Không Tên Phần 3
TRIẾT HỌC ĐẦU RỖNG
Triết học đầu rỗng xuất hiện trong
khung cảnh cuối thập niên 1960, trùng
hợp với thời điểm giáo sư Harvard
Timothy Leary tuyên bố
rằng
con đường
tới khai sáng thông qua tiêu hóa nấm ma
thuật. Sau này được mang tên "Triết học
Kỷ Nguyên Mới", chủ nghĩa đầu rỗng là
hỗn hợp các triết học cổ phương Đông
và một số tín ngưỡng thời Trung cổ như
thuật chiêm tinh, bói bài tây, và
Kabbalah (
Do Thái giáo có Công truyền và
Mật truyền. Công truyền là đạo Do Thái chính
thống hiện nay, ra đời từ thời Moses (1250
trước Công nguyên). Phần Mật truyền hay Mật
tông Do Thái được gọi là Kabbalah, hình thành
vào khoảng thế kỷ XIII.
). "Những khẳng
định"
-
những mệnh đề kiểu như "Tôi
đồng nhất với nhị nguyên của tôi" hay là
"Vì tôi đã học tin vào Quá trình, tôi
không còn cần mang súng nữa" - cũng là
một phần quan trọng của triết học Kỷ
Nguyên Mới. Điều này gợi nhắc cho
chúng ta về một bà lão hồi đầu thập niên
1800, sau khi nghe một bài giảng đã tiến
lại gần nhà thơ Anh Samuel Taylor
Coleridge và nói, "Ông Coleridge, tôi đã
tiếp nhận vào mình cả vũ trụ!!"
Coleridge nhìn lên qua phía trên cặp
kính và nói, "Lạy Chúa, bà nên như thế,
thưa bà!"
May thay, chúng ta đã có các bậc thầy
hài hước rọi sáng những mơ hồ của tư
duy Kỷ Nguyên Mới.
Cần bao nhiêu triết gia Kỷ Nguyên
Mới để thay một cái bóng đèn?
Không cần đâu, họ vừa lập nhóm hỗ
trợ "Đương đầu với Bóng tối" rồi.
Nếu trong triết học Kỷ Nguyên Mới
có gì đó phù họp với tinh thần thời đại
mới thì đó hẳn là niềm tin của họ về các
sinh thể ngoài Trái Đất không chỉ đến
thăm chúng ta mà còn mời chúng ta lên
tàu không gian của họ để ăn tối và
chuyện trò lãng mạn. Để đẩy giới hạn của
những niềm tin Kỷ Nguyên Mới đó đến
tột cùng logic của chúng thì cần phải có
một tác giả châm biếm.
Một người Sao Hỏa hạ cánh khẩn cấp
xuống Brooklyn và phát hiện ra phụ tùng
then chốt, một
troover
cực kỳ quan trọng
trong đĩa bay của mình đã hỏng. Anh ta
vào một cửa hàng đồ ăn sẵn hỏi người
bán hàng có biết ở đâu có thể kiếm được
một
troover
không. Người bán hàng hỏi
lại, "Trông nó như thế nào?"
Người Sao Hỏa đáp, "Nó hình tròn,
bên ngoài cứng, bên trong mềm, có một
lỗ nhỏ ở giữa."
Người bán hàng nói, "Có vẻ giống cái
bánh vòng. Đây, trông có giống thứ anh
đang cần không?"
Người Sao Hỏa reo lên, "Tuyệt vời!
Ở đây các anh dùng cái này để làm gì?"
Người bán hàng đáp, "ờ, có thể anh
khó mà tin được, nhưng chúng tôi ăn."
Người Sao Hỏa kinh ngạc, "Anh đùa!
Các anh ăn
troover
à?"
Người bán hàng nói, "Đúng thế, đây,
anh thử xem."
Người Sao Hỏa hơi nghi ngại, nhưng
cũng cắn thử một miếng. "Này," ông ta
nói, "thêm ít pho mát kem, sẽ không tệ
lắm."
Một thứ khác nữa trong mớ đồ lề của
các nhà Kỷ Nguyên Mới là sự đam mê
những hiện tượng cận tâm lý của họ,
chẳng hạn ngoại cảm. Trong khi đó nhiều
người Kỷ Nguyên Cũ - còn gọi là những
nhà tư tưởng duy lý - vẫn tiếp tục tin
rằng luôn luôn có một cách giải thích có
lý cho những hiện tượng như thế.
"Ông nội tôi biết chính xác giờ nào
ngày nào năm nào mà ông sẽ chết."
"Chà, một con người thấu thị! Làm
sao ông có khả năng ấy?"
"Quan tòa thông báo."
Hay
.
oOo
DIMITRI: Tôi vẫn còn một câu hỏi:
Nếu Zeus không tồn tại, Poseidon vẫn cứ
là anh của ông ấy chứ?
TASSO: Dimitri ạ, cậu biết không,
hoặc cậu là một Phật tử đã giác ngộ,
hoặc cậu là đồ óc bã đậu.
VI
CHỦ NGHĨA HIỆN SINH
"Tồn tại có trước bản chất." Nếu anh
đồng ý với mệnh đề này, anh là một nhà
hiện sinh chủ nghĩa. Nếu không, anh vẫn
tồn tại, chỉ có điều về bản chất anh nằm
ngoài sự tồn tại
.
oOo
DIMITRI: Tasso ạ, tôi phải thú nhận
rằng, đôi khi tôi ước gì mình giống cậu
hơn.
TASSO: Nhưng cậu không thể giống
tôi được! Theo quan điểm hiện sinh, cậu
là con người tự tạo nên chính mình! Cậu
là kẻ do cậu tạo ra!
DIMITRI: Thế thì tuyệt quá! Vì tôi
lúc nào cũng muốn được cao như cậu.
oOo
Để tiếp cận chủ nghĩa hiện sinh, chúng
ta cần nhắc lại đôi chút về chủ nghĩa
tuyệt đối ở thế kỷ mười chín của Hegel,
quan điểm triết học cho rằng chỉ có thể
thấy được bức tranh chân thực của đời
sống khi nhìn từ bên ngoài vào. Phải
chăng là Rodney Dangerfield từng nói,
"Nhiều phần trong một hài kịch xuất sắc
nhất có thể tìm thấy
ở
xung đột giữa cái
Tuyệt đối của Hegel và cảm thức tồn tại
vong thân của con ngườì?" Có lẽ không
phải. Nhưng nếu đó là ông, thì truyện
cười kinh điển sau đây có lẽ là điều mà
Rodney ngụ ý.
Một anh chàng đang làm tình với vợ
bạn thân nhất của mình thì nghe thấy tiếng
xe của người chồng về. Anh chàng vội
trốn vào tủ áo. Người chồng vào nhà, mở
tủ để treo áo thì thấy bạn chí cốt của
mình đang đứng trần truồng bên trong.
"Lenny,
cậu
làm gì ở đây vậy?"
Lenny ngượng nghịu nhún vai đáp,
"Ai cũng phải ở đâu đó chứ."
Đó là câu trả lòi của trường phái
Hegel cho câu hỏi của chủ nghĩa hiện
sinh. Người chồng muốn biết tại sao lại
là Lenny chứ không phải ai khác
ở
trong
tình huống tồn tại đặc biệt này - trần
truồng và ở trong tủ áo của anh! Nhưng
người được coi là bạn của anh, Lenny, vì
lý do riêng của mình, lại chọn trả lời câu
hỏi khác: "Tại sao bất cứ ai cũng phải ở
đâu đó, chứ không thể không ở đâu?",
một câu hỏi chỉ có ý nghĩa khi bạn là một
triết gia Đức cao siêu cỡ Hegel.
Georg Wilhelm Friedrich Hegel
khẳng định lịch sử là "Tinh thần Tuyệt
đối" diễn tiến theo thời gian. Tinh thần
của một thời đại (chẳng hạn, chủ nghĩa
tuân thủ cứng nhắc của thập niên 1950)
đã sinh ra phản đề của nó (phong trào
hippie ở thập niên 1960) và sự va chạm
của chúng tạo nên
hợp
đề mới ("các
hippie giả hiệu" của thập niên 1970 như
những chủ nhà băng ở Wall Street với
mốt tóc Beatles).
Và cứ thế tiểp diễn, liên tục không
ngừng,
phép biện chứng
của chính đề /
phản đề / hợp đề (đang trở thành một
chính đề mới...
Hegel cho rằng ông đã nhảy ra ngoài
lịch sử và nhìn xuống "Toàn Thể" từ
điểm nhìn siêu nghiệm. Ông gọi điểm
nhìn này là cái Tuyệt đối. Và nhìn từ đó,
thế giới xem ra không quá tệ. Chiến tranh
ư? Chỉ là những vận động biện chứng.
Dịch hạch ư? Chỉ là một vận động khác.
Bất an ư? Đừng lo. Phép biện chứng
đang vận hành, và chúng ta không thể làm
gì được cả. Chỉ nên giữ cho chắc và dự
phần vào hoạt cảnh. Hegel cho rẳng ông
đang nhìn vào lịch sử từ điểm nhìn của
Chúa!
Hãy nhớ lại ca khúc vàng một thời
"From the Distance" của Bette Midler,
trong đó Divine Miss M.(
Một nghệ danh
của nữ ca sĩ Mỹ Bette Midler
) tưởng tượng
nhìn thế giới từ trên cao, thấy mọi thứ hài
hòa và đẹp đẽ. Đó chính là khoảng cách
mà từ đó Hegel đã nhìn thế giới. Bài hát
kết thúc với hình ảnh Chúa nhìn xuống
khung cảnh mênh mông qua đôi vai của
Bette. Ai có thể ngờ được rằng Bette
Midler là môn đệ của Hegel?
Nhưng người cùng thời của Hegel là
Søren Kierkegaard đã xuất hiện, và ông
thẳng tay sổ toẹt. "Tất cả đều tốt đẹp từ
điểm nhìn của cái Tuyệt đối thì có nghĩa
lý gì?" Soren hỏi. Đó không phải - và
không thể - là điếm nhìn của những
cá
nhân hiện sinh.
Với tuyên bố này, chủ
nghĩa hiện sinh ra đời.
"Tôi
không phải
là Chúa," Soren nói.
"Tôi
là một cá
nhân. Ai quan tâm đến sự thanh bình
ở
tít
trên cao ấy? Tôi đang ở ngay đây, chính
trong giây phút này và
tôi đang
bất an.
Tôi đang
rơi vào tuyệt vọng. Chính
tôi.
Sẽ ra sao, nếu vũ trụ vẫn cứ tiếp tục lăn
đi - nếu nó luôn đe dọa đè bẹp tôi!"
Vì vậy, nếu Kierkegaard phát hiện ra
bạn trong tủ của ông và hỏi, "Anh đang
làm gì ở đây vậy?" thì chớ có đáp, "Ai
cũng phải ở đâu đó chứ." Lời khuyên của
chúng tôi là: Hãy tùy cơ ứng biến.
Triết gia Pháp thế kỷ hai mươi Jean-
Paul Sartre tiếp tục tư tưởng của
Kierkegaard về nỗi cô đơn vô vọng của
cá nhân và mở rộng các luận điểm về tự
do và trách nhiệm của con người. Ồng
thể hiện tư tưởng chính của mình bằng
mệnh đề
"tồn tại có trước bản chất",
ý
nói con người vốn không có bản chất tiền
định, như chiếc mắc áo chẳng hạn. Chúng
ta
là bất định, luôn tự do tái tạo chính
mình.
oOo
Jean-Paul Sartre bị lác và nói chung
không phải là một anh chàng đẹp mã. Vì
vậy, hoàn toàn có khả năng ông đã sửng
sốt khi nghe người đồng sự hiện sinh chủ
nghĩa Albert Camus mở rộng ý niệm của
mình về tự do của con người với phát
biểu, "Than ôi, đến một độ tuổi nhất
định, mỗi con người phải chịu trách
nhiệm về diện mạo của chính mình."
Thật thú vị, vì bản thân Camus có bề
ngoài rất giống Humphrey Bogart (
Diễn
viên huyền thoại Hoa Kỳ, có gương mặt rất điển
trai kiểu đàn ông
).
Nếu chúng ta thấy bản thân mình chỉ
như những khách thể có nhận dạng cố
định, thì chúng ta ngừng Tồn tại, với chữ
T viết hoa. Và có một cách để chúng ta
thấy bản thân như những khách thể là
thông qua đồng nhất với một vai trò xã
hội. Sartre gọi điều đó là
mauvaise foi
(ngụy tín),
hay niềm tin giả, một phương
cách không đúng đắn.
Sartre quan sát người hầu bàn trong
quán cà phê và nhận xét rằng làm người
hầu bàn tức là
làm ra vẻ
một người hầu
bàn. Những người hầu bàn học cách làm
thế nào để trở thành hầu bàn bằng cách
thể hiện ấn tượng của họ
về
một người
hầu bàn. Những hầu bàn bước đi theo
một điệu nhất định, gây ấn tượng bằng
một thái độ nhất định, và lựa chọn một
điểm nào đó trên cán cân giữa thân mật
và thờ ơ xa cách... Điều này đúng đắn,
chừng nào người hầu bàn ý thức được
rằng đó chỉ là một vai diễn. Nhưng tất cả
chúng ta đều biết những người hầu bàn
đều tin rẳng họ
thật sự
là hầu bàn, rằng
về bản chất họ
là
kẻ đó.
Très mauvaise
foi!
Bằng những ví dụ cường điệu phóng
đại, các truyện cười cười nhạo khuynh
hướng đồng nhất bản thân một cách
không suy xét của chúng ta với những
thái độ và giá trị của các nhóm xã hội.
Đây vốn là một kiểu "thí tốt" trong triết
học:
reductio ad absurdum (phép hệ
quả phi lý
hay
phép phản chứng).
oOo
Reductio ad absurdum
là kiểu lập
luận logic mở rộng giả thuyết đến điểm
phi lý để đi đến khẳng định rằng giả
thuyết ngược lại do đó phải đúng, Có
một lập luận
reductio
vẫn lan truyền khá
phổ biến gần đây đã đi đến mức: "Nếu
chúng ta mở rộng khái niệm hôn nhân đến
mức gộp cả những kết hợp đồng giới, thì
điều gì ngăn cản chúng ta chấp thuận cả
những cuộc hôn nhân giữa người với thú
mỏ vịt?"
Trong truyện vui
reductio
dưới đây,
Sol đã cung cấp cái nhìn mới cho ý niệm
ngụy tín liên quan đến sự đồng nhất bản
thân với một nhóm.
Abe cùng dạo phố
với
người bạn của
mình là Sol. Họ đi ngang qua một nhà
thờ Công giáo, thấy trước cổng có dòng
yết thị: "1.000$ cho bất kỳ ai cải đạo."
Sol quyết định vào bên trong xem
thực hư ra sao. Abe đợi
ở
ngoài. Nhiều
giờ trôi qua. Cuối cùng, Sol ló ra.
"Thế nào?" Abe hỏi. "Có chuyện gì
vậy?"
"Tớ cải đạo rồi," Sol nói.
"Đừng đùa!" Abe nói. "Cậu đã nhận
một ngàn đô rồi hả?"
Sol nói, "Những người như cậu chỉ
nghĩ đến chuyện đó thôi à?"
(Ồ, chúng tội lại đụng chạm mất rồi.
Nhưng chúng tôi là triết gia. Có giỏi thì
kiện chúng tôi đi!)
Mặt khác, cũng là ngụy tín khi chúng
ta hình dung bản thân mình có những khả
năng vô hạn,
không
bị bất kỳ câu thúc
nào đối với tự do của chúng ta.
Hai con bò đứng trên đồng cỏ. Một
con nói, "Cậu nghĩ thế nào về cái bệnh
bò điên này?"
"Tớ quan tâm làm quái gì?" con kia
đáp. "Tớ là một chiếc trực thăng."
Đối với các triết gia hiện sinh, nỗi lo
âu
đích thực -
họ gọi là "angst" (nỗi lo
âu hiện sinh) bởi vì khi nói lên nó có vị
cay đắng - không phải là một triệu chứng
bệnh lý cần trị liệu. Không, nó là phản
ứng căn bản của con người đối với chính
những trạng thái hiện hữu của con người:
cái chết tất yếu của chúng ta, sự bất lực
không thể thực hiện trọn vẹn tiềm năng
của chúng ta, và sự vô nghĩa nói chung
của đời sống. Chỉ riêng điều đó cũng đủ
khiến bạn ao ước trở thành một triết gia
đầu rỗng thay vì một nhà hiện sinh.
Các nhà hiện sinh phân biệt rất rõ
ranh giới giữa "nỗi lo âu hiện sinh",
chẳng hạn nỗi lo âu về cái chết mà họ coi
là nền tảng của tồn tại người, với nỗi lo
âu thông thường do phản ứng thần kinh,
chẳng hạn nỗi lo của Norman:
Trông thấy bác sĩ, Norman thở dốc.
"Thưa bác sĩ, tôi chắc chắn mình mắc
bệnh gan rồi."
"Vớ vẩn," bác sĩ nói. "Nếu mắc bệnh
gan thì anh không biết được đâu. Không
có bất cứ biểu hiện khó chịu nào cả."
"Chính xác!" Norman kêu lên. "Đúng
là những triệu chứng của tôi đấy."
Triết gia hiện sinh Đức thế
kỷ
hai
mươi Martin Heidegger hẳn sẽ đáp,
"Anh gọi đó là lo âu ư, Norman? Đúng
là anh chưa hề sống. "Sống" theo ý tôi
nghĩa là mỗi khoảnh khắc đều luôn nghĩ
về cái chết!" Heidegger còn đi xa đến
mức phát biểu rằng sự tồn tại của con
người là
tồn-tại-hướng-đến-cái-chết.
Để sống đích thực, chúng ta phải đối mặt
với sự thật là chúng ta sẽ phải chết, và
nhận lấy trách nhiệm sống một cuộc đời
có ý nghĩa dưới bóng của cái chết.
Chúng ta không được cố tránh thoát nỗi
lo âu cá nhân và trách nhiệm cá nhân
bằng cách chối bỏ sự thật về cái chết.
Ba người bạn chết trong một tai nạn
xe hơi gặp lại nhau tại họp mặt đầu tiên
trên thiên đường. Vị thiên sứ chủ trì hỏi
họ thích nghe bạn bè thân hữu nói gì về
mình nhất khi đang nằm trong linh cữu.
Người thứ nhất nói, "Tôi mong mọi
người sẽ nói tôi là một bác sĩ xuất sắc và
là người chồng, người cha tốt của gia
đình."
Người thứ hai nói, "Tôi muốn nghe
mọi người nói rằng tôi là một thầy giáo
đã tạo nên lại những thay đổi lớn trong
cuộc đời lũ trẻ."
Người thứ ba nói, "Tôi thì muốn nghe
có ai đó kêu lên, Trông kìa, anh ấy đang
động đậy!'"
Đối với Heidegger, sống dưới bóng
cái chết không chỉ là can đảm hơn; đó
còn là cách sống đích thực duy nhất, bởi
vì tận số của chúng ta có thể đến bất cứ
lúc nào.
Bức biếm họa này minh họa cho giới
hạn tự do của chúng ta. Một người có thể
cân nhắc hợp lý việc trở thành một chứng
nhân Jehovah, nhưng anh ta liệu có thể
cân nhắc nghiêm túc việc biến thành vịt
không?
Bức tranh này còn ẩn chứa một câu đố
hiện sinh, ấy là "Lũ vịt nghĩ chúng là cái
quái gì nhỉ?"
oOo
Một người hỏi thầy bói, thiên đường
trông như thế nào. Thầy bói chăm chú
nhìn vào quả cầu pha lê và nói, "Hừ, tôi
thấy cả tin vui lẫn tin buồn. Tin vui là
trên thiên đường có mấy sân golf đẹp
không tưởng tượng được."
"Chà, tuyệt quá! Thế còn tin buồn?"
"Sáng mai 8:30 ông bắt đầu phải chơi
ở đó."
Bạn vẫn chối bỏ cái chết? Hãy thử
đọc thêm câu chuyện sau:
Họa sĩ: Tranh của tôi bán chác thế
nào?
Chủ phòng tranh: ờ, có cả tin hay lẫn
tin dở đây. Có một người đến hỏi tôi liệu
ông có phải là họa sĩ mà tác phẩm sẽ có
giá trị hơn sau khi chết không. Thấy tôi
bảo đúng, ông ta đã mua toàn bộ tranh
của ông ở đây rồi.
Họa sĩ: "Chà, tuyệt quá! Thế còn tin
dở?"
Chủ phòng tranh: "ông ta là bác sĩ của
ông."
Nhưng thỉnh thoảng chúng ta cũng
được nghe những câu chuyện về cái chết
mà nhân vật trong đó dám nhìn thẳng vào
nỗi sợ hiện sinh tột cùng và cười nhạo
nó. Gilda Radner đã có dũng khí để kể
câu chuyện dưới đây với khán giả sau
khi bà bị chẩn đoán ung thư giai đoạn
cuối.
Gilda Radner (1946-1989): diễn viên hài
nổi tiếng của Mỹ.
Một phụ nữ bị ung thư đến gặp bác sĩ
chuyên khoa. Bác sĩ nói, "ừm, e rằng
chúng tôi cũng hết cách rồi. Cô chỉ còn
sống được tám giờ nữa thôi. Hãy về nhà
và tận hưởng nốt."
Người phụ nữ về nhà, báo tin cho
chồng, rồi nói, "Anh yêu, chúng ta hãy
làm tình với nhau suốt đêm nay nhé."
Anh chồng đáp, "Em cũng biết là có
khi em có hứng làm tình, có khi không
phải không? Đúng đêm nay anh lại không
có."
"Chiều em đi," người vợ cầu xin.
"Đây là ước nguyện cuối cùng của em
đó, anh yêu."
"Nhưng mà anh không có hứng," anh
chồng nói.
"Em van anh đấy, anh yêu!"
"Này," người chồng nói, "em nói thì
dễ đấy. Sáng mai em có phải thức dậy
đâu!"
Nhấn mạnh sự cần thiết phải đối mặt
với nỗi sợ chết, các nhà hiện sinh đã
giúp thúc đẩy một phong trào hỗ trợ
những người bệnh hấp hối, dựa trên nền
tảng triết lý đạo đức sinh học thế kỷ 20
của bác sĩ Elisabeth Kübler-Ross, kêu
gọi chấp nhận cái chết một cách trung
thực nhất.
Khách trong tiệm ăn: Anh chuẩn bị gà
này như thế nào?
Đầu bếp:
Ô
,
chẳng có gì đặc biệt lắm.
Chúng tôi chỉ nói với chúng là chúng sắp
chết thôi.
oOo
TASSO: Cậu cười cái gì? Tôi đang
nói về nỗi sợ hiện sinh trước cái chết.
Đấy đâu phải chuyện đáng cười.
DIMITRI: Nhưng có những thứ còn tệ
hơn cái chết.
TASSO: Tệ hơn cái chết? Chẳng hạn
như cái gì?
DIMITRI: Cậu đã bao giờ phải ngồi
nguyên buổi tối với Pythagoras chưa?
VII
TRIẾT HỌC VỀ NGÔN NGỮ
Khi cựu Tổng thống William
Jefferson Clinton trả lời một chất vấn,
"Nó phụ thuộc vào định nghĩa
'là'
của
bạn là cái gì", thì ông đang làm Triết
học ngôn ngữ. Đồng thời ông ấy cũng
có thể vừa làm cả những thứ khác.
DIMITRI: Cuối cùng tôi đã bắt đầu
hiểu được cậu, Tasso ạ. Toàn bộ cái mớ
triết học này chỉ là trò chơi ngôn từ thôi!
TASSO: Chính xác! Xem ra cậu đã
hiểu được chút gì đó thật.
DIMITRI: Vậy là cậu đã thừa nhận rồi
nhé! Triết học chỉ là ngữ nghĩa học!
TASSO:
Chỉ là
ngữ nghĩa học ư? Thế
cậu còn có thể làm triết học cách nào
nữa, vừa cằn nhằn vừa khúc khích ư?
TRIẾT HỌC NGÔN NGỮ THÔNG
THƯỜNG
Ludwig Wittgenstein (
Ludwig Josef
Johann Wittgenstein (1889-1951), nhà triết
học người Áo
,
có đóng góp quan trọng trong
triết học tâm thức và triết học ngôn ngữ thế kỷ
hai mươi.
) và các môn đệ của ông
ở
Đại
học Oxford giữa thế kỷ hai mươi tuyên
bố rằng những vấn đề triết học kinh điển
- ý chí tự do, sự tồn tại của Chúa, vân
vân - gây bối rối chỉ vì chúng được thể
hiện bằng thứ ngôn ngữ rắc rối khó hiểu.
Công việc của họ với tư cách triết gia là
gỡ những nút rối ngôn ngữ, điều chỉnh
các câu hỏi, và làm những việc thiết thực
nhất có thể làm cho bất kỳ câu đố nào:
giải quyết nó.
Chẳng hạn, ở thế kỷ mười bảy,
Descartes tuyên bố rằng con người được
hợp thành bởi tinh thần và thể xác - với
tinh thần như
bóng ma
trong một cỗ máy.
Hàng thế kỷ sau, các nhà triết học vẫn
bối rối không hiểu bóng ma này là loại
sự vật gì. Một học trò của Wittgenstein ở
Đại học Oxford là Gilberg Ryle nói
thẳng, "Câu hỏi sai! Nó không là loại sự
vật nào cả, bởi vì nó không hề là một sự
vật. Nếu nhìn vào cách chúng ta mô tả
cái gọi là những sự kiện tinh thần, có thể
thấy rằng ngôn từ của chúng ta thực sự
chỉ là những ký hiệu ước lệ để mô tả
hành vi. Không mất mát gì cả, nếu chúng
ta quẳng đi từ ngữ dùng để xác định 'nơi'
được coi là từ đó hành vi xuất hiện."
Gilly thân mến, ông thực sự cho rằng vấn
đề đã được giải quyết ư?
Đôi vợ chồng trẻ trong câu chuyện sau
đây rõ ràng cần điều chỉnh lại câu hỏi
của họ:
Một cặp vợ chổng son chuyển đến căn
hộ mới và quyết định thay giấy dán tường
phòng ăn. Họ sang thăm bác hàng xóm có
phòng ăn cùng kích thước và hỏi, "Bác
mua bao nhiêu cuộn giấy khi dán tường
căn phòng này."
"Bảy," bác hàng xóm đáp.
Đôi vợ chồng bèn đi mua bảy cuộn
giấy đắt tiền, và bắt đầu dán tường. Mới
dùng đến cuộn giấy thứ tư thì các bức
tường phòng ăn đã được dán kín. Bực
bội, họ chạy sang nhà hàng xóm ca cẩm,
"Chúng tôi nghe lời bác, nhưng mới dùng
hơn ba cuộn giấy đã dán xong hết cả
phòng rồi."
Bác hàng xóm kinh ngạc, "Vậy sao!
Các vị cũng bị thế à?"
Ôi!
oOo
Nhà thơ Gertrude Stein nằm trên
giường hấp hối; bạn tình của bà là Alice
B. Toklas ghé xuống thì thầm, "Câu trả
lời là gì vậy, Gertrude?"
Stein đáp, "Thế câu hỏi là gì vậy?"
Wittgenstein quy kết mọi vấn đề của
triết học phương Tây cho cái mà ông gọi
là "sự phù phép của ngôn từ", ý nói ngôn
từ có thể khiến chúng ta sa vào lẫn lộn
phạm trù hiện tượng. Chúng ta bị che mắt
bởi hình thức cú pháp của các câu hỏi
triết học. Chẳng hạn trong tác phẩm lớn
của mình,
Hữu thể và thời gian,
Heidegger luận về "hư vô" như thể định
danh nó là một
sự vật
phi thường nào đó.
Đây là một thí dụ tương tự về sự rắc rối
của ngôn ngữ:
"Freddy, chúc anh sống lâu trăm tuổi,
cộng thêm khoảng ba tháng."
"Cám ơn anh, Alex. Nhưng sao lại ba
tháng?"
"Tôi không muốn anh chết đột ngột."
Nếu bạn nghĩ Alex bị ngôn ngữ phù
phép, thì hãy xem Garwood trong câu
chuyện sau đây:
Garwood than thở với bác sĩ tâm thần
rằng anh không sao kiếm được bạn gái.
"Có gì lạ đâu!" bác sĩ tâm thần nói.
"Người cậu hôi quá!"
"Ông cứ nói thế," Garwood phản ứng.
"Tại công việc của tôi đấy chứ. Tôi làm
ở rạp xiếc, trông voi và dọn chất thải của
chúng. Dù tắm rửa kì cọ thế nào đi nữa
vẫn cứ bị ám mùi hôi."
"Vậy thì bỏ việc ấy đi và kiếm một
việc khác!" bác sĩ tâm thần khuyên.
"Ông có điên không?" Garwood cãi.
"Thế thì từ bỏ cả nghề diễn à?"
Garwood đã lẫn lộn nghĩa rộng của
"nghề diễn" là hoạt động dưới ánh đèn
sân khấu với trường hợp cụ thể của anh
ta là dọn phân voi.
Theo các nhà triết học ngôn ngữ thông
thường, ngôn ngữ có nhiều hơn một mục
đích, và được sử dụng khác nhau trong
các ngữ cảnh khác nhau. Nhà triết học
John Austin của Đại học Oxford chỉ ra
rằng khi nói "Tôi hứa" là hoàn toàn khác
về mặt ngôn ngữ với "Tôi vẽ". Nói "Tôi
vẽ" không phải là cùng một sự việc
"vẽ", nhưng nói "Tôi hứa"
là
cùng một
sự việc với "hứa". Việc dùng ngôn ngữ
chỉ thích hợp trong khung ngôn ngữ học
vào một khung ngôn ngữ khác là nguyên
nhân gây ra những rối rắm triết học và
những nan đề giả, cũng có thể gọi theo
cách khác là chính lịch sử triết học.
Các nhà triết học ngôn ngữ thông
thường cho rằng cuộc đấu tranh triết học
kéo dài nhiều thế kỷ về niềm tin vào
Chúa đã lớn vượt ra ngoài nỗ lực đóng
khung vấn đề này như một sự kiện thực
tế. Họ nói rằng ngôn ngữ tôn giáo là một
ngôn ngữ hoàn toàn khác. Một số người
nói rằng nó là một ngôn ngữ định giá
giống như loại mà các nhà phê bình điện
ảnh Ebert và Roeper dùng, "Tôi tin
Chúa'' thật ra chỉ có nghĩa là "Tôi tin
những giá trị nhất định mà tôi giơ cả hai
tay tán thành". Những người khác nói
rằng ngôn ngữ tôn giáo biểu hiện tình
cảm. "Tôi tin Chúa" có nghĩa là "Khi tôi
trầm tư về vũ trụ, tôi sởn da gà!" Không
ngôn ngữ nào trong hai ngôn ngữ này dẫn
đến tình trạng rối ren về triết học mà anh
vấp phải vì nói "Tôi tin Chúa". Phù! Câu
đố được giải! Và
2.500 năm triết học tôn
giáo đi vào bế tẳc.
Trong câu chuyện sau đây, Goldfinger
và Fallaux đang nói trong hai ngữ cảnh
khác nhau. Việc hai người nói bằng hai
ngôn ngữ khác nhau cũng không làm thay
đổi ý nghĩa câu chuyện.
Goldfinger du ngoạn trên biển. Đêm
đầu tiên, anh dùng bữa tối với quý ông
Fallaux người Pháp. Ông này nâng ly
cụng với Goldfinger và nói, "Bon
appétit!"
Goldfinger nâng ly đáp, "Goldfinger!"
Việc này cứ lặp đi lặp lại, hết bữa này
sang bữa
khác, trong suốt cả chuyến đi.
Cuối cùng người
quản lý tàu không chịu
nổi nữa, và giải thích với Goldfinger
rằng "Bon appétit" tiếng Pháp có nghĩa
là "Chúc ngon miệng".
Goldfinger rất xấu hổ và nóng lòng
đợi đến bữa ăn sau để chuộc lại sai lầm.
Thế rồi trước khi Fallaux cất lời,
Goldfinger nâng ly và nói, "Bon
appétit!"
Và Fallaux đáp lại, "Goldfinger!"
Các câu chuyện với những nhân vật có
toan tính khác nhau dưới đây cung cấp
những tình huống ngốc nghếch tương tự
về sự khác biệt khung ngôn ngữ gây rối
giao tiếp như thế nào.
Tommy đến xưng tội và nói với cha
đạo rằng, "Xin hãy cầu nguyện cho con,
thưa Cha, vì con là kẻ có tội. Con đã
dính vào một ả đàn bà phóng đãng."
"Con ư. Tommy?" cha đạo hỏi.
"Dạ, chính con thưa Cha."
"Con dính với ai thế, Tommy?"
"Tốt hơn là con không nên nói, thưa
Cha."
"Có phải Bridget không?"
"Không, thưa Cha."
"Có phải Colleen không?"
"Không, thưa Cha."
"Có phải Megan không?"
"Không, thưa Cha."
"Thôi được, Tommy. Hãy đọc bốn lần
kinh lạy Cha, bốn lần kinh lạy Đức Mẹ
Maria."
Khi Tommy ra ngoài, anh bạn Pat hỏi
cuộc xưng tội diễn ra như thế nào.
"Hay lắm," Tommy nói. "Tớ được bốn
lần kinh lạy Cha, bốn lần kính lạy Đức
Mẹ Maria, và ba gợi ý tuyệt vời!"
Trong câu chuyện dưới đây, vị linh
mục bị nhốt trong hiểu biết riêng của ông
về khuôn khổ cuộc trao đổi mà ông tiến
hành trong buổi xưng tội và không thấy
được khả năng có một khuôn khổ khác.
Một người đàn ông bước đến gần bục
xung tội và nói với cha đạo. "Thưa Cha,
tôi năm nay bảy mươi lăm tuổi, và đêm
qua tôi làm tình với hai cô gái hai mươi
tuổi - cùng một lúc."
Cha đạo hỏi, "ông đến xưng tội lần
cuối khi nào?"
Người đàn ông nói, "Tôi chưa đi xưng
tội lần nào, thưa Cha. Tôi là người Do
Thái."
Cha đạo hỏi, "Thế sao ông lại nói với
tôi?"
Người đàn ông nói, "Tôi nói chuyện
này với tất cả mọi người!"
Có rất nhiều truyện cười dựa trên
nghĩa kép,
trong đó một câu được đặt
sang khung ngôn ngữ khác sẽ có nghĩa
khác hẳn. Trên thực tế, chính
độ rung
giữa hai khuôn khổ tạo ra tiếng cười.
Trong một quán bar, một người chơi
piano
có một con khỉ đi vòng
quanh
nhận
tiền thưởng
.
Trong khi nghệ sĩ piano
đang chơi, con khỉ nhảy tót lên quầy
rượu, bước đến gần một ông khách
và
ngồi lên ly rượu của ông ấy, để hòn dái
nhúng
vào rượu, ông khách điên tiết, đến
gần người chơi piano và nói, "Anh có
biết con khỉ của anh ngâm
bi
vào cốc
martini của tôi không?"
Nguời chơi đàn nói, "Không, anh bạn
ạ, nhưng ngân thêm vài nhịp nữa đi, có lẽ
tôi sẽ chơi được."
Nhiều câu đố cố gài bẫy làm chúng ta
tưởng rằng mình đang ở trong một khung
ngôn ngữ, trong khi thực ra chúng ta đang
ở
trong một khung ngôn ngữ hoàn toàn
khác.
"Cái gì thừa trong danh sách này:
herpes (bệnh mụn rộp), gonorrhea (bệnh
lậu), hay một condominium (chung cư) ở
Cleveland?"
"Rõ ràng là condo."
"Sai, gonorrhea. Đó là cái duy nhất
cậu có thể bỏ được."
Triết học ngôn ngữ thông thường bị
phê phán như những trò chơi chữ thuần
túy, nhưng Wittgenstein tin chắc rằng sự
lẫn lộn khung ngôn ngữ có thể dẫn đến
hậu quả cực kỳ tai hại.
Billingsley đến thăm bạn, Hatfield,
đang bệnh nặng ở bệnh viện. Khi
Billingsley đứng bên giường, bệnh trạng
của Hatfield trở nên xấu đi, và anh ta rối
rít ra hiệu lấy cái gì cho anh viết lên.
Billingsley đưa cho anh ta một chiếc bút
và một mảnh giấy, và Hatfield cố thu
chút hơi tàn viết nguệch ngoạc đôi dòng
chữ. Vừa viết xong thì anh chết.
Billingsley bỏ mảnh giấy vào túi, quá
đau đớn nên không thể đọc ngay lúc đó.
Mấy ngày sau, khi đang nói chuyện
với gia đình bên thi hài người chết thì
Billingsley nhớ ra mảnh giấy đang ở
trong túi áo vest anh đang mặc. Anh nói
với tang gia, "Hat trao cho tôi mấy chữ
trước khi anh ấy chết. Tôi chưa đọc,
nhưng tôi biết anh ấy, đây chắc là những
lời động viên an ủi tất cả chúng ta."
Và anh đọc to, 'Anh đang giẫm lên
ống dẫn ôxy của tôi!' "
Điều trớ trêu là một trào lưu triết học
đấu tranh vì sự sử dụng chính xác ngôn
ngữ đã ra đời trong cộng đồng dân Anh,
trong khi có vô khối truyện cười châm
biếm thực tế rằng họ thường xuyên bị rối
trí vì ngôn ngữ.
Một giáo dân đến thăm vị linh mục
của một xứ đạo thuộc Giáo hội Anh, và
nói rằng, "Thưa cha, gần đây con biết
một bài thơ hài hước rất vui mà chắc cha
cũng thích, nhưng con xin báo trước, nó
hơi thô tục đấy ạ."
"Ồ, bình thuờng thôi," cha đạo nói.
"Thỉnh thoảng cha cũng chẳng quan tâm
nếu có đôi chút tục tĩu."
"Vâng, nó thế này:
Có chàng trai trẻ tên Mắm thối,
Cùng một thiếu phụ dùng bữa tối.
Họ ngồi ăn
Vào lúc chập tối,
Và lúc 9:45, nó vào trong nàng.
"Cái gì vào trong nàng?" linh mục hỏi.
"Bữa ăn tối ấy à?"
"Không, thưa cha, đó là Mắm thối.
Mắm thối vào trong nàng."
"Ôi, lạ nhỉ, phải. Chuẩn! Rất hay."
Vài tuần sau, ngài giám mục đến thăm
linh mục, và linh mục nói, "Thưa Đức
giám mục, một giáo dân của con kể cho
con nghe một bài thơ hài hước rất hay mà
con rất muốn kể lại với cha, nếu cha
không phiền nó hơi dâm một tí."
"Đọc đi," Giám mục nói.
"Nó như thế này," linh mục nói:
Có chàng trai trẻ tên Séc-măng-
tuya,
Cùng một thiếu phụ dùng bữa khuya.
Đầu tiên họ uống trà
Vào lúc gần khuya,
Và lúc 3:45, nó lên nàng.
"Lên nàng?" Giám mục nói. "Cái gì
lên nàng? Bữa ăn hả?"
"Không, không, thưa Giám mục. Thật
ra, đó là một người hoàn toàn xa lạ tên là
Mắm thối."
Và chính những người này dạy triết
học ngôn ngữ thông thường cho chúng ta
chăng?
Chúng ta đang quan sát cuộc thảo luận
căng thẳng giữa Wittgenstein và một nhà
triết học truyền thống hơn, có thể phân
biệt rõ nhờ chuỗi hạt trai cổ điển trên cổ
bà. Có thể nhận ra rằng nữ triết gia
truyền thống thấy "Anh yêu em" và "Anh
yêu iem" là hai lối diễn đạt tương
đương.
Wittgenstein thì thấy cần thiết phải
chỉnh lại ý kiến của bà ta bằng cách giải
thích rằng ý nghĩa
của
một từ được xác
định bởi quy tắc sử dụng nó. Bởi vì hai
lối diễn đạt "Anh yêu em" và "Anh yêu
iem" được sử dụng rất khác nhau trong
ngôn ngữ thông thường, nên chúng có
nghĩa rất khác nhau, và đồng thời cũng có
ngụ ý xã hội rất khác nhau.
TÌNH TRẠNG NGÔN NGỮ CỦA
TÊN RIÊNG
Trong khoảng năm mươi năm lại đây,
triết học ngày càng mang nặng tính kỹ
thuật, bớt quan tâm những vấn đề rộng
lớn như ý chí tự do hay sự tồn tại của
Chúa, mà nỗ lực tập trung hơn vào các
vấn đề về sự trong sáng của logic và
ngôn ngữ. Chúng tôi không nêu tên,
nhưng một số triết gia hiện đại dường
như đã đi chệch đích, chẳng hạn gần đây
có những người trở nên hứng thú với
việc tìm hiểu ý nghĩa của các tên riêng.
Bertrand Russeli quan niệm tên riêng
thực ra là bản mô tả vắn tắt đặc tính của
chủ thể. Chẳng hạn "Michael Jackson"
chỉ là rút gọn của "ca sĩ da màu có chiếc
mũi đã giải phẫu thẩm mỹ".
Với triết gia đương đại có cái tên đặc
biệt "Saul Kripke", thì tên của các cá thể
không chứa định nghĩa mô tả nào hết.
Chúng là những "định danh cứng" (hoặc
theo diễn đạt thông thường, là những cái
nhãn); và gắn với người hoặc vật được
chúng định danh chỉ bởi chuỗi xích
truyền dẫn lịch sử gồm những mắt xích
mà thông qua đó tên gọi được truyền đến
cho người hay vật mang.
Khi bước chân vào
showbiz,
Myron
Feldstein đổi tên thành Frank
Williamson. Để ăn mừng dịp nhận được
vai diễn chính ở Broadway, anh mở đại
tiệc trong căn hộ
penthouse
sang trọng
của mình. Anh đã mời
mẹ đến dự tiệc,
nhưng bà không xuất hiện
.
Sáng hôm sau, anh phát hiện ra mẹ
ngồi ngoài sảnh. Anh hỏi bà làm gì ở
đây, và tại sao bà không đến dự bữa tiệc
tối qua.
"Mẹ không tìm thấy căn hộ của con,"
bà mẹ
đáp.
"Ồ, thế sao mẹ không hỏi ông gác
cổng?"
"Tin mẹ đi, mẹ đã nghĩ đến chuyện đó.
Nhưng mẹ nói thật, mẹ quên mất tên con
rồi.
Frank, hay như mẹ anh gọi, Myron, đã
cắt đứt sợi xích truyền dẫn lịch sử của
"Myron".
oOo
CÂU
HỎI KIỂM TRA
Truyện cười sau đây nhắm vào lý
thuyết về tên riêng của ai, Russell hay
Kripke nhỉ?
Một chàng trai bị đắm tàu giạt đến
hoang đảo. Một ngày đẹp trời nọ, anh
trông thấy có người bơi về phía mình.
Đó không thể là ai khác ngoài Halle
Berry! Chỉ vài giờ sau, họ đã trở thành
đôi tình nhân say đắm. Tiếp theo là
những tuần làm tình cuồng nhiệt. Rồi một
hôm chàng trai hỏi Halle, "Em có vui
lòng ban cho anh một đặc ân không?"
"Bất cứ chuyện gì," người phụ nữ xinh
đẹp đáp. "Tuyệt lắm. Em có thể cắt tóc
thật ngắn và để anh gọi em là Ted được
không?"
"Ồ, chuyện này nghe lạ đấy nhỉ,"
Halle nói.
"Em làm ơn đi, làm ơn đi mà!"
"Thôi được," Halle đáp.
Tối hôm đó, khi hai người đang đi
dạo trên bờ biển, chàng trai quay sang
nàng và nói: "Ted này, cậu không thể tin
nổi là tớ đang quan hệ với ai đâu!"
oOo
TRIẾT HỌC VỀ TÍNH MỜ
Một khái niệm ngôn ngữ đương đại,
mang tính kỹ thuật được biết đến dưới
tên gọi đơn giản dễ gây ngộ nhận là
"mờ". "Mờ" là thuật ngữ do các nhà triết
học được gọi là "các nhà logic mờ" (lạy
Chúa!) dùng để mô tả tính chất "có một
giá trị đúng từ một đến mười" chứ không
đơn giản là tuyệt đối đúng hay sai. Chẳng
hạn "Ông này hói" có thể dùng để chỉ bất
cứ ai từ Michael Jordan đến Matt Lauer.
Theo quan điểm của Matt, thuật ngữ này
quá mơ hồ. (
Matt Lauer, nhà báo người Mỹ,
nổi tiếng với các chương trình trên truyền
hình.
)
Một số nhà triết học nhận thấy tính mờ
là một khiếm khuyết phổ biến trong các
ngôn ngữ tự nhiên - chẳng hạn tiếng Thụy
Điển hay tiếng Swahili - và đã chủ
trương xây dựng thứ ngôn ngữ nhân tạo,
giống như toán học, để loại trừ tính mờ.
Trong câu chuyện sau đây, người
trông coi bảo tàng đã cố trộn lẫn ngôn
ngữ tự nhiên mơ hồ và ngôn ngữ toán học
chính xác, với kết quả hoàn toàn có thể
dự đoán được.
Các du khách đang trầm trồ thán phục
trước bộ xương khủng long trong Bảo
tàng Lịch sử Tự nhiên. Có một người
trong số họ quay sang người trông coi
bảo tàng và hỏi, "Xin anh cho biết bộ
xương này có niên đại bao nhiêu?"
Người trông coi bảo tàng đáp, "Nó
được ba triệu bốn năm và sáu tháng tuổi
rồi."
"Thật là một con số chính xác đến
kinh ngạc," du khách thốt lên. "Làm sao
mà anh biết niên đại của nó chính xác
đến thế?"
Người trông bảo tàng trả lời, "À, bộ
xương khủng long này được ba triệu năm
khi tôi bắt đầu đến làm việc ở đây, và từ
bấy đến nay đã bốn năm sáu tháng rồi."
William James mô tả một chuỗi
phươmg pháp tư duy, từ "tư duy mềm"
đến "tư duy cứng". Các triết gia tư duy
mềm khẳng định các ngôn ngữ tự nhiên
mơ hồ có ưu thế so với toán học: chúng
cho ta nhiều khoảng trống hơn để vẫy
vùng.
Một bà già tám mươi tuổi đột ngột lao
vào một phòng đàn ông trong nhà dưỡng
lão. Bà vung bàn tay nắm chặt lên và
tuyên bố, "Ai đoán được tôi đang cầm
cái gì sẽ được làm tình với tôi đêm nay!"
Một ông già ở cuối phòng kêu lên,
"Một con voi?"
Bà già nghĩ ngợi một lát rồi đáp, "Gần
đúng!"
Các triết gia tư duy cứng có thể dành
cho bà lão một khoảng không để ngọ
nguậy, nhưng họ sẽ chỉ ra những trường
họp trong đó tính chính xác quan trọng và
tính mờ của ngôn ngữ tự nhiên có thể là
tai họa. Có lẽ một ngôn ngữ nhân tạo sẽ
ngăn được tai họa sau đây:
Nhân viên trực tổng đài 911 nhận
được cú điện hoảng loạn từ một người đi
săn. "Tôi vừa thấy một thân người đẫm
máu ở trong rừng! Đó là một người đàn
ông, và tôi nghĩ ông ta đã chết! Tôi phải
làm gì bây giờ?"
Nhân viên trực tổng đài bình tĩnh nóí,
"Sẽ ổn thôi, ông ạ, chỉ cần làm theo chỉ
dẫn của tôi. Trước hết hãy đặt máy xuống
và chắc chắn là ông ta đã chết rồi."
Điện thoại im lặng một lúc, rồi có
tiếng súng nổ. Giọng người đàn ông lại
vang lên, "Xong rồi, Bây giờ tôi phải
làm gì?"
O
O
O
CÁC
QUY TẮC MƠ HỒ
Câu chuyện có thật:
Guy Goma đang ngồi trong phòng tiếp
tân đài BBC, chờ được phỏng vấn vào vị
trí trợ lý dữ liệu thì một nhà sản xuất
chương trình truyền hình bước vào phòng
và hỏi, "Anh là
Guy Kewney ư?"
Anh chàng Goma đến từ Congo và
mới học tiếng Anh, đáp, "Vâng".
Nhà sản xuất lôi anh vào phòng ghi
hình, nơi người chủ trì chương trình thời
sự trực tiếp đang đợi để phỏng vấn
chuyên gia thương mại về cuộc tranh
chấp thương hiệu giữa Apple Computer
và công ty thu âm Apple Corps. "Ông có
ngạc nhiên về phán quyết hôm nay của
tòa không?" người phỏng vấn hỏi.
Sau mấy giây hốt hoảng, Goma quyết
định liều. "Tôi rất ngạc nhiên về phán
quyết đó, bởi vì tôi không hề chờ đợi
nó," anh trả lời.
"Một ngạc nhiên lớn, phải không thưa
ông?" người phỏng vấn nói.
"Đúng thế," Goma đáp.
Người phỏng vấn hỏi liệu có phải
phán quyết đó cho phép nhiều người tải
nhạc xuống hơn không, và Goma công
nhận rằng càng ngày càng nhiều người tải
nhạc xuống trong tương lai.
Người phỏng vấn đồng tình. "Thực sự
cảm ơn ông rất nhiều!" ông ta thốt lên.
oOo
DIMITRI: Câu chuyện này làm sáng
tỏ tất cả những điều chúng ta đang bàn
luận.
TASSO: Bằng cách nào kia?
DIMITRY: Thứ mà cậu gọi là "triết
học," tôi gọi là "truyện cười."
VIII
TRIẾT HỌC CHÍNH TRỊ VÀ XÃ
HỘI
Triết học chính trị và xã hội nghiên
cứu các vấn đề về công bằng xã hội. Tại
sao chúng ta cần có chính phủ? Phúc lợi
nên được phân phối như thế nào? Làm
thế nào thiết lập được một hệ thống xã
hội công bằng? Những vấn đề này thường
được giải quyết theo cách kẻ mạnh phang
gậy vào đầu kẻ yếu, nhưng sau nhiều thế
kỷ tồn tại triết học chính trị
và
xã hội, xã
hội đã nhận ra rằng tên lửa hiệu quả hơn
nhiều.
DIMITRI: Tasso này, chúng ta có thể
luận bàn triết học cho đến khi xanh mặt
xanh mày, nhưng nếu đến mức phải động
chân động tay thì tất cả những gì tôi thực
sự muốn từ cuộc sống chỉ là ngôi nhà nhỏ
của riêng mình, một con cừu, và ba bữa
ăn tươm tất mỗi ngày.
Tasso huých
Dimitri.
DIMITRI: Cậu làm cái quái gì thế?
TASSO: Ai cấm được tôi huých cậu -
hoặc huých ai đó khác - nếu tôi thích thế
hả?
DIMITRI: Vệ binh của Nhà nước chứ
còn ai!
TASSO: Làm sao họ biết phải làm gì
và tại sao?
DIMITRI: Nhờ Zeus. Nhưng chúng ta
lại luận bàn triết học đấy à?
TRẠNG THÁI TỰ
NHIÊN
Các triết gia chính trị thế kỷ mười bảy
và mười tám như Thomas Hobbes, John
Locke, và Jean-Jacques Rousseau cho
rằng sự bất an của con người sống trong
trạng thái tự nhiên lộn xộn là động lực
dẫn đến hình thành chính phủ. Các nhà
triết học này không chỉ nói về sự nguy
hiểm của những mãnh thú hoang dã trong
thiên nhiên; họ còn nói về tình trạng vô
luật lệ: những nguy cơ của giao thông hai
chiều, những người láng giềng ồn ào, nạn
cướp vợ, và những sự việc đại loại.
Những phiền toái như vậy khiến con
người phải tự tổ chức lại thành các nhà
nước có chủ quyền. Hạn chế tự do cá
nhân được chấp nhận như là sự trao đổi
công bằng lấy những lợi ích mà nhà nước
mang lại.
Một con thỏ rừng bị bắt đưa đến
phòng thí nghiệm của Viện Sức khỏe
Quốc gia. Tại đây, nó kết bạn với một
con thỏ sinh ra và được nuôi lớn lên
trong phòng thí nghiệm.
Một buổi tối, thỏ rừng phát hiện ra
chuồng của nó cài then không kỹ và quyết
định tẩu thoát tìm tự do. Nó rủ con thỏ
phòng thí nghiệm cùng đi trốn. Con thỏ
phòng thí nghiệm rất do dự vì nó chưa
bao giờ ra khỏi phòng thí nghiệm, nhưng
cuối cùng cũng bị thỏ rừng thuyết phục.
Khi đã tự do, con thỏ rừng nói, "Tớ sẽ
dẫn cậu đến cánh đồng tốt thứ ba," và
dẫn bạn đến một cánh đồng trồng đầy rau
diếp.
Sau khi ăn no nê, con thỏ rừng nói,
"Tớ sẽ dẫn cậu đến cánh đồng tốt thứ
hai," và nó dẫn con thỏ phòng thí nghiệm
đến cánh đồng trồng toàn cà rốt.
Sau khi ăn no cà rốt, con thỏ rừng nói,
"Tớ sẽ dẫn cậu đến cánh đồng tốt nhất,"
và nó dẫn con thỏ phòng thí nghiệm đến
một nơi có nhiều hang thỏ đầy những thỏ
cái. Cả hai như lạc vào thiên đường, làm
tình liên miên suốt đêm.
Trời vừa rạng đông, con thỏ phòng thí
nghiệm tuyên bố rằng nó phải quay trở về
phòng thí nghiệm.
"Tại sao?" con thỏ rừng ngạc nhiên.
"Tớ đã dẫn cậu đến cánh đồng tốt thứ ba
với rau diếp, cánh đóng tốt thứ hai với
cà
rốt, và cánh đồng tốt nhất với các cô
nàng. Tại sao cậu còn muốn quay lại
phòng thí nghiệm?"
Con thỏ phòng thí nghiệm trả lời, "Tớ
không chịu được. Tớ đang thèm thuốc lá
muốn chết!"
Đó là những lợi ích của một xã hội có
tổ chức.
Mô tả cuộc sống của con người sẽ thế
nào nếu không có chính phủ, Hobbes
từng có nhận xét nổi tiếng về trạng thái tự
nhiên của con người là "cô độc, nghèo
[sic], dơ bẩn, dã man, và ngắn". Như
chúng ta biết, Hobbes không có mấy
khiếu hài hước, nhưng các danh sách dài
luôn gắn theo một thứ đặc sắc rất nghịch
lý ở cuối lại làm bật ra tiếng cười, chẳng
hạn một quý bà phàn nàn rằng thực phẩm
ở
nơi nghỉ dưỡng của bà ta "lạnh, sống
sít, ghê tởm và khẩu phần quá ít!"
Nhưng Hobbes đã không lường đến
một khía cạnh trong bản chất con người,
đó là sự lãng mạn của đời sống trong
trạng thái tự nhiên, đặc biệt là hiện nay,
khi rất nhiều người trong chúng ta đang
cố tìm cách nối kết với con người hoang
dã bên trong mình.
Trudy và Josephine đăng ký một
chuyến đi săn ở miền hoang dã nước Úc.
Đêm khuya, một thổ dân đóng khố đột
nhập vào lều của họ và lôi Trudy ra khỏi
võng, kéo cô vào rừng sâu và "làm cái
cách của anh ta với cô". Mãi đến sáng
hôm sau người ta mới tìm thấy cô, nằm
mê man dưới gốc một cây cọ. Cô được
đưa khẩn cấp vào bệnh viện ở Sydney để
chữa chạy. Hôm sau, Josephine đến thăm
Trudy và thấy bạn mình đang rất ủ rũ.
Josephine: Chắc cậu cảm thấy khủng
khiếp lắm.
Trudy: Tất nhiên, quá khủng khiếp ấy
chứ! Hai mươi tư giờ đã trôi qua rồi,
vậy mà không thiệp cũng không hoa. Anh
ấy thậm chí còn không gọi điện nữa!
LẼ
PHẢI THUỘC
VỀ
KẺ MẠNH
Niccolò Machiavelli thế kỷ mười sáu,
tác giả của
Quân vương,
được coi như
cha đẻ của thuật cai trị hiện đại bởi vì
ông khuyên các nhà cai trị thời Phục
hưng đừng đếm xỉa đến những tiêu chuẩn
đã được thừa nhận về phẩm hạnh và "sử
dụng cái ác khi cần". Ông quan niệm
không quyền lực nào cao hơn nhà nước,
nên lời khuyên của ông đối với các nhà
cai trị là... theo xu hướng Machiavelli.
Ông thừa nhận thẳng thừng rằng tiêu
chuẩn của ông về phẩm hạnh là bất cứ
điều gì cho phép nhà cai trị sống còn về
phương diện chính trị. Mặc dù đối với
nhà cai trị, được sợ thì tốt hơn là được
yêu, nhưng ông ta phải tránh bị ghét, vì
điều đó có thể đe dọa quyền lực của ông
ta. Tốt nhất là theo đuổi quyền lực một
cách nhẫn tâm, trong khi tỏ ra liêm chính.
Ví dụ sau đây là để suy ngẫm:
Một phụ nữ kiện một người đàn ông
đã phỉ báng, bôi nhọ thanh danh của bà
ta, tố cáo ông kia đã gọi bà ta là con lợn.
Người đàn ông bị kết tội và phải chịu
bồi thường. Sau phiên tòa, ông ta hỏi
quan tòa, "Như thế có nghĩa là từ nay tôi
không thể gọi bà Harding là con lợn nữa
à?"
Quan tòa nói, "Đúng."
"Và điều đó có nghĩa là tôi không
được gọi con lợn là bà Harding?"
Quan tòa nói, "Không, ông được tự do
gọi một con lợn là bà Harding. Như thế
không có tội."
Người đàn ông nhìn vào mắt bà
Harding và nói, "Xin chào bà Harding."
Các truyện cười luôn luôn thừa nhận
rằng tất cả chúng ta đều bị những thủ
đoạn theo xu hướng Machiavelli cám dỗ,
đặc biệt khi chúng ta tin chắc mình sẽ
không bị lật tẩy.
Một người thắng 100.000$ ở Las
Vegas, và không muốn cho ai biết, anh ta
mang tiền về nhà, chôn ở sân sau. Sáng
hôm sau, anh ta ra tìm thì thấy hố trống
không. Anh ta thấy vết chân người huớng
sang nhà kế bên, là nhà của một người
câm-điếc, nên anh ta nhờ một giáo sư ở
dưới phố, là người biết ngôn ngữ ra hiệu,
giúp anh ta nói chuyện với người hàng
xóm. Anh ta lấy khẩu súng và cùng với
giáo sư gõ cửa nhà bên. Khi người hàng
xóm mở cửa, anh ta chĩa súng vào mặt
hắn và nói với giáo sư,
"
Ông bảo hắn
rằng nếu hắn không trả lại tôi 100.000$,
tôi sẽ giết hắn ngay bây giờ!"
Ông giáo sư dùng ngôn ngữ cử chỉ để
Bạn đang đọc truyện trên: AzTruyen.Top