Nam nữ song tu

Trong giới tu luyện có một loại phương pháp tu luyện, gọi là 'nam nữ song tu'. Mọi người đã có thể nhìn thấy trong phương pháp tu luyện Mật tông Tây Tạng, ở các hình tượng Phật điêu khắc hoặc hình hoạ, thấy một [thân] thể nam ôm một [thân] thể nữ đang tu luyện. Có những lúc hình thức biểu hiện của [thân] thể nam là Phật, đang ôm một người nữ không mặc gì cả; cũng có [lúc là] thân biến hoá của Phật, biến thành hình tượng kim cương đầu bò mặt ngựa, ôm một [thân] thể nữ cũng không mặc chút gì. Tại sao lại như thế? Trước hết chúng tôi nói rõ vấn đề này cho chư vị. Trên trái đất chúng ta, không chỉ Trung Quốc chịu ảnh hưởng của Nho gia, [mà] toàn thể nhân loại chúng ta, vào thời cổ đại mấy thế kỷ trước, [thì] quan niệm đạo đức của nhân loại không khác [nhau] nhiều. Do đó loại phương pháp tu luyện ấy thực ra không bắt nguồn từ trái đất này của chúng ta, nó truyền từ tinh cầu khác đến; nhưng loại phương pháp ấy thật sự có khả năng tu luyện. Thời ấy khi loại phương pháp này truyền nhập vào Trung Quốc nước ta, thì chính vì nó có bộ phận nam nữ song tu và tu luyện bí mật, [nên] không được người Trung Quốc tiếp thụ; do đó vào những năm Hội Xương [triều] đại nhà Đường đã bị hoàng đế đất người Hán tiêu diệt. Không cho phép nó lưu truyền tại Hán địa; thời ấy gọi là Đường Mật. Nhưng nó ở hoàn cảnh đặc thù nơi Tây Tạng, ở vùng đất đặc thù ấy, nó đã được lưu truyền về sau. Tu luyện kiểu như thế là vì sao? Mục đích của nam nữ song tu là cần lấy âm bổ dương, lấy dương bổ âm, bổ trợ cho nhau cùng tu, đạt đến mục đích âm dương cân bằng.

Mọi người đã biết, dẫu là Phật gia hay Đạo gia cũng vậy, đặc biệt là học thuyết âm dương của Đạo gia giảng rằng, [thân] thể người tự đã có âm dương tồn tại. Vì [thân] thể người có âm dương tồn tại, [thân] thể người mới có thể tu luyện xuất ra các loại công năng, nguyên anh, anh hài, Pháp thân cũng như các thể sinh mệnh. Vì có âm dương tồn tại, nên có thể luyện xuất ra được rất nhiều thể sinh mệnh. Bất luận là người nam hay nữ, đều như nhau cả, từ khối điền của đan điền ấy đều có thể sinh thành [những sinh mệnh nói trên]; thuyết này rất có đạo lý. Đạo gia vẫn thường coi nửa trên thân là dương, nửa dưới thân là âm; cũng có [người] coi mặt lưng là dương, mặt trước thân là âm; lại cũng có [người] coi thân thể người bên trái là dương, bên phải là âm. Trung Quốc chúng ta có cách nói rằng 'nam tả nữ hữu', cũng chính từ đây mà ra, rất có đạo lý. Vì thân người đã tự có âm dương tồn tại, [nên] dưới tác dụng âm dương tương hỗ, tự thân sẽ có thể đạt đến âm dương cân bằng, cũng sẽ có thể sản sinh ra rất nhiều các thể sinh mệnh.

Điều này đã nói rõ một vấn đề, chúng ta không cần dùng đến phương pháp tu luyện nam nữ song tu, cũng có thể tu lên đến tầng rất cao như thế. Nếu như dùng đến phương pháp tu luyện nam nữ song tu, nếu như giữ [tâm tính] không vững, thì sẽ nhập ma, sẽ thành tà pháp. Tại tầng rất cao [trong] Mật tông nếu muốn dùng đến nam nữ song tu, thì hoà thượng [hoặc] lạt-ma ấy cần phải tu luyện lên đến tầng rất cao rồi. Tới lúc đó sư phụ của họ sẽ [hướng] dẫn họ tiến hành loại tu luyện này; vì tâm tính của họ rất cao, họ có thể giữ [mình] được vững, [nên] không lạc sang những điều tà. Còn đối với những người tâm tính rất thấp thì tuyệt đối không thể dùng đến [phương pháp này]; dùng đến thì sẽ nhập tà pháp, bảo đảm là vậy. Vì tâm tính có hạn, các tâm dục vọng ở cảnh giới người thường chưa bỏ, tâm sắc [dục] chưa bỏ, xích độ của tâm tính chỉ ở đó thôi, đảm bảo rằng hễ dùng một cái là tà ngay. Do đó chúng tôi giảng rằng, tuỳ tiện truyền [nó] ở tầng thấp, thì chính là truyền tà pháp.

Vài năm nay có không ít khí công sư truyền giảng nam nữ song tu. Kỳ lạ ở chỗ nào? Đạo gia cũng xuất hiện phương pháp tu luyện nam nữ song tu; hơn nữa [nó] không phải xuất hiện bây giờ, [mà] bắt đầu từ [triều] đại nhà Đường. Đạo gia xuất hiện nam nữ song tu là sao? [Trong] học thuyết thái cực của Đạo gia, thân thể là tiểu vũ trụ, tự đã có âm dương. Các đại pháp chính truyền chân chính đều lưu truyền từ những niên đại xa xưa; tự ý thay đổi, tự ý cho thêm vào bất kể thứ gì đều chính là làm loạn những điều trong pháp môn ấy, làm cho nó không thể đạt mục đích tu luyện viên mãn được. Do đó [nếu] trong công pháp ấy không có những điều nam nữ song tu, thì nhất định không thể [thực hành nam nữ song] tu; nếu dùng, thì sẽ sai lệch, sẽ xuất hiện vấn đề. Đặc biệt pháp môn Pháp Luân Đại Pháp chúng tôi, không có nam nữ song tu, cũng không giảng về nó. Vấn đề này, chúng tôi có nhìn nhận như vậy.

Tính mệnh song tu

Vấn đề tính mệnh song tu này đã được giảng giải rõ cho mọi người rồi. 'Tính mệnh song tu' chính là ngoài việc tu luyện tâm tính ra, cũng đồng thời tu mệnh; nghĩa là, cải biến bản thể. Trong quá trình cải biến ấy, trong khi các tế bào của con người dần dần được vật chất cao năng lượng thay thế, thì lão hoá sẽ chậm lại. Thân thể biểu hiện sự lùi lại hướng về tuổi trẻ con người, dần dần lùi lại, dần dần chuyển hoá; cuối cùng khi đã hoàn toàn được vật chất cao năng lượng thay thế, [thì] thân thể cá nhân ấy đã hoàn toàn chuyển hoá thành một loại thân thể [cấu thành từ] vật chất không gian khác. Loại thân thể này giống như 'ra ngoài ngũ hành' mà tôi đã giảng, không ở trong ngũ hành nữa; thân thể của người ấy đã là một thân thể bất hoại rồi.

Tu luyện trong chùa chỉ là tu tính, nên không giảng thủ pháp, không giảng tu mệnh; họ giảng niết bàn. Phương pháp Thích Ca Mâu Ni truyền là giảng niết bàn; kỳ thực bản thân Thích Ca Mâu Ni có đại pháp cao thâm, có thể chuyển hoá hoàn toàn bản thể thành vật chất cao năng lượng để mang theo. Ông muốn lưu lại pháp tu này, [nên] bản thân Ông cũng niết bàn. Vì sao Ông dạy như thế? Là vì Ông muốn người ta vứt bỏ đến mức tối đa các tâm chấp trước, điều gì cũng vứt bỏ, cuối cùng đến thân thể cũng vứt bỏ; tất cả các tâm đều không có. Vì muốn người ta đạt đến mức độ tối đa như thế nên Ông đã đi con đường niết bàn; do đó hoà thượng xưa nay đều đi con đường niết bàn này. Niết bàn chính là hoà thượng chết rồi, nhục thân bỏ đi, nguyên thần của bản thân họ mang theo công mà đi lên.

Trọng điểm của Đạo gia đặt vào tu mệnh; vì họ tuyển đồ đệ, không giảng phổ độ chúng sinh, [nên] họ đối diện là với những người hết sức tốt, tốt phi thường. Do đó họ giảng những thứ thuật loại, họ giảng vấn đề làm sao để tu mệnh. Tuy nhiên tại các phương pháp tu luyện đặc định của Phật gia, đặc biệt trong phương pháp của Phật giáo thì không thể giảng điều này. [Nhưng] không phải [tất cả] đều không giảng; trong nhiều đại pháp cao thâm của Phật gia cũng có giảng [điều này]; pháp môn chúng tôi có giảng. Môn Pháp Luân Đại Pháp này của chúng tôi cần cả bản thể, cần cả nguyên anh; hai cái này có chỗ khác nhau. Nguyên anh cũng là thân thể cấu thành từ vật chất cao năng lượng, nhưng nó không thể hiển hiện một cách tuỳ tiện tại không gian này của chúng ta; còn nếu muốn bảo trì lâu dài hình tượng giống như người thường tại không gian này, [thì] cần phải có bản thể chúng ta. Do vậy sau khi bản thể này chuyển hoá rồi, tuy rằng các tế bào của nó đã được vật chất cao năng lượng thay thế, nhưng trình tự sắp xếp của các phân tử không thay đổi, do đó nhìn thì không khác mấy so với thân thể người bình thường. Tuy nhiên có chỗ khác biệt [so với người thường], tức là, thân thể này có thể tiến nhập vào không gian khác.

Công pháp tính mệnh song tu, từ ngoài mà quan sát người ta cảm thấy như trẻ ra nhiều tuổi; cá nhân nhìn bề ngoài khác nhiều so với tuổi thực tế. Một hôm có người hỏi tôi: 'Thưa Sư phụ, thầy nhìn xem con đã bao nhiêu tuổi?' Kỳ thực, bà đã gần 70 tuổi rồi, [nhưng] biểu hiện [bên ngoài như] mới có 40 tuổi. Không có nếp nhăn, sắc mặt sáng sủa, trắng trẻo, hồng hào; không hề giống như những người 70 tuổi. Người luyện Pháp Luân Đại Pháp chúng ta sẽ xuất hiện tình huống này. Nói vui thế này, các cô nương trẻ tuổi đều trang điểm, muốn da dẻ trắng trẻo hơn, đẹp hơn. Tôi nói rằng chư vị tu luyện công pháp tính mệnh song tu một cách chân chính, [thì] tự nhiên đạt được điều ấy; bảo đảm là chư vị không [cần] trang điểm. Chúng tôi không đưa [thêm] ví dụ về phương diện này [nữa]. Vì trước đây tại các ban ngành có khá nhiều người cao tuổi, nên người ta thường coi tôi là người còn ít tuổi; hiện nay khá hơn rồi, [vì] tại các ban ngành cũng có khá nhiều người trẻ. Kỳ thực tôi cũng không còn trẻ nữa, cũng đang đến 50 tuổi rồi; hiện nay đã 43 tuổi rồi.

Pháp thân

Tại sao trên [hình] tượng Phật có một trường? Có nhiều người giải thích không được; cũng có người nói: 'Trên tượng Phật có trường là vì hoà thượng hướng vào tượng Phật niệm kinh mà sinh ra', tức là trường do hoà thượng tu luyện ở trước [tượng] sinh ra. Tuy nhiên hoà thượng tu luyện cũng vậy, ai tu luyện cũng vậy, loại năng lượng ấy là tản xạ, không định hướng; nên chăng là toàn bộ sàn, trần, tường nơi Phật đường đều có trường ấy như nhau. Vậy cớ sao chỉ có trường ở trên tượng Phật mới mạnh như thế? Đặc biệt ở các tượng Phật trong núi sâu, hoặc tại sơn động, hoặc tạc trên vách núi, thường hay có tồn tại trường ấy. Vì sao xuất hiện trường này? Có người giải thích thế này, giải thích thế kia, giải thích thế nào cũng không giải thích được thông. Kỳ thực trên tượng Phật có trường ấy là vì trên tượng Phật có một Pháp thân của Giác Giả. Pháp thân của Giác Giả ấy tại chỗ đó, do đó nó có năng lượng.

Thích Ca Mâu Ni hay Bồ Tát Quán Âm cũng vậy, nếu như trong lịch sử thật sự có nhân vật ấy, mọi người thử nghĩ xem, khi họ tu luyện, thì họ cũng là người luyện công phải không? Người ta sau khi tu đến một tầng rất cao nào đó ở xuất thế gian pháp, thì sẽ sản sinh ra Pháp thân. Pháp thân được sinh ra từ bộ vị của đan điền người ta, là do Pháp và công cấu thành, là thể hiện xuất ra ở tại không gian khác. Pháp thân được trang bị đầy đủ uy lực rất lớn của bản thân họ; nhưng ý thức của Pháp thân, tư tưởng của Pháp thân chịu sự khống chế [điều hành] của chủ thể. Nhưng bản thân Pháp thân cũng là một sinh mệnh cá thể hoàn chỉnh, độc lập, hết sức thực tại; do vậy bản thân [nó] cũng có thể thực thi bất kể sự việc gì một cách độc lập. Sự việc mà Pháp thân thực thi là giống với, giống như đúc với sự việc mà chủ ý thức của người ta mong muốn thực thi. Sự việc ấy bảo bản thân thực thi thì sẽ thực thi như thế nào, [thì để] Pháp thân thực thi cũng lại như thế ấy; đây chính là điều mà chúng tôi gọi là 'Pháp thân'. Tôi muốn làm một sự việc nào đó, ví như giúp đệ tử tu luyện chân chính điều chỉnh thân thể, [thì] đều do Pháp thân của tôi làm. Bởi vì Pháp thân không mang cái thân thể thường nhân như thế này, nên [Pháp thân] thể hiện tại không gian khác. Thể sinh mệnh ấy cũng không cố định bất biến; Pháp thân có thể biến thành lớn thu thành nhỏ. Có lúc Pháp thân biến thành rất lớn, lớn đến mức không nhìn được toàn bộ đầu của Pháp thân; có lúc biến thành rất nhỏ, nhỏ đến mức nhỏ hơn cả tế bào.

Khai quang

[Hình] tượng Phật chế tạo từ công xưởng chỉ là một tác phẩm nghệ thuật. 'Khai quang' chính là thỉnh mời một Pháp thân của Phật vào tượng Phật; rồi sau đó, coi tượng Phật như một thân thể hữu hình [của Phật] nơi người thường để thờ cúng. Người luyện công có cái tâm kính ngưỡng ấy, [thì] khi tu luyện, Pháp thân trên tượng Phật sẽ hộ Pháp cho họ, coi sóc họ, bảo hộ họ; đây là mục đích chân chính của khai quang. Chỉ khi phát xuất chính niệm trong nghi thức khai quang chính thức, hoặc có Đại Giác Giả tại tầng rất cao, hoặc có người tu luyện ở tầng rất cao có lực lượng [quyền lực] ấy thì mới có thể thực hiện được sự việc này.

Trong chùa giảng rằng tượng Phật cần phải khai quang; họ nói rằng tượng Phật chưa qua khai quang thì không linh. [Về] các hoà thượng trong chùa hiện nay, các đại Pháp sư chân chính, đều đã [qua đời] không còn tại thế. Từ sau "Đại cách mạng Văn hoá", trong những tiểu hoà thượng có những vị không được chân truyền [nhưng] hiện nay làm trụ trì; có rất nhiều điều bị thất truyền. Hỏi họ khai quang để làm gì? Họ nói: 'Khai quang xong, tượng Phật sẽ linh'. Cụ thể linh [nghiệm] ra sao, họ không nói rõ được. Do đó họ chỉ cử hành nghi lễ, đặt một cuốn tiểu kinh văn vào trong tượng Phật, sau đó lấy giấy hồ [kín] lại, [rồi] hướng vào đó niệm kinh, và họ nói rằng đã khai quang xong. Nhưng đã đạt được khai quang chưa? Còn phải xem họ niệm kinh ra sao. Thích Ca Mâu Ni giảng rằng chính niệm, [đạt đến được] niệm kinh nhất tâm bất loạn, thì thật sự có khả năng tạo ra chấn động đến thế giới pháp môn tu của Ông, như thế mới mời được Giác Giả. Một Pháp thân của Giác Giả này sẽ đến và nhập lên [tượng Phật], như thế mới đạt được mục đích khai quang.

Có hoà thượng ở đó [vừa] niệm kinh, vừa nghĩ trong tâm: 'Khai quang xong [người ta] đưa mình bao nhiêu tiền nhỉ.' Hoặc là vừa niệm kinh vừa nghĩ: 'Người kia xử tệ với mình quá'. Họ ở đó cũng có lục đục tranh chấp, hiện nay vào thời kỳ mạt Pháp, không thể không thừa nhận những hiện tượng ấy; tại đây chúng tôi không [định] phê bình Phật giáo; vào thời kỳ mạt Pháp có những ngôi chùa chẳng hề thanh tịnh. Khi trong đầu họ nghĩ những thứ ấy, phát sinh những niệm đầu không tốt như thế, hỏi các Giác Giả có thể đến không? Hoàn toàn không đạt được mục đích khai quang. Tuy vậy [cũng] không tuyệt đối, cũng có những chùa và Đạo viện đặc biệt tốt.

Ở một thành phố nọ tôi thấy một hoà thượng, tay đen thui. [Vị ấy] nhét cuốn kinh văn vào tượng Phật, dán dán lại, miệng lẩm nhẩm đọc một chập là coi như khai quang xong. Lại lấy một tượng Phật nữa, lại lẩm nhẩm một chập; mỗi một lần khai quang là 40 đồng. Hoà thượng hiện nay đã biến [khai quang] thành hàng hoá thương mại, kiếm tiền bằng khai quang tượng Phật. Tôi nhìn một cái là thấy ngay khai quang chưa được, hoàn toàn không khai quang; hoà thượng ngày nay còn làm cả những việc như thế. Tôi còn thấy một việc gì nữa? Trong chùa có một vị kia, trông giống như một cư sỹ, nói là khai quang tượng Phật; vị này hướng mặt một chiếc gương về phía mặt trời, để ánh sáng phản chiếu lên thân của tượng Phật, họ nói thế là khai quang xong. Đúng là đã đến mức thật quá tức cười! Phật giáo hôm nay đã phát triển đến mức độ ấy; nó còn là một hiện tượng rất phổ biến.

Một bức tượng Phật lớn bằng đồng chế tạo tại Nam Kinh, [được] đưa đến đặt trên Đại Dữ Sơn ở Hồng Kông; tượng Phật rất to lớn. Nhiều hoà thượng trên toàn thế giới đến để khai quang tượng Phật này; trong đó có một hoà thượng hướng mặt tấm gương về phía mặt trời, để ánh sáng phản chiếu rọi lên mặt của tượng Phật [và] gọi đó là khai quang. Một đại hội lớn đến thế, ở một trường hợp nghiêm túc đến thế mà còn làm những việc ấy; tôi nhận thấy rằng thật đáng buồn thay! Không lạ gì, Thích Ca Mâu Ni giảng: Đến thời kỳ mạt Pháp, hoà thượng độ bản thân còn rất khó, độ nhân lại càng khó hơn. Thêm vào đó còn có nhiều hoà thượng đứng tại góc độ của bản thân mình mà giải thích kinh Phật; cái thứ gọi là 'Vương Mẫu Nương Nương kinh' cũng lọt được vào trong chùa; những điều không phải là kinh điển trong Phật giáo cũng lọt vào trong chùa; làm loạn lung tung cả, bây giờ thật loạn. Tất nhiên, vẫn có những hoà thượng tu luyện một cách chân chính, và còn rất tốt. Khai quang trên thực tế là thỉnh mời Pháp thân của Giác Giả về ngụ trên tượng Phật; đó là khai quang.

Nếu bức tượng Phật ấy chưa được khai quang thì không thể [thờ] cúng; nếu [thờ] cúng thì sẽ mang đến hậu quả rất nghiêm trọng. Hậu quả nghiêm trọng gì? Hiện nay những [người] chúng ta làm khoa học về [thân] thể người đã phát hiện rằng, ý niệm của con người chúng ta, tư duy trong đại não con người có thể sinh ra một loại vật chất. Chúng tôi ở tầng rất cao nhìn thấy nó thật sự là một loại vật chất; tuy nhiên loại vật chất ấy không giống như hình thức sóng điện não mà hiện nay chúng ta nghiên cứu phát hiện ra, mà là một loại hình thức đại não hoàn chỉnh. Bình thường người thường nghĩ tưởng về một vấn đề gì thì phát xuất ra một thứ có hình thái đại não; bởi vì nó không có năng lượng, nên [sau khi] phát xuất ra một thời gian ngắn liền tản mất; nhưng năng lượng của người luyện công thì được bảo trì trong một thời gian lâu hơn. [Tôi] không nói rằng bức tượng Phật ấy sản xuất ra khỏi công xưởng liền có tư tưởng; [nó] không có. Nhưng có những chiếc chưa được khai quang, họ mang [chúng] lên chùa rồi cũng không đạt được mục đích khai quang. Nếu như tìm đến khí công sư giả nào đó, [hoặc] người theo tà môn oai đạo để khai quang, thì nó càng nguy hiểm hơn: cáo, chồn sẽ gắn lên đó.

Như vậy nếu tượng Phật kia chưa được khai quang, chư vị lên đó bái [lạy], thì rất nguy hiểm. Nguy hiểm đến mức độ nào? Tôi đã giảng rằng nhân loại phát triển cho đến hôm nay, hết thảy đều đã bại hoại; hết thảy mọi thứ ở trong toàn bộ xã hội, trong toàn bộ vũ trụ đều theo nhau trở nên bại hoại; hết thảy mọi sự việc ở chốn người thường chúng ta đều là do tự mình tạo thành hết. Muốn cầu chính Pháp, [muốn] theo chính Đạo đều rất khó; can nhiễu đủ mọi phương diện. Muốn cầu Phật, hỏi ai là Phật? Muốn cầu rất khó. [Nếu] không tin [thì hãy] để tôi giảng: Hễ người thứ nhất đến trước tượng Phật chưa được qua khai quang mà bái [lạy] một cái là hỏng rồi. Hiện nay bái Phật hỏi có mấy người mang trong tâm mong muốn cầu Phật đắc chính quả? Những người như thế quá ít. Mục đích của đại đa số người bái Phật là gì? Tiêu tai, giải nạn, phát tài, [họ] cầu những thứ ấy. Đó có phải là những điều trong kinh điển Phật giáo không? Hoàn toàn không phải những thứ ở tầng này.

Chẳng hạn người bái Phật cầu tiền, bái [lạy] trước tượng Phật, hoặc tượng Bồ Tát Quán Âm, hoặc tượng Phật Như Lai mà nói: 'Cho con xin phát tài'. Tốt thôi, một ý niệm hoàn chỉnh bèn hình thành. [Vì] họ hướng đến tượng Phật mà phát xuất ra, nên [nó] lập tức gắn lên tượng Phật. [Thân] thể tại không gian khác, có thể phóng lớn thu nhỏ; [nó] gắn lên thân kia rồi, thì tượng Phật ấy sẽ có một đại não, sẽ có tư tưởng; nhưng chưa có thân thể. Những người khác cũng đến bái [lạy], bái tới bái lui, sẽ cấp cho nó một năng lượng nhất định. Đặc biệt nếu người luyện công thì còn nguy hiểm hơn; hễ bái [lạy] thì dần dần cấp năng lượng cho nó; nó sẽ hình thành một thân thể hữu hình; tuy nhiên thân thể hữu hình ấy hình thành tại không gian khác. Sau khi hình thành rồi thì nó ở không gian khác; nó có khả năng biết được một số [Pháp] lý trong vũ trụ; do vậy nó có thể vì người mà làm một chút việc, như thế nó cũng tăng trưởng một chút công; nhưng giúp đỡ người ta là có điều kiện, có giá cả. Tại không gian khác nó hành động tự do như ý, khống chế người thường hết sức tự do như ý. Cái thân thể hữu hình ấy so với hình tượng của bức tượng Phật thì giống hệt như đúc; [đây] chính là Bồ Tát Quán Âm giả, Phật Như Lai giả do con người bái [lạy] mà nên, là do con người bái [lạy] mà xuất lai; hình dáng [nó] trông giống hệt như tượng Phật, hình tượng của Phật. Nhưng tư tưởng của Phật giả, Bồ Tát giả [ấy] cực kỳ xấu, [nó truy] cầu tiền. Nó sinh ra ở không gian khác, nó có tư tưởng, nó hiểu biết được một chút [Pháp] lý, nó không dám làm những điều xấu nghiêm trọng, nhưng nó dám làm những điều xấu nhỏ nhặt. Có những lúc nó giúp đỡ con người, nếu không giúp đỡ con người thì [nó] đã hoàn toàn là tà, nên cần phải giết nó. Giúp như thế nào? Một người kia nói: '[Con] cầu xin Phật giúp đỡ giúp đỡ, con có người nhà đang lâm bệnh'. 'Tốt, ta giúp ngươi'. Nó liền để chư vị bỏ tiền vào hòm công đức: tư tưởng của nó cần tiền. Tiền bỏ vào hòm công đức nhiều bao nhiêu, [nó] liền làm bệnh chư vị mau khỏi bấy nhiêu. Bởi vì nó có năng lượng, ở không gian khác có thể thao túng người thường. Nhất là khi người có công đến bái [lạy], thì còn nguy hiểm hơn. Người luyện công cầu điều chi? Cầu tiền ư? Mọi người thử nghĩ, người luyện công cầu tiền tài là sao? Cầu mong giúp thân nhân tiêu nạn tiêu bệnh chính là chấp trước đối với tình cảm thân quyến. Phải chăng muốn chi phối vận mệnh của người khác; mỗi người đều có vận mệnh của mình chứ! Nếu chư vị bái [lạy] nó, lẩm nhẩm: 'Con xin được phát tài'. Tốt thôi, nó giúp chư vị; nó chỉ mong rằng chư vị cầu thật nhiều tiền, càng cầu nhiều tiền chút nào, nó lấy được của chư vị thêm chút ấy; giao hoán bình đẳng mà. Người khác bỏ tiền vào hòm công đức cho nó rất nhiều, [và] nó để chư vị được [tiền]. Được như thế nào? Ra khỏi cửa thì nhặt được ví tiền, [hoặc được] đơn vị [công tác] thưởng tiền; dù thế nào thì nó cũng làm mọi cách để chư vị được tiền. [Nhưng] nó không thể giúp chư vị một cách vô điều kiện phải không? Bất thất bất đắc; [nó] lấy một phần công của chư vị; hoặc lấy của chư vị những thứ như đan đã luyện thành, nó cần những thứ ấy.

Những Phật giả ấy có những lúc rất nguy hiểm. Rất nhiều người chúng ta đã khai thiên mục và tưởng rằng tự mình đã nhìn thấy Phật. Có người nói rằng hôm nay ở chùa có một nhóm chư Phật đến, ông Phật kia tên là gì đã dẫn một nhóm chư Phật đến. [Lại] nói hôm qua một nhóm như thế như thế đã đến, hôm nay một nhóm như thế như thế đã đến, một lúc rồi rời đi, lại một nhóm nữa đến. Là gì vậy? Chính là cái loại này. Chúng không phải là Phật thật, mà chúng là [Phật] giả; loại này rất là nhiều.

Nếu như xuất hiện tình huống này ở chùa, thì thật nguy hiểm hơn nữa. Hoà thượng mà bái [lạy] nó, như thế nó sẽ quản hoà thượng: 'Ngươi chẳng phải đang bái [lạy] ta? Ngươi rất minh bạch đang bái [lạy] ta! Tốt lắm, chẳng phải ngươi muốn tu luyện? Ta sẽ quản ngươi, ta sẽ để ngươi tu như thế như thế'. Nó an bài cho chư vị, vậy chư vị tu thành thì sẽ tu đến đâu? Tu là do nó an bài, thì các pháp môn trên kia đâu có nhận. Nó an bài, thì chư vị tương lai sẽ quy về nó [cai] quản. Vậy chư vị chẳng phải tu cũng như không hay sao? Tôi nói rằng hiện nay nhân loại muốn tu đắc chính quả thật rất khó. Hiện tượng thế này rất phổ biến; tại danh sơn đại xuyên có người chúng ta thấy Phật quang, phần đông là thuộc loại này; chúng có năng lượng, nên có thể hiển hiện ra được. Đại Giác Giả chân chính không tự dưng hiển hiện như thế.

Trong quá khứ những cái gọi là 'địa thượng Phật', 'địa thượng Đạo' này tương đối ít; nhưng hiện nay rất nhiều. Khi chúng làm điều xấu, ở trên sẽ muốn giết chúng; định giết thì chúng liền chạy vào tượng Phật. Các Đại Giác Giả thông thường không tự dưng can thiệp vào [Pháp] lý nơi người thường; Giác Giả càng cao càng không phá hoại [Pháp] lý nơi người thường, không động tới một chút nào. Không lẽ đột nhiên đánh sét làm vỡ tan tượng Phật; họ không làm những việc ấy; do đó nó chạy vào tượng Phật thì [họ] cũng không quản. Nó biết là muốn giết nó, nó liền chạy. Vì vậy Bồ Tát Quán Âm mà chư vị thấy có phải là Bồ Tát Quán Âm không? Phật mà chư vị thấy có phải là Phật không? Rất khó nói.

Rất nhiều người chúng ta liên tưởng về vấn đề này: 'Tượng Phật ở nhà mình thì thế nào nhỉ?'. Có thể có nhiều người đã nghĩ đến tôi. Để trợ giúp học viên tu luyện, tôi bảo chư vị làm thế này: chư vị vừa cầm cuốn sách của tôi (vì trong sách có ảnh tôi) hoặc ảnh chụp hình tôi, tay chư vị bê tượng Phật, làm thủ ấn đại liên hoa, sau đó như là cầu tôi vậy: 'Cầu Sư phụ khai quang cho'. Sau nửa phút là vấn đề giải quyết xong. [Tôi] nói với mọi người rằng, [việc này] chỉ giới hạn trong những người tu luyện chúng ta; khai quang cho bè bạn thân quyến là không được, chúng tôi chỉ quản người tu luyện thôi. Có người nói rằng đưa [hình] tượng Sư phụ đến nhà bạn bè thân quyến để trừ tà; tôi [ở đây] đâu phải để trừ tà cho người thường; ấy là [hành vi] bất kính lớn nhất đối với Sư phụ.

Giảng đến vấn đề địa thượng Phật và địa thượng Đạo. Còn một tình huống nữa, Trung Quốc cổ đại có rất nhiều người tu luyện tại núi sâu rừng già. Vì sao hiện nay không có? Kỳ thực không phải là không có, mà là không để người thường biết; cũng không thiếu đi chút nào; những vị này đều có công năng. Mấy năm nay không phải là những vị này không có mặt, họ đều có cả đấy. Hiện nay trên thế giới còn có vài nghìn; Trung Quốc nước ta tương đối nhiều hơn. Đặc biệt là ở các danh sơn đại xuyên đều có, một số núi cao cũng có. Họ dùng công năng bít [hang] động lại, do đó chư vị không thấy được sự tồn tại của họ. Họ tu luyện rất chậm, chiêu [pháp] của họ không lanh lợi, [vì] họ không nắm được trung tâm của tu luyện. Còn chúng ta trực chỉ nhân tâm, chiểu theo đặc tính tối cao của vũ trụ chúng ta mà tu luyện, chiểu theo hình thức ấy của vũ trụ mà tu luyện, nên đương nhiên công tăng trưởng rất mau. Vì các pháp môn tu luyện cũng như hình kim tự tháp, chỉ có ở giữa là đại đạo [đường lớn]. Còn tiểu đạo [đường nhỏ] ở các bên, thì tâm tính tu luyện không nhất định là cao; có khi tu chưa cao đã khai công rồi; còn so với các đại đạo tu luyện chân chính thì [chúng] khác biệt nhiều lắm.

Họ cũng có đồ đệ truyền thừa; môn của họ tu cao đến đó, tâm tính của họ cũng cao đến đó; do đó đồ đệ của họ cũng tu được cao đến đó [thôi]. Là tiểu đạo thế gian càng ở biên thì thuyết pháp càng nhiều, phương pháp tu trì cũng phức tạp, không có nắm trúng trung tâm mà tu. Người ta tu luyện chủ yếu là tu tâm tính, họ vẫn không hiểu rõ điểm này; họ tưởng rằng nhờ chịu khổ là có thể tu luyện. Do vậy họ trải qua một thời gian rất lâu dài, tu qua hàng mấy trăm năm, trên nghìn năm, thì họ mới tăng được một chút công ấy thôi. Thực ra không phải là họ dựa vào chịu khổ mà tu xuất lai; vì sao tu xuất lai? Giống hệt như con người: vào thời trẻ tâm chấp trước rất nhiều; cho đến lúc già, thì thuận theo năm tháng trôi qua, tiền đồ vô vọng, thì những cái tâm kia đã tự nhiên dứt bỏ đi, rơi rụng đi; những loại tiểu đạo ấy cũng dùng phương pháp như vậy. Nên khi họ dựa vào ngồi đả toạ, định lực, chịu khổ để tu lên, thì họ phát hiện rằng cũng có thể tăng công. Tuy nhiên họ lại không biết rằng cái tâm chấp trước của người thường kia đã dần dần từ bỏ qua những năm tháng gian khổ; cái tâm kia dần dần rơi rụng đi thì công tăng lên được.

Chúng ta là có tính nhắm thẳng, thật sự chỉ thẳng vào cái tâm ấy, vứt bỏ cái tâm ấy; như vậy tu được mau lẹ phi thường. Tôi từng đi qua một số địa phương, thường hay gặp những người kia, đã tu rất nhiều năm. Họ nói: 'Không ai biết được chúng tôi ở đây; công việc của ông chúng tôi không quan tâm, cũng không gây rối loạn'. Đó là thuộc về những người tương đối tốt.

Cũng có [kẻ] không tốt; không tốt thì chúng ta cũng cần xử lý. Ví dụ, lần đầu tiên tôi đến Quý Châu truyền công, trong lúc ở trên lớp, thì có một người đến tìm tôi, nói rằng lão sư gia anh ta muốn gặp tôi, rằng sư gia của anh ta tên là như thế như thế, đã tu luyện rất nhiều năm. Tôi nhìn một cái thì thấy người này mang theo âm khí, rất không tốt, mặt vàng như sáp. Tôi bảo tôi không gặp ông lão ấy, không có thời gian, từ chối thẳng. Kết quả ông lão đó không vừa ý, [và] bắt đầu phá quấy tôi, hàng ngày phá rối. Tôi là người không thích đấu với người ta, tôi cũng không thèm đấu với ông lão ấy. Ông ta quăng đến cái gì không tốt thì tôi thanh lý, thanh lý hết xong, tôi lại truyền Pháp của mình.

Quá khứ vào triều Minh có một người tu Đạo, khi tu Đạo bị mắc phụ thể là rắn; sau đó người tu Đạo tu không thành kia chết đi, và con rắn này đã chiếm hữu thân thể của người tu Đạo ấy, rồi tu xuất được hình người. Ông sư gia của anh kia chính là hình người mà con rắn kia tu thành. Vì bản tính của ông ta không đổi, [ông ta] lại hoá thành con rắn lớn đến phá rối tôi. Tôi thấy vậy là thái quá, tôi bèn bắt nó trong tay, dùng một loại công mạnh mẽ phi thường, gọi là 'hoá công', hoá phần nửa dưới của nó, hoá thành nước; nửa thân trên của nó bỏ chạy về.

Một hôm trạm trưởng trạm phụ đạo Quý Châu của chúng ta được đồ tôn của ông ta tìm đến, nói rằng sư gia muốn gặp bà. Bà trạm trưởng đến, vào đến hang động thì thấy tối đen không trông thấy gì cả; chỉ thấy một hình ảnh ngồi ở đó, mắt phóng ra ánh sáng xanh lục; hễ [ông ta] mở mắt thì động sáng, còn nhắm mắt thì trong động lại tối đen. Ông ta nói bằng thổ ngữ địa phương: 'Lý Hồng Chí lại đến, lần này chúng tôi không có ai làm chuyện kia nữa; tôi đã nhầm. Lý Hồng Chí đến để độ nhân'. Đồ tôn hỏi ông ta: 'Thưa sư gia, thầy đứng dậy đi, chân của thầy bị sao thế?' Ông ta nói: 'Tôi không đứng dậy được nữa, chân của tôi bị thương rồi'. Hỏi ông ấy bị thương ra sao, ông ta bèn bắt đầu kể về quá trình phá rối của mình. Đến Hội Sức khoẻ Đông phương năm 1993 tại Bắc Kinh ông ta lại phá rối tôi. Vì ông ta cứ làm điều xấu, ông ta phá hoại việc tôi truyền Đại Pháp, nên tôi đã triệt để tiêu huỷ ông ấy. Sau khi tiêu huỷ, những sư tỷ, sư muội, sư huynh, sư đệ của ông ta đều muốn hành động. Lúc đó tôi nói với họ mấy câu; họ đều cảm thấy kinh hoàng, khiếp sợ lắm, không ai dám hành động gì nữa, và cũng hiểu ra chuyện này. Trong số họ một số [người] vẫn hoàn toàn là người thường, [mặc] dù đã tu một thời gian rất dài. Đây là vài thí dụ được nêu ra khi giảng về vấn đề khai quang.

Khoa chúc do

Khoa 'chúc do' là gì? Trong giới tu luyện, tại quá trình truyền công có nhiều người cũng coi nó là điều được truyền trong phạm trù tu luyện; kỳ thực nó không phải là điều thuộc phạm trù tu luyện. Nó là loại truyền thừa kiểu như quyết khiếu, chú quyết, kỹ thuật. Hình thức mà nó sử dụng kiểu như vẽ bùa, đốt hương, đốt giấy, niệm chú, v.v.; nó có thể trị bệnh, phương pháp trị bệnh hết sức độc đáo đặc biệt. Lấy ví dụ thế này, ví như một người mọc mụn nhọt trên mặt, họ bèn dùng bút lông chấm [son] chu sa vẽ trên mặt đất hình tròn, trong vòng tròn vạch một hình chữ thập; [họ] bảo người kia đứng vào trung tâm của vòng tròn, rồi họ bắt đầu niệm chú quyết. Sau đó lấy bút son vạch hình tròn lên mặt người kia, vừa vẽ vừa niệm chú, vẽ tới vẽ lui, đến khi chấm một điểm lên chỗ mụn nhọt, niệm chú đến đó cũng vừa xong, bảo rằng đã khỏi rồi. Chư vị thử sờ vào [chỗ mụn nhọt], thì thấy đã nhỏ lại, không đau nữa, nó đã khởi tác dụng. Những bệnh nhẹ thì họ có thể trị được, còn bệnh nặng thì không được. Còn nếu như đau cánh tay thì làm sao? Miệng bắt đầu niệm chú, họ bèn bảo chư vị duỗi tay ra, lấy miệng thổi vào huyệt hợp cốc tại tay này, và làm cho nó xuất ra ở huyệt hợp cốc của tay kia; cảm thấy như một luồng gió; sờ lại, thì nó không còn đau như thế nữa. [Họ] còn dùng đến những việc đốt giấy, vẽ bùa, dán bùa, v.v.; họ làm những việc ấy.

Trong các tiểu đạo thế gian của Đạo gia, [người ta] không giảng tu mệnh, hoàn toàn là toán quái, xem phong thuỷ, đuổi tà, trị bệnh. Những tiểu đạo thế gian thường dùng đến những thứ này. Nó có thể trị bệnh, nhưng các phương pháp nó dùng đến là không tốt. Chúng tôi không giảng là nó dùng cách gì trị bệnh; nhưng những người tu Đại Pháp chúng ta không được dùng chúng, bởi vì chúng mang theo những tín tức rất thấp và rất không tốt. Các phương pháp trị bệnh ở Trung Quốc cổ đại được phân thành những khoa mục; ví dụ: tiếp cốt, châm cứu, án ma, thôi nã, điểm huyệt, khí công trị bệnh, thảo dược trị bệnh, v.v. phân thành khá nhiều loại. Mỗi loại phương pháp trị bệnh gọi là một 'khoa'; khoa chúc do này được liệt vào khoa thứ 13, do đó tên đầy đủ của nó là 'khoa 13 chúc do'. Khoa chúc do không thuộc về những điều trong phạm trù tu luyện, nó không phải là công đắc nhờ tu luyện, mà là một thứ thuật loại.Bài giảng thứ sáu

Tẩu hoả nhập ma

Trong giới tu luyện có một thuyết, gọi là 'tẩu hoả nhập ma'; ảnh hưởng trong quần chúng cũng rất lớn. Đặc biệt có một số người quảng bá chuyện này rất rầm rộ, làm một số người không dám luyện công nữa. Người ta hễ nghe thấy nói rằng luyện công rồi sẽ [bị] tẩu hoả nhập ma, liền sợ quá không dám luyện nữa. Kỳ thực, tôi nói với mọi người rằng, tẩu hoả nhập ma hoàn toàn không tồn tại.

Có không ít người vì bản thân tâm mình không chính, chiêu mời những phụ thể. Chủ ý thức của mình không khống chế được bản thân mình, lại còn tưởng đó là công. Thân thể đang bị phụ thể khống chế, điên đảo hò hét lung tung cả lên. Người ta nhìn thấy luyện công có [hình] thức như thế, sợ quá chẳng dám luyện. Chúng ta có khá nhiều người tưởng rằng đó là công; luyện công mà như thế sao? Đó chỉ là một loại trạng thái thấp thấp nhất để chữa bệnh khoẻ người, nhưng nó rất nguy hiểm. Nếu bản thân chư vị quen làm như thế, thì chủ ý thức của chư vị rồi sẽ không khống chế được bản thân nữa; như thế thân thể của chư vị sẽ có thể bị phó ý thức hoặc tín tức ngoại lai hay phụ thể các loại khống chế, và có thể làm ra những cử động nguy hiểm, ngoài ra [nó cũng gây nên] sự phá hoại mạnh mẽ trong giới tu luyện. Đó là nhân tâm bất chính tạo thành như vậy, là chấp trước vào sự thể hiện bản thân, đó không phải là tẩu hoả nhập ma. Một số người, thật không hiểu vì sao [họ] lại trở thành cái gọi là 'khí công sư', họ cũng giảng tẩu hoả nhập ma. Kỳ thực luyện công không thể tẩu hoả nhập ma; đa số người ta nghe [điều] ấy trong các tác phẩm nghệ thuật, nghe danh từ này trong những tiểu thuyết võ hiệp nào đó v.v. Nếu không tin, chư vị thử dở các sách cổ, các sách tu luyện [ra xem] trong đó không hề có chuyện này. Ở đâu có tẩu hoả nhập ma nào? Hoàn toàn không xuất hiện sự việc ấy được.

Người ta nhìn nhận rằng tẩu hoả nhập ma có một vài hình thức, điều tôi vừa giảng cũng là một loại hình thức. Vì bản thân tâm bất chính, chiêu mời phụ thể, truy cầu những khí công thái nào đó để hiển thị bản thân cũng như các chủng tâm thái. Có người trực tiếp truy cầu công năng hoặc luyện khí công giả; hễ luyện là tự mình lại quen rũ bỏ chủ ý thức của bản thân mình, không còn biết gì nữa, thân thể đã giao cho kẻ khác rồi; bị phó ý thức hoặc tín tức ngoại lai làm chủ thân thể đến điên đảo lung tung cả lên; làm ra một số cử động đặc thù. Bảo họ nhảy lầu thì họ nhảy lầu; bảo họ nhảy xuống nước thì họ nhảy xuống nước. Bản thân họ chẳng còn thiết sống nữa, đã đem thân thể giao cho kẻ khác rồi. Đó không thuộc về tẩu hoả nhập ma, mà thuộc về luyện công lầm đường lạc lối; ngay từ đầu đã hữu ý thực thi theo hình thức ấy. Có rất nhiều người tưởng rằng lắc lư dao động chính là luyện công, kỳ thực nếu thật sự luyện công theo trạng thái kiểu như vậy, thì sẽ tạo thành hậu quả nghiêm trọng. Đó không phải luyện công, [mà] là chấp trước và truy cầu của người thường tạo thành như thế.

Một tình huống khác là khi luyện công khí ứ tắc ở chỗ nào đó mà không thông; khí lên đỉnh đầu không xuống được, họ liền sợ quá. Thân thể con người là một tiểu vũ trụ, đặc biệt [trong] công pháp Đạo gia khi vượt quan, thì sẽ gặp chuyện phiền phức này; vượt [quan] không qua được, thì khí quanh quẩn ở chỗ ấy. Không chỉ có đỉnh đầu, chỗ khác cũng như thế, nhưng, [nơi] nhạy cảm nhất của con người là đỉnh đầu. Khi khí lên đỉnh đầu rồi xung xuống, [nhưng] không vượt quan được, [thì] họ liền cảm giác thấy đầu nặng, đầu sưng, [như] có hiện tượng đội một chiếc mũ khí dày cộp, v.v. Nhưng khí không có tác dụng ước chế gì cả, nó cũng không làm người ta dẫn đến phiền phức gì hết, cũng hoàn toàn không sinh ra bất kể bệnh tật gì. Có những người không hiểu rõ tình huống chân thực của khí công, cũng phát biểu ý kiến lung tung một cách thần bí huyền hoặc, kết quả tạo thành hiện tượng rất hỗn loạn. Người ta bèn cho rằng khí lên đến đỉnh đầu mà không xuống được thì sẽ [bị] tẩu hoả nhập ma, xuất hiện thiên [sai] v.v., kết quả rất nhiều người bản thân họ rất sợ.

Khí lên đỉnh đầu mà không xuống, nó chỉ là trạng thái tạm thời; có người [bị] trong thời gian rất lâu, nửa năm vẫn không xuống. [Nếu] không xuống [thì] tìm một khí công sư chân chính [để] đạo dẫn xuống thì có thể xuống ngay. Như vậy chúng ta phàm khi luyện công chưa xung qua quan được, khí không xuống, [thì] chúng ta hãy thử tìm nguyên nhân ở tâm tính, có phải là vướng ở tầng ấy một thời gian lâu quá không; cần phải thực sự đề cao tâm tính! Khi chư vị thực sự đề cao tâm tính, chư vị sẽ thấy nó có thể xuống. Chư vị chỉ một mực nhấn mạnh vào biến hoá công của bản thân mình mà không nhấn mạnh vào chuyển biến tâm tính của mình; nó có thể đang đợi tâm tính chư vị đề cao, [rồi] mới phát sinh biến đổi toàn diện được. Khí thực sự không thông thì người ta cũng không vấn đề gì; thông thường là do tác dụng của tinh thần chúng ta, lại nghe mấy vị khí công sư giả nói rằng khí mà lên đỉnh đầu thì xuất hiện thiên sai nào đó, nên họ sợ lắm. Sự lo sợ của họ có khi nó thật sự mang đến phiền toái. Bởi vì hễ chư vị lo sợ, thì chính là tâm hoảng sợ; chẳng phải đó là tâm chấp trước? Tâm chấp trước của chư vị hễ xuất hiện, [thì] chẳng phải cần [tống] khứ tâm chấp trước sao? Càng lo sợ, thì lại càng giống như mắc bệnh; nhất định phải vứt bỏ tâm chấp trước ấy của chư vị; để chư vị học bài học này, mà từ đó vứt bỏ tâm hoảng sợ, đề cao lên trên.

Người luyện công trong tương lai tu luyện sẽ không thoải mái, thân thể xuất hiện nhiều công, đều là những thứ rất mạnh mẽ [chuyển] động qua lại trong thân thể chư vị, làm cho chư vị khó chịu thế này, khó chịu thế kia. Nguyên nhân chư vị không thoải mái chủ yếu là chư vị cứ lo sợ thân thể bản thân mình bị bệnh nào đó; kỳ thực ở trong thân thể xuất hiện những thứ rất mạnh mẽ, xuất ra đều là công, đều là công năng, còn có rất nhiều thể sinh mệnh. Nếu [chúng chuyển] động, chư vị sẽ cảm thấy thân thể phát ngứa, đau, khó chịu, v.v.; đầu dây thần kinh cảm giác rất linh mẫn; các loại trạng thái đều xuất hiện. Chừng nào thân thể chư vị chưa được vật chất cao năng lượng chuyển hoá, đều có các loại trạng thái [như thế], mà nguyên đây là điều rất tốt. Làm một người tu luyện, chư vị mãi cứ coi bản thân mình là người thường, mãi cứ cho rằng có bệnh, thì hỏi luyện sao đây? Trong luyện công khi chúng ta gặp kiếp nạn, chư vị [nếu] vẫn cứ coi bản thân mình là người thường, tôi nói rằng tâm tính của chư vị lúc ấy đã rớt xuống chỗ của người thường. Chính tại vấn đề này, thì ít nhất chư vị cũng đã rớt xuống tầng kia của người thường.

Chúng ta làm người luyện công chân chính, cần phải từ tầng rất cao mà xét vấn đề, không thể dùng quan điểm của người thường mà xét vấn đề. Khi chư vị cho rằng có bệnh, như thế có thể dẫn đến mắc bệnh. Bởi vì khi mà chư vị cho rằng nó có bệnh, thì tâm tính của chư vị cũng cao như người thường. Luyện công và tu luyện chân chính, đặc biệt là trong trạng thái [điều kiện] này, không [thể] dẫn đến mắc bệnh. Như mọi người đã biết thật sự [làm người ta] mắc bệnh thì [do] bảy phần tinh thần ba phần bệnh. Thông thường ban đầu tinh thần của người ta suy sụp, ban đầu không chịu được, gánh nặng lớn quá, rồi làm cho bệnh tình trở nên [nguy] kịch; thường [xảy ra] như vậy. Lấy một thí dụ, quá khứ có một người, bị trói trên giường; lấy tay anh ta ra, và nói rằng sẽ làm cho chảy máu. Sau đó bịt mắt anh ta lại, rồi vạch một cái lên cổ tay của anh này (hoàn toàn không làm anh ta chảy máu); rồi mở vòi nước sao cho anh này nghe thấy tiếng [nước] nhỏ giọt. Anh ta tưởng rằng chính là máu của mình đang nhỏ giọt xuống, một lúc sau cá nhân này chết. Kỳ thực hoàn toàn không làm anh ta chảy máu, chỉ có nước chảy thôi; tinh thần của cá nhân này đã dẫn đến cái chết của mình. Khi chư vị cứ mãi nhìn nhận rằng bản thân mình có bệnh, thì có khi dẫn đến bản thân chư vị phát bệnh. Bởi vì tâm tính của chư vị đã giáng hạ xuống đến cơ sở của người thường, mà người thường đương nhiên sẽ mắc bệnh.

Là người luyện công chư vị cứ mãi cho rằng đó là bệnh, trên thực tế chư vị đúng là đang cầu [nó]; chư vị cầu bệnh, cái bệnh ấy sẽ có thể nhập vào. Làm một người luyện công thì tâm tính cần phải cao. Chư vị không được lo sợ mắc bệnh; lo sợ bệnh cũng là một tâm chấp trước, nó mang đến phiền phức cho chư vị cũng như thế. Trong tu luyện cần tiêu nghiệp, tiêu nghiệp sẽ thống khổ; làm sao có thể tăng công một cách nhẹ nhàng thoải mái kia chứ! Nếu không thì tâm chấp trước của chư vị làm sao bỏ được đây? Tôi kể cho mọi người một chuyện cổ trong Phật giáo: Xưa có một người đã rất cố gắng tu thành La Hán. Vị này khi đắc chính quả, tu thành La Hán thì lẽ nào không cao hứng cho được? Nhảy thoát khỏi tam giới rồi! Nhưng cao hứng lại chính là tâm chấp trước, [là] tâm hoan hỷ. La Hán cần phải vô vi, tâm bất động; vị này bị rớt xuống, tu lại như không [tu]. Tu như không thì cần tu lại, lại tu hướng lên trên một lần mới; bỏ ra bao nhiêu cố gắng lại tu lên được nữa. Lần này vị kia lo sợ, vị ấy tự nhủ: 'Mình chớ có cao hứng, cao hứng nữa thì lại rớt mất'. Vị này vừa lo sợ thì lại rớt xuống [một lần nữa]. Lo sợ cũng là một loại tâm chấp trước.

Còn có một tình huống nữa, đó là có người mắc bệnh tâm thần, [người ta] liền bảo là người ấy [bị] tẩu hoả nhập ma. Cũng có người chờ đợi tôi chữa bệnh tâm thần cho họ! Tôi nói rằng bệnh tâm thần không phải là bệnh, tôi cũng không có thời gian quan tâm đến chuyện ấy. Vì sao? Bởi vì người bệnh tâm thần không có bệnh độc, tại thân thể không có bệnh biến, không có nhiễm trùng; theo tôi nhìn nhận thì không phải là bệnh. Bệnh tâm thần chính là chủ ý thức của người ta quá yếu đuối. Yếu đuối đến mức độ nào? Giống như một cá nhân mãi không quyết định được cho bản thân mình, chủ nguyên thần của người bệnh tâm thần chính là như vậy. Họ không muốn quản cái thân thể ấy nữa, tự họ cứ mê mê muội muội mãi, tinh thần không có khởi lên được. Lúc ấy phó ý thức, [và] các tín tức ngoại lai sẽ can nhiễu đến họ. Tầng của mỗi không gian nhiều như thế, các loại tín tức đều can nhiễu đến họ. Thêm nữa chủ nguyên thần của người ta có thể đã làm một số điều không tốt ở đời trước, còn có chủ nợ cũng có thể làm hại họ; tình huống các loại đều xuất hiện. Chúng tôi nói rằng bệnh tâm thần là như thế. Bảo tôi trị bệnh [tâm thần] giúp chư vị làm sao được? Tôi nói rằng mắc bệnh tâm thần chính là như thế. Vậy xử lý ra sao? Hãy giáo dục họ, làm cho tinh thần của họ khởi lên; nhưng khó thực hiện lắm. Chư vị [có thể] thấy bác sỹ bệnh viện tâm thần hễ nhấc cây roi điện lên, là họ lập tức sợ quá chẳng dám nói lăng nhăng gì nữa. Vì sao vậy? Lúc ấy tinh thần của chủ nguyên thần của họ đã khởi lên: họ sợ [bị] điện giật.

Thông thường người ta khi đã vào cửa tu luyện thì sẽ vui mừng luyện [công] tiếp tục; ai cũng có Phật tính, ai cũng có tâm tu Đạo; do đó một khi đã học công, có nhiều người sẽ tiếp tục [tu] luyện suốt đời. Bất kể là người kia có thể tu lên được không, đã đắc Pháp chưa; dù sao người ấy cũng có tâm cầu Đạo; người ấy cứ luyện mãi. Mọi người đều biết rằng cá nhân này luyện công, người ở nơi công tác cũng biết, ngoài phố cũng biết, hàng xóm cũng biết rằng người này luyện công. Nhưng mọi người nghĩ xem, [về] tu luyện chân chính, mấy năm trước ai thực hiện điều này? Không ai làm cả; [chỉ] tu luyện chân chính mới có thể thay đổi đường đời của người ấy. Nhưng người này chỉ là một người thường, chỉ luyện công chữa bệnh khoẻ người; hỏi ai thay đổi đường đời cho họ? Là người thường, đến một ngày kia phải mắc bệnh, đến một ngày kia phải gặp chuyện rắc rối nào đó, đến một ngày kia biết đâu sẽ mắc bệnh tâm thần, hoặc giả hết mệnh lìa đời; một đời của người thường là như thế. Chư vị thấy rằng người kia đến công viên luyện công, kỳ thực người ấy không phải tu luyện một cách chân chính; người ấy mong muốn tu lên cao tầng nhưng chưa đắc chính Pháp; [nên] người ấy không tu lên được. Cá nhân này chỉ có nguyện vọng mong muốn tu luyện lên cao tầng, [và] người ấy vẫn còn là người luyện công tại tầng thấp chữa bệnh khoẻ người. Đường đời của người này chưa có ai thay đổi, như thế người ấy phải mắc bệnh. [Nếu] không [coi] trọng đức thì bệnh cũng chẳng khỏi; không thể nói rằng luyện công sẽ không mắc bệnh gì nữa.

Người kia cần tu luyện chân chính, coi trọng tâm tính; tu luyện chân chính mới có thể khỏi bệnh. Bởi vì luyện công không phải thể thao, mà là điều vượt khỏi người thường; do vậy phải có [Pháp] lý và tiêu chuẩn cao hơn để yêu cầu người luyện công, cần phải thực hiện được [chúng] thì mới đạt được mục đích. Tuy nhiên nhiều người không thực hiện như thế, họ vẫn là người thường; do đó khi đến lúc thì họ phải mắc bệnh. Một ngày kia họ đột nhiên bị tắc nghẽn mạch máu não, đột nhiên mắc bệnh này, mắc bệnh khác, hoặc giả một ngày kia mắc bệnh tâm thần. Họ luyện công có thể ai ai cũng biết; khi cá nhân ấy mắc bệnh tâm thần, người ta bèn nói rằng người này luyện công tẩu hoả nhập ma, một chiếc mũ lớn liền chụp lên đó. Mọi người thử nghĩ xem làm thế có hợp lý không? Người ngoài nghề đâu có hiểu; [ngay cả] người trong nghề như chúng ta, rất nhiều người luyện công khó mà hiểu được đạo lý chân chính bên trong chuyện này. Nếu như cá nhân kia ở nhà mắc bệnh tâm thần thì còn đỡ, [dẫu] người ta [vẫn] nói rằng người ấy [mắc bệnh là vì] luyện công; còn nếu người này mắc bệnh tâm thần ở chính điểm luyện công, thì rất tệ hại; cái mũ lớn kia sẽ chụp ngay vào, [và] không gỡ xuống được nữa. Rằng 'luyện công tẩu hoả nhập ma'; báo chí cũng đều đăng như thế. Có người nhắm mắt mà phản đối khí công: 'Đấy ông xem, vừa rồi ở đó luyện [công] còn tốt lắm, mà bây giờ thành như thế đấy'. Làm một người thường, cá nhân kia lẽ ra phải gặp điều gì thì phải gặp thôi; người ấy có thể còn xuất hiện những bệnh khác nữa, các chuyện phiền phức khác nữa; [nếu] nói rằng đều là luyện công [mà thành], thì có hợp lý không? Cũng như bác sỹ ở bệnh viện chúng ta, họ là bác sỹ, vậy phải chăng họ suốt đời vĩnh viễn không mắc bệnh; có thể nhận thức như thế không?

Do vậy mới nói rằng, có rất nhiều người họ không hiểu tình huống chân thực của khí công, họ cũng không biết đạo lý bên trong của nó, nên [họ] nói lung tung cả. Khi xảy đến vấn đề nào đấy, thì cái mũ nào [họ] cũng chụp lên khí công. Thời gian phổ cập khí công ngoài xã hội còn rất ngắn, có rất nhiều người còn ôm giữ quan điểm cố chấp, mãi vẫn không thừa nhận nó, [mà] phỉ báng nó, bài xích nó; cũng không hiểu nổi trạng thái tâm lý của họ là gì nữa, họ chán ghét khí công nhường ấy, cứ như [khí công] có liên quan gì đến họ vậy; hễ nói đến khí công [họ] liền bảo là duy tâm. Khí công là khoa học, là khoa học cao hơn. Chỉ có điều loại người này quan niệm quá cố chấp, tri thức quá hạn hẹp tạo thành như vậy.

Còn có một tình huống: trong giới tu luyện có điều gọi là 'khí công thái'; loại người này tinh thần mơ màng, nhưng không phải là họ bị tẩu hoả nhập ma, [mà] họ rất có lý trí. Trước hết tôi nói khí công thái là gì. Như mọi người đã biết, chúng ta luyện công chú trọng vấn đề căn cơ. Tất cả các quốc gia toàn thế giới đều có những người tín ngưỡng tôn giáo; còn ở Trung Quốc hàng mấy nghìn năm vừa qua đều có những người tín ngưỡng Phật giáo, Đạo giáo; tin rằng thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo. Nhưng cũng có người không tin. Đặc biệt trong thời kỳ "Đại cách mạng Văn Hoá" thì [điều ấy] bị phê phán, nói là mê tín. Một số người cho rằng những [điều gì] mà không thể lý giải, không được học trong sách [giáo khoa], khoa học hiện đại chưa phát triển đến bước ấy, hoặc là những sự vật chưa nhận thức được, họ liền gộp hết lại nói đó là mê tín. Mấy năm trước loại người này có rất nhiều, hiện nay tương đối ít. Bởi vì có một số hiện tượng [dẫu] chư vị không thừa nhận chúng, nhưng chúng đã phản ánh hết sức thiết thực đến không gian chúng ta. Chư vị [dẫu] không dám nhìn thẳng chúng, nhưng người ta hiện nay đã dám nói về chúng, người ta đã mắt thấy tai nghe và cũng hiểu ra một số tình huống liên quan đến luyện công.

Một số người cố chấp đến mức độ này: hễ chư vị nói [đến] khí công, thì từ trong tâm của họ phá ra cười chư vị, họ cho rằng chư vị làm mê tín, thật đáng cười ghê lắm. Hễ chư vị nói [đến] những hiện tượng trong khí công, họ liền cho rằng cá nhân chư vị quá ư ngu muội. Loại người này tuy cố chấp, nhưng căn cơ không nhất định là không tốt. Nếu căn cơ của cá nhân này tốt, [nếu] họ luyện công, thì thiên mục có thể khai mở đến tầng rất cao, còn xuất cả công năng nữa. Họ không tin khí công, nhưng không thể đảm bảo rằng bản thân họ sẽ không mắc bệnh. Họ nếu mắc bệnh thì đến bệnh viện để chữa; Tây Y chữa không khỏi thì đến Trung Y chữa; Trung Y chữa cũng không được, dùng phương thuốc gì cũng không khỏi, đến lúc này họ bèn nghĩ đến khí công. Họ đắn đo: 'Mình thử vận [may] này xem, xem xem khí công rốt cuộc có chữa được bệnh này của mình hay không'. Họ rất ngại ngùng đến [thử khí công]. Họ vừa [bắt đầu] luyện công, thì vì căn cơ rất tốt, nên lập tức luyện được rất tốt. Có thể được sư phụ nào đó để mắt đến, một sinh mệnh cao cấp ở không gian khác giúp đỡ họ đôi chút. Họ liền lập tức khai thiên mục, hoặc giả lọt vào trạng thái bán khai ngộ. Thiên mục khai mở đến tầng rất cao, [họ] lập tức nhìn thấy được một số tình huống chân thực trong vũ trụ, ngoài ra còn có công năng. Chư vị thử nói xem loại người này khi thấy được những tình huống như thế, thì đầu não của họ có chịu được không? Chư vị thử nghĩ coi tâm thái của họ sẽ như thế nào đây? Những điều xưa nay vẫn coi là mê tín, là tuyệt đối không thể, những điều mà hễ người khác nêu liền thấy tức cười [lắm], thì [nay] lại triển hiện hết sức thiết thực ngay trước mắt của họ, lại còn tiếp xúc đến được một cách hết sức thực tại. Như vậy đầu não của họ sẽ không chịu nhận nổi, áp lực tinh thần [lên] họ là quá lớn, và lời [họ] nói ra người khác không tiếp thu được; nhưng lô-gíc tư duy không hề loạn; mà chính là vì họ không dàn xếp [hợp lý] quan hệ hai bên. Họ phát hiện rằng, những việc nhân loại làm là sai, còn [việc] ở bên kia thường là đúng. Chiểu theo bên kia mà làm, thì người ta nói là họ sai. Người ta không lý giải được, nên nói rằng cá nhân ấy luyện công tẩu hoả nhập ma.

Kỳ thực họ không bị tẩu hoả nhập ma, hầu hết người chúng ta luyện công hoàn toàn sẽ không xuất hiện hiện tượng này; chỉ những ai đặc biệt cố chấp mới xuất hiện khí công thái này. Những người chúng ta ngồi [đây] có nhiều [người] đã khai thiên mục, có khá nhiều. Họ thực sự nhìn thấy những điều tại không gian khác; họ không thấy kỳ lạ gì lắm, [mà] thấy rất tốt, đầu não cũng không thấy kích động gì, cũng không xuất hiện khí công thái như thế. Người nào sau khi xuất hiện khí công thái, thì rất mực có lý trí, lời nói ra rất mực có tính triết lý, hơn nữa tính lô-gíc cũng rất tốt. Chỉ là những gì họ nói thì người thường không có tin. Có lúc họ nói với chư vị rằng, họ gặp một người đã quá cố nào đó, [và] người ấy bảo họ hãy làm điều gì đấy. Người thường hỏi có tin được không? Sau này họ hiểu ra, rằng những điều ấy nên cất ở trong tâm của bản thân mình, không nên nói ra; thu xếp ổn thoả quan hệ hai bên là tốt rồi. Thông thường những người này đều có tồn tại công năng; [và] đó cũng không phải tẩu hoả nhập ma.

Còn một tình huống nữa gọi là "chân phong"; tình huống này cực hiếm thấy. "Chân phong" mà chúng tôi nói đến không phải là 'điên thật', không phải có ý nói như thế, mà có ý là 'tu chân'. Vậy chân phong là gì? Tôi nói rằng trong những người tu luyện, thì mười vạn người mới có một người như thế, cực kỳ hiếm thấy. Do đó nó không có tính phổ biến, cũng không tạo nên ảnh hưởng xã hội.

"Chân phong" thông thường có một điều kiện tiên quyết, đó là vị này có căn cơ hết sức tốt, còn phải là rất nhiều tuổi. Tuổi nhiều quá, mong muốn tu luyện là [chuyện] đã muộn. [Người] có căn cơ cực kỳ tốt thường là [người] đến đây với sứ mệnh [nào đó], là [người] từ cao tầng đến. Xã hội này của người thường ai đến cũng thấy ghê sợ, đầu não tẩy rồi thì không còn nhận ra được ai nữa. Vào đến hoàn cảnh xã hội người thường, thì những can nhiễu của người ta đối với vị ấy, sẽ làm vị ấy [coi] trọng danh, [coi] trọng lợi, cuối cùng rớt xuống, vĩnh viễn không biết ngày nào cất đầu lên được nữa; do vậy không ai dám đến đây, ai cũng ghê sợ. [Nhưng cũng] có loại người đến; sau khi đến đây, vị này ở nơi người thường quả thực hư hỏng, [và] thật sự phải rớt xuống, suốt đời đã làm không ít chuyện xấu. Khi con người ta sống mà tranh giành lợi ích cá nhân thì sẽ làm rất nhiều điều xấu, sẽ mắc nợ rất nhiều thứ. Sư phụ của vị này thấy rằng cá nhân ấy sẽ phải rớt xuống. Tuy nhiên vị ấy là [người] có quả vị, không thể để vị ấy rớt xuống tuỳ tiện như thế được! Làm thế nào đây? Lo lắm, không có cách nào khác để bảo vị này tu luyện, mà lúc ấy biết tìm sư phụ ở đâu? Vị ấy phải quay lại từ đầu, phải vãng hồi tu. Nhưng nói chuyện sao dễ vậy? Tuổi đã nhiều rồi, tu cũng là [chuyện] đã muộn, mà biết đến đâu để tìm công pháp tính mệnh song tu đây?

Cần phải là người có căn cơ tốt phi thường, và là ở tình huống cực kỳ đặc thù này, thì mới dùng đến phương pháp làm cho vị ấy điên. Nghĩa là, [chỉ khi] tuyệt đối không còn hy vọng, ở tình huống bản thân không thể tự quay trở về, thì mới viện đến phương pháp này, tức là làm cho vị ấy điên, làm cho một chỗ nào đó của đại não vị ấy phải bế tắc. Ví như con người chúng ta sợ lạnh, sợ bẩn; vậy làm cho vị ấy có bộ phận sợ lạnh của đại não bị bế tắc, làm cho vị ấy có bộ phận sợ bẩn cũng bế tắc lại. Sau khi làm cho vị này bế tắc một số bộ phận rồi, thì cái tinh thần của cá nhân ấy xuất hiện vấn đề, đúng là điên điên rồ rồ. Tuy nhiên loại người này thông thường không làm điều xấu, không [nhục] mạ người cũng không đánh người, thường hay làm điều tốt. Nhưng vị ấy đối với bản thân lại rất tàn khốc. Bởi vì vị này không biết lạnh, do đó mùa đông vị ấy chân không chạy trên tuyết, mặc phong phanh, rồi bị cóng đến mức chân nứt nẻ rỉ máu; bởi vì vị này không biết bẩn, vị ấy dám ăn cả phân, vị ấy dám uống cả nước tiểu. Quá khứ tôi có biết một người như thế, ngay cả cục phân ngựa đông cứng ngắc cả lại, ông ấy cũng gặm như thể là thơm [ngon] lắm; vị ấy có thể chịu những thứ khổ mà người thường ở trạng thái tỉnh táo không thể chịu được. Chư vị nghĩ xem vị ấy bị điên rồi gặp bao nhiêu tội khổ rất lớn; đương nhiên họ thường kèm theo có công năng; thường là các cụ bà. Trước đây [có một] cụ bà có chân bó buộc nhỏ lại, vậy mà tường cao hơn hai mét, bà nhảy một cái là qua ngay. Người nhà thấy bà bị điên rồi và hay chạy ra ngoài, liền khoá bà lại trong nhà. [Bà] đợi gia nhân đi vắng rồi chỉ [tay] một cái là khoá mở tung ngay, rồi lại đi ra. [Người nhà] bèn dùng dây xích sắt trói lại; [bà] đợi gia nhân đi vắng rồi rũ một cái là xích sắt cũng mở. Quản thế nào cũng không quản được bà; như thế bà chịu rất nhiều khổ. Vì bà chịu khổ đến mức quá ghê gớm, nên được cũng quá mạnh mẽ; bà hoàn trả cực nhanh những gì không tốt đã mắc nợ. Rốt cuộc là không quá ba năm, thông thường là một hoặc hai năm, là vượt qua; cái khổ phải chịu ấy rất to lớn. Khi đã vượt qua rồi, [bà] liền hiểu ra ngay, bởi vì bà đã được tính là tu luyện xong, do đó lập tức khai công, các chủng thần thông đều xuất lai. Điều này cực kỳ hiếm thấy, cực kỳ hiếm thấy; trong lịch sử cũng có [những người] như thế; [còn đối với] người căn cơ bình thường thì không thể để chư vị như thế được. Như mọi người đã biết có những vị tăng điên, đạo [sỹ] điên, và trong lịch sử thực sự có [tồn tại], có ghi chép. Những [điển cố] như 'phong tăng tảo Tần', các đạo sỹ điên; những điển cố như thế có rất nhiều.

[Về] tẩu hoả nhập ma, chúng tôi nói khẳng định rằng không tồn tại. Thử nói ai có thể tẩu hoả, nếu thật sự được như thế, tôi nói rằng cá nhân ấy thật xuất sắc. Có thể há miệng phun lửa, [hoặc] có thể duỗi tay phóng lửa, [hoặc] chỉ tay một cái liền châm điếu thuốc, thì tôi nói đó là công năng!

Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top

Tags: #wfdwffw