Không Tên Phần 4
truyền đạt cho người hàng xóm. Anh hàng
xóm đáp rằng anh ta quả có giấu số tiền
đó trong sân sau nhà mình, dưới gốc cây
anh đào.
Ông giáo sư quay sang người đàn ông
và nói, "Anh ta không chịu nói. Anh ta
bảo thà chết còn hơn."
Không có gì đáng ngạc nhiên khi
Machiavelli là người ủng hộ án tử hình,
vì lợi ích nhất đối với nhà cai trị là được
coi là hà khắc chứ không phải khoan
dung. Nói cách khác, Machiavelli đồng
ý
với một người đã châm biếm nói, "Án tử
hình có nghĩa là không bao giờ phải nói,
'Lại là anh đấy à?'"
Dù bề ngoài chúng ta tỏ ra chính trực
bao nhiêu - hoặc thậm chí cả trong tư
tưởng - thì Machiavelli vẫn tin rằng
chúng ta thảy đều là những kẻ theo xu
hướng Machiavelli từ tâm can phế phổi.
Bà Parker được gọi ra làm hội thẩm
trong
một phiên tòa nhưng bà yêu cầu
được miễn vì về nguyên tắc bà phản đối
án tử hình. Luật sư bào chữa nói, "Nhưng
thưa bà, đây không phải là một vụ án giết
người. Đây là một vụ kiện dân sự. Một
người phụ nữ kiện chồng cũ của bà ta vì
ông này đánh bạc hết 25.000$ mà ông ấy
đã hứa dùng để sửa sang lại nhà tắm
nhân dịp sinh nhật của bà ta."
"Ồ, thế thì tôi sẽ nhận lời," bà Parker
nói. "Còn về án tử hình, tôi nghĩ có lẽ tôi
đã sai rồi."
oOo
Nhưng xin đừng vội. Có thể là chính
chúng ta đang bị cười nhạo chăng? Một
số sử gia hiện đại tin rằng Machiavelli
đã phỉnh gạt chúng ta bằng thứ chủ nghĩa
Machiavelli lộn ngược – tỏ ra tàn ác
nhưng thực chất lại là cổ xúy cho những
phẩm hạnh xưa cũ. Rốt cuộc, liệu có phải
thực ra Machiavelli châm biếm chế độ
chuyên chế không? Trong tiểu luận
"Quân vương: Khoa học Chính trị hay
Trào phúng Chính trị?"
sử gia được
trao giải Pulitzer Garrett, Mattingly
khẳng định Machiavelli đã bị hiểu sai:
"Quan điểm đánh giá cuốn sách nhỏ này
(
Quân
vương
) là một khảo luận khoa học
nghiêm túc về thuật cai trị mâu thuẫn với
tất cả những gì chúng ta biết về cuộc đời
Machiavelli, về những trước tác của ông,
và về lịch sử thời đại ông."
Nói cách khác, Mattingly cho rằng
Machiavelli là một con cừu trong lốt sói.
CHỦ NGHĨA NỮ QUYỀN
Đây là câu đố làm đau đầu người ta
suốt mấy thập kỷ:
Một người chứng kiến con trai mình
bị tai nạn xe đạp khủng khiếp. Anh ta bế
đứa bé lên, đặt vào ghế sau xe ô tô và
lao nhanh đến phòng cấp cứu. Khi thằng
bé được đẩy vào phòng mổ, bác sĩ giải
phẫu kêu lên, "Ôi Chúa ơi! Nó là con
tôi!"
Chuyện này có thể giải thích ra sao?
Rất đơn giản! Bác sĩ giải phẫu là mẹ
đứa bé.
Thời nay, ngay cả Rush Limbaugh
(
Người dẫn chương trình truyền thanh và phê
bình chính trị bảo thù nối tiếng ở Mỹ.
) cũng
không phải rối trí chút nào trước câu đố
này; số lượng nữ bác sĩ ở nước này đã
gần cân bằng với số lượng bác sĩ nam.
Và đó là kết quả của sức mạnh triết lý nữ
quyền cuối thế kỷ hai mươi.
oOo
Khi đài BBC tổ chức cuộc thăm dò ý
kiến thính giả về bình chọn triết gia vĩ
đại nhất thế giới, không có nhà triết học
nữ nào lọt vào top hai mươi (đứng đầu là
Karl Marx). Các học giả nữ trên toàn thế
giới nổi giận. Hypatia, triết gia Hy Lạp
theo chủ nghĩa Plato mới đâu rồi? Hoặc
nhà tiểu luận thời Trung cổ Hildegard
von Bingen nữa? Tại sao Heloise thế kỷ
mười hai bị gạt ra, trong khi Abelard -
học được từ bà cũng tương đương bà học
được từ ông ấy - thì được bầu (mặc dầu
cũng không lọt vào top hai mươi)? Còn
Mary Astell thế kỷ mười bảy, nhà nữ
quyền buổi đầu thì sao? Và đâu rồi
những triết gia thời hiện đại: Hannah
Arendt, Iris Murdoch, và Ayn Rand?
Phải chăng chủ nghĩa sô vanh vô
phương cứu chữa trong giới học thuật đã
khiến cho công chúng học thức không
biết đến các triết gia lớn này? Hay là
phải trách những đám học giả nặng tư
tưởng sô vanh đương thời đã không nhìn
nhận những người phụ nữ này đủ nghiêm
túc ở thời của họ?
Buổi rạng đông thực sự của triết học
nữ quyền bắt đầu từ thế kỷ mười tám với
tác phẩm phôi thai (hay ta nên gọi là tác
phẩm trứng nước?) của Mary
Wollstonecraft
Chứng minh các quyền
của phụ nữ.
Trong khảo luận này, bà
thách thức không ai khác ngoài chính
Jean-Jacques Rousseau, người đề xuất
một hệ thống giáo dục cấp thấp cho phụ
nữ.
Chủ nghĩa nữ quyền trong thế kỷ hai
mươi được giải thích lại theo quan điểm
hiện sinh với việc xuất bản cuốn
Giới
tính thứ hai
của nhà triết học (và là
người tình của Jean-Paul Sartre) Simone
de Beauvoir. Bà tuyên bố không tồn tại
thứ nữ tính bản chất nào hết, đó chỉ là
tấm áo bó buộc do nam giới khoác cho
nữ giới mà thôi. Về thực chất, phụ nữ tự
do tạo ra phiên bản đàn bà theo quan
niệm của họ.
Nhưng quan niệm về nữ tính mềm dẻo
đến mức độ nào? Phải chăng những cơ
quan sinh sản có từ khi chúng ta chào đời
không liên quan gì đến nhận dạng giới
tính của chúng ta? Một số nhà nữ quyền
hậu de Beauvoir cho là vậy. Họ tuyên bố
rằng con người bẩm sinh là một tấm bảng
trắng về giới tính, nhận dạng giới tính là
thứ chúng ta sở hữu về sau từ cha mẹ và
xã hội. Và ngày nay, việc lĩnh hội vai trò
giới tính đã trở nên phức tạp hơn bao giờ
hết.
Hai anh chàng đồng tính đang đứng ở
góc phố thì có một cô gái tóc vàng thon
thả, đẹp lộng lẫy trong bộ váy mỏng bó
sát, ngực áo khoét sâu, đi qua.
Một chàng thốt lên với chàng kia,
"Những lúc như thế này, tôi ước gì mình
là
les
!"
Phải chăng những vai trò giới tính
truyền thống chỉ là định ước xã hội do
đàn ông tạo ra để giữ đàn bà trong vòng
lệ thuộc? Hay là những vai trò đó được
quy định về phương diện sinh học? Thế
lưỡng nan này tiếp tục chia rẽ cả các nhà
triết học lẫn tâm lý học. Một số nhà tư
tưởng sâu sắc ủng hộ mạnh mẽ quan điểm
cho rằng những khác biệt giới tính được
quy định bỏi yếu tố sinh học. Chẳng hạn,
khi Freud tuyên bố rằng "giải phẫu học
là số phận", ông đã sử dụng mục đích
luận để chứng minh rằng cấu tạo cơ thể
của phụ nữ quyết định vai trò của phụ nữ
trong xã hội. Có điều vẫn chưa rõ ông
nói đến thuộc tính giải phẫu học nào khi
kết luận là ủi quần áo là công việc của
phụ nữ?
Một câu hỏi khác - vậy liệu quy định
sinh học có chi phối đàn ông hay không?
Chẳng hạn, phải chăng do kết quả giải
phẫu học của họ, đàn ông dễ có xu hướng
dùng những tiêu chuẩn nguyên thủy nhất
trong việc lựa chọn bạn đời?
Một anh chàng hò hẹn với ba cô gái
và đang cố gắng quyết định sẽ cưới ai.
Anh ta đưa cho mỗi người 5.000 đô la
để xem họ làm gì với số tiền đó.
Người thứ nhất đi mông má lại toàn
thân. Cô ta vào một salon thượng hạng,
làm tóc, làm móng, sửa mặt, và mua
nhiều quần áo trang sức. Cô nói với anh
rằng cô làm thế để trở nên hấp dẫn hơn
với anh, bởi vì cô rất yêu anh.
Cô thứ hai mua cho anh một vài món
quà. Cô mua một bộ gậy chơi golf, một
số phụ kiện máy tính và quần áo đắt tiền.
Cô nói rằng cô đã tiêu tất cả số tiền đó
cho anh bởi vì cô rất yêu anh.
Cô thứ ba đầu tư số tiền đó vào chứng
khoán. Cô kiếm được gấp đôi gấp ba
5.000$. Cô trả lại anh 5.000$ và tiếp tục
đầu tư số còn lại vào chứng khoán. Cô
nói với anh rằng cô muốn đầu tư cho
tương lai của hai người bởi vì cô rất yêu
anh.
Vậy anh ấy chọn ai?
Trả lời: Cô có bộ ngực to nhất.
CÂU HỎI KIỂM TRA
Truyện cười trên chống nữ quyền hay
là chống những con lợn đực sô vanh?
Hãy thảo luận.
Male chauvinist pig
: Thuật ngữ của những
nhà hoạt động nữ quyền những năm 1960 dùng
để chỉ những người đàn ông thường có quyền
lực (ví dụ ông chủ hoặc giáo sư), công khai
bằng lời nói và việc làm cho rằng đàn ông hơn
hẳn đàn bà.
Còn đây là một câu chuyện khác luận
về sự khác biệt bản chất giữa đàn ông và
đàn bà. Nó là bản chất, vì Người Đàn
Ông Đầu Tiên chưa vướng vào các định
ước xã hội, và tính bốc đồng của anh ta
vì thế là thiên bẩm.
Chúa xuất hiện trước mặt Adam và
Eve trong vườn Địa đàng, tuyên bố rằng
ngài có hai món quà, cho mỗi người một
món, và ngài muốn để hai người tự chọn
lấy. Ngài nói, "Món quà thứ nhất là khả
năng đứng đái."
Adam hấp tấp kêu to, "Đứng đái à?
Tuyệt diệu! Nghe quá đã! Con muốn món
này."
"Ô kê," Chúa nói. "Món này là của
con, Adam. Còn Eve, con được món kia
- cực khoái nhiều lần."
Thành quả xã hội và chính trị của
phong trào nữ quyền nhiều vô kể: quyền
bầu cử, luật bảo vệ nạn nhân bị cưỡng
hiếp, được đối xử và đối đãi tốt hơn ở
nơi làm việc. Gần đây, một hệ quả xã hội
khác của phong trào nữ quyền là sự phản
đòn của đàn ông. Từ đó dẫn đến một hiện
tượng mói - sự ra đời của những truyện
cười lệch lạc chính trị.
Coi một truyện cười công kích phong
trào nữ quyền bất kỳ nào là lệch lạc
chính trị tức là gia tăng chiều kích cho
câu chuyện đó. "Tôi biết câu chuyện này
chống lại triết lý tự do đã được thừa
nhận của thời đại, nhưng bây giờ chẳng
lẽ đến đùa cũng không được nữa sao?"
Tạo ra những truyện cười theo khuynh
hướng này, người kể đòi hỏi có quyền
bất kính, một phẩm chất có thể làm cho
một truyện cười thêm phần hài hước, và
gây ra những rắc rối về mặt xã hội cho
người kể, như ta thấy trong câu chuyện
quá đỉnh sau đây:
Trong chuyến bay vượt đại dương,
một chiếc máy bay bay qua vùng bão
lớn, rung giật dữ dội. Tình hình càng tồi
tệ hơn khi một bên cánh máy bay bị sét
đánh.
Một người phụ nữ đặc biệt kinh
hoảng. Cô đứng trên lối đi, gào lên, "Tôi
còn quá trẻ mà phải chết rồi sao?" Rồi
cô la, "ôi, tôi sắp chết rồi. Tôi muốn
những giây phút cuối của tôi trên đời
đáng ghi nhớ! Chưa từng có ai làm cho
tôi cảm thấy tôi thật sự là đàn bà! Đuợc
rồi, tôi đã quyết! Có ai trên máy bay này
có thể làm cho tôi cảm thấy tôi thật sự là
đàn bà không?"
Một hồi lâu im lặng. Mọi người quên
đi mối hiểm nguy của chính mình, cùng
nhìn như đóng đinh vào người phụ nữ
tuyệt vọng ở phía trước. Rồi ở phía cuối
máy bay có một người đàn ông đứng lên.
Anh ta cao to lực lưỡng, da rám nắng,
tóc đen nhánh, và anh ta bắt đầu vừa
bước chậm rãi trên lối đi, vừa mở cúc
áo sơ mi của mình. "Tôi có thể làm cô
cảm thấy cô thật sự là đàn bà," anh ta
nói.
Không ai nhúc nhích. Khi người đàn
ông tới gần, cô gái bắt đầu bị kích động.
Anh ta cởi sơ mi ra. Các bắp thịt cuồn
cuộn trên ngực anh khi anh với đến cô,
giơ cánh tay cầm chiếc sơ mi cho người
phụ nữ đang run rẩy, và nói, "Là cái áo
này đi."
Cơn bão công kích của những truyện
cười lệch lạc chính trị này cũng khiến
sinh ra vô số truyện cười phản kích, mở
đầu như những truyện kỳ thị cực đoan
điển hình truyền thống, nhưng kết cục lại
bất ngờ giành phần thắng cho phụ nữ.
Hai tay chia bài trong sòng bạc đang
buồn chán ngồi chờ ở bàn xúc xắc thì
một phụ nữ tóc vàng rất hấp dẫn bước
đến và đặt cược 20.000 đô la cho một
lần gieo xúc xắc duy nhất. Cô ta nói,
"Tôi hy vọng các anh không thấy phiền,
nhưng tôi cảm thấy sẽ may mắn hơn khi
tôi hoàn toàn trần truồng." Nói rồi, cô
cởi bỏ quần áo, gieo xúc xắc, và kêu lên,
"Cố lên, con ơi, Má cần quần áo mới!"
Khi xúc xắc ngừng lại, cô nhảy tưng tưng
và ré lên, "Ha! Ha! Ta thắng! Ta thắng
rồi!" Cô ôm từng người chia bài, nhặt lấy
số tiền thắng cuộc và quần áo của mình
rồi nhanh chóng biến mất. Hai người
chia bài đứng chết lặng nhìn nhau. Cuối
cùng, một người nói, "Cô ấy gieo cái
gì?" Người kia nói, "Tôi không biết. Tôi
tưởng anh nhìn."
Bài học: không phải tất cả các phụ nữ
tóc vàng đều ngốc, nhưng tất cả đàn ông
đều là đàn ông.
Đây lại một thí dụ nữa về thể loại
truyện nữ quyền mới:
Một cô gái tóc vàng ngồi cạnh một
luật sư trên máy bay. Anh này cứ lải nhải
rủ cô chơi trò chơi, xem ai am hiểu rộng
hơn. Cuối cùng, anh ta nói anh xin đánh
cá mười ăn một. Cứ mỗi lần không trả
lời được một câu hỏi của anh ta, cô sẽ
phải trả năm đô la. Mỗi lần không trả lời
được một câu hỏi của cô, anh ta phải mất
năm mươi đô.
Cô đồng ý chơi, và anh ta hỏi,
"Khoảng cách từ Trái Đất đến ngôi sao
gần nhất là bao nhiêu?"
Cô không nói gì, chỉ đưa cho anh ta tờ
năm đô la.
Cô hỏi, "Con gì đi lên núi bằng ba
chân nhưng đi xuống bằng bốn chân?"
Anh ta suy nghĩ hồi lâu nhưng cuối
cùng phải thú nhận rằng anh chẳng biết tí
gì. Anh ta đưa cô năm mươi đô la.
Cô gái đút tiền vào ví không bình luận
gì.
Chàng luật sư nói, "Khoan đã. Câu trả
lời cho câu hỏi của cô là gì?"
Không nói một lời, cô đưa cho anh ta
năm đô la.
CÁC TRIẾT THUYỂT KINH TẾ
HỌC
Trong câu đầu tiên của cuốn sách kinh
điển của Robert Heilbroner về các nhà
lý thuyết kinh tế học,
Các triết gia thế
gian,
tác giả thú nhận rằng đây là cuốn
sách về "một số người có tham vọng kỳ
lạ về danh tiếng". Đúng thế, ngay cả kinh
tế học cũng có các triết gia của riêng nó.
Triết gia kinh tế người Scotland
Adam Smith viết cuốn
Nghiên cứu bản
chất và nguồn gốc tài sản quốc gia
trong cùng năm Hoa Kỳ tuyên bố độc
lập. Tác phẩm này đã hình thành bản
thiết kế cho chủ nghĩa tư bản thị trường
tự do.
Theo Smith, một trong những sức
mạnh của chủ nghĩa tư bản là nó cổ vũ
sáng tạo kinh tế. Dường như những lợi
ích cá nhân có khả năng kích thích tư duy
không kém gì một cảnh tượng tử hình treo
cổ.
Một người bước vào ngân hàng nói
rằng ông ta muốn vay 200$ trong sáu
tháng. Nhân viên tín dụng hỏi ông ta có
gì để thế chấp. Người kia nóí, "Tôi có
chiếc Rolls Royce. Chìa khóa của nó
đây. Các ông hãy giữ nó đến khi nào tôi
trả xong nợ."
Sáu tháng sau, người ấy quay lại ngân
hàng, trả 200$ nợ cộng thêm 10$ tiền lãi
và nhận lại chiếc Rolls Royce. Nhân
viên tín dụng hỏi, "Thưa ngài, cho phép
tôi hỏi, tại sao một người đi Rolls Royce
mà lại cần vay 200$?"
Người kia trả lời, "Tôi phải sang châu
Âu sáu tháng, và tôi có thể gửi chiếc
Rolls Royce ở đâu trong thời gian lâu
như thế mà chỉ mất có 10$?"
oOo
Đúng đấy,
con
yêu, mẹ phái giữ đôi tay thật
đẹp
lỡ khi mẹ muốn quay lại khoa phẫu thuật
não."
oOo
Theo lý thuyết của chủ nghĩa tư bản,
"nguyên tắc của thị trường" điều tiết nền
kinh tế. Chẳng hạn, kiểm soát tốt hàng
hóa có thể tạo ra lợi thế cạnh tranh cho
một doanh nghiệp.
Người phỏng vấn: Thưa ngài, ngài đã
gây dựng được một sản nghiệp đáng kể
trong suốt cuộc đời mình. Ngài làm ra
tiền bằng cách nào?
Tỷ phú: Tôi làm ra tất cả số tài sản đó
bằng việc kinh doanh chim bồ câu đưa
thư.
Người phỏng vấn: Chim bồ câu đưa
thư! Thật hấp dẫn! Ngài đã bán được bao
nhiêu con?
Tỷ phú: Tôi chỉ bán một con, nhưng
nó cứ quay về hoài.
Khi chủ nghĩa tư bản tiến hóa, triết
học kinh tế đã phải cố chạy theo để bắt
kịp. Đổi mới thị trường đã đưa đến
những vấn đề phức tạp mà Adam Smith
và các nhà triết gia kinh tế kinh điển
chưa tưởng tượng ra. Chẳng hạn, bảo
hiểm y tế đã tạo ra một bối cảnh trong đó
lợi ích cao nhất của người mua là không
nhận về số tiền của mình. Nếu bạn nói
với một tay môi giới hàng về việc mua
thịt lợn, thì thứ anh ta nghĩ đến sẽ không
phải là những con lợn, mà là một hợp
đồng giao dịch tưong lai. Xổ số là một
sự đổi mới tương tự, trong đó các quy
luật kinh điển về thị trường dường như
không hoàn toàn thích hợp.
Jean-Paul, một người Cajun, chuyển
đến Texas và mua một con lừa của một
ông già nông dân với giá 100$. Người
nông dân đồng ý đem con lừa đến vào
hôm sau.
Hôm sau, người nông dân đến và nói,
"Xin lỗi, nhưng tôi có một tin xấu: con
lừa chết rồi."
"Thôi được, thế thì trả lại tiền cho
tôi."
"Không được. Tôi tiêu hết mất rồi."
"Thôi được, thế thì bỏ con lừa xuống
đây."
"Anh định làm gì với nó?"
"Tôi dùng nó làm phần thưởng xổ số."
"Anh không thể dùng một con lừa đã
chết làm phần thưởng xổ số!"
"Chắc chắn tôi làm được. Cứ chờ
xem. Tôi sẽ không nói với ai là nó đã
chết."
Một tháng sau, người nông dân gặp lại
anh chàng Cajun và hỏi, "Chuyện gì xảy
ra với con lừa chết ấy?"
"Tôi dùng nó làm phần thưởng xổ số.
Tôi bán 500 vé, mỗi vé 2$ và được lời
898$."
"Không có ai phàn nàn à?"
"Có anh chàng trúng số. Bởi vậy tôi
trả lại anh ta 2$."
Các nhà kinh tế học cổ điển cũng
không chú ý lắm đến cái mà ngày nay
chúng ta gọi là "giá trị ẩn", chẳng hạn
như lao động không được trả công của
các bà mẹ ở nhà. Cậu chuyện sau đây
minh họa khái niệm giá trị ẩn:
Một nhà sưu tầm nghệ thuật nổi tiếng
đang dạo bước trên phố thì chợt thấy có
con mèo nhem nhuốc đang liếm sữa trong
đĩa bên lối vào một cửa hàng. Nhìn kỹ,
ông ta nhận ta cái đĩa rất cổ và rất có giá
trị, bèn làm ra vẻ tình cờ bước vào cửa
hàng và ngỏ ý muốn mua con mèo với
giá hai đô la.
Chủ cửa hàng trả lời, "Xin lỗi, nhưng
con mèo đó không phải để bán."
Nhà sưu tầm nói, "Làm ơn đi, tôi cần
một con mèo đó ở nhà để bắt chuột. Tôi
sẽ trả ông hai mươi đô la cho con mèo
đó."
Người chủ nói, "Vâng tôi bán," và
đưa con mèo cho nhà sưu tầm.
Nhà sưu tầm tiếp tục, "Này, với hai
mươi đô la, không hiểu ông có vui lòng
quẳng thêm chiếc đĩa cũ kia không. Con
mèo đã quen với nó và tôi đỡ tốn công đi
kiếm một chiếc đĩa."
Người chủ nói, "Xin lỗi, ông bạn,
nhưng nó là chiếc đĩa may mắn của tôi.
Cho đến tuần này tôi đã bán được ba
mươi tám con mèo rồi."
Xứng đáng với danh tiếng của mình,
Adam Smith đã thấy trước những tảng đá
ngầm của chủ nghĩa tư bản tự do, chẳng
hạn như sự lớn mạnh của các tổ chức độc
quyền. Nhưng chỉ có Karl Marx ở thế kỷ
mười chín mới có thể xây dựng được
triết thuyết kinh tế tấn công vào tình trạng
phân phối phúc lợi bất công trong chính
hệ thống chủ nghĩa tư bản. Sẽ xảy ra một
cuộc cách mạng, và chính quyền của
những người vô sản sẽ xóa bỏ chênh lệch
giàu nghèo tác động đến tất cả các lĩnh
vực xã hội - từ chế độ sở hữu đến lòng
tin.
Cách đây không lâu, chúng tôi sang
Cuba để mua một ít xì gà rẻ không được
nhập khẩu vào Mỹ vì lệnh cấm vận. Khi
dừng chân ở một câu lạc bộ hài kịch ở
Havana chúng tôi nghe được mẩu đối
thoại sau đây:
José: Một thế giới mới điên rồ làm
sao! Người giàu, có thể trả tiền mặt, thì
được mua chịu (
mua bằng thẻ tín dụng
).
Người nghèo, không có tiền, lại phải trả
tiền mặt. Chẳng phải Marx đã nói cần
phải lật ngược lại hay sao? Nên cho
phép người nghèo mua chịu, còn người
giàu phải trà tiền mặt.
Manuel: Nhưng nếu các chủ cửa hàng
bán chịu cho người nghèo thì chẳng bao
lâu chính họ cũng sẽ thành người nghèo!
José: Thế càng tốt! Khi đó họ cũng có
thể mua chịu!
Theo Marx, chuyên chính vô sản tiếp
sau cách mạng sẽ kéo theo "sự suy tàn
của nhà nước". Chúng tôi vẫn nghĩ Marx
phải chịu tai tiếng là một kẻ vô chính phủ
cực đoan.
oOo
CÂU HỎI KIỂM TRA
Ông Marx nào vô chính phủ hơn?
Karl, người nói, "Giai cấp bị áp bức
nhất định sẽ đứng lên giật tung xiềng
xích," hay là Groucho
(
Groucho Marx:
1809-1977 diễn viên hài nổi tiếng người Mỹ
),
người nói, "Ngoài một con chó, thì
quyển sách là bạn tốt nhất của con người.
Trong một con chó thì tối quá không đọc
được."
Có thể bạn đang tự hỏi, "Chính xác thì
chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản
khác nhau ở chỗ nào?" Có thể bạn không
hỏi. Bất luận thế nào thì câu trả lời cũng
hết sức đơn giản. Dưới chế độ tư bản,
người này bóc lột người kia. Dưói chế
độ cộng sản thì ngược lại.
Vấn đề phức tạp này dẫn đến sự thỏa
hiệp giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa
xã hội, được biết đến dưới tên gọi nền
dân chủ xã hội, trong đó người không có
khả năng lao động đưực hưởng trợ cấp,
và pháp luật bảo hộ thỏa ước tập thể.
Nhưng sự thỏa hiệp này đã buộc một số
người phái tả phải chấp nhận các đối tác
"đồng sàng dị mộng".
Một đại biểu công đoàn sang dự hội
nghị ở Paris và quyết định đi chơi nhà
thổ. Anh ta hỏi bà chủ, "Đây có phải nhà
nghiệp đoàn không?"
"Không, không phải," bà ta trả lời.
"Vậy các cô gái kiếm được bao
nhiêu?" vị đại biểu công đoàn hỏi.
"Ông trả tôi 100$, nhà chứa được
80$, cô gái được 20$."
"Như vậy là bóc lột tàn tệ." Người
đàn ông nói và huỳnh huỵch bước ra.
Cuối cùng, anh ta tìm được một nhà
thổ mà bà chủ nói đó là nhà nghiệp đoàn.
"Nếu tôi trả bà 100$, cô gái được bao
nhiêu?" anh ta hỏi.
"Cô ấy được 80$."
"Tuyệt!" ông ta nói. "Tôi muốn
Collette."
"Vâng, tôi chắc anh thích con bé," bà
chủ chứa nói, "nhưng phải ưu tiên
Thérèse, vì ở đây cô ấy có thâm niên."
Lý thuyết kinh tế thường ngụy biện khi
cố nêu lên sự khác biệt ở những hoàn
cảnh không có sự khác biệt. Chẳng hạn,
về nguyên tắc liệu có sự phân biệt thực
sự nào không giữa việc trợ cấp cho
người nghèo và giảm thuế cho người
giàu?
Trong truyện cười này, ông Fenwood
đã áp dụng chiến thuật khiến hai thỏa
thuận kinh tế khác nhau thực ra không có
gì khác biệt:
Ông Fenwood có một con bò nhưng
không có chỗ chăn thả. Bởi vậy ông sang
thăm ông bạn láng giềng Potter, và đề
nghị trả ông Potter mỗi tháng hai mươi
đô la để thả con bò ở bãi cỏ của ông
Potter. Ông Potter đồng ý. Nhiều tháng
trôi qua, con bò được thả ở bãi cỏ nhà
ông Potter nhưng ông Fenwood không
đưa cho ông Potter đồng nào. Cuối cùng,
ông Potter sang nhà ông Fenwood và nói,
"Tôi biết ông đang khó khăn tiền bạc,
vậy chúng ta thỏa thuận với nhau một
chút nhé? Tôi đã chăn con bò cho ông
mười tháng, ông nợ tôi 200$. Tôi nghĩ
con bò cũng đáng giá chừng đó. Bây giờ
tôi giữ con bò và chúng ta không ai nợ
nần ai nhé?"
Ông Fenwood nghĩ một phút rồi nói,
"Thôi ông hãy giữ nó thêm một tháng
nữa, rồi con bò sẽ thuộc về ông!"
TRIẾT HỌC LUẬT PHÁP
Triết học về luật pháp, hay luật học,
nghiên cứu những vấn đề nền tảng như
"Mục đích của pháp luật là gì?"
Triết học luật pháp có một số học
thuyết chính. "Luật đức hạnh", bắt nguồn
từ đạo đức học của Aristotle, quan niệm
rằng luật pháp nên khuyến khích phát
triển đức hạnh. Những người chủ trương
áp dụng luật đức hạnh có thể lập luận
rằng mục đích của Luật hành vi nơi công
cộng (cấm đái ở quảng trường) là khuyến
khích phát triển những tiêu chuẩn đạo
đức cao hơn trong mọi nhóm người, đặc
biệt ở nhóm đái bậy nơi công cộng. (Tuy
nhiên, một bồi thẩm đoàn gồm những
người đái bậy có thể không đồng ý với
lập luận này.)
Immanuel Kant ủng hộ quan điểm
"nghĩa vụ luận" (deontology), cho rằng
mục đích của luật pháp là luật hóa các
nghĩa vụ đạo đức. Đối với những nhà
nghĩa vụ luận, Luật chống đái bậy chủ
trương mọi công dân phải có nghĩa vụ
tôn trọng cảm giác của người khác.
Triết gia vị lợi thế kỷ mười chín
Jeremy Bentham cho rằng mục đích của
luật pháp là đem lại kết quả tốt đẹp cho
nhiều người nhất. Theo quan điểm của
các nhà vị lợi, Luật chống đái bậy đem
lại kết quả tốt đẹp cho nhiều người (dân
thành thị) hơn là gây bất tiện cho một số
ít người ưa đái bậy sẽ phải thay đổi tập
quán xã hội lâu dài của mình.
Tuy nhiên, như ta vẫn thường chứng
kiến trong triết học, những người bình
thường có lẽ sẽ có ngay câu hỏi đầu tiên
dành cho các nhà lý luận, "Liệu có tồn
tại khác biệt thực tế nào - theo quan điểm
của Tòa Thẩm phán Judy (
"Judge Judy's
court": chương trình truyền hình phổ biến kiến
thức pháp luật gia đình rất nổi tiếng của Mỹ, do
cựu thẩm phán Judy Sheindlin dẵn dắt.
) chẳng
hạn - giữa các lý thuyết sắc sảo mà các
vị đề ra không?" Ba lý thuyết nêu trên
đều có thể dùng để giải thích về sự cần
thiết không chỉ của Luật hành vi nơi công
cộng, mà cả của nhiều nguyên tắc pháp lý
vững chắc khác, như quan điểm áp dụng
hình phạt đối với tội nhân để làm thăng
bằng cán cân công lý. Bạn có thể giải
thích hình phạt theo quan điểm phát triển
đức hạnh (phục hồi nhân cách), quan
điểm nghĩa vụ luận (trừng phạt tội vi
phạm nghĩa vụ công dân), hay quan điểm
vị lợi (ngăn chặn hậu quả xấu trong
tưong lai).
Những người không liên quan gì đến
triết học có thể hỏi, "Nếu các vị đều
thống nhất với nhau ở kết cục, vậy thì
lý
do
chúng ta áp dụng hình phạt có gì khác
nhau không?" Vấn đề thiết thực duy nhất
ở đây có lẽ là làm thế nào tạo được
tương quan thích hợp giữa một hành vi
phạm pháp, ví dụ như chửi mắng quan
tòa, với một hình phạt như nộp hai mươi
đô la chẳng hạn. Làm sao cho thích hợp
đây?
Một người chầu chực suốt ngày ở tòa
án giao thông để chờ xét xử vụ việc của
mình. Cuối cùng cũng đến lượt anh ta
đứng trước quan tòa - nhưng quan tòa chỉ
nói với anh ta rằng ngày mai anh ta phải
quay lại, vì phiên tòa hôm nay đã hoãn.
Cáu tiết, anh ta quát lên, "Để làm cái chó
gì?"
Quan tòa quát lại, "Hai mươi đô la vì
xúc phạm tòa!"
Người đàn ông rút ví ra. Quan tòa
nói, "Anh không phải trả ngay hôm nay."
Người kia nói, "Tôi chỉ kiểm xem tôi
còn đủ tiền để nói thêm hai từ nữa không
thôi."
Một nguyên tắc pháp lý nổi tiếng nữa
là không thể luận tội dựa trên các chứng
cớ gián tiếp. Lại một lần nữa, cả ba lý
thuyết gia trừu tượng kia đều có thể ủng
hộ nguyên tắc này. Một nhà lý thuyết theo
quan điểm Luật đức hạnh có thể lập luận
rằng tiêu chuẩn cao về tính công bằng
trong phòng xử án sẽ trở thành mẫu mực
đức hạnh cho toàn thể công dân noi theo.
Đối với nhà nghĩa vụ luận, sử dụng
chứng cớ gián tiếp có thể vi phạm nghĩa
vụ chung của công dân là phải tuyệt đối
công bằng đối với người khác. Đối với
nhà vị lợi, việc sử dụng chứng cớ gián
tiếp có thể gây hậu quả không mong
muốn là bỏ tù người vô tội.
Lại một lần nữa, những người thực tế
hơn trong chúng ta có thể hỏi, "Ai cần
quan tâm đến
lý do
khiến chúng ta bàn về
chứng cớ gián tiếp một cách thận trọng
như vậy?" Một cách thiết thực, chúng ta
chỉ cần vạch ra tính chất không đáng tin
cậy của nó, như người phụ nữ trong câu
chuyện sau đây đã làm. [Lưu ý cách vận
dụng phép phản chứng (
reductio ad
absurdum)
rất khôn ngoan của cô ấy].
Một đôi vợ chồng đi nghỉ ở một khu
nghỉ dưỡng câu cá. Trong khi chàng chợp
mắt, nàng quyết định lấy thuyền của
chàng bơi ra hồ và đọc sách. Trong khi
nàng đang tắm nắng thì có một cảnh sát
bơi thuyền đến và bảo,
"Ở đây không
được câu cá, thưa bà. Tôi phải bắt giữ
bà."
Nàng nói, "Nhưng thưa ông, tôi có câu
cá đâu?"
Cảnh sát trưởng nói, "Thưa bà, bà có
tất cả dụng cụ cần thiết. Tôi buộc phải
bắt giam bà."
Nàng nói, "Nếu ông làm thế, thưa ông,
tôi sẽ phải tố cáo ông tội cưỡng hiếp."
"Nhưng tôi chưa hề chạm đến người
bà," viên cảnh sát nói.
"Tôi biết," nàng nói, "nhưng ông có
đủ dụng cụ cần thiết."
Tuy nhiên vẫn tồn tại những nguyên
tắc pháp lý trở nên rất khác biệt tùy
thuộc vào việc chúng ta áp dụng lý thuyết
nào trong số ba lý thuyết nêu trên, như
trong câu chuyện sau đây:
Một quan tòa gọi hai luật sư của hai
bên đến văn phòng của ông và nói, "Lý
do tôi gọi các anh hôm nay là hai anh
đều đã hối lộ tôi." Hai luật sư cùng ngọ
nguậy trên ghế. "Anh, Alain, đã đưa tôi
15.000$. Phil, anh đã đưa 10.000$."
Quan tòa trao cho Alain một tấm séc
trị giá 5.000$ và nói, "Bây giờ các anh
ngang nhau, và tôi sẽ hoàn toàn dựa vào
công lý để phán quyết vụ này."
Nếu mục đích của việc cấm hối lộ chỉ
là để loại trừ tình trạng vi phạm nghĩa vụ
xét xử công bằng đối với tất cả các bên,
thì chúng ta có thể đồng ý với ông quan
tòa rằng việc nhận mức hối lộ ngang
nhau có cùng kết quả như không nhận hối
lộ. Cũng như vậy, nếu mục đích của việc
cấm hối lộ là để đảm bảo đem lại những
kết quả tốt đẹp một cách công bằng cho
mọi người. Nhưng sẽ khó khăn hơn nhiều
nếu lập luận rằng nhận hối lộ ngang nhau
sẽ khuyến khích đức hạnh ở cả quan tòa
lẫn các luật sư. Lạ thật, sao chúng ta có
thể dông dài mãi mà không kể một câu
chuyện cười về các luật sư nhỉ? Ồ,
nhưng cần gì băn khoăn, chúng ta chỉ là
những con người thôi mà.
Một luật sư gửi thư cho thân chủ của
mình: "Frank thân mến: Tôi nghĩ hôm
qua tôi trông thấy anh ngoài phố. Tôi đã
băng qua đường để chào anh, nhưng hóa
ra không phải. 1/10 giờ: 50$."
oOo
DIMITRI: Cậu khiến tôi hào hứng rồi
đấy, Tasso ạ. Tôi đã quyết định ứng cử
vào Lực lượng cảnh sát đạo đức. Cậu có
ủng hộ tôi một phiếu không?
TASSO: Tất nhiên, bạn ạ. Nếu cuộc
bầu cử tiến hành bằng bỏ phiếu kín.
IX
TÍNH TƯƠNG ĐỐI
Chúng ta có thể nói gì nhỉ? Thuật ngữ
này có những nghĩa khác nhau đối với
những người khác nhau.
DIMITRI: Vấn đề rắc rối ở cậu,
Tasso ạ, là cậu nghĩ nhiều quá.
TASSO: So với ai?
DIMITRI: Ờ, so với lực sĩ Achilles.
TASSO: Thế so với Socrates thì sao?
DIMITRI: Ô kê, cậu lại thắng rồi. So
với Socrates, thì cậu quá ngu.
oOo
CHÂN LÝ TƯƠNG ĐỐI
Chân lý tương đối hay tuyệt đối?
Trang Tử, hiền triết Đạo gia cổ đại,
tỉnh dậy từ một giấc mơ trong đó ông là
một con bướm, hay là, ông tự hỏi, thật ra
ông là một con bướm lúc này đang mơ
mình là Trang Tử?
Trong thế giới phương Tây hiện đại,
các triết gia bị ám ảnh bởi tính tương đối
của cái biết đối với người biết. Như
chúng ta đã biết, George Berkeley còn đi
xa đến mức phát biểu rằng "vật thể" chỉ
tồn tại tương đối với trí óc.
Thế kỷ hai mươi, một giáo sư đại học
Harvard làm thí nghiệm với ma túy tạo
ảo giác và sửng sốt phát hiện các nhận
thức của mình mang tính tương đối.
Không, chúng tôi không nói đến Timothy
Leary (
Timothy Francis Leary (1920-1996),
nhà tâm lý học có ảnh hưởng người Mỹ, ủng hộ
lợi ích của chất gây ảo giác trong trị liệu.
).
Trước đó khá lâu, đó là William James
(
William James (1842-1910), nhà tâm lý học
và triết học tiên phong người Mỹ với những
cuốn sách vể tâm lý học, chủ nghĩa thần bí, chủ
nghĩa thực dụng.
). Khi hít khí tê, James
cảm thấy mình đạt đến trạng thái hòa
đồng cùng vũ trụ, nhưng khi chất kích
thích hết tác dụng, ông không thể nhớ
được gì về những nhận thức vũ trụ của
mình. Vì vậy, đến lần hít khí tê sau, ông
buộc một cây bút vào tay và đặt một
cuốn sổ mở trước mặt. Như mong đợi,
một ý tưởng chói sáng đến với ông, và
lần nầy ông đã ghi lại được trên giấy.
Vài giờ sau, thoát khỏi trạng thái đó, ông
đọc ý tưởng triết học đột phá đã tự tay
ghi lại: "Mọi thứ bốc mùi dầu hỏa!"
Ban đầu giáo sư James thất vọng,
nhưng sau đó ông bắt đầu tư duy bằng
cảm thức triết học. Ông nhận ra rằng vấn
đề thực chất có thế là: a/ Những ý tưởng
dường như là thiên tài dưới tác dụng của
khí tê thật ra rất tầm thường vớ vẩn?
hoặc b/ "Mọi thứ bốc mùi dầu hỏa" thực
sự là ý tưởng thiên tài, nhưng nếu không
có tác dụng của khí tê, người ta không
nhận thức được?
Phân tích của James phảng phất giống
một truyện cười.
TÍNH TƯƠNG ĐỐI CỦA THỜI
GIAN
Có nhiều truyện cười minh họa tính
tương đối của ý niệm thời gian. Chẳng
hạn:
Một con ốc sên bị hai con rùa chẹn cổ
ăn cướp. Khi cảnh sát hỏi nó đã xảy ra
chuyện gì, nó nói, "Tôi không biết.
Chúng nó nhanh quá."
Và đây, lại chính con ốc sên đó:
Có tiếng gõ, nhưng khi người phụ nữ
ra mở cửa, thì chỉ thấy một con ốc sên.
Bà ta nhặt nó lên ném qua sân. Hai tuần
sau, lại có tiếng gõ của.
Người đàn bà ra mở, và lại thấy con
ốc sên đó. Con ốc sên hỏi, "Có chuyện gì
xảy ra vậy?"
Tính tương đối giữa thời gian hữu hạn
và vĩnh hằng vẫn luôn là một chủ đề
chính của tư duy triết học, và vì vậy,
đương nhiên cũng là chủ đề chính của
các tác giả hài hước:
Một người cầu nguyện chúa, "Lạy
chúa, con xin hỏi người một câu hỏi."
Chúa đáp, "Được. Con nói đi."
"Thưa Chúa, có phải một triệu năm
đối với Người chỉ là một giây thôi
không?"
"Ừ, đúng đấy."
"Vâng, vậy thì một triệu đô la đối với
Người?"
"Một triệu đô la đối với ta chỉ là một
xu."
"A, vậy thì con xin Chúa," người ấy
nói, "xin Người cho con một xu?"
"Được," Chúa nói. "Chờ một giây
nhé."
Chúng tôi sẽ không xuất bản sách của ông,
Một tự truyện: Cuộc đời con phù du, vì
sách chỉ có một trang."
TÍNH TƯƠNG ĐỐI CỦA CÁC THẾ
GIỚI QUAN
Có vô khối truyện cười minh họa tính
tương đối của các quan điểm khác nhau:
Một người Pháp bước vào quán rượu.
Một con vẹt mặc bộ tuxedo đậu trên vai
ông ta. Người pha rượu nói, "ô, trông
ngộ quá ha, ông kiếm được nó ở đâu
đấy?"
Con vẹt nói, "Ở Pháp. Ở bên đó có
hàng triệu gã như gã này."
Nhà triết học Mỹ thế kỷ
hai mươi
W.V.O.
Quine viết rằng tiếng mẹ đẻ xác
định thế giới quan của chúng ta, chính nó
tạo nên khuôn khổ mà chúng ta không thể
vượt ra ngoài để nhìn thế giới dưới ánh
sáng khác. Chúng ta không thể dịch chính
xác sang ngôn ngữ của mình một thuật
ngữ từ thứ tiếng xa lạ. Chúng ta
có
thể
thấy một người nói ngôn ngữ khác thốt
lên "gavagai" khi chỉ vào vật thể mà
chúng ta vẫn gọi là "con thỏ", nhưng
chúng ta không chắc ý
anh ta muốn nói
đến "món thịt thỏ hầm" hay là "chuỗi tiến
hóa thỏ" hoặc cái gì khác liên quan đến
thỏ.
Hai người Do Thái vào ăn tối trong
một tiệm cơm Tàu bán đồ chay. Anh hầu
bàn người Hoa nói dăm câu với họ bằng
tiếng Yiddish (
Tiếng Đức cổ của người Do
Thái ở Trung và Đông Âu.
) trong khi họ xem
thực đơn rồi sau đó nhận đặt món bằng
tiếng Yiddish luôn. Khi ra về, hai người
khách nói với người chủ tiệm Do Thái
rằng thật là ngạc nhiên thú vị vì họ có thể
nói chuyện với người hầu bàn bằng tiếng
Yiddish.
"Suỵt, khẽ thôi," người chủ tiệm nói.
"Hắn vẫn nghĩ là mình đang học tiếng
Anh đấy."
Câu chuyện này minh họa chính xác
quan niệm của Quine về các vấn đề căn
bản của dịch. Anh hầu bàn người Hoa có
thể ghép các từ Yiddish thành câu theo
cùng một cách như những thực khách Do
Thái. Tuy nhiên
toàn bộ
hiểu biết tiếng
Yiddish của anh ta mắc một khuyết điểm
trầm trọng: Anh ta nghĩ đó là tiếng Anh!
Thậm chí bản thân quan niệm về cái
gì được coi là ngoại ngữ cũng mang tính
chất tương đối với người nói. Hãy xem
câu chuyện sau đây của giới thương mại
quốc tế:
Một công ty đa quốc gia đăng quảng
cáo tuyển thư ký. Một con chó giống
Golden Retriever nộp đơn xin việc, đã
qua được phần thử đánh máy, và được
đưa vào phỏng vấn. Trưởng phòng nhân
sự hỏi, "Mày có nói được ngoại ngữ nào
không?"
Chó Golden Retriever trả lời, "Meo!"
Ở thời đại chúng ta, Michel Foucault
tập trung vào một loại tính tương đối
khác - tính tương đối của các giá trị văn
hóa đối với quyền lực xã hội. Xã hội xác
định các giá trị văn hóa của chúng ta,
đặc biệt những gì chúng ta coi là tiêu
chuẩn, và kiểm soát việc thực hiện
chúng. Ai bị coi là mắc bệnh tâm thần?
Ai xác định điều đó? Điều đó có ý nghĩa
gì đối với những người bị xác định mắc
bệnh tâm thần? Và có ý nghĩa đối với
những người kiểm soát họ? Ai là người
phải kiểm soát họ? Câu trả lời cho các
câu hỏi này thay đổi tùy thời gian, khi
thiết chế quyền lực trong xã hội thay đổi.
Có thời, việc kiểm soát nằm trong tay
giới tăng lữ, ở thời khác, trong tay các
bác sĩ. Điều này thể hiện ngụ ý của xã
hội về cách chữa trị cái gọi là bệnh tâm
thần. Điểm cốt yếu là những giá trị chúng
ta vẫn coi như vĩnh cửu và tuyệt đối thực
ra chỉ mang tính tương đối trong dòng
chảy liên tục của lịch sử, phụ thuộc vào
việc quyền lực ở trong tay ai và được họ
sử dụng như thế nào.
Pat: Milke này, tớ đang chạy xe trên
đường cao tốc và gọi cho cậu bằng điện
thoại di động mới đấy.
Mike: cẩn thận nhé, Pat. Radio vừa
thông báo có một thằng khùng đang chạy
ngược chiều trên đường cao tốc.
Pat: Một thằng khùng á? Mẹ kiếp, ở
đây đang có hàng trăm thằng kia kìa!
Xét một cách thuần túy lí trí, thì Pat
chính là thằng cha mà radio nhắc đến.
Nhưng theo tương quan từ góc nhìn của
anh ta, thì hàng trăm người khác mới
chạy sai đường. Vậy tại sao câu chuyện
trở thành hài hước, mà không chỉ là một
minh họa thuần túy về sự va chạm của
các quan điểm khác nhau? Bởi vì theo
Foucault, nhà nước đã có luật quy định
đi theo hướng nào là đúng.
Thêm một mối băn khoăn khác của
các triết gia từ thời Plato là tính tương
đối giữa các giá trị tạm thời và các giá
trị vĩnh hẳng. Và lần nữa, vấn đề được
đặt vào tầm ngắm của truyện cười:
Ngày xưa có một ông nhà giàu sắp
chết, ông ta hết sức đau lòng vì phải chia
lìa với đống tài sản đã khó nhọc cả đời
mới kiếm được, nên chỉ ao ước có thể
mang chúng theo lên Thiên đường. Bởi
vậy, ông ta liền cầu nguyện để xin được
phép mang theo một ít của cải.
Nghe thấy lời cầu xin đó, một thiên
thần hiện ra trước ông ta. "Ta rất tiếc,
nhưng ngươi không thể mang của cải
theo." ông nhà giàu khẩn nài thiên thần
hãy nói với Chúa để xem Ngài có thể
uốn cong luật lệ một chút không.
Thiên thần lại hiện ra và thông báo
rằng Chúa đã quyết định ban ngoại lệ và
cho phép ông ta mang theo một chiếc
vali. Quá vui mừng, ông ta lấy ra chiếc
vali to nhất, nhét đầy những thỏi vàng
ròng, và đặt nó bên cạnh giường.
Ít lâu sau, ông nhà giàu chết và xuất
hiện trước cổng thiên đường. Thánh
Peter nhìn chiếc vali và nói, "Dừng lại,
ngươi không được mang cái đó vào
đây!"
Ông nhà giàu bèn giải thích với Thánh
Peter rằng ông ta đã được phép và xin
Thánh hỏi lại Chúa. Lát sau, Thánh Peter
quay trở lại và nói, "Ngươi nói đúng,
ngươi được phép mang theo một túi
xách, nhưng ta phải kiểm tra bên trong
trước khi cho nó qua."
Thánh Peter mở vali để kiểm tra
những của cải trần thế mà người kia thấy
quá quý báu không nỡ bỏ lại, và thốt lên,
"Nguơi mang theo đá lát đường à?"
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top