Light In August - William Faulkner (Part 9)

Rồi con tàu bắt đầu chuyển bánh, Stenvens quay người và thấy ông giáo sư. Stevens bắt đầu câu chuyện khi họ đi xe hơi vào phố và chấm dứt trong lúc ngồi ở hàng hiên ngôi nhà ông. Ông tóm tắt: "Tao nghĩ mình biết tại sao, tại sao y cuối cùng lại chạy đến ẩn trốn ở nhà Hightower. Tao nghĩ nguyên do là bà ngoại của y. Bà vừa mới gặp y được một lúc trong xà lim khi người ta đến dẫn y trở lại tòa án lần nữa; bà với ông ngoại y, cái lão già nhỏ con loạn trí đó muốn hành hình y theo kiểu lin-chơ, lão đến từ Mottstown chỉ với mục đích này. Tao không nghĩ là bà già đó có hy vọng gì để cứu y cả khi đến đây, một hy vọng thực sự. Tao tin rằng tất cả những gì bà muốn, đó là y được chết 'đàng hoàng', như bà diễn tả. Được treo cổ một cách đàng hoàng bởi một Lực, một nguyên tắc, chớ không phải bị thiêu sống, bị chặt chém, bị kéo lê sau khi chết bởi một Vật. Tao nghĩ là bà đến đây chỉ để theo dõi lão già thôi, để lão khỏi là giọt nước làm tràn ly, bởi vì bà không dám để lão ra khỏi tầm mắt mình. Không phải vì bà không tin Christmas là cháu ngoại mình, mày hiểu chớ. Nhưng vì bà không hy vọng, chỉ vậy thôi. Không biết làm sao bắt đầu hy vọng. Tao hình dung là sau ba mươi năm cỗ máy hy vọng cần hơn hai mươi bốn giờ để khởi động lại, để vận hành trở lại.

"Nhưng tao tin là, một khi bắt đầu lại trên thực tế, do tác động của chiều hướng điên dại và tin tưởng của lão già, bà cũng để mình bị lôi cuốn theo mà không nhận ra. Vậy là họ đến đây. Họ đến đây bằng chuyến xe lửa sớm, khoảng ba giờ sáng chủ nhật. Và bà không tìm cách gặp Christmas. Có lẽ do bà lúc nào cũng để mắt đến lão già. Nhưng tao không nghĩ vậy. Tao cũng không tin là cỗ máy hy vọng đã khởi động lại lúc đó. Tao không nghĩ là nó đã thực sự khởi động bao giờ cho tới khi đứa bé đó sinh ra sáng nay, sinh ra ngay dưới mắt bà, mày có thể nói vậy; lại một đứa con trai nữa chớ. Và bà chưa hề gặp người mẹ trước đó, và chưa hề biết, chưa hề gặp người cha, và đã không hề gặp đứa cháu ngoại mình từ khi nó thành người lớn; vì vậy, đối với bà, ba mươi năm đó đơn giản là không tồn tại. Bị xóa bỏ ngay khi đứa bé cất tiếng khóc chào đời. Ba mươi năm đó không còn hiện hữu nữa.

"Nhưng tất cả những thứ này ập xuống bà quá nhanh. Có quá nhiều thực tế mà tay và mắt bà không thể chối bỏ, và quá nhiều điều để phải chấp nhận mà tay và mắt bà không thể đưa ra bằng chứng; quá nhiều điều không thể giải thích được mà tay và mắt bà cũng phải chấp nhận một cách quá đột ngột, và phải tin mà lại không có bằng chứng nào. Sau ba mươi năm, chắc chắn là bà giống như một người, sau khi đã sống cô độc, bỗng bất ngờ rơi vào một căn phòng đầy những người xa lạ, tất cả nói chuyện cùng lúc, và bà cố gắng xoay sở một cách tuyệt vọng để giữ gìn sự tỉnh táo bằng cách chọn lựa một cách xử thế hợp lý, trong giới hạn của những khả năng của mình, mà bà có thể tin chắc ít nhiều là mình đủ sức thực hiện. Cho đến khi đứa bé đó sinh ra, cho đến khi bà tìm được cách để đứng một mình, có thể cho là như vậy, bà đã giống như một hình nộm có giọng nói máy móc bị một gã tên là Bunch đẩy lên xe la, bắt phải nói khi gã ra dấu hiệu, như khi gã đưa bà đến, đêm qua, để kể ra câu chuyện của bà cho Tiến sĩ Hightower nghe.

"Và mày thấy đấy, bà vẫn còn dò dẫm. Bà vẫn còn cố sức tìm ra cái gì đó mà tâm trí bà, chắc là đã không hoạt động nhiều lắm từ ba mươi năm nay, có thể tin, có thể thừa nhận là thực tế, là có thực. Và tao nghĩ là bà đã tìm thấy nó ngoài đó, ở nhà Hightower, lần đầu tiên: một người mà bà có thể kể ra hết, một người chịu khó nghe bà. Rất có thể đó là lần đầu tiên từ trước đến nay bà kể ra câu chuyện của đời mình. Và rất có thể đó là lần đầu tiên chính bà biết được, bà thực sự thấy được vào lúc đó câu chuyện đó, toàn bộ và có thực, cùng lúc với Hightower. Cho nên tao không nghĩ rằng đó là quá kỳ lạ khi bà tỏ ra lộn xộn, nhầm lẫn trong một thời gian không những với đứa bé mà cả với quan hệ cha mẹ của nó, bởi vì trong căn lều đó, ba mươi năm qua đã không tồn tại - đứa bé mới sinh và cha nó mà bà chưa từng gặp, và đứa cháu ngoại trai của riêng bà mà bà đã không gặp lại từ khi nó còn là em bé như đứa kia, và cha nó, như cha đứa kia, cũng đã không tồn tại đối với bà, tất cả đều lẫn lộn, mù mờ. Và tao thấy cũng tất nhiên thôi khi niềm hy vọng thực sự bắt đầu nhú ra trong bà, bà liền hướng về ông mục sư cùng với niềm tin tuyệt diệu và vô hạn của loại người như bà đối với những người làm nô lệ tự nguyện, làm người đầy tớ có tuyên thệ của Chúa.

"Đó là những điều bà kể lại với Christmas trong nhà tù ngày hôm nay, trong khi lão già lợi dụng dịp này lẻn đi khỏi bà. Bà lần theo lão lên phố, và tìm thấy lão ở một góc đường, lão tỏ ra điên hết thuốc chữa, hoàn toàn khản tiếng, ra sức thuyết về sự hành hình theo kiểu lin-chơ, kể ra cho mọi người nghe lão là ông ngoại của một thằng con của quỷ sứ và lão đã canh giữ nó cho tới ngày hôm nay. Hay có lẽ bà trên đường đi đến nhà tù để gặp Christmas khi bà rời căn lều. Dù gì đi nữa, bà để cho lão yên ngay khi bà nhận ra là những người nghe thì có vẻ thích thú hơn là bị kích động, và bà tiếp tục đi tìm gặp ông cò. Ông vừa về sau khi ăn tối và trong một lúc ông không thể hiểu bà muốn gì. Dưới mắt ông lúc đó, bà chắc có vẻ như phát khùng đến nơi, với câu chuyện đó của bà, với cái áo đầm dành cho ngày chủ nhật chỉnh tề một cách vô vọng, sẵn sàng xông lên phá ngục. Nhưng ông cho phép bà đi đến nhà tù, với một cảnh sát. Và ở đó, trong xà lim với y, tao tin rằng bà đã nói với y về Hightower, là Hightower có thể cứu y, sắp sửa cứu y.

"Nhưng, tất nhiên là tao không biết bà nói gì với y. Tao không tin là ai đó có thể phục dựng cái cảnh này. Tao nghĩ là chính bà cũng không biết, là bà đã không sửa soạn những điều mà bà sắp nói với y, bởi vì mọi sự đã được diễn đạt, được viết ra cho bà vào cái đêm bà đẻ ra mẹ y; và so với bây giờ thì việc đó xảy ra lâu lắm rồi, lâu đến độ bà ghi khắc nó mãi mãi trong đầu, rồi bà quên đi những lời được viết ra đó. Có lẽ vì vậy mà y tin bà ngay tức khắc, nhắm mắt tin. Tao muốn nói, bởi vì bà không bận tâm đến những điều để nói, đến chuyện y thấy lời bà có vẻ hợp lý hay không, đến chuyện y có thể nghi ngờ lời bà hay không: ở đâu đó và bằng cách này hay cách nọ, trong con người, trong sự hiện diện hay trong bất cứ cái gì, của một ông mục sư già bị ruồng bỏ đó, là một nơi ẩn náu bất khả xâm phạm không những đối với cảnh sát và đám đông mà còn đối với cái quá khứ không thể hủy bỏ được; và đối với bất cứ tội ác nào đã khuôn đúc y, đã hình thành y để cuối cùng dẫn y vào sau song sắt xà lim, với bóng ma của tên đao phủ chưa được chỉ định lúc nào cũng lẩn quẩn trước mắt.

"Và y đã tin bà. Tao nghĩ chính điều đó đã cho y không phải sự can đảm mà là sự kiên nhẫn thụ động để tiếp tục tồn tại, nhận ra và chấp thuận cái cơ hội duy nhất mà y có được để xông vào giữa quảng trường đầy người và chạy trốn, tay còn bị còng. Nhưng có quá nhiều thứ cùng chạy với y, cùng một nhịp chân với y. Không phải những người đuổi bắt đâu, nhưng chính y: những năm tháng, những hành động, những việc làm lơ là hay tận tụy, theo kịp y từng bước chân sải dài, từng hơi thở một, từng nhịp đập của quả tim. Chỉ một quả tim đơn độc. Đó là, không những ba mươi năm này mà bà không biết mà còn một chuỗi những ba mươi năm khác đi trước cái chuỗi đã vấy một vết bẩn trên máu da trắng, hay trên máu da đen của y, tùy các bạn muốn, và chính cái này đã giết y. Nhưng trong một lúc y phải chạy với niềm tin, hay ít ra, với niềm hy vọng. Nhưng máu huyết y thì không muốn im lặng, không muốn được cứu thoát. Nó không muốn cái này lẫn cái kia, không muốn để cho thân thể y tự cứu lấy mình. Bởi vì máu da đen của y thúc đẩy y trước tiên về phía căn lều da đen. Rồi máu da trắng của y lại đẩy y ra khỏi chỗ đó, giống như máu da đen chụp lấy khẩu súng lục và máu da trắng lại không để cho y bắn. Và chính máu da trắng kéo y đến nhà ông mục sư, nó nổi lên trong người y một lần cuối cùng và dứt khoát, đẩy y, trái với mọi lý lẽ và thực tế, vào vòng tay của sự hão huyền, của niềm tin mù quáng ở cái gì đó đọc trong một cuốn Kinh in. Rồi tao nghĩ là máu da trắng bỏ rơi y trong một khoảnh khắc. Chỉ một giây chớp nhoáng, để cho máu da đen nổi lên cho hồi chung cục, đẩy y chống lại cái mà y trước đó đã đặt mọi hy vọng được cứu giúp của mình. Chính máu da đen cho phép nỗi ham muốn của riêng y lôi cuốn y ra ngoài những giới hạn mà con người có thể giúp đỡ y, lôi cuốn y vào trong trạng thái mê ly lúc ra khỏi khu rừng đen nơi mà cuộc sống đã chấm dứt trước khi quả tim ngừng đập và cái chết thì đồng nghĩa với nỗi ham muốn và sự mãn nguyện. Rồi máu da đen lại bỏ rơi y lần nữa, như nó chắc đã làm thế vào những lúc khủng hoảng trong suốt cuộc đời y. Y không giết ông mục sư. Y đơn giản đánh ông bằng khẩu súng lục rồi chạy tiếp, và ngồi núp sau chiếc bàn, và thách thức cái máu da đen lần cuối cùng, như y đã thách thức nó trong ba mươi năm. Y ngồi núp sau chiếc bàn bị lật nhào đó và để cho họ bắn y đến chết mà không dùng đến khẩu súng lục đã lên đạn y cầm trong tay."

***

Vào thời buổi đó có một thanh niên tên là Percy Grimm sống trong thành phố. Gã khoảng hai mươi lăm tuổi và là một đại úy trong đoàn vệ binh quốc gia của Tiểu bang. Gã sinh ra và sống cả đời ở thành phố này, trừ mùa hè, khi gã vào sống trong trại quân. Gã còn quá trẻ để có thể tham dự vào Thế chiến thứ nhất[126]. Tuy nhiên, chỉ vào năm 1921 hay 1922 gã mới nhận ra là mình sẽ không bao giờ tha thứ cho cha mẹ trước sự việc đó. Cha gã, một người buôn bán vật dụng sửa chữa nhà cửa, không hiểu điều này. Ông tin là thằng con mình chỉ là một đứa lười biếng có khả năng trở thành một tên vô tích sự từ đầu đến chân. Thực ra gã chịu đựng một bi kịch khủng khiếp là sinh ra không những quá trễ nhưng mà không trễ lắm để thoát khỏi lương tri của thời đại đã qua, khi mà gã lẽ ra phải là một người đàn ông thay vì một đứa con nít. Và bây giờ thì sự cuồng loạn đã qua, bây giờ thì những người đã từng gào thét to nhất trong sự cuồng loạn đó và ngay cả những người, những anh hùng đã từng đau khổ, đã từng phục vụ trong cuộc chiến, bắt đầu nhìn lẫn nhau một cách hơi ngờ vực, gã không có ai để mà nói ra nỗi khổ tâm của mình, không có ai để mà cởi mở tấm lòng. Trên thực tế, trận đánh quan trọng đầu tiên của gã là với một tên cựu chiến binh đã mở miệng tuyên bố là, nếu phải bắt đầu lại thì anh ta lần này sẽ chọn chiến đấu bên phía Đức và chống lại Pháp. Grimm tức khắc ngắt lời anh ta. "Chống cả nước Mỹ nữa à?" gã nói.

"Nếu nước Mỹ tỏ ra quá ngu ngốc để nhào vô giúp Pháp lần nữa," tên lính nói. Ngay lập tức, Grimm tung một cú đấm vào mặt anh ta; gã thì nhỏ con hơn tên lính, lại chưa được hai mươi tuổi. Kết quả thì đã biết trước rồi; ngay cả Grimm chắc chắn cũng biết điều đó. Nhưng gã chịu đựng sự trừng phạt cho tới khi chính tên lính mở miệng xin những người đứng ngoài hãy ra tay giữ chặt tên thiếu niên này lại. Và gã mang những vết sẹo của trận đánh đó một cách hãnh diện giống như sau này khi gã phải mang chính bộ quân phục mà vì nó gã đã đánh nhau một cách mù quáng.

Chính đạo luật dân sự-quân sự mới đã cứu gã. Gã thì giống như một người sống quá lâu trong vùng đầm lầy, trong bóng tối. Như thể gã không những không thấy lối ra trước mặt mình mà còn biết là chẳng có lối ra nào hết. Rồi bất ngờ cuộc đời gã mở rộng ra, được xác định và rõ ràng. Những năm tháng hoang phí mà gã đã trải qua, học hành không ra gì ở trường, có tiếng là lười biếng, cứng đầu, không hoài bão, tất cả giờ đây đã ở sau lưng gã, đã bị lãng quên. Gã bây giờ có thể thấy cuộc sống mở ra trước mặt mình, đơn giản, không thể tránh được, giống như một hành lang trống vắng. Gã cảm thấy hoàn toàn tự do, không còn phải suy nghĩ hay quyết định nữa. Gánh nặng mà gã bây giờ cáng đáng và mang theo thì sáng sủa, nhẹ tênh và hùng dũng, như màu đồng thau trên những huy hiệu của gã: một niềm tin tuyệt diệu và ngấm ngầm vào sự can đảm thể lý và sự phục tùng mù quáng, và một sự tin tưởng là chủng tộc da trắng thì cao cấp hơn tất cả những chủng tộc khác, là chủng tộc Mỹ thì cao cấp hơn tất cả những chủng tộc da trắng khác, là bộ quân phục Mỹ thì cao cấp hơn tất cả mọi người đàn ông, là sinh mạng của riêng gã có lẽ sẽ là cái giá duy nhất mà người ta đòi hỏi gã phải trả để đổi lấy sự tin tưởng này, đặc ân này. Mỗi một khi có ngày nghỉ lễ cả nước mà có chút bất cứ màu sắc quân sự nào thì y như rằng gã khoác lên người bộ quân phục đại úy của mình và đi vào trung tâm thành phố. Và những người thấy gã thì còn nhớ gã vào cái ngày gã đánh nhau với tên cựu chiến binh. Gã trông sáng rực với cái huy hiệu người thiện xạ (gã bắn súng giỏi) và cái lon đại úy, bộ dạng nghiêm trọng, cứng nhắc. Gã tản bộ ngay giữa những người dân thường, mang vẻ nửa hung hăng và nửa lúng túng của một đứa bé kiêu căng.

Gã không phải là thành viên của Hội Cựu chiến binh Mỹ[127] nhưng đó là lỗi của cha mẹ gã chứ không phải lỗi gã. Nhưng khi Christmas bị dẫn từ Mottstown về lại Jefferson vào buổi chiều thứ bảy đó, gã đã tìm đến gặp viên chỉ huy chi hội cựu chiến binh địa phương. Ý kiến, lời lẽ của gã thì đơn giản, rạch ròi. "Chúng ta phải duy trì trật tự," gã nói. "Chúng ta phải để luật pháp đi theo đúng con đường của nó. Luật pháp, dân tộc. Những người dân thường không có quyền kết án tử hình một người. Và chúng ta, những chiến binh của Jefferson, chính chúng ta phải lo liệu việc này."

"Làm sao anh biết là ai đó đang trù tính việc gì khác?" viên chỉ huy nói. "Anh đã nghe những tin đồn nào?"

"Tôi không biết. Tôi đã không lắng nghe." Gã không nói láo. Làm như gã coi là không quan trọng những gì mà người dân thường có thể nói hay không nói, để bỏ công ra mà nói láo. "Vấn đề không nằm ở chỗ đó. Vấn đề ở chỗ là hoặc có, hoặc không, chúng ta, với tư cách là những chiến binh, những người đã và đang mặc quân phục, chúng ta sẽ là những người đầu tiên đưa ra lập trường của mình. Cho dân chúng thấy ngay lập tức chính quyền của đất nước này đang đứng ở đâu trước những sự việc như vậy. Chỉ mở miệng nói lên, nói xuống thì chẳng có ích gì cho dân." Kế hoạch của gã thì đơn giản. Điều phải làm là tập hợp các cựu chiến binh ở chi hội thành một trung đội do chính gã chỉ huy, chiếu theo cấp bậc sĩ quan tại ngũ của gã. "Nhưng nếu họ không muốn tôi chỉ huy thì cũng được thôi. Tôi sẽ làm phó, nếu họ muốn. Hay làm trung sĩ, hay hạ sĩ." Và gã thực tình khi nói vậy. Gã đâu thích mấy thứ vinh dự rỗng tuếch. Gã tỏ ra quá ngay thật. Ngay thật, nghiêm chỉnh đến mức viên chỉ huy đành dằn lại, không nói ra ngay lời từ chối thẳng thừng.

"Tôi vẫn nghĩ rằng chẳng cần phải làm như vậy đâu. Nhưng nếu thực sự cần thiết thì tất cả chúng tôi phải hành sử với tư cách người dân thường. Tôi không thể sử dụng chi hội như vậy được. Dù gì thì chúng tôi bây giờ đâu còn là lính tráng nữa. Tôi không nghĩ rằng tôi muốn chấp nhận đề nghị của anh, dù tôi có thể đi nữa."

Grimm nhìn ông ta, không tỏ ra giận dữ, nhưng như thể nhìn một con sâu bọ. "Tuy nhiên, ông đã từng mặc quân phục," gã nói với một vẻ kiên nhẫn. Gã nói: "Tôi hy vọng là ông sẽ không dùng quyền hành của mình để ngăn cản tôi nói chuyện với họ, phải vậy không? Với tư cách cá nhân với nhau?"

"Không đâu. Dù sao, tôi chẳng có bất cứ quyền hành gì để ngăn cản anh. Nhưng, với tư cách cá nhân với nhau, nên nhớ vậy. Anh không được sử dụng tên tôi, bất kể trong trường hợp nào."

Gã trấn an ông ta theo kiểu của gã. "Có thể là tôi sẽ không làm điều đó," gã nói. Rồi biến mất. Lúc đó là khoảng bốn giờ ngày thứ bảy. Trong phần còn lại của buổi chiều đó, gã đi khắp các cửa tiệm và văn phòng, nơi có những hội viên cựu chiến binh làm việc. Và khi đêm xuống, gã có đủ những người thuận theo ý gã để lập thành được hơn một trung đội. Gã thì không biết mỏi mệt, lại biết giữ gìn ý tứ, nhưng mạnh mẽ; giống như các nhà tiên tri, gã toát ra sức lôi cuốn khó cưỡng được. Tuy vậy, những người mà gã mới mộ được đều nhất trí với viên chỉ huy đó ở một điểm: không được dùng danh nghĩa chính thức của Hội Cựu chiến binh Mỹ trong vụ việc này - nhân đó, và không cố ý, gã đã đạt được mục tiêu ban đầu: người chỉ huy, bây giờ, chính là gã. Gã đã tập hợp tất cả bọn họ lại trước giờ ăn tối và chia họ ra thành những phân đội và chỉ định sĩ quan và bộ tham mưu; những người trẻ nhất, tức là những người đã không sang Pháp đánh nhau trước đây, giờ thì tỏ ra hăng hái hết mực. Gã nói chuyện trước họ, một cách ngắn gọn, lạnh lùng: "... trật tự... tiến trình của công lý... hãy để cho dân chúng thấy là chúng ta đã mang quân phục Hoa Kỳ... Và một điều cuối cùng." Và bây giờ gã trở nên thân mật, bình dân, theo kiểu người chỉ huy trung đoàn biết rõ lính của mình, có thể gọi họ bằng tên riêng. "Tôi phó thác việc này cho các bạn. Tôi sẽ làm những gì mà các bạn quyết định. Nhưng tôi nghĩ có lẽ tốt hơn tôi nên mặc quân phục cho tới khi nào vụ việc này được giải quyết xong. Để cho dân chúng thấy là Chú Sam có mặt ở đây không chỉ trong ý nghĩ."

"Nhưng Chú Sam không có ở đây," ai đó nói nhanh, ngay tức khắc; đó là một người cùng kiểu như viên chỉ huy, à nhân tiện nói thêm là ông ta không có mặt ở đó. "Đây chưa phải là việc rắc rối cho chính phủ. Có thể ông cò Kennedy không thích chuyện này đâu. Đây là việc rắc rối của Jefferson, chứ không phải của Washington[128]."

"Ta sẽ làm cho ổng thích," Grimm nói. "Hội Cựu chiến binh của các bạn có ích cho ai nếu không phải là để bảo vệ nước Mỹ và người Mỹ, không phải vậy sao?"

"Không," người kia nói. "Tôi cho là tốt hơn chúng ta không nên phô trương mấy thứ quân phục này ra. Chúng ta có thể làm những gì chúng ta muốn mà không cần chúng. Như vậy thì còn tốt hơn nữa đó. Này, không phải vậy sao, tụi mày?"

"Được thôi," Grimm nói. "Tôi sẽ làm như các bạn nói. Nhưng tôi muốn mỗi người mang theo súng lục. Chúng ta sẽ có một cuộc kiểm tra vũ khí nhanh chóng ở đây, trong một giờ nữa. Mọi người sẽ trình diện tại đây."

"Nhưng ông cò Kennedy sẽ nói gì về mấy khẩu súng lục này?" một người nào đó nói.

"Tôi sẽ lo chuyện đó," Grimm nói. "Hãy trình diện ở đây đúng một giờ nữa, với vũ khí đeo cạnh sườn." Gã giải tán họ. Gã đi băng qua quảng trường yên tĩnh để đến văn phòng ông cò. Người ta bảo gã là ông cò đang ở nhà. "Ở nhà ư?" gã lập lại. "Bây giờ sao? Ổng đang làm gì ở nhà vào giờ này?"

"Ăn chớ làm gì. Một người to mập như ổng phải ăn tới mấy lần trong ngày lận."

"Ở nhà!" Grimm lập lại. Ánh mắt gã không lóe lên chút giận nào; gã tỏ ra cùng vẻ lạnh lùng, xa cách mà hồi nãy gã đã nhìn viên chỉ huy. "Ăn!" gã nói. Gã đi ra ngoài, chân đã bước nhanh. Gã băng qua quảng trường trống vắng lần nữa, cái quảng trường yên bình không có ai vào giờ này, giờ mà người ta ngồi xung quanh bàn, ăn tối một cách yên bình, trong cái thành phố yên bình này, trong cái xứ sở yên bình này. Gã đi thẳng tới nhà ông cò. Và ông cò nói "Không" ngay tức khắc.

"Mười lăm hay hai chục mạng lận súng trong quần rồi xách đít đi quanh quảng trường sao? Không, không! Không xong được đâu. Tôi không cho phép việc này. Không xong được đâu. Hãy để tôi giải quyết việc này."

Grimm nhìn ông cò hơi lâu. Rồi gã quay người, chân đã bước nhanh lại. "Được rồi," gã nói. "Nếu đó là cách ông muốn. Vậy thì tôi không xen vào việc của ông và ông không xen vào việc của tôi." Câu nói này không có vẻ là lời hăm dọa. Nó quá tẻ nhạt, quá dứt khoát, và quá thiếu sức nóng. Gã đi ra nhanh. Ông cò nhìn theo gã và bất ngờ ông gọi gã. Grimm quay người lại.

"Cậu cũng phải để súng ở nhà nữa đó," ông cò nói. "Cậu có nghe tôi không?" Grimm không trả lời. Gã tiếp tục đi. Ông cò nhíu mày, nhìn gã ra khỏi tầm mắt mình.

Tối hôm đó, sau khi ăn, ông cò vào lại trung tâm thành phố - một chuyện mà ông đã không làm từ bao nhiêu năm nay, trừ những khi ông có việc khẩn cấp không thể tránh được. Ông tìm thấy một tốp người của Grimm ở trước nhà tù, một tốp khác ở trước tòa án, và tốp thứ ba thì đi tuần tra ở quảng trường và các đường phố liền kề. Người ta báo với ông cò là những người khác, dùng để đổi phiên, thì hiện đang ở văn phòng nhà máy bông vải, nơi Grimm làm việc. Văn phòng này giờ thì được họ dùng làm phòng cần vụ và sở chỉ huy. Ông cò gặp Grimm giữa đường, gã đang làm một vòng thanh tra. "Này cậu kia, đến đây coi," ông cò nói. Grimm dừng lại. Gã không đến gần; ông cò bước về phía gã. Ông vỗ nhẹ vào hông Grimm bằng bàn tay mập ú của mình. "Tôi đã biểu cậu để cái này ở nhà mà," ông nói. Grimm không nói gì. Gã nhìn thẳng vào mặt ông cò. "Thôi được, nếu cậu không muốn. Tôi cho là tôi chỉ còn cách phong cậu làm một cảnh sát viên đặc biệt thôi. Nhưng cậu thậm chí không được rút súng ra trừ phi tôi biểu cậu. Cậu có nghe tôi không?"

"Tất nhiên là không rồi," Grimm nói. "Ông nhất định không muốn tôi rút súng nếu tôi không thấy cần thiết sao?"

"Tôi chỉ muốn nói, trước khi tôi biểu cậu."

"Tất nhiên rồi," Grimm nói ngay tức khắc, một cách kiên nhẫn và hơi lạnh lùng. "Cả hai chúng ta đều nói vậy mà. Ông đừng lo. Tôi sẽ có mặt ở đó."

Sau đó, khi thành phố trở lại yên tĩnh trong đêm, khi rạp chiếu bóng không còn người và các cửa hàng dược phẩm kiêm tạp hóa[129] lần lượt đóng cửa, trung đội của Grimm cũng bắt đầu giảm xuống. Gã không phản đối, chỉ lạnh lùng nhìn họ; họ trở nên hơi rụt rè, hơi lo thủ thế. Một lần nữa và không nghĩ tới, gã đã chơi một lá bài chủ. Bởi vì họ cảm thấy hơi hèn, bởi vì họ nhận ra là bằng cách này hay cách nọ họ đã không đạt tới mức độ hăng say trầm tĩnh của riêng gã, họ sẽ trở lại ngày hôm sau, dù chỉ để cho gã thấy mặt. Một vài người ở lại. Vả lại, đó là buổi tối thứ bảy, và ai đó đi lấy thêm vài cái ghế ở đâu đó, và họ bắt đầu đánh bài xì tố. Họ chơi suốt đêm. Nhưng thỉnh thoảng Grimm (gã không chơi bài và gã cũng cấm tên chỉ huy phó, người duy nhất trong bọn họ có quân hàm tương đương với một sĩ quan được cấp bằng, tham dự) gởi một tiểu đội đi ra tuần tra ở quảng trường. Vào lúc này, viên đội cảnh sát trực đêm nhập bọn với họ, tuy ông ta cũng không chơi bài.

Ngày chủ nhật thì yên tĩnh. Cuộc chơi xì tố, không ồn ào, kéo dài suốt ngày hôm đó, thỉnh thoảng bị gián đoạn bởi việc tuần tra đều đặn, trong khi chuông nhà thờ yên bình đổ dồn và các tín đồ tụ tập một cách trang nghiêm, hợp thành từng nhóm với màu sắc mùa hè tươi sáng. Ở quảng trường, người ta đã biết là hội thẩm đoàn đặc biệt sẽ họp vào ngày hôm sau. Chỉ cần nghe các từ "hội thẩm đoàn đặc biệt", với tất cả những gì bí mật và không thể hủy bỏ, một cái gì đó bị che giấu mà chúng gợi lên, giống như một con mắt có quyền vô hạn và lúc nào cũng mở nhìn các hành động của con người, những người đi theo Grimm bắt đầu cảm thấy vững tin vào sự giả bộ của mình. Con người chỉ cần một thời gian rất ngắn để bị xúc động một cách không ý thức và không thể đoán trước, ngắn đến nỗi mà, tuy không nhận ra điều đó, thành phố bỗng bất ngờ chấp nhận Grimm với sự tôn trọng và có lẽ với một chút sợ sệt và với ít nhiều tin tưởng và tin cậy thực sự, như thể bằng cách nào đó trong tầm nhìn xa, trong lòng yêu nước, trong sự hãnh diện về thành phố của mình, gã đã tỏ ra nhanh nhạy hơn, thành thật hơn chính họ. Dù gì đi nữa, đó là sự cảm nghĩ của những người đi theo Grimm; sau một đêm thức trắng, sự căng thẳng, ngày chủ nhật được nghỉ làm, sự hy sinh các ý muốn, họ hầu như ở mức có thể sẵn sàng chết vì gã, nếu cơ hội xuất hiện. Họ bây giờ đi loanh quoanh trong một quầng sáng nghiêm trang và hơi khủng khiếp, hầu như sờ thấy được như quân phục bằng vải kaki mà Grimm mong muốn họ mặc, mong muốn họ đã mặc lúc này, như thể mỗi lần họ trở lại phòng cần vụ, họ lại mặc trên người một lần nữa những mảnh vụn của giấc mơ của gã, dịu ngọt và rực rỡ một cách khắt khe.

Chuyện đó kéo dài suốt đêm chủ nhật. Cuộc chơi xì tố tiếp tục. Giờ thì không còn thận trọng, không còn lén lút khi đánh bạc. Trong thái độ của họ thì có cái gì đó quá yên trí, một sự bình thản quá tự tin, gần như huênh hoang; đêm đó, khi họ nghe tiếng chân của tên đội cảnh sát ở cầu thang, một tên trong bọn họ buột miệng nói, "Coi chừng, quân cảnh đó[130]!" và trong một khoảnh khắc, họ liếc nhìn lẫn nhau bằng cặp mắt lóe sáng, cứng cỏi và liều lĩnh; rồi một tên khác nói khá to: "Tống cổ thằng chó đẻ đó ra ngoài đi," rồi một tên khác nữa chúm môi xì ra một tiếng địt. Và vậy là vào sáng hôm sau, thứ hai, khi những chiếc xe hơi và xe la đầu tiên từ vùng quê bắt đầu đến, trung đội của Grimm lại được tập hợp đầy đủ lần nữa. Và họ lúc này mặc quân phục. Đó là những khuôn mặt của họ. Phần lớn chúng mang những dấu ấn của tuổi tác, cho thấy thế hệ của họ, kinh nghiệm của họ. Nhưng còn hơn vậy nữa. Giờ đây chúng mang một sự nghiêm trang sâu sắc và lạnh lùng; và họ đứng đó, nghiêm trang, khắt khe và xa cách, giữa sự đi lại lộn xộn của đám đông; và họ nhìn bằng cặp mắt lạnh lẽo và trống rỗng cái đám đông chậm chạp này, tuy cảm thấy, nhận thấy mà không biết, đang đi ngang trước mặt họ, bước chân chậm lại để nhìn họ chằm chằm, đến nỗi họ bị vây quanh bởi những bộ mặt chăm chú, trống rỗng và bất động như bộ mặt những con bò cái, những bộ mặt đến gần rồi rời xa, được thay thế ngay bởi những bộ mặt khác. Và suốt cả buổi sáng, những tiếng nói đến rồi đi, như trong một cuộc trao đổi kín đáo giữa câu hỏi và trả lời: "Ảnh kia rồi. Cái anh trai trẻ với khẩu súng ngắn tự động đó. Chính ảnh chỉ huy mấy người kia đó. Sĩ quan do ông thống đốc đặc biệt gởi đến đó. Chính ảnh phụ trách toàn bộ sự việc đó. Ông cò chẳng có gì để nói, ngày hôm nay."

Sau đó, khi chuyện đã quá trễ, Grimm nói với ông cò: "Giá như ông chỉ nghe theo lời tôi. Giá như ông để tôi cho cả một tiểu đội xách y ra khỏi nhà tù, thay vì cho dẫn y đi qua quảng trường với một thằng cảnh sát độc nhất, lại còn không chịu còng tay y nữa chớ, giữa cả cái đám đông đó thì làm sao cái thằng trời đánh Buford dám rút súng ra bắn chớ, dù là hắn bắn phải cái cánh cửa chuồng bò."

"Làm sao tôi đoán được là y có ý định trốn đi, lại tìm cách trốn ngay lúc đó và ở chỗ đó chớ?" ông cò nói. "Trong khi Stevens biểu tôi trước đó là y sẽ khai có tội trước tòa và nhận án tù chung thân."

Nhưng chuyện đã quá trễ lúc đó. Đã chấm dứt rồi, lúc đó. Chuyện xảy ra ngay trung tâm quảng trường, nửa đường giữa vỉa hè và tòa án, giữa một đám đông dày đặc như trong ngày hội chợ. Grimm chỉ biết chuyện khi nghe tên cảnh sát bắn chỉ thiên hai phát. Nhưng gã hiểu ngay lập tức chuyện gì xảy ra, tuy gã đang ở bên trong tòa án lúc đó. Phản ứng của gã thì rõ ràng và tức khắc. Gã vừa vọt chạy về phía tiếng súng nổ, vừa hét to ra sau lưng cho tên đàn ông đã theo gã bén gót từ gần bốn mươi tám giờ nay, nửa như phụ tá, nửa như cần vụ: "Kéo còi báo động cháy đi!"

"Báo động cháy sao?" tên phụ tá nói. "Cái gì..."

"Kéo còi báo động cháy đi!" Grimm quát lại. "Người ta nghĩ gì thì mặc kệ họ, miễn là họ biết có chuyện đang xảy ra..." Chưa hết câu, gã đã khuất dạng.

Gã chạy giữa những người cũng chạy, bắt kịp họ, vượt qua họ, bởi vì gã có một mục đích và họ thì không; họ chỉ chạy. Bằng khẩu súng lục tự động to nặng, màu đen, gã mở đường cho mình như một cái cày. Người ta nhìn khuôn mặt trẻ, căng thẳng và cứng cỏi của gã bằng những khuôn mặt tái nhợt, hốt hoảng, với các lỗ tròn có răng, từ đó phát ra một âm thanh kéo dài như tiếng thở dài: "Đằng kia... y bỏ trốn phía đó..." Nhưng Grimm đã thấy tên cảnh sát đang chạy, tay giơ cao khẩu súng lục. Grimm liếc nhìn quanh rồi lao mình chạy tiếp. Trong đám đông rõ ràng đã đi theo viên cảnh sát và người tù ngang qua quảng trường thì có một tên thiếu niên lóng cóng quen thuộc trong bộ đồng phục của Western Union[131] dắt chiếc xe đạp bằng tay lái như dắt con bò cái dễ bảo. Grimm nhét súng vào lại bao, xô thằng bé sang bên, nhảy lên chiếc xe đạp và cưỡi đi một mạch.

Chiếc xe đạp thì không có còi hay chuông. Vậy mà không biết làm sao người ta cảm thấy gã đang chạy đến và tránh đường cho gã; và trong chuyện này nữa, gã có vẻ như được phục vụ bởi sự tin chắc, một niềm tin mù quáng và không lay chuyển được vào tính đúng đắn và tính không thể sai lầm được của những hành động của mình. Khi bắt kịp tên cảnh sát, gã cho xe đạp chậm lại. Tên cảnh sát quay về phía gã cái bộ mặt đẫm mồ hôi, miệng mở to vì la hét, vì chạy. "Y quẹo," tên cảnh sát hét lên. "Vào cái hẻm kia kìa..."

"Tôi biết. Grimm nói. "Y có bị còng không?"

"Có chớ!" tên cảnh sát nói. Chiếc xe đạp vọt lên.

'Vậy thì y không thể chạy rất nhanh được,' Grimm nghĩ. 'Chẳng mấy chốc y phải tìm chỗ ẩn náu. Ít ra là không cho ai thấy mặt.' Gã nhanh chóng rẽ vào con hẻm đi sâu từ giữa hai căn nhà, với một hàng rào ở một bên. Vào lúc đó, tiếng còi hụ báo cháy lần đầu tiên vang lên, bắt đầu rồi tăng dần cho tới khi trở thành một tiếng hét chậm rãi và kéo dài, cuối cùng thì vượt qua những giới hạn của tầm nghe để đi vào thế giới của những cảm xúc, như một sự chấn động không ra tiếng. Grimm tiếp tục đạp xe, đầu óc suy nghĩ một cách lô-gíc, nhanh nhạy với một thứ niềm vui mãnh liệt nhưng không được tự nhiên. 'Việc đầu tiên y phải làm là chui trốn ở đâu đó,' gã vừa nghĩ, vừa nhìn chung quanh. Con hẻm thì mở ra một bên, còn bên kia là cái hàng rào cao một thước tám. Ở tận cùng, nó bị cắt ngang bằng một cái cổng gỗ mà xa hơn là một đồng cỏ rồi một cái mương sâu làm mốc ranh giới của thành phố. Phía trên đầu cổng, người ta thấy ngọn các cây cao mọc trên cánh đồng; cả một trung đoàn hẳn có thể ẩn mình hay dàn trận ở đó. "A," gã nói to. Không ngừng hay chậm lại, gã quay đầu xe đạp, đi ngược lại cho tới con đường phố gã vừa rời đi. Tiếng rền rĩ của còi báo động bây giờ đang tắt dần, xuống lại tầm nghe bình thường, và khi gã quẹo xe đạp xuống con đường đó thì gã liếc nhìn đám đông đang chạy và một chiếc xe hơi lao về phía gã. Dù gã cố sức đạp nhưng chiếc xe vẫn bắt kịp gã. Những người trong xe nhoài người hét vào bộ mặt căng thẳng với cặp mắt nhìn thẳng về phía trước của gã. "Lên xe đi!" họ hét to. "Lên xe đi!" Gã không trả lời. Gã không nhìn họ. Chiếc xe, sau khi qua mặt gã, chạy chậm lại. Giờ thì gã vượt qua nó bằng một tốc độ nhanh, lặng lẽ và đều đặn. Chiếc xe hơi lại tăng tốc và vượt qua gã. Những người đàn ông nhoài người ra ngoài và nhìn về phía trước. Gã cũng đi nhanh, im lặng, với sự nhanh chóng khéo léo của ma quỷ hiện hình, với sự đúng đắn không khoan nhượng của Juggernaut[132] hay của ba vị Thần số mệnh[133]. Sau lưng gã, tiếng còi hụ bắt đầu tăng cường độ rền rĩ lại. Khi những người trong xe ngoái đầu nhìn ra sau thì gã đã hoàn toàn biến mất.

Gã đạp hết tốc lực quành vào một con hẻm khác. Bộ mặt gã đanh lại như đá, bình tĩnh, luôn được soi sáng bởi sự biểu lộ một trạng thái trọn vẹn, một niềm vui sâu đậm và táo bạo. Con hẻm này thì sụt hỏng hơn con hẻm trước, có nhiều vết bánh xe hằn sâu hơn. Nó cuối cùng dẫn đến một gò đất trơ trụi, và ở đó gã nhảy xuống, để mặc chiếc xe đạp chạy tiếp rồi ngã xuống, rồi gã có thể thấy toàn bộ cái hẻm núi nằm ở rìa thành phố. Hai hay ba căn lều da đen nằm dọc theo nó cũng hiện ra trong tầm mắt gã. Gã không cử động, cứ đứng đó, im lặng, một mình, như có cái gì tiền định, gần giống như một cột mốc. Một lần nữa, tiếng còi hụ từ thành phố sau lưng gã bắt đầu tắt dần.

Rồi gã thấy Christmas. Gã thấy tên đàn ông, bị nhỏ lại vì khoảng cách, đang leo ra khỏi mương, hai bàn tay sát nhau. Trong khi quan sát y, Grimm thấy, khi mặt trời rọi lên cái còng, hai bàn tay của người trốn chạy lóe lên như một tia sáng của kính định nhật; và gã có cảm tưởng là ngay cả từ chỗ này gã có thể nghe tiếng thở hổn hển và vô vọng của tên đàn ông đó, thậm chí bây giờ vẫn không được tự do. Rồi cái bóng dáng nhỏ bé đó bắt đầu chạy lại và biến mất sau một căn lều da đen gần nhất.

Bây giờ Grimm cũng chạy nữa. Gã chạy nhanh, tuy không tỏ ra vội vã hay gắng sức. Và không có gì là thù hằn nơi gã, không có gì là giận dữ, là bị xúc phạm. Chính Christmas cũng thấy như vậy. Bởi vì trong một khoảnh khắc hai người nhìn nhau, gần như mặt đối mặt. Đó là khi Grimm trong lúc chạy thì sắp sửa quành qua một góc căn lều. Và ngay lúc đó Christmas nhảy vọt ra từ cửa sổ phía sau của căn lều đó, như thể do ma thuật; y giơ hai tay mang còng lên cao, bây giờ phản chiếu ánh sáng như thể chúng bị cháy. Trong một khoảnh khắc, hai người nhìn nhau trừng trừng, một người thì đột ngột ngừng lại ngay lúc ngồi xuống sau cú nhảy, người kia thì ngay giữa bước chân đang chạy, trước khi đà chạy kéo Grimm qua khỏi góc căn lều. Trong khoảnh khắc đó, gã thấy Christmas mang một khẩu súng lục mạ kền to nặng. Gã xoay người, nhảy vọt ra sau ẩn mình sau góc nhà, tay rút khẩu súng lục tự động ra.

Gã suy nghĩ nhặm lẹ, bình tĩnh, với cùng niềm vui lặng lẽ: 'Y có thể làm hai điều. Y có thể cố gắng xuống lại con mương lần nữa, hay là lẩn tránh xung quanh nhà cho tới khi hoặc y, hoặc mình bị bắn chết. Và y thì ở phía con mương.' Gã phản ứng tức khắc. Gã chạy hết tốc lực quành qua góc nhà mà y vừa nhảy lùi lại. Gã làm vậy, như thể dưới sự phù hộ của bùa phép hay của ông trời, hay là như thể gã biết là Christmas không chờ sẵn ở đó với khẩu súng lục. Gã tiếp tục chạy không nghỉ qua cái góc nhà kế tiếp.

Bây giờ gã ở bên bờ mương. Gã ngừng lại nửa chừng khi đang chạy, bất động. Phía trên cái báng cứng và lạnh của khẩu súng tự động, khuôn mặt gã vẫn có nét sáng sủa bình thản, siêu tự nhiên của những thiên thần ở các cửa sổ nhà thờ có kính ghép màu. Gã vừa mới ngừng chưa được vài giây thì đã chạy lại rồi, bị thúc đẩy bởi sự phục tùng đơn giản, nhanh chóng, mù quáng đối với bất cứ Tay chơi nào di chuyển gã trên Bàn cờ. Gã chạy tới cái mương. Nhưng ngay từ khi bắt đầu lao xuống giữa các bụi cây phủ dày cái dốc đứng, gã quay lại, hai chân bám đất. Gã bây giờ thấy ra là căn lều được xây theo kiểu nhà sàn, cách mặt đất chừng sáu tấc. Gã đã không để ý đến điều này trước đó, trong sự hấp tấp của mình. Gã bây giờ biết là mình đã mất một điểm. Tức là Christmas, thu mình bên dưới căn lều, đã theo dõi hai chân gã suốt thời gian này. Gã nói, "Khôn lắm đó!"

Đà lao xuống kéo gã thêm một quãng nữa trước khi gã có thể ngừng lại và leo lên khỏi cái mương. Gã có vẻ không biết mệt, như thể gã không phải là người trần mắt thịt, như thể Tay chơi mà gã là con tốt cũng cung cấp hơi thở cho gã. Vẫn không dừng chân tạm nghỉ, vẫn cùng với cái đà đưa gã ra khỏi mương, gã lại bắt đầu chạy. Gã chạy quanh căn lều vừa kịp thấy Christmas nhảy qua một cái hàng rào cách đó gần ba trăm thước. Gã không bắn, bởi vì Christmas giờ đây đang chạy qua cái vườn nhỏ, thẳng về phía một căn nhà. Gã vừa chạy, vừa thấy Christmas nhảy qua bậc tam cấp bên dưới cửa sau và vào trong nhà. "A," Grimm nói. "Nhà ông mục sư đây mà. Nhà ông Hightower."

Gã không chậm lại, dù gã rẽ sang lối khác, chạy vòng quanh nhà và ra đến con đường trước nhà. Chiếc xe hơi trước đó đã chạy qua mặt gã và biến mất rồi quay lại, giờ đây đang ở ngay chỗ mà nó phải ở, ngay chỗ mà Tay chơi đã muốn nó ở. Nó tự ngừng lại không cần gã ra dấu, và ba người đàn ông bước ra. Không nói một lời, gã quay người và chạy băng qua cái sân trước và vào trong căn nhà, nơi mà ông mục sư già bị ruồng bỏ sống một mình, và ba người đàn ông đó chạy theo, lao vào trong hành lang, mang vào theo, trong cảnh tranh tối tranh sáng như trong tu viện và có mùi ẩm mốc, một chút ánh sáng mùa hè hoang dại mà họ vừa bỏ lại sau lưng.

Ánh sáng đó ở trên người họ, phát ra từ họ, trong tất cả sự hung bạo trơ trẽn của nó. Các bộ mặt của họ có vẻ lóe sáng từ đó, giống như bị treo riêng, không có thân hình ở dưới, vào những quầng sáng, trong khi họ cúi người vực Hightower dậy từ sàn nhà, mặt ông đầy máu. Trước đó, khi chạy trong hành lang, hai tay bị còng nhưng cầm súng giơ cao, đầy ánh chói lấp lánh như một tia chớp, Christmas trông giống như một vị thần giận dữ và muốn báo thù đang đọc lời kết tội, và y đã xô ông ngã xuống đất. Họ giữ cho ông đứng vững.

"Phòng nào?" Grimm vừa nói, vừa lắc người ông. "Lão già, phòng nào?"

"Quý ông ơi!" Hightower nói. Rồi ông nói: "Các người! Các người!"

" Phòng nào, lão già?" Grimm hét lên.

Họ giữ cho ông đứng thẳng. Trong cái hành lang tối tăm, sau khi lóa mắt vì ánh sáng mặt trời, ông cũng trông thật thảm hại với cái đầu hói và khuôn mặt to tái nhợt đầy những vệt máu. "Các người!" ông gào lên. "Nghe tôi nói này. Y ở đây đêm hôm đó. Y ở đây với tôi vào cái đêm xảy ra vụ giết người đó. Tôi thề có Chúa..."

"Ông nội ơi!" Grimm la lên bằng cái giọng trẻ trung, rõ ràng và tức tối, nghe như giọng của một thầy tu trẻ. "Chẳng lẽ tất cả mục sư, tất cả gái già ở Jefferson đều trụt quần trước cái thằng chó đẻ nhát gan này sao?" Gã đẩy Hightower sang một bên rồi vụt chạy tiếp.

Như thể gã chỉ chờ đợi Tay chơi di chuyển gã lần nữa, bởi vì, với cùng một sự tin chắc không thể sai lầm, gã chạy thẳng về phía nhà bếp và khi tới cửa thì gã bắt đầu nổ súng, hầu như trước khi gã thấy ra cái bàn lật nghiêng một bên ở trong một góc phòng, và thấy trên cái mép bàn cao nhất hai bàn tay sáng chói, lấp lánh của tên đàn ông thu mình núp sau nó. Grimm bắn hết ổ đạn của khẩu súng lục tự động vào cái bàn; sau này, có người phủ lên cả năm lỗ đạn đó bằng một cái khăn tay gấp lại.

Nhưng Tay chơi chưa chấm dứt. Khi những người khác chạy đến nhà bếp, họ thấy cái bàn bị đẩy sang một bên và Grimm khom người trên cái thân xác đó. Khi họ đến gần để nhìn cho biết gã đang bận làm gì, họ thấy tên đàn ông đó chưa chết, và khi họ thấy việc mà Grimm đang làm, một người trong bọn họ bật ra một tiếng hét bị nén lại nửa chừng, lảo đảo bước lùi vào tường và bắt đầu nôn mửa. Rồi Grimm cũng nhảy lùi, tay ném ra sau một con dao cắt thịt đẫm máu. "Giờ thì mày để yên đàn bà con gái da trắng, ngay cả ở địa ngục," gã nói. Nhưng tên đàn ông trên sàn nhà không cử động. Y chỉ nằm dài ở đó, đôi mắt vẫn mở, trống rỗng mọi thứ ngoại trừ sự ý thức, và miệng thì có cái gì đó, như bóng tối, bao quanh. Trong một đỗi lâu, y nhìn lên họ bằng đôi mắt yên bình, không thể dò thấu được, và không thể chịu nổi. Rồi khuôn mặt, thân xác y dường như suy sụp, thu mình lại, và từ bộ quần áo bị rách xung quanh hông và chỗ thắt lưng, những tia máu đen bị cầm lại nãy giờ dường như bỗng phọt ra như một tiếng thở dài được buông xuống. Máu có vẻ như phọt ra từ cái thân xác tái nhợt của y như những tia lửa từ một trái pháo thăng thiên đang bay lên; và từ luồng hơi đen này y dường như cũng bay vút lên cao và trôi nổi trong trí nhớ họ, mãi mãi. Và bất luận nơi chốn nào mà họ lặng ngắm những tai họa xưa hay những hy vọng mới, dù đó là ở trong những thung lũng yên bình, bên cạnh những dòng suối lặng lẽ và an tâm của tuổi già, trên những khuôn mặt phản chiếu như gương của tuổi thơ, họ sẽ không bao giờ quên được chuyện này. Nó sẽ luôn có mặt ở đó, trầm ngâm, yên lặng, trước sau như một, không bao giờ phai mờ, và nhất là không bao giờ có vẻ đe dọa, nhưng tự nó thanh thản với chính nó, tự nó hân hoan với chính nó. Một lần nữa đến từ thành phố, bị nhỏ đi một ít vì các bức tường, tiếng gào thét của cái còi hụ dâng cao trong sự tăng cường độ khó tin đến nỗi mất hút ngoài giới hạn của tầm nghe.

20

Bây giờ là lúc ánh sáng màu đồng đỏ cuối buổi chiều đang tàn dần; bây giờ là lúc con đường phía bên ngoài những cây phong lùn và tấm biển thấp, thì trống vắng và sẵn sàng đón nhận bóng đêm, và trông như một cái sân khấu do được nhìn từ khung cửa sổ phòng làm việc.

Ông còn nhớ lại, vào thời trẻ, sau khi rời trường dòng đến Jefferson lần đầu tiên, ông có cảm tưởng hầu như nghe được dòng ánh sáng màu đồng đỏ đang tắt dần ngoài kia, tựa như nghe hồi kèn vàng của những cây trompet đang lịm[134] vào trong một quãng lặng, nằm chờ đó một lát rồi mới xuất hiện trở lại. Thậm chí trước khi tiếng kèn ngoắc ngoải đó tắt hẳn, ông dường như đã nghe được tiếng sấm bắt đầu gầm gừ, hầu như không to hơn một lời thầm thì hay một lời đồn đang lan truyền.

Nhưng ông đã chưa bao giờ nói với ai điều này. Ngay cả với nàng ông cũng không nói. Ngay cả với nàng, vào giai đoạn mà hai người còn là những người tình của đêm tối, và nỗi nhục nhã và sự bất hòa lúc đó đã chưa xuất hiện, và nàng biết, vì lẽ nàng đã không quên sự bất hòa cùng với nỗi hối tiếc, rồi cũng không quên niềm tuyệt vọng đến sau đó. Ông đã không bao giờ nói ra tại sao ông đến ngồi đây, bên cửa sổ này, và chờ đợi hoàng hôn, chờ đợi cái khoảnh khắc màn đêm buông xuống. Không nói ngay cả với nàng, một người đàn bà. Người đàn bà duy nhất. Đàn bà (chứ không phải trường dòng, như trước kia ông đã tin): cái Thụ động và Vô danh mà Chúa Trời đã tạo ra để không những là người nhận và chỗ chứa tinh dịch của thân xác ông mà còn là người nhận và nơi tích trữ tinh thần ông, tinh thần này là sự thật hay cận kề sự thật, cận kề tới đâu là tùy ông dám đến gần nó tới mức nào.

Ông là con một. Khi ông sinh ra thì bố ông đã năm mươi tuổi, và mẹ ông thì bệnh tật gần hai mươi năm. Ông lớn lên, lúc nào cũng tin rằng chuyện này là do đồ ăn mà bà đã phải nuốt để sống còn trong năm cuối cùng của cuộc Nội chiến. Có lẽ đây là lý do. Bố ông không sở hữu nô lệ, tuy ông ấy là con của một người đã thực sự sở hữu nô lệ vào thời đó. Tất nhiên, bố ông hẳn đã có thể sở hữu chúng. Nhưng, mặc dù sinh ra, nuôi dưỡng và sống vào cái thời và ở một miền đất mà sự sở hữu nô lệ thì ít tốn kém hơn là không sở hữu chúng, bố ông không muốn ăn cái gì mà một nô lệ da đen trồng hay nấu, cũng không muốn ngủ trong cái giường mà nó sửa soạn cho ông. Vì vậy, trong thời kỳ chiến tranh và trong lúc bố ông không có nhà, mẹ ông chỉ trồng được những gì bà có thể trồng hay với sự giúp đỡ không thường xuyên của những người hàng xóm. Và sự giúp đỡ này, bố ông không cho phép bà nhận, với cái cớ là ông ấy không thể đền đáp giống y vậy. "Chúa sẽ chu cấp cho," bố ông nói.

"Chu cấp cái gì? Mấy thứ cỏ dại[135] ăn được ấy à?"

"Trong trường hợp này Ngài sẽ cho chúng ta bộ ruột thích hợp để tiêu hóa chúng."

Bố ông là một mục sư. Trong suốt một năm, vào mỗi sáng chủ nhật, bố ông rời nhà rất sớm mà ông nội ông (đây là trước khi bố ông lấy vợ) không phát hiện ra bố ông đi đâu. Dù là một thành viên được quý trọng trong giáo hội Tân giáo[136], ông nội ông đã không bao giờ đặt chân vào một nhà thờ nào, theo những gì mà bố ông còn nhớ được. Rồi ông cụ phát hiện ra đứa con trai mình, lúc đó mới vừa hai mươi mốt tuổi, cưỡi ngựa suốt mười sáu dặm mỗi chủ nhật để giảng đạo ở một ngôi nhà thờ nhỏ thuộc giáo hội Trưởng lão trong vùng đồi núi. Ông cụ bật cười hề hà. Người con trai nghe tiếng cười này như nghe một tràng chửi rủa vuốt mặt không kịp: im lặng không nói một lời, chỉ lộ ra vẻ dửng dưng lạnh nhạt nhưng tôn kính. Ngày chủ nhật tiếp đó, bố ông vẫn quay lại với các con chiên của mình.

Khi chiến tranh bùng nổ, bố ông không phải là một trong những người đầu tiên lên đường nhập ngũ, và cũng không phải là một trong những người cuối cùng. Bố ông ở trong quân đội bốn năm, dù không hề bắn một phát súng hỏa mai nào, lại không mặc quân phục nhưng mặc cái áo vét có đuôi dài màu đen mà ông ấy đã mua để mặc trong đám cưới của mình và cũng đã mặc trong những buổi giảng đạo. Khi trở về nhà vào năm 1865[137] bố ông vẫn còn mặc nó trên người, nhưng ông ấy không bao giờ mặc lại nó nữa kể từ cái ngày về đó, khi chiếc xe la ngừng ở bậc tam cấp trước nhà và hai người đàn ông khiêng bố ông xuống và tiếp tục khiêng vào trong nhà rồi đặt lên giường. Mẹ ông cởi cái áo vest đó, xếp nó vào trong một cái rương nằm trên gác mái. Nó ở yên đó trong hai mươi lăm năm, cho tới một ngày kia ông mở rương và lấy nó ra, trải rộng các nếp gấp mà các bàn tay, giờ đã chết, đã cẩn thận xếp lại.

Ông nhớ lại chuyện đó, bây giờ, trong khi ngồi bên cái cửa sổ tối tăm, trong căn phòng làm việc im ắng, chờ bóng hoàng hôn biến hẳn, chờ màn đêm buông xuống, chờ tiếng vó ngựa phi nước đại vụt qua. Ánh sáng màu đồng đỏ giờ đã tắt hoàn toàn; thế gian giờ bồng bềnh trong sự chờ đợi mang màu xanh lá cây, giống như sắc màu và bề mặt mịn màng của ánh sáng được lọc qua kính thủy tinh màu. Chẳng bao lâu nữa là đến lúc bắt đầu nói Trong chốc lát thôi bây giờ. Bây giờ trong chốc lát thôi 'Mình hồi đó mới lên tám,' ông nghĩ. 'Trời lại đang mưa lúc đó.' Ông có cảm tưởng ông còn có thể ngửi thấy được mưa, ngửi thấy lời kêu ca ẩm ướt của mặt đất vào tháng mười, ngửi thấy mùi ẩm mốc bốc ra khi ông giở nắp cái rương lên. Rồi ông thấy tấm áo nằm trong đó, với các nếp gấp gọn gàng. Ông đã không biết đó là cái gì, bởi vì thoạt đầu ông bị đè nặng bởi kỷ niệm về đôi bàn tay người mẹ đã quá vãng cứ mân mê các nếp gấp. Rồi tấm áo mở ra, từng nếp gấp một được giở ra chậm rãi. Dưới cặp mắt trẻ thơ của ông, nó có vẻ to ơi là to, như thể được may cho một người khổng lồ; như thể đơn giản nhờ vào việc một người trong bọn họ đã mặc nó mà chính cái vải may nó đã thủ đắc được các tính chất của những bóng ma, anh hùng và khủng khiếp, hiện ra lờ mờ mà sau lưng chúng là sấm sét nổi lên, là khói lửa, là cờ xí rách bươm, tất cả giờ đây chiếm cứ cuộc đời ông, ngày cũng như đêm.

Và tấm áo đó thì vá chằng vá đụp đến mức chẳng thể nhận ra. Những mảnh vá bằng da mà một bàn tay đàn ông đã khâu lại một cách sơ sài, những mảnh vá bằng dạ xám cắt từ quân phục lính Hợp bang[138] giờ trông như những chiếc lá nâu khô, và một mảnh vá đã làm ông thực sự cảm động: nó có màu xanh, màu xanh đậm, màu xanh của nước Mỹ. Nhìn mảnh vá đó, nhìn mảnh vải câm nín và vô danh đó, thằng bé lên tám, đứa con sinh ra khi cha mẹ tuổi đã vào thu, mà những cơ quan nội tạng của nó đã cần phải có sự chăm sóc bền bỉ của một cái đồng hồ Thụy Sĩ, trải nghiệm một thứ như sự kinh hãi câm lặng và đắc thắng khiến nó cảm thấy người ít nhiều như bị bệnh.

Tối hôm đó, nó không ăn được. Đưa mắt nhìn lên, người bố, bây giờ gần sáu mươi tuổi, thấy ra đứa con trai nhìn mình với sự sợ hãi kinh khiếp và với cái gì khác nữa. Rồi người đàn ông đó nói, "Con đã còn làm cái gì nữa đó?" và đứa bé không thể trả lời, không thể mở miệng nói gì. Nó nhìn người bố chằm chằm, và vẻ mặt con nít của nó thì hình như đến từ chính địa ngục. Đêm hôm đó, nó vào giường nhưng không tài nào chợp mắt được. Nó nằm cứng ngắc, thậm chí không run rẩy, trong bóng tối, trong khi ở đằng xa, bên kia những bức tường và những sàn nhà, một người đàn ông đang ngủ, đó là bố nó và cũng là người ruột thịt duy nhất còn lại, một người đàn ông cách xa nó bằng một khoảng thời gian dài đến nỗi không thể đo ngay cả bằng thập kỷ, đến nỗi không có lấy một sự giống nhau trong diện mạo giữa hai người. Và ngày hôm sau, thằng bé bị một trong những cơn đau đường ruột hành hạ. Nhưng nó không muốn nói ra với ai nó bị cái gì, ngay cả với người đàn bà da đen, quản gia và cũng là làm mẹ và vú nuôi cho nó. Từ từ nó lấy lại sức. Rồi một ngày kia nó lại lẻn lên tận gác mái một lần nữa, mở cái rương và lấy tấm áo ấy ra, đưa tay rờ miếng vá màu xanh đó với sự kinh hãi đắc thắng, với niềm vui bệnh hoạn, và tự hỏi không biết cha nó đã có giết người mặc chiếc áo choàng màu xanh[139] mà miếng vá được cắt ra từ đó không, và tự hỏi, với sự kinh hãi còn lớn hơn nữa, đâu là bề sâu và cường độ của nỗi ham muốn cùng lúc với nỗi sợ sệt để biết của nó. Tuy vậy, ngay từ ngày hôm sau, khi nó biết bố mình đã rời nhà đi khám một trong những bệnh nhân của ông ở vùng quê và đến tối mịt mới về nhà, nó đi xuống nhà bếp và nói với bà vú da đen: "Kể cho con nghe về ông nội nữa đi. Ổng đã giết bao nhiêu thằng Yankee?" Và khi nó nghe, bây giờ, thì không còn với sự kinh hãi nữa. Ngay cả sự đắc thắng cũng không còn: lần này, đó là niềm kiêu hãnh.

Ông nội ông là cái gai độc nhất đâm vào cạnh sườn đứa con trai mình. Bố ông hẳn không nói ra điều đó nhưng ông nội đã nghĩ tới rồi, ngay cả cái điều mà hai người thầm mong ước lẫn nhau là có một người con khác hay có một người cha khác. Họ sống khá hòa thuận với nhau. Bố ông tỏ ra dè dặt, xa cách, không biết đùa, nhưng kính cẩn một cách tự nhiên, và ông nội thì có tính khí cục mịch, thẳng thắn, mạnh mẽ một cách thô lỗ, thiếu mục đích ít hơn là thiếu óc dí dỏm. Họ sống một cách khá thân ái trong một ngôi nhà hai tầng ở trong phố. Tuy nhiên, bố ông từ khá lâu đã không chấp nhận, một cách điềm tĩnh và cứng cỏi, ăn những món nấu bởi bà nô lệ da đen đã nuôi dưỡng bố ông từ tấm bé. Bố ông tự mình làm bếp lấy, khiến cho bà vú da đen nổi tam bành lục tặc, và ông ấy tự mình bưng bê đồ ăn ra tận bàn và ngồi ăn, đối diện với cha mình, ông cụ lúc nào cũng chào bố ông và chào một cách trịnh trọng bằng cách nâng ly rượu uýt-ki Bourbon[140] lên trước miệng. Đó còn là một thứ mà bố ông không đụng đến và đã không bao giờ nếm thử.

Vào ngày đám cưới của con trai, ông cụ giao hẳn nhà cửa đang ở cho con trai. Ông cụ đang đứng chờ dưới hàng hiên, tay cầm chìa khóa nhà, khi cô dâu chú rể đến. Ông mặc áo khoác ngoài và đội mũ sẵn. Những kiện hành lý của riêng ông cụ thì để đầy xung quanh ông, và sau lưng ông là hai người nô lệ mà ông sở hữu: một bà da đen lo việc nấu nướng, và tên "bồi", lớn tuổi hơn ông, đầu không còn lấy một sợi tóc và là chồng của bà nấu bếp đó. Ông cụ không phải là chủ đồn điền. Ông là một luật sư, đã học luật có phần giống như đứa con trai ông sau này phải học y khoa, "bằng sức lực của đôi bàn tay và bằng sự chiếu cố và vận may đến từ quỷ sứ", theo cách ông cụ diễn tả. Ông đã mua sẵn cho chính mình một căn nhà nhỏ ở nông thôn cách đó hai dặm. Chiếc xe ngựa bốn chỗ ngồi và những người đi theo đứng chờ ông trước hàng hiên. Ông cụ đứng đó, hai chân dạng ra, mũ lật ra sau - tráng kiện, cục mịch, mũi thì đỏ ở trên bộ râu mép dài như của một tên tướng cướp - trong khi người con trai và cô con dâu mà ông chưa từng gặp trước đó, từ cổng đi trên lối nhỏ vào nhà. Khi ông khom người chào cô, cô ngửi thấy mùi rượu uýt-ki và xì gà. "Cha tin rằng con sẽ ổn thôi," ông nói. Cặp mắt ông cụ trông hơi thô lỗ, bạo dạn nhưng trìu mến. "Vả lại, tất cả những gì mà cái tên mê muội vì đạo này muốn là có ai đó có thể hát giọng nữ trầm những bài thánh ca của đạo Trưởng lão mà ngay chính Chúa Trời cũng không thể nặn ra chút âm nhạc nào."

Ông cụ rời đi trên chiếc xe ngựa có núm tua chở theo các đồ đạc của riêng mình - áo quần, hũ rượu đặt trong rọ mây, các nô lệ. Bà nô lệ lo việc bếp núc thậm chí cũng không ở lại để sửa soạn bữa ăn đầu tiên. Bà không được tặng lại cho đứa con trai, do đó, bà không bị từ chối. Và ông cụ, cho tới khi chết, không bao giờ đặt chân vào trong ngôi nhà này lần nào nữa. Nếu có thì ông cụ hẳn đã được tiếp đón niềm nở. Ông cụ và người con trai, cả hai đều biết điều đó, tuy không ai nói ra. Và cô dâu ông - cô là một trong nhiều đứa con của một cặp vợ chồng nhã nhặn đã không bao giờ thành công trong việc làm giàu và họ dường như tìm thấy ở nhà thờ một sự bù trừ cho những gì thiếu thốn trên bàn ăn - thích ông, cảm phục ông một cách kín đáo, lo sợ, bí mật: dáng điệu nghênh ngang, tính nết chất phác và sự gắn bó đơn giản của ông với qui tắc ứng xử đơn giản. Tuy nhiên, họ nghe kể về những chuyện ông cụ làm, ví dụ như vào mùa hè sau khi dọn nhà ra ở vùng quê, ông đã làm gián đoạn một buổi lễ thức tỉnh lòng mộ đạo ở ngoài trời và kéo dài, trong một rừng cây gần nhà ông, và đã biến đổi nó thành một cuộc đua ngựa nghiệp dư kéo dài cả một tuần. Trước một giáo đoàn càng ngày càng vắng người, các ông thầy thuyết pháp ở nông thôn, mặt mũi hốc hác, ánh mắt cuồng tín, từ trên bục giảng thô kệch, giận dữ tung ra những lời nguyền rủa, lên án cái đầu hay quên và không được cải tạo của ông. Lý do tại sao ông cụ không thăm viếng con trai và con dâu thì hình như rất thẳng thắn: "Các con sẽ thấy cha chán lắm và cha sẽ thấy các con chán lắm. Và biết đâu đấy, những lời nguyền rủa của bọn họ có thể làm cha sa đọa. Có thể làm cha sa đọa trong tuổi già để gởi cha lên thiên đường đó mà." Nhưng đó không phải là lý do thực sự. Người con biết rõ điều đó, vì người cha đã là một người sẵn sàng hơn ai hết đập tan những lời lẽ vu khống nếu chúng đến từ những người khác. Đó là sự tinh tế trong cách ứng xử và suy nghĩ nơi ông già này.

Bố ông đã là người theo chủ nghĩa bãi nô hầu như trước cả giai đoạn mà quan điểm này trở thành một từ ngữ để từ miền Bắc lan dần xuống miền Nam. Tuy nhiên, khi bố ông biết được là những người thuộc đảng Cộng hòa[141] có một tên gọi để chỉ tư tưởng này, bố ông thay đổi hoàn toàn cái tên của niềm tin của mình mà không hạ thấp những nguyên tắc hay cách ứng xử của mình một chút nào. Ngay cả vào thời kỳ đó, khi chưa đến ba mươi tuổi, bố ông đã là một người có tiết độ khắc khổ trước xa cái tuổi của mình. Điều này thường xảy ra với con cái của những người không quá độ theo cách riêng khi làm tôi tớ cho May rủi và hũ rượu. Có lẽ vì vậy mà chỉ sau chiến tranh bố ông mới có con. Từ chiến trường trở về, con người bố ông đã thay đổi, đã "Được khử mùi", như ông nội ông đã quá vãng hẳn sẽ nói, phần nào từ cái tính thánh thiện của bố ông. Mặc dù trong suốt bốn năm chiến tranh đã không bao giờ bắn một phát súng nào, bố ông vẫn không bằng lòng với mỗi việc cầu nguyện và giảng đạo cho binh lính vào mỗi sáng chủ nhật. Khi trở về nhà, bị thương, hồi phục và sinh cơ lập nghiệp bằng nghề bác sĩ, bố ông chỉ có việc đem áp dụng các hiểu biết về giải phẫu và bào chế thuốc mà ông ấy đã thực hành và học hỏi trên thân xác của bạn lẫn thù trong khi phụ giúp các bác sĩ ngoài mặt trận. Trong tất cả hành động của đứa con trai, đây chắc chắn là một hành động mà ông cụ hẳn lấy làm vui thích nhất: đứa con trai ông cụ đã tự mình học được một nghề nhờ vào những tên xâm lược, những tên tàn phá đất nước ông cụ.

'Nhưng tính thánh thiện không phải là một từ người ta có thể dùng đối với cha mình,' người con trai của người con trai đó, ngồi ở bên cửa sổ tối tăm, đến lượt mình, nghĩ, trong khi ngoài kia thế gian đang bồng bềnh trong sự chờ đợi mang màu xanh lá cây, ở một nơi xa hơn tiếng kèn trompet đang lịm dần. 'Chính ông nội hẳn là người đầu tiên đối chất bất cứ người nào dùng cái từ này.' Đó là gần như một sự quay về những thời buổi khắc khổ và sáng tỏ, đã qua nhưng chưa lâu lắm, mà một người trên đất nước này, vào lúc đó, có ít sinh lực để mà phung phí và có ít thời gian để làm chuyện phung phí đó, và phải giữ gìn và bảo vệ chút ít sinh lực đó không những chống lại thiên nhiên mà còn chống lại con người, bằng cách dựa hoàn toàn trên sự kiên trì chịu đựng mà ít ra trong cả cuộc đời hắn ta, sự kiên trì này không mang lại một sự thoải mái thể xác nào như là một phần thưởng. Chính từ chỗ này đã nảy sinh sự phản đối chế độ chiếm hữu nô lệ, sự phản đối người cha sa đọa và phạm thần phạm thánh của bố ông. Ngay cái sự việc bố ông thực tình không thấy sự nghịch lý trong việc ông ấy đã tham dự một cách tích cực trong một cuộc chiến tranh dân quân và lại chiến đấu ngay bên phe có những nguyên tắc chính trị trái ngược với bố ông, đủ chứng tỏ là trong con người ông ấy có hai nhân cách tách biệt và đầy đủ mà một trong hai thì diễn biến theo những qui tắc sáng sủa trong một thế giới mà thực tại không hiện hữu.

Nhưng một nhân cách khác của bố ông, tức cái ở trong thế giới thực tế của chúng ta thì cũng thành công như bất cứ ai khác, thậm chí còn hơn phần lớn những người khác. Bố ông đã sống một cách hòa thuận với những nguyên tắc của mình, và khi chiến tranh nổ ra thì ông cũng mang theo những nguyên tắc này vào cuộc chiến và sống theo chúng ở đó; khi có buổi giảng đạo vào ngày chủ nhật trong một rừng cây yên tĩnh nào đó, bố ông đứng giảng mà không có công cụ nào khác hơn là niềm tin và thiện tâm của mình, và những gì bố ông có thể nhặt nhạnh trên đường đi; khi có việc cứu mạng những binh sĩ bị thương dưới lửa đạn quân thù và cứu chữa họ mà không có những dụng cụ thích hợp, bố ông vẫn cứ làm, không có sự trợ giúp nào khác hơn là sức mạnh tinh thần, lòng can đảm của mình, và những gì bố ông có thể nhặt nhạnh trên đường đi. Và khi bại trận, khi những người đồng đội trở lại quê nhà, mắt họ vẫn đăm đăm nhìn về cái mà họ không thể tin được là đã biến mất, thì bố ông lại nhìn về phía trước và lợi dụng tất cả những gì có thể từ cuộc chiến bại này bằng cách thực hiện những điều ông ấy đã học được trong cuộc chiến. Bố ông trở thành bác sĩ. Một trong những bệnh nhân đầu tiên của bố ông là mẹ ông. Có lẽ bố ông đã giữ được bà sống. Ít ra bố ông đã giúp bà có khả năng tạo ra đời sống, dù ông đã năm mươi và bà đã quá bốn mươi khi đứa con trai của họ ra đời. Đứa con trai này lớn lên giữa những bóng ma, và sát bên một hồn ma.

Những bóng ma đó là bố ông, mẹ ông và một bà già da đen. Bố ông, một mục sư không có nhà thờ, một chiến binh không có kẻ thù, và trong cuộc chiến bại đã kết hợp hai chuyện này và trở thành bác sĩ và nhà giải phẩu. Như thể niềm tin lạnh lùng và không thỏa hiệp đã từng chống đỡ cho bố ông được đứng thẳng, có thể nói như vậy, giữa sự khắt khe về mặt đạo đức và thái độ kiêu căng, thì trở nên sáng suốt hơn thay vì để bị đánh bại và nản chí. Như thể niềm tin đó đã thấy xuyên qua khói lửa chiến trường, như trong một ảo cảnh, là cái nghĩa đen của cụm từ 'đặt bàn tay ban phúc' thì đúng y như vậy. Như thể bố ông bỗng dưng bắt đầu tin rằng Chúa Ki-tô đã muốn chỉ ra là bố ông, người mà chỉ riêng tâm hồn cần được chữa lành, thì không đáng được nhận ân sủng hay sự cứu rỗi. Đó là bóng ma thứ nhất.

Bóng ma thứ hai là mẹ ông. Ông còn nhớ đến bà, trước tiên và cuối cùng, như một khuôn mặt ốm với đôi mắt rất to và mái tóc đen xõa dài trên gối, với hai bàn tay thâm tím, bất động, gần như bàn tay của một bộ xương. Nếu vào ngày bà chết mà ông được người ta nói là ông từng thấy bà ở chỗ khác hơn là trong giường thì ông hẳn đã không tin. Sau này, ông nhớ lại một cách khác đi: ông thực sự nhớ bà có đi lại trong ngôi nhà, chăm sóc công việc nhà. Nhưng lúc tám, chín và mười tuổi, ông luôn thấy bà như không chân, không có bàn chân, chỉ có khuôn mặt gầy ốm đó với đôi mắt có vẻ càng ngày càng trở nên to hơn, như thể ham muốn nhìn trọn tất cả những gì có thể thấy được, nhìn trọn cả cõi đời, với ánh nhìn trừng trừng kinh khiếp cuối cùng đầy tâm trạng thất vọng, đau khổ và linh cảm. Rồi khi điều đó cuối cùng đến thì ông dường như nghe được nó: nó là một tiếng động, giống như một tiếng kêu. Trước khi bà chết ông đã có thể cảm thấy đôi mắt ấy xuyên qua tất cả những bức tường. Chúng là ngôi nhà: ông cư ngụ bên trong chúng, bên trong sự hồi phục tăm tối và kiên nhẫn của chúng trước sự phản bội của cơ thể đang ra sức giành trọn mọi thứ. Ông và bà mẹ, cả hai đều sống trong đó, như hai con thú nhỏ yếu đuối trong một cái hang, một cái động mà người bố thỉnh thoảng đi vào - người đàn ông này là một người xa lạ đối với cả hai, một người nước ngoài, gần như là một sự đe dọa: tình trạng khỏe mạnh của cơ thể biến đổi cực kỳ nhanh chóng và làm thay đổi tinh thần nhanh chóng không kém. Bố ông thì còn hơn một người xa lạ: đó là một kẻ thù. Bố ông có mùi khác họ. Bố ông nói bằng một cái giọng khác, hầu như bằng các chữ nghĩa khác, như thể ông thường thường sống trong một môi trường xung quanh khác và trong một thế giới khác; thu mình nấp bên cạnh giường, đứa bé có thể cảm thấy người đàn ông đó choán đầy căn phòng bằng sự tráng kiện và sự khinh rẻ không ý thức; bố ông cũng bất lực và thất vọng như mẹ ông và ông.

Bóng ma thứ ba là người đàn bà nô lệ da đen, người đã lên chiếc xe ngựa bốn chỗ ngồi đó mà ra đi, vào buổi sáng khi cô dâu chú rể về đến nhà. Bà là nô lệ khi ra đi bằng xe ngựa, bà vẫn là nô lệ khi trở về vào năm 1866 nhưng giờ thì bằng đôi chân - một người đàn bà to mập quá cỡ, với bộ mặt dễ cáu giận và điềm tĩnh cùng lúc: cái mặt nạ của một bi kịch đen giữa hai hồi. Sau khi chủ chết, và cho tới khi bà cuối cùng tin là bà sẽ không còn bao giờ gặp lại họ - ông chủ cũng như chồng bà, tức tên "bồi" đã đi theo chủ vào cuộc chiến và cũng đã không trở về - bà không chịu rời bỏ ngôi nhà ở nông thôn mà ông chủ đã dọn đến sống trước đó và để lại cho bà chăm sóc khi ông lên ngựa ra đi. Sau khi người cha mất, người con đến để đóng cửa ngôi nhà và dọn đi những đồ đạc riêng của cha mình, và đề nghị nuôi dưỡng bà. Bà từ chối. Bà cũng không chịu ra đi. Bà tự trồng một vườn rau nhỏ sau nhà và bà sống ở đó một mình, chờ người chồng trở về, vì bà không muốn nghe theo tin đồn là ông ấy đã chết. Đó chỉ là tin đồn, một tin đồn mơ hồ: sau khi chủ mình tử vong trong cuộc đột kích bằng kỵ binh của Van Dorn[142] để phá hủy các kho tiếp vận của tướng Grant ở Jefferson, tên "bồi" da đen đó đã đau khổ không nguôi. Một đêm y biến mất khỏi doanh trại dã chiến. Ít lâu sau người ta bắt đầu kể là có một tên da đen điên khùng đã bị một toán lính trinh sát miền Nam bắt giữ gần phòng tuyến quân thù; y cứ lặp đi lặp lại cùng những mẩu chuyện về ông chủ mất tích của y đang bị bọn Yankee giam giữ để đòi tiền chuộc. Người ta không thể nào nhét được vào đầu y, dù chỉ trong vài giây, là ông chủ đó có thể đã chết. "Thưa Ngài, không đâu," y nói. "Ông Gail không có chết đâu. Không phải ổng đâu. Chúng không dám giết một người thuộc dòng dõi Hightower đâu. Chúng không dám đâu. Chúng giấu ổng ở đâu đó để bắt ổng khai ra những cái mà tôi và ổng đã giấu đi, cái bình pha cà phê của bà chủ và cái khay bằng vàng. Đó là tất cả những thứ chúng muốn đó." Mỗi lần bị bắt như vậy là y cứ trốn nữa. Rồi một ngày kia có tin từ phòng tuyến quân Liên bang[143] là một tên da đen đã dùng xẻng tấn công một sĩ quan Yankee, và viên sĩ quan này, để cứu mạng mình, đã buộc phải bắn chết y.

Người đàn bà da đen đó đã không tin chuyện này trong một thời gian dài. "Không phải vì ổng không đủ ngu để làm chuyện đó," bà nói. "Nhưng nếu ổng mà gặp một tên Yankee thì ổng đâu bao giờ có đủ trí khôn để nhận ra đó là một tên Yankee để mà xách xẻng ra mà đập nó." Bà lặp đi lặp lại như vậy suốt hơn một năm. Rồi một ngày kia bà xuất hiện trước nhà người con, ngôi nhà mà bà đã rời bỏ mười năm trước và đã không hề quay lại từ dạo đó. Bà mang tất cả những gì bà sở hữu trong một cái khăn tay. Bà đi vào nhà và nói: "Tui đây nè. Cậu có đủ củi ở trong lều để tui nấu bữa ăn tối không?"

"Vú bây giờ được tự do rồi mà," người con nói.

"Tự do à?" bà nói với sự khinh bỉ thầm lặng và có nghĩ tới nghĩ lui. "Tự do à? Nó đã làm được gì, cái tự do đó, ngoại trừ làm cho ông Gail bị giết và làm cho Pomp còn ngu hơn cả chính Chúa Trời có thể làm? Tự do! Đừng nói chuyện về tự do với tui nữa."

Đây là bóng ma thứ ba. Và với bóng ma này mà đứa bé ('và nó thì cũng chỉ hơn một bóng ma chút xíu, hồi đó,' cùng một đứa bé đó nghĩ, ngày hôm nay, ngồi bên cái cửa sổ đang chìm dần trong bóng tối.) nói về cái hồn ma. Họ không bao giờ thấy mệt: đứa bé tỏ ra say mê, nửa sợ sệt, nửa thích thú, và một bà già với nỗi đau buồn và niềm kiêu hãnh, mãnh liệt và âm ỉ. Nhưng đối với đứa bé, đó chỉ là một sự rùng mình an lành vì khoái trá. Nó không thấy sợ hãi chút nào khi biết được ông nội nó, ngược lại, đã giết người 'cả hàng trăm', như người ta kể cho nó nghe và nó tin, hay là tên da đen Pomp đã cố sức giết một người trước khi chết. Nó không cảm thấy ghê sợ khi nghe chuyện bởi vì đó chỉ là những hồn ma bóng quế mà nó không bao giờ thấy bằng xương, bằng thịt, anh dũng, giản dị và ấm áp; trong khi bố nó, người mà nó biết và sợ, là một bóng ma không bao giờ chết đi. 'Cho nên chẳng có gì ngạc nhiên,' ông nghĩ, 'là mình nhảy qua một thế hệ. Chẳng có gì ngạc nhiên là mình không có cha, là mình đã chết vào một đêm hai mươi năm trước khi mình ra đời. Và sự cứu rỗi linh hồn của mình chỉ có thể có được là phải trở về để chết ở nơi chốn mà cuộc đời mình đã chấm dứt trước khi thực sự bắt đầu.'

Trong khi theo học ở chủng viện, ngay sau khi ông đến đó lần đầu tiên, ông thường hình dung trong đầu bằng cách nào ông sẽ nói với họ, những trưởng lão, những nhân vật cao cấp và thánh thiện chăm lo vận mệnh của cái giáo hội mà ông đã tự nguyện phục tùng. Bằng cách nào ông sẽ đến gặp họ và nói, "Xin quý vị nghe này. Chúa phải gọi tôi đến Jefferson bởi vì ở đó cuộc đời tôi đã chết, đã bị bắn chết trên yên một con ngựa đang phi nước đại trong một đường phố ở Jefferson vào một đêm hai mươi năm trước ngày tôi sinh ra." Thoạt đầu ông nghĩ ông có thể nói như vậy. Ông tin là họ sẽ thấu hiểu. Ông đến đây học đạo, ông chọn thiên hướng này, chính là vì ông nhắm đến mục đích đó. Nhưng ông tin tưởng vào cái gì còn hơn thế nữa. Ông cũng đã tin tưởng ở giáo hội, ở tất cả những phân nhánh và những gì nó gợi lên. Ông tin, bằng một niềm vui thanh thản, rằng nếu bao giờ có một chỗ an trú thì đó là giáo hội; rằng nếu bao giờ sự thật có thể bước đi, trần truồng, không xấu hổ, không sợ hãi, thì đó là trong chủng viện. Khi tin chắc rằng mình đúng là có thiên hướng đó, ông có cảm tưởng là ông có thể thấy tương lai của mình, cuộc đời của mình, vẫn nguyên vẹn và đủ đầy và không thể xâm phạm dưới bất cứ hình thức nào, giống như một cái bình cổ điển và lặng yên, nơi mà tâm hồn có thể tái sinh, được yên ổn trước những giông tố ghê sợ của cuộc sống, và có thể chết như vậy, một cách thanh thản, chỉ để lại một nắm tro tàn thối rữa mà người ta có thể tùy ý sử dụng, và chỉ có tiếng gió luồn lách ở một nơi nào xa xôi. Đó là, đối với ông, ý nghĩa của từ chủng viện: những bức tường câm lặng và an toàn mà bên trong chúng, tâm hồn bị vướng víu, bị khó chịu vì áo quần đang mặc, có thể tìm lại sự thanh thản cần thiết để lặng ngắm sự trần truồng của riêng nó mà không sợ hãi hay lo âu.

'Nhưng trên thiên đường và trong thế gian còn có nhiều thứ khác hơn là sự thật,' ông diễn giải ý tưởng này một cách thầm lặng, không giễu cợt, không hài hước, nhưng cũng không phải là không có giễu cợt hay hài hước trong đó. Ngồi trong bóng hoàng hôn đang chết dần, đầu quấn băng trắng trông to hơn và ma quái hơn, ông nghĩ, 'Nhiều thứ khác hơn, thật vậy,' trong khi nghĩ bằng cách nào sự tài tình hình như được ban cho con người để cho phép nó, vào những lúc khủng hoảng, tự cung cấp cho chính nó những hình dạng và những âm thanh ngăn cản nó thấy ra sự thật. Ông có ít nhất một điều mà ông không bao giờ phải ăn năn: việc nói ra với những trưởng lão những điều mà ông đã dự định nói ra với họ là một sai lầm và ông đã không mắc phải nó. Ông thậm chí đã không cần ở trong chủng viện một năm để biết được cái sai lầm nào mà ông đã phạm. Và ngoài ra, còn tệ hơn nhiều: bằng cách biết được điều đó, thay vì mất đi cái gì đó thì ông đã lấy được, đã tránh được cái gì đó. Và cái lấy được này đã tô điểm cho khuôn mặt thực sự và hình dạng của tình yêu.

Nàng là con gái của một trong những mục sư đồng thời là giảng viên ở trường dòng. Giống như ông, nàng là con một. Ông tin ngay lập tức là nàng đẹp, bởi vì ông đã nghe nói về nàng trước khi thấy nàng, và khi thực sự thấy nàng thì ông lại không thấy nàng chút nào vì nàng bị cái khuôn mặt mà ông đã vẽ vời trước đó trong tâm trí mình che khuất. Ông không thể tin là nàng từng sống cả đời ở đó mà lại không đẹp cho được. Trong ba năm ông không thấy khuôn mặt thật của nàng; và từ hai năm cuối cùng trong ba năm đó, một thân cây rỗng ruột là nơi hai người gửi và nhận những lá thư ngắn viết cho nhau. Nếu ông thực sự tin vào việc này thì ông hình dung là cái ý tưởng đã nảy sinh một cách tự phát giữa hai người, bất kể ai là người nghĩ đến nó, nói ra nó đầu tiên. Nhưng trong thực tế thì không phải từ ông, cũng không phải từ nàng mà ông có được cái ý tưởng đó, mà từ một cuốn sách. Nhưng ông không thấy khuôn mặt nàng chút nào. Ông không thấy cái hình trái xoan nhỏ nhắn với cái cằm quá nhọn, với vẻ bất mãn dễ dàng cáu giận (nàng lớn hơn ông một hay hai hay ba tuổi, và đây là điều ông không biết, không bao giờ có thể biết). Trong ba năm ông không thấy là nàng đã nhìn ông với cặp mắt chứa đựng một sự tính toán gần như tuyệt vọng, giống như cặp mắt của một tên đánh bạc bị dồn vào đường cùng.

Rồi vào một buổi tối ông thấy nàng và ông nhìn nàng. Nàng nói một cách đột ngột và nghiêm khắc về chuyện kết hôn. Không giáo đầu, không cảnh báo. Họ chưa hề nói với nhau về chuyện này trước đó. Ông thậm chí đã không bao giờ nghĩ đến nó, nghĩ đến cái từ ngữ đó. Ông đã chấp nhận nó bởi vì phần lớn các thầy ở chủng viện đều lập gia đình. Nhưng đối với ông, hôn nhân không phải là những người đàn ông và những người đàn bà sống trong sự gần gũi thể xác được thừa nhận, nhưng là một tình trạng chết cứng cứ kéo dài mãi giữa những người sống, như hai cái bóng bị xích lại với nhau bằng cái bóng của một dây xích. Ông đã quen với chuyện đó; ông đã lớn lên với một hồn ma. Rồi vào một buổi tối nàng bắt đầu nói, một cách đột ngột và nghiêm khắc. Khi cuối cùng hiểu ra điều mà nàng có ý nói qua câu "thoát khỏi cuộc sống hiện tại của nàng", ông không cảm thấy ngạc nhiên chút nào. Ông thì quá ngây thơ. "Thoát khỏi à?" ông nói. "Thoát khỏi cái gì?"

"Cái này nè!" nàng nói. Và đó là lần đầu tiên ông thấy mặt nàng, như một khuôn mặt sinh động, như một cái mặt nạ trước nỗi ham muốn và sự thù ghét: đau đớn, mù quáng, đầy đam mê liều lĩnh. Không phải ngu đần: chỉ là mù quáng, khinh suất và tuyệt vọng. "Tất cả mấy thứ này! Tất cả! Tất cả!"

Ông không bị ngạc nhiên. Ông tin ngay tức khắc là nàng đúng, là ông trước nay chỉ tỏ ra vô tri. Ông tin ngay tức khắc là sự tin tưởng của riêng ông vào trường dòng đó đã là sai lạc suốt thời gian qua. Không phải sai lạc một cách trầm trọng, nhưng mà không thật, không đúng. Có lẽ ông đã bắt đầu hoài nghi chính mình mà không nhận biết cho tới bây giờ. Có lẽ vì vậy mà ông đã chưa nói với họ tại sao ông phải đi đến Jefferson. Ông đã nói điều này với nàng một năm trước đó tại sao ông muốn, tại sao ông phải, đi đến đó. Ông cũng bảo nàng là ông có ý định nói ra lý do đó với họ. Và nàng nhìn ông bằng cặp mắt mà ông đã không từng thấy trước đây. "Em muốn nói," ông nói, "là họ sẽ không gởi anh đi, sẽ không sắp xếp cho anh đi? Là lý do đó thì sẽ không đủ thuyết phục họ?"

"Chắc chắn là nó sẽ không đủ rồi," nàng nói.

"Nhưng tại sao chớ? Đó là sự thật mà. Có lẽ là ngu ngốc. Nhưng thật. Và giáo hội tồn tại để làm gì nếu không để giúp đỡ những kẻ tuy ngu ngốc nhưng muốn tìm sự thật? Tại sao họ sẽ không để anh đi đến đó?"

"Ồ, chính em cũng sẽ không để anh đi, nếu em là họ và nếu anh đưa ra cho em một cái lý do như vậy."

"Ồ," ông nói. "Anh hiểu." Nhưng ông không hiểu một cách chính xác, dù ông tin rằng ông đã có thể sai lầm, rằng nàng có lý. Và vậy là một năm sau, khi nàng đột ngột nói chuyện với ông về hôn nhân và về sự thoát ra bằng cách dùng cùng những từ ngữ đó, ông không lấy làm ngạc nhiên, không cảm thấy bị tổn thương. Ông chỉ nghĩ một cách thầm lặng, 'Vậy cái này là tình yêu đây. Mình thấy rồi. Mình cũng bị sai lầm về nó nữa,' trong khi vẫn nghĩ như ông đã nghĩ trước đó và như ông sẽ nghĩ sau này, như tất cả mọi người đã và còn nghĩ: cuốn sách sâu sắc nhất trong tất cả các cuốn sách có thể trở nên sai lạc biết bao khi người ta muốn áp dụng nó vào cuộc sống.

Ông thay đổi hoàn toàn. Hai người dự định lấy nhau. Bây giờ, ông biết là ông đã luôn luôn thấy sự tính toán tuyệt vọng đó trong đôi mắt nàng. 'Có lẽ người ta đã có lý khi cho tình yêu vào trong sách,' ông nghĩ thầm. 'Có lẽ tình yêu không thể sống được ở một nơi nào khác.' Nỗi tuyệt vọng vẫn luôn choán đầy con người họ, nhưng giờ thì họ có những dự định rõ ràng, ngày lành tháng tốt đã chọn. Và nỗi tuyệt vọng đó thì thầm lặng hơn, hầu như hoàn toàn có tính toán hơn thiệt. Họ bây giờ bàn về lễ thụ chức mục sư của ông, về cách nào ông có thể được bổ nhiệm đến Jefferson. "Tốt hơn chúng ta nên bắt tay vào việc ngay từ bây giờ," nàng nói. Ông bảo nàng là ông đã ra sức làm chuyện này từ khi bốn tuổi; có lẽ ông tỏ ra hài hước, tỏ ra khác thường. Nàng phớt lờ lời ông bằng vẻ đạo mạo dễ cáu giận và ức chế, gần như một sự đãng trí, và nàng nói chuyện như thể nói với chính mình, về những người, về những cái họ tên cần đi gặp, cần quỵ lụy hay cần hăm dọa. Nàng phác thảo ra cả một kế hoạch vận động, bày mưu tính kế nhục nhã. Ông lắng nghe nàng. Và ông luôn giữ trên bộ mặt mình một nụ cười mỉm yếu ớt, hơi kỳ dị, hơi chế nhạo, có lẽ vô vọng. Và trong khi nàng nói thì ông bảo, "Phải rồi. Phải rồi. Anh thấy rồi. Anh hiểu mà." Như thể ông đang nói Phải rồi. Anh thấy. Bây giờ anh thấy rồi. Người ta làm như vậy mà. Người ta kiếm lợi được như vậy mà. Đó là luật chơi mà. Bây giờ anh thấy ra rồi

Thoạt đầu, sau khi mà sự lừa mị, sự đánh mất phẩm giá, và những lời nói láo vặt vãnh của ông tác động đến những lời nói láo vặt vãnh khác, đến những lời hăm dọa cuối cùng dưới hình thức thỉnh cầu và gợi ý với những chức sắc lớn trong giáo hội, sau khi ông rốt cuộc nhận được nhiệm sở ở Jefferson, thì ông quên, trong một thời gian, làm cách nào ông đã đạt được mục đích đó. Ông chỉ nhớ lại sau khi đã ổn định cuộc sống ở Jefferson; chắc chắn là ông đã không nhớ lại khi ngồi trên con tàu, trong chặng đường cuối cùng của cuộc hành trình, đưa ông đến gần sự hoàn tất ước nguyện của đời ông, xuyên qua một miền quê tương tự như nơi ông sinh ra. Nhưng quang cảnh có vẻ khác đối với ông, tuy ông biết là sự khác biệt này không nằm bên ngoài nhưng nằm bên trong cửa sổ toa tàu mà ông áp mặt vào lớp kính nhìn ra ngoài như một đứa bé, trong khi người vợ bên cạnh ông bây giờ cũng lộ ra vẻ háo hức trên mặt, ngoài chuyện đói bụng và nỗi tuyệt vọng ra. Lúc đó, họ cưới nhau chưa được hoàn toàn sáu tháng. Họ cưới nhau ngay sau khi ông tốt nghiệp trường dòng. Và từ dạo đó tới giờ, ông đã không hề thấy nỗi tuyệt vọng trần trụi trên gương mặt nàng. Nhưng ông cũng không hề thấy lại niềm say đắm. Và một lần nữa, ông lặng lẽ suy nghĩ, không thấy ngạc nhiên lắm và có lẽ không cảm thấy tổn thương: Mình thấy ra rồi. Cuộc đời là như vậy. Lấy vợ, lấy chồng. Phải thôi. Mình thấy ra rồi, bây giờ

Con tàu tiếp tục lao về phía trước. Áp mặt vào cửa kính nhìn ra quang cảnh đồng quê trải dài, ông nói chuyện bằng cái giọng sung sướng, sáng sủa của một đứa bé: "Anh đã có thể đến Jefferson trước đây, hầu như vào bất cứ lúc nào. Nhưng anh đã không đến. Anh đã có thể đến đó bất cứ lúc nào. Nhưng em biết đấy, có một sự khác biệt giữa sự điên rồ dân sự và sự điên rồ quân sự. Sự điên rồ quân sự là sao ư? A, đó là sự điên rồ của niềm tuyệt vọng. Một nhúm người (ông không phải là sĩ quan: anh nghĩ đó là điểm duy nhất mà bố anh và vú già Cinthy luôn đồng ý với nhau: là ông nội anh không mang gươm, phi nước đại dẫn đầu đội kỵ binh mà không vung gươm), với sự khinh thường rợn người chỉ có ở tuổi học trò, hoàn thành một cuộc chơi khăm liều mạng một cách điên rồ đến nỗi đám binh lính đã từng chống cự họ suốt bốn năm không thể tin được là họ đã dám ra tay như thế. Phi ngựa cả trăm dặm đường xuyên qua miền đất mà ở đó mỗi khu rừng nhỏ, mỗi thôn xóm đều có trại dã chiến của quân Yankee, để thâm nhập vào một thành phố có quân đội đồn trú - anh biết chính xác con đường phố mà họ chạy vào và rút ra. Anh chưa từng thấy nó nhưng anh biết chính xác nó sẽ trông như thế nào. Anh biết chính xác nó sẽ trông như thế nào, ngôi nhà mà chúng ta một ngày kia sẽ sở hữu và sống trong đó, ở ngay trên con đường đó. Nhưng trước tiên chúng ta phải chờ đợi một thời gian. Chúng ta ban đầu sẽ phải sống ở căn nhà dành cho mục sư. Nhưng một ngày gần đây thôi, ngay khi chúng ta có thể, a, nơi mà chúng ta có thể nhìn qua cửa sổ và thấy con đường phố đó, có lẽ đến cả những dấu vết của vó ngựa hay hình dạng của chúng trong không khí, bởi vì đó sẽ là cùng một không khí, không đổi, dù cho bụi và bùn đã biến mất - Đói, hốc hác, la hét vang trời, họ đốt cháy tan tành các kho tiếp vận của cả một chiến dịch được chuẩn bị, sắp đặt kỹ lưỡng, rồi phi ngựa rút ra khỏi thành phố. Không cướp phá gì cả. Thậm chí không dừng lại một phút để thó một đôi giày hay một hộp thuốc lá. Tin anh đi, đó không phải là những người đi kiếm chiến lợi phẩm hay sự vinh quang; đó là những cậu bé mới lớn cưỡi trên ngọn sóng triều dâng đúng là dữ dội của cuộc đời tuyệt vọng. Những cậu bé, đơn giản vậy thôi. Vì điều này đó. Và điều này thì đẹp biết bao. Em nghe này. Hãy cố gắng thấy ra: đây là một sự thể hiện đẹp đẽ của tuổi trẻ vĩnh hằng và lòng khát khao trong trắng, nhờ đó mà làm nên những anh hùng. Và nhờ đó mà các hành động của những anh hùng trở nên cận kề với cái không thể tin được đến mức mà người ta không lấy làm lạ là các hành động này của họ đôi khi bật ra như tia sáng lóe lên từ nòng súng giữa khói lửa chiến trường, là cái khoảnh khắc mà những hành động này xảy ra trở thành, không để cho họ kịp thở, một tin đồn mang cả nghìn khuôn mặt, vì sợ rằng cái sự thật nghịch lý đó lại xúc phạm chính nó. Bây giờ, đây là chuyện bà vú Cinthy kể cho anh nghe. Và anh tin. Anh biết. Nó quá đẹp để mà hoài nghi. Nó quá đẹp, quá giản dị để mà một cái đầu dân da trắng có thể bịa đặt ra. Một người da đen hẳn có thể bịa đặt nó. Và nếu Cinthy làm chuyện bịa đặt này thì anh vẫn tin. Bởi vì ngay cả thực tế cũng không thể đứng vững trước nó. Anh không biết đội kỵ binh của ông nội có bị thất lạc hay không. Anh không tin như vậy. Anh nghĩ là họ cố ý làm chuyện đó, giống như các cậu bé, sau khi đốt cháy kho thóc của kẻ thù mà không lấy đi một tấm ván hay một cái chốt cửa, có thể dừng lại một chút giữa cuộc trốn chạy để ăn cắp một vài quả táo ở vườn người hàng xóm hay người bạn. Em nhớ cho là, họ đói lắm. Họ đã đói từ ba năm rồi. Có lẽ họ đã quen như vậy. Dù gì đi nữa, họ vừa đốt cháy hàng tấn lương thực, quân trang, thuốc lá và rượu mạnh, và họ không lấy một thứ gì cho riêng mình dù chẳng có một lệnh nào cấm họ cướp bóc, và bây giờ họ quay về, với tất cả mọi thứ đó ở sau lưng họ, như hậu cảnh, như tấm phông: một sự sửng sốt đầy lo âu, một đám cháy nổ lớn; ngay cả bầu trời cũng đã phải rực lửa. Em có thể thấy, có thể nghe: tiếng la hét, tiếng súng nổ, tiếng gào thét chiến thắng hay hãi hùng, tiếng vó ngựa dồn dập, cây cối nổi bật trên ánh lửa đỏ rực như thể cũng vì sợ hãi mà đứng im, những đầu hồi nhọn của các ngôi nhà trông giống như những gò đống lởm chởm của mặt đất trong sự nổ tung cuối cùng. Lúc bấy giờ đó là một nơi chốn chật chội: em có thể cảm thấy, có thể nghe thấy trong bóng tối những con ngựa dừng lại bất thình lình nhưng đầu vẫn chồm ra phía trước; tiếng vũ khí va vào nhau loảng xoảng; tiếng xì xào quá ồn ào, tiếng thở nặng nhọc, những giọng nói vẫn còn đắc thắng; và sau lưng họ là số binh lính còn lại đang phi nước đại về phía tiếng kèn gọi tập hợp. Cái đó, em phải nghe, phải cảm: rồi em thấy. Em thấy, trước khi em nghe, tiếng súng nổ, những con ngựa trong ánh lửa đỏ đột ngột, thân đẫm mồ hôi, đầu lúc lắc, mắt hốt hoảng, lỗ mũi rung rung; rồi em thấy ánh phản chiếu của sắt thép, những bộ mặt xanh xao, hốc hác như những con bù nhìn sinh động đã không ăn uống được tất cả những gì mình muốn trong cùng một bữa ăn, từ cái ngày mà họ còn có thể nhớ được; có lẽ vài người trong bọn họ đã nhảy xuống ngựa, có lẽ một hay hai người đã vào trong chuồng gà. Tất cả mấy thứ này thì em thấy trước nghe tiếng súng nổ. Rồi mọi thứ trở nên tối đen lần nữa. Một phát súng, một phát một thôi. 'Và dĩ nhiên ổng ở ngay, ngay trước mũi súng,' Cinthy nói. 'Đang ăn trộm gà. Một người ở tuổi ổng, con trai thì đã có vợ, đi vào cuộc chiến để giết tụi Yankee, vậy mà bị giết trong chuồng gà của người ta, trên tay còn đầy lông gà!' Đang ăn trộm gà." Ông nói với giọng cao, hứng khởi, như giọng con nít. Vợ ông nghe nhưng đã nắm chặt cánh tay ông: Suỵ...ttt! Sụy...ttt! Người ta đang nhìn anh kìa! Nhưng ông có vẻ không nghe nàng chút nào. Khuôn mặt gầy, bệnh hoạn của ông, và cặp mắt, đều lộ ra ít nhiều một vẻ rạng rỡ. "Vậy đó. Họ không biết ai đã bắn phát súng đó. Không thực sự biết được bao giờ. Họ không ra sức tìm cho ra. Có thể đó là một mụ đàn bà, chắc là vợ của một trong những tên lính miền Nam. Anh thích nghĩ như vậy. Vì như vậy thì đẹp. Bất cứ người lính nào cũng có thể bị kẻ thù giết trong khi say máu chiến đấu, bằng một vũ khí được chấp nhận bởi các trọng tài và các nhà làm ra những điều luật chiến tranh. Hay bị một người đàn bà giết trong phòng ngủ. Nhưng không bị giết bằng một khẩu súng săn, lại là súng bắn chim nữa chớ, trong một chuồng gà! Vậy thì có gì đáng ngạc nhiên không khi thấy thế gian này được phần lớn người chết cư ngụ? Chắc chắn là khi Chúa Trời nhìn đến những người nối nghiệp họ, Ngài sẵn sàng chia sẻ đứa Con của Ngài với thân phận làm người của chúng ta."

"Suỵt! Suỵ...ttt! Người ta đang nhìn mình kìa!"

Rồi con tàu chạy chậm lại khi vào thành phố. Những khu ngoại ô tồi tàn bẩn thỉu trải dài rồi biến đi ngoài cửa sổ. Ông - một người đàn ông gầy ốm, ăn mặc hơi xốc xếch, nhưng còn mang trong người niềm nhiệt tình không suy giảm dành cho nhiệm sở đầu tiên và thiên hướng của mình - vẫn đưa mắt nhìn ra ngoài, và ông vây quanh, ông bao bọc và giữ gìn trái tim đầy lo âu của mình một cách thầm lặng, và ông nghĩ, một cách bình thản, là thiên đường chắc chắn phải có cái gì đó tương tự như hình dạng và màu sắc của bất cứ ngôi làng nào, ngọn đồi nào, căn nhà nào mà một tín đồ có thể nói: Cái này là của tôi. Tàu ngừng. Rồi những bước đi chậm chạp dọc theo hành lang toa tàu, thỉnh thoảng dừng lại vì mắt cứ nhìn ra ngoài, rồi xuống ke ga giữa những bộ mặt nghiêm nghị, lịch sự và biết suy xét: những giọng nói, những lời thì thầm, những câu nói nửa chừng dễ thương nhưng dè dặt, chưa phán xét gì cả - những câu nói không muốn biểu lộ gì hết (thôi, hãy nói thẳng ra đây) và tìm cách làm hại.

'Mình đã chấp nhận điều đó mà,' ông bây giờ nghĩ. 'Mình tin là mình đã chấp nhận nó mà. Có lẽ mình đã không làm chuyện gì khác, ngoài chuyện chấp nhận đó, ôi lạy Chúa tôi.' Quang cảnh trên mặt đất giờ hầu như không còn thấy được. Trời gần như tối hẳn. Đầu ông, biến dạng vì bị cái băng quấn quanh, thì không có bề sâu, không có sự rắn chắc; bất động, nó có vẻ như lơ lửng ở phía trên hai bàn tay của ông đang nắm tròn lại trông như hai đốm màu song sinh nhợt nhạt, đặt nằm trên mép cái cửa sổ đang mở. Ông khom người ra phía trước. Giờ thì ông đã có thể cảm thấy được hai cái khoảnh khắc đó sắp sửa chạm vào nhau: cái trước là toàn bộ cuộc đời ông tự tái diễn mỗi ngày giữa hoàng hôn và bóng đêm đậm đặc, và cái sau thì lơ lửng mà từ đó cái trong chốc látsẽ bắt đầu bây giờ. Khi ông còn trẻ hơn, khi não bộ của ông còn quá nhanh nhạy để biết chờ đợi, vào lúc này, ông thỉnh thoảng cũng tự dối mình và tin rằng ông nghe thấy chúng trước khi ông biết là đã đến lúc.

'Có lẽ đó là tất cả những điều mà mình đã làm, đã có thể làm từ trước tới nay,' ông vừa nghĩ vừa nhớ tới những bộ mặt: bộ mặt của những người già đương nhiên còn hồ nghi khi thấy ông trẻ quá, và ganh tức vì phải trao nhà thờ vào tay ông, gần giống như người cha phải trao con gái mình cho chàng rể trong buổi lễ cưới: bộ mặt của những người già mang các nếp nhăn vì sự tích tụ lâu ngày, không hơn không kém, của những sự thất vọng và ngờ vực thường là mặt trái của bức tranh diễn tả những năm tráng kiện và được kính trọng của sự chín chắn nhờ tuổi tác - vả lại, cái mặt trái này thì cả đối tượng lẫn chủ nhân của bức tranh phải nhìn vào, không thể tránh nhìn được. 'Họ đã làm phần việc của họ; họ đã tuân thủ các quy tắc,' ông nghĩ. 'Mình mới là người đã vi phạm chúng, đã thất bại. Có lẽ đó là một tội lớn nhất trong tất cả những tội chống lại xã hội, hay có lẽ chống lại đạo đức.' Những suy tưởng của ông cứ được tiếp tục như vậy, lặng lẽ, bình thản, chúng lần lượt trôi qua đầu ông, lần lượt định hình, thầm lặng, không quả quyết, không trách móc, không đặc biệt hối tiếc gì. Ông thấy chính mình như một hình bóng giữa các hình bóng, nó thì ngược đời, đầy một thứ lạc quan và vị kỷ giả tạo, nó tin rằng ông sẽ tìm thấy ở bộ phận này của cái giáo hội từng gây ra nhiều sai lầm nhất sự tỉnh mộng, ngay giữa những đam mê mù quáng, những tiếng nói, những bàn tay chìa ra, của con người, những cái mà ông đã không thể tìm thấy trong sự sùng bái xa rời đạo hữu của giáo hội trên thế gian. Ông có cảm tưởng là ông luôn luôn thấy điều đó: rằng cái đang phá hủy giáo hội không phải là những sự dò dẫm của những người ở trong tìm cách ra khỏi nó hay của những người ở ngoài tìm cách vào trong nó, nhưng là những kẻ nhà nghề kiểm soát nó, những kẻ đã tháo đi những quả chuông ở các tháp nhà thờ. Ông dường như thấy các tháp chuông này, vô tận, không trật tự, trống rỗng, tượng trưng, hướng lên trời cao, không phải bằng sự mê ly hay say đắm nhưng bằng sự khẩn nài, đe dọa và kết tội. Ông dường như nhìn tất cả những ngôi nhà thờ trên thế giới như một cái thành lũy, như một trong những chướng ngại vật thời Trung cổ đó, tua tủa những cọc nhọn vô dụng, được dựng lên để chống lại sự thật và chống lại sự an bình được mở ra cho tội lỗi cũng như cho sự tha thứ, và cũng là cuộc sống con người.

'Và mình đã chấp nhận điều đó,' ông nghĩ. 'Mình đã ưng thuận. Không! Mình đã xử sự tệ hơn: mình phục vụ nó. Mình phục vụ nó bằng cách sử dụng nó để thỏa mãn nỗi ham muốn của riêng mình. Mình đã tới đây, nơi mà những bộ mặt đầy bối rối, khát khao và háo hức chờ đợi mình, chờ đợi để tin. Mình đã không thấy chúng. Nơi mà những bàn tay chìa ra về phía những gì mà chúng tin là mình sẽ mang lại cho chúng. Mình đã không thấy chúng. Mình đã mang theo với mình một lòng tin, có lẽ lòng tin đầu tiên của con người, mà trước đó mình đã tự nguyện chấp nhận trước Chúa. Mình đã xem lời hứa đó, lòng tin đó chẳng có giá trị gì nhiều đến nỗi mình thậm chí không biết là mình đã chấp nhận nó trước đó. Và nếu đó là tất cả những gì mà mình đã làm cho vợ mình, thì mình có thể trông đợi cái gì đây? Mình hẳn có thể trông đợi cái gì đây ngoài sự nhục nhã, sự tuyệt vọng và khuôn mặt của Chúa, đầy xấu hổ, quay đi chỗ khác? Có lẽ vào lúc mà mình thố lộ với nàng không những nỗi khao khát mãnh liệt của mình mà còn cái thực tế là không bao giờ, không bao giờ nàng có thể giúp mình thỏa mãn nó; có lẽ vào lúc đó mình đã trở thành tên cám dỗ, tên sát nhân đối với nàng, tác nhân và công cụ của nỗi ô nhục và cái chết của nàng. Dù gì đi nữa, chắc chắn phải có những chuyện mà con người không thể nào quy trách nhiệm cho Chúa, không thể nào buộc tội Ngài. Phải có những chuyện như vậy chớ.' Bây giờ sự suy nghĩ của ông bắt đầu chậm lại, chậm lại như cái bánh xe bắt đầu chạy trên cát mà cái trục, cái xe, cái động cơ đẩy nó, chưa nhận ra.

Ông dường như tự nhìn mình giữa những khuôn mặt, bao giờ ông cũng bị vây quanh, bao bọc ở giữa những khuôn mặt, như thể ông tự nhìn mình trong bục giảng kinh của riêng ông từ phía cuối nhà thờ, hay như thể ông là một con cá trong chậu. Và hơn thế nữa: những khuôn mặt đó có vẻ là những tấm gương soi mà ông nhìn mình trong đó. Ông biết tất cả những khuôn mặt đó; ông có thể đọc trên chúng những hành động của mình. Ông dường như thấy phản chiếu trên đó bóng dáng của một anh hề khoa tay múa chân lung tung: một tên lòe bịp rao giảng một cái gì còn tệ hại hơn tà giáo, không đếm xỉa gì đến những người mà hắn đã giành giựt trước sân khấu của họ: thay vì đưa ra cái hình thánh giá, biểu tượng của lòng trắc ẩn và tình thương thì hắn lại đưa ra một tên đâm thuê chém mướn được thả lỏng và vênh váo, bị giết bằng súng săn trong một cái chuồng gà yên bình, vào lúc tạm nghỉ trong cái nghề giết mướn của riêng y. Cái bánh xe của sự suy nghĩ quay chậm lại; cái trục bây giờ biết điều này nhưng chính cái xe thì vẫn chưa biết.

Ông thấy những khuôn mặt bao quanh ông thì phản chiếu sự kinh ngạc, sự bối rối, rồi sự phẫn nộ, rồi sự sợ hãi, như thể họ nhìn xa hơn những trò hề rồ dại của ông, và thấy phía sau ông Thánh Nhan[144] tối thượng và chung cuộc của chính Ngài đang nhìn xuống ông từ trên cao mà ông lại không hay biết, lạnh lùng và khủng khiếp trong sự an nhiên toàn tri của Ngài. Ông biết là họ thấy hơn thế nữa: là họ thấy cái lòng tin đó, mà ông đã tỏ ra không xứng đáng, bây giờ được dùng để trừng phạt ông; ông bây giờ có cảm tưởng là ông nói chuyện với Thánh Nhan: "Có lẽ con đã chấp nhận nhiều hơn những gì mà con đã có thể làm. Nhưng đó có phải là một trọng tội không? Vì đó mà con phải bị trừng phạt sao? Không lẽ con phải mang trách nhiệm đối với những gì nằm ngoài khả năng của con sao?" Và Thánh Nhan: "Đâu có phải vì để hoàn thành việc đó mà con đã lấy nàng làm vợ. Con đã lấy nàng như là một phương tiện để thỏa mãn lòng ích kỷ của con. Như một công cụ để con được bổ nhiệm đến Jefferson. Đâu phải cho mục đích của Ta, nhưng cho mục đích của con đó mà."

'Có thật vậy không?' ông nghĩ. 'Điều đó đã có thể là thật không?' Ông tự thấy mình lần nữa khi sự hổ thẹn đến. Ông nhớ đến sự hổ thẹn này, mà ông đã cảm thấy trước khi nó sinh ra, mà ông đã đuổi ra khỏi sự suy nghĩ của mình. Ông thấy chính mình đưa ra, để xoa dịu mình, nào là sự can đảm chịu đựng, nào là sự nhẫn nhục, nào là sự giữ gìn phẩm cách, làm cho ông tưởng rằng mình từ bỏ bục giảng như một người tử vì đạo, trong khi ngay cùng lúc đó, ông cảm thấy trào dâng bên trong ông một sự đắc thắng phấn khích với sự khước từ này đằng sau bộ mặt đã làm ông lộ ra chân tướng, vì trước đó ông tưởng rằng giấu nó sau cuốn thánh ca là xong, khi nhà báo ảnh bấm máy chụp ông.

Ông dường như quan sát chính mình, chăm chú, kiên nhẫn, khéo léo, biết tiến thoái đúng lúc, làm bộ như mình bị ép buộc thực hiện, không phàn nàn, điều mà ông thậm chí đã không thừa nhận lúc đó như là niềm mong ước duy nhất của mình từ ngày ông bước chân vào trường dòng. Và ông tiếp tục ném ra những thứ để xoa dịu của mình, như ném trái cây thối xuống cho bầy heo: món lợi tức ít ỏi thừa hưởng từ người cha mà ông vẫn tiếp tục chia sẻ với cái cơ sở từ thiện ở Memphis; sự cam chịu khi ông để cho người ta khủng bố, người ta lôi ra khỏi giường trong đêm khuya, dẫn vào rừng và đánh đập bằng gậy, và ông đã chịu đựng tất cả các chuyện này trong tầm nhìn và tầm nghe của cả thành phố, không thấy xấu hổ, bằng cái tôi kiên nhẫn và ưa khoái lạc của những người tử vì đạo, bằng dáng điệu, thái độ, lời kêu than Cho đến bao giờ, lạy Chúa Trời[145] cho tới khi trở về nhà, khóa cửa lại, ông gỡ mặt nạ ra với niềm hân hoan đầy vẻ khoái lạc và đắc thắng: A, xong chuyện rồi đó. Bây giờ thì đã qua rồi. Đã mua và đã trả tiền rồi, bây giờ

'Nhưng hồi đó mình còn trẻ mà,' ông nghĩ. 'Mình cũng vậy, mình đã phải làm, không phải những gì mình có thể, nhưng những gì mình biết.' Sự suy nghĩ bây giờ đang chạy một cách quá nặng nhọc; chắc là ông biết, ông cảm thấy điều đó. Thế nhưng chiếc xe không biết cái gì đang tiến lại gần. 'Và dù sai đi nữa, mình đã trả giá. Mình đã mua hồn ma của mình, dù cho đã phải trả bằng chính cuộc đời mình. Và ai có thể ngăn cấm mình làm chuyện đó? Con người nào cũng có đặc quyền tự hủy hoại mình, miễn là y đừng làm hại đến kẻ khác, miễn là y sống cho mình và bằng chính mình -.' Ông đột ngột ngừng lại. Bất động, hơi thở bị cắt ngang, ông bỗng cảm thấy rụng rời, rất gần như sự khiếp sợ. Ông bây giờ ý thức là có cát dưới bánh xe, và sự nhận ra điều này khiến ông cảm thấy bên trong người mình có cái gì đó đang tập hợp để dành cho một sự nỗ lực rất lớn. Sự tiến tới, bây giờ, vẫn là sự tiến tới, tuy vậy, nó bây giờ thì không thể phân biệt được với cái quá khứ cận kề, giống như những tấc cát đã được đi ngang qua nhưng vẫn còn dính trên bánh xe quay rồi rơi xuống bằng một tiếng động nhẹ và khô; và tiếng động này đáng lẽ phải báo trước cho ông biết từ lâu rồi: '... thố lộ với vợ nỗi khát khao của mình, cái bản chất thực sự của mình... là một công cụ làm cho nàng tuyệt vọng, làm cho nàng nhục nhã...' và tuy ông không nghĩ đến chút nào, một câu nói bỗng vang lên trong đầu ông, ngay sau đôi mắt ông: Mình không muốn nghĩ điều này. Mình không phải nghĩ điều này. Mình không dám nghĩ điều này Trong khi ngồi bên cửa sổ, khom người trên hai bàn tay bất động, ông cảm thấy mồ hôi bắt đầu chảy trên người, tóe ra như máu, rồi chảy đầm đìa. Ngay trong khoảnh khắc này, cái bánh xe bị cát bám của dòng suy tưởng quay tiếp, chậm nhưng cứ tiến tới, như một dụng cụ tra tấn thời Trung cổ, ở dưới những cái khớp bị trật, bị gãy của tâm trí ông, của đời ông: 'Vậy thì, nếu sự việc là như thế, nếu mình là công cụ gây ra cho nàng nỗi tuyệt vọng và cái chết, thì lần lượt mình cũng là công cụ của ai đó ở bên ngoài mình. Và mình biết từ năm mươi năm nay là mình thậm chí không phải là đất sét: mình là một khoảnh khắc độc nhất của bóng tối, và trong khoảnh khắc đó một con ngựa đã phi nước đại và một khẩu súng đã bắn. Và nếu mình là người ông đã qua đời đó ngay vào cái khoảnh khắc ổng chết, thì vợ mình, vợ của đứa cháu nội của ổng... kẻ làm sa đọa và cũng là kẻ giết vợ của cháu nội mình... vì lẽ rằng đứa cháu nội này, mình không thể để nó sống, mà cũng không thể để nó chết..."

Cái bánh xe, sau khi hết kẹt, có vẻ tăng tốc bằng một tiếng động kéo dài nghe như một tiếng thở dài sườn sượt. Ông ngồi bất động trong sự hồi phục tốc độ đó, người thấy mát nhờ mồ hôi cứ tuôn ra đều đều. Bánh xe tiếp tục quay. Nó bây giờ đi nhanh, không bị trục trặc, bởi vì bây giờ nó được tháo gỡ các thứ gánh nặng, cái xe, trục xe, tất cả. Trong ánh sáng tháng tám dịu dàng còn nấn ná trên trời mà bóng đêm chẳng mấy chốc sẽ trùm xuống trọn vẹn, nó dường như tạo ra một vùng sáng nhợt nhạt bao quanh nó như một vầng hào quang. Vầng hào quang này thì đầy những khuôn mặt. Những khuôn mặt thì không được nặn theo sự đau khổ: không có sự ghê sợ, sự đau đớn, ngay cả sự trách móc cũng không có. Chúng đều thanh thản, như thể chúng vừa trốn vào được trong sự suy tôn thần thánh. Giữa chúng thì có khuôn mặt của riêng ông. Thực ra, chúng tất cả trông giống nhau ít nhiều, được ghép lại từ tất cả những khuôn mặt mà ông từng biết. Nhưng ông có thể phân biệt giữa chúng với nhau: khuôn mặt của vợ ông, của những người ở thành phố này, của những thành viên trong giáo đoàn đó đã chối bỏ ông, đã từng đến nhà ga đón chào ông với sự háo hức và ước mong tha thiết, vào cái ngày ông đến Jefferson đó; khuôn mặt của Byron Bunch, của người đàn bà với đứa bé sơ sinh, rồi của người đàn ông tên là Christmas. Nhưng chỉ có khuôn mặt này thì không rõ nét. Nó thì dễ lầm lẫn hơn bất cứ khuôn mặt nào khác, như thể còn khổ sở, tuy giờ thì yên bình rồi, với sự ghép lại các khuôn mặt, gần đây hơn và rối rắm hơn. Vậy là ông có thể thấy đó là hai khuôn mặt có vẻ đánh nhau (không phải bởi vì chính chúng đánh nhau hay ham muốn đánh nhau: ông biết điều này mà, nhưng do sự chuyển động và sự ham muốn của chính cái bánh xe) lần lượt để giải thoát cái này ra khỏi cái kia, rồi biến mất và lại hình thành một lần nữa. Nhưng ông mới vừa thấy một khuôn mặt khác, cái khuôn mặt không phải là Christmas. 'Lạ chưa! đó là...' ông nghĩ. 'Mình thấy nó mới đây mà... Lạ thật, chắc là... gã thanh niên đó. Cái gã với khẩu súng lục màu đen, tự động, như người ta gọi vậy. Cái gã... ở trong bếp... bị giết chết, cái gã đã bắn...' Rồi ông có cảm tưởng là bên trong người mình một dòng nước cuối cùng đáng ghét phá vỡ đê bao và ào ào chảy đi. Ông dường như quan sát nó, cảm thấy chính mình đang mất dần sự tiếp xúc với mặt đất, cảm thấy người mình càng lúc càng nhẹ hơn, càng trống rỗng hơn, cảm thấy nó lơ lửng trong không khí. 'Mình đang chết đây,' ông nghĩ. 'Mình nên cầu nguyện. Mình nên cố gắng cầu nguyện.' Nhưng ông không làm chuyện này. Ông không cố gắng làm. 'Khi mà trong không gian, trong tất cả các bầu trời, vang dội tiếng kêu tuyệt vọng và bị bỏ mặc của tất cả những người đã sống nhưng vẫn còn rên rỉ như những đứa bé thất lạc giữa những vì sao lạnh lẽo và khủng khiếp... Mình có muốn gì lắm đâu. Mình có đòi hỏi gì lắm đâu. Dường như...' Bánh xe tiếp tục quay. Bây giờ nó quay tròn, mờ nhạt dần, mà không tiến tới được, như thể bị quay bởi dòng nước cuối cùng cuồn cuộn chảy ra khỏi con người ông đó, để thân thể ông trống rỗng và nhẹ hơn một chiếc lá bỏ quên, và thậm chí nhỏ nhặt hơn mấy thứ đồ trôi dạt trên sông, kiệt sức, nằm dài yên lặng trên gờ cửa sổ không được chắc lắm dưới hai bàn tay không trọng lượng. Và vậy là cái chết có thể đến bây giờ Bây giờ

Dường như đám kỵ binh chỉ chờ cho đến khi ông có thể tìm ra cái gì đó để mà tha thiết ước ao, cái gì đó để ông khẳng định lại niềm vui thắng lợi và nỗi ham muốn của mình khi nhìn thấy những gì còn lại này của danh dự, của niềm kiêu hãnh và của cuộc sống. Ông nghe, phía trên quả tim mình, tiếng sấm to dần, nhiều vô kể, liên tục. Đó là tiếng vó ngựa phi nước đại nghe như tiếng sấm đó đến từ xa, nó bắt đầu như tiếng gió thở dài trong các hàng cây, rồi chẳng mấy chốc hiện ra trong tầm mắt đám kỵ binh đang lao nhanh đến, bây giờ trông như bị cuốn đi trong đám bụi ma quái. Họ chạy qua như cơn lốc, cúi rạp người trên yên, tay vung gươm, các dải băng trên đầu những ngọn giáo cầm nghiêng và hăm hở thì bay phần phật. Giữa sự náo động và la hét câm lặng, họ vội vã chạy qua như một con sóng lớn mà đầu ngọn sóng thì lởm chởm những đầu ngựa hung hãn và những vũ khí mà các kỵ mã vung lên, như cái miệng núi lửa đang bùng nổ. Họ chạy qua như cơn lốc và biến mất. Bụi mù cuộn xoáy, bị hút lên trời cao, mất dần trong bóng đêm giờ đã rủ xuống hoàn toàn. Thế nhưng, vẫn khom người ở cửa sổ, cái đầu được băng bó trông to ra thật nhưng không có bề sâu, ở phía trên hai bàn tay ông đang nắm tròn lại và đặt nằm trên mép cửa sổ, ông có cảm tưởng là mình vẫn còn nghe họ: những hồi kèn điên dại và tiếng gươm giáo lách cách và tiếng sấm đến từ vó ngựa phi nước đại đang lụi tàn.

21

Ở miền Đông bang Mississippi sinh sống một người làm nghề sửa chữa và buôn bán đồ gỗ. Gần đây ông có đi một chuyến sang bang Tennessee để nhận vài món đồ gỗ cũ mà ông đã mua bằng thư từ trước đó. Ông đi bằng chiếc xe tải của mình. Đó là một chiếc xe tải hộp, mới, với một cánh cửa ở đuôi xe, và như ông không định lái nhanh hơn mười lăm dặm một giờ nên ông có mang theo đồ cắm trại để khỏi phải tốn tiền khách sạn. Khi về lại nhà, ông kể cho bà vợ nghe chuyện ông đã trải qua trên đường đi, chuyện mà ông thấy thích thú khi đó và bây giờ ông cho là đủ vui để kể lại. Nếu ông thấy thích thú với nó và nếu ông nghĩ mình có thể làm vui người khác bằng cách kể lại, có lẽ đó là vì vợ ông và ông thì chưa già; hơn nữa, ông đã xa nhà hơn một tuần lễ (do việc ông cho là khôn ngoan khi tự mình hạn chế tốc độ lái xe ở mức rất ư vừa phải). Câu chuyện có liên quan với hai người mà ông đã gặp trên đường và đã cho đi nhờ xe. Ông nói tên cái thành phố đó, ở bang Mississippi, ngay trước khi ông đi vào bang Tennessee:

"Tui quyết định đổ thêm xăng và tui đã cho xe chạy chậm lại khi tấp vào trạm xăng thì bỗng thấy cô nàng này, mặt mũi trông trẻ và dễ chịu, đang đứng ở một góc, như thể cổ đang chờ ai ngừng xe lại và đề nghị chở cổ đi. Cổ ôm cái gì đó trong vòng tay. Lúc đầu tui không thấy đó là cái gì, và tui cũng không thấy cái thằng cha đi cùng cổ chút nào cho tới khi y đến gần và nói chuyện với tui. Thoạt đầu tui nghĩ mình đã không thấy y trước đó là vì y đã không đứng gần cổ. Rồi tui mới nhận ra là y thuộc loại người mà người ta không thấy ra tức khắc ngay cả khi y đứng một mình ở đáy một cái hồ bơi bằng xi măng trống không.

"Y đến gần tui và tui nói ngay như vầy: 'Tui không đi tới Memphis đâu, nếu đó là chỗ anh muốn đi. Tui đi xa hơn Jackson, bang Tennessee đó.' Và y nói,

"'Vậy thì tốt quá. Đúng y chang chỗ tụi tôi muốn đi. Ông cho đi thì thiệt là quý hóa.' Và tui nói,

"'Vậy cả hai người muốn đi đến đâu?' Và y nhìn tui, trông y như một kẻ không quen nói láo nhưng tìm cách phịa ra cho nhanh cái gì đó trong khi đã biết rằng người ta sẽ không tin mình. 'Chắc là đi ngắm cảnh một chút phải không?' tui nói.

"'Phải,' y nói. 'Đúng là vậy đó. Ông mà chở tụi tôi đến bất cứ đâu thì cũng quý hóa lắm rồi.'

"Vậy là tui biểu y lên xe. 'Tui không nghĩ là anh sẽ làm chuyện cướp của giết người với tui.' Y bỏ đi rồi trở lại với cổ. Lúc đó tôi mới thấy cái cổ mang trên tay là một đứa bé sơ sinh, một em bé chưa đầy một tuổi. Y chuẩn bị giúp cổ leo lên ở sau xe thì tui nói, 'Tại sao một trong hai người lại không ra ngồi ghế ở phía trước chớ?' và họ bàn với nhau một chút rồi cổ đến, leo lên ngồi trên ghế và y thì quay vào bên trong trạm xăng và mang ra một trong những cái va-li bằng các-tông giả da, đặt nó vào trong xe rồi leo vào. Vậy là tụi tui đi, cổ ngồi ở ghế, ôm em bé trong vòng tay, và thỉnh thoảng cổ quay đầu ra sau có lẽ để xem y có bị rớt ra khỏi xe hay cái gì đại loại như vậy.

"Lúc đầu tui nghĩ họ là vợ chồng với nhau. Tui đâu có nghĩ gì xa hơn, trừ khi tui tự hỏi làm sao mà cô gái trẻ và lực lưỡng như vậy lại chịu lấy một thằng cha như y. Không phải là y có cái gì không ổn đâu. Y có vẻ một người tử tế, thuộc kiểu người cứ giữ mãi một công việc và làm công việc đó trong một thời gian dài mà không làm phiền ai với chuyện đòi hỏi tăng lương, cứ tiếp tục làm cho tới chừng nào người ta còn để cho làm. Y trông như vậy đó. Trừ khi y làm việc, khi đó thì y có cái vẻ của bất kỳ cái gì đó. Tui không thể hình dung ra làm sao một người nào đó, một người đàn bà, có thể nhớ lại là đã từng ngủ với y, chưa nói đến chuyện có bằng chứng để đưa ra."

Ông không thấy ngượng miệng sao? bà vợ nói. Nói chuyện kiểu như vậy trước một phụ nữ! Hai người nói chuyện trong bóng tối.

Dù sao tui không thể thấy bà đỏ mặt mà ông nói. Ông tiếp tục: "Tui không nghi ngờ gì cả cho đến khi bọn tui phải cắm trại nghỉ qua đêm. Cổ ngồi ghế bên cạnh tui, và tui nói chuyện với cổ, như người ta thường làm, và sau một lúc thì bắt đầu nói về chuyện làm sao họ đã đến từ Alabama. Cổ luôn miệng nói, 'Tụi tôi đến,' và vậy là tôi nghĩ là cổ muốn nói cổ và thằng cha ngồi ở sau xe. Về chuyện họ đã ở trên đường gần tám tuần nay. 'Cô không thể có em bé từ tám tuần nay,' tui nói. 'Nếu tui tin ở mắt mình,' và cổ nói là em bé mới sinh ra cách đây ba tuần, dưới Jefferson, và tui nói, 'Ồ. Nơi mà họ đã lin-chơ tên mọi đen đó. Chắc là cô ở đó lúc đó,' và cổ bỗng im bặt. Như thể y đã biểu cổ đừng nói đến chuyện này. Tui biết là như vậy mà. Vậy là tui tiếp tục lái xe, rồi khi đêm tới, tui nói, 'Chúng ta sắp sửa tới một thị trấn. Tui thì không ngủ ở đó. Nhưng nếu hai người muốn tiếp tục đi với tui ngày mai thì tui sẽ đến đón hai người ở khách sạn sáng mai, lúc sáu giờ,' và cổ cứ ngồi im, như thể chờ y nói, và sau một lát y nói,

"'Tôi cho là với chiếc xe tải hộp kín như cái nhà này, ông không phải bận tâm về chuyện khách sạn làm gì,' và tui không nói gì thêm rồi khi tụi tôi vào trong thị trấn thì y nói, 'Thị trấn này có lớn lắm không?'

"'Tui không biết,' tui nói. 'Nhưng chắc là có nhà nghỉ hay cái gì đại loại như vậy ở đây.' Và y nói,

"'Tôi không biết họ có chỗ cắm trại dành cho du khách không.' Và tui vẫn không nói gì và y nói, 'Và có lều cho mướn. Vào ở khách sạn thì quá đắt, nhất là đối với những người còn cả một quãng đường dài để đi.' Hai người này đã chưa hề nói với tui là họ đi đâu. Như thể chính họ cũng không biết, như thể họ đang chờ để xem họ có thể đi tới tận đâu. Nhưng tui không biết điều này, lúc đó. Nhưng tui biết điều mà y muốn tui nói ra, tui biết là y không dám chính mình hỏi tui một cách thẳng tuột, trước mặt tui. Trong khi y chờ đợi thì tui nghĩ, nếu đó là ý Chúa muốn tui nói ra điều đó thì tui sẽ nói ra, và nếu đó là ý Chúa muốn y đi ở khách sạn và phải trả có lẽ ba đô-la một phòng thì y sẽ phải làm theo thôi. Vậy là tui nói,

"'Thôi được. Trời đêm nay thì cũng ấm. Nếu hai người không sợ muỗi lắm và không ngại nằm ngủ trên sàn xe tải.' Và y nói,

"'Hẳn vậy rồi. Được vậy là đủ lắm rồi. Và ông làm ơn cho cổ...' Lúc đó tui để ý tới cách y nói cổ. Và tui bắt đầu để ý là y có cái gì đó mắc cười và không được tự nhiên cho lắm. Giống như một người đã quyết định làm chuyện mình muốn mà lại cảm thấy sợ làm chuyện đó. Tui không có ý nói là y có vẻ sợ những gì có thể xảy ra với y nếu y làm chuyện đó, nhưng dường như y thấy thà chết còn hơn nghĩ tới việc làm chuyện đó, nếu như trước đó y đã không thử làm tất cả những gì có thể cho đến khi cảm thấy vô vọng. Đó là trước khi tui biết. Vào lúc đó, tui thiệt tình không thể hiểu chuyện đó có thể là cái gì. Và nếu không có cái chuyện xảy ra đêm hôm đó thì tui chắc là đã không biết cái mốc khô gì cả khi họ chia tay tui ở Jackson[146]."

Vậy thì y định làm cái gì đây? bà vợ nói.

Chờ chút xíu coi, từ từ để tui tới phần đó đã. Có lẽ tui sẽ làm cho bà cũng hiểu được Ông tiếp tục: "Vậy là tụi tui ngừng trước cửa tiệm đó. Y đã vội vã nhảy xuống trước khi xe dừng hẳn. Như thể y sợ tui xuống xe trước y; và y thì hớn hở ra mặt, như một đứa con nít đang cố gắng làm cái gì cho mình, người lớn, trước khi mình đổi ý về cái mà mình trước đó đã hứa làm cho nó. Y ba chân bốn cẳng chạy vào trong tiệm rồi trở ra với cả đống nào gói, nào bao trên tay, nhiều đến nỗi che khuất cả mắt y, đến nỗi tui tự nhủ, 'Ông bạn ui, bộ ông định ăn dầm nằm dề trong cái xe tải này hay sao, bộ ông sắm sửa đồ dùng cho cả gia đình hay sao?' Rồi tụi tui tiếp tục đi và không bao lâu thì tới một chỗ mà tui có thể cho xe rời con lộ và ngừng dưới các tàng cây, và y nhảy ngay xuống rồi chạy ra phía trước xe, giúp cổ bước xuống như thể cổ và em bé là làm bằng thủy tinh hay trứng gà không bằng. Và y vẫn cứ mang cái vẻ mặt đó, cái vẻ mặt của một người đã nhất quyết làm bất cứ cái gì mà nỗi tuyệt vọng thúc đẩy y làm, với điều kiện là cả tui lẫn cổ không làm gì trước đó để ngăn cản y, cũng với điều kiện là cổ không thấy ra nỗi tuyệt vọng trên bộ mặt y khi y làm cái này, cái nọ. Nhưng ngay cả lúc đó thì tui cũng không biết đó là cái gì."

Vậy thì đó là cái gì? bà vợ nói.

Tui đã cho bà thấy một lần rồi mà. Không lẽ bà muốn tui bắt đầu lại lần nữa sao?

Tôi đâu muốn ông bắt đầu lại. Nhưng tôi chưa thấy có gì là ngồ ngộ trong đó cả. Sự tình ra sao mà y lại bỏ thì giờ, bỏ công bỏ của ra vậy?

Đó là vì hai người đó không phải là vợ chồng ông chồng nói. Ngay cả đứa bé cũng không phải là con y. Tuy nhiên, lúc đó thì tui không biết đâu. Chỉ sau khi tui nghe họ nói chuyện tối hôm đó, bên đám lửa, mà tui nghĩ họ không để ý là tui có nghe, thì tui mới biết ra đó. Trước khi y thấy ra mình tuyệt vọng cùng cực sau khi gắng sức làm đủ thứ chuyện. Nhưng tui cho là y tuyệt vọng như vậy thì đủ rồi. Tui cho là y chỉ muốn cho cổ một cơ hội cuối cùng Ông tiếp tục: "Vậy là y cứ lăng xăng sửa soạn lều trại đến nỗi làm tui phát bực: y cứ muốn một mình làm tất cả mọi sự mà không biết nên bắt đầu từ đâu. Cho nên tui biểu y đi nhặt củi khô về đốt lửa, và tui lấy ra những cái mền của mình và trải lên sàn xe tải. Lúc đó tui thấy hơi bực bội với chính tui vì đã để mình dính vô cái chuyện không đâu vào đâu này, và tui hình dung là mình sẽ phải ngủ dưới đất mà không có gì lót ở dưới, hai bàn chân để gần đám lửa. Do vậy tui nghĩ là tui có lẽ đã tỏ ra cộc lốc và gắt gỏng, đi qua đi lại, làm cái này cái nọ cho xong, và cổ thì ngồi tựa gốc cây, cho con bú cữ tối dưới tấm khăn choàng và cổ không ngừng lặp đi lặp lại là cổ thấy xấu hổ biết bao vì làm phiền tôi, là cổ có ý định ngồi luôn bên cạnh đám lửa bởi vì cổ không thấy mệt chút nào, nhờ cả ngày ngồi trên xe và không làm gì cả. Rồi y trở lại, tay ôm đống củi đủ thui cả một con bê, và cổ biểu y cái gì đó rồi y đi ra xe lấy cái va-li đó ra rồi mở nó và lấy ra một cái mền. Rồi cái cảnh này xảy ra, chắc chắn vậy rồi: nó trông như cảnh hai thằng cha mà người ta thấy trên các tờ báo cười, hai thằng cha người Pháp lúc nào cũng tỏ ra lịch sự bằng cách cúi đầu chào nhau rồi quay ra đánh nhau vì muốn nhường người kia đi qua trước, làm như tất cả chúng ta đều rời nhà cửa yên ấm chỉ để có được đặc quyền nằm ngủ ở ngoài trời, mỗi người cố tỏ ra mình sẽ ngủ được nhanh hơn và ngon hơn người khác. Có lúc tui muốn buột miệng nói ra với họ, 'Được rồi. Nếu các người muốn ngủ dưới đất thì cứ việc. Nhưng phần tui thì có cho kẹo tui cũng không muốn.' Tuy vậy, tui cho là bà có thể nói là tui đã thắng. Hay đúng hơn, tui và y đã thắng. Bởi vì rốt cuộc thì y cũng trải cái mền của họ ra trên sàn xe, làm như tụi tui luôn luôn đã có thể biết là sẽ như vậy, và còn y và tui thì trải cái mền của tui ở ngoài trời, trước đám lửa. Tui nghĩ rằng y biết là dù gì đi nữa thì ai cũng làm như vậy cả. Nếu họ đã đi suốt từ miền Nam bang Alabama đến tận đây, như cổ nói. Tui nghĩ rằng đó là lý do tại sao y đã mang về tất cả mớ củi này, chỉ để nấu nước pha cà phê và hâm nóng vài lon đồ hộp. Rồi tụi tui ăn, rồi tôi biết được."

Biết được chuyện gì? Chuyện mà y muốn làm à?

Không phải ngay lúc đó đâu. Tui cho là cổ thì kiên nhẫn hơn bà một chút đó Ông tiếp tục: "Vậy là bọn tui ăn xong và tui đặt lưng xuống trên cái mền. Tui thì mệt mỏi, được nằm duỗi tay duỗi chân như vậy thì đã thiệt. Tui không muốn lắng tai nghe, cũng như tui không muốn làm bộ ngủ khi mình không có ngủ. Nhưng chính họ đã mở miệng nhờ tui chở đi cùng, chớ tui đâu có khăng khăng đòi họ leo lên xe tải của tui. Và nếu họ thấy thoải mái nói chuyện với nhau mà không kiểm tra xem ai có thể nghe họ không, thì đó là việc riêng của họ. Và như vậy đó mà tui biết được là họ đang săn đuổi người nào đó, đang đi theo sau hắn hay ít ra đang cố gắng tìm hắn. Hay chính cổ đang tìm, để nói cho rõ. Và bất thình lình tui tự nhủ như vầy, 'À há, à há! Thì đây lại còn một cô nàng tưởng là có thể học được, vào tối thứ bảy, điều mà mẹ cô ta chờ đến ngày chủ nhật để hỏi ông mục sư.' Họ không hề nói ra tên hắn. Và họ không biết chính xác hắn đã bỏ trốn theo hướng nào. Và tui biết là, nếu họ biết hắn đi đâu thì đó hẳn không phải là lỗi của cái thằng cha đang chạy trốn đó. Tui nhanh chóng biết ra điều đó. Và tui nghe y nới với cổ là có lẽ họ phải tiếp tục đi như vậy, từ xe tải này sang xe tải khác, từ tiểu bang này sang tiểu bang khác, trong suốt phần đời còn lại của họ, mà không tìm ra bất cứ dấu vết nào của hắn. Và cổ ngồi đó, trên một thân cây, ôm con trong lòng, lắng nghe y nói, lặng lẽ như đá, dễ chịu như đá, và gần như sắp sửa bị xúc động và thuyết phục. Tui tự nhủ, 'Này, ông bạn ơi, để tiếp tục đi về phía trước trong chuyến đi này thì cổ đâu có trông chờ được ngồi trên ghế xe tải của tui trong khi ông bạn thì ngồi sau đít xe, cặp giò đung đưa ở bên ngoài.' Nhưng tui không nói gì cả. Tui chỉ nằm đó trong khi họ nói chuyện, trong khi y nói chuyện, không nói to lắm. Y thậm chí cũng không đề cập đến chuyện kết hôn. Nhưng đó chính là cái điều y đang nói tới, và cổ nghe, điềm tĩnh và thản nhiên, như thể cổ đã nghe điều này trước đây và cổ biết là mình cũng không buộc phải trả lời y hoặc được, hoặc không. Cổ hơi mỉm cười. Nhưng y không thể thấy.

"Rồi y bỏ cuộc. Y đứng dậy khỏi cái thân cây và bỏ đi. Nhưng tui thấy bộ mặt y khi y quay người và tui biết là y đã không bỏ cuộc. Y biết là y vừa mới cho cổ một cơ hội cuối cùng và bây giờ, thấy tuyệt vọng cùng cực, y sẵn sàng đánh liều tất cả. Tui hẳn có thể nói với y là y bây giờ mới quyết định làm cái điều mà đáng lẽ y phải làm ngay từ đầu. Nhưng tui cho là y có những lý do riêng của y. Dù sao đi nữa, y bỏ đi trong bóng tối, để cổ ngồi lại một mình, đầu hơi cúi xuống, nụ cười mỉm còn trên môi. Cổ không hề nhìn theo y. Có lẽ cổ biết là y thích ở một mình hơn để sửa soạn tinh thần mà làm cái điều mà chính cổ có lẽ đã luôn luôn khuyên y làm, điều mà cổ không nói ra bằng lời, bởi vì một người đàn bà tất nhiên không thể làm vậy, ngay cả một đàn bà thuộc loại gia đình đêm thứ bảy.

"Tuy nhiên, tui nghĩ là sự thể cũng không phải vậy nữa. Hay có lẽ thời gian và địa điểm không hợp với cổ, chưa kể đến khán giả. Sau một lát, cổ đứng dậy và nhìn tui, nhưng tui không cử động, rồi cổ đi ra xe, leo vào trong và sau một lát tui không còn nghe tiếng động trong đó và tui biết là cổ đã đặt lưng xuống ngủ. Và tui vẫn nằm đó - tui không còn ngủ nữa, bây giờ - một đỗi lâu. Nhưng tui biết là y vẫn ở đâu đó, không xa, đang chờ có lẽ cho lửa tắt hay tui ngủ say. Bởi vì khi ngọn lửa vừa mới hạ xuống thì tui nghe y đến gần, êm ru như con mèo, và y đứng khom người bên trên tui, nhìn xuống tui, căng tai nghe. Tui thì không gây ra một tiếng động nào; tui hẳn đã có thể ngáy to một hay hai tiếng làm quà cho y. Dù sao, y đi về phía chiếc xe tải, bước dè dặt như thể đi trên trứng, và tui nằm đó, đưa mắt theo dõi y, và tui tự nhủ: 'A, ông bạn ơi, nếu ông làm chuyện này đêm hôm qua thì ông hẳn ở dưới phía nam sáu mươi dặm cách chỗ ông đang ở bây giờ, theo chỗ tui biết. Và nếu ông làm chuyện này hai đêm trước thì theo ý tui, tui hẳn đã không bao giờ gặp ông hay gặp cổ.' Rồi tui bắt đầu thấy lo lo. Tui không lo là y làm chuyện gì đó có hại mà cổ không muốn. Thiệt ra, tui đứng về phía y, cái thằng cha khỉ gió này. Đúng vậy. Chỉ có điều là tui không thể quyết định mình nên làm cái gì khi cổ bắt đầu la hét. Tui biết là cổ sẽ la hét. Nếu tui bật dậy và chạy tới chiếc xe tải thì sẽ làm y sợ mà bỏ chạy, và nếu tui không chạy tới thì y sẽ biết là tui đã thức dậy và theo dõi y suốt cả thời gian vừa qua, và y sẽ sợ mà bỏ chạy còn nhanh hơn bao giờ hết. Nhưng tui không nên lo làm gì. Lẽ ra tui phải biết chuyện đó ngay từ khi phút đầu tiên tui thấy họ, y và cổ."

Tôi cho là, nếu ông biết là ông không nên lo lắng làm gì, đó là vì ông đã đoán trước được cổ sẽ làm gì trong một trường hợp như vậy bà vợ nói.

Hẳn vậy rồi ông chồng nói Tui có định để cho bà biết ra điều đó đâu. Đúng rồi đó. Tui tưởng là lần này tui đã giấu kín được ý nghĩ của mình chớ.

Thôi, ông kể tiếp đi. Chuyện gì xảy ra sau đó?

Bà thử nghĩ chuyện gì xảy ra đi: một cô nàng to khỏe như vậy, không hay biết đó là y và một thằng cha trời đánh như tui đã có vẻ sẵn sàng bật khóc như một em bé khác? Ông tiếp tục: "Không có tiếng la hét hay bất cứ cái gì khác. Tui chỉ nhìn y leo vào trong xe, chậm và dễ dàng, và biến mất, rồi trong suốt thời gian mà bà có thể đếm một cách chậm rãi từ một cho tới có lẽ mười lăm thì không có chuyện gì xảy ra; rồi tui nghe một thứ tiếng kêu ngạc nhiên mà cổ bật lên khi thức dậy, như thể cổ chỉ bị ngạc nhiên chút xíu thôi và có hơi thắc mắc, nhưng không tỏ ra sợ hãi chút nào, và cổ nói, cũng không to lắm: 'Sao! Ông Bunch. Bộ ông không xấu hổ à? Ông đã có thể làm em bé thức dậy đó.' Rồi y ra khỏi xe bằng cái cửa sau. Không nhanh lắm đâu. Cũng không bằng cặp giò của y. Quỷ bắt tui đi nếu tui không thấy rành rành là cổ xách y lên rồi đặt y xuống đất như thể cổ làm với đứa bé sáu tuổi, và cổ nói, 'Bây giờ thì ông ra kia nằm và ngủ đi. Chúng ta còn cả một quãng đường xa phải đi ngày mai đó.'

"Chắc chắn là tui cảm thấy hết sức xấu hổ khi nhìn y, và nếu tui để y biết là có một con người đã thấy, đã nghe những gì vừa xảy ra. Quỷ bắt tui đi nếu lúc đó tui không muốn tìm một cái lỗ dưới đất để chui xuống trốn cùng y. Vả lại, đó là điều tui cũng làm một chút ít đó chớ. Và y thì cứ đứng đó, ngay chỗ cổ đặt y xuống. Ngọn lửa bây giờ đã xuống thấp đến mức tui hầu như không thể thấy y. Nhưng tui biết là tui hẳn sẽ cảm thấy ra sao khi đứng ở đó như vậy, nếu tui là y. Hẳn là tui đứng với cái đầu cúi gập xuống, chờ đợi Quan Tòa nói, 'Dẫn hắn đi khỏi đây và treo cổ hắn nhanh lên.' Và tui không gây ra một tiếng động nào, và một lát sau tui nghe y bỏ đi. Tui có thể nghe tiếng các bụi cây xào xạc, lách cách, như thể y cứ nhắm mắt mà đi càng xuyên qua chúng. Và khi trời rạng sáng thì y vẫn chưa trở lại.

"Tui không nói gì cả. Tui không biết nói cái gì đây. Tui vẫn cứ tin là y sẽ xuất hiện, là y sẽ bước ra từ những bụi cây, dù mang bất cứ bộ mặt nào. Vậy là tui đốt lửa lại và bắt đầu sửa soạn bữa ăn sáng, và sau một lúc thì tui nghe tiếng cổ leo xuống xe. Tui không quay mặt lại nhìn. Nhưng tui có thể nghe thấy cổ đứng đàng kia, đang nhìn quanh, như thể chỉ cần nhìn đám lửa hay cái mền của tui thì cổ hẳn sẽ đoán ra là y có đó hay không. Nhưng tui không nói gì cả, và cổ cũng không nói gì. Tui muốn xếp đồ lên xe và bỏ đi cho rồi. Và tui biết là tui không thể bỏ cổ lại, một mình, ở giữa đường như vậy. Thế nhưng, lỡ mà bà vợ tui biết ra thì cũng mệt đó, tức biết ra là tui đi đường chung với một cô gái quê xinh đẹp và một em bé ba tuần tuổi, dù là cổ có khẳng định rằng mình đi tìm ông chồng... hay hai ông chồng, lúc này. Vậy là bọn tui ăn sáng rồi tui nói, 'Cô ơi, tui còn phải đi xa lắm, tốt hơn mình nên lên đường.' Và cổ không nói năng gì cả. Và khi tui nhìn cổ, tui thấy khuôn mặt cổ không có gì thay đổi, vẫn lặng lẽ và trầm tĩnh. Quỷ bắt tui đi nếu cổ cũng tỏ ra ngạc nhiên hay cái gì đó tương tự. Và tui cứ xớ rớ ở đó, không biết làm gì với cổ. Và cổ đã xếp đồ đạc của mình gọn ghẽ trước đó, thậm chí đã quét cả sàn xe bằng một cành cây khuynh diệp trước khi đặt lên lại cái va-li bằng các-tông và xếp cái mền thành một thứ gối dựa để ở cuối xe; và tui tự nhủ, 'Tui sẽ không ngạc nhiên chút nào nếu thấy cổ xoay sở giỏi. Người ta có làm hết sức để bỏ rơi cổ thì cũng chẳng sao, cổ chỉ việc bắt đầu lại từ cái chỗ mà họ đã bỏ rơi cổ.' - 'Ông để cho tôi ngồi ở phía sau này nghe,' cổ nói.

"'Thì sẽ hơi khó chịu cho em bé đó,' tui nói.

"'Tôi nghĩ là tôi có thể bồng nó,' cổ nói.

"' Tùy cô thôi,' tui nói. Và vậy là tôi lái xe đi. Nhưng tui cũng nhoài người nhìn ra sau, hy vọng là y sẽ xuất hiện trước khi xe quẹo ở chỗ đường cong. Nhưng tui không thấy y đâu. Tui đã nghe người ta nói về chuyện một thằng cha nào đó bị bắt ở nhà ga với một em bé xa lạ trên tay. Và đây này, tui cũng đi với một người đàn bà xa lạ và một em bé, giờ đang trông đợi tìm thấy trong tất cả những chiếc xe hơi chạy qua mặt xe tui cũng đầy những ông chồng và những bà vợ, chưa tính đến mấy ông cò cảnh sát! Tụi tôi chạy đến gần biên giới bang Tennessee, và tui quyết định dứt khoát hoặc đốt chiếc xe tải mới toanh này, hoặc ngừng xe trong một thành phố đủ lớn để có một trong những hội Bảo vệ phụ nữ và trẻ em mà tui có thể giao phó cổ cho họ. Và thỉnh thoảng tui lại quay nhìn ra sau, hy vọng là có lẽ y đã chạy bộ theo sau xe; và tui nhìn cổ, ngồi ở đó, vẻ mặt điềm tĩnh như ngồi trong nhà thờ, đang bồng em bé một cách mà nó có thể vừa bú, vừa chịu xe xóc cùng lúc. Thiệt là không ai bằng." Nằm dài trên giường, ông cười hằng hặc. "Đúng vậy. Quỷ bắt tui đi nếu tui nói sai, thiệt là không ai bằng."

Rồi sao nữa? Cổ đã làm gì sau đó?

Có làm gì đâu. Chỉ ngồi đó, đưa mắt nhìn ra ngoài, như thể cổ thấy đồng quê lần đầu tiên trong đời - các con lộ, cây cối, các cánh đồng, các cột điện thoại. Cổ đã không thấy y chút nào cho tới khi y hiện ra ở cửa sau xe. Cổ đâu cần thấy y trước đó làm gì. Cổ chỉ có việc chờ thôi. Và cổ biết điều này.

Y à?

Chớ còn ai nữa! Y đang đứng ở bên bờ đường khi xe tui quẹo qua. Y đứng đó, với bộ mặt không ra một bộ mặt, trông như một con chó bị đánh, nhưng cũng điềm tĩnh và cả quyết, như thể nỗi tuyệt vọng thúc đẩy y chơi ván bài cuối cùng, cho một lần cuối cùng, và như thể y biết là sau việc này thì ngay cả nỗi tuyệt vọng cũng không còn cần thiết đối với y nữa Ông tiếp tục: "Y không hề nhìn tui chút nào. Tui vừa mới ngừng xe là y chạy vòng ra phía sau, về phía cửa mà cổ đang ngồi. Y đến ngay chỗ cửa, và y đứng đó, cổ cũng chẳng tỏ ra ngạc nhiên. 'Anh đã đi xa đến tận lúc này,' y nói. 'Quỷ bắt anh đi nếu anh bỏ cuộc bây giờ.' Và cổ nhìn y như thể cổ lúc nào cũng đã biết y sẽ làm gì ngay cả trước khi chính y biết là y sẽ làm gì, và ngay cả trước khi y biết là, dù y làm bất cứ cái gì đi nữa thì vẫn không phải là cái mà y muốn làm.

"'Có ai bao giờ biểu anh bỏ cuộc đâu,' cổ nói." Ông cười. Nằm dài trên giường, ông cười. "Đúng vậy. Một người đàn bà, thiệt không ai bằng. Bởi vì, bà biết tui nghĩ gì không? Tui nghĩ là cổ hình dung là mình chỉ đi đường thôi. Tui nghĩ là cổ không có một chút hy vọng gì tìm được cái thằng cha nào đó mà cổ xem như đuổi theo. Tui nghĩ là cổ chẳng bao giờ có ý định đó cả, chỉ phải cái là cổ chưa nói ra với y thôi. Tui cho là đây là lần đầu tiên trong đời mà cổ đi xa nhà đến vậy, quá xa để mà cổ có thể trở về trước khi mặt trời lặn. Và cổ đã xoay sở được lắm cho tới lúc này, với bao nhiêu người thiệt tình chăm lo cho cổ. Cho nên tui nghĩ rằng cổ chỉ quyết định đi xa thêm một chút nữa, xem được bao nhiêu quang cảnh thì xem, chính vì tui cho là cổ biết rõ rằng một khi ổn định cuộc sống ở đâu đó rồi thì đó có thể là cho suốt phần đời còn lại của cổ. Đó là điều tui nghĩ. Chỉ nhìn cổ như vậy, ngồi trong chiếc xe tải, với y bên cạnh lúc này, và em bé thì không ngừng bú, không ngừng dùng bữa sáng trong suốt mười dặm đường chớ ít sao, làm như đang ở trên tàu lửa, ngồi trong một trong những toa hàng ăn không bằng, và cổ thì đang nhìn ra ngoài, nhìn những cột điện thoại và những hàng rào chạy lướt qua, như thể cổ đang xem một cuộc diễu hành của gánh xiếc. Bởi vì sau một lát thì tui nói, 'Sắp tới Saulsbury rồi đó,' và cổ nói,

"'Cái gì?' và tui nói,

"'Saulsbury, Tennessee,' và tui quay đầu ra sau và tui thấy khuôn mặt cổ. Và nó trông như thể đã được cổ giữ cho sẵn sàng để đón đợi sự ngạc nhiên, và như thể cổ biết rằng một khi sự ngạc nhiên đến thì cổ sẽ cảm thấy vui thú lắm. Và sự ngạc nhiên đến thiệt và cổ thỏa lòng ra mặt thiệt. Bởi vì cổ nói,

"'Ôi trời, ôi trời! Thân thể té ra cũng vượt qua được mọi thứ đó chớ. Hai mẹ con mình rời Alabama chưa đầy hai tháng mà bây giờ đã ở Tennessee rồi!' "

William Faulkner, con người và thời gian

1.

"Những người trẻ tuổi viết văn hôm nay đã lãng quên những vấn đề của tâm hồn con người đang giao chiến với chính mình, trong khi chỉ có điều đó mới làm nên các tác phẩm hay, bởi vì nó đáng viết, xứng đáng với những đau khổ và mồ hôi", lời Faulkner trong diễn văn nhận giải văn chương Nobel cho năm 1949.

Tâm hồn con người đang giao chiến với chính mình, sự quằn quại thiên thu đó, cảm thức đoạn trường đó chính là thế giới, là thời gian của William Faulkner.

Cảm thức đoạn trường tất nhiên không chỉ một mình Faulkner mới có.

Trong văn chương và nghệ thuật nhân loại, những ai là nghệ sĩ vĩ đại của cảm thức đoạn trường? Các nhà bi kịch Hy Lạp, Dostoievsky, Van Gogh, Kafka, Nguyễn Du, Kierkegaard... những người thường bị ngộ nhận. Và Faulkner.

Ta không nói đến những ngộ nhận do ấu trĩ - mà đây là ngộ nhận của những người quá thông minh như Gide, Sartre, Cecchi...

Theo André Gide, "không có nhân vật nào của Faulkner có thể gọi là có linh hồn."

Sartre thì bảo rằng ông yêu nghệ thuật của Faulkner nhưng ghét siêu hình học của tác giả m thanh và cuồng nộ. Sartre buộc tội Faulkner viết như thể con người hoàn toàn không có tương lai mà chỉ có quá khứ.

Trước cả Sartre, một nhà phê bình Ý uyên bác là Emilio Cecchi đã nói rằng ông ta yêu nghệ thuật của Faulkner nhưng rất ghét nền văn hóa, xã hội, cách sống mà nghệ thuật ấy phản ánh. Theo Cecchi, thế giới của Faulkner thiếu cái lương tri Kitô giáo và tự hủy trong sự quá độ đa thần.

Sao các vị khó tính thế!

Chẳng hạn như Gide muốn nói gì với chữ "linh hồn"? Vì sao các nhân vật của Faulkner không có linh hồn? Chẳng phải là nhiều nhân vật của Faulkner đã chọn cho mình "khung cửa hẹp" mà đi, hẹp hơn khung cửa của nàng Alissa đó sao? Như Ike McCaslin đã từ bỏ di sản của người ông để sống cuộc đời đơn sơ, mộc mạc bên rừng. Như người đàn bà da đen Dilsey trong m thanh và cuồng nộ biết chịu đựng, thương yêu mà trường tồn. Như nàng Lena trong Nắng tháng Tám lê bước trên con đường định mệnh của mình, bụng mang thai, trong cát bụi và nắng cháy...

Khi nhắc lại ý kiến của Gide cho Faulkner nghe thì ông từ tốn nói rằng đối với ông, các nhân vật ấy có linh hồn nhưng lỗi do nơi ông "không thể diễn tả linh hồn... tôi đã cố hết sức để trình bày linh hồn con người trong cuộc giao chiến với tính ác của mình hay với hoàn cảnh chung quanh".

Nhưng thật ra, tâm hồn con người không phải là cái "bất khả thuyết" hay sao?

Khi Sartre cố tình gán cho Faulkner một "siêu hình học thời gian" thì dường như ông đang đóng gói cái thế giới sinh động của Faulkner vào một thùng hàng vậy. Siêu hình học thời gian ư? Không có siêu hình nào hết, chỉ có sự sống của thời gian. "Chỉ khi nào đồng hồ chết đi thì thời gian mới sống lại", Faulkner nói như thế.

Ở Việt Nam, cũng có nhà phê bình cho rằng nghệ thuật của Nguyễn Du là tuyệt vời nhưng tư tưởng định mệnh của ông là kém cỏi. Đó là người ta muốn gán cho Tố Như một "siêu hình học định mệnh".

Nhưng Nguyễn Du và Faulkner không phải là lý thuyết gia. Một cách đơn giản, họ là nghệ sĩ. Họ là người của đời sống, của thiên nhiên. Thời gian và định mệnh đối với họ không siêu hình mà ở trong tâm hồn con người, một tâm hồn đang giao chiến với chính mình (chữ Tâm kia mới bằng ba chữ tài).

Và cuộc giao chiến ấy chính là một cuộc hẹn hò, một giao ước với bản thân. Đó là đường đi của Kiều đêm khuya thân gái dăm trường và đường đi của Lena bụi mù nồng cháy... Họ đi vì không thể trở lui.

Sartre băn khoăn với những khái niệm quá khứ, hiện tại, vị lai. Nhưng Nguyễn Du và Faulkner thì không. Sartre quen ăn ở với ngôn ngữ, ăn nằm với ngôn ngữ. Một thứ huyền ngữ bát ngát và sâu thẳm như Kim Cương Bát Nhã: "Quá khứ tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất khả đắc, vị lai tâm bất khả đắc" (Tâm quá khứ không nắm bắt được, tâm hiện tại không nắm bắt được, tâm vị lai không nắm bắt được), Sartre không kham!

Thế giới của Nguyễn Du và Faulkner xoáy lốc trong cái tâm không nắm bắt được ấy. Cho nên "mười lăm năm ấy" khác nào "một vài trống canh". m thanh và cuồng nộ trong đời ai, trong hồn ai cũng ngắn ngủi như một hồi chuông nhà thờ vào một ngày tháng tư Phục sinh.

Làm sao có thể tách nghệ thuật Faulkner ra khỏi thế giới Faulkner như ý nhà phê bình Cecchi? Anh có thể yêu cành lá mà không yêu cội rễ nhưng nghệ thuật và tư tưởng là một thế giới mà nơi đó mọi sự đều tương tức và tương nhập.

2.

Faulkner chào đời ở tiểu bang Mississippi vào năm 1897. Khi nhà văn tương lai được vài tuổi, gia đình dọn tới thị trấn Oxford, nơi có trường đại học của bang Mississippi làm quê hương. Từ hình mẫu của Oxford ấy, sau này Faulkner tạo dựng nên thành phố Jefferson trong các tiểu thuyết của mình.

Thời tuổi trẻ của Faulkner chẳng có một vinh quang nào. Cậu không tốt nghiệp nổi trung học, chỉ lên đến lớp mười là hết. Trong tuổi hai mươi, cậu là sinh viên sĩ quan của Không lực Canada, nhưng chưa thành tài thì cuối năm 1918 đã có lệnh giải ngũ. Faulkner trở về Oxford, ghi tên vào đại học (nhờ ưu thế cựu chiến binh) nhưng cũng chỉ học được một năm vì không nuốt nổi văn và toán. Đấy là toàn bộ nền học vấn của một trong vài nhà văn lỗi lạc nhất thế kỷ hai mươi.

Sau đó là thời gian kiếm sống của Faulkner: thợ mộc, thợ sơn, rửa bát nhà hàng, bán sách, trưởng phòng bưu điện, ngoài ra còn làm thơ. Mà làm thơ cũng dở như làm công việc đưa thư, chẳng làm hài lòng ai.

Rồi ông trồng trọt, đánh cá, săn bắn cho đến năm 27 tuổi. Muốn đi châu u nên ông đến New Orleans. Ở đó ông gặp văn hào Sherwood Anderson. Nhờ vậy, sau khi đi Ý, Pháp và Đức về, Faulkner xuất bản được cuốn Lương lính (Soldiers' Pay, 1926), một tiểu thuyết không có anh hùng - và không mấy thành công.

Nhưng ba năm sau, Faulkner liên tiếp cho ra đời hai quyển sách mở đầu cho thế giới hư cấu vô song của mình là Sartoris[147] và m thanh và cuồng nộ.

Cũng năm đó, 1929, Faulkner thành hôn với một thiếu phụ đã có hai con: Estelle.

Sartoris là cánh cửa đầu tiên mở vào thế giới của Faulkner, thế giới của thành phố Jefferson trong lãnh địa tưởng tượng Yoknapatawpha. Nếu như Jefferson trong mô phỏng theo Oxford thì đại tá John Sartoris có hình mẫu là ông cố và ông nội của Faulkner, những người tiên phong của miền Nam xưa cũ.

m thanh và cuồng nộ (The Sound and the Fury) là kiệt tác của Faulkner đưa ông vào hàng ngũ những người bất tử của văn chương nhân loại.

Với hai tác phẩm trên, Faulkner khởi sự tạo dựng một lãnh địa huyền thoại gọi là Hạt YOKNAPATAWPHA, tiếng của người da đỏ Chickasaw có nghĩa là: nước trôi chầm chậm qua đồng bằng.

Nhưng cuốn sách bán chạy, được quay thành phim, hái ra tiền, giúp Faulkner an trú ở Oxford không thuộc về hai tác phẩm trên mà là cuốn Thánh đường che chở (Sanctuary, 1931) kể câu chuyện của cô gái sa đọa Temple Drake, vốn là một sinh viên, lọt vào tay bọn buôn rượu lậu và điếm đàng, vào nhà chứa.

Kề từ đó, trong ngôi nhà cũ của Faulkner ở Oxford, thế giới huyền thoại Yoknapatawpha chứa đầy hiện thực lớn dần với các nhân vật thuộc những gia đình Sartoris, Compson, Snopes, với những người da đen, với thiên nhiên hoang dã và bí ẩn.

Đứng trước một đất đai và thiên nhiên đang bị hủy hoại và nguyền rủa, cùng với nó là tâm hồn con người, thế giới của Faulkner bao trùm bóng tối, tội lỗi và chết chóc.

Bao nhiêu cuộc sống lớn lên trong tác phẩm:

Khi tôi nằm chết

Nắng tháng tám

Absalom! Absalom!

Những cây cọ hoang

Xóm làng

Con gấu

Dụ ngôn

...

Tạo nên một thế giới phong phú như Shakespeare, đa dạng như Kinh Thánh, man dã như tiếng tù và và biến ảo như ánh hoàng hôn.

Thế giới Yoknapatawpha đó, vừa là hiện thực, vừa là biểu tượng, là một sáng tạo phi thường, lớn lao và không thể lầm lẫn trong văn chương của thế kỷ hai mươi.

Nhưng người tạo dựng ra nó thì khiêm tốn nói: "Tôi chỉ là một nông dân, thỉnh thoảng có viết truyện, thế thôi". Một ngày tháng 11 năm 1950, Faulkner đang bón vôi trên đồng thì thấy vợ ông ra đến tận nơi, mang tin ông được trao tặng giải Nobel văn chương. Không rõ bác nông dân Faulkner có được giải thưởng gì về nông nghiệp không?

Là một người lặng lẽ, thường không muốn tiếp xúc với đám đông, Faulkner đi Thụy Điển nhận giải dưới áp lực của gia đình. Tuy vậy, ở Stockholm, ông đã đọc một bài diễn văn rất tuyệt, trong đó nói rằng tôi không chấp nhận sự cùng tận của con người. I decline to accept the end of man.Do đó cũng không có sự cùng tận của văn chương vì văn chương giúp cho con người chịu đựng và chiến thắng.

Khi Faulkner mất vào năm 1962, vị nguyên thủ quốc gia lúc ấy đánh giá như sau: Từ Henry James, không có nhà văn nào khác đã để lại một sự nghiệp bao la và trường cửu đến thế trong nền văn chương Mỹ".

Tuy vậy, xin nhớ cho rằng, Faulkner đã sẵn sàng thú nhận sự thất bại của mình, một thất bại mà nhiều thiên tài khác hẳn cũng cảm thấy. Nói theo Faulkner:

"Ngay cả thất bại cũng xứng đáng được cảm phục, miễn sao sự thất bại ấy đủ huy hoàng, miễn sao giấc mơ ấy đủ huy hoàng, dẫu không đạt tới được nhưng đời đời quý giá, vì cái đó chính là sự toàn bích viên mãn".

Faulkner đã thất bại theo nghĩa ấy, đã chết đi theo nghĩa ấy, trong ánh huy hoàng của một con người dám hò hẹn với thời gian và vĩnh cửu. Thời gian chính là vĩnh cửu. Như các nhân vật của ông đã dám nhận lãnh sự bạc mệnh.

Như Kiều của Nguyễn Du dám nhận lãnh sự bạc mệnh.

Dám nhận lãnh nỗi đoạn trường, bóng tối...

Có thế, ta mới đi vào thế giới của Faulkner, sống với những đoạn trường nhân gian, cùng ông và Shakespeare và Nguyễn Du kể lại chuyện đời đầy âm thanh và cuồng nộ, những điều trông thấy mà đau đớn lòng...

3.

Trước hết, xin hãy bắt đầu với Thiên nhiên.

Ở một ý nghĩa bao quát, đất đai miền Nam của Faulkner chính là thiên nhiên và chế độ nô lệ ở đấy bị đày đọa, bị nguyền rủa. Thiên nhiên bị hủy hoại nghĩa là con người bị bức hại. Và thống khổ từ đó sinh ra. Có tội ác, có trừng phạt. Và Eden nữa, cõi địa đàng thiên nhiên biến thành "Mùa thu châu thổ", biến thành con gấu già Old Ben.

"Chẳng có gì lạ khi rừng cây ta quen thuộc bị tàn phá đến thế lại không đòi báo thù... Chính bọn người phá hoại sẽ hoàn tất cuộc trừng phạt của nó" (Mùa thu châu thổ).

Con người tự biến thành kẻ thù của thiên nhiên. Nhân vật Popeye trong Thánh đường che chở là biểu tượng của con người ấy. Y khạc nhổ xuống dòng suối và cưỡng hiếp một cô gái bằng cái bắp ngô. Y là sản phẩm của một nền văn minh chống thiên nhiên. Bọn người như y không chỉ cưỡng bức một cô gái mà cưỡng bức chính thiên nhiên. Sự khạc nhổ của y, cái bắp ngô của y chính là những chi tiết tiêu biểu cho sự chống thiên nhiên vô cùng tồi tệ.

Đối lập với Popeye, đứng về phía thiên nhiên là nhân vật Ike McCaslin có thể xem là người phát ngôn cho tư tưởng của Faulkner, một nhà hiền triết. Ta gặp Ike như là một ông lão dày dạn kinh nghiệm trong truyện ngắn Mùa thu châu thổ. Ta cũng gặp Ike chủ yếu là một chàng trẻ tuổi trong tiểu thuyết ngắn Con gấu.

Trong Con gấu (The Bear, in trong một tập truyện của Faulkner năm 1942), Ike McCaslin xuất hiện một cách đầy đủ hơn. Con gấu là một trong những tác phẩm toàn bích nhất của Faulkner, xứng đáng đặt bên cạnh m thanh và cuồng nộ.

Người ta thường so sánh Con gấu Old Ben với Cá Voi trắng Moby Dick, hai "linh vật" đáng nhớ nhất của nền văn chương Mỹ, hai biểu tượng sâu sắc và đẹp đẽ của thiên nhiên.

Tác phẩm Con gấu gồm có 5 phần.

Ở ba phần đầu, ta thấy cậu bé Ike McCaslin hàng năm theo người anh họ và các người lớn khác vào Rừng Lớn săn bắn. Dường như họ có cuộc hẹn hò hàng năm với con thú dũng mãnh nhất, huyền bí nhất của rừng là gấu Old Ben. Từ 10 đến 16 tuổi, Ike học nghệ thuật săn bắn, lòng dũng cảm và đức khiêm nhường. Cậu mong muốn được gặp con thú được vị nể nhất rừng ấy. Cậu một mình tìm cách chạm mặt với nó mà không cần tới súng và địa bàn. Treo súng và địa bàn lên cây, Ike đi vào rừng, tay không, tâm hồn đầy khao khát hiểu biết. Và con người nhỏ bé ấy đối diện với con gấu khổng lồ - nhưng bình đẳng. Năm Ike 16 tuổi, gấu Old Ben bị một thanh niên lai da đỏ là Boon giết chết bằng dao, với sự hỗ trợ của chó săn.

Đến phần tư thì Ike đã 21. Anh được phần di sản gồm đất đai và tiền bạc do ông nội để lại. Nhưng anh quyết định từ bỏ quyền thừa kế của mình. Vì anh đã khám phá ra những tội lỗi ô nhục của người ông. Ông ta đã chiếm hữu một nô lệ da đen là Eunice, có con với nàng và về sau đã phạm tội loạn luân với đứa con ấy, khiến cho Eunice phải trầm mình. Ike không muốn thừa kế những tội lỗi ấy, sự ô nhục của thế giới ấy: Chính vì những tội lỗi ấy mà đất đai bị rủa nguyền. Ike sống một cuộc đời giản dị ở ven rừng, làm thợ săn và thợ mộc, lấy con gái của bạn cùng phường.

Sang phần năm, đột nhiên câu chuyện quay về lúc Ike 18 tuổi. (Thủ pháp đảo thời gian, trộn lẫn thời gian, làm nhòe thời gian vốn là tuyệt kỹ của Faulkner, thường được ông sử dụng với một tự do gây kinh thán. Trong Con gấu thủ pháp ấy nhẹ nhàng thôi). Anh tìm đến khu rừng không còn mấy hoang vu. Trại săn không còn, bọn đi săn mỗi người một ngả. Rừng đã thuộc về công ty xẻ gỗ. Ike gặp lại gã da đỏ Boon đã hạ sát gấu Old Ben ba năm trước đây. Bây giờ Boon đã trở thành người dở hơi loạn trí, lạc lõng giữa một thời đại "văn minh".

Trong toàn bộ, phần tư là phần khó đọc nhất và dài nhất, dài bằng ba phần đầu hợp lại, có tính chất đối trọng với chúng.

Ba phần đầu cho thấy Ike đã được "sinh ra" như thế nào trong khi sống với rừng. "Dường như với cậu, vào năm lên mười, cậu đã chứng kiến cuộc ra đời của chính mình". Bởi vì cậu đã học được tình yêu đối với rừng, với cõi hoang vu và hiểu được bản thân mình trong tự tin và khiêm nhường. Vậy ba phần đầu là sự ra đời của một nhân cách và cái chết của con gấu.

Trong phần tư, phần đối trọng, Ike khám phá ra bí ẩn của lịch sử gia đình, một kinh nghiệm mạo hiểm của Ike trong bóng tối, một cuộc mạo hiểm tinh thần, gây cấn không kém gì cuộc mạo hiểm giữa rừng đối diện với gấu. Lần này Ike đối diện không phải với thiên nhiên mà với tội lỗi.

Ba phần đầu kể chuyện Ike thâm nhập vào bí ẩn rừng xanh. Phần tư cho thấy Ike cố gắng giữ mình ra khỏi tội tổ tông bằng cách từ chối quyền thừa kế. Một đối trọng đầy ý nghĩa, từ đấy nổi lên chủ đề quen thuộc của Faulkner: sự bao dung của thiên nhiên và tội lỗi của con người.

Hình tượng con gấu trong Rừng Lớn, theo chính Faulkner, là "một biểu tượng của những sức mạnh cổ sơ, chứ không phải sức mạnh của cái ác... Đó không chỉ là câu chuyện của một cậu bé mà của bất kỳ con người nào đang lớn lên, và khi lớn lên, đua tài với đất, với thế gian. Con gấu không tiêu biểu cho cái ác, nhưng cho cái cổ sơ đầy sức mạnh, đầy lề lối cũ, và bởi vì nó hùng mạnh và sống theo luân lý của riêng mình, nó đang được nể vì. Và đó là điều cậu bé đã làm. Cậu không học về gấu mà học theo gấu, học về thế giới, về con người. Lòng can trường, tình thương và trách nhiệm, cậu học được từ con gấu ấy... Con gấu tượng trưng cho thiên nhiên trong một thời đại trên đường bị hủy diệt".

Nhưng Faulkner không phải là Rousseau hiện đại kêu gọi con người trở về với thiên nhiên. Không có một tình trạng lý tưởng nào cho ta quay trở lại. Bởi thế:

"Chúng ta phải nhận lãnh ưu phiền và tội lỗi khi chúng ta đi tới, và phải đối trị những ưu phiền và tội lỗi ấy trên đường đi của mình".

Không có con đường trở lui. Sống là nhận lãnh trách nhiệm. Đó là định mệnh mà cũng là chuyển hóa. Bằng thái độ dám nhận lãnh (bạc mệnh xin kham!), ta có thể chuyển hóa định mệnh.

Khu Rừng lớn mà Ike đang sống chỉ là cái quá khứ mà con người từ đó nổi lên, chứ không phải để chìm đắm vào, mà nổi lên vào một tương lai khả thể.

Đứng xa nó là thành phố Jefferson, một xã hội của âm thanh và cuồng nộ.

4.

Và rồi, một xã hội, một nền văn minh.

Tiêu đề "m thanh và cuồng nộ" rút ra từ lời nói của nhân vật Macbeth của Shakespeare, một lời nói gây cảm hứng cho vô số tác phẩm văn chương. Từ bấy đến nay. Khi được tin vợ mình chết, Macbeth nói: "... đời sống là một diễn viên tồi, nhún nhẩy lượn lờ trên sân khấu, rồi rút lui. Đó là câu chuyện do một tên khùng kể lại, đầy âm thanh và cuồng nộ, nào có nghĩa gì đâu".

m thanh và cuồng nộ ấn hành năm 1929. Macbeth xuất hiện từ năm 1606. Cuộc đời vẫn là một câu chuyện cũ?

Nhưng ai kể? Thượng đế, Shakespeare, Faulkner, Nguyễn Du, Cervantes... ai trong số họ lại không "điên" theo cách của mình?

m thanh và cuồng nộ là hạt nhân trong các tác phẩm của Faulkner, là vụ nổ lớn của thế giới Faulkner, là sự sáng tạo đáng kinh ngạc nhất của tiểu thuyết hiện đại. Sự sáng tạo ấy không để yên cho ta đứng bên bờ thưởng ngoạn mà lôi ta xuống dòng chảy của nó, tắm ta trong dòng suối của nó, của mưa và lá cây, của điên và tỉnh, của tội lỗi và nhân hậu, của âm thanh và vô thanh, của tiếng khóc khù khờ và tiếng chuông thông thái...

Đọc m thanh và cuồng nộ là không đọc nó, mà là nhập cuộc, là lội xuống nước với tên khùng Benjy và cô bé Caddy, là đập vỡ đồng hồ và lang thang vào cõi chết với Quentin, là ngửi mùi hoa kim ngân nơi tấm thân ướt đẫm của Caddy, là khóc bằng nước mắt của Dilsey, là rời khỏi nó mà vẫn còn nghe tiếng chuông phục sinh lanh lảnh.

Đó là do nghệ thuật kể truyện đặc biệt của Faulkner - nghĩa là không kể mà gây ấn tượng. Cuộc sống không hề "kể truyện" cho ta nghe, nó chỉ tác động đến ta.

Tác phẩm m thanh và cuồng nộ cũng thế. Do đó mà dòng thời gian của Faulkner tựa như nước xoáy, thay cho dòng thời gian "truyền thống". Do đó mà dòng ý thức của các nhân vật tựa như nước xoáy, thay thế cho tâm lý "truyền thống".

Dòng ý thức (stream-of-consciousness) không phải là khám phá của Faulkner. Ông chẳng phải là người "sử dụng" nó lần đầu.

Dòng ý thức đã chảy trong các tác phẩm bậc thầy của Joyce. Trước Joyce, nó cũng đã được Dujardin áp dụng. Theo Dujardin, nghệ thuật ấy khác với độc thoại nội tâm truyền thống như sau:

Về nội dung, nó thể hiện những ý nghĩa thầm kín nhất, gần vô thức nhất.

Về tính chất, nó là một ngôn ngữ đi trước, vượt lên trình tự luận lý, tái hiện tư tưởng ngay khi chúng vừa nổi lên, còn nguyên trinh.

Về hình thức, nó sử dụng những mệnh đề trực tiếp, đi tắt qua một cú pháp được giảm thiểu hết mức.

Tóm lại, nghệ thuật của dòng ý thức ấy rất gần gũi với thơ ca hiện đại.

Đi đôi với dòng ý thức, tiểu thuyết hiện đại còn sử dụng thuần thục phương pháp huyền thoại (mythical method). Theo phương pháp ấy, có thể dùng những yếu tố huyền thoại nguyên thủy, đa thần, tôn giáo... để thể hiện cuộc sống ngày nay trong những mất mát và sa đọa của nó, trong hy vọng và niềm tin của nó. Trong thơ ca và tiểu thuyết, những người tiêu biểu cho phương pháp huyền thoại ấy là T.S.Eliot và James Joyce. Faulkner không xa lạ gì với thế giới huyền thoại của họ và ít nhiều chịu ảnh hưởng.

Văn bản m thanh và cuồng nộ được chia làm bốn phần. Trong ba phần đầu, Faulkner lánh mặt, nghĩa là không có người kể. Mỗi phần là độc thoại nội tâm của một nhân vật, là thế giới bên trong của từng người, tính cách khác hẳn nhau dù họ là ba anh em trong gia đình Compson: Benjy, Quentin và Jason. Mỗi độc thoại bao gồm các mộng mơ, liên tưởng cũng như hồi ức của từng người, vì vậy liên quan đến nhiều thời điểm khác nhau trong cuộc sống của họ, trộn lẫn quá khứ và hiện tại. Còn phần tư thì tự sự bình thường.

Cái nền huyền thoại của tác phẩm là các yếu tố của lễ nghi nguyên thủy và các thánh lễ Kytô giáo - hành động truyện chủ yếu tập trung quanh ba ngày: Thứ sáu, thứ bảy tuần thánh và chúa nhật Phục sinh. Như vậy, các ý nghĩa tình yêu hy sinh, cái chết và sự phục sinh cần được lưu ý. Giờ khắc và thời gian vĩnh cửu. Người đàn bà da đen hiện ra trong khắp tác phẩm như là biểu tượng đơn sơ nhất, giản dị nhất của tình yêu, lòng nhân hậu, nghị lực, niềm tin, đó là Dilsey.

Yếu tố của lễ nghi nguyên thủy thì có thể tượng trưng bằng nhân vật bình thường, khờ dại Benjy, kẻ yêu thích lửa cháy ngoài trời, ngửi mùi mưa và lá cây, ngửi được mùi "tội lỗi" của chị Caddy một cách bản năng...

Để nắm bắt được tình tiết của m thanh và cuồng nộ, cần nhớ các nhân vật sau đây trong gia đình Compson:

- Quentin: Trưởng nam, sinh viên đại học Harvard, bị ám ảnh bởi sự trong sạch và tội lỗi, yêu em gái mình là Candace, tự trầm sau ngày cưới của cô em.

- Candace: Thường gọi là Caddy, xinh đẹp, sa đọa, yêu thương anh toàn vẹn, đặt tên cho đứa con hoang của mình theo tên anh là Quentin, bỏ nó lại cho gia đình rồi ra đi. Để mất tất cả.

- Jason: Một thứ người "tỉnh táo" cục súc, đê tiện, bóc lột tàn tệ đứa cháu gái Quentin. Ghét mọi người, mọi thứ ngoài tiền.

- Benjy: Con trai út. Điên khùng. Thích ba điều: cánh đồng cỏ, chị Caddy và ánh lửa. Bị hoạn năm 18 tuổi.

- Cô Quentin: Con gái Candace. Giống như mẹ, xinh đẹp và nổi loạn. Bỏ nhà trốn đi sau khi lấy trộm 7 ngàn đôla của cậu Jason, mà hơn nửa là số tiền mẹ cô gửi về.

Và những người da đen làm việc cho gia đình Compson là:

- Dilsey: Quản gia. Trung hậu. Chống giữ gia đình Compson. Chồng Dilsey là Roskus, con gái là Frony, các con trai là T.P. và Versh. Con trai của Frony là Luster có nhiệm vụ chăm nom anh khùng Benjy.

Và bây giờ, đi vào bốn phần của tác phẩm hẳn là dễ hơn.

Phần một: 7-4-1928. Thứ bảy tuần thánh. Độc thoại của Benjy - Nên nhớ rằng ta đang ở trong dòng tâm tưởng của anh khùng Benjy, trôi dạt giữa những bèo bọt ấn tượng của hắn. Đấy là ngày sinh nhật thứ 33 của hắn khi cậu bé da đen Luster dắt hắn đi dọc theo sân chơi gôn. Nghe cầu thủ gọi caddie (đứa bé nhặt banh), Benjy nhớ đến chị Caddy của mình ngày đưa đám bà nội, ngày Caddy 7 tuổi tắm suối, ngày lấy chồng... Trở về nhà, Benjy bị phỏng tay nơi lò lửa. Nhìn ra ngoài, hắn thấy cô Quentin (con gái Caddy) từ cửa sổ leo cây xuống đất bỏ trốn.

Phần hai: 2-6-1910: Dòng ý thức của Quentin trước khi tự sát - Ta bị cuốn vào những ám ảnh của một sinh viên sắp đi trầm mình. Nếu như tình yêu Caddy đem lại cho tâm hồn điên khùng của Benjy mùi vị của lá cây và ánh sáng lửa thì tình yêu ấy, qua sự sa đọa của nàng, đẩy Quentin đến cái chết. Caddy có thai với một bạn trai, phải lấy chồng để lấp liếm. Quentin không phạm tội loạn luân nhưng tự nhận cái tội ấy với cha. Quentin đập vỡ đồng hồ, bỏ đi lang thang, mua mấy cân sắt để sửa soạn trầm mình.

Phần ba: 6-4-1928: Ngày thứ sáu tuần thánh. Độc thoại của Jason.

Sau cái chết của cha và anh (Quentin), Jason cầm đầu gia đình Compson. Y xảo trá lừa gạt mẹ, ăn chặn tiền của Caddy gởi về nuôi con. Y hầu như thù ghét tất cả mọi người: người thân, người Do Thái, người da đen. Ngày hôm nay, y vừa theo dõi thị trường chứng khoán, vừa rình rập đứa cháu gái Quentin, bộc lộ đầy đủ tính chất đê tiện của mình.

Phần tư: 8-4-1928: Chúa nhật Phục sinh.

Đến phần cuối cùng, tác phẩm mới trở lại lối kể truyện truyền thống (khách quan và trực tiếp).

Mặc những hỗn loạn của gia đình Compson, người vú da đen Dilsey sửa soạn bữa điểm tâm và đi lễ nhà thờ với cả gia đình, với sự thanh thản của một tâm hồn lành mạnh. Bà khóc sau khi nghe giảng đạo ngày Phục sinh và nói: "Ta đã nhìn thấy sự khởi đầu rồi, giờ thì ta nhìn thấy cái cuối cùng".

Jason lúc ấy mới khám phá ra mình bị mất 7 ngàn đôla nhưng đã muộn, không còn tìm đâu ra cô cháu gái.

Cuối truyện là cái nhìn trống rỗng trong đôi mắt Benjy và cành hoa thủy tiên tan nát trong nắm tay khờ khạo của hắn trên đường trở về nhà.

Và đó là câu chuyện suy sụp của một gia đình có một thời danh vọng và quyền thế, của một văn hóa lệch lạc. Đó là sự đổ vỡ của những quan điểm lầm lẫn về luân lý và tình yêu (Quentin), về vật chất (Jason), về bản năng (Benjy)...

Đó là sự đánh mất tất cả: Caddy, "có cái gì đáng mất mà nàng không để mất"?

Đọc tác phẩm, ta thường nghe vang lên những tiếng kêu gào, than van, giày vò, đay nghiến, mỉa mai dường như vô nghĩa, dường như chen lẫn trong âm vang của thời gian và định mệnh.

Nếu như Con gấu là câu chuyện của một thiên nhiên đổ vỡ và bị nguyền rủa thì m thanh và cuồng nộ là câu chuyện của một xã hội văn minh đổ vỡ và bị nguyền rủa. Nguyền rủa vì tội lỗi. Tràn ngập một cảm thức đoạn trường. Đoạn trường cây cỏ và đoạn trường nhân gian.

Và không chỉ riêng hai tác phẩm trên mà toàn bộ tác phẩm của Faulkner, toàn bộ thế giới Yoknapatawpha, một thế giới của những đầm lầy tâm hồn, của những hành động cưỡng hiếp, sát nhân, làm đĩ, loạn luân, đốt nhà, hành hình... tóm lại là thế giới tội lỗi.

Nhưng đó không phải là câu chuyện của hành tinh chúng ta sao. Hay hành tinh nào khác? Nhìn kỹ đi, đó là đoạn trường của văn hóa nhân loại mà Faulkner chỉ ra, như mở cánh cửa địa ngục.

Yoknapatawpha mang ta đi và ta mang nó mà đi, tất cả tội lỗi của nó. Và mỗi tâm hồn phải trở thành một cuộc giao chiến. Để thoát khỏi bóng tối.

Ánh sáng có chứ, phải không Dilsey? (Dilsey, người đàn bà da đen đã nhìn thấy cuộc đời từ đầu đến chân). Ánh sáng có chứ, phải không Lena? (Nắng tháng Tám).

Ánh sáng có chứ, phải không Ike, trong khu rừng lớn mà anh quen thuộc mang tên là Cái Đáy vĩ đại. Và đó có thể là thích hợp với cuộc đời lắm lắm: Cái Đáy vĩ đại.

Ở trong Cái Đáy ấy, ta hò hẹn với thời gian và vĩnh cửu.

NHẬT CHIÊU

Tôi quyết không chấp nhận sự cùng tận của con người

(Diễn văn nhận giải Nobel văn học của Faulkner tại Stockholm ngày 10-12-1950)

Tôi cảm thấy rằng giải thưởng này không phải trao cho tôi như một con người mà trao cho tác phẩm của tôi - tác phẩm của một đời tạo ra trong đoạn trường và mồ hôi của tinh thần con người, chẳng phải vì danh vọng, chẳng phải vì lợi nhuận, mà chỉ dùng những chất liệu của tinh thần con người sáng tạo ra một cái gì chưa từng thấy trước đây. Thế nên giải thưởng này chỉ là của tôi trong một sự ủy thác mà thôi. Cung hiến phần tiền thưởng sao cho xứng đáng với mục đích và ý nghĩa có từ ban đầu của nó thì có khác gì đâu - nhưng tôi muốn theo đó mà dùng giây phút được khen tặng này như một đỉnh cao mà từ đây tôi được các bạn trẻ nam nữ lắng nghe, những người sẵn sàng hiến mình cho niềm xao xuyến và lao khổ tương tự, thế nào trong đó cũng có một người một ngày kia sẽ đứng nơi tôi đứng hiện giờ.

Bi kịch của chúng ta hôm nay là cùng chung một nỗi lo sợ cụ thể, phổ biến, kéo dài lâu rồi mà giờ đây chúng ta vẫn còn mang chịu. Không còn những vấn đề tinh thần nữa. Chỉ còn nghi vấn này: Khi nào chúng ta sẽ nổ tan tác đây? Do đó mà các bạn trẻ nam nữ cầm bút hôm nay đã lãng quên những vấn đề của tâm hồn con người đang giao chiến với chính mình, chỉ duy có điều ấy mới làm ra tác phẩm hay, bởi vì chỉ điều ấy mới đáng viết, xứng đáng với lao khổ và mồ hôi.

Phải học lại, phải tự nhủ rằng điều tệ hại nhất trong tất cả mọi người chính là sợ hãi; và tự nhủ rằng, hãy vĩnh viễn quên đi niềm lo sợ, trong phòng viết chớ có dành chỗ cho điều gì khác ngoài những chân lý và niềm tin muôn đời của tâm hồn, những sự thật phổ quát nghìn xưa mà thiếu chúng thì mọi câu chuyện đều phù phiếm và tiêu ma. Đó chính là tình yêu và danh dự, trắc ẩn và tự hào, đồng cảm và hy sinh. Không như thế thì ta chỉ làm việc trong sự nguyền rủa mà thôi. Và chỉ còn viết về tình dục chứ không phải tình yêu, về những chiến bại mà chẳng ai mất mát chút ít giá trị nào, về những chiến công không có niềm hy vọng, càng không có trắc ẩn tình thương, những băn khoăn không gây nổi ngấn tích nào trên nhân loại, không để lại một vết sẹo nhỏ. Không còn viết về trái tim nữa mà về những hạch tuyến chẳng ra chi.

Chưa ôn lại những điều ấy, thì chỉ viết như thể đang đứng lẫn đâu đó mà chờ đợi sự cùng tận của con người. Tôi quyết không chấp nhận sự cùng tận của con người. Rất dễ nói rằng con người bất tử chỉ vì giỏi chịu đựng, rằng khi tiếng chuông tận thế đã ngân tàn từ mỏm đá cuối cùng vô nghĩa, giữa hoàng hôn đỏ úa cuối cùng không có thủy triều lên, rằng ngay cả khi ấy vẫn còn âm thanh là tiếng nói yếu ớt không tắt của con người. Tôi quyết không chấp nhận điều ấy. Tôi tin rằng con người không chỉ chịu đựng: mà hơn nữa, sẽ vượt qua. Con người bất tử, không vì giữa muôn loài, nó có tiếng nói không bao giờ tắt, mà chính vì nó có một tâm hồn, một tinh thần biết đồng cảm, hy sinh và chịu đựng. Bổn phận của nhà thơ, nhà văn là viết về những điều đó. Có sứ mệnh giúp con người chịu đựng bằng cách nâng dậy tâm hồn con người, gợi nhớ lòng can trường và danh dự, hy sinh và tự hào, đồng cảm và trắc ẩn, cùng với sự hy sinh đã làm nên vinh quang trong quá khứ của con người. Tiếng nói của thi nhân không chỉ là tấm bia ghi công con người, mà còn là cột trụ giúp con người chịu đựng và vượt qua.

NHẬT CHIÊU dịch

HẾT



* * *

[126] 1914-1918. Người Mỹ gọi là "European War" ("Chiến tranh châu u") vì các địch thủ chính đều là các nước châu u (như Anh, Pháp, Đức, Nga...) và phần lớn các chiến trường đều nằm ở châu u. Nước Mỹ chỉ bắt đầu tham chiến vào năm 1917 - ND.

[127] The American Legion, thành lập từ năm 1919 (sau Thế chiến thứ nhất), có chi hội (gọi là 'Post') trên khắp nước Mỹ - ND.

[128] Tức Washington, DC, thủ đô nước Mỹ, nơi có chính phủ liên bang - ND.

[129] Drug stores - ND.

[130] M.P: viết tắt của Military Police (Cảnh sát của quân đội) - ND.

[131] Một hãng điện tín nổi tiếng của Mỹ trong suốt một thế kỷ từ khi thành lập năm 1855. Sau này chuyên về các dịch vụ tài chánh như chuyển tiền trong khắp nước Mỹ và trên thế giới...- ND.

[132] Dựa theo từ 'Janannatha' (một tên khác của Krishna, một vị thần rất được yêu thích trong các vị thần của Ấn Độ giáo). Tượng vị thần này trước kia được đặt trong một chiếc xe đi diễu trong lễ hội tôn giáo và những người quá mộ đạo thường nhào vào để xe cán chết. Trong tiếng Anh, nó mang nghĩa là một sức mạnh hủy diệt tàn nhẫn và không thể ngăn chặn; còn có nghĩa bóng là cái gì đó gây ra lòng mộ đạo mù quáng hay sự hy sinh không thương xót - ND.

[133] Nguyên văn: Fate: theo thần thoại La-Hy thì có ba nữ thần (Parcae, tên La Mã; hay Moirai, tên Hy Lạp) quyết định số mệnh từng con người - ND.

[134] The fall of trumpet: đây là một kỹ thuật thổi kèn trompet dùng để hạ độ cao của một nốt nhạc xuống một cách nhanh chóng, có thể kéo dài 1 hay 2 giây... hay đến 5 giây là cùng. Bạn đọc muốn xem và nghe kỹ thuật này thì có thể vào www.youtube.com/watch?v=qRKI-euzdfU sẽ thấy - ND.

[135] Dandelions (cây bồ công anh) và ditch weeds (cỏ gà), cả hai đều mọc hoang nhưng ăn được - ND.

[136] Episcopal church: tên gọi giáo hội Anh giáo (Anglican church) được thiết lập ở các lãnh thổ nằm ngoài nước Anh, nhất là ở Mỹ - ND.

[137] Tức là sau khi cuộc Nội chiến Mỹ (1861-1865) chấm dứt - ND.

[138] Confederate, tức binh lính thuộc Confederate States of America (Hợp bang Hoa Kỳ, tức mười một tiểu bang miền Nam ly khai khỏi Hoa Kỳ trong những năm 1860-1861, gây ra cuộc Nội chiến Mỹ, 1861-1865.), còn gọi là lính miền Nam. Họ mặc quân phục màu xám - ND.

[139] Binh lính miền Bắc (Union soldiers of the North) trong cuộc Nội chiến Mỹ, mặc quân phục màu xanh (blue) - ND.

[140] (Tên một quận ở tiểu bang Kentucky). Rượu uýt-ki làm ở Mỹ, dùng bắp làm nguyên liệu - ND.

[141] Đảng Cộng hòa (The Republican Party) Mỹ được thành lập năm 1856, theo lập trường hủy bỏ chế độ nô lệ, và Abraham Lincoln là người đầu tiên thuộc đảng mới này được bầu làm Tổng thống Mỹ năm 1860 - ND.

[142] Earl Van Dorn (1820-1863): một tướng lãnh thuộc quân đội miền Nam trong cuộc Nội chiến Mỹ - ND.

[143] Federal: ở đây có nghĩa thuộc lục quân miền Bắc.(Trong cuộc Nội chiến, lục quân này được gọi bằng nhiều tên khác nhau như the Federal Army, the Northern Army, the Union Army, the National Army và the U.S. Army.) - ND.

[144] The Face Itself - ND.

[145] Nguyên văn: How long, O Lord . Đây là lời mở đầu của bản thánh vịnh số 13 trong Cựu Ước (Psalm 13): How long, O Lord? Will you forget me forever? How long will you hide your face from me? ("Lạy Chúa, Ngài quên con mãi tới bao giờ? Tới bao giờ còn ngoảnh mặt làm ngơ?" Theo bản dịch "Sách Thánh vịnh" của Nhóm Phiên dịch các giờ Kinh phụng vụ.) - ND.

[146] Jackson ở đây là một thị trấn thuộc bang Tennessee, chứ không phải thành phố Jackson, thủ phủ của bang Mississippi. Để phân biệt các địa danh trùng tên, người Mỹ thường viết thêm tên tiểu bang sau địa danh đó, như Jackson, Tennessee hay Jackson, Mississippi... - ND

[147] Xem niên biểu, năm 1928, ở trang 7.

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top