!"
"Đại ca!" Lý Định Quốc kêu lên, "Ngu đệ kiên trì sách lược vu hồi bao sao (vòng ra sau lưng vây chặn đánh), nếu như đại ca không sử dụng, ngu đệ chỉ đành tự chủ trương, soái bản bộ tự đi đánh!"
Tôn Khả Vọng trầm mặt: "Ngươi dám không nghe lệnh của ta?"
"Không hề, đại ca xin đừng quên, trước khi xuất chinh phụ vương có từng nói qua, nếu như huynh và đệ ý kiến bất nhất, đệ có thể tự tiện hành sự."
NẠP THIẾP KÝ II
Tác giả: Mộc Dật
Nguồn: Vip.vandan
Chương 137:
Núi đè
Trương Hiến Trung hiểu rõ vô cùng về bản lĩnh của hai vị nghĩa tử này, đặc biệt là Lý Định Quốc là người biết rõ binh pháp, có dũng có mưu. Do đó, ông ta cấp cho y một thực quyền có thể soái lĩnh binh sĩ dưới quyền mình theo ý tưởng của y mà hành sự. Tuy dụng ý là tốt, là hi vọng có thể phát huy tính năng động chủ quan của Lý Định Quốc, nhưng cấp cho phó tướng đặc quyền không nghe theo chỉ huy của chủ tướng là điều cực kỳ nguy hiẻm. Rất may lần này họ có 8 vạn đại quân xuất chinh, trong khi đó đối thủ không đủ một vạn người, cho dù phân binh cũng không đến nỗi quá nguy hiểm. Trương Hiến Trung vì đạt mục đích, đã để cho Lý Định Quốc căn cứ theo suy nghĩ của y mà quyết định chiến lược thật ra cũng có suy xét đến tình huống này.
Tôn Khả Vọng sắc mặt tái xám, cười hắc hắc lạnh lùng: "Vậy tốt thôi, nếu như là thế, người dẫn quân bản bộ đi vu hồi bao sao đi, ta dẫn quân ta chính diện cường công!" Nói xong giục ngựa đi trước tiến vào cốc.
Lý Định Quốc tính cách quật cường, nhận định chuẩn sự tình rồi quyết không buông bỏ, lớn tiếng nói: "Đại ca, huynh tấn công chính diện, đệ soái lĩnh bản bộ vu hồi, từ ba mặt đánh vào thành trị xong huynh hãy phát cường công, tránh bị địch sấn cơ hội!"
Tôn Khả Vọng ngầm cười lạnh, thầm nghĩ: ngươi vu hồi bao vây phí thời gian phí lực, lấy lời này chặn ta, không cho ta cường công trước, chờ ngươi đánh vào thành rồi mới cho ta động thủ hay sao? Ăn cơm nguội canh lạnh sao? Hắc hắc, muốn giàn công lao? Lòng của Tư Mã Chiêu ai ai cũng biết!
Được! Chúng ta hãy coi ai giành được công đầu trước! Y chẳng thèm quay đầu lại đáp lời nào.
Lý Chánh dẫn đội đi tiên phong đã dọc theo dịch đạo Nham Lũng sơn mà tiến. Vùng Tương Tây nhiều mưa, cộng thêm nhiều năm chiến loạn, dịch đạo nhiều năm chưa sửa sạng gì, cho nên lổ voi ổ gà dày đặc, rất khó tiến bước. Lúc này trời đã tối hẳn, nhưng mà vầng trăng trên trời cộng thêm nhiều sao sáng đã chiếu rọi ánh lên triền núi đen xì xì.
Lý Chánh giơ cao ngọn đuốc, quay đầu nhìn triền núi và rừng rậm đen sì sì ở đối diện, lại ngẩng đầu nhìn vách đá cheo leo, lòng nghĩ sơn cố này thái quá nhỏ hẹp, nếu như địch quân đặt mai phục ở trên, đích xác là dễ thủ khó công. Rất may là đội trinh sát đã vượt qua triền núi phía trước, không phát hiện tung tích địch, nên y hơi an tâm.
Nhìn triền núi lồi lõm chìa ra như ưng như gấu, thậm chí có chỗ như đàn bà chữa phình cái bụng bầu, y cảm thấy tất cả dường như đang giương ánh mắt lạnh lùng nhìn họ đi qua từ dưới chân.
Đi được nửa thời thần, sơn cố phía trước từ từ trở nên rộng rãi, đường càng lúc càng thoãi càng rộng, y từ từ yên tâm hơn.
Mượn ánh trăng, y quan sát lũng sông bằng phẳng xa xa ở bên dưới. Đột nhiên, "oành! oành! Oành!..." Phía sau truyền tới những tiếng nổ lớn như sấm gầm, chớp mắt, đất động núi rung!
Chiến mã dưới khố Lý Chánh kinh hãi hí dài, dựng người đứng dậy. Do không kịp đề phòng, Lý CHáng bị ngựa hất văng, té mạnh xuống sơn đạo, đầu khôi bay mất, khải giáp toàn thân trở nên vô cùng nặng nề.
"Oành oành oành!" Tiếng nổ cực lớn vang lên liên tục, toàn bộ vùng đất đá chấn động. Lý Chánh vội vã chuyển thân nhìn, - trời! Quả nhiên là núi sập đất nứt rồi hay sao?
Con đường nhỏ hẹp trong hạp cốc mà y vừa đi qua lúc nãy, những vách đá nhô ra như ưng như gấu, nhưng bụng bà bầu hiện giờ không còn thấy đâu nữa. Chúng đã biến thành đá vụng bay khắp bầu trời, giống như vô số con dơi từ cõi u minh trở về, bay loạn trời đêm tìm đường bổ nhào tới tận giữa con sông bên dưới.
Vô số binh sĩ, chiến mã trên dịch đạo đã bị vùi lấp dưới đá núi bị đổ sập. Tiếng nổ xen lẫn tiếng thét gào của binh sĩ vang vọng cả sơn cốc.
Trên đỉnh đầu y có tiếng u u, không biết là cái gì. Nhưng binh sĩ tiền phong ngữa đầu quan sát, thấy có vô số hắc ảnh đang bay ùa tới đầu họ như dơi, chờ khi họ phản ứng được, biết đó là đá vụn thì đã có rất nhiêu binh sĩ gào thảm tử thương trong trận mưa đá này.
"Phát sinh chuyện gì rồi?" Lý Chánh cảm thấy may mắn vì không bị đá rơi trúng. Y ôm đầu gian nan đứng dậy. Y không dám tin sơn cốc bình thản như vậy, không có mưa cũng không có gió, sao trên trời đang sáng bừng, trời đất đem đẽ vô cùng thế này sao núi đột nhiên nổ vỡ rồi đổ sụp chứ?
Chính lúc y kinh khủng vạn phần thì....
"Oành....!"
Tiếng nổ lần này rất trầm nhưng liên tục, từ chậm rồi nhanh dần, cuối cùng càng lúc càng dữ dội.
Mặt đất dưới chân bắt đầu rung lắc, trong tiếng ì ầm khủng khiếp, các binh sĩ trên dịch đạo không ngừng lắc lư đó căn bản không thể đứng vững, đua nhau té ngã. Một số chiến mã hí dài chạy loạn, giẫm đạp binh sĩ chạy loạn trên mặt đất, không ngừng rơi ra ngoài vách đá, rớt phịch xuống đám nham thạch bên dưới.
Lý Chánh đứng vững lại. Y dù sao cũng là tướng quân thân kinh bách chiến, nên mượn trọng lực của khải giáp trên người ổn định lực, bảo trì sự cân bằng dù đất dưới chân rung lắc dữ dội. Do đó, ý nhìn thấy hết, thấy phía trên sơn nham vừa sụp đổ kia, từng khối núi to mấy chục trượng đó do đất đá ở dưới đã mất hết, nên dưới tác dụng của trọng lực đã đổ ụp xuống theo!
Núi sụp!
Toàn bộ tòa núi phía trên dịch đạo đã đổ sụp xuống dưới, tạo ra vô số tiếng chấn động điếc tai.
Mấy nghìn tướng sĩ, chiến mã trên dịch đạo chớp mắt tiêu biến! Toàn bộ bị chôn vùi dưới triền núi đổ ụp này.
Bụi bốc mù trời, phủ trùm cả sơn cốc. Ngay ánh trăng sao mông lung trên trời cũng bị che mất sau lớp bụi.
Không nghe thấy tiếng kêu thảm nào, bỡi vì binh sĩ gào thảm đó đều bị chôn sống dưới lớp nham thạch. Còn quân tiên phong của Lý Chánh dù bị thương cũng không kêu la, bỡi vì tất cả bọn họ đều cả kinh ngơ ngẩn. Trong chớp mắt, chỉ trong chớp mắt, mấy nghìn tướng sĩ còn mạnh mẽ cầm đuốc tiến tới vừa rồi đã tiêu biến sạch, tiêu biến dưới lớp đất đá do núi lở!
Hơn nửa ngọn núi đổ sụp đã điền đầy sơn cốc nhỏ hẹp.
Lý Chánh không biết bản thân nên cười hạnh phúc vì may mắn thoát chết hay không, hay là khóc rống lên vì thảm kịch không biết vì sao mà phát sinh này.
Chính vào lúc y không định ra được chủ ý, thì trên sườn núi đột nhiên vang lên tiếng hò hét, lóe lên vô số ngọn đuốc còn nhiều hơn sao trên trời. Tiếp theo đó, số đuốc này như có cánh, từ đỉnh đồi bay xuống, rơi cạnh thân họ, bốn phía lập tức sáng bừng.
Y thầm kêu không xong. Đây là thủ pháp thường thấy nhất trong mai phục ban đêm: đem đuốc ném từ trên đỉnh núi xuống, chiếu sáng địch nhân, còn bản thân quân mai phục thì ẩn tàng trong hắc ám, dễ dàng tiến công.
Không chờ y sắp xếp phòng ngự thì "vưu sưu vưu sưu....!"
Bên tai y vang lên tiếng mũi tên xé gió.
"A...!" Hiện giờ thì đã nghe được tiếng gào rú rồi, nhưng lần này là ở bên cạnh y. Tướng sĩ trên dịch đạo đã kinh hãi ngẩn người chưa hoàn hồn lại được, nên không kịp đề phòng, bị trận mưa tên tẩy rửa, vô số binh sĩ tinh anh đã ngã xuống trong trận mưa tên này.
Lý Chánh cũng trúng mấy tên. Y còn chưa kịp rút trường kiếm ở eo, hô máy tiếng: "Huynh đệ, trên núi có địch quân, xông lên! Xông...."
"Hưu....!" Một mũi điêu linh tiển phá không bay đến, trúng ngay trán của y.
Lý Chánh trừng mắt cực to, ngã ngữa ra dịch đạo, tới chết mà y còn chưa hiểu vì sao trong đêm vắng yên lành ở hà cốc tại Nham Lũng Sơn này lại đột nhiên phát sinh vụ núi sập, và địch quân từ ở đâu mà chui ra.
Quân tiên phong vượt qua vụ núi sập này chỉ được khoảng hai nghìn người, trong khi đó toàn bộ dịch đạo đã bị núi sập lấp hết, đường bị tắc rồi. Sau trận mưa tên bay ra từ hắc ám, phần lớn hai nghìn tướng sĩ này đã trở thành bia sống, chớp mắt đã tử thương quá nửa.
Tiếp ngay sau đó, sườn đồi lại vang lên hiệu giác xung phong. Mấy nghìn quân từ triền đồi ùa xuống như mãnh hổ. Quân tiên phong tàn dư tuy đã cửu kinh sa trường, nhưng sau khi bị núi sập mất hết hồn vía, dù nhanh chóng thanh tỉnh lại tiến hành đề kháng ngoan cường, nhưng ít không thể địch nhiều, chẳng mấy chốc bị diệt sạch.
Dương Thu Trì và Liễu Nhược Băng, A Hạnh Ny cùng mọi người đứng trên đỉnh đồi, nhìn quân chủ lực của địch ở xa xa hoảng loạn phóng hỏa súng và tên, đều nhìn nhau cười.
Khi Dương Thu Trì đến Kiềm Dương nhậm chức, đã từng đi qua con đường này, biết là dịch đạo trong cốc dài hơn hai chục km, địa thế vô cùng hiểm yếu, đặc biệt là ở gần cửa ra có vô số sơn nham trăm mét, thuộc về loại đá xanh rất dễ vỡ sụp. Chỉ cần cho những nham thể bên dưới này nổ rụng hết, thì toàn bộ triền núi sẽ ụp xuống, hình thành vụ lở núi cực lớn.
Và thế là hắn lập tức phái thạch tượng bắt đầu làm bộc phá, đục mấy chục lổ lớn, sau đó an bài bộc phá theo dọc vách đá này, rồi hắn tự thân nối dây dẫn hỏa kéo đi.
Tuy những người qua lại thấy có thạch tượng đục lổ trên vách đá, nhưng không ai biết họ đang chuẩn bị cho nổ phá núi, vì thời đại này không ai biết đến loại thuốc nổ mới có thể phá vách đá trong khi thuốc nổ đen thì không.
Sau khi sắp xếp xong, Dương Thu Trì cho chủ lực mai phục ở trên đồi gần cửa ra, chọn những binh sĩ lạnh lùng bình tĩnh hóa trang thành tiều phu mai phục ở giữa núi. Sau khi địch quân tiến vào gần hết, lập tức điểm hỏa rồi trèo ra sau núi rút đi.
Hắn cố ý để cho hơn hai nghìn quân tiên phong của Trương Hiến Trung qua khỏi khu nổ, tập trung ưu thế binh lực đánh trận tiêu diệt. Lợi dụng địa hình và ưu thế nhân số, hắn đã diệt hai nghìn quân tiên phong. Nhưng do tân quân lần đầu tác chiến, không có kinh nghiệm, nên vẫn trả giá bằng thương vong mấy trăm người.
Số quân do thám chỉ có mấy trăm, lại cứ men theo triền núi khó khăn tiến bước, nên chưa đụng được quân Đại Minh thì núi đã sập rồi. Quân Dương Thu Trì kéo đi hết, tổng cộng khoảng 8 nghìn người, trong đó một bộ phận dùng để đối phó với địch ở triền núi, nhưng không truy kích. Hơn nữa quân số của địch trên đó quá ít, tự động hoảng loạn rút ngay.
Chủ lực của địch bị mấy trăm mét núi đổ xuống ngăn chặn, tất cả đều kinh hãi sững sờ vì tiếng động kinh hồn. Chờ Tôn Khả Vọng mãi lâu sau mới trấn tĩnh lại, xác định triền núi không thể đổ nữa, mới vượt quá đó đuổi theo, lúc ấy thì đại quân của Dương Thu Trì không còn thấy đâu nữa.
Trận chiến này Tôn Khả Vọng mất sạch hai nghìn quân tiên phong, ba nghìn quân bị chôn sống vì núi sập, tổng cộng tổn thất năm nghìn người.
NẠP THIẾP KÝ II
Tác giả: Mộc Dật
Nguồn: Vip.vandan
Chương 138:
Liệt hoả đồ thành
Do một lượng lớn đất đá trên núi sạt lở dẫn tới bít đường, mấy trăm chiếc xe tăng thổ tả Phấn Ôn xa cùng một lượng lương thảo và quân nhu lớn theo quân không thể nào cho vượt qua sơn thế mấy trăm mét như vậy được, đều bị chèn cứng phía sau. Do chỉ có một dịch đạo này tới Kiềm Dương, những con đường khác đều nhỏ hẹp, xe bánh lớn và lượng lương thực lớn không thể thông qua, cần phải đả thông dịch đạo này mới được. Tôn Khả Vọng thấy sơn cốc hiểm trợ, sợ lại có mai phục nữa, nên hạ lệnh lui binh, rời khỏi sơn cốc xong lui thêm mười dặm nữa mới hạ trại. Chờ trời sáng xong, y cho chiếm lĩnh hai bên sườn núi, sau đó cho khai dọn dịch đạo.
Muốn khai mở lại dịch đạo bị sụp đổ mấy trăm mét này với nham thạch toàn lớn, phải phá ra rồi mới lăn đi, trong tình hình không có thuốc nổ và xe cơ giới loại lớn, hơn nữa sơn cốc nhỏ hẹp không thể thi công nhiều người, nên tốc độ khai phá nhanh nhất cũng phải gần cả tháng.
Dương Thu Trì cần nhất chính là thời gian, cho nên đó là nguyên nhân chủ yếu hắn phá núi.
Giữa đêm, đại quân của Tôn Khả Vọng mệt mỏi kinh hồn suốt cả ngày và nửa đêm, sau khi bố trí các trạm gác xong, cuối cùng y có thể tiến nhập vào giấc ngủ vùi.
Đột nhiên, những tiếng "oành ... oành!" cực lớn lại nổ giữa không trung, tiếng gào thảm trong quân doanh vang lên không ngớt.
Những tiếng nổ đó không mấy gấp rút, một lúc mới nổ một tiếng, mà mỗi khi nổ thì trong quân doanh đều gào thảm hàng loạt, vô số binh sĩ đầu phá huyết lưu, nằm gục xuống đất chết tốt.
"Địch quâ bắn pháo rồi! Mau nằm phục xuống!" Quân doanh chỗ nào cũng vang lên tiến hò hét. Binh sĩ án chiếu theo diễn luyện trước khi xuất chinh mà nằm phục xuống. Nhưng mà, điều này không những chẳng hữu dụng, ngược lại còn bị chết nhiều người hơn sau những tiếng nổ.
Cuối cùng cũng có người phát hiện là những vụ nổ phát sinh từ trên không! Tạc đạn nổ giữa không trung, bốn phía đều là mảnh kim loại nhỏ bay chụp xuống như mưa, cho nên nếu nằm mọp xuống như vậy càng làm tăng thêm diện tích cơ thể lộ ra, đương nhiên thương vong nhiều hơn nữa.
Quân đội của Trương Hiến Trung được huấn luyện rất bài bản, nếu như địch quân cướp doanh trại, căn bản binh sĩ không kinh hoàng thất thố, mà nhanh chóng tổ chức phản kích. Chỉ có điều loại tạc đạn nổ giữa không trung này là lần đầu tiên họ gặp phải, cho nên đại quân rất loạn. Nhưng dù sao thì họ cũng đã thân kinh bách chiến, sau khi hoảng loạn lúc sơ kỳ, lập tức phát hiện pháo hỏa chỉ xuất phát từ một tòa núi nhỏ, nên lập tức xuất kích.
Khi địch quân xung phong kéo tới cách ngọn đồi đó mấy trăm mét, thì tiếng "tạch tạch tạch..." của súng máy lại vang lên.
Quân xông phía trước chết như ngã rạ, những binh sĩ đã từng tham gia trận đánh Kiềm Dương trước kia quá quen với âm thanh này, kinh khủng hét: 'Quái thú vũ khí! Mau nằm xuống!"
Quân phía sau vội nằm bẹp, hoặc tìm đá, gỗ yểm hộ. Do chưa tiến vào tầm bắn của hỏa súng và cung tên, không cách gì tổ chức phản kích, chúng chỉ còn biết hô lên với đám phía sau: "Giáp luân xa! Mau! Mau đem giáp luân xa đẩy ra đay!"
Những chiếc xe bọc thép có bánh đó được đẩy tới thì tiếng pháo và súng trên đồi đã dừng lại. Chờ mấy chục chiếc Giáp luân xa từ từ tiếp cận ngọn đồi, binh sĩ mang thuẫn bài sắt nặng xông lên thì quân đánh lén đã tiêu biến trong trời đêm.
Đây đương nhiên là bọn Dương Thu Trì làm. Hỏa pháo dùng để phát sạ là Phất Lãng Cơ. Phất Lãng Cơ làm bằng đồng, thân pháo hơi ngắn, hơn nữa nòng súng họat động xong có thể tháo ra, phân thành hai nên chỉ cần mấy người là có thể vác đi, khá cơ động linh hoạt.
Lần này đạn đá sử dụng đã được Dương Thu Trì lần nữa cải tiến. Hắn rút ngắn dây dẫn, khi đạn pháo của rơi xuống đất đã nổ. Và đạn thế chế ra được khắc rảnh giống như lựu đan, sau khi nổ sẽ biến thành những mảnh nhỏ. Hơn nữa khi nhồi thuốc nổ, hắn đã bỏ thêm vào đó những mảnh sắt vụn, một khi bị nổ ở trên không, hàng trăm mảnh thép bay tứ tung, có thể sát thương rất nhiều địch.
Lần tập kích này chỉ bắn mười mấy viên đạn pháo, nhưng do sử dụng đạn cải tiến, quân địch tập trung đông đúc, nên thương vong đến gần nghìn tên.
Quân đội của Lý Định Quốc cũng gặp phải những vụ đánh lén thế này.
Sau khi đại quân của Tôn Khả Vọng tiến vào sơn cốc một thời thần (khoảng 2 giờ) thì mới gặp vụ nổ sụp núi. Lúc này quân của Lý Định Quốc đi đường vòng bao vây đã cách đó xa rồi, tuy có nghe tiếng ùng ùng văng vẳng, nhưng không biết đó là tiếng nổ, chỉ cho rằng là mé trời đó đổ mưa, sấm nổ ì ầm thế thôi, nên họ tiếp tục tiến lên, đến canh ba thì hạ trại ở một chỗ bằng phẳng.
Ngủ đến nửa đêm, trên không của quân doanh có vô số tiếng nổ, binh sĩ tử thương rất nhiều, nhưng khi xuất kích tới địa điểm pháo bắng thì địch nhân đã không còn tung ảnh, kiểm lại thiệt hại mấy trăm quân.
Loại đánh lén này thương vong tuy hơi nhỏ, nhưng có tác dụng lớn khi đánh vào sĩ khí đối phương, khiến địch quân suốt đêm không dám ngủ yên.
Sau đó, Tôn Khả Vọng và Lý Định Quốc đều nghiên cứu chiến pháp đánh lén của địch quân, khi an doanh hạ trại đều bố trí nhiều trạm gác ở những chỗ có thể bố trí hỏa pháo.
Nhưng mà, chuyện này vẫn gặp phải vấn đề, khi trạm canh ít thì bị địch quân ngầm đánh lén diệt hết, còn trạm canh nhiều người thì bản thân nó trở thành mục tiêu bắn pháo của địch từ xa. Điều chủ yếu chính là loại tập kích này đêm nào cũng có, tiếng nổ to vang lên khiến binh sĩ kinh khủng vô cùng, căn bản không cách gì nghỉ ngơi. Nhờ đó, chuyện vu hồi tập kích vốn chỉ cần dùng 5 ngày là hoàn thành, thế mà Lý Định Quốc phải mất mười mấy ngày mới hình thành thế hợp vây Kiềm Dương huyện.
Trong vòng mười mấy ngày này, quân của Tôn Khả Vọng và Lý Định Quốc bị Dương Thu Trì phái những tiểu đội quen thuộc địa hình mang Phất lãng cơ hỏa pháo đi tập kích đêm chết tổng cộng hết ba bốn nghìn người. Cộng thêm trận chiến ở Nham Lũng sơn mất gần bảy nghìn người, tổng cộng Trương tặc binh mất một vạn người, ngoài ra còn khoảng 1 vạn người bị thương ở nhiều mức độ khác nhau.
Còn chưa chính thức khai chiến mà đã mất đi hơn một phần mười quân đội, khiến cho lòng tự tin của Tôn Khả Vọng và Lý Định Quốc bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
Tôn Khả Vong thấy không có khả năng trong vòng thời gian ngắn đả thông dịch đạo, bèn quyết định tháo các giáp luân xa ra cho quân sĩ như đám kiến mang qua chỗ tắt đường sau đó ráp lại. Còn lương thảo cũng vậy, cho lừa ngựa theo đường nhỏ vượt qua.
Sau một phen cực khổ như vậy, Tôn Khả Vong cuối cùng cũng đem vài vạn đại quân đến Kiềm Dương huyện sau mười mấy ngày.
Trống trận đổ dài, tiếng quát giết vang trời, được mấy trăm chiếc Giáp luân xa yểm hộ, binh sĩ áp sát thành tường, nhưng không thấy có địch quân nào đề kháng, cho đến khi chúng bắt thang dây, đánh vào trong thành cũng vậy.
Ba mặt khác, đại quân của Lý định Quốc cũng ùa vào, và thuận lợi phi thường, chẳng gặp phải sự đề kháng gì, chẳng khác nào như một trận diễn tập quân sự, bốn phía cùng phá thành tiến vào một lượt.
Trên thành lâu là đại kỳ của Minh quân đóng gió bay phần phật, không thấy một binh một tốt nào.
Bốn mặt thành mở ra, mấy vạn địch quân kéo vào nội thành, phát hiện Kiềm Dương huyện thành đã trở thành một tòa thành trống!
Không những chúng không thấy được một lão bá tánh, ngay gà vịt chó mèo cũng không. Không có vật đáng tiền gì, đừng nói chi là chút lương thực.
Tôn Khả Vọng và Lý Định Quốc nhìn nhau, không biết địch đi về phương nào, không có ai để hỏi, đều không biết ưng đối ra sao. Nghiên cứu cả nửa ngày, hai người quyết định cho đại quân vào thành trước, rồi phái người tìm tung tích địch quyết chiến sau.
Trong thành có một binh doanh, xem ra là quân Đại Minh rút đi đã bỏ lại, phòng ốc dụng cụ đầy đủ, còn có kho lương, chỉ là không có chút lương thực nào. Tôn Khả Vọng cho mang lương thảo của đại quân vào chứa trong này.
Sau nhiều ngày mệt mỏi, cuối cùng họ đã tiến vào thành an toàn, đóng kín cửa lại.
Sau khi bố phòng trên thành lâu xong, đại quân cuối cùng có thể ngủ an ổn rồi.
Chỉ có điều, Dương Thu Trì không để chúng ngủ yên, vì đây chính là chiến trường mà bọn hắn chọn.
Canh tư, vào lúc người ta mệt mỏi nhất, hai bóng đen từ một căn phòng cũ nát xuất hiện ra, chính là vợ chồng Dương Thu Trì - Liễu Nhược Băng.
Thì ra, hai người ẩn trong thành, do có vũ công cao cường, tránh được địch quân trùy tìm. Sau khi họ lộ diện, đã nhanh thoăn thoắt đến một chỗ ẩn mật ngoài binh doanh, đốt cháy mấy chục dây dẫn lửa, sau đó lui nhanh.
Những dây dẫn lửa này nối liền với những ống trúc ống đồng chôn dưới đất, cháy dần vào binh doanh. Trong khi đó, hàng loạt binh sĩ ngủ vùi trong giấc mộng, ngay trên bãi địa lôi!
"Oành oành oành...!"
Tiếng nổ vang trời, kèm theo đó là máu thịt bầy nhầy của vô số binh sĩ bị xé nát thây trong giấc mộng.
Đợt nổ này ngoại binh doanh ra, địa điểm tập trung chủ yếu là kho lương. Kho lương sau khi nổ, lượng thảo tồn trữ ở đó nhanh chóng bắt cháy ùng ùng. Thì ra Dương Thu Trì chộn địa lôi dưới kho lương kỳ thật là loại đạn cháy, không những bỏ đầy thuốc nổ, còn cho nhiều lưu huỳnh, trong khi đó lương thảo là vật dễ cháy!
Binh sĩ vừa định cứu hỏa, thì nhà dân chung quanh cũng nhanh chóng bén lửa. Toàn bộ cổng thành và những phòng ốc gần đó đều chạy phừng phừng, thế lửa nhanh chóng dâng cao, toàn bộ Kiềm Dương huyện thành chẳng mấy chốc chìm trong biển lửa.
Đây dĩ nhiên là kiệt tác của Dương Thu Trì và Liễu Nhược Băng. Họ mượn trời đêm và võ công cao siêu, chạy khắp nơi phóng hỏa. Nhà dân trong thành thực chất đã bị cho thêm lưu hoàng và những vật dễ cháy ở chỗ kín đáo rồi.
Thế lửa xung quanh binh doanh lớn nhất. Lần này xuất chinh, địch quân chỉ mang theo ít thủy long đội, căn bản không ứng phó được thế lửa như vậy.
Khi tiến thành địch quân có 7 vạn, binh doanh khá nhỏ nên không chứa hết, chúng đã phân tán ở vào nhà dân. Trong thành nổi lửa khắp nơi, binh sĩ khắp thành bị chìm trong biển lửa, nhiều tên bị thiêu sống.
Tôn Khả Vọng và Lý Định Quốc kinh khủng vạn phần, ra lệnh triệt li. Nhưng binh sĩ phân tán khắp nơi, mệnh lệnh không cách gì truyền đạt kịp thời, 4 cửa thành đã bị lửa vây phủ nên Tôn Khả Vọng và Lý Định Quốc chỉ đành đốc thúc binh sĩ liều mạng chữa lửa, mở ra thông đạo đem một phần quân đội lui ra phía tây thành.
Binh sĩ tập trung trên vùng bằng phẳng ngoài thành, nhìn huyện thành chìm trong lửa mà sợ đến tái xám mặt mày. Lý Định Quốc còn có thể coi là bình tĩnh, sợ địch quân mượn cơ hội này đánh lén, lập tức tổ chức chiếm lĩnh cao điểm xung quanh, đốt lửa cảnh giới, nhưng Minh quân không đến đánh.
Trận lửa lớn này cháy đến trời sáng, sau khi kiểm tra lại, phát hiện có hơn ba vạn binh sĩ và hơn nghìn con chiến mã táng thân trong biển lửa, toàn bộ lương thảo bị thiêu rụi, mấy trăm chiếc Giáp luân xa, mấy chục hỏa pháo và toàn bộ đạn dược đều tiêu tan trong trận hỏa công này!
NẠP THIẾP KÝ II
Tác giả: Mộc Dật
Nguồn: Vip.vandan
Chương 139:
Công chiếm Bảo Khánh
Trương tặc quân hiện giờ không còn vũ khí nặng, không có lương thảo, tướng sĩ tử vong hơn phân nửa, đại bộ phận binh sĩ đều bị phỏng với trình độ khác nhau, sĩ khí xuống thấp vô cùng.
Không có lương thảo, coi như không có biện pháp đánh nhau. Hơn nữa, ngay địch ở chỗ nào chúng còn chưa biết thì làm sao mà đánh.
Tôn Khả Vọng và Lý Định Quốc giản đơn thương lượng xong, và lần nay hiếm lắm mới có dịp hai người nhanh chóng thống nhất ý kiến như vậy: lập tức triệt quân.
Bốn vạn tàn binh bại tướng vượt qua triền núi sụp đổ ở Nham Lũng sơn, lui về phía Bảo Khánh. Sau khi gấp hành quân hai đêm, dọc đường chúng không gặp địch, tướng sĩ đều mệt mỏi nhưng không dám ngừng nghỉ. Đến ngày thứ ba, khi chúng không còn chịu nổi nữa, chuẩn bị an doanh hạ trại, thì đối đầu ngay với ba vạn quân dĩ dật đãi lao của Dương Thu Trì!
Thì ra, sau khi Dương Thu Trì thu được quân tình, biết địch nhiều ta ít, không thể liều chống, nên phân phát lương thực tổ chức cho bá tánh toàn thành trốn vào trong Tuyết Phong sơn gần đó. Còn ba vị vương gia và quan viên trọng yếu của nha môn thì trốn toàn bộ vào sơn trại của nhị đại vương Vũ Kỳ khi xưa. Tám nghìn quân đội và thiết bị chế tạo đạn dược, nguyên liệu cũng điều tiến vào núi.
CÙng lúc đó, thám mã thông thạo đường lối được phái đi đã dùng bồ câu đưa thư thông báo tin tức địch quân. Ứng theo đó, mỗi đêm đều có một tiểu phân đội Phất Lãng Cơ xuất phát, tiến hành quấy nhiễu trọng điểm đối với quân của Lý Định Quốc.
Dương Thu Trì cũng không chịu nhàn. Ngoại trừ tổ chức trận chiến Nham Lũng sơn, thời gian còn lại hắn đều nghiên cứu làm sao đẩy nhanh tốc độ chế tạo đạn dược.
Và ông trời không phụ người có công, hắn dựa trên cơ sở của Vô Trần đạo trưởng, cuối cùng cải tiến thiết kế ra thiết bị có thể sản sinh một lượng lớn thuốc nổ đắng, giảm thiểu phần lớn các bước chế tạo, chuyển sang cho thiết bị cơ giới làm. Đương nhiên, những bộ phận kỹ thuật trọng yếu trong việc làm thuốc nổ và đạn được hắn tự tay độc lập hoàn thành. Công tác bảo mật này là cần thiết, vì mất nó, coi như hắn chẳng là gì cả trong thế giới này.
Do thiết bị kỹ thuật có đột phá trọng đại, thuốc nổ đắng và thuốc súng không khói, kíp nổ có sản lượng gia tăng gấp năm lần, khiến cho lượng đạn trung bình sản xuất ra từ 500 phát lên 2500 phát, tạc đạn bằng đá từ 10 quả tăng lên 50 quả 1 ngày.
Suốt hai chục ngày chế tạo cộng thêm lượng đạn dược chế ra hơn mười ngày trước, hắn đã tích lũy đạn dược kha khá. Trong đó thuốc nổ phần lớn đã dùng cho các cuộc tập kích, vụ nổ ở Kiềm Dương huyện thành. Đạn được sử dụng rất ít, nên trong hơn 1 tháng này, hắn đã chế tạo gần sáu bảy vạn phát tử đạn. Đủ trang bị cho 3 chiếc súng máy của Dương Thu Trì.
Ngoài ra, hơn một nghìn cây súng lão sáo đồng đã được chế tạo, trang bị hết cho hơn nghìn kỵ binh tinh nhuệ.
Trong thời gian này, ba vị vương gia cũng phái người phân biệt đến Tĩnh châu và Quý châu mượn binh. Quý châu gần Bình Khê vệ, Đồng Lăng ở Tương tây, có một lượng lớn Minh quân trú đóng. Quân đội này còn chưa dùng qua.
A Hạnh Ny cũng đến Quý châu mượn binh của các miêu trại, thổ gia và thổ ti.
Mặt mũi của ba vị vương gia quả là lớn, cộng thêm tài lực hùng hậu làm hậu thuẫn, họ đã mượn được hơn hai vạn binh. Dương Thu Trì đem số quân này mai phục ở chỗ từ Kiềm Dương về Bảo Khánh tất phải đi qua.
Trong trọng lửa lớn ở Kiềm Dương, địch quân bị thiêu chết mấy vạn, lương thảo cháy sạch, địch quân bất đắc dĩ phải lui binh, chạy suốt ba ngày đêm thì gặp ba vạn quân của Dương Thu Trì.
Đây là vùng đất trống trải, địch quân mệt mỏi không có lòng luyến chiến, đặc biệt là khi thấy binh lực đối phương tương đương, nên chỉ muốn đào tẩu. Nhưng đại quân Dương Thu Trì đã vào thế bạch hạc giang cánh, chính diện có súng máy của Dương Thu Trì, hai cánh đều phối 500 cây lão sáo đồng, căn bản không cho địch quân đào tẩu.
Dương Thu Trì trước hết cho dùng hồng di đại pháo bắn đạn nổ trên không tiến hành oanh kích, địch quân tử thương vô số. Mấy chiếc thiết luân xa chuyên dùng để đối phó vũ khí quái thú đã hư cháy hết ở Kiềm Dương huyện thành, cho nên hiện giờ chỉ biết ráng cố sức xung phong.
Nhưng súng máy maxim không cho phép thực hiện điều đó. Địch quân ngã như rạ, trong chiến đấu có không ít tên học cách lăn lê bò lếch tránh đạn, nhưng lại bị tạc đạn đá nổ ở trên không biến thành bia sống.
Thấy không thể xung phá, địch quân chuẩn bị đột vây từ hai cánh, nhưng đón tiếp chúng là binh sĩ dùng lão sáo đồng có tầm bắn 2000 mét, hữu hiệu 600 mét, xa vượt qua cung tên hay điểu thương, tuy là bắn từng phát nhưng tới 500 quân bắn một lúc, hơn nữa lại có 5 phát đạn, nên nhanh chóng biến địch quân thành những xác chết không hồn.
Thấy địch quân đã loạn, Dương Thu Trì không muốn hao phí đạn dược cực khổ chế ra vào chiến trường này, vung roi ngựa hạ lệnh bộ binh xung phong.
Xông lên trước lạ hỏa súng binh, khi tới xạ trình thì bắn, địch quân ngã rạp, tiếp đó hai vạn tinh binh mượn từ Tỉnh châu và Quý châu làm công việc còn lại.
Hơn nghìn kỵ binh mang súng của hắn đối phó với bộ binh như chỗ không người, bộ binh tiếp theo sau đánh quả nhiên là khiến binh bại như núi đổ, bốn vạn địch quân chớp mắt tan tành. Ba ngay hai đêm hành quân liên tục đã khiến địch mệt mỏi rã rời, không còn lực để chạy nữa. Cho nên, ngoại trừ thân binh và hộ vệ của Lý Định Quốc, Tôn Khả Vọng mở đường máu từ bên cánh chạy thoát vòng vây, hai vạn quân còn lại đều quỳ xuống đầu hàng toàn bộ.
Trận này diệt hơn 1 vạn quân, giành toàn thắng.
Dương Thu Trì nhận được quân tình là 8 vạn địch quân rời khỏi Bảo Khánh phủ xong, thủ quân trong thành chỉ còn vài nghìn, nên lập tức quyết định thừa thắng truy kích, binh phát Bảo Khánh phủ. Mấy ngày sau, binh đến dưới thành.
Lúc này đại quân của Dương Thu Trì nhờ có hai vạn địch quân đầu hàng thu nhận vào, số lượng đã đạt đến 5 vạn.
Thủ quân của Bảo Khánh phủ ngoan cường đề kháng, quyết không đầu hàng. Dương Thu Trì quyết định phát động cường công, dùng hỏa pháo oanh kích tường thành.
Tường thành thời cổ đại đối phó với binh khí lạnh hay thật tâm pháo đạn còn được, chứ trước mặt pháo đạn bằng thuốc nổ đắng của Dương Thu Trì, nó yếu ớt như là đất bùn vậy, chẳng mấy chốc đã bị bắn vỡ ra mấy cái lổ hổng lớn.
Do Dương Thu Trì thực hiện chính sách ưu đãi tù binh, hai vạn quân Trương Hiến Trung đầu hàng cảm kích trong lòng, lại có lòng kính sợ đối với vũ khí quái vật của hắn, nhận thấy theo hắn mới có tiền đồ, nên thật tâm đầu hàng và quyết tâm lập công trong trận này. Chúng xông lên trước, tiến vào thành trước, diệt phần lớn thủ quân trong thành.
Trước chuyện này, Dương Thu Trì đã tuyên bố chính sách sau khi phá thành, nghiêm chỉnh chấp hành ba đại kỷ luật tám hạng chú ý, nên sau khi tiến vào trong, không những không quấy nhiễu dân chúng, còn lập tức mở kho phát lương, chẩn tế bá tánh cùng khổ, được dân chúng toàn thành Bảo Khánh ủng hộ và hoan nghênh.
Ba vị vương gia hôm sau cũng di chuyển đến Bảo Khánh, đối với Dương Thu Trì càng bội phục sát đất, đặc biệt là Quế vương vô cùng vui mừng vì bước đi chính xác trước đây của mình.
Thời gian đã trải qua một tháng kể từ khi ba vị vương gia và tổng binh Khổng Hi Quý tiến cử Dương Thu Trì kế thừa tước vị Sở vương, nhung chưa có tin tức phản hồi gì. Hiện tại cần phải hiện thực hóa điều này, nếu không lòng họ như treo trên sợi tóc giữa vực sâu. Họ lập tức dùng bát bách lý gia cấp khởi tấu chương, đem đại tiệp ở Kiềm Dương báo lên triều đình, đồng thời lần nữa tiến cử hắn vào tước vị Sở vương, yêu cầu triều đình chính thức giao cấp binh quyền cho Dương Thu Trì.
Bảo Khánh là phủ, thành trì to hơn Kiềm Dương nhiều. Đại quân Trương Hiến Trung tích trữ rất nhiều quân lương ở đây. Dương Thu Trì hiện giờ muốn nhanh chóng khoách đại đội ngũ của mình, nên lập tức dựng cờ chiêu binh, tăng thêm quân đội.
Kiềm Dương huyện đã bị cháy rụi, Dương Thu Trì thuyết phục ba vị vương gia đem một lượng tài sản lớn cho bá tánh tu sửa lại nhà cửa. Đây là điều trước giờ chưa có, làm gì có chiến tranh thiêu hủy rồi lấy tiền bồi thường, cho nên cử động này của hắn được truyền tụng khắp nơi, cả vùng Tương Tây ai ai cũng biết, thanh niên trai tráng đến đầu quân rất độc, thậm chí có không ít Minh quân bị tán lạc khắp nơi kéo về, nên trong vòng nửa tháng đã chiêu mô 5 vạn tân quân.
Dương Thu Trì vốn muốn dùng xong hai vạn quân mượn rồi trả lại, nhưng mấy tướng lĩnh dẫn đầu đều sống chết không chịu đi, quỳ xuống thề muốn lĩnh quân theo Dương Thu Trì. Và thế là, binh lực của hắn coi như đã đạt 10 vạn.
Bảo Khánh phủ lớn hơn Kiềm Dương nhiều, có mấy chục vạn nhân khẩu, thợ sắt rành nghề hơn nghìn người, Dương Thu Trì lập tức triệu tập mọi công tượng trong thành tham gia chế tạo vũ khí. Có tiền có người, cộng thêm có dân ủng hộ, làm việc gì cũng nhanh, cho nên quặng mỏ cần chế tạo đạn dược không ngừng được chuyển tới Bảo Khánh.
Dương Thu Trì dùng 1 tháng để chế tạo hơn chục vạn phát đạn và hơn nghìn quả pháo đạn. Dưới nỗ lực của hơn nghìn thiết tượng, hắn lại chế thêm được 1000 lão sáo đồng, cộng với số cũ được 2 nghìn cây súng.
Quân tinh nhuệ là đội ngũ có lực chiến đấu cao nhất, do đó tố chất cũng phải cao. Hắn điều chỉnh lại quân của mình, căn cứ lượng đạn và số lượng lão sáo đồng, biến quân tinh nhuệ thành đội ngũ 1 nghìn 600 người, tổ thành hai kỵ binh đoàn, chọn từ trong 10 vạn đại quân này những kẻ giỏi về thuật cưỡi ngựa, sau đó cho thi bắn súng toại phát trong khi cưỡi ngựa tiến hành chánh thẩm. Ngoại trừ những người có nguồn gốc rõ ràng, hắn cho tra rõ lý lịch, loại hết những kẻ có lại lịch mờ ám, đảm bảo địch quân không trà trộn vào.
Kỵ binh đoàn có hai thiên tổng (đoàn trưởng) do Dương Thu Trì tự tuyển, đó là Nhị đại vương Vũ Kỳ và một binh sĩ Đồng tộc giỏi bắn giỏi cưỡi ngựa trong Đồng tộc tên là Đô Cường. Đây là một bách phu trưởng của A Hạnh Ny, đã từng tham gia trận chiến bảo vệ Kiềm Dương, có tài chỉ huy, tác chiến dũng mãnh, cơ trí ngoan cường. Hai người này đều trung thành với Dương Thu Trì.
Vấn đề chiến mã cũng giải quyết dễ dàng, vì sau khi chiếm Bảo Khánh, quân hắn đã tước đoạt được một lượng lớn chiến mã. Cộng thêm hắn cho người đi mua ngựa khắp nơi, cho nên số lượng đủ dùng cho kỵ binh.
Khi xây dựng lại kỵ binh tinh nhuệ này, Dương Thu Trì căn cứ suy nghĩ của mình tổ chức huấn luyện, chú trọng tính kỹ luật, răm rắp tuân theo chỉ huy.
Một tháng sau, được Quế vương cực lực chủ trương, Dương Thu Trì thấy tình huống chuẩn bị đã cơ bản có thành tựu, liền quyết định mang binh tấn công sào huyệt cũ của Quế vương là Hành châu.
Tôn Khả Vọng, Lý Định Quốc đột phá khỏi trận chiến Kiềm Dương cuối cùng cũng tìm về tổ chức. Ba nhiệm vụ Trương Hiến Trung giao không những không hoàn thành, mà vạn đại quân còn bị Dương Thu Trì làm sập núi, đánh đêm, hỏa thiêu và tiêu diệt hết sạch, khiến y tức suýt ói máu ngay tại trận.
Trương Hiến Trung nghe Dương Thu Trì phát binh Hành châu, liền hạ lệnh Lưu Văn Tú tử thủ Hành châu, cấp tốc điều đại quân đánh vào Giang Tây trở về, điều động quân đội các nơi tập trung mọi binh lực lên đến 20 vạn kéo đến Hành châu chuẩn bị hội chiến, quyết định diệt gọn quân đội của Dương Thu Trì.
Lưu Văn Tú có 8 vạn quân ở Hành châu, là một trong 4 nghĩa tử của Trương Hiến Trung, được phong làm Phủ nam tướng quân, là ái tướng tâm phúc của y. Hành châu là yếu đạo giao thông liên thông nam bắc Hồ Quảng, xuống nam là Quảng Tây, về đông là Giang Tây. Đây là trọng trấn chiến lược và yết hầu, do đó Trương Hiến Trung mới chỉ phái Lưu Văn Tú cầm trọng binh trú thủ nơi này.
Thành tường Hành châu xây dựng vô cùng kiên cố, tinh binh đông lương đủ, nhất định khó phá vô cùng.
NẠP THIẾP KÝ II
Tác giả: Mộc Dật
Nguồn: Vip.vandan
Chương 140:
Hội chiến Hắc Thuỷ hà
Dương Thu Trì không phát động cường công. Hắn không muốn dùng quân đội cực khổ lắm mới xây dựng nên đánh tiêu hao chiến. Hắn muốn tận dùng ưu thế về vũ khí tiêu diệt địch quân. Hắn muốn quán triệt tư tưởng vận động chiến theo kiểu của Mao Trạch Đông, không quan tâm đến được mất một vùng, mà đặt trọng tâm vào tiêu diệt sinh lực địch quân.
Dương Thu Trì sau khi chiếm Bảo Khánh được dân chúng ủng hộ, liền tổ chức mạng lứơi tình báo hữu hiệu, nắm vững động thái của địch quân. Hắn biết địch quân chia hai đường, phía bắc xuất phát từ Trường Sa do Trương Hiến Trung tự soái lĩnh, phía tây do là quân đánh chiếm Giang tây Viên châu, do Ngải Năng Kỳ soái lĩnh.
Trong đó, đại quân của Ngải Năng Kỳ tiến binh thần tốc, đã tiến vào địa giới Hồ Quảng, còn quân Trương Hiến Trung vẫn còn đang điều động, chưa xuất phát từ Trường Sa.
Ngải Năng Kỳ tham công mạo tiến, muốn cùng Lưu Văn Tú ở Hành châu hình thành thế giáp kích nam bắc. Dương Thu Trì nắm được điểm này, tuy nói là hắn có tạc đạn, súng máy và lão sáo đồng, nhưng mãnh hổ khó địch quần lang, hơn nữa phía bắc Hành châu là đồi núi có phong cảnh tú lệ, tác chiến ở vùng núi này hỏa pháp và súng của hắn sẽ bị giảm uy lực, cần phải tận khả năng tránh sở đoản tận dụng sở trường. Nhưng nếu bố trận nghênh địch ở phía bắc Hành châu, tất phải bị thế giáp kích nam bắc của địch. Hai lộ địch quân cộng lại có quân số hai chục vạn, gần như la gấp đôi quân của hắn, không thể mạo hiểm quyết chiến trong tình huống này. Nhưng nếu vượt qua Hành sơn, nghênh địch ở bình nguyên Chu châu, thì đại quân quá mệt mỏi, không thể nào ở trạng thái tốt nhất đánh địch. Hơn nữa cô quân thâm nhập, khuyết thiếu hậu viện, một khi thất lợi thì hậu quả không thể tưởng tượng.
Sở dĩ, Dương Thu Trì ngẫm nghĩ thật lâu, cuối cùng quyết định giả triệt binh về Bảo Khánh, bố trận ở một lòng chảo ven Hắc Thủy hà nghênh địch. Như vậy, một mặt hắn có thể tránh thế lưng mặt đều thụ địch, mặt khác cự li cách Bảo Khánh không xa, tiến có thể công, lùi có thể thủ.
Lưu Văn Tú ở Hành châu phủ thấy Dương Thu Trì lui binh, không dám truy kích, sợ nhằm vào kế dụ địch. Ngải Năng Kỳ nhận được tin, liền chuyển phương hướng nhắm thẳng đại quân của Dương Thu Trì ở Hắc Thủy hà. Đồng thời y yêu cầu Lưu Văn Tú xuất binh, hai lộ giáp kích, bị Lưu Văn Tú cự tuyệt. Lưu Vấn Tú kiên trì án chiếu chỉ ý của Trương Hiến Trung cố thủ thành trì, chờ đại quân của Trương Hiến Trung đến, sau đó ba lộ hội sư Bảo Khánh, tập trung ưu thế binh lực một đoàn tiêu diệt tân quân của Dương Thu Trì.
Lần trước đại quân Trương Hiến Trung nam hạ, Ngải Năng Kỳ làm tiên phong, phụng mệnh tiếng công Giang Tây, dọc đường qua ải chém tướng, đánh quân của Tả Lương Ngọc đại bại, liên chiếm Bình Hương, Vạn Tái, đoạt Viên châu ngay cửa Giang Tây. Tiếp đó, y công chiếm Cát An, Cát Thủy, Vĩnh Tân, An Phúc, Thái Hòa và các huyện khác, báo tin thắng trận liên miên, quả là có cảm giác hoành tảo thiên quân.
Tiếp đó Trường Hiến Trung phát lệnh khẩn cấp chi viện Hành châu ở Hồ Quảng. Ngải Năng Kỳ lập tức hồi sư Hồ Quảng, khí thế hung hung kéo thẳng tới Hành châu. Sau khi biết được Dương Thu Trì triệt binh, cho rằng hắn sợ uy danh của y, càng ngông nghênh hơn. Tuy Lưu Văn Tú ở Hành châu không chịu xuất binh giáp kích, đại quân của Trương Hiến Trung ở Trường sa chưa xuất phát, y đã gấp rút không thể đợi chờ, muốn đánh bại Dương Thu Trì đoạt lại Bảo Khánh phủ, do đó mới soái lĩnh đại quân sát khí đằng đằng kéo tới.
Đương nhiên, Ngải Năng Kỳ không hề là người hữu dũng vô mưu đơn giản. Y đã biết đại quân Dương Thu Trì có một loại vũ khí quái thú có thể chớp mắt lấy mạng mấy trăm người, hơn nữa tầm bắn còn tương đương hỏa pháo. Ngoài ra hắn còn có tạc đạn uy lực kinh người, có thể sát thương ngoài trăm xích, có thể nổ vỡ thành trì kiên cố. Hiện giờ lại còn truyền tin là binh sĩ của hắn được phối bị một loại hỏa súng mới, xạ trình hữu hiệu gấp bảy tám lần hỏa súng thường, có thể liên tục bắn, không cần lấp đạn vào họng súng rồi mới bắn tiếp.
Những vũ khí này đều khủng bố chưa hề nghe thấy bao giờ. Nhưng mà người đều có đặc tính là chưa trực tiếp gặp sự vụ đó thì dù sao cũng không thể hình dung nó khủng bố thế nào. Do đó, Ngải Năng Kỳ không lo lắng nhiều, tuy vẫn chuẩn bị những bước cần thiết, ví dụ tập luyện đội hình chiến đấu và điều chỉnh phương án tác chiến.
Hai quân cuối cùng gặp nhau bên bờ Hắc Thủy hà, binh lực tương đương, đều khoảng 10 vạn.
Đây là một lòng chảo bên sông khá rộng, rất bằng phẳng, từ xa có thể thấy đại quân của Ngải Năng Kỳ di động đen xì xì, che lắp cả bình nguyên.
Ngay bộ chỉ huy của Dương Thu Trì đã dựng lên một cây cờ lớn cao mười mét, trên có một vọng đài. Đoạn thời gian này hắn ngoại trừ nghiên chế phương pháp tăng tốc độ chế tạo đạn dược, còn tranh thủ học võ công từ chỗ Liễu Nhược Băng, đặc biệt là luyện tập phi tác bay lên phòng, đạt được vài phần hỏa hầu, khi lên xuống cột cờ này chẳng còn là vấn đề gì khó. Lúc này hắn đã bay lên trên đó, rút một ống đồng ra nhìn vào, không ngờ là một viễn vọng kính bằng đồng, dùng loại kính thủy tinh thượng đẳng ở Bảo Khánh mài giữa tạo thành. Hắn dùng kính viễn vọng quan sát tình huống bày binh của địch, phát hiện địch quân tiến đến trận địa của quân nhà chừng 5 nghìn mét thì dừng lại. Đại quân của địch bày thế trận trường xà, giữa binh sĩ có cự li nhất định, xếp hàng dọc, hiển nhiên là đề phòng đạn khai hoa bắn từ hồng di đại pháo của hắn.
Phía địch quân cũng có một hàng hồng di đại pháo, số lượng đại khái hơn trăm khẩu.
Phía sau đại pháo là thuẫn bài hỏa súng binh, dùng thuẫn bài vừa làm giá đỡ để bắn, vừa có tác dụng phòng hộ. Thuẫn bài sáng lấp lánh, rõ ràng là có kèm phiến sắt.
Phía sau thuẫn bài hỏa súng binh là những phòng nhỏ di động làm bằng phiến sắt, số lượng có tới mấy trăm, xem ra ắt là xe tăng thổ tả "thiết luân xa". Sau đó nữa là trận địa trường mâu có số lượng đông nhất. Hai cánh của trận địa có kỵ binh cằm cường nỏ và mã đao, phía trước là giáp nhẹ, phía sau là giáp nặng.
Địch quân có khoảng 10 vạn, đội hình chỉnh tề, cờ bay phấp phới, không ai nói loạn, hiển nhiên quân kỷ nghiêm minh, chẳng trách có thể càn quét quân Đại Minh.
Quân đội hai bên đều sắp bày ở ngoài tầm bắn của Hồng Di đại pháo, hiển nhiên là chờ đối phương tiến công trước, sau đó tiến hành phản kích. Loại chiến pháp này rất hay dùng ở thời cổ đại.
Dương Thu Trì không muốn chờ. Chiến pháp của hắn trộn lẫn hiện đại và cổ đại, hiện đại là chủ, cổ đại là phụ, do đó quyết định đánh trước kềm chế người. Hắn cầm cây cờ tam giác chỉ huy phất lênh, truyền lệnh binh phía dưới lập tức phát xuất chỉ lệnh, mấy chục trống trận nổi lên dồn dập, chấn thiên động địa: kỵ binh xuất kích!
Kỵ binh của Dương Thu Trì có 1600 người, toàn bộ trang bị súng Lão sáo động lên đạn bằng tay, hộc đạn 5 viên, bắn xa nhất 2000 mét, tầm bắn hiệu quả 600 mét.
Hai đội kỵ binh chia ra xông thẳng tới theo hàng ngang, khi tiến nhập tầm bắn của Hồng di đại pháo, địch quân bắn ngay một loạt, khói bay mù mịt, toàn là khai hoa đạn và thật tâm đạn có uy lực rất nhỏ, chỉ có thể sát thương những mục tiêu gần. Đối với chiến mã chạy với tốc độ nhanh, sự thương hại này có thể bỏ qua, hơn nữa kỵ binh này tiến theo hàng ngang, khoảng cách rất xa, giỏi cưỡi ngựa, nên với thật tâm đạn bắn tới có thể điều khiển ngựa tránh né. Cho nên, một loạt hơn 100 phát đạn này chẳng tạo ra thương vong bao nhiêu cho kỵ binh xung phong.
Sau khi họ tiến vào tầm bắn 600 mét của súng lão sáo đồng, bắt đầu xạ kích, mục tiêu chủ yếu là pháo thủ của hồng di đại pháo, sau một loạt tiếng nổ, số pháo thủ này đua nhau ngã gục.
Trong vòng 600 mét tuy đã là tầm bắn hữu hiệu của lão sáo đồng, nhưng là quá xa đối với quân chỉ có toại phát thương và cường nỗ của Ngải Năng Kỳ. Tầm bắn của chúng xa lắm chỉ 150 mét, hữu hiệu chỉ 50 mét, lại không chính xác, ứng với câu "hỏa súng bắn thỏ cũng không trúng".
Hồng di đại pháo và Phất lãng cơ của chúng có thể dễ dàng bắn tới tầm 600 mét, nhưng để tiêu trừ phản lực cực mạnh, hỏa pháo đều được cố định ở góc 45 độ, rất khó có thể điều động chúi miệng pháo xuống.
Trong khi đó, kỵ binh của đối phương chỉ nằm ngoài tầm bắn của bộ binh, trong tầm bắn gần nhất của hỏa pháo, nên chúng không thể nào phản kích.
Địch quân không biết lão sáo đồng của Dương Thu Trì có thể bắn xa vậy, đều cả kinh. Chờ đến khi chiến hữu đua nhau ngã rạp, cuối cùng cũng phản ứng, thuẫn bài hỏa súng binh ở sau mang thuẫn bài bằng sắt nặng lên xông tới, toan tính ngăn đạn địch.
Nhưng chúng đang đối diện với đạn cao tốc bắn từ thuốc nổ không khói, trong cự li ngắn như vậy có thể dễ dàng bắn xuyên qua bản sắt dày 5 mm, không thể dày hơn thêm, vì như vậy phiến sắt chỉ cao nửa người sẽ vô cùng nặng, một người khênh không nỗi, đừng nói chi di động về trước. Chúng chỉ mang thuẫn có dát sắt mỏng tới trước, kết quả bị đạn xuyên qua thuẫn cắm vào người dễ dàng.
Tuy vô số binh sĩ bị ngã chết dưới súng lão sáo đồng, nhưng quân của Ngải Năng Kỳ không hề loạn. Trường cảnh khủng bố này họ đã nghe qua, nên nhanh chóng phát hiện thuẫn bài một mặt không đủ đối kháng đạn của địch quân, lập tức dùng thuẫn bài hai mặt tiến lên.
Cùng lúc này, kỵ binh của địch quân ở hai cánh bắt đầu xung phong, chuẩn bị án chiếu theo chiến thuật thường dùng vòng ra sau lưng bao vây. Không ngờ, bọn chúng vẫn còn đánh giá quá thấp uy lực bắn xa và liên tục của lão sáo đồng. Tuy súng này chỉ có băng đạn 5 viên, nhưng để lắp đầy băng đạn 5 viên trở lại chỉ cần không đến nửa phút!
Kết quả là, kỵ binh của địch dưới hàng nghìn cây lão sáo đồng bắn dồn dập, đã trở thành bia sống người ngã ngựa đổ, giãy chết liên tục, máu đỏ nhuộm hồng cả cỏ xanh.
Ngải Năng Kỳ vội ra lệnh kỵ binh đình chỉ tiến công, chỉ huy quân xe tăng thổ tả "Thiết xa" sau thuẫn bài binh xuất kích.
Ngải Năng Kỳ đã cải tiến giáp luân xa để trở thành thứ xứng với tên gọi "thiết xa" rồi - 4 phía đều là bản sắt nặng và đất bùn dày, phía trước có một cái lổ có thể bắn hỏa súng đặc chế cực lớn, là loại hỏa pháo thu nhỏ, tầm bắn khoảng 300 mét. Chỉ có điều, do miệng súng lớn, nhồi lắp thuốc súng cần nhiều thời gian, trong khi phải thực hiện bên trong cái nhà sắt nhỏ hẹp này rất mất công sức, cho nên gần 5 phút mới bắn được một lần. Các mặt xung quanh thiết xa này có dùi những lổ nhỏ hơn, dùng để bắn hỏa súng và cường nỗ.
NẠP THIẾP KÝ II
Tác giả: Mộc Dật
Nguồn: Vip.vandan
Chương 141:
Hỗn chiến thống khổ
Mấy trăm chiếc xe tăng thổ tả lộc cộc tiến về trước, một loạt súng nổ, tuy bắn không tới kỵ binh của Dương Thu Trì, nhưng cũng ghê người. Hơn nữa, chiến pháp xe tăng thổ tả này dường như đã qua huấn luyện, chia thành ba đội phân tán xuyên nhau mà tiến, giống như đội hình xạ kích ba lượt của hỏa súng. Hàng xe thứ nhất bắn xong, dừng lại nạp đạn, hàng sau tiến tới bắn, sau đó dừng lại, rồi tới hàng kế.
Vũ Kỳ và Đô Cường phát hiện lão sáo đồng của họ không bắn xuyên được thiết xa, hơi kinh ngạc, rất may là tốc độ của xe khá chậm, tầm bắn của hỏa súng có hạn, chỉ từ từ lui, đối với kỵ binh của họ chẳng có uy hiếp gì.
Dương Thu Trì nhìn rõ hết thông qua viễn vọng kính. Kỵ binh xung phong lần này đã diệt được hai ba nghìn pháo binh và kỵ binh, đã có hiệu quả rồi. Lão sáo đồng của kỵ binh không thể nào đối phó thiết xa, do đó Dương Thu Trì phất cờ lệnh, truyền lệnh binh phía dưới phát xuất chỉ lệnh đánh chiêng thu binh.
Hai đoàn đội kỵ binh nghe lệnh, nhanh chóng lùi về trận địa.
Ngải Năng Kỳ thấy được hi vọng, chỉ huy đại quân theo sau thiết xa tiền tiến.
Khi tiến đến cự li hai nghìn mét, hồng di đại pháo của Ngải Năng Kỳ lại bắn lần nữa. Nhưng do pháo binh của y đã bị kỵ binh của Dương Thu Trì diệt hơn phân nửa, hỏa pháp cổ đại có yêu cầu với pháo thủ rất cao, liên quan đến nhồi đạn dược nhiều ít, cân bằng lèn đạn thế nào, góc độ phát xạ ra sao... Về ý nghĩa nào đó, nó còn vượt xa yêu cầu đối với pháo thủ của hỏa pháo hiện đại, không phải ai cũng bắn được. Cho nên, hỏa pháo của Ngải Năng Kỳ chỉ phát xạ được một phần, uy lực đại giảm, hơn nữa có 1 bộ phận không phải pháo thủ nhồi đạn, không đúng lượng thuốc nổ nên nổ nòng súng, tạo thành thương vong cho bên mình.
Lần bắn hỏa pháo cũng nổ chết mấy chục binh sĩ của Dương Thu Trì, nhưng do đã được huấn luyện, gặp biến không kinh, cộng thêm quân sĩ tuyệt đối tin vào vũ khí khủng bố của hắn, lại còn có mấy trăm nữ tử cứu hộ, nên những kẻ bị thương đều được đưa về sau băng bó, ổn định quân tâm.
Dương Thu Trì không hạ lệnh xuất kích, chở địch quân tiến tới sáu bảy trăm mét mới phất cờ lệnh.
Trống trận vang lừng, căn cứ âm thanh chỉ kỳ, hỏa pháo thủ ở đầu hạ thấp phòng, đối chuẩn vào xe tăng thổ tả của địch. Muốn đánh tăng thì tất nhiên phải dùng pháo rồi!
Dương Thu Trì đã có nghiên cứu về thiết luân xa của địch quân chiếm được ở Kiềm Dương, nghĩ ra đối sách, dùng pháo đạn thuốc nổ tuy là lựa chọn tốt nhất, nhưng đạn pháo loại này có số lượng không nhiều, không thể bắn bừa, nên Dương Thu Trì quyết định dùng hỏa pháp bán thật tâm thiết đạn đối phó, chỉ cần bắn trúng là được.
Thật tâm thiết đạn to bằng quả bóng, nặng mấy chục cân, cổ đại thường dùng phá công sự phòng ngự trong thành, đập vỡ cổng thành... Dương Thu Trì dùng để đánh thiết xa, coi như dùng tạm.
Dương Thu Trì sau khi nghĩ ra biện pháp này, hạ lệnh điều chỉnh góc độ của hỏa pháo thành bắn ngang, khi công đánh Bảo Khánh phủ cũng cướp được một lượng hỏa pháo của địch quân, kết hợp lại hắn có mấy trăm khẩu, trong đó đại bộ phận là Phất Lãng cơ có thể thay đổi nòng pháo bắn nhanh.
Hỏa pháo sau khi cho nằm ngang, thì mấy trăm xe tăng thổ tả của địch quân đã được yểm hộ tiến đến cự li 500 mét, nòng pháo thòi ra từ trong nhà thép này đã có thể thấy rõ được rồi.
Dương Thu Trì phất cờ chỉ huy, hỏa pháo bắn dồn, một loạt đạn pháo bắn qua trúng ngay hàng thiết xa ở phía trước. Những Phất lãng cơ hỏa pháo bắn thiết đạn có uy lực hơi kém trúng thiết xa có thể tạo thành lổ lớn, còn hồng di đại pháo uy lực mạnh hơn không những xuyên thủng bản thép, mà còn khiến cả thiết xa lật đổ, binh sĩ trong đó hoặc chết hoặc bị thương, tiếng gào thảm vang lên không ngớt.
Nhưng mà, số lượng thiết xa của địch quân quá nhiều, còn độ chính xác của hỏa pháo rất kém, có quan hệ rất lớn đến kinh nghiệm của pháo thủ, sai biệt lên đến hàng chục mét, nên vốn bắn chiếc này thì lại trúng chiếc kia, một phần bị trật dù chỉ mấy trăm mét, nên số xe tăng thổ tả của địch bị hủy chỉ ở con số 40 chiếc, đám thiết xa này vẫn tiếp tục tiến lên.
Hồng di đại pháo có tốc độ thay đạn rất chậm, đại khái mất ba phút mới bắn một viên, Phất Lãng Cơ nhanh hơn, nửa phút hoặc hơn là đổi được đạn, sau khi tiến hành bắn phủ trùm, lại có gần 30 chiếc tăng thổ tả bị đánh hủy nữa.
Nhưng uy lực của Phất Lãng cơ kém hơn hồng di đại pháo nhiều, các thiết xa bị bắn trúng bánh thì năm ì không tiến, chứ những xe bị bắn trúng bản sắt mặt trước, uy lực không đủ, chỉ tạo ra cái lổ lớn sát thương mấy binh sĩ gần đó, nhưng xe vẫn tiếp tục tiến lên.
Dương Thu Trì thấy tình thế không ổn, địch quân dùng mấy trăm chiếc tăng thổ tả này đi trước yểm hộ cho đại quân, khiến súng máy không thể bắn quân đội nấp phía sau. Khi thấy địch quân đã áp sát 300 mét, hắn bất đắc dĩ phải dùng đến tạc đạn.
Dương Thu Trì lập tức phất cờ chỉ huy, hai chục khẩu Phất Lãng Cơ lấp pháo đạn có thuốc nổ mạnh lập tức gầm gừ, nổ bung vào đám thiết xa, khiến mấy chục chiếc nhà sắt có bánh xe này văng lên không, địch quân trốn trong đó chết banh xác văng tay chân khắp nơi.
Nhưng mà, ngoại trừ những chiếc thiết xa ở gần điểm nổ bị hủy, những chiếc ở xa do có vách sắt dày bảo hộ vẫn ngăn được sóng xung kích và mảnh đạn, binh sĩ bên trong không bị thương, tiếp tục tiền tiến.
Khi Phất Lãng Cơ đổi đạn xong, thì xe tăng thổ tả của địch đã vượt vào phạm vi xạ trình 300 mét, hỏa súng bên trong nó bắt đầu phát xạ. Nhưng Dương Thu Trì đã sớm phát hiện tình huống không ổn, phất cờ chỉ huy, thuẫn bài đao phủ thủ sau hỏa pháo thủ lập tức tiến lên dùng thuẫn bài hình thành tường yểm hộ cho những người ở sau, trong khi đó hai chi kỵ binh cầm lão sáo đồng ở hai cánh đã sơ tán vòng qua, bắn địch quân từ mé hông.
Không ngờ, địch quân ở cánh đã linh họat sử dụng thuẫn bài hai lớp hình thành tường phòng hộ cho kỵ bộ binh bên trong, tuy đã bắn chết không ít địch quân ngoài tường phòng hộ, nhưng hiệu quả giảm rõ rệt.
Duy Thu Trì huy động cờ tam giác, phát xạ tạc đạn trên không, mấy chục khai hoa đạn bằng đá nổ trên trận địa địch.
Điều làm Dương Thu Trì bất ngờ chính là gần như mỗi địch quân đều có thuẫn bài nhẹ bằng da kẹp sắt, đưa lên trên đầu.
Kết quả, ngoại trừ những tạc đạn nổ thấp dựa vào sóng xung kích sát thương địch nhân ra, những phiến đạn tung bay đó không thể làm gì địch bên dưới, hiệu quả không lớn.
Dương Thu Trì đã không còn kịp điều chỉnh, thiết xa của địch đã tiếp cận 100 mét, trong lổ bắn thò ra hỏa súng và cường nỗ phóng ra lưỡi lửa và tên bén, tuy có thuẫn bài binh bảo hộ, nhưng đã có không ít tướng sĩ trúng đạn.
Thứ địch quân cần đó là hỗn chiến cận cự li, cho nên tiếp tục cho thiết xa tiến lên.
Ở cự ly gần như vậy không thể nào phát xạ đạn pháo, tiền phong hai bên tiếp xúc, binh sĩ trong thiết xa mở cửa ngăn, cầm đao kiếm xông ra.
Dương Thu Trì vội ra lệnh hậu đội xung phong, mệnh lệnh pháo thủ lùi về sau! Pháo thủ là công nhân kỹ thuật, là tài sản, không thể cầm đao liều mạng! Tiếng trống xung trận và thanh la rút lui vang lên bốn phía, căn cứ tiết tấu truyền đạt mệnh lệnh khác nhau.
Pháo thủ bỏ lại hỏa pháo, vác thuốc nổ và pháo đạn lùi về sau. Đây là một hạng mục Dương Thu Trì huấn luyện họ trước, vì hỏa pháo quá năng, không thể nhanh chóng chuyển dời, quẳng đi cũng không sao, địch quân không thể mang đi ngay được. Nhưng thuốc nổ và đạn pháo là bảo bối, rơi vào tay địch không xong, cho nên hắn nhấn mạnh cho các pháo binh là khi lui pháo thủ phải mang đạn dược theo, nếu không quân pháp sẽ xử!
Cùng lúc pháo thủ lùi, hỏa súng thủ và cung thủ ở sau nhanh chóng xông lên khai hỏa vào địch quân. Địch quân cũng có hỏa súng thủ và cung tiễn thủ, nên bắn nhau loạn xạ thế này, hai bên đều chết không ít tướng sĩ.
Tháp chỉ huy của Dương Thu Trì ở trung quân, cách tiền phong hỗn chiến hai ba trăm mét, cung tên và hỏa súng của địch quân không thể bắn hắn. Nhưng khi thấy hai bên đã hỗn chiến, lòng hắn trầm hẳn, lúc này đã không cần chỉ huy nữa, mà là sự khảo nghiệm võ nghệ, lòng dũng cảm và kinh nghiệm tác chiến của binh sĩ hai bên. Điểm này bên hắn rõ ràng không bằng địch!
Sau khi hai bên hỗn chiến, địch quân nhanh chóng tổ thành những nhóm chiến đấu khoảng chục người do thập trưởng chỉ huy. Tổ chiến đấu do trường mâu thủ và thuẫn bài đao phủ thủ, hỏa súng thủ và cung nỏ thủ tổ hợp thành biên đội, dựa lưng vào nhau tạo ra vòng tròn kết hợp binh khí dài ngắn, tiến có thể công, lùi có thể thủ. Hơn nữa, những nhóm chiến đấu có thể tương hỗ bảo hộ cho nhau. Nếu so ra, thì tân binh mới huấn luyện được một tháng của Dương Thu Trì căn bản không thể phối hợp bài bản bằng, hoàn toàn mạnh ai nấy đánh. Hiển nhiên, lực chiến đấu của họ giảm nhược, chưa kể năng lực đối quyết đơn binh kém hơn hẳn đối phương.
Kết quả là sau khi hỗn chiến, thương vong của bên hắn nhanh chóng gia tăng, dường như tỷ lệ ba một, chết 3 mới giết được 1 lính của đối phương.
Dương Thu Trì nhìn mà đau thắt cả lòng, nhưng không còn biện pháp nào. Liễu Nhược Băng cũng thấy tình hình không ổn, lập tức như đại bàng triển cánh bay vào trận địch. Nàng không thích dùng súng, nhưng đoản kiếp và liễu diệp phi đao trong tay áo nàng rất hữu dụng, trong chiến trận như quỷ mị, đạo kiếm, hỏa súng và cung tên của địch nhân không thể theo kịp thân ảnh nàng, trong khi đao quang đến đâu thì máu thịt địch quân rơi rụng tới đó.
Hai đội kỵ binh cầm lão sáo đồng căn bản quan triệt yêu cầu bảo trì cự li khi Dương Thu Trì huấn luyện, lợi dụng tốc độ chiến mã tránh khỏi tầm bắn của địch. Nhưng do đại bộ phận kỵ binh đều là tay mới vào nghề, tuy tài cưỡi ngựa hay, nhưng dù sao cũng mới đánh vũ khí thật này lần đầu, đều rất khẩn trương. Trước đó khi họ xung phong, phát hiện lão sáo đồng đích xác hữu dụng, vô cùng khẩn trương cứ muốn bóp cò, hết đạn thì mò vào túi lấy đạn tra vào.
Cả tháng nay Dương Thu Trì làm ngày đêm chỉ được hơn 10 vạn phát đạn, lần này xuất chinh mỗi chiến sĩ chỉ được phát 20 viên, tức 4 băng đạn. Hai kỵ binh đoàn có 1600 người, phát 3 vạn 2 nghìn viên đạn. Những kỵ binh này khẩn trương và hưng phấn đánh rất thống khoái, quên tiết kiệm đạn, nên nhanh chóng bắn sạch trơn.
Dương Thu Trì sợ vũ khí rơi vào tay địch, trong khi đó gần hai nghìn quân này là vương bài của hắn, không thể dùng cho hỗn chiến, nên hắn đã hạ mệnh lệnh trước khi vào trận: một khi hỗn chiến khi bắn hết đạn phải lùi khỏi chiến trường, ai gia nhập hỗn chiến quân pháp sẽ xử. Do đó, đám kỵ binh này chỉ chuyển đầu ngựa lui binh.
Phát hiện kỵ binh đối phương không còn đạn, thiết kỵ ở hai cánh của địch múa mã đao điên cuồng truy kích.
Dương Thu Trì ở trên vọng đài nhìn rõ ràng, lập tức hạ lệnh cho hai cây súng máy xuất động. Hiệu giác vang lên, hai súng máy đặt trên hai xe ngựa xông ra.
"tạch tạch tạch..." Đạn bay như mưa vào đám kỵ binh truy sát.
Trong lần hội chiến này, Dương Thu Trì căn cứ kinh nghiệm lần trước tiến hành cải lương súng máy.
Hắn thiết kế xe ngựa dùng vận chuyển súng máy: bốn ngựa kéo xe, vị trí đặt súng hơi cao, xung quanh dùng bản thép bao lại, phía trước có giá đỡ, phía trái dùng cung cấp đạn dược, phía phải dùng cấp nước giải nhiệt, phía sau xe ngựa chứa đạn và nước làm mát. Ngoài ra trên xe còn phối hai hộ vệ, dùng lão sáo đồng bảo hộ bắn chết địch quân đến gần. Hai mã phu ở ngoài điều khiển xe ngựa, để đề phòng chiến mã bị tiếng súng làm cho kinh sợ chạy loạn, một mặt hắn cho chiến mã luyện quen với tiếng súng, một mặt bịt kín tai của chúng.
Hắn cũng tiến hành tu cải súng máy maxim, bỏ hai cái bánh xe đi, đổi thành cái giá sắt để tăng tính ổn định, bỏ tấm chắn phía trước mở rộng tầm quan sát khi bắn.
Lưu Dũng và Mã Lăng Vũ thao tác hai súng máy này, mạng các hộ vệ đón đánh kỵ binh của địch.
"tạch tạch tạch..." đạn súng máy quét tới giống như cây roi dày quét vào đội hình kỵ binh của địch, roi đến đâu người ngã ngựa đổ đến đó!
NẠP THIẾP KÝ II
Tác giả: Mộc Dật
Nguồn: Vip.vandan
Chương 142:
Nhân tố thắng lợi
Kỵ binh của Ngải Năng Kỳ lần đầu tiên đụng phải đạn súng máy quét, chiến mã đang chạy trúng đạn ngã rụi hất văng kỵ binh trên lưng ra xa. Kỵ binh bị ngã ở trước trở thành chướng ngại của kỵ binh phía sau. Nhưng kẻ có huấn luyện muốn tung ngựa phóng qua, nhưng bị đạn súng máy như mưa biến thành tổ ong, rơi phịch xuống đất.
Ngải Năng Kỳ đứng ở trên cao nhìn rất rõ, kinh hãi đến ngẩn người. Đây là vũ khí quái thú trong truyền thuyết hay sao?
Y phát hiện tình huống vô cùng không ổn, cho dù khinh kỵ binh của y có tốc độ đạt đến cao nhất, cũng không có cách gì vượt qua hai đạo phòng tuyến vô hình này. Dù cho trọng giáp kỵ binh có đủ sức ngăn cung tên và hỏa súng xạ kích, nhưng vẫn bị đạn súng này bắn nát người mà chết. Y vội vã hạ lệnh rút kỵ binh về sau, y như cũ dùng thuận bài tạo thành tường phòng hộ bảo vệ hai cánh, đồng thời tiền phong tiếp tục xung phong về trước, tranh thủ hỗn chiến với địch quân, khiến cho vũ khí quái thú của đối phương không cách gì bắn quét.
Địch quân chấp hành mệnh lệnh rất kiên quyết, và thế là, sau khi vô số người ngã chết, cuộc đại hỗn chiến giữa hai bên cuối cùng cũng bắt đầu!
Súng máy của Lưu Dũng và Mã Lăng Vũ tức thời im miệng, vì đối diện với hai chục vạn người hỗn chiến lại với nhau, địch ta khó phân, không thể nào bắn được.
Lưu Dũng và Mã Lăng Vũ đều lần đầu tiên dùng súng máy tiến hành thực chiến, mới đầu bắn rất thống khoái, không ngờ khi hai bên hỗn chiến, súng máy quét qua thấy cả quân của mình cũng chết, nên vội vã dừng lại, đổi thành bắn phát một. Nhưng đạn súng máy có lực xuyên quá mạnh, nên giết 1 lúc ba bốn người, cả địch lẫn ta.
Cho nên, ngay bắn đơn họ cũng không dám nữa!
Rất may là địch nhân sợ họ, trừ những kẻ điên cuồng không sợ chết xông tới chầu trời sớm, những kẻ khác đều biết họ không dám bắn loạn, nên cứ coi như không thấy, chỉ lo chém giết với nhau.
Dương Thu Trì dùng kính viễn vọng nhìn rõ ở một gò núi nhỏ có treo cờ chữ soái, biết là bộ chỉ huy của địch. Hai bên hỗn chiến, hắn biết lúc này không còn tồn tại chuyện chỉ huy, chỉ dựa vào thiên mệnh mà thôi, nên dùng phi tác xuống đài, lên xe ngựa có súng máy của mình, cho A Hạnh Ny cung cấp đạn, Hồ Thủy đổ nước, len qua cánh xông lên gò núi đó.
Lần này hắn không muốn để lỡ thời cơ, nên dù còn cách 1000 mét, hắn vẫn nổ súng, trong mơ hồ, hắn thấy trên núi đó có rất nhiều binh sĩ địch ngã xuống, nhưng không rõ có tướng soái của địch hay không.
Bộ chỉ huy của địch xem ra đã đề phòng đến chuyện này, nên lập tức điều tăng thổ tả hậu bị chắn trước địch quân trên núi, một bộ phận khác kéo tới, tháo ra mấy chục khẩu Phất Lãng Cơ nhắm chuẩn họ.
Địch quân không ngốc, đánh lén không thành, đành phải chạy nhanh, nếu không trúng phải một thiết đạn thì tiêu đời!
Đến hậu phương, thấy kỵ binh của hai đoàn còn ở xa không biết làm gì, Dương Thu Trì chợt động tâm, lệnh cho đoàn trường Vũ Kỳ và Đô CƯờng mang binh sĩ vác thi thể tới chất thành một đống.
Hai người không biết Dương Thu Trì định làm gì, nhưng quân lệnh như sơn, họ vội mang kỵ binh xông vào địch trận, cướp thi thể trên đất rồi chạy, bất quản là địch hay là người mình. Địch quân không biết họ làm vậy để chi, do sợ có súng máy của Dương Thu Trì nên không dám truy kích.
Thật nhanh sau đó, thi thể được chất thành gò cao đến 5 mét.
Dương Thu Trì đã tháo súng máy chuyển từ xe ngựa xuống, bảo A Hạnh Ny và Hồ Thủy vác đạn và nước theo hắn lên gò thi thể, đặt cho thật chắc, rồi dùng cách điểm xạ từng phát một bắn vào địch trận.
Do vị trí bắn cao, từ trên bắn xuống, lực xuyên thấu của đạn qua người rồi xuống đất, không gây thương vong cho người nhà. Hơn nữa tầm bắn của súng máy đạt 1000 mét, sử dụng thuốc súng không khói, độ chính xác cao, dường như 1 phát giết 1 tên, địch đua nhau ngã. Thấy cách này hữu hiệu, Dương Thu Trì nhân lúc châm nước, nói với Vũ Kỳ và Đô Cường ở phía sau: "Mau! Hai người dẫn đội đến thông tri Lưu Dũng và Mã Lăng Vũ, giúp họ tạo thành gò cao thế này dùng bắn đơn mà đánh, nhanh lên!"
Hai người vội đáp ứng, chia nhau dẫn đội chạy đi.
Hai chục vạn người đánh đại hỗn chiến, phạm vị đạt mấy km vuông, Lưu Dũng và Mã Lăng Vũ đầu óc hơi thanh tỉnh, nên phân tán xe ngựa chứa súng máy ở hai đầu chiến trường, các xa hỗn chiến, ở xa không dám bắn loạn.
Vũ Kỳ và Đô Cương mang kỵ binh phân biệt tìm thấy hai người, giúp chất thi thể làm gò cao, bảo họ dùng đơn phát nhắm bắn địch trong đám hỗn loạn. Như vậy, ba cây súng máy trở thành ba súng bắn tỉa, từ ba phương vị ứng vào hình chữ phẩm bắn địch quân trong trận hỗn loạn.
Xe tăng thổ tả có thể chống súng máy của địch quân đã rơi vào hỗn chiến, không thể kéo ra. Bộ chỉ huy của địch tuy còn một bộ phận thiết xa này, nhưng chúng sợ một khi xuất kích, Dương Thu Trì sẽ mượn cơ hội đánh lén, nên chỉ cố thủ. Địch quân toan tính dùng thuẫn bài yểm hộ đến chém họ, nhưng thuẫn bài này không thể ngăn đạn súng máy, còn bản sắt dày hơn thì quá nặng, không thể đưa lên.
Do ba súng máy cứ nhằm kẻ địch đầu sỏ mà bắn, tuy gây sát thương với số lượng có hạn, nhưng vẫn cấp cho địch quân sự ảnh hưởng tâm lý rất lớn, khiến cục thế hỗn chiến dần dần cải biến.
Trường hỗn chiến này nhất mực tiến hành từ giữa trưa đến trời tối. Hai bên đều tử thương hai vạn người. Về phía Ngải năng Kỳ, chủ yếu lượng tổn thất là vì lão sáo đồng và tạc đạn của Dương Thu Trì. Khi vào hỗn chiến thì đại quân của Dương Thu Trì nhanh chóng tử thương. Sau đó, bọn Dương Thu Trì chất thi thể thành gò cao, dùng ba cây súng máy bắn tỉa, từ từ cân bằng tổn thất, cho nên, đánh tới trời tối thì tử thương của hai bên tương đương.
Trời đêm phủ trùm xuống, tối đen như mực, đưa tay ra trước mặt không thấy ngón tay, không nhận rõ đối diện là địch hay bạn, cho nên không cách nào tác chiến.
Hai bên đều khua chiêng thu binh, tướng sĩ đều không dám xuất chiêu loạn, chia nhau kéo vũ khí nặng trở về sau, thoát ly chiến trường.
Tổn thất hai vạn người, tuy gần bằng địch quân, nhưng khiến Dương Thu Trì ủ rũ vô cùng. Điều này chứng tỏ một vấn đề đã từng được Mao Trạch Đông chỉ rõ: "Vũ khí là yếu tố trọng yếu trong chiến tranh, nhưng không phải là yếu tố quyết định. Yếu tố quyết định đó là người, không phải vật."
Dương Thu Trì hiện giờ coi như đã hiểu điểm này. Đây mới chỉ là tác chiến ở bình nguyên, chưa vào vùng đồi núi. Nếu vào vùng đó, e rằng còn phiền phức hơn.
Đại quân lui về hậu phương hạ trại, trong lòng hắn rất buồn, mang du kích tướng quân Long Bỉnh và A Hạnh Ny, Liễu Nhược Băng cùng mọi người đi thăm tướng sĩ thụ thương xong, kiểm tra trang bị hao tổn, thấy còn 5 vạn viên đạn, thuốc nổ và pháo đạn còn khá nhiều, hơn 1000 phát.
Trở về quân trướng, hắn lập tức triệu tập các thám tướng và thiên tổng đoàn trưởng của kỵ binh mở cuộc họp.
Dương Thu Trì sau khi chiếm An Khánh, khoách quân 10 vạn, biên thành 12 sư đoàn. Sau trận chiến này tổn thất hết gần hai phần mười, ba tham tướng (sư trưởng) chiến tử, do đó, ba phó tham tướng đến thay.
Sau khi đến đại doanh ngồi, Dương Thu Trì nói: "Trận này tuy chưa ai chiếm tiện nghi, nhưng nói thật ta rất thất vọng, mọi người nói coi, trận kế nên đánh thế nào?"
Tình tự của mọi người đều không vui, nhất thời không ai nói gì.
Vũ Kỳ phát ngôn trước: "Mới đầu đánh rất thuận lợi, nhưng mấy trăm cái thiết luân xa của địch xuất trận thì chúng ta phiền phức ngay. Còn nữa, địch quân có thuẫn bài bằng sát, nếu ép hai cái làm thuẫn bài đôi thì chẳng thể bắn thủng, muốn khắc địch chế thắng phải giải quyết hai vấn đề này trước."
Pháo binh tham tướng nói: 'Đúng a, dùng thiết đạn đánh Thiết luân xa không sai, nếu có thể phóng gần hơn thì đánh càng chuẩn, đảm bảo 1 phát 1 cái, nhưng sau đó phải giải quyết địch quân thừa thế xông tới."
Long Bỉnh dù sao cũng có kinh nghiệm tác chiến phong phú, lắc đầu nói: "Địch quân không phải ngốc, sẽ cải tiến chiến pháp đối địch với ta. Tên Ngải Năng Tề này giảo hoạt phi thường, giỏi về động não, cho nên, lần chiến kế, phương pháp tác chiến của địch sẽ có điều chỉnh tương ứng."
Đây là điều Dương Thu Trì quan tâm nhất, hỏi: "Nếu như ngươi là thủ lĩnh địch quân, nên điều chỉnh chiến lược đối phó quân ta thế nào?"
Long Bỉnh không cần khiêm tốn, đáp: "Trước hết, điều chỉnh Thiết luân xa từ nóc ngang thành nóc tam giác, mắt trước ngang thành hơi nghiêng, có thể dội thiết đạn ra, như vậy, cho dù có áp gần mấy xích nữa, thiết đạn cũng không cách gì đánh hư thiết xa!"
Pháo binh tham tướng Trịnh Hạo Đốn lập tức biến sắc.
Dương Thu Trì cũng chấn động, gật đầu hỏi: "Còn nữa không?"
"Thuẫn bài đơn của địch có bản thép quá mỏng, không chống được đạn, hơn nữa diện tích quá lớn, cho nên, bước tiếp theo xem ra sẽ bảo trì sức nặng nhưng làm dày lớp sắt, rút bớt diện tích. Như vậy vừa dễ di động, vừa có thể chế tạo thành hình tam giác, có thể hất đạn ra, lại tiện dựng trên đất, hai thuận bài áp vào nhau sẽ thành một tường phòng hộ cao bằng đầu người. Còn có thể làm cho bốn góc khuyết, khi ghép lại có lổ để bắn hỏa súng và tên nỏ ra bên ngoài.
Lời này khiến mọi người đưa mắt nhìn nhau, đều cảm thấy phiền phức đến rồi.
A Hạnh Ny bĩu môi nói: "Cải biến nhiều thứ như vậy 10 ngày nửa tháng cũng chưa xong a."
"Không sai!" Long Bỉnh nói, "Ngải Năng Kỳ phát hiện quân đội của hắn không xơi nổi chúng ta, e rằng sẽ không chủ động tiến công trong mấy ngày tới, nhất định sẽ cải tiến và chế tạo trạng bị phòng ngự vũ khí của ta chờ viện binh từ Trường Sa và Hành Dương tới rồi mới đánh."
A Hạnh Ny nói: "Nhưng chúng ta không thể chờ, không thể để địch quân chuẩn bị xong rồi mới đánh. Hơn nữa theo ta thấy không phức tạp vậy đâu, lần này chúng ta chịu thiệt là không thể sử dụng khai hoa tạc đạn của Thu Trì ca, mấy nghìn tạc đạn đó đánh tới, đảm bảo địch quân sẽ chạy loạn."
Một tham tướng khác nói: "Địch quân nếu phân tán binh lực, dùng cách nằm bò ẩn né, thì tạc đạn có tác dụng không lớn."
Long Bỉnh chen lời: "Địch quân phân tán binh lực thì hay quá, chúng ta sẽ cắt ngang lưng chúng, dùng ưu thế binh lực tiêu diệt 1 bộ phận chúng, rồi quay đầu diệt phần còn lại!"
Một tham tướng khác nói: "Phân nửa địch còn lại không ngu, sao không đến cứu viện chứ?"
Hai người bắt đầu tranh cãi, mọi người cũng mỗi người một lời chen vào. Bọn họ tranh đến náo nhiệt, nhưng đã khiến Dương Thu Trì nghĩ ra một phương pháp phá địch. Cuối cùng, hắn xua tay bảo mọi người dừng lại, đem kế hoạch tác chiến nói ra, mọi người đua nhau tán đồng, lập tức y kế hành sự.
Sáng hôm sau, đại quân của Dương Thu Trì bày đội xuất phát, bức đến cách đại doanh của Ngải Năng Kỳ 5 nghìn mét thì dừng lại, địch quân không nghênh chiến, dường như muốn kéo dài thời gian.
Dương Thu Trì tiếp tục cho tiến đến 3000 mét, Hồng Di đại pháo có tầm bắn xa nhất, bắt đầu dùng pháo oanh kích địch doanh.
Địch quân cuối cùng xuất chiến, mới đầu là mấy trăm thiết xa.
Dương Thu Trì tự tin vô cùng, đại doanh của địch có thiết bị phòng hộ như hố sụp ngựa, không cho phép đánh mạnh, đành phải quyết chiến chính diện vậy.
Hắn ra lệnh đại quân lùi 2000 mét chờ địch quân bố trận.
Thật nhanh sau đó, trận hình của địch quân đã bố xong, quả nhiên là trường xà trận, hơn nữa đội hình còn tản mát hơn hôm qua, đội hình dài mấy dặm.
Dương Thu Trì lên gò cao mười mét nhìn xuống, dùng viễn vọng kính quan sát thấy địch quân hành động không nằm ngoài dự liệu, muốn dùng đội hình rộng để đối phó tạc đạn của hắn, không khỏi cao hứng. Xe tăng thổ tả và thuẫn bài của địch đã có một số ít cải thành đầu tam giác nhọn, nếu như lúc này không đánh, sau ắt sẽ phiền phức to.
Chiến pháp của địch giống hôm qua, hơi điều chỉnh một chút, đó là mấy trăm thiết xa đi tiên phong, sau là thuẫn bài binh bảo hộ hỏa pháo, hai cánh dùng thuẫn bài thép bảo hộ kỵ binh.
Khi địch quân đến gần 2000 mét, Dương Thu Trì hạ lệnh bắn hồng di đại pháo.
Lần này phát xạ là thứ pháo đạn nổ mạnh, rớt xuống đất là nổ bung ra phủ trùm địch quân trong vòng mấy trăm mét vuông. Cùng lúc đó, Phất Lãng CƠ hỏa pháo và lão sáo đồng kỵ binh cũng Lưu Dũng, Mã Lăng Vũ với súng máy maxim yểm hộ chủ động xuất kích đến cự li 500 mét dừng lại.
Lúc này, hồng di đại pháo tập trung hỏa lực bắn tạc đạn khiến cho địch quân trong vòng mấy trăm mét chết hơn phân nửa, số còn sống phục dưới đất không dám ngóc đầu dậy. Đại pháo đột nhiên đình chỉ xạ kích, hai kỵ binh đoán cách đó 500 mét nhanh chóng xuất động, đánh thẳng vào trận địa rộng mấy trăm mét vừa oanh tạc xong.
Đám 1600 kỵ binh này đã bị Dương Thu Trì tối qua mắng dạy cho một trận, chủ yếu là bắn loạn phí đạn. Lần này hắn vẫn phát cho mỗi người 20 phát, lệnh là phải đến gần 200 mét mới được bắn (vẫn còn nằm ngoài tầm tên và hỏa súng), và phải ngắm kỹ mới bắn.
Do đó, sau khi pháo hỏa dừng lại, địch quân chưa bị nổ chết hoảng loạn bò dậy, thì kỵ binh cầm lão sáo đồng đã đánh tới, súng nổ người ngã, thuẫn bài phòng mặt này được những không thể phòng mặt kia, nhanh chóng bị họ diệt gọn.
Vùng mấy trăm mét này đã phân trận trường xà ra làm hai, hai đoàn đội kỵ binh chia ra hai bên bắn tràn vào địch ở hai phía.
NẠP THIẾP KÝ II
Tác giả: Mộc Dật
Nguồn: Vip.vandan
Chương 143:
Tổng đốc ba tỉnh
Xe tiến lên theo thế trận hình chữ nhật to, lần này không ngờ chúng đối diện với năm sáu chục phất lãng cơ đại pháo. Khi đó, hai cái bánh xe gỗ vừa khéo trở thành mục tiêu công kính của pháo.
Phất Lãng Cơ đại pháo khai hỏa, bắn đạn sắt đặc ruột, từng chiếc thiết xa bị nằm bẹp tại trận, binh sĩ trong đó chui ra, trở thành mục tiêu bắn quét của Lưu Dũng và Mã Lăng Vũ.
Đại quân của Dương Thu Trì cách 1000 mét vẫn còn chưa có động tác gì, chờ đợi địch quân hỗn loạn.
Hồng Di Đại Pháo dùng pháo đạn thuốc nổ mạnh oanh kích cắt địch trận thành hai phần, sau đó không bắn loạn, mà tuyển chọn vùng tập trung nhiều người ở bên phải bắn liên tiếp, trong khi bên trái chỉ bắn uy hiếp. Do mỗi phát pháo đạn nổ ra, địch quân đều nằm rạp xuống hết, vừa ngọc đầu dậy lại nghe tiến pháo nổ nữa, nên buộc phải nằm xuống tiếp, nên chúng căn bản không thể xung phong, bị không chế bẹp dí ở vị trí cũ.
Địch quân ở phía phải thì bị pháo hỏa oanh tạc không còn hàng ngũ gì, loạn thành một đoàn. Để tránh hỏa pháo, đội hình của chúng rất tán loạn, khoảng cách tương hổ càng xa hơn, tán loạn khắp nơi trong bình nguyên.
Dương Thu Trì chờ đợi chính là hiệu quả này, phất cờ chỉ huy, trống trận dập dồn, trọng trang thiết kỵ làm tiên phong, đại quân nhanh chóng đánh về mé phải của địch trận, phân cắt bao vây.
Do địch quân đã bị cắt thành hai bộ phận, trận hình bên phải bị đánh tan, nhân số của đại quân Dương Thu Trì còn nhiều hơn địch quân một chút, nên tiến hành bao vi diệt dần từng khóm, khiến chúng cuối cùng tan rã.
Địch quân ở mé trái định tăng viên, nhưng bị hỏa pháo áp chế, đồng thời bị lão sáo đồng kỵ binh chặn mất, xe tăng thổ tả đi trước gần như bị đạn thật tâm Phất lãng cơ bắn gần chính xác đập bẹp dí hết.
Đến giờ thì chiến cuộc đã nghiêng hẳn về một phía. Thấy 3 vạn quân đội ở mé phải bị chia cắt bao vây, hơn nữa bị pháo hỏa oanh kích loạn thành một đoàn, và cho rằng đánh không được, chỉ có thể bị động chịu đánh, nên Ngải Năng Kỳ hạ lệnh thu binh.
Dương Thu Trì không bỏ qua cơ hội này, còn địch quân hoảng loạn triệt thối, thiết xa bị hủy phần lớn, binh sĩ chuyển thân bỏ chạy, thuẫn bài sắt nặng không thể che ở sau lưng, nên bạo lộ dưới miệng súng máy maxim.
Hắn chuyển sang hạ lệnh cho hồng di đại pháo tiến hành bắn sâu vào đội hình địch, còn xe ngựa chứa súng máy của hắn và Lưu Dũng, Mã Lăng Vũ tiến hành truy kích.
Có câu binh bại như núi đổ, lúc này địch quân đã không còn tổ chức đề kháng nào, trong khi đó bại binh chạy sao nhanh bằng đạn, nên đại bộ phận bộ binh hồn phi phách tán nằm xuống đất đưa thuẫn bài lên che đầu, giơ tay đầu hàng.
Ngải Năng Kỳ thấy đại thế đã mất, vội dẫn hộ vệ quay đầu bỏ chạy về phía bắc.
Trận chiến này, 10 vạn đại quân của Ngải Năng Kỳ chỉ còn mấy nghìn, số bị diệt có đến 3 vạn, 4 vạn bị bắt làm tù binh.
Cùng lúc đó, Dương Thu Trì nhận được tin Lưu Văn Tú điều 6 vạn quân đến tăng viện, chỉ còn một ngày lộ trình, hắn nhân sĩ khí đại tăng, lập tức nghênh đón.
Lưu Văn Tú lưu lại 2 vạn thủ Hành châu, chỉ mang theo 6 vạn, thế mà đụng đầu với 12 vạn đại quân của Dương Thu Trì, cho nên nhanh chóng thua cuộc trước áp lực và ưu thế quân số và vũ khí của hắn. Lưu Văn Tú anh dũng hơn Ngải Năng Kỳ, soái lĩnh quân phản kích, nhưng bị súng máy bắn tan tác, trận này bị đánh tan và diệt sạch toàn quân, ngay Lưu Văn Tú cũng tử trận.
Đại quân của Dương Thu Trì sau khi tiếp thụ hàng binh, binh lực đã tăng lên 14 vạn, nhưng đạn pháo gần như cạn kiệt, nhưng quyết định truy đuổi địch đến cùng, không cho chúng cơ hội thở ra hơi, nên lập tức tiến binh Hành châu.
Đến Hành châu, nhờ ưu thế 14 vạn quân, cộng hàng binh không ngừng kêu gọi thủ quân đầu hàng, tập trung đạn pháo còn lại bắn nát mấy chổ ở tường thành. Tri phủ cầm đầu thủ quân trong thành và không ít võ tướng kinh hoảng, khuyên bộ tướng của Lưu Văn Tú đầu hàng, nhưng những người này cũng có cốt khí, thấy tình cảnh đã không thể vãn hồi, liền cứa cổ tự vẫn. Tri phủ và các quan khác mở cửa thành ra quỳ đầu hàng.
Đại quân Dương Thu Trì không mất giọt máu chiếm được Hành châu, tiếp thụ thêm 2 vạn hàng binh, cùng vô số lương thảo và vũ khí. Để đề phòng hàng binh làm phản, Dương Thu Trì tiến hành chỉnh biên quân đội, đem hàng binh phân về các sư, tạo thành 20 sư đoàn mới, cộng thêm 2 sự đoàn kỵ binh cầm súng lão sáo đồng.
Quế vương, Huệ vương và Phúc vương sau đó đến Hành châu, bắt đầu xây dựng lại vương phủ. Dương Thu Trì sau hai chiến dịch đã hiểu rõ là không thể tiến nhanh, cần phải chuẩn bị sung túc rồi mới quyết chiến, và chuẩn bị chủ yếu là đạn dược, cộng thêm kỹ năng tác chiến của binh sĩ. Hắn học theo cách làm của Ngải Năng Kỳ, cho quân đội tổ thành từng nhóm 10 người huấn luyện.
Sau hai chiến dịch này, đại quân của hắn tổng cộng diệt địch 28 vạn, quân chủ lực của Trương Hiến Trung tổn thất hơn phân nữa, nên ở lại cố thủ Trường Sa không dám hó hé gì.
Tin vui truyền đến kinh thành, khiến Sùng Trinh đế cuối cùng nhìn thấy tia hi vọng le lói cho vương triều mình, nên hạ quyết tâm chuẩn tấu của ba vị vương gia.
Một chiều cuối tháng mười một, trời lạnh như cắt, Dương Thu Trì sau một ngày bận rộn phối chế đạn đạn dược, ăn cơm xong đang ngồi đốt lửa sưởi nói chuyện với Liễu Nhược Băng, tiểu quân chúa và Quách Tuyết Liên ở bên cạnh chơi cửu liên hoàn.
Lúc này, hộ vệ Lưu Dũng chạy vào báo: 'Dương đại nhân, tư lễ giám Lý Phượng Tường Lý công công vừa từ kinh thành tới mang theo thánh chỉ, Quế vương và các vương gia cùng tổng binh đại nhân đã ra đón, mời ngài mau ra tiếp chỉ."
Dương Thu Trì vội vào nội đường thay áo, sau đó ra đại sảnh đã bày sẵn hương án.
Lý Phượng Tượng tuy là thái giám nhưng thân hình khôi ngô, khoảng 40 tuổi, hai tay ôm thánh chỉ đựng trong cái hộp rất tinh xảo, được Quế Vương, hai vị vương gia, tổng binh Khổng Hi Quý đưa vào đại sảnh, đứng ngay giữa nhà.
Quế vương giới thiệu xong, Lý công công mỉm cười nói với Dương Thu Trì: "Dương đại nhân, thỉnh tôn phu nhân và quận chúa ra tiếp chỉ!"
Dương Thu Trì ngẩn người, liền hiểu là hoàng thượng đã phê chuẩn kế thừa tước vị Sở vương, nên định sắc phong một lúc.
Hắn vội chạy vào nội đường, bảo Liễu Nhược Băng và CHu Phượng Đức thay y phục ra tiếp chỉ.
Lý Phượng Tường dùng giọng the thé nói: "Dương Thu Trì, Liễu Nhược Băng, Chu Phượng Đức quỳ tiếp chỉ!"
Trong lịch sử Sùng Trinh đế tuy là vua vong quốc, nhưng vẫn tận lực vãn hồi đại cục của nhà Minh, chỉ là quyết sách bị sai lầm, cộng thêm thiên tai và nhân họa, không thể vãn hồi đại cục, cuối cùng mới tự sát, có thể tạm coi là một nhân tài ưu tú, đáng kính đáng trọng mấy phần. Dương Thu Trì quỳ xuống dập đầu.
Liễu Nhược Băng thấy phu quân quỳ, cũng kéo Chu Phượng Đức quỳ theo. Lý Phượng Tường chia ra đọc thánh chỉ sắc phong cho ba người. Thánh chỉ khen Dương Thu Trì chiến công anh dũng, tuyên bố ân chuẩn thừa kế tước vị Sở vương, phong phu nhân Liễu Nhược Băng làm vương phi, thiếp thất Chu Phượng Đức làm trắc vương phi, ban cho con trai trưởng của hắn họ Chu để nối dòng Sở vương, con trai thứ vẫn là họ Dương.
Những điều trước nằm trong dự liệu của Dương Thu Trì, nhưng chuyện ban họ làm hắn bất ngờ. Sùng Trinh đế biết hắn là nghi tân (con rễ) kế thừa tước vị, nên không cần cải họ, vì như vậy sẽ là hôn nhân cùng 1 họ với Chu Phượng Đức, trái quy củ. Nhưng vì kế thừa hương hỏa Sở vương, ban cho họ Chu cho con cả của hắn làm Sở vương thế tử, sau này kế thừa tước vị của hắn. Các con còn lại của hắn vẫn mang họ Dương, như vậy sẽ không tuyệt hương hỏa của Dương gia.
Sắc phong xong, ba người Dương Thu Trì tạ ơn, tiếp thánh chỉ, đặt lên hương án.
Lý Phượng Tường lại lấy ra một thánh chỉ, là một ủy nhiệm lệnh, phong cho Dương Thu Trì làm "Tổng đốc Hồ Quảng, Giang Tây, Tứ Xuyên, chuyên đề đốc quân vụ, lương hướng kiêm tuần phủ sự, tuyên úy tướng quân." Đơn giản mà nói thì là tổng đốc kiêm tuần phủ 3 tỉnh, lấy hiệu là "Tuyên vũ tướng quân", lĩnh quân tiêu diệt Trương HIến Trung.
Như vậy, quân đội 3 tỉnh từ đây phải nghe lệnh hắn điều khiển, cao hơn tổng binh Khổng Hi Quý nhiều.
Thánh chỉ đồng thời nhậm mệnh Lý Phượng Tường làm giám quân, hiệp trợ Dương Thu Trì tiễu phỉ.
Đọc xong thánh chỉ, Quế vương cùng mọi người đều đến chúc mừng, cả nhà Dương Thu Trì cảm tạ ơn tiến cử của các vị vương gia.
Sau khi náo nhiệt xong, các vị vương gia đi rồi, Lý Phượng Tường ở lại cùng Dương Thu Trì thương lượng quân vụ. Họ xưng với nhau bằng quân chức, Lý Phượng Tường nói: 'Dương tướng quân lĩnh quân thắng trận liên tiếp tại Hồ Quảng, thánh thượng rất vui, nhưng cục thế ở Thiểm Tây rất ngặt, Lý tặc tháng mười đã công phá Đồng quan, đốc sư Tôn Truyền Đình tuẫn quốc, Lý tặc đã chiếm toàn bộ Thiểm Tây, hổ thị đam đam đối với kinh sư, còn tàn quân Trương Hiến Trung có dấu hiệu di chuyển qua Tứ Xuyên. Do đó, thánh thượng hi vọng tướng quân nhanh chóng tiêu diệt Trương tặc, không để hắn chuồn vào rừng rậm Tứ Xuyên, tránh khó khăn sau này. Sau đó, hy vọng Dương tướng quân có thể huy sư lên bắc cần vương."
Dương Thu Trì gật đầu biểu lộ là mình có ý đó, vì Tứ Xuyên là vùng núi cao rừng rậm, rất khó cho vũ khí hiện đại phát huy tác dụng. Gần đây hắn nhất mực khẩn trương chuẩn bị đạn dược, tổng cộng chế 15 vạn viên đạn, 5 nghìn quả pháo. Sau khi chiếm Hành châu, đội công tượng của lão hắc đầu khoách trương thêm, tốc độ chế tạo vũ khí ngày một tăng gia, nên quân hắn đã có thêm 100 cây hồng di đại pháo, Phất Lãng Cơ và 1 nghìn cây lão sáo đồng. Nhờ thế, hắn cho tăng biên thêm một kỵ binh đoàn 1000 người cầm súng.
Quân đội của Tả Lương Ngọc ở Hồ Quảng bị Trương Hiến Trung đánh bại, binh lực ở Giang Tây, Tứ Xuyên đều tiêu hao phần lớn, không còn quân để điều, cho nên về danh nghĩ Dương Thu Trì là chỉ huy tối cao quân sự ở 3 tỉnh, nhưng ngoại trừ một phần quân ở phía bắc Vũ Xương và tàn binh bại tướng của Tả Lương Ngọc, hắn không còn bao nhiêu binh có thể điều.
Hai người thương nghị xong, quyết định lập tức xuất quân tiến công Trương Hiến Trung ở Trường Sa, đồng thời mệnh lệnh tàn binh của Tả Lương Ngọc kéo nhanh về Thường Đức bố phòng, đề phòng Trương Hiến Trung chạy vào Xuyên.
Hôm sau, họ tiến hành đại hội thệ sư, xuất quân đánh Trường Sa. Đây là vùng đất phong của Phúc vương, nên ông ta mừng rỡ vô cùng. Đại quân nhanh chóng chiếm lại các châu huyện đã lọt vào tay Trương Hiến Trung, đến đầu tháng 12 thì tới Trường Sa.
Trương Hiến Trung còn 11 vạn quân ở Trường Sa, trong khi đó Dương Thu Trì hiện giờ đã có 17 vạn sau khi chiêu binh thêm 3 vạn. Hắn phân binh thành 22 sư đoàn, 5 đoàn độc lập gồm 3 sư đoàn kỵ binh cầm lão sáo đồng và 2 sư đoàn pháo binh. Dĩ nhiên, chiến y viện tùy quân là điều cần phải có, bao gồm mấy trăm lang trung và hộ sĩ.
Đại binh đến dưới thành Trường Sa, gặp ngay cơn lạnh dữ dội, quân binh rét cóng, bệnh không ít, Dương Thu Trì quyết định đánh nhanh thắng nhanh, tiến công thật mạnh.
Không ngờ, khi 100 cây hồng di đại pháo chuẩn bị phát xạ hủy tường thành, Dương Thu Trì trên đài chỉ huy ra lệnh ngừng bắn, vì thông qua kính viễn vọng, hắn nhìn thấy 2 nữ tử trẻ tuổi bị trói trên thành, áo trắng phiêu phất, thần tình thê lương, đó là Trầm Tuyết Phỉ và nha hoàn Tiểu Nhị!
Dương Thu Trì vội xuống đài chỉ huy, mang theo Liễu Nhược Băng do Vũ Kỳ mang sư đoàn kỵ binh cầm lão sáo đồng đến gần thành xem xét.
Họ đến cách thành 300 mét cách xa tầm bắn thì dừng lại, vì thấy pháo khẩu trên thành không quay về phía họ, không sợ bị đánh lén. Trên thành lâu, một hán tử đầy râu lớn tiếng hỏi: "Dương huynh đệ, lâu rồi không gặp!"
Dương Thu Trì định thần nhìn, thì ra là anh ruột của Trầm Tuyết Phỉ, đại tướng Trầm Lỗi của Trương Hiến Trung. Hắn cũng lớn tiếng đáp: "Họ Trầm kia, Tuyết Phỉ là em gái ngươi, Tiểu Nhị và Tuyết Phỉ tình đồng thủ túc, ngươi vì ngăn trở đại quân ta, lại dùng 2 nữ lưu làm lá chắn, ngươi còn tim gan không vậy?"
Trầm Lỗi cười ha hả: "Dương huynh đệ nói lời này không phải rồi, Tuyết Phỉ là xá muội, nghe nói ân nhân đến liền khóc đòi lên thành lâu xem, ta không tiện ngăn, và ngươi cũng biết đó, ta thương xá muội nhất. Còn về Tiểu Nhị, nếu như là nha đầu nhà ta, đương nhiên ta muốn xử trí sao cũng được. Nó tích cách quật cường, muốn cùng tiểu thư lên thành lâu, cho nên ngu huynh tức giận trói lại..."
Nói đến đây, Trầm Lỗi chợt nhớ đến chuyện gì đó, vỗ đầu nói: "Đúng rồi, ngu huynh nhớ rồi, Tiểu Nhị dường như là thiếp thất của Dương huynh đệ, nhưng dường như huynh đệ đá nó ra khỏi nhà rồi, nên không cần đau lòng. Hắc hắc, Dương huynh đệ lĩnh quân lớn quá, ngu huynh tận tình địa chủ vậy, thỉnh tiến vào thành đến phủ của ta, chúng ta hâm rượu để xá muội làm thơ ca hát, Tiểu Nhị khiêu vũ trợ hứng, ý Dương huynh đệ thế nào?"
Dương Thu Trì tím mặt, phun một ngụm nước bọt, giơ roi ngựa chỉ: "Ta cảnh cáo ngươi, ngươi dám động cọng lông của họ, ta chém ngươi vạn đoạn!"
Trầm Lỗi trịnh trọng: "Cọp dữ không ăn thịt con, huống chi ngu huynh là người lương thiện. Dương huynh đệ nói không đúng rồi, lời này ngu huynh nên nói mới đúng. Dương huynh đệ, xin thỉnh giơ tay đánh khẽ, tha cho tính mệnh của chủ tớ xá muội đi!"
NẠP THIẾP KÝ II
Tác giả: Mộc Dật
Nguồn: Vip.vandan
Chương 144:
Tiểu thiếp thứ hai
Đối diện với con người mặt dày thế này, Dương Thu Trì đúng là khóc cười không được.
Tiểu Nhị đã nhìn thấy bóng Dương Thu Trì, cố sức hét: "Lão gia...! Đừng quản Tiểu Nhị! Người cứ đánh đi!"
Trầm Tuyết Phỉ không nói gì, thần tình thê lương ngơ ngẩn nhìn hắn.
Trầm Lỗi cười lạnh, thở dài nói: "Đúng a, Dương huynh đệ, ngươi tuy vô tình, Tiểu Nhị còn có nghĩa khí, dù gì nó cũng nói rồi, sinh tử gì đều là người của Dương gia, nó là một tiểu thiếp, muốn giết muốn chém gì chẳng phải là 1 lời của Dương huynh đệ sao? Bắn pháo đi, Tiểu Nhị sẽ được vĩnh sinh trong tiếng pháo của người. Hắc hắc..."
Dương Thu Trì không hề lý gì đến hắn, nhìn Trầm Tuyết Phỉ và Tiểu Nhị, lòng loạn như ma, hét: "Tuyết Phỉ, Tiểu Nhị, các nàng yên tâm, ta sẽ không để hắn làm hại các nàng!"
Trầm Lỗi cười mà như không cười: "Dương huynh đệ, ta biết đệ muội võ công cao cường, do đó, ngu huynh đã chuẩn bị sẵn rồi, nếu như huynh đệ phái người lẻn vào thành cướp người, ta chỉ còn biết giết xá muội và Tiểu Nhị, đây là biện pháp khi không còn biện pháp nào. Ngươi là người quá háo sắc yếu mềm, ngu huynh cấp tiểu quận chúa cho, ngươi có vợ như hoa như ngọc rồi còn chưa đủ, nếu như ngươi cưới hỏi xá muội đàng hoàng thì thôi đi, đằng này còn len lén cướp đi, rơi vào tay ngươi e rằng trinh tiết khó giữ. Cho nên giết quách cho xong, ta vì xá muội mà nghĩ, mong Dương huynh đệ thông cảm."
Dương Thu Trì lạnh lùng: "Được rồi, đừng mèo khóc chuột chết nữa, họ Trầm kia, có điều kiện gì nói ra đi!"
'Được! Người nhanh nói lẹ, ngu huynh phụng mệnh đại vương khuyên ngươi, nếu như ngươi đầu đại vương, đại vương sẽ coi như huynh đệ, phong làm thiên tuế, sau cộng hưởng giang sơn!"
Dương Thu Trì hừ lạnh: "Nếu đại vương ngươi có thành ý, sao không tự lộ diện khuyên ta?"
"Hắc hắc, chúng ta biết ngươi có loại vũ khí quái thú lợi hại, nên khuyên đại vương trước khi huynh đệ về đầu cần phải cẩn thận, xin chớ trach! Đại vương nói sẽ tự thân thiết yến bồi tội."
Dương Thu Trì cười nhẹ: "Còn có ưu huệ gì nữa, nói ra luôn đi."
"Có a, hà hà, Dương huynh đệ, ngươi biết không, ngươi đi rồi xá muội rầu rĩ, ngu huynh bíêt lòng nó đã giao cho huynh đệ rồi, cho nên chỉ cần ngươi về đầu đại vương, ngu huynh sẽ đem nó cho ngươi làm thiếp, thế nào?"
Trầm Tuyết Phỉ nghe anh nói vậy lập tức sắc mặt tái ngắt, nhìn Dương Thu Trì dưới thành, chợt cắn răng nhào ra khỏi thành lâu định tự vẫn. Trầm Lỗi đã sớm liệu tới điều này, túm nàng ngay lại, Trầm Tuyết Phỉ phản thủ đánh vào ngực y, nhưng Trầm Lỗi không tránh né, chịu một chưởng, thuận thế chọc vào eo nàng, khiến Trầm Tuyết Phỉ mềm nhũn ra. Trầm Tuyết Phỉ tuy có võ, nhưng Trầm Lỗi là vũ trạng nguyên, giỏi xạ kỵ, tâm tư lại chẩn mật, biết em gái không nỡ hạ độc thủ với mình, nên mới đắc thủ.
Trầm Tuyết Phỉ khóc nói: "Ca ca, hãy để cho muội muội chết đi..."
Trầm Tuyết Phỉ từ khi gặp Dương Thu Trì, đàm luận thơ văn, lại dựa vào hắn, đã từng tiếp xúc thịt da, nên tuy không nói, lòng đã thuộc về hắn rồi. Thật không ngờ ca ca và người thương đã thành thế bất lưỡng lập, chẳng còn hi vọng gả cho Dương Thu Trì. Không ngờ gần đây Dương Thu Trì nhanh chóng xây dựng quân đội tiêu diệt quân của phía ca ca, hiện giờ binh đến dưới thành, ca ca nàng tự thân nói sẽ gả nàng cho hắn, nhưng nàng biết vì Liễu Nhược Băng, Dương Thu Trì quyết không cưới nàng, nàng vừa thương tâm vừa cả thẹn, không còn muốn sống nữa, càng không muốn vì mình mà Dương Thu Trì khó xử, nên mới tự vẫn.
Trầm Lỗi sau khi ngăn được nàng, cố nén khí huyết nhộn nhạo trong ngực, cười nói: "Muội muội, chớ lo, ca biết lòng của muội, ca rất hi vọng có em rễ thế này. Chuyện này cứ giao cho ca, muội đừng làm chuyện ngốc nữa, nếu không sẽ không phải với cha mẹ dưới suối vàng."
Trầm Lỗi dùng phụ mẫu làm chiêu bài, Trầm Tuyết Phỉ rúng động cả người, khóc ròng.
Vừa rồi Dương Thu Trì cũng rúng động cả người. Trầm Tuyết Phỉ tuy sắc đẹp kém hơn Liễu Nhược Băng, nhưng tài mạo song toàn, Dương Thu Trì cũng hơi thích, nhưng vì sự hoài niệm Liễu Nhược Băng ngăn cản tình cảm của hắn. Bây giờ khi thấy nàng định nhảy xuống thành định ngăn Trầm Lỗi dùng nàng làm công cụ gây sức ép cho hắn, lại từ Trầm Lỗi lần nữa khẳng định tình cảm của nàng, hắn rất cảm động, lớn tiếng nói giữa trời đầy tuyết: "Tuyết Phỉ! Tiểu Nhị! Đừng làm chuyện ngốc! Ta sẽ đến cứu các nàng!"
Hắn biết ở lại cũng vô ích, liền quay đầu ngựa cùng mọi người bỏ đi, về thương lượng đối sách. Trầm Lỗi cao thanh nói với theo: "Dương huynh đệ, ngu huynh khiến nghị huynh đệ suy nghĩ kỹ! Xá muội và Tiểu Nhị sẽ được ngu huynh chăm sóc kỹ, yên tâm đi!"
....
Tối đến, Dương Thu Trì ngồi trong trướng ở trung quân suy nghĩ. Liễu Nhược Băng vén rèm bước vào, đến cạnh Dương Thu Trì điều chỉnh y sam cho hắn: "Phu quân, thiếp hiện giờ vào thành cứu Tiểu Nhị ra."
Dương Thu Trì vừa mừng vừa lo: "Băng nhi, cái này...?"
Liễu Nhược Băng đáp: "Tiểu Nhị cô nương và phu quân có hôn ước, lúc trước phu quân vì Nhược Băng mà cố chấp không nạp Tiểu Nhị, nhưng em nó trung trinh một lòng, thà làm ni cô hoặc ở vậy cả đời, tuyệt không cải giá. Băng nhi rất quý. Lần này, em nó bị trói ở thành lâu, vì phu quân mà chẳng màng sống chết, do đó Băng nhi quyết cứu em nó ra, xong hi vọng phu quân sẽ thu em nó nhập phòng."
"Cái gì?" Dương Thu Trì nóng mặt nghẹn lời, "Cái này... không được đâu, nàng trước đã cho ta nạp tiểu quận chúa làm thiếp rồi, hiện giờ còn nạp Tiểu Nhị nữa sao được, rồi sau này rủi còn nữ nhân khác vì hoàn cảnh này nọ nàng cũng cho nạp, vậy sao phải với lời hẹn ước của chúng ta?"
Liễu Nhược Băng phì cười, lừ mắt: "Nạp nàng nào nữa hả? Chỉ có nàng này thôi, không có nữa đâu! Hai nàng đó là trước khi chúng ta thành hôn đã có hôn ước với chàng rồi, chàng đã nạp mà không nhận là không phải đạo, làm hỏng băng thanh ngọc khiết của cô nương người ta, sau này người ta sống sao được? Làm người phải có lương tâm!"
Dương Thu Trì trừng mắt, khóc cười đều không được: "Ta mà không có lương tâm? Ta mà không có thì đã sớm cưới bảy tám nàng rồi, vì có mới ở vậy chờ Băng nhi của ta nè!"
Liễu Nhược Băng cười ngọt ngào, ôm cổ hắn tặng một nụ hôn, đôi mắt phượng mỹ lệ nháy nháy: "Phu quân vì Băng nhi, Băng nhi vui lắm. Nhưng Tiểu Nhị cô nương phải được cứu, cứu ra rồi phu quân phải thu nhập phòng, sau này không có ai nữa nha, hạ bất vi lệ! Dù sau này có gặp thiên tiên, muốn nạp về Băng nhi cũng không cho phép đâu, rõ chưa?"
Dương Thu Trì nghĩ tới ánh mắt tuyệt vọng của Tiểu Nhị, lòng đau xót vô cùng, liền thở dài: "Thôi vậy, hạ bất vị lệ!"
"Ừ...! quyết định vậy nha!" Liễu Nhược Băng lại tặng cho hắn nụ hôn.
Dương Thu Trì cười khổ, ngẫm nghĩ một chút, hỏi lại: "Còn Tuyết Phỉ thì sao, có cứu không?"
"Không cứu! Đồng thời cứu hai người độ khó quá cao, hơn nữa nàng ta là em gái của Trầm Lỗi, Trầm Lỗi chẳng qua là lấy dọa huynh thôi, cuối cùng nhất định sẽ không để nàng ta làm bia đỡ tên đâu."
"Tuy nói vậy nhưng Trầm Lỗi này âm hiểm lắm, vì quyền thế cái gì cũng làm, không loại trừ hắn dùng Trầm Tuyết Phỉ ngăn đòn tiến công của chúng ta đâu."
Liễu Nhược Băng nhìn sâu vào mắt hắn, âm u nói: "Nếu như phu quân đã lo cho nàng ấy, e không cứu thì chàng không hạ lệnh nã pháo! Được, Băng nhi sẽ cứu luôn!"
Dương Thu Trì mừng rỡ hôn lên môi nàng: "Ta biết mà, Băng nhi là cô nương thiện lương nhất thế gian!"
"Thôi đi đừng có hòng, cứu nàng ta ra chứ không được có ý khác đâu đó!"
"Ý khác gì? Ta có nàng rồi, lại có tiểu quận chúa và Tiểu Nhị, mà hai người đó đều do nàng nhét cho ta, ý khác gì nữa chứ! Ôm mình Băng nhi của ta ngủ không đã quá đủ rồi!" Nói xong hắn thò tay ôm vòng eo thon của nàng thật, thậm chí còn thò tay do thám lung tung.
Liễu Nhược Băng đỏ mặt, gạt tay hắn ra: "Đây là đại trướng trung quân, đường đường là Sở vương gia, Tuyên Uy đại tướng quân mà tay chân không sạch sẽ gì?"
"Hắc hắc, ta sợ lão bà ta, liên quan gì chúng!"
"Được rồi, thiếp đi cứu sủng phi của chàng đây!"
"Sủng phi?" Dương Thu Trì lát sau mới phản ứng được, cười khan nói: "Đêm nay hay là đừng đi, Trầm Lỗi nhất định có âm mưu!"
Liễu Nhược Băng nghề cao gan lớn: "Chẳng sao đâu, hơn nữa, đại quân chúng ta ở tuyết lạnh, thêm 1 ngày là khổ 1 ngày, cần phải tốc chiến tốc quyết, nhanh chóng cứu họ ra."
"Cái này cũng phải," Dương Thu Trì gật đầu, "Vậy ta cùng đi với nàng!"
"Không được! Chàng là chủ soái, phải tọa trấn trung quân, sao có thể mạo hiểm!"
"Nhưng nàng là chủ soái của ta, nàng đơn độc mạo hiểm, ta không yên tâm! Nếu không cho ta đi, vậy khỏi cứu luôn!"
Liễu Nhược Băng cười khúc khích: "Chàng sợ thiếp không cứu Trầm cô nương?"
"Nói bậy!" Dương Thu Trì vuốt mũi nàng, "Ta lo cho Băng nhi của ta, ta theo nàng để chiếu ứng. Nàng dạy ta kỹ thuật phi tác, ta đã luyện được vài thành hỏa hầu rồi! Lần trước ở Kiềm Dương hai ta cùng đi đốt địa lôi phóng hỏa mà, không nhớ sao?"
Liễu Nhược Băng lè lưỡi: "Mồm mép chưa kìa! Được, nói không lại chàng, mau thay y phục, chúng ta đi!"
Dương Thu Trì mừng rỡ, vội gọi giám quân Lý Phượng Tường, phó tướng A Hạnh Ny và Long Bỉnh vào tạm giao binh quyền, chuẩn bị công tác phòng ngự rồi mới thay đồ trắng bên ngoài đồ dạ hành.
Dương Thu Trì lấy cây súng ngắn 77 cùng vài băng đạn mới chế ra cắm vào bắp chân, mang bao tay đao thương bất nhập vào, cùng Liễu Nhược Băng tiếp cận Trường Sa thành.
.....
Thư phòng. Nội nha đô ti. Trầm Lỗi đang ung dung xem một quyển sách, có vẻ chăm chú vô cùng. Đối diện hắn là Trầm Tuyết Phỉ mặt đầy vẻ ưu sầu, sau nàng là nha hoàn tiểu nhị. Bên cửa sổ có một nữ tử trẻ tuổi, thân mặc áo hồng, đang ngắm tuyết ngoài cửa sổ đến xuất thần. Trong phòng im phăng phắt.
Đúng lúc đó, nữ tử ở cửa sổ chợt lên tiếng: "Quý khách ngoài cửa, trời lạnh thế không sợ gió hay sao? Nếu đã đến rồi sao không lộ diện, hay là sợ ta?"
Cửa phòng mở đánh két, hai người chậm bước tiếng vào, rủ sạch tuyết trên người, thì ra là Liễu Nhược Băng và Dương Thu Trì. Tiểu Nhị vừa kinh vừa mừng, run giọng nói: "Lão gia! Phu quân! Nơi này nguy hiểm, mau đi đi, đừng lo cho chúng em!"
Trầm Tuyết Phỉ nhìn Dương Thu Trì, mừng rỡ và lo sợ xen nhau, nhưng cắn răng không nói gì.
Dương Thu Trì lắc lắc cây súng trong tay, gật đầu với Tiểu Nhị, cười nói: "Đừng lo, chúng ta không có gan thì không lên núi bắt cọp đâu."
"Quả nhiên có bản lãnh!" Nữ tử bên cửa quay đầu than: "Bốn phía trong thư phòng, bao quát cả đỉnh phòng đều bố trí mấy chục cao thủ nhất lưu, thế mà bị các người lẻn vào được!"
Trầm Lỗi ung dung bỏ sách xuống, đứng dậy khoang tay: "Đối diện với Dương phu nhân cao thủ đệ nhất thế này, những kẻ khác chỉ là trẻ con thôi."
"Nữ tử bên cửa cười nhẹ: "Đệ nhất cao thủ? Hừ! Tự khoác lác mà cũng không biết nhục!"
Liễu Nhược Băng cười điềm đạm: "Ngải cô nương, lâu rồi không gặp!"
NẠP THIẾP KÝ II
Tác giả: Mộc Dật
Nguồn: Vip.vandan
Chương 145:
Mưu sâu kế độc (1)
Dương Thu Trì nghe lời cả kinh, chẳng lẽ nữ tử này chính là kẻ địch tử đối đầu với Liễu Nhược Băng - Ngải Miêu Miêu? Súng của hắn lập tức chỉa về phía nữ tử, chẳng trách Liễu Nhược Băng vừa rồi không động thủ, cũng không cho hắn nói, nhưng cuối cùng vẫn bị Ngải Miêu Miêu phát hiện.
Nữ tử bên cửa quay đầu lại, nhoẽn miệng cười: "Nhờ phúc của cô nương, vẫn còn chưa chết. Liễu cô nương lấu Sở vương tân nhiệm, có đại quân hộ thân, ta định đến thăm mà không tiện. Đêm nay đoán cô nương sẽ đến nên ở đây chờ, chúng ta nên kết thúc hẹn ước trước kia thôi."
Nữ tử này quả nhiên là Ngải Miêu Miêu! Ả mặt như trăng rằm, mày tham tú, hàm răng chỉnh tề, vô cùng vũ mị, tuy không đẹp bằng Liễu Nhược Băng, nhưng cũng là đóa mẫu đơn kiều diễm.
Nhưng Dương Thu Trì lúc này không còn lòng nào thưởng thức mỹ nữ. Võ công của nữ tử này tương đương Liễu Nhược Băng, cần cẩn thận lắm mới được. Tay hắn hơi lạnh, tướm mồ hôi. Liễu Nhược Băng nói: "Ngải cô nương quả là biết chọn thời cơ, xem ra cô và phản tặc là đồng bọn?"
Ngải Miêu Miêu nhếch miệng, tựa hồ khinh miệt: "Ta tin là bọn binh tôm tướng cá bên ngoài chẳng làm gì được cô nương, cho nên chúng ta đối quyết ở đây cũng vậy." Xong ả nhìn qua Dương Thu Trì: "Bên cạnh ắt là Dương tướng quân, món trong tay chắc là con của vũ khí quái thú chứ gì?"
Không nghe ai xưng hô với súng như vậy bao giờ, Dương Thu Trì buột miệng phì cười: 'Cái này là súng ngắn! Cô có cái nhìn không tệ, tuy võ công cô cao, nhưng súng của ta chỉa vào cô, khuyên cô đừng có loạn động, nếu không cô không nhanh bằng nó đâu!" Xong hắn quay sang Trầm Lỗi: "Họ Trầm kia, lời này cũng nói với ngươi đó."
Trầm Lỗi nhún vai, ra vẻ chẳng coi ra gì, ngồi trở lại bàn.
Ngải Miêu Miêu nhìn Dương Thu Trì kỹ lại, tủm tỉm cười: 'Đã nghe kể lâu rồi, nhưng đêm nay ta và nương tử của ngươi hẹn sống chết, không chết không ngừng, coi chiêu!" Nói xong phóng chưởng đánh về phía Liễu Nhược Băng.
Dương Thu Trì đã đáp ứng Liễu Nhược Băng không nhúng tay vào, nên chỉ chú ý động tĩnh của Trầm Lỗi. Hai người trao đổi chiêu nhanh như thiểm điện, chớp mắt đã hơn 300 chiêu! Ngải Miêu Miêu quả nhiên võ công cao tuyệt, dường như không nhìn ra chênh lệch với Liễu Nhược Băng bao nhiêu, khiến Dương Thu Trì vô cùng lo lắng.
Đánh thêm chút nữa, chợt phình một cái, hai người đều lùi ra, Ngải Miêu Miêu hơi run người, hậm hực nhìn Liễu Nhược Băng. Liễu Nhược Băng thì cười điềm đạm: "Cảm ơn đã nhường! Ngải cô nương, võ công cô tiến bộ không ít, chỉ là vẫn chưa thắng được ta!"
Ngải Miêu Miêu nhoẻn miệng cười: "Vô công của nàng cũng tiến triển không cao như ta dự liệu, lần này chúng ta đấu 387 chiêu ta mới thua, xem ra là Dương tướng quân loạn tu vi của ngươi rồi, hi hi."
Liễu Nhược Băng liếc nhìn Dương Thu Trì, nàng biết nếu không phải hắn cứ ôm nàng này nọ, để nàng tiềm tâm luyện võ, thì không cần 300 chiêu đã thắng Ngải Miêu Miêu. Nhưng mà điều này nàng cam tâm tình nguyện, cười đáp lại: "Không cần quản, còn đấu nữa không?"
Ngải Miêu Miêu nhướn mày, mắt phượng bắn tinh quang: "Liễu cô nương, hai chúng ta không phải bỉ võ, mà là tử đấu, không chết không ngừng!" Nói xong đánh ra, Liễu Nhược Băng không đáp, ngưng thần tiếp chiêu.
Hai người đã phân thắng phụ, Dương Thu Trì vốn định bắn chết Ngải Miêu Miêu, nhưng lo súng nổ sẽ dẫn địch tới, trong lúc do dự thì hai người đã đấu sát vào nhau.
Liễu Nhược Băng càng đấu càng nhẹ nhàng: "Ngải cô nương, cô không phải là đối thủ của ta, hãy bó tay đi, hay là đổi ngày khác cũng được!"
"Tuy không là đối thủ, nhưng muốn làm ta bị thương cũng khó!"
Hai người chiêu qua chiêu lại nhanh như thiểm điện, đang đấu khẩn trương thì ngoài phòng tiếng ầm ầm cất lên, cả phòng dao động, nhưng không nghe tiếng nổ. Dương Thu Trì lia mắt nhìn, thấy ngoài cửa sổ có vách sắt nhanh chóng hạ xuống. Thì ra đây là cái bẫy!
Liễu Nhược Băng phản ứng thần tốc, hô lên cả kinh: "Thu trì mau chạy!" Xong nhanh chóng đánh một chưởng đẩy lùi Ngải Miêu Miêu, quật tay chụp Dương Thu Trì ném ra cửa sổ.
Cao thủ đối quyết, sao có thể phân tâm? Ngải Miêu Miêu dùng đơn thủ gạt chưởng của Liễu Nhược Băng, tay còn lại đánh vào sau lưng nàng!
Liễu Nhược Băng muốn quay người hóa giải thì không cách gì quẳng Dương Thu Trì ra, nếu cứu Dương Thu Trì thì không thể tránh một chưởng trí mệnh này!
Và nàng không chần chờ gì, vận kình ném hắn ra ngoài! Lòng lóe ý nghĩa: ta chết dưới chưởng của Ngải Miêu Miêu rồi.
Dương Thu Trì đã được xem là cao thủ nhất lưu, khi nghe gió chưởng sau lưng Liễu Nhược Băng, biết Ngải Miêu Miêu thừa cơ đánh lén, chẳng nghĩ gì quay người giữa không trung, giơ tay bắn thẳng vào ngực ả!
"Đoành!"
Đầu vai của Ngải Miêu Miêu tóe máu!
Ả nhất mực lưu ý động tác của hắn, nên khi thấy hắn chuyển thân, cái vũ khí như đùi gà nhắm vào mình, biết là không xong, không kịp đánh Liễu Nhược Băng đã cố tránh, nhưng dù tốc độ của ả nhanh cũng không nhanh bằng đạn bắn, nên dù dùng sức toàn thân tránh, chỉ tránh được ngực, đầu vai vẫn bị trúng đạn.
Cùng lúc đó, lưng Dương Thu Trì đập mạnh vào bức tường sắt, dội lại, tường sắt sau đó sụp xuống kín mít.
Nếu như không xoay chuyển trên không trung, cứ thuận theo lực ném của Liễu Nhược Băng bay ra thì hắn đã thoát, nhưng vì động tác đó ảnh hưởng tốc độ, thời gian và góc chếch thân thể, nên hắn không thể.
Tay trái của Ngải Miêu Miêu trúng đạn, đau quá khiến ả phân tâm, bị Liễu Nhược Băng điểm huyệt ở ngực, mềm nhũn ngã nhào.
Liễu Nhược Băng nhảy tới cửa, mở ra xem, thấy đó là tường sắt đen xì, lại kiểm tra qua mặt khác cũng vậy, liền giơ tay đánh thử hai phi tiêu, chỉ nghe cong cong hai tiếng, phi tiêu chỉ cắm hờ lên lớp gỗ mỏng dát bên ngoài. Thì ra phòng này toàn bằng sắt, là cái rương kín mít!
Liễu Nhược Băng lắc người đến cạnh Ngải Miêu Miêu: "Làm sao ra ngoài được? Nói!"
Ngải Miêu Miêu cười tươi: "Đừng nói gì ta không mở được, cho dù có mở được cũng không mở, giết không được ngươi thì cùng ngươi chết, cái đó cũng được chứ, hi hi."
Lời của ả vừa dịu vừa ngọt, rất dễ nghe, nhưng Dương Thu Trì lạnh cả sống lưng, đưa tay xộp cổ Trầm Lỗi ngồi trên ghế, súng kề sát đầu hắn: "Mẹ nó, mau mở tường sắt ra, nếu không lão tử cho đầu ngươi vỡ nát!"
Trầm Lỗi chẳng phản kháng chút nào, cười nói: "Dương huynh đệ, bỏ cái mộng đó đi, phòng sắt này chỉ mở được từ bên ngoài, bên trong mở không ra, hắc hắc."
"Ngươi muốn cùng chết?"
Trầm Lỗi cười cười, từ từ gật đầu.
Dương Thu Trì tức thời trợn mắt ngớ người.
NẠP THIẾP KÝ II
Tác giả: Mộc Dật
Nguồn: Vip.vandan
Chương 145:
Mưu sâu kế độc (2)
Dương Thu Trì quay nhìn Liễu Nhược Băng, rồi nhìn Ngải Miêu Miêu. Đầu vai của Ngải Miêu Miêu ứa máu không ngừng. Ả nhịn đau miễn cưỡng cười nói: "Không cần nhìn ta, hắn nói thật. Bày ra cái bẫy này chính là vì bắt hai vợ chồng ngươi, sao có thể để các ngươi từ trong đây ra chứ?
Dương Thu Trì dằn Trầm Lỗi mạnh xuống ghế, đá vào tường hai cái, chân đau nhói mà tường chẳng nhúc nhích gì. Trầm Lỗi đắc ý cười: "Đừng phí sức nữa, tường này dày nửa xích, nặng mấy nghìn cân, một khi sụp xuống rồi đừng mong gì mở ra."
Dương Thu Trì tức giận hỏi: "Hai ngươi chẳng phải cũng bị nhốt ở đây sao? Chết thì mọi người cùng chết, đắc ý cái gì?"
"Chúng ta vốn không muốn sống, sợ cái gì. Có hai ngươi đi cùng, lời quá rồi."
Lòng Dương Thu Trì trầm hẳn, hai người này lòng dạ ngoan độc như vậy, dám đem thân làm mồi nhử, và nếu không làm như vậy chắc không cách gì cho hắn và Liễu Nhược Băng vào bẫy. Hắn quay nhìn Trầm Tuyết Phỉ và Tiểu Nhị: "Hai người biết cách nào ra không?"
Trầm Tuyết Phỉ lắc đầu. Tiểu Nhị đáp: "Lão gia, chúng em... chúng em không biết có cơ quan này..."
Lúc này thì Liễu Nhược Băng đã kiểm tra hết mọi chỗ, thậm chí dùng đoản đao rọc vách gỗ ra, thấy bên trong là vách sắt không có cái lổ nhỏ nào.
Dương Thu Trì cười khổ: "Băng nhi, thôi vậy, dù gì chúng ta cũng cùng được chết bên nhau."
Liễu Nhược Băng dậm chân: "Đều trách chàng, vừa rồi nếu ra ngoài giết hết chúng chẳng phải mở được cái cửa quỷ này rồi sap?"
Dương Thu Trì cười hi hi: "Ta không đúng, ta có tội, hạ bất vi lệ!" Nói xong câu này quay nhìn Tiểu Nhị.
Liễu Nhược Băng thấy hắn lúc này còn có lòng cười, trừng mắt nhìn hắn. Thực sự thì lòng hắn tuy lo, nhưng cũng yên tâm một phần, vì số đạn mang theo đủ để bắn phá vài lổ nhỏ trên tường, hoặc ít nhất làm nó biến dạng. Như vậy với công lực của Liễu Nhược Băng, hi vọng đánh mở lối thoát thân là có thể. Tuy nhiên, khi chưa làm sáng tỏ mọi chuyện, hắn không muốn dùng đến cách này vội.
Ngải Miêu Miêu chảy máu liên tục, nhưng vẫn miễn cưỡng cười: "Dương tướng quân vì cứu cô mới bỏ qua cơ hội đào tẩu, Liễu cô nương ngươi cũng nghĩ thế mà thôi. Với công lực của cô, ta giữ sao được, nhưng cô lại mạo hiểm tính mạng ném Dương tướng quân ra ngoài, tình nghĩa phu thê của hai người quả là khiến người hâm mộ!"
Liễu Nhược Băng đương nhiên hiểu Dương Thu Trì làm vậy là vì cứu mình. Chút nhu tình mật ý này hiện lên ánh mắt và nụ cười của nàng với hắn. Nàng quay đầu lại hỏi: "Nói đi, các ngươi không tiếc tính mệnh bày ra kế này, ắt không phải là báo cừu suông, mà còn có mục đích khác, đúng không?"
Trầm Lỗi mỉm cười: "Hiền khang lệ quả nhiên thông minh. Ta biết Dương tướng quân còn có tình với xá muội và Tiểu Nhị, và với tình nghĩa của hiền khang lệ, sẽ không đơn độc đến cứu, nên ta thiết kế này đích xác là còn có dụng ý khác, của cả ta và Ngải cô nương."
Dương Thu Trì cười lạnh: "Dụng ý của ngươi chẳng qua là vũ khí quái thú và đạn khai hoa nổ mạnh của ta?"
Trầm Lỗi cười, phảng phất như trúng ý: "Ta biết Dương huynh đệ là người thông minh, không sai chút nào?"
Dương Thu Trì quay đầu nhìn Ngải Miêu Miêu: 'Còn ngươi? Ngoại trừ báo cừu, ngươi còn mục đích gì nữa?'
Đầu vai của Ngải Miêu Miêu bị viên đạn xuyên qua, rất may là không trúng xương, nhưng vết thương phá một lổ lớn ra sau thắm máu ướt cả người. Gương mặt như vầng trăng của ả vì mất máu nhiều quá mà tái ngắt, lúc này dựa hẳn vào tường, nhắm mắt không đáp.
Dương Thu Trì bảo: "Ngươi băng bó lại trước, nếu không nội chuyện máu ra nhiều cũng đủ lấy mạng ngươi rồi!"
Tốc độ máu chảy rất nhanh, Ngải Miêu Miêu bắt đầu choáng. Liễu Nhược Băng nói: 'Phu quân, thiếp giúp băng bó cho." Nhưng cúi đầu nhìn, y phục mặc trên người là sát người, tuy có mặc tiết y nhưng trước mặt Trầm Lỗi không tiện xé ra băng cho ả. Thấy tình cảnh này, Dương Thu Trì bảo: "Để ta!" Xong hừ giọng mũi, vén áo xé một mảng dài, nói với Ngải Miêu Miêu: 'Sợ ngươi luôn! Ta băng cho ngươi đây, chưa chạy khỏi ổ quỷ này, vẫn chưa để ngươi chết được!"
Hắn xé quần áo trên vài nàng, hơi mạnh tay nên lộ phần ngực trên căng tròn trắng trẻo mịn màng, khiến hắn vội chuyển ánh mắt đi, hỏi: "Ê! Tỉnh lại đi, có thuốc kim sang không?"
Ngải Miêu Miêu hé mắt lắc đầu, Liễu Nhược Băng lấy ra hộp phấn nhỏ màu hồng trong ngừời, cúi xuống rẫy vào vết thương, Dương Thu Trì băng lại, máu nhanh chóng ngừng chảy.
Dương Thu Trì cười nói: "Băng nhi, thuốc của nàng linh nghiệm thiệt nha, sau này hay là đừng làm nữ hiệp nữa, mở tiệm thuốc phát tài, hà hà..."
"Giờ này rồi mà còn đùa được!"
Cầm máu xong, thần tình của Ngải Miêu Miêu ổn định lại một chút, từ từ mở mắt, miễn cưỡng cười: "Đa tạ."
Ngải Miêu Miêu tuy là kẻ địch tử đối đầu, nhưng nói năng khá khách khí, Dương Thu Trì kỳ quái, hỏi: "Các ngươi bày ra bẫy này chẳng phải là nhốt phu thê ta, thậm chí còn không tiếc mạng chết cùng, rốt cuộc là muốn làm gì vậy, chẳng lẽ chỉ báo thù thôi?"
Ngải Miêu Miêu đáp: "Vốn là báo cừu, nhưng hiện giờ chúng tôi có hứng thú với hai món bảo bối của tướng quân."
"Các người? Các người là ai?"
"Đại Thanh quốc!"
"Đại thanh?" Dương Thu Trì rúng động, "Cô rốt cuộc là ai?"
"Ái Tân Giác La - Mã Tạp Đát, tên lúc nhỏ Miêu Miêu." Ngải Miêu Miêu lộ nụ cười, hiện hàm răng trắng và hai lúm đồng tiền.
Tên này Dương Thu Trì không quen, nhưng họ Ái Tân Giác La như sấm nổ ngang tai, hỏi dồn: "Hoàng Thái Cực (Chú: tên của Thanh Thái Tông, vua đầu nhà Thanh, trước khi diệt nhà Minh thì chết, nhưng chính sách và nền tảng ông ta đặt ra là cơ sở chiếm và diệt giang sơn nhà Minh. ND) là gì của ngươi?
"Là Hoàng a mã của ta."
"Hoàng... hoàng a mã?" Dương Thu Trì không thích triều Thanh, nên không tìm hiểu tri thức về triều này, nhưng có xem qua vài bộ phim, biết hàm nghĩa của từ Hoàng a mã, "Ngươi là con gái hoàng đế Hậu Kim (Chú: sau khi đánh bại nhà Minh mới đổi hiệu chính thức là Đại Thanh)?"
"Đúng vậy! Không giống sao?" Ngải Miêu Miêu dẫu môi.
Trầm Lỗi ở bên cạnh cũng nói: "Không sai, Ngải cô nương là nhị công chúa của Đại thanh quốc." (Trong lịch sử, Mã Tạp Đát sau này được phong Cố Luân Ôn Trang Trường công chúa vào năm thứ 16 Thuận Trị).
Dương Thu Trì vò đầu, hỏi: "Cô... cô nếu như là công chúa Đại Thanh, chạy rông tới đây làm chi? Lại còn lấy cái họ Ngải của tên gì đó nữa chứ?"
Mã Tạp Đát hiện vẻ thương cảm: "Sư phụ Ngải Đông Hải của ta học thức uyên bác, văn võ toàn tài, được phụ thân ta mời làm tiên sinh, dạy Hán văn cho ta. Người từ nhỏ đối với ta cực tốt, dạy cho ta cả văn lẫn võ, sau đó phụ hoàng phái người nam hạ, chế tạo nội loạn. Khích động cừu gia vây giết sư phụ của Liễu cô nương cũng là vì mục đích này, không ngờ chết dưới tay sư phụ của cô..."
Dương Thu Trì hừ lạnh: "Tên Hán gian này chết cũng đáng... sau đó thì sao?"
Mã Tạp Đát nhắm mắt không đáp.
"Ê! Hỏi cô mà! Sau đó thì sao?"
"Không nói với ngươi nữa?'
"Vì sao?" Dương Thu Trì ngạc nhiên.
"Ai bảo ngươi mắng sư phụ ta!"
"Y đúng là vậy.... Thôi được! Ai có chí nấy, y là công thần của Đại Thanh các người, là sư phụ của cô, ta thu hồi lại câu vừa rồi, được chưa?"
Mã Tạp Đát cười: "Ta biết sư phụ mất về tay sư phụ của Liễu cô nương, liền tìm Liễu cô nương tầm cừu, nhưng võ công cô nương quá cao, ta bị thương bỏ chạy. Ta trở về Liêu Đông, hoàng thúc Đa Nhĩ Cổn (Chú: Em trai cùng cha khác mẹ của Hoàng Thái Cực, mẹ Đa Nhĩ Cổn là ái thiếp của Đại Hãn nhà Hậu Kim, bị Hoàng Thái Cực bắt chôn theo đại hãn, mục đích gạt quyền lực. Đa Nhĩ Cổn tài trí ráng ẩn nhẫn, sau là nhiếp chính vương, vị vua không ngai đời đầu của nhà Thanh cho đến lúc chết. Ndịch) của ta biết chuyện này, tặng cho ta một bản bí tịch, nói khi chinh chiến ở Mông Cổ có được từ tay một vị dị nhân. Người cũng luyện bí tịch này, võ công mới đại tiến. Ta được hoàng thúc chỉ điểm, võ công tiến triển thần tốc."
Liễu Nhược Băng gật đầu: "Thì ra là thế, chả trách lộ số võ công của hai người rất lạ."
Mã Tạp Đát tiếp: "Sau đó ta xuất hải tầm sư, cảm thấy võ công đại tiến mới về Liêu Đông định tìm cô nương, không ngờ phụ hoàng vừa mất..."
Nói tới đây, Mã Tạp Đát nghẹn ngào, lát sau mới tiếp: "Tháng trước hoàng thúc gọi ta đến, đem đầu đuôi câu chuyện kẻ ta nghe. Sau đó người còn cho biết theo tin tình báo, Liễu cô nương đã lấy một điển sứ ở huyện nhỏ ở Hồ Quảng, họ Dương, biết chế vũ khí thần kỳ, đánh cho đại quân của Trương Hiến Trung tơi bời. Hoàng thúc còn nói, nếu như được hai món bảo bối này, đừng nói gì triều Đại Minh, e rằng cả bốn biển đều nhập vào bản đồ Đại Thanh, bảo ta nam hoa tìm Liễu cô nương nghĩ cách lấy được hai món bảo bối này."
Dương Thu Trì thở dài, thì ra là thất phu vô tội, mang ngọc có tội. Hắn hỏi tiếp: "Cô làm sao móc nối với Trương Hiến Trung vậy?"
"Sau khi lão khởi binh vốn đã được Đại Thanh ta ngầm hỗ trợ kim tiền, vật chất, nếu không với chút bản lĩnh của lão, sao làm Đại Minh nghiêng ngã cho được?"
Thì ra là Trương Hiến Trung đã sớm cấu kết với nhà Thanh rồi, đây mới là Hán gian chân chính! Dương Thu Trì mắng thầm, hỏi: "Ta rất muốn biết các người muốn phân phối miếng thịt này thế nào?"
Mã Tạp Đát cười: "Ngươi đem phương pháp chế tạo hai món bảo bối đó cho ta, ta lập tức thả hai người."
"Thả chúng ta?" Dương Thu Trì ngữa cổ cười: "Các ngươi tưởng ta là con nít lên ba hả? Các ngươi nắm biện pháp chế tạo xong rồi đương nhiên là sẽ giết ngay chúng ta, nếu không Đại Thanh các ngươi có, phản tặc có, Đại Minh có, vũ khí chẳng phải là không đáng đồng tiền hay sao?"
Trầm Lỗi nói: "Dương huynh đệ, ta nói sao giữ lời vậy..."
"Giữ cái chó gì, lần trước ta không tránh kịp, đã sớm chết dưới đao ngươi rồi!"
"Làm gì có chuyện đó, Dương huynh đệ hiểu lầm rồi, ta xin thề với trời đất là đảm bảo sẽ thả hai vợ chồng...!"
Dương Thu Trì giơ tay định đấm vào mặt hắn, nhưng nhìn ánh mắt khẩn cầu của Trầm Tuyết Phỉ, bấy giờ mới bỏ tay xuống cười lạnh nói: "Ngươi tưởng nhà Thanh muốn ủng các ngươi thật hay sao? Đó là kế mượn dao giết người, cho các ngươi nhiễu loạn Đại Minh, bọn chúng ngư ông đắc lợi. Ngày Đại Minh bị diệt, thì các ngươi cũng tiêu đời!"
Trầm Lỗi cười bối rối, sao y lại không biết điều này, nhưng chẳng qua là hỗ tương lợi dụng, mượn thời cơ khoách đại thế lực mà thôi, sau này hươu chết về tay ai còn chưa biết, "Đại tây quân và Đại Thanh quốc tình như tay chân, Dương huynh đệ không cần phí tâm ly gián làm gì, nói chuyện trước mắt đi."
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top