Light In August - William Faulkner (Part 4)
Christmas châm thuốc và ném que diêm về phía cửa mở, nhìn ngọn lửa lụi tắt trong khoảng không. Rồi y lắng tai chờ tiếng động nhẹ, vô nghĩa mà que diêm tàn sắp gây ra khi đụng đất; và y dường như nghe được. Rồi, ngồi trên giường trong căn phòng đầy bóng tối, y dường như nghe ra vô số âm thanh cũng nhẹ như tiếng que diêm rơi - tiếng nói, tiếng rì rầm, tiếng thầm thì: của cây lá, bóng tối, mặt đất; những con người: giọng nói của riêng y, các giọng nói khác gợi lên những cái tên, những thời gian và những nơi chốn mà y có ý thức suốt cả đời y, dù không biết điều này, tất cả những thứ đó là chính cuộc đời y. Và y nghĩ Chúa có lẽ và mình cũng không biết điều đó Y có thể xem điều đó như một câu chữ đã in, sinh ra đúng hạn và đã chết Chúa cũng thương yêu mình giống như những chữ trên các tấm bảng quảng cáo ngoài trời của năm trước đã nhạt nhòa vì mưa nắng Chúa cũng thương yêu mình
Y hút hết điếu thuốc mà không dùng đến tay một lần nào. Y ném nó ra phía cửa. Khác với que diêm, nó không lụi tắt giữa đường bay. Y nhìn nó lộn vòng lấp lánh xuyên qua cửa. Y ngả lưng lên giường, hai tay để sau gáy, như một người nằm mà không định ngủ, nghĩ Mình vào giường nằm từ lúc mười giờ và mình không ngủ. Mình không biết bây giờ là mấy giờ nhưng đã quá nửa đêm rồi và mình vẫn không ngủ "Mình tức điên lên vì cổ bắt đầu cầu nguyện cho mình," y nói. Y nói to, với cái giọng đột ngột và oang oang trong căn phòng tối, phủ lên trên tiếng ngáy say rượu của Brown. "Chính là chuyện đó. Bởi vì cổ bắt đầu cầu nguyện cho mình."
Y đứng dậy. Đôi bàn chân trần không gây ra tiếng động. Y đứng trong bóng tối, chỉ mặc đồ lót. Trên cái giường khác, Brown nằm ngáy. Christmas đứng một lát, mặt quay về phía tiếng ngáy. Rồi y bước về phía cửa. Chỉ mặc đồ lót và đi chân không, y rời căn lều. Bên ngoài, trời sáng hơn một chút. Trên đầu y, những chùm sao quay chậm chạp, trong đó có những vì sao y biết từ ba mươi năm nay mà đối với y, không có cái nào có tên hay mang một ý nghĩa gì theo hình dạng, vị trí hay sự sáng chói của chúng. Phía trước, nhô cao hơn một đám cây cối dày đặc, y có thể thấy một ống khói và một đầu hồi của ngôi nhà. Còn chính ngôi nhà thì chìm trong bóng tối và không thể thấy được. Không ánh sáng hay âm thanh nào phát ra từ nó trong khi y đến gần và đứng dưới cửa sổ của căn phòng, nơi mà cô ngủ, nghĩ Nếu cổ cũng ngủ. Nếu cổ ngủ? Các cánh cửa đều không bao giờ khóa; vì vậy, thường là vào bất cứ giờ nào giữa đêm và rạng đông mà thấy động lên cơn ham muốn, y có thể vào trong nhà và tìm tới phòng ngủ của cô, bước chân tỏ lối xuyên qua bóng tối đến tận giường cô. Đôi khi cô còn thức đợi và gọi tên y. Vào những lần khác, y phải đánh thức cô dậy bằng bàn tay cứng rắn và hung bạo và đôi khi, y làm tình với cô một cách cũng cứng rắn và hung bạo không kém cho đến lúc cô tỉnh ngủ hẳn.
Đó là hai năm trước đây, là hai năm sau lưng họ, bây giờ. Y nghĩ Có lẽ sự sỉ nhục nằm ngay ở chỗ đó. Có lẽ mình tin là mình đã bị lừa, bị phỉnh rồi. Thật tức là cổ đã nói láo với mình về tuổi cổ, về những chuyện xảy ra với đàn bà vào tuổi trung niên Đứng một mình trong bóng đêm, dưới cái cửa sổ tối tăm, y nói to: "Cổ không nên bắt đầu cầu nguyện cho mình mới phải chớ. Cổ đã được yên ổn rồi nếu cổ không bắt đầu cầu nguyện cho mình. Đâu phải lỗi cổ nếu cổ bây giờ trở nên quá già để còn làm ăn được gì nữa. Nhưng đáng lẽ cổ phải có đủ lương tri để đừng bắt đầu cầu nguyện cho mình chớ." Y bắt đầu nguyền rủa cô. Đứng dưới cửa sổ tối tăm, y nguyền rủa cô với những lời tục tĩu chậm rãi và có tính toán. Y không nhìn lên cửa sổ. Trong bóng đêm nhạt nhòa, y có vẻ quan sát thân thể của mình. Y có vẻ nhìn nó từ từ trở nên dâm dật, trong tiếng thầm thì của những lời tục tĩu thô bỉ, giống như một xác chết trôi trong một vũng đen, đặc sệt, tù đọng của cái gì đó khác hơn là nước. Với lòng bàn tay cứng rắn, y tự sờ mó mình, từ từ lên bụng và ngực ở dưới lớp đồ lót, nó chỉ có một hạt nút ở trên cùng để giữ khỏi bị tụt. Một thời y đã có những bộ quần áo lót còn nguyên các hạt nút. Một người đàn bà đã khâu chúng. Chuyện này chỉ kéo dài một thời gian, một thời gian nào đó. Rồi cái thời gian này qua đi. Sau đó, y rút quần áo lót ra khỏi đống đồ dơ của mình trước khi đem đi giặt chung để nàng không thể lấy nó mà thay thế các hạt nút bị thiếu. Khi nàng ngăn chặn được cái trò này, y cố ý tự buộc mình học và nhớ những hạt nút nào bị mất và được khâu lại. Và, với con dao nhíp cùng sự thận trọng lạnh lùng và khô khan của một nhà giải phẫu, y cắt phăng những hạt nút mà nàng vừa mới thay thế.
Bàn tay mặt của y trượt nhanh và êm ả như lưỡi dao nhíp đó, cho tới chỗ hở ra của bộ đồ lót. Dùng cạnh bàn tay, y gạt phăng hạt nút còn lại. Khi bộ đồ lót tụt xuống dọc hai chân, khí trời ban đêm thổi qua người y, thổi dịu dàng; cái miệng mát lạnh của bóng tối, cái lưỡi mềm mại và mát lạnh. Khi bước đi lại, y có thể cảm thấy khí trời ban đêm như nước chảy trên da thịt mình; dưới hai bàn chân, y cảm thấy những hạt sương đêm mà y chưa từng cảm thấy trước đó. Y đi qua cánh cổng gãy đổ và dừng ở bên cạnh con lộ. Cỏ dại tháng tám lên cao tới giữa đùi. Trên những cành, những lá, bụi bặm từ những chiếc xe la đi ngang qua tích tụ lại từ một tháng nay. Con lộ chạy trước mặt y. Nó nhợt nhạt hơn bóng tối của cây cối và mặt đất một chút. Thành phố trải dài ở một bên; và bên kia, con lộ chạy lên một ngọn đồi. Sau một lát, ánh sáng bắt đầu lớn dần sau lưng đồi, vẽ ra những đường viền quanh nó. Rồi y có thể nghe tiếng xe hơi. Y không cử động. Y đứng, trần truồng, hai tay chống nạnh, hai chân ngập trong đám cỏ dại đầy bụi lên tận giữa đùi. Chiếc xe từ trên sườn đồi chạy xuống, tiến lại gần, đèn pha chiếu thẳng trên người y. Y nhìn thân hình mình ra khỏi bóng tối, trở nên sáng trắng, giống như một bức ảnh mới lấy ra từ chậu dung dịch rửa ảnh. Y nhìn thẳng vào ngọn đèn pha khi chiếc xe chạy vụt qua. Một giọng đàn bà trong xe phọt ra phía sau, một tiếng hét chói tai. "Đồ da trắng bẩn thỉu khốn kiếp!" y thét lên. "Đâu phải lần đầu con đĩ ngựa của tụi mày thấy con..." Nhưng chiếc xe hơi đã đi mất. Chẳng còn ai để nghe, để lắng nghe. Nó đã đi mất, hút theo nó, đằng sau nó, nào bụi, nào ánh đèn, hút theo nó tiếng hét yếu dần của người đàn bà da trắng. Y bây giờ thấy lạnh. Như thể y chỉ đến đó để dự vào một biến cố không thể tránh được nào đó, và biến cố này giờ đã xảy ra nên y được tự do thêm một lần nữa. Y trở lại ngôi nhà. Dưới cái cửa sổ tối tăm, y dừng bước, đưa mắt tìm và thấy ra bộ đồ lót của mình, và mặc lại. Nó giờ không còn hạt nút nào cả và y phải dùng tay giữ chặt nó khi quay về căn lều. Chưa gì y đã nghe Brown ngáy. Y đứng ở ngưỡng cửa một lát, bất động và lặng thinh, lắng tai nghe cái hơi thở kéo dài, khó chịu, không đều, và chấm dứt, ở cuối mỗi vòng thở, bằng tiếng ồng ộc bị tắc ngang. 'Đáng lẽ mình phải đánh bẹp mẹ cái mũi nó hơn nữa.' y nghĩ. 'Đồ chó đẻ trời đánh thánh vật.' Y bước vào trong, đến bên giường y và sẵn sàng nằm xuống. Y đang ngả mình xuống thì bỗng dưng ngừng lại, mới nằm nửa chừng. Có lẽ y không thể chịu nổi khi nghĩ đến cảnh y nằm đó đến khi trời sáng với một tên say đang ngáy ùng ục trong bóng tối và trong khoảng thời gian ở giữa thì đầy những tiếng người nhiều không đếm xuể. Y ngồi dậy, đưa tay sờ soạng nhẹ nhàng dưới gầm giường. Y tìm ra đôi giày, xỏ vào, rồi lấy từ trên giường cái mền đơn bằng vải bông duy nhất làm thành bộ chăn chiếu của y và bỏ ra khỏi căn lều. Chuồng ngựa nằm cách đó độ ba trăm thước[44]. Nó thì đổ nát và không có một con ngựa nào ở trong đó từ ba chục năm nay. Thế nhưng, chính cái chuồng ngựa này mà y đi tới. Y bước khá nhanh. Bây giờ, y suy nghĩ, bây giờ, thành tiếng, 'Quỷ thần ơi, sao mình lại muốn ngửi mùi ngựa?' Rồi y nói, dò dẫm tìm ý: "Chính vì tụi nó không phải đàn bà. Ngay cả con ngựa cái cũng là một loại đàn ông đó."
Y ngủ chưa đến hai tiếng đồng hồ. Khi y thức giấc, rạng đông vừa mới bắt đầu. Trên người đắp chiếc mền đơn, nằm trên sàn ván bị long ra của cái hang đổ nát và tăm tối, không khí hăng mùi bụi mịn, hơi hơi a-mô-ni-ac, mà rơm rạ để lại, với sự trống vắng ngột ngạt thường thấy ở những chuồng ngựa cũ, y có thể thấy qua cửa sổ không có ván ô trên bức tường phía đông khung trời màu vàng nhạt và ngôi sao mai chính hạ nhợt nhạt, xa tít.
Y cảm thấy khỏe khoắn cả người, như thể y đã ngủ thẳng cẳng một giấc tám giờ. Đó là một giấc ngủ không trông đợi, vì y từng nghĩ là mình sẽ không tài nào chợp mắt được. Mang lại đôi giày không cột dây, cặp nách cái mền đã xếp lại, y leo xuống cái thang gỗ thẳng đứng, bàn chân dò dẫm những thanh ngang mục nát và không thể thấy được, hạ mình xuống từ từ từng bậc một với chỉ một tay bấu chặt. Rồi y ra khỏi chuồng ngựa cũ, trong buổi rạng đông xám và vàng, không khí lạnh và trong mà y hít thở thật sâu.
Bây giờ, căn lều thấy đứng nổi bật trên nền trời phía đông càng lúc càng sáng tỏ, và cái khóm cây che khuất ngôi nhà, trừ cái ống khói duy nhất, cũng nổi bật lên. Trên những ngọn cỏ cao, sương đêm đọng dày và nặng. Giày y bị ướt tức khắc, lớp da giày gây lạnh ở hai bàn chân. Những ngọn cỏ ẩm ướt quệt vào hai chân trần của y giống như được các nhũ băng mềm mại vuốt ve. Brown đã thôi ngáy. Khi bước vào, Christmas có thể thấy Brown nhờ ánh sáng chiếu qua cửa sổ ở phía đông. Giờ thì hắn thở êm. 'Tỉnh rượu rồi đó,' y nghĩ. 'Tỉnh rượu mà không biết. Thật tội nghiệp!' Y nhìn Brown. 'Thật tội nghiệp. Nó sẽ phát khùng khi thức dậy và biết ra là nó lại không còn say. Có lẽ nó cần đến cả tiếng đồng hồ để uống cho say xỉn lần nữa.' Y thả tấm mền xuống và mặc đồ, quần "xéc", áo sơ-mi trắng giờ hơi dơ, nơ con bướm. Y hút thuốc. Một tấm gương vỡ móc trên vách bằng đinh. Y nhìn khuôn mặt lờ mờ của mình trong mảnh vỡ khi thắt nơ. Chiếc mũ rơm rộng vành mắc vào một cây đinh. Y không đưa tay lấy nó. Y lấy một cái mũ cát-két vải từ một cái đinh khác, rồi y cúi xuống lấy từ dưới đất, gần giường, một tờ tạp chí thuộc loại in hình đàn bà trẻ mặc nội y hoặc hình đàn ông đang cầm súng lục bắn nhau. Từ dưới chiếc gối trên giường, y lôi ra dao cạo, ống kem và chổi cạo râu và bỏ tất cả vào túi quần.
Khi y rời căn lều thì trời đã khá sáng. Chim hót vang. Lần này, y quay lưng về phía ngôi nhà. Y đi qua trước chuồng ngựa và đi vào cánh đồng cỏ ở xa hơn. Chẳng mấy chốc đôi giày và phần dưới hai ống quần y thấm ướt sương xám. Y ngừng bước, cẩn thận xăn ống quần lên gần đầu gối và đi tiếp. Ở cuối đồng cỏ là bắt đầu rừng cây. Sương đêm ở đấy không còn dày đặc đến vậy, và y hạ ống quần xuống lại. Sau một lúc, y đến một thung lũng nhỏ có một dòng suối chảy. Y đặt tờ tạp chí xuống, đi lượm những nhánh củi khô, nhóm lửa, rồi ngồi xuống, lưng tựa vào một gốc cây, hai chân để gần ngọn lửa. Chỉ một lát sau đó, đôi giày ẩm ướt của y bắt đầu bốc hơi. Rồi y cảm thấy luồng hơi nóng lan dần lên hai chân, rồi bỗng dưng y mở mắt và thấy mặt trời đã lên cao và lửa đã tắt ngúm, và y biết là y đã ngủ một đỗi lâu. 'Chắc chắn mình đã,' y nghĩ. 'Chắc chắn mình đã ngủ quên lần nữa rồi.'
Lần này, y đã ngủ hơn hai tiếng đồng hồ, bởi vì mặt trời chiếu sáng xuống cả con suối, phản chiếu lấp lánh trên dòng nước không ngừng chảy. Y đứng dậy, làm vài động tác giãn gân cốt, nhất là cái lưng ê ẩm và cứng đờ. Y lấy từ túi ra dao cạo, ống kem và chổi cạo râu. Quỳ bên suối, mặt nước là gương soi, y cạo râu, thỉnh thoảng mài lưỡi dao dài lóe sáng trên chiếc giày.
Y giấu các đồ cạo râu đó và tờ tạp chí trong một bụi cây và đeo lại nơ con bướm. Khi rời con suối, y đi theo hướng hoàn toàn ngược lại với ngôi nhà. Khi ra tới đường cái, y đã xa nhà cả nửa dặm[45]. Cách đó một khoảng ngắn có một cửa hàng nhỏ với một cột bơm xăng. Y đi vào cửa hàng và một người đàn bà bán cho y bánh quy và một lon thịt hộp. Y quay lại con suối và đám lửa đã lụi tàn.
Lưng tựa vào gốc cây, y dùng bữa sáng, vừa ăn vừa đọc tờ tạp chí. Y đã đọc nó trước đó, nhưng chỉ đọc độc nhất một bài báo; giờ y bắt đầu bài thứ hai, đọc một mạch tờ tạp chí như thể nó là một cuốn tiểu thuyết. Thỉnh thoảng y ngước mắt ra khỏi trang giấy, miệng vẫn nhai, nhìn những lá cây chập chờn ánh sáng mặt trời uốn vòng cung bên trên khe nước. 'Có lẽ mình đã làm chuyện đó rồi,' y nghĩ. 'Bây giờ, có lẽ không còn phải làm nữa.' Y có cảm tưởng là y có thể thấy một ngày vàng rực đang mở ra một cách yên bình trước mắt y, như một hành lang, như một bức thảm treo tường, trong ánh sáng mờ ảo, tĩnh lặng và thư thả. Dường như đối với y, trong khi ngồi đây, cái ngày vàng rực đó ngắm nhìn y một cách uể oải, như một con mèo vàng ngái ngủ nằm sóng soài. Rồi y lại đọc. Y lật các trang giấy, lật hết trang này đến trang khác không ngừng, mặc dù thỉnh thoảng y cũng có vẻ dừng hơi lâu một chút ở một trang, một hàng, hay có lẽ một từ. Y không ngước mắt lên lúc đó. Y không cử động, hẳn là bị chặn lại, bị giữ yên bởi một từ đơn lẻ có lẽ chưa định hình; cả bản thân y bị treo bởi sự kết hợp đơn giản, tầm thường của những con chữ trong không gian tĩnh lặng và đầy nắng. Bị treo như vậy, bất động và không trọng lượng cơ thể, y có vẻ nhìn thời gian trôi đi chậm chạp phía dưới mình, và nghĩ Mình chỉ muốn một điều, sự bình yên trong khi nghĩ, 'Đáng lẽ cổ không nên bắt đầu cầu nguyện cho mình mới phải chớ.'
Khi đến bài báo cuối cùng, y ngừng đọc và đếm số trang còn lại. Rồi y nhìn mặt trời và đọc tiếp. Bây giờ y đọc như một người vừa đi bộ dọc theo một đường phố vừa đếm những vết nứt trên vỉa hè, đọc cho tới trang cuối cùng, tới chữ cuối cùng và chấm hết. Rồi y đứng dậy, bật diêm đốt tờ báo, kiên nhẫn di chuyển ngọn lửa bên dưới nó cho đến khi nó cháy hết. Sau đó y bỏ bộ đồ cạo râu vào túi quần rồi đi xuống khe nước.
Sau một lúc, cái khe đó mở rộng ra: đáy khe thì bằng phẳng, phủ cát trắng, giữa hai bờ dốc thẳng đứng đầy ứ từ cao đến thấp những bụi cây gai rậm rạp. Những cây lớn vẫn uốn vòng cung phía trên nó, và những cành lá mục rơi đầy trong một cái vũng nằm dưới sườn dốc. Y kéo chúng qua một bên, dọn dẹp cái vũng và một cái xẻng cán ngắn lộ ra. Y bắt đầu dùng xẻng đào vào lớp cát bị phủ bởi cành lá mục, và lấy ra, từng cái một, sáu cái lon bằng kim loại có nắp vặn xoắn. Y không vặn mở nắp. Y đặt chúng nằm ngang, rồi với mũi xẻng bén y chọc thủng chúng, lớp cát bên dưới sẫm lại trong khi uýt-ki phọt ra, chảy tràn, và nỗi cô đơn dưới ánh mặt trời chứa chan và bầu không khí xung quanh bỗng sực nức mùi rượu. Y cẩn thận, không vội vã, đổ cạn từng lon một, bộ mặt hoàn toàn lạnh lùng, gần giống như một mặt nạ. Khi tất cả đều không còn một giọt, y ném chúng vào cái lỗ cũ, chôn chúng qua loa rồi kéo cành lá mục phủ lên lại và giấu cái xẻng lần nữa. Các cành cây có thể che đậy dấu vết sậm màu trên cát nhưng không thể giấu được mùi hương, mùi rượu. Y lại nhìn mặt trời. Bây giờ đã là buổi chiều.
Tối hôm đó, lúc bảy giờ, y ở dưới phố, trong một tiệm ăn nằm trên một con đường nhỏ. Y dùng bữa tối, ngồi trên chiếc ghế cao không có lưng tựa trước cái quày gỗ trơn bóng nhờ cọ xát nhiều. Ăn.
Lúc chín giờ, đứng bên ngoài tiệm hớt tóc, y nhìn, qua cửa sổ, tên đàn ông mà y đã nhận làm người hợp tác làm ăn. Y đứng bất động, hai tay đút túi quần và khói từ điếu thuốc lá lởn vởn trước khuôn mặt trầm lặng của y và cái mũ cát-két vải được y đội lệch, như chiếc mũ rơm rộng vành, tạo ra một cái vẻ vênh váo và hung dữ cùng lúc. Y đứng đấy, lạnh lùng và hung dữ đến nỗi Brown bên trong cửa tiệm, dưới ánh đèn sáng sủa, trong không khí sực mùi nước thơm và xà bông ấm, mặc cái quần sọc đỏ đã bẩn và áo sơ-mi cũng bẩn, đang khoa tay múa chân, giọng nói nặng nề, ngước mắt nhìn ra ngoài, câu nói bỗng tắt ngủm nửa chừng, và bằng đôi mắt của một tên say, hắn nhìn thẳng vào đôi mắt của người đàn ông đằng sau khung kính. Lạnh lùng và hung dữ đến mức khi thấy gương mặt nhìn nghiêng của Christmas, một tên thanh niên da đen đang vừa đi tản bộ trên đường vừa huýt gió bỗng im bặt, bước tránh ra xa, đi qua sau lưng y, rồi ngoái cổ nhìn lại. Nhưng bây giờ Christmas di chuyển lại. Y dường như đã ngừng ở đó một lát chỉ để cho Brown nhìn thấy y.
Y bước đi tiếp, không vội vã, rời xa quảng trường. Đường phố này, luôn luôn yên tĩnh, vào giờ đó thì không có lấy một bóng người. Nó dẫn xuống nhà ga, xuyên qua Freedman Town, khu phố người da đen. Nếu là bảy giờ tối thì y hẳn đã gặp nhiều người, da trắng cũng như da đen, trên đường đi đến quảng trường hay rạp chiếu bóng; và chín giờ rưỡi, họ có lẽ sẽ quay về nhà. Nhưng phim chiếu chưa chấm dứt, và y có cả con đường dành riêng cho mình. Y tiếp tục đi, vẫn giữa những căn nhà của dân da trắng. Từ cột đèn này tới cột đèn khác, những cái bóng nặng nề của những cành lá cây sồi và cây phong trượt qua áo sơ-mi trắng của y giống như những mảnh vải nhung đen. Không có gì thấy cô độc bằng cảnh một người đàn ông vạm vỡ bước đi trên con đường vắng lặng. Thế nhưng, dù không to, không cao, y xoay sở sao đó mà thấy cô độc hơn cả cái cột điện thoại đứng một mình ngay giữa sa mạc. Trên con đường rộng, vắng, đầy bóng cây ban đêm, y trông như một bóng ma, một hồn ma lỡ bước ra khỏi thế giới riêng của mình, và thất lạc.
Rồi y nhận ra mình. Y không thấy ra liền là con đường bắt đầu xuống dốc và tỏ ra bất ngờ biết mình đã đi vào Freedman Town rồi, y được các mùi vị mùa hè, các tiếng nói mùa hè của những người da đen vô hình, vô ảnh vây quanh. Chúng dường như quấn lấy y như những tiếng nói vô hình, vô thể, thầm thì hay nói to hay cười vang, bằng một ngôn ngữ không phải của y. Như cái đáy tối đen của một cái giếng, y thấy mình bị vây bọc bởi những hình dạng như túp lều, lờ mờ, soi sáng bằng đèn dầu lửa. Ngay những ngọn đèn đường cũng có vẻ đặt cách nhau xa hơn, như thể cuộc đời đen, hơi thở đen cấu thành chất khí có thể thở được đến mức không những các tiếng nói mà lại còn các cơ thể còn sống và chính ánh sáng nữa, tất cả phải trở thành thể lỏng và kết tụ một cách chậm chạp, từ tí ti này đến tí ti kia, cùng với đêm, vì giờ đây đêm đã có trọng lượng, không thể ngăn chia và duy nhất.
Bây giờ đứng bất động, thở hổn hển, y đảo mắt giận dữ nhìn hết chỗ này đến chỗ nọ. Nhờ ánh sáng mờ đục và ngột ngạt của các ngọn đèn dầu lửa, những căn lều xung quanh y nổi rõ trong bóng đêm. Từ mọi hướng, ngay cả bên trong người y, thầm thì những giọng nói vô hình, vô thể, phong phú và êm dịu của đàn bà da đen. Như thể chính y và toàn bộ cuộc đời đàn ông của y đã quay lại trong bóng tối, cái bóng tối nóng và ướt của con Cái nguyên thủy. Y bắt đầu chạy, cặp mắt sáng rỡ, răng có ánh chói, hơi thở vào thì lạnh trên hàm răng và đôi môi khô, cho tới cột đèn đường gần nhất. Phía dưới nó, một con hẻm nhỏ hẹp và lồi lõm uốn cong và lên cao cho đến một đường phố song song, ra khỏi khu đất trũng tối đen. Y rẽ vào con hẻm đó, vẫn chạy, và tim đập thình thịch, lao lên con dốc đứng, cho tới con đường phía trên. Y dừng ở đấy, thở hổn hển, mắt sáng rỡ, tim đập mạnh, như thể quả tim không thể hay chưa muốn tin không khí lúc này là cái không khí cứng và lạnh của người da trắng.
Rồi Christmas tự trấn tĩnh. Mùi da đen, giọng nói da đen giờ đã ở sau lưng y và bên dưới y. Phía tay trái là quảng trường với những cụm ánh sáng: những con chim sáng chói bị treo rung rinh, lượn thấp trong những đôi cánh không động đậy. Phía tay mặt, những cột đèn đường nối tiếp nhau, cách quãng, xen kẽ với những cành cây gãy đổ và không lay động. Y đi tiếp, lại chậm rãi, quay lưng về phía quảng trường, đi ngang một lần nữa giữa những căn nhà của cư dân da trắng. Người ta ngồi ở hàng hiên hay trên các chiếc ghế ở sân cỏ trước nhà; nhưng ở đây y có thể im lặng đi bộ. Thỉnh thoảng y có thể thấy họ: những cái đầu chỉ thấy bóng, những hình người mặc đồ trắng lờ mờ; ở một hàng hiên sáng đèn, bốn người ngồi chơi bài, các gương mặt trắng chăm chú và sắc nét dưới ngọn đèn thấp, những cánh tay trần của các người đàn bà trông sáng bóng, dịu và trắng ở trên những lá bài tầm thường. 'Đó là tất cả những gì mình muốn,' y nghĩ. 'Đâu có nhiều nhặn gì lắm đâu.'
Con đường này, đến lượt nó, bắt đầu lên dốc. Nhưng đó là một cái dốc an toàn. Chiếc áo sơ-mi trắng thẳng thớm, đôi chân tối tăm đang xê dịch của y, bị chìm khuất dưới những cái bóng dài đứng thẳng vuông vức và đồ sộ trên nền trời tháng tám đầy sao: một nhà kho chứa bông vải, một bể chứa nằm ngang có hình trụ trông giống như thân mình của một con voi răng mấu[46] cụt đầu, một dãy toa tàu chở hàng. Y băng qua hai đường ray xe lửa mà trên đó ánh lên thoáng qua một phản chiếu kép màu lục đến từ ngọn đèn dành cho sự bẻ ghi đang lập lòe liên tục ở đàng xa. Bên kia đường rầy là bắt đầu khu rừng cây. Nhưng y tìm ra đúng ngay con đường mòn. Nó lên cao, giữa các lùm cây. Ánh đèn thành phố lại bắt đầu hiện ra lần nữa, phía bên kia thung lũng, nơi đường xe lửa chạy qua. Nhưng y chỉ quay lại nhìn một khi đã đặt chân lên đỉnh đồi. Vậy là y có thể nhìn thành phố, ánh sáng chói lọi, và những ánh đèn riêng rẽ, nơi mà các đường phố tỏa ra từ quảng trường. Y có thể thấy con đường phía dưới mà y đã đi qua để đến đây, và con đường kia, nó đã suýt làm y đi lạc đó; xa hơn và nằm thẳng góc với các con đường, là cái thành lũy của chính thành phố, xa và sáng rực, và ở một góc giữa là khu đất trũng tối đen mà từ đó y đã chạy trốn, tim đập thình thịch, môi bỏng rát. Không có ánh sáng nào, hơi thở nào, mùi vị nào đến từ chỗ ấy. Nó nằm ngay đó, đơn giản vậy thôi, tối đen, không thể thâm nhập được, trong vòng hoa kết bằng những ánh sáng tháng tám lung linh. Nó có lẽ đã là một mỏ đá ban sơ, là chính vực thẳm của hư vô.
Y bước đi một cách tự tin, bất kể bóng tối và cây cối. Y không bao giờ, dù chỉ một lần, lạc khỏi con đường mòn mà y thậm chí không thể thấy. Khu rừng cây còn tiếp tục đến một dặm nữa. Rồi y bước ra con lộ, cảm thấy vướng bụi dưới chân. Bây giờ, y có thể thấy cái thế giới mơ hồ đang trải dài, cái chân trời đó. Đây đó, những cửa sổ nhợt nhạt sáng đèn. Nhưng phần lớn các căn lều đều tối đen. Tuy nhiên, máu y lại bắt đầu nói chuyện và nói chuyện lần nữa. Y đi nhanh, đều một nhịp bước; y có vẻ biết là cái nhóm đó thì gồm những người da đen dù y không thể phân biệt họ hay nghe họ nói trước đó chút nào, dù họ đã xuất hiện lờ mờ trong đám bụi mù giờ đã lắng xuống. Họ gồm năm hay sáu người, phân tán nhưng mơ hồ từng hai người một; và một lần nữa, y nghe ra, chế ngự cả tiếng động của chính dòng máu mình, tiếng thầm thì ấm áp của các giọng nói đàn bà. Y đi thẳng tới phía họ, chân bước nhanh. Họ đã thấy y và họ giạt qua một bên đường. Các tiếng nói im bặt. Y cũng đổi hướng, băng ngang qua con lộ và đi về phía họ như thể muốn tông cho họ té ngửa. Như thể nghe theo một khẩu lệnh, các người đàn bà bước tránh ra cùng một lúc, nhường đường cho y nhưng đi bên cạnh y với một khoảng cách an toàn. Một trong những người đàn ông bước theo họ, như thể hắn đẩy họ ra phía trước hắn, và hắn vừa đi vừa quay nhìn qua vai. Hai người đàn ông khác đã dừng giữa đường, đối mặt với Christmas. Christmas cũng đã dừng chân. Cả hai bên tưởng chừng không dấn bước nữa, vậy mà họ tiến đến gần nhau, như một ảo ảnh, như những cái bóng trôi dạt. Y có thể ngửi mùi da đen; y có thể ngửi mùi mồ hôi và mùi áo quần rẻ tiền. Đầu tên da đen, cao hơn đầu y, có vẻ cúi xuống, ở ngoài bầu trời, hiện trên nền trời. "Một tên da trắng đó," hắn nói, điềm tĩnh, không quay đầu lại. "Này ông da trắng, muốn gì đây? Ông tìm ai đó?" Giọng nói không thấy gì đe dọa. Cũng không quỵ lụy.
"Jupe ơi, quay lại đây đi," người đàn ông hồi nãy bước theo sau những người đàn bà nói.
"Tìm ai đây hả sếp?" tên da đen nói.
"Nè Jupe," một trong những người đàn bà nói, hơi lên giọng. "Quay lại đi chớ."
Trong một lúc, hai cái đầu, một trắng, một đen, có vẻ như treo trong bóng tối, phả hơi thở vào nhau. Rồi cái đầu tên da đen dường như trôi đi và biến mất; một làn gió mát không biết từ đâu thổi tới. Christmas từ từ quay người lại, vừa giương mắt nhìn họ hòa lẫn và biến dần một lần nữa trên con lộ nhợt nhạt, vừa nhận ra mình đang cầm cái dao cạo trong tay. Nó thì không mở ra. Không phải vì sợ đâu. "Đồ đĩ ngựa!" y nói khá to. "Đồ chó đẻ!"
Gió thổi, lạnh và tối tăm; Bụi cũng lạnh, ngay cả xuyên qua đôi giày y. 'Mình làm sao vậy trời?' y nghĩ. Y bỏ cái dao cạo vào túi lại và ngừng bước, châm thuốc hút. Y phải liếm môi nhiều lần mới giữ được điếu thuốc trên miệng. Dưới ánh lửa que diêm, y có thể thấy chính hai bàn tay mình run rẩy. 'Mọi thứ rắc rối này,' y nghĩ. "Mọi thứ rắc rối trời đánh này," y nói to, chân bước đi lại. Y đưa mắt nhìn lên những vì sao, lên bầu trời. 'Bây giờ chắc phải gần mười giờ rồi,' y nghĩ; rồi hầu như cùng lúc, y nghe tiếng chuông đồng hồ vang đến từ tháp chuông tòa án cách đó hai dặm. Chậm, rõ, nhịp nhàng, mười tiếng rền vang. Y đếm, ngừng bước lần nữa trên con lộ trống vắng và cô chiếc. 'Mười giờ,' y nghĩ. 'Mình cũng nghe chuông điểm mười giờ đêm qua mà. Và mười một. Và mười hai. Nhưng mình không nghe một giờ. Có lẽ gió đã đổi chiều.'
Đêm đó, khi nghe chuông đánh mười một giờ, y đang ngồi, lưng tựa vào một gốc cây bên trong cánh cổng gãy, trong khi sau lưng y, ngôi nhà vẫn tối tăm và giấu mình trong lùm cây rậm rạp. Đêm đó, y không nghĩ Có lẽ cổ cũng không ngủ Y không nghĩ gì cả, bây giờ; sự suy nghĩ đã không bắt đầu bây giờ; những tiếng nói cũng đã không bắt đầu bây giờ. Y chỉ ngồi đó, không cử động, cho tới lúc y nghe ở ngoài xa tiếng chuông đồng hồ điểm mười hai giờ. Rồi y đứng dậy và đi về phía ngôi nhà. Y không bước nhanh. Lúc đó, y thậm chí không nghĩ Chuyện gì đó sắp xảy ra. Chuyện gì đó sắp xảy ra với mình
6
Trí nhớ tin trước khi sự hiểu biết nhớ lại. Nó tin lâu hơn nó nhớ, thậm chí lâu hơn sự hiểu biết tự hỏi chính mình. Nó biết, tin, nhớ một cái hành lang trong một dãy nhà lớn, dài, lạnh lẽo, lộn xộn, đầy tiếng dội, bằng gạch đỏ sẫm, bị bồ hóng từ số lượng ống khói nhiều hơn số căn nhà bám đen, được xây trên một khoảng đất không cỏ, vung vãi bụi than cháy dở đã đóng thành bánh, xung quanh là những nhà máy nhả khói nằm trong vùng phụ cận, và bị bao kín bởi một hàng rào dây thép cao tới ba mét, trông giống như một nhà tù hay vườn thú, nơi mà những đứa bé mồ côi, với giọng nói trẻ con líp chíp như chim sẻ và mặc đồng phục bằng vải xanh, xuất hiện trong những ảo ảnh rời rạc, tình cờ, rồi biến mất trong trí nhớ, nhưng ở lại cố định trong sự hiểu biết, cũng cố định như những bức tường u ám, những cửa sổ tối tăm, nơi mà các cơn mưa bụi than từ những ống khói cận kề hằng năm chảy dài như nước mắt đen.
Trong cái hành lang yên tĩnh và trống vắng, trong cái giờ yên lặng đầu buổi chiều, nó trông như một cái bóng, thậm chí nhỏ so với tuổi lên năm của nó, kín đáo và im lặng như một cái bóng. Người nào ở trong hành lang hẳn không thể nói chính xác là khi nào, ở đâu nó đã biến mất, qua cửa nào, vào phòng nào. Nhưng không có ai khác ở trong hành lang vào giờ này cả. Nó biết điều đó. Nó đã làm chuyện này từ gần một năm nay, từ ngày nó tình cờ khám phá ra kem đánh răng mà cô tư vấn dinh dưỡng sử dụng.
Khi đã vào trong phòng, nó đi thẳng bằng đôi bàn chân trần và êm như ru đến chậu rửa mặt và tìm thấy cái ống tuýp. Nó đang nhìn kem màu hồng chảy ra như con giun vặn mình, mềm, mát, chậm, trên ngón tay màu giấy da của mình thì nghe tiếng chân trong hành lang, rồi nhiều tiếng nói ngay sau cánh cửa. Nó có lẽ nhận ra tiếng nói của cô tư vấn dinh dưỡng. Dù sao đi nữa, nó không chờ để biết họ sắp vào hay không. Ống tuýp kem đánh răng còn trên tay, và êm ru như cái bóng trên hai bàn chân trần, nó đi xuyên căn phòng và luồn ra sau một bức màn vải che riêng một góc phòng. Ở đó, nó ngồi xổm giữa những đôi giày đóng khéo và áo quần đàn bà mềm mại treo phía trên. Vẫn ngồi xổm, nó nghe cô tư vấn dinh dưỡng và người đi cùng bước vào phòng.
Người đàn bà này lúc đó đối với nó chỉ là một thứ đồ phụ tùng máy móc cần cho việc ăn uống, thực phẩm, nhà ăn, cho nghi thức của việc ăn uống trên những chiếc bàn dài và ghế dài bằng gỗ, một đồ phụ tùng thỉnh thoảng đi ngang qua tầm mắt nó mà không gây ấn tượng gì ngoại trừ như là một thứ gì đó dễ chịu trong sự liên tưởng, và nhìn chính người cô thì cũng thấy dễ chịu - trẻ, hơi béo tròn, màu da hồng-và-trắng nhẵn nhụi, cô gợi lên trong trí nó hình ảnh của cái nhà ăn, khiến cho miệng nó nghĩ đến cái gì đó ngọt ngào và dễ dính vào tay, vào môi... để ăn, cái gì đó cũng có màu hồng và lén lút. Ngày đầu tiên mà nó, kẻ chưa hề biết đến kem đánh răng là gì, khám phá ra cái này trong phòng cô, nó đã đi thẳng tới đó, như thể nó đã biết là cô sở hữu cái gì đó thuộc loại này và nó sẽ tìm thấy cái đó. Nó cũng biết giọng nói của người đi cùng với cô. Đó là của anh bác sĩ thực tập nội trú ở bệnh viện quận, anh cũng là người phụ tá cho viên bác sĩ của giáo xứ, và là một khuôn mặt quen thuộc trong ngôi nhà và cũng chưa phải là kẻ thù của nó.
Nó được an toàn lúc này, sau bức màn. Khi nào họ đi khỏi, nó sẽ để ống kem đánh răng vào lại chỗ cũ và cũng sẽ rời đi. Vậy là nó ngồi xổm sau bức màn, nghe mà chẳng để ý cho lắm tiếng nói bồn chồn thầm thì: "Không! Không! Không ở đây được đâu! Không bây giờ được đâu! Họ có thể bắt gặp mình. Ai đó có thể... Không, Charley! Đừng đừng!" Và người đàn ông nói gì thì nó không hiểu chút nào. Tiếng nói anh ta cũng lẩm nhẩm. Nhưng mang cái âm sắc tàn nhẫn như tất cả giọng nói của đàn ông vào thời đó đối với nó, vì nó còn quá trẻ để trốn thoát khỏi thế giới đàn bà và hưởng được một khoảng thời gian nghỉ ngơi ngắn ngủi trước khi trở lại nơi đó và ở luôn cho tới giờ phút lâm chung. Nó nghe những tiếng động khác mà nó biết rõ: tiếng chân kéo lê trên sàn, tiếng chìa khóa xoay ở cửa. "Không, Charley! Charley, đừng đừng! Đừng, Charley!" người đàn bà thì thào. Nó nghe các tiếng động khác, tiếng sột soạt, tiếng thầm thì, không phải lời nói. Nó không nghe; nó chỉ đợi, nghĩ mà không chú tâm hay tò mò gì đặc biệt, rằng giờ này mà vào giường thì thật là lạ. Một lần nữa, tiếng thì thào yếu ớt của người đàn bà đi xuyên qua bức màn mỏng: "Em sợ lắm! Nhanh lên! Nhanh lên anh!"
Nó ngồi chồm hổm giữa các đôi giày và quần áo mềm mại và đẫm mùi đàn bà. Nó thấy, nhưng chỉ qua xúc giác thôi, ống tuýp lúc trước hình trụ, giờ thì bẹp dúm. Qua vị giác chứ không thấy, nó ngắm con giun vô hình, mát rượi vặn mình trên ngón tay và, một cách tự động, làm miệng nó mang mùi gắt và ngọt cùng lúc. Thường thường, nó đã bỏ vào đầy miệng chỉ một lần rồi đặt ống tuýp vào chỗ cũ và rời phòng. Ngay mới năm tuổi, nó cũng biết là nó không được lấy nhiều hơn thế. Có lẽ bản năng con vật trong nó cảnh báo là, nếu lấy nhiều hơn nó sẽ mang bệnh. Có lẽ bản năng con người trong nó cảnh báo là, nếu lấy nhiều hơn thì cô sẽ nhận ra. Đây là lần đầu tiên nó lấy nhiều hơn. Núp sau màn và chờ đợi, nó bây giờ lấy hơn trước rất nhiều. Qua xúc giác, nó có thể thấy ống tuýp xẹp xuống. Nó bắt đầu đổ mồ hôi. Rồi nó nhận ra là nó đã đổ mồ hôi từ lâu rồi, là nó không làm gì khác ngoài việc đổ mồ hôi cho tới lúc này. Nó không còn nghe gì nữa bây giờ. Giá như có tiếng súng nổ bên kia bức màn thì nó cũng đã không nghe. Dường như nó tự quay về chính mình, nhìn mình đổ mồ hôi, nhìn mình nhét vào miệng một con giun khác mà bao tử không muốn. Và không nghi ngờ gì nữa, con giun không chịu chui xuống. Giờ thì nó bất động, nhưng đầu óc đắm chìm trong sự ngẫm nghĩ, lưng có vẻ còng xuống như một nhà hóa học trong phòng thí nghiệm, và chờ đợi. Nó không phải đợi lâu. Chất kem nhão mà nó đã nuốt vào bỗng dưng trồi lên trong người, cố nhoi ra bên ngoài, cố tìm lại không khí mát mẻ. Không còn ngọt nữa. Trong bóng tối thấm đẫm mùi đàn bà màu hồng, ngồi xổm sau tấm màn, bọt mép màu hồng tràn ra môi, nó lắng nghe ruột gan mình, nó chờ đợi trong sự chấp nhận cái gì sắp sửa xảy ra với nó là không thể tránh được. Rồi cái đó xảy ra thực. Nó tự nhủ, hoàn toàn thụ động và buông xuôi: 'Thôi, xong rồi!'
Khi chiếc màn bị giựt tung ra, nó không nhìn lên. Khi các bàn tay kéo nó một cách dữ tợn ra khỏi các đồ ói mửa bầy nhầy, nó không chống cự. Nó để thân người mềm nhẽo bị nhấc lên, và với cặp mắt lờ đờ của một thằng ngốc, miệng thì há hốc, nó nhìn khuôn mặt lúc này không còn hồng-và-trắng nhẵn nhụi, tóc tai bù xù, hoang dại mà những cái băng kẹp tóc mượt mà từng làm nó nghĩ đến các viên kẹo. "Đồ chuột con bẩn thỉu!" một giọng lanh lảnh và giận dữ rít lên; "Đồ chuột con bẩn thỉu! Mày đang theo dõi tao à? Đồ mọi con bẩn thỉu!"
***
Cô tư vấn dinh dưỡng hai mươi bảy tuổi - khá già để mà còn mạo hiểm trong vài cuộc phiêu lưu tình ái nhưng vẫn khá trẻ để dành một tầm quan trọng lớn lao, không phải vào chuyện yêu đương đâu mà là vào chuyện bị bắt gặp khi đang làm tình. Cô cũng khá ngu để tin rằng một đứa bé năm tuổi không những có thể suy ra sự thật từ những gì nó nghe được mà còn muốn kể ra sự thật đó như người lớn hay làm. Cho nên, trong hai ngày tiếp đó, cô hình như cảm thấy dù mình nhìn đâu, đi đâu thì bao giờ cũng có thằng bé quan sát cô với đôi mắt mang vẻ dò hỏi sâu sắc và chăm chú của một con thú, và cô gán ép thêm cho nó những thuộc tính của người lớn: cô tin là nó không những có ý định kể ra mà còn cố tình trì hoãn làm vậy chỉ để cô phải đau khổ hơn. Cô không bao giờ nhận thấy là nó tin rằng mình là người bị bắt quả tang trong khi phạm tội và giờ đây đang bị dày vò bởi sự trừng phạt được trì hoãn đó, và nếu nó cứ xuất hiện ở nơi nào cô có mặt, chính là để chấm dứt sự dày vò này, để nhận đòn roi vọt, trả giá một lần cho xong và không nghĩ đến việc này nữa.
Vào cuối ngày thứ hai, cô thấy tuyệt vọng quá đỗi. Đêm, cô không ngủ được. Cô nằm, cả người căng thẳng, nghiến chặt hàm răng, siết chặt nắm tay, thở hổn hển vì giận dữ và kinh hãi, và còn tệ hơn tất cả, vì hối tiếc: nỗi giận dữ mù quáng để lội ngược thời gian, dù chỉ một giờ, một giây. Ngay cả tình yêu cũng bị cho ra rìa trong khoảng thời gian này. Giờ đây, anh bác sĩ trẻ được cô quan tâm còn ít hơn đứa bé, anh đơn giản chỉ là công cụ cho cái tai họa của cô chứ không phải cho sự thoát nạn. Cô hẳn không thể nói cô ghét nhất kẻ nào trong hai người đó. Thậm chí cô không thể nói khi nào thì cô ngủ, khi nào thì cô thức. Bởi vì lúc nào cũng đè nặng trên mí mắt, in đậm trong võng mạc, là khuôn mặt màu giấy da, bất động, nặng nề, không thể tránh được, đang theo dõi cô.
Vào ngày thứ ba, cô ra khỏi trạng thái hôn mê, mộng du mà trong suốt thời gian đó, vào giờ có ánh sáng ban ngày và có người qua lại, cô mang bộ mặt của riêng mình như cái mặt nạ đau đớn, sững ra trong sự nhăn nhó giả vờ không dám chùng xuống. Vào ngày thứ ba, cô bắt đầu hành động. Cô tìm ra nó dễ dàng. Đó là ở trong hành lang, cái hành lang vắng ngắt vào giờ yên tĩnh sau bữa ăn tối. Nó đứng đó, không làm gì cả. Có lẽ nó đã đi theo cô. Không ai có thể nói là nó đang đợi cô hay không. Và cô chẳng ngạc nhiên khi thấy nó, và nó chẳng ngạc nhiên khi nghe tiếng và quay người lại và thấy cô: hai bộ mặt, một cái không còn hồng-và-trắng nhẵn nhụi, cái kia thì nặng nề, hai mắt điềm tĩnh, hoàn toàn không có thứ gì bên trong, ngoại trừ sự chờ đợi. 'Giờ thì mình sắp xong rồi đó,' nó nghĩ.
"Nghe này," cô nói. Rồi cô ngừng lại, nhìn nó. Làm như cô không thể nghĩ ra điều gì để nói tiếp. Thằng bé chờ, im lặng, bất động. Chầm chậm và từ từ, những cơ bắp trên lưng nó trở nên phẳng, cứng và căng như các tấm ván. "Có phải mày sắp kể ra phải không?" cô nói.
Nó không trả lời. Nó tin rằng mọi người chắc phải biết là không đời nào nó chịu mở miệng nói ra chuyện kem đánh răng, chuyện ói mửa. Nó không nhìn thẳng vào mặt cô. Nó nhìn hai bàn tay cô, chờ đợi. Một trong hai bàn tay đang nắm lại trong túi cái váy. Xuyên qua lớp vải, nó có thể thấy tay nắm rất chặt. Nó chưa hề ăn đòn bằng những cú đấm. Nó cũng chưa hề chờ đến ba ngày mới bị trừng phạt. Khi thấy bàn tay rút ra khỏi cái túi, nó tin là cô sắp sửa đấm nó. Nhưng không; bàn tay chỉ mở ra dưới mắt nó. Một đồng đô-la bạc nằm sẵn trên đó. Với giọng lanh lảnh, gấp gáp, cô thì thào, dù hành lang thì vắng tanh xung quanh hai người. "Mày có thể mua được nhiều thứ lắm bằng cái này. Cả một đô-la đó." Đây là lần đầu tiên nó thấy một đô-la, dù nó biết đó là cái gì. Nó nhìn. Nó muốn đồng đô-la này như thể nó muốn cái nắp sáng loáng trên đầu chai bia. Nhưng nó không tin là cô sẽ cho nó, bởi vì nó sẽ không cho cô nếu đồng đô-la là của nó. Nó không biết cô muốn nó làm gì. Nó đang chờ ăn đòn rồi được thả ra. Giọng nói tiếp tục, gấp, căng, nhanh: "Cả một đô-la. Thấy không? Mày mua được nhiều thứ lắm đó! Khá nhiều kem đánh răng để ăn hàng ngày cho một tuần đó. Và tháng tới có lẽ tao sẽ cho mày một đô-la khác."
Nó không cử động, không nói. Tưởng như nó được tạc ra thành một món đồ chơi bự tổ chảng: bé nhỏ, bất động, đầu tròn, mắt tròn, mặc quần yếm. Nỗi ngạc nhiên, cú sốc, sự xúc phạm khiến nó đờ người ra. Mắt nhìn chằm chằm đồng đô-la, nó có vẻ thấy những ống tuýp kem đánh răng được xếp đống như những khúc củi, bất tận và kinh hoàng; cả con người nó co rúm lại trong một nỗi khiếp sợ sâu sắc, mãnh liệt. "Tui không... không muốn nữa," nó nói. 'Mình không bao giờ muốn nữa,' nó nghĩ.
Sau đó, nó cũng không dám nhìn mặt cô. Nó có thể cảm thấy cô, nghe thấy cô, nghe tiếng thở rùng mình kéo dài của cô. Bây giờ chuyện đang đến đó nó nghĩ trong một khoảnh khắc ngắn ngủi. Nhưng cô thậm chí không đưa tay lắc nó. Cô chỉ giữ chặt nó, không lắc nó, như thể hai tay cô cũng không biết muốn làm gì tiếp đó. Mặt cô gần đến mức nó cảm thấy hơi thở cô trên má. Nó không cần nhìn lên để biết bộ mặt cô trông giống cái gì lúc này. "Kể ra đi!" cô nói. "Này, kể ra đi! Đồ con hoang mọi đen bẩn thỉu! Đồ con hoang mọi đen bẩn thỉu!"
Việc này xảy ra vào ngày thứ ba. Ngày thứ tư, cô phát điên hoàn toàn, một cách khá trầm lặng. Cô không còn dự định gì nữa. Các hành động sau đó của cô bắt đầu tuân theo một thứ bói toán, như thể trong những ngày và những đêm mất ngủ cô đã nuôi dưỡng, dưới cái mặt nạ điềm tĩnh, niềm lo sợ và nỗi giận dữ của mình, đã để cho phát triển nơi cô những tính năng siêu linh cùng với tính chất không thể nào sai lầm, tự nhiên nơi đàn bà, để hiểu cái ác một cách tự phát.
Lúc này, cô trở nên khá trầm tĩnh. Lúc này cô đã thoát khỏi ngay cả sự thôi thúc cấp bách. Như thể bây giờ cô có thì giờ để nhìn chỗ này, chỗ nọ và nghĩ ra các dự định. Cô nhìn xung quanh mình, và cái nhìn, trí óc, ý tưởng của cô đều đi ngay lập tức, thẳng tới tên gác cổng đang ngồi ở cửa căn phòng đặt máy sưởi bằng nước nóng cho tòa nhà. Không có suy luận, không có ý định gì cả. Cô chỉ có vẻ nhìn ra ngoài con người mình trong một lát, giống như một người hành khách ngồi trong xe đưa mắt nhìn ra ngoài và thấy, không ngạc nhiên chút nào, người đàn ông nhỏ con, dơ dáy này ngồi trên chiếc ghế xếp ở một khuông cửa bám đầy bồ hóng, đang đọc qua cặp kính gọng thép một cuốn sách đặt trên đùi - một hình dạng, gần như một thứ đồ đạc cố định mà cô biết từ năm năm nay dù không một lần thực sự nhìn hắn. Cô hẳn không nhận ra khuôn mặt hắn ở ngoài đường. Cô hẳn có thể đi ngược chiều hắn mà không để ý đến, dù đó là một người đàn ông. Cuộc đời cô, bây giờ, có vẻ đơn giản và thẳng băng như một cái hành lang có hắn ngồi ở cuối đằng kia. Cô đi về phía hắn tức khắc, và ngay trước khi nhận ra là mình đã chuyển động, cô đã dấn bước trên lối đi bẩn thỉu này.
Hắn đang ngồi trên chiếc ghế xếp ở khuông cửa, một cuốn sách đã mở đặt trên đùi. Khi đến gần, cô thấy ra đó là cuốn Kinh thánh. Nhưng cô chỉ để ý đến nó y như cô có thể để ý đến con ruồi trên chân hắn. "Ông cũng thù ghét nó," cô nói. "Ông cũng đang theo dõi nó. Tôi có thấy ông. Đừng chối nghe." Hắn nhìn lên khuôn mặt cô, sau khi đẩy cặp kính lên trán. Hắn không già. Trong công việc hiện tại, trông hắn không phù hợp lắm. Thời trẻ, hắn là một người mang tính khắc nghiệt; một người lẽ ra phải sống một cuộc sống gian khổ và tích cực, nhưng thời gian, hoàn cảnh, cái gì đó, đã phản bội lại hắn, đẩy cái thân thể cường tráng, sự suy nghĩ của một người đàn ông bốn mươi tuổi vào chỗ nước đọng tù túng thích hợp với một người sáu mươi hay sáu mươi lăm tuổi. "Ông biết đấy," cô nói. "Ông đã biết trước khi những đứa bé khác bắt đầu gọi nó là mọi đen. Ông đến đây cùng lúc với nó mà. Ông làm việc ở đây chưa đầy một tháng khi Charley, đêm Giáng sinh đó, tìm thấy nó ở bậc tam cấp đằng kia. Kể cho tôi đi." Khuôn mặt tên gác cổng thì tròn, hơi béo nhão, râu ria lởm chởm, có vẻ dơ dáy. Đôi mắt hắn thì khá sáng, khá xám, khá lạnh. Và cũng khá điên nữa. Nhưng người đàn bà không để ý đến điều này. Hay có lẽ đối với cô, chúng không có vẻ điên lắm. Vậy là hai người đối mặt nhau ở khuông cửa dính bẩn bụi than, mắt điên nhìn sâu vào mắt điên, giọng điên nói với giọng điên, cũng điềm tĩnh, cũng kín đáo và ngắn gọn như hai kẻ mưu phản. "Tôi đã quan sát ông từ năm năm nay." Cô tin là cô đang nói sự thật. "Ngồi ngay đây, trên chiếc ghế này, theo dõi nó. Ông không bao giờ ngồi đây trừ khi đám con nít ra chơi ngoài trời. Ngay từ lúc chúng ra ngoài, ông mang chiếc ghế này đây ra cửa và ngồi ở chỗ mà ông có thể nhìn chúng. Ông đưa mắt theo dõi nó, và ông nghe mấy đứa kia gọi nó là Mọi đen. Đó chính là việc ông đang làm. Tôi biết mà. Ông đã đến đây chỉ để làm việc đó, để theo dõi nó và thù ghét nó. Ông đã đến đây trước, sẵn sàng, khi nó đến. Có lẽ chính ông đã mang nó đến và bỏ nó ở bậc tam cấp đằng kia. Thôi, dù gì đi nữa, ông biết mà. Và tôi cũng phải biết chớ. Khi nào nó kể ra thì tôi sẽ bị đuổi việc. Và Charley có thể... sẽ... Nói tôi nghe đi nào. Nói tôi nghe đi, ngay bây giờ."
"A," tên gác cổng nói. "Tôi đã biết là nó sẽ ở đó để bắt gặp cô khi giờ của Chúa điểm. Tôi đã biết mà. Giờ thì tôi biết ai đã gửi nó đến đó, như một dấu hiệu và sự sa địa ngục cho tính chó má của đàn bà."
"Phải đó. Nó núp ngay sau tấm màn. Cũng gần như ông đây. Bây giờ, ông nói đi. Tôi đã thấy cặp mắt ông khi ông nhìn nó. Đã quan sát ông, năm năm chớ ít sao."
"Tôi biết chớ," hắn nói. "Tôi biết cái ác ra sao mà. Có phải tôi đã làm chuyện ác để nó lan tràn trong khắp thế gian của Chúa không? Một sự ô nhiễm di động trên chính mặt Chúa, tôi đã làm đó cô. Từ miệng mấy đứa con nít mà ra. Nó không hề giấu chuyện đó. Cô đã nghe tụi nó rồi mà. Tôi không hề biểu tụi nó nói ra chuyện đó, biểu gọi nó theo đúng bản chất của nó, đúng cái tên sa địa ngục của nó. Tôi không hề biểu tụi nó. Tụi nó biết rồi. Tụi nó đã nghe ai nói, nhưng không phải tôi đâu. Tôi chỉ chờ, sớm hay muộn thì tùy Ngài, khi Ngài thấy thích hợp để tiết lộ chuyện đó cho thế gian đang sống đây của Ngài. Và giờ phút đó lúc này đang đến. Đây là dấu hiệu, được viết thêm một lần nữa trong tội lỗi của đàn bà và tính chó má của chúng nó."
"Được rồi. Nhưng tôi phải làm gì đây? Nói cho tôi biết đi!"
"Chờ thôi. Như tôi đã chờ. Tôi đã chờ năm năm trời để Chúa Trời hành động và cho tôi thấy ý Ngài. Và Ngài đã làm. Cô cũng chờ đi. Khi nào Ngài sẵn sàng thì Ngài sẽ cho thấy ý muốn của Ngài trước những người có trách nhiệm nói lời quyết định."
"Phải, lời quyết định." Hai người nhìn nhau trừng trừng, bất động, và thở đều.
"Bà giám đốc. Khi Ngài sẵn sàng, Ngài sẽ tiết lộ với bả."
"Ông muốn nói là, nếu bà giám đốc biết thì bả sẽ đuổi nó đi? Được lắm, nhưng tôi nóng ruột lắm rồi."
"Cô không thể thúc giục Chúa Trời hơn nữa đâu. Tôi đã đợi năm năm, không phải vậy sao?"
Cô bắt đầu vỗ nhẹ hai bàn tay. "Nhưng ông không thấy sao? Có lẽ đó là ý Chúa. Để ông nói ra cho tôi nghe. Bởi vì ông biết. Có lẽ đó là ý Chúa để ông nói ra cho tôi nghe và để tôi nói lại với bà giám đốc." Đôi mắt điên của cô thì khá điềm tĩnh, giọng điên của cô thì kiên nhẫn và ôn hòa. Chỉ có hai bàn tay cử động rất nhẹ, không ngừng.
"Cô phải đợi, như chính tôi đã đợi," hắn nói. "Cô đã cảm thấy sức nặng bàn tay ăn năn của Chúa có lẽ trong ba ngày. Tôi đã sống dưới sức nặng này cả năm năm nay, theo dõi, chờ đợi cái giờ phút theo ý muốn của riêng Ngài, bởi vì tội lỗi của tôi thì lớn hơn tội lỗi của cô." Mặc dù đang nhìn thẳng vào mặt cô, hắn có vẻ không thấy cô chút nào. Cặp mắt hắn không thấy. Mở to, lạnh lẽo, cuồng tín, cặp mắt đó nhìn cô như thể chúng bị mù. "So với những gì tôi đã làm, với những gì tôi đã đau khổ để chuộc tội, thì những gì cô đã làm và sự đau khổ đàn bà của cô thì không hơn một đống rác thối rữa. Tôi đã mang gánh nặng của mình trong năm năm. Cô là ai mà dám giục Chúa với thứ rác rưởi đàn bà không ra gì của cô?"
Cô quay người lại ngay tức khắc. "Thôi được. Ông không phải nói ra cho tôi. Dù sao, tôi cũng biết mà. Tôi biết chuyện đó từ khuya là nó lai mọi đen." Cô trở về nhà. Giờ thì cô không bước nhanh, và cô ngáp, như thể buồn ngủ ghê gớm. 'Mình chỉ một việc phải làm: nghĩ ra cách nào để khiến bà giám đốc tin vào chuyện này. Ông ta sẽ không bao giờ nói với bả đâu. Không bao giờ ủng hộ mình đâu.' Cô lại ngáp, miệng mở ra hết sức, cả gương mặt bỗng trống hết mọi thứ, trừ cái ngáp, và rồi trống luôn cả cái ngáp. Cô vừa mới nghĩ đến điều gì khác. Cô đã không nghĩ đến nó trước đây, nhưng cô tin là cô có nghĩ, đã luôn biết nó, bởi vì điều này có vẻ đúng lắm: nó không những sẽ bị đuổi đi, nó sẽ còn bị trừng phạt vì đã làm cô kinh hãi, làm cô day dứt. 'Họ sẽ gửi nó đến trại mồ côi dành cho mọi đen,' cô nghĩ. 'Tất nhiên rồi. Họ phải làm vậy thôi.'
Cô thậm chí không đi ngay đến gặp bà giám đốc. Cô đã có ý định đó, nhưng thay vì rẽ về phía cửa văn phòng cô thấy mình đi ngang qua nó, tiếp tục về phía cầu thang và leo lên. Như thể cô tự đi theo chính mình để thấy mình đi đâu. Trong hành lang bây giờ yên tĩnh và trống vắng, cô ngáp lần nữa, một cách cực kỳ thư giãn. Cô bước vào phòng mình, khóa cửa lại, cởi áo quần rồi lên giường. Các màn sáo đã hạ xuống, và cô nằm ngửa, bất động trong bóng tối lờ mờ. Đôi mắt nhắm lại, gương mặt nhẵn nhụi và trống không. Sau một lát, cô bắt đầu dang hai chân ra rồi khép lại từ từ, cảm thấy tấm ra giường trơn và mát trượt trên da thịt rồi nó trượt lại lần nữa, trơn và ấm. Sự suy nghĩ của cô dường như bị treo giữa giấc ngủ đã tránh cô từ ba đêm nay và giấc ngủ mà cô sắp sửa thụ hưởng, thân thể cô mở rộng, sẵn sàng tiếp nhận giấc ngủ như thể tiếp nhận một người đàn ông. 'Mình chỉ có một việc phải làm, thuyết phục bà giám đốc,' cô nghĩ. Rồi cô nghĩ Nó sẽ trông giống y chang một hạt đậu Hà Lan trong cái xoong đầy hạt cà phê
Việc này xảy ra trong buổi chiều. Vào chín giờ, ngay tối hôm đó, giữa lúc đang cởi quần áo lần nữa, cô nghe tên gác cổng trong hành lang, về phía cửa phòng cô. Cô không biết, cô không thể biết là ai đó, rồi bằng cách nào đó cô biết thật, chỉ nghe những bước chân đều đặn rồi những cú gõ lên cánh cửa đã bắt đầu mở trước khi cô kịp lao ra. Cô không lên tiếng gọi. Cô nhào đến cánh cửa, đem cả sức nặng thân người chận nó lại. "Tôi đang thay quần áo!" cô nói với giọng lanh lảnh, đau đớn, biết là ai đó rồi. Hắn không trả lời, dùng sức nặng rắn chắc và đều đặn đẩy cánh cửa vào trong, và chỗ hé mở rộng dần. "Ông không được vào đây!" cô kêu lên, không to hơn tiếng thầm thì. "Bộ ông không biết người ta..." Giọng cô thì hổn hển, yếu ớt và tuyệt vọng. Hắn không trả lời. Cô cố sức giữ chặt, chặn lại cánh cửa đang từ từ mở vào trong. "Để tôi mặc cái gì đã rồi tôi sẽ đi ra. Ông chịu không đó?" Cô nói, thì thào yếu ớt, với cái giọng nhẹ nhàng và không thích hợp mà người ta dùng để nói với một đứa con nít có phản ứng không thể đoán trước được, hay với một thằng điên: dỗ dành, mơn trớn: "Chờ đã! Ông có nghe không? Xin ông chờ một chút đã!" Hắn không trả lời. Cánh cửa vẫn cứ hé rộng ra, chậm và không thể cưỡng được. Chống cả người lên cánh cửa, không mặc gì trên người ngoài đồ lót, cô trông giống như một con rối trong một vở hài kịch tục tĩu có sự bắt cóc và nỗi tuyệt vọng. Chống người lên cửa, đầu cúi xuống đất, bất động, cô có vẻ đắm mình trong những suy tưởng thâm sâu nhất, như thể con rối ngay giữa màn kịch bị thất lạc trong chính nó. Rồi cô quay lưng, buông cánh cửa ra và lao về phía giường, chụp đại một đồ mặc mà không nhìn, xoay người đối diện cánh cửa, hai bàn tay giữ chặt cái đồ mặc đang che ngực, co người lại. Hắn đã vào trong; chắc là hắn đã quan sát cô và đã chờ đợi trong cái khoảnh khắc do dự mù quáng và vội vã vô tận này.
Hắn vẫn còn mặc cái quần yếm và giờ đội thêm cái mũ. Hắn không dỡ mũ xuống. Một lần nữa, cặp mắt xám, điên, lạnh của hắn dường như không thấy cô, không nhìn cô chút nào. "Nếu chính Chúa Trời đi vào trong phòng một đứa nào trong bọn cô," hắn nói, "cô ắt nghĩ là Ngài đi tìm chuyện chó má." Hắn nói, "Cô đã kể ra với bả chưa?"
Người đàn bà đã ngồi lên giường. Có vẻ lún sâu từ từ trên đó, tay giữ chặt cái đồ mặc, nhìn hắn chằm chằm, mặt tái xanh. "Kể ra với bả à?"
"Bả sẽ làm gì nó?"
"Làm gì nó à?" Cô quan sát hắn: cặp mắt sáng ngời và bất động này có vẻ nhìn cô thì ít hơn là bao bọc cô lại. Miệng cô cứ há hốc như miệng một thằng đần.
"Họ sẽ gửi nó đi đâu?" Cô không trả lời. "Đừng nói láo với tôi. Đừng nói láo với Chúa Trời. Họ sẽ gửi nó đến trại mồ côi dành cho mọi đen." Cô khép miệng lại; như thể cuối cùng cô hiểu ra hắn đang nói về cái gì. "Vậy đó, tôi đã nghĩ cạn nước rồi. Họ sẽ gửi nó đến trại dành cho con nít mọi đen." Cô không trả lời, nhưng bây giờ cô nhìn hắn không chớp mắt, mắt cô vẫn còn đôi chút lo sợ nhưng cũng bí ẩn nữa, đang tính toán. Và hắn nữa, bây giờ, đang nhìn cô; cặp mắt hắn tuồng như co lại trên cơ thể cô, trên bản thân cô. "Trả lời đi, đồ đàn bà trơ tráo!" hắn hét lên.
"Shhhhhhhhh!" cô nói. "Đúng đó. Họ phải làm vậy thôi. Khi họ biết ra..."
"A," hắn nói. Cái nhìn đăm đắm của hắn tắt dần; cặp mắt hắn buông cô ra rồi bao bọc cô lại lần nữa. Khi nhìn chúng, cô có vẻ thấy mình là kẻ không đáng gì trong đó, nhỏ mọn như một nhánh cây nổi trên một vũng nước. Rồi đôi mắt hắn gần như trở nên tử tế. Hắn bắt đầu nhìn quanh căn phòng đàn bà như thể hắn đã chưa từng thấy một cái gì như vậy trước đó: phòng đóng kín, ấm áp, bừa bộn, thoảng mùi đàn bà màu hồng. "Đồ đàn bà thối tha," hắn nói. "Ngay trước mặt Chúa." Hắn quay lưng và bỏ đi. Một lát sau, người đàn bà ra khỏi giường. Đứng một lúc, tay vẫn nắm chặt cái đồ mặc, bất động, ngu ngốc, mắt nhìn chằm chằm cái cửa trống hoác như thể cô không nghĩ ra được cái gì để tự bảo mình làm. Rồi cô chạy. Nhảy vọt tới cửa, lao vào nó, đóng một cái rầm, khóa lại, rồi dựa cả thân người lên nó, cô thở hổn hển, nắm chặt cái chìa khóa trong cả hai bàn tay.
Sáng hôm sau, vào giờ ăn sáng, tên gác cổng và thằng bé đã biến mất tiêu, không để lại dấu vết gì. Cảnh sát được thông báo ngay lập tức. Người ta thấy ra một cánh cửa hông mà tên gác cổng có chìa khóa, bị mở toang.
"Đó là bởi vì ổng biết," cô tư vấn dinh dưỡng nói với bà giám đốc.
"Biết cái gì?"
"Biết rằng thằng bé, thằng Christmas đó, nó là mọi đen."
"Cái gì? bà giám đốc nói. Ngả người trong ghế bành, bà nhìn chăm chú người đàn bà trẻ hơn mình này. "Một tên mọ... Tôi không tin được chuyện này!" bà kêu lên. "Tôi không tin được!"
"Bà không phải tin gì cả," người kia nói. Nhưng ổng biết chuyện này. Vì vậy mà ổng 'bốc' nó đi."
Bà giám đốc đã qua tuổi năm mươi, có gương mặt béo bệu với đôi mắt tử tế, yếu đuối và không được thỏa mãn về tình dục. "Tôi không tin được!" bà nói. Nhưng ba ngày sau, bà cho gọi cô tư vấn dinh dưỡng đến. Bà trông có vẻ như đã không ngủ từ lâu. Người đàn bà trẻ, trái lại, thì khá tươi mát, khá bình tâm. Cô vẫn tỏ ra thản nhiên khi bà giám đốc cho biết tin là người ta đã tìm ra tên gác cổng và thằng bé. "Ở Little Rock[47]", bà giám đốc nói. "Hắn tìm cách đưa thằng bé vào trại mồ côi ở dưới đó. Người ta cho là hắn điên nên đã giữ hắn lại cho tới khi cảnh sát đến." Bà nhìn người đàn bà trẻ hơn mình. "Cô bảo tôi... Hôm trước cô có nói là... Làm sao cô biết được chuyện này?"
Cô tư vấn dinh dưỡng không đưa mắt nhìn chỗ khác. "Tôi không biết. Tôi không biết chút nào cả. Dĩ nhiên, tôi có biết chuyện này là vô nghĩa, chuyện những đứa trẻ khác gọi nó là Mọi đen..."
"Mọi đen sao?" bà giám đốc nói. "Những đứa trẻ khác à?"
"Tụi nhỏ gọi nó là Mọi đen từ nhiều năm nay rồi. Đôi khi tôi nghĩ, trẻ con có cái thiên tư biết được những thứ mà người lớn ở tuổi bà hay tuổi tôi không thấy được. Trẻ con, và người già như ổng, như ông già đó. Đó là lý do tại sao ổng luôn luôn ngồi ở trước cửa, đằng kia, trong khi tụi nhỏ chạy chơi ngoài sân: để theo dõi thằng bé đấy. Có lẽ ổng biết ra nhờ nghe những đứa bé khác gọi nó là Mọi đen. Nhưng ổng cũng có thể đã biết trước đó. Nếu bà còn nhớ, hai người đó đến đây gần như cùng lúc. Ổng làm việc tại đây chưa đầy một tháng thì vào đêm... đêm Giáng sinh đó, bà không nhớ sao... khi Ch[48]... khi họ nhìn thấy đứa bé ở bậc tam cấp?" Cô nói nhẹ nhàng, quan sát đôi mắt của người đàn bà lớn tuổi hơn, đôi mắt mang vẻ ngạc nhiên, sợ sệt, cứ nhìn mắt cô đăm đăm như thể bà không thể tách rời chúng sang chỗ khác. Đôi mắt người đàn bà trẻ thì dịu dàng và vô tội. "Rồi hôm ấy tôi và ổng nói chuyện với nhau, ổng hình như có điều gì đó để nói với tôi về thằng bé; điều gì đó ổng muốn nói với tôi, muốn nói với ai đó, rồi cuối cùng ổng mất can đảm, có lẽ vậy, và không muốn nói ra nữa, và vậy là tôi bỏ đi. Tôi đã không còn nghĩ đến chuyện đó chút nào. Nó đã hoàn toàn ra khỏi đầu tôi khi..." Tiếng nói ngừng lại. Cô nhìn bà giám đốc chằm chằm, và gương mặt cô bỗng dưng lộ ra vẻ sáng tỏ và thông hiểu; không ai có thể nói đó là giả bộ hay không. "Sao, đó là vì sao chuyện đó... Đúng rồi, bây giờ tôi hiểu hết rồi. Chuyện xảy ra ngay trước ngày họ biến mất. Tôi ở trong hành lang, đang đi về phòng mình; đó là cùng một ngày mà tôi tình cờ nói chuyện với ổng và ổng không chịu nói ra... bất kể cái gì mà ổng đã bắt đầu nói. Bất thình lình, ổng đến gần và chặn tôi lại; lúc đó tôi thấy lạ lùng bởi vì tôi chưa từng thấy ổng ở bên trong nhà. Và ổng nói... ổng ăn nói như thằng khùng, ông trông như phát khùng. Tôi sợ quá, sợ đến nỗi không cử động được, và ổng thì chặn đường... ổng nói, 'Cô đã nói với bả chưa?' và tôi nói, 'Nói với ai? Với ai, nói chuyện gì?' và tôi hiểu ra là ổng nghĩ đến bà đó... ổng muốn biết là tôi có nói lại với bà rằng ổng đã muốn nói với tôi điều gì đó về thằng bé hay không. Nhưng tôi đâu biết cái điều gì mà ổng nghĩ trong đầu để tôi có thể nói lại với bà, và tôi muốn hét lên kêu cứu và rồi ổng nói, 'Bả sẽ làm gì nếu bả biết ra?' và tôi không biết nói gì, không biết làm sao thoát khỏi ổng, rồi ổng nói, 'Cô không cần nói ra với tôi. Tôi biết bả sẽ làm gì rồi. Bả sẽ gửi nó đến trại mồ côi dành cho mọi đen.' "
"Dành cho người da đen chớ?"
"Tôi không biết làm sao mà chúng ta đã vô ý, vô tứ lâu đến vậy, đã không nhận ra chuyện đó. Bà chỉ cần nhìn khuôn mặt, cặp mắt và tóc tai nó thì biết ngay. Tất nhiên, kinh khủng thật, nhưng đó là nơi nó phải đi, tôi tin vậy."
Sau cặp kính, đôi mắt yếu ớt, lo âu của bà giám đốc biểu lộ trạng thái bị quấy rối, sững sờ như thể bà đang cố sức ép chúng làm cái gì đó nằm ngoài quy luật tự nhiên. "Nhưng tại sao hắn lại muốn đem thằng bé đi mất?"
"Ôi, nếu bà muốn nghe ý tôi thì tôi nghĩ ổng bị điên rồi. Giá như bà có thể thấy ổng, ở trong hành lang, vào cái đêm... ơ, cái ngày đó như tôi đã thấy. Tất nhiên, thằng bé mà phải đi vào trại mồ côi mọi đen thì đúng là tồi tệ thật, sau khi ở đây, sau khi lớn lên với người da trắng. Nó như vậy thì đâu phải lỗi của nó. Cũng đâu phải lỗi của chúng ta..." Cô ngừng nói, nhìn bà giám đốc. Sau cặp kính, đôi mắt của người đàn bà già hơn cô vẫn còn như bị quấy rối, yếu ớt, hoang mang; miệng bà run rẩy khi tìm chữ để nói. Và những lời nói của bà thì cũng hoang mang, nhưng người ta cảm thấy có cái gì khá dứt khoát, khá kiên quyết trong đó.
"Ta phải tìm chỗ ở cho nó với ai đó. Ta phải tìm chỗ cho nó ngay lập tức. Mình đang có những đơn xin nào đây? Vui lòng đưa tôi tập hồ sơ..."
***
Khi thằng bé thức dậy, nó được mang đi. Trời tối đen và rất lạnh; nó được một người nào đó mang xuống cầu thang một cách lặng lẽ và cực kỳ thận trọng. Một cái ba lô chèn giữa nó và một trong hai cánh tay đỡ người nó. Nó biết quần áo mình đựng trong đó. Nó không la hét, không gây tiếng động. Nó biết mình đang ở đâu, nhờ cái mùi, cái không khí của cầu thang sau nối cái cửa hông dưới đất với căn phòng lớn, nơi mà nó ngủ trên một trong bốn mươi cái giường, nếu nó còn nhớ được chính xác. Nó cũng biết, qua cái mùi, người mang nó là đàn ông. Nhưng không gây tiếng động, cũng nằm im, cũng buông lỏng như khi ngủ trước đó, nó lượn cao trong các cánh tay vô hình, di chuyển, đi xuống từ từ về phía cái cửa hông mở ra sân chơi.
Nó không biết ai đang mang nó đi. Nó không bận tâm bởi vì nó tin rằng nó biết mình đang đi đâu. Hay nói cho đúng hơn, nó biết tại sao. Nó không bận tâm về nơi chốn nó sẽ đến, bây giờ thì chưa đâu. Phải ngược lại hai năm trước, khi nó ba tuổi. Một ngày nọ, một cô gái nhỏ mười hai tuổi tên là Alice bỗng dưng biến mất. Nó thích cô, thích vừa đủ để cô tự ý nâng niu nó một chút; có lẽ cũng vì đó mà nó thích cô. Và vậy là dưới mắt nó, cô cũng lớn tuổi, cũng to lớn gần như bằng những người đàn bà ra lệnh cho nó ăn, tắm rửa, lên giường ngủ, chỉ khác là cô không và sẽ không bao giờ là kẻ thù của nó. Một đêm kia, cô đánh thức nó dậy. Cô nói lời từ biệt nhưng nó không biết điều này. Nó ngái ngủ và hơi bực mình, không tỉnh hẳn, chịu đựng cô bởi vì cô lúc nào cũng cố gắng tỏ ra tử tế với nó. Nó không biết là cô đang khóc bởi vì nó không biết là người lớn có khóc, và đến khi nó biết ra điều này thì trí nhớ nó đã quên cô. Nó ngủ lại trong khi vẫn chịu đựng sự có mặt của cô bên cạnh mình, và sáng hôm sau thì cô đã đi rồi. Biến mất tiêu, không để lại một vết tích nhỏ nhặt nào, ngay cả một cái áo, một cái quần cũng không, ngay cái giường cô từng ngủ thì bị một thằng bé mới vào chiếm mất. Nó không bao giờ biết cô đi đâu. Ngày hôm đó nó nghe một vài cô gái lớn tuổi hơn - họ đã giúp cô sửa soạn rời khỏi nơi này với những lời thầm thì lặng lẽ, bí mật, y như sáu cô gái trẻ chuẩn bị đám cưới cho cô thứ bảy vậy - nó nghe họ nói một cách háo hức về cái áo đầm mới, đôi giày mới, về chiếc xe đã đến chở cô đi xa. Và khi đó nó hiểu ra là cô đã bước ra ngoài cái cổng sắt của hàng rào thép, là cô đã ra đi mãi mãi. Nó dường như thấy cô, khi đó, trở nên dũng cảm vào lúc biến mất sau cánh cổng đóng nghe chói tai, hình bóng cô mờ dần mà vóc dáng không nhỏ lại trong sự rực rỡ mà nó không biết gọi làm sao, tương tự như cảnh mặt trời lặn. Hơn một năm sau nó mới biết rằng cô không là người đầu tiên và sẽ không là người cuối cùng. Rằng Alice không phải là người duy nhất biến mất đằng sau cánh cổng kêu chói tai, với cái áo đầm mới hay quần yếm mới và một cái bọc nhỏ gọn gàng đôi khi không lớn hơn cái hộp đựng giày. Nó tin rằng, bây giờ, là đến lượt mình. Nó tin là mình biết, bây giờ, làm sao chúng, gái và trai, đã xoay sở bỏ đi mà không để lại dấu vết gì sau lưng. Nó tin là người ta đã mang chúng đi, như nó đang được mang đi lúc này, ngay giữa đêm hôm khuya khoắt.
Giờ thì nó có thể cảm thấy cánh cửa ra vào. Gần lắm rồi. Nó biết chính xác còn bao nhiêu bậc cầu thang không thấy được trong bóng tối mà người đàn ông mang nó phải đi xuống, cực kỳ thận trọng và lặng lẽ. Sát bên má, nó có thể cảm thấy hơi thở nhanh, ấm, đều của người đàn ông; và bên dưới, nó có thể cảm thấy hai cánh tay căng, cứng, và cái ba lô mềm mà nó biết là áo quần của mình đã được vơ vào bằng cách sờ soạng trong bóng tối. Người đàn ông ngừng bước. Khi ông cúi xuống thì hai bàn chân của đứa bé đung đưa và chạm phải sàn nhà, các ngón chân co lại vì cái lạnh như thép của sàn gỗ. Người đàn ông lên tiếng, lần đầu tiên. "Đứng thẳng coi," ông nói. Và đứa bé biết ông là ai.
Nó nhận ra người đàn ông tức khắc, không tỏ ra ngạc nhiên chút nào. Sự ngạc nhiên hẳn là dành cho bà giám đốc nếu như bà biết được là nó biết người đàn ông này mới rõ làm sao. Nó không biết tên ông, và trong ba năm kể từ khi nó sống như một con người tuy bé nhỏ nhưng có tri giác, hai người đã trao đổi không quá một trăm lời. Nhưng trong cuộc đời của đứa bé, người đàn ông này là một nhân vật rõ nét hơn bất cứ ai khác, hơn cả Alice nữa. Ngay ở tuổi lên ba, đứa bé đã hiểu là giữa hai người có cái gì đó mà không cần nói ra. Nó biết là không bao giờ nó ra ngoài sân chơi mà không có người đàn ông bắc ghế ngồi ở cửa phòng đặt máy sưởi đưa mắt theo dõi nó, là ông theo dõi nó với sự chú ý tột bậc và không giảm sút. Giá như lớn tuổi hơn thì đứa bé có lẽ đã nghĩ Ổng ghét mình và sợ mình. Nhiều đến nỗi ổng không thể để mình ra khỏi tầm mắt ổng Nếu với số tuổi hiện nay nhưng với số từ vựng nhiều hơn, có thể nó đã nghĩ Đó là lý do tại sao mình khác với những đứa khác: bởi vì ổng lúc nào cũng theo dõi mình Nó chấp nhận sự việc này. Do vậy nó không thấy ngạc nhiên khi biết ra người này là ai mà đưa nó ra khỏi giấc ngủ, ra khỏi giường và mang nó xuống dưới nhà; đứng gần cửa, trong bóng tối đậm đặc và lạnh lẽo, trong khi người đàn ông giúp nó mặc quần áo, nó có thể đã nghĩ Ổng ghét mình đến mức đủ để ngăn chặn điều gì đó đang hăm dọa mình không xảy ra
Nó vừa run lập cập, vừa ngoan ngoãn mặc đồ, một cách nhanh nhất có thể, cả hai người cùng sờ soạng trong đống quần áo nhỏ, rồi cứ mặc cho nó bằng cách này hay cách khác. "Giày nữa," người đàn ông nói, giọng thì thào như sắp chết. "Đây này." Đứa bé ngồi trên sàn nhà lạnh, xỏ giày. Người đàn ông không còn đụng chạm đến nó nữa nhưng đứa bé vẫn nghe thấy, vẫn cảm thấy là người đàn ông cũng cúi người, bận tay làm cái gì đó. 'Ông cũng đang mang giày,' nó nghĩ. Người đàn ông lại mò mẫm chạm tay đến nó, kéo nó đứng lên. Đôi giày nó không cột dây. Nó chưa học cách tự mình làm việc đó. Nó không bảo người đàn ông là nó không cột giày. Nó không gây ra tiếng động nào. Nó chỉ đứng đó, rồi thình lình một cái áo rộng hơn trùm cả người nó. Vừa ngửi mùi, nó biết cái áo này là của người đàn ông. Và nó cảm thấy được nâng bổng lên lần nữa. Cánh cửa mở hé ra. Không khí lạnh ùa vào cùng với ánh sáng đèn đường. Nó có thể thấy các ngọn đèn và những bức tường nhà máy trơ trụi và những ống khói cao không khói trên nền trời đầy sao. Hàng rào bằng thép nổi bật dưới ánh sáng đèn đường trông như cuộc diễu hành của đám binh lính đói khát. Trong khi đi xuyên qua sân chơi, hai bàn chân lủng lẳng của nó đung đưa nhịp nhàng theo bước chân của người đàn ông, và hai chiếc giày không cột dây đập nhẹ vào cổ chân nó. Họ tới cổng sắt và ra ngoài.
Họ không phải đợi tàu điện lâu. Nếu như lớn tuổi hơn, nó hẳn đã để ý là người đàn ông tính toán giờ giấc giỏi làm sao. Nhưng nó không tỏ ra ngạc nhiên hay để ý đến. Nó chỉ đứng ở góc đường, bên cạnh người đàn ông, với đôi giày không cột dây, trùm người đến tận gót chân bằng cái áo khoác của ông ta, đôi mắt tròn, mở to, gương mặt nhỏ nhắn đã tỉnh ngủ, bình thản. Tàu điện đến - nó thấy một hàng cửa sổ chạy ngang - rít lên chói tai khi thắng lại, rồi kêu vù vù khi họ bước lên. Tàu gần như trống không, vì đã hơn hai giờ sáng. Bây giờ người đàn ông thấy ra đôi giày không cột dây, và ông đưa tay cột lại, dưới mắt nhìn của đứa bé đang ngồi yên trên ghế, duỗi thẳng hai chân trước mặt mình. Nhà ga xe lửa thì rất xa, và nó đã từng đi xe điện trước đây nên khi xe đến ga thì nó đã ngủ queo tự bao giờ. Trời sáng tỏ khi nó tỉnh giấc, và hai người đã ở trên tàu một đỗi khá lâu. Đây là lần đầu tiên nó đi tàu lửa, nhưng không ai có thể biết được điều này. Nó ngồi khá yên, như trên tàu điện, toàn thân trùm chiếc áo khoác của người đàn ông, trừ đôi chân duỗi thẳng và cái đầu, đưa mắt nhìn quang cảnh đồng quê lần lượt lướt qua bên ngoài: đồi núi, cây cối, bò cái và đại loại như vậy, mà nó chưa hề thấy trước đây. Khi biết nó đã thức dậy, người đàn ông mở đồ ăn từ gói giấy báo. Bánh mì kẹp phó mát. "Đây này," người đàn ông nói. Nó cầm lấy đồ ăn, và vừa ăn vừa nhìn ra ngoài cửa sổ.
Nó không mở miệng nói ra một lời, không tỏ ra chút gì ngạc nhiên, ngay cả khi, vào ngày thứ ba, cảnh sát đến bắt nó và người đàn ông. Và nơi chốn mà họ bây giờ đang ở thì chẳng khác gì nơi chốn mà họ đã rời bỏ trong đêm khuya: cũng những đứa trẻ, với tên họ khác; cũng những người lớn, với mùi vị khác. Nó không thể hiểu lý do tại sao nó không được ở lại trại mồ côi thứ hai này, y chang như nó không hiểu tại sao nó đã phải rời bỏ trại mồ côi thứ nhất. Nhưng nó không ngạc nhiên khi họ đến và một lần nữa bảo nó đứng dậy và mặc áo quần vào, quên nói cho nó biết là tại sao và nơi chốn nào nó sắp đi đây. Có lẽ nó biết nó sẽ quay lại chỗ cũ. Có lẽ, với sự sáng suốt của trẻ con, nó đã luôn biết điều mà người đàn ông không biết: là việc đó sẽ không kéo dài, không thể kéo dài. Một khi ở trên tàu lửa, nó thấy lại cùng những ngọn đồi, cây cối, bò cái như lần trước nhưng ở phía bên kia và theo chiều ngược lại. Viên cảnh sát cho nó đồ ăn. Bánh mì kẹp phó mát ở giữa, tuy không lấy ra từ bọc giấy báo. Nó nhận ra điều này nhưng không nói gì, có lẽ không nghĩ gì.
Và vậy là nó lại ở ngôi nhà cũ lần nữa. Có lẽ nó chờ đợi người ta trừng phạt mình khi quay về, tại sao, vì tội gì, nó không mong biết được, bởi vì nó đã học là, nếu trẻ con có thể chấp nhận người lớn như là người lớn, người lớn lại không bao giờ có thể chấp nhận trẻ con như trẻ con, mà là như người lớn. Nó đã quên khuấy cái chuyện kem đánh răng. Bây giờ nó tránh mặt cô tư vấn dinh dưỡng, giống như cách đây một tháng nó thường xuất hiện đây đó trước mắt cô. Nó luôn tìm cách tránh cô đến mức nó quên bẵng từ lâu lý do vì sao nó làm vậy; và nó cũng sớm quên chuyến đi trong đêm đó, bởi vì nó không bao giờ được phép biết là có một mối dây liên hệ giữa hai việc. Thỉnh thoảng nó nghĩ đến chuyến đi đó một cách mơ hồ và lơ đãng. Nhưng chỉ khi nào nó nhìn về cửa phòng chứa máy sưởi và nhớ lại người đàn ông trước đây thường ngồi đó và theo dõi nó và giờ đã ra đi, tuyệt tích, y chang như tất cả những người đã rời nhà này mà đi, không một dấu vết để lại sau lưng, cả chiếc ghế xếp ở khuông cửa cũng không. Ổng đã đi đâu? Đứa bé không nghĩ đến, và cũng chẳng buồn thắc mắc.
Một buổi tối, người ta đến tìm nó ở phòng học. Haituần trước lễ Giáng sinh. Hai người trong đám đàn bà trẻ - không phải cô tư vấndinh dưỡng - đưa nó đến phòng tắm, kỳ cọ nó sạch sẽ, chải mái tóc còn ẩm ướt,mặc quần yếm sạch cho nó rồi dẫn nó đến văn phòng bà giám đốc. Một người đànông, lạ mặt, ngồi sẵn ở đó. Và nó nhìn ông ta và nó hiểu ngay cả trước khi bàgiám đốc lên tiếng. Có lẽ trí nhớ cho ta cái hiểu biết, cái hiểu biết bắt đầunhớ lại; có lẽ ngay cả sự ham muốn, bởi vì năm tuổi thì vẫn còn quá nhỏ để cóthể tuyệt vọng đến mức biết hy vọng. Có lẽ nó đột ngột nhớ lại chuyến đi bằngtàu lửa và đồ ăn nó đã ăn, bởi vì trí nhớ nó không đi xa nhiều hơn các thứ này."Joseph[49]," bà giám đốc nói, "con có thích về sống ở nông thôn với nhữngngười tử tế không?"
* * *
[44] Nguyên văn: three hundred yards. Một yard = 0,9144 mét - ND
[45] Ở Mỹ, khoảng cách trên bộ không tính bằng cây số mà bằng dặm (mile). Một dặm bằng 1,6 cây số - ND.
[46] Mastodon: động vật lớn như con voi, nay đã diệt chủng - ND
[47] Thủ phủ của bang Arkansas - ND.
[48] Tức là Charley, mới bắt đầu phát âm thì đã ngưng lại - ND.
[49] Tên gọi hay viết đầy đủ của "Joe" - ND.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top