Light In August - William Faulkner (Part 8)

"Và lão làm theo. Y chang lời bà dặn. Lão ngồi yên đó, nơi bà đặt lão ngồi, và bà thì cũng không ngoái đầu nhìn lại. Mọi người đều nhận thấy điều đó. Có lẽ vì người ta không hề thấy bà, ngoại trừ ở nhà bà hay quanh nhà bà. Và vì người ta biết lão là một lão già hung dữ đến độ một người đàn ông phải dòm trước ngó sau mỗi khi đến gần lão. Dù sao, mọi người đều ngạc nhiên. Họ chưa hề nghĩ tới trước đây là lão có thể chấp nhận mệnh lệnh từ ai đó. Như thể bà biết những chuyện về lão, và lão không thể làm gì khác hơn là phải nghe theo lời bà. Vì lão ngồi xuống khi bà biểu, trên cái ghế đó, bây giờ không la hét hay ăn nói huênh hoang nữa, nhưng cái đầu gục xuống, hai bàn tay run rẩy trên chiếc gậy to đó, và một ít nước dãi vẫn còn chảy ra khỏi miệng, xuống áo sơ-mi của lão.

"Bà đi thẳng tới nhà tù. Có một đám đông rất lớn tụ tập trước cổng, bởi vì Jefferson đã cho biết là họ đang trên đường xuống Mottstown để nhận tên mọi đen. Bà đi xuyên thẳng qua đám đông và vào tận bên trong nhà tù và bà nói với tên Metcalf, 'Tôi muốn thấy người đàn ông mà họ bắt.'

"'Bà muốn thấy y để làm gì?' Metcalf nói.

"'Tôi sẽ không quấy rầy y đâu,' bà nói. 'Tôi chỉ muốn nhìn y thôi.'

"Metcalf trả lời rằng có nhiều người khác cũng muốn làm như bà, rằng hắn biết là bà không có ý định giúp tên mọi đen trốn đi, nhưng hắn chỉ là tên cai ngục và hắn không thể để cho bất cứ ai vào mà không có sự cho phép của ông cò. Và bà đứng đó, trong cái áo đầm tím đó và ngay cả cái lông chim trên mũ cũng không động đậy hay đu đưa, vì bà đứng bất động quá sức. 'Ông cò ở đâu?' bà nói.

"'Ổng ở văn phòng ổng, có lẽ vậy,' Metcalf nói. 'Bà đi gặp ổng xin phép rồi tôi sẽ để bà thấy thằng mọi đen.' Metcalf nghĩ là sự việc sẽ dừng ở đó. Vậy là y nhìn bà quay người đi ra, đi xuyên qua đám đông tụ tập trước nhà tù và đi lên con đường hướng về phía quảng trường. Cái lông chim bây giờ động đậy. Hắn thấy nó đu đưa phía trên hàng rào. Và rồi hắn thấy bà băng qua quảng trường và đi vào tòa thị sảnh. Người ta không biết bà đến đó làm gì, bởi vì Metcalf đã không có thì giờ kể cho họ nghe chuyện xảy ra trước đó trong nhà tù. Họ chỉ nhìn bà bước vào bên trong tòa thị sảnh, và rồi tên Russell kể là hắn đang làm việc ở văn phòng, tình cờ ngước mắt nhìn lên và thấy cái mũ đó, với cái lông chim ở trên, ngay sau cửa sổ, bên kia quầy. Hắn không biết bà đã đứng đó bao lâu, chờ hắn nhìn lên. Hắn nói bà cao vừa đủ để nhìn qua quầy để mà bà có vẻ không có thân hình bên dưới cái đầu. Như thể có ai đó lén lút chui vào và đặt lên sàn nhà một quả bóng làm bằng bao tử cừu mà trên đó có vẽ một mặt người với một cái mũ hề, giống như những đứa bé Katzenjammer[103] trong tờ báo hài hước. 'Tôi muốn gặp ông cò,' bà nói.

"'Ổng không có đây,' Russell nói. 'Tôi là phụ tá của ổng. Tôi có thể giúp bà được gì?'

"Hắn nói bà không trả lời trong một lát, cứ đứng tại chỗ. Rồi bà nói, 'Tôi có thể tìm ổng ở đâu?'

"'Ổng có lẽ ở nhà ổng,' Russell nói. 'Ổng rất bận rộn cả tuần nay. Đôi khi thức khuya, để giúp mấy cha cảnh sát ở Jefferson. Có lẽ ổng ở nhà ngủ chợp một lát đó. Nhưng có lẽ tôi có thể -' Nhưng hắn nói là bà đã đi rồi. Hắn nói hắn nhìn qua cửa sổ và thấy bà đang băng qua quảng trường, quẹo sang con đường mà ông cò cư ngụ. Hắn nói hắn vẫn đang ráng nhận dạng bà, ráng nghĩ cho ra bà là ai.

"Bà không hề tìm được ông cò. Vả lại, lúc đó là đã trễ rồi. Bởi vì ông cò đã có mặt trong nhà tù từ trước, chỉ phải cái là tên cai ngục Metcalf đã không nói với bà, và ngoài ra, bà vừa mới ra khỏi nhà tù thì những tên cảnh sát của Jefferson đến trên hai chiếc xe hơi và đi vào trong đó. Họ vội vã đến và vội vã đi vào, nhưng tiếng đồn đã nhanh chóng lan ra là họ có mặt ở nhà tù, và chắc là cũng có đến hai trăm đàn ông, đàn bà, con nít trước nhà tù khi hai ông cò xuất hiện trước cổng và ông cò của tụi mình mở miệng diễn thuyết, yêu cầu dân chúng tôn trọng luật pháp và chính ông và ông cò Jefferson, cả hai hứa là tên mọi đen sẽ được xét xử nhanh chóng và công bằng; và rồi ai đó trong đám đông nói, 'Công bằng? Tụi tui đếch cần! Thằng mọi đen có công bằng với người đàn bà da trắng đó không chớ?' Và mọi người bắt đầu vừa la hét, vừa chen lấn, như thể họ hét to điều này điều nọ cho người đàn bà đã chết chớ không phải cho hai ông cò. Nhưng ông cò Mottstown tiếp tục nói với họ một cách điềm tĩnh. Ông nói rằng ông đã cố gắng giữ lời hứa mà ông đã nói với họ vào cái ngày họ bầu chọn ông. 'Tôi không có cảm tình với những thằng mọi đen sát nhân nhiều hơn bất cứ người da trắng nào ở đây,' ông nói. 'Nhưng tôi đã tuyên thệ, và có Chúa làm chứng, tôi có ý định giữ lời tuyên thệ đó. Tôi không muốn sinh chuyện rắc rối nhưng nếu cần thì tôi sẽ không lẩn tránh nó đâu. Các người nên suy nghĩ kỹ một lát đi.' Và Halliday cũng ở đó nữa, với hai ông cò. Đó là người thành tâm ủng hộ lẽ phải và trật tự nhất. 'Được rồi,' ai đó trong đám đông hét lên; 'tụi tôi nghĩ là ông không muốn nó bị thiêu sống hay treo cổ[104]. Nhưng đối với tụi tôi, nó đâu có đáng giá một ngàn đô-la; nó đâu đáng giá một ngàn que diêm đã cháy.' Và ông cò nói nhanh: 'Chuyện gì sẽ xảy ra nếu như Halliday không muốn nó bị giết hả? Bộ chúng ta không muốn cùng một thứ sao? Đây, một công dân địa phương sẽ lãnh tiền thưởng: số tiền này sẽ được tiêu xài ngay đây, tại Mottstown này. Hãy giả dụ là một người ở Jefferson lãnh được tiền thưởng này đi! Bộ không đúng sao, các bạn? Bộ không hợp lý sao?' Giọng ông cò nghe nhỏ, như giọng con búp bê, thậm chí nghe như giọng một người to con khi ông ta nói, không phải trái với ý muốn của đám người nghe mà trái với những đầu óc mang sẵn những định kiến nửa vời.

"Dù sao, điều đó có vẻ thuyết phục được họ, dù là mọi người biết rõ rằng, nếu Halliday chính là người tiêu xài một ngàn đô-la đó thì Mottstown hay bất cứ nơi nào khác sẽ không hưởng sái đủ để nuôi một con bê cho mập. Nhưng điều đó đủ thuyết phục họ. Con người ta thật là kỳ cục. Họ chỉ gắn bó với một ý tưởng hay một hành động nếu họ tìm ra một lý do mới mẻ để lặp lại thường xuyên cái ý tưởng hay hành động đó. Và rồi khi họ thực sự tìm ra lý do mới này thì dù sao cũng có khả năng là họ thay đổi. Vì vậy mà họ không trở lại đúng như ý định ban đầu; giống như khi trước đám đông có vẻ di chuyển từ trong ra ngoài, bây giờ nó có vẻ di chuyển từ ngoài vào trong. Và hai ông cò biết điều này, giống như hai ông biết là sự yên ổn này có lẽ sẽ không kéo dài được lâu. Vì vậy hai ông hấp tấp vào lại trong nhà tù rồi lại đi ra ngay, hầu như trước khi có đủ thì giờ để quay người, với tên mọi đen kẹp giữa hai ông và năm hay sáu viên cảnh sát theo sau. Họ chắc là đã giữ tên mọi đen ở gần họ, ngay sau cánh cửa nhà tù trong suốt thời gian đó, bởi vì họ đi ra ngoài lại gần như tức khắc, với tên mọi đen đi giữa họ, mặt mày ủ rũ, tay bị còng với tay ông cò Jefferson; và đám đông xì ra một chút tiếng nói, 'Ahhhhhhhhhhhhh.'

"Họ mở ra một thứ lối đi giữa đám đông ra tới đường, nơi chiếc xe hơi thứ nhất của Jefferson đang đợi, máy nổ sẵn, một người đàn ông ngồi sau tay lái; và không để mất đi một phút, hai ông cò tiến lại gần, khi người ta chợt thấy bà xuất hiện lại, người đàn bà đó, bà Hines đó. Bà đã xô lấn trong đám đông. Bà nhỏ con đến nỗi người ta chỉ thấy cái lông chim đong đưa rất chậm, giống như cái gì đó đã không thể di chuyển rất nhanh dù không có chướng ngại vật trên đường, nhưng không có gì có thể ngăn cản nó được, giống như cái máy kéo vậy. Bà chen lấn xuyên qua đám đông, lần hồi đến được cái lối đi mà đám đông mở ra, và bà bước ra ngay trước mặt hai ông cò đi kèm tên mọi đen khiến họ phải ngừng lại để khỏi giẫm lên bà. Bộ mặt bà trông như một cục mát-tít to tướng, và cái mũ thì bị lệch sang một bên khi xô đẩy nên cái lông chim giờ treo ngang trước mặt bà và bà phải đẩy nó lên để thấy. Nhưng bà không làm gì cả. Bà chỉ khiến họ đứng sững lại trong một phút trong khi bà đứng đó, nhìn tên mọi đen. Bà không nói một lời. Như thể đó là tất cả những gì bà muốn, như thể đó là lý do mà bà quấy rầy mọi người, như thể đó là mục đích mà bà đã ăn mặc tề chỉnh và bỏ công đi xuống phố: chỉ để nhìn tận mặt tên mọi đen, một lần. Thật vậy, bà quay lưng và len qua đám đông lần nữa, và khi các chiếc xe hơi ra đi với tên mọi đen và đám cảnh sát của Jefferson, khi người ta nhìn quanh, thì bà đã biến mất. Và mọi người quay lại quảng trường, bác Doc cũng đã biến khỏi cái ghế mà bà đã đặt lão ngồi và biểu lão chờ. Nhưng không phải tất cả mọi người đều quay lại quảng trường ngay tức khắc đâu. Nhiều người còn nán lại đây để nhìn vào nhà tù, như thể chỉ có cái bóng của tên mọi đen là đi ra thôi.

"Người ta nghĩ bà đã đưa bác Doc về nhà. Chuyện xảy ra đằng trước cửa tiệm của tên Dollar và Dollar kể là mình đã thấy bà trở lại trên con đường đó, đi trước đám đông. Hắn nói là bác Doc không có cử động, vẫn ngồi yên như thể bị thôi miên trên chiếc ghế mà bà đã đặt lão xuống, cho tới khi bà đến gần và đưa tay chạm vào vai lão. Rồi lão đứng dậy và hai người cùng nhau bỏ đi trong khi Dollar vẫn đưa mắt dõi theo lão. Và Dollar nói, nếu nhìn vẻ mặt vui vẻ của bác Doc lúc đó thì nhà lão đúng là nơi nên quay về.

"Chỉ tội cái là bà không hề đưa lão về nhà. Sau một lát, người ta thấy là bà không phải đưa lão đi đâu cả. Như thể cả hai người đều muốn làm cùng một chuyện. Cùng một chuyện nhưng với những lý do khác nhau, và mỗi người đều biết lý do của người kia thì khác mình, và bất cứ ai trong hai người làm được theo ý mình thì sẽ gây hậu quả nghiêm trọng cho người kia. Như thể cả hai người đều biết điều này mà không nói ra và người này theo dõi người kia, và cả hai người cũng biết là chính bà mới là người khởi sự công việc tốt nhất.

"Họ đi thẳng tới chỗ cho thuê xe hơi của tên Salmon. Chỉ mình bà nói chuyện. Bà nói vợ chồng bà muốn đi Jefferson. Có lẽ họ không hề tưởng tượng là Salmon có thể đòi họ trả hơn hai mươi lăm xen mỗi người, bởi vì khi hắn nói ba đô-la, bà bắt hắn lặp lại, như thể bà không thể tin nổi tai mình. 'Ba đô-la,' Salmon nói. 'Tôi không thể lấy ít hơn.' Và họ đứng đó, và lão Hines không nói gì. Lão có vẻ chờ, như thể cho mình không dính dáng gì, như thể lão biết mình không cần bận tâm: bà sẽ đưa hai người đến Jefferson, bằng cách này hay cách nọ.

"'Tôi không thể trả được cái giá này,' bà nói.

"'Bà không thể tìm đâu ra rẻ hơn,' Salmon nói. 'Trừ phi đi xe lửa. Họ chỉ lấy năm mươi hai xen mỗi người thôi.' Nhưng bà đã bỏ đi, bác Doc lật đật theo sau như con chó.

"Lúc đó là khoảng bốn giờ chiều. Cho đến sáu giờ, người ta thấy họ ngồi trên chiếc ghế dài trong sân tòa thị sảnh. Họ không nói chuyện với nhau, trông như người này thậm chí không hề biết người kia cũng có mặt tại đây. Họ chỉ ngồi bên cạnh nhau. Bà thì ăn mặc tề chỉnh trong trang phục dành cho ngày chủ nhật. Có lẽ bà hài lòng thấy mình ở trung tâm thành phố vào một buổi tối thứ bảy, trên người ăn mặc chỉnh tề. Đối với bà, điều này thì tương tự như đi du hí cả ngày ở Memphis đối với những người khác.

"Họ ngồi đó cho đến khi đồng hồ điểm sáu giờ. Rồi họ đứng dậy. Những người thấy cảnh này thì nói là bà không nói với lão một lời; là họ đứng dậy cùng lúc như hai con chim cùng vỗ cánh bay từ một cành cây mà người ta không thể nói con nào trong hai con đã ra hiệu. Khi họ đi, bác Doc đi sau bà một chút. Họ băng qua quảng trường như vậy và quẹo sang con đường dẫn đến nhà ga. Và người ta biết là không có chuyến tàu nào trước chín giờ tối và tự hỏi không biết hai người này thực sự có đi đến nơi nào đó bằng tàu lửa không. Nhưng người ta thấy ra ngay sau đó là họ sắp sửa làm một chuyện còn đáng ngạc nhiên hơn. Họ đi đến một tiệm cà phê nhỏ gần nhà ga và họ ăn tối ở đó - họ, từ ngày đến Mottstown, đã không bao giờ thấy đi xuống phố cùng nhau, chưa nói đến chuyện ngồi cà phê với nhau. Nhưng đó là nơi bà đưa lão tới; có lẽ họ sợ trễ tàu nếu họ ăn tối dưới trung tâm thị trấn. Bây giờ thì chưa đến sáu giờ rưỡi và họ ngồi ăn trước quầy, trên hai trong những chiếc ghế đẩu, ăn những gì bà gọi mà không hỏi ý bác Doc chút nào. Bà hỏi tên chủ tiệm về giờ tàu đi Jefferson và y trả lời là có chuyến hai giờ sáng. 'Jefferson đêm nay thì thiệt là náo nhiệt,' y nói. 'Bà có thể thuê xe hơi ở dưới trung tâm thị trấn và sẽ đến Jefferson trong vòng bốn mươi lăm phút. Bà đâu cần phải đợi tàu lửa tới hai giờ sáng.' Có lẽ y nghĩ họ là những người xa lạ; y còn nói cho bà biết cách đi xuống phố nữa!

"Nhưng bà không nói gì và họ ăn xong, bà trả tiền cho y bằng các đồng tiền năm xen và mười xen mà bà rút ra từng đồng một từ miếng giẻ được cột túm lại, cất trong cái dù. Bác Doc vẫn ngồi yên đó, vẻ mặt lạc lõng như người mộng du. Rồi họ rời đi, và tên chủ tiệm cà phê nghĩ rằng họ sẽ nghe theo lời khuyên của y mà đi vào phố và thuê xe hơi nhưng khi y nhìn ra ngoài thì thấy họ đang băng qua chỗ bẻ ghi để đi về hướng nhà ga. Y có ý gọi họ nhưng thôi. 'Mình cho là mình đã hiểu lầm bả,' y kể lại là y đã nghĩ như vậy. 'Có lẽ đó là chuyến tàu chín giờ tối mà họ muốn đi, chuyến tàu xuôi Nam đó.'

"Họ đang ngồi trên chiếc ghế dài trong phòng đợi khi có những người hành khách, những kẻ chào hàng, những tên vô công rồi nghề và đại loại như vậy, bắt đầu đến nhà ga và mua vé cho chuyến tàu chạy về phía Nam. Tên nhân viên nhà ga kể là lúc bảy giờ rưỡi, khi trở lại sau bữa ăn tối, y nhận ra là có vài người trong phòng đợi. Nhưng y chẳng thấy có gì đặc biệt cho tới khi bà đến trước cửa bán vé hỏi giờ tàu đi Jefferson. Y nói lúc đó y đang bận, y chỉ ngước mắt và nói, 'Ngày mai,' chớ không ngừng làm cái việc đang làm. Sau đó, y kể là một lát sau có cái gì đó khiến y nhìn lên, và cái mặt tròn đó vẫn còn đó, đang nhìn y và cái lông chim đó vẫn ở trước cửa bán vé, và bà nói,

'Tôi muốn mua hai vé cho chuyến tàu đó.'

"'Tàu đó tới hai giờ sáng mới chạy mà,' tên nhân viên nói. Y cũng không nhận ra bà. 'Nếu bà muốn tới Jefferson nhanh chóng thì tốt hơn bà nên xuống phố thuê xe hơi mà đi. Bà có biết đường đi xuống phố không?' Nhưng y nói bà chỉ đứng đó, tay đếm các đồng năm và mười xen lôi ra từ miếng giẻ rách được cột túm lại đó, và y đưa cho bà hai tấm vé rồi y nhìn ra qua bà và thấy bác Doc và vậy là y biết bà là ai. Và y nói hai người vẫn ngồi đó, các hành khách cho chuyến tàu xuôi Nam vào nhà ga, con tàu đó đến rồi đi và họ vẫn còn ngồi đó. Y nói bác Doc vẫn có vẻ đang ngủ, hay bị ảnh hưởng thuốc mê hay đại loại như vậy. Rồi con tàu rời đi, nhưng có những người hành khách không quay về phố mà nán lại ở nhà ga, nhìn vào cửa bán vé, và thỉnh thoảng họ vào trong nhìn bác Doc và bà vợ ngồi trên ghế dài, cho đến khi tên nhân viên tắt đèn ở phòng đợi.

"Vài người còn nán lại, ngay cả sau lúc đó. Họ nhìn qua cửa sổ và thấy hai người vẫn ngồi đó, trong bóng tối. Có lẽ họ thấy cái lông chim, và cái đầu bạc của bác Doc. Và rồi bác Doc bắt đầu tỉnh giấc. Không phải vì lão tỏ ra ngạc nhiên thấy mình trong nơi chốn này, cũng không phải vì lão thấy mình ở chỗ mà lão không muốn. Lão chỉ thức dậy, như thể lão đã tắt máy xe mà lao xuống dốc rất lâu, giờ là lúc phải mở máy cho xe chạy lại. Họ nghe bà nói với ông 'Shhhhhhh. Shhhhhhhhh,' nhưng rồi giọng ông vang lên oang oang. Hai người còn ngồi đó khi tên nhân viên bật đèn lại và biểu họ là con tàu hai giờ sáng đang đến. Và bà nói, 'Shhhhhhh. Shhhhhhhhh' như nói với đứa bé sơ sinh, và bác Doc thì la hét, 'Chó má và ghê tởm quá đi! Ghê tởm và chó má quá đi!' "

16

Sau khi gõ cửa mà không thấy ai trả lời, Byron rời hàng hiên, đi vòng quanh nhà và bước vào trong cái sân sau được rào kín. Anh thấy ngay chiếc ghế dưới cây dâu tằm. Đó là một cái ghế võng bằng vải bạt được mạng vá nhiều chỗ, màu đã phai, bị chùng xuống theo tấm thân nặng nề của Hightower lâu đến nỗi khi không có ai nằm nó vẫn có vẻ lưu giữ trong vòng ôm ma quái cái béo phì không ra hình thù gì của người sở hữu nó; Byron nghĩ, khi đến gần, rằng cái ghế câm nín này, gợi lên sự bỏ đi, sự lười biếng, sự xa lánh thế gian tệ hại, bằng cách này hay cách khác là biểu tượng và cũng là hiện thực của chính người đàn ông đó. 'Và mình còn định quấy rầy lần nữa,' anh nghĩ, môi hơi vểnh lên chút xíu, trong khi nghĩ Lần nữa sao? Sự quấy rầy mà mình đã gây ra cho ông, ngay cả ông cũng sẽ biết là bây giờ sự quấy rầy đó chẳng thấm thía gì đâu. Và lại vào ngày chủ nhật nữa chớ. Nhưng rồi mình cho là, bởi vì ngày chủ nhật là do con người ta sáng chế ra thì ngày chủ nhật cũng muốn trả thù ông chớ sao không

Anh đến gần chiếc ghế từ phía sau và nhìn xuống bên trong nó. Hightower đang ngủ. Trên chỗ phình lên của bụng ông, nơi mà chiếc áo sơ-mi trắng (nó thì thơm tho, sạch sẽ ngày hôm nay) phồng ra khỏi cái quần đen cũ mòn, một cuốn sách mở nằm úp mặt. Hai bàn tay của Hightower đan nhau đặt trên sách, thanh thản, nhân từ, gần như ra vẻ trịnh trọng. Chiếc sơ-mi được may theo kiểu cũ, với ngực áo có nếp gấp nhưng chỉ được ủi qua loa và ông không mặc cổ cồn. Miệng mở nửa chừng, da thịt mềm nhão treo xung quanh cái lỗ tròn mà trong đó những cái răng hàm dưới lộ ra vàng khè, da thịt đó cũng treo xung quanh cái mũi còn thẳng đẹp, cái phần duy nhất của khuôn mặt mà tuổi tác, sự thất bại của những năm tháng đau buồn đã không thay đổi. Nhìn xuống bộ mặt chìm sâu trong vô thức, Byron có cảm tưởng là toàn bộ con người ông đang chạy trốn khỏi cái mũi này, cái mũi vẫn nắm giữ một cách bất khuất cái phần còn lại của niềm kiêu hãnh, của lòng can đảm, vẫn bật dậy trên sự yếu hèn của nỗi thất bại giống như lá cờ bị bỏ quên trên một pháo đài đổ nát. Một lần nữa, ánh sáng, ánh phản chiếu của bầu trời xuyên qua cành lá cây dâu tằm, lấp lánh và chói sáng trên cặp kính, và Byron không thể nói chính xác là Hightower mở mắt khi nào. Anh chỉ thấy cái miệng khép lại và đôi bàn tay đan nhau bắt đầu cử động khi Hightower ngồi dậy. "Được," ông nói; "Ủa? Ai đây? - Ồ, Byron."

Byron nhìn xuống ông, vẻ mặt nghiêm trọng. Nhưng giờ thì không còn thương cảm nữa. Không còn với cái gì nữa: chỉ là vẻ điềm tĩnh và quả quyết. Anh nói, không lên hay xuống giọng chút nào: "Họ đã bắt được y hôm qua. Tôi không nghĩ là ông biết chuyện này nhiều hơn ông biết chuyện giết người."

"Bắt được y nào?"

"Christmas. Ở Mottstown. Y vào trong thị trấn, và theo lời người ta kể, y đi loanh quanh trên các đường phố cho đến khi có người nhận ra y."

"Bắt được y." Hightower bây giờ đã ngồi hẳn trên ghế. "Và bạn đến đây để kể với tôi là y bị... là người ta đã..."

"Không phải vậy. Người ta chưa làm gì y cả. Y chưa chết. Y đang ở trong nhà tù. Y được yên ổn trong đó."

"Yên ổn ư? Bạn nói là y yên ổn. Úi chà, anh Byron đây nói là y yên ổn - anh Byron Bunch đã ra tay giúp tên nhân tình của người đàn bà đó bán đứng bạn mình để lãnh một ngàn đô-la, và anh Byron nói là yên ổn. Anh Byron đã giấu biệt người đàn bà, không cho cha của đứa con nàng biết, trong khi... tôi nói được không, tên nhân tình khác, là anh Byron đây? Tôi nói điều đó được không? Tôi sẽ không nói ra sự thật được không, bởi vì anh Byron Bunch che giấu nó?"

"Nếu tin đồn trong dân chúng làm ra sự thật, vậy thì tôi nghĩ đó là sự thật. Nhất là khi họ biết ra là chính tôi đã đưa hai tên đó vào tù."

"Cả hai tên?"

"Cả Brown nữa đó. Mặc dù tôi nghĩ rằng phần lớn người ta cuối cùng thì cũng hiểu là khả năng giết người hay phụ giúp giết người của Brown thì không hơn khả năng của hắn bắt giữ tên sát nhân hay tên tòng phạm. Nhưng mọi người có thể nói là Byron Bunch, bây giờ, đã làm cho hắn bị giam chặt trong tù."

"Ồ, vậy à." Giọng Hightower hơi run run, cao và lanh lảnh. "Byron Bunch, người gìn giữ công ích và đạo đức. Người thắng cuộc, người thừa kế các tiền thưởng, vì bây giờ tiền thưởng sẽ thuộc về người vợ không môn đăng hộ đối của - tôi cũng nói điều đó được không? Tôi cũng đoán đó là Byron ở chỗ này được không?" Rồi ông bắt đầu khóc, cao lớn và mềm nhão trong chiếc ghế bị sụt xuống. "Tôi không có ý nói vậy. Bạn biết mà. Nhưng đến đây để làm phiền tôi, để làm tôi bứt rứt như vậy thì không đúng đâu, nhất là khi tôi đã - tôi đã tự dạy cho mình làm sao ở lại - khi họ dạy tôi làm sao ở lại - Ôi, chuyện đó cứ xảy ra với tôi đi, chiếm cứ con người tôi đi, bây giờ tôi già rồi và hòa giải với cái điều mà họ coi là - " Đã có lần Byron thấy ông ngồi với mồ hôi chảy trên mặt ông như nước mắt; giờ đây anh thấy chính nước mắt chảy trên hai má mềm nhão như mồ hôi.

"Tôi biết. Điều đó chẳng có gì quan trọng. Điều chẳng quan trọng gì mà vẫn mang đến đây để làm ông bứt rứt. Tôi đã không biết. Tôi đã không biết khi xen vào chuyện này, lúc đầu. Không có chuyện này, tôi hẳn đã... Nhưng ông là tu sĩ mà. Ông không thể lẩn tránh chuyện này."

"Tôi không phải tu sĩ. Không phải vì tôi không muốn làm. Bạn hãy nhớ lấy điều đó nghe. Đó không phải vì tôi muốn mà tôi không còn là tu sĩ nữa. Đó là do ý muốn, hơn vậy nữa, đó là do mệnh lệnh của tất cả mọi người như bạn, như cổ, như hắn đang ở trong tù đằng kia và như tất cả những người đã bỏ tù hắn để thỏa mãn ý muốn của họ trên hắn, như họ đã thỏa mãn trên tôi, bằng sự nhục mạ và bạo lực, để thỏa mãn ý muốn của họ trên những con người giống họ, được tạo ra từ cùng một Chúa, mà họ thúc đẩy để làm những chuyện mà bây giờ họ lấy đó để chối bỏ và giày vò những con người đó. Không phải tôi đã muốn như vậy. Bạn đừng quên điều đó nghe."

"Tôi biết điều đó. Bởi vì những lựa chọn đưa ra cho con người thì không nhiều. Ông đã lựa chọn trước khi điều đó xảy ra rồi mà." Hightower nhìn anh. "Người ta đã cho ông lựa chọn trước khi tôi sinh ra, và ông đã lựa chọn trước khi tôi hay cổ hay chính hắn sinh ra. Chính ông đã lựa chọn mà. Tôi cho là những người xấu đau khổ vì chuyện này bao nhiêu thì những người tốt chắc là cũng đau khổ bấy nhiêu; như cổ, như hắn, như tôi. Như những người khác, và người đàn bà khác này."

"Người đàn bà khác này? Một người đàn bà khác? Vậy thì cuộc đời tôi sau năm mươi năm phải bị xâm phạm và sự yên bình của tôi phải bị phá bỏ bởi hai người đàn bà lầm đường lạc lối, phải vậy không Byron?"

"Người đàn bà khác đó giờ đây không còn lầm đường lạc lối. Bà đã lầm đường lạc lối trong ba mươi năm. Nhưng bây giờ bà đã quay về. Bà là bà ngoại của y."

"Bà ngoại của ai?"

"Của Christmas," Byron nói.

Từ cửa sổ tối tăm của phòng làm việc, Hightower chờ đợi, theo dõi động tĩnh dưới đường và trước cổng nhà, và ông nghe được tiếng nhạc từ một nơi xa xôi nào đó khi nó bắt đầu. Ông không biết là mình trông đợi nó, là vào mỗi tối thứ tư và chủ nhật, ngồi ở cửa sổ tối tăm, ông chờ nó bắt đầu. Ông biết, hầu như chính xác đến cả giây, khi nào mình nên bắt đầu nghe nó mà không cần đến đồng hồ đeo tay hay đồng hồ quả lắc. Ông không dùng cái này lẫn cái kia, không cần chúng trong hai mươi lăm năm nay. Ông sống tách biệt với thời gian đo đếm. Tuy nhiên, và vì lý do này, ông bao giờ cũng có ý thức về thời gian. Dường như từ tiềm thức ông có thể tạo ra, dù không cố ý, một vài sự kết tinh của những khoảnh khắc đã định mà trên thế gian này, một ngày nọ chúng đã chi phối và định đoạt cuộc đời đã chết của ông. Ông không cần đồng hồ quả lắc để biết ngay tức khắc, chỉ bằng nghĩ tới thôi, là ông ở đâu, vào cái giờ đó, trong cuộc đời cũ của mình, là ông đang làm gì giữa hai thời điểm cố định đánh dấu sự bắt đầu và sự chấm dứt của buổi lễ sáng chủ nhật, buổi lễ chiều chủ nhật và lễ cầu kinh tối thứ tư; là chính xác khi nào ông đi vào nhà thờ, chính xác khi nào ông chấm dứt, có tính toán, buổi cầu kinh hay bài thuyết giáo. Vậy là, trước khi bóng hoàng hôn hoàn toàn biến mất, ông nói với chính mình Giờ thì họ đang tụ tập, tiến đến gần trên các nẻo đường một cách chậm rãi và đi vào, chào hỏi lẫn nhau: các nhóm, các cặp đôi, các người riêng lẻ. Họ nói chuyện thân mật chút ít trong chính ngôi nhà thờ, giọng nhỏ nhẹ, các bà cứ quạt không ngừng tay, thầm thì với nhau, gật đầu chào các bạn hữu mới vào và đi dọc theo lối đi giữa các dãy ghế. Cô Carruthers (cô là người đánh đàn ống cho ông và đã qua đời gần hai mươi năm trước) thì ở giữa họ; chút xíu nữa thì cô sẽ đứng dậy và đi vào phòng đặt đàn ống Buổi lễ cầu kinh tối chủ nhật. Ông luôn có cảm tưởng là chính vào giờ đó mà con người đến gần với Chúa nhất, gần hơn bất cứ giờ nào khác trong tất cả bảy ngày. Rồi chỉ trong buổi lễ này thôi, giữa tất cả những buổi lễ của nhà thờ, mà người ta cảm thấy cái gì đó của niềm an lạc này, nó là điều hứa hẹn và cứu cánh của giáo hội. Lúc đó, tâm và trí được thanh lọc, nếu có bao giờ phải làm vậy; đó là ngày chủ nhật, là tuần lễ chấm dứt cùng với bất cứ tai họa nào trong tuần mà nó đã có thể mang lại. Tất cả đều chấm dứt, được cộng lại, được chuộc tội bởi cơn cuồng nộ nghiêm khắc và trang trọng của buổi lễ sáng; tuần lễ tiếp theo và bất cứ tai họa nào chưa xảy ra của nó, con tim bây giờ cũng được nguôi ngoai trong vài khoảnh khắc dưới làn gió dịu dàng, tươi mát của lòng tin và hy vọng.

Ngồi ở cửa sổ tối tăm, ông dường như thấy họ Bây giờ họ đang tụ họp lại, đang vào cửa. Họ gần như có mặt tất cả, bây giờ Rồi ông bắt đầu nói, "Bây giờ! Bây giờ!," hơi khom người ra trước; rồi như thể đã chờ ông ra hiệu, tiếng nhạc bắt đầu. Những làn sóng nhạc từ đàn ống nổi lên, dạt dào và âm vang trong đêm hè. Trong sự hòa quyện của âm thanh kêu vang của nó thì vẫn có cái gì đó vừa hèn hạ, vừa cao cả, như thể chính những tiếng nói được giải phóng mang lấy cái hình dạng và tư thế của những sự đóng đinh vào giá chữ thập, mê ly, trang nghiêm và sâu đậm theo nhịp điệu mạnh dần. Tuy vậy, dù cái âm nhạc đó, giống như toàn bộ âm nhạc Tin lành, luôn giữ một cái gì đó nghiêm khắc, quả quyết và không khoan nhượng. Những làn sóng âm thanh, với sự đam mê ít sâu sắc hơn lòng hy sinh, yêu cầu, khẩn nài sự chối bỏ tình yêu, sự chối bỏ cuộc sống, cấm đoán người khác được yêu, được sống, đòi hỏi cái chết, như thể cái chết là một ân huệ không bằng. Như thể những người, vì bị cho vào khuôn phép bởi những điều trên, những điều mà cái âm nhạc đó khen ngợi và tượng trưng, chấp nhận cái âm nhạc đó, ca tụng nó, sử dụng chính sự ca tụng này để trả thù những gì đã tạo ra con người họ như thế này. Trong khi nghe, ông có vẻ nhận ra trong cái âm nhạc đó một sự suy tôn của lịch sử chính ông, của chính xứ sở ông, của chính dòng máu ông luân lưu trong huyết quản: những người mà ông xuất thân và giữa họ ông sống, và họ không bao giờ có thể nếm mùi lạc thú hay chịu đựng tai họa, mà cũng không thể trốn khỏi cái này hay cái kia nếu không muốn cãi lộn ầm ĩ về nó. Lạc thú, trạng thái mê ly, họ có vẻ không thể chịu đựng nó: để thoát khỏi nó, họ chỉ biết con đường bạo lực, rượu chè be bét, các cuộc đánh lộn và những lời nguyện cầu; đối với tai họa thì cũng vậy, vẫn là sự bạo lực giống hệt nhau và chắc là không có lối thoát Và trong những điều kiện như vậy, tại sao đạo giáo của họ lại không thúc đẩy họ tự đóng đinh mình hay đóng đinh lẫn nhau vào thập giá? ông nghĩ. Ông có cảm tưởng mình nghe được bên trong cái âm nhạc đó lời tuyên bố và sự hiến dâng của cái hành động này mà họ biết mình buộc phải làm ngày mai. Ông có cảm tưởng là cái tuần lễ đang chấm dứt này thì đã bỏ trốn như dòng nước chảy xiết; và cái tuần lễ tiếp theo, cái tuần sẽ bắt đầu vào ngày mai đó, là vực thẳm, và bây giờ, bên bờ thác, dòng nước lại kêu lên một tiếng được hòa lẫn thành tiếng duy nhất, rền vang và nghiêm khắc, không phải để biện minh nhưng để kêu lên lời chào từ biệt cuối cùng trước khi tự nó lao mình xuống, lời chào không phải trước một vị thần nào mà trước người đàn ông bị sa địa ngục, bị giam hãm sau song sắt xà lim, lời chào gần đến mức ông có thể nghe được, không những từ ngôi nhà thờ này mà còn từ hai nhà thờ khác, cũng sẵn sàng dựng lên cây thập giá để đóng đinh ông. 'Và họ sẽ làm chuyện này một cách vui sướng, hả hê,' ông nói, vẫn ngồi bên cái cửa sổ tối tăm. Ông cảm thấy các cơ miệng, cơ hàm của ông co giật dưới cái gì đó giống như sự linh cảm, cái gì đó còn kinh khiếp hơn cái cười. 'Họ sẽ làm chuyện này một cách vui sướng, hả hê, bởi vì tỏ ra thương xót hắn là thừa nhận có sự hoài nghi chính mình, là còn hy vọng ở lòng thương xót, là còn cần lòng thương xót cho chính mình. Vậy là họ sẽ vui sướng, hả hê. Và chính vì vậy mà điều này thì kinh khiếp, kinh khiếp, kinh khiếp quá.' Rồi khom người ra trước, ông thấy ba người đến gần và rẽ vào cổng nhà, bóng của họ bây giờ nổi rõ dưới ánh đèn đường, giữa các mảng bóng tối. Ông đã nhận ra Byron và ông nhìn đến hai người đi sau anh. Ông thấy rõ đó là một người đàn ông và một người đàn bà, mặc dù, trừ ra cái váy mà một người mặc, họ hầu như có thể thay đổi lẫn nhau: chiều cao và bề ngang của họ khiến họ trông như to gấp đôi một người đàn ông hay đàn bà bình thường, giống như hai con gấu. Ông cười trước khi có thì giờ ngừng lại. 'A, Byron chỉ còn thiếu cái khăn tay trên đầu và một đôi bông tai,' ông vừa nghĩ, vừa cười, cười mà không ra tiếng, vì ông cố kiềm chế để đi ra cửa mà Byron sắp gõ.

***

Byron dẫn họ vào phòng làm việc - người đàn bà béo lùn trong cái áo đầm tím và cái lông chim, tay cầm dù, với bộ mặt hoàn toàn bất động, và người đàn ông bẩn thỉu không thể tin được và có vẻ già không thể tin được, với bộ râu cằm vấy bẩn thuốc lá và cặp mắt điên dại. Họ đi vào, không rụt rè chút nào, nhưng hơi giống những con rối được chuyển động bằng những lò xo làm vụng. Người đàn bà có vẻ tự tin hơn, hay ít nhất có ý thức hơn, trong hai người. Như thể, mặc dù có sự trì trệ lạnh cứng được xoay chuyển một cách máy móc này, bà đến với một mục đích rõ ràng hay ít ra, với một hy vọng mơ hồ. Nhưng ông thấy ra tức khắc là người đàn ông đang ở trong tình trạng gần như hôn mê, như thể không nhớ tới hay hoàn toàn lãnh đạm với những gì xung quanh mình. Tuy vậy, người ta cảm thấy ông ta có cái gì đó ngấm ngầm và dễ bùng nổ, mê mải và tỉnh táo cùng lúc: cả một nghịch lý đó.

"Bả đó," Byron nói nhẹ nhàng. "Đây là bà Hines."

Họ đứng đó, cả hai người, bất động: người đàn bà có vẻ như đã đến nơi sau một chuyến đi dài, và bây giờ giữa những khuôn mặt và những nơi chốn xa lạ, đang chờ đợi trong im lặng, mặt lạnh giá như một tượng đá được sơn phết; và lão già bẩn thỉu, điềm tĩnh, mải mê nhưng mang đầy bên trong một sự giận dữ ngấm ngầm. Người này cũng như người kia dường như không nhìn Hightower, với sự tò mò hay không. Ông đưa tay chỉ các chiếc ghế. Byron đưa người đàn bà tới ghế và bà ngồi xuống một cách thận trọng, tay vẫn giữ chặt cái dù. Người đàn ông ngồi ngay xuống. Hightower chọn cái ghế sau bàn giấy. "Bà ấy muốn nói với tôi chuyện gì đây?" ông nói.

Người đàn bà không cử động. Chắc là bà không nghe. Bà giống như ai đó đã hoàn thành một chuyến đi khó nhọc vì cậy vào một lời hứa và bây giờ buông xuôi hoàn toàn và chờ đợi. "Ổng đó," Byron nói. "Đây là mục sư Hightower. Nói với ổng đi. Nói những gì mà ông bà muốn ổng biết." Bà nhìn Byron khi anh nói, mặt bà ngây ra. Nếu có một điều không được diễn đạt bằng lời nói sau bộ mặt này thì đó là một điều không được diễn đạt bằng lời nói bị vô hiệu bởi sự bất động trên chính bộ mặt đó; nếu có một hy vọng nào đó, một ham muốn nào đó thì hy vọng này, ham muốn này không hiện ra. "Nói với ổng đi," Byron nói. "Nói với ổng tại sao ông bà đến đây. Nói với ổng ông bà đến Jefferson để làm gì."

"Đó là vì - " bà nói. Giọng bà thì đột ngột và trầm, gần như khàn khàn, tuy không to. Bà hình như ngạc nhiên thấy mình gây ra ồn ào đến vậy khi nói; bà ngừng nói, tỏ ra ngạc nhiên thực sự như thể tiếng động từ giọng nói bà đã chặn bà lại, và bà nhìn mặt người này đến mặt người kia.

"Nói tôi nghe," Hightower nói. "Cố gắng nói tôi nghe đi."

"Đó là vì tôi..." Giọng nói lại ngừng lần nữa, chết đứng, khàn khàn nhưng không được đưa lên cao, chết đứng vì chính sự ngạc nhiên của nó. Như thể bốn từ đó tạo ra một chướng ngại vật tự động mà giọng nói của bà không thể vượt qua; họ hầu như có thể thấy bà sắp xếp các ý nghĩ để vượt qua cái đó. "Từ khi nó biết đi, tôi đã không bao giờ thấy nó," bà nói. "Trong ba mươi năm tôi đã không bao giờ thấy nó. Không bao giờ thấy nó một lần bước đi trên đôi chân riêng của nó và dùng tên riêng của chính nó - "

"Chó má và ghê tởm quá đi!" người đàn ông đột ngột nói. Giọng lão thì cao, lanh lảnh và mạnh mẽ. "Chó má và ghê tởm quá đi!" Rồi lão im. Lão chỉ ra khỏi trạng thái mộng du để hét lên những từ này với sự đột ngột mang tính thóa mạ và tiên tri, và tất cả chỉ có vậy. Hightower nhìn lão, rồi nhìn Byron. Byron nói nhỏ nhẹ:

"Y là đứa con của con gái họ. Ông này -" anh chỉ lão Hines bằng cái hất đầu nhẹ. Lão bây giờ đang nhìn Hghtower với ánh mắt sáng rỡ, điên dại - "ổng lấy nó đi ngay sau khi nó sanh ra, mang nó đi đâu mất tiêu. Bà đây không biết ổng làm gì với nó. Bả thậm chí chẳng hề biết nó còn sống hay không cho tới khi -"

Lão già lại xen vô giữa chừng, với cùng sự đột ngột gây sửng sốt. Nhưng lần này lão không hét to: giọng lão bây giờ thì điềm tĩnh và hợp lẽ như Byron. Lão nói rõ ràng, tuy có chút nhát gừng: "Đúng vậy. Lão Doc Hines đã lấy nó đi. Chúa cho lão Doc Hines cơ hội tốt nhất để hành động và như vậy lão Doc Hines cũng cho Chúa cơ hội để hành động. Và từ miệng trẻ con, Chúa đã biểu lộ ý muốn của Ngài. Trước sự hiện diện của Chúa và của người đời, những đứa trẻ con la hét thẳng vào mặt nó Đồ mọi đen! Đồ mọi đen! Đó là một cách bày tỏ ý Chúa. Và lão Doc nói với Chúa, 'Nhưng thế vẫn chưa đủ. Những đứa bé còn gọi nhau bằng những tiếng tệ hại hơn mọi đen nhiều,' và Chúa nói, 'Hãy chờ rồi con sẽ thấy, bởi vì Ta không có thì giờ để phí với tất cả những thứ bẩn thỉu và chó má của thế gian. Ta đã đánh dấu nó và bây giờ Ta sẽ giúp nó hiểu biết. Và Ta đặt con ở đó để mà con theo dõi nó, để mà con giữ gìn ý Ta. Đó là bổn phận của con trông nom việc này và quan sát.' " Tiếng lão ngừng lại. Lão không hạ giọng chút nào. Tiếng lão chỉ ngừng lại, y chang như cây kim của cái máy hát đang chạy bị nhấc lên bởi một bàn tay của ai đó không lắng nghe dĩa hát. Hightower đưa mắt từ lão sang Byron, ánh nhìn thì cũng gần như điên.

"Chuyện gì đây? Chuyện gì đây?" ông nói.

"Tôi đã tính đưa bả tới đây một mình nói chuyện với ông, không có lão đi theo," Byron nói. "Nhưng không có chỗ nào để lão ở lại cả. Bả nói bả phải theo dõi lão. Hôm qua, ở dưới Mottstown, lão đã ra sức kích động đám đông để họ hành hình y theo kiểu lin-chơ, mà lão thậm chí không nhận ra việc lão đã làm."

"Hành hình y theo kiểu lin-chơ sao?" Hightower nói. "Hành hình theo kiểu lin-chơ đứa cháu ngoại của lão sao?"

"Bả nói vậy đó," Byron nói, giọng đều đều. "Bả nói vì chuyện đó mà lão đến đây. Và để ngăn cản lão làm chuyện đó mà bả đi cùng lão đến đây."

Người đàn bà bắt đầu nói lại. Có lẽ bà đã và đang nghe. Nhưng bộ mặt bà bây giờ cũng không biểu cảm hơn lúc bà vào nhà; mặt trơ như gỗ, bà lên tiếng bằng cái giọng đục, hầu như cũng đột ngột như chồng bà. "Cả năm mươi năm nay ổng cứ như vậy. Hơn năm mươi năm đó chớ, nhưng tôi chỉ đau khổ từ năm mươi năm nay. Ngay cả trước khi tụi tôi lấy nhau, ổng lúc nào cũng gây gổ, cũng đánh nhau rồi. Ngay cái đêm mà Milly sinh ra, ổng bị giam trong tù vì đánh lộn. Đó là điều tôi đã và đang chịu đựng, đã và đang đau khổ. Ổng nói ổng phải đánh nhau bởi vì ổng nhỏ con hơn phần lớn đàn ông khác nên người ta cứ ăn hiếp ổng. Đó là tính kiêu căng và lòng tự hào của ổng. Nhưng tôi nói với ổng là ổng bị quỷ ám. Và một ngày kia quỷ sứ sẽ đến gặp ổng nhưng ổng không biết cho tới khi đã quá trễ, và quỷ sứ sẽ nói với ổng, 'Này Eupheus Hines, tao đến đòi nợ đây.' Đó là điều tôi nói với ổng, vào cái ngày tiếp theo ngày Milly sinh ra và tôi thì còn quá yếu để ngẩng đầu dậy, và ổng thì vừa mới ra khỏi tù lần nữa. Tôi đã nói với ổng như vậy. Tôi giải thích cho ổng nghe là Chúa đã báo điềm, đã cảnh báo ổng: sự việc ổng bị giam trong tù đúng vào cái giờ, vào cái phút con gái ổng sinh ra là dấu hiệu riêng của Chúa để nói ra rằng trời cao đất dày đã không bao giờ nghĩ là ổng xứng đáng để nuôi dạy một đứa con gái. Một dấu hiệu của Chúa trên trời là sống ở thành phố (ổng hồi đó làm nghề gác phanh xe lửa) thì chỉ có thể làm hại ổng thôi. Và chính ổng cũng nhận ra như vậy, bởi vì đó là một dấu hiệu, và tụi tôi dọn đi ra khỏi các thành phố và sau một thời gian thì ổng tìm được một chỗ làm cai thợ trong một xưởng cưa. Ổng làm việc tốt lúc đó vì ổng chưa bắt đầu đem Chúa ra chứng giám mà thề thốt lung tung một cách hãnh diện vô ích để biện minh và dung thứ cho cái thằng quỷ sứ nó ở bên trong ổng. Vậy là vào cái đêm mà chiếc xe la của ông hàng xóm Lem Bush từ rạp xiếc đi qua nhà tụi tôi mà không ngừng lại để Milly xuống, khi Eupheus, sau khi về đến nhà, bắt đầu lục lọi các ngăn kéo để tìm cho ra khẩu súng lục, tôi nói, 'Eupheus, đó là quỷ sứ đó nghe. Đâu có phải sự an toàn của Milly làm ông bồn chồn bây giờ,' và ổng nói, 'Quỷ sứ hay không quỷ sứ. Quỷ sứ hay không quỷ sứ,' và ổng đánh tôi bằng bàn tay và tôi té xuống giường và nhìn ổng -" Bà ngừng. Giọng bà bất ngờ hạ xuống như dĩa hát đang chạy trên máy bỗng tắt nửa chừng. Một lần nữa, Hightower nhìn từ bà sang Byron, mặt rõ ràng lộ vẻ ngạc nhiên.

"Tôi cũng nghe người ta kể lại như vậy," Byron nói. "Thoạt đầu, thật cũng khó cho tôi để biết được cho đúng. Họ ở trong một xưởng cưa, nơi ổng làm cai thợ đó, dưới Arkansas. Cô gái thì mười tám tuổi lúc đó. Một đêm có gánh xiếc đi qua xưởng cưa, trên đường vào thành phố. Khi đó là tháng mười hai và trời cứ mưa hoài, một trong những chiếc xe la khi đi qua cầu gần xưởng cưa thì bị gãy cái gì đó và những người đàn ông đến nhà họ mượn cái pa-lăng để trục xe lên -"

"Đó là sự ghê tởm của Chúa đối với da thịt đàn bà!" lão già đột ngột la lên. Rồi giọng lão hạ xuống và ngừng hẳn, như thể lão chỉ muốn gây chú ý. Rồi lão bắt đầu nói lại, nhanh, giọng nghe tự nhiên, mơ hồ, cuồng tín, nói về mình bằng ngôi thứ ba. "Lão biết. Lão Doc Hines biết. Lão đã thấy dấu hiệu của sự ghê tởm của Chúa trên thân xác của mọi con đàn bà. Lão đã thấy nó trên da thịt đứa con gái, dưới lớp áo quần. Vậy là khi lão trở lại, sau khi đi ra mặc áo mưa và thắp cái đèn xách, nó đã đứng ở cửa, cũng đã mặc áo mưa, và lão nói, 'Mày trở về giường ngủ lại đi,' và nó nói, 'Con cũng muốn đi nữa,' và lão nói, 'Mày trở lại trong phòng đó đi,' và nó vào lại phòng và lão đi xuống lấy cái pa-lăng ở xưởng cưa và kéo chiếc xe ra. Lão đã làm cho tới khi trời rạng sáng, tin là nó đã tuân lệnh người cha mà Chúa đã ban cho nó. Nhưng đáng lẽ lão phải biết. Đáng lẽ lão phải biết sự ghê tởm của Chúa đối với da thịt đàn bà; đáng lẽ lão phải nhận ra cái hình dạng di động của sự chó má và sự ghê tởm đã bốc mùa hôi hám trước mặt Chúa. Ai dám nói thẳng với lão Doc Hines, một người chẳng ngu si gì, rằng thằng đó là người Mễ, trong khi lão Doc Hines có thể thấy trên mặt thằng đó lời nguyền rủa đen đúa của Chúa toàn năng. Nói với lão -"

"Cái gì?" Hightower nói. Ông nói to, như thể ông đã đoán là ông phải làm át tiếng nói của người kia bằng cách đơn giản là tăng âm lượng. "Tất cả chuyện này là sao?"

"Đó là một tên làm việc trong gánh xiếc," Byron nói. Cổ nói với lão tên đàn ông đó là một người Mễ. Con gái lão nói vậy với lão khi lão bắt được cổ. Có lẽ đó là lời của tên đó nói với cô gái. Nhưng lão" - anh lại chỉ lão già - "biết bằng cách này hay cách nọ là tên đó có máu mọi đen trong người. Có lẽ những người trong gánh xiếc nói lại với lão. Tôi không biết. Lão không hề thố lộ lão biết ra điều đó khi nào, làm như cái chi tiết này không quan trọng. Và tôi cho là đúng như vậy, sau đêm tiếp theo."

"Đêm tiếp theo?"

"Tôi cho là cổ lẻn ra khỏi nhà đêm đó khi gánh xiếc bị kẹt trên cầu. Ít ra đó là lời lão nói. Dù gì đi nữa, lão xử sự như thể có thật như vậy và chuyện mà lão làm thì đã không thể xảy ra nếu lão không biết và nếu cổ không lẻn ra khỏi nhà. Bởi vì ngày hôm sau cổ đi coi xiếc với vài người hàng xóm. Lão để cho cổ đi, bởi vì lúc đó lão không biết là cổ đã lẻn ra khỏi nhà vào đêm trước. Lão không nghi ngờ gì, ngay cả khi cổ ra khỏi nhà để leo lên chiếc xe la của người hàng xóm, ăn mặc đẹp như cho ngày chủ nhật. Nhưng đêm đó, lão chờ chiếc xe la trở về. Lão nghe nó đến gần trên con lộ và đi ngang qua nhà như thể nó không sắp sửa ngừng lại để cho cổ xuống. Và lão chạy ra ngoài, lão gọi to và người hàng xóm cho xe dừng lại và cô gái không có trong xe. Người hàng xóm nói cổ đã chia tay họ ở rạp xiếc để qua đêm với một cô gái khác ở cách đó sáu dặm, và người hàng xóm tỏ vẻ ngạc nhiên là Hines không biết gì cả, bởi vì y nói rằng cô gái có mang theo một cái túi du lịch khi leo lên chiếc xe la. Hines đã không thấy cái túi đó. Và bả -" lần này anh chỉ người đàn bà mặt bất động như đá; bà có lẽ nghe hay có lẽ không nghe lời anh nói - "bả nói là quỷ sứ dẫn dắt lão. Bả nói là lão cũng như bả, không thể biết cô gái ở đâu vào lúc đó; ấy vậy mà lão quay vào nhà, lấy ra khẩu súng lục và đánh bả té xuống giường khi bả ra sức ngăn chặn lão và thắng yên con ngựa và cưỡi đi. Và bả nói lão đã đi con đường tắt duy nhất cho phép lão bắt kịp họ. Lão đã chọn nó trong bóng tối, giữa nửa tá con đường tắt như vậy. Nhưng mà lão đâu có cách nào để biết họ đã đi theo con đường nào. Nhưng lạ thay, lão biết. Lão tìm ra họ, như thể lúc nào lão cũng biết chính xác họ ở đâu, như thể lão và tên đàn ông mà cô gái nói là người Mễ đó đã hẹn nhau gặp ở đó. Người ta hẳn sẽ nói là lão biết. Trời thì tối như mực, và ngay cả khi bắt kịp chiếc xe độc mã, lão cũng không có cách nào để biết đó có phải là chiếc xe lão đang tìm không. Nhưng lão cho ngựa phi nhanh đến ngay sau nó, chiếc xe độc mã đầu tiên lão thấy trong đêm đó. Lão tiến lên bên phía tay mặt và lão khom người, vẫn trong bóng tối dày đặc, và không mở miệng nói ra một lời, không dừng ngựa, lão chộp lấy tên đàn ông; y hẳn có thể là một người xa lạ hay người hàng xóm, vì rằng tất cả những gì lão đã có thể biết thì chỉ nhờ vào mắt và tai mình. Một tay chộp y, một tay gí súng vào người y, lão bắn y chết và đưa con gái trở về nhà trên ngựa, ngồi sau lưng. Lão bỏ cả chiếc xe độc mã lẫn xác chết ở lại đó, trên con lộ. Trời cũng bắt đầu mưa lại."

Anh ngừng. Ngay lập tức, người đàn bà bắt đầu nói, làm như bà đã nóng ruột đợi cho Byron ngừng nói. Bà nói cùng với cái giọng đục, đều đều: hai cái giọng trong khúc đầu[105] và khúc hồi[106] đơn điệu: hai cái giọng không thân thể kể lại, như trong cơn mơ, một sự kiện được hoàn thành trong một xứ sở không kích thước, bởi những con người không máu huyết: "Tôi nằm ngang giường và tôi nghe ổng đi ra khỏi nhà rồi tôi nghe con ngựa ra khỏi chuồng và chưa gì đã phi nước đại qua nhà. Và tôi cứ nằm đó, không cởi áo quần, cứ nhìn ngọn đèn. Dầu trong đèn cạn dần, sau một lát tôi đứng dậy và tôi mang đèn vào bếp để đổ thêm dầu và chùi sạch cái bấc rồi tôi cởi áo quần và nằm xuống với ngọn đèn đang sáng. Trời vẫn còn mưa và cũng lạnh nữa và sau một lát tôi nghe con ngựa trở lại trong sân, ngừng ở hàng hiên, và tôi đứng dậy, quàng cái khăn san lên người và tôi nghe họ đi vào nhà. Tôi có thể nghe tiếng chân của Eupheus rồi tiếng chân của Milly, họ đi theo hành lang đến cửa, và Milly đứng đó, tóc tai mặt mũi đẫm nước mưa và chiếc áo đầm mới thì lấm bùn khắp nơi, cặp mắt thì nhắm ghiền, rồi thì Eupheus đánh nó và nó té xuống sàn nhà, nằm đó, và vẻ mặt nó trông cũng giống như khi nó đứng. Và Eupheus đứng ở cửa, người cũng đẫm nước mưa và bùn, và ổng nói, 'Bà đã nói tôi làm cái công việc của quỷ sứ. Vậy thì tôi mang trở lại cho bà vụ mùa mà quỷ sứ đã dành sẵn. Bà hãy hỏi nó đang mang cái gì trong bụng. Hỏi nó đi.' Và tôi thì quá mệt, và trời thì lạnh, và tôi nói, 'Xảy ra chuyện gì vậy?' và ổng nói, 'Đi xuống dưới đó và nhìn xuống đám bùn và bà sẽ thấy. Hắn đã có thể đánh lừa nó là hắn người Mễ. Nhưng hắn không bao giờ đánh lừa được tôi. Hắn cũng không bao giờ đánh lừa nó. Hắn không bao giờ cần phải làm vậy. Vì có một lần bà nói là một ngày kia quỷ sứ sẽ đến tìm tôi để đòi nợ. Vậy thì tôi nói: quỷ sứ đã đến rồi đó. Bà vợ quý của tôi đã đẻ cho tôi một con điếm. Nhưng ít nhất quỷ sứ đã làm hết sức mình khi thời điểm trả nợ đến. Quỷ sứ đã chỉ đúng đường cho tôi, và giữ cho khẩu súng lục được vững khi bắn.'

"Và như vậy, đôi khi tôi tình cờ nghĩ đến chuyện quỷ sứ thắng được Chúa. Bởi vì tụi tôi phát hiện ra là Milly sắp có con và Eupheus bắt đầu đi tìm bác sĩ để lo chuyện sinh nở. Tôi tin là ổng sẽ tìm ra một bác sĩ, và đôi khi tôi nghĩ như vậy thì tốt hơn, nếu đàn ông và đàn bà, như con người, phải sống trên thế gian này. Và đôi khi tôi hy vọng ổng sẽ tìm ra, bởi vì tôi đã quá mệt mỏi sau khi vụ xét xử chấm dứt, ông chủ gánh xiếc trở lại và nói với tụi tôi là tên đàn ông đó thực sự có máu mọi đen, chớ y không phải người Mễ. Và điều này, thì Eupheus luôn miệng nói ra như vậy, làm như quỷ sứ đã nói với Eupheus y là mọi đen. Và Eupheus lại xách theo khẩu súng và nói ổng sẽ tìm ra một bác sĩ hay giết quách một ông, ổng ra đi và ổng đôi khi vắng mặt cả đến một tuần lễ, và rồi mọi người đều biết chuyện này, và tôi tìm cách thuyết phục Eupheus dọn đi khỏi vùng này bởi vì đó chỉ là một tên chủ gánh xiếc nói y là mọi đen và có lẽ ông ta cũng không chắc chắn lắm về điều này, và hơn nữa ông ta cũng đã bỏ đi và rất có thể là tụi tôi sẽ không bao giờ gặp lại ông ta. Nhưng Eupheus không chấp nhận dọn đi chỗ khác, và Milly sắp sinh đến nơi rồi và Eupheus với khẩu súng lục đó đang cố gắng tìm bác sĩ cho việc đỡ đẻ. Rồi sau đó tôi biết ra là ổng lại bị tù lần nữa; tôi biết ra là ổng đi vào trong các nhà thờ, trong buổi lễ cầu nguyện ở các địa điểm khác nhau, nơi mà ổng cố gắng tìm một bác sĩ, rồi vào một buổi tối ổng đứng lên trong khi người ta đang cầu nguyện, ổng leo lên bục giảng và chính ổng bắt đầu giảng đạo, la hét chống bọn mọi đen, kêu gọi dân da trắng nổi dậy để giết chúng, không chừa một ai, và các đạo hữu đã làm ổng câm miệng lại, kéo ổng xuống khỏi bục giảng và ổng lại rút súng ra đe dọa họ, ngay trong nhà thờ, cho tới khi cảnh sát đến bắt giữ ổng, và trong một lúc ổng cứ như là thằng điên. Và khi họ phát hiện ra là ở một thành phố khác, ổng đã nện cho ông bác sĩ nào đó một trận rồi bỏ chạy trước khi họ kịp tóm ổng. Vậy là khi ổng ra khỏi nhà tù và quay về nhà thì Milly sắp sanh rồi. Và vào lúc đó tôi nghĩ là ổng đã chịu thua, cuối cùng thì ổng cũng đã thấy ý Chúa, bởi vì ổng ở yên trong nhà, và một hôm ổng thấy ra các quần áo tã lót mà tôi và Milly đã sửa soạn sẵn và giấu ổng, và ổng không nói gì hết, ngoại trừ hỏi thăm khi nào thì Milly đẻ. Ổng hỏi thăm mỗi ngày, và tụi tôi nghĩ là ổng đã chịu thua, là việc đi nhà thờ và đi tù lần nữa đã hòa giải con người ổng như vào cái đêm mà Milly ra đời. Và vậy là thời hạn sinh nở đến và một đêm Milly đánh thức tôi dậy, nói là đã bắt đầu chuyển bụng và tôi mặc đồ và biểu Eupheus đi gọi bác sĩ và ổng mặc đồ rồi ra khỏi nhà. Và tôi đã sửa soạn mọi thứ và tụi tôi chờ, rồi cái giờ mà đáng lẽ Eupheus và ông bác sĩ phải quay về nhà đến rồi đi, và Eupheus vẫn không trở lại, và tôi vừa đợi, vừa nghĩ là ông bác sĩ chẳng bao lâu nữa sẽ đến thôi rồi tôi đi ra cái hiên trước để ngóng và tôi thấy Eupheus đang ngồi trên bậc tam cấp cao nhất, với khẩu súng ngắn đặt trên đùi, và ổng nói, 'Vào trong cái nhà đó đi, mẹ con điếm!', và tôi nói, 'Eupheus,' và ổng đưa súng lên và nói, 'Vào trong cái nhà đó đi. Để cho quỷ sứ gặt hái vụ mùa của ổng đi: chính ổng đã gieo giống đó mà." Và tôi thử đi ra ngoài bằng cửa sau nhưng ổng nghe tôi và chạy vòng ra sau nhà, tay cầm súng, và ổng đánh tôi bằng cái nòng súng, tôi quay lại với Milly và ổng đứng bên ngoài cánh cửa hành lang, từ chỗ đó ổng có thể thấy Milly cho tới khi nó chết. Và rồi ổng đến gần giường, nhìn đứa bé mới sinh rồi đưa tay cầm nó, đưa nó lên, cao hơn ngọn đèn, làm như ổng đang chờ xem ai sẽ thắng, quỷ sứ hay Chúa. Nhưng tôi thì mệt quá sức, ngồi bên cạnh giường, nhìn cái bóng ổng trên tường và cái bóng của hai cánh tay ổng và của cái gói nhỏ ở trên cao trên tường. Và lúc đó tôi nghĩ là Chúa đã thắng. Nhưng bây giờ thì tôi không biết nữa. Bởi vì ổng đặt lại đứa bé xuống giường, bên cạnh Milly rồi ổng bỏ đi. Tôi nghe ổng ra khỏi nhà bằng cửa ra vào, và tôi đứng dậy, tôi bật lửa bếp và tôi hâm sữa cho nóng." Bà ngừng; cái giọng khàn khàn, vo vo của bà lụi tàn. Từ bên kia bàn giấy Hightower nhìn bà: người đàn bà với khuôn mặt bất động như đá, trong cái áo đầm tím, đã không hề cử động từ khi vô phòng. Rồi bà bắt đầu nói lại, vẫn bất động, môi hầu như không mấp máy, như một con rối với giọng nói của một người nói tiếng bụng ở phòng bên cạnh.

"Và Eupheus biến mất tiêu. Ông chủ xưởng cưa cũng không biết ổng đi đâu. Và ông ta nhận một cai thợ mới vào làm nhưng vẫn để tôi ở cái nhà đó thêm một thời gian nữa, bởi vì ông ta và tôi không biết Eupheus ở đâu, và mùa đông đang đến gần và tôi phải nuôi đứa bé mới sinh. Và tôi chẳng biết gì hơn ông Gillman về chuyện Eupheus ở đâu, cho tới khi có một lá thư đến nhà. Nó đến từ Memphis, bên trong là một tờ séc bưu chính, và không gì khác. Vậy là tôi vẫn không biết gì hơn. Rồi vào tháng mười một, một tấm séc khác đến nhưng không có thư hay gì khác. Và tôi thì quá mệt mỏi, rồi hai ngày trước lễ Giáng sinh tôi ra ngoài sân sau bổ củi, và khi tôi vào lại trong nhà thì em bé đã biến mất. Tôi đã ở ngoài sân chưa đầy một tiếng đồng hồ, lẽ ra tôi phải thấy ổng đi vào và đi ra khỏi nhà. Nhưng tôi đã không thấy. Tôi chỉ thấy ra lá thư ở chỗ Eupheus đã để lại, trên cái gối mà tôi đặt giữa mép giường và em bé để nó khỏi bị rớt xuống giường, và tôi thì quá mệt mỏi. Và tôi chờ đợi, và sau Giáng sinh thì Eupheus về lại nhà, ổng không chịu nói ra với tôi. Ổng chỉ nói là tụi tôi sắp sửa dọn nhà, và tôi nghĩ ổng đã đưa em bé tới đó và bây giờ ổng quay về để đưa tôi tới đó. Ổng không nói ra với tôi chỗ nào tụi tôi sẽ tới ở nhưng chỉ nói là sẽ dọn nhà sớm thôi, và tôi thì lo lắng đến phát điên khi nghĩ đến em bé sống làm sao cho đến khi tụi tôi tới đó, ổng vẫn không chịu nói ra với tôi và tôi tin là tụi tôi sẽ không bao giờ tới đó cả. Rồi cuối cùng tụi tôi tới đó, và em bé không có đó, tôi nói, 'Ông hãy nói cho tôi biết ông đã làm gì với thằng Joey. Ông phải nói cho tôi biết,' và ổng nhìn tôi giống như ổng nhìn Milly vào cái đêm đó, khi nó nằm trên giường và chết, ổng nói, 'Đó là sự ghê tởm của Chúa Trời và tôi là công cụ của ý Ngài.' Và ổng bỏ đi vào ngày hôm sau, tôi không biết ổng đi đâu, và một tấm séc khác lại đến, rồi tháng sau đó Eupheus quay về nhà và nói ổng làm việc ở Memphis. Và tôi biết ổng giấu Joey đâu đó ở Memphis và tôi nghĩ rằng đó cũng là cái gì rồi bởi vì ổng có thể ở đó mà chăm lo cho Joey, dù tôi không ở đó. Tôi biết là tôi phải chờ theo ý muốn tùy tiện của Eupheus để biết, và mỗi lần như vậy tôi nghĩ là có lẽ lần tới ổng sẽ dẫn mình đi Memphis với ổng. Và vậy là tôi chờ đợi. Tôi cắt, tôi may các bộ quần áo cho Joey, và tôi đã may xong, sẵn sàng khi Eupheus về nhà và tôi tìm cách làm cho ổng nói các bộ quần áo đó có vừa với Joey không và nó có được khỏe mạnh không và Eupheus không trả lời tôi. Ổng ngồi, đọc rõ to cuốn Kinh thánh nhưng không có ai ở đó mà nghe trừ tôi ra, vừa đọc vừa đoán các ý tưởng trong Kinh thánh và ổng la hét ầm ĩ, như thể ông tin là tôi không tin những gì Kinh thánh nói. Nhưng ổng không chịu nói ra với tôi cả năm năm và tôi không bao giờ biết được ổng có đưa cho Joey các bộ đồ tôi may không. Và tôi không dám hỏi ổng vì sợ làm ổng khó chịu, bởi vì đó cũng là cái gì rồi, tức là việc ổng ở chỗ mà Joey ở, dù tôi không ở đó. Và rồi sau năm năm, ổng về nhà một ngày nọ và ổng nói, 'Bà sửa soạn dọn nhà với tôi đi!' và tôi nghĩ bây giờ là đã đến lúc rồi, là cuối cùng tôi sắp sửa gặp lại Joey; nếu đó quả là một tội lỗi thì tôi cho là giờ này tụi tôi đã đền tội xong xuôi rồi, và tôi thậm chí tha thứ cho Eupheus. Bởi vì tôi nghĩ rằng lần này tụi tôi rốt cuộc đi Memphis. Nhưng không phải Memphis, mà là Mottstown, chỗ tụi tôi đến. Tụi tôi đã phải đi ngang qua Memphis, và tôi van nài ổng. Đó là lần đầu tiên tôi mở miệng van nài ổng. Nhưng lần này tôi làm vậy, chỉ một phút, một giây; tôi van nài ổng, không phải để cho tôi được vuốt ve Joey, không phải để được nói chuyện với Joey, không gì cả. Nhưng Eupheus không chịu. Tụi tôi thậm chí không ra khỏi nhà ga. Tụi tôi xuống tàu ở Memphis và ngồi đợi đổi tàu đến bảy tiếng đồng hồ mà không rời nhà ga, và tụi tôi đi đến Mottstown. Và Eupheus không bao giờ trở lại làm việc ở Memphis nữa, và sau một thời gian, tôi nói, 'Eupheus,' và ổng nhìn tôi và tôi nói, 'Tôi đã tỏ ra kiên nhẫn suốt năm năm nay và tôi đã không bao giờ làm phiền ông. Vậy ông có thể nói cho tôi nghe, chỉ một lần một thôi, nó đã chết hay còn sống?' và ổng nói, 'Nó chết rồi,' và tôi nói, 'Chết rồi đối với thế giới người sống hay đối với riêng tôi thôi? Nếu nó chỉ chết rồi đối với tôi, thì ông hãy nói ra cho tôi nghe. Ít nhất, hãy nói ra điều đó với tôi, bởi vì tôi đã không làm phiền ông từ năm năm nay,' và ổng nói, 'Nó đã chết đối với bà, và đối với tôi, và đối với Chúa, và đối với nước Chúa, mãi mãi và mãi mãi.' "

Bà ngừng lại lần nữa. Từ bên kia bàn giấy, Hightower nhìn bà với nỗi ngạc nhiên thầm lặng và tuyệt vọng. Byron cũng bất động, đầu hơi cúi xuống. Cả ba người thì giống như ba tảng đá ngang mực nước, ở trên một bãi biển khi thủy triều xuống, trừ lão Doc ra. Lão giờ nghe gần như một cách chăm chú bằng cái khả năng đặc biệt của lão là chuyển được tức thời từ sự chú ý cao độ mà có vẻ như không nghe, sang trạng thái sửng sốt giống như hôn mê mà trong đó ánh nhìn trừng trừng của đôi mắt theo bề ngoài thì đảo ngược của lão, thì cũng khó chịu như khi thấy lão cầm đôi mắt đó trong tay. Bất thình lình lão la to lên với cái giọng khàn, vang và điên; lão nói, trông già không tin được, dơ dáy không tin được. "Đó là Chúa Trời. Chính Ngài, đích thân Ngài. Lão Doc Hines cũng cho Chúa một cơ hội duy nhất. Chúa Trời biểu lão Doc Hines phải làm gì và lão Doc Hines đã làm theo. Rồi Chúa Trời nói với lão Doc Hines, 'Con hãy nhìn cho kỹ, bây giờ. Và con sẽ thấy ý Ta được thực hiện.' Và lão Doc Hines đã nhìn, đã nghe từ miệng trẻ con, từ những đứa bé, mồ côi cha lẫn mẹ, riêng của Chúa mà Ngài đã đặt vào miệng chúng những lời của Ngài, sự hiểu biết của Ngài, ngay cả khi chúng không thể biết việc đó bởi vì chúng còn trong sạch, chưa có tội lỗi, cả đến những đứa bé gái chưa tội lỗi, chưa chó má: Mọi đen! Mọi đen! từ những cái miệng trong trắng của trẻ con. 'Ta đã nói cái gì với con?' Chúa nói với lão Doc Hines. 'Và bây giờ Ta để cho ý Ta được thực hiện, và bây giờ Ta đi đây. Ở đây thì không có đủ tội lỗi để làm Ta bận rộn bởi vì có hề chi đối với ta những tội gian dâm của một con đàn bà bẩn thỉu; những tội này cũng là một phần của mục đích của Ta,' và lão Doc Hines nói, 'Làm sao mà những tội gian dâm của một con đàn bà bẩn thỉu cũng là một phần của mục đích của Ngài được?' và Chúa nói, 'Con hãy chờ xem. Bộ con tin rằng đó chỉ là sự tình cờ mà Ta đã chọn tên bác sĩ trẻ đó để làm người tìm thấy sự ghê tởm của Ta được bao bọc trong tấm mền đó đặt trên bậc tam cấp đó vào đêm Giáng sinh đó hay sao? Bộ con cũng tin đó chỉ là sự tình cờ mà bà giám đốc lại vắng mặt vào đêm đó và để cho những con đàn bà bẩn thỉu trẻ tuổi có cơ hội đặt tên cho nó là Christmas, cái tên này là một sự xúc phạm nặng nề đối với Con Ta[107], hay sao? Vậy bây giờ Ta đi đây, bởi vì Ta đã để cho ý Ta được thực hiện và Ta có thể để con ở lại đây để theo dõi việc này.' Vậy là lão Doc Hines theo dõi và chờ đợi. Từ căn phòng đặt máy sưởi bằng nước nóng của riêng Chúa, lão theo dõi các đứa con nít và cái hạt giống di động của quỷ sứ giữa chúng mà mọi người không biết, nó làm ô nhiễm mặt đất bởi tác động của cái từ ngữ đó mà người ta ném vào mặt nó. Bởi vì bây giờ nó không còn chơi với những đứa trẻ khác. Nó đứng một mình, đứng yên một chỗ, và rồi lão Doc Hines biết là nó nghe từ bên trong nó lời cảnh báo kín đáo về sự trừng phạt của Chúa, và lão Doc Hines nói với nó, 'Tại sao mày không ra chơi với những đứa khác như trước kia?' và nó không mở miệng trả lời và lão Doc Hines nói, 'Có phải vì tụi nó gọi mày là mọi đen không?' và nó vẫn không trả lời và lão Doc Hines nói, 'Mày có tin mày là mọi đen bởi vì Chúa đã đánh dấu trên mặt mày không?' và nó mở miệng nói, 'Chúa cũng là mọi đen phải không?' và lão Doc Hines nói, 'Ngài là Chúa Trời của những đạo quân phẫn nộ[108]. Ý muốn của Ngài sẽ được thực hiện. Không phải ý muốn của mày, cũng không phải của tao, bởi vì mày và tao, cả hai tụi mình là một phần của mục đích của Ngài, một phần của sự trả thù của Ngài.' Rồi nó bỏ đi, lão Doc Hines nhìn nó nghe và lắng nghe ý muốn trả thù của Chúa, cho tới khi lão Doc Hines phát hiện ra là nó đang nhìn thằng mọi đen làm việc ở trong sân chơi, là nó cứ đi theo hắn quanh sân trong khi hắn làm việc, cho đến khi tên mọi đen cuối cùng lên tiếng, 'Này nhỏ, mày cứ nhìn tao để chi vậy?' Và nó nói, 'Làm sao mà chú là mọi đen?' và thằng mọi đen nói, 'Ai nói với mày tao là mọi đen, đồ ranh con da trắng rác rưởi!' và nó nói, 'Cháu không phải mọi đen,' và thằng mọi đen nói, 'Mày còn tệ hơn mọi đen nữa. Mày không biết mày là ai. Và còn tệ hại hơn, đó là mày sẽ không bao giờ biết. Mày sẽ sống, mày sẽ chết và mày sẽ không bao giờ biết,' và nó nói, 'Chúa đâu phải mọi đen,' và thằng mọi đen nói, 'Theo tao thì mày phải biết Chúa là gì, bởi vì không ai khác ngoài Chúa ra biết mày là ai.' Nhưng Chúa không có đó để lên tiếng, bởi vì sau khi để cho ý Ngài được thực hiện, Ngài đã để lão Doc Hines ở lại đây để theo dõi việc này. Ngay từ đêm đầu tiên đó, sau khi đã chọn ngày sinh nhật thiêng liêng của Con của chính Ngài để khởi động sự thực hiện ý Ngài, Ngài đã chọn lão Doc Hines để theo dõi. Đêm đó trời lạnh lắm, và lão Doc Hines thì đứng trong bóng tối ngay sau góc nhà, từ đó lão có thể thấy bậc tam cấp và ý Chúa thành sự thực, lão thấy tên bác sĩ trẻ đến gần với tâm trạng sa đọa và gian dâm. Y ngừng bước, cúi người xuống, và y đưa tay bưng lên sự ghê tởm của Chúa và mang vào trong nhà. Và lão Doc Hines đi theo, lão thấy và nghe. Lão thấy những con đàn bà trẻ tuổi bẩn thỉu, trong khi bà giám đốc vắng mặt thì chúng làm ô uế ngày sinh nhật thiêng liêng của Chúa bằng món sữa đánh trứng pha rượu[109] và rượu uýt-ki. Chúng mở tấm mền ra. Và chính con nhỏ đó, cái con đĩ ngựa trơ tráo của tên bác sĩ, nó là công cụ của Chúa đó, nó nói, 'Chúng ta hãy đặt tên cho nó là Christmas đi!' và một con nhỏ khác nói, 'Cái gì Christmas? Christmas cái gì?' và Chúa nói với lão Doc Hines, 'Con hãy nói với chúng đi,' và tất cả các con nhỏ với mùi sa đọa nồng nặc bốc ra trên người đưa mắt nhìn lão Doc Hines và la lên, 'Ủa, bác Doc đây mà. Bác Doc nhìn này, đây là quà ông già Nô-en đã mang tới cho chúng tôi và để ở bậc tam cấp,' và lão Doc Hines nói, 'Tên nó là Joseph,' và cả bọn ngừng cười, nhìn lão Doc Hines, và con đĩ ngựa đó nói, 'Làm sao ông biết?' lão Doc Hines nói, 'Chúa Trời biểu vậy,' và rồi chúng lại cười to, la lên, 'Trong Kinh thánh có viết rõ ràng như vậy: Christmas, con trai của Joe. Joe, con trai của Joe. Joe Christmas,' chúng nói, 'Chúc sức khỏe Joe Christmas,' và chúng cố ép lão Doc Hines uống rượu nữa chớ, để chúc sức khỏe cho sự ghê tởm của Chúa, nhưng lão gạt ly rượu qua một bên. Và lão chỉ có việc theo dõi và chờ đợi, và lão đã làm như vậy theo sự vui thích của Chúa, cho đến khi cái ác đi ra từ cái ác. Và cái con đĩ ngựa của tên bác sĩ tất tả chạy đến từ cái giường tà dâm của nó, còn bốc mùi tội lỗi và sợ hãi. 'Nó nấp sau cái giường,' con nhỏ nói, và lão Doc Hines nói, 'Cái xà bông thơm làm cô thèm làm chuyện đồi trụy đó, cô đã dùng nó cho sự ghê tởm và sự sỉ nhục của Chúa. Giờ thì cô hãy chịu đựng hậu quả,' và con nhỏ nói, 'Ông có thể nói chuyện với nó. Tôi đã thấy ông. Có lẽ ông có thể thuyết phục được nó,' lão Doc Hines nói, 'Tôi không để ý đến mấy chuyện gian dâm của cô nhiều hơn Chúa để ý đâu,' và con nhỏ nói, 'Nó sẽ khai ra và tôi sẽ bị đuổi việc. Tôi sẽ bị nhục nhã.' Đứng gần lão Doc Hines lúc đó, con nhỏ bốc mùi thèm khát và tà dâm. Và ý Chúa thì được thực hiện trên con nhỏ vào giây phút đó, trên con nhỏ đã xúc phạm đến ngôi nhà mà Chúa cho những đứa con không mẹ không cha của Ngài vào ở. 'Cô chẳng là gì cả,' lão Doc Hines nói. 'Cô và tất cả bọn đàn bà bẩn thỉu đó. Cô chỉ là một công cụ cho sự trả thù của Chúa mà không có Ngài thì ngay cả một con chim sẻ cũng không thể rơi xuống đất. Cô là công cụ của Chúa, giống như Joe Christmas, giống như lão Doc Hines này.' Và con nhỏ bỏ đi và lão Doc Hines chờ đợi, quan sát và chẳng mấy chốc con nhỏ quay lại, mang bộ mặt giống như bộ mặt những con thú đói đi kiếm mồi ở sa mạc. 'Tôi đã trừng trị nó rồi,' con nhỏ nói, và lão Doc Hines nói, 'Trừng trị cách nào?', bởi vì lão Doc Hines cái gì lại không biết, bởi vì Chúa Trời không giấu giếm mục đích của Ngài với công cụ mà Ngài đã chọn, và lão Doc Hines nói, 'Cô đã thực hiện ý muốn đã định trước của Chúa. Bây giờ cô có thể đi rồi đó, và cứ căm ghét Ngài một cách thoải mái cho tới Ngày phán xét cuối cùng,' và bộ mặt con nhỏ trông như những con thú đói đi kiếm mồi ở sa mạc, và từ cặp môi ô nhiễm với màu đỏ bẩn thỉu của nó, con nhỏ bật cười khanh khách trước mặt Chúa. Và sau đó họ đến và đưa thằng bé đi chỗ khác. Lão Doc Hines thấy nó ra đi trên một chiếc xe độc mã, lão quay vào để chờ Chúa và Chúa đến và Ngài nói với lão Doc Hines, 'Con cũng có thể đi nữa, bây giờ. Con đã làm công việc của Ta. Ở đây thì không còn tội lỗi nào khác ngoài các tội lỗi của đàn bà và chúng không đáng để cho công cụ mà Ta đã chọn ở lại để theo dõi chúng.' Và lão Doc Hines đã ra đi khi Chúa biểu lão đi. Nhưng lão giữ liên hệ với Chúa và vào ban đêm lão nói, 'Và thằng con hoang đó thì sao hả Chúa?' và Chúa nói, 'Nó vẫn còn đang đi trên mặt đất của Ta,' và lão Doc Hines giữ liên hệ với Chúa, vào ban đêm lão nói, 'Và thằng con hoang đó thì sao hả Chúa?' và Chúa nói, 'Nó vẫn còn đang đi trên mặt đất của Ta,' và lão Doc Hines giữ liên hệ với Chúa và vào một đêm kia lão giãy giụa, lão chống chọi và lão hét to lên, 'Và thằng con hoang đó thì sao hả Chúa? Con cảm thấy! Con cảm thấy các cái răng, các cái răng nanh của cái ác!' và Chúa nói, 'Đó là thằng con hoang này. Công việc của con chưa làm xong. Nó là sự ô nhiễm và sự ghê tởm trên mặt đất của Ta.' "

***

Tiếng nhạc từ một ngôi nhà thờ xa xôi đã chấm dứt từ lâu. Qua cái cửa sổ mở, bây giờ chỉ còn vô số âm thanh yên bình của đêm hè tràn vào. Hightower ngồi sau bàn giấy; hơn bao giờ hết, ông trông vụng về như một con thú bị người ta lừa gạt, đùa nghịch trong nhu cầu trốn chạy của nó, bây giờ bị dồn vào đường cùng bởi chính những người đã đùa nghịch, đã lừa gạt nó. Ba người kia ngồi đối diện ông, trông như một hội thẩm đoàn. Hai người thì cũng bất động: người đàn bà với bộ mặt đông cứng, kiên nhẫn như một tảng đá biết đợi chờ; và lão già với cái gì đó sức tàn lực tận, như cái bấc cháy xém của một cây nến mà ngọn lửa đã bị thổi tắt một cách quá mạnh. Chỉ có mình Byron trông có sinh khí. Đầu cúi xuống, anh có vẻ ngắm nhìn một trong hai bàn tay đặt trên đùi, ngón cái và ngón trỏ cùng xoa xoa lẫn nhau, chậm rãi, như thể nắn bóp cho nhau trong khi anh có vẻ vừa nhìn mải mê, vừa đắm chìm trong suy tư. Khi Hightower nói, Byron biết là ông ta không ngỏ lời với mình, không ngỏ lời với ai cả trong căn phòng. "Họ muốn tôi làm cái gì đây?" ông nói. "Họ nghĩ, họ hy vọng, họ tin cái gì mà tôi có thể làm được đây?"

Không có tiếng nói nào trả lời; dường như cả người đàn ông lẫn người đàn bà đều không nghe. Byron không trông đợi người đàn ông nghe. 'Lão không cần giúp đỡ,' anh nghĩ. 'Nhưng lão cần người ta ngăn chặn lão lại.' Anh suy nghĩ, anh nhớ lại trạng thái hôn mê xảy ra sau khi sự xuất thần, gần như điên dại, bị ngưng lại, và lão đã di chuyển từ chỗ này sang chỗ khác, ít nhiều sau lưng người đàn bà, trong trạng thái hôn mê này từ khi anh gặp họ cách đây mười hai giờ. 'Lão cần người ta ngăn chặn lão lại. Mình cho là đó là một điều tốt cho nhiều người hơn là chỉ riêng bả nếu lão trở nên gần như không thể tự lực được nữa.' Lão đang nhìn người đàn bà. Lão nói một cách nhỏ nhẹ, hầu như dịu dàng: "Bà ơi, hãy nói cho ổng biết bà muốn gì. Ổng muốn biết bà muốn ổng làm gì. Bà nói ra đi!"

"Tôi có nghĩ có lẽ -" bà nói. Bà nói, nhưng không cử động. Giọng bà thì ít rụt rè hơn là khàn khàn, như thể bà buộc phải nói ra một điều gì đó nằm ngoài phạm vi của những điều mà người ta nói oang oang, một điều gì đó mà người ta chỉ có thể cảm nhận và hiểu biết. "Ông Bunch có nói là có lẽ -"

"Cái gì?" Hightower nói. Ông nói một cách gay gắt, nôn nóng, hơi lên giọng; ông cũng không cử động, ngồi ngả người trên ghế, hai bàn tay đặt trên chỗ dựa tay. "Cái gì? Cái gì gì đây?"

"Tôi có nghĩ..." Giọng nói lại tắt lịm. Tiếng côn trùng rì rào liên tục nghe qua cửa sổ. Rồi giọng nói tiếp tục, đều đều, yếu đuối. Bà cũng ngồi, đầu hơi cúi xuống, như thể bà tự nghe giọng nói của riêng mình với cùng một sự mải mê thầm lặng: "Nó là cháu ngoại tôi, đứa con trai nhỏ của con gái tôi. Tôi chỉ nghĩ là, nếu tôi... nếu nó..." Byron vừa im lặng lắng nghe, vừa nghĩ Thật là lạ lùng. Người ta có thể tưởng rằng hai người bị đổi vai trò ở đâu đó. Như thể chính ông ta là kẻ có đứa cháu ngoại mọi đen đang chờ bị treo cổ Giọng nói tiếp tục. "Tôi biết là không phải khi đến quấy rầy một người xa lạ. Nhưng ông thật là may mắn. Một người độc thân, một người đàn ông ở một mình, đã có thể già đi mà không phải biết đến nỗi tuyệt vọng trong tình yêu thương. Nhưng tôi cho là ông có lẽ sẽ không thể hiểu, ngay cả khi tôi giải thích đúng. Tôi có nghĩ là, chỉ cho một ngày thôi, nếu chuyện đó có thể như là đã không xảy ra. Như thể người ta đã không bao giờ phát hiện ra chính nó là tên giết người..." Giọng nói lại ngừng. Bà đã không cử động. Như thể bà nghe giọng nói của chính mình ngừng lại như bà đã nghe nó bắt đầu, với cùng một sự quan tâm, với cùng một sự lãnh đạm thầm lặng.

"Tiếp tục đi," Hightower nói, giọng vẫn gay gắt, nôn nóng. "Tiếp tục đi."

"Tôi không hề thấy nó khi nó biết đi, biết nói. Từ ba chục năm nay, tôi đã không hề gặp nó. Tôi không có ý nói là nó đã không bao giờ làm cái chuyện mà người ta nói nó đã làm. Mong nó không phải đau khổ về chuyện đó như nó đã làm đau khổ những người đã yêu thương và mất mát. Nhưng nếu như người ta, có lẽ, có thể để nó tự do một ngày duy nhất thôi. Như thể chuyện đó đã chưa xảy ra. Như thể thế gian này đã chưa có gì chống lại nó. Vật thì như thể nó vừa làm một chuyến đi xa rồi trở lại khi đã thành người lớn. Ôi, giá mà được như vậy chỉ một ngày thôi. Sau đó thì tôi không xen vào nữa. Nếu nó đã làm chuyện đó, thì tôi sẽ không phải là người tự đặt mình giữa nó và những gì mà nó phải chịu đựng. Chỉ một ngày thôi, ông hiểu cho. Như thể nó trở về sau một chuyến đi, một chuyến đi mà nó sẽ kể lại cho tôi nghe, mà không có, chưa có thế giới người sống nào chống lại nó cả."

"Ồ," Hightower nói, giọng sắc và cao. Tuy ông không cử động, tuy những khớp đốt ngón tay của hai bàn tay bám chặt chỗ tì tay thì trắng và cứng đờ, vậy mà vẫn có một sự run rẩy, tuy bị kiềm chế, bắt đầu lan ra từ từ dưới lớp áo quần ông. "À vâng," ông nói. "Tất cả chỉ có vậy thôi à? Vậy thì đơn giản. Đơn giản. Đơn giản." Dường như ông không thể ngừng nói: "Đơn giản. Đơn giản." Ông nói nhỏ nhẹ, giờ ông lên giọng. "Họ muốn tôi làm cái gì đây? Tôi phải làm gì bây giờ? Byron ơi! Byron? Chuyện này là chuyện gì? Họ yêu cầu tôi cái gì bây giờ?" Byron đứng lên. Anh bây giờ đứng bên cạnh bàn, hai tay đặt trên bàn, đối diện Hightower. Hightower không cử động, chỉ có thân hình béo nhão của ông tiếp tục run rẩy, càng lúc càng run mạnh hơn. "À vâng. Lẽ ra tôi phải biết chớ. Chính Byron sẽ yêu cầu tôi mà. Lẽ ra tôi phải biết chớ. Đó là chuyện dành cho Byron và cho tôi. Này, này, bạn nói đi! Sao bây giờ bạn lại do dự?"

Byron hạ ánh mắt xuống bàn, nhìn hai bàn tay mình trên bàn. "Đó là một chuyện rất buồn. Một chuyện rất buồn."

"A, lòng thương hại đó sao? Sao để lâu quá vậy? Lòng thương hại dành cho tôi ư, hay cho Byron? Này, nói đi. Bạn muốn tôi làm gì đây? Vì chính là bạn đó, tôi biết mà. Tôi đã biết từ khuya rồi. A, Byron, Byron ơi! Bạn hẳn sẽ là nhà soạn kịch giỏi đó!"

"Hay có lẽ ông muốn nói một tên làm nghề chào hàng, một nhân viên, một người bán hàng," Byron nói. "Đó là một chuyện rất buồn. Tôi biết mà. Ông không cần phải nói với tôi."

"Nhưng tôi đâu có sáng suốt như bạn. Bạn có vẻ như đã biết trước điều gì mà tôi có thể trả lời bạn, vậy mà bạn lại không chịu nói ra với tôi điều gì mà bạn muốn tôi biết. Bạn muốn tôi làm cái gì đây? Bạn muốn tôi đi nhận là mình có tội giết người đó sao? Có đúng vậy không?"

Byron hơi cau mặt, tuy chỉ thoáng qua nhưng vẫn thấy một chút gì chua chát, mệt mỏi, không vui. "Gần đúng như vậy, theo ý tôi." Rồi mặt anh điềm tĩnh lại, gần như nghiêm trang. "Đó là một chuyện rất buồn để mở miệng ra yêu cầu. Chúa biết là tôi ý thức được điều này mà." Anh nhìn bàn tay mình di chuyển chậm chạp, lo lắng và tầm thường, trên mặt bàn. "Tôi nhớ lại có lần nói với ông là có cái giá phải trả khi ta là người tốt, chẳng khác nào như khi ta là người xấu; một tổn phí phải trả. Và chính những người tốt không thể từ chối cái hóa đơn đó khi nó đến. Họ không thể từ chối nó vì một lý do đơn giản là người ta không có cách buộc họ phải trả tiền cái hóa đơn đó. Giống như một người lương thiện mà đánh bạc vậy. Những người xấu cũng có thể từ chối nó; đó là lý do tại sao không ai trông đợi chúng trả ngay lúc đó hay vào một lúc nào khác. Nhưng những người tốt thì không thể làm như vậy. Có lẽ khi trả nó để làm người tốt thì họ tốn nhiều thời gian hơn là khi trả nó để làm người xấu. Và không phải như thể ông đã không làm chuyện đó trước đây, đã không trả một cái hóa đơn loại này một lần trước đây. Nó bây giờ thì đâu phải tồi tệ quá như ngày đó đâu."

"Tiếp tục đi. Tiếp tục đi. Tôi phải làm gì đây?"

Byron nhìn bàn tay mình di chuyển chậm chạp, không ngừng, vẻ trầm ngâm. "Y không thú nhận là đã giết cổ. Và những bằng chứng duy nhất buộc tội y là lời khai của Brown, nó hầu như không có giá trị gì. Có lẽ ông có thể nói rằng y ở đây với ông vào cái đêm đó... và vào tất cả những đêm mà Brown nói là hắn đã nhìn y đi lên ngôi nhà lớn đó và đi vào trong. Người ta sẽ tin ông. Dù gì đi nữa, họ sẽ tin chuyện này. Họ sẽ tin chuyện này từ ông dễ dàng hơn là họ tin chuyện y sống với cổ như vợ chồng rồi giết cổ. Và ông bây giờ thì già rồi. Họ sẽ không làm được cái gì để có thể làm ông tổn thương đâu, lúc này. Và tôi cho là ông thì đã quá quen với mọi thứ khác mà họ có thể làm đối với ông."

"Ồ!" Hightower nói. "À! Phải rồi. Phải rồi. Họ sẽ tin chuyện này. Đơn giản quá mà! Tuyệt vời! Tuyệt vời cho tất cả mọi người. Và người ta sẽ trả y lại cho những người đã đau khổ vì y, và Brown, không có được tiền thưởng, người ta sẽ làm cho hắn sợ, buộc hắn phải hợp pháp hóa đứa con rồi sau đó buộc hắn phải bỏ trốn, lần này thì biệt tăm mãi mãi. Rồi cuối cùng thì chỉ còn cô ta và Byron. Bởi chưng tôi chỉ là một ông già đã có may mắn già đi mà không phải biết đến niềm tuyệt vọng trong tình yêu thương." Ông run lẩy bẩy, không dứt; bây giờ ông nhìn lên. Dưới ánh đèn, mặt ông trông trơn bóng, như thể được thoa dầu. Nhăn nhó, méo mó, nó sáng lên dưới ánh đèn. Chiếc áo sơ-mi trên người ông, nhuốm vàng và được giặt thường xuyên, sáng nay còn sạch sẽ, thơm tho thì bây giờ đẫm mồ hôi. "Đó không phải là vì tôi không thể, không phải vì tôi không dám," ông nói; "Nhưng đó là vì tôi không muốn! Tôi không muốn! Bạn có nghe không?" Ông giơ hai bàn tay lên từ chỗ tì tay. "Đó là vì tôi không muốn làm chuyện này!" Byron không cử động. Bàn tay anh trên mặt bàn đã ngừng lại; anh nhìn người đàn ông ngồi đối diện, nghĩ Không phải mình mà ổng hét vào mặt. Ổng có vẻ biết là ông có cái gì đó, nó gần ổng hơn mình, mà ông phải thuyết phục về chuyện này Bởi vì bây giờ Hightower đang hét to, "Tôi sẽ không làm chuyện này! Tôi sẽ không làm đâu!" với hai bàn tay giơ cao và nắm lại, mặt đổ mồ hôi, môi vểnh lên trên những cái răng hư bị khít lại, xung quanh chúng là hai cái má đầy thịt mềm nhão có màu xám nâu nhạt sệ xuống. Đột ngột, ông lại lên giọng cao hơn nữa. "Các người ra khỏi đây ngay!" ông hét lên. "Ra khỏi nhà tôi ngay! Ra khỏi nhà tôi ngay!" Rồi ông ngã về phía trước, lên trên cái bàn giấy, mặt ông ở giữa hai cánh tay giang ra và hai bàn tay nắm lại. Hai người già đi trước Byron, nhưng anh vẫn ngoái đầu nhìn lại từ ngưỡng cửa, và anh thấy Hightower vẫn không cử động, cái đầu hói và hai cánh tay giang ra với hai bàn tay nắm chặt thì nằm ngay trong vùng ánh sáng dưới cái chụp đèn. Bên ngoài cánh cửa sổ mở, tiếng côn trùng vẫn không dứt, vẫn không yếu đi.

17

Đó là vào đêm chủ nhật. Đứa con của Lena sinh ra vào sáng hôm sau. Trời mới hừng đông khi Byron cho con la đang phi nước đại dừng lại trước ngôi nhà mà anh đã rời đi chưa đầy sáu tiếng đồng hồ trước đó. Anh vừa nhảy xuống đất là ba chân bốn cẳng chạy lên cái lối đi hẹp dẫn đến hàng hiên tối tăm. Dù vội vã, anh vẫn có vẻ bàng quan tự nhìn mình suy nghĩ mà không thấy ngạc nhiên khó chịu: 'Byron Bunch cho ra đời một đứa bé. Nếu mình có thể thấy mình trong vai trò đó cách đây hai tuần, mình đã không tin vào chính mắt mình. Mình hẳn đã bảo họ là họ nói láo.'

Cửa sổ bây giờ thì tối. Sáu giờ trước đó, chính đằng sau cái cửa sổ này, anh đã chia tay với ông mục sư. Vừa chạy, anh vừa thấy lại trong đầu cái đầu hói, hai bàn tay nắm lại, cái thân hình mềm nhão nằm dài trên bàn giấy. 'Nhưng mình cho là ổng thiếu ngủ,' anh nghĩ. 'Dù ổng không làm - làm - '. Anh không thể tìm ra cái từ bà mụ mà anh biết là Hightower sẽ dùng. 'Mình cho là mình không cần tìm nó chi cho mệt óc,' anh nghĩ. 'Như một anh chàng chạy về phía mũi súng đang chĩa ra trước mặt hay chạy tránh xa nó thì đâu có thì giờ để bận tâm về cái từ chỉ hành động của y là can đảm hay hèn nhát.'

Cửa ra vào thì không khóa. Hình như anh đã biết là nó không khóa. Anh dò dẫm bước vào trong hành lang, gây ra tiếng động mà anh không cố tránh gây ra. Anh chưa hề đi vào trong nhà xa hơn căn phòng nơi anh đã thấy ông chủ nhà nằm ườn ra trên bàn, ngay dưới ánh sáng chiếu xuống của ngọn đèn. Vậy mà anh hầu như đi thẳng tới đúng cái cửa, làm như anh biết nó, hay có thể thấy nó, hay được ai dẫn dắt. 'Ổng sẽ cho là như vậy đó,' anh nghĩ, mò mẫm hấp tấp trong bóng tối. 'Và cổ cũng sẽ cho là như vậy.' Anh muốn nói tới Lena, đang nằm trong căn lều ngoài kia, đã bắt đầu đau đẻ. 'Chỉ phải cái là cả hai người lại dùng hai cái tên khác nhau để chỉ người dẫn dắt.' Anh bây giờ có thể nghe Hightower ngáy, trước khi anh vào căn phòng. 'Rốt cuộc ổng coi bộ không bị lo phiền cho lắm,' anh nghĩ. Rồi ngay tức khắc anh lại nghĩ: 'Không. Điều đó thì không đúng đâu. Không công bằng đâu. Bởi vì mình không tin điều đó. Mình biết là, nếu ổng ngủ, và nếu mình không ngủ, đó là vì ổng già rồi và sức chịu đựng của ổng thì yếu hơn mình.'

Anh đến gần giường. Người nằm ở đó, vẫn chưa thể thấy được, thì đang ngáy say sưa. Trong tiếng ngáy này thì có cái gì đó thăm thẳm và buông xuôi hoàn toàn. Không phải sự kiệt sức đâu, mà là sự buông xuôi, như thể ông đã từ bỏ, đã mất đi hẳn thế chủ động trên cái hỗn hợp của lòng kiêu hãnh, niềm hy vọng, tính kiêu căng và nỗi sợ hãi, và trên cái sức mạnh để gắn bó hoặc với sự thất bại, hoặc với sự thắng lợi, mà từ các yếu tố này cái Tôi-Là[110] được cấu thành; và sự từ bỏ các yếu tố này thì thường thường là cái chết. Đứng bên cạnh giường, Byron lại nghĩ lần nữa Một chuyện rất buồn. Một chuyện rất buồn Anh bây giờ có cảm tưởng rằng đánh thức người đàn ông đó từ giấc ngủ này là một sự tổn thương nặng nề nhất mà anh đã gây ra cho ông từ trước đến nay. 'Nhưng mình không phải là người đang đợi,' anh nghĩ. 'Chúa biết điều đó. Bởi vì mình tin là Ngài mới gần đây cũng theo dõi mình cũng như mọi người khác, để xem mình sẽ làm cái gì tiếp theo.'

Anh đưa tay chạm người đang ngủ, không thô bạo nhưng cương quyết. Tiếng ngáy ngưng lại nửa chừng dưới bàn tay Byron. Hightower, béo phì, bất ngờ ngồi bật dậy. "Sao?" ông nói. "Cái gì đây? Ai vậy? Ai đứng đó?"

"Tôi đây mà," Byron nói. "Byron lại đến đây. Ông tỉnh ngủ bây giờ chưa?"

"Rồi. Cái gì -?"

"Dạ, bả nói sắp đến lúc rồi. Sắp đẻ tới nơi rồi."

"Bà nào?"

"Chỉ tôi cái đèn nằm chỗ nào... Bà Hines đó... Bả ở ngoài kia. Tôi đi tiếp tìm ông bác sĩ đây. Nhưng phải mất thời gian. Vì vậy ông có thể lấy con la tôi mà đi. Tôi nghĩ từ đây đến đó thì không quá xa đối với ông. Ông vẫn mang theo cuốn sách của ông chớ?"

Chiếc giường kêu cọt kẹt khi Hightower cử động. "Cuốn sách nào cà? Cuốn sách của tôi à?"

"Cuốn sách mà ông đã dùng khi đứa bé mọi đen sinh ra đó. Tôi chỉ muốn nhắc lại ông trong trường hợp ông cần mang nó theo. Trong trường hợp tôi không về lại kịp với ông bác sĩ đó mà. Con la đang ở ngoài cổng. Nó thì biết đường rồi. Tôi sẽ đi bộ vào phố tìm ông bác sĩ. Tôi sẽ về lại ngoài đó ngay khi có thể." Anh quay người, đi ngang qua căn phòng lần nữa. Anh có thể nghe, cảm thấy người kia ngồi ở giường. Anh ngừng ngay giữa phòng, chỉ vừa đủ thời gian cần thiết để tìm thấy ngọn đèn được treo từ trần xuống và đưa tay bật nó. Khi ánh sáng đến thì anh đã bước ra phía cửa. Anh không ngoái cổ nhìn lại. Anh nghe tiếng nói của Hightower sau lưng mình:

"Byron! Byron!" Anh không dừng lại, không trả lời.

Trời rạng dần. Anh bước nhanh trên con đường vắng, dưới những ngọn đèn đường đặt cách nhau đang mờ dần nhưng các con sâu bọ vẫn còn quay lộn, va chạm nhau. Nhưng ngày đang lên; khi anh đến quảng trường thì các mặt tiền nhà ở phía đông nổi bật lên trên nền trời. Anh đang suy nghĩ nhanh. Anh đã không thu xếp gì hết với một bác sĩ nào. Vừa đi, anh vừa tự sỉ vả mình, anh bị giày vò bởi sự khiếp sợ pha lẫn giận dữ mà một người cha trẻ cảm thấy trước cái điều mà bây giờ anh tin là một sự cẩu thả ngu xuẩn và tội ác. Tuy vậy, đó không phải chính xác là mối quan tâm của một người sắp sửa làm cha. Đằng sau tình cảm này thì có cái gì khác mà anh chỉ nhận ra được sau này mà thôi. Như thể trong trí óc của anh còn bị làm cho u tối bởi sự cần thiết phải vội vã, có cái gì đó sắp sửa lao vào người anh, tất cả móng vuốt đều giương ra. Nhưng điều mà anh đang nghĩ là, 'Mình phải quyết định ngay tức khắc. Ổng đã đỡ đẻ tốt cho con mụ da đen đó, người ta đồn vậy. Nhưng lần này thì khác. Lẽ ra mình phải làm chuyện này từ tuần trước chớ, phải hỏi han về bác sĩ chớ, thay vì cứ đợi, bây giờ thì phải giải thích lên, giải thích xuống vào phút chót, phải đi gõ cửa hết nhà này đến nhà nọ cho tới khi tìm được một bác sĩ chịu đi đến đỡ đẻ, chịu tin những lời láo khoét mà mình sẽ phải nói ra. Trời ơi, sao dạo này mình có vẻ nói láo quá trời luôn, nói nhiều đến nỗi bây giờ mình chắc có thể phịa ra những chuyện mà ai cũng tin, đàn ông cũng như đàn bà. Nhưng có vẻ như là mình không thể làm vậy. Mình cho là vì tính nết mình nên mình không thể sáng chế ra một lời nói láo hay ho và nói ra một cách hay ho.' Anh đi nhanh, các bước chân nghe rỗng rang, cô độc trên con đường vắng lặng; anh không tự mình nhận ra là anh đã quyết định. Anh thấy không có gì nghịch lý hay khôi hài chút nào về cái quyết định này. Nó đã vào trong đầu óc anh quá nhanh và trụ lại trong đó một cách vững chắc khi anh ý thức về nó. Nó điều khiển các bước chân anh; và các bước chân này dẫn anh tới nhà của cùng một ông bác sĩ đã đến quá trễ khi đứa bé da đen sinh ra mà Hightower đã đỡ đẻ mẹ nó bằng cái dao cạo và cuốn sách đó.

Viên bác sĩ cũng đến quá trễ lần này nữa. Byron đã phải chờ ông mặc quần áo. Ông giờ đã hơi già, hay nhắng nhít và tỏ vẻ cáu kỉnh vì bị đánh thức vào giờ này. Rồi ông phải đi tìm chiếc chìa khóa xe hơi mà ông để trong một két sắt nhỏ, và đến phiên nó, cái chìa khóa của cái két sắt này thì ông không thể tìm ra ngay! Ông cũng không cho phép Byron phá ổ khóa. Vậy là khi hai người cuối cùng đến được căn lều thì bầu trời ở phía đông đã có màu vàng nhạt của hoa anh thảo, và người ta đã cảm thấy được mặt trời mùa hè lên nhanh. Và một lần nữa, hai người đàn ông, giờ đã già hơn trước, gặp lại nhau ở cửa căn lều một phòng, người chuyên nghiệp lại thua người nghiệp dư lần nữa, vì khi bước qua cửa, ông bác sĩ nghe tiếng khóc của trẻ mới sinh. Ông nháy mắt với ông mục sư một cách bực bội. "Này, bác sĩ," ông nói, "Phải chi Byron nói cho tôi biết là đã mời ông tới đây thì tôi hẳn còn nằm trong giường." Ông đẩy ông mục sư ra để đi vào trong. "Ông có vẻ may mắn lần này hơn là lần trước khi chúng ta hội ý. Chỉ phải cái là ông trông như ông cần một bác sĩ cho chính ông. Hay có lẽ ông cần một tách cà phê." Hightower nói cái gì đó, nhưng viên bác sĩ đã đi tiếp, không dừng bước để nghe. Ông đi vào căn phòng, nơi một người đàn bà trẻ mà ông chưa hề gặp trước đó đang nằm, tái xanh, kiệt sức, trên một cái giường hẹp, và một bà già mặc áo đầm tím mà ông cũng chưa hề gặp trước đó, đang giữ đứa bé trên đùi. Trong bóng tối, một ông già đang ngủ trên một cái giường nhỏ khác. Khi chợt thấy lão, viên bác sĩ tự nhủ là lão ta trông như đã chết, chính là vì lão ngủ rất say và yên bình. Nhưng viên bác sĩ thoạt đầu không thấy ra lão ngay. Ông đến gần bà già đang giữ đứa bé. "À há, à há," ông nói. "Cái anh Byron này chắc là phấn khích dữ lắm. Không thèm nói với tôi là tất cả mọi người trong gia đình đều có mặt ở đây, kể cả ông ngoại và bà ngoại." Bà già ngước mắt nhìn lên ông. Ông nghĩ, 'Bà này thì đang ngồi thật đấy, nhưng bả cũng có vẻ chết rồi như lão kia. Bả lại còn có vẻ quá lẩm cẩm để nhận ra đứa bé cũng là con cháu bả, chưa nói đến chuyện bả là bà ngoại nó.'

"Dạ," người đàn bà nói. Bà nhìn lên ông, người cúi trên đứa bé. Lúc đó ông mới thấy ra là bộ mặt bà thì không ngu đần, không trống rỗng chút nào. Ông thấy nó vừa thanh thản, vừa khủng khiếp cùng lúc, làm như sự thanh thản và sự khủng khiếp, cả hai đã chết từ lâu, giờ đây sống lại cùng lúc. Nhưng tức khắc ông nhận ra trước nhất cái tư thế của bà, một tư thế như tảng đá và như con thú ẩn mình. Bà hất cằm về phía lão già; lần đầu tiên, viên bác sĩ nhìn lão một cách trọn vẹn, trên cái giường kia lão đang ngủ. Bà nói, trong tiếng thầm thì tinh ranh và căng thẳng với sự khủng khiếp còn lại: "Tôi đã đánh lừa ổng. Tôi đã nói với ổng là lần này ông sẽ vào từ phía sau. Tôi đã đánh lừa ổng. Nhưng bây giờ ông ở đây rồi. Ông bây giờ có thể chăm sóc cho Milly. Tôi sẽ lo cho Joey." Rồi mọi thứ biến mất dần dần. Trong khi ông nhìn, sự sống, sự sinh động, biến dần rồi bất ngờ thoát khỏi một khuôn mặt có vẻ quá nín lặng, quá buồn tẻ để bao giờ có thể có đến cả cái ánh phản chiếu của sự sống đó; bây giờ bà dò hỏi ông bằng cái nhìn chằm chằm, câm lặng, không thành tiếng, hoang mang trong khi bà cúi người trên đứa bé, như thể sợ ông muốn giựt nó ra khỏi tay bà. Các cử động của bà có lẽ đã đánh thức đứa bé, nó kêu khóc một lần. Rồi sự hoang mang đến lượt nó cũng biến đi. Nó biến đi một cách dịu dàng như một cái bóng; bà nhìn xuống đứa bé, trầm ngâm, mặt như hóa đá, buồn cười. "Joey đây mà," bà nói. "Ôi, thằng con bé nhỏ của Milly yêu quý của mình đây mà."

Và Byron, đứng ngoài cửa, nơi mà anh đã dừng lại khi viên bác sĩ đi vào trong, nghe tiếng khóc đó và rồi có cái gì đó kinh khiếp xảy ra với anh. Trước đó, khi anh đang ở trong lều cắm trại của mình thì nghe tiếng bà Hines gọi anh; và có cái gì đó trong giọng bà khiến anh gần như vừa xỏ quần vừa chạy. Ở cửa ra vào căn lều, anh đi ngang qua bà Hines, bà chưa kịp thay quần áo, và anh vào trong. Rồi anh thấy nàng, và anh đứng khựng lại, người như hóa đá. Bà Hines đến bên anh, nói chuyện với anh; có lẽ anh có trả lời, anh có nói lại. Dù gì đi nữa, anh đã thắng yên cho con la trước đó và giờ thì anh đã chạy nước đại xuống phố, và anh vẫn còn có vẻ đang nhìn nàng, nhìn gương mặt nàng trong khi nàng nửa nằm, nửa ngồi trên cái giường nhỏ, chống người trên hai cánh tay, nhìn xuống thân thể mình dưới tấm ra trải giường với sự khủng khiếp rên rỉ và vô vọng. Hình ảnh đó luôn hiện ra trước mắt anh trong khi anh đánh thức Hightower, trong khi anh thuyết phục viên bác sĩ ra đi, trong khi đâu đó bên trong con người anh một cái có móng vuốt đang lẩn quất và chờ đợi. Nhưng ý nghĩ thì đi quá nhanh để mà anh có thì giờ suy nghĩ. Đúng là như vậy đó. Ý nghĩ thì quá nhanh để anh có thì giờ suy nghĩ. Điều này kéo dài cho tới khi anh và viên bác sĩ về đến căn lều. Rồi thì ngay bên ngoài cánh cửa, nơi anh đã dừng lại, anh nghe tiếng đứa bé kêu khóc một lần và cái gì đó kinh khiếp xảy ra với anh.

Giờ thì anh biết cái có móng vuốt đó có vẻ đang lẩn quất và chờ đợi là cái gì rồi trong khi anh băng qua cái quảng trường trống vắng tìm gặp viên bác sĩ mà anh đã sao lãng hẹn trước. Bây giờ anh biết tại sao anh đã sao lãng hẹn trước với một bác sĩ để đỡ đẻ. Chính vì anh, cho tới khi bà Hines gọi anh khi anh ở trong lều riêng của mình, đã không tin là anh (hay nàng) sẽ cần một bác sĩ, sẽ có nhu cầu đó. Như thể từ một tuần nay cặp mắt anh đã chấp nhận hình dạng của cái bụng nàng mà tâm trí anh lại không tin. 'Tuy vậy, mình thực sự biết, thực sự tin,' anh nghĩ. 'Chắc là mình đã biết nên mới làm những gì mình đã làm: chạy, nói láo, quấy rầy người ta.' Nhưng bây giờ anh thấy là anh đã thực sự không tin cho tới khi anh đi ngang qua bà Hines và nhìn vào trong căn lều. Lần đầu tiên khi tiếng gọi của bà Hines đến trong giấc ngủ, anh biết đó là cái gì, biết điều gì xảy ra; anh đứng dậy và hấp tấp mặc những áo quần cần thiết như người ta mặc vội mặc vàng cái quần yếm lao động. Và anh biết tại sao, biết là mình đã trông đợi điều này từ năm đêm nay. Vậy mà anh vẫn còn không tin. Bây giờ anh biết là khi chạy đến căn lều và nhìn vào bên trong, anh đã trông đợi thấy nàng ngồi dậy; hay có lẽ thấy nàng đứng ở cửa đón anh, bình thản, không thay đổi, ở bên ngoài thời gian. Nhưng ngay cả khi đặt tay lên cửa, anh nghe thấy cái gì đó mà anh chưa hề nghe thấy trước đây. Đó là tiếng rên rỉ ai oán, rõ to, với cái gì đó vừa say sưa vừa hèn hạ cùng lúc, một tiếng rên rỉ dường như đang nói một cách rõ ràng với cái gì đó trong một thứ ngôn ngữ mà anh biết không phải là ngôn ngữ của anh và cũng không phải của bất cứ con người nào. Rồi anh đi ngang qua bà Hines ở cửa ra vào, và anh thấy nàng nằm trên cái giường nhỏ. Anh chưa từng thấy nàng nằm trong giường trước đó và anh đã tin là khi, hoặc nếu có bao giờ, anh thấy như vậy, nàng sẽ tỏ ra bồn chồn, lanh lợi, có lẽ hơi mỉm cười, và hoàn toàn ý thức về sự hiện diện của anh. Nhưng khi anh đi vào, nàng thậm chí không nhìn anh. Nàng thậm chí có vẻ như không biết là cửa ra vào đã mở, là bây giờ có người hay cái gì đó trong căn phòng ngoài nàng và cái gì đó ra, cái mà nàng đã nói chuyện bằng tiếng rên rỉ trong một ngôn ngữ chưa ai từng biết. Nàng đắp chăn kéo lên tận cằm, nhưng nửa thân trên của nàng thì chống lên trên hai cánh tay và đầu nàng thì cúi xuống. Tóc nàng buông xõa, cặp mắt trông như hai cái lỗ và miệng bây giờ thì nhợt nhạt như cái gối sau đầu nàng. Và trong tư thế lo sợ và ngạc nhiên đó, trong khi nàng có vẻ ngắm nhìn cái hình dạng của thân thể mình dưới cái mền bằng một sự hoài nghi bị xúc phạm, nàng lại bật lên một tiếng kêu rên rỉ lần nữa, nghe rõ to và thấp hèn. Bà Hines bây giờ khom người trên nàng. Bà quay đầu, khuôn mặt cứng đờ trên đôi vai màu tím. "Chạy đi," bà nói. "Chạy tìm bác sĩ tới đây. Đã đến lúc rồi đó."

Anh không nhớ mình đã đi tới chuồng la chút nào. Vậy mà anh ở đó, dắt ra con la của mình, kéo cái yên ra và đặt mạnh lên lưng con la. Anh làm một cách nhanh tay lẹ mắt nhưng sự suy nghĩ thì diễn biến chậm chạp. Bây giờ anh biết tại sao. Anh biết, bây giờ, là sự suy nghĩ diễn biến chậm chạp và trôi chảy, với sự tính toán, giống như dầu được đổ chậm rãi lên trên bề mặt của một cơn bão đang kéo đến. 'Giá mà mình biết lúc đó,' anh nghĩ. 'Giá mà mình biết lúc đó. Giá mà mình hiểu ra lúc đó.' Anh nghĩ điều này một cách thầm lặng, với một niềm tuyệt vọng, một nỗi hối tiếc kinh hãi. 'Đúng vậy. Mình hẳn đã quay lưng và bỏ chạy về phía ngược lại. Vượt quá sự hiểu biết, vượt quá trí nhớ của con người, mình cho là mình hẳn đã bỏ chạy mãi mãi.' Nhưng anh không làm vậy. Anh chạy nhanh qua trước căn lều, sự suy nghĩ của anh tiếp tục, trôi chảy, đều đều, mà anh chưa biết tại sao. 'Trông cho mình có thể chạy qua và ra khỏi tầm nghe trước khi cổ la hét lần nữa,' anh nghĩ. 'Trông cho mình có thể chạy qua trước khi mình phải nghe cổ lần nữa.' Điều này kéo anh đi được một lát, ra tận con lộ. Giờ thì con la nhỏ này, với những cơ bắp cứng khỏe, đang chạy nhanh. Anh nghĩ, như dầu lan ra êm ả, đều đều: 'Mình sẽ tới tìm Hightower trước tiên. Mình sẽ để con la cho ổng sử dụng. Mình phải nhớ nhắc ổng mang theo cuốn sách y học. Mình không được quên chuyện này,' dòng dầu lan đó vừa nói, vừa đưa anh tới tận nhà ông mục sư, và anh đi vào, sau khi nhảy xuống từ con la còn đang chạy. Rồi một ý nghĩ khác hiện ra trong đầu anh. 'Vậy là bây giờ xong một chuyện,' trong khi anh nghĩ Dù cho mình không thể mời được một bác sĩ chính qui Điều này đưa anh tới quảng trường, rồi phản bội anh; anh có thể cảm thấy nó, tức cái có móng vuốt, đang lẩn quất đâu đó, trong khi anh nghĩ Dù cho mình không mời được một bác sĩ chính qui. Bởi vì mình đã không bao giờ tin là mình sẽ cần bác sĩ. Mình đã không tin mà Ý nghĩ này, nó phi nước đại trong đầu anh, vội vàng bị buộc cặp một cách nghịch lý với sự cần thiết phải khẩn trương trong khi anh giúp ông bác sĩ già tìm chìa khóa của cái két sắt để lấy ra chiếc chìa khóa xe hơi. Hai người cuối cùng tìm ra nó, và trong một thời gian sự cần thiết phải khẩn trương lại đi tay trong tay với sự di chuyển, tốc độ, trên con đường vắng lặng, trong buổi rạng đông trống trải. Đúng là như vậy, trừ phi là anh đã từ bỏ toàn bộ thực tại, tất cả sự kinh hãi và lo sợ, và đặt chúng vào tay viên bác sĩ bên cạnh anh, như người ta thường làm. Dù sao đi nữa, điều này đưa anh tới căn lều, và hai người xuống xe hơi và đi về phía cửa, ngọn đèn vẫn còn cháy sáng bên trong: vào khoảnh khắc đó, anh chạy trong chỗ đứt quãng cuối cùng của sự yên bình trước khi cú đòn giáng xuống và cái có móng vuốt đến bấu chặt anh từ phía sau. Ngay lúc đó anh nghe tiếng đứa bé khóc. Ngay lúc đó anh hiểu ra. Trời đang sáng nhanh. Anh đứng đó, trầm lặng, trong sự yên bình giá lạnh, trong sự tỉnh thức lặng lẽ - nhỏ nhoi, khó tả, anh, một người mà không ai, bất kể đàn ông hay đàn bà và bất kể ở đâu, quay đầu lại hai lần để nhìn. Bây giờ anh biết là bao giờ cũng có cái gì đó đã bảo vệ anh chống lại sự cần thiết phải tin, và cũng đã bảo vệ anh bằng cách làm anh tin. Với sự ngạc nhiên khô khan và cứng nhắc, anh nghĩ Như thể không phải cho tới khi bà Hines gọi mình và mình nghe tiếng cổ và thấy mặt cổ và biết ra rằng Byorn Bunch chẳng là gì cả trên thế gian này đối với cổ ngay lúc đó, rằng mình nhận ra là cổ chẳng còn trinh Và anh nghĩ chuyện này thật là kinh khủng, nhưng chưa hết đâu. Còn có chuyện khác nữa. Đầu vẫn giữ thẳng, anh đứng bất động trong buổi rạng đông đang lớn dần, và anh nghĩ một cách bình thản Và chuyện đó cũng dành cho mình nữa như ông mục sư Hightower nói. Giờ thì mình sẽ phải nói ra với ổng. Mình sẽ phải nói ra với Lucas Burch Ý nghĩ này, bây giờ, không còn hiện ra trong đầu anh như cái gì tự nhiên nữa, nhưng đúng hơn, nó như là nỗi tuyệt vọng não nề và không thể cứu chữa được của thời thanh niên mới lớn Sao! Nhưng tới tận bây giờ mình thậm chí không hề tin rằng hắn là như vậy. Mình có cảm tưởng rằng mình, cổ, và tất cả những người khác mà mình đã phải lôi kéo vào chuyện này, chỉ là một đống từ ngữ không hề có nghĩa lý gì hết, rằng chúng ta thậm chí không phải là chúng ta, trong khi cái là chúng ta thì nó luôn sống tiếp và sống tiếp mà không thấy tiếc là đã không có chữ nghĩa để chỉ định chúng ta. Đúng vậy, chỉ bây giờ mình mới tin hắn là Lucas Burch. Thật buồn là có thật một tên Lucas Burch

"May mắn," Hightower nói; "May mắn. Tôi không biết tôi có nó hay không." Nhưng viên bác sĩ đã đi vào trong căn lều. Hightower còn ngoái đầu nhìn thêm một lát nữa, nhìn mấy người đang ở gần giường, và ông vẫn nghe giọng nói vui vẻ của viên bác sĩ. Người đàn bà già giờ đây ngồi yên, vậy mà trong khi nhìn lại bà ông có cảm tưởng là chỉ mới vài khoảnh khắc trước đó thôi ông đã giành giựt với bà để lấy lại đứa bé vì sợ rằng bà buông rơi nó trong nỗi kinh hãi vừa ngu ngốc, vừa giận dữ của bà. Sự ngu ngốc đó không làm giảm đi sự giận dữ sau khi đứa bé gần như bị lôi ra khỏi người mẹ nó, bà vừa cầm nó giơ lên rất cao, cả thân hình nặng nề của bà như thu mình lấy đà nhảy vọt lên khiến bà trông giống như con gấu, vừa nhìn trừng trừng lão già đang nằm ngủ trên giường. Lão đã ngủ như vậy khi Hightower đến. Lão dường như không thở chút nào, và bên cạnh giường lão, bà già ngồi gọn trong chiếc ghế khi ông đi vào. Bà trông giống y chang một tảng đá nằm cheo leo bên bờ vực, và trong một khoảnh khắc Hightower nghĩ Bả đã giết lão rồi. Bả đã phòng ngừa từ rất sớm, lần này Rồi sau đó thì ông có quá nhiều việc phải làm; bà thì ở bên cạnh ông mà ông không để ý, cho đến khi bà chộp lấy đứa bé chưa có thở rồi giơ nó lên cao, mắt nhìn trừng trừng lão già đang ngủ trên cái giường kia với bộ mặt của một con cọp cái. Rồi đứa bé thở, kêu khóc, và bà có vẻ trả lời nó cũng bằng một thứ tiếng không ai biết, hoang dã và đắc thắng. Bà hầu như phát cuồng khi Hightower dùng sức giành giựt với bà và lấy được đứa bé từ tay bà trước khi bà làm rớt nó xuống đất. "Bà thấy đó," ông nói. "Nhìn kìa! Lão nằm yên đó mà. Lần này lão sẽ không bắt nó đem đi nữa đâu." Tuy nhiên, bà cứ chằm chằm nhìn ông, với sự ngu độn thú vật, như thể bà không hiểu tiếng Anh. Nhưng sự giận dữ, vẻ đắc thắng đã biến khỏi mặt bà: bà kêu lên một tiếng khàn khàn, rên rỉ, và tìm cách lấy lại đứa bé từ tay ông. "Cẩn thận đó nghe," ông nói. "Xin bà cẩn thận một chút!" Bà vừa rên rỉ, vừa gật đầu, đưa tay nhẹ nhàng sờ soạng đứa bé. Nhưng hai bàn tay bà thì không run nữa và ông để bà tiếp tục. Và giờ thì bà ngồi ôm nó vào lòng. Viên bác sĩ đã đến quá trễ thì giờ đây đứng bên cạnh giường, nói chuyện với cái giọng vui vẻ, nhưng hay gắt của ông trong khi hai tay ông bận rộn. Hightower quay người lại và đi ra ngoài. Ông cẩn thận bước xuống cái bậc tam cấp đã bị bể, đặt chân xuống đất như một người già, như thể trong cái bụng nhẽo nhèo của ông có cái gì đó chết người, căng thẳng hết sức, cái gì đó giống như thuốc nổ vậy. Rạng đông đã trốn chạy; giờ là buổi sáng: mặt trời đã lên. Ông dừng bước, đưa mắt nhìn xung quanh. Ông gọi: "Byron ơi." Không có trả lời. Rồi ông thấy là con la mà ông đã buộc vào một cái cột hàng rào gần đó giờ cũng đã biến mất. Ông thở dài. 'Thôi được,' ông nghĩ. 'Vậy là mình đã đạt đến đỉnh điểm của sự sỉ nhục mà mình phải chịu đựng dưới bàn tay của tên Byron, là phải lội bộ hai dặm đường để về nhà. Điều này thì không xứng đáng với Byron, không xứng đáng với lòng căm ghét. Nhưng chuyện xảy ra rất thường là những hành động của chúng ta thì lại không xứng đáng với chúng ta. Và chúng ta thì cũng không xứng đáng với chúng.'

Ông chậm rãi đi bộ về phố - một con người hốc hác, bụng to, với cái mũ rơm rộng vành lấm bẩn và cái đuôi áo sơ-mi bằng vải bông thô được nhét tàm tạm vào trong cái quần tây màu đen. 'May mà mình chịu khó bỏ thì giờ ra mang giày,' ông nghĩ. 'Mình thấm mệt rồi,' ông nghĩ một cách bực dọc. 'Mình thấm mệt rồi, và sẽ không tài nào ngủ được.' Ông vừa bước đi, vừa suy nghĩ một cách bực dọc và rã rời cho tới khi ông rẽ vào cổng nhà. Mặt trời giờ đã lên cao, thành phố đã thức dậy; ông ngửi thấy mùi khói đây đó của bữa ăn sáng mà người ta đang nấu. 'Bởi vì anh ta đã không muốn để lại con la cho mình sử dụng,' ông nghĩ, 'thì lẽ ra anh ta có thể chạy đến nhà mình trước và bật lửa lò bếp sẵn cho mình. Đó là điều tối thiểu mà anh ta có thể làm. Bởi vì anh ta cho rằng mình sẽ ăn ngon miệng hơn nếu mình lội bộ đi dạo hai dặm trước khi ăn.'

Ông vào bếp và bật lửa ở lò, chậm chạp và vụng về; cũng vụng về như ngày đầu tiên, hai mươi lăm năm trước đây, khi ông thử làm. Ông đặt bình cà phê lên lò. 'Sau đó mình sẽ leo lên giường lại,' ông nghĩ. 'Nhưng mình biết sẽ không ngủ được.' Nhưng ông nhận ra là các ý nghĩ của ông có cái gì đó ảo não, giống như những lời rên rỉ thầm lặng của một người đàn bà ưa than vãn không lắng nghe ngay cả lời mình nói; rồi ông thấy mình đang sửa soạn bữa ăn sáng thịnh soạn như thường lệ, và ông ngừng lại hẳn, tặc lưỡi như thể ông đang tức giận. 'Mình phải cảm thấy khó chịu hơn nữa chớ,' ông nghĩ. Nhưng ông phải thừa nhận là ông đã không cảm thấy khó chịu. Và trong khi ông đứng đó, cao lớn, không ra hình thù gì, cô đơn trong căn bếp trống vắng và không được giữ gìn sạch sẽ, ngăn nắp, tay cầm cái chảo rán bằng sắt mà trong đó mỡ chiên ngày hôm qua đã vón cục thảm thê, ông cảm thấy đi xuyên qua người một cảm giác ấm áp, một làn sóng, một sự trào dâng, một thứ nhiệt, gần như một cảm tưởng đắc thắng. 'Mình đã chỉ bảo họ!' ông nghĩ. 'Cuộc đời còn hồi sinh trong ông già này khi họ đến quá trễ. Họ đến để tìm những cái còn thừa của ông ta, như Byron hẳn sẽ nói.' Nhưng ý tưởng này chỉ là sự kiêu căng, và sự tự hào trống rỗng. Vậy mà cái cảm giác ấm áp, chậm rãi và đang mất dần, thì bất chấp nó và trơ trơ trước những lời quở trách. Ông nghĩ, 'Rồi sao nữa đây? Nếu mình thực sự cảm thấy điều đó thì sao? Khi nào đó sẽ là một ý thức đắc thắng và tự hào? Rồi sao nữa đây?' Nhưng sự ấm áp, cái cảm giác ấm áp đó, rõ ràng là không để ý đến mà cũng không cần sự hỗ trợ. Nó cũng chẳng bị làm nguội lạnh bởi một trái cam, những quả trứng và bánh mì nướng phết bơ và mứt. Và ông nhìn xuống những cái dĩa trống dính bẩn ở trên bàn và ông nói, thật to bây giờ: "Trời ơi, mình thậm chí không định rửa bát dĩa bây giờ mà." Ông cũng không đi vào phòng để tìm cách dỗ giấc ngủ. Ông vừa đi tới tận cửa, nhìn vào phòng ngủ, vẫn với cảm giác ấm áp tự hào, có mục đích rõ ràng, trong người, vừa nghĩ, 'Giá như mình là đàn bà, lúc này. Đây là điều có thể một người đàn bà sẽ làm: trở vào giường để nghỉ ngơi.' Ông đi vào phòng làm việc. Với tướng bộ của một người có mục đích để tiến tới. Từ hai mươi lăm năm nay, ông là người đã không bao giờ làm gì hết giữa lúc thức dậy cho đến khi đi ngủ lại. Và bây giờ, Tennyson không phải là cuốn sách ông chọn. Lần này ông cũng chọn thực phẩm nuôi dưỡng con người. Đó là cuốn Henry Đệ tứ[111], và ông đi ra sân sau nhà, ngã lưng xuống chiếc ghế võng đã bị chùng đặt dưới cây dâu tằm. Ông buông tấm thân nặng nề nghe cái phịch xuống ghế. 'Nhưng mình không thể ngủ được,' ông nghĩ, 'bởi vì Byron sẽ tới đây sớm để đánh thức mình dậy. Nhưng nội cái việc để biết anh ta còn có thể nghĩ ra trò gì nữa đây để yêu cầu mình làm thì mình tiếc gì mà không thức dậy chớ.'

Ông ngủ nhanh, gần như tức khắc, và bắt đầu ngáy. Ai đó có đi ngang và dừng chân nhìn xuống cái ghế thì hẳn sẽ thấy, dưới ánh phản chiếu song đôi của bầu trời trên cặp kính, một khuôn mặt ngây thơ, yên bình và tự tin. Nhưng không ai đến. Tuy nhiên, khi thức dậy gần sáu tiếng đồng hồ sau đó, ông có cảm tưởng là có người nào đó đã gọi ông. Ông ngồi dậy đột ngột, chiếc ghế kêu cọt kẹt dưới người ông. "Vâng?" ông nói. "Vâng? Có chuyện gì vậy?" Nhưng không có ai ở đây cả, tuy ông nhìn quanh thêm một vài giây nữa. Ông hình như đang nghe, chờ đợi, với cái vẻ tự tin và mạnh mẽ. Và cái cảm giác ấm áp đó vẫn chưa rời ông. 'Tuy mình đã hy vọng là nó sẽ tiêu tan đi khi ngủ,' ông nghĩ. Và ngay tức khắc sau đó, ông nghĩ, 'Không. Mình không có ý nói là mình đã hy vọng. Thực ra, trong ý nghĩ của mình, đó là mình đã sợ. Vậy là mình cũng đã đầu hàng rồi đó,' ông nghĩ, thầm lặng, trầm tĩnh. Ông bắt đầu xoa hai bàn tay với nhau, lúc đầu dịu dàng, rồi có vẻ hơi xấu hổ. 'Mình cũng đã đầu hàng. Và mình sẽ tự cho phép... Đúng đó. Có lẽ điều này cũng dành riêng cho mình đây. Và như vậy mình sẽ tự cho phép...' Rồi thì ông nói ra điều đó, ông nghĩ điều đó Đứa bé đó, mà mình giúp sinh ra đời. Không ai mang họ của mình cả. Nhưng mình đã biết những đứa bé được các mẹ chúng, để tỏ lòng biết ơn, đã cho chúng mang những tên người bác sĩ đã đỡ đẻ cho họ. Nhưng như vậy thì lại có Byron. Dĩ nhiên, Byron sẽ đi trước mình. Vậy thì nàng phải có những đứa khác, nàng phải có nhiều hơn ông nhớ lại cái thân thể trẻ trung, mạnh khỏe, dù đau đẻ, vẫn để lộ ra cái gì đó trầm tĩnh và can đảm. Những đứa khác, nhiều đứa hơn nữa. Cuộc đời nàng là như vậy. Số phận nàng là như vậy. Cái chủng tộc tốt đẹp đó cư ngụ trên quả đất lành này, trong sự phục tùng thầm lặng trước nó; mẹ, con gái, theo nhau ra đời không hấp tấp hay vội vàng, từ những cửa mình mạnh khỏe đó. Nhưng lần tới là do Byron sinh ra. Tội nghiệp anh chàng. Dù anh ta đã để mình lội bộ về nhà

Ông đi vào nhà. Ông cạo râu, cởi chiếc áo ngủ rồi mặc cái áo sơ-mi mà ông đã mặc hôm qua, và cổ cồn, đeo cái cà vạt bằng vải lanh và đội cái mũ rơm rộng vành. Thời gian ông từ nhà đi ra chỗ căn lều thì ít hơn từ đó về nhà, dù bây giờ ông đi xuyên qua các khu rừng cây mà các lối mòn thì khó đi hơn. 'Mình phải đi bộ thường hơn nữa,' ông nghĩ, dưới ánh mặt trời khi có, khi không. Và ông cảm thấy hơi nóng, cảm thấy cái mùi hoang dã và màu mỡ của đất, rừng cây, sự im lặng bao trùm. 'Đáng lẽ mình không nên đánh mất thêm cái thói quen này. Nhưng có lẽ cả hai sẽ trở lại với mình, dù thói quen thứ hai này thì khác sự cầu kinh.'

Ông ra khỏi khu rừng cây, ở tận đầu kia của cánh đồng cỏ, đằng sau căn lều. Xa hơn căn lều, ông thấy khóm cây mà ở đó ngôi nhà đã được dựng lên và đã cháy rụi. Tuy nhiên, từ chỗ ông đứng thì ông không thể thấy đám tro than câm nín của những thứ trước kia là cột kèo và gỗ sàn nhà. 'Tội nghiệp bà ấy,' ông nghĩ. 'Tội nghiệp bà ấy không con cái gì cả! Đã không được sống thêm một tuần nữa để thấy sự may mắn trở lại nơi chốn này. Để thấy sự may mắn và cuộc sống trở lại trên mảnh đất cằn cỗi và đổ nát này.' Ông có cảm tưởng là xung quanh mình, ông thấy, cảm thấy những bóng ma của các cánh đồng màu mỡ, cuộc sống sung túc và phong phú của người da đen ở đồn điền, những tiếng kêu dịu dàng, sự hiện diện của những người đàn bà mắn đẻ, đám con nít đông đảo, ở truồng, chơi đùa trong đám bụi mù trước cửa nhà; và ngôi nhà to lớn đó, ồn ào, vang dội những tiếng la hét của ba thế hệ. Ông đến trước căn lều. Ông không gõ cửa, nhưng ông đã đưa tay tự mở cửa rồi gọi to với giọng vui vẻ, gần như oang oang: "Bác sĩ có thể vào được chớ?"

Không có ai trong căn lều, ngoại trừ người mẹ và em bé. Nàng ngồi dựa trên giường và đang cho con bú. Khi Hightower đi vào, nàng vội kéo tấm ra lên che bộ ngực trần, mắt nhìn ra cửa, không lo ngại nhưng cảnh giác, mặt lộ vẻ thanh thản và niềm nở, làm như nàng sắp sửa mỉm cười. Ông thấy tất cả điều này biến dần đi. "Tôi tưởng -" nàng nói.

"Ai mà cô tưởng đó?" ông nói oang oang. Ông đến bên giường và nhìn xuống nàng, xuống khuôn mặt bé xíu nhăn nheo màu đất nung của đứa bé, nó có vẻ bị treo, không thấy thân hình, vào vú mẹ và còn ngủ. Một lần nữa, nàng kéo tấm ra lên cao hơn, nhu mì và bình thản, trong khi phía trên nàng, người đàn ông hốc hác, hói đầu, bụng phệ đứng nhìn nàng với vẻ mặt dịu dàng, rạng rỡ và đắc thắng. Nàng đang nhìn xuống đứa bé.

"Có vẻ như nó không quen được sao đó. Tôi tưởng nó ngủ lại nên để nó xuống giường, ai dè nó lại khóc thét lên và tôi phải bồng nó lại."

"Cô không nên ở đây một mình," ông nói. Ông nhìn quanh căn phòng. "Nơi mà..."

"Bả cũng đi rồi. Xuống phố đó. Bả không nói, nhưng đúng là bả đi xuống đó. Lão lẻn đi mất, và khi bả thức dậy thì hỏi tôi lão đâu và tôi nói lão đi ra ngoài, và bả đi theo lão."

"Xuống phố à? Lẻn đi sao?" Rồi ông nói "Ồ" một cách nhỏ nhẹ. Mặt ông giờ lộ vẻ đăm đăm.

"Bả theo dõi lão suốt ngày. Và lão cũng theo dõi bả nữa. Tôi thấy lão rõ mà. Lão giả đò ngủ thôi. Nhưng bả tưởng lão ngủ. Và như vậy sau bữa ăn tối bả chẳng còn hơi sức đâu nữa. Bả đã không nghỉ ngơi chút nào đêm qua, và sau khi ăn tối bả ngồi xuống ghế rồi ngủ gà ngủ gật. Và lão cứ lén nhìn bả, và lão thận trọng đứng dậy từ chiếc giường kia, nhăn mặt và nháy mắt với tôi. Lão đi ra cửa, vẫn ngoái đầu nhăn mặt và nháy mắt với tôi, đi nhón chân ra ngoài. Và tôi không tìm cách chặn lão lại hay đánh thức bả." Nàng nhìn Hightower, mắt mở to, nghiêm trọng. "Tôi lại sợ nữa. Lão nói chuyện thì mắc cười quá. Và lão nhìn tôi thấy kỳ kỳ sao đó! Như thể lão nhăn mặt, lão nháy mắt là không phải biểu tôi đừng đánh thức bả, mà là để cảnh báo tôi nên liệu hồn nếu tôi đánh thức bả. Và tôi cũng thấy sợ nữa. Và như vậy tôi nằm yên với em bé đây và chẳng mấy chốc bả giựt mình thức dậy. Và lúc đó tôi biết là bả đã không hề muốn ngủ. Làm như bả vừa thức dậy vừa chạy về phía cái giường nơi lão đã nằm trước đó. Bả rờ rẫm nó làm như bả không thể tin là lão đã đi rồi. Bả cứ đứng đó, bên cái giường, tay sờ soạng cái mền như thể bả tin là, có lẽ vậy, lão còn ở đâu đó, nấp trốn dưới cái mền. Rồi thì bả liếc mắt nhìn tôi, một lần. Bả không nhăn mặt, không nháy mắt, nhưng tôi gần như ước gì bả làm vậy. Và bả hỏi tôi, tôi nói và bả lấy mũ đội lên đầu rồi đi ra ngoài." Nàng nhìn Hightower. "Bả đi khỏi đây làm tôi mừng húm. Có lẽ tôi không nên nói vậy, sau tất cả những việc bả đã làm cho tôi. Nhưng..."

Hightower vẫn đứng bên giường. Ông có vẻ không thấy nàng. Vẻ mặt ông thì rất nghiêm trọng; như thể ông đã già đi hơn mười tuổi trong khi đứng đó. Hay là bộ mặt ông bây giờ là bộ mặt thật của ông chứ không phải bộ mặt xa lạ với chính nó như khi ông đi vào căn phòng. "Xuống phố," ông nói. Rồi cặp mắt ông thức tỉnh, thấy lại. "Đành vậy. Chúng ta đâu làm gì được nữa bây giờ," ông nói. "Hơn nữa, những người trong phố, những người biết phải trái... sẽ có vài người như vậy... Tại sao cô lại mừng khi họ đi khỏi đây?"

Nàng hạ ánh mắt xuống. Một bàn tay nàng xoa xoa phía trên đầu em bé nhưng không chạm đến nó: một cử chỉ theo bản năng, không cần thiết và hình như vô ý thức. "Bả tử tế lắm. Hơn cả tử tế nữa. Ẵm con cho tôi nghỉ ngơi. Bả muốn ẵm bồng nó suốt, ngồi ở cái ghế đó - Xin ông thứ lỗi cho, tôi đã quên mời ông ngồi." Nàng nhìn ông kéo ghế lại gần giường và ngồi xuống. "... Ngồi ở đó thì bả có thể theo dõi ổng ở trên giường kia, nơi ông giả bộ ngủ." Nàng nhìn Hightower; đôi mắt nàng lộ vẻ lo lắng, dò hỏi. "Bả cứ gọi em bé là Joey trong khi nó đâu có mang cái tên đó. Và bả cứ..." Nàng nhìn Hightower với đôi mắt giờ đây bối rối, chất vấn, nghi ngờ. "Bả cứ nói về - bả bị lúng túng, rối trí hay sao đó. Và tôi đôi khi cũng bị rối trí theo, vì nghe bả, vì phải nghe bả..." Đôi mắt nàng, chữ nghĩa nàng, dò dẫm, lóng ngóng.

"Rối trí sao?"

"Bả cứ nói hoài về em bé như thể cha nó là... cái người đang ở tù, cái ông Christmas đó. Bà cứ nói đi nói lại suốt khiến tôi cũng bị nhập tâm luôn; đôi khi tôi không thể - tôi cũng bị rối trí quá trời luôn và tôi cũng nghĩ cha nó là ông - ông Christmas đó nữa -" Nàng nhìn ông; như thể nàng đang cố gắng ghê gớm lắm để nói tiếp. "Nhưng tôi biết là không phải vậy. Tôi biết đó là ngu ngốc. Nhưng vì bả cứ lặp đi lặp lại mãi chuyện đó, và có lẽ tôi chưa đủ mạnh mẽ nên rốt cuộc tôi cũng bị rối trí luôn. Nhưng tôi sợ..."

"Sợ cái gì?" Hightower hỏi.

"Tôi không muốn bị lúng túng, bị rối trí. Và tôi sợ bả có thể làm cho tôi rối trí hẳn, như người ta nói, một khi mình giả bộ làm mắt mình lé đi thì sau đó mắt mình không thể trở lại bình thường được nữa..." Nàng ngừng nhìn ông. Nàng không cử động. Nàng cảm thấy ông đang nhìn nàng.

"Cô nói tên em bé không phải là Joey. Vậy nó tên gì?"

Nàng không nhìn Hightower trong vài khoảnh khắc nữa. Rồi nàng ngước mắt lên. Nàng nói, một cách quá đột ngột, quá dễ dãi: "Tôi chưa đặt tên cho con."

Và ông biết tại sao. Ông có cảm tưởng ông thấy nàng lần đầu tiên từ khi ông bước vào trong phòng. Ông nhận ra, lần đầu tiên, nàng vừa mới chải tóc và nàng cũng đã rửa mặt cho tươi tỉnh, và ông thấy, nửa như giấu dưới tấm ra như thể nàng đã vội vàng ném xuống, một cái lược và một mảnh gương vỡ. "Khi tôi đi vào, cô đang trông đợi ai đó. Và không phải tôi. Cô đợi ai vậy?"

Nàng không nhìn đi chỗ khác. Gương mặt nàng không phản chiếu sự ngây thơ hay sự lừa dối. Nhưng nó cũng không được điềm tĩnh hay bình thản. "Tôi đợi ai à?"

"Có phải Byron Bunch mà cô đợi không?" Nàng vẫn không nhìn đi chỗ khác. Bộ mặt của Hightower thì điềm đạm, rắn rỏi và dịu dàng. Thế nhưng nó vẫn lộ ra một tính cách tàn nhẫn mà nàng đã thấy trên mặt của một vài người tử tế nàng quen biết, thường là đàn ông. Ông khom người và đặt bàn tay mình lên bàn tay nàng, nơi nó nâng người em bé. "Byron là một người đàn ông tử tế," ông nói.

"Tôi cho là tôi biết điều này, biết rõ như bất cứ ai. Ảnh tử tế hơn phần lớn những người khác."

"Và cô là một người đàn bà tử tế. Cô sẽ là như vậy. Tôi không muốn nói -," ông nói nhanh. Rồi ông ngừng. "Tôi đã không muốn nói -"

"Tôi cho là tôi biết," nàng nói.

"Không. Không phải điều này đâu. Điều này thì chẳng quan trọng gì. Điều này thì chưa là gì hết. Tất cả đều tùy thuộc vào những gì cô làm sau này với nó. Với chính cô. Với những người khác." Ông nhìn nàng; nàng vẫn không nhìn đi chỗ khác. "Hãy để anh ta đi khỏi đây. Tống anh ta đi xa cô." Hai người nhìn nhau. "Này con gái, hãy đuổi anh ta đi. Cô chắc hẳn bằng nửa tuổi anh ta hay hơn một chút. Nhưng cô đã sống hơn anh ta gấp đôi. Anh ta sẽ không bao giờ vượt được cô, bắt kịp cô, bởi vì anh ta đã phung phí quá nhiều thời gian. Và điều này nữa, cái rỗng không của anh ta thì cũng không thể cứu chữa được như cái vẹn toàn của cô. Anh ta không thể trở ngược ra sau mà hành động cũng như cô không thể trở ngược ra sau mà hủy bỏ. Cô có một đứa con trai không phải con anh ta, mà là con của một người đàn ông không phải là anh ta. Cô sẽ mang, bằng sự áp đặt, vào đời anh ta hai người đàn ông và chỉ một phần ba của một người đàn bà. Anh ta ít ra cũng phải xứng đáng được thấy rằng cái rỗng không trong đó anh ta sống từ ba mươi lăm năm nay bị xâm phạm, nếu nó phải bị xâm phạm, mà không cần sự có mặt của hai nhân chứng. Hãy đuổi anh ta đi!"

"Đó không phải việc mà tôi phải làm. Ảnh thì tự do mà. Ông hãy hỏi ảnh xem. Tôi đã không hề làm gì để giữ ảnh lại."

"Quả vậy. Chắc là cô hẳn không thể giữ anh ta lại, nếu cô có thử làm đi nữa. Quả vậy. Giá như cô biết cách thử. Nhưng như vậy, nếu cô biết cách thì cô hẳn sẽ không ở đây, trên cái giường này, với em bé này nằm trong lòng. Và cô không muốn đuổi anh ta đi phải không? Cô không muốn nói ra cái từ đó phải không?"

"Tôi không thể nói gì hơn những gì tôi đã nói rồi. Và tôi đã nói không với ảnh cách đây năm ngày."

"Nói không à?"

"Ảnh đề nghị tôi lấy ảnh. Ảnh biểu tôi đừng chờ. Và tôi nói không."

"Không biết bây giờ cô có nói không không?"

Nàng nhìn ông chằm chằm. "Có chớ. Tôi cũng sẽ nói như vậy, bây giờ."

Ông thở dài, tiếng thở tuôn ra từ cái thân thể béo mập, không ra hình thù gì; khuôn mặt ông thấy thoải mái trở lại, và mệt mỏi. "Tôi tin cô. Cô sẽ tiếp tục nói không cho tới khi cô thấy..." Ông nhìn nàng lần nữa; và ánh nhìn của ông thì chăm chú, nghiêm khắc. "Byron, anh ta ở đâu?"

Nàng nhìn ông. Sau một lúc, nàng nói nhỏ nhẹ: "Tôi không biết." Nàng nhìn ông, và khuôn mặt nàng bỗng dưng trống trơn, như thể cái gì đó đã cho nó sự rắn chắc, sự vững bền thì bắt đầu rút đi. Bây giờ thì không còn gì là lừa dối, không còn gì là cảnh giác hay thận trọng trên khuôn mặt đó cả. "Sáng nay, khoảng mười giờ, ảnh có trở lại. Ảnh không vào trong này. Ảnh chỉ đến bên cửa, ảnh đứng đó và ảnh chỉ nhìn tôi. Và tôi đã không thấy ảnh từ đêm hôm qua và ảnh đã không thấy em bé và tôi nói, 'Anh vào nhìn nó đi,' và ảnh nhìn tôi, vẫn đứng ở cửa, và ảnh nói, 'Tôi đến để hỏi cô khi nào thì cô muốn gặp anh ấy,' và tôi nói, 'Gặp ai?' và ảnh nói, 'Có thể người ta phải cho một cảnh sát đi cùng anh ấy, nhưng tôi có thể thuyết phục ông Kennedy để cho anh ấy đến đây,' và tôi nói, 'Để cho ai đến?' và ảnh nói, "Lucas Burch,' và tôi nói, 'Dạ được,' và ảnh nói, 'Tối nay có được không?' và tôi nói, 'Dạ được,' và ảnh đi. Ảnh chỉ đứng ở đó, và rồi ảnh đi." Nàng bắt đầu khóc, và ông nhìn nàng với nỗi tuyệt vọng của mọi đàn ông trước nước mắt đàn bà. Nàng ngồi thẳng người, đứa bé ở trong lòng, và nàng khóc, không che mặt, không to tiếng, không vật vã, nhưng với một sự khổ sở nhẫn nại và vô vọng. "Và ông đến quấy rầy tôi để biết tôi đã nói không hay nói ừ với ảnh, tôi đã nói không với ảnh và ông quấy rầy tôi và quấy rầy tôi và bây giờ thì ảnh đã bỏ đi. Tôi sẽ không bao giờ gặp lại ảnh nữa." Và ông ngồi đó và nàng cuối cùng gục đầu xuống, và ông đứng dậy và đứng bên cạnh nàng với hai bàn tay đặt lên đầu nàng đang gục xuống, nghĩ Tạ ơn Chúa. Xin Chúa phù hộ con. Tạ ơn Chúa. Xin Chúa phù hộ con

Ông tìm thấy lối đi cũ của Christmas xuyên qua các khu rừng cây dẫn đến xưởng bào. Ông không biết là nó nằm sẵn đó, nhưng khi thấy hướng đi của nó ông có cảm tưởng, trong nỗi hân hoan của mình, đó là một cái điềm. Ông tin lời nàng nói, nhưng ông muốn xác minh thông tin chỉ để có niềm vui đơn giản là nghe lại nó lần nữa. Đồng hồ chỉ đúng bốn giờ khi ông đến xưởng bào. Ông hỏi chuyện ở văn phòng.

"Bunch à?" viên kế toán nói. "Ông sẽ không gặp ổng ở đây đâu. Ổng đã bỏ việc sáng nay."

"Tôi biết, tôi biết mà," Hightower nói.

"Làm việc ở đây năm năm rồi đó, làm cả chiều thứ bảy. Rồi thì sáng nay ổng bước vào đây và nói ổng không muốn làm nữa. Không đưa ra lý do nào cả. Nhưng đó là cung cách xử sự của mấy thứ dân 'thượng'[112] này mà."

"Thôi, thôi," Hightower nói. "Dù sao họ cũng là những người tử tế. Đàn ông cũng như đàn bà." Ông rời văn phòng đó. Con đường về phố đi ngang qua căn nhà đặt máy bào, chỗ làm việc của Byron trước đây. Ông quen Mooney, tên cai thợ. "Tôi mới nghe nói là Byron Bunch không còn ở đây với anh," ông nói khi dừng bước.

"Đúng vậy," Mooney nói. "Nó nghỉ việc sáng nay." Nhưng Hightower không tỏ vẻ nghe hắn nói; những người đàn ông trong bộ quần yếm lao động trố mắt nhìn cái hình dạng tồi tàn, kỳ quặc, không quen mặt lắm bất ngờ xuất hiện nơi họ làm việc: Hightower đang ngắm nhìn với một thứ quan tâm hớn hở những bức tường, những tấm ván dài, những cỗ máy bí ẩn mà ông hẳn không thể hiểu, thậm chí không thể học, sự tồn tại cũng như mục đích của nó. "Nếu ông muốn gặp nó," Mooney nói, "tôi cho là ông sẽ tìm ra nó ở tòa án dưới trung tâm thành phố."

"Ở tòa án à?"

"Thưa ông, đúng vậy. Hội thẩm đoàn họp hôm nay. Triệu tập đặc biệt. Để truy tố thằng sát nhân đó."

"Được rồi, được rồi" Hightower nói. "Vậy là anh ta đã bỏ đi. Ừ, anh ta là người tử tế đấy. Thôi, xin chào, xin chào các ông, xin chào mọi người." Ông lại đi tiếp trong khi những người đàn ông trong bộ quần yếm nhìn theo ông một lúc. Ông chắp tay sau lưng. Ông vừa đi, vừa nghĩ một cách thầm lặng, bình thản và buồn bã: 'Con người đến là tội nghiệp! Anh chàng đó đến là tội nghiệp! Không có, không thể có sự biện minh cho một người nào lấy đi sự sống của người khác, nhất là nếu người này là một quan chức, một người đã tuyên thệ để phục vụ đồng bào mình. Khi điều đó được nhìn nhận một cách công khai bởi bản thân một quan chức do dân bầu[113], biết là chính mình đã không đau khổ dưới bàn tay của nạn nhân của mình, bạn có thể gọi nạn nhân đó bằng bất cứ cái tên gì bạn muốn, thì làm sao chúng ta có thể hy vọng một người, một cá nhân tự kiềm chế khi hắn tin là hắn đã đau khổ dưới bàn tay của nạn nhân của hắn?' Ông tiếp tục bước đi; ông bây giờ đang ở trên con đường riêng của mình. Chẳng mấy chốc ông thấy hàng rào nhà mình, tấm biển gỗ, rồi căn nhà ẩn sau tán lá tháng tám sum sê. 'Vậy là anh ta đã ra đi mà không nói lời từ giã với mình. Sau tất cả những gì anh ta đã làm cho mình. Tất cả những gì anh ta từng trải qua để đến tìm mình. Mình nói gì đây? Tất cả những gì anh ta đã cho mình, tất cả những gì anh ta trả lại mình. Dường như chuyện này cũng dành riêng cho mình nữa. Và mình nghĩ như vậy là hết.'

Nhưng chưa hết đâu. Còn có thêm một chuyện nữa dành riêng cho ông.

18

Khi vào đến trung tâm thành phố, Byron mới biết ra là anh không thể gặp ông cò trước buổi trưa vì ông bận suốt buổi sáng với hội thẩm đoàn đặc biệt. "Ông phải đợi," người ta bảo anh.

"Được rồi," Byron nói. "Tôi biết cách mà."

"Biết cách cái gì?" Nhưng anh không trả lời. Anh rời văn phòng ông cò và dừng chân dưới mái cổng đối diện mặt phía Nam của quảng trường. Từ cái sân hiên hẹp được lát đá phiến, các cột đá nổi lên, uốn vòng cung, mòn cũ với gió mưa, dính bẩn với thuốc lá bị vứt xuống đó trong hàng chục năm. Bên dưới chúng, những người nông dân trong bộ quần yếm đi đi lại lại, đều đặn, kiên nhẫn, nghiêm trang trong sự nhàn rỗi của mình (và ở chỗ này, chỗ nọ, đứng im hay nói chuyện với nhau từ khóe miệng, những thanh niên khá trẻ, những cư dân thành phố mà Byron biết vài người trong bọn họ là nhân viên văn phòng, luật sư trẻ và ngay cả thương gia, tất cả nói chung đều mang vẻ hống hách y hệt nhau, giống như những viên cảnh sát tuy giả dạng thường dân mà lại không để ý gì đặc biệt đến việc giả dạng có che giấu được tướng bộ cảnh sát của mình hay không), trông gần giống như những thầy tu trong tu viện, nói chuyện một cách kín đáo giữa họ với nhau về tiền bạc và mùa màng, thỉnh thoảng yên lặng ngước mắt nhìn lên trời, về phía trần nhà tòa án mà ở dưới nó các thành viên của hội thẩm đoàn sắp sửa, đằng sau những cánh cửa đóng kín, lấy đi mạng sống của một người đàn ông mà ít ai trong bọn họ đã bao giờ thấy mặt trước đó để biết, vì tội đã lấy đi mạng sống của một người đàn bà mà thậm chí còn ít người hơn trong bọn họ đã bao giờ biết trước đó để thấy mặt. Những chiếc xe la và xe hơi đầy bụi đưa họ đến đây thì đậu xung quanh quảng trường, dọc theo những con đường lân cận, và những bà vợ và con gái đi theo họ vào phố thì bước vào, bước ra những cửa tiệm theo từng nhóm nhỏ, chậm rãi và cũng không có mục đích, giống như các con gia súc hay những đám mây. Byron đứng đó khá lâu, bất động, người không tựa vào cái gì hết - một người đàn ông nhỏ con từng sống ở thành phố này bảy năm mà tên họ hay các thói quen thì được biết đến bởi số người nhà quê thậm chí còn ít hơn số người nhà quê biết về tên giết người hay người bị giết.

Byron không có ý thức về điều này. Bây giờ thì anh không để ý tới, tuy cách đây một tuần lễ thì hẳn đã khác. Trong trường hợp đó, anh đã không đứng ở đây, nơi mà mọi người có thể thấy anh và có lẽ nhận ra anh:

A, Byron Bunch, kẻ khác ăn ốc mà gã đổ vỏ đây. Một gã bỏ công ra chăm sóc con điếm của một tên đàn ông khác trong khi tên đó bận rộn làm ra một ngàn đô-la. Và chẳng nhận lại được gì. Byron Bunch đã ra sức bảo vệ thanh danh của người đàn bà trong khi người đàn bà sở hữu cái thanh danh đó và người đàn ông mà nàng ta đã trao gởi nó, cả hai đều ném nó vào thùng rác. Byron Bunch đã xoay sở để đứa con hoang của tên đàn ông đó sinh ra bình yên, kín đáo và mọi phí tổn thì gã chịu, và gã nghe được tiếng khóc của nó chỉ một lần, với số tiền mà gã đã chi trả. Byron Bunch chẳng nhận lại được gì, ngoài việc được cho phép đi tìm tên đàn ông kia mang về cho nàng ta ngay sau khi y lãnh một ngàn đô-la và cuối cùng Byron trở nên vô dụng. Ôi, Byron Bunch 'Và bây giờ mình có thể ra đi được rồi,' anh nghĩ. Anh bắt đầu thở sâu. Anh có thể cảm thấy mình thở sâu, như thể mỗi lần thở hai lá phổi anh lại sợ đến lượt thở vào tiếp theo, chúng không thể hấp thu đủ không khí, như thể anh lo ngại một cái gì kinh khiếp sẽ xảy ra, như thể anh lúc nào cũng có thể cúi xuống nhìn mình thở, nhìn ngực mình và không thấy nó cử động gì cả, giống như khi ống thuốc nổ được chuẩn bị cho bây giờ Bây giờ BY GIỜ mà hình dạng bên ngoài của cái ống không thay đổi; những người đi ngang qua và nhìn anh thì không thể thấy sự thay đổi: vẫn là một người đàn ông nhỏ con mà người ta sẽ không nhìn đến hai lần, mà người ta sẽ không bao giờ tin là anh ta đã làm những chuyện anh ta đã làm và đã cảm nhận những điều mà anh ta đã cảm nhận, và người đàn ông nhỏ con đó đã từng tin rằng, ngoài kia, một mình ở xưởng bào vào một chiều thứ bảy, anh ta đã không bị một nguy cơ nào đe dọa cả.

Anh bước đi giữa mọi người. 'Mình phải đi về đâu đó,' anh nghĩ. Tại sao không để bước chân anh nhịp theo câu nói này? 'Mình phải đi về đâu đó.' Điều này sẽ giúp anh đi tới. Anh còn đang lập lại câu nói thì đã đến ngôi nhà trọ. Phòng anh nhìn ra đường. Trước khi nhận ra là mình đã bắt đầu nhìn về phía nó, anh đưa mắt sang hướng khác. 'Có thể mình thấy ai đó đang ngồi đọc hay hút thuốc ở cửa sổ,' anh nghĩ. Anh đi vào trong hành lang. Sau buổi sáng đầy nắng, anh không thể nhìn ra gì cả ngay tức khắc. Anh ngửi thấy mùi vải nhựa lót sàn còn ướt và mùi xà bông. 'Vẫn còn là ngày thứ hai,' anh nghĩ. 'Mình đã quên khuấy đi mất. Có lẽ là thứ hai tới. Mình có cảm tưởng đó phải là như vậy.' Anh không gọi. Sau một lát, anh nhìn thấy rõ hơn. Anh nghe thấy tiếng gậy lau nhà ở cuối hành lang hay có lẽ trong bếp. Rồi trong cái hình chữ nhật có ánh sáng, là cánh cửa sau nhà cũng để mở, anh thấy cái đầu của bà Beard đang cúi xuống, rồi cái bóng của cả người bà hiện ra, bước về phía anh trong hành lang.

"Ủa," bà nói. "A, ông Byron Bunch đây mà! Ông Byron Bunch đây mà!"

"Dạ, chào bà," anh nói, trong khi nghĩ, 'Chỉ có một bà mập không có chuyện lo nghĩ nào khác hơn là cái xô nước lau nhà mới tưởng mình phải cố sức để không...' Một lần nữa, anh không thể nghĩ ra cái từ mà Hightower biết và sử dụng mà không cần phải nghĩ đến. 'Làm như mình không những không thể làm bất cứ chuyện gì mà không lôi kéo ông ta vào, mà mình thậm chí cũng không thể suy nghĩ mà không có ông ta giúp vào.' "Dạ," anh nói. Và anh cứ đứng đực người ra đó, thậm chí không đủ sức bảo bà là anh đến để chào từ biệt. 'Có lẽ mình đến không phải vì chuyện này,' anh nghĩ. 'Mình cho là khi đã sống trong một căn phòng suốt bảy năm trời thì người ta không thể rời bỏ nó trong một ngày. Chỉ phải cái là điều này sẽ không cản bà ấy cho thuê nó, cái phòng đó, mình nghĩ vậy.' - "Tôi cho là tôi nợ bà một ít tiền thuê," anh nói.

Bà nhìn anh. Bà có khuôn mặt cứng cỏi, dễ chịu, không phải là không tử tế. "Tiền thuê cái gì?" bà nói. "Tôi tưởng là anh đã ở yên một chỗ rồi chớ. Đã quyết định ở dưới lều cả mùa hè mà." Bà nhìn anh. Rồi bà nói ra với anh. Một cách nhẹ nhàng, khéo léo và nể nang. "Tôi đã nhận tiền thuê phòng đó rồi."

"Ồ," anh nói. "Thôi được. Tôi hiểu. Thôi được." Anh lặng lẽ nhìn lên cái cầu thang được lót vải nhựa có sọc, được bảo trì tốt, nhưng đôi bàn chân anh cũng đã từng làm mòn nó ít nhiều. Khi khúc vải nhựa mới được đặt lên cách đây ba năm, anh là người đầu tiên trong số những người ở trọ đã đi trên nó. "Ồ," anh nói. "Thôi, tôi nghĩ tốt hơn tôi..."

Bà cũng trả lời câu nói nửa chừng này, ngay tức khắc, không phải là không tử tế. "Tôi đã lo việc ấy rồi. Tôi đã bỏ mọi thứ ông còn để lại trong cái túi du lịch của ông. Nó ở trong phòng tôi. Tuy nhiên, nếu ông muốn đi lên tự mình coi thì đi."

"Tôi không muốn đâu. Tôi nghĩ bà đã gom lại mọi... Thôi được, tôi nghĩ..."

Bà đang nhìn anh. "A, đàn ông các ông!" bà nói. "Chẳng có gì lạ khi đàn bà mất hết kiên nhẫn với các ông. Các ông thậm chí không thể biết được những giới hạn của các trò tinh quái của các ông. Vả lại, tôi có thể đo các giới hạn này với một cái đinh ghim chứ chẳng khó gì. Tôi cho là nếu không phải chuyện lúc nào cũng lôi kéo vài người đàn bà vào để giúp các ông, thì người ta hẳn sẽ đưa tất cả các ông lên thiên đường từ khi chưa lên mười rồi, dù các ông có la hét chống đối đi nữa."

"Tôi cho là bà không có gì để phải nói ra những điều chống cổ."

"Không có, hẳn vậy rồi. Tôi không cần. Không cần hơn những người đàn bà khác đang sửa soạn làm chuyện đó. Tôi không nói là đàn bà không phải là người nói chuyện ngồi lê đôi mách nhiều nhất. Nhưng nếu ông có cái gì khác hơn là cái đầu óc đàn ông thì ông sẽ biết là đàn bà không có ý nói gì hết khi họ nói chuyện. Chỉ có đàn ông mới coi lời nói là có thực, là quan trọng. Không có một người đàn bà nào chê trách ông hay chê trách cổ. Bởi vì mọi người đàn bà đều biết rõ là cổ không có lý do gì mà cư xử tồi tệ với ông, chưa kể đến đứa bé sơ sinh đó. Hay đối xử tệ với bất cứ người đàn ông nào khác, lúc này. Cổ không phải làm vậy. Có phải ông và cái ông mục sư đó và tất cả những đàn ông biết chuyện cổ, có phải các ông đã làm cho cổ tất cả những gì cổ có thể muốn không? Vậy thì tại sao cổ cần phải cư xử tồi tệ chớ? Hãy giải thích cho tôi nghe đi."

"Thôi được," Byron nói. Anh bây giờ không nhìn bà. "Tôi chỉ tới..."

Bà cũng trả lời câu nói nửa chừng này, trước khi anh nói hết. "Tôi nghĩ là chẳng bao lâu nữa ông sẽ rời bỏ nơi này." Bà đang nhìn anh. "Họ đã làm gì sáng nay ở tòa án?"

"Tôi không biết. Họ chưa xong mà."

"Tôi cũng ngờ như vậy. Họ sẽ dùng bao nhiêu thì giờ, bao nhiêu sức lực, bao nhiêu tiền bạc của quận mình mà họ có thể dùng để giải quyết cái chuyện mà đàn bà tụi tôi hẳn sẽ có thể giải quyết trong vòng mười phút vào đêm thứ bảy. Ngu đến mức đó thì hết biết! Không phải là Jefferson sẽ cảm thấy thiếu y đâu. Người ta có thể không cần đến y. Nhưng đúng là ngu để tin rằng giết một người đàn bà thì có thể tốt cho người đàn ông nhiều hơn là giết một người đàn ông có thể tốt cho người đàn bà!... Tôi cho là bây giờ họ sẽ thả tên kia ra."

"Phải đó. Tôi nghĩ vậy."

"Và họ đã có lúc tin hắn là tòng phạm. Và vì vậy họ sẽ cho hắn một ngàn đô-la đó để chứng tỏ hai bên không có oán hận với nhau. Rồi hắn và cổ có thể cưới nhau. Có phải gần đúng như vậy không?"

"Phải đó." Anh cảm thấy bà đang nhìn anh, một cách không phải là không tử tế.

"Như vậy tôi nghĩ là ông sẽ rời bỏ nơi này. Tôi nghĩ là ông cảm thấy phần nào mình chẳng còn gì để làm ở Jefferson nữa, phải không?"

"Cái gì đó giống như vậy. Tôi nghĩ tôi phải đi thôi."

"Đành vậy. Jefferson là một thành phố dễ chịu đấy. Nhưng không quá dễ chịu đến mức một người rày đây mai đó như ông có thể tìm thấy trong một thành phố khác đủ trò ma mãnh và rắc rối để mà bận rộn... Ông có thể để cái túi du lịch ở đây, nếu ông muốn, cho tới khi nào ông cần nó."

Anh chờ cho tới trưa và sau đó nữa. Anh chờ cho tới khi anh tin là ông cò đã ăn trưa xong. Rồi anh đi đến nhà ông cò. Anh không muốn vào. Anh chờ ở ngoài cửa cho tới khi ông cò đi ra - một người đàn ông béo mập với cặp mắt nhỏ từng trải giống như những miếng mi-ca[114] được khảm vào khuôn mặt đầy thịt và bất động. Hai người đi riêng ra, đến dưới bóng cây trong sân. Không có ghế ngồi ở đó; họ cũng không ngồi chồm hổm (cả hai đều lớn lên ở nhà quê) như họ thông thường hẳn đã làm. Ông cò im lặng lắng nghe người đàn ông, người đàn ông nhỏ con thầm lặng đó từ bảy năm nay là một bí ẩn nhỏ nhặt đối với thành phố và từ bảy ngày nay thì rất gần là một sự xúc phạm và sỉ nhục công khai.

"Tôi hiểu," ông cò nói. "Anh nghĩ là giờ đã đến lúc cho hai người đó cưới nhau."

"Tôi không biết. Đó là chuyện riêng của hắn và của cổ. Tôi cho là dù sao hắn đi ra gặp cổ thì cũng tốt hơn. Tôi cho là bây giờ là đã đến lúc cho chuyện này. Ông có thể cho một cảnh sát đi kèm hắn. Tôi đã nói với cổ là hắn sẽ đến gặp cổ ngoài đó tối nay. Họ sẽ làm gì lúc đó thì là chuyện riêng của cổ và của hắn. Không phải của tôi."

"Hẳn vậy rồi," ông cò nói. "Không phải của anh." Ông đang nhìn khuôn mặt nhìn nghiêng của người kia. "Byron, anh định làm gì bây giờ?"

"Tôi không biết." Anh nhìn bàn chân mình đang cào cào chậm rãi trên đất. "Tôi nghĩ đến chuyện đi lên Memphis. Tôi đã nghĩ đến chuyện này từ hai năm nay. Có thể tôi sẽ đi lên đó. Trong những thành phố nhỏ bé này thì không có gì cả."

"Hẳn vậy rồi. Memphis thì không tồi đối với những ai thích cuộc sống thành thị. Tất nhiên, anh đâu có vướng tay, vướng cẳng với ai, anh đâu có cả bầu đoàn thê tử để kéo theo. Tôi nghĩ nếu tôi còn độc thân cách đây mười năm thì tôi cũng đã làm vậy rồi. Có lẽ khấm khá hơn. Tôi đoán là anh định đi ngay, phải không?"

"Chắc lát nữa." Anh ngước mắt lên rồi hạ xuống. Anh nói: "Tôi đã bỏ việc ở xưởng bào sáng nay."

"Hẳn vậy rồi," ông cò nói. Tôi đã nghĩ là anh đâu có cuốc bộ cả quãng đường từ ngoài đó đến đây từ hồi mười hai giờ trưa với ý định quay về ngoài đó trước một giờ. A, hình như..." Ông ngừng. Ông biết là tối nay hội thẩm đoàn sẽ chính thức buộc tội Christmas, và Brown - hay Burch - sẽ được trả tự do nhưng có nghĩa vụ phải hầu tòa với tư cách nhân chứng vào tháng sau. Nhưng, ngay cả sự hiện diện của hắn cũng không tuyệt đối cần thiết, bởi vì Christmas đã không chối tội và ông cò tin rằng y sẽ thành khẩn khai có tội trước tòa để cứu cái mạng y. 'Và chẳng có hại gì cho ai nếu người ta khắc sâu vào đầu cái thằng trời đánh thánh vật đó lòng kính sợ Chúa, một lần trong đời y,' ông nghĩ. Ông nói, "Tôi cho là chuyện này có thể thu xếp được. Tất nhiên, như anh nói, tôi sẽ phải cho một tên cảnh sát đi kèm hắn. Dù hắn không định bỏ trốn chừng nào hắn còn hy vọng lãnh một phần tiền thưởng. Với điều kiện là hắn không biết điều gì đang chờ hắn khi hắn ra đến ngoài đó. Hắn chưa biết gì cả."

"Đúng vậy," Byron nói. "Hắn chưa biết gì cả. Hắn chưa biết là cổ đang ở Jefferson."

"Vậy thì tôi chỉ việc gởi hắn ra ngoài đó với một tên cảnh sát. Không nói với hắn tại sao: chỉ việc gởi hắn ra đó. Trừ phi anh muốn chính anh dẫn hắn đi."

"Không," Byron nói. "Không, không!" Nhưng anh không cử động.

"Tôi sẽ chỉ làm vậy thôi. Tôi nghĩ là tới lúc đó thì chắc anh đi rồi. Tôi sẽ cho một tên cảnh sát đi theo hắn. Lúc bốn giờ được không?"

"Được lắm chớ. Ông thiệt là tử tế. Ông thiệt là tốt bụng."

"Ôi, chưa tốt lắm đâu. Có rất nhiều người, ngoài tôi ra, đã tỏ ra tử tế với cổ từ khi cổ đến Jefferson đây. Thôi, tôi sẽ không nói lời từ biệt với anh đâu. Jefferson sẽ gặp lại anh một ngày nào đó. Tôi chưa hề gặp ai từng ở đây một thời gian rồi bỏ đi mãi mãi. Có lẽ ngoại trừ cái thằng cha ở trong tù dưới đó. Nhưng y sẽ khai có tội mà, tôi nghĩ vậy. Để cứu lấy cái mạng y. Và dù gì đi nữa, y cũng phải đem nó đi khỏi Jefferson. Và thật khổ cho cái bà già đó cứ tưởng mình là bà ngoại y. Lão già thì ở dưới trung tâm thành phố khi tôi về nhà. Lão vừa la hét, vừa nói huênh hoang, chửi mọi người là hèn nhát bởi vì họ không chịu đến nhà tù xách cổ thằng đó ra mà lin-chơ ngay tại chỗ và ngay lúc ấy." Ông bắt đầu cười khúc khích, nghe rõ to. "Lão tốt hơn nên tỏ ra thận trọng, nếu không thì Peter Grimm và lũ đàn em sẽ nện cho lão một trận đó." Ông tỏ vẻ điềm tĩnh lại. "Thật khổ cho bà ấy. Thật khổ cho đàn bà." Ông nhìn khuôn mặt nhìn nghiêng của Byron. "Thật khổ cho nhiều người trong chúng ta. Thôi, anh sẽ trở lại một ngày nào đó, chắc không lâu đâu. Có lẽ Jefferson sẽ đối xử tốt hơn với anh lần tới."

Lúc bốn giờ chiều hôm đó, anh thấy từ chỗ núp chiếc xe hơi đến. Nó ngừng lại, và tên cảnh sát cùng người đàn ông mà anh biết qua cái tên Brown ra khỏi xe và đi về phía căn lều. Brown không bị còng tay, và Byron nhìn theo họ đến căn lều và thấy tên cảnh sát đẩy Brown tới trước và vào bên trong. Rồi cánh cửa đóng lại sau lưng Brown, và tên cảnh sát ngồi xuống ở bậc tam cấp và rút một bao thuốc hút từ túi ra. Byron đứng dậy. 'Mình có thể đi bây giờ,' anh nghĩ. 'Bây giờ mình có thể đi.' Chỗ anh núp là một lùm cây trên cái bãi cỏ mà ngôi nhà ngày xưa được xây trên đó. Phía bên kia lùm cây, nơi mà người ta không thể nhìn thấy từ con lộ cũng như từ căn lều, con la của anh được cột ở đó, và đằng sau cái yên đã mòn là một cái va-li cũ màu vàng, không phải bằng da, được buộc chặt. Anh leo lên con la và cưỡi nó đi về phía con lộ. Anh không quay đầu nhìn lại.

Con lộ thì có màu đỏ nhạt, chạy dài rồi leo lên một ngọn đồi, trong buổi chiều yên tĩnh đang tàn dần. 'Được thôi. Một ngọn đồi, mình có thể chịu đựng mà,' anh nghĩ. 'Mình có thể chịu đựng một ngọn đồi, đó là cái mà một người đàn ông có thể làm.' Cảnh vật thì yên bình, êm ả, quen thuộc như trong bảy năm vừa qua. 'Dường như một người đàn ông có thể chịu đựng mọi thứ. Hắn thậm chí có thể chịu đựng cả điều hắn chưa bao giờ làm. Hắn thậm chí có thể chịu đựng cái ý tưởng là có vài điều vượt quá giới hạn của những gì hắn có thể chịu đựng. Hắn thậm chí có thể chịu đựng cái ý tưởng là, nếu như hắn có thể buông xuôi và khóc thì hắn sẽ không làm vậy. Hắn thậm chí có thể chịu đựng cái ý tưởng là không quay đầu nhìn lại, ngay cả khi hắn biết là quay đầu nhìn lại hay không quay đầu nhìn lại đều sẽ không mang lại cho hắn cái gì tốt đẹp cả.'

Con lộ chạy lên cao, lên tới chỏm đồi. Anh chưa hề thấy biển, và vậy là anh nghĩ: 'Đó là giống như đứng bên bờ của hư không. Giống như cái cảm giác là nhảy qua cái bờ này một lần thì mình sẽ rơi thẳng đứng vào hư không. Nơi mà cây cối thì trông như cái gì khác với cây cối, và mang một cái tên khác; nơi mà con người thì trông như cái gì khác với con người và mang một cái tên khác. Và Byron Bunch thậm chí không phải là hay không phải không là Byron Bunch. Byron Bunch và con la của anh sẽ kiệt quệ vì cú rơi nhanh cho tới khi cả hai bốc cháy, như mục sư Hightower nói là chuyện này cũng xảy ra với những thiên thạch di chuyển trong không gian nhanh đến nỗi chúng bốc lửa và cháy tan tành và không có lấy một mảnh cháy dở để rớt xuống mặt đất.'

Nhưng từ sau chỏm đồi là bắt đầu hiện lên những cái mà anh biết là chúng sẽ ở đó: cây cối đúng là cây cối, và cái khoảng cách kinh khiếp và đơn điệu mà anh, thúc đẩy bởi dòng máu luân lưu trong người, phải đi mãi mãi giữa hai chân trời không thể tránh được của cái quả đất không thể nào lay chuyển được. Chúng cứ lên cao mãi, không báo điềm gở, không lộ vẻ hăm dọa. Đúng vậy. Chúng không nhớ tới anh. 'Không biết và bất cần,' anh nghĩ. 'Như thể chúng nói Được rồi. Anh nói là anh đau khổ. Được rồi. Nhưng trước tiên, điều mà chúng tôi biết thì chỉ do miệng anh nói ra mà thôi. Và thứ đến, anh chỉ nói anh là Byron Bunch. Rồi thứ ba, anh chỉ là người tự đặt tên cho mình là Byron Bunch ngày hôm nay, bây giờ, ngay giây phút này... 'Vậy thì,' anh nghĩ, 'nếu tất cả chỉ có vậy, mình nghĩ rằng có được sự thỏa mãn là không đủ sức chịu đựng khi quay nhìn lại phía sau thì cũng tốt thôi.' Anh cho con la ngừng lại và xoay người trên cái yên.

Anh không nhận ra là anh đã đi xa đến thế và ngọn đồi thì cao đến thế. Như một cái bát nông, dinh cơ rộng lớn ngày xưa mà bảy chục năm trước đây là một đồn điền, trải rộng dưới chân anh, giữa anh và một ngọn đồi khác mà trên đó người ta đã tạo dựng nên Jefferson. Nhưng hiện giờ thì cái đồn điền đó thì bị chia nhỏ bởi những căn lều da đen nằm rải rác, những mảnh vườn, những cánh đồng chết bị nước xói thành rãnh, bị nghẹt thở dưới đám cây sồi lùn, cây de vàng[115], cây hồng vàng và cây thạch nam. Nhưng ngay chính giữa, một lùm cây sồi vẫn còn đứng đó như chúng đã đứng đó khi ngôi nhà được xây, tuy bây giờ ngôi nhà đã biến mất. Từ chỗ này, anh thậm chí không thể thấy những dấu vết của đám cháy; anh thậm chí không thể nói được ngôi nhà nằm ở đâu nếu không có các cây sồi, cái chuồng ngựa đổ nát và căn lều ở xa hơn, căn lều mà anh đang nhìn về phía nó. Nó ở đó, y nguyên và yên tĩnh dưới mặt trời chiều, gần giống như một đồ chơi cho con nít; giống như một đồ chơi, tên cảnh sát ngồi ở bậc tam cấp. Rồi trong khi Byron nhìn, một người đàn ông, như có phép lạ, vừa xuất hiện ở phía sau là đã co giò chạy. Hắn bỏ trốn bằng cách chạy đằng sau căn lều trong khi tên cảnh sát ngồi ở bậc tam cấp đằng trước vẫn bất động và yên lặng, không nghi ngờ gì. Byron cũng ngồi im một lúc lâu hơn, xoay nửa người trên yên, đưa mắt dõi theo cái hình dạng nhỏ bé bỏ chạy trên con dốc khô cằn phía sau căn lều, về hướng các khu rừng cây.

Rồi một ngọn gió lạnh rát da rát thịt dường như thổi qua người anh. Một ngọn gió vừa dịu dàng vừa hung bạo cùng lúc, thổi tung tóe, như những sợi rơm, như rác rưởi, như lá chết, tất cả nỗi ham muốn, niềm tuyệt vọng, những giấc mơ bi thảm và hão huyền và những nỗi đau vô phương cứu chữa. Với chính luồng gió ấy, anh có cảm tưởng mình bị đẩy lùi ra sau, người thấy trống rỗng lần nữa, bên trong anh bây giờ không có bất cứ cái gì đã không từng hiện hữu cách đây hai tuần, trước cái ngày anh gặp nàng. Vào khoảnh khắc này, nỗi ham muốn của anh thì hơn cả nỗi ham muốn: đó là một niềm tin thầm lặng và chắc chắn; trước khi nhận ra là bộ óc anh đã ra lệnh cho bàn tay, anh đã cho con la đổi hướng rời con lộ và chưa gì đã chạy nước đại dọc theo dải đất hẹp trên chỏm của dãy đồi, song song với cái hướng chạy của người đàn ông đó khi hắn chạy vào khu rừng cây. Anh thậm chí không tự nói với mình cái tên của người đàn ông đó. Anh không tự hỏi người đàn ông đó đi đâu, và tại sao. Chưa bao giờ vào trong đầu anh, dù chỉ một lần, cái ý nghĩ là Brown bỏ trốn thêm một lần nữa, như chính anh đã dự đoán. Nếu cái ý nghĩ đó có lướt qua đầu anh thì chắc là anh tin rằng Brown, theo kiểu cách riêng của hắn, tham dự vào việc mua bán hoàn toàn hợp pháp nào đó liên quan đến sự ra đi của hắn và của Lena. Nhưng anh đã không nghĩ về chuyện này chút nào; anh đã không nghĩ đến Lena chút nào; nàng hoàn toàn ra khỏi tâm trí anh như thể anh chưa hề gặp nàng, chưa hề nghe tên nàng trước đó. Anh đang nghĩ: 'Mình đã chăm sóc vợ hắn giùm cho hắn và mình giúp đứa bé chào đời cho hắn. Và bây giờ còn có một việc nữa mà mình có thể làm cho hắn. Mình không thể cử hành hôn lễ cho họ, vì mình không phải là mục sư. Và có lẽ mình sẽ không thể bắt kịp hắn, bởi vì hắn đã đi trước mình một quãng đường. Và nếu có bắt kịp hắn thì có lẽ mình không thể đập hắn một trận, bởi vì hắn to con hơn mình. Nhưng mình có thể thử xem sao. Mình có thể cố gắng làm chuyện này.'

Khi tên cảnh sát đến tìm hắn trong nhà tù, Brown hỏi ngay lập tức là anh ta đưa hắn đi đâu. Thăm viếng, tên cảnh sát trả lời. Brown lùi lại, nhìn tên cảnh sát bằng bộ mặt đẹp trai và trơ tráo một cách giả tạo. "Tôi không muốn thăm viếng ai cả. Tôi là người xa lạ, đâu có quen biết ai ở đây."

"Mày vẫn xa lạ ở bất cứ nơi nào," tên cảnh sát nói. "Ngay cả ở nhà mày. Thôi đi cho rồi."

"Tôi là một công dân Mỹ," Brown nói. Tôi cho là tôi có những quyền hợp pháp dù tôi không mang ngôi sao bằng thiếc[116] trên dải đeo quần."

"Hẳn vậy rồi," tên cảnh sát nói. "Đó là chuyện tao đang làm bây giờ: giúp mày nhận được những gì thuộc về mày."

Mặt Brown sáng lên: ánh phản chiếu của một tia chớp. "Có phải họ đã... có phải họ sắp trả..."

"Tiền thưởng đó à? Hẳn vậy rồi. Chính tao sẽ dẫn mày ngay bây giờ đến một chỗ mà nếu người ta nợ mày tiền thưởng thì chắc chắn người ta sẽ đưa nó cho mày."

Brown tỏ ra điềm tĩnh lại. Và bắt đầu đi, dù hắn vẫn nhìn tên cảnh sát một cách ngờ vực. "Cái lối làm ăn như vầy thì thiệt là kỳ cục," hắn nói. "Giam tôi trong tù trong khi để mấy thằng chó đẻ đó ra sức giành giựt nó trước tôi."

"Tao cho là cái thằng chó đẻ đó chưa đẻ ra thì làm sao giành giựt tiền thưởng với mày được chớ," tên cảnh sát nói. Đi đi! Người ta đang chờ tụi mình."

Họ ra khỏi nhà tù. Dưới ánh nắng chói chang, Brown chớp mắt, nhìn chỗ này chỗ kia, rồi ngẩng đầu quay nhìn qua vai, theo cách các con ngựa. Chiếc xe hơi chờ bên lề đường. Brown nhìn chiếc xe rồi nhìn tên cảnh sát, điềm tĩnh và thận trọng. "Mình đi đâu mà dùng xe hơi?" hắn nói. "Sáng nay, tôi đã đi bộ tới tòa án, đâu có xa lắm đâu."

"Ông Watt[117] cho dùng xe này để giúp tụi mình mang tiền thưởng về," tên cảnh sát nói. "Leo lên đi."

Brown càu nhàu. "Tự nhiên lão ta đâm ra ân cần với tôi quá há! Cho một chiếc xe hơi để đi và không còng tay. Và chỉ có một tên trời đánh bên cạnh để giữ tôi khỏi bỏ trốn."

"Tao đâu có giữ mày khỏi trốn," tên cảnh sát nói. Anh ta ngừng tay trong khi đang cho xe nổ máy. "Mày muốn trốn đi bây giờ không?"

Brown nhìn anh ta chằm chằm, mặt mày sưng sỉa, căm tức và ngờ vực. "Tôi biết rồi," hắn nói. "Lão chơi trò xỏ lá thiệt. Lão muốn đẩy cho tôi bỏ trốn để lãnh riêng một ngàn đô-la đó cho lão. Lão hứa chia phần với ông bao nhiêu vậy?"

"Tao à? Tao sắp nhận giống như mày đó, y chang đến từng xen."

Brown nhìn tên cảnh sát lâu hơn trước. Hắn buột miệng chửi thề, vô nghĩa, một cách thô bạo và yếu ớt cùng lúc. "Đi nào," hắn nói. "Đã đi thì đi cho rồi."

Họ chạy xe đến tận chỗ xảy ra chuyện giết người và cháy nhà. Brown cứ ngẩng đầu lên rồi ngoái ra sau, cách quãng gần như đều đặn, giống như con la thường làm khi chạy một mình trước đầu xe hơi trên một con lộ hẹp. "Chúng ta ra ngoài này làm gì vậy?"

"Để nhận tiền thưởng của mày," tên cảnh sát nói.

"Tôi sắp nhận nó ở đâu đây?"

"Trong cái căn lều dưới kia. Nó đang chờ mày ở đó."

Brown đảo mắt nhìn quanh hắn, rồi nhìn đám tro than từng là một ngôi nhà trước kia, rồi nhìn căn lều trống vắng, tả tơi vì mưa nắng, nơi hắn đã ở bốn tháng, giờ nằm im lặng dưới ánh nắng chói chang. Bộ mặt hắn thì nghiêm trọng, cảnh giác. "Có cái gì đó kỳ cục trong việc này. Lão Kennedy[118] không nên tưởng rằng lão có thể chà đạp các quyền hợp pháp của tôi, chỉ vì lão mang cái ngôi sao nhỏ bằng thiếc trời đánh đó trên ngực..."

"Thôi đi đi," tên cảnh sát nói. "Nếu mày chê món tiền thưởng đó thì tao sẽ chờ mày ở đây để đưa mày trở lại nhà tù lúc nào mày muốn. Ngay bất cứ lúc nào mày muốn." Anh ta đẩy Brown ra trước, đưa tay mở cửa căn lều, đẩy hắn vào trong và đóng cửa sau lưng hắn rồi ngồi xuống bậc tam cấp.

Brown nghe tiếng cửa đóng lại sau lưng mình. Hắn vẫn đang bước tới. Rồi, trong khi đột ngột đảo mắt liếc nhanh và bao quát, như thể cặp mắt hắn không thể chờ để nhìn toàn bộ căn phòng, hắn đứng khựng lại, sững sờ. Từ trên giường Lena nhìn cái sẹo trắng ở khóe miệng hắn biến mất hoàn toàn, như thể máu chảy dồn ở phía dưới đã lôi cái sẹo đi theo khi chảy qua, như người ta lấy xuống miếng giẻ khô từ sợi dây phơi áo quần. Nàng không nói gì. Nàng chỉ nằm đó, lưng tựa vào gối, nhìn hắn bằng đôi mắt điềm tĩnh mà trong đó không lộ ra gì cả - không vui mừng, không ngạc nhiên, không trách móc, không tình yêu - trong khi trên mặt hắn thì hiện ra sự choáng váng, nỗi kinh ngạc, sự sỉ nhục rồi nỗi kinh hãi cùng cực, và mỗi một trạng thái tình cảm này thì lần lượt chế nhạo cái sẹo trắng, nhỏ mà phát lộ nhiều điều, trong khi cặp mắt bị phiền nhiễu và tuyệt vọng của hắn thì không ngừng đảo quanh căn phòng trống trải, dừng lại chỗ này, chỗ kia. Nàng nhìn hắn đang tìm cách chế ngự cặp mắt hắn như hai con thú bị khiếp sợ, để ép buộc chúng phải gặp gỡ đôi mắt nàng. "À há, à há," hắn nói. "À há, à há, à há. Em Lena đây mà!" Nàng nhìn hắn đang cố giữ cặp mắt hắn ngang tầm với đôi mắt nàng, như hai con thú sắp sửa chạy thoát, như thể hắn biết là nếu để chúng chạy thoát lần này thì hắn sẽ không bao giờ bắt chúng lại được, không thể bắt chúng quay lại lần nữa, và chính hắn sẽ bị thất lạc mãi mãi. Nàng hầu như thấy được đầu óc hắn nghĩ vơ vẩn, không ngừng lang thang đây đó, bị quấy nhiễu, bị kinh hãi, tìm kiếm những từ ngữ, những lời lẽ mà giọng nói, cái lưỡi của hắn có thể nói ra. "Nhưng, trời ơi, em Lena đây mà. Đúng rồi! Vậy là em đã nhận được lời nhắn của anh rồi? Ngay khi tới đây anh liền gởi lời nhắn cho em tháng trước đây chớ đâu, ngay khi anh ổn định chỗ ở và anh nghĩ nó đã bị thất lạc - Đó là một thằng cha anh không biết tên nó nhưng nó hứa nó sẽ mang giùm - nó trông không đáng tin cậy lắm nhưng anh phải tin vào nó nhưng anh nghĩ khi anh đưa nó mười đô-la để em dùng trả các chi phí đi lại rằng nó..." Giọng hắn tắt đi đâu đó đằng sau cặp mắt tuyệt vọng. Tuy nhiên, nàng vẫn còn thấy tâm trí hắn đang lao tới, đang lao tới không thương tiếc, không gì cả; nàng nhìn hắn bằng ánh mắt nghiêm trang, không nháy mắt, không thể nào chịu nổi, nhìn hắn dò dẫm, lẩn tránh, thay đổi cho đến khi tất cả những gì còn lại của lòng tự trọng trong hắn, của cái lòng tự trọng đã tồi tệ mà còn ham muốn biện bạch, cuối cùng thì rời bỏ hắn, để hắn trần truồng ở lại. Rồi lần đầu tiên nàng lên tiếng. Giọng nàng thì bình thản, không bối rối, không thắm thiết.

"Anh lại đây đi," nàng nói. "Lại đây, em không để con nó cắn anh đâu." Khi hắn cử động thì hắn rón rén đi tới gần. Nàng thấy cách đi của hắn tuy nàng đã không còn nhìn hắn nữa. Nhưng nàng biết, giống hệt như nàng biết là hắn bây giờ đứng đó, với một thứ kinh sợ vụng về và rụt rè, bên cạnh nàng và đứa bé đang ngủ. Nhưng nàng biết là sự kinh sợ này không phải do sự hiện hữu của đứa bé gây ra. Nàng biết là, theo nghĩa đó, hắn thậm chí đã không thấy đứa bé. Nàng còn có thể thấy, cảm thấy tâm trí hắn đang lao tới, lao tới. Ảnh sắp sửa làm bộ không sợ nàng nghĩ. Ảnh sẽ không thấy xấu hổ hơn khi nói láo để che giấu nỗi sợ, giống hệt như ngày trước ảnh đã không thấy xấu hổ hơn khi tỏ ra sợ vì đã nói láo

"À há, à há," hắn nói. "Em bé đây rồi. Đúng rồi."

"Phải đó," nàng nói. "Anh ngồi xuống đi chớ!" Cái ghế mà Hightower đã kéo đến vẫn còn đó, bên cạnh giường. Hắn đã nhận thấy điều này trước đó. Con nhỏ cũng lo liệu chu đáo cho mình đó chớ hắn nghĩ. Một lần nữa y chửi thề nhưng không gây tiếng động, lộ vẻ bị quấy rầy, giận dữ Tụi chó đẻ. Tụi chó đẻ Nhưng bộ mặt hắn thì gần như dịu dàng khi hắn ngồi xuống.

"Hay quá! Tụi mình gặp lại nhau đây. Y chang như anh đã sắp xếp khi trước. Anh cũng muốn bố trí mọi thứ cho sẵn sàng trước khi em đến nhưng khổ một cái là anh dạo này bận rộn quá. Và chuyện này khiến anh nhớ ra là..." Một lần nữa, hắn bất ngờ ngoái đầu nhìn ra sau như con la. Nàng không nhìn hắn. Nàng nói:

"Ở đây có một ông mục sư. Ổng đã đến gặp em."

"Tốt lắm," hắn nói. Giọng hắn thì rõ to, vui vẻ. Tuy vậy, sự vui vẻ cũng như cái âm sắc thì có vẻ tạm thời và ngắn ngủi như âm của các từ khi nói ra; tất cả đều biến mất, không để lại gì, ngay cả một ý tưởng rõ ràng trong tai hay trong nhận thức. "Tốt lắm. Ngay khi anh giải quyết xong mọi thứ công việc này - " Hắn vung tay làm một cử chỉ mơ hồ như thâu tóm cái gì đó, mắt vẫn nhìn nàng. Khuôn mặt của hắn thì dễ chịu nhưng trống rỗng. Cặp mắt hắn thì dịu dàng, lanh lợi, bí mật, vậy mà vẫn có cái gì đó bị phiền nhiễu và tuyệt vọng lẩn quất đằng sau chúng. Nhưng nàng không nhìn hắn.

"Hiện giờ thì anh làm loại công việc gì? Ở xưởng bào?"

Hắn quan sát nàng. "Không, anh đã bỏ việc đó." Cặp mắt hắn quan sát nàng. Như thể chúng không phải là đôi mắt hắn, không dính dáng gì đến phần còn lại của người hắn, đến những gì hắn làm, đến những gì hắn nói. "Làm việc như một thằng mọi đen trời đánh, cực chết luôn, mười giờ mỗi ngày. Anh hiện giờ có việc này đang tiến triển, mang lại bộn tiền. Chớ không phải mười lăm xenmột giờ vặt vãnh đó đâu. Và ngay khi anh lo xong việc này, ngay khi anh thu xếp xong vài ba cái chi tiết nhỏ nhặt, lúc đó em và anh sẽ..." Nghiêm khắc, chăm chú, bí mật, cặp mắt hắn nhìn nàng, nhìn khuôn mặt nhìn nghiêng đang cúi xuống của nàng. Một lần nữa, nàng nghe cái tiếng động đột ngột, khẽ khàng khi hắn ngẩng đầu lên và nhìn ra phía sau. "Và chuyện này khiến anh nhớ ra là..."

Nàng không cử động. Nàng nói: "Sẽ là khi nào vậy, Lucas?" Rồi nàng nghe thấy, cảm thấy một sự bất động hoàn toàn, một sự im lặng tuyệt đối.

"Khi nào cái gì?"

"Anh biết rõ mà. Như anh đã nói. Dưới đó, ở quê em. Một mình em, thì cũng được thôi. Không quan trọng gì. Nhưng bây giờ thì khác rồi. Em cho là em có quyền lo lắng, bây giờ."

"Ồ, chuyện đó," hắn nói. "Chuyện đó. Em đừng lo về chuyện đó. Chỉ cần để cho anh giải quyết xong việc này và nhận số tiền đó đã. Nó thuộc quyền của anh. Không có lấy một thằng chó đẻ nào..." Hắn ngừng. Hắn đã bắt đầu lên giọng, như thể hắn đã quên mất mình đang ở đâu và đã suy nghĩ thành tiếng. Hắn hạ giọng; hắn nói: "Hãy để anh lo liệu. Em đừng lo lắng. Anh có bao giờ cho em lý do để mà băn khoăn đâu, phải không? Trả lời anh đi."

"Không. Em không bao giờ băn khoăn cả. Em đã biết là em có thể tin vào anh."

"Vậy thì em đã biết việc này. Và những thằng chó đẻ này ở đây... những thằng này ở đây..." Hắn đã đứng lên khỏi ghế. "Và chuyện này khiến anh nhớ ra là..." Nàng không nhìn lên, không nói lời nào trong khi hắn đứng bên cạnh nàng, nhìn nàng bằng cặp mắt bị quấy nhiễu, tuyệt vọng và nài nỉ. Làm như nàng giữ hắn lại ở đó và nàng biết điều đó. Và nàng trả tự do cho hắn theo ý riêng của nàng, một cách có chủ tâm.

"Em cho là anh có nhiều việc phải làm lúc này."

"Thực tế là vậy. Với tất cả những chuyện làm anh bận tâm và những thằng chó đẻ..." Nàng bây giờ nhìn hắn. Nàng nhìn hắn trong khi hắn nhìn cái cửa sổ ở bức tường cuối phòng. Rồi hắn nhìn cái cửa ra vào đã đóng sau lưng hắn. Rồi hắn nhìn nàng, nhìn khuôn mặt nghiêm trang của nàng, nó mang vẻ không biết gì cũng như biết tất cả, hiểu tất cả. Hắn hạ giọng. "Anh có kẻ thù ở đây. Những người không muốn anh nhận cái mà anh đã giành được. Vì vậy anh sắp sửa..." Một lần nữa làm như nàng giữ hắn lại, bắt ép hắn nói láo, thử lòng hắn với lời nói láo cuối cùng này mà ngay cả cái cặn bã đáng buồn của lòng tự trọng của hắn cũng ghê tởm; làm như nàng giữ hắn lại không phải bằng gậy hay dây thừng nhưng bằng cái gì đó làm cho sự nói láo của hắn trở nên không đáng kể như lá khô hay như rác rưởi. Nhưng nàng không nói gì cả. Nàng chỉ nhìn hắn trong khi hắn rón rén đi đến mở cửa sổ không gây ra tiếng động. Rồi hắn nhìn nàng. Có lẽ hắn nghĩ mình bây giờ an toàn rồi, có thể nhảy qua cửa sổ trước khi nàng có thể chạm đến người hắn với bàn tay bằng da bằng thịt của nàng. Hay có lẽ đó là cái phần còn lại tồi tệ nào đó của sự xấu hổ, giống như một lát trước đó, cái phần còn lại tồi tệ của lòng tự trọng. Thực vậy, hắn nhìn nàng, và cảm thấy, ngay giây phút này, không còn có thể ăn nói dài dòng và láo khoét. Giọng nói của hắn giờ chỉ còn thầm thì: "Có một người ở ngoài. Trước nhà, đang đợi anh." Rồi hắn đi mất, qua cửa sổ, không gây ra tiếng động nào, bằng một động tác duy nhất gần như giống một con rắn. Nàng nghe ra bên ngoài cửa sổ một tiếng sột soạt rất nhẹ khi hắn bắt đầu chạy. Chỉ vào lúc đó nàng mới cử động, nhưng chỉ để buông ra một tiếng thở dài thật sâu.

"Bây giờ mình phải đứng dậy lần nữa đây," nàng nói.

***

Khi ra khỏi khu rừng cây và gặp đường ray xe lửa, Brown thở hổn hển. Đó không phải vì mệt mỏi, dù trong hai mươi phút hắn đã chạy được gần hai dặm và đường thì khó khăn. Đúng hơn, đó là tiếng thở gầm gừ và xấu xa của một con thú chạy trốn: trong khi hắn đứng nhìn cả hai phía đường xe lửa trống vắng, bộ mặt hắn, vẻ biểu lộ trên mặt hắn thì trông giống như một con thú đang chạy trốn một mình, không muốn ai giúp, nó bám chặt vào sự tin cậy cô độc ở những cơ bắp của mình thôi, và vào lúc tạm nghỉ để lấy lại hơi thở, nó thấy ghét từng bờ cây bụi cỏ trước mắt như thể chúng là kẻ thù đang sống không bằng, nó thấy ghét ngay cả mặt đất trên đó nó nghỉ ngơi, cả không khí mà nó cần để hít thở.

Hắn đã gặp đường ray xe lửa vài trăm thước cách chỗ nó nhắm đi đến. Đó là chỏm một con dốc, nơi mà tàu lửa chở hàng lên phía Bắc chạy chậm lại, trông như bò lê bò lết một cách kinh khủng, còn chậm hơn một người đi bộ. Cách trước mặt hắn không xa, hai đường ray sáng láng có vẻ được cắt gọn như thể do kéo cắt.

Trong một lúc, hắn đứng giấu mình sau bức màn cây bên cạnh đường ray. Hắn đứng như một người suy tư và tính toán một cách vô vọng, như thể hắn ra sức hình dung trong đầu một ván bài tuyệt vọng cuối cùng trong một canh bạc đã thua rồi. Sau khi đứng thêm một lát nữa, căng tai nghe ngóng, hắn quay người và bắt đầu chạy lại, xuyên qua khu rừng cây và song song với đường xe lửa. Hắn dường như biết rõ ràng mình đi đâu. Giờ đây hắn gặp một con đường mòn và theo nó, vẫn chạy, rồi thấy hiện ra một khoảng rừng trống trên đó có một căn lều da đen. Hắn đến gần phía cửa trước, bây giờ thì đi chứ không chạy nữa. Dưới hàng hiên, một bà già da đen đang ngồi hút ống điếu, đầu quấn khăn trắng. Brown tuy không chạy nhưng vẫn thở nhanh, nặng nhọc. Hắn chờ cho bớt mệt rồi mở miệng. "Chào bà," hắn nói, "có ai ở nhà không?"

Bà già da đen lấy ống điếu ra khỏi miệng. "Có tui. Tại sao muốn biết?"

"Tôi phải gởi một tin nhắn về phố. Gấp lắm." Hắn kiểm soát hơi thở để có thể nói. "Tôi sẽ trả tiền. Không biết có ai đây có thể làm việc này không?"

"Nếu gấp như vậy thì tốt hơn ông tự đi lấy."

"Tôi sẽ trả tiền. Tôi nói với bà vậy mà!" hắn nói. Hắn nói bằng sự kiên nhẫn đầy giận dữ bên trong, cố nén giọng nói và hơi thở. "Một đô-la nếu đi khá nhanh. Bộ ở đây không có ai muốn làm ra một đô-la sao? Một trong những người con trai bà chẳng hạn?"

Bà già vừa hút thuốc, vừa nhìn hắn. Với khuôn mặt già nua, bí ẩn và tối tăm như nửa đêm, bà có vẻ ngắm nhìn hắn bằng một sự dửng dưng gần như thần thánh nhưng thiếu thiện cảm. "Một đô-la tiền mặt hả?"

Hắn làm một cử chỉ khó tả, một cử chỉ của sự hối hả, sự giận dữ bị đè nén, gần như nỗi tuyệt vọng. Hắn sắp sửa quay lưng bỏ đi khi bà da đen mở miệng nói lại. "Đâu có ai ở đây, trừ tui ra với hai đứa nhỏ. Tui cho là chúng quá nhỏ đối với ông."

Brown quay người lại. "Nhỏ thế nào?" Tôi chỉ muốn một người có thể mang cái tin nhắn đến cho ông cò, mang đi gấp và..."

"Cho ông cò hả? Vậy là ông đến lầm chỗ rồi. Không đời nào có ai trong gia đình tui mà mất thì giờ làm trò khỉ với mấy ông cò. Tui có biết một thằng mọi đen tưởng mình quen biết với một ông cò đủ thân thiết để xách đít đi thăm ổng. Nó không bao giờ trở về. Ông hãy đi tìm ở chỗ nào khác đi."

Nhưng Brown đang bỏ đi. Hắn không chạy ngay tức khắc. Hắn chưa nghĩ tới chuyện chạy lại; vào lúc này, hắn không thể nghĩ gì được cả. Nỗi giận dữ và cảm giác bất lực thì bây giờ gần như ở trạng thái mê ly. Hắn có vẻ suy ngẫm, bây giờ, về một thứ như tính chất không thể sai lầm - nó thì tươi đẹp và nằm ngoài thời gian - của những sự thất bại không thể đoán trước được của hắn. Như thể chính việc luôn luôn làm nạn nhân như vậy của những thất bại này đã nâng hắn, bằng cách này hay cách nọ, lên bên trên những hy vọng và những ham muốn nhỏ nhoi thuộc con người mà người đời bác bỏ và thủ tiêu. Do đó mà bà già da đen phải hét đến hai lần hắn mới nghe được và quay lại. Bà đã không nói gì, không cử động: bà chỉ hét lên. Bà nói, "Có người giúp ông đưa tin rồi đó."

Trước hàng hiên, hình như từ trên không hiện xuống, là một tên da đen mang vẻ hoặc một thằng người lớn đần độn hoặc một đứa con nít lớn quá nhanh. Mặt nó thì đen, bất động, cũng khá bí ẩn. Hai người đứng nhìn nhau. Hay đúng hơn, Brown nhìn tên da đen. Hắn không thể nói là tên da đen có nhìn hắn hay không. Và điều này, bằng cách này hay cách nọ, cũng có vẻ đúng và tốt và hòa hợp với những gì còn lại: đó là hy vọng cuối cùng của hắn, là phương sách cuối cùng của hắn, giờ lại tùy thuộc vào một con thú vật có vẻ không đủ trí óc để tìm ra thành phố, chưa tính đến chuyện tìm ra một người ở đó. Một lần nữa, Brown làm một cử chỉ khó tả. Hắn bây giờ vừa gần như chạy về phía hàng hiên, vừa lục lọi trong túi áo sơ-mi. "Tao muốn mày đem cái thư ngắn này lên phố và đem thư trả lời về lại cho tao," hắn nói. "Mày có làm được không?" Nhưng hắn không chờ đợi câu trả lời. Hắn đã rút ra từ túi áo một mảnh giấy lấm bẩn và một cây bút chì bị nhay, và khom người trên lan can hàng hiên, hắn viết, khó nhọc và vội vã, trong khi bà già da đen nhìn hắn:

***

Ông Wat Kenedy Thưa ông xin vui lòng đưa cho ngừi man thư này Tiền thưởn của Tôi vì bét được thằng Giết ngừi Xmas gói tiền trong Giấy để đưa cho ngừi man thư trân trọng.[119]

Hắn không ký tên. Hắn cầm mảnh giấy lên, nhìn nó trừng trừng trong khi bà già da đen quan sát hắn. Hắn cứ nhìn mảnh giấy lấm bẩn và vô tội, những hàng chữ viết nguệch ngoạc, hấp tấp và khó nhọc mà trong đó hắn đã làm được một việc, dù chỉ trong một khoảnh khắc ngắn ngủi: đánh bẫy tất cả linh hồn cũng như toàn bộ cuộc đời hắn nữa. Rồi hắn đặt mạnh nó xuống và viết không Kí tên nhưng được rùi Ông biếc ai mà[120]. Hắn gấp nó lại rồi đưa cho tên da đen. "Mang nó đến ông cò. Không được mang đến cho bất cứ ai khác. Mày có nghĩ mày tìm ra ổng không?"

"Nếu ông cò không tìm ra nó đầu tiên," bà già da đen nói. "Đưa cho nó đi. Nó sẽ tìm ra ổng, nếu nó còn sống. Lấy một đô-la rồi chạy đi cho mau nghe mày."

Tên da đen đã bắt đầu đi. Nó ngừng lại. Nó chỉ đứng đó, không nói gì, không nhìn gì. Trên hàng hiên, bà già da đen ngồi. Bà hút thuốc và nhìn xuống khuôn mặt tên đàn ông da trắng: một khuôn mặt yếu ớt, giống chó sói, đẹp, có vẻ ngay thẳng, nhưng bây giờ biến đổi thành một cái mặt nạ kiệt sức và xảo trá, bởi một sự mệt mỏi gì đó nhiều hơn là thể xác. "Tui tưởng ông gấp lắm mà," bà nói.

"Được rồi," Brown nói. Hắn móc ra một đồng tiền từ trong túi. "Đây này. Nếu mày mang thư trả lời về cho tao trong vòng một tiếng đồng hồ, tao sẽ cho mày thêm năm đồng như cái này nữa."

"Đi đi, mọi đen," người đàn bà nói. "Mày đâu có cả ngày đâu. Ông muốn nó mang thư trả lời về tại đây hay sao?"

Brown nhìn bà hơi lâu hơn một chút. Rồi một lần nữa, sự thận trọng, sự xấu hổ, tất cả rời bỏ hắn. "Không. Không tại đây. Mang nó lên trên đỉnh dốc ngoài kia. Đi theo đường rầy xe lửa cho tới khi tao gọi mày. Và tôi lúc nào cũng theo dõi bà. Bà đừng quên nghe. Bà có nghe không?"

"Ông khỏi phải lo," bà da đen nói. "Nó sẽ đến đúng chỗ và quay về với thư trả lời, nếu không có gì chặn nó lại. Đi đi mày."

Tên da đen lại đi. Nhưng nó chưa đi được nửa dặm đường thì có cái gì đó chặn nó lại. Đó là một người đàn ông da trắng khác đang dắt một con la.

"Ở đâu?" Byron nói. "Mày gặp hắn ở đâu?"

"Vừa mới đây. Dưới đó, ở nhà." Người đàn ông da trắng đi tiếp, tay dắt con la. Tên da đen nhìn theo. Nó không trình ra cho ông da trắng lá thư ngắn đó vì ông da trắng không đòi xem nó. Có lẽ lý do tại sao ông da trắng không đòi xem lá thư ngắn đó là vì ông da trắng không biết rằng nó có lá thư đó; có lẽ tên da đen đang nghĩ điều này, bởi vì trong một lúc bộ mặt nó phản ánh một cái gì đó kinh sợ và bí mật. Rồi bộ mặt sáng tỏ ra. Nó hét lên. Người đàn ông da trắng quay người, đứng lại. "Ổng không còn ở dưới đó đâu," tên da đen nói to như hét. "Ổng nói ổng đi lên trên cái dốc gần đường xe lửa để đợi tôi."

"Cám ơn nhiều," người đàn ông da trắng nói. Tên da đen tiếp tục đi.

***

Brown quay lại đường xe lửa. Hắn bây giờ không chạy. Hắn tự nhủ, 'Nó sẽ không làm việc này. Nó không thể làm. Mình biết nó không thể tìm ra ổng, nó không thể nhận tiền và mang về cho mình.' Hắn không gọi ra những cái tên, nghĩ đến những cái tên. Hắn có cảm tưởng là bây giờ tất cả bọn họ, tên da đen, ông cò, món tiền đó, tất cả, chỉ còn là những hình dạng, giống như những quân cờ bị di chuyển không lý do và không thể dự kiến được bởi một Đối thủ có thể đoán những nước đi của hắn trước khi hắn đi cờ, và tự ý tạo ra những quy tắc mà hắn, chứ không phải Đối thủ, phải tuân theo. Hiện giờ, hắn thậm chí đã ở ngoài nỗi tuyệt vọng khi hắn rời đường xe lửa và đi vào trong bụi cây thấp gần đỉnh dốc. Hắn bây giờ bước đi không vội vã, đưa mắt ước lượng khoảng cách như thể không có gì khác trên thế giới này hay ít ra trong cuộc đời hắn. Hắn chọn một chỗ và ngồi xuống. Hắn có thể thấy, nhưng không sợ bị thấy, đường xe lửa đó.

'Nhưng mình biết nó sẽ không làm việc này,' hắn nghĩ. 'Mình thậm chí không trông chờ. Nếu mình thấy nó trở lại với bó tiền trong tay, mình sẽ không tin đâu. Tiền đó đâu phải để cho mình. Mình chắc chắn như vậy. Mình sẽ biết đó là một lầm lẫn.' Mình sẽ nói với nó Mày hãy đi tiếp. Mày đang tìm ai khác chớ không phải tao. Mày đâu phải tìm Lucas Burch. Không, không. Lucas Burch không xứng đáng với món tiền đó, với tiền thưởng đó. Hắn không hề làm gì để có nó. Không, không Hắn bắt đầu cười. Ngồi xổm. Bất động. Bộ mặt mệt mỏi cùng cực cúi xuống. Cười. 'Đúng, đúng vậy. Lucas Burch chỉ muốn một điều: công lý. Chỉ có công lý thôi. Không phải do đã khai ra với bọn chó đẻ đó tên họ của thằng sát nhân và nơi mà chúng có thể tìm thấy y. Chỉ phải cái là chúng đã không muốn ra sức. Chúng đã không hề ra sức bởi vì chúng hẳn sẽ phải trả tiền cho Lucas Burch. Công lý.' Rồi hắn nói to, giọng cay đắng và đẫm lệ: "Công lý. Không cái gì khác. Chỉ những quyền lợi của tôi. Và bọn chó đẻ với những ngôi sao bằng thiếc tí hon, tất cả mỗi đứa đều tuyên thệ bảo vệ công dân Mỹ." Hắn nói điều đó một cách cay đắng, gần như khóc vì giận dữ, tuyệt vọng và mỏi mệt: "Trời đất! Bộ không đủ lý do để biến người ta thành bôn-sê-vích[121] thứ thiệt sao?" Rồi chỉ còn sự im lặng cho tới khi Byron lên tiếng ngay sau lưng hắn:

"Nào, đứng dậy đi!"

Chuyện đó đã không kéo dài lâu. Byron biết điều đó từ trước. Nhưng anh không lưỡng lự. Anh chỉ leo lên cho tới khi anh thấy người kia. Và anh ngừng lại, nhìn cái hình dạng đang nằm và không hay biết gì cả. 'Mày thì to con hơn tao,' Byron nghĩ. 'Nhưng tao bất chấp. Mày luôn luôn có tất cả mọi lợi thế khác hơn tao. Nhưng tao cũng bất chấp luôn. Trong chín tháng, mày đã vứt bỏ hai lần cái mà tao đã không bao giờ có được trong ba mươi lăm năm. Và bây giờ tao sắp đem thân ra chịu đòn và tao cũng bất chấp luôn.'

Sự việc đã không kéo dài lâu. Brown xoay người, lợi dụng ngay cả sự ngạc nhiên của chính mình. Hắn không tin là bất cứ người nào bất thần tìm được kẻ thù đang ngồi lại cho nó cơ hội đứng dậy đàng hoàng, ngay cả trong trường hợp kẻ thù này không phải to con nhất trong hai người. Bản thân hắn hẳn sẽ không làm như vậy. Nhưng sự việc xảy ra, là tên nhỏ con nhất trong hai đứa đã thực sự làm chuyện này trong khi hắn hẳn đã không làm, thì tồi tệ hơn cả lời sỉ nhục: đó là sự chế giễu. Vậy là hắn đánh nhau một cách ác liệt hơn, một cách dã man hơn là trong trường hợp nếu như Byron bất thần nhảy xổ vào hắn từ sau lưng: hắn đánh nhau bằng sự dũng cảm mù quáng và tuyệt vọng của một con chuột đói bị dồn vào góc tường.

Sự việc đã kéo dài ít hơn hai phút. Rồi Byron nằm yên giữa những bụi cây thấp bị gãy đổ và giẫm nát, máu chảy lặng lẽ trên mặt. Anh nghe tiếng sột soạt của tầng cây mọc sát mặt đất được một lát thì thấy nó ngừng, rơi dần vào im lặng. Rồi chỉ còn mình anh. Anh bây giờ không cảm thấy đau chỗ nào, nhưng còn tốt hơn thế nữa, anh không cảm thấy vội vã, cấp bách để làm bất cứ chuyện gì hay đi bất cứ chỗ nào. Anh chỉ nằm đó, chảy máu và bình thản, biết chắc chắn là sau một lát sẽ không bao giờ muộn để trở vào thế gian và thời gian lần nữa.

Anh thậm chí không tự hỏi Brown đã đi đâu. Anh không phải nghĩ đến Brown lúc này. Một lần nữa, trong tâm trí anh hiện lên những hình dạng im lìm giống như những đồ chơi của tuổi thơ bị vứt bỏ, chỉ còn những mảnh rời lộn xộn chất chồng lên nhau, bị bụi lặng lẽ phủ lên, trong một góc tủ bị bỏ quên - Brown. Lena Grove. Hightower. Byron Bunch - tất cả đều giống như các đồ vật nhỏ đã không bao giờ sống, mà anh đã chơi trong thời thơ ấu và anh đã làm đổ vỡ rồi quên lãng. Anh nằm như vậy khi anh nghe tiếng còi xe lửa ở chỗ chắn tàu cách đó nửa dặm.

Nó đánh thức anh; đây là thế gian, và đây cũng là thời gian nữa. Anh ngồi dậy, chậm rãi, ngập ngừng. 'Dù sao đi nữa, mình không bị gãy tay gãy chân gì hết,' anh nghĩ. 'Mình muốn nói là hắn đã không đánh gãy cái gì thuộc về mình hết.' Trời đang cuối chiều: thời gian đã trở lại, cùng với nó là khoảng cách và sự di chuyển. 'Phải rồi. Mình phải đi thôi. Mình phải xoay sở tìm cho mình cái gì khác để mà xen vào.' Tàu lửa đang đến gần. Nhịp kéo của cái đầu máy đã chậm lại và trở nên nặng nhọc hơn khi nó bắt đầu lên dốc; sau một chốc, anh có thể thấy khói. Anh thọc tay vào túi tìm cái khăn tay. Anh không có khăn, vậy là anh xé phần đuôi áo sơ-mi và vừa chấm chấm nhẹ lên mặt một cách thận trọng, vừa nghe tiếng thở ngắn và chói tai của cái đầu máy ngay trên dốc. Anh đi ra phía rìa bụi cây mà từ đó anh có thể thấy đường ray xe lửa. Cái đầu máy bây giờ thì ở trong tầm mắt, hầu như đối diện anh, dưới những luồng khói đen kịt. Nó tạo ra một ấn tượng kinh khiếp về sự bất động. Vậy mà nó vẫn tiến tới, bò lên một cách kinh khủng cho tới đỉnh dốc. Đứng ở rìa bụi rậm, anh nhìn cái đầu máy đến gần và bò qua trước mặt anh một cách nặng nhọc. Anh nhìn nó với sự mê mải trẻ con và sung sướng vô ngần (và có lẽ khao khát), làm lộ ra quá khứ được nuôi dạy và lớn lên ở đồng quê của anh. Nó đi qua. Anh đưa mắt nhìn theo, và quan sát các toa tàu khi đến lượt chúng bò lên rồi vượt qua đỉnh dốc. Và đột ngột, và là lần thứ hai trong buổi chiều đó, anh thấy một người đàn ông hình như từ khoảng không hiện ra và đang chạy.

Cho đến bấy giờ anh vẫn không nhận ra điều mà Brown sắp làm. Anh đã tiến quá sâu trong sự bình yên và sự cô đơn để mà tự hỏi. Anh chỉ đứng đó, nhìn Brown chạy về phía tàu lửa, người khom xuống, mang vẻ lẩn trốn; anh thấy hắn đưa tay nắm lấy cái thang sắt ở cuối một toa tàu, nhảy lên rồi biến mất, như thể bị hút bởi khoảng không. Tàu lửa bắt đầu tăng tốc. Anh nhìn cái toa tàu mà Brown đã biến mất trong đó. Nó đi qua. Bám vào đằng sau nó, giữa nó và toa tàu tiếp sau, Brown đứng đưa đầu ra phía ngoài quan sát các bụi cây. Và cả hai người thấy lẫn nhau cùng lúc: hai bộ mặt, một cái thì dịu dàng, không có gì độc đáo, vấy máu, và cái kia thì rắn chắc, bị quấy nhiễu, tuyệt vọng, bây giờ thì bị méo mó bởi tiếng hét mà tàu lửa đang chạy rầm rầm át đi. Và như thể đi theo những quỹ đạo ngược nhau, hai bộ mặt đó gặp nhau, giống như những bóng ma, như những hồn ma hiện hình. Byron vẫn không suy nghĩ. "Ôi, ông Thần núi ơi," anh nói, với sự ngạc nhiên như con nít và gần như ngây ngất; "chắc chắn hắn biết cách nhảy lên tàu. Chắc chắn hắn đã làm vậy trước đây." Anh không suy nghĩ gì hết. Như thể bức tường di động của những toa tàu xám xịt là một con đê mà đằng sau nó thì thế gian, thời gian, niềm hy vọng không thể tin được và sự tin chắc không thể chối cãi, tất cả chờ đợi, còn dành cho anh vài giây phút bình yên. Dù sao, khi toa tàu cuối cùng chạy qua, bây giờ thì chạy nhanh, cả thế gian lao tới anh như một dòng sông tràn bờ hay như thủy triều dâng lên.

Và nó quá to lớn, quá nhanh chóng đến nỗi khoảng cách và thời gian bị lạc lối; do đó mà không thể đi lại trên cùng một con đường mòn. Anh dắt con la một đỗi lâu trước khi anh nghĩ đến chuyện leo lên lưng nó và cưỡi đi. Như thể anh đã vượt qua chính mình từ lâu, đã đợi chờ trước căn lều cho tới khi anh có thể đuổi kịp lại mình và đi vào. Rồi thì mình sẽ đứng đó và mình sẽ... Anh thử lần nữa: Rồi mình sẽ đứng đó và mình sẽ... Nhưng anh không thể làm gì hơn. Anh lại ra đến con lộ lần nữa, bây giờ. Anh đến gần một chiếc xe la trên đường về nhà từ thành phố. Khi đó là vào khoảng sáu giờ chiều. Tuy nhiên, anh không bỏ cuộc. Ngay cả khi mình không thể làm gì hơn chuyện đó: khi mình sẽ mở cửa và đi vào và đứng đó. Rồi thì mình sẽ... sẽ nhìn nàng. Nhìn nàng. Nhìn nàng - Một lần nữa, giọng nói lên tiếng:

" - sự kích động, tui nghĩ vậy."

"Cái gì?" Byron nói. Chiếc xe la đã ngừng lại, sát bên anh, và con la anh cưỡi cũng ngừng lại. Trên ghế, người đàn ông lại lên tiếng, bằng cái giọng đều đều và than vãn:

"Hên cho tui quá. Ngay khi tui đã sửa soạn quay về nhà. Tui đã bị trễ rồi mà."

"Có sự kích động à?" Byron nói. "Sự kích động nào?"

Người đàn ông nhìn anh. "Nhìn mặt bạn, người ta có lẽ nói là chính bạn đã bị kích động đó."

"Tôi bị té," Byron nói. "Có sự kích động nào ở trong thành phố tối nay vậy?"

"Tui nghĩ có lẽ bạn đã không nghe nói. Cách đây khoảng một giờ. Cái thằng mọi đen đó, Christmas. Người ta đã giết nó."

19

Vào đêm thứ hai đó, xung quanh bàn ăn vào giờ ăn tối, thành phố tỏ ra ngạc nhiên về sự vượt ngục của Christmas ít hơn là về nơi ẩn náu mà y đã chọn sau khi ra ngoài được. Y chắc phải biết là ở đó y chắc chắn sẽ bị bắt lại, và người ta còn tự hỏi khi việc này xảy ra, y lại không đầu hàng cũng không chống cự. Như thể y đã dự định và tỏ ra sẵn sàng tự tử một cách thụ động.

Tại sao y cuối cùng thì chạy đến trốn tránh ở nhà Hightower? Các ý kiến, các câu trả lời thì nhiều và khác nhau. "Mã tầm mã, ngưu tầm ngưu mà; đó là cách dễ nhất, nhanh nhất," một số người nói, trong đầu nhớ lại những chuyện cũ của ông mục sư. Vài người khác lại tin rằng đó là hoàn toàn tình cờ; vài người khác nữa nói là y đã hành động khôn ngoan, bởi vì không ai hẳn có thể nghĩ ra chuyện đến tìm bắt y ở nhà ông mục sư nếu như không có ai đó thấy y chạy băng qua cái sân sau nhà và chui vào bếp.

Tuy nhiên, Gary Stevens có một thuyết khác. Ông là ủy viên công tố của quận, tốt nghiệp đại học Harvard, một thành viên của Hội Phi Beta Kappa[122]: một người đàn ông cao lều nghều với cái ống điếu làm bằng lõi bắp không khi nào rời tay, tóc tai màu xám sắt bù xù, áo quần màu xám đậm lúc nào cũng rộng lùng thùng và không ủi. Ông thuộc một dòng họ lâu đời ở Jefferson. Tổ tiên ông xưa kia có sở hữu nô lệ ở đó và ông nội ông có quen biết ông nội và anh trai của cô Burden (và cũng ghét họ, và công khai khen ngợi Đại tá Sartoris khi họ bị giết). Ông có một cung cách ứng xử dễ dàng và nhẹ nhàng với nông dân, với cử tri và với các hội thẩm đoàn; thỉnh thoảng người ta có thể thấy ông ngồi ở hàng hiên một tiệm tạp hóa ở nhà quê suốt cả buổi chiều mùa hè giữa đám nông dân mặc quần yếm, nói chuyện tầm phào không đâu vào đâu với họ bằng lối ăn nói riêng của họ.

Đêm thứ hai này, một giáo sư của Đại học tiểubang[123] lân cận xuống lúc chín giờ từ chuyến tàu xuôi Nam, một người bạn đồngmôn của Stevens ở Harvard, đến Jefferson để nghỉ hè vài ngày với bạn mình. Khibước xuống tàu ông thấy ngay người bạn tức khắc. Ông tưởng là Stevens đến nhàga để đón mình cho đến khi ông thấy là Stevens đang bận bịu đưa một cặp vợchồng già trông có vẻ kỳ quặc lên tàu. Nhìn họ, ông giáo sư thấy một ông giànhỏ con, dơ bẩn, với chòm râu ngắn ở cằm, có vẻ ở trong tình trạng như bị chứnggiữ nguyên thế[124], và một bà già hẳn là vợ lão ta - một con người lùn mập vớibộ mặt trông như được làm bằng bột nhào dưới cái lông chim màu trắng bị lấm bẩnlắc lư, không ra hình dạng gì trong chiếc áo đầm lụa cổ lỗ sĩ có màu vuachúa[125] và sắp phai hết. Trong một khoảnh khắc, ông giáo sư đứng lại, mặt lộvẻ quan tâm pha chút ngạc nhiên khi thấy Stevens dúi vào tay người đàn bà, nhưdúi vào tay một đứa bé, hai tấm vé tàu. Ông bước tới, và Stevens vẫn chưa thấyông, và ông tình cờ nghe lời nói cuối cùng của người bạn mình ngay lúc ngườiphục vụ trên toa giúp hai ông bà già đi vào hành lang: "Được rồi, được rồi,"Stevens nói, giọng dỗ dành và vắn tắt; "sáng mai cậu ấy sẽ đi tàu lửa. Tôi sẽlo liệu chu đáo việc này. Tất cả những gì bà phải làm là thu xếp đám tang,nghĩa địa. Giờ bà đưa ông về nhà, đưa ông vào giường. Tôi sẽ lo liệu cho cậu ấylên tàu lửa sáng mai." 



* * *

[103] Katzenjammer Kids là một trang tranh truyện hài hước nổi tiếng ở Mỹ, kéo dài 37 năm (1912-1949) - ND.

[104] To lynch: giết hoặc trừng phạt một cách dã man, thường là treo cổ, thiêu sống..., người bị coi là phạm tội mà không cần tòa án xét xử, chỉ do đám đông quyết định và thực hiện. Ở Mỹ, có gần 3.500 người da đen bị lynched từ 1882 đến 1960, phần lớn trong giai đoạn 1882-1920. Có thể dịch là 'hành hình kiểu lin-chơ Mỹ' - ND.

[105] Strophe: phần đầu, do một dàn đồng ca hát lên trong bi kịch Hy Lạp thời cổ đại. Còn có nghĩa là một đoạn thơ, khúc thơ - ND.

[106] Antistrophe: một đoạn thơ hồi đáp lại đoạn thơ đi trước, trong thi ca Hy Lạp cổ đại - ND.

[107] Tức Jesus Christ, con của Chúa, sinh vào đêm Nô-en - ND.

[108] Một trong những thành ngữ trong Cựu Ước - ND.

[109] Eggnog (hay egg nog): một món uống được ưa chuộng ở Mỹ, nhất là trong các dịp lễ mùa đông như Tạ ơn, Giáng sinh, Năm mới, thông thường gồm sữa tươi và trứng tươi quậy chung với đường, kem sữa. Có thể cho thêm rượu mạnh như brandy, rum, vodka hay whisky... cuối cùng cho chút bột quế vào cho thơm - ND.

[110] Nguyên văn: The I-Am: viết gọn của câu "I Am Who I Am", là một trong bảy tên dùng để chỉ Thượng đế (các tên khác là Jehovah, Đấng Tối cao, Đấng Vĩnh hằng...) theo đạo Do Thái; là Đức Chúa Trời, theo đạo Cơ đốc; là Ngã (Parabrahman) theo Ấn Độ giáo - ND.

[111] Henry IV (1553-1610): một trong những ông vua lớn của nước Pháp (1589-1610), thuộc triều đại Bourbon, theo đạo Tin lành rồi bỏ đạo này để theo đạo Thiên chúa vì lý do chính trị. Bị tên Ravaillac ám sát năm 1610 - ND.

[112] Hillbilly: từ mang tính xúc phạm, chỉ người chất phác từ vùng nông thôn xa xôi, nhất là vùng rừng núi ở miền Đông Nam nước Mỹ - ND.

[113] Trong phần lớn các tiểu bang Mỹ, một số quan chức trong ngành tư pháp, như district attorney (ủy viên công tố ở một quận) hay trong ngành an ninh xã hội như sheriff... thì do dân bầu. Ai cũng phải tuyên thệ trước khi nhậm chức, và thường có nhiệm kỳ bốn năm - ND.

[114] Một khoáng chất trong suốt, dễ phân ra thành các lớp mỏng, được dùng làm chất cách điện.v.v...- ND.

[115] Sassafras - ND.

[116] Tin star: huy hiệu của cảnh sát - ND.

[117] Tên ông cò - ND.

[118] Họ của ông cò - ND.

[119] Nguyên văn: Mr Wat Kenedy Dear sir please give barer My reward Money for captain Murder Xmas rapp it up in paper 4 given it toe barer yrs truly - ND.

[120] Nguyên văn: not Sined but All rigt You no who - ND.

[121] Nguyên văn: bowlsheyvick. Tiếng Anh thường viết là Bolshevik hay Bolshevist. - ND.

[122] The Phi Beta Kappa Society là một hội đoàn xã hội dành cho sinh viên ưu tú trong các trường đại học Mỹ, xưa nhất và được xem là danh giá nhất. Từ khi thành lập (năm 1776) đến nay, đã có 17 tổng thống Mỹ, 37 thẩm phán Tối cao Pháp viện Mỹ và 136 giải Nobel Mỹ từng là hội viên. (Theo Wikipedia) - ND.

[123] State university: ở Mỹ, chỉ đại học công do chính tiểu bang thành lập và tài trợ, và thường mang tên tiểu bang đó - ND.

[124] Catalepsy: căn bệnh gây ra cho một người bị tạm thời mất ý thức và thân thể cứng đơ - ND.

[125] Regal color: thường là màu tía nhưng cũng có thểlà đỏ sẫm, xanh biển, lục đậm, lục tươi, vàng kim và đồng thanh - ND.   

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top