Không Tên Phần 5
TÍNH TƯƠNG ĐỐI TUYỆT ĐỐI
Nhiều sai lầm triết học nảy sinh từ
việc nhìn nhận những chân lý tương đối
như thể tuyệt đối. Thomas Jefferson, ảnh
hưởng từ nhà triết học Anh John Locke,
tuyên bố rằng quyền sống, quyền tự do và
quyền mưu cầu hạnh phúc là "hiển
nhiên", có lẽ vì ông nghĩ chúng là những
giá trị phổ quát và tuyệt đối. Nhưng điều
này rõ ràng không phải là hiển nhiên đến
mức như thế đối với một người từ nền
văn hóa khác - ví dụ, một tín đồ Hồi giáo
cực đoan coi mưu cầu hạnh phúc chính
là bản tính của những kẻ dị giáo.
Cũng có thể có sai lầm ngược lại.
Chúng ta có thể quy tính tương đối cho
một thứ tuyệt đối.
Người gác trên một chiếc tàu chiến
phát hiện ra có ánh sáng phía trước mũi
tàu. Viên thuyền trưởng bảo anh ta đánh
tín hiệu cho tàu kia. "Yêu cầu anh đổi
hướng hai mươi độ ngay lập tức!"
Câu trả lời đáp lại, "Yêu cầu anh đổi
hướng hai mươi độ ngay lập tức!"
Viên thuyền trưởng nổi cáu, ông ta
đánh tín hiệu, "Tôi là thuyền trưởng.
Chúng ta sắp đâm vào nhau. Hãy đổi
hướng hai mươi độ ngay tức khắc!"
Câu trả lời đáp lại, "Tôi là thủy thủ
binh nhì, tôi khẩn thiết yêu cầu ông thay
đổi hướng tàu của ông đi hai mươi độ."
Lúc này viên thuyền trưởng giận điên
người. Ông ta đánh tín hiệu, "Tôi là một
tàu chiến!"
Câu trả lời nhận được, "Tôi là một
hải đăng."
Lần tới hãy nghiền ngẫm các ý tưởng
sâu sắc này về tính tương đối, khi bạn
gọi món ăn Trung Hoa, hay nói đúng hơn
là thứ mà người Trung Hoa gọi là món
ăn.
oOo
DIMITRI: Vậy là, Tasso ạ, cậu có vẻ
là một trong những gã cho rằng không có
chân lý tuyệt đối, vì mọi chân lý đều
tương đối.
TASSO: Cậu nói đúng.
DIMITRI: Cậu chắc chắn về điều đó
chứ?
TASSO: Tuyệt đối.
X
SIÊU TRIẾT HỌC
Triết học của Triết học. Đừng nhầm
với Triết học về Triết học của
Triết học.
DIMITRI: Giờ thì tôi mói thật hiểu rõ
món này, Tasso ạ.
TASSO: Hiểu rõ cái gì?
DIMITRI: Triết học, tất nhiên rồi!
TASSO: Cậu gọi đây là triết học à?
oOo
Tiếp đầu ngữ
meta
(siêu), về cơ bản
có nghĩa là "vượt ra khỏi và bao gồm tất
cả những cái bên dưới", bỗng nhiên xuất
hiện khắp nơi trong diễn ngôn triết học,
như trong siêu ngôn ngữ (metalanguage),
một ngôn ngữ có thể dùng để mô tả ngôn
ngữ. Hoặc trong siêu đạo đức, nó tìm
hiểu các nguyên tắc đạo đức của chúng ta
từ đâu mà ra, và chúng có ý nghĩa gì.
Bởi vậy chỉ có
siêu
thời gian là cái duy
nhất có trước khi xuất hiện siêu triết học.
Siêu triết học vật lộn với câu hỏi cấp
bách, "Triết học là gì?" Có lẽ bạn nghĩ
các nhà triết học hẳn phải biết câu trả lời
cho câu hỏi rằng họ thực sự đang làm gì.
Điều đó khiến bạn băn khoăn về lý do vì
sao họ biết họ muốn trở thành nhà triết
học lúc ban đầu. Chúng ta không bao giờ
nghe thấy người thợ làm tóc hỏi "Làm
tóc là gì?" Nếu người thợ làm tóc bây
giờ không biết việc làm tóc là thế nào thì
anh ta đã chọn nhầm nghề. Chắc chắn
chúng ta không bao giờ muốn để anh ta
bới tóc cho các bà vợ của mình.
Tuy nhiên, các nhà triết học hiện đại
vẫn liên tục định nghĩa lại triết học. Ở
thế kỷ hai mươi, Rudolf Carnap và các
nhà thực chứng logic đã loại trừ khỏi
triết học một mảng lớn khi tuyên bố siêu
hình học vô nghĩa. Họ nói nhiệm vụ duy
nhất của triết học là phân tích các mệnh
đề khoa học.
(Rudolf Carnap (1891 -1970),
nhà triết học người Mỹ gốc Đức, ủng hộ thuyết
thực chứng logic.)
Người cùng thời với Carnap, Ludwig
Wittgenstein, cha đẻ của triết học ngôn
ngữ thông thường, thậm chí còn đi xa
hơn. Ông cho rằng cuốn sách lớn đầu tiên
của mình đã khép lại lịch sử triết học,
bởi vì ông đã chứng minh rằng tất cả
những luận đề triết học là vô nghĩa,
kể cả
của chính ông.
Ông tin rằng ông đã khép
lại quyển sách về triết học đến mức
chuyển sang làm giáo viên dạy tiểu học.
Ít năm sau, ông lại mở cuốn sách triết
học với quan niệm mới về mục đích của
triết học - chỉ là trị liệu, không hơn
không kém! Bằng tuyên bố ấy, Ludwig
ngụ ý rẳng nếu chúng ta biết cách đơn
giản hóa thứ ngôn ngữ rắc rối của mình,
thì chúng ta tự chữa trị được nỗi buồn
chán do những vấn đề triết học vô nghĩa
gây ra.
Ngày nay, "các nhà logic tình thái" -
các nhà logic học phân biệt giữa những
mệnh đề
có thể
đúng và những mệnh đề
tất yếu
đúng - băn khoăn không biết các
mệnh đề của họ rơi vào loại phạm trù
nào. Còn với chúng ta thì tất cả có lẽ đều
như siêu mệnh đề cả.
Chính trong truyền thống siêu triết học
này chúng ta bắt gặp Seamus.
Seamus sắp sửa có cuộc hò hẹn đầu
tiên, bèn xin lời khuyên từ anh trai, một
tay sát gái. "Chỉ em cách nói chuyện với
con gái thế nào đi."
"Đây là bí quyết," ông anh nói. "Các
cô gái Ireland thích nói về ba thứ: thức
ăn, gia đình và triết học. Nếu em hỏi một
cô gái rằng cô ta thích ăn gì, có nghĩa là
em tỏ ra quan tâm đến cô ấy. Nếu em hỏi
cô ta về gia đình, thì chứng tỏ em là
người có ý định nghiêm túc. Nếu bàn về
triết học, chứng tỏ là em đánh giá cao trí
thông minh của cô ta."
"Được! Cám ơn anh," Seamus nói.
"Đồ ăn, gia đình, triết học, em chơi
được."
Đêm ấy, Seamus gặp cô gái trẻ, cậu ta
buột miệng, "Em có thích ăn bắp cải
không?"
"Ồ, không," cô gái bối rối nói.
"Em có anh trai không?" Seamus hỏi.
"Không."
"Vậy ư? Thế nếu em có anh trai, thì
liệu anh ấy có thích ăn bắp cải không?"
Đó là triết học đấy.
oOo
Nhà triết học đương thời của chúng ta
là William Vallicella (
Nhà triết học Mỹ,
sinh năm 1950
) viết, "Siêu triết học là triết
học về triết học. Bản thân nó là một
ngành của triết học, không giống như triết
học về khoa học không phải là một ngành
của khoa học, hay triết học về tôn giáo
không phải là một ngành của tôn giáo."
Chính những tuyên bố như thế này
khiến cho Vallicella thành một người
được săn đón trong những bữa tiệc đồng
tính.
Luận đề nền tảng sâu xa của cuốn sách
này lại một lần nữa đúng. Nếu có siêu
triết học, ắt phải có siêu truyện cười.
Một người bán hàng lưu động đang
chạy xe ở vùng nông thôn thì xe bị hỏng.
Anh ta đi bộ nhiều dặm tới một ngôi nhà
trang trại và hỏi xin chủ nhà cho ngủ nhờ
qua đêm. "Được," chủ nhà nói. "Vợ tôi
chết đã nhiều năm, hai đứa con gái tôi
đứa hăm mốt đứa hăm ba, nhưng hai đứa
đi học đại học cả, còn tôi thì ở nhà một
mình, nên tôi có nhiều phòng cho anh."
Nghe vậy, người bán hàng quay đầu
và đi bộ ngược trở lại đường cao tốc.
Người nông dân gọi với theo, "Anh
không nghe tôi nói gì à? Tôi có nhiều
phòng."
"Tôi có nghe, nhưng tôi nghĩ tôi đã
lạc vào nhầm truyện cười rồi."
Và, tất nhiên, một siêu truyện cười
cho bạn:
Một người mù, một người đồng tính
nữ và một con ếch bước vào một quán
bar.
Người chủ quán nhìn họ và nói, "Cái
gì đây-đùa nhau à?"
Còn cuối cùng, một siêu truyện cười
động chạm chính trị. Cũng như siêu triết
học cần đến các siêu triết gia để người ta
có một số hiểu biết thế nào là triết học
nói chung, siêu truyện cười cần những
hiểu biết thế nào là truyện cười nói
chung. Trong trường hợp này, là một
truyện cười Ba Lan.
Một gã đàn ông bước vào một quán
rượu đông người và tuyên bố gã có một
truyện cười Ba Lan cực sốc để kể.
Nhưng gã chưa kịp kể, ông chủ quán bar
đã nói, "Từ từ nào, anh bạn. Tôi là người
Ba Lan đấy."
Và gã kia nói, "ô kê, tôi sẽ kể rất, rất
chậm thôi."
oOo
DIMITRI: Vậy là chúng ta đã bỏ cả
buổi chiều để thảo luận về triết học và
cậu thậm chí không biết triết học là gì?
TASSO: Vậy tại sao cậu còn hỏi?
TỔNG QUAN: MỘT KẾT LUẬN
Xem xét lại một cách cô đọng và
toàn diện những gì chúng ta đã lĩnh hội
được hôm nay.
Tasso cầm micro tại Câu lạc bộ Hài
Acropolis.
TASSO: Nhưng, hoàn toàn nghiêm
túc, thưa quý vị... Quý vị đã nghe nhà
kinh nghiệm chủ nghĩa người Anh nói với
vợ rằng nàng chẳng là cái gì khác ngoài
một mớ dữ kiện cảm giác chưa?
"Ồ thế hả?" nàng nói. "Anh nghĩ cảm
giác sẽ như thế nào khi tối tối lên giường
với một người đàn ông không có
ding an
sich
(vật tự thân)?"
Tôi không đùa đâu, tôi đã có vợ mười
năm trước khi nhận ra rằng vợ tôi chỉ là
sự tồn tại và không có bản thể. Ý tôi
muốn nói đến sự tồn tại (esse) thực sự
được tri giác
(was percipi) của cô ấy.
Có chuyện gì thế, quý vị? Ở đây im
ắng quá, quý vị có thể nghe thấy tiếng
cây đổ trong rừng... ngay cả khi quý vị
không ở đó! Schopenhauer đã nói sẽ có
những đêm như đêm nay.
Bọn trẻ ngày nay hả? Hôm trước,
thằng con tôi hỏi mượn chìa khóa xe của
tôi, tôi bảo, "Con ạ, trong thế giới tốt
nhất trong tất cả các thế giới có thể này,
con nên có xe riêng của con."
Nhưng nó nói, "Nhưng, ba ơi, đây đâu
phải thế giới tốt nhất trong tất cả các thế
giới có thể."
Thế là tôi bảo, "Vậy thì về mà sống
với mẹ mày!
Nhân tiện, có một chuyện buồn cười
xảy ra trên đường tôi đến đây tối nay:
Tôi đã bước vào cùng một dòng sông...
hai lần.
Còn nữa, một hôm Plato và con thú
mỏ vịt bước vào một quán bar. Gã đứng
quầy ném cho triết gia cái nhìn chế nhạo,
còn Plato đáp, "Tôi biết nói gì đây? Ở
trong hang trông nó xinh đẹp hơn."
DIMITRI (từ trong khán giả): Lôi hắn
xuống đi!
oOo
THI CUỐI KHÓA
Sao nhỉ? Các bạn chưa lường đến
việc này? Các bạn nghĩ tất cả chỉ để đùa
chơi?
Vậy thì, hãy nghĩ lại đi, các bạn.
Không có cái gì kết thúc nếu bạn chưa đi
đến đích.
Tin vui là nó chỉ chiếm 35% điểm của
các bạn. Tin buồn là nó chiếm 85% lòng
tự tôn nói chung của các bạn.
Nhưng tin vui nhất là nếu bạn gửi bài
thi của bạn đến website của chúng tôi,
http:// platoandaplatypus.com/ và bạn
nhận được một bằng danh dự cao nhất
cho bài viết của bạn, chúng tôi sẽ gửi
đến bạn phần thưởng là một chai retsina
(vang Hy Lạp) có
chữ ký của các tác giả
hoặc
một cốc
nhỏ chứa độc cần do
người thắng cuộc tự chọn.
Độc cần: Chất độc có thể đã giết chết nhà
triết học Socrates.
Đề thi như sau:
Xem ba truyện cười sau. Dùng không
quá ba mươi lăm từ cho mỗi câu chuyện,
để mô tả quan điểm triết học hay trường
phái tư tưởng mà chúng minh họa, và mô
tả cách chúng minh họa. Gian lận tùy ý.
TRUYỆN CƯỜI SỐ 1: [XIN LỖI
CÁC BẠN SARDAR CỦA CHÚNG
TÔI]
Một gã Sardar đi du lịch bằng tàu
hỏa. Gã cảm thấy buồn ngủ, nên đưa cho
người ngồi đối diện hai mươi rupi để
đánh thức gã dậy khi tàu đến ga của gã.
Ngẫu nhiên anh chàng kia lại là một thợ
cạo, và anh ta nghĩ với số tiền hai mươi
rupi gã kia đáng được phục vụ nhiều
hơn, nên khi gã Sardar đang ngủ, anh ta
lặng lẽ cạo râu cho gã.
Tàu đến ga, người thợ cạo đánh thức
gã Sardar dậy, gã xuống tàu và về nhà.
Vừa bước vào toilet để rửa mặt, gã nhìn
vào gương và gào lên.
"Có chuyện gì thế?" vợ gã hét lên hỏi.
Gã Sardar trả lời, "Thằng lừa đảo
trên tàu lấy mất của tôi hai mươi rupi rồi
đi đánh thức một người khác!"
TRUYỆN CƯỜI SỐ 2:
Ba gã cùng chết trong một tai nạn và
lên thiên đường. Khi họ đến nơi, Thánh
Peter nói, "ở đây, trên thiên đường này
chỉ có một quy tắc duy nhất: không đuợc
giẫm vào lũ vịt."
Thế rồi họ đi vào thiên đường, quả
tình, đâu đâu cũng thấy toàn vịt là vịt.
Hầu như không thể đi một bước mà
không giẫm phải một con vịt. Mặc dù họ
đã hết sức cố tránh giẫm vào chúng, gã
đầu tiên bất ngờ đạp trúng một con.
Thánh Peter lập tức hiện ra cùng với
một người đàn bà xấu xí nhất mà gã kia
từng nhìn thấy. Thánh Peter xích họ lại
với nhau và bảo, "Hình phạt của ngươi
vì đã giẫm lên vịt là sẽ vĩnh viễn bị xích
với người đàn bà xấu xí này!"
Hôm sau, gã thứ hai lại vô tình giẫm
trúng một con vịt, Thánh Peter lại hiện
ra, và cùng với ngài là một người đàn bà
cực kỳ xấu xí khác. Ngài xích họ lại với
nhau với cùng hình phạt: họ bị buộc với
nhau vĩnh viễn.
Gã thứ ba đã chứng kiến tất cả cảnh
ấy và không muốn bị xích vĩnh viễn vào
một người đàn bà xấu, nên rất, rất cẩn
thận khi bước đi. Gã đã cố đi được một
tháng mà không giẫm phải con vịt nào,
nhưng một hôm Thánh Peter đến trước gã
với một người đàn bà đẹp lộng lẫy mà gã
chưa từng trông thấy, một cô gái tóc vàng
hoe cao ráo, đẫy đà, và sexy. Thánh
Peter xích họ lại với nhau mà không nói
một lời. Gã trai băn khoăn: "Tôi tự hỏi
mình đã làm gì để xứng đáng được xích
cùng với nàng đến vĩnh cửu?"
Người phụ nữ đáp: "Tôi không biết
anh, nhưng tôi đã giẫm phải một con vịt."
TRUYỆN CƯỜI SỐ 3:
Một người đàn ông đang lái xe xuôi
theo một con đường.
Một phụ nữ lái xe chạy ngược lên
cũng trên con đường đó.
Họ đi qua nhau.
Người phụ nữ hét lên qua cửa xe,
"Lợn!"
Người đàn ông hét lại, "Chó cái!"
Người đàn ông quay đầu xe ở khúc
cua kế tiếp, đụng phải một con lợn to
tướng nằm ngay giữa đường, và chết.
CHÚ GIẢI THUẬT NGỮ
Bản chất luận (essentialism)
: Quan
điểm triết học cho rằng mỗi đối tượng
đều có những bản chất, hay các đặc tính
thuộc bản
chất, có thể phân biệt với các
đặc tính ngẫu nhiên, không bản chất.
Chẳng hạn, đặc tính bản chất của một
người đàn ông có vợ là anh ta có vợ (có
khi là người vợ giống đực). Nhưng sự
hiện diện của chiếc nhẫn cưới trên ngón
tay người đàn ông có vợ chỉ là đặc tính
ngẫu nhiên. Anh ta có thể vẫn là người
có vợ mà không đeo nhẫn cưới, mặc dầu
vợ anh ta có thể cãi vã về điều này.
Bản thể (Noumenal)
: liên quan đến
sự vật tự thân, đối lập với những gì sự
vật thể hiện trước cảm giác của chúng ta.
Xem
vật tự thân
... nhưng một lần nữa,
bạn không thể, đúng không? Trái nghĩa:
Hiện tượng
.
Chủ nghĩa duy lý (rationalism)
:
Quan điểm cho rằng lý trí là con đường
chính - hay duy nhất - dẫn đến tri thức.
Nó thường tương phản với chủ nghĩa
kinh nghiệm, quan điểm cho rằng kinh
nghiệm tri giác là con đường chính dẫn
đến tri thức. Theo truyền thống, các nhà
duy lý thích lý trí hơn bởi vì cảm giác
vốn mang tiếng không đáng tin cậy, và vì
vậy tri thức dựa trên chúng là không chắc
chắn. Họ thích sự
chắc chắn
tột độ của
những kết luận đạt được nhờ lý trí, như
"Đây là thế giới tốt nhất trong những thế
giới có thể có." Bạn cần phải đến đó...
Chủ nghĩa hiện sinh
(existentialism)
: Trường phái triết học
tìm cách mô tả thực trạng sự tồn tại của
cá nhân con người chúng ta, thay vì
những phẩm chất người phổ quát, trừu
tượng. Theo khẳng định của Sartre, "tồn
tại có trước bản chất". Điều đó có nghĩa
là đời sống thực của chúng ta là điều cốt
yếu nhất trong chúng ta, và chúng ta tự
tạo ra bản chất của chính mình. Tư tưởng
này tác động sâu sắc đến đạo đức học
hiện sinh, nó cổ vũ chúng ta luôn luôn
sống ''đích thực," ý thức đầy đủ về việc
chúng ta có thể chết và không lầm tưởng
về những lựa chọn của chúng ta - tóm lại,
những mối bận tâm đại loại là thích hợp
nhất để nghiền ngẫm bên tách cà phê kèm
điếu thuốc lá trong một tiệm cà phê
Paris, hơn là, chẳng hạn, bên băng
chuyền lắp ráp xe hơi trong một nhà máy
ở Detroit.
Chủ nghĩa kinh nghiệm
(empiricism)
: Quan điểm cho rằng kinh
nghiệm, đặc biệt là kinh nghiệm cảm
giác, là con đường chủ yếu - hay duy
nhất - dẫn đến tri thức. "Làm sao anh
biết
có con kỳ lân?" "Bởi vì tôi vừa
trông thấy một con trong vườn!" Giờ thì
chúng ta gọi đấy là chủ nghía kinh
nghiệm cực đoan. Trái nghĩa với
chủ
nghĩa duy lý
.
Chủ nghĩa thực dụng (pragmatism)
:
Một trường phái triết học nhấn mạnh đến
mối liên hệ giữa lý thuyết và thực tế.
Chẳng hạn, William James định nghĩa
một lý thuyết đúng là một lý thuyết có
ích, hay là một lý thuyết sinh ra nhiều
hiểu biết mới. Một số người cho định
nghĩa của James là hữu ích, một số khác
thì không cho là vậy.
Chủ nghĩa vị lợi (Utilitarianism)
:
Triết lý đạo đức cho rằng hành động
đúng là hành động mang lại nhiều điều
tốt lành cho những người chịu tác động
của nó hơn bất kỳ hành động nào khác.
Lợi ích có hạn của triết lý đạo đức này
trở nên rõ ràng khi bạn cố gắng làm vừa
lòng cả mẹ đẻ và mẹ vợ trong ngày Lễ
Tạ Ơn.
Công án (koan)
: trong Thiền Phật
giáo câu đố có mục đích khiến chúng ta
bị sốc đến mức đốn ngộ. 'Tiếng vỗ của
một bàn tay là gì?" như thể một trò lừa.
"Tiếng vỗ của hai bàn tay là gì?" thì
không lừa nữa. Xem thêm
Đốn ngộ
(satori).
Đạo nghĩa học (deontologicai
ethics)
: Môn đạo đức học đặt nền tảng
trên lý thuyết cho rằng các nghĩa vụ đạo
đức dựa trên bổn phận (lấy từ chữ
deon
của tiếng Hy Lạp) hoàn toàn không phụ
thuộc vào hậu quả thực tế của hành động.
Chẳng hạn, một lãnh tụ chính trị tin rằng
bổn phận cao cả của ông ta là bảo vệ
cộng đồng khỏi sự tấn công của bọn
khủng bố có thể biện luận rằng để thực
hiện bổn phận ấy ông ta phải cho đặt máy
nghe trộm ở phòng ngủ của mọi người,
bất kể hậu quả của việc này đối với đời
sống tình dục của bạn.
Ding an sich
: Vật-tự-thân, đối lập với
biểu hiện cảm quan của một sự vật. Ý
niệm này cho rằng một sự vật bất kỳ hàm
chứa trong nó nhiều hơn tổng số những
dữ liệu cảm quan của nó (nghĩa là trông,
nghe, ngửi, sờ, nếm nó như thế nào), và
rằng có vật-tự-thân tồn tại đằng sau tất cả
nhũng dữ liệu cảm quan, và nó độc lập
với các dữ liệu ấy. Một số nhà triết học
cho rằng khái niệm vật-tự-thân thuộc
cùng một phạm trù như con kỳ lân và ông
già Noel.
Đốn ngộ (Satori)
: Trong Thiền tông
Phật giáo, một kinh nghiệm giác ngộ
trong đó chúng ta đột nhiên thấy rõ chân
tính của chúng ta và thế giới. Trích dẫn
Red Hot Chili Peppers: "Nếu anh phải
hỏi, nghĩa là anh không biết."
Ban nhạc rock của Mỹ, thành lập năm 1983.
Hậu nghiệm (a posteriori)
: Biết nhờ
kinh nghiệm, biết qua trải nghiệm. Để
biết một loại bia nào đó uống ngon mà
không gây đầy hơi, chúng ta phải từng có
trải nghiệm (uống) ít nhất một loại bia
ngon và không bị đầy hơi. Trái nghĩa với
tiên nghiệm
.
Hiện tượng (phenomenal)
: liên quan
đến kinh nghiệm cảm giác của chúng ta
về sự vật. "Đó lả chiếc mũ đỏ" gắn với
kinh nghiệm cảm giác của chúng ta về
một vật thể có màu đỏ và có hình dạng
chiếc mũ. Nhưng câu "Ôi! Chiếc mũ màu
đỏ của cô đúng là một hiện tượng" thì có
thể không phải vậy. Trái nghĩa với
Bản
thể
.
Hiện tượng học (phenomenology)
:
Phương pháp nghiên cứu cố gắng mô tả
thực tại như nó được tiếp nhận và hiểu
bởi ý thức con người, ngược lại với,
chẳng hạn, mô tả có tính khoa học. Ví dụ,
hiện tượng học mô tả hiện tượng "thời
gian sống" hay thời gian như chúng ta
trải nghiệm nó, so với "thời gian đồng
hồ." Trong phim
Manhattan
khi Woody
Allen nói, "chúng ta hầu như chẳng mấy
khi làm tình, chỉ có hai lần một tuần" thì
anh ta nói đến "thòi gian sống"; cũng như
khi người vợ trong phim của anh tuyên
bố, "Anh ấy
luôn luôn
muốn làm tình -
gần như hai lần một tuần!"
Lập luận hồi quy vô tận (infinite
regress argument)
: Sự chứng minh
không giải thích thỏa mãn được hiện
tượng vì cần đến một chuỗi bất tận những
"giải thích" tương tự nhau. Chẳng hạn,
việc giải thích sự tồn tại của thế giới
bằng cách thừa nhận có một "Đấng Sáng
thế" làm phát sinh câu hỏi vậy phải giải
thích được sự tồn tại của Đấng Sáng tạo
đó như thế nào. Nếu thừa nhận có một
Đấng Sáng tạo khác, sẽ có câu hỏi: "Ai
sáng tạo ra Đấng Sáng tạo đó?" Và sẽ cứ
như thế mãi, đến bất tận; hoặc đến lúc
phát nôn, tùy cái gì xảy đến trước.
Logic diễn dịch (deductive logic)
:
Lập luận từ một tập hợp các tiền đề mà
từ đó có thể suy ra kết luận một cách hợp
lý. Dạng cơ bản nhất của logic diễn dịch
là
tam đoạn luận
, ví dụ "Mọi tác giả hài
đều là triết gia; Larry, Moe, Curly là
những tác gia hài; vậy Larry, Moe, Curly
là những triết gia." Trái nghĩa với
logic
quy nạp
.
Logic quy nạp (inductive logic)
: Lập
luận đi từ những trường họp riêng đến
một kết luận chung có hàm ý rộng hơn
những gì có thể suy ra một cách hợp lý từ
những trường họp riêng ấy. Chẳng hạn,
khi quan sát thấy mặt trời mọc hôm nay,
hôm qua và mọi ngày từ hôm qua trở về
trước, chúng ta đi đến kết luận rằng mặt
trời đã luôn mọc và sẽ tiếp tục mọc lên
hằng ngày, ngay cả khi kết luận này không
thể suy ra được một cách hợp lý từ
những trường hợp đã biết. Ghi chú: ví dụ
này vô tác dụng với các độc giả của
chúng ta ở Bắc Cực. Trái nghĩa với
logic
diễn dịch
.
Mệnh đề phân tích (analytic
statement)
: Mệnh đề đúng theo định
nghĩa. Chẳng hạn "Mọi con vịt đều là
chim" là mệnh đề phân tích vì khi nói
"vịt" chúng ta ngụ ý đến một loài thuộc
họ chim. Mặt khác, "Mọi con chim đều
là vịt" không phải là mệnh đề phân tích
vì tính chất vịt không phải là yếu tố bắt
buộc trong khái niệm "chim". Hiển nhiên,
"Mọi con vịt đều là vịt" là mệnh đề phân
tích, cũng như "Mọi con chim đều là
chim". Thật phấn khởi khi thấy triết học
có khả năng giúp ích thiết thực cho các
môn khác, chẳng hạn điểu cầm học. Trái
nghĩa với
mệnh đề tổng hợp
.
Mệnh đề tổng hợp (synthetic
statement)
: Một mệnh đề không đúng
theo định nghĩa. Chẳng hạn "Mẹ anh đi
đôi giày quân dụng". Nó thêm vào một
thông tin vốn không có trong định nghĩa
"mẹ anh". Điều này cũng đúng với mệnh
đề hệ quả "Mã Hữu Hữu đi đôi giày
quân dụng". Trái nghĩa với
mệnh đề
phân tích
.
Mệnh lệnh tuyệt đối tối cao
(supreme categorical imperative)
:
Nguyên tắc đạo đức quan trọng nhất của
Immanuel Kant, rằng người ta chỉ nên
hành động theo những châm ngôn đạo
đức nào có thể nhất quán áp dụng như
một quy luật phổ biến. Nó khá giống quy
tắc vàng với đôi chút biến tướng, nhưng
không hoàn toàn như vậy.
Nghịch lý (Paradox)
: a) một đoạn
lập luận sử dụng logic có vẻ chặt chẽ và
những tiền đề có vẻ đúng, nhưng vẫn dẫn
đến mâu thuẫn; b) hai bác sĩ bất kỳ.
Post hoc ergo propter hoc:
Một
ngụy biện logic, có nghĩa nguyên văn là
"xảy ra sau cái này, do đó, do cái này
gây ra"; ngụy biện rằng vì A xảy ra trước
B, do đó A phải là nguyên nhân của B.
Cuốn sách
Freakonomics
(Kinh tế học
hài hước)
dẫn ra cho chúng ta vô số
những ngụy biện như thế, đặc biệt trong
lĩnh vực nuôi dạy con cái. Một ông bố
nói "Thằng bé nhà tôi thông minh bởi vì
tôi chơi Mozart cho nó nghe khi nó còn
trong bụng mẹ," trong khi hai sự việc này
thực sự chẳng có mối liên hệ nào. May
ra thằng bé thông minh vì nó có bố mẹ đã
nghe Mozart (tức là họ có giáo dục và do
đó có thể cũng thông minh).
Quy luật phi mâu thuẫn (Law of
Noncontradiction)
: Quy tắc logic của
Aristotle, rằng một vật không thể đồng
thời vừa là A vừa là không A. Sẽ là tự
mâu thuẫn khi nói "Quần của anh đang
cháy, với quần của anh không đang
cháy." Bất chấp luật này của Aristotle,
trong hoàn cảnh này cứ dùng vòi mà tưới
nưóc cho mạnh cũng không hại gì.
Telos
: Mục đích nội tại. Mục đích nội
tại của một quả sồi là trở thành một cây
sồi. Tương tự, mục đích nội lại của một
nghiên cứu sinh triết học là được phong
hàm giáo sư ở Harvard. Đó là mục đích
nội tại của anh hay chị ta, cho dù có
những cơ hội thăng tiến tuyệt vời ở chuỗi
siêu thị Wal-Mart.
Thuyết cảm xúc (emotivism)
:
Khuynh hướng triết học đạo đức cho
rằng các phán xét đạo đức không đúng
cũng không sai, mà chỉ biểu hiện sự tán
thành hay phản đối của chúng ta đối với
một hành động hoặc một cá nhân thực
hiện một hành động nhất định hay một
loạt hành động. Theo quan điểm triết học
này, mệnh đề "Saddam là kẻ ác" chỉ đơn
giản có nghĩa là "Saddam không phải là
thứ nằm trong bộ nhớ của tôi. Tôi không
biết; tôi không quan tâm thằng cha đó."
Tiên nghiệm (a priori)
: Biết
trước
kinh nghiệm, không phụ thuộc vào kinh
nghiệm. Chẳng hạn, dù chưa từng xem
một buổi biểu diễn
American Idol
nào,
chúng ta vẫn có thể chắc chắn rằng, tất cả
những người tham gia vào buổi diễn đều
tin ràng mình là ca sĩ, vì
American Idol
là một cuộc thi hát cho những người - vì
những lý do mà bản thân họ biết rõ nhất -
tin rằng mình là ca sĩ. Trái nghĩa với
Hậu nghiệm
.
Triết học ngôn ngữ thông thường
(ordinary lauguage philosophy)
: Trào
lưu triết học tìm cách hiểu những khái
niệm triết học thông qua khảo sát việc sử
dụng ngôn ngữ thông thường. Theo các
triết gia của trường phái này, nhiều vấn
đề khiến các nhà tư tưởng rối trí suốt
nhiều thiên niên kỷ, chỉ vì sự mơ hồ và
lệch lạc logic tồn tại ngay trong cách nêu
vấn đề. Trào lưu này đanh dấu sự chấm
dứt của Kỷ nguyên hoang mang.
HẾT
Dịch từ nguyên bản tiếng Anh:
Plato and the Platypus Walk into a
Bar... Understanding Philosophy
Through Jokes
của Thomas Cathcart và
Daniel Klein.
Người dịch: Tiết Hùng Thái.
Mời các bạn ghé thăm
Đào Tiểu Vũ
eBook
để tải thêm nhiều ebook hơn
nữa.
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top